Nhiều cuốn sách nhỏ, chẳng có vẻ gì lôi cuốn hoặc ồn ào, mà tàng chứa dinh dưỡng cho bao thế hệ độc giả. Chẳng hạn cuốn Phó Thác cho Chúa Quan Phòng của Jean Pierre de Caussade dòng Tên. Cái Khôn của một người nghèo do Eloi Leclerc, dòng Phansinh hoặc cuốn Tinh Hoa của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu của Cha Victor Sion, dòng Cátminh. Từ nhà xuất bản Lethielleux năm 1956, cuốn sách đã được dịch ra năm ngôn ngữ, và vì nhiều người thất vọng bởi không kiếm được sách này ngoài thị trường, nên phải có lần tái bản 1972 này. Suốt đời, cha Victor đã nghiền ngẫm những tác phẩm của Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Nhan Thánh. Đáy lòng Cha đã thấm nhuần. Từ năm 1940, khi cha còn là giáo tập trẻ trung, tiếp cha tại phòng khách đan viện Lisieux, Mẹ Agnès de Jésus (Chị Pauline) đã trao cha “bửu bối: “Tin tưởng, chỉ có tin tưởng mới dẫn tới Tình yêu...” rồi, sau một phút im lặng, Mẹ thêm: “... bác ái huynh đệ nữa”. Còn chị Geneviève (Chị Céline), đọc bản theo Tinh Hoa xong, đã bảo tác giả: “Cha đúng là Trò Ruột của em con”. Thật nhiều thế hệ Cátminh đã học cha cho biết người ta học Thánh Têrêsa thế nào để sống Phó Thác. Biết bao người đã được giải thoát, đã được cứu khỏi tuyệt vọng hoặc tự tử nhờ gặp cha Victor, mà ngài giúp khám phá ra tình yêu kỳ diệu của CHA - ABBA- và niềm tin tưởng của người con đã được nhận lại, được cứu khỏi thương tích và sợ hãi, được nhìn thẳng vào tương lai. Chính vì cha đã qua đường lối Têrêsa ngoan thảo, bằng cả những chuyện đơn giản của cuộc sống hằng ngày, mà cha Victor có thể giúp hàng ngàn người ngày đêm gõ cửa phòng cha gặp được nguồn sống. Tôi có thể làm chứng điều đó su mười sáu năm sống huynh đệ Cátminh trong HLM ở phố Camille-Flammarion à la Source (Orléans). Tại đây, chúng tôi đã cùng cầu nguyện, chia sẻ vui buồn, nấu ăn và rửa chén với nhau, với tất cả những ai đến từ những môi trường khác nhau, cả đến những em nhỏ của mọi miền, vẫn chạy theo để được hôn, được chúc lành và được ánh mắt nhân hiền của cha nâng đỡ. Chúng ta hãy cầm lấy, đọc và đọc lại cuốn kinh điển Têrêsa nhỏ bé này. Biết đâu nó chẳng trở thành cuốn thân thương của ta như đã là của bao người. Nó đơn giản, không vì thiếu thốn, mà vì cô đọng. Thế giới phức tạp này rất cần một cuốn như nó. Con người chỉ có thể tìm lại sư nhất quán sâu xa của mình trong thâm tâm ình, nơi Chúa Ba Ngôi ngự. “Nếu bạn biết hồng ân Thiên Chúa...” (Ga 4,10). Thánh Têrêsa tiết lộ với ta rằng hồng ân này cũng dành cho từng người chúng ta. Dầu chúng ta là ai, bị khai trừ, “bệ rạc”, công giáo bảo thủ, giàu hoặc nghèo, linh mục hoặc giáo dân... Vì TẤT CẢ chúng ta đều mang tật, cần được Tình Yêu khoan dung chữa trị. “Tin tưởng, chỉ có tin tưởng mới dẫn tới Tình yêu...” Giám mục Gp. Meaux
Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ 8.9.1986.
“Sau cùng, con đã tìm thấy thiên hướng của con! Thiên hướng của con là YÊU! Vâng, con đã thấy chỗ của con trong Giáo Hội, và lạy Chúa, chính Chúa đã cho con chỗ này: Trong trái tim Giáo Hội, Mẹ con, con sẽ Yêu... Như vậy con sẽ là tất cả...” Lời đó được trích dẫn hoài, vẫn không cạn ý. Hiển nhiên nó phát giác một trong những ý định thâm trầm nhất của Têrêsa Hài Đồng, một trong những ánh sáng tinh tuyền nhất Người nhận được từ Chúa. Nhưng những hàng nóng ấm đó không chỉ phản ánh thiên-hướng cát-minh, với vai trò chiêm niệm giữa đời. Những hàng ấy cũng có thể mang lại thật nhiều cho những người đang dấn thân vào những con đường khác, với những nhiệm vụ khác, vì những hàng ấy biểu lộ điểm phổ quát của khám phá và của sứ mạng Têrêsa. Biểu lộ sinh thần mãnh liệt của thánh nữ, mà mọi người con Thiên Chúa đều được mời tham dự. Chúng ta hẳn đồng ý rằng trong khi Thánh Têrêsa lôi cuốn được cả người ngoài Giáo Hội, thì lại có thất bại hoặc chống đối nơi một số người vẫn coi như mình đọc một thứ méo mó, một giáo thuyết hạ giá. Người được giới thiệu với nhiều mẫu thuẫn lạ lùng. Sau cuộc sống có vẻ vô nghĩa và xa vời, Thánh nữ được Đức Piô X ca tụng là “vị thánh vĩ đại nhất của thời này”. Người chiêm niệm, Đức Piô XI cũng không ngại đặt làm Bổn mạng các vùng truyền giáo. Bỏ đi mọi hình thái văn chương, chỉ lưu lại tưởng tượng thơ nhi, Người trình bày một giáo thuyết phong phú lạ lùng. Tiếp xúc tinh thần này, thần học sâu thêm, tu đức học được đổi mới, và cả hai vẫn còn thấy được thêm lợi ích. Những mâu thuẫn kỳ diệu này do đâu? Do điểm này: Cuộc sống Têrêsa đã trải và “đường nhỏ” Người đã mở ra cho các tâm hồn thức chất thần thánh. Mà không gì có vóc dáng đơn giản hơn thần thánh. Đúng hơn, phải nói rằng không gì bằng thần thánh có thể phối hiện bản chất với những thứ tầm thường, vui lòng núp dưới lớp vỏ và sung sướng biểu lộ qua chúng, bằng sức sống thần thiêng thôi. Đành rằng có lúc siêu nhiên cắt đứt phàm trần và toát ra những hiện tượng lạ lùng; nhưng cơ bản, nó vẫn lặng lẽ sinh hoạt với những tầm thường nhất mà cuộc sống hằng ngày dâng tặng. Cuộc sống con người, được Thiên Chúa tạo dựng, Đức Kitô cứu chuộc và Thánh Thần biến đổi, vẫn còn là và phải là cuộc sống của đứa con người ta. Cuộc sống mới này càng thấm nhuần thần lực, càng sâu sắc và đơn thuần nhân bản. Đó là sự thật, là bài học sơ yếu mà kinh nghiệm và giáo huấn của thánh Têrêsa chỉ dạy. Về điều đó, chắc chắn Người rất là tân tiến. Dầu trong tình yêu, trong những đào tìm sâu thẳm, dầu trong những bận bịu hằng ngày. Cô Bé này không hề ngăn cách trời với đất, những điều kiện cụ thể và mong manh trong kiếp lữ hành với những đòi hỏi của thiên-hướng thần thiêng. Hẳn cũng vì trong căng thẳng này, Người biết tìm ra quân bình và thể hiện cuộc sống, nên trở thành cô giáo tâm linh cho người thời nay. Giống như các vĩ nhân trong lịch sử, con người cụ thể và thực tế lại có một bình diện sâu thẳm hơn, mang giá trị biểu tượng. Là một thánh rất lớn, Têrêsa còn là kiểu mẫu của những con người thời đại ta. Không chỉ của một số nhỏ bé được Chúa gọi vào trong nội cấm, nhưng của tất cả những người tìm chỗ mình trong Nhiệm thể và đau khổ vì cảm thấy những ranh giới giữa sức lực mình và những ước muốn vô hạn. Chính nhờ thực hành “lối nhỏ” mà Têrêsa tới lúc nhận ra chỗ mình trong trái tim Giáo Hội và biết giữ chỗ đó cách tuyệt vời. Vậy thì những ai, dầu cảm thấy mình hèn yếu, vẫn muốn thể hiện thiên-hướng mình như Chúa muốn, trong thế giới cuồng loạn này, phải hiểu thấu đáo chiều sâu thần học của lối đi mà Têrêsa đã mở ra cho họ. Để giúp hiểu sứ điệp Têrêsa, tôi không tin phải rút ra một nghiên cứu thần học từ những bài viết của Người, cũng không cần phân tích tỉ mỉ kinh nghiệm tâm linh của Người. Nhiều vị đã thành công trong những việc như thế rồi. Tác phẩm này có tính sư phạm thần học và muốn trình bày tiến trình khám phá cùng công việc thánh Têrêsa chuyển giao lý tưởng của Người hơn là trình bày giáo thuyết đó. Vì trước khi dạy thế giới Lối Đi Nhỏ, Người phải thông truyền ra chung quanh con người sống động của Người. Điều này đã được Đức Piô XI lưu ý ngày 17 tháng 5 năm 1925: “Đường Thơ Ấu này, thánh Têrêsa đã dùng lời và gương mẫu của mình dạy các tập sinh trong đan viện của Người, rồi mới dùng tác phẩm mà mở cho mọi người”. Tôi biên soạn theo đường hướng này: Sau khi phân tích ngắn gọn về môi trường Carmel mà Têrêsa đã sống, bầu khí Người đã tạo ra quanh mình để tiết lộ lối đường yêu thương (ch.1), chúng ta gắng nghiên cứu kinh nghiệm của Người. Thử tìm ra chủ trương hướng dẫn Người kiếm tìm linh đạo (ch.2). Rồi chúng ta sẽ từ từ thấy tất cả những yếu tố trong giáo thuyết của Người (ch.3). Sau đó chúng ta sẽ nghe Người giảng giải và thông truyền kết quả kinh nghiệm nội tâm. Trước hết, Người chỉ ra những đòi hỏi của “Lối nhỏ”, tâm trạng cơ bản phải có để chắc chắn đi vào (ch.4). Rồi tới những tiến trình thiết yếu cho người con Thiên Chúa trên đường về nhà Cha như thánh nữ soi sáng: Tin Yêu, niềm tin yêu như nền tảng của đường thơ ấu (ch.5). Hiến tế cho Tình yêu, là quyết dấn thân trên đường này (ch.6). Tiếp đến, động tác hiến trao phải tập luôn để nộp mình cho Tình yêu (ch.7). Sau cùng, để chấm dứt, chúng ta sẽ tóm gọn những suy tư này quanh ý mà Têrêsa rất thích: Trái tim Giáo Hội, tụ-điểm của muôn vật thọ tạo và tạo thành. Lối Nhỏ đã dẫn Têrêsa tới đó. Chính điểm sống này làm thần lực trổ bông. Trái tim Giáo Hội, Mùa hoa của tư tưởng và yêu thương, những đỉnh cao mà Têrêsa muốn lôi cuốn thật nhiều bạn bè mình tới.
KÝ HIỆU dùng trong tác phẩm: Ms A, B, C = Thủ bản A,B,C. Thánh nữ viết trong năm 1895, 1896, 1897. CJ = Những trao đổi cuối cùng với Thánh nữ, Mẹ Agnès viết trong Carnet jaune. CSG = Lời khuyên và hoài niệm (Conseils et Souvenirs) do Chị Geneviève (tức Chị Céline) ghi. OCL.1952. DCL = Hồ sơ của Đan viện Cát-m,inh Lisieux. DE = Derniers Entretiens “Những trao đổi cuối cùng này được xuất bản cùng với những Phụ chú, do nhà xuất bản Cerf-DDB năm 1971. Esprit = Tinh thần thánh Têrêsa, do OCL xuất bản 1922. HA = Chuyện một Tâm hồn xuất bản 1955. LT = Các thư của Thánh nữ, Cerf-DDB xuất bản năm 1972. CirM Tr. = Thư của chị Marie de la Trinité 20.2.1944. OCL = Văn phòng trung ương Lisieux. NV= Novissima verba = những lời cuối cùng, xuất bản 1927. P = Thơ của Thánh nữ, xuất bản trong HA. RP = Đạo đức vui trong HA. Sum II = Hồ sơ trong vụ án phong thánh, tại Roma 1920.
Chúng ta quá quen nhìn ngắm Têrêsa Hài Đồng trong việc thăng tiến bản thân, tại gia đình cũng như trong đan viện, mà quên mường tượng Người trong vai trò giáo dục. Thế là quên rằng Người đã qua suốt đời tu tập trong Tập viện, gần chín năm, không kể mấy tháng cuối cùng Người ở bệnh xá để chuẩn bị từ trần. Khoảng bốn năm, Người đã thực tế đảm trách giám tập, tuy không mang danh vị, không dựa trên quyền bính mà Người không được chính thức bổ nhiệm, chỉ nhờ đã thăng tiến bản thân. Hoàn cảnh thật tế nhị và rõ ràng đã làm nổi bật sự thánh thiện cũng như tính kiên cường và gắn bó với sứ mạng của Têrêsa. Trở lại với Têrêsa ở tập viện, tức là bắt gặp được chị đang hứng khởi và chiến đấu. Trước hết, chúng ta nên vắn tắt gợi lại môi trường trong đó Chị đã sống và tiến hoá. Khấn ngày 8.9.1890, bình thường thì sau ba năm, Têrêsa phải lìa tập viện; nhưng hai chị Agnès de Jésus và Marie du Sacré Coeur đã tiến vào Carmel trước Têrêsa rồi. Theo thói quen thời đó, một gia đình không được có hơn hai chị em trong một cộng đoàn Đan viện, nên Têrêsa không được “lên” khỏi nhà tập. Ngày ngày, Người cứ việc nghe Mẹ Marie de Gonzague huấn đức và xin phép Mẹ... mọi thứ như một tập sinh... 20.02.1893 - Têrêsa hai mươi tuổi - Mẹ Agnès de Jésus được bầu làm đan viện trưởng, Marie des Anges tập sư thành Mẹ Nhì; Mẹ cựu Marie de Gonzague làm Quản lý và Tập sự. Tân-tu-viện-trưởng xin em Têrêsa giúp Tập sư trong nhiệm vụ của bà. Sứ mạng thật tế nhị. Phải khôn và khéo lắm, vì Mẹ Marie de Gonzague khó tính và đa nghi. Mặt khác, Têrêsa đâu có được bổ nhiệm chính thức. Trong tập viện, Têrêsa chỉ là “thiên thần” của hai chị “hạng nhì” là nữ tu Marthe de Jésus nhập tu 23.12.1887, hiển nhiên trước Têrêsa, và Marie-Madeleine Thánh Thể, nhập tu 22.07.1892. Chị Têrêsa Hài Đồng phải lo kín đáo đào tạo tâm linh cho hai bạn hơn tuổi mình. Hai năm sau, khi chị Marie de la Trinité vào đan viện, Mẹ bề trên cho chị trọn quyền giải bày với “thiên thần của chị” tất cả mọi khó khăn nội tâm và thực tập. Không mấy bữa, Têrêsa lại được trao hai tập sinh nữ: Chị Geneviève - chính là chị Céline - nhập tu 14.9.1894 và Marie de l’Eucharistie, cô em họ Marie Guérin, nhập tu 15.8.1895. Tình huống đó kéo dài ba năm nhiệm kỳ Mẹ bề trên Agnès de Jésus. Cuộc bầu cử 21.03.1896 lại đưa Mẹ Marie de Gonzague lên đầu cộng đoàn, ngoài nhiệm vụ đó, Mẹ quyết định cứ tiếp tục làm giám tập. Mẹ Agnès kín đáo khuyên Mẹ Marie hết sức dùng chị Têrêsa để giúp các em nhà tập. Vận đánh giá cao Têrêsa, nên Mẹ Marie de Gonzague đã thực tế trút cả công việc nhà tập cho tre. Tính hay thay đổi của Mẹ không cho phép Chị có kế hoạch lâu dài tốt đẹp được. Không việc gì bền lâu. Thêm vào những khó khăn đó là tuổi trẻ của Têrêsa, người phải khuyên giải, khích lệ và khi cần phải sửa dạy những tập sinh lớn tuổi hơn mình. Ta thấy ngay những điều kiện nhân bản không thuận lợi cho Chị thi hành nhiệm vụ, mà như vậy suốt đời. Vậy mà chính trong những tình huống đó, Người nên thánh. Ta có thể nói môi trường như tập viện thật là éo le. Hẳn rằng trong cuộc sống hoàn toàn chìm lặng, hoàn toàn tập trung vào cung nội như thế chẳng có chuyện gì phi thường xảy ra: Khi người ta đuổi theo yếu tính, thì những lớp vỏ nhất định mất tầm quan trọng. Đúng là ở đây anh hùng tính phải bảo trì bằng đơn điệu, bằng thành tín thường ngày, và giá trị hành động không ở mức độ phát quang, mà ở đậm đặc yêu thương. Khung cảnh nghèo nàn đòi hỏi nhiều ý chí này giải thích phần nào sự nhạy bén và tinh tế trong quan điểm của Têrêsa về những khuynh hướng của mình và những nhận xét về chị em. Biết thế, mới thấy những gương mẫu Người làm có sức mạnh, dầu coi như vô nghĩa, và cũng chính nhờ biết thế ta dễ hiểu trực giác Người phong phú và Người thấu suốt lòng chị em. Hơn nữa, kinh nghiệm và giáo huấn Người căn cứ trên những thực tế thường ngày, những chuyện tầm phào, nên có thể chuyển sang mọi môi trường xã hội và tâm lý: thành quả của Một Tâm Hồn thu lượm được trên khắp thế giới chứng minh hùng hồn điều đó. Đúng là Têrêsa có thiên tài, không những để trực cảm những quy luật thâm sâu nhất của bản thể con người, mà còn để khám phá ra một phương thế tuyệt vời đơn giản hướng chúng về Thiên Chúa. Tìm ra và đi theo “Lối Nhỏ”, thánh nữ chưa cho là đủ. Người còn lôi cuốn những người khác và làm họ say mê bầu khí Người đã tạo thành quanh mình. Chính Têrêsa cũng nhìn nhận rằng mình được Thiên Chúa tặng khả năng kỳ diệu để giáo dục tâm linh. Tâm sự với Mẹ Marie de Gonzague, nhắc việc Mẹ đã uỷ thác cho Người sứ mạng đào tạo chị em, dù Người còn quá trẻ. Thánh nữ viết: “Thưa Mẹ, hẳn Mẹ nhớ rằng Chúa ban khôn ngoan cho những người nhỏ bé... Có ngày Mẹ đã không sợ bảo con rằng Chúa Nhân Lành soi sáng hồn con, rằng Chúa ban cho con cả kinh nghiệm của những bậc cao niên!” Về cách Têrêsa hiểu và thi hành nhiệm vụ của Người, chúng ta có thể hỏi chính Người, qua những chứng từ Người để lại cho chúng ta. Những bản Tự thuật (trước đây thường gọi là Truyện Một Tâm Hồn) thường hà tiện trong những truyện chúng ta muốn tìm kiếm này. Khi đời nghiêng bóng, theo lệnh Mẹ Marie de Gonzague, Têrêsa viết những trang sẽ làm nên bảo thảo cuối cùng của Người. Người đã hỏi Mẹ Agnès: “Mẹ muốn con viết về chuyện gì?” Người chị cả đáp: “ Về Đức Ái, về các tập sinh”. Têrêsa vâng lời. Nhưng trong thực tế, Người đã viết về Đức Ái và cuộc sống tín thác rất nhiều hơn về các tập sinh. Những mẩu giấy và những thư Người viết cho tập sinh, cũng như những ký ức mà Soeur Geneviève kể, tuyệt quý để hiểu Chị trong hành động. Cả thư luân lưu, Mẹ Angès thảo ra sau khi chị Marie de la Trinité qua đời, năm 1944, cũng cho nhiều chi tiết thích thú. Chúng ta cũng có thể tìm tài liệu trong cuốn Tổng hợp về vụ án phong thánh và trong các bản thảo do Cha Francois de Sainte-Marie xuất bản. Không biết cảm ơn sao cho đủ việc Dòng Kín Lisieux đã cho chúng ta sử dụng các văn bản trên.
Vậy là thánh Têrêsa tiếp xúc trực tiếp với những người mà Chị có nhiệm vụ đào tạo cuộc sống tu và tinh thần Cát Minh. Không chỉ soi sáng trí óc, nhưng còn khích lệ ý chí; giáo thuyết không thủ, phải truyền thông cả cuộc sống: công cuộc kiên trì, để thời gian cộng tác với Thiên Chúa, để mỗi chi tiết giữ được độ quan trọng của nó, vì mỗi giây phút đều có thể trao tặng hoặc trao nộp Tình Yêu. Chúng ta sẽ thấy, Têrêsa mang lại cho các bạn đường của Chị chính Đức Kitô, nhưng là Đức Kitô thấu suốt con người Chị. Bốn năm sẽ đủ để dẫn chị lên tới đỉnh, bốn năm sống trong quyết tâm tiến tới không ngơi, và các tập sinh của Chị thấy Chị chết vì yêu thương mãnh liệt. Với những phụ nữ này, hẳn chưa kinh nghiệm, nhưng khát khao tuyệt đối, họ nhận thấy chiều sâu thực sự và tình yêu Thiên Chúa nơi người Chị của họ, nhất khi họ là những người tiếp xúc với Chị thường xuyên và thân mật hơn với nữ tu nào hết. Sự triển nở của Thánh Nữ, không do màu sắc nhiệm nhặt bên ngoài, nhưng biểu lộ bằng đơn giản tinh tế, chinh phục họ. Họ muốn noi theo Têrêsa và Người khiêm tốn nhận làm một lý tưởng của họ. Thường khi Chị Giáo Trẻ này còn gợi lên ước muốn này: Người trả lời cho một tập sinh quá ham thích những ân huệ cảm nghiệm được: “Xin được những an ủi!... Vì em muốn giống Chị, nên em phải biết rằng Chị, Chị chỉ nói: Vâng, xin Chúa đừng sợ con đánh thức. Con an tâm chờ tới bến thiên đường!” Một trong các tập sinh của Chị làm chứng: “Em nghĩ Chị có sẵn những điều cần để hướng dẫn chúng em và giúp chúng em nên thánh, người ta thấy Chị làm tất cả những gì Chị chỉ cho chúng em, sự kiện đó cũng giục chúng em noi gương Chị”. Rõ ràng Têrêsa không cần gắng tìm chuyện lạ, đối với những nữ tu này, Chị chỉ cần đơn giản hiệp nhất với Chúa là đủ thành gương mẫu sống động. Hơn nữa, Chị còn trẻ, nhưng sự thánh thiện cho Chị “kinh nghiệm nhiều năm”. Nhờ tác động của Thánh Linh, Têrêsa đã mau chóng trưởng thành trí tuệ và tâm linh; và sức sống mãnh liệt nội tâm, thinh lặng và cô tịch của Người đã cho Người kiến thức sâu thẳm về những đường lối Chúa trong các tâm hồn. Ta thấy Người đã được phú bẩm một nhân cách vững chắc, hài hoà, mà những khả năng tự nhiên được tăng tấp và tinh luyện tuyệt vời nhờ hành động thần linh. Chị em tập sinh nhận rõ rằng, nhờ gần Chúa, người Chị của họ cũng rất gần họ. Họ hồn nhiên tới hưởng kinh nghiệm của Chị; họ sẽ hỏi Chị bí quyết của tính năng động và vững vàng lạ lùng của Chị. Têrêsa dễ dàng đáp ứng nhu cầu của họ; có vấn nạn nào mà Chị đã chẳng tự đặt cho mình và đã không có giải đáp. Những chiến đấu, những dụ dỗ, tất cả “những cảm giác buồn phiền tự nhiên này”, ... mà các tập sinh cảm thấy, Têrêsa đã biết chúng trước họ và đã thắng lướt chúng nhờ ân sủng. Nói vài lời, Người đủ hiểu và còn đoán được nữa; Người giải thích và giải quyết. Người đã viết cho một em tập: “Chị đã hiểu rõ tất cả, hãy biết rằng Chị không cần em trình bày dài”. Đối với các tập sinh, Têrêsa không chỉ là một hướng viên kinh nghiệm; Chị còn mang cho họ một giáo thuyết sống động, cá biệt và sâu sắc, là kết quả của cầu nguyện và hiệp nhất với Chúa. Các em Chị cảm thấy an tâm về lời dạy của Chị. Điều này không phải không quan trọng, vì những người trẻ này cần nhận được bồi dưỡng có phẩm chất cũng như hướng dẫn kinh nghiệm và chắc chắn. Đã có một em trong nhóm họ hỏi Người: “Thế ai dạy Chị Lối Nhỏ Tình Yêu giúp tâm hồn triển nở như thế?” - Chỉ mình Giêsu. Không sách nào, không nhà toán học nào dạy Chị lối đó, tuy thế, Chị cảm thấy tận đáy lòng rằng Chị đang ở trong Sự Thật. Cô bé thêm: - Em tin đến nỗi Đức Giáo Hoàng có bảo em rằng Chị lầm, em không tin Ngài!... Têrêsa la lên: “Ồ, trước hết, phải tin Đức Giáo Hoàng. Nhưng em đừng sợ, vì nếu khi về trời, Chị biết rằng đã hướng dẫn em sai lầm, Chị sẽ hiện ra ngay để bảo các em theo đường lối khác. Nhưng nếu Chị không về, em hãy tin những lời Chị nói đúng thật”. Vậy những đặc điểm chính trong giáo huấn của Chị Giáo Trẻ này là gì? Trước hết, Chị trung thành với tinh thần Dòng. Chính trong tinh thần này và nhờ tinh thần này mà Chị đã sống qua những năm đau khổ và tìm kiếm. Mẹ Agnès làm chứng rằng từ ngày Têrêsa nhập Dòng, Cô Bé thỉnh sinh đã miệt mài học những tác phẩm của Mẹ Têrêsa và thánh Gioan Thánh Giá. Người ta không thể xác minh được Chị đã đọc từng cuốn, trong tất cả các tác phẩm của đan sĩ Cát Minh Avila, tuy thế, Người thường trích dẫn nguyên văn. Ảnh hưởng của thánh Gioan Thánh Giá còn rõ rệt hơn. Khoảng năm 1890-1891 Người gần như chỉ thưởng thức tác phẩm vị thánh này. Nhưng Thánh Kinh, mà ở Cát Minh, người ta phải suy niệm đêm ngày Thánh Kinh là Nguồn chính của Lối Nhỏ. Ngay từ thời nhập tu, Têrêsa đã xúc động sâu xa khi Chị đọc hoặc nghe Lời Chúa. Sẽ tới ngày, Thánh Kinh là đủ cho Chị. Khi đau đớn, nghi ngờ hoặc mong ước, chỉ cần nhìn, hoặc mở sách Isaia, Khôn Ngoan, thánh thư Phaolô hoặc sách Tin Mừng; những sách này liền cho Chị hình ảnh sống động mà Chị đang tìm kiếm, và nhiều khi, còn nói lên chính tư tưởng Chị. Như tái diễn hoài cuộc gặp gỡ tâm linh giữa Têrêsa và Mạc khải. Chị hoàn toàn rung động trong hoà âm với Lời Chúa. Theo truyền thống tinh thần Cát Minh, thì giáo huấn của Têrêsa cũng phải hoàn toàn theo Phúc Âm. Thoát khỏi những quan niệm phàm nhân, những khuôn mẫu quá riêng tư, tinh thần Cát Minh diễn tả vừa trung thành, vừa hết sức thanh thoát theo con đường mà chính Đức Kitô đã mở ra cho các tâm hồn. Chính điểm đó cho giáo huấn của Têrêsa giá trị phổ cập, mà Giáo Hội đã nhìn nhận, và cho giáo huấn này thật cởi mở. Đúng là Lối Nhỏ không tự giới thiệu một phương pháp nghiêm ngặt và đồng nhất cho mọi người. Lối Nhỏ thích ứng với từng người và yêu cầu mỗi người tham dự. Các tập sinh của Têrêsa đã không cảm thấy bị gò ép, hoặc nhân tạo. Để hướng dẫn, an ủi, huấn luyện họ, Chị Giáo của họ chỉ khơi nguồn từ Tân Ước, Thánh vịnh, Ngôn Sứ, Diệu Ca. Có tiến trình nào giúp họ dễ chịu hơn và cho họ an tâm hơn? Têrêsa cũng không dùng quyền bắt họ theo học thuyết của Người, Người biết - phương pháp hữu hiệu hơn - làm cho các tập sinh yêu thương và muốn theo Người. Khuyến khích theo lối đi của mình, Người không muốn thâu hẹp tự do của họ; Người chỉ muốn đặt họ dưới sự hướng dẫn đặc biệt của Thánh Thần, và dẫn họ tới nơi Chúa muốn.
Hướng về Chúa và được Chúa nuôi dưỡng, Têrêsa tạo cho tập viện bầu khí thoáng đãng, mạnh mẽ và vui tươi. Trước hết, Người đặt nhân sự vào bầu khí tin tưởng nhau, cho các tập sinh có thể nương tựa Người. “Người hoàn toàn thân mật nói với các tập sinh về những gì họ đang quan tâm”. Người chủ trương đều có thể hoàn toàn cởi mở: “Mẹ rất thương mến, Mẹ biết rằng các tập sinh của chúng con được phép tất cả, họ phải có thể nói lên điều họ nghĩ, tốt cũng như xấu, không hạn chế.... Với lòng đơn sơ làm con ưa thích, các em nói với con cả những phấn đấu mà con gây cho các em, cả điều các em không ưa nơi con, sau hết, các em không phiền hà nếu đó là chuyện người khác, vì biết các em làm thế con rất vui...”. Thái độ đó không chỉ làm vui lòng khiêm tốn Têrêsa, còn làm dịu lòng các tập sinh, giải thoát họ, cho họ thấy rõ bản thân hơn nhờ việc họ nói lên được cảm nghĩ của mình. Têrêsa nhận xét đúng khi muốn cho các em có thể nói hết, cả những dụ dỗ các em cảm thấy chống đối Chị Giáo. Cởi mở hoàn toàn là biểu hiệu tin tưởng hoàn toàn, điều kiện cần thiết để hướng dẫn thành công. Nhưng Chị Giáo cũng phải khiêm tốn đơn giản biết bao! Mặc khác, khi nghĩ là cần, Têrêsa không ngần ngại chia sẻ cho các em tập sinh chính những chiến đấu của Chị. Khi cần, Têrêsa có những tế nhị để gợi tâm sự: “Khi em đến Chị hướng dẫn mà em có điều mắc mứu, Chị đã dẫn em tới trước tượng phép lạ đã mỉm cười trong tuổi thơ của Chị, và Chị bảo em: Em sắp nói điều mắc mứu đó, không phải với Chị, mà với Mẹ Đồng Trinh. “Em tự bào chữa và bộc bạch và Chị nghe em tâm sự. Tiếp theo, Chị cho em hôn bàn tay Mẹ Maria, cho em ít lời khuyên, và bình an tái sinh trong tâm hồn em”. Một tập sinh khác xác định: “Chị rất kín đáo. Em có thể bộc lộ tất cả với Chị, cả những tư tưởng thầm kín nhất. Em chẳng có gì phải sợ. Chưa bao giờ Chị nhắc lại một lời, ngay cả khi nói chuyện với ba người chị”. Dầu sao, nói hết thì chưa đủ. Làm sao tin tưởng nếu ta không trông được gì ở người khác? Vì Têrêsa chỉ muốn Thiên Chúa, cho mình cũng như cho các em, nên họ cảm thấy họ có thể tin tưởng ở Chị Giáo hơn ở chính mình trong việc tìm Thiên Chúa. Còn Têrêsa, Chị tâm sự với các tập sinh, vì Chị tin ở hành động quyền năng của Đức Kitô trong trái tim họ. Nhận thức kỳ diệu Chị có là nhờ ơn thánh hoạt động trong Chị cho Chị đoán được họ có nhu cầu tuyệt đối về Chúa và những khả năng lạ lùng họ có thể có nhờ Chúa trợ giúp. Trong năm tập, một trong các tập sinh đã cảm thấy bao nhiêu khó khăn đến thất vọng. Rồi một ngày, Têrêsa hỏi em: - Dầu sao, em tin tưởng thành công chớ? - Vâng, em rất xác tín rằng Chúa Nhân Hiền sẽ cho em ân huệ ấy, không gì làm em nghi ngờ được. Chị Giáo quả quyết lập lại: “Hãy giữ lòng tin tưởng. Chúa Nhân Hiền không thể không đáp lời, vì Ngài luôn đo ân huệ bằng mức độ tư tưởng của ta. Nhưng, thú thực với em là nếu Chị đã thấy em yếu tin, hẳn Chị cũng đã nghi ngờ, không hy vọng gì về phía con người nữa”. Tập sinh này tuyên khấn, rất tin tưởng em được ân lộc này nhờ Chị Giáo, ngày đó, Chị cũng tỏ ra sung sướng như em! Thực sự được hướng dẫn siêu nhiên như Têrêsa thì lượng giá ơn gọi tập sinh theo mức độ tin ở Thiên Chúa, không ở chuyện nhất định thành công. Bầu khí trong đó Têrêsa cho các em tập sinh sống không chỉ là tin tưởng hoàn toàn, mà còn quả cảm. Chị rất đòi hỏi. Kín tiếng, nhưng Chị không chịu đồng loã, chập chững, những thứ giữ lại mức tầm thường. Quả đủ rồi, những tinh thần coi đời tu như một che đậy, một ẩn núp cho tính yếu đuối. Têrêsa, nhìn trọn cuộc sống tu, biết trả giá và biết cuộc chiến này đòi những tâm tính quân bình, những tâm hồn khổ luyện. Người dạy các tập sinh đừng tính toán gì, bỏ đi tất cả những gì không phải là Thiên Chúa, và luôn luôn quên bản thân. Chị Geneviève kể: “Người không thể chịu để người ta coi những đau khổ nhỏ nhoi là quan trọng!” Người bảo một chị bạn: “Chị muốn thấy em luôn luôn như một chiến binh hùng dũng, không than nặng nhọc ở mình, luôn thấy vết thương đồng đội là nặng, và coi vết thương mình như trang điểm”. “Lối Nhỏ” không khuyến khích trò trẻ con. Têrêsa thường nhắc rằng các tập sinh là những thiếu-sinh-quân, những thiếu nhi tông đồ, thừa sai và tử vì đạo, do đó, họ phải kiêng những an ủi quá con nít biết chiến đấu trong thao trường, và đừng đổ cho những nguyên nhân vật lý trách nhiệm những lỗi lầm của mình. Lối Nhỏ là lối cho trẻ nhỏ, không phải cho những kẻ tắc trách hoặc ươn lười. Têrêsa giải thích: “Ở đây, phải thực hành những đức tính nhỏ bé; nhiều khi cũng khó, nhưng Chúa Nhân Hiền không bao giờ từ chối ban ơn can đảm để tự thắng. Nếu đáp ứng, tâm hồn liền thấy ở trong ánh sáng. Em luôn quan tâm tới lời ca ngợi bà Judith: “Bà đã hành động với gan dạ nam nhi, nên lòng bà phấn chất!” Trước hết, phải hành động can đảm; rồi trái tim mới phấn chất và chúng ta giành từ chiến thắng này qua chiến thắng khác. Phấn khởi và hùng dũng, như Jeanne d’Arc mà Người thật yêu mến, không bao giờ thử thách hoặc đau khổ có thể đè bẹp được hứng khởi dễ truyền thông của Người. Chúng ta hẳn không thể nhận ra đặc trưng của tập viện này, nếu không lưu ý tới niềm vui tràn ngập nơi đây. Têrêsa không buồn; từ ấu thơ, Người đã khoái tập viết lời này: “Un saint triste est un triste saint = thánh buồn sầu là thánh sầu héo”. Người quý yêu thánh Théophane Venard hơn thánh Louis Gonzague, vì thánh này “nghiêm nghị, cả trong giờ giải trí”, còn vị kia thì “luôn vui vẻ”. Chính Người cũng rất vui trong giờ giải trí. Câu truyện của Người nhẹ nhàng, tâm linh, đôi khi dí dỏm, làm tươi trẻ những lúc sinh hoạt cộng đoàn. Kỳ bệnh cuối cùng, Người tỏ ra vui liên tục, gắng giải trí các Chị vì nỗi buồn em sắp mất. Niềm vui từ Người lan toả, Người muốn có nơi chị em; trên gương mặt, trong ngôn từ, nhất trong tim; Người nhắc cho họ nhớ rằng “thật vô lý khi kéo lê gánh nặng đời tu, mà mình đã công khai tuyên bố ngày khấn hứa rằng mình hoàn toàn chân thành tự nguyện ôm ấp Luật Dòng”. Tư tưởng, hùng dũng, vui tươi: ba tâm trạng này Têrêsa cho rằng phải có trong việc đào tạo. Ba yếu tố tâm lý này như rất ít quan hệ với nhau, đã rõ ràng bổ túc nhau. Cả ba cùng nhau tạo nên bầu khí duy nhất là cởi mở. Trái tim tin tưởng mở ra và tự hiến cho ảnh hưởng của tha nhân. Trái tim hùng dũng, thay vì co quắp lại, biết tự quên và vươn vào tình yêu. Còn niềm vui, vui tươi vừa là biểu hiệu vừa là đường lối thanh thoát. Niềm vui toát ra từ con người đang lúc không nghĩ tới mình; đó là kho báu của trái tim được tình yêu hoàn toàn chinh phục. Tập việc của Têrêsa không phải xã hội đóng kính, giáo thuyết Người cũng không quấn vào mấy trục cứng ngắc. Têrêsa tự nhiên đặt các tập sinh của Chị vào trong những điều kiện tâm lý cần thiết để các em có thể làm tròn được nghĩa vụ: không lẩn quẩn với những vấn đề cá nhân, không chỉ sống cho mình, nhưng tới sống trong một Người khác, bằng sức sống của chính Ngài.
Trong cả tác phẩm của Chị Têrêsa, ta chẳng kiếm đâu thấy “phương pháp” hướng dẫn tập viện. Vì Mẹ Agnès yêu, Người nói về nhiệm vụ của mình, chị chỉ diễn tả ý hướng của mình là phụng sự một mình Chúa và bí quyết của Chị là hành động nhờ Chúa thôi. Tiếp theo Chị viết, không thứ tự, về những nhận xét tâm lý và tinh thần, rất giá trị, nhưng không có hệ thống. Têrêsa không tự nhốt vào phương pháp đúng nghĩa của từ này. Phương pháp của Chị là Yêu. Với trực giác tâm linh và nhận thức tận chi tiết, Chị sớm cảm nhận rằng không thể dùng tiêu chuẩn hoá khi chúng ta nói với những cá nhân. Không có lượng giá nào đúng được cho mọi người. Hơn thế, Chị còn ghi chú, như điều kiện tiên quyết để thành công, là từ bỏ hệ thống, mà nhận dị biệt, mềm mỏng trong những phương pháp đào tạo. Người viết: “Con cảm thấy phải tuyệt đối quên đi những hứng thú của mình, những quan niệm riêng tư, để hướng dẫn các tâm hồn theo đường lối Chúa Giêsu vạch cho họ, không gắng bắt họ theo lối riêng của mình... “Thưa Mẹ, con đã thưa Mẹ rằng khi đào tạo người khác, con đã học được nhiều. Trước hết con đã thấy rằng tất cả các tâm hồn đều có những đấu tranh gần như nhau; nhưng mặt khác, họ lại rất khác nhau, nên con đã hiểu được ngay lời cha Pichon: ‘Giữa các tâm hồn còn khác biệt nhiều hơn là những n ét mặt. Do đó không thể hành động cùng một kiểu với tất cả mọi người’”. Tuy không được trang bị tâm lý học hiện đại, Têrêsa đã hiểu biết sâu xa về sự khác biệt tính khí và thói quen, về sự cần thiết phải thích ứng với mỗi người, phải thực sự trở nên “tất cả cho mọi người”. Chị cũng thấy rõ rằng Thiên Chúa tự hiến cho mỗi người theo những cách thích hợp. Suy nghĩ về những bông hoa khác nhau mà Chúa vun trồng trong vườn của Người, Chị đã tìm ra lý do thâm sâu của sự khác biệt này. Chị đã hiểu rằng những khác biệt của họ rồi cũng làm hài lòng Chúa, bởi chúng cùng nhau tạo thành vẻ đẹp và dễ thương. Một khi trở thành người làm vườn tâm hồn, Chị không loại trừ khác biệt, không pha trộn hoa đồng hoang với những bông trong vườn. Chị không muốn săn sóc chúng, cắt tỉa chúng và ngắt chúng cùng một cách. Chị làm cách nào? Theo Thánh Thần, chỉ thao Thánh Thần thôi. Chính vì thế Chị gần như luôn luôn linh hoạt và tự phát. Têrêsa bất chợt. Chị được sáng tạo như chính Chúa sáng tạo. Chị tìm những sáng kiến dễ thương của một chị ưa tủi buồn vv... Chị không ưa đóng khung, tính toán, thực tập. Chị chỉ dùng đến vì bác ái, nên đã không ngại thú nhận với Céline: “Em còn bị bắt buộc dùng một xâu chuỗi để thực tập. Em chỉ làm thế vì bác ái đối với một chị bạn. Em bị rớt vào một cái lưới chẳng thích thú gì...”. Nhưng không cò gì là ngẫu hứng trong thái độ của Têrêsa. Không dùng những phương pháp cố định, không phải là thiếu phương pháp. Chính việc bỏ qua phương pháp cho Chị có kinh nghiệm. Têrêsa thường có những chỉ dẫn rõ ràng trong khi Chị huấn luyện, như chúng ta sẽ thấy sau. Chị quan tâm thích ứng với từng em tập sinh, trước hết vì Chị thấy mỗi người là một nhân vật không thể thay thế, một đối tượng yêu thương đặc biệt của Chúa Giêsu. Khi hướng dẫn tập viện, Têrêsa không chú trọng tới vẻ bề ngoài. Đối tượng chính của Chị là đáy sâu con người, nơi mà Thiên Chúa hoạt động. Không gì phù phiếm bắt Chị ngưng lại được. Chỉ chỉ sửa dáng bên ngoài vì ảnh hưởng đến nội tâm và Chị đi thẳng đến điều cốt yếu. Ngày nay Têrêsa đã được tuyên thánh và tiến sĩ tâm linh thì vai trò cố vấn mà Chị đã đảm nhận khi còn sống và trong những hoàn cảnh khó khăn của đan viện (ít có sự giúp đỡ từ bên ngoài), điều đó không làm ta kinh ngạc. Tuỳ mức độ mà một tập sinh cởi mở với Người, Chị Giáo đều có thể mang lại cho em ân lộc và kinh nghiệm, và hướng dẫn em một cách có hiệu quả để tăng triển đời sống nội tâm và bằng ngàn cách mà Chị đã biết khi tiếp xúc với những thực tế hằng ngày. Tuy thế, xin thêm rằng vẫn còn chỗ cho người khác kiểm tra (linh hướng, cha giảng phòng vv...) mà em tập sinh luôn luôn có quyền tới hỏi cũng như Chị Giáo phải năng bàn hỏi. Đúng là mọi người phải được tự do và không ai được phép ép lòng người khác phải bộc lộ với mình những tâm sự đau đớn. Cũng đúng rằng một Chị Giáo Tập lý tưởng phải đồng thời là người mẹ và người chị mà người ta có thể tin tưởng và vui mừng theo sự hướng dẫn, vì người ta cảm thấy những hướng dẫn này đều do tình yêu sáng suốt nhất: không thể nhốt bác ái ở trong đáy lòng được. Đức Giêsu đã nói: “Không ai thắp đèn để úp trong thùng, nhưng là đặt trên giá để soi chiếu mọi người trong nhà”. Vậy Têrêsa, vì hết sức ngoan ngoãn với Thánh Thần, đã có được một nhận thức tuyệt vời về con người và đời sống tâm linh. Chỉ thoáng nhìn là đủ gạt bỏ được những hiện tượng phức tạp và tối tăm trôi nổi ở đáy lòng người. Vì những chỉ dẫn của Chị sáng suốt và những lời khuyên của Chị thích hợp nên người ta có thể nói: Chị đọc được lòng người như một cuốn sách mở. Các tập sinh thường hỏi Chị: “Chị thường trả lời được hết mọi chuyện, em chắc lần này làm rối được Chị... Chị tìm ở đâu được những điều mà Chị dạy chúng em?” Một trong các em gắng giấu Têrêsa những cảm tình của mình. Chị thấy dễ dàng, Chị nói: “Nhân đức tự nhiên rạng ngời (với Têrêsa thì đúng thế, vì Chị nhìn bằng cặp mắt đã được thanh tẩy) vì thế khi không có nhân đức là em thấy liền”. “Họ còn chân thành tin rằng em đọc thấu tâm hồn họ, vì có khi em nói ra điều họ ôm ấp trước khi bộc lộ”. Chị Giáo trẻ mỉm cười, nhưng Chị từng thú nhận chính Chị cũng “ngạc nhiên vì thấy rõ tâm hồn họ”. Do đâu Chị có cái nhìn sáng tỏ lạ lùng ấy? Hiển nhiên không do uyên bác nhân bản: sức khoẻ Chị mong manh, vào đan viện chưa tròn mười lăm tuổi, nên chưa học xong Trung học. Cũng không vì giao tiếp nhiều với ác vị giàu kinh nghiệm mà được quán triệt: Têrêsa đã giao tiếp ở đời thật ít, nên chưa được học hỏi như thế. Chị tiếp thu kinh nghiệm vì nghiền ngẫm những tác phẩm tu đức? Hiển nhiên, Têrêsa không ngu dốt gì trong lãnh vực này. Cuộc sống tâm linh Chị dựa trên kiến thức chắc chắn của giáo lý Kitô ngay từ nhỏ. Chúng ta đã biết Chị cũng giao tiếp với những tác giả tu đức. Nhưng Chị vận dụng sao mà dễ dàng thê! Chỉ cần đọc những thư, những trang viết của Chị, chỉ cần quan sát Chị tiếp xúc các em... đủ thấy Chị không là con mọt sách và Chị ít thích giáo huấn trừu tượng của các bậc thầy. Hiển nhiên giáo huấn này không phải nguồn quan trọng và chính yếu nhất của Chị về những nẻo đường Thiên Chúa. Vậy là Chị được đặc ân thông hiểu? Cũng không. Chính Chị đã tự bộc bạch: “Em chắc chắn đã không có ân huệ đọc thấu tâm hồn”. Trực giác này chỉ là kết quả bình thường của các ân huệ Thánh Linh mà Chị đã lãnh nhận và trân trọng giữ gìn . Têrêsa càng tin ở những ấn tượng thần linh, ở “thang máy” của Tình Yêu, cảm quan Chị càng bén nhạy, cái nhìn Chị càng thấu vào những gì liên hệ tới cuộc sống ân thánh. Chị có nhìn nhận rằng “khi huấn luyện người khác, mình học biết nhiều” nhưng Chị vẫn xác minh rằng “nhất định chỉ Thiên Chúa mới biết tận đáy lòng người ta”. Tuy nhiên, Chị luôn luôn cầu Chúa nuôi dưỡng các con của Ngài, và hiệp nhất với Ngài, Chị được thoả mãn nhu cầu tham dự vào sự hiểu biết thâm trầm của Ngài về tất cả các thụ tạo của Ngài. “Một tối, có một em nhất định giấu tôi chuyện làm em đau khổ nhiều rồi. Tảng dáng, tôi gặp em, em líu lo với tôi mà diện mạo tươi rói. Tôi, tôi không đáp chuyện em, tôi rành mạch bảo em: ‘Em đang buồn’. Giá tôi khiến mặt trăng rớt liền dưới chân em, hẳn em cũng không nhìn tôi kinh ngạc hơn. Em kinh ngạc tới độ lây sang tôi. Trong chốc lát, nỗi kinh sợ siêu nhiên túm lấy tôi. Tôi chắc chắn rằng tôi không có ân huệ đọc thấu tâm hồn, nên tói quá ngạc nhiên vì đã bắt trúng em. Tôi thấy Chúa thật gần, nên không hiểu ra sao, tôi như một đứa nhỏ đã nói những lời chẳng do tôi, mà do Ngài”. Chị tiết lộ cho mấy em luyện tu đang ngạc nhiên vì thấy Chị đoán đúng tim đen: “Bí quyết của Chị là không bao giờ nhận xét các em mà không cầu xin Đức Mẹ; Chị xin Mẹ mách bảo Chị làm điều gì lợi nhất cho các em, nên chính Chị, Chị cũng thường ngạc nhiên về những điều Chị dạy các em. Nó với các em, Chị chỉ thấy mình không lầm, vì chính Giêsu nói bằng miệng Chị!” Thế là sự hiệp nhất với Thiên Chúa đã cho sư phạm của Têrêsa hiệu năng sư phạm. Hướng dẫn từng chi tiết, không khẳng định, mà làm bung hết các khung quen thuộc. Hơn bất cứ sự tinh tế nào khác, những câu Chị trả lời, những cách Chị hành động và đối phó, thật đáng phân tích từng chi tiết. Chúng ta sẽ chỉ coi lại một số nét thật rõ rệt và đặc biệt quan trọng. Sư phạm Têrêsa vừa vững chắc, vừa uyển chuyển. Không nên tách rời hai tính chất này, vì vững chắc mà không cứng ngắc, uyển chuyển mà không ấm ớ, không mơ hồ. Trước hết, Têrêsa biết mục Tiêu Người tiến tới, mà Người còn biết phải hành động thế nào với từng người để tới được. Chỉ dẫn các em luyện tu tới phỏng vấn, lắng nghe và thực tập theo Thánh Linh. Thế là rõ: Người không hề có ý đề nghị với các em một thứ “trọn lành” tưởng tượng, trá hình của tự tôn và tư ái. Chị không cho các em hướng về lý tưởng mà họ có thể nhào luyện nên, nhưng Chị mời gọi họ từng bước đáp lời Thánh Thần gọi từng người. Chị muốn dạy họ nhận ra ý Chúa trong từng phút hiện tại, để ngoan ngoãn vâng nghe. Chị hướng dẫn thật cụ thể, thực tế và minh bạch. Chị ưa chuộng tự khước từ hơn những tư tưởng phản động; Chị coi khinh những hy sinh to lớn do bản năng do nhân đức đề nghị. Khi chị Geneviève tiếc nuối: “Ôi, còn biết bao điều em phải tập cho được!” thì Têrêsa chỉnh ngay: “Nói ‘phải BỎ ĐI’ thì đúng hơn...” Chị dạy phải coi BỎ ĐI hơn là CHIẾM ĐƯỢC, coi đi xuống tận đáy thung lũng khiêm nhu để tập những đức tính nhỏ bé hơn là gắng lên đỉnh huy hoàng của toàn thiện. Chị không chấp nhận cá biệt, hoặc trau chuốt, hoặc hàm hồ. Đơn giản và chân thực là tâm tính Chị muốn cho tất cả các em có tận đáy lòng, tuy mỗi người mỗi cách. Những khó khăn và những khuynh hướng là tuỳ theo tính khí, nên Têrêsa không đòi mỗi em luyện tu phải cố gắng hoặc tiến bộ như những em khác. Trong mọi trường hợp, Chị vào tận đáy, tận thực trạng, Chị vạch cho thấy những yếu đuối là do bản năng quá dễ dàng quên đi hoặc làm lơ điều cần thiết duy nhất, là ỷ vào sức lực riêng mình, là phức tạo hoá cuộc sống tâm linh. Rồi Chị mới cho bài thuốc trực trị lỗi lầm hoặc lệch lạc, hoặc khổ sở. Không ngần ngại, Chị đụng ngay tới chỗ cần lưu ý và cố gắng. Một em tập sinh tới thưa chị: “Em nản vì không noi theo được Chị trong tình yêu Chúa thật thiết tha”. Chị nhận ran gay, không phải cái vẻ thiện chí là một người quan sát hời hợt có thể bị lầm, nhưng một ganh tị trá hình tinh vi. Chị liền đáp: “Mỗi lần em cảm thấy bị dụ dỗ như thế, em nên cầu Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con đã không có một tình cảm tinh vi, nên coi vui vì thấy có nơi những người khác’”. Rồi Chị khích lệ thêm: “Như thế Chúa suyễn hài lòng hơn là em chẳng bao giờ đáng trách”. Chị Marthe de Jésus thú nhận rằng: “Nếu em theo tánh tự nhiên, thì hẳn em thường bỏ việc xin Tôi Tá Chúa hướng dẫn, vì biết thế nào những sai lỗi của mình cũng bị vạch trần... Nhưng sự thánh thiện của Chị lôi kéo em ngay cả khi em không muốn”. Têrêsa tiếp xúc các tâm hồn không những đúng điểm cần, mà còn đúng cách. Để giúp các em biết tự khước từ, biết trở về với Chúa sau những bất trung, biết cương quyết bám lấy ơn Chúa và chỉ bám vào ơn Chúa thôi... Têrêsa thích thời, để trợ giúp hành động của Chúa chớ không để dẫn lối. Thế là Người chỉ nói khi cần nói và chỉ nói những gì cần. Có khi cứng rắn và nghiêm nghị với những người này, khiêm tốn và êm dịu với những người khác, luôn thẳng và thật, đơn giản và có lúc tươi cười, biết không bao giờ phóng đại hoặc giảm khinh. Ngày nọ, một em tập tụ mới bị la rầy, chán nản chạy tới Chị Giáo và buồn bã thưa: “Em không có ơn gọi!” Nghe tuyên bố trịnh trọng đó, Têrêsa đáp bằng... một chuỗi cười. Ai mang bộ mặt cau có, sầu thảm tới, Têrêsa không cho đóng bi kịch, thế là xao xuyến tan bay. Nếu từ chuyện này đi tới lệch lạc, Chị thường đề phòng chán nản bằng cách hỏi: “Thế ra hôm na em hết ơn gọi rồi đấy!”... Cuộc chiến lại lịm đi như hôm qua. Chị giải thích cho em bị cám dỗ: “Em coi người ta dùng phương pháp nào để chà đồ đồng cho sáng. Họ hoà chất cọ xát với bùn đất và bôi lên, làm dơ bẩn, mà chà thật mạnh, thế là các đồ đồng sáng lên như vàng. Đối với tâm hồn, những cám dỗ cũng như thứ bùn chà xát đó, chúng làm ánh lên trong tâm hồn những nhân đức đối ngược với những cám dỗ kia”. Têrêsa luôn luôn “nói thật”, nhưng bằng tình yêu và dịu hiền của Đức Giêsu. “Những quyết định của Chị bao giờ cũng rõ và đúng” nhưng Chị không dùng quyền mà làm hung. Chị giải thích, Chị khuyên nhủ, săn sóc sửa chữa, chứ không bẻ gẫy. Thời gian Chị Têrêsa bệnh nặng, ít khi các tập sinh được tới thăm. Sr Marie de la Trinité, một người rất yêu mến thánh nữ, kể: “Một ngày, không chịu nổi khổ cực và chiến đấu, em chạy đến bệnh xá, và càm ràm với một nữ tu khác. Tôi Tá Chúa nghiêm khắc la em vì thiếu nhân đức và đuổi em ra. Nhưng chiều tối, Chị nhờ chuyển đến em mẩu thư này: “Em chị thương, chị không muốn em buồn. Em biết chị mong tâm hồn em trọn hảo biết bao, nên chị đã đã nghiêm nghị với em. Chị biết cuộc chiến đấu của em và hẳn chị đã nhẹ nhàng an ủi em, nếu em đừng nói lớn và nếu mỗi lần Chúa Nhân Hiền cho em gặp phải, em đều giữ lại trong lòng. Chị chỉ cần nhắc em nhớ từ nay phải giữ kín tình cảm”. Thế đấy, Têrêsa vẫn hết sức thận trọng tận đáy lòng một ánh nhỏ quảng đại loé lên, một mẩu thiện chí, một ý muốn của Thiên Chúa vẫn bám trụ dưới giông bão, tối tăm và sóng gió trên mặt. Nhắc em tập sinh nhớ lòng yêu Chúa Giêsu, Người cũng đánh thức và thường làm bùng lên nhiệt tâm của chính mình. Có ngày một em đến thưa Chị: Mình sợ những bất trung hằng ngày của mình làm mất các ơn Chúa. Người đáp: “Chúa đầy yêu thương và em đầy thiện chí thế này, thì không phải em mất, mà chính Ngài mất tình yêu!” Câu trả lời lạ lùng như thế cho ta thấy chiều sâu tâm hồn và khoa sư phạm của Người. Với vài lời như thế, Người đã xua đuổi nỗi sợ thường gây tê liệt, hơn nữa, còn kích thích tình yêu thuần khiết nhất, vô vị lợi nhất, Người đổi hướng nhìn từ bản thân về chính Thiên Chúa. Chị Geneviève làm chứng: “Chẳng nói ra, nhưng ai cũng ưa được Têrêsa hướng dẫn. Không vuốt ve hoặc kiều dưỡng, người ta đến với Chị vì cần sự thật”. Trong bầu khí cởi mở và yêu thương trong sáng như thế, với một Chị Giáo hướng dẫn không bao giờ cản trở, mà chỉ muốn làm dụng cụ của Chúa, các tập sinh đạt mức triển nở tối đa của mình. Làm sao họ quên được những bài học sống động ấy? Tin tưởng, vui tươi, tự do: Tất cả hiệp lại giúp họ phát triển hài hoà và biệt loại.
Tất cả các thiên tài và các thánh nhân đều theo đuổi không mệt mỏi một phương án lớn, nó cuốn hút và thống nhất cuộc đời họ. Nơi các thiên tài, ý lực này là thành quả của trực giác cá nhân, thì nơi các thánh lại là một linh hứng thần thánh, mà họ trung thành dõi theo, ngày ngày ngẫm nghĩ và đào sâu. Trực giác nền tảng của mình là gì, thánh Têrêsa không úp mở và hành động của Người cũng chứng minh, Têrêsa chỉ có một ước muốn: YÊU GIÊSU VÀ LÀM CHO NGƯỜI ĐƯỢC YÊU MẾN. Người đã viết cho một nữ tu ở Sài Gòn: “Xin Chị cầu Chúa Giêsu để cả tôi, tôi cũng YÊU Ngài và làm cho Ngài được yêu mến”. “Em muốn yêu Ngài, không chỉ yêu bình thường, mà yêu như các thánh, dám làm những chuyện ngông cuồng cho Ngài”. Thánh nữ cũng viết cho người em là Siméon: “Chị chỉ xin em cầu cho tâm hồn chị YÊU GIÊSU và làm hết sức Chị để Ngài được yêu”. Các thư viết trong những năm cuối đời Người lặp lại hoài điệp khúc ấy. Tâm hướng này ngự trị cả đời Người và ưu tiên trong việc Người giúp các em luyện tu. Nhưng để hiểu rõ hơn sự quan trọng của lãnh vực này trong cuộc đời Têrêsa, đã trở thành Chị Giáo Tập, chúng ta phải nghiên cứu - ít là tổng quát - nguồn gốc và cả tiến trình cuộc sống tâm linh của Chị.
Nhận ra thực chất Têrêsa, người ta không thể chỉ nói đến một điểm nào trong đời Người, mà trước hết không nghiệm ra tính cấp bách và vững chắc. Để khi mới hai chục tuổi đời mà có được tầm vóc thuần tuý quy hướng một mình Thiên Chúa trong nhiệm vụ và trong cuộc sống thường ngày như thế, hẳn thánh nữ đã phải kinh nghiệm sâu thẳm về Chúa. Thực ra kinh nghiệm này Người đã nhận từ tuổi thơ, vẫn ngày ngày tăng triển, bao trùm cả phạm vi hiểu biết, chiếm ngự ý chí và trái tim, cho trọn con người Têrêsa sung sướng như chỉ có Thực Tế và Tình Yêu Thiên Chúa làm được. Bẩm sinh giàu năng khiếu. Têrêsa tự nhiên thích cao cả, tốt đẹp, có óc tinh tế, trực cảm sáng suốt này cho chị đi thẳng vào thâm tâm sự vật, không bị ngoại hình mê hoặc,. Đức tin nhận lãnh trong một gia đình Kitô đặc biệt còn giúp thêm sáng suốt tự nhiên. Chúng ta cũng đã thấy, khi bắt đầu dùng trí khôn thật sớm, cô bé nhận Thiên Chúa là tất cả, còn vạn vật phù phiếm. Bé đã trực cảm chắc chắn điều mà các thánh nhân như Augustin phải trải qua lâu năm và gian khổ: Những gì không phải là Thiên Chúa đều qua đi, những gì qua đi đều hư vô, và nếu ham thích hư vô, tất nhiên rồi lòng ta chỉ còn chán nản. Têrêsa rút tỉa kiến thức này từ những chuyện có vẻ không đâu: mứt “chảy nước”, chú cừu nhỏ chết vv... “Vú không biết được con vật nhỏ này chết đã làm con suy nghĩ biết bao. Vâng, ở đời này, đừng bám cứng vật gì, dù là những vật hết sức vô tội, vì lúc bất ngờ nhất thì ta mất chúng. Ta chỉ hài lòng được với những gì vĩnh cửu”. Với người sống sâu, chút gì cũng đủ suy nghĩ. Têrêsa là thế; những truyện tầm thường thành quan trọng cho Người, vì cái nhìn cao cả Cô Bé đặt trên chúng, và lòng Cô rộng lớn khi giao tiếp chúng. Rút kinh nghiệm trong vũ trụ tí hon của mình, đựng những giới hạn đáng buồn của chúng, Bé khao khát những gì hơn nữa. Trong trái tim mồ côi sầu mộng, Thiên Chúa đến hoạt động, biến cảnh trạng con người khổ cực thành nguồn ân huệ: Bé Têrêsa đã vào trường của Chúa, Ngài dạy Bé khoa học các thánh, bằng cách nói thầm trong lòng Bé hoặc bằng những chi tiết ngang tầm tuổi Bé. Nhắc đến tuổi ấu thơ, trong phòng vắng vẻ, Bé đã “suy nghĩ” về chuyện đời mau qua, về vĩnh hằng, Têrêsa khẳng định: “... Bây giờ em hiểu rằng khi đó em cầu nguyện mà không hay. Chính Chúa Nhân Hiền đã dạy em bí quyết ấy”. Muốn yêu Giêsu và bằng mọi giá, làm cho Ngài được yêu mến. Thiên Chúa là Tất Cả, và những gì tạm bợ thì không đáng lưu luyến. Tuy thế, Người đã cảm nghiệm sự mất giá ghê gớm của thụ tạo trước thực tại của Thiên Chúa, lại không dễ thất vọng sao? Thế là người ta đẩy điều chắc chắn này vào vùng trừu tượng, để thực tế sống như không hề biết nó. Sự thật lại không giữa Toàn Hữu cao cả của Thiên Chúa và sự hư vô của con người, có một liên hệ sinh động, một thực tế và một huyền nhiệm sâu thẳm nhất: TÌNH YÊU. Vì Têrêsa đã nhìn nhận tình yêu Thiên Chúa đối với mình, nên trực cảm đầu tiên của Người trở thành xác tín, bất khả kháng. Ngày Hiệp Lễ lần đầu, Têrêsa cảm nghiệm tình yêu nhất: “A! Ngọt ngào biết bao nụ hôn đầu tiên Giêsu đặt trên hồn em!... Đúng là nụ hôn tình, em cảm thấy mình được yêu...”. Từ đó, từ xúc động duy nhất mà Người BIẾT - Thiên Chúa là Tất Cả, vạn vật hư vô - và CẢM NGHIỆM (tình yêu vô biên dành cho chính Người), chỉ còn hướng về một mình Chúa, tự hiến trọn cho Chúa, chỉ yêu Chúa: “Con yêu Ngài, con tự hiến trọn vẹn cho Ngài mãi mãi”. Từ cuộc biến đổi thâm sâu và mau lẹ này phát sinh ơn gọi hẳn vào dòng Cát Minh. Lời gọi đầu tiên Cô Bé nghe khi chưa đầy hai tuổi rưỡi. Nhưng phải là một ngày trong tháng Chín tháng Mười 1882 mới quyết liệt: “Em cảm thấy Cát Minh cũng chính là hoang mạc, nơi Chúa Nhân Hiền muốn em vào ẩn... Em cảm điều đó mãnh liệt đến không còn chút lòng nào nghi ngại...”. Mà thật Cô Bé tin chắc Lời Gọi này đến độ không ngại nói với Chị Cả và chính đan-viện-mẫu. Rất hợp lý. Lòng Cô Bé vẫn tự nhủ “Mình chỉ là của Giêsu thôi” thì hiển nhiên Bé thấy cuộc sống đan tu thích hợp nhất để thực hiện quyết tâm. Có lẽ cũng chẳng cần gì nữa để chuẩn bị gần xa cho Têrêsa một hồn tông đồ, vì chính Đức Giêsu sẽ cho Cô Bé lòng yêu tha nhân, bởi tình yêu nào cũng từ Thiên Chúa. Thực ra, từ ân lộc Giáng Sinh 1886 Thiên Chúa đã mở trái tim này, trái tim trọn thuộc về Ngài, Ngài mở cho tha nhân, nhưng từ ân lộc tháng Bảy 1887, Thiên Chúa mới công khai mở ra và cho nó chiều hướng Cứu Chuộc. Từ ngày thấy Máu Giêsu đổ ra uổng phí, Têrêsa bốc cháy tình yêu các tội nhân; mà chỉ yêu và muốn họ cho Một Mình Giêsu thôi. Người viết: “Càng cho Ngài uống, tâm hồn khổ sở em càng khát, mà chính Ngài cho em cơn khát cháy bỏng này như thức uống tuyệt ngon của tình yêu...”. Có thể ta ít gặp được cảm nghiệm hoặc diễn tả niềm khắc khoải tông đồ trong quan hệ mật thiết với tình yêu duy nhất dành cho Đức Kitô Cứu Thế như vậy. Tình yêu bốc cháy và dữ dội đó còn lôi Têrêsa hơn nữa. Để giải khát cho Người Yêu, Têrêsa muốn cứu thế: “Chưa phải tâm hồn các linh mục lôi kéo con, nhưng là các đại tội nhân, con khao khát cứu họ khỏi thiêu đốt muôn đời... Con muốn bằng mọi giá, giữ (Pranzini) khỏi rớt vào hoả ngục”. Cô Bé đã nghe biết tên sát nhân lừng danh này đang bị giam. Cô Bé nhất định cầu nguyện và hy sinh cho anh ta thống hối. Trong thực tế, trước lúc bị hành hình, Pranzini đã ba lần hôn tượng chuộc tội, việc mà trước đây anh cự tuyệt. Têrêsa bao giờ cũng nhìn anh như “đứa con đầu lòng” của mình. Thế là Cô Bé bắt đầu thích đau khổ, biến đau khổ thành niềm vui. Ta sẽ thấy suốt đời Chị, Chị hiên ngang chấp nhận những gian khổ ùa tới. Chị luôn muốn thập giá. Chị còn chọn thập giá dưới hình thức trăm ngày hy sinh hằng ngày. Tuy mặc những hình thức nào, đau khổ nơi Chị cũng mang một chiều hướng, một giá trị tông đồ. Tới trước khi tắt thở, Chị có thể kêu lên: “Chưa bao giờ em nghĩ mình có thể chịu đau khổ đến thế!... Em chỉ có thể giải thích việc này bằng những mong muốn cứu các linh hồn”. Vậy là Thánh Nữ, Người biết công trình Chúa hoàn thành trong mình, ngay trên giường hấp hối, đã liên kết đau khổ tràn đầy với nhiệm tâm cuốn hút Chị. Thực là chứng tích hùng hồn! Tông đồ nào cũng có thể cùng Têrêsa xác tín rằng: để chỉ tự do quy về Chúa, người ta phải hiến dâng nhiều, đau khổ nhiều. Trung thành với sứ mạng của mình. Têrêsa giải quyết thế này yêu cầu lưỡng viện: Yêu và làm cho người YÊU GIÊSU? Anh dũng trung thành với sứ mạng mình đã nhận, sâu trong tâm trí cũng như trong thư từ. Trung thành như vậy từng phút. Đúng là phải trung thành như thế mới bảo trì và thăng hoa được hồng ân này, hồng ân mà nhiều tâm hồn thiếu tập trung đã bỏ mất hoặc phản bội. Biết mình được gọi vào Cát Minh, Têrêsa sắp sẵn để vào. Người ý thức tròn đầy rằng ơn gọi của mình là ơn gọi thuần chiêm niệm, và nhiệt tâm tông đồ bừng cháy của mình không những không trở ngại, mà còn thực tế kết hợp với cuộc sống đó. Đúng, dù muốn xả thân trong những công việc tông đồ, Têrêsa theo tiếng gọi thần thánh mà chào biệt tất cả, vì Người tin chắc những lời Chúa hứa: Trung thành với Chúa thì ích lợi cho đời hơn là dấn thân vào hoạt động mà Chúa không muốn Người làm. Nhưng Ngài đâu phải khước từ một trong hai tình yêu. Cả hai đã thực sự hiệp nhất trong lòng Chị đến độ Chị có thể nói không cần phân biệt: “Tôi muốn ẩn mình trong nội cấm để toàn hiến cho Chúa” và “Vĩnh biệt đời, mục tiêu duy nhất của tôi là cứu các linh hồn, nhất những hồn tông đồ”. Chúa không lừa dối Têrêsa và không làm mất gì của Chị. Trái lại, chính vì trung thành với tình yêu thứ nhất mà Người khám phá ra những chiều kích của tình yêu thứ hai: “Càng hiệp nhất với Ngài, tôi càng yêu tất cả chị em tôi”. “Khi một tâm hồn để mình bị cuốn hút do những làn hương say đắm của Ngài, nó không chạy theo một mình, tất cả những người nó yêu đều được cuốn theo; không cưỡng bức, không áp lực, tự nhiên nó cuốn hút về Ngài, thế thôi!” Trung thành theo lý tưởng tông đồ do ơn gọi sâu thẳm của mình, Têrêsa cũng quan tâm đến những phương tiện. Phương tiện thứ nhất, to lớn nhất đối với Người là chu toàn bổn phận. Chị muốn rằng mình không bỏ qua một hy sinh nào do việc tuân theo luật dòng, mà sống trọn đời tu với tất cả những đòi hỏi của cuộc sống này. Trong khi sống từng phút yêu thương như thế, những gì Chị làm, Chị cũng chiếu toả trên mọi tâm hồn gần xa. Chúng ta nhớ rằng, khi đã kiệt sức, Chị vẫn còn “đi dạo cho một vị thừa sai”. Ta thấy Chị chấp nhận cơn thanh luyện ghê gớm về đức tin khi nghĩ tới những người dân ngoại và dâng những đau đớn bệnh tật để cầu cho họ. Trọn cuộc sống và hoạt động của Têrêsa như in đậm tâm tình hiến dâng này. Hơn hết, từng giây phút, Chị trở về với phương pháp bất dịch “cầu nguyện”. Cầu nguyện tràn ngập đời Chị. Vậy là Chị vẫn sống trong lẽ sống duy nhất: Chị chỉ muốn tặng Giêsu cho đời, và tặng mọi người cho một mình Giêsu. Chẳng có phương tiện này, lời nói nào, kết hoạch nào của con người có thể đạt mục tiêu đó. Ta không nối kết được Thiên Chúa, không sắp xếp được Ngài. Nhưng Ngài là Tình Yêu, ta có thể yêu để Ngài muốn hiến thân, Ngài chờ đợi và muốn điểm đó. Phương án của Têrêsa là thế: Người dùng những phương tiện tông đồ tuyệt diệu mà cảnh sống dành cho Người, nên vẫn làm việc tuyệt đối theo Ý Chúa. Làm như thế, Người không ngờ mà chuẩn bị cho sứ mạng đào tạo của Người, vì trước khi trở thành hướng dẫn và điểm tựa cho người khác, thì chính mình phải trọn vẹn cho một mình Giêsu, như Ngài muốn.
Têrêsa trong cuộc sống cũng chính là Têrêsa trong sứ mạng đào tạo. Làm sao Chị có thể mưu tìm gì khác Giêsu khi giúp đỡ các em? Hơn ở đâu hết, Chị chỉ làm việc để “yêu và làm cho mọi người yêu Ngài”. Chúng ta thử quan sát. Công việc Người cũng ẩn khuất như đời Người. Không sao. Người lặng lẽ và khiêm tốn làm việc để hiệp nhất với Người Nô Bộc đau khổ trùm mặt mà Isaia giới thiệu. Người tự coi như một “cây bút nhỏ” không giá trị gì, một “nô tỳ nhỏ” của các em, một “cái tô nhỏ để dưới đất”. . Chị biết rõ rằng Thiên Chúa chẳng cần phải dùng Chị: “Ăn thua gì tôi, vì Chúa có thể dùng tôi hoặc, bất cứ ai khác để chỉ Lối Nhỏ này cho các tâm hồn. Quan trọng là Lối Ngài chỉ, dụng cụ nào chẳng được!” Với tâm tình siêu thoát đó, Chị là dụng cụ tuyệt hảo. Chị tuỳ thuộc Bề trên trong mọi chuyện, chứng tỏ phục tùng và trọn theo ý Mẹ trong khi thi hành chức vụ. Được thế không phái ít công phu, vì tính khí của Mẹ Marie de Gonzague và Têrêsa rất khác nhau. Cả trong việc này, Têrêsa cũng thấy mình gặp mâu thuẫn và thập giá là điều tốt. Chị hành sử tuyệt vời, nên khi Chị qua đời, Mẹ làm chứng huy hoàng: “Gương mẫu trọn khiêm nhu, phục tùng, bác ái, khôn ngoan, siêu thoát và mực thước, Chị chu toàn đức phục tùng vốn khó khăn của một Chị Giáo Tập với tính sắc bén và toàn hảo chỉ có thể có nhờ Chị yêu mến Chúa”. Cũng có lúc Mẹ hay cộng đoàn la rầy Têrêsa và than vì các em chậm tiến bộ quá. Chị dùng những dịp này để tự thú và đón nhận những lời khuyên mà Chị tin rằng Chúa trao. “Chị không hề rên vất vả và buồn chán... trong những khó khăn, Chị đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa”. Chị xả kỷ trong tình bằng hữu chị em. Chị viết: “Em sẵn sàng hiến thân vì họ (những chiên con), nhưng tình em thanh khiết nên em không muốn họ biết”. Chắc chắn Chị yêu các tập sinh với hiện tình của họ, với những ưu và khuyết điểm của họ, nhưng chính là tình yêu mà Giêsu chuyển vào tim Chị và chính là để thu hút họ về cho Ngài. Chị giữ trái tim mình không chia sẻ, vì đức yêu của Chị đầy âu yếm, thật cô tịch, tự nhiên trào lên từ lòng Chị yêu Giêsu. Các tập sinh, “tận đáy lòng, họ cảm biết Chị yêu họ bằng tình yêu chân chính”, họ chỉ cần được yêu bằng tình yêu duy nhất ấy. Chị cũng chẳng muốn làm cho họ yêu Chị. Nên lưu ý rằng Chị chẳng bao giờ muốn lấy lòng tập sinh bằng cách nhượng bộ theo mánh lời người đời. Chị chỉ tìm cho họ hoàn thiện, Chị gắng chứng minh điều đó, dù có mất mát phần nào thiện cảm. Mẹ Agnès tuyên bố: “Tôi đã cả trăm lần chứng kiến sự trung thành Chị đối với các em theo lương tâm mình”. Sr Marthe de Jésus làm chứng: “Lòng nhiệt thành Chị đối với em cũng như với các tập sinh, thật rất trong sáng và vô vị lợi. Chị không sợ làm chúng em phật ý, do đó giảm mất thiện cảm và thân thương, mà có lẽ Chị đã được nếu cư xử yếu mềm hơn đối với những khuyết điểm của chúng em”. Nhưng nếu tình cảm mang tới Chị mà tinh khiết, Chị không từ khước. Chị biết yếu tố đó cần thiết để hướng dẫn các các tâm hồn. Một trong các “con” của Chị đã viết cho Céline: “Chị tốt, chị rất yêu em”, nhưng Chị luôn miệt mài để thanh tẩy sự lưu luyến và làm vững mạnh trái tim các tập sinh. Chị chủ trương chỉ dẫn các em tới Thiên Chúa và quyền bính đại diện Chúa. “Nhờ ân huệ Đức Giêsu, em chưa hề thử lôi cuốn lòng họ; em hiểu rằng sứ mạng của em là dẫn họ tới Thiên Chúa và làm họ hiểu rằng ở trần gian bây giờ thì, thưa Mẹ, Mẹ là Giêsu hữu hình mà họ phải yêu mến và tôn trọng”. Mặt khác, do chính chứng từ của Chị, người ta cũng biết rằng Chị quan tâm biết mấy để tình yêu các em Chị đối với Bề Trên thực sự được tinh luyện. Chị muốn tặng họ nguyên vẹn cho Chúa. Nhận trách nhiệm đào tạo các nữ tu, những hiền thê của Đức Kitô, Chị hiểu rằng bất trung nếu dành cho mình một chút tình thương tự nhiên của họ. Chị biết thế, vì Chị đã dò những đáy thẳm của thiên chức, những yêu cầu của tình yêu Đức Kitô, cũng như hạnh phúc mà người ta thưởng thức được khi hướng trọn bản thân về Ngài. Chị thuần tuý nhắm Thiên Chúa đến độ không “tìm lợi ích cho các linh hồn”, hoặc làm cho họ hiểu một chuyện gì, hoặc thấy họ tấn tới nhờ Chị săn sóc. Chị hoạt động chỉ vì Chúa và chờ đợi tất cả kết quả từ Chúa. Têrêsa bộc lộ tâm sự hoàn toàn với Chị Geneviève: “Đối với em, thời gian em săn sóc tập viện là chiến tranh, là phấn đấu. Chúa Nhân Hiền làm việc cho em, em làm cho Ngài, và chưa bao giờ tâm hồn em tiến bộ được thế... Em không tìm được thương yêu, em chẳng cần biết người ta nói gì hoặc nghĩ gì về em. Em chỉ nhắm làm bổn phận và làm vui lòng Chúa, không hề mong những cố gắng của mình kết quả. Phải phụng sự Chúa Nhân Hiền, phải yêu mến Ngài, mà không cần biết ra sao. Chúng ta lo công việc, Đức Giêsu lo kết quả. Vì lợi ích của anh chị em, thì đừng bao giờ sợ chiến đấu, tìm yên thân và càng không phải tìm mở mắt các tập sinh cho bằng phụng sự Chúa Nhân Hiền. Hãy luôn làm việc và để mặc Thiên Chúa lo thành quả”. Têrêsa đã đẩy tự thoát quá xa chăng? Mong làm ích lợi đâu phải việc bất chính? Nhiệm vụ Chị không phải để làm thế sao? Hẳn rồi; nhưng Têrêsa không ưu tiên nuôi tham vọng nâng đỡ, soi sáng, đào luyện và an ủi chị em. Têrêsa tận tâm cho các em, nhưng phải để hài lòng mình hoặc để đạt thành công nào. Chị đơn giản muốn chu toàn nhiệm vụ, không màng tư lợi. Thái độ này cho Chị không ngừng làm bổn phận; không hy vọng thành quả, Chị cũng không nản vì thiếu thành quả; không có gì để chán, để nản; không có gì phải liều chọn một bỏ một, làm cho em này hơn em kia. “Nếu gặp một tâm hồn khó chịu, chúng ta đừng thoái lui, đừng bao giờ bỏ mặc. Hãy luôn là ‘gươm Thần Khí’ để sửa những sai lỗi của tâm hồn đó; đừng vì nghỉ ngơi mà ta bỏ qua công việc. Hãy chiến đấu không mệt mỏi, không cả hy vọng chiến thắng nữa. Cần gì thành quả! Ta cứ tiến, bất kể đấu tranh mệt nhọc.. Phải làm xong nhiệm vụ”. Têrêsa sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng liều thân vì các tâm hồn. Chị hứa: “Dầu sao, Chị vẫn nói thật với em! Chị đành phải bỏ cộng đoàn còn hơn bỏ một tâm hồn trong ngu dốt”. Cầu nguyện và hy sinh là vũ khí chuyên dùng của Chị. Đúng là không dễ dàng gì hành động thẳng thắn như thế khi Chị cảnh giác các em và sửa đổi những lỗi lầm của họ. Chị thú nhận: “Chị cảm thấy điều đó nhất định đòi Chị đau khổ, vì cứ hành động tự nhiên thì không thể nào khiến được người, mà mình muốn cho thấy lỗi đó, nhận ra lỗi của họ. Chị thấy chuyện này cũng như những chuyện khác... Vì thế, khi nói với một em tập tu, Chị gắng hy sinh làm việc đó... Vì Chị thấy rằng người ta chẳng làm được gì khi vị kỷ...” Têrêsa đưa ra những nguyên tắc này vào thực hành kiên trì tới độ Chị Geneviève có thể tuyên bố trong vụ án Phong Thánh rằng: “Điều làm nên tất cả sức mạnh cho Chị Giáo trẻ của chúng con là Chị hoàn toàn bỏ mình, Chị hoàn toàn quên mình và luôn lưu ý hy sinh”. NHờ hy sinh, Têrêsa trong các cuộc tiếp xúc với các em, vẫn giữ được mục tiêu duy nhất về Chúa. Với giá này, Chị làm việc thật chắc chắn và bền vững. Céline không phải người duy nhất làm chứng cho Chị như thế. Tính thẳng thắn trong cuộc sống Têrêsa in ấn tượng trong tất cả các tập sinh. Tới gần Chị, các em đều cảm thấy sự cao cả hùng hồn mà chí hướng kiên cường mang lại cho cuộc đời thánh hiến. Chứng nghiệm điều đó mà ngày nọ có một em quỳ gối trước mặt Chị, chắp tay và cúi đầu. Sr. Marie de la Trinité kêu lên: “Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, cầu cho chúng em!” Chị lùi ra, Têrêsa âu yếm la rầy: “Em con nít lắm! Em chọc Chị đã rồi!”
“Một Giêsu thôi!”: Yêu, làm cho người người yêu, trong lòng trung thành với sứ mạng đời mình, đó là chí hướng dẫn đạo và linh hoạt mọi tâm tư của Têrêsa, Chị Giáo tập. Nhưng làm sao Chị thực hiện được phương án đời mình, luôn luôn nhìn Đức Giêsu? Tắt một lời: Bí quyết nào giúp Chị thành công lạ lùng như thế? Khi Têrêsa trình bày đường lối giúp các em, Chị cũng tìm ra con đường nên thánh của Chị. Chị coi hai con đường đó là một. Một lần nữa, chúng ta lại có thể được lợi ích ở đây, nếu chúng ta muốn hiểu đúng nhà giáo dục Têrêsa, theo Chị từ kinh nghiệm trước tới việc khám phá ra “Lối Nhỏ”.
Chị Têrêsa xác nhận Chị không bỗng dưng khám phá ra Đường Lối Tin Tưởng và Yêu Thương. Chị đã dò dẫm, tìm kiếm; Chị đã đau khổ, đã cầu nguyện. Suốt đời, Têrêsa lúc nào cũng như luôn gắng sức. Chị đã hiến thân cho Đức Kitô không dè giữ và Chị trung thành với ơn Chúa trọn vẹn như Chị đã xác nhận với một trong các em tập sinh của Chị: “Đúng, từ ba tuổi, Chị đã không từ chối Chúa điều gì”. Không khi nào Chị vì yếu đuối mà không cố gắng. Dầu còn rất nhỏ, Bé Têrêsa đã hoàn toàn tự nguyện đáp ứng mọi đòi hỏi của Thiên Chúa, đáp ứng các đề nghị của Ngài: “Em luôn gắng sống như là em đã khấn (trọn lành hết sức). Mặt khác, em chẳng hiểu một tâm hồn yêu mến Chúa, một đan sĩ Cát Minh, có thể làm khác được, vì đó là bổn phận người được Chúa gọi”. Bé Têrêsa chưa làm được những việc mà Bé gọi là “hành động của các thánh”; nhưng suốt đời, từ tấm bé đến ngày cuối cùng, Têrêsa vẫn từng phút dâng Chúa Giêsu trót khả năng, “một tâm hồn nhỏ xíu chỉ thể dâng Chúa Nhân Hiền những gì nhỏ xíu”. Độc đáo trong các công trình và hy sinh của Người chính là tình yêu tinh tế không bỏ mất gì không dâng. Người đã nói: “Nếu ở đời này em đã không làm hết cách để Chúa vui, thì đến giờ chết, khi gặp Chúa Nhân Hiền rất tốt, muốn âu yếm em muôn đời, mà em hết còn có thể dâng hy sinh để chứng minh tình em... Em chắc không chịu nổi”. Vì thế Ngài đã làm hết sức. Vậy xin đừng làm biến nghĩa và giảm giá “Lối Nhỏ” chỉ vì phạm vi nghiên cứu những hy sinh bên ngoài hạn hẹp, vì không có những hành động phi thường và vì một vài kiểu nói của thánh Têrêsa. Ai nghiền ngẫm “Một Tâm Hồn” sẽ dễ dàng nhận ra những “gai nhọn” mà nhiệt tâm hái hoa hồng của Têrêsa che lấp chúng. Phải nói lên điều đó để đặt Đường Thơ Ấu vào môi trường mà thánh nữ muốn, nghĩa là đối lập với chủ trương yên tịnh biếng lười và tin tưởng ảo. Một em tập tu muốn chỉ Lối Nhỏ cho thân nhân và hằng hữu, Chị Giáo này đã trả lời không úp mở: “Ồ, khi giải thích, em phải lưu ý lắm, vì Lối Nhỏ của chúng ta, mà bị hiểu lầm, sẽ giống với thuyết Yên tịnh hoặc Thông thiên. Đừng tưởng đây là lối nghỉ ngơi”. Têrêsa không để như vậy được. Chính khi gắng chu toàn tất cả để vui lòng Chúa, Chị có kinh nghiệm lưỡng diện: tiêu cực và tích cực. Chị ngày càng nhìn nhận mình thiếu khả năng để hy sinh và làm tròn những gì Chúa muốn. Đồng thời, Chị nghiệm thấy tác động thần linh làm được trong Chị chuyện vượt khả năng đó. Hẳn từ nhỏ, Bé Têrêsa cũng khiêm tốn. Tuy thế, tuy tuỳ thuộc ý Chúa, từ lâu Bé đã cảm thấy thật căng thẳng do những ước vọng cao cả mà thực hiện hằng ngày quá nghèo nàn. Kinh nghiệm yếu hèn này thật đau đớn đối với Chị cũng như với mỗi người chúng ta. Chỉ cần theo dõi đường đời Chị đủ thấy Têrêsa đã phải đau đớn thật nhiều vì thấy mình yếu đuối: thương tật do các chết của thân mẫu (Bé mới 4 tuổi rưỡi), do Chị Pauline (người Mẹ thứ hai “phũ phàng” ra đi vào Cát Minh, do nỗi sợ thầm kín rằng mình nói dối khi kể việc khỏi bệnh lạ lùng ngày 13.5.1883, bệnh bối rối kinh khủng suốt mười bảy tháng, chiến đấu vô vọng với tính mẫm cảm và thói dễ khóc nhè tới mười bốn tuổi. Cứ nhớ rằng Chị đồng thời chịu tất cả những khổ tâm trên, sẽ dễ ước lượng Chị đau khổ chừng nào; nhưng cũng nên hiểu rằng đau khổ này giúp Chị khiêm tốn hơn. Qua mỗi đau khổ vì thất bại hoặc lo ngại, Têrêsa đau khổ nhận mình là hư vô, nhưng Thiên Chúa không để Chị đau đớn vô ích hoặc liên tục. Rồi khi nhận ra duy mình Chúa giải thoát Chị khỏi tất cả những gian lao đó, Chị được nhận chân sâu sắc này: Sau cùng, chính Chúa thực hiện điều chúng ta biết Ngài muốn nơi chúng ta, mà một mình chúng ta cố gắng cũng không sao đạt. Ân lộc đêm Giáng sinh 1886 đặc biệt sinh hoa trái và trấn an: “Việc con gắng mười năm không đạt, Giêsu làm trong tích tắc, vì Ngài hài lòng về thiện chí, mà con chẳng bao giờ thiếu. Thoáng một cái, Chúa Nhân Từ đưa con ra khỏi cái vòng lẩn quẩn, mà con đã quay quắt hoài không thể thoát ra”. Từ lúc đó hơn bao giờ hết, Người tin vững ở Chúa toàn năng khi mình yếu đuối. Tuy thế, Người còn phải đau khổ nhiều nữa để biết được thế nào là mình trọn thuộc về Đức Kitô, vì mình đã được Ngài đặt vững trong lòng tin tưởng và bình an bất biến. Cả khi đã vào Cát Minh, những lo ngại và xao xuyến vẫn còn gặm nhấm Người. . Người kể: “Ngày ấy, lo lắng trong lòng em đủ loại”. Mãi tới năm 1891, sau ba năm sống đời tu, nhờ cha Alexis, Chị mới “hiểu được một cách tuyệt vời”. Vị giáo sĩ này cho Chị biết những lỗi lầm Chị lo ngại đó “chẳng làm phiền Thiên Chúa Nhân Hiền”. Lời đáp như âm vang từ thẳm sâu lòng Chị, tấm lòng “như con thuyền với hai cánh buồm no gió tin tưởng và yêu thương, đã từng cuốn lôi, mà nó đã không dám lao theo”. Được Thiên Chúa hướng dẫn như thế, từ đau khổ qua đau khổ, từ chướng ngại qua chướng ngại, Têrêsa lúc này lao mình hẳn vào tin tưởng, mà lối đi vừa khai thông cho Chị. Từ nay, ai ngăn cản Chị nên “thánh lớn” như Chị muốn. “Được yêu thì không những nó tiến, nó bay”. Nhưng đâu phải mọi chuyện đã dễ dàng, đâu phải cứ tin tưởng là vạn sự đổi thay. Những hàng viết trong tháng 6 năm 1897 đưa ta vào giữa khó khăn đó. “Thưa Mẹ, Mẹ biết con lúc nào cũng muốn nên thánh, nhưng tội nghiệp, mỗi khi so mình với các thánh, con nhận thấy cách biệt giữa các ngài và con như giữa những ngọn núi vươn tới trời mây và hạt cát vô danh chìm dưới chân bộ hành”. Nhận thức khá đúng mà ít khích lệ này, mỗi người chúng ta cũng có lúc gặp. Vậy mà Têrêsa không nản, không đấu trang vô vọng. Chị không tin rằng tập nhân đức thì Chị sẽ nên thánh. Chị cũng không tin rằng ơn thánh sẽ làm tất cả bổ túc, chẳng cần gì Chị. Nắm vững đức tin và ngoan cố, Chị tìm các nên thánh khi Chị vẫn là Chị: Nhỏ bé, bất toàn và thiếu nghị lực. “Em muốn tìm cách lên trời bằng một lối nhỏ thật thẳng, thật ngắn, một lối nhỏ hoàn toàn mới... Em, em còn muốn gặp thang máy đưa em thẳng đến Giêsu, vì em quá nhỏ, sao lên được những bậc thang trọn lành...”. Tin tưởng ở Đấng “không khi nào gieo ước muốn mà Ngài không thể thực hiện”. Têrêsa hướng về Ngài và nghiêng mình trên Thánh Kinh, đọc những lời này từ miệng Minh Triết hằng hữu: “Ai thật nhỏ bé, hãy đến với Ta”. Chị hồi hộp. Lời mời quá rõ. Chúa không đợi những em bé lớn lên mới săn sóc. Ngài mời chúng cứ nhỏ bé như thế mà đến với Ngài. “Thế là con đã đến, đoán rằng mình đã đạt mục tiêu, và lạy Chúa, con muốn biết Chúa làm gì cho em bé đáp lời Ngài mời gọi, nên con tiếp tục tìm kiếm và con đã gặp đây: Như người mẹ âu yếm con mình, Ta sẽ an ủi các con, Ta sẽ bồng các con trên lòng, Và ru các con trên gối của Ta. Têrêsa đã thấy: Không những các trẻ nhỏ có thể tới toàn thiện, mà còn được chính Thiên Chúa gánh chịu cho chúng, Ngài hoàn thành tất cả trong dịu ngọt và từ bi. “A! Chưa hề có lời âu yếm hơn, hoà hợp hơn đến làm tươi mát hồn em. Thang máy nhắc em lên tới trời, chính là đôi tay Ngài, Giêsu ơi!” Vậy đó, Thiên Chúa là Tất Cả cho những người bé nhỏ. Ngài là đích điểm duy nhất; Ngài cũng là đường, là thang máy thần thánh cho họ. Họ chỉ cần để Ngài hành động và thuận theo tác động của Ngài. Têrêsa đã nghiệm ra hành động thần thánh; Chị biết mình không thể tự hy sinh. Phải để Chúa hoạt động trong mình và tin tưởng buông mình vào hoạt động của Ngài. Đây cũng là bước đường tâm linh mà quá ít người chịu làm. Điểm độc đáo của Têrêsa còn hơn thế. Chị có tất cả những táo bạo của em bé biết mình được yêu, Chị còn tế nhị và có một luận lý phân toả. Chị biết Thiên Chúa có thể làm tất cả trong tâm hồn Chị. Qua Thánh Kinh, Chị đoán Ngài muốn làm tất cả trong tâm hồn những người bé mọn; thế là Chị quyết định không những để Thiên Chúa hành động, mà còn thúc đẩy Ngài hành động trong Chị, cho Chị và qua Chị, và hoạt động như thế mãi hoài. Chị định thực hiện phương án đó cách nào? Một là cứ nhỏ bé hoài Têrêsa không sao đạt ý nguyện được, nhưng Chị biết Đức Giêsu có thể. Thế là Chị tuyên bố không úp mở rằng Chị MUỐN cứ nhỏ bé hoài, Chị muốn chẳng bao giờ có thể làm thánh, để Thiên Chúa làm tròn cho Chị. Chị bảo: “Để đạt, em đâu cần lớn; trái lại, em phải nhỏ, phải càng ngày càng nhỏ”. “Ngay trong các gia đình nghèo, người ta cũng thoả mãn mọi nhu cầu cho em bé, nhưng khi nó vừa lớn lên, người cha hết muốn nuôi nữa, nên bảo nó: Bây giờ thì làm việc đi, con có thể tự lo được rồi. Chính để khỏi nghe lời đó mà con không muốn lớn, vì cảm thấy mình không thể tự kiếm sống, cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Vậy, con cứ nhỏ bé mãi hoài thôi...”. Chí tính làm thế để bắt Thiên Chúa tự hạ xuống cõi hư vô của Chị. Khi đó, chỉ khi đó trong đời, Têrêsa mới cảm nghiệm được ý vị sự hèn yếu của mình; Chị tình tứ ở lì trong “cõi hư vô” thụ tạo. Túng thiếu là niềm vui, là kế sinh nhai của Chị. Chị dùng nó như cái mồi cho Toàn Năng linh thánh. Têrêsa vẫn cứ nhỏ bé, mà đâu có chịu bỏ những tham vọng nên thánh. Trái lại nữa! Tự nguyện và vui vẻ chấp nhận túng thiếu, Chị đã tìm ra phương pháp duy nhất để thực hiện những ước muốn vô biên: Phương pháp làm cho chính Đấng đã gieo ước vọng trong lòng Chị lại đích thân thực hiện. Bằng cách chịu mình bất toàn và khốn nạn, để duy mình Thiên Chúa là toàn thiện là sức mạnh, là thánh đức trong Chị, Têrêsa tới được nơi mong muốn là “Đỉnh núi Tình yêu”, mà còn tới đó mau lẹ hơn dùng bất cứ đường lối nào. Chị đã thực sự khám phá ra cho Chị và cho chúng ta một Lối Nhỏ “thật ngắn” dẫn tới Lòng Chúa, và mất ít thời gian hơn mọi thứ thang của con người. Đó là số phận đáng thèm của những người thật nhỏ bé: Người lớn có nhiều phương pháp phức tạp để nên hoặc gắng nên toàn thiện. Nhưng em bé chỉ có một phương pháp, nhưng không thể sai lầm, là chính Thiên Chúa duy nhất. Thứ hai là Hiến Thân cho Tình Yêu. Thế là Têrêsa chấp nhận thân phận nhỏ bé và luôn luôn trình lên Chúa, như một lý do để Ngài hành động trong Chị và cho Chị. Chị còn một tiến trình nữa: Hiến thân cho Tình yêu nhân hậu. Tại sao? Thưa vì trong tác phẩm Isaia cũng như toàn Tin Mừng, Tình Yêu biểu lộ đặc biệt hoạt động trong các người bé nhỏ, Tình Yêu mà Chị thấy nghiêng mình trên họ, luôn bao bọc họ. Chị cũng nóng lòng muốn toàn hiến cho Ngài. Nhưng khi khám phá ra bí quyết của mình, Têrêsa cũng táo bạo khám phá ra bí mật của Đức Giêsu, lòng khát mong “để tràn những làn sóng âu yếm vô biên đang bị kiềm toả trong Ngài” cho biết bao tâm hồn nhỏ bé, túng nghèo khả năng phàm nhân, do đó rộng mở cho Ngài hoạt động. Thấy Tình Yêu thần thánh nóng khát tràn ra như thế, và hiểu được phần mình có thể thông dự, Têrêsa cũng ước vọng vô biên; đó là từng phút theo tác động yêu thương, là luôn đón nhận được dòng thánh thiêng bất xả. Chị hiến thân “để sống trong tác động trọn yêu”. Chị năn nỉ Chúa “không ngừng thâu nhận” Chị. Chị mong đồng hoá với Ngài tới độ chia sớt bản thể Ngài. “Em nài xin Giêsu thu hút em vào trong những ngọn lửa tình yêu Ngài, hiệp nhất em với Ngài tới độ Ngài sống và hoạt động trong em”. Chị muốn không phải huỷ diệt, mà muốn Chúa vì yêu thương thâu nhận tất cả tính chất phàm nhân của Chị. Rồi khi cuộc sống về chiều, nghe Mẹ Agnès nói rằng Chị hẳn đã phải chiến đấu nhiều mới đạt mức toàn thiện như hiện thấy. Têrêsa đáp bằng giọng đặc biệt: “Ồ, không phải vậy đâu”. Trong một lời than đó, Người đã toát lược cả bí quyết và tham vọng tâm linh của mình. Tất nhiên, trong cuộc sống, Người đã cố gắng, nhưng chỉ MỘT cố gắng: Hiệp nhất với Đức Kitô, chỉ chờ đợi ở Ngài tất cả. Chính từ cố gắng duy nhất ấy, phát sinh trọn nghị lực, thành quả của Têrêsa, vì cố gắng không bao giờ xông thẳng vào trở ngại, cố gắng chỉ tập trung vào Giêsu cái nhìn tin tưởng. Thay vì bận tâm nên thánh, gắng nên thánh, Têrêsa tập trung vào Thiên Chúa. Người hoàn toàn nhu thuận, chỉ lo giữ lòng mình luôn luôn rộng mở đón Chúa. Hành động nhảy vào Tình Yêu, cố gắng tuyệt đối hướng thần này, quyết tâm này đã cho Thiên Chúa đích thân đảm trách hoạt động của Têrêsa và vượt cả ước mơ của Chị, vì “chính Ngài trở nên nhân đức và sự thánh thiện của Người”. Vì bí quyết của Chị đã không sai lầm, nên “tất cả ước vọng của Chị đều đã được thực hiện”.
Năm 1893, khi Têrêsa bắt tay vào nghề giáo dục, thì Lối Nhỏ của Người chưa được giải thích như vào năm cuối đời Người. Có thể nói rằng những nhiệm vụ mới, bắt buộc phải quan tâm hết sức, đòi hỏi Người nhắm cho đúng những khám phá tâm linh của mình, để chia sẻ tốt cho các em. Dầu sao, ngay từ khởi đầu sứ mạng của Người, ta thấy Têrêsa đã mang những trực cảm cơ bản của Người vào thực tiễn. Người không bỏ lơ điều gì trong khả năng của mình. Nhưng vì ý thức những yếu kém của mình, Người trông đợi ở một mình Chúa nghị lực để chu toàn bổn phận. Hơn thế, Chị còn ước mong chính Chúa làm việc và làm qua Chị. Têrêsa nghiêm chỉnh đảm trách. Ý thức sự quan trọng của sứ vụ, Chị cẩn thận thi hành, như “cây cọ nhỏ mà Giêsu đã chọn để vẽ ảnh Ngài trong các tâm hồn”. Có thể thêm ở đây một mẩu tâm sự khác. Cùng thời gian đó, Mẹ Angès xin Têrêsa làm chị tinh thần cho một thừa sai tương lai. Chị cũng trung thành như thế: “Em hiểu những nhiệm vụ em đảm nhận, nên em bắt đầu gắng tăng gấp lòng nhiệt thành”. Thực tế thì Chị đã cảnh giác rất mực rồi. “Từ khi em có chỗ trong vòng tay Giêsu, em như người lính canh địch từ trên chòi cao nhất của lâu đời. Không gì qua mắt em được... Không khi nào em học thói người làm công, thấy sói đến liền bỏ đàn chiên mà trốn; em sẵn sàng hiến sinh mạng vì họ”. Suốt ngày, Chị chỉ săn sóc để “dẫn họ vào ăn dưới bóng cây, chỉ cho họ những cỏ tốt và bổ ích nhất, vạch cho họ thấy rõ những loại hoa rực rỡ mà chẳng bao giờ nên đụng tới, mà chỉ nên chà đạp”. Chị Giáo hy sinh trọn vẹn cho chức vụ, với một cố gắng liên tục tới độ các em cho là “nghiêm chỉnh”. Chị vẫn làm việc cho các em lợi ích, dầu tự nhiên Chị khó chịu: “Trước kia, mỗi khi thấy một nữ tu làm gì, con không thích hoặc con cho là lỗi luật, con tự nhủ: ‘A, giá tôi có thể cho chị biết tôi nghĩ gì, cho chị thấy chị sai lỗi, tôi hả lắm!’ Vào nghề được một chút, thì thưa Mẹ, con đoan chắc với Mẹ rằng con đã hoàn toàn thay cảm nghĩ. Khi gặp thấy một nữ tu có hành động coi như bất toàn, con thở ra nhẹ nhàng và tự nhủ: Thật may! Đó không phải là tập sinh, mình không buộc phải sửa lỗi”. Cảm thất thật ngại sửa lỗi các em, nên Têrêsa thấy bào chữa được cho ngôn sứ Jonas, khi ông này trốn Thiên Chúa để khỏi đi loan báo tàn phá Ninivê. Nhưng nhiệt tâm Têrêsa không cho Chị lui bước: “Hơn một lần rồi, con nghe nói: ‘Nếu Chị muốn thành công nơi em, Chị phải dịu với em hơn. Làm hung với em không được gì đâu’. Nhưng con hiểu rằng chẳng ai làm thẩm phán cho mình mà công minh được”. Cuốn “Những lời khuyên và hoài niệm” trình bày Chị luôn phấn đấu. Chị chỉnh một tập sinh rên mệt, muốn tìm được an ủi của Chúa Kitô vì mình mới làm một việc nhân đức hoặc bác ái. Chị dạy các em đừng quá mê say công việc, đừng băn khoăn trong phục vụ, mà phải luôn luôn hành động với tinh thần thanh thoát... Có những lúc Chị an ủi, khích lệ, chỉ cho biết cách tiếp cận ô nhục, hoặc lợi dụng những phân tâm. Chị viết kinh cầu xin ơn này, ơn khác. Những đoản văn Chị soạn ấy cho thấy Chị vừa đầy lòng thương mến, vừa thấu hiểu tâm lý và tâm linh. Dầu chưa đọc xong, Chị sẵn sàng cho một nữ tu mượn cuốn sách mà Chị nghĩ có thể giúp ích. Chị dùng tất cả ánh sáng nội tâm của mình để giúp ích chị em. Sơ phác Têrêsa làm việc như thể đủ để chúng ta khỏi tưởng Người đang chìm trong chiêm niệm mơ hồ, cô liêu và mây phủ. Tình Yêu Chúa đưa Chị vào phục vụ chị em một cách rất thực tế, rất cụ thể, cách này đòi Chị dấn thân từng phút. Hành động, Chị không rối, không vội; nhưng mạnh mẽ và bình thản. Không lúc nào thấy Chị băn khoăn hoặc căng thẳng, trượt khỏi trầm tịnh và suy tư. Đồng hành với một tập sinh, Chị chống việc hoàn toàn tự chủ; khi gặp nguy hiểm trầm trọng như thiêu sống vì bất cẩn, Người vẫn bình thản, đầy tin tưởng, lặng lẽ tự hiến cho Chúa, và bất động. Chính vì Chị không ảo tưởng về ý nghĩa hoặc tầm vóc hoạt động của mình. Ở đây Người khỏi cần chờ kinh nghiệm về sự bất túc của mình; Người tự lượng giá quả đủ trong việc nên thánh rồi. Tự mình không kham nổi mình, thì rõ ràng mình càng không thể sửa dạy người khác. Không những mình thiếu thốn, các em đã thiếu thốn, còn ham dự do nữa. Têrêsa tự nhiên ý thức mình bị hạn chế nhiều. “Vừa khi được phép đi vào cung thánh các tâm hồn, em nhận thấy ngay rằng nhiệm vụ vượt quá sức em”. Người giải thích: “Đứng xa mà nhìn, người ta tưởng làm ngon lành việc giúp ích các tâm hồn, cho họ yêu mến Chúa hơn, đào tạo họ theo những quan điểm và tư tưởng cá nhân mình. Ở gần thì, trái lại... người ta cảm thấy nếu không có Chúa trợ giúp, làm ích cũng như làm mặt trời chiếu dọi ban đêm, không sao được”. Têrêsa nhận ra rằng, một khi mình trao trách nhiệm này cho Chúa, Ngài sẽ hoàn thành công việc thánh thiêng. Chị hiểu rõ Chị có thể và chỉ là một dụng cụ - tuy không bất động - nên phải mềm mỏng và ngoan thảo đối với Ngài. Thế là khỏi có chút ngần ngại nào. Têrêsa bắt tay khám phá và hơn bao giờ hết, lao vào “thang máy của Chị”. Chị viết: “Như một Bé Thơ, em đặt mình vào vòng tay Chúa Nhân Hiền và... em thưa Ngài: ‘Chúa ơi, con quá nhỏ bé, sao nuôi được các con Chúa, nếu Chúa muốn dùng con để cho mỗi người lương thực thích hợp, thì hãy trao đầy tay con đi; con sẽ không rời vòng tay Chúa, không quay đầu lại, con sẽ trao báu vật cho tâm hồn nào tới xin thực phẩm”. Thực dễ dàng tìm ra thực tế dưới những hình ảnh đó. Trong nhiệm vụ Giáo Tập, Têrêsa cũng giữ nguyên chiến lược như trong việc nên thánh; Chị chỉ nhằm hiệp nhất với Chúa, chấp nhận trọn vẹn mình bất lực, sống nhỏ bé và phó thác cho Tình Yêu để chính Ngài phải hành động. “Từ lúc con hiểu rằng mình chẳng thể tự mình làm gì, nhiệm vụ Mẹ trao cho con thấy không khó nữa, con cảm thấy chỉ cần con ngày càng hiệp nhất với Giêsu, còn mọi thứ khác con sẽ được dư thừa. Thực ra, chưa bao giờ hy vọng lừa dối con. Chúa Nhân Hiền vui lòng trao đầy tay con mỗi khi cần nuôi tâm hồn các em con”. Không cho các em gì nếu không phải hồng ân Chúa, mà cho thoải mái những gì mình nhận từ Ngài, không bóp méo hay bỏ phí... ta thấy đó như là tham vọng của Têrêsa đang nép mình trong vòng tay Chúa. Tuy nhiên, lúc dần đương đầu với bổn phận, chỉ lo hiệp nhất nội tâm với Ngài, chúng ta thấy Chị không có ý loại trừ hành động cá nhân và trực tiếp. Đồng thời Chị không tách rời hành động thần thánh khỏi những phương pháp phàm nhân mà Chị rất thành thạo. Nhưng Chị dùng mà hoàn toàn tuỳ thuộc Chúa và chỉ dùng khi thấy như Chúa muốn dùng để tự thông hiệp với các tâm hồn. Thái độ chính đáng của Chị ở đó. Chị đã tìm được quân bình hoàn toàn giữa tâm trạng thiên thần, phớt qua tất cả những gì trần tục, chỉ tin ở giải pháp của Trời... với chủ trương duy hoạt, chỉ tin ở sức làm việc của mình. Vì Chúa muốn Chị trở thành người đồng hành số một của tập sinh, Têrêsa có bổn phận rất thực tế và rất cụ thể phải làm cho các em. Chị không nghĩ rằng Chúa làm tất cả, khỏi cần mình, nhưng Chị tin rằng: dù mình nhỏ bé hoặc chính vì mình nhỏ bé, Chúa đã chọn mình, Ngài phải cho mình dồi dào ánh sáng và những ân thánh cần thiết để chu toàn trách nhiệm. Vì thế Chị muốn trung thành lãnh nhận được tất cả để giúp ích các em tập sinh. Thực tế, Chị làm gì để được thế? Chị đã nói: Chị chẳng làm gì hơn hiệp nhất thường xuyên với Đức Kitô. Chị không nói hoặc bắt tay vào việc gì không tiếp xúc với Ngài, không hỏi tới Đức Mẹ. Một em tập sinh dẫn chứng: “Mình hỏi gì Chị, Chị cũng hồi tâm một chút rồi mới đáp”. ... Sau đó, dầu được linh hứng hay không, Chị cũng tin mình được Chúa giúp. Lệ thuộc Chúa như thế, giúp Têrêsa chìm sâu trong khiêm tốn: “Phần cây cọ vẽ, nó đâu có thể tự hào về kiệt tác do nó. Nó biết rằng các nghệ sĩ không bối rối, mà còn giỡn với những khó khăn và đôi khi dùng những dụng cụ yếu và bất toàn”. Nhưng đồng thời, vì tin rằng Thiên Chúa giúp, nên Chị hoàn toàn cương quyết: “Con trao báu vật của Ngài cho tâm hồn nào tới xin con thực phẩm. Nếu em thấy ngon, con biết rằng em phải biết ơn Ngài, chứ không phải biết ơn con. Trái lại, nếu em than và thấy con cho thực phẩm đắng, con vẫn không mất bình an. Con sẽ gắng khuyên em rằng thực phẩm ấy do Ngài ban và con đâu dám tìm thức ăn khác cho em”. Đối với nhà giáo dục, tính cương quyết này đâu phải không quan trọng bằng khiêm tốn. Chính Têrêsa chỉ ra rằng công việc thành và Chị bình an là nhờ đức tính ấy. Dầu sao, vì Chúa đã chọn Chị làm Giáo tập, nên Ngài thực hiện một phần việc qua Chị, Chị vẫn không quên rằng còn bao phần thầm kín hơn, quan trọng hơn, Ngài muốn làm không cần nhờ Chị trung gian. Chị không tưởng mình là cần thiết. Chị biết tự xoá nhoà và cầu nguyện cho các em, xin Giêsu trực tiếp làm việc trong các em. Chúng ta nghe Chị khẳng định với một em tập sinh: “Tới giờ cầu nguyện rồi, Chị không còn giờ an ủi em. Mặt khác, Chị biết rõ rằng Chị có vất vả cũng vô ích. Lúc này, Chúa Nhân Hiền muốn em một mình đau khổ”. Nhưng không phải Chị bỏ mặc người em, Chị biết cầu nguyện cho em “xin Chúa an ủi em, biến đổi tâm hồn em và cho em biết giá trị của đau khổ”. Chị được nhận lời tức khắc. Sau này, thời Têrêsa nằm liệt, câu chuyện giống như thế tái diễn. Chính em tập tu này, khi được Chúa biến đổi nội tâm nhờ Chị cầu nguyện rồi, trở lại thưa Chị: “Chị đừng lo về em nữa, em hết khổ rồi. Em cảm thấy Chị cầu cho em và những đau khổ của Chị xin được nhiều ơn lắm”. Têrêsa đáp: “Ồ, Chị thật vui, Giêsu thật tử tế khi nghe Chị cầu cho em như thế”. Vậy thì bí quyết của Têrêsa không phải là trút bỏ trách nhiệm tế nhị của mình, mà chính là không bao giờ coi như công việc phàm nhân và cá nhân: trút bỏ thì càng bận tâm hơn, trái lại, phục vụ để bám sát vào Chúa hơn. Chị muốn đảm nhận tất cả các bổn phận của Chị, nhưng chỉ quan tâm tới Tình Yêu. Chị đã anh dũng lướt thắng mọi dao động trong ngoài, Chị biến công việc mình thành của Đức Giêsu. Cà ngàn khó khăn thường ngày, không bao giờ Chị tìm cách một mình giải quyết trên bình diện con người; nhưng, giữ tiếp xúc thường xuyên với Chúa, Chị trao Chúa làm tròn mọi việc qua Chị và thay Chị. Già giặn với kinh nghiệm này và chắc chắn thành công theo phương pháp của mình, vài ngày trước khi qua đời, Têrêsa có thể khẳng định rằng: “Người ta có thể cứ Nhỏ Bé, dầu đảm nhận những trách nhiệm dễ sợ nhất, dầu sống rất thọ. Dầu em có chết vào tuổi tám mươi, dầu đã ở Trung Quốc hoặc đâu đâu, em cảm thấy mình vẫn Nhỏ Bé như bây giờ”. Đã rõ trong nhiệm vụ đào tạo tâm linh, Têrêsa nương tựa vào thánh ý Chúa mà Người đọc thấy nơi tập sinh. Chị làm việc để giải thoát, kiện cường, và để ý Chúa thành toàn vì đạt mục tiêu. Bây giờ chúng ta nắm lại trực cảm đã hướng dẫn giáo huấn của Chị.
Để thanh tẩy lòng khát mong Thiên Chúa của các em, mục tiêu thứ nhất của Têrêsa là cho họ xác tín rằng “Những gì không là Thiên Chúa thì chỉ là hư vô”. Tiếp theo, Người gắng cho các em nền tảng vững chắc của đời sống tâm linh, là Tin ở Tình Yêu. Sau chót, để đưa ước muốn tới thành tựu, Người dạy các em hiến thân cho Tình Yêu trong giây phút hiện tại. Chính Tin Mừng chẳng theo trật tự đó sao? Chúng ta chẳng sao chú ý quá được việc thánh Têrêsa tìm lại hạt giống Tin Mừng và nguồn lực mới: “Hãy san phẳng những con đường của Thiên Chúa và sửa những lối đi của Ngài cho thẳng”. Mở đầu công việc thần thánh, vị Tẩy Giả đã la lên thế. “Hãy tin tôi”. Suốt đời, Đức Giêsu yêu cầu điều này, tức là ‘Hãy tin Tình Yêu quá lớn của Thiên Chúa hoàn toàn bộc lộ trong con người tôi’. Sau cùng là lời trối dặn siêu tuyệt cho những đồ đệ trung thành nhất, đang quây quanh Ngài trước khi từ trần: “Hãy ở lại Tình Yêu của tôi”. Têrêsa, tuy không lần lượt, vì cuộc sống không cắt khúc, nhưng đồng thời dựa trên ba điểm, mà chúng ta có thể nói rằng: Ba điểm cố định giáo huấn của Chị: Từ khước vì yêu, tin ở Tình Yêu, hiến thân cho Tình Yêu. Giáo huấn này đưa dẫn con người từ khi bước vào đường lối Chúa tới ngày đầy đặn tầm vóc tâm linh.
Được đào tạo nhiều hay ít, tự thoát để miệt mài với cầu nguyện nhiều hay ít, nếu đúng thực có ơn gọi, thì con người sống đời tu trì đã tha thiết MUỐN Thiên Chúa. Ước muốn này là dấu chỉ đẹp nhất của ơn gọi đích thực; gần như đó là yếu tố duy nhất đủ để cho một người vào tập viện, mà thiếu ước muốn này, thì có ở tập viện cũng là tầm-gởi. Ước muốn này đặc biệt hướng về hiệp nhất yêu thương với Thiên Chúa, trong ơn gọi chiêm niệm, hướng tới phục vụ tình yêu Chúa trong ơn gọi sống đời hoạt động. Nhưng đó là yếu tố không thể thay thế trong cả hai cảnh sống. Vì bản chất hoạt lực của ơn thánh thì đồng nhất trong mọi người đã được thanh tẩy. Kitô hữu nào cũng là người con đang trên đường về với CHA; tâm hồn thánh tẩy nào cũng hướng về Kitô Hôn Phu. Ơn gọi tu trì chỉ là tiếng Thiên Chúa gọi, nó làm cho ước muốn Thiên Chúa thành tha thiết, tuyệt đối, thắng vượt tất cả. Chúa đòi người đáp lời Ngài để mình bị cuốn vào dòng thác từ Ngài phát sinh và cuốn về Ngài. Tựa trên ước muốn Chúa là tự trên chính Thiên Chúa. Thánh Catarina của Sienna đã dạy rằng: Trong ta, chỉ có ước muốn là khả năng đạt Thiên Chúa, vì ước muốn có thể trương nở vô hạn. Bằng gương mẫu thật hấp dẫn của mình, Têrêsa Lisieux làm sáng tỏ giáo huấn thật chắc chắn, mà đã bị quên lãng này. Nơi Chị, ước muốn rõ ràng là rất quan trọng. Khi phục vụ các tâm hồn cũng như trong cuộc sống của chính mình, Chị không ngại dùng giáo thuyết này làm điểm tựa. Chị nói: “Em luôn dựa trên một châm ngôn của Gioan Thánh Giá: ‘Chúa Nhân Hiền không ban ước muốn mà Ngài không thể thực hiện’” Người không để một vị giải tội làm tắt ước muốn yêu đương bùng cháy của Người khi vị này cho là táo bạo. Người khẳng định:”Chúa làm con ước mong điều Chúa muốn cho con”. Mướn mười bốn tuổi, Têrêsa đã được một kinh nghiệm giáo dục, kinh nghiệm này phát giác cho Chị trọn vẹn để thấy Ước Muốn là rất quan trọng. Người ta nhờ Chị trông coi hai em bé giùm ít ngày. Chị muốn tìm một minh triết từ “hai con gái nhỏ của Chị... Chị nói với hai bé về những phần thưởng đời đời”. Cách đó cho Chị thấy một điều lạ lùng đến nỗi hoài niệm còn khiến Chị kinh ngạc: “Bí tích Thánh Tẩy phải đặt sâu trong các tâm hồn mầm các nhân đức hướng thần, những nhân đức này biểu lộ ngay từ trẻ thơ, và chỉ hy vọng hồng phúc mai ngày cũng đủ cho người ta chấp nhận hy sinh”. Ngày đó Têrêsa chỉ lo cho mấy em bé. Nhưng Chị sẽ không thay đổi phương pháp khi đứng trước những người lớn được gọi nên trọn vẹn cho tình yêu. Như đã dựa trên ước muốn phần thưởng tương lai, bây giờ thêm sức mạnh và hợp lý hơn, Chị dựa trên ước muốn Thiên Chúa, Đấng tự hiến mình. Chị nắm lấy các tập sinh, cũng như đã nắm lấy Giêsu, “bằng trái tim”. Chị nói thêm, chứng tỏ Chị coi hành xử này là cốt yếu: “A! Biết bao tâm hồn đã nên thánh, nếu họ được hướng dẫn tốt!” Nhưng ở đầu đời tu, ước muốn Thiên Chúa thường chưa đủ mạnh và trong sáng. Người tập tu mới lìa thế giới. Rất có thể em còn kín đáo vấn vương, hoặc còn bị co quắp bực bội trong cuộc sống tâm linh. Việc đầu tiên của Chị Giáo là dọn chỗ đàng hoàng, giải thoát ước muốn Thiên Chúa khỏi những gì còn bóp nghẹt nó, để nó thành động cơ duy nhất cho mọi hành động. Để làm việc này, Têrêsa kiên trì đặt các em của Chị đối diện với thực tại Thiên Chúa và công trình sáng tạo của Ngài, xin các em đừng ngưng bước giữa đường, mà phải dứt khoát chọn Tất Cả hoặc chọn Hư Vô. Chị nhắc lại: “Chỉ có Giêsu, ngoài Ngài là KHÔNG”. Chắc chắn “Thiên Chúa ưu tiên tuyệt đối” này cũng là nền tảng tinh thần của Chị. Ý thức thực nghiệm của một tâm hồn, cảm giác về tuyệt đối và cái khát đơn giản từ đó phát sinh, làm nên những yếu tố không thể thay thế của ơn gọi Cát Minh. Nhưng nếu Chúa muốn sứ điệp Têrêsa, gốc rễ Cát Minh, phổ biến trong thời đại này, phải chăng vì sứ điệp ấy đáp ứng nhu cầu đặc biệt của con người hôm nay và âm vang nội quan sâu thẳm mà chính Chúa thông ban cho con người về thực tại tuyệt đối của Hiện Hữu Yêu Thương? Kinh nghiệm thường ngày của những người gần gũi giới trẻ có vẻ chứng minh như thế. Ta thấy trong các bạn trẻ vừa ham muốn vô độ những sự vật trần gian, vừa khắc khoải nhớ mong một cái gì khác và, nơi những em thiên tài còn có khả năng ghê gớm để đi thẳng tới cùng, có nhu cầu liều mạng. Nhưng họ cũng cần thí nghiệm để tin và nhất là để có thể dấn thân. Đức Kitô không ngại hiến thân cho yêu sách của họ. Chính vì thế, ta có thể gặp thấy các tập sinh còn đầy khuyết điểm không chối cãi được và cũng đầy hồng ân không chối cãi được. Họ có thể nói như thánh Gioan tông đồ: “Tay chúng tôi đã sờ được Lời của sự sống...”. Dầu có bao nhiêu khuyết điểm, họ cũng đầy ước muốn và những khả năng từ bỏ tất cả vì Người đang lôi cuốn họ.
“Chúa là Tinh Thần. Đâu có Tinh Thần Thiên Chúa, ở đó có tự do”. Chân lý mà Têrêsa rất thân thương này chìm dưới những lời giáo huấn của Chị, mà các em tập sinh còn ghi lại được. Thực ra, tự do và từ khước là hai yêu sách chính biểu hiện qua biết bao đường nét của chúng ta, đã là những âm chính trong giáo huấn của Chị. Nguyên tắc nào giúp Chị xây dựng và bổ túc cho tự do và từ khước, nếu không phải nguyên tắc này: Không là Giêsu thì chỉ là Hư vô; phải thoát ra, để nhường chỗ cho một mình Giêsu. Êm đềm, nhưng kiên trì bất tức, thiếu nữ Cát Minh này gạt bỏ hết những gì có vẻ vướng chân các tập sinh của Cô. Thấy em nào băn khoăn chuyện gì đó, Cô bảo: “Cái đó đâu phải Thiên Chúa”. Cô bảo em khác quá hăng say, quá tự nhiên tìm kiếm: “Không nên làm như thế”. Luôn luôn Cô dặn: “Phải trông, phải mong muốn Chúa, phải để Ngài làm”. Nhưng thật khó cho các em hiểu họ cần tự do tinh thần biết bao! Phải khôn ngoan đến mấy để giúp họ phân biệt được phản diện của lơ là. Phải cương quyết bao nhiêu để cho họ thắng bản thân! Têrêsa nồng nhiệt muốn cho các em biết tước sạch nội tâm, tự do tinh thần, vì chúng tạo vùng trời không trở ngại cho lòng thành thực ước muốn Thiên Chúa. Chính Chị đã kinh nghiệm trong đời mình rằng những đức tính đó cần thiết làm sao. Để theo đường lối Thiên Chúa vạch cho mình, Têrêsa đã phải trút bỏ đa số tư tưởng cố hữu, cũng như những thói quen thịnh hành quanh mình mà không bởi Luật Dòng. Đã có thời Chị tin là tốt, nhưng rồi có ngày Chị phải nhìn nhận rằng những tập tục đó không thuộc luồng ân sủng. Têrêsa biết phải có những điều kiện nào của khiêm tốn, phục tùng và trung tín thì tự do tinh thần mới không là ảo ảnh, nên chúng ta thấy Chị cương quyết duy trì cho các em tập sinh. Dầu việc giải phóng này đòi can đảm lắm, Têrêsa vẫn không ngại làm cho xong, vì Chị biết thành quả của nó. Têrêsa không chấp nhận điều gì đi ngược, hoặc làm mệt hoặc gây rối các em cách vô ích. Chị muốn làm cho các em chỉ còn ước muốn Chúa cách tinh tuyền, chỉ đơn giản nhìn Chúa. Chị đặt nguyên tắc: “Không nên dùng những phương pháp phức tạp cho những tâm hồn đơn sơ”. Chị xua đuổi tất cả những gì gây bất an và căng thẳng trong mọi lãnh vực, để có thể hiệp nhất với Thiên Chúa, cầu nguyện, tìm kiếm toàn thiện và hy sinh nữa. Têrêsa luôn giới thiệu Thiên Chúa và thúc đẩy tới Ngài, không dừng lại ở những phương pháp. Duy Thiên Chúa là mục tiêu, là Tất Cả; các phương pháp chỉ có giá trị và chỉ quan trọng trong mức độ Chúa muốn. Một tập sinh phàn nàn vì không chú ý đủ để minh bạch hướng lòng mình về Thiên Chúa và không biết thưa Chúa làm sao về những gì mình muốn. Chị an ủi: “Đường hướng này không cần thiết cho một tâm hồn đã hoàn toàn phó thác cho Chúa. Tập trung tinh thần hẳn là tốt, nhưng từ từ, vì miễn cưỡng thì không tôn vinh Chúa Nhân Hiền. Ngài biết tất cả những tư tưởng đẹp và những kiểu nói yêu thương mà chúng ta muốn tìm ra để tặng Ngài, và Ngài vui với những ước muốn của chúng ta; Ngài không phải là CHA chúng ta và ta không phải những người CON nhỏ xíu của Ngài sao?” Ngài cũng không làm kinh nguyện thành phức tạp. Têrêsa coi cầu nguyện là “một công vụ yêu thương” “đó là việc cao cả, việc siêu nhiên, mở rộng tâm tư và hiệp nhất với Giêsu”. Đưa về yếu tính như thế, cầu nguyện thật là đơn giản, vì tất cả đều có thể trở thành yêu thương. Một em tập sinh phàn nàn vì những tâm tư phiêu lãng, Chị Giáo cho em thấy nên lợi dụng để cầu cho những người em đang bận tâm đó. Em khác lo ngại vì tưởng tượng của mình không cương toả. Têrêsa đáp: “Chị đón nhận tất cả vì yêu Chúa Nhân Hiền, mọi thứ tư tưởng lang thang cứ việc tới”. Khi người ta xin cầu theo một ý chỉ nào? - Cứ tự do, “Em không thể thưa rằng ‘Chúa ơi, con cầu cho Tổ quốc’ vv... Chúa nhân từ quá biết Ngài phải làm gì; em chỉ dâng Chúa tất cả để Ngài vui lòng. Em thấy mệt khi phải thưa rằng: Kinh này cho Phêrô, kinh này cho Phaolô... Có Chị nào xin thì em chỉ cầu thoáng qua, rồi thôi”. Tự do trong cầu nguyện, tự do cả trong việc tìm tới toàn thiện. Têrêsa muốn giải thoát các em khỏi những quan niệm chật hẹp của họ. Một lần Mẹ Agnès có ý kiến về một số thực hành sùng kính hoặc toàn thiện, tham khảo nhiều tác giả tu đức, mà họ làm nản. Têrêsa đáp: “Em chẳng thấy được gì trong các sách, ngoại trừ sách Tin Mừng. Cuốn này là đủ. Em sung sướng nghe lời này của Giêsu, lời nói cho em tất cả những gì em cần làm: ‘Hãy học tôi, người hiền và khiêm tốn thật lòng’, thế là em bình an”. Têrêsa luôn đấu tranh chống những thực hành - hoặc đúng hơn - chống ấn tượng rằng thánh thiện là do thực hành việc này, việc nọ, do tập được đức này, đức kia. Vì khi đó người ta bám vào những thực tập, chớ không bám vào Thiên Chúa. Như thế, dầu không cảm thấy, người ta cũng chậm bước rất nhiều trên đường về Chúa, Ngài là Duy Nhất cần thiết. Như thế, người ta làm yếu nhược ước muốn Chỉ Một Giêsu, phương tiện duy nhất hữu hiệu để tới Thiên Chúa. Trong cả việc hãm mình, Chị Giáo cũng dạy phải tự do. Têrêsa ưa chuộng một cái nhìn thoải mái lên Thiên Chúa hơn là những gì gò ép trái tim và chiếm đoạt tâm trí. Vì - có cần phải nói không? - không phải để cho các em tập sinh muốn hoặc đòi hỏi tự do thế nào cũng được; cũng không phải tự do chọn điều ít hoàn hảo hơn hoặc dễ chịu hơn. Đây là tự do tinh thần chân chính, tự do theo Thánh Thần, mà chính Chị đã giải thích như sau: “Vì tất cả mọi người đã theo tác động của Thánh Thần nên Chúa đã nói: Hãy nói với người công chính rằng mọi sự đều tốt. Vâng, tất cả đều tốt khi người ta chỉ tìm Thánh Ý”. Mà đâu là thánh ý Chúa, nếu không phải thiết lập giữa Ngài và con người cuộc tiếp xúc thường tồn, cuộc trao đổi tình yêu thực sự? Vậy mục đích mà Têrêsa theo đuổi chính là đào tạo và bảo trì những con người trong trạng thái nội tâm đơn giản và thanh thoát, để họ có thể chạy theo sức hút thần thánh mà không gì ngăn chặn, và cho họ một phạm vi ước muốn để Chúa gieo mầm quý trong họ. Có thể nói rằng Têrêsa liệu cho chính Thiên Chúa tự do lôi cuốn các em tập sinh của Chị một cách mãnh liệt nhất, hoạt động trong họ, không có gì trăng trói họ ngoài chính Ngài. Mặt khác, Chị Giáo tôn trọng Thiên Chúa và công cuộc khôn ngoan của Tình Yêu đến độ Chị muốn giải thoát cả trí óc: “Các em không cần hiểu Chúa Nhân Lành muốn làm gì trong các em, các em bé nhỏ quá mà!” Một ít lời trích ở trên chứng tỏ rằng không nên hiểu lầm thánh Têrêsa về ý nghĩa đích thực của lòng trung thành trong những sự nhỏ mọn. Lòng trung thành này không hệ ở chồng chất lên những thực hành hoặc những việc tôn sùng có tính giam hãm. Trung thành cũng không ở sự quá tỉ mỉ, làm cạn mất sinh lực. Giúp các tập sinh đạt tự do nội tâm, Têrêsa muốn dọn chỗ cho hơi thở của Thánh Thần. Đòi hỏi khiêm tốn trung thành hằng ngày, Chị dạy họ để tâm vào chữ mà chỉ một mình Thánh Thần làm sinh động được.
Muốn dọn chỗ cho Chúa, không phải bót nghẹt trái tim, nhưng không phải không cần từ chối những hài lòng tự nhiên. Chính vì thế, song song với tự do nội tâm và để tự do nội tâm khỏi lầm lẫn, Têrêsa đòi các em thật cảnh giác hy sinh. Chị không muốn bẻ gẫy họ, chà đạp nhân vị họ. Khuyến khích họ từ khước, Chị chỉ muốn họ rộng mở đón Chúa, cho phép Tình Yêu triển nơ không giới hạn trong họ. Nhất định Chị Giáo trẻ này rất nghiêm chỉnh đòi hỏi hy sinh, Chị muốn đào tạo các em thật vững ở đây, Chị muốn họ chết đối với tất cả những gì không là Thiên Chúa, nên Chị chỉnh ngay những thiếu sót khi chợt thấy. Chị còn cứng tay sửa phạt nữa, nhưng Chị chỉ làm bằng cách chỉ cho họ thấy diện tích cực: Tình Yêu. Một em tập tu kể: “Một ngày lễ, tại nhà cơm, em bị bỏ quên, không được phần tráng miệng như các chị em khác. Mà em khoái thứ tráng miệng này. Sau khi ăn, em đi tìm Chị Têrêsa và thấy đứng cạnh Chị là chính bạn ngồi cạnh em nên em thẳng thắn cho chị bạn biết đã thiếu quan tâm. Nghe em nói rồi, Chị Têrêsa bắt em đi xin phần tráng miệng từ chị phục vụ; em năn nỉ Chị đừng làm nhục em như thế, Chị nghiêm khắc đáp: ‘Đây là hình phạt cho em. Em không xứng với những hy sinh mà Chúa Nhân Hiền xin em: Chính Ngài đã cho phép quên, em lại đòi, làm Ngài thất vọng’. Em có thể nói rằng suốt đời em, bài học đó vẫn sinh hoa quả”. Ngồi cạnh Chị trong phòng ăn là cô em họ Marie. Chị thường phải nhắc cho cô bé này nhìn xuống: “Em sẽ chẳng bao giờ biết nhìn xuống, nếu em không ghi trên chuỗi thực ập của em mỗi khi em thiếu sót. Chỉ có một phương pháp... Vì yêu Chúa, em không muốn nhìn xuống sao? Cứ nghĩ rằng em làm một hành động yêu thương khi em không ngước mắt lên... Cứ nghĩ rằng em cứu một linh hồn”. Chúng ta quá biết Têrêsa trung thành với các thói quen nho nhỏ, miễn là chúng vẫn hữu ích khi nhấn mạnh tới. Nhưng phải ghi nhận điều quan trọng là Chị không lưu ý vì thói quen bên ngoài, mà chính vì trực tiếp từ lòng Chị. Thực thế, một thói tục chỉ còn hình thức thôi, thì giá trị gì? Không gì hết! Giao tiếp với Thiên Chúa là tất cả. Vậy thì sự khước từ mà Têrêsa đòi hỏi chỉ là để có cái nhìn nội tâm hoàn toàn hướng về Thiên Chúa. Tình Yêu cháy trong Chị, vì thế cái nhìn có vẻ thật sắc bén, thật trung tín trong cả những chuyện nhỏ, thật to lớn và đồng thời thật ít gò bó. Khởi đầu chưa được thế. Nhờ kinh nghiệm, Têrêsa biết rằng phải có thời gian và đào tạo cứng mới tới được mức tập trung thoải mái này. Không đòi toàn hảo ngay, nhưng Chị luôn đề cao lý do sâu xa khiến Chị đòi hỏi. Bởi “hiệp nhất với Chúa là một trong những điều căn dặn đặc biệt của Chị”, nên Chị sửa lỗi một em tập tu khi em hát thánh vịnh cách lơ đãng, một em khác khi ngồi không chỉnh; sau đó, Chị buồn buồn bảo: “... Ồ, thật hiếm thấy những nữ tu không coi thường chuyện ngày chuyện khác vì tự nhủ ‘ai bắt phải như thế’... Không ai bảo đây là lỗi lớn, nhưng Chị mong được như thế... Thật ít có người làm hết sức trong mọi chuyện!” Không lúc nào trong ngày người ta được quyền quên Chúa. Têrêsa kêu gọi Chị Marie de l’Eucharistie quên mình ngay cả trong lúc giải trí: “Em đi giải trí để làm gì? Tìm vui vẻ, dễ chịu? Phải tới đó cũng như tới những hoạt động khác của cộng đoàn. Em vẫn phải trung thành chăm chỉ như thường. Ra khỏi nhà cơm, em phải tới ngay chỗ giải trí, em không được phép ngưng ở chuyện gì, dầu một phút để nói vài câu với một chị... Cả khi giải trí cũng luyện tập nhân đức, hãy dễ thương với mọi người, dù đang ở cạnh ai; vui vì đức tính, chứ không vì bốc đồng. Đang buồn, em hãy tự quên mình đi, mà tỏ ra vui vẻ. Cứ như là giờ chơi thì chỉ tìm vui vẻ, không nhớ tưởng gì tới đức độ và không quan tâm tới Thiên Chúa nữa! Không, đó cũng là một tập luyện sống cộng đoàn như bất cứ việc nào khác. Đừng tha hoá, phải đức độ khi giải trí. Em phải hy sinh: Không kè kè bên những chị em yêu thích. “Đúng, bao giờ em cũng phải là em riêng biệt. Vui trong giải trí thì tốt thôi, nhưng có cách vui của nữ tu, làm khuây khoả người khác. Đôi lúc em vui như điên, em tin rằng thế là làm các chị vui. Phải, họ cười với những trò điên của em, nhưng như thế đâu có xây dựng... Phải bác ái, phải tiên liệu... Trường hợp nào cũng nên phục vụ: một em tập sinh phải luôn phục vụ quá một chút. Vậy mới dễ thương!” Têrêsa đòi các tập sinh để hết tâm vào hành động của họ, vì “không yêu, thì tất cả là không” (thánh Têrêsa Avila). Có thế ít người thấy rằng Chị luôn hoạt động để nâng cao trái tim họ. Chuyện khước từ này không dễ dàng gì! Với tâm lý tinh tế, Chị chú trọng nhất là giúp các em sống vượt trên ngàn tỉ mỉ, mà thành quan trọng trong cuộc sống đều đều và đóng khung. Trong cuộc sống như thế, đôi khi những nhỏ mọn bất ngờ nhất cũng tạo thành cơn lốc trong ly nước, đuổi theo chuyện tầm phào cũng dám nhận chìm lòng ước mong Thiên Chúa. Têrêsa khẩn trương, thí dụ: “đày” các em khỏi vùng nhu cầu thấp kém, rút lui khỏi những gì mình thấy quá thiết thân. Cái đó không phải Chúa! Điều đó không được làm em thoáng quên Ngài! “Em quá vong thân trong hoạt động, em quá băn khoăn về công việc... Lúc này em có quan tâm về những gì đang diễn ra trong các đan viện Cát Minh khác không? Các nữ tu đó bận bịu không? Công việc của họ có ngăn cản việc cầu nguyện của em không? Chứ sao! Em cũng phải tự lưu đày khỏi nhu cầu cá nhân của em, nên ý thức dùng trọn thời gian dành cho công việc, nhưng trái tim thanh thoát. Chỉ nên làm việc một tay, còn tay kia bảo vệ tâm hồn khỏi xao lãng, khỏi trở ngại hiệp nhất với Chúa Nhân Hiền”. Têrêsa còn xuống sâu hơn nữa. Không bằng lòng chỉ kêu gọi các em bỏ những thái độ và bận bịu bên ngoài, Chị còn muốn nhất là các em thoát những cảm giác thanh lọc sai và quá phàm tục. Chị biết công việc này tinh tế, mà cần thiết. Bao nhiêu có thể, phải thanh tẩy đáy lòng và dọn sạch nơi Chúa đến. Có lẽ không phạm vi nào Têrêsa vừa dịu ngọt vừa cương quyết bằng phạm vi này. Cương quyết, không khi nào Chị bỏ qua một vị kỷ mà không chỉnh, dầu nó ngoắt ngoéo và tinh vi đến mấy. Dịu dàng, Chị không trực chiến, không chọc tức, nhưng Chị giải thích, dẫn dụ, đơn giản trình bày tâm tư của Chị để thức tỉnh ước muốn yêu thương. Khi cô em họ, quá lo cho mình, tìm Chị để giãi bày vài thắc mắc, Têrêsa đáp: “Chị xin em, hãy bớt nghĩ về mình, hãy chú tâm yêu Chúa Nhân Hiền và tự buông em ra. Tất cả những bối rối của em đều do tìm mình quá đáng. Bao buồn phiền, khổ sở của em đều về chính em. Thật luẩn quẩn. Đây, Chị xin em: quên mình đi, hãy để tâm cứu các linh hồn!” Chị kêu gọi hy sinh về tình cảm, về phán đoán, về tự ái, và hy sinh không giới hạn, vì Chị chắc chắn rằng nếu chúng ta quá để tâm về mình, nếu chúng ta theo đuổi mọi hướng chiều của mình, chúng ta không có khả năng tìm Chúa và sống với Ngài như Ngài muốn. Têrêsa tập sinh đã bảo chị Marthe, quá lưu luyến Mẹ Bề trên, rằng: “Nếu Chị cứ phải cư xử như vậy hoài, chẳng thà Chị cứ ở giữa đời!” Chỉ mỉm cười trước những tự hào của các em và Chị biết dùng lời chỉnh, để các em thấy tính lệ thuộc của thụ tạo và vô biên của Thiên Chúa. Có ngày một em tập tu hãnh diện vì mình đã chỉnh đốn được tư tưởng, Têrêsa kêu lên: “A! Em đang ‘tiếp thị’ rồi... Em thì em ớn nghề này lắm; em thích cùng Chúa nhắc lại rằng Con không tìm vinh danh Con, người nào khác sẽ lo chuyện đó”. Thấy các em lo hoặc buồn vì người khác phê bình, Chị tỏ ra thông cảm, nhưng vẫn sắc bén: “Phải như thế. Người ta phải thấy các em luôn luôn khuyết điểm, mới lợi ích cho các em... Người ta bảo các em chẳng có đức tính gì, thì các em có mất gì đâu, có nghèo thêm đâu. Chính họ mới mất niềm vui nội tâm, vì không gì êm ngọt bằng nghĩ người bên cạnh tốt”. “Khi chúng ta bị hiểu lầm và phê phán xấu, tự vệ làm gì, giải thích làm gì? Cho qua, đừng nói gì. Để mặc người phê phán, mà mình không nói gì, thì thật thú vị! Trong Tin Mừng, ta đâu thấy thánh Mađalêna giãi bày gì kh chị bị tố cáo vì ngồi miết bên chân Giêsu”. “Phải vươn lên trên những gì các chị nói, những gì các chị làm... Phải ở trong đan viện này như ta chỉ được ở hai ngày thôi”. Bận tâm vô bổ, kiếm tìm phù phiếm, những thứ đó không phải Thiên Chúa, mà Thiên Chúa mới quan trọng! Qua mọi hình sắc, Têrêsa hướng các em thẳng về một mình Ngài. Nhưng Chị cũng không kém lưu ý hướng dẫn các em về tất cả những hoạt động trực thuộc phạm vi tâm linh. Ở đây, và đặc biệt ở đây, Chị muốn ta chỉ liên kết với Chúa, nên khước từ phải rất thành tâm. Một em thích vào “sa mạc” để hưởng chút nghỉ ngơi, Chị bảo: “Em vào để nghỉ ngơi à? Chị thì Chị vào để trọn hiến hơn nữa cho Chúa Nhân Hiền... Em nên nhớ lời rất đúng này của sách Gương Chúa Giêsu ‘khi tự tìm mình, người ta liền ngưng yêu mến’”. Một em khác hỏi Chị về linh hướng. Chị đáp: “Chị nghĩ phải thật lưu ý đừng tự tìm mình, vì như thế trái tim mình sẽ bị thương và có thể nói rằng ‘Bọn lính canh đã giật áo choàng của em và đả thương em... phải qua đó một lát rồi em mới gặp Người Yêu’. Em cho rằng: Nếu tâm hồn khiêm tốn hỏi những người gác cho biết Người Yêu ở đâu, hẳn họ chỉ nơi Người ở, nhưng vì muốn làm dáng với họ, cô đã bị lôi thôi, cô đã mất sự đơn giản của lòng mình!” Têrêsa không ngần ngại lột trần dáng vẻ thánh thiện nhất khi các em tự tìm mình. Một em muốn nhớ từng đoạn Thánh Kinh đã được nghe Chị bảo: “A! Em làm giàu, em có tài sản! Dựa vào đó là dựa vào sắt nung, chỉ để lại vết sẹo nhỏ! Không cần dựa vào gì hết, kể cả điều gì có thể giúp mình thêm đạo đức. ‘Không gì hết’ chính là sự thật, là không ước muốn, không cảm thấy vui. Khi đó sẽ sung sướng. Sách Gương Chúa Giêsu than: Tìm đâu ra người hoàn toàn thoát cái bỉ ổi tự tìm mình!” Chị cũng mang ý chí tinh tuyền này khi lãnh nhận các bí tích: “Em hiến thân cho Giêsu không như người muốn Ngài đến thăm để mình được an ủi, trái lại, chỉ để làm vui Đấng tự hiến cho em”. Chị khuyên các em cũng hành động như thế: Hiệp lễ vì Giêsu thích hiến thân, không vì muốn mình hưởng êm ngọt nào. “Giêsu trong nhà tạm đó rõ ràng vì em, vì một mình em thôi, Ngài tha thiết muốn vào trong trái tim em”. “Đừng buồn gì vì không cảm thấy an ủi nào khi hiệp lễ. Đây là một thanh luyện mình phải chịu bằng yêu thương”. Tự khước từ đến cả những tương quan với Thiên Chúa như thế, Têrêsa chuẩn bị cho các em của Người cuộc sống tâm linh chính thực. Chị chỉ nói đến tự khước trong tương quan hiệp nhất với Thiên Chúa; nhưng phải hiểu đó là điều kiện không thể thiếu để Chúa hoạt động, mà hoạt động Ngài là duy nhất quan trọng. Chị viết: “Chúa chúng ta, Thượng Khách của lòng ta, biết rõ (tự ta, ta chẳng thể làm gì), Ngài đến trong ta chỉ để tìm một chỗ, một lều trống trơn giữa bãi chiến trần gian. Ngài chỉ đòi có thể”, chính Ngài đảm nhận những gì con thiếu. Giáo huấn như thế có âm vang tuyệt đối. Thực thế, Têrêsa đòi các em khổ luyện nội tâm gắt gao hơn hết, gắt hơn bất cứ việc đền tội nào trên thân xác. Dạy họ “tất cả thụ tạo hư vô” để nhường chỗ cho “tự hữu thực tại”. Tập họ quen sống một mình dưới cặp mắt Thiên Chúa, Têrêsa đến tận gốc rễ, việc đào sâu này mang kết quả hiển nhiên. Đào tạo như thế sẽ in đậm nét suốt đời. Bám chặt vào Đấng không thay đổi, các tập sinh sẽ không cảm thấy chao đảo ngày mà họ phải rời bỏ tập viện để vĩnh viễn dấn thân, họ thấy tự nguyện hơn. Cuộc sống và có thể cả những nhiệm vụ mới không đẩy họ cuốn theo chiều gió giáo thuyết hoặc tự co cụm lại, nhưng hùng dũng, ý thức minh bạch về chân giá trị vạn vật, họ có khả năng chỉ hành động vì yêu. Công việc mới sẽ ảnh hưởng gì trên họ? Bề trên mới và có khi cả đan viện mới sẽ ảnh hưởng gì trên họ? (Đây là những hy sinh to lớn thường làm trật đường cả người nữ tu vững vàng). Với ước muốn tự khước từ không giới hạn, với xác tín rằng những phương tiện tốt nhất tự chúng cũng chẳng là gì, họ sẽ trải qua tất cả, vẫn giản đơn và vững mạnh kiếm tìm một mình Thiên Chúa. Đào tạo phương phú, cho con người sức đẩy khởi hành thật mạnh và thật tinh khiết đủ để suốt đường đời vẫn trung thành theo Chúa và đi tới cùng sứ mạng. Đào tạo cao quý chuẩn bị họ cho tất cả những cuộc tấn công của Tình Yêu và những đòi hỏi của tình yêu mai đây. Bởi đây mới chỉ là lối vào đời sống tâm linh.
Têrêsa mãi hoài xin các em nhận định tính tuyệt đối của Thiên Chúa và tính tương đối của muôn vật, để thúc đẩy trong các em ước muốn chân thành yêu Giêsu và chỉ sống cho một mình Ngài. Chị Giáo hẳn rất thân tín rằng không có ước muốn kiên vững và tinh tuyền này thì chẳng làm được gì, mà đã định hướng quảng đại này rồi thì tất cả thực sự bắt đầu. Đã tới lúc phải trao cho các em một Điểm tựa vững chắc, một Dinh Dưỡng thường hằng cho ước muốn này. Vì khi chúng ta đã có những cố gắng cần thiết tự khước từ, thì Thiên Chúa nhập cuộc để thanh luyện chúng ta. Têrêsa thấy các em tập sinh gặp đủ loại khó khăn, qua đó, Chị phái hướng dẫn các em tới hiệp nhất yêu thương vững bền và dứt khoát. Đây là lúc Tin ở tình yêu chủ trì.
Têrêsa miệt mài phát giác Gương mặt Tình Yêu đang nghiêng xuống trên Chị. Chị đã muốn nhận ra Người để luôn mãi yêu Người hơn và làm cho Người được yêu như Người đáng yêu. Tuy Chị không viết sách bàn về tình yêu, nhưng nhận thức của Chị lấp lánh trên những trang Chị viết với những dòng rung động. Qua các thư tín và bản thảo của Chị, thật dễ nhận ra tình yêu mà Chị ôm ấp. Tình yêu đích thực Trước hết, đây là tình yêu của người với người. Thiên Chúa tự Ngài thực tế hơn, cá vị hơn tất cả các nhân vật chúng ta có thể tưởng tượng trong vũ trụ này. Các nhân vật thụ tạo chỉ thành danh nhờ chút xíu giống Đấng tạo thành mình. Vậy mà Thiên Chúa cá vị siêu tuyệt này lại chính là Tình Yêu, Ngài thân mật với chúng ta hơn chính chúng ta! Thành quả của những ân lộc thần bí đầu tiên là mạc khải cho ta Thiên Chúa như một người yêu chúng ta. Đáng tiếc là cuộc sống thường nhật dễ làm tan bay nhận thức quý báu này! Têrêsa đã nồng nhiệt bám vào Thiên Chúa và chúng ta thấy Người sống lòng bên lòng liên lỉ với Chúa: “Em nghĩ rằng không hề có ba phút qua mà em không tưởng tới Chúa Nhân Hiền”. Chị biết rằng Thiên Chúa là Tạo Hoá và CHA, Ngài an nghỉ trong sâu thẳm hiện hữu của Ngài, mà là Đấng Toàn Năng, vô cùng Minh Triết và Tốt Lành, Ngài đặt tất cả quyền năng, Minh Triết và Tốt Lành phục vụ cho tình Ngài yêu Chị. Chị nói về chính Chị: “Dầu chuyện gì đến cho nó, nó chỉ muốn nhìn như bàn tay dịu hiền của Giêsu”. Đối với Têrêsa, Thiên Chúa là Giêsu và Giêsu là Tất Cả của Chị. Chị sống với Ngài hết sức thân mật. Trong âm thầm cầu nguyện, Chị ưa gọi Ngài bằng “Anh” [“TU”]. Chị hiệp nhất vớ thời thơ ấu và nhất là với đau khổ của Ngài. Sống cuộc sống mà Ngài thông ban cho Chị, Chị đi vào cộng đồng thần thánh. Người ta đã nhận ra, trong những năm cuối đời Người, thánh nữ có tâm hướng rất mạnh về Ba Ngôi. Ta cảm thấy Chị sống với những quan hệ riêng biệt với từng Ngôi trong Tam Vị. Đức tin của Chị khi đó thật mãnh liệt nên Chị có thể hiệp nhất cao độ hết sức mơ ước ở đời: “Em không thấy rõ sau khi chết em được gì hơn bây giờ... Em sẽ nhìn thấy Chúa Nhân Hiền, vâng đúng! Còn ở với Ngài, thì ngay trên mặt đất này, em đang ở với Ngài rồi đây”. Nếu Têrêsa yêu Chúa như Tri Kỷ đang sống và rất gần, thì Chị cũng ý thức rằng mình được yêu một cách rất đặc biệt. Trái tìm thần thánh đó đập riêng cho Chị: “Em, em không nhìn Thánh Tâm như mọi người. Em tưởng rằng trái tim Lang Quân của em là của riêng em, như tim em là của riêng Ngài, và như thế em nói với Ngài trong cô tịch của đôi lòng, trong khi đợi ngày diện đối diện ngắm nhìn Ngài”. Những quan hệ giữa Giêsu và Têrêsa thật sống động, đượm tình đôi bên săn sóc Người Yêu, trân trọng hơn hết. “Giêsu của em, có thể chỉ là ảo tưởng, nhưng em thấy như Ngài không thể đổ đầy tình yêu cho lòng ai hơn cho lòng em... Em không thể tưởng có một đại dương yêu thương nào mênh mông hơn tình yêu Ngài tràn lan cho em chẳng cần em xứng hợp chút nào”. Tình yêu vô hạn Thiên Chúa vô biên chỉ thể yêu vô hạn. Những ân lộc Ngài ban thì khác nhau, nhưng tình yêu thúc đẩy Ngài ban ơn thì vẫn là một, vẫn là “sự êm dịu của tình yêu vô biên”. Mà cách tặng hoặc tặng phẩm quan trọng hơn? Một nhân vật có vẻ giàu hoặc nghèo, cao quý hoặc đê nhục trước mắt phàm nhân, Thiên Chúa vẫn yêu thương vô hạn. Têrêsa đinh ninh như thế. “Như mặt trời đồng thời chiếu soi những cây tùng và mỗi bông hoa nhỏ, như thể có mình nó trên mặt đất, Chúa cũng săn sóc riêng từng tâm hồn, như chẳng còn ai giống nó, nên... tất cả phù hợp với lợi ích của từng tâm hồn”. Vậy nên Têrêsa có thể chân thành nói với từng em rằng: “Giêsu dịu hiền yêu em hết lòng”. ... “Ồ, đúng, Giêsu yêu em”. Người còn phát biểu xác tín hơn: “Chúa Nhân Hiền yêu em và đối xử với em ưu ái... Em tưởng thánh Têrêsa đã được nhiều ân lộc hơn em sao?” Tình yêu vô điều kiện Không những vô hạn, tình yêu thần thánh còn tuyệt đối hiến dâng “dầu chúng ta chẳng xứng hợp gì”. Têrêsa nhìn nhận rằng “trong Chị, chẳng có gì đáng được Ngài để mắt tới”. Chị tự hỏi: Làm sao Thiên Chúa có thể yêu thương chúng ta? Ta có gì dâng tặng cho đáng thương? “Thắc mắc đầy huyền bí... Giêsu có lý gì để nói với chúng ta?... Lý của Ngài là vô lý...”. Không gì ép được Ngài yêu thọ tạo, ngoài lý do tự nguyện, vì Thiên Chúa không yêu kiểu phàm nhân. Con người yêu cái đáng yêu mình thấy nơi người kia, Thiên Chúa yêu cái mà Ngài đặt vào ta. Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ có cái này là chúng ta được Ngài yêu. Nhưng nếu tình yêu Ngài không tuỳ thuộc sự tầm thường cũng như những lầm lỗi của ta thì ta có thể bình tĩnh tin tưởng biết mấy! Ta hiện hữu là một huyền nhiệm, mà là huyền nhiệm của tình yêu, không nực cười sao khi lượng định tình yêu thần thánh bằng những quy củ phàm nhân? Tuy thế, còn một đặc tính nữa của tình yêu đã lôi cuốn Têrêsa hơn hết và toả sáng cả đời Chị. Tình yêu mà Têrêsa tin, và hướng dẫn các tâm hồn tới, có đặc tính hơn hết là Tình Từ Bi mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở chương sau. Tình yêu kêu gọi tình yêu “... Thế là ta yêu mến Thiên Chúa vì Ngài yêu ta trước”. Cũng như thánh Gioan (1Ga 4,19), Têrêsa kết luận thế. Dò tìm trái tim Chúa, Têrêsa khám phá ra yêu sách cơ bản của Tình Yêu. Chị được ân lộc tuyệt vời là hiểu “Giêsu muốn được yêu biết mấy”. Vì Chị đã tin ở Tình Yêu thần thánh đúng bản chất Tình Yêu này, nên Chị càng tin - theo kiểu nói của chúng ta - Chúa khát mong tình yêu của Chị và của mỗi thụ tạo mà vì họ Ngài đã tự hiến. “Giêsu khát tình yêu”. “Chính Ngài mong được chúng ta yêu, Ngài năn nỉ... Có thể nói Ngài chịu tuỳ lòng ta. Ngài không muốn nhận gì mà chúng ta không vui lòng trao tặng, mà tặng chút xíu gì thì Ngài cũng coi như quý lắm...”. Têrêsa chắc chắn mình được yêu, chính là mình được thèm khát vô cùng, Chị biết Giêsu đuổi theo tình Chị, Ngài đòi cho được trọn trái tim Chị. Lời mời mọc nóng bỏng của Tình Yêu vô biên và vô lý này là ánh sáng cuộc đời Têrêsa, cũng tạo thành phương pháp đào tạo hữu hiệu nhất của Chị. Có thể nói rằng Chị tin ở Tình Yêu, thế thôi. Tin Tình Yêu như suối nguồn cuộc sống, như phương pháp toàn thiện, như cây gậy đi đường. Tin Tình Yêu như mục tiêu duy nhất. Trên giường hấp hối, khi Chị nói lời tuyệt diệu này: “Em nói cả rồi... Chỉ Tình Yêu là đáng giá” thì hình như cũng chỉ có lời đó là đáng nghe. Xác tín này cũng thông truyền vào tất cả những ai đến gần Chị.
Giúp các tập sinh nhận biết Tình Yêu thần thánh như chính bản chất Tình Yêu này, Têrêsa muốn gợi được nơi các em thái độ thích ứng với hiểu biết. Đó là TIN Ở TÌNH YÊU. Vậy thì trong tâm tư thánh nữ, niềm tin này đóng vai trò gì và có những tính chất nào? Têrêsa chỉ vai trò cơ bản cuộc sống tâm linh cho niềm tin này. Không tin ở Tình Yêu, thì lòng ước muốn Thiên Chúa sẽ khô héo trong tâm hồn, như cây mọc trên đất cạn. Tin sao thì cuộc sống vậy. Nhưng niềm tin ở tình yêu, như Têrêsa diễn tả và cuộc sống tâm linh đòi hỏi, thì vô cùng súc tích và phong phú. Đầu óc chấp nhận những chân lý mạc khải thôi, chưa đủ; phải bằng trọn con người mình tin tình yêu Chúa, tin những đường lối Ngài và những lời Ngài hứa. Phân tích gần hơn, ta thấy thái độ mà Têrêsa đòi hỏi nơi các em không phải một tác động lẻ loi của một nhân đức thần phú lẻ loi tin, cậy, mến; nhưng tác động tin yêu bám chặt Thiên Chúa, chờ đợi tất cả ở Ngài, vì Ngài là Tình Yêu. Niềm tin yêu này - thái độ thiết yếu riêng của tuổi thơ tinh thần, đức tính đầy chất Tin Mừng - chính là một tác động đơn giản của tâm hồn. Nhưng nó phải TUYỆT ĐỐI, cũng như bất cứ đức tính nào mà Têrêsa đòi hỏi. Rõ ràng Chị Giáo muốn xây dựng cuộc sống tâm linh trên đức tin trần trụi, sống động và trọn vẹn. Điểm tựa chân chính và trường tồn của một tâm hồn thèm muốn Thiên Chúa chỉ có thể là niềm tin dựa trên một Thiên Chúa và tình bất biến của Ngài, niềm tin cũng thành bất biến như Ngài. Têrêsa rất biết Thiên Chúa đã cho các em bao nhiêu ngọt ngào, họ hưởng được vì cảm thấy Ngài hiện diện yêu thương. Nhưng Chị cũng biết Chúa tỏ ra rút lui khi Ngài muốn họ vững mạnh, mà chuyện này thường diễn ra ngay khi vừa bước vào trong nội cấm. Bằng kinh nghiệm, Chị biết nghệ thuật thần linh, Chị nương tựa vào những ân lộc đã qua, vào dấu tích mà những ân lộc này lưu lại khi hương vị chúng tan bay. Thánh Gioan đã nói: “Chúng ta đã nhìn biết tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta và chúng ta tin ở tình yêu này”. Những người đã nghe được tiếng thâm tình nhất Chúa Giêsu gọi đi theo Ngài, đều cảm nghiệm được tình yêu Ngài, và ước muốn đáp lời đã dẫn họ tới cuộc sống tu trì. Hôm nay, trong thanh luyện, ước muốn đó như chìm vào đêm tối. Tư tưởng về tính bao la của Thiên Chúa không đủ thắp sáng, mà còn như đè bẹp. Chắc gì Ngài đã gọi. Ý thức mình thiếu thốn đào rỗng thêm và lạc hướng. Những thời khắc mệt mỏi, chán ngán và mịt mù gia tăng. Việc nên toàn thiện mang màu ảo tưởng. Cầu nguyện có lẽ chỉ tốn giờ, hại sức. Đau khổ vo tròn bóp bẹp con người. Lúc đó Têrêsa dấn thân vào nhiệm vụ nâng đỡ không ngơi, giữ tâm trí các em trong tình thương thần thánh luôn hiện diện, vượt trên tất cả mùi vị thơm ngon hoặc chát đắng. Niềm tin của các em, đã một thời dựa trên cảm hứng về tình Chúa, từ này phải tập trung dựa vào những gì họ đã biết về tình yêu. Chị gia cố cho lâu đài tâm linh mà Chúa bắt đầu xây lên. Nhưng ân huệ đã được rất có thể giúp các em giữ được niềm tin tưởng, không nên để cảnh hạn hán hiện giờ làm chao đảo. Têrêsa muốn các em dùng cuộc thanh luyện này để đạt niềm tin và không cần cảm giác nữa. Một niềm tin như niềm tin của Chị thì chân lý là đủ. “Lối Nhỏ của em không đòi nhìn thấy gì hết”. “Ồ, không! Em không muốn nhìn thấy Chúa trên trần gian này. Tuy thế, em vẫn yêu Ngài! Em cũng rất yêu Đức Mẹ và các thánh, mà em cũng không mong nhìn thấy các Ngài” Chị còn khẳng định hơn: “Em không muốn thấy Chúa và các thánh, em muốn cứ ở trong đêm tối của đức tin hơn là những người khác muốn thấy và hiểu”. Têrêsa muốn cho các em xác tín rằng sau khi đã được biết bao ơn Chúa như thế, các em phải sóng vững tin ở Tình Yêu hơn là đòi hỏi những bằng chứng khả giác, chọn bản chất đời sống siêu nhiên hơn là những an ủi. “Thật dễ chịu khi phục vụ Chúa trong đêm tối và thử thách, chúng ta chỉ có đời này để sống đức tin”. Theo học Têrêsa, thì phải tin Chúa trong chính Chúa, ước muốn Chúa vì Chúa, không dừng lại với những gì kém Chúa. Chỉ có ước muốn như thế và niềm tin như thế mới thuộc bình diện thần thánh, Ngài là Tình Yêu vô biên. Đặt để con người trên tất cả những ấn tượng khả giác thì cũng vẫn còn là việc khá tiêu cực. Têrêsa không ngưng tại đó. Từ niềm tin trần trụi này, Chị muốn làm niềm tin sống động; miệt mài lột bỏ, Chị cũng làm việc dưỡng nuôi. Các em Chị đã vào lối đường Chúa bằng chân thành ước muốn yêu Ngài, họ phải xác tín rằng mọi chuyện đến với họ đều do tình yêu; không một biến cố nào, dầu bộ tịch suy thoái hay phản động, có thể ngăn trở tình yêu. Tất cả được trao tặng chúng ta như phương tiện đến với Ngài. “Chúng tôi tin rằng muôn sự đồng quy về lợi ích cho những người yêu Chúa, họ đã được kêu gọi theo phương án của Ngài”. Nếu các tập sinh đứng vững trong niềm tin này, toàn cuộc sống tâm linh họ được bảo đảm; thiếu niềm tin này, không có chân trời nào khác thất vọng, ảo tưởng hoặc tầm thường. “Tất cả là ân lộc”. Các tác giả linh hướng đều cho thấy điểm rất mực quan trọng ở đây, trong giờ quyết định của việc đào tạo. Nhưng không dễ gì làm cho một người vốn quen phán đoán theo giác quan, quen yêu thương dễ dãi, bỗng thấy mình giáp mặt ngay chân lý trần trụi, tách lìa tình cảm và bắt buộc xây dựng trong đêm tối! Vậy mà tài năng của Têrêsa đã điều hành ở đây thật vững. Nhưng những thanh luyện từ đâu ùa vào các tập sinh? Tại sao tối tăm theo liền ánh sáng? Vào mùa xuân cuộc sống tâm linh, các em đã nhận diện Tình Yêu đã yêu các em: Vậy bây giờ các em phải tự biết mình với thực chất của mình. Từ đó phát sinh mọi đau khổ. Tình Yêu đã tự chiếu sáng trên Ngài, giờ đây chiếu vào cảnh nghèo nàn các em. Không biết điều này trước, các em sẽ không chịu đựng nổi khi thấy mình khốn nạn. Khổ nhất là trước đây Ngài tự mạc khải huy hoàng, lúc này Ngài ẩn núp để hiện ra trắng trợn những đáy sâu vị kỷ mà họ rớt xuống. Mặc cho họ không thấy Tình Yêu nữa và tất cả công trình lâm nguy; họ hãy không ngừng dõi theo Ngài, ánh sáng bỗng bừng lên, soi rõ Tình Yêu Từ Ái. Đối với Têrêsa, đây là giáo huấn tuyệt vời.
Các em tập sinh phải qua cuộc khủng hoảng. Dự tính của Têrêsa là làm cho thời gian này ngắn nhất và lợi ích nhất. Do đó, thay vì chìm ngụp trong lý thuyết, Chị làm việc cụ thể. Những lời khuyên của Chị minh định và thực hành. Qua các thư và ký ức được bảo tồn, ta thấy phương pháp của Têrêsa rất hợp với những gì Chị nói về Tình Yêu: Nhìn cắm vào Ngài, đồng thời biến vui buồn thành yêu thương. Đó là hai diện tương trợ của một hoạt động duy nhất: Tin ở Tình Yêu. Thái độ thứ nhất quy kết trí óc và ý chí vào Thiên Chúa, có vẻ thích hợp nhất để nâng đỡ đời sống cầu nguyện, thì thái độ thứ hai tốt nhất để sử dụng thụ tạo phục vụ Thiên Chúa. Têrêsa sử dụng cả hai bình diện để vừa củng cố các em trong tin tưởng rằng mình được yêu, vừa chắc chắn rằng Chúa vui thích tình yêu của họ. Đơn giản hoá như thế là việc cần thiết trong giai đoạn tâm linh này, dù trước đây không cần. Không phải lúc nhấn mạnh cho các em về những khuyết điểm nữa, Thiên Chúa là đủ! Phải tránh phức tạp làm mệt các em vô ích. Têrêsa không phủ nhận những khốn nạn các em như ra nơi bản thân, nhưng Chị đặt chúng dưới ánh sáng đức tin, khẳng định rằng cảnh nghèo nàn của họ là một lý do nữa để nhìn Tình Yêu. Chị không phủ nhận họ đau khổ, cũng không bảo đau khổ nhẹ nhàng, nhưng Chị dạy họ yêu Đấng vì yêu mà gởi đau khổ cho họ. Sau cùng, Chị không phủ nhận những khuyết điểm hoặc cách sống của người bên cạnh có thể tạo buồn khổ; nhưng Chị dạy yêu người đó trong thực trạng vì nhìn Đức Kitô trong người và chứng tỏ mình yêu Ngài. 1. Cái nhìn đức tin về Tình Yêu Trong lá thư tuyệt vời gởi Chị Marie, Têrêsa đã tượng trưng cuộc sống đức tin theo quan niệm của Chị; đó là “truyện con chim nhỏ”. Trong truyện, Chị diễn tả thái độ sâu lắng của tâm hồn bám chắc vào niềm tin ở tình yêu và buông theo khát vọng yêu thương dạt dào. “Dù quá nhỏ bé, em dám nhìn cắm vào Mặt Trời thần thánh, Mặt Trời tình yêu, nên tim em cảm thấy trong nó tất cả những khát vọng của phượng hoàng”. Rồi theo cách của Chị, Chị nhìn qua những trở ngại mà các tâm hồn thường gặp trên đường bay về Chúa: Chị thắng vượt tất cả nhờ kiên trì nhìn cắm vào Tình Yêu. Dầu yếu đuối thể chất gây buồn ngủ khi cầu nguyện, dầu bất lực và khốn nạn tinh thần ngăn mình lên với Chúa, dầu những bất trung kéo mình xa Ngài, dầu mọi thứ xao xuyến, thử thách, dụ dỗ, tối tăm trong lãnh vực tâm linh; chỉ có một việc phải làm, như Chị dạy, là tin rằng tất cả không ngăn cản tình yêu vẫn là tình yêu, không bỏ nhìn Ngài, hoặc vừa ý thức rằng mình rời Ngài thì trở lại ngay, hy vọng tất cả ở Tình Yêu này, không gì có thể chống lại Ngài và chúng ta nhận được mọi thứ từ Ngài. “Liều lĩnh táo bạo, (con chim nhỏ) nó muốn nhìn cắm vào Mặt Trời thần thánh của nó; nó chẳng sợ gì gió mưa; mà nếu mây mù che khuất tinh tú tình yêu của nó, con chim nhỏ không đổi hướng, nó biết rằng bên kia mây mù, mặt trời vẫn sáng, ánh mặt trời không thiếu một giây”. Muốn đức tin tự dưỡng và cường tráng qua tất cả những chướng ngại, và bám thật chắc vào Tình Yêu thần thánh mênh mông, Têrêsa muốn củng cố hiện hữu trên tất cả những biến đổi nội tâm và ngoại diện. 2. Biến tất cả thành tình yêu Têrêsa quá biết con người thường hướng cả về mình, thì “ra khỏi mình” là chuyện khó lắm. Chị vẫn gắng thực tế đưa tình yêu vào trung tâm những toan tính của các em, để giúp họ quên mình. Chị bảo họ đại khái thế này: Hãy tin Tình Yêu thương trong bất cứ phiền hà, nặng nhọc, khổ sở nào, vì nguồn gốc chúng đều do Tình Yêu vô hạn mà Giêsu dành cho chúng ta. Cũng phải tin rằng trong chính lúc này, trong thanh luyện, nghi ngờ và cám dỗ, Giêsu đang trông chờ em yêu Ngài. Để cho em gặp gì, Ngài cũng chỉ muốn tặng em cơ hội chứng minh tình yêu mới hơn, lớn hơn và tinh tuyền hơn. Têrêsa muốn các em xác tín rằng Chúa đánh giá cao vô cùng lới đáp của họ và họ đẹp lòng Người Yêu chính khi họ gặp khó khăn, khi khám phá ra mình không sao yêu được, khi nghi ngại vì tình mình quá bạc nhược, câm nín và mong manh. Đêm tối và thử thách làm mình thấy mình yếu kém, chính là lúc thuận lợi để yêu; phải làm lợi ngay, như những “kẻ hà tiện”. Khi tập sinh hoặc các chị em gặp khuyết điểm hoặc yếu kém mà đến than với Chị, Têrêsa khuyến khích họ vững mạnh trong tình yêu. Chị chỉ có câu trả lời duy nhất đó... Một tập sinh thưa: “Em nản vì thấy mình nhát quá!” Chị Giáo đáp: “Em than tiếc về chính điều làm em sung sướng hơn. Còn gì là xứng hợp nếu em chỉ phải chiến đấu khi cảm thấy can đảm? Không thì đã sao nếu em cứ hành động như mình có? Nếu em cảm thấy quá mệt để lượm một sợi chỉ, mà em cứ lượm vì yêu Giêsu, thì em đáng công hơn có hành động hào hùng trong lúc hăng say. Vậy thì, thay vì buồn, em phải vui lên khi thấy mình yếu kém, Giêsu nhân hiền đang cho em cơ hội để cứu nhiều linh hồn hơn’. Têrêsa không ngưng tại đó. Từ chính những khuyết điểm và buồn chán mà các em cảm thấy, Têrêsa muốn các em rút ra tình yêu. Khi Mẹ Agnès de Jésus nói về những ý buồn nản của mình với Têrêsa, Chị khẳng định: “Chị đã không làm như em. Khi em lỡ phạm lỗi làm em buồn, em biết rằng nỗi buồn đó do em thiếu trung thành. Nhưng Chị bảo em cứ buồn hoài à? Ồ không, không thế được! Em vội thưa Chúa Nhân Hiền rằng: Chúa ơi, con biết con đáng buồn; nhưng xin cứ để con dâng nỗi buồn này cho Chúa, như một thanh luyện mà Chúa gởi cho con vì yêu. Con hối lỗi, nhưng con hài lòng vì có đau khổ để hiến dâng”. Hơn bất cứ loại nào, những thanh luyện nội tâm, những cám dỗ được Têrêsa coi như “những cơ hội chứng minh tình mình yêu Giêsu”. Chị biết con người: trong những lúc nghi ngờ và mệt mỏi, khó mà tin thực sự mình yêu Chúa, tin Chúa yêu mình. Một em tập có thể nức nở: “Chúa yêu em, em biết lắm, nhưng chính em lại không yêu Ngài!” Cảm giác không kiểm soát được tình siêu nhiên. Tình đi trước cả khi ân thánh mách bảo lòng chúng ta: Mỗi lần chúng ta muốn yêu, chúng ta đang thực sự yêu đấy. Muốn tin rằng tình yêu không cảm giác làm hài lòng và lôi kéo Chúa thì cũng phải có lòng tin mạnh như tin rằng Chúa yêu chúng ta. Làm cho các em tin vững chắc, vượt mọi ấn tượng, có lẽ là mục tiêu cua Têrêsa hiện nay. Bằng cách đó, Chị trấn an họ và cứu ước muốn yêu vào đúng lúc nó bị tấn công trực tiếp. Dạy các em đừng bao giờ thẩm định mức độ kết hợp với Chúa bằng cảm giác nhiệm thành hoặc khô khan, Chị giục họ cố kết trí lòng với Tình Yêu như Tình Yêu hiện hình trước họ. Chị gắng làm họ hiểu rằng hiệp nhất với Chúa không gì khác hơn hoàn toàn đồng quan điểm, ước mong, ý chí, để rồi hoàn toàn quên chính bản thân vì Người Yêu của mình. Nếu Chúa muốn, trong hiệp nhất thần bí, người ta có thể hưởng được sự hiện diện của Người Yêu và vui vì thân mật với Ngài. Trong hiệp nhất thầm lặng của cuộc sống hằng ngày, người ta vẫn thực sự thuộc về Ngài, trong tình yêu tinh khiết mạnh như sự chết, vẫn sóng nhờ ân lộc của Ngài, tuy không thưởng thức được gì. Nhưng hiệp nhất thường ngày cũng không quá ẩn kín đến nỗi không có lúc mang lại tối thiểu ân lộc thần bí, mách bảo rằng Thiên Chúa vui với tình yêu trầm lặng này: Tâm trí yên vững và thân thương, đáy lòng rung động vì cảm nhận rằng mình được Ngài làm chủ đến tận gốc rễ: “Giêsu núp, nhưng người ta đoán được Ngài”. Khi hiểu được yêu trong niềm tin, ta có ấn tượng rằng Têrêsa đã nhờ ân thánh mà trút hết những phụ thuộc để chỉ còn phần tinh tuý nhất, chân xác nhất của ước muốn yêu đương. Những ghì vô bổ đã rơi rớt hết vì sức mạnh khi bay vút lên Tình Yêu. Ước muốn yêu thương lúc này bừng cháy nên không gì thoả mãn được. Têrêsa có thể viết thay cho tất cả các em: “Hiểu rằng cái khát yêu thương nung nấu Ngài, chúng con muốn có tình yêu vô hạn để giải khát cho Ngài”. Chúng ta sẽ thấy Chị gắng giúp các em làm tròn ước nguyện bằng cách dâng các em cho Tình Yêu. Đó là bước cuối cùng mở ra cho các em cuộc sống tâm linh mãnh liệt nhất và vững bền nhất.
Tất nhiên trong thời thanh luyện các em cảm thấy mình khốn nạn, nhưng chân thành thèm muốn yêu Chúa giữ được một niềm tin sống động vào tình yêu. Têrêsa sẽ giúp họ kiên trì trong những quyết tâm này, bằng cách đề nghị họ hiến thân cho Tình Từ Ái. Nhờ hành động này, con người được nắm bắt đến tận những đáy sâu của mình, và cuộc sống tâm linh chân chính bắt đầu. Têrêsa cũng tỏ ra cổ động mỗi người tuỳ sức mình mà mau mau tới đó. Hẳn là không có ước vọng siêu nhiên và chân thành yêu Chúa, thì lời mời gọi hiến thân sẽ trật và bất động; không trọn tin ở tình yêu, thì mời gọi này trống rỗng. Nhưng những điều kiện này lại có thể có ngay ở chặng đầu đời sống tâm linh. Thí dụ ở tội nhân lớn mới quy hồi, nơi một người thật bất toàn, đầy khuyết điểm, đầy khuynh hướng xấu, thậm chí sa ngã nặng nề.
Bằng việc dâng mình, Têrêsa tự hiến cho Tình Từ Ái, không được người đời biết đến, Chị chủ trương dẫn theo mình “một số lớn những tâm hồn nhỏ”. Để hiến thân, không cần phải là người đã tiến xa trên đường thánh thiện. Việc hiến dâng này có giá trị đào luyện; vì chỉ mình Giêsu phải hướng dẫn chúng ta. Têrêsa muốn người ta tự rộng mở cho Ngài, càng sớm càng tốt. Mới cưu mang dự định dâng mình và được Mẹ Agnès chấp thuận, Chị đã chia sẻ ngay phương án với Céline và mời đồng tiến. Chị không giữ riêng bí mật. Ngày 11.6.1895, Chị đọc bản kinh Dâng mình cho mình và cho Chị Geneviève, mới nhập Cát Minh được mươi tháng. Sau ít lâu, trong mùa cỏ, Têrêsa lại mời Chị Cả, Sr. Marie du Sacré-Coeur, làm theo. Đối với Sr Marie de la Trinité, Chị hành động khôn ngoan hơn. Gần sáu tháng sau, Chị mới cho biết việc dâng mình này. Em tập sinh quảng đại này “liền biểu lộ ước muốn noi gương Chị và định ngày mốt sẽ dâng mình”. Ta quen biết cô bé này nhờ cuốn “Conseils et souvenirs” (Những lời khuyên và ký ức) và nhơ Thư luân lưu. Tính khí mau lẹ và bộc phát, một chút xíu con nít, nhiệt thành mà dễ quỵ, đa cảm và hay nhè quá, khoái được yêu và chuộng, buồn khổ về những thiếu thốn của mình, quá sợ Chúa phán xét, mà cũng quá tin tưởng Têrêsa, hiển nhiên chưa phải nữ tu Cát Minh già giặn. Thời điểm ta nói đó, cô bé có mặt nào tốt? Rất chân thành ước muốn yêu Giêsu và thâm tính về những yếu kém của mình. Têrêsa đoán rằng chỉ cần cho cô biết mình đã tự hiến cho Tình Yêu là đủ cho cô tiến hành giống như mình. Nhưng khi còn một mình và nghĩ lại nỗi bất xứng của mình, em tập sinh này kết luận rằng em cần chuẩn bị lâu ngày hơn nữa cho việc tự hiến quan trọng như thế. Em trở lại tìm Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, giải thích cho Chị những lý do khiến em hoãn dâng mình, Chị đáp: “Phải, đây là hành động quan trọng nhất chúng ta có thể nghĩ ra. Nhưng em biết việc chuẩn bị duy nhất mà Chúa Nhân Hiền đòi chúng ta làm không? Phải, đó chính là khiêm tốn nhìn nhận mình bất xứng. Mà Chúa đã cho em ơn này rồi, vậy thì em hãy dâng mình cho Ngài, đừng sợ. Sáng mai, sau cám tạ hiệp lễ, Chị sẽ ở lại cạnh em trong nhà nguyện, khi đó sẽ đặt Mình Thánh, trong khi em đọc kinh dâng mình, Chị sẽ dâng em cho Giêsu như một hiến vật nhỏ bé mà Chị đã sửa soạn cho Ngài”. Cứ thế, các tập sinh, mà Têrêsa trao cho Tình Yêu, càng thèm khát Thiên Chúa cách thuần khiết hơn, họ càng ý thức sâu sắc hơn những khuyết điểm của mình. Cả quan niệm này, đôi khi đe doạ việc họ băng mình tới Chúa, cũng được Têrêsa tuyên bố là chính điều kiện hiến thân cho Tình Từ Ái. Thư gởi Chị Marie du Sacré Coeur vang vọng cung giọng đó: “Xin Chị hiểu rằng để yêu Giêsu, để thành hiến lễ tình yêu, thì mình càng yếu kém, không ước vọng hoặc nhân đức (đây hiểu là ước vọng tử vì đạo hoặc làm những chuyện lớn), người ta cách thích hợp với những hoạt động của Tình Yêu thiêu huỷ và biến thể này. Thèm khát thành hiến lễ là đủ, nhưng phải đồng ý cứ nghèo hèn và bất lực; chuyện này lại khó, vì ‘tìm đâu ra người thực sự tinh thần nghèo khó? Phải tìm xa lắm’. Thánh Vịnh đã nói thế”. Tình Từ Ái là gì mà chuẩn bị như thế là thích hợp? Têrêsa có cảm giác sắc bén về lòng từ bi của Chúa, đó là đặc điểm: “Còn em, Ngài cho lòng từ bi vô biên, nên qua chính lòng từ ái này em chiêm ngắm và thờ lạy các toàn hảo thần thánh khác!... Thế là tất cả hiện ra trước mắt em đều lấp lánh tình yêu”. Thiên Chúa yêu chúng ta bằng Tình Từ Ái, nghĩa là dầu chúng ta khốn nạn và khuyết điểm muôn vàn, Ngài vẫn yêu. Ngài đòi chúng ta tuỳ sức chúng ta: “Ngài tính đến những yếu hèn của chúng ta, Ngài hoàn toàn rõ bản tính chúng ta mỏng giòn”. Têrêsa còn đi sâu hơn nữa: Không những Chúa yêu chúng ta, dù biết chúng ta tệ, không những Ngài tính đến, Ngài còn yêu chúng ta chính vì những yếu kém của chúng ta. Như người Cha thương con, Ngài biết rằng chúng ta càng yếu kém, càng cần tình yêu của Ngài hơn. Chị bảo: “Thiên Chúa “thấy những rơm rác khổ của chúng ta, những hành động vô nghĩa của chúng ta luôn luôn đẹp”. Têrêsa thấy lòng từ bi Chúa biểu lộ không chỉ trong việc tha thứ mãi hoài cho chúng ta, mà cả trong lòng Cha săn sóc mọi chuyện cho chúng ta. Rồi vị thánh suốt đời chưa hề phạm tội trọng này cho rằng tội nhân là đối tượng của lòng từ bi, nên khi tội nhân trở lại, là vì Chúa từ ái đã dẹp trước những trở ngại trên đường về. Tình yêu trọn vẹn cho mọi người: Ain tin ở Ngài đều “được tha thứ tất cả”, dù trước hoặc sau sa ngã. Têrêsa hiểu rằng trong quan hệ với chúng ta, Thiên Chúa luôn luôn từ bi. Thực ra, Lòng Từ Bi vẫn là Tình Yêu Thiên Chúa trong cả công trình Ngài đối với chúng ta. Toàn việc cứu chuộc chỉ là tiến trình của Tình Từ Ái, hoặc nói kiểu khác: Tình toàn hiến đến cứu chuộc tội nhân và cứu bằng cách tháp họ vào Đức Kitô, cho họ sống bằng sự sống thần linh. Ta thấy Têrêsa đã thấu hiểu thật sâu tinh thần cứu độ, đúng theo ý nghĩa là thánh Phaolô diễn tả trong thư gởi Rôma. Cũng như thánh Augustinô, Têrêsa hẳn không hạ nhục con người để tôn vinh công trình Thiên Chúa. Đâu cần chứng minh sự khốn nạn của chúng ta. Quá rõ rồi. Têrêsa có kinh nghiệm bản thân và kinh nghiệm các em tập sinh. thánh Phaolô nhấn mạnh đến mục tiêu lề luật là mạc khải tội lỗi chúng ta, cho ta nhìn rõ, chính là để ta trở về vòng tay Thiên Chúa. Nếu thánh tông đồ nói lên hệ luỵ của tội lỗi dọc theo lịch sự như bám cứng trong trái tim phân hoá của chúng ta, chính là để tụng ca việc cứu chuộc. Vì tội lỗi càng bội tăng, ân thánh càng tràn đầy. “Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta là Con của Ngài đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân”. Têrêsa là tiếng vang của giáo thuyết tuyệt vời này, Người được linh hứng để hướng dẫn tập sinh. Tại sao phải đợi các em không còn khuyết điểm nữa mới dâng hiến cho Tình Từ Ái? Trái lại, dâng các em chính vì các em đầy đớn mạt và không có khả năng tự sửa chữa. Nhưng Chị cũng báo cho các em biết rằng Tình Yêu chỉ hoạt động trong các em với một điều kiện: Các em đồng ý “cứ mãi nghèo nàn và yếu đuối”, các em thích sự bất lực đó và luôn trao nó cho Đấng Cứu Chuộc. Điều kiện Têrêsa đòi để việc dâng mình kết quả chính là điều kiện duy nhất Thiên Chúa đòi để việc cứu chuộc thành công. Đó là nhân bản thực, trong ý thức bản thân, trong Tin, Cậy, Mến.
Mà hiến thân cho Tình Yêu là gì? Một em tập tu hỏi Têrêsa: “Chị tin đọc kinh dâng mình Chị đã soạn là đủ không?” - “Ồ không! - Têrêsa đáp - Lời nói sao đủ được. Để thực là hiến lễ tình yêu, phải tự hiến hoàn toàn. Mình chỉ được Tình Yêu thiêu huỷ theo mức độ mình hiến thân cho Tình Yêu”. Không, dầu lời lẽ có cao siêu cách mấy thì một kinh dâng mình cũng chẳng làm gì! Dựa vào Tân Ước, giáo thuyết Têrêsa cũng đòi hỏi như Tân Ước. Linh đạo của Chị đòi niềm tin sống động vào thực tại ân sủng và kiến thức thực nghiệm về bản tính truỵ lạc của ta. Chúa đã tiếp chính sinh lực Ngài cho chúng ta, Ngài tặng chúng ta tổ chức tâm linh đầy đủ và tinh tế gồm ơn thánh, các nhân đức và các ân lộc, nhưng Têrêsa không nghĩ rằng những khả năng này không sản xuất. Nếu Thánh Thần đích thân làm Thượng Khách của tâm hồn ta, thì Chị không tin Ngài nằm dài bất động trong đó. Trái lại, Chị cảm thấy Ngài vô cùng muốn làm chủ thụ tạo của Ngài, thấy nó để Ngài toàn quyền điều khiển. Đáng tiếc sự sống thánh thiêng có đó rồi, sẵn sàng hiến dâng rồi, vậy mà con người thường khi chối từ ân thánh, vì cảm giác vỡ mộng. Thực trạng suy thoái của chúng ta ít phấn khởi lắm. Hướng chiều về những gì khả giác, con người vẫn mang khuynh hướng ganh tỵ vơ vét cho mình, vẫn vênh váo đòi tự trị. Thế là trong ta cộng sinh hai cuộc sống hoàn toàn khác biệt, nhiều khi đối kháng. Khát khao tuyệt đối, Têrêsa trực cảm cảnh song đấu này, mà nếu chấp nhận thoả thuận, thì tiêu mất sự sống thần linh. Chị đã nghiệm thấy khuynh hướng sâu xa của con người muốn sống cho mình và do mình. Rất tinh khiết và rất trẻ trung, Chị không tự khinh miệt vì thân phận con người chúng ta, hoặc vì sự phân hoá nội tâm mà thánh Phaolô đã phân tích thật sâu: “Tôi không làm việc tốt tôi muốn, mà tôi làm việc xấu tôi không muốn”. Nhưng Chị cũng hiểu lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa, Ngài tới đảm nhận trách nhiệm về trọn thụ tạo của Ngài, nếu ta để Ngài tự do. Vì muốn nên thánh và muốn yêu như điên, Chị chỉ còn cách trao trọn tay lái vào đôi bàn tay Chúa: “Con muốn nên thánh, nhưng con cảm thấy mình không có khả năng, vậy lạy Chúa, xin chính Chúa là sự thánh thiện của con... Con cảm thấy trong tim con những ước vọng mênh mông, vì thế con tin tưởng xin Chúa đến làm chủ tâm hồn con”. Tự hiến trọn vẹn cho Tình Yêu như thế đòi trái tim kiên định trống trơn, sẵn sàng và khát mong, trước sự sung mãn tràn đầy của Thiên Chúa đang hiến thân cho ta. Đó là một trào lưu sâu thẳm và liên tục làm phát sinh tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào Tình Yêu. Vì Từ Bị là Tình Yêu đang hoạt động, hiến thân cho Từ Bi là trao Ngài điều khiển nội tâm, là dọn sạch lòng mình cho sáng kiến thần thánh. Chính là vĩnh viễn đặt Thiên Chúa thay cho bản thân, làm nguyên uỷ mọi hoạt động của ta. Têrêsa đang ở giữa vấn nạn đó. Không phải thắc mắc về hoạt động của những cơ năng tự nhiên này. Kinh nghiệm cho hay chúng vẫn còn đó, mà huỷ chúng đi cũng chẳng làm nên thánh thiện. Thắc mắc là về nguồn gốc thực tế phát sinh lực sống này. Têrêsa đáp ngay: Từ Thiên Chúa. Bao giờ cũng chỉ từ Thiên Chúa thôi. Nhưng biết tự mình không thể bảo đảm chắc chắn được việc đổi nguồn đó, lại biết Chúa muốn và có thể làm việc này, nên Chị mời Chúa đến, Chị tự hiến và phó thác cho Ngài: “Thật sung sướng, em trao lại Ngài ý muốn của em! Vâng, em muốn Ngài tràn vào các cơ năng của em, để em không còn những hoạt động phàm nhân và riêng tư nữa, nhưng chỉ còn hoạt động thần thánh, do Thần Tình Yêu linh hứng và hướng dẫn’. Chị suy diễn lời thánh Phaolô: “Chúng ta chẳng biết xin gì cho phải, nhưng chính Thánh Thần trong ta xin bằng những lời năn nỉ không diễn tả được. Vậy chúng ta chỉ cần trao tâm hồn chúng ta, phó mặc nó cho Thiên Chúa chí đại”. Phải cố gắng để vừa khi ý thức rằng cơ năng tự nhiên hoạt động như trực cảm, quá độc lập, ta liền nhẹ nhàng tóm lấy nó. Hy sinh hoạt động bản năng tự nhiên này bằng một ánh mắt nhìn lên Chúa hoặc Đức Mẹ, bằng một lời cầu nguyện, dù chỉ một phút phù du, bằng luyện lọc tâm ý, thế là đặt mình dưới ảnh hưởng ơn thánh, trao quyền làm chủ tất cả hoạt động nhân bản của mình. Đó cũng là thực hành việc từ khước nội tâm cách tuyệt đối nhất, là thay thế bản ngã cách mau lẹ nhất, vì không phải tấn công vào những cách biểu lộ, mà vào chính đáy sâu, là bứng cả rễ. Tuy bước đầu, việc tự khước từ có những hình thức mang dáng vẻ rõ rệt hơn, thực tế ít đòi hỏi hơn. Đó là một chuỗi hoạt động, chứ tới tình trạng. Từ nay, tự khước trong mọi giây phút, mà lại đơn giản và thanh bình hơn. Chỉ là nội hướng về Tình Yêu, không còn căng thẳng từng hành động nên hoặc không nên. Nội hướng nay liên tục, không rời khỏi dòng yêu thương và sinh lực mà Chúa muốn ban cho con người.
Têrêsa đã hứa với các em tập sinh rằng: Trao các em cho Tình Yêu, Chị thoả mãn ước vọng lớn lao của các em là yêu Chúa, và yêu Ngài ngay trong những yếu kém của mình. Thực tế, bản dâng mình cho Tình Yêu đã được soạn theo chú ý nền tảng và minh bạch này: “Để sống trong tác động yêu thương hoàn toàn...”. Không hướng tới yêu hơn,m à sống trong tác động thuần tuý yêu. Ước muốn này có phải tham lam đến điên cuồng và không thể thực hiện? Chị không nghĩ vậy. Đức Kitô đã bảo những người biệt phái đang bực tức vì Ngài làm phép lạ ngày hưu lễ: “Cha Tôi hành động không nghỉ, nên Tôi cũng hoạt động”. Chúa cũng luôn luôn hoạt động trong con người đã được “bình định”, đã tự truất phế hoàn toàn và phó thác cho Ngài. Ngài hành động cả khi người ta, vì yếu đuối, không tiếp tục chú ý vào Ngài, miễn là còn trung thành tự hiến, nghĩa là khi hoạt động, người ta vẫn còn ở lại trong thái độ bình tĩnh lệ thuộc vào hoạt động của Thiên Chúa. Thực ra, nếu con người vẫn phó thác, Tình Yêu quá dễ dàng liên tục thúc đẩy con người, cả khi hắn không biết... Lúc này, người ta không còn yêu Chúa bằng trái tim mình nữa, nhưng bằng nhịp đập của chính Thánh Tâm linh thánh. Têrêsa đã thèm khát Tình Yêu đó, Tình Yêu mà Chị cầu mong cho các em cũng như cho mọi “tâm hồn nhỏ”. “Tình yêu lôi cuốn tình yêu, Giêsu của em, tình em lao về ngài, nó muốn lấy đầy vực thẳng đang lôi cuốn nó, nhưng tội nghiệp! Nó không chỉ là một giọt sương tan biến trong đại dương sao? Để yêu Ngài như Ngài yêu em, em phải mượn chính Tình Yêu của Ngài, chỉ khi đó em mới yên được”. “Ôi lửa hồng Tình Yêu, em biết làm cách nào đến được với Ngài, em đã thấy bí quyết lấy cho mình những ngọn lửa của Ngài!” Tin ở Tình Yêu trở thành tin ở hoạt động liên tục của Tình Yêu. Tới nhận một trái tim, Chúa kín đáo hoàn thành trong đó việc tiêu hao và biến đổi. Không bao giờ là quá, nếu chúng ta nhắc lại rằng Têrêsa không thường xuyên cảm thấy Chúa hành động đâu, nhưng Người luôn tin chắc. Chúa đảm nhận con người cách thâm sâu như thế không gợi lên tình cảm, nhưng Chị vẫn thấy đó là lý tưởng đáng thèm muốn nhất, “là sự thánh thiện thực nhất, thánh nhất”. Người ta vẫn còn yếu kém. Không có toàn thiện đột hiện, sau khi dâng mình, các em tập tu vẫn tự thấy còn yếu kém như trước, nhưng họ phải tiếp tục làm tất cả những gì có thể, mà càng lúc càng trung thành hơn. Thực ra, gắng sức của họ còn vô cùng nhỏ bé, nhưng với một quan niệm mới rồi. Chút vô cùng nhỏ bé này không còn tàn tạ nữa, nhưng đã thành quý giá tuyệt vời, vì đó là tất cả những gì họ có thể để tỏ tình. “Họ ríu rít mà hái những bông hoa hy sinh nhỏ bé, và hái cho Người Yêu”. Không bận tâm, không lo lắng gì nữa, vì họ đâu còn thuộc về mình. Mà những chuyện không đâu, tự nó không giá trị này lại chính là những mời gọi TÌnh Từ Ái đến trong họ. Trung thành với những chuyện đó, họ ngày càng mở ra cho ảnh hưởng thần thánh tự do hướng dẫn sinh hoạt họ. Thế là trái tim tự hiến càng lúc đi sâu vào bản chất sự vật; nó muốn đặt vào mọi hành động tất cả cường lực yêu thương mà Thánh Thần truyền thông cho nó. Nó mong chu toàn bổn phận trong từng phút hiện tại để hiệp nhất hết sức thân mật với Chúa, có Ngài là vui, dầu bổn phận nghiêm chỉnh hoặc vô nghĩa, dễ chịu hoặc dễ ngán, dầu là công cuộc bên ngoài hoặc chiến đấu nội tâm. Dùng tối đa ân lộc Chúa ban, và sinh lời lãi, thái độ như vậy chẳng là thực tế và hiệu quả nhất sao? Không có một giờ uổng phí, một ân lộc trơ trọi, một hành động lững lơ. Dưới bề mặt yên tịnh hoặc xôn xao, sự sống triển nở không ngừng, con người nội tâm cứ lớn lên tới tầm vóc thành toàn của Đức Kitô Giêsu. Tuy thế, không phải ngay từ ngày đầu mà người ta đạt mức trung thành này! Mặc nó. Têrêsa bảo không có những vấp ngã nặng nề trên lối đường này. Con nít té hoài, nhưng chẳng đau mấy và chẳng làm cha mẹ buồn. Chỉ cần chúng biết nhục vì những khuyết điểm của chúng, rồi ơn thánh Chúa mang lại nghị lực liền: “Trong một tác động yêu thương, tất cả được sửa chữa và quá đủ sửa chữa”. Khỏi cần thấy cố gắng mang lại kết quả. Ngoài mặt có thể không thành quả - như tập được nhân đức, hy sinh được như dự tính - vị tất không đạt mục tiêu sâu và thiết yếu. Khiêm tốn nhận thất bại, mà biết nhìn lên Người Yêu, sẽ khiến Tình Từ Ái hoạt động, vì Tình Yêu vẫn nghiêng trên hèn yếu. Chị đã thú nhận với Céline: “Điều đó làm em vui vì mình bất toàn. Hôm nay, Chúa Nhân Hiền cho em những ân lộc lớn: đúng là một ngày hên!” Không cần trèo “bước đầu thang” toàn thiện; chỉ cần “luôn luôn nhấc cái chân nhỏ bé mình lên”. Cử điệu ấy làm xúc động Chúa tình thương, thúc đẩy Ngài bồng đứa bé của Ngài lên và kéo thẳng vào Ngài. Tình yêu xoá liền những gì chưa trong sáng và thiêu tan những gì Ngài không thích. Sau khi dâng mình, Têrêsa viết: “Từ ngày hồng phúc đó, em thấy như tình yêu thấu nhập em và bao trùm em. Từng giây phút, Tình Từ Ái này như đổi mới em, thanh tẩy hồn và không để trong đó dấu vết tội lỗi nào”. Têrêsa từng thấy các em co quắp vào những khuyết điểm, làm chúng không thể sửa chữa, bởi họ muốn làm lại vì tự ái hơn vì đẹp lòng Chúa. Hôm nay, trao cung cách họ cho Tình Yêu, Chị từ từ và khôn ngoan giúp họ khỏi băn khoăn về những khuynh hướng xấu, chỉ đơn giản và quyết liệt chống khi chúng xuất hiện, rồi đặt mình bình an dưới những tia ấm của Tình Từ Ái. Têrêsa xin họ tin không tác động vào giới hạn thanh tẩy này. Vì đảm trách về họ, Chúa sẽ làm xong công việc của Ngài, miễn là họ đừng bao giờ cố ý lấy lại quyền điều khiển. Chính Ngài sẽ là sự thánh thiện của họ. Những thứ khác sẽ cho họ dự thừa. Vậy họ cần nhớ rằng họ chẳng làm chủ nhân đức nào. Tự mình, họ chẳng chiếm hữu được gì. Họ có tập các nhân đức và có hơn những người khác, thì vẫn là thuần tuý ân lộc của Chúa. Cũng phải nói theo một nghĩa nhất định rằng Tình Yêu sẵn sàng tặng vô điều kiện. Họ đừng chú tâm luyện đức mà lơ là với chính Thiên Chúa, họ không thể tự hào đâu. Các nhân đức là thứ “dư thừa” mà Tình Yêu thần thánh tặng tâm hồn chỉ nhìn Ngài và chỉ sống vì Ngài. Tập nhân đức, họ vẫn phải hoàn toàn là của Tình Yêu, nghĩa là đừng bận tâm. Tìm toàn thiện, lo nhân đức, rất thường khi thành cản trở tinh vi, thành thoái hoá! Chị cũng sửa chữa các em, khi họ gắng “dự trữ” nhân đức. Thấy Chị kiên trì trong thái độ bài trừ căn bản này, người ta ngạc nhiên, nên Chị giải thích: “Em đã kiên trì gì đâu! Đây không phải việc em phải kiên trì sao? Em vẫn lầm sao?” Chuyện này thì Chị không lầm. Từng giây phút, chúng ta lãnh nhận tất cả do Tình Từ Ái. Đơn giản phân phát những kho tàng mà Chúa muốn thông ban, vì thấy Người đã hoàn toàn tự khước và trọn vẹn chăm chú về Ngài, Ngài không ngại nó tự kiêu vì những ân lộc của Ngài. Những khuyết điểm hoặc thất bại không trở ngại công việc của Ngài. Chỉ có một thứ có thể làm hư công việc Ngài là thái độ vị kỷ, tìm tư lợi hoặc dựa vào sức riêng mình. Có lẽ đây là ý nghĩa tâm sự xao xuyến nhất mà Têrêsa từng gởi gấm Mẹ Agnès: “Ô! Nếu em đã bất trung, nếu em đã chỉ phạm một bất trung nhỏ, em cảm thấy chắc em phải trả giá bằng những xáo trộn kinh khủng, và em không sao chấp nhận chết được”. - Em muốn nói loại bất trung nào? - Một tuyến tưởng cố tình kiêu hãnh. Chẳng hạn em nói: “Em đã luyện được đức tính nào đó, em chắc có thể tập đức tính đó. Vì như thế là dựa vào sức riêng em. Mà ở điểm đó thì dễ nhào xuống hố thẳm rồi”. Chỉ cần tin cậy tất cả ở Chúa là đủ bảo đảm trung thành sâu xa. Tin tưởng và khiêm tốn, đó là những tâm trạng cơ bản. Tuy thế, trong đường lối rất đơn giản này, đường lối “làm nở cõi lòng” - như các em tập sinh nói - có cần những lo buồn, những đau khổ lớn lao ngoại diện, những cám dỗ gay go nội tâm không? Gương của Têrêsa là câu đáp đầy đủ! Để lay chuyển cô tập sinh quá lỳ, ngày nọ Têrêsa dám bảo: “Hiến thân làm của lễ Tình Yêu là luôn luôn nộp mình cho ý Chúa, là trông chia sớt với Giêsu những ô nhục và chén đắng cay của Người”. Nhưng với một em nhát hơn, Chị bảo: “Tại sao em sợ dâng mình làm lễ vật Tình Từ Ái? Nếu dâng mình cho sự minh chính của Chúa, em có thể sợ. Nhưng Tình Từ Ái sẽ thông cảm em yếu hèn; sẽ đối xử ngọt ngào và từ bi với em”. Chị Marie du Sacré-Coeur sợ giống thế, Têrêsa minh xác: “Dâng mình đâu phải để đau khổ hơn, mà chính là để có thể yêu Chúa hơn, thay cho những người không muốn yêu Ngài”. Chị Céline cho biết thánh nữ còn lặp lại rằng: “Không có gì phải sợ dâng mình cho Tình Yêu từ ái, vì từ Tình Yêu này, chỉ có lòng Tư Bi đến với chúng ta”. Những suy nghĩ này bổ sung và minh hoạ chân lý: Không ai thoát đau khổ và lo lắng, nhưng Chúa gởi tới vì chính Ngài là sức mạnh của con người, và cho con người khả năng chịu được hành động của Ngài. Têrêsa đã khẳng định thật hay về thanh luyện niềm tin Chị chịu đồng thời với những đau đớn thể xác trong những tháng cuối đời: “Mẹ ơi, con chưa bao giờ cảm nhận thấm thía thế này rằng Chúa ngọt ngào và từ bi; Ngài đã chỉ gởi thanh luyện này vào lúc con có sức chịu; sớm hơn, con tin chắc rằng con đã bị ghìm vào chán nản”. Nếu Chị đã ưa vào Cát Minh “để chịu đau khổ nhiều hơn” thì về cuối đời, Chị đã thanh thoát hơn: “Em chẳng muốn đau khổ, chẳng muốn chết nữa, nhưng em vẫn yêu thích cả hai. Ngày nay, em chỉ còn chỉ nam phó thác”. Đau khổ ghê sợ nhất có thể tới, câu đáp vẫn còn đó. Tất cả là yêu thương, ân huệ là ở đó. Chính cái chết cũng sẽ đơn giản. Đó chỉ là một tác động của niềm tin, một bước nhảy về vĩnh cửu trong Tình Từ Ái. Không gì đáng sợ. “Em tưởng như không có phán xét những hiến lễ tình yêu; hẳn Chúa Nhân Hiền sẽ mau lẹ thưởng chính Tình Yêu của Ngài, mà Ngài thấy bừng bừng trong tim họ. Ngài thưởng bằng những sung sướng vĩnh cửu”. Lối Nhỏ là con đời tắt. Những ai thực sự hiến thân, đều đi nhanh. Không phải lối đi cho họ lên thẳng các đỉnh cao, nhưng gạt bỏ những động tác tự nhiên, thường gây rối và làm chậm hành động thần linh, và cho phép họ đi bằng bước đi của Chúa. Chính những thanh luyện cũng không gây khó khăn nữa; không cần ánh sáng, không cần giải thích nào hơn. Vào lúc họ cần, chính Chúa Nhân Hiền sẽ cho các con của Ngài bảo đảm rằng họ không lầm, rằng tình yêu Ngài đang hoạt động trong họ và hướng dẫn họ tới mục tiêu. Têrêsa không lừa dối các em hoặc Thiên Chúa. Khát vọng yêu mà Chị gặp thấy trong các em, Chị đã thực sự giúp cho thoả mãn, ước muốn được yêu mà Chị khám phá ra trong Trái Tim Chúa, Chị cũng hết sức làm vui lòng. Tất cả đều triển nở trong những người đã được trao cho Chị và đã trung thành. Vì khi hiến thân cho Tình Yêu, bản tính chết cho chính mình và tái sinh trong Chúa. Hiến thân, người ta đạt hết tầm cỡ triển nở của mình, hồng ân này Chúa ban, dầu ta không trực tiếp kiếm tìm. Từ từ được giải thoát khỏi những gì trăng trói và bóp nghẹt, các cơ năng được thoải mái, giãn nở, vì người ta chỉ còn hoạt động nhờ ảnh hưởng thánh ân. Dẫn các em theo lối này, Têrêsa đào tạo những nô tỳ vững chắc của Chúa. Họ dấn thân phục vụ Giáo Hội trọn nghĩa và đầy đủ hiệu năng. Chỉ là những tông đồ cầu nguyện và yêu thương, hoặc thêm vào một số hoạt động bên ngoài, điều gì quan trọng để họ thi hành ý Chúa? - “Điểm mà Archimède không thể tìm ra... các thánh đã được tròn đầy. Đấng Toàn Năng đã cho các ngài một điểm tựa: Chính Chúa, duy mình Chúa... Còn đòn bẩy, là cầu nguyện bốc cháy yêu thương... Đó là cách các thánh chiến sĩ đang nâng vũ trụ lên cho tới tận thế, các thánh mai đây cũng sẽ nâng”. Nhờ trọn hiến cuộc đời các Ngài cho Tình Từ Ái, chúng ta biết các ngài mang lợi ích sâu xa cho thế giới này. Cuộc sống như thế noi gương cuộc sống của Mẹ Maria tại Nazareth, Ngài “xin vâng” đầu tiên hiến thân cho Tình Yêu vì công cuộc từ bi cứu thế.
Têrêsa Martin đã biết ghi lại cho chúng ta đường lối mà khởi thuỷ Chị chỉ mở cho Chị. Chị mở đường với tính thực tiễn thường quen, tôn trọng cả những dự kiện cơ bản của cuộc sống tâm linh, cả điều kiện cụ thể của hiện sinh: của người, của Chúa. Mọi sáng kiến đều từ CHA, Đấng gọi và tha thứ, và từ Đức Kitô, Đấng đã muốn đảm nhận thân phận con người, với những vinh quang và hạn chế của kiếp người, Đấng đã sống phó thác thảo hiền, đã chỉ cho các đồ đệ và Thân Mẫu cuộc sống đó. Têrêsa biết con người và những khả năng thực sự để cải tiến và thành anh hùng tại đâu; kinh nghiệm bản thân cũng không cho Chị còn ảo tưởng nào. Chị cảm thấy mình mong manh và yếu đuối, bất lực và lệ thuộc như một bé thơ đang chập chững, mỗi bước mỗi té nhào. Không bi quan mà cũng không tự mãn, Chị làm ta nhận thức cả về sức ỳ, cả về sức chối từ và chống trả trong ta. Chị không phải không biết rằng tính yếu đuối mang thật nhiều hình thái dị biệt theo cá nhân và hoàn cảnh: Đối với sứ điệp Tin Mừng về tuổi thơ tâm linh, mỗi người sẽ tiếp ứng tuỳ cách của mình. Về quan điểm này, thư tín cua Têrêsa cho chúng ta thật nhiều thông tin, nhất là các thư Chị gởi cho mấy người em tinh thần: giáo sĩ Bellière, một chủng sinh, thừa sai tương lai; cha Roulland, thừa sai tại Trung Quốc. Chứng từ của Chị vẫn nhắm ghi khắc một thái độ hiếu thảo, nhưng tế nhị và vui tươi thích ứng với tính tình và tiểu sử từng người. Vậy chính Têrêsa đã phân biệt và chuyển vị giáo huấn của Chị. Chuyện đó bình thường trong một thế kỷ cách biệt, mà những trực cảm lại cần chuyển ngữ nữa. Điều quan trọng là giữ được tinh thần đã làm nguồn và tìm ra trục phát xuất những lời khuyên đó: Lời Đức Giêsu, Lời bảo mọi người trong mọi tình huống: “Nếu anh em không biến đổi và không nên trẻ nhỏ, anh em sẽ chẳng vào Nước Trời”. Têrêsa chắc chắn rằng tinh thần thơ ấu có thể co giãn như một bộ nhún. Mà khởi đầu đừng làm lệch đi. Hơn ai hết, Têrêsa biết gạt bỏ những phản diện của phó thác và dạy chúng ta nhịp điệu nội tâm, giúp ta sống “trong vòng tay Giêsu”, dầu gặp cảnh huống nào. Người cũng dạy chúng ta nhận biết hạnh phúc làm con Thiên Chúa trong vòng tay Giêsu.
PHÓ THÁC, từ này có thể biến nghĩa. Nếu hiểu PHÓ THÁC là hình thức nhiều hoặc ít dửng dưng hoặc từ nhiệm về tâm linh... thì nên dẹp chuyện này đi, vì đào nhiệm theo nghĩa Kitô giáo như thế vừa phản bội Tin Mừng, vừa sai lệch phương án Têrêsa. Nhưng PHÓ THÁC có thê hiểu là cường độ tin tưởng và bình tĩnh của tình yêu trọn vẹn. Chính trong nghĩa này, PHÓ THÁC bao hàm tất cả kinh nghiệm sống và minh hoạ của Têrêsa. Gặp chướng ngại, em bé làm gì? Sau một phút ngạc nhiên hoặc làm hung, nó không hì hục nữa; nọ gọi. Nhận xét rồi, Têrêsa muốn mượn thái độ đó của em bé. Không mượn những thái độ xinh xắn hoặc vô tâm, nhất là ngây ngô; nhưng mượn thái độ dễ dàng chờ đợi giúp đỡ và che chở của người khác, người đã cho bé cuộc sống. Không theo thói ăn nói bộc trực của em bé, còn quá vô thức để sống đức độ, nhưng theo tình bình thản đến liều lĩnh vì tin tưởng. Em bé cảm thấy hoặc đoán ra rằng nó lệ thuộc vào tình yêu của cha mẹ, mà sức mạnh lớn lao của em chính là thấy sự lệ thuộc tình yêu đó là tự nhiên. Cũng thế, Têrêsa không ngạc nhiên hay bực tức vì mình vấp ngã hoài, hoặc thấy mình ngày nào cũng mệt mỏi, khổ sở. Muốn sống đời phó thác, Chị không để mình ở lì trong những khó khăn mình gặp. Thay vì nhận ấn tượng hoặc dụ dỗ nằm lì, hoặc muốn tự mình thắng lướt, Chị quay về Chia liền và phó mình cho Ngài. Chị dâng khó khăn cho Ngài. Thấy nhiệm vụ vượt khả năng hoặc phương tiện của mình, Chị chạy đến Chúa, không phải để trút trách nhiệm, mà để cùng Ngài đảm trách. Nếu gặp chướng ngại không thể nhảy qua, Chị bằng lòng “chui qua”. Nhưng luôn luôn trước mặt Chúa, hành động tin tưởng thoải mái và hoàn toàn cởi mở trong tất cả những gì Chúa chờ đợi ở Chị. Thái độ đầy tinh thần Tin Mừng này, mà Têrêsa vừa kinh nghiệm vừa chỉ dạy, theo quan điểm thoát thực, thì rất hợp với “động tác cất cánh” mà thánh Gioan Thánh Giá viết trong Những Lời Khuyên. Đại khái thánh Gioan nói: Có hai cách để thắng sự ác và dụ dỗ trong chúng ta. Hoặc là “hiên ngang chống đối”, chẳng hạn dùng kiên nhẫn để đối phó với lăng nhục, một tin tưởng Tin Mừng để dẹp oán hờn đe doạ. Cách thứ hai là khi vừa gặp khó, chúng ta chạy ngay tới một động tác cất cánh, nâng lòng hiệp nhất với Chúa. Chúng ta “trình diện trước Chúa”, rồi khi đã hiệp nhất với Chúa, chúng ta để mặc kẻ thù “chưng hửng, không còn ai để dập”, như lời Thánh Vịnh (91,10): “Sự ác sẽ không tới bạn được”. Gioan Thánh Giá cũng biết trong giai đoạn đầu, vì tình yêu còn quá yếu, cất cánh không đủ, nên phải dùng cả những phương pháp khác. Nhưng chắc chắn rằng tiếp xúc với Chúa trong “động tác cất cánh” là phương pháp tốt nhất, luôn luôn phải bắt đầu và kết thúc bằng tiếp xúc này. Têrêsa cũng tự nhiên bay về Chúa như thế. Không phải Chị cố trốn thực tế hoặc ẩn núp khó khăn, nhưng vì Chị muốn quan sát muôn vật trong ánh sáng Kitô và chu toàn mọi chuyện bằng sức mạnh của Ngài. Nghệ thuật của Têrêsa là hồi tâm biến đổi mọi sự trong hướng tâm hiệp nhất với Chúa và do đó cho chúng ta được một phương thức cụ thể, đúng để tránh khỏi dò dẫm khổ sở, thường làm nản cả những người quảng đại nhất.
Kinh nghiệm cho Têrêsa thấy rằng động tác thảo hiền phó thác không thể toàn bích ngay từ bước đầu. Phải thực tập. Soát lại chính mình, Chị Giáo Tập trẻ nhận ra rằng Đức Kitô chỉ cho Chị từ từ, và Chị học bằng chính những sự kiện. Những bước đầu khó khăn đã trải, Chị muốn chia sớt cho các em. Dầu thiện chí, đôi khi họ cũng rất giới hạn và khi gặp thất bại, họ muốn thoái lui; không mệt mỏi, Têrêsa dẫn họ lại chiến trường và giúp họ tiến từng bước; Chị vẫn tôn trọng sức ỳ của con người và khoa sư phạm của Thiên Chúa. Chính mình đã biết rèn luyện lâu dài, Têrêsa hiểu chúng ta không đột nhiên phó thác được, chúng ta không dâng liền được cho Chúa gian khổ vừa xuất hiện. Vì thế, Chị kể một hoài niệm, rất bình dị, mà thích thú và có sức nhắc nhở ta hằng ngày: “Một hôm, sau kinh tối, tôi tìm hoài chiếc đèn của tôi trên giá để đèn chung. Đó là giờ đại tĩnh, không thể hỏi ầm lên được. Tôi hiểu rằng có một Chị đã cầm lầm cây đèn mà tôi rất cần. Thay vì buồn vì thiếu đèn, tôi rất sung sướng cảm nhận đức nghèo không chỉ ở thiếu tiện nghi, mà cả ở thiếu vật cần thiết. Thế là khi bên ngoài tăm tối, tôi rực sáng nội tâm...”. Chuyện nhỏ đó cho thấy thái độ nền tảng. Têrêsa không chỉ bỏ lỗi cho chị bạn lầm, mà Người còn tức khắc chế ngự được tức giận, phản ứng thường rất cần, vì sau một giờ mất việc và chịu tối, lòng mình thường sôi lên cho tới cả giờ Kinh Sáng. Nhắc lại lời khấn nghèo vì Đức Kitô, Têrêsa để Thiên Chúa hành động. Tâm tình chịu đựng ấy cho Chị tiếp nhận được ánh sáng đến trong mình và biến khó chịu thành những tâm tình chính đáng. Từ năm 1890, lòng phó thác ngoan hiền của Chị có vẻ đạt rồi. Gần hết thời gian tập tu, Chị nghe biết các chị hữu trách quyết định hoãn thêm ngày khấn: “Em còn phải chờ thêm tám tháng! Thoạt đầu, em thật khó chấp nhận hy sinh gồ ghề này; nhưng đột nhiên, ánh sáng bừng lên trong tâm hồn em... Một ngày trong giờ cầu nguyện, em hiểu rằng ước muốn mãnh liệt tuyên khấn có pha tự ái; vì hiến thân làm vui lòng Giêsu, an ủi Ngài... Em không được ép Ngài theo ý em thay vì ý Ngài... Lúc đó, em thưa với Giêsu: ‘Chúa ơi, con không xin tuyên đọc các lời khấn thánh của con; con sẽ chờ đợi bao lâu Chúa muốn, chỉ mong đừng vì con lầm lỗi mà bị hoãn hiệp nhất với Ngài’” Ở đây, tác động phó thác đã hoàn hảo. Têrêsa ý thức thanh luyện, Chị đau khổ. Nhưng gặp Chúa trong cầu nguyện, nội tâm Chị bừng sáng. Thay vì phản kháng, cô tập sinh tìm lại nguyên nhân đúng của nỗi buồn và đã thấy nó núp trong kiêu hãnh. Khi đó, Chị liền bám vào thánh ý Chúa và chấp nhận bị hoãn nhục nhã và dâng đau khổ cho Chúa, bao lâu tuỳ Ngài. Tuy thế, phó thác và quyết định can đảm đâu có tha cố gắng, Têrêsa phải nhân gấp quảng đại lên để chuẩn bị ngày dâng hiến. Thế là trước khi chấm dứt thời tập tu, cô Cát Minh mười bảy tuổi này biểu lộ khả năng phân tích sáng suốt cuộc thanh tẩy tâm linh và có cách nhận ra được ba thành cố cơ bản của phó thác: Thấy rõ thực tế trước mắt trong ánh sáng của Chúa, đảm nhận vì Chúa, dâng phú cho Chúa. Chúng ta nhận định phản ứng của Têrêsa trong lúc đau đớn này: Lời khước từ thẳng thừng của bề trên không nghĩa là Chúa khước từ sao? Nhưng nhờ một hồi ký của Chị Geneviève, chúng ta biết Têrêsa thường nhắc lại mình tin tưởng hiệp nhất ý mình vào ý Chúa, ngay cả những trường hợp nhục nhã nhất: “Một tối, trong giờ thinh lặng, người ta yêu cầu Têrêsa thắp đèn phía ngoài... Chị tâm sự: ‘Em đã phải phấn đấu lắm. Em thầm trách người và hoàn cảnh; em định trách chị trực bảo em làm... Nhưng đột nhiên ánh sáng bừng lên trong hồn em; em hình dung mình phục vụ Thánh Gia... Thế là em thật thân thương, nhẹ nhàng đi làm và lòng em đầy êm dịu. Từ đó, em luôn luôn dùng phương pháp này...’” Sự kiện đơn giản mùa Thu 1892 này hẳn không thường có khi hoãn ngày khấn; nhưng cũng cho thấy phản ứng của Têrêsa mang cũng một cấu trúc: Chị nhìn sự kiện trong ánh mắt của Đức Kitô, chấp nhận, dâng tất cả cho Chúa và lại vào việc cách hăng say hơn. Chỉ cần rảo qua các thủ bản của Têrêsa và các tập hồi ký là đủ thấy khắp nơi, trong cuối ngày của Chị, đầy những lần phó thác, như đã tạo thành cho Chị một tự kiểm tu đức và đưa Chị vào thuần thục, sung sướng, quả cảm trước mặt CHA hoặc trước mặt Đức Kitô mà Chị đã hiến dâng trọn cuộc sống mình. Cũng bằng cách đó, Chị tìm lại bình an, nhất là thời cuối đời, thời kỳ Chị gặp những dụ dỗ rất nặng nề về Đức Tin: “Mỗi lần lâm chiến, mỗi lúc quân thù tới khiêu chiến, em phải tự cổ võ; biết mình ngại song đấu, em quay lưng, không thèm nhìn mặt đối phương; em chạy đến với Giêsu của em, thưa Người rằng em sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng của em để tuyên xưng có thiên đường trên trần thế này”. Ở đây Têrêsa cũng trao cho chúng ta bí quyết chiến thắng của Chị: Chị không đánh thẳng vào địch như Chị sung sức, nhưng Chị đến bên Đức Kitô chiến thắng: Thánh Phaolô đã dạy: “Trong những gian nguy đó, chúng ta thắng nhờ Đấng đã yêu chúng ta” (Rm 8,37). Têrêsa đã lưu ý để không đọ sức mình với kẻ thù, thì Chị cũng chứng tỏ một sự can đảm nghịch thường, để sức mạnh Đức Kitô triển khai trong sự yếu hèn của Chị. Như Thánh tông đồ, nếu Chị dám tự hào về những yếu kém của mình, thì chỉ vì quyền lực của Đấng phục sinh ở trong Chị. Khi Chị yếu, mà nhìn nhận mình yếu, thì Chị mạnh (2Cr 12,8-10). Chị nghèo, mà biết dùng cái n ghèo của mình, nên Chị mở cho chúng ta một đường lối Tin Mừng.
Têrêsa phải trung thành thật lâu để thanh tẩy và hoàn thiện thái độ ngoan thảo đối với Thiên Chúa. Chị cũng dạy các em phải lặp lại hành động phó thác để thành tự phát. Nếu họ thất bại, chính vì họ quá vội vàng hoặc đã quên lơ một trong ba yếu tố bảo đảm cho phó thác chính danh: một là minh bạch và chân thành ý thức mình ở trước mặt Chúa; điều thứ hai khó hơn là ý thức thực trang, tức là chân thành và tuyệt đối chấp nhận tất cả những giới hạn, những thói tật hoặc tình trạng luân lý kém cỏi của mình, và thứ ba, quan trọng nhất, là hiến dâng Chúa tất cả những gì mình đã thấy và chấp nhận. Những hoàn cảnh và nhu cầu sư phạm sẽ đòi Têrêsa nhấn mạnh tới diện này hoặc diện khác để tự do bay về bên Chúa. Chúng ta sẽ coi Chị khai triển thế nào những nguồn lực này của việc dâng mình. Yếu tố đầu tiên: Cái nhìn khách quan, trong ánh sáng của Chúa Trực tiếp chạy về với Thiên Chúa phải cho chúng ta nhìn khách quan toàn bộ tình trạng, không phủ nhận hoặc tô màu theo mong ước của mình. Chính trong lúc cầu nguyện mà Chị Têrêsa - bị hoãn khấn dòng - nhận ra rằng nỗi buồn này đến chủ yếu do tự ái bị tổn thương. Nếu một tập sinh băn khoăn về chuyện Bề trên ưa thích một nữ tu, Chị không nhắc tới tình thương của em bẽ bàng... “Không phải em yêu Mẹ đâu, em yêu mình đấy!” Hẳn là chúng ta không luôn luôn chịu trách nhiệm về sự mệt mỏi của mình: “Nhìn thất cả đều đen tối thì thật là một thanh luyện lớn, nhưng đâu phải tất cả tuỳ em”. Tuy nhiên, nếu đôi khi nản vì tính khí mình hoặc vì những hệ luỵ của đời sống tình cảm, chúng ta thường tự bào chữa quá dễ dàng: “Khi em phạm lỗi, đừng bao giờ đổ cho một hoàn cảnh thể lý, như bệnh nạn hoặc thời thế, mà phải nhận rằng sai phạm này do em bất toàn, mà đừng khi nào nản”. Thế là Chị phân biệt tình trạng chúng ta không làm chủ được và hành động chúng ta phải đảm trách. Nếu Têrêsa nhìn nhận tính vô tư trong những thảm cảnh tâm lý của chúng ta, Chị cũng không tìm tránh tất cả khủng hoảng trong việc đào tạo những lương tâm đã quá rộng. Nếu chân thành yêu Đức Kitô, chúng ta phải vui nhận những đòi hỏi của Thiên Chúa. Người tự biết và tự cảm thấy mình là tội nhân sẽ không chán nản “trong xó”. Nhưng đến với Cha hiểu biết và thứ tha, không sợ thú lỗi, vì như thế, mình đi vào lòng từ bi của Thiên Chúa. Lòng phó thác phải sống trong tâm tình khiêm tốn không câm nín. Không bao giờ chúng ta quá sáng suốt về sự yếu đuối của mình, nên Têrêsa xin các em nhìn thực trạng của mình. Khi Chị Geneviève hăng hái xin các chị em đừng vò quá mạnh những tấm khăn đã cũ, Têrêsa hỏi chị; “Chị sẽ làm gì, nếu Chị không phải vá những tấm khăn này?” Bi thảm hoá tình trạng để ca cẩm hoặc để được chú ý thì cũng vô ích. Phải đúng mức luôn, buồn nản cũng như hứng khởi. Bạn tự hào về một sáng kiến tốt đẹp? Bạn sẽ phản ứng thế nào, nếu đó là việc người ta bắt buộc bạn? Vì “bao giờ cũng có những NẾU và NHƯNG khi ta phải chấp nhận những ý kiến của người khác”. Thế là ánh sáng Tin Mừng, những giới răn của Chúa, sự vật, con người và các biến cố đều có chỗ của chúng, chỗ mà chương trình của Chúa dành cho chúng. Yếu tố thứ hai: Nhìn nhận và đảm nhận Nhìn thật rõ những khiếm khuyết của mình không được làm chúng ta tê liệt; trái lại, đây là bước đầu về giải thoát, vì phải nhìn nhận và chấp nhận ngay trước mặt Chúa sự bất lực và dễ bị thương tổn của chúng ta mà ta vừa ý thức. Thấy mình gầy yếu và nghèo nàn mà chạy trốn hoặc nhờm tởm thì có làm gì? Than phiền để tăng thêm cái tệ thì được gì? Chỉ cần nhẫn nại và chịu đựng mình, tin chắc tình yêu của Cha, Đấng đón nhận các con trong thực trạng của chúng, để làm chúng nên như Ngài muốn. Chúng ta đã nhắc đoạn văn rất tế nhị mà Têrêsa tự bộc bạch vào cuối đời về một xúc động của Chị trước mặt Mẹ Agnès. Xin nhắc lại lời này, một trong những lời cho ta thấy nữ tu trẻ Cát Minh đã bình định được, dầu những dao động của tính khí còn đó: “Em không lấy màn nản, dầu thấy mình là chính sự yếu đuối; trái lại, em tự hào về nó và mỗi ngày em trông khám phá thêm những khuyết điểm mới trong em... Thú thực, những ánh sáng về hư vô của em làm ích cho em hơn những ánh sáng về đức tin”. Cảnh nghèo túng thật lòng trở thành nguồn vui cho Têrêsa. Thay vì chán nản và co quắp, Chị triển nở. Chúa đến nâng Chị lên, vì ngài thấy Chị quá yếu! Chị ra mắt Ngài trong cảnh thiếu thốn, Ngài sẽ thương Chị: “Em cảm thấy thật hứng khởi, không chỉ vì được coi là bất toàn, mà nhất là vì em cảm thấy đúng thật như thế”. Làm sao Chị buồn được khi mà người ta nghĩ về Chị cũng giống như Chị nghĩ? Những người khác có lý? Dầu tình trạng bi đát làm sao, nếu nó là do Chúa can thiệp, thì mình buồn nản làm gì? Trầm tư như thế trong niềm tin, cái nghèo nuôi dưỡng và thúc đẩy hy vọng. Nhưng thật nhiều khi chúng ta sợ cảnh trần trụi của mình. Têrêsa an ủi: “Thật ít người dám nhận mình té ngã, yếu đuối, ít người dám thấy mình nằm sóng soài và người khác cũng thấy mình như vậy”. Dùng lại biểu tượng Chị đã dùng trong thư gởi Chị Marie du Sacré-Coeur, Chị tóm tắt giáo huấn của mình thế này: “Chúng ta chỉ kiên nhẫn chịu đựng nghịch cảnh, ướt một chút thì đã sao”. Đảm nhận yếu hèn nhân sinh một cách rất Têrêsa như thế trực tiếp đáp lời mời gọi của Đức Kitô trong Tin Mừng: “Không phải những người khoẻ mạnh cần y sĩ, nhưng những bệnh nhân” (Mt 9,12). Sức mạnh hùng hậu của Têrêsa là đưa xác tín đó vào cuộc sống. Yếu tố thứ ba: Dâng minh Chấp nhận thực trạng, chưa đủ. Phải dâng mình. Có thể người ta chỉ “dạ” cách thụ động, hoàn toàn khuất phục định mạng, hoặc thưởng thức đau khổ bằng niềm vui bệnh hoạn. Phó thác như Têrêsa quan niệm và dạy thì tất yếu bao hàm hướng tâm lên Chúa, một tiến trình hy vọng. Đức Giêsu bảo: “Hãy đến với Ta, tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ cho các con nghỉ ngơi” (Mt 11,28). Vậy phải lên đường, không chờ đợi xứng đáng với Chúa hoặc hài lòng mình. Trong thực tế Chị Giáo Tập Têrêsa nhấn mạnh đến việc hướng về Chúa này, việc đã trở thành quen thuộc với Chị. Chị nóng lòng thấy các em bước qua tình trạng hồi tâm thứ ba này, tình trạng mà Chị cho rằng không thể bỏ qua. Phải dâng phú tất cả cho Chúa và hy vọng tất cả ở một mình Ngài. Tuy thế, Chị lưu tâm không đề nghị phương pháp của mình một cách cứng ngắc: sư phạm của Chị thích ứng với từng người và từng hoàn cảnh. Bước khởi đầu, với những người bắt đầu tập phó thác, không nên lưu tâm tới tình trạng làm mình phải đau khổ; sau này, chị sẽ trở lại để bình tĩnh phân tích. Chị bằng lòng với một cái nhìn thoáng qua về thử thách đang có hoặc sắp tới và chạy đến với Đức Kitô chiến thắng. Nghiền ngẫm, thử luyện chính mình hoặc đau khổ, sẽ dễ làm cho người ta chán nản hoặc chậm bước hiến dâng mà Thiên Chúa chờ đợi: “Rất thường khi chúng ta ngần ngại rồi mới hiến dâng; chúng ta ngại hy sinh những lợi ích trần thế và tâm linh; tình yêu đâu có thể. Yêu thì mù quáng”. Khi Têrêsa khuyên Chị Geneviève làm lại cuộc khám phá thời thơ ấu bằng cách “chui qua bụng ngựa”. Chị giải thích thế này: “Chui qua các công việc, nghĩa là không đối diện quá gần, không suy luận chúng”. Đừng để mình bị khó khăn ám ảnh, đừng đứng bất động trong nơi mà mình đã thất bại, nơi đầy những ấn tượng tiêu cực và những tình cảm nhiều ít buồn nản. Trong những lúc như thế này, lúc mà mọi chuyện ngổn ngang trong tâm tình, chúng ta vội vàng tới gặp một người tin tưởng để thổ lộ thì người đó có thể chặn bớt nguy hại cho chúng ta. Nếu một tập sinh muốn kể lể những nỗi buồn của mình, Chị sẵn sàng nghe đúng lúc không còn “một chút đam mê”. Trước hết phải đặt tất cả cho Chúa; chỉ sau đó ta mới có thể lạnh lùng phân tích biến cố, để hiểu mình rõ hơn và để phản ứng với một tâm hồn mới. Nhờ hồng ân của Chúa, chúng ta sẽ sớm nhận ra có nhiều nguyên nhân pha trộn. Việc gặp Chúa thực sự sẽ cho ta thấy những giới hạn và sự yếu đuối của ta. Cám dỗ có thể tới do việc chúng ta tìm mình, nghe mình, lượng giá mình. Nguyên nhân còn có thể là chậm trễ hoặc bỏ mất kế hoạch của Thiên Chúa, vì Cha chúng ta không cho chúng ta ánh sáng để làm mù quáng, nhưng để soi đường chúng ta. Thay vì chán nản bởi thấy mình đầy những chống đối và ngần ngại, chúng ta phải nhìn lên Chúa, chấp nhận và hiến dâng Ngài hình ảnh đáng chán về chính chúng ta. Dầu chúng ta thiện chí đến đâu, cũng chỉ duy mình Thiên Chúa có thể giải thoát chúng ta; vì thế Têrêsa rất trân trọng hoạt động của Thánh Linh trong những người khác. Một em đang phải chiến đấu, tới kể cho Chị nghe về những đấu tranh và thất bại của mình, Chị không an ủi suông, Chị lưu tâm để tình cảm mình không ngăn chặn giữa em và Đức Kitô hoặc ngăn chặn những sáng kiến ban đầu. Em phải trở về với Chúa, với một mình Ngài, để tìm nương tựa. Chính vì thế chúng ta tah61y Têrêsa cắt đứt câu chuyện với một em tập sinh khi tới giờ cầu nguyện, để bắt em phải trở về với Chúa. Khi Chị Geneviève buồn nản và lặp lại: “Em không bao giờ tốt được!” Têrêsa hướng chị về với Thiên Chúa, với Ngài thì không gì là không có thể: “Được, được, chị sẽ tốt; Chúa nhân từ sẽ làm cho chị tốt”. Luôn luôn là một suy nghĩ: bắt đầu bằng việc phó thác cho Chúa. Mỗi ánh sáng mới mà Thiên Chúa ban cho chúng ta về sự yếu hèn của mình đều là lời Ngài mời gọi để cho quyền năng của Ngài hành động. Têrêsa tự nhiên đáp lời bằng việc “cất cánh bay” về với Cha. Khiêm tốn và sáng suốt về chính mình, cho đến cuối đời, Chị vẫn trung thành với những hứng khởi của tình yêu đầy hy vọng, những hứng khởi từ từ giải thoát Chị khỏi những cảm giác tiêu cực; và Chị coi như thiếu tế nhị với Thánh Linh khi ngưng lại một chút ở những tình cảm thuần tuý nhân loại. Sự thức tỉnh này của Têrêsa và việc Chị quan tâm để đưa tất cả về với Thiên Chúa đã ảnh hưởng tới cuộc sống huynh đệ của Chị. Chị không vội vàng về với Cha mà không mang theo tất cả những tương quan nhân loại, cũng như Chị không gặp gỡ chị em mà không mang theo cái nhìn Thiên Chúa đến với chị em. Chính vì thế những lời khuyên của Chị về đức ái có một chiều sâu đặc biệt. Tất cả về với Chúa, trong tinh thần và sự thật, sẽ chấn chỉnh và tăng cường cuộc sống huynh đệ: Têrêsa rất nhìn nhận luận lý này của đức ái, có khi Chị còn vui vẻ nói: “Đôi khi trong bụng mình rất chán, phải vội vàng ra đi... Em không biết phương pháp nào khác để ra khỏi mình và đến thăm Giêsu, thăm Maria, hơn là chạy đến với những công việc bác ái”. Theo giáo huấn của Chị, một chút hành động, một chút đời sống hằng ngày cũng có thể mang lại cho chúng ta cơ hội hướng về Thiên Chúa, không chỉ trong những lúc đau khổ, mà cả trong những dễ chịu và tiện nghi, trong những thú vui của cuộc sống: “Em thấy dâng cho Thiên Chúa điều mà mình đang cảm nghiệm là việc thật đơn giản”. Khi Têrêsa để tình cảm ngự trị một phút, sự yếu hèn của Chị liền trở nên một dịp cho Chị lập lại niềm tin tưởng: “Bất kể em đã cảm thấy điều gì trước hết, em lặp lại với Chúa Nhân Hiền rằng em yêu Ngài hơn nữa”, Mỗi lần sa ngã đều đưa Chị về với Đức Kitô cứu chuộc, mà chiến thắng lớn nhất của Chị là biết dâng những bất trung thoáng qua của mình: “Em vội thưa Chúa Nhân Từ rằng: Chúa ơi, con biết con đang buồn và con đáng chịu như thế, nhưng hãy cho con dâng Chúa tất cả, như một thanh luyện ma Chúa gởi đến vì yêu. Con hối tiếc vì tội lỗi, nhưng con hài lòng vì con đau khổ để dâng Chúa”. Tự hiến cho Chúa trong hiện cảnh của mình: đó là quyết định phải trở lại luôn từ bước đầu đến hết con đường Phúc Âm, lần đầu tiên trở lại cũng như sau những năm trung thành. Vì không bao giờ chấm dứt việc dâng mình cho Chúa, mỗi lúc một vui vẻ tự nguyện hơn. Không bao giờ chấm dứt kiên trì khổ luyện của việc phó thác sẽ giúp chúng ta hiệp nhất hơn với thái độ người con đích thực của Thiên Chúa, thái độ của tất cả “những ai để Thánh Thần hướng dẫn mình” (Rm 8,14).
Để dễ phân tích sự phó thác theo thánh Têrêsa, chúng ta vừa diễn tả những thành tố, theo lời và gương mẫu của Chị Cát Minh trẻ này. Khỏi cần nói, trong thực tế, ba yếu tố này chỉ làm nên một thái độ chung, sống trọn vẹn trước nhan Chúa và trong Chúa. Để minh hoạ điểm này, điểm quan trọng bậc nhất, chúng ta lượm lặt vài chi tiết cuộc sống và sư phạm Têrêsa. “Tưởng tới những đau khổ - Chị nói - tưởng tới những vất vả đang chờ đợi, em chỗi dậy vàng vui tươi và phấn chấn hơn vì thấy trước những cơ hội để chứng minh tình em yêu Giêsu và để kiếm ăn cho các con của em”. Ý thức, rồi chấp nhận không phàn nàn, sau hết là hiến dâng, với ý hướng tông đồ, rộng mở chân trời và tẩy trừ vị kỷ: cả ba vẫn tồn tại nơi đây, mà đã tổng hợp hài hoà. Như Jeanne d’Arc, Têrêsa muốn vui nhận tất cả, và mỗi sáng chị chấp nhận chương trình sống bằng một lời: YÊU. Về một chuyện xảy ra trong cuộc sống cộng đoàn, Chị nói với Geneviève: “Em muốn được tố cáo bất công hơn, vì em chẳng có gì để tự trách, nên em vui vẻ dâng nó cho Chúa; tiếp theo, em tự hạ vì nghĩ rằng em thật có thể làm chuyện mà người ta tố giác này”. Ở đây, suy nghĩ đầu tiên là hiến dâng. Bởi niềm tin tự phát, hoặc bởi tự khinh vì yếu đuối, Têrêsa nhảy đến Chúa liền. Chỉ sau đó, Chị mới trở về với mình, không để phàn nàn hoặc tự bào chữa, nhưng để đặt lại câu chuyện mà Chị là ân nhân trên bối cảnh khốn nạn của mình. Cũng chính theo đường lối này mà Chị đã khuyên các em: “CÁc em hãy vui vì thấy rằng khi để cho các em cảm nhận yếu đuối là Giêsu nhân ái đã cho em cơ hội để cứu cho Ngài nhiều tâm hồn hơn”. Để một em ghi nhớ tập quá bay về Chúa, Têrêsa đôi khi bỏ mặc em, nghĩa là hướng dẫn em “không trông gì ở con người, chạy đến Chúa Nhân Hiền, nhìn lỗi mình, tự hạ”; và an ủi duy nhất Chị mang lại khi đó là nhắc nhớ rằng chỉ có một điều tối cần: phải thoát ra khỏi mình, tập trung vào chính Chúa thôi. Thế là khi Chị Geneviève, khổ sở vì bệnh tật đòi hỏi, tìm tới Chị Giáo Tập, Chị này an ủi bằng cách trao lại một sứ điệp của Đức Kitô: “Em biết Chị rất khổ vì đó... Vâng, đúng, em hẳn hân hạnh nếu em được xin điều đó! Có thể bản năng tự nhiên thấy khó khăn, nhưng em tưởng em sẽ hành động với tình yêu nhiều, bởi nhớ lời Chúa: ‘Tôi bị bệnh, mà bạn đã an ủi’” Cũng Chị Geneviève cho ta phân tích phương pháp giáo dục của Têrêsa đây: “Thay vì dạy chúng tôi thắng trận bằng cách phá huỷ nguyên nhân, Chị bảo chúng tôi nhìn thẳng vào... Chẳng hạn tôi đến thưa Chị rằng ‘nay là thứ Bảy rồi, Chị có nhiệm vụ chất đầy củi bếp lại không làm, trong khi tới phiên tôi, tôi đã săn sóc đầy đủ’, Chị lại tập cho tôi quen thân với chính chuyện đã làm tôi bất mãn đó. Không gắng xoá đi tấm bảng đen tôi đã vẽ ra trước mắt Chị, Chị gắng chiếu sáng, Chị đòi tôi nhìn thật gần và Chị như đồng ý với tôi ‘Được, chúng ta chấp nhận. Đồng ý rằng chị bạn mắc tất cả những lỗi lầm mà chị gán cho đó...” Chị hành động thế để tôi khỏi phản kháng và Chị tiếp tục làm việc trên nền tảng này. Từng chút, Chị làm tôi yếu thích số phận tôi, làm tới độ tôi mong các chị em thiếu quan tâm tới tôi, thiếu chuẩn bị cho tôi, mong các chị em ít làm tròn mệnh lệnh, mong tôi bị la rầy thay cho họ, bị tố cáo khuyết điểm cả trong việc tôi không được trao phó. Sau cùng, Chị cho tôi có những tình cảm thật toàn thiện. Khi đã đạt chiến thắng này, Chị kể cho tôi nghe những gương mẫu kín đáo về nhân đức của chị em mà tôi tố giác. Thế là ác cảm nhường chỗ cho cảm phục và tôi nghĩ rằng những người khác tốt hơn tôi. Chưa hết, nếu Chị biết thùng củi nổi tiếng kia đã được chị đó chất đầy sau khi tôi ghé thăm, Chị không nói cho tôi biết điều đó, dầu tiết lộ đó làm tiêu tan ngay cuộc chiến cho tôi. Chị cứ theo kế hoạch như tôi vừa phác lại, chỉ khi đã cho tôi những tâm hướng toàn thiện, Chị mới đơn giản bảo: Em biết thùng đầy củi rồi. Đôi khi Chị đã làm chúng tôi ngạc nhiên vì những khám phá kiểu đó và Chị lợi dụng hoàn cảnh để chứng minh cho chúng tôi thấy người ta rất thường tạo cho mình những trận chiến vì những nguyên nhân không có và vì những chuyện thuần giả tưởng”. Nhưng tài liệu đậm đà nhất và cảm động nhất về phó thác mà Têrêsa để lại cho chúng ta hẳn là lá thư Chị đề 29.6.1896, gởi Mẹ Marie de Gonzague, Bề Trên tái cử từ mấy tháng trước. Trong lá thư này, Chị cho chúng ta vừa lý thuyết, vừa thực hành Lối Nhỏ của Chị. Phải tới bảy vòng phiếu bầu, Mẹ mới được chọn, nên ta dễ hiểu bầu khí nội bộ Bà Bề Trên này sống, phát sinh từ những căng thẳng Bà cảm thấy trong cộng đoàn. Têrêsa đợi ba tháng rồi mới viết. Hơn ai, Chị ước lượng sự uể oải của Mẹ, vì Chị đã được chia sẻ những tâm sự của Mẹ. Để giúp đỡ, Chị đã cầu nguyện, hẳn là Chị muốn tha nhân được vui vì thấy việc mình có hiệu quả rõ ràng hơn. Nhưng thời gian trôi, mà chẳng có gì thay đổi. Têrêsa đành nói điều phải nói. Mà làm sao dung hoà được tôn trọng và sự thật, cương quyết và thiện cảm? Sau cùng Têrêsa tìm được cách đầy dễ thương và tế nhị: Chị để chính Đức Kitô nói! Chính Ngài sẽ can thiệp, Mẹ Bề trên sẽ nhận những lời khuyến khích và cảnh cáo từ chính Ngài thôi. Để làm thế, Têrêsa tưởng ra hư cấu ba nhân vật: Vị Mục Tử Nhân Hiền, một người chăn chiên, Mẹ Bề trên, người đang cho rằng đàn chiên chê mình, và sau chót là một CỪU nhỏ, thay cho chính Têrêsa, được Vị Mục Tử giải thích cho biết đường lối thanh luyện người Chăn Chiên. Mục tiêu là đưa Mẹ Bề trên trở về những lý lẽ của Đức Kitô. Dầu Mẹ nhạy cảm lắm, cũng phải nhìn nhận sự thật, và một khi đảm nhận những tỉnh mộng bình thường, Mẹ sẽ không để trách nhiệm trên vai người khác. Têrêsa khai triển luận lý của Chị trong tiếng nói Vị Mục tử: “Đúng, Thầy hiểu... nhưng người chăn chiên hãy an tâm đui. Không phải Thầy cho phép, mà Thầy MUỐN thanh luyện lớn này mang lại cho nàng nhiều đau khổ... Tại sao à? TẠi vì Thầy YÊU nàng chăn chiên của con! Nàng đã đau khổ nhiều vì Thầy... nhưng nàng chưa có một nỗi đau bầu cử mà Thầy vừa gởi tới cho nàng”. Mẹ Bề trên đừng tưởng việc tái cử khó khăn này là do “tinh thần thế tục” hoặc “những suy niệm phàm hèn” xâm chiến chị em: “Thầy xác định với con rằng Thầy nhìn thấy hết: Đoàn chiên chỉ là DỤNG CỤ CỦA THẦY để chu toàn công cuộc thánh hoá”. Đến cả sự im lặng của Vị Chủ Chăn cũng là để thúc đẩy hồi tâm: “Nếu Thầy nói với nàng, thì còn gì thanh luyện... Mà Thầy không muốn nàng mất sự thanh luyện, Thầy chỉ muốn nàng hiểu sự thật và nhìn nhận rằng thập giá của nàng do Trời ban, không bởi trần gian”. Nếu bề trên ngạc nhiên vì đau khổ đến với mình do chính người Chị em mà mình lưu luyến, Vị Mục tử nhắc nàng nhớ chính cuộc tử nạn của Ngài: “Hãy nhìn những vết thương này, chính là những thương tích Thầy đã nhận trong nhà những người yêu Thầy” (Zc 13,6). Têrêsa tiến hành thế đấy. Chị chữa thương tích bằng cách mở ra. Chị tháo gỡ những lẩn tránh và những sức đẩy giả tạo; rồi vẫn tế nhị và khôn khéo, Chị dẫn nữ tu - cả bốn chục năm niên trưởng - tới chỗ đảm nhận cuộc thanh luyện của mình. Thế là cuộc khủng hoảng tâm tình có ý nghĩa trong đời sống bề trên; trong trực cứu thế, chướng ngại tình thân trở thành đau khổ “được yêu quý và đón nhận với lòng biết ơn”, hiệp với hiến lễ Đức Kitô dâng Chúa Cha. Chịu đựng, không đủ. Bề trên sắp lâm nguy là vị kỷ và co quắp hơn nữa. Điều bà Mẹ phải hiểu là: Chính Đức Kitô “lấy đi những điểm tựa phàm nhân để thay vào duy một trái tim đầy yêu thương” và qua nỗi cô tịch triển nở của người hữu trách, Ngài gọi “kết hợp với mình Ngài thôi”. Từ nay, tất cả hy vọng của Mẹ phải đặt ở một mình Thiên Chúa: “Hạnh phúc người nương tựa Ta” (Tv 84,6). Với trực cảm tâm linh rất vững, ngay từ đầu thư. Têrêsa đã đưa Bề trên của Chị vào vùng ánh sáng Tin Mừng. Bên kia những hình ảnh chăn chiên, Têrêsa đã tạo được sức mạnh: Người nữ tu đang đau khổ hướng về Đức Kitô Mục tử, người nào suốt con đường tin tưởng do Têrêsa chiếu sáng. Từ một bà dòng hao mòn và chán nản, Niềm Phó thác kiểu Têrêsa đã mang lại một nữ tu Cát Minh hoàn toàn sẵn sàng cho Nước Chúa. Bí quyết khôn ngoan và linh lợi của Têrêsa, chúng ta đừng tìm ở đâu ngoài việc thực hành trung kiên, thường khi anh hùng, việc phó thác Người đã tóm lại trong một công thức phổ biến hôm nay: “Thánh thiện không ở làm việc này, việc khác, thánh thiện ở quyết tâm chúng ta hèn kém và nhỏ mọn trong vòng tay Thiên Chúa, ý thức mình yếu đuối và liều lĩnh tư tưởng ở lòng CHA nhân hiền”.
Việc PHÓ THÁC, một việc giúp Têrêsa có thể luôn luôn hô hấp bầu khí Bát phúc, biểu lộ trực cảm vừa rất đơn giản, vừa rất thánh thiện, mà tinh tuý đã đi vào cuộc sống Têrêsa, gạt bỏ tức thời tất cả những giải thích hàm hồ. Trước hết, dầu phát sinh bình an, việc cất cánh này không thể được giản lược vào một tiến trình thuần tâm lý, để làm dịu những đấu tranh nội tâm. Mặt khác, tuy tiến trình, mà Têrêsa đề nghị, không đòi những kiến thức thâm thuý hoặc những giá trị nhân bản cao, nó vẫn cho phép mọi người nên thánh như mình được gọi. Lại nữa, trọn vẹn đặt mình trong tay Chúa không che đậy việc kín đáo rút lui trước cuộc sống cam go. Không những không trốn những yêu sách cụ thể, việc Phó Thác còn hàm chứa việc hoàn toàn ý thức chướng ngại và can đảm quyết tâm ngoan thảo với Chúa để đương đầu với những khó khăn. Phải trả giá đó, một hành vi con người mới thành hành vi Kitô hữu. Vì Thánh Thần trở thành Luật của chúng ta: “Vâng, em muốn Người chiếm ngự mọi cơ năng của em, đến độ em không còn những hành động phàm nhân và cá nhân, nhưng đều là hành động thần thiêng, được gợi hứng và hướng dẫn do Thần Tình Yêu”. Têrêsa thường nhắc lại thực tế này bằng dụng ngữ Chị ưa thích hơn: “Trong vòng tay Chúa Nhân Hiền”. Đã rõ việc Phó thác, theo thánh Têrêsa, dầu có biến đổi cả những thanh luyện, cũng không có gì gọi được là dễ dãi. Chúng ta không thể thực sự dâng mình cho Chúa mà không thực tế xa lìa mọi tìm cầu vị kỷ. Mặt khác, đường thơ ấu tâm linh này không tìm cách giảm nhẹ đau khổ, nhưng để sống đau khổ cách tích cực và cứu thế. Suốt cuộc đời, Têrêsa luôn vui tươi nhìn đau khổ chỉ để “làm vui lòng Chúa”, không một lời than. Chị còn thắc mắc cả chuyện làm sao chịu nổi thiên đường mà không có đau khổ, vì việc phó thác thảo hiền làm sinh động trong Chị tinh thần hiến tế. Têrêsa đòi khước từ liên tục và thầm lặng; mà thường là khước từ những gì mình tha thiết nhất. Còn những lo lắng và bận tâm? Phải từ bỏ tính bồng bột và bốc đồng trong hành động. Những tư tưởng vô ích thì sao? Tốt hơn, nên nhẹ nhàng trở về cầu nguyện. Muốn tìm vui mặc sức? Phải biết nói “xin vâng” với Chúa, tiếng nói này thắng mọi ươn lười. Nếu cảm thấy xuống tinh thần vì mình đã sai lầm hoặc sống trong tội luỵ, cần tự hạ và chờ đợi tất cả do lòng từ bi Chúa. Sau hết, trước những giới hạn và những bất lực của chúng ta, phải khiêm tốn chấp nhận rằng mình không thể bỗng chốc thay đổi và dâng mình cho Tình yêu thiêu hoá. Suốt ngày, để lập lại việc thoát ly này, thiện chí đơn giản chưa đủ; cần can đảm nhiều để không chống trả khi tự nhiên đối đầu nguy hiểm. Đó chính là cách Têrêsa chứng tỏ tình yêu Giêsu, vì “yêu là trao tặng tất cả và tặng cả bản thân”. Việc này cũng lại đòi tâm hồn đại đảm. Cũng không thể mượn tiếng Phó thác mà co cụm và để những thất vọng, những oán hờn sình lên trong mình. Trước một tật xấu hoặc cám dỗ dai dẳng, chúi đầu xuống cát mà làm gì. Đâu phải phủ nhận thực tế là trở ngại biến tan. Thái độ như thế cũng chẳng thể tồn tại lâu dài; sớm muộn, người ta sẽ trật đường và bị đụng. Têrêsa khuyên các em đừng đốt giai đoạn; phải kiên trì đảm nhận từng khó khăn, để chúng khỏi chất đống lên. Têrêsa nhìn thẳng vào những thử thách để dâng phú chúng cho Chúa cách chắn chắn hơn, Chị dạy chúng ta đức khiêm tốn của người hồi chánh. Chị không tìm cách chối bỏ giới hạn, nhưng dùng chúng làm đà nhún cho lòng tin tưởng. Phó thác theo kiểu Têrêsa không những gạt bỏ mọi lẩn trốn thực tế, mà còn luôn dẫn ta về đối thoại với Chúa khi ta muốn chạy trốn Ngài. Thiếu gì lần, chất chồng những mệt mỏi thường ngày, chúng ta hẹp hòi không muốn gặp Chúa trong cầu nguyện, hoặc để Ngài lôi ta đi. Nếu ta bình thân chờ đợi Ngài một lát, đáy lòng ta sẽ từ từ chan hoà ánh sáng hơn cảnh nghèo túng của ta, vì thế ta muốn lẩn trốn Ngài. Sợ quá nên không dám hoàn toàn bỏ CHA, tự ái quá nên không đủ chân thành đối diện với Ngài, chúng ta lẩn trốn vào hoạt động như điên, trí thức hoặc không, cần thiết hoặc không, miễn nó lôi ta khỏi cặp mắt Chúa trong lòng ta. Ai muốn làm vinh danh Ngài thì làm... Thực ra, không cần phải bỏ Chúa, mà phải giải thoát ta khỏi sự vật hoặc biến cố nào trăng trói. Têrêsa không lầm khi nhắc nhở: “Chị phải đày mình đi... khỏi nhu cầu cá nhân, hãy dùng thời giờ đã chỉ định, mà tâm hồn thanh thản. Em đọc thấy rằng ngày xưa người Israel xây thành Giêrusalem, tay xây, tay cầm gươm. Đó chính là hình ảnh mà chúng ta phải làm theo”. Mặt khác, việc phó thác, nếu thực là của Chúa, sẽ không bao giời là cách trá hình để tìm lại bản thân khi tinh vi gán ghép cho Chúa những ý muốn, nhu cầu và tiếng gọi vẫn còn căn vị kỷ. Có nhiều người tưởng mình hướng về Chúa khi thực tình họ chưa hề rời mắt khỏi bản thân. Chưa có gì trong họ sáng tỏ hoặc thanh luyện rồi. Là nhà giáo dục, nhiều lần Têrêsa vạch trần thói vị kỷ này nơi các em tập sinh, hoặc thức tỉnh các em về hành vi tự tụng dưới những bộ mặt xinh đẹp, đừng ảo tưởng : thánh mơ không phải thánh thực: “Em không khinh những tâm tư sâu lắng, có thể nuôi dưỡng và hiệp nhất tâm hồn với Chúa, nhưng từ lâu em đã hiểu không nên dựa vào những tâm tư ấy và coi toàn thiện là đón nhận nhiều ánh sáng. Những tâm tư đẹp nhất mà không có công cuộc thì cũng là không”. Chị Giáo Tập cạo hết lớp sơn bóng để thấy gỗ thô của cuộc sống thực chất Tin Mừng. Những bù trừ nhiều ít ý thức, những tìm lại mình ít nhiều che đậy, thái độ vô tư ranh mãnh hoặc tự phụ, cả ngàn mánh lới con người có thể kiểm tra để tự biện hộ hoặc gợi lòng thương cảm, tất cả đều không hoà hợp với tuổi thơ tâm linh: vì ngay từ đầu, tuổi thơ tâm linh đòi chân thành đối diện với bản thân và với nghịch cảnh, không phải để thắng, mà để đảm nhận trong yêu thương, không để chối từ, mà để dâng Chúa. Phó thác càng ngoan thảo và tự phát, người ta càng nhìn thấy Ý Cha và tiếng gọi của Đức Kitô cứu thế trong mọi biến cố. Như vậy, Phó thác kiểu Têrêsa đồng thời như quan sát và như nhịp bước; vì thế nó diễn tả rất rõ thực tế Tin Mừng của niềm tin. Têrêsa rất mau cảm thấy rằng sứ điệp của Chị có thể hữu ích “cho một số lớn tâm hồn nhỏ bé”, nghĩa là cho nhiều Kitô hữu thiện chí mà những đường lối khác không chấp nhận. Thực tế, những lời khuyên của Chị có thể mang vào mọi hoàn cảnh, vì gốc rễ nó trong đời thường. Trước hết, Chị có thể thấy “Lối Nhỏ” giá trị nơi chị em trong đan viện của Chị, Chính họ đã làm rõ nét tâm tư Chị. nhưng người ta cũng thấy “Lối Nhỏ” này được giới thiệu cho một Chủng sinh, một Thừa sai đi Trung Quốc, cho Chị Léonie mới hồi tục sau những gắng thử đời tu. Têrêsa tiếp tục thúc đẩy và khuyến khích họ, vì khi xác nhận những mong muốn của Thiên Chúa cho các con của Ngài và khi động viên Kitô hữu sống quảng đại, giáo thuyết này tôn trọng những dự kiện cụ thể của từng người. Nghe Chị Giáo Tập trao những lời khuyên mạnh mẽ và nhiệt thành đến thế, chúng ta dễ dàng quên tuổi trẻ và bệnh tật của Chị, tính nghiêm khắc về khổ chế trong đan việc Chị, những tiểu tiết và những luỵ phục lưu hành trong cuộc sống tu trì vào cuối thế kỷ XIX này. Chính Têrêsa thì quên sao được, nhưng cũng chẳng khi nào Chị quy ngã. Chị và các em tập sinh coi màu u trầm hằng ngày như tiếng gọi thêm yêu mến; những phức tạp ngày ngày không làm Chị đi sai dự tính từ đầu: Yêu Giêsu và làm cho mọi người yêu Ngài; trái lại, Chị coi tất cả như phương tiện về với Chúa. Chị coi thánh thiện biểu lộ trong cuộc sống thường ngày. Phó thác đã có vị trí quan trọng trong sư phạm Têrêsa, thì phó thác cũng là trục cho bước tiến tâm linh của Chị tới cùng. Chính phó thác dẫn đến dự án táo bạo để Chúa hoạt động trong Chị và cho đức nghèo của Chị một ngôn ngữ thảo hiền. Chính phó thác mở đường cho Chị đoán ánh sáng Chúa trao. Nhờ phó thác mà, khi đáp lời những ướm hỏi của Cha, “Đấng đã yêu chúng ta trước”, mà Chị dâng mình cho Tình Từ Ái. Sống như em bé nghèo, trơ trọi, dễ bị thương tổn, nhưng chắc chắn được Cha yêu thương: đó là dự án duy nhất của Têrêsa, mà việc phó thác chỉ là mang thực hiện dự án Tin Mừng đó. Vì Thiên Chúa, Đấng gọi Chị, muốn chính Ngài là thật sự của Chị, là tài sản, là niềm vui của Chị. Têrêsa hiểu rằng ở đây tặng không bằng nhận, kiên vững không bằng trao mình cho Thánh Linh, Ngài làm mọi sự mới. Chọn theo đức nghèo tâm linh như thế, Chị giải toả đợi những khát vọng mênh mông của lòng mình, những “ước muốn vô hạn”. Chị muốn “nắm Giêsu bằng trái tim”; cần biết bao ân huệ, Chị phải dùng phương pháp hiệu năng nhất, dùng đòn bẩy mạnh nhất: Tình Yêu, biểu lộ bằng Phó thác. Việc không ngừng trở lại với Chúa này linh hoạt và thúc đẩy tình chị em. Chị vẫn dễ thương và tươi cười ngay đến cả trên giường bệnh, chính vì “tình yêu đến từ Thiên Chúa”. Phó thác nối tình yêu với Nguồn bất tận, cùng cho tình yêu thành bất tận để phục vụ chị em. Chị càng hiểu tình yêu của CHA, Chị càng tự mở vào chân trời cứu thế. Cộng đoàn của Chị bây giờ là Hội Thánh. Khi Chị tận tâm vào gieo niềm vui trong nội cấm, chính là lúc Chị tưởng đến hàng hàng lớp lớp người cần cứu độ, tưởng đến những nhiệm vụ quá nặng nề của những người chăm lo công việc Hội Thánh, và tưởng đến những đau khổ của các thừa sai viễn xứ. Nhờ đức tin, Chị biết mình có thể yêu nhiều mà giúp nhiều việc lặt vặt. Chị bình thản đối diện cái chết, vì nghĩ rằng trong cõi vinh phúc, Chị không những không bất động, mà còn liên kết với Đức Kitô chặt chẽ hơn bao giờ để hoạt động cho Nước Cha trị đến. Tác động phó thác như thế Tổng lược tư tưởng và cuộc sống, cung cách thánh thiện và những ước vọng tông đồ của Têrêsa Martin. Từng ngày thực hiện dâng mình cũng sẽ bao trùm từng giây phút và toàn diện cuộc sống Kitô hữu. Không có nhiệm vụ nào, không có tâm tình nào không thể dâng trước Thiên Chúa. Không niềm tin nỗi đau nào, không tình trạng tâm lý nào người tín hữu không thể đảm nhận bằng cách phó thác cho Chúa. Đó là giáo huấn phong phú mà Têrêsa thật khôn ngoan gieo rắc. Nếu chúng ta cũng muốn nhận ra thành quả của đường lối này, chỉ cần chúng ta đơn giản chấp nhận mình nghèo, nhưng sống đời con thảo hiếu trong vòng tay Cha, trao cho Ngài tất cả, cả những gì chúng ta kéo lê nặng nề hoặc chán nản nhất. Khi đó, cũng như Têrêsa, gọn gàng “trong vòng tay Chúa Nhân Hiền”, chúng ta không sợ đường đầu với những giông bão, chắc chắn rằng Cha sẽ cho chúng ta “từng phút giây” những gì chúng ta cần. Trong hố thẳm cuộc đời, trong kinh nghiệm bản thân nghèo mạt, chúng ta được trao nộp cho những chiến thắng của Tình Từ Ái. Thực ra, trước mặt Ngài, “chúng ta có thể an tâm, cả khi tâm có thể lên án chúng ta, vì Thiên Chúa còn lớn hơn tâm chúng ta”.
Chúng ta đã theo Têrêsa từ từ khám phá tuổi thơ ấu theo Tin Mừng và giáo huấn Chị trao các em về tinh thần này tuỳ ngày và hoàn cảnh. Những trang tiếp theo muốn chỉ cho thấy bằng cách nào “Lối Nhỏ” này đã dẫn Chị tới hoàn toàn phó thác, hoàn toàn yêu thương, cũng đồng thời đặt Chị vào trong chính Trái tim Hội Thánh. Têrêsa, từ còn rất trẻ, đã muốn thành vị thánh lớn và lôi cuốn hết sức nhiều người theo, đã tin ở thực tế lời Chúa kêu gọi mọi người: “Hãy toàn thiện như CHA các con trên trời toàn thiện”. Những lo toàn, tiền của và những thú vui trên đời có thể làm nghẹt Lời Chúa nhưng lời đó không qua mất. Đối với những n giữa đã một lần được soi sáng, đã thưởng thức ân huệ thiên đường, đã thông dự Thánh Thần, những người đã nếm lời đẹp của Thiên Chúa và những diệu kỳ của thế giới tương lai, thì không thể không coi thường những gì phù du, và không sao thoát khỏi khát khao dòng nước, những thực tại không bao giờ qua. Đau đớn cảm nhận cái trống rỗng của vũ trụ, nơi mà thất vọng trùm ngụp những tiến bộ kỹ thuật, và ngày ngày dò tìm đáy sâu tội luỵ của mình, nhiều Kitô hữu hôm nay hiểu rõ hơn rằng duy mình Thiên Chúa có thể thi hành việc cứu độ, bằng cả những phương tiện mà con người coi như lãng xẹt, họ cũng cảm thấy phần đóng góp cá nhân mình vào công trình cứu độ mà Giáo Hội vẫn theo đuổi, để cởi bỏ những liên hệ vật chất và tinh thần, những trăng trói của thụ tạo yêu thương của Tạo Hoá Tình Yêu. Hơn bao giờ hết, Lời Chúa là của những người bạn thật của Chúa. Vì phải đem Chúa về cho thế giới và đem thế giới về cho Chúa, mà chỉ họ mới có khả năng. Họ đã được đồng hoá với Đức Kitô Trung gian, họ có trái tim đủ rộng và đủ ngay thẳng để đón nhận Thiên Chúa mà không làm thất vọng con người, đảm nhận viên thành nhân bản mà không phản bội Thiên Chúa. Thoạt muốn sống và làm việc thâm trầm, Kitô hữu liền thấy mình được mời chỉnh lại nhãn quan quá hẹp hòi của mình, để chuyển vào kế hoạch của Chúa và phụng sự Ngài. Chính nhờ Chúa quan phòng mà “Lối Nhỏ” cho chúng ta một thái độ tâm linh có khả năng suốt đợi hiện thực lòng hướng thiện. Tổng hợp tất cả những ước vọng của con người - có khi khác biệt ghê gớm - vào một tác động duy nhất, Têrêsa mở đường cho chúng ta: Phải có một trái tim thần hoá và sống Tin Mừng trong lòng Hội Thánh.
Trái tim thần hoá, hiệu quả đầu tiên của phó thác, là một cách nhìn thần thiêng muốn và phản ứng cách thần thiêng: Người hiệp nhất với Chúa, cũng có một tinh thần với Ngài. Là cách nhìn thần thiêng, vì nhìn dựa trên Đức Tin. Mọi sự đều phát sinh từ Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có cuộc sống trong Ngài khi chúng ta tự nguyện lệ thuộc Ngài: “Vì Ngài đã nhìn đến sự thấp hèn nô tỳ Ngài...”. Chỉ một lần Thiên Chúa và Đức Kitô của Ngài được tôn lên làm giá trị duy nhất, thì cả cuộc sống, thời giờ, thửa thách, những đau thương của Giáo Hội cũng đều có giá trị, giá trị Tình Yêu. Lúc này người ta nhìn vũ trụ và bản thân trong tương quan bền vững và thâm tình với Đấng duy nhất Tối Cao. Tuỳ mức độ tâm hồn đón nhận, CHA sẽ mở lòng Nhân Hiền của Ngài, vì “Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối tăm”, chỉ có sự tối tăm chúng ta phóng chiếu lên Ngài thôi. Một khi con người nương tựa vào Chúa - đây là việc của Đức Tin, theo đúng nghĩa Thánh Kinh của từ này - Một khi Ngài trở nên Tất Cả, phương pháp và mục tiêu, thì người ta được tham dự vào Bản thể và bình an của Ngài, và tức khắc nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô mà thành toàn mầu nhiệm của một trái tim được Thiên Chúa chiếm ngự và từ từ được biến thể thành cao cả hơn chính bản thân, được “thần hoá”. “Ai yêu Tôi, sẽ được Cha tôi yêu, chính tôi sẽ yêu người và tự biểu lộ cho người”. Từ nay, nhờ tác động phó thác, mỗi ngày người tìm châm rễ sâu vào niềm tin, can trường và chăm ngoan, cho đến khi cảm nghiệm được mầu nhiệm thần sự, mầu nhiệm chiếu toả và hướng dẫn hơn tất cả các ánh sáng nhân linh. Lạy Chúa, tâm hồn lúc này có thể thưa: Con không biết nữa, nhưng Chúa biết cho con; con không thấy nữa, nhưng Chúa thấy cho con; con không yêu nữa, nhưng Chúa yêu trong con. Cách nhìn trong Thiên Chúa về suốt cuộc sống này ảnh hưởng trên ý chí và mọi sức sống của ta. Khi đau khổ chợt tới, một thứ sư phạm thần thánh, một sự chắc chắn năng động, vượt xa chứng từ trần thế này, cũng lớn lên trong chúng ta, và trong một cuộc sống khác, Giêsu đang đợi chờ ta, Ngài bảo: “Bây giờ, đến lần Anh đây...”. Têrêsa nói: “Vâng, vì chúng ta, Giêsu sẽ làm những chuyện kỳ diệu vượt xa những ước nguyện mênh mông của chúng ta”. Bao giờ Ngài cũng làm cho em muốn điều Ngài muốn làm cho em”. “Không có gì là không thể đối với những người không phải ‘vô vọng’”. Đức Kitô đã dạy chúng ta rằng: trái tim một người Cha luôn luôn xúc động vì niềm tin tưởng của con mình; nhưng vị tất chúng ta dám sống theo mạc khải Tin Mừng. Hình như tội lớn của thế giới này là sợ Thiên Chúa; mà nếu chúng ta thực tin tình yêu Ngài, chúng ta sẽ ít kinh ngạc về quyền năng của Ngài. Hạnh phúc ở điều kiện này: Chỉ trông cậy ở Chúa, cho mình cũng như cho Hội Thánh, chờ đợi tất cả ở Ngài, và nhất là chờ đợi chính Ngài. Nhưng con người vẫn còn là tù nhân của nhu cầu vị kỷ này là hết sức thu vén cho mình mọi thứ, nhất là các hồng ân của Chúa, và Cha như bị trói buộc bởi những thứ chúng ta tự hào. Chúng ta có khuynh hướng chỉ an tâm về những gì chúng ta nắm bắt được, nhưng Thiên Chúa lại là Đấng Toàn Khác, Đấng không ai hiểu được... Đức Kitô là Chân Lý cho niềm Tin, là Đường cho Hy vọng và là Sự Sống cho tình yêu của chúng ta. Chúng ta dễ dàng khuất phục rằng Tình yêu là nền tảng, là đích điểm của toàn thiện; nhưng chúng ta thường quá quên rằng tình yêu cũng là dụng cụ. Sự anh hùng của Thiên Chúa đã đến nhắc ta nhớ điều đó. Không những chúng ta sẽ được phát xét theo tình yêu, mà hiện nay, Tình yêu cũng hoạt động trong những chuyện nhỏ bé để sắp chúng ta vào hàng tri âm của Giêsu: “Các bạn là những tri âm của Tôi, nếu các bạn làm những điều Tôi dặn bảo... Điều Tôi dặn bảo các bạn chính là các bạn hãy yêu nhau”. Trước hồng ân Chúa, thì khoan dung trung lập không đủ: “Ai không thu tích với Tôi, là phá tán”. Thực Tình yêu có bó buộc, sự bó buộc êm dịu hơn tự do: Nếu yêu Chúa, PHẢI đi đứng trước mặt Ngài. nhưng việc phó thác, có thể nói như đẩy ta trôi trong dòng thánh ý Chúa, làm tiêu tan vị cay đắng trong nhu cầu xuất hành thâm thuý này. Đã nói hết rồi đấy, “Chỉ Tình Yêu là đáng kể”, vì Tình yêu là thứ men duy nhất của hiện sinh, nếu tình yêu lại thêm vị Maria và Têrêsa: trung tín. Trung tín là tình yêu kéo dài, là dấu vết tình yêu trong thời gian con người. Lời Nhập Thể cũng không nhằm yêu Cha cách nào khác: “Tôi luôn làm điều vừa ý Ngài”. Điều mà Đức Kitô biểu lộ trong từng hành động của Ngài với thần tính vô biên, và Ngài để lại cho chúng ta như chúc thư tinh thần, ta phải cố gắng suốt đời lập lại trong huyền nhiệm; vì để diễn dịch tuyệt đối, ta chẳng có nguồn lực nào hơn dấn thân trọn vẹn suốt đời. Vì Ngài là Thiên Chúa, phải yêu Ngài bằng tình yêu thâm thuý, duy nhất, trọn hiến, và vẫn giữ trọn hướng tâm về duy mình Ngài trong mọi sự. Và liền đó, với lòng tinh tế như một Têrêsa, phải yêu cả đến người nhỏ bé nhất những Ai Thuộc Về Ngài, yêu trước, yêu hiệp thông với Tình Yêu Sáng tạo, làm cho Người Yêu đáng yêu, và chẳng cầu mong gì ở Người Yêu đó, nếu không là khả năng tự hiến. Tin, trông đợi, yêu... tất cả cùng chảy vào hố sâu đã thuần hoá trong con người chúng ta, tạo thành Trái Tim Thần hoá. Trong đó mọi cơ năng chúng ta như được no đầy Thánh Thần, và đưa ta về một sự chăm chú vừa êm dịu, vừa mãnh liệt trước mặt CHA, về sự trao đổi thâm tình và nồng ấm với Đức Kitô của Ngài. Đó là biểu lộ trọn vẹn nhất, mà luôn luôn có thể trong hoạt động siêu nhiên của chúng ta. Tất nhiên Phó thác là một đấu tranh cam go: Vì “thấy Thiên Chúa”, chúng ta không thể không biến đổi bản thân, vì không sao tới gần sự thánh thiện của Ngài mà không khám phá ra những đòi hỏi sâu xa nhất. Thiên Chúa là Đấng duy nhất Thánh, nên cũng là Đấng duy nhất thánh hoá. Làm việc trong ta, bao giờ Ngài cũng theo những phương pháp của Ngài, theo những tư tưởng của Ngài “không phải của chúng ta”. Phó thác bản thân cho Ngài, chúng ta không thoát khỏi cảnh sống lữ hành hoặc những nghịch lý đớn đau của Kitô hữu. Nếu Tình yêu đã đóng đinh Đức Kitô. Sao chúng ta ngạc nhiên khi nó căng chúng ta ra? Sự việc không thay đổi theo ý thích ta đâu, trong đức tin chính chúng ta phải thay đổi theo sự việc và từ bỏ chúng trong thâm tâm chúng ta, theo thánh ý Thiên Chúa, dưới cặp mắt Ngài. Thánh Têrêsa không mang lại cho chúng ta loại thánh thiện mới, trong đó nhởn nhở thế chỗ anh hùng, nhưng là tiếng vọng của mạc khải: Không có Cha mà không con; nếu Thiên Chúa là Tình yêu, thì chúng ta là những người được yêu. Vấn đề là không ai thừa thãi. Hiển nhiên đau khổ tràn ngập của phó thác là đồng ý với hồng ân Thiên Chúa, niềm vui to lớn chúng ta có thể mang lại cho Chúa là đưa bàn tay ra để Ngài trao tặng. Trong dòng thần hoá, con người thấy những giá trị đích thực của mình biến đổi ý nghĩa: cho chính là nhận. Mặt khác, nếu hiện nay chúng ta có thể tiến đến “chiếm hữu Thiên Chúa”, chính là vì Ngài đã đến với chúng ta trong Người Con của Ngài và “đã yêu thương chúng ta trước”. Những hứng khởi cao đẹp nhất cũng luôn luôn chỉ là một lời đáp, trong đó châm rễ hạnh phúc của những người nghèo tinh thần. Chắc chắn rằng ân thánh, thay vì bóp nghẹt bản năng, đã thành toàn, và Thiên Chúa tôn trọng tự do của thọ tạo yêu thương, nên không bất kể sự tự do của nó. Ngài dẫn lối theo nhịp bước của ta, tuy vẫn giữ sáng kiến. Niềm tin mà con người kiếm được, cũng chính là ánh sáng của Chúa. Đức cậy trông, là niềm hy vọng nhân bản, trước hết là đề nghị thần thánh. Đức ái trước khi là cử chỉ của ta, đã là tác động Thánh Thần. Sức mạnh Thiên Chúa thấm nhập sự yếu đuối của con người như thế. Tất cả các sứ mạng ngôn sứ lớn của Cựu và Tân Ước đều khởi sắc từ việc bắt buộc hạ bệ con người ích kỷ, để toàn năng thần thánh tự do. Chỉ trong ân sủng Thiên Chúa choáng ngợp này chúng ta mới hiểu tại sao những con người thần hoá đều đói khát khiêm nhường. “Đặc tính của Tình yêu là tự hạ” và phục tùng tới chết. Trong những ngày dương thế, Giêsu đã muốn sống trong nghèo khổ và quên lơ, giữa niềm vui thượng giới, “để chúng ta cũng sống như thế” Khi Têrêsa nhận mình Nhỏ Bé, thì không phải trò chơi con nít, mà nói trong cái nhìn khách quan về liên hệ mình với Thiên Chúa. Ngài là Tất Cả, Chị là hư vô khi rời Ngài; nhưng nhờ ơn Ngài, Chị có đủ khả năng. Bạn càng thiếu thốn, Giêsu càng yêu Bạn... Đó là con đường của những đỉnh cao, đường làm nên những Kitô hữu chân chính, đường bắt chúng ta trèo tới hạnh phúc bằng sức lực không phải của chúng ta, bằng lối tắt, rất thích hợp với chúng ta, do đó, rất nhân đạo, tại đây Têrêsa đã nhận ra gương mặt tình yêu trong những đòi hỏi của Thiên Chúa. Mặt khác, những âm vang của việc phó thác thật sâu trong toàn bộ tâm lý con người đến độ bắt buộc người ta cảm phục quyền lực Thánh Linh, cho chúng ta thấy những lời Têrêsa là một tổng hợp nhân bản và giáo thuyết. Trước hết, một trái tim thần hoá là một nguồn giải thoát trong con người. “Sự thật sẽ giải thoát anh chị em”. Giải thoát mọi tình cảm tiêu cực, nghi ngờ, cay đắng, thất vọng, những thuốc độc cho cuộc sống chúng ta. Giải thoát khỏi sợ hãi làm tê liệt những cố gắng quảng đại nhất và gặm nhấm mọi bình an. Chúng ta đều biết: “Không có án phạt nào cho những người sống trong Đức Giêsu Kitô”. “Vì Ngài đã đến loan báo bình an cho những người ở xa và bình an cho những người ở gần” và “nhờ Ngài, chúng ta - những người này và những người kia - đều đến gần CHA trong cùng một Tinh Thần”. “Tình yêu trọn vẹn xua tan sợ hãi”; sứ điệp Têrêsa quảng diễn lời đó của Người Môn Đồ. “Em không hiểu được những tâm hồn sợ một Người Bạn dịu hiền như thế”. “A! Chúa thật nhân từ với em đến độ em không thể sợ Ngài được”. Luận lý tình yêu có vẻ cứng, nhưng nó giải thoát ta khỏi những hẹp hòi và hà tiện: Một em bé đâu có gì, nên ít lo bảo vệ những quyền lợi của mình. Nó nài xin tình thương và nó hạnh phúc vì thấy đó là thường. Trái tim thần hoá cũng chẳng biết dè giữ là gì. Nó thấy tư tưởng là đủ và đủ cho mọi thứ. Sẵn sàng “chỉ để yêu” giải thoát nó khỏi cả những o ép của thời thế, như Đức Giêsu đã minh bạch biểu lộ ý Ngài trong kinh Lạy Cha. Sau khi tự động và trong sáng hướng về Thiên Chúa “nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”, Giêsu lần lượt tháo ách hiện tại cho chúng ta: “Xin cho chúng con HÔM NAY lương thực HẰNG NGÀY”, quá khứ thật chán “xin tha tội chúng con”, khỏi lo lắng tương lai, nhờ ơn Ngài chiến thắng “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Không tách lìa trần thế được, nhưng con người giờ đây có trái tim đủ rộng để sống vĩnh hằng tại đó. Thế là ngay trong tình thân mật thần thánh, diễn ra việc kỳ diệu là đảm nhận các quan năng tự nhiên: Tinh thần Đức Giêsu tiến đến tràn ngập con người. Trí óc, ý chí, tưởng tượng chỉ hoạt động dưới ảnh hưởng ân thánh, nhờ thế mà triển nở, siêu thăng, trút khỏi những gì hạn chết và làm rối chúng. Việc siêu thăng, biến dạng con người này, là hậu quả bình thường, nhưng là ân lộc của việc hiệp nhất với Đức Kitô. Mà những ân lộc này càng lớn càng không trực tiếp nhận lấy, vì con người này đã tự khước từ tất cả, để chỉ sống vì Yêu. Hơn thế, trái tim được biến đổi như vậy cũng không tự ý thức mình được đổi mới nhờ tiếp xúc với Chúa. Thường thường chỉ những người ngoài được hưởng nhờ lòng nhân đạo và viên mãn siêu nhiên này, trong khi đương sự vẫn hoàn toàn quên mình. Đương sự ý thức được mình nhờ sự sống thần linh cũng như mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Nhờ Chúa hiện diện kín đáo tinh luyện, chúng ta tới chỗ tự biết mình, biết những giới hạn bản thân, mà tư tưởng hiện đại đôi khi chống đối thật đau đớn. Trái lại, những giới hạn này không làm chúng ta chai lì chống đối, mà đưa ta về thực tế lành mạnh, trong đó, hy vọng sẽ lấp đầy những khoảng trống của con người. Chúng ta nhận ra mầu nhiệm vượt qua cái chết và cuộc sống trong đó Chúa đã ghìm chúng ta, chúng ta đồng thời thấy ý nghĩa sâu xa của lịch sử loài người. Bởi chung cuộc, chúng ta đối diện với Chúa, thế giới và thời gian tìm lại được hài hoà bí nhiệm ngay trong chính chúng ta. Hiện sinh chúng ta, dù sa đoạ cách mấy, đã từng có giá trị thiêng liêng, từ lúc Đức Kitô đảm nhận việc thánh hoá nó. Nghĩa là sự thống nhất diệu kỳ hình thành trong trái tim thần hoá, vì tham dự vào sự đơn thuần Thiên Chúa, trong Đức Giêsu. “Hãy lưu lại trong Tình yêu của Tôi”. Trong lời căn dặn này của Chúa, chúng ta cảm thấy một tiếng gọi vô cùng êm dịu và dâng hiến thâm tình chưa hề thấy, nhưng đáng tiếc, chúng ta tưởng như quá xa vời và đôi khi bất nhân nữa. Làm sao lưu lại trong Ngài, khi mà cuộc sống giết chết chúng ta, chặt rời chúng ta, lôi chúng ta ra khỏi chính mình, khi mà mệt mỏi và nhục nhã dâng ngập chân trời mù mịt? Chỉ có duy một cách: GIÊSU. Duy nhất GIÊSU. Không phải một kỹ thuật, nhưng một Người. Phó thác cũng không phải một kỹ thuật, dù cho là kỹ thuật Kitô giáo, vì kỹ thuật bao giờ cũng là một lưỡi câu móc trong vạn vật. Mà người ta không thể câu được Thiên Chúa, hoặc Người Thiên Chúa. Người ta chỉ thấy những cánh tay rộng mở và người ta gieo mình vào đấy. Thật cao cả huyền nhiệm! Chỉ thấy, chỉ ước vọng Thiên Chúa và trong Chúa, chỉ muốn Ngài và mọi sự cho Ngài: Trọn cuộc sống trong Đức Kitô là ở đó. Tận đáy lòng, Têrêsa cảm thấy ước vọng hiệp nhất trong Thiên Chúa này, hiệp nhất làm vinh dự cho con người; nhưng Chị không trông chờ hiệp nhất bằng cách thoát ra khỏi những điều kiện sống hoặc cuộc chiến siêu nhân. Chị không tự bẻ gẫy, Chị tự hiến dâng: “... Để sống trong tác động toàn ái, con tự hiến như lễ vật toàn thiêu cho Tình Từ Ái của Ngài... Con tự cảm thấy bất lực, nên Lạy Chúa, con xin chính Ngài là sự thánh thiện của con...”. Tiếp theo, nhờ hành vi phó thác, chủ yếu vẫn thế, nhưng lặp lại hoài như nhung nhớ, toàn thân có thể thu về hiện tại vĩnh hằng, nơi mà Thiên Chúa nhìn xem, yêu thương và chờ đợi tâm hồn. Thế là mỗi phút mỗi gặp gỡ, dần dần trong sức mạnh và dịu ngọt Thánh Thần, những tác động yêu thương biến thành tình trạng, sẽ đón nhận được ấu ấn vinh quang của Trời: “Em thấy những gì em đã tin, em được những gì em đã ước mơ, em hiệp nhất với Đấng em đã yêu hết sức yêu”. Thế giới hôm nay cần sứ điệp này, Thiên Chúa dành bó buốc nhỏ Cát Minh này để thắp lại hy vọng cho ngàn ngàn người.
Sứ điệp thánh Têrêsa chiếu toả muôn phương chủ yếu nhờ đậm chất Tin Mừng. Người ta gặp lại trong ngôn từ Chị chính bầu khí tin tưởng và khiêm tốn trong đó Đức Giêsu muốn các môn đệ Ngài triển nở, mà ngoài đó thì chẳng sao tuổi thơ tâm linh sống được. Xin dẫn chứng một chút: Chính Đức Kitô như long trọng ấn định môn đệ Ngài sống tinh thần thơ ấu như điều kiện tuyệt đối để nên thánh. Thật nhiều lần Ngài nhắc tới điều cần thiết ấy, và luôn luôn Ngài quật ngã kiêu căng: “Tôi bảo thật anh em, nếu anh em không biến đổi và nếu anh em không trở nên như những em bé này, anh em sẽ chẳng vào được Nước Trời”. Trong vòng du thuyết tại Galilê, Đức Giêsu đã làm buồn các môn đồ khi loan báo lần thứ hai những đau đớn Ngài sẽ gặp... “Nhưng họ không hiểu lời đó và lời còn khuất mắt họ...”. Những tiết lộ bi thảm như thế thường làm họ rối lên và thô lỗ. “Rồi họ tới Capharnaum. Khi đã ở trong nhà, Ngài hỏi họ: ‘Mấy anh tranh luận gì dọc đường thế?’ Họ im lặng, vì dọc đường họ đã bàn cãi để biết ai lớn nhất”. Đó là tất cả “điều bận tâm của họ”. Thay vì thực tế thập giá, họ mơ muốn tham lam; trước mặt người hấp hối, họ chia gia tài! Giêsu không đáp nửa lời. Ngài ngồi, gọi Nhóm Mười Hai. Rồi Ngài kéo một em bé, đặt cạnh mình: Một em bé hẳn là e sợ giữa đám đàn ông này và kinh ngạc tới mất tự hào. Giêsu âu yếm bé. Ai lớn nhất? Chính là người nhỏ nhất. Ai nhất? Chính là người chót hết, là nô bộc của tất cả. Lật tay một cái, Giêsu quét sạch những hào hoa giả tạo. Chính bé thơ, chẳng quan trọng gì, trở thành kiểu mẫu. Thiên Chúa chọn hư vô để hạ nhục kẻ tự khẳng định. Chúng ta nên lưu ý rằng từ trẻ thơ, Giêsu như chỉ giữ lại một nét: Khiêm tốn. “Ai nên khiêm tốn như em bé này, sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời”. Khiêm tốn như trẻ thơ, trẻ hồn nhiên chấp nhận thân phận mình, chấp nhận tuỳ thuộc hoàn toàn và liên tục ở người khác. Chúa biết rất rõ Ngài phải làm gì với con người, Ngài bảo: “Nếu anh em không THAY ĐỔI”.Ta hiểu Ngài nói con người hiện tại, với tất cả sức nặng của năm tháng và vị kỷ. Đây không phải chuyện thơ mộng, màu mè; mà phải là đổi hẳn những quan điểm tâm linh: TRỞ NÊN, ngày qua ngày trút bỏ mình đi, để giống NHƯ những trẻ thơ. Những n giữa mẹ rất biết Đức Giêsu ưa chuộng các em bé. Mà Ngài cũng sẵn sàng ban mọi ơn mà chúng xin: “Người ta còn mang các em bé đến để Ngài sờ nắn chung, đặt tay lên chúng và cầu cho chúng”. Nhóm Mười Hai, lần đầu tiên bạc đãi con nít “la rầy những người dẫn chúng đến”, cứ như xua chúng đi được là xua được những yêu sách của Đức Kitô, mà chúng là biểu tượng sống... “Nhưng thấy thế, Giêsu buồn. Ngài bảo họ: Hãy để các bé con đến với Tôi, đừng ngăn cản, vì Nước Trời thuộc về những ai giống các em”. Rồi Ngài bổ túc bài học: “Thực, tôi bảo anh em, ai không như trẻ nhỏ đón nhận Nước Trời, sẽ không vào được đó”. Đấy, khiêm tốn của trẻ thơ ở điểm gì: Bằng lòng đón nhận. Ít là chúng nhận biết hồng ân của Thiên Chúa và chúng tự khước từ không tính toán với Tình yêu đang đến bắt lấy chung. Cùng với Tin Mừng nhất lãm, chúng ta ngưng lại khẳng định gần như phũ phàng này, làm ta e ngại không kém các mồn đồ; vì cái gì làm chao đảo tự mãn cũng luôn luôn có thể bị ta coi là phi lý. Như câu chuyện với Nicôđêmô mà thánh Gioan kể đủ bắt ta nhìn nhận chủ ý của Đức Giêsu, bắt ta theo trong lãnh vực siêu nhiên toả sáng từ những lời này. Tâm lý cũng cộng hưởng. Vẫn là những người ý thức giá trị của mình, nên dội lại trước một đòi hỏi có vẻ nghịch thường của Đức Giêsu Kitô. “Thực, tôi bảo thực ông: nếu không sinh từ trời, không thể thấy Nước Trời”. Ông Nicôđêmô hỏi: “Một người già làm sao có thể sinh ra? Người đó có thể vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa chăng?” Đó thực là vấn nạn lớn cho tuổi thơ ấu tâm linh. Tại sao bắt người trưởng thành mang những phản ứng của đứa con nít? Người tiến sĩ già sẽ dí dỏm nói: Con người sinh một lần thôi! Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi nói thật: Nếu không sinh bởi nước và Thánh Thần, chẳng ai có thể vào Nước Trời”. Những lời trong sáng đó của Đức Giêsu thật nói tới Tuổi thơ tâm linh. Chúng ta không thể vào trong Nước Chúa, nếu không sinh lại bởi Nước và Thánh Thần, thì chúng ta cũng phải lớn lên trong tình yêu từ việc tái sinh này. Tuổi thơ trong Thánh Thần đáp ứng sinh bởi Trời. Một điểm cần lưu tâm ở đây: Dùng ngữ “tuổi thơ” hoặc “sinh lại” theo nghĩa nhân bản đều không diễn đủ. “Chỉ thân xác mới sinh bởi thân xác; tinh thần thì sinh bởi Tinh Thần...”. Đức Giêsu nói đến sinh thành, vì Thiên Chúa là CHA, nên Ngài sinh. Đức Giêsu muốn chúng ta là những BÉ THƠ vì chúng ta phải luôn mãi là những người CON trong Thiên Chúa, những bé thơ thần thánh. Thực tế làm con sinh thành và thơ bé này phải được sống trong lãnh vực đức tin và huyền nhiệm. Giêsu xin chúng ta như đã xin ông Nicôđêmô nhảy vào vô hình: “Bạn đừng ngạc nhiên, nếu tôi bảo bạn: phải sinh từ Trời. Gió thổi tới nơi nó tới. Bạn nghe tiếng nó; nhưng bạn không biết nó từ đâu tới và đi đâu. Phải nói thế về người sinh bởi Tinh Thần”. Đức Giêsu không đẩy tới vô lý đâu; Ngài chỉ muốn chỉ ra giới hạn của các giá trị nhân bản, mỗi thứ chỉ sáng tỏ trong nhãn quan của mình thôi. Tuổi thơ là một chặng đời, nó chấm dứt khi ta tới tuổi thành nhân. Tình nghĩa cha con và liên hệ yêu thương còn đó, nhưng tình trạng lệ thuộc hoàn toàn và liên tục vào cha mẹ, nhu cầu sống nhờ cha mẹ giúp đỡ và chở che phải chấm dứt. Trong vũ trụ ân thánh thì ý thức tình phụ tử ngày càng lớn, đòi hỏi lệ thuộc CHA ngày càng tăng. Cảnh lệ thuộc thảo hiền này hướng tới viên mãn và liên tục, thành một tình trạng lý tưởng, mức triển nở cuối cùng của mọi đào tạo tâm linh. Kitô hữu không gắng để vượt qua tình trạng Thơ Ấu Mới này, mà là gắng để tới. Chỉ khi chết vì Yêu mới đứng vững trong tình trạng này. Thơ Trẻ Trong Thánh Thần là kéo dài bất tận tác động duy nhất CHA cho chúng ta Sức Sống trong Giêsu, là đặt ta “vào sự sống” tại chính nguồn mạch thánh tẩy của chúng ta. Từ nguồn mạch này trào dâng vừa vinh dự và phụ tử và lệ thuộc cơ bản, vừa tôn vinh và khiêm hạ của chúng ta. Mỗi lần bí tích Thánh Tẩy làm nên một người con Thiên Chúa, cũng khởi phát một tuổi thơ thần thánh. Lúc mà nước, biểu tượng Thánh Thần, chảy trên trán chúng ta, chúng ta nhận Vương Quốc như hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa. Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta. Ta để Ngài làm việc và ta dâng mình để tuỳ Ngài. Chính nhờ tâm trạng bất lực và trông chờ này mà Tuổi Thơ Ấu tâm linh mời chúng ta vĩnh cư trong Ngài, để Ngài đào luyện “sicut modo geniti infantes”, thánh Phêrô bảo “như những em bé sơ sinh, các bạn hãy tha thiết muốn sữa tâm linh thuần khiết, làm các bạn lớn lên để hạnh phúc, nếu các bạn đã nếm cảm Chúa thật là tốt lành”. Đàng khác, vì đã gặp được Lối Nhỏ trong Tin Mừng và vì đã lâu ngày nghiền ngẫm cuộc thống khổ của Chúa, nên Têrêsa không thể quên những dữ kiện cụ thể trên bước đường về Thiên Chúa. Chúng ta là con đấy, nhưng là những đứa con bội bạc, từ tội Ađam, chúng ta đã rớt vào tình cảnh đói nghèo, ăn xin. Không những chia sớt thân phận con người đầu tiên đó, đón nhận từ ông một bản tính đã bị thương tổn và ngoan cố nghiêng về điều ác, mà những tội riêng còn giúp chúng ta thông đồng với lỗi của ông. Têrêsa biết lịch sử loài người hôm nay chỉ có thể là lịch sử ơn cứu độ, và bằng trực cảm vững vàng đáng kinh ngạc, Chị khéo léo giữ được trong lối đi phó thác ba trục chính yếu: Chương trình sáng tạo đã bị con người bẻ gẫy, chuộc đền duy nhất nhờ Ngôi Lời nhập thể; thánh hoá trọn vẹn nhờ Thiên Chúa, với Ngài, chúng ta liên kết bằng đức tin. Ađam trốn xa CHA, Têrêsa muốn tới gần Chúa. Vậy phải chọn hướng đối ngược với ông, hoặc đúng hơn, nhận lại đối hướng và trong ánh sáng Thánh Thần con đường mà trên đó Ađam đã chạy trốn Tình Yêu. Chống tinh thần độc lập, Têrêsa chọn tuỳ thuộc. Con người tự tôn làm chủ trái đất, trong khi chính Thiên Chúa đã bắt nó phục tùng con người; hắn tưởng hắn có thể bỏ rơi Thiên Chúa, “mình là như Thiên Chúa”. Hắn không hiểu rằng chỉ có phục tùng Thiên Chúa mới bảo đảm đất đứng cho hắn trong vũ trụ này, nơi hắn là ca sĩ. Con người đã vùng lên đòi tự lập hoàn toàn, và sau khi bỏ mất Thiên Chúa, hắn thấy phải đất tranh với chính mình và với toàn thọ tạo. Đối lại, Têrêsa muốn mãi là thơ ấu; Chị không hề biết qua mặt Thiên Chúa, không thể và không muốn gì ngoài Ngài. Không đòi thoát bảo trợ của CHA, mà tìm gánh của Cha và thấy là nhẹ nhàng. Thế là kiêu căng bị bứng tận rễ. Chối từ những giới hạn thụ tạo, Ađam mất tình thân hữu Thiên Chúa. Còn Têrêsa, Chị hiểu rất sớm cái nghịch lý của nghị lực: “Ngài thải hồi người kiêu hãnh Và chọn dùng một cánh tay non con trẻ”. Chúa nhìn nhận chúng ta nghèo khổ và để giải toả cho tình bạn, Ngài chỉ mong chúng ta nhìn nhận tội mình và chấp nhận không cay đắng những yếu hèn của chúng ta. Phải dành cho Ngài những trái tim đã dọn sạch để tiếp nhận dồi dào của Ngài. Khiêm tốn chính là khoảng trống dọn cho Tình Yêu. Đối với Têrêsa, “duy Tình yêu đáng kể” vị kỷ không tồn tại được. Cái ngoắt ngoéo bệnh hoạn của tham vọng con người, làm mình chỉ lo cho mình, cho lợi lộc mình, lo có những cuộc vui ào ạt mà chóng tàn, Têrêsa đã liệng thứ ngoắt ngoéo đó ngay từ đầu khi chọn mục tiêu duy nhất là làm vui lòng Chúa. Chị chẳng đua tranh lợi, cũng chẳng háo hức tìm Chúa. Chị có thể tự kiếm tìm và trao tặng gì đâu; bởi tất cả đều do CHA. “Ai đã tặng Chúa trước, để Ngài phải báo đền?” Chúa nợ gì chúng ta; chúng ta mới nợ Ngài! Theo đường thơ ấu chính là “hồi tâm”, mà Đức Giêsu đòi hỏi ngay từ bước đầu rao giảng, và dẫn nhập các lối vào Vương Quốc: “Thời gian đã trọn, và Nước Thiên Chúa đã gần! Hãy thống hối và tin vào Tin Mừng”. “Trở nên như trẻ thơ”, chính là dọn chúng ta sạch thụ hưởng vị kỷ, để Thiên Chúa hành động tận thâm thâm chúng ta; là khước từ nhu cầu thâm căn cố đế để trong chúng ta, nhu cầu độc quyền đi lại nơi mà ta cho là thú, tự ý quyết định theo hứng điều gì là tốt, là xấu. Do đó, Thơ Ấu Tâm linh, tự ý phục tùng ý muốn Thiên Chúa, là trả lời khách quan nhất và cơ bản nhất cho tội tổ tông. Con người lìa xa Chúa vì mong làm lớn. Muốn tự mình là nhân vật quan trọng, con người thành nô lệ; Têrêsa chọn là của Ngài, nên trong Ngài, Chị được tự do. Nhưng không gì khó cho ta hơn nhận một tâm hồn thơ ấu, dầu chỉ với nghĩa tâm linh như Đức Giêsu hiểu, vì tất cả đấu tranh hiện sinh đều kéo ta ngược lại: khẳng định và ngoan cố khẳng định bản thân. Đã phải khổ nhiều ta mới trưởng thanh nhân bản và dành chỗ cho tha nhân trên đường đời, nơi đã quá bất nhân! Đề nghị với chiến sĩ cảm tử một lý tưởng thơ ấy định hướng xoàng, thì sẽ bị coi như giễu cợt. Ngày nay hơn thế, có thể bị chống đối và thêm nguyền rủa vào lời châm biếm của ông già Nicôđêmô. Điều quan trọng là coi trong mỗi bước nhảy đó có tàng chứa sức mạnh Kitô không. Thiên Chúa ấn định Tăng Trưởng như một quy luật trong ta. Về chính Đức Giêsu mà Tin Mừng cũng xác định với chúng ta rằng: “Ngài tăng khôn ngoan và vóc dáng, thêm dễ thương đối với Thiên Chúa và con người”. Hơn thế, sự tăng trưởng đó được trình bày cho chúng ta như nhiệm vụ đầu hết của Người Con Thiên Chúa... “Mà đứa bé thêm lớn, thêm mạnh, đầy khôn ngoan. Và Ân lộc của Thiên Chúa ở với nó”. Vậy trong bóng thiên nhiên và trong bóng thánh ân, chúng ta cũng phải bỏ đi các tã lót và bập bẹ. Nói như thánh Phaolô: “Khi tôi ấu thơ, tôi nói như trẻ thơ; khi thành nhân, tôi bỏ đi những gì là con nít”. Têrêsa hiểu điều đó, nên đã viết: “Chính ngày 25.12.1886 mà con được ơn ra khỏi tuổi thơ, nói gọn là ơn hoàn toàn trở lại”. Sự triển nở tiệm tiến phải đưa ta tới “tầm vóc tròn đầy của Đức Kitô”. Để phục vụ cho toàn thân: “Tôi đã cắt đặt anh em để anh em ra đi, mang lại hoa trái, mà hoa trái của anh em tồn tại”. Một sự trưởng thành thuần chủng Kitô như thế chỉ có thể hướng về vinh danh Thiên Chúa, Đấng đã yêu mà tạo dựng để yêu. Không có chuyện bắt ngưng một cách máy móc trong chúng ta tất cả những hứng khởi và nhiệm tâm của con người. Dụ dỗ không phải ảo tưởng cho những kẻ yếu làm bộ thơ ấu tâm linh, mà thực chất là sợ sống và vô thức trốn những trách nhiệm của con người trưởng thành. Băng qua cuộc sống như qua chuyến đò ngang với hành trang không hơn một em học sinh... thì thật dễ dàng, nhưng cũng thật nghèo nàn nhân bản và chẳng giá trị cứu thế nào! Còn nhiệm vụ phải già dặn, vì Thiên Chúa ghìm chúng ta chúng ta trong dòng thời gian, để đổi tự do thành những trị giá tình yêu. Với tính cách thơ ấu tâm linh, Đức Giêsu lên án không phải sự phát triển hài hoà những đức tính quân tử, nhưng lên án phát triển bừa bãi mà tiêu mất vốn duy nhất cần thiết. Trong chương trình cứu độ này có điều nghịch thường là việc tiến tới tầm vóc Đức Kitô chỉ thể bảo đảm bằng hành động liên tục truất hữu. Ngày “lối Nhỏ” cũng đã ghi điều đó trong bảng mẫu tự ít ỏi của chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn nhảy lên trên những tình cờ lịch sử phàm nhân, để ngay từ giờ thông hiệp với Người Cha luôn hiện diện và làm việc trong ta. Trên bình diện nhân bản, cuộc sống hướng về thành toàn bằng cách tăng mãi những hành động giàu hiệu năng. Nhưng lên quan điểm Nước Trời, tất cả hiển vinh mà Chúa hứa cho chúng ta đã mang mầm ngay trong bí tích Thánh Tẩy. Chỉ cần để Chúa hoạt động, chỉ cần từng giây phút đáp lời Tình Yêu bằng khiêm tốn và tin tưởng. CHA không đòi chúng ta chất thêm những báu vật bị sâu mọt, nhưng đòi chúng ta từng ngày lặng lẽ gia tăng theo những chiều kích của những kho tàng bất hoại. “Đối với Ngài, ngàn năm cũng thể một ngày”, và trọn đời ta trước mắt Ngài cũng như thể một ngày ấu thơ, với những nụ cười và nước mắt, mà tình yêu luôn kiên trì cấu hình vĩnh cửu. Không thể có mâu thuẫn giữa tiến bộ nhân bản mà Thiên Chúa ấn định với thân phận thơ trẻ mà Chúa muốn thấy ta ở lại. Bởi Tuổi Thơ trong Thánh Thần chỉ có vẻ tịnh, thực tế đó là “thành quả” của khiêm tốn và tin tưởng, luôn ảnh hưởng vào từng thoáng hiện tại suốt đời ta. Trong Thiên Chúa, ở lại chính là lớn lên.. Chính ở đây có phép lạ của sự tươi mát Kitô, phép lạ của nét trẻ trung một tàn nơi một thánh Têrêsa, nhờ được tắm gội do dòng nước từ thác Thiên Chúa. Đức Giêsu bảo: “Bạn đừng ngạc nhiên...”. Chúng ta đừng ngạc nhiên thấy tuổi thơ tâm linh như làm điên đảo những phạm trù thời gian, vì tuổi thơ này có nhiệm vụ ứng trước vĩnh hằng. “Hãy ở lại trong tình yêu của tôi...”. Nhưng yêu lại là xuất hành bất tức. Giêsu đã biết những gì trong con người và biết sức mạnh của kiêu hãnh đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài biết Tin Mừng chặn bắt tội lỗi và tội nhân bỗng chốc cảm thấy mình rớt đài và chới với. Ngài không vừa lòng chỉ cho thấy lý tưởng tuổi thơ, Ngài còn đích thân làm gương mẫu. Những gì Têrêsa gồm tóm trong đường thơ ấu, thì Giêsu, Ngài là Con Đường, là CON THƠ Duy Nhất, đã biểu lộ từ quan hệ Phụ Tử của Ngài. Đúng là chỉ có những liên hệ tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Cha mới diễn được rốt ráo tuổi thơ trong Thánh Thần. “Sống vĩnh hằng là họ nhìn biết Cha, Thiên Chúa chân thật duy nhất... Ở lại trong Tôi, CHa hoàn tất các công trình của Ngài. Hãy tin Tôi: Tôi ở trong Cha và Cha ở trong Tôi...”. Trọn Tin Mừng chỉ là chân dung CHA. Chính đó là điểm Têrêsa nhận ra; và cũng như mọi mạc khải của Cha đều có một thái độ tương ứng của Con, cuộc sống Kitô biểu lộ đường nét do một ấn tượng duy nhất diện mạo của Thiên Chúa. Giêsu đòi chúng ta sống như những người con, tất nhiên rất thảm thương, nhưng được yêu vô hạn. “Lối Nhỏ” đi ra từ chỗ giao thoa của tám con đường “bát phúc”. Per vias rectas, qua những đường thẳng, thẳng lên Trời. Niềm vui phó thác, cả trong thanh luyện, trong tội đời chất nặng; tin tưởng ngoan cường của người con lang bạt, của người mù, nỗi hổ thẹn của đầy tớ vô dụng: đó là chuỗi hành vi mà Têrêsa lấy ra được từ Tin Mừng. Vài giờ trước khi chết, Đức Giêsu, vị Thầy và Chủ, còn muốn tự làm đầy tớ mọi người, Ngài quỳ gối rửa chân cho những kẻ kiêu căng. “Tôi tặng anh em một kiểu mẫu, để anh em làm cho nhau như Tôi làm cho anh em. Nói thực, Tôi bảo thực anh em, đầy tớ không lớn hơn chủ hắn, một sứ giả cũng không hơn người phái hắn đi. Nếu anh em biết điều đó, anh em hạnh phúc nếu làm như thế”. Đó là đệ bát phúc, hạnh phúc cho người Tôi Tớ, người Khiêm Tốn, Người Con Thơ. Rồi khi Chúa Giêsu đã trao Thân Thể Ngài và Máu Ngài làm thực phẩm, khi Giuđa đã phản bội Ngài trong đêm tối, Ngài sẽ nói với các mô đồ những lời mà từ đó trái tim bốc lửa mãi cho Ngài: “Các con bé nhỏ, đúng là Thầy chỉ còn ở với các Bé một lát nữa thôi... Thầy trao cho các Bé điều dặn bảo mới, là các Bé phải yêu nhau...”. Lâm chung, Giêsu chẳng còn gì để cho được nữa: Ngài đã trao tất cả bí quyết của người CON. Nhưng Ngài còn trao chúng ta bí quyết của Mẹ Ngài, Tình yêu và trong suốt của Người. Ngài trao Mẹ Ngài cho ta, không để giữ, mà để nhìn ngắn. Vì nhìn Người, chúng ta sẽ thấy bằng cách nào Người nhìn thấy Thiên Chúa; chỉ điều đó là quan trọng thôi. Trong Nô tỳ này, Thiên Chúa tặng ta một kiểu mẫu khiêm tốn. Trong Trinh nữ này, mẫu gương phó thác. Thế là Người dẫn Thiên Chúa vào thế giới con người giờ đây nhận sứ mạng dẫn chúng ta vào thế giới Thiên Chúa và đúc trong chúng ta người con thơ mà Ngài đã từng là, Người Con Thơ mà Người đã từng mang. Chắc chắn chúng ta chẳng khi nào tìm thấy ở đâu những đường nét của Giêsu bằng ở trong đôi mắt từng gọi Ngài: Con của Mẹ! Anh trưởng của bao là người em....
“Trong trái tim Hội Thánh, Mẹ của em, em suyễn là tình yêu”. Công thức thật hàm súc này, Têrêsa chuyển giao cho chúng ta như chương trình trọn cuộc sống, có thể mang lại cho ta Bình an mà Chị đã hưởng nhờ. Têrêsa nhận cho mình lý tưởng rất cao về tông đồ truyền giáo và về các chiều kích của Hội Thánh. Chị từng ưa thích đi giảng xa, hoá đạo, hiến dâng máu mình cho Chúa, như bao vị khác mà hoài niệm về họ ám ảnh Chị. Thế mà thánh ý và Tình yêu Chúa nhốt Chị trong bốn bức tường Cát Minh. Thần thánh bất thường? Uổng phí hương hoa? Một Giuđa có thể nói thế. Têrêsa không hề nghĩ thế. Tù nhân của tình yêu, mà vì mình yêu, không khi nào Chị thấy những ước muốn mênh mông của Chị bị co ép, hoặc cô đơn vò nát. Trái lại, được rút vào sa mạc lòng bên lòng với Thiên Chúa của mình, và tại đây mình được giải thoát, Têrêsa ngày càng hiệp thông chặt chẽ với chương trình cứu thế và tính phổ quát cứu độ. Trong thinh lặng, nối kết với tính đơn thuần của Thiên Chúa, Têrêsa hồn nhiên tiến lên trong Ngài, càng lúc càng khám phá ra thế giới cao hơn, trong tầm nhìn của chính Chúa. Đồng thời phạm vi hoạt động của Chị cũng mở rộng, vượt qua thế giới vật chất, vì Giêsu làm việc trong sự yếu kém của Chị: Trong Ngài, Chị đạt chiều kích Hội Thánh của Chị. Đối với Têrêsa, Hội Thánh trước hết là một Người Mẹ. Bạn có lấy mất của người mẹ đôi mắt mỉm cười, vòng tay an ủi, bàn tay nâng niu, Người mẹ vẫn còn cốt yếu của sứ mạng và bản thân: Người đã tặng sinh mạng và vẫn yêu sự sống này vì là một phần xương thịt của Người. Trái tim người mẹ là âm vang luôn năn nỉ: mẹ đoán biết trước hết điều con nói. Mẹ tiên cảm những đau khổ và những hàng nước mắt sắp ứa ra. Mẹ đọc được khổ tâm trong cái nhìn che giấu. Không sa ngã nào mẹ ngạc nhiên, không vết thương nào chặn bước mẹ, vì thịt chảy máu vẫn là một chút của mẹ và mọi yếu đuối vẫn là tiếng gọi yêu thương. Suốt đời mẹ vẫn là sinh con. Khả năng thông cảm và đón nhận này biến mẹ thành liên hệ sống của gia đình. Trong mẹ, nối kết và hoà hợp vận mạng những người mà mẹ đã trao vào trần thế. Các con bắt đầu cuộc sống từ mẹ, không phải luôn lượng giá được món nợ họ mắc với mẹ; họ có thể ra đi nhiều năm không quay đầu trở lại, nhưng mẹ vẫn băn khoăn dự phòng theo dõi họ, nâng đỡ họ, khuyến khích họ. Trái tim người mẹ vang vọng những niềm vui và hy vọng của họ. Về Hội Thánh cũng thế. Hội Thánh vừa là lòng mẹ ấm áp, nơi mà những người con càng nhỏ bé càng được yêu thương, đồng thời là tổ ấm phát sinh. Cho tới ngày thế mạt, người người nhờ Hội Thánh mà lãnh nhận thánh tẩy, lãnh nhận sự sống, ánh sáng và lương thực; cũng cho tới ngày Chúa quang lâm, trong Hội Thánh vẫn sẽ vang lên những thảm kịch và chiến thắng của con người, và cả những dò dẫm của lịch sử. Nhưng Hội Thánh có thể bao dung tất cả và lãnh nhận tất cả, vì trái tim Hiền Thê không có giới hạn nào khác tình yêu mênh mông của Chiên Con. Ngay từ hôm nay, Hội Thánh vẫn dệt Nước Trời trong Huyền nhiệm, kéo các sợi trên khung bất biến của thầy ý theo muôn nhịp điệu sứ mạng khác nhau. Sống trong tim Hội Thánh chính là liên kết với phương án cứu độ trong mọi chiều kích và nội dung phong phú. Sống trong tim Hội Thánh chính là hào mình với nhịp thăng hoa, tiếp nhận sứ vụ tiếp diễn trong thời gian và không gian của tình yêu Thiên Chúa. Têrêsa đã muốn nắm bắt sức thánh hoá này của Hội Thánh trong tình trạng sơ sinh, đúng như vừa tuôn trào từ trái tim Giêsu. Chắc chắn những người đã thánh tẩy, đã tiếp thân vào Nhiệm Thể, đều thông phần vào thực thể năng động luôn nâng chúng ta lên tới CHA. Nhưng đúng là thánh Têrêsa có nét tinh thần đặc biệt vì đã ý thức sống thực thể đó và nhất là đã tìm ra điểm ráp ghép quan phòng cho mọi người, dầu họ cô đơn và nghèo hèn đến mấy. Để những ranh giới của mình chìm được vào lòng Hội Thánh, Chị đã lượm trong trong thái tim nghèo nàn của mình tính phổ quát của ơn cứu chuộc. Thiếu mọi phương tiện phong phú để thấy hoạt động được, chẳng một lợi khí nào ngoài tình yêu của mình, Chị lặn vào niềm tin tinh khiết trong Sự Khôn Ngoan muôn dạng của Cha, chắc chắn trực tiếp thông dự quyền năng Ngài. Thành công của Chị còn là lời kêu gọi tất cả chúng ta. Têrêsa đến nhắc chúng ta nhớ rằng việc thánh hoá chúng ta và thế giới là sinh nở hằng ngày. Chẳng cần khoẻ mạnh hoặc thiên phú nào để mình LÀ của Hội Thánh và phục vụ Hội Thánh, để LÀ ánh sáng trần gian và muối địa cầu. Chúng ta không phải Giáo Hội của những kẻ quyền thế, mà của các tội nhân và những người yếu: vì Giêsu đến cứu những người đã mất. Từ ngả đường nào mà chúng ta không được gom về dự tiệc nhà Cha? Nghèo, mù, tàn phế? Có hệ gì! Nước Thiên Chúa không nhìn nhận giá trị gì ngoài Bác Ái: Dưới làn áo cưới, tất cả những vết nhăn của chúng ta không thấy và muôn vật chỉ giữ được giá trị trước đôi mắt Chúa nhờ trọng lượng yêu thương của mình. Chúng ta cũng không có trên trời “một Thượng Tế không thể thông cảm những bệnh hoạn của chúng ta; để giống chúng ta, Ngài đã trải qua mọi thanh luyện, trừ tội lỗi”. “Ngài phải giống anh em mình mọi sự, để là Thượng Tế từ bi và Ngài phải trả tất cả nợ nần cho Thiên Chúa để xoá tội cho dân; CHÍNH VÌ Ngài đã đau khổ, đã chịu luyện lọc, mà Ngài có thể tiếp cứu người đang bị thanh luyện”. Sự yếu hèn của chúng ta cũng thông phần “chức linh mục hoàng gia” của những người đã thánh tẩy tuỳ mức độ nó hiệp nhất chúng ta vào hy vọng của thế giới. Vậy thì hào quang tông đồ của chúng ta lệ thuộc vào những điều kiện sống trong đó Chúa đặt chúng ta hoặc những phẩm chất hoạt động chúng ta bằng lệ thuộc niềm tin và cậy trông chúng ta có khi đáp lại tình Ngài. Được cứu do Tình Yêu, chúng ta chỉ cứu bằng tình yêu; đó là Thực chất tâm linh mà Têrêsa đã làm trẻ trung lại cho chúng ta. Chị đã sống kiểu vội vàng và chuyên biệt mà chỉ các thánh mới biết được. Chắc chắn Chúa đã cho Chị từ rất sớm biết quan tâm tới mọi người, nhưng Chị lại mau lẹ hơn nữa đầu tư đời mình vào một Tình yêu thôi. Mọi người đã được thánh tẩy và để Thánh Thần hướng dẫn đều đến với Thánh Tâm Đức Kitô. Mà nếu chúng ta là con Thiên Chúa tuỳ mức độ Thánh Thần hướng dẫn, thì tất cả các ơn gọi đều quy tụ và thành toàn trong Trái tim Hội Thánh, vì khi tuyệt đối trung thành với ơn thánh, thì hoạt động hoặc chiêm niệm, hành động hay không... đều kém xa được Chúa tác động. Vai trò, mà vì yêu, Têrêsa đóng trong Hội Thánh, không phế bỏ chức năng những người khác; trái lại, vai trò đó hiểu rằng vẫn còn các vị, hơn thế, nó không thể thiếu để các vị tông đồ, chứng nhân và tử vì Đạo gặp thấy trong Nhiệm thể sức mạnh tin tưởng và kiên vững tới cùng. Tuỳ mức độ hiểu biết và sống học thuyết Têrêsa về phó thác, học thuyết này tỏ ra đối kháng quan phòng cho những khó khăn thời đại chúng ta. Đôi khi còn thấy như Chị Cát Minh n ày đã âm thầm tiên cảm được sự khắc khoải và những nhu cầu của thế giới náo hoạt này và Chị đã chịu đựng chúng trong giới hạn cuộc đời vắn vỏi của Chị. Ai nói được giáo thuyết này còn làm giàu cho thật nhiều lãnh vực khác nữa của chúng ta? Chẳng hạn đã làm cho con người thời nay chú trọng tới sức khoẻ hơn, khi nói về những giới hạn của con người, khi bằng lòng với thân phận thụ tạo. Cánh chung học hẳn có lợi khi tiếp xúc với thực tế đề cao giá trị của tự do nơi những người hưởng ơn cứu chuộc và tình yêu trong phút hiện tại. Tu đức học thì đã chấp nhận việc cương quyết hướng dẫn theo Tin Mừng yêu thương mà Têrêsa đã theo. Sứ mạng Têrêsa liên hệ tới mọi Kitô hữu. Chị nhắc những người được Chúa gọi vào nội cấm nhờ chiêm niệm tông đồ có tính phong phú; cho các tông đồ giữa những hoạt động ngổn ngang nhờ dành ưu tiên cho hiệp nhất với Gốc Nho, cho việc thụ động trước nhan Chúa, từ huyền nhiệm đó, hoạt động tông đồ chiều sâu mới được dưỡng nuôi. Không hiệp nhất, thì làm sao nói được về Chúa như nói về Bạn Tri âm, với niềm tin lây lan? Với bệnh nhân chịu lệnh tuyệt đối yên nghỉ, hoặc những người gặp các điều kiện ngày càng bất nhân, Chị cho họ chắc chắn có thành quả siêu nhiên, từ đó thành những người lớn nhất trong Nước Trời. Với mọi người, dù đang bị nghiền dưới lao động nặng nề hoặc tối tăm, dù đang là chứng nhân những đau khổ nào, Têrêsa nhắc lời kêu gọi tất cả sống thân mật với Chúa. Toàn thiện là tiến trình đơn giản lạ lùng, mà vẫn chỉ đòi trung thành không ngớt. Chỉ cần chọn Chúa vì Chúa chọn chúng ta. Mà phải nhìn như Chúa nhìn, muốn điều Chúa muốn. Nên thánh không phải chuyện may rủi, mà là chọn ưu tiên. Têrêsa cho mọi người thấy “điều duy nhất cần”, đó là thay cho những người từ chối Chúa, mà bao vây Trái Tim Thiên Chúa bằng việc cầu nguyện không mệt mỏi và không tuỳ hứng; LÀ ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh như “người biến đổi” thần thánh, người sinh lại bở nước và Thánh Thần, có khả năng trong tất cả những gì hiến dâng con người lên trước cặp mắt từ bi của Đấng Cứu Thế để Ngài chấp nhận họ và cho họ một tên vĩnh hằng. Mẹ Maria đã làm như thế, từ Nazareth qua Núi Sọ tới ngày về trời, luôn rộng mở thêm những chiều kích mới của tình mẫu tử. Vì thánh hoá đâu phải chuyện vận động cá nhân; thánh hoá luôn là công cuộc tầm vóc Giáo Hội. Không thể đến với Đầu mà không thèm phục vụ toàn Thân. Têrêsa, khi ý thức nhìn nhận sứ mạng mình trong Trái tim Hội Thánh Mẹ mình, đã liên kết vận mạng vĩnh hằng mình với vận mạng Đức Mẹ, Đấng nhờ hiệp thông vô hình với Đức Kitô mà thể hiện kiểu mẫu Hội Thánh và phác hoạ cho chúng ta sự toàn bích trên Trời. Theo chiều hướng này, vai trò của Têrêsa trong Hội Thánh chỉ là tuyên phong cuộc sống thánh mẫu của Chị; và hôm nay, khi Chị liên kết với Mẹ trong vinh quang, hẳn Nữ Vương cũng trao cho Chị phản ánh tình mẫu tử của Người, mối tình làm dậy lên trong toàn thế giới hàng hàng lớp lớp người nhiệt thành hiến thân cho Tình yêu. Mục tiêu duy nhất Chúa tìm cho vinh quang Ngài và thực là cần cho cứu độ thế giới là “những người tôn thờ trong tinh thần và sự thật”, những người để Ngài tự do sống và hành động trong mình, những “nhân tính phụ trội”, trong họ Ngài có thể tái diễn tròn đầy Huyền Nhiệm của Ngài.
PHẦN 2
NHỮNG LỜI SAU HẾT CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU “Hãy thu lấy những miếng vụn kẻo hoài đi” (Ga 6,13). Tiểu dẫn Một số trong những lời sau hết này đã được công bố hoặc thêm ở “TRUYỆN MỘT TÂM HỒN” hoặc ở chỗ khác. Những lời đó được sửa đổi lại chút ít cho hợp với văn mạch hoặc vì đã do những chứng nhân khác thuật lại - các chị Nhà Tập chẳng hạn - vì đôi khi các chị cũng có mặt trong những câu chuyện ấy. Chính Mẹ bề trên - Mẹ Marie de Gonzague - đôi lần cũng tham dự những cuộc đàm đạo này và những lời của Thánh Nữ đây, nhất là ở chương XII trong “Truyện Một Tâm Hồn”, vì tôn trọng Mẹ bề trên nên đã được thuật lại như nói với chính cá nhân Ngài vậy.
Đại chủng viện Bageux, Ngày 10.11.1926 Thưa Mẹ đáng kính, Cuộc đời vắn vỏi của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu - Em Mẹ - là một nhịp tiến vững vàng tới Tình ái tuyệt hảo Thiên Chúa - càng gần cuộc xuất thần cuối cùng - cuộc xuất thần đã đưa Chị Thánh về với Chúa - thì hành động và lời nói càng diễn tả mạnh mẽ sự trọn lành của linh hồn Chị, cũng như những bài học thánh thiện, chân thực và đơn sơ mà Chị đã có sứ mạng truyền lại cho chúng ta. Như Elia, khi bỏ dương thế, đã lưu lại cho đệ tử yêu dấu toàn thể “linh hồn” của Ngài: Thánh Têrêsa, Em Mẹ, cũng đã chung đúc một cách hết sức tự nhiên nơi những lời sau hết này tất cả những gì ưu tú nhất trong phương pháp kết hiệp với Thiên Chúa cách tự phát và yêu mến. Trong mấy tháng cuối đời của Chị Thánh, Mẹ quả đã hết sức ân cần săn sóc, từng ngày từng giờ không rời khỏi giường Em Mẹ để đón nghe, ghi chép từng vần từng chữ, cho đến cả những cử chỉ nhỏ nhặt trong đó Chị Thánh đã bộc lộ một cách rất trung thành những tâm trạng của Chị. Từ n hoặc lời nói và hành động này. Mẹ đã đưa ra mấy điểm chọn lọc ở phụ trương cuốn “Truyện Một Tâm Hồn” hay trong những cuốn tiểu sử được soạn thảo với sự cộng tác của Mẹ. Mà, trong những lần xuất bản đó Mẹ đã không thể xen vào nhiều chi tiết gói ghém trong cuốn nhật ký thân tình ấy vì sợ những chi tiết đó sẽ làm chậm đi câu truyện đang lược thuật hoặc cắt quãng sự cân đối của tác phẩm. Hoặc có lẽ Mẹ ngần ngại không muốn phổ biến những câu chuyện tâm tình kể như riêng tư của gia đình ấy vì lý do chúng quá đơn sơ mộc mạc. Nhưng Mẹ đã hiểu rằng bao nhiêu linh hồn mà Em Mẹ phải chinh phục và hướng dẫn trong “con đường của Chị Thánh” đang khao khát tìm hiểu Chị Thánh hơn nữa. Và, vì rằng những cử chỉ cũng như những lời nói này càng tuy nhiên bao nhiêu thì nó càng nói lên cái nền tảng của tâm hồn và sự thánh thiện của Chị Thánh một cách chân thật bấy nhiêu. Vâng, cuốn sách Mẹ gởi cho chúng tôi đây thật là một kho báu. Nó là chúc thư của Chị Thánh yêu quý. Trong sách đó Chị thực là một hiện thân hoàn toàn và hơn nơi mọi tác phẩm khác. Tôi cám ơn Mẹ vì Mẹ đã không giữ nó cho một mình Mẹ. Thưa Mẹ đáng kính, xin Mẹ hãy nhận lơi tôi lòng kính tôn chân thành trong Chúa. P. Th. DUBOSQ Bề trên, Tổng quản
Trưởng tín khhảo nghi Phong Thánh
Cho thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu
Của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đây đã được Mẹ đáng kính Agnès de Jésus đón nghe và ghi chép từ chính miệng của Thánh Nhân. Vì được ghi chép từng ngày như thế nên phần lớn những lời ấy đã được trình bày trước Toà Án Giáo Hội. Trong những vụ khảo nghi phong Chân phước và phong Thánh Một số những lời rất quen thuộc nhưng Mẹ Agnès de Jésus không nghe thấy nên không được ghi trong những cuộc đàm đạo này.
1-V-1897 “Hôm nay lòng con tràn ngập niềm vui Thiên Quốc. Chiều qua, con đã cầu xin Đức Mẹ rất nhiều khi thấy tháng hoa của Ngài sắp trở lại!” 9-V - Bàn về những ý nghĩ mà đôi lần người ta không thể nào tránh khỏi sau khi đã giúp đỡ ai việc gì mà không được lấy một lời cám ơn. “Con cũng vậy, con dám chắc với Mẹ là con cũng có những ý tưởng như Mẹ vừa nói; nhưng không bao giờ nản chí, vì ở trần thế này con không mong được người ta ban thưởng chi hết: Tất cả những việc con làm là làm cho Chúa, như thế con sẽ không thể mất mát gì và những vất vả con chịu để giúp đỡ tha nhân luôn được đền đáp bội hậu”. 15-V “Không biết sau khi chết con sẽ được thêm những gì mà hiện giờ con chưa có... Con sẽ thấy Chúa chắc chắn vậy! Nhưng để được sống với Chúa thì ngay trên đời này con đã phải hoàn toàn thuộc về Chúa rồi. “Con sung sướng biết bao vì sắp được về Trời, nhưng khi nghĩ tới lời sau đây của Chúa: Chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến và đem theo phần thưởng cho mỗi người tuỳ công nghiệp của họ, con thầm nhủ rằng Chúa sẽ lúng túng khi đến với con, vì con chẳng có chút công nghiệp nào! Chúa sẽ không thể ban thưởng cho con theo như công nghiệp của con... Nhưng con tin Chúa sẽ tuỳ theo công nghiệp của Người mà ân thưởng con. “Giả như Chúa không thấy những việc lành con làm, thì con cũng chẳng buồn. Con yêu Chúa hết sức, đến nỗi con ước ao có thể lấy tình yêu và những hy sinh nhỏ bé của con để làm đẹp lòng Người, cho dù Người không biết tình yêu và những hy sinh đó là của con. Biết và thấy những cái đó thì dường như Chúa bó buộc phải ân thưởng con... Con không muốn làm phiền Chúa như thế! “Con rất ao ước được sai sang Nhà Kín Hà Nội để đau khổ vì Chúa nhiều hơn; con ước ao sang đó, nếu con được khỏi bệnh, để được sống một mình và như vậy trên đời này con sẽ không còn được an ủi cũng không còn niềm hoan lạc nào nữa... Con biết rõ Chúa không cần chi đền những công việc của chúng ta, con cũng chắc chắn rằng nếu có sang Hà Nội thì con cũng chẳng giúp được gì; nhưng con sẽ được chịu đau khổ và yêu mến. Với Chúa như thế cũng giá trị rồi”. - Tôi nói với Chị về mấy phương pháp một đạo của một số tác giả tu đức đã làm nhiều linh hồn nản chí. “Đối với con, ngoài Phúc Âm ra thì các sách khác chẳng giúp con gì cả! Nguyên Phúc Âm đối với con đã đủ rồi. Con sung sướng khi nghe lời sau đây của Chúa Giêsu nói cho con biết tất cả các công việc phải làm: “Hãy học cùng Cha, vì Cha hiền từ và khiêm nhường trong lòng” Lời đó ban an bình cho con, theo lời Chúa hứa: “và tâm hồn chúng con sẽ được an nghỉ”. - Nhà Dòng cho Chị một áo dài mới (nay vẫn còn). Chị mặc lần đầu tiên dịp lễ Sinh nhật năm 1896. Kể từ ngày Chị được mặc áo, thì đó là chiếc áo thứ hai làm Chị mặc chẳng vừa chút nào. Tôi hỏi xem Chị có khó chịu không: “Chả khó chịu chút nào! Giá có phải mặc một áo của người Trung Hoa xa xôi cách đây từng mấy ngàn cây số thì con cũng chẳng khó chịu”. - Nói về các chị Nhà Tập: “Con tung ra tứ phía cho các chim nhỏ của con những hạt miến ngon lành Chúa đặt trong tay con. Rồi sau ra thế nào thì ra, con không bận tâm đến việc đó nữa. Đôi khi dường như con không tung ra gì hết, lúc khác hình như lại tung ra nhiều hơn; nhưng Chúa bảo con: “Con cứ tung ra đi, cứ tung ra mãi đi, đừng bận tâm chi về kết quả”. 18-V “Bề trên đã tha hết mọi công tác cho con nghĩ rằng cái chết của con sẽ không làm rầy rà chị em trong Dòng chút nào cả”. - Tôi nói với Chị: Con có buồn khi thấy mình như một phần tử vô dụng trước mặt chị em không? “Ồ, không, con chả bận tâm đến điều đó mấy...”. - Thấy Chị quá ốm yếu, tôi đã cố xin cho Chị được miễn các giờ kinh cầu hồn theo như Luật dạy mỗi khi có chị em trong Dòng qua đời. Chị nói với tôi về vấn đề đó như sau: “Con van Mẹ, đừng xin cho con được miễn giờ kinh cầu hồn đó, vì con chỉ còn cách ấy để giúp linh hồn các chị em đang ở trong luyện ngục”. - Tôi cho Chị biết nỗi kinh ngạc của tôi là thấy chị dù bệnh tật đau yếu cũng vẫn không ở không bao giờ: “Con lúc nào cũng cần phải có việc làm, như thế con sẽ không lo lắng gì và không bao giờ lãng phí thời gian. “A, con đã thiết tha nài xin Chúa cho con có thể theo được hết các công việc chung trong Dòng cho tới lúc về Trời. Người đã không muốn nhận lời con xin! Tuy nhiên, con thấy hình như con có thể theo được tất cả các giờ, con sẽ không chết sớm hơn, dù chỉ sớm hơn một chút trước giờ Chúa đã định. Đôi khi con cũng nghĩ rằng nếu con không nói gì hẳn người ta sẽ tưởng con không đau yếu chi cả”. 19-V - Sao hôm nay con vui thế? “Vì sáng này con gặp hai đau khổ nhỏ nhưng thật sâu xa... Không gì hiến cho con những niềm vui nho nhỏ bằng những nỗi khổ cỏn con...” 20-V “Người ta bảo rằng con sẽ sợ chết; điều đó có thể lắm. Nếu người ta biết rằng con ít tự tin ở mình! Không bao giờ con dựa vào ý nghĩ riêng của con; con biết con yếu đuối lắm, nhưng con muốn vui với những tình cảm mà Chúa đang ban cho con. Còn chịu đau khổ vì những điều trái ý thì lúc nào chả có”. - Tôi chỉ cho Chị xem một trong những tấm hình của Chị: “Vâng, nhưng... đó là cái phong thơ, khi nào người ta mới được đọc chính thơ?... Ồ, con ước ao được xem chính thơ quá”. Từ 21 đến 26 tháng V “Con biết con sắp chết. Nhưng khi nào?... Ồ! Sao mãi không chết? Con tựa hồ một trẻ thơ lúc nào người ta cũng hứa cho quà. Họ lấy quà nhử từ xa xa, rồi khi đứa bé tiến gần thì họ rụt tay lại!... Con hoàn toàn phó thác sống chết nơi Chúa. Tuy nhiên, con rất mong được khỏi bệnh để sang Việt Nam, nếu Chúa muốn vậy. Sau khi con chết, đừng để người ta đặt vòng hoa quanh quan tài con, như khi Mẹ Geneviève qua đời: nhưng với món tiền người ta tiêu phí như thế Mẹ hãy xin họ đem chuộc các em bé nô lệ da đen đáng thương. Mẹ bảo người ta rằng làm như vậy con rất hài lòng. Con muốn có một Théophane nhỏ và một Maria - Têrêsa tí hon. Cách đây ít lâu con rất ngại uống thuốc đắt tiền, nhưng bây giờ thì không sao cả, vì con thấy thánh Gertrude vui mừng vì điều đó khi Ngài nghĩ rằng uống thuốc như thế là mưu ích cho những người giúp đỡ mình. Ngài đã dựa vào Lời Chúa: “Điều con làm cho người bé nhỏ nhất trong anh em Cha tức là làm cho chính Cha. Con tin chắc rằng những thuốc con dùng đều vô hiệu, nhưng con đã dàn xếp với Chúa để những thuốc con dùng đó mưu ích cho các vị thừa sai bị ốm đau mà không có thời giờ, không có phương tiện chạy chữa. Con xin Chúa để tất cả những thuốc thang, săn sóc con được hưởng đây sẽ chữa lành các vị thừa sai ấy. “Biết bao lần người ta nói đi nói lại với con rằng con can đảm, mà điều đó chẳng đúng mấy! Và con tự nhủ: Không nên để người ta nói dối thế và với ơn Chúa phù giúp, con sẽ được can đảm. Con như một lính chiến nghe người ta chúc tụng mình là chiến sĩ can trường, mà thực ra anh ta biết rõ mình chỉ là một kẻ hèn nhát, để rồi rút cuộc thấy hổ thẹn vì được khen như vậy và anh cố sống cho xứng với những lời khen đó. “Con thích ở lại trong phòng riêng của con hơn là xuống dưới nhà bệnh, vì ở phòng không ai nghe thấy con ho cả, con sẽ không làm phiền ai; và rồi khi con được săn sóc quá hậu thì con không còn được vui sướng nữa. “Các Thánh Anh Hài không phải là những trẻ em ở trên trời, nhưng các Thánh được hưởng những vui sướng khôn tả của tuổi thơ. Sở dĩ người ta dùng hình ảnh hài nhi để diễn tả các Thánh ấy chỉ vì chúng ta cần hình ảnh cụ thể mới hiểu nổi những cái vô hình. “Vâng, con hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ được nhập đoàn các Thánh ấy. “Con rất muốn có một lưu thư con không hiểu tại sao có nhiều chị lại không muốn có một bản lưu thư như thế; quen nhau và sẽ biết mình sẽ được sống muôn đời với ai thì thích biết mấy”. - Chúng tôi nói chuyện với nhau về hồi còn nhỏ, tôi kể cho Chị nghe một ý nghĩa nhân một lá thư Mẹ tôi gởi cho tôi hồi còn là lưu trú học sinh tại Dòng Thăm Viếng ở Mans: “Mẹ biết rằng con không thích gì hơn là được biết tin của các em con; Céline và Têrêsa, nhưng Mẹ phải cố moi óc để tìm những tin mới viết cho con, đôi khi moi mãi cũng chẳng ra” - Mẹ chắc rằng - tôi nói thêm - đôi khi Mẹ chúng ta phóng đại những khuyết điểm nhỏ của con để có thể có những chuyện lý thú mà viết cho Mẹ, Chị trả lời tôi cách đơn sơ: “Con tin Mẹ nói đúng; thật ngay khi chưa đầy ba tuổi con đã chẳng cần để ai rầy la chút nào khi họ sửa lỗi con. Chỉ một lời nhè nhẹ cũng đủ khiến con hiểu và hối lỗi suốt đời”. 28-V “Con không sợ những trận ác chiến cuối cùng, những đau khổ của bệnh tật dù lớn đến đâu đi nữa. Chúa nhân từ đã giúp con và giơ tay dắt con từ thời con còn thơ ấu, con hằng trông cậy Người. Con chắc chắn Chúa sẽ tiếp tục giúp con đến cùng. Con sẽ có thể chịu đau khổ tới cực độ, nhưng con chắc sẽ không bao giờ Chúa để con chịu quá sức”. - Tôi bảo Têrêsa: “Có một Chị Dòng kia sống lâu trong tu viện nghĩ rằng cuộc đời lâu năm trung thành phụng sự Chúa sẽ có nhiều công và sẽ giúp ích cho các linh hồn hơn là một cuộc đời vắn vỏi”. “Ồ, con không nghĩ như vậy. Khi đọc sách ở nhà cơm Mẹ có để ý đến lá thư gởi cho Mẹ thánh Louis de Gonzague, trong thư đó nói rằng: tác giả không thể học thêm được nữa, cũng không thể thánh hơn nữa dù tác giả có sống lâu như Noe. “Năm ngoái, vào quãng tháng 11, cũng hồi ấy, con được dự định gởi sang Bắc Việt, Mẹ có nhớ bấy giờ để xin một dấu hiệu tỏ ra việc con đi có phải là do thánh ý Chúa hay không nên cả nhà đã làm một tuần cửu nhật cầu xin thánh Vénard (thánh Ven). Bấy giờ, con theo tất cả những giờ chung, con dự cả giờ Kinh Sách. Thế rồi, đúng trong tuần chín ngày ấy con bị họ lại và mỗi ngày bệnh càng nặng hơn. Chính thánh Vénard gọi con đấy. Con rất muốn được một bức chân dung của Ngài. Đó là một tâm hồn con rất mộ mến... Nhiều vị thánh trẻ trung đã bị người ta trình bày như những vị thánh quá trang nghiêm dù là kể lại những cuộc chơi của các ngài cũng thế, còn thánh Vénard thì lúc nào cũng vui tươi. “Con chẳng muốn chết cũng chẳng muốn sống; con để Chúa chọn cho con. Con thích tất cả những gì Chúa làm. “Không nên tin rằng, nếu con được khỏi bệnh thì con sẽ lúng túng và làm hỏng cả chương trình của con. Không phải thế đâu! Trước mặt Chúa thì già với trẻ đều không có nghĩa gì hết. Con sẽ liệu cách để lúc nào cũng sống bé nhỏ, dù con sống mãi đến già cũng vậy. “Lúc nào con cũng nhìn khía cạnh tốt của sự vật. Có người dùng mọi phương thế để làm cho mình thêm đau khổ. Con thì không thế. Nếu con hoàn toàn phải đau khổ, nếu bầu trời tối đen khiến con không xem thấy gì xán lạn cả thì con vẫn lấy thế làm vui”. 29-V - Thấy Chị đau đớn quá, tôi liền lấy Phúc Âm đọc cho Chị nghe một đoạn, mở sách tôi liền thấy đoạn này: “Ngài đã sống lại, Ngài không còn ở đây nữa, hãy nhìn xem chỗ người ta táng xác Ngài”. “Vâng, đúng rồi, thực con không còn như hồi thơ ấu nữa, hồi ấy hơi một chút con cũng đau đớn: con như đã sống lại, con không còn sống ở nơi người ta tưởng nữa. Mẹ ơi, Mẹ đừng bận tâm vì con nữa, con đã tới chỗ không thể đau đớn được nữa vì với con, tất cả đau khổ đều ngọt ngào”. 30-V - Tôi nói với Chị: Có lẽ trước khi chết, con phải đau khổ nhiều! “Ồ, Mẹ đừng vì thế mà buồn nhé. Con rất ước ao được đau khổ nhiều”.
- Chị giã từ chúng tôi (ba chị ruột). Hôm đó Chị như biến dạng và như không đau đớn gì nữa. “Em đã cầu xin Đức Mẹ cho em đừng mê mệt nữa như những ngày vừa qua. Em thấy rõ mấy ngày vừa rồi em đã làm cho các chị phải phiền lòng; hôm nay Đức Mẹ đã nhận lời em xin. Ôi, các chị yêu dấu của em, sung sướng dường nào! Em thấy chẳng bao lâu nữa em sẽ chết và bây giờ em tin chắc thế. “Sau khi chết mà em không hiện về với các chị thì các chị đừng ngạc nhiên chi cả và cũng đừng bỡ ngỡ nếu không thấy một dấu gì khác thường chứng tỏ nguồn hạnh phúc bất diệt của em. Các chị sẽ nhớ rằng điều đó hợp với tinh thần con đường nhỏ của em là không ước ao xem thấy gì hết. Hẳn các chị đã biết những điều em đã thưa với Chúa, với các thiên thần và các thánh nhiều lần: Lòng Em chẳng chút ước mong, Ở trên trần thế ngắm trông các Ngài”. - Chị Geneviève de la Sainte-Face liền nói: Các thiên thần sẽ đến tìm em. “Em tin rằng chị không xem thấy các Đấng ấy, nhưng không phải vì thế mà các Ngài không hiện diện tại đây. “Tuy nhiên em rất muốn được chết êm đẹp để làm vui lòng các chị. Em đã xin điều ấy với Đức Mẹ. Xin cùng Đức Mẹ thì khác với xin cùng Chúa. Đức Mẹ biết rõ điều Ngài phải làm để chiều những ước muốn nhỏ mọn của em, Ngài cũng biết có nên hay không nên nói những điều ấy... Ngài cũng phải liệu sao để không ép buộc Chúa phải nhận lời em và liệu sao để có thể thi hành Thánh ý Người trong mọi sự. “... Em không biết có phải qua lửa luyện tội không, nhưng em không lo chút nào cả. Nếu em phải xuống luyện tội thì em cũng không hối tiếc, vì đã không làm gì để tránh luyện tội. Không bao giờ em phàn nàn vì đã chỉ làm việc để cứu các linh hồn. Em sung sướng biết bao khi biết rằng chính Mẹ thánh Têrêsa cũng đã như như thế! “Các chị đừng buồn nếu thấy em phải đau đớn nhiều và như em đã nói, nếu các chị không thấy nơi em một dấu hạnh phúc nào khi em tắt thở... Chúa chúng ta đã chết hy sinh vì tình yêu và các chị hãy xem Người hấp hối như thế nào!” - Cũng ngày hôm đó, quãng xế trưa, thấy Têrêsa quá đau đớn, tôi liều bảo Chị: Đấy nhé! Con ước ao được đau khổ thì Chúa đã không quên điều con mong. “Con mong ước được đau đớn và con đã được như ý. Con đau đớn rất nhiều suốt bao nhiêu ngày nay... Có một buổi sáng, trong khi đang cám ơn, con cảm thấy buồn rầu đến chết được và lúc đó con lại không được một an ủi nào hết. “Con đón nhận tất cả vì tình yêu Thiên Chúa dù cả những tư tưởng kỳ lạ đến xâm chiếm tâm trí làm con buồn phiền”. 5-VI “Nếu sáng ra Mẹ đã thấy con chết rồi thì Mẹ cũng đừng buồn khổ chi. Đó chính là Chúa, Người Cha yêu dấu đến đón con đi. Được rước Mình Thánh Chúa dĩ nhiên là một đặc ân vĩ đại, nhưng nếu Chúa không ban đặc ân ấy thì cũng cứ được đi... Tất cả là ân huệ. “Con cám ơn Mẹ đã xin cho con được chịu một mảnh nhỏ Mình Thánh Chúa. Nuốt Mình Thánh con thấy còn đau đớn lắm. Nhưng sung sướng biết bao khi được Chúa ngự vào lòng! Con đã khóc vì cảm động y như ngày con chịu lễ lần đầu vậy. “Mẹ ạ, khi bị cám dỗ về đức tin con thấy được ít an ủi quá. Hôm nay Cha Tuyên uý bảo con: Con đừng chỉ nguyên lưu tâm đến điều đó, nguy hiểm lắm con ạ. “Ngài còn bảo con: “Con có cam lòng chết không?” Con đáp lại: “Thưa Cha, con thấy chỉ phải cam lòng sống thôi chứ được chết thì con vui lắm”. “Thuở thiếu thời, các biến cố lớn lao trong đời con hiện ra xa xa trước mặt, y như những ngọn núi cao vút khó lòng đặt chân tới được. Nhìn thấy các em nhỏ chịu lễ lần đầu con tự nhủ: Mình sẽ chịu lễ lần đầu thế nào nhỉ?... Sau này mình sẽ vào Dòng Kín thế nào nhỉ... Rồi... làm thế nào để mặc áo, để khấn?... “Bây giờ con cũng tự hỏi mình như thế đối với cái chết của con”. 7-VI - Tôi đỡ Chị đi dạo mát ngoài vườn. Lúc về, Chị dừng lại nhìn con gà mẹ trắng nhỏ xoè cập ấp ủ đàn con. Mắt Chị liền trào lệ. - Con khóc à? Tôi hỏi Chị. Chị bảo tôi: “Con không thể trả lời Mẹ lúc này được, con cảm động quá! - Về sau với một lối diễn tả thần tiên, Chị giải thích cử chỉ đó cho tôi thấy này: “Con khóc vì nghĩ rằng Chúa nhân từ đã dùng kiểu so sánh đó trong Phúc Âm, làm cho ta tin vào lòng ái tuất của Chúa. Tất cả đời con đã được Chúa ấp ủ như thế. Chúa hoàn toàn ấp ủ con dưới đôi cánh của Người. Lúc ấy con không thể nén lòng được nữa, tim con trào dâng tình mến và biết ơn. “Ôi, Chúa nhân từ biết bao vì đã giấu không cho con xem thấy hay hiếm khi tỏ cho con những hao trái của Lòng Thương Xót Chúa và chỉ tỏ một cách mờ mờ khác nào một hình ảnh bên kia song cửa”. - Bảo tôi nhìn xem ảnh Đức Bà Thắng Trận, trên đó Chị đã gắn vào một chiếc hoa nhỏ mà Chị thường nhắc đến trong đời Chị rồi âu yếm nói với tôi: “Chiếc hoa trắng nhỏ đó Ba cho con đến nay kể đã mười năm rồi, ngày con nói với Ba về ơn Thiên triệu của con...” 9-VI - Kỷ niệm đệ nhị chu niên ngày Chị dâng mình cho tình yêu Thương xót Chúa. “Ôi ngày hôm nay con sung sướng biết bao”. - Thử thách trong tâm hồn con đã hết chưa? “Chưa, nó như vẫn còn đang lơ lửng... những con rắn gian hùng không còn réo vào tai con nữa... “Con bình tâm biết bao khi nghe mọi người chung quanh nói rằng con đã được khá hơn. Tuần vừa qua con đứng được thì người ta bảo rằng con ốm yếu. Tuần này con không đứng nổi được nữa, sức lực kiệt hết thì người ta lại cho rằng con được chữa khỏi! Nhưng có làm gì những lời đó!” - Vậy con hy vọng chẳng bao lâu nữa con sẽ chết ư? “Vâng, con hy vọng chẳng bao lâu nữa con sẽ chết, thực sự con không khá hơn chút nào cả, con thấy đau bên sườn lắm. Tuy nhiên, con sẽ nói luôn luôn rằng: Nếu Chúa chữa con, con sẽ không thất vọng chút nào. “Trong Phúc Âm nói rằng Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Không bao lâu nữa Người sẽ đến đánh cắp con. A! Con muốn tiếp sức cho Vị Trộm ấy lắm”. - Trả lời cho chị Marie du Sacré-Coeur (Chị Cả) khi chị này nói: Em chết đi sẽ làm cho các chị buồn khổ biết mấy! “Ồ, không phải thế đâu, rồi các chị xem, cái chết của em sẽ như một trận mưa hoa hồng. Vâng, em sẽ mưa hoa hồng xuống... “Con như một trẻ nhỏ đứng bên đường rầy đợi ba má nhắc lên xe lửa! Nhưng buồn quá! Ba má không đến và xe chạy mất! Con còn nhiều chuyến khác, con sẽ không lỡ tàu đâu...” 10-VI “Con thường xin Đức Mẹ thưa với Chúa là đừng quản ngại gì với con cả. Chính Ngài vẫn thi hành công việc con uỷ thác!... Con không hiểu gì về bệnh trạng của con cả, bây giờ con khoẻ hơn rồi này! Nhưng con hoàn toàn bỏ mình và con thấy sung sướng lắm. Con sẽ ra thế nào nếu con nuôi hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ chết! Biết bao nhiêu chán nản! Nhưng con không chán đâu vì con bằng lòng với tất cả những gì Chúa làm, con chỉ khao khát Thánh ý Người thôi. “Trong một giây lát thôi, người ta cũng có thể chịu đựng được rất nhiều”. 15-VI “Hôm mồng 9, con thấy rõ chiếc đèn pha báo của thiên đàng ở xa xa, nhưng bây giờ con chẳng thấy gì nữa, mắt con như bịt kín. Con không thể hiểu thấu những điều người ta nói với con về cái chết sắp tới. Chắc là Chúa không muốn con nghĩ đến vấn đề từ biệt như trước khi con bệnh. Khi ấy con nghĩ cái chết này đối với con rất cần và rất hữu ích, con cảm thấy đúng như vậy. Nhưng bây giờ thì trái lại: Chúa muốn con bỏ mình như một đứa trẻ nhỏ xíu không lo gì tới những cái người khác sẽ làm cho nó”. - Thấy tình trạng này cứ kéo dài mãi và con cứ phải đau đớn như thế con có mệt trí lắm không? “Đau đớn ư? Nhưng con lại thích đau đớn!” - Sao vậy? “Vì chịu đau khổ là làm đẹp lòng Chúa. “Con rất sung sướng. Hình như trong khi đau yếu con không làm chi xúc phạm đến Chúa cả. Lúc nãy trong khi con viết về đức ái thì có người đến quấy rối con. Con cố giữ lòng bình thản và thực hành luôn đức ái như con đang viết”. - Chị đang ngồi trong xe dành cho các bệnh nhân ở ngoài vườn. Quãng xế chiều tôi lại với Chị. Chị nói: “Bây giờ con hiểu rõ lời Chúa phán với Mẹ thánh Têrêsa: Hỡi con, con biết ai là kẻ yêu Cha thật không? Đó là những kẻ chân nhận rằng tất cả những gì không quy hướng về Cha đều là giả dối. Ồ! Thật đúng thế! Vâng, đúng thế, tất cả những gì ngoài Chúa đều giả trả hết!” 23-VI - Tôi nói với Têrêsa: Mẹ chẳng có gì dâng cho Chúa ngày Mẹ về với Người. Nhìn đến hai bàn tay trắng Mẹ thấy buồn quá. Têrêsa liền đáp lại tôi: “Vậy ra Mẹ lại không như con rồi, trong khi con cũng cùng chung một tình trạng như Mẹ. Dù con có hoàn tất được tất cả mọi công trình của thánh Phaolô đi nữa thì con vẫn tin rằng con là một tên đầy tớ vô dụng. Con thấy hai tay không vẫn hoàn không; nhưng con lấy thế làm vui vì khi chẳng có gì thì con sẽ lãnh nhận tất cả mọi cái nơi Chúa”. 25-VI - Chị chỉ cho tôi một đoạn trong Biên niên sử truyền giáo (Annales de la Propagation de la Foi) đoạn đó nói về một vị thánh nữ mặc áo trắng hiện ra với một trẻ em mới chịu phép thánh tẩy và Chị bảo tôi: “Sau này con cũng sẽ hiện ra như thế với các trẻ em mới chịu phép thánh tẩy...” 26-VI “Hôm qua con đau cạnh sườn quá! Thế mà hôm nay đã hết đau rồi. A! Bao giờ con sẽ được về với Chúa! Con muốn được lên trời quá”. 29-VI “Trên trời con sẽ khổ biết bao nếu ở đó con không thể làm vui lòng những người con yêu đang sống trên dương thế”. - Chiều đến Chị phải đau khổ hơn vì những thử thách trong tâm hồn và một vài ý nghĩ khiến Chị phải cực lòng. Chị nói với tôi: “Linh hồn con đúng là bị lưu đày, đối với con Trời cao như đóng kín lại; và, về phía trần đời con cũng thấy bị thử thách. “... Con nhận thấy rằng không ai tin con đau nặng cả, nhưng chính là Chúa muốn như thế... “Ở trên trời con sẽ rất hài lòng nếu Mẹ sáng tác cho con mấy vần thơ tuyệt diệu. Con thấy nhìn như các thánh vui sướng khi được người ta ca tụng, vì ca tụng các ngài là ca tụng Chúa”. - Tôi nói với Chị về những vị thánh đã sống cuộc đời phi thường như thánh Siméon Cột chẳng hạn. Chị liền bảo tôi: “A, dĩ nhiên là đáng thán phục lắm, nhưng con, con thích những vị nhờ phó thác cho Chúa, mà đã thắng được tất cả mọi âu lo như thánh Cécilia, thánh nữ cứ để cho cha mẹ gả chồng mà không sợ hãi gì hết...”. - Nhắc tới một lần thăm tôi ở phòng khách, mà quen như mọi khi, Chị hầu như yên lặng mặc các chị khác nói: “Chiều hôm ấy ở phòng khách chẳng biết sao con lại nhát vậy? Thế mà sau này con đã quở một chị Nhà Tập rất nặng lời; con chả còn biết nhận ra mình nữa! Tính tình con thật mâu thuẫn quá! Hễ khi nào con được quá săn sóc thì con lại ngượng ngùng rồi sinh ra nhút nhát”.
- Tôi cho Chị biết những tư tưởng u buồn của tôi và nỗi chán nản sau khi phạm tội: “... Đối với con, con cố gắng để không bao giờ nản chí. Khi lỗi con phạm làm cho con buồn thì con biết rằng nỗi buồn đó là hậu quả do lòng bất trung của con. Nhưng Mẹ tưởng con chỉ có thế thôi ư? Ồ, không đâu, con vội thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, con biết rằng, con rất rất đáng lãnh cái hình phạt lo buồn đó; nhưng xin Chúa để con dâng hiến Chúa nỗi buồn này y như một thử thách mà vì yêu, Chúa gởi đến cho con. Con hối tiếc việc con đã làm, nhưng con lại vui sướng vì có nỗi buồn đó để dâng tiến Chúa”. - Chị thấy khó chịu và để khuây khoả tâm trí, Chị đã ngọt ngào bảo: “Con cần một của ăn linh hồn, Mẹ đọc cho con một đoạn Sách Thánh”. - Con muốn nghe đọc cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn không? Chắc là con thích lắm: có nói về hoa thơm, về chim nhỏ mà. Chị đáp ngay: “Không không phải những thứ đó... nhưng là để học gương khiêm nhường của Ngài”. - Với lòng chịu đựng vui vẻ: “Cho đến các thánh cũng bỏ rơi con! “Trong giờ Kinh Sách con đã xin thánh Antôn cho con tìm thấy chiếc khăn tay đã mất. Mẹ có tin ngài nhận lời con không? Ngài không nhận lời con đâu? Nhưng không sao hết, con đã thưa ngài là con vẫn mến ngài như thường”. 4-VII “Chúa chúng ta đã chết khổ não trên thánh giá, tuy nhiên cái chết đó lại là cái chết yêu thương đẹp đẽ nhất chưa từng thấy. Chết vì yêu, không có nghĩa là chết trong những mối cảm kích mặn nồng... Con thú thực với Mẹ rằng hình như con cảm thấy thích điều đó”. 5-VII - Tôi kể cho Chị nghe những khuyết điểm của tôi, Chị liền bảo: “Con cũng có nhiều yếu đuối lắm, nhưng con không ngạc nhiên bao giờ. Con chưa hoàn toàn tránh khỏi những cái tầm thường của thế gian một cách nhanh chóng như lòng con mong muốn, chẳng hạn con thường bận tâm về điều sai lỗi con đã nói hoặc đã làm. Bây giờ con nghĩ và tự nhủ: Ôi, tôi vẫn còn đứng ở chỗ cũ như xưa! Nhưng con nói thế với một tâm hồn bình thản hết sức không chút phiền não. Cảm thấy mình yếu đuối và bé nhỏ thì êm ái biết mấy! “Mẹ đừng buồn khi thấy con đau yếu vì Mẹ xem đây, Chúa cho con được hạnh phúc biết mấy, con luôn luôn vui vẻ và thoả mãn”. - Chị vừa mới thổ huyết. Tôi bảo Chị: Con sắp lìa các chị rồi phải không? “Không đâu! Cha Tuyên uý cũng bảo con rằng: Con sẽ được một hy sinh rất lớn khi phải lìa bỏ các chị của con. Con đã thưa lại người: “Nhưng trình Cha, con thấy rằng con sẽ không bỏ các chị con, trái lại, sau khi chết con còn ở gần các chị con hơn. “Con nghĩ rằng, con sẽ phải nhẫn nại rất nhiều đối với cái chết của con cũng như đối với những biến cố to lớn trong đời. Mẹ xem, con vào Dòng khi còn trẻ, dù các Đấng bề trên đã quyết định xong xuôi thế mà con cũng còn phải đợi ba tháng trời; đến khi mặc áo cũng vậy; lúc khấn cũng y như thế nữa. Vậy cái chết của con cũng sẽ như vậy, chẳng bao lâu nữa nó sẽ đến, nhưng con còn phải đợi... “Con hy sinh nhiều trong các điều nhỏ mọn...”. - Hôm nay hẳn con bằng lòng lắm, vì con đã ho ra huyết nhiều và con thấy “Đấng Ăn Trộm đến? “A, dù con không xem thấy Người, con cũng vẫn yêu mến Người đến nỗi con luôn luôn thoả mãn với tất cả những gì Người làm. Trái lại, nếu Người không đến ‘đánh cắp’ con thì con cũng không giảm lòng yêu mến Người. Khi nào có vẻ như Người muốn đánh lừa con thì con lại ca tụng Người hết cách, khiến Người không biết phải xử thế nào với con nữa. “Con đã đọc một đoạn rất hay trong phần suy niệm sách Gương Phúc: Tại vườn Cây Dầu, Chúa chúng ta đã hưởng tất cả những ngọt ngào của Thiên Chúa Ba Ngôi, vậy mà cơn hấp hối của Người không phải vì thế mà kém dữ dằn. Thật là một huyền nhiệm, nhưng con dám chắc với Mẹ rằng con cũng đã hiểu được đôi phần vì chính con đã cảm thấy như vậy. “Con thường nghiệm thấy rằng: Đau khổ sẽ giúp tha nhân nên tốt lành và quảng đại, vì đau khổ đem ta đến gần Chúa”. - Tôi đặt một chiếc đèn trước tượng Đức Mẹ để xin Người ban cho Chị thôi thổ huyết: “Vậy Mẹ không muốn cho con về trời ư? A! Để giữ được niềm vui thì con phải ho ra huyết! Nhưng hôm nay lại hết rồi! “Bao giờ mới đến ngày Thẩm phán cuối cùng nhỉ? Ồ! Con ước ao được có mặt lúc đó quá! “... Và, rồi sau đó sẽ ra sao nhỉ...?” 7-VII - Sau lần thổ huyết khác: “Chẳng bao lâu nữa con sẽ được lên hưởng nhan Chúa!” - Bây giờ con có thấy sợ cái chết mà con thấy đã gần rồi chăng? “A! càng ngày càng ít sợ”. - Con có sợ “Đấng Ăn Trộm” không? Lần này hẳn là Người đã đứng ở ngoài cửa! “Không Người đã vào nhà chứ không đứng ở ngoài cửa! Nhưng, Mẹ yêu dấu, Mẹ nói gì vậy? Mẹ hỏi con có sợ ‘Đấng Ăn Trộm’ không à? Làm sao Mẹ lại muốn con sợ Đấng con hằng hết tâm yêu mến? Từ bé con đã thích lời này: Dù Chúa giết tôi đi nữa, tôi vẫn còn trông cậy Người. Nhưng trước khi tới được trình độ bỏ mình này con đã phải qua một thời gian thật lâu. Ngày nay con đã tới nơi rồi! Chúa đã bế con và đặt con vào đó”. - Tôi xin Chị nói với vị y sĩ của Dòng một vài câu, Chị nói: “A, thưa Mẹ, đó không phải là việc của con! Ông De Cornière muốn nghĩ thế nào thì nghĩ; con chỉ thích đức đơn sơ mà thôi, con rất ghê tởm những gì trái với đức ấy. Nói theo ý Mẹ muốn thì con chắc rằng đối với con là một điều không nên”. - Tôi xin Chị kể lại cho tôi nghe đặc ân Chị đã được sau khi tận hiến cho Tình ái Xót thương. Chị liền nói: “Thưa Mẹ yêu dấu, ngay hôm đó con đã thổ lộ điều ấy cho Mẹ rồi, nhưng Mẹ đã không để ý đến...”. (Thực ra, bấy giờ tôi như có vẻ không lưu ý đến sự quan trọng ấy, rồi từ đó Chị không nói với ai nữa). “Vâng, hôm đó con vừa bắt đầu đi đàng thánh giá, bỗng con bị một vết thương lửa rất nóng đến nỗi con tưởng là chết ngay. Con không cắt nghĩa hiện tượng đó thế nào cả, hình như một bàn tay vô hình đã dìm con vào trong một lò lửa. Ôi! Lửa nóng nảy, đồng thời lại êm dịu dường nào! Con bùng cháy lên trong Tình án và con cảm thấy nếu chỉ chịu thiêu đốt thêm một phút, một phút thôi, con cũng sẽ chết ngay. Bấy giờ con mới hiểu điều các thánh nói về những tình trạng như thế mà các ngài thường nghiệm ấy. Phần con, con chỉ được hưởng có một lần và một lúc sau đó lại đắm chìm ngay vào sự khô khan như thường”. - Và sau đó một lúc: “Từ mười bốn tuổi, con đã yêu nồng nhiệt! Ôi, con yêu Chúa biết bao! Nhưng sau khi con tận hiến cho Tình ái; con lại không yêu được như thế, con không cảm thấy được thiêu đốt bởi một ngọn lửa thực nữa”. 8-VII - Chị yếu quá đến nỗi mọi người đều nói nên xin cho Chị chịu phép xức dầu... đến chiều người ta đem Chị xuống phòng bệnh. Chị vui vẻ nói: “Con chỉ sợ có một điều là tình trạng này thay đổi đi chăng!” - Nhìn đôi tay gầy guộc: “Con đã thành một bộ xương rồi đây; nhưng như thế con lại thích. “Ôi! Chắc chắn con sẽ khóc vì vui sướng và vì yêu mến khi nhìn xem Chúa... Tuy nhiên, ở trên trời thì chẳng ai phải khóc hết... Nhưng khóc chứ, sao lại không, vì có lời rằng: Ta sẽ lau khô những giọt lệ long lanh của mắt họ”. - Chị cùng với tôi tìm kiếm những tội có thể đã hạm do ngũ quan để xưng trước khi chịu xức dầu. Khi xét đến những tội phạm bởi khứu giác Chị bảo tôi với một tấm lòng hết sức tinh sạch và để biết xem tôi nghĩ thế nào về những tội ấy. “Con nhớ lại con đã theo một sở thích quá tự nhiên khi dùng một lọ nước hoa mà người ta đã cho con khi đi đường...” - Chị ngọt ngào nói, trong một trường hợp không ai hiểu được Chị: “Đức Mẹ đã tích giữ tất cả những điều đó trong lòng Ngài. Người ta không thể giận con vì đã làm như Đức Mẹ... “Con rất mong được chịu phép xức dầu. Nếu sau đó người ta phán đoán không hay cho con thì cũng mặc kệ họ”. (Nghĩa là nếu Chị được khoẻ lại, vì Chị thấy rằng có mấy chị Dòng tưởng bệnh Chị không đến nỗi nguy hiểm có thể chết được). - Thấy không còn đau mấy nữa, với giọng duyên dáng Chị nói: “Người ta bảo rằng các thiên thần nhỏ thông đồng với nhau để giấu không cho con nhìn thấy ánh sáng soi tỏ mục đích gần tới của con”. - Thế các thiên thần cũng giấu cả Đức Mẹ ư? “Không, không bao giờ các thiên thần ấy lại giấu không cho con thấy Đức Mẹ, vì con yêu Đức Mẹ lắm”. - Chúng tôi cám ơn Chị vì đã lấy lời âm yếm an ủi chúng tôi. “Các chị yêu dấu của em ơi! Em xin dâng hiến cho các chị tất cả những kết quả tươi vui y như Chúa đã ban chúng cho em vậy. “Ở trên trời em sẽ xin được nhiều ơn cho những ai đã giúp em. Còn Mẹ, Mẹ ơi, tất cả những ơn ấy cũng sẽ không giúp gì cho Mẹ, nhưng sẽ có nhiều ơn khiến Mẹ vui mừng. “Giá Mẹ biết Chúa sẽ xét xử con một cách hiền dịu thế nào nhỉ! Nhưng nếu Chúa quở phạt con một chút xíu thì con cũng vẫn lấy thế làm vui. Nếu phải xuống luyện ngục thì con cũng rất hài lòng, con sẽ làm y như ba trẻ Do Thái, con sẽ đi dạo trong lò lửa và hát bài Chúa Tình Ái! Ôi! Con sẽ sung sướng biết bao nếu nhờ đó mà con có thể cứu được các linh hồn khác, chịu đau khổ thay cho các linh hồn ấy, vì bấy giờ con sẽ làm việc lành, con sẽ giải thoát các tù nhân”. - Chị nói cho tôi biết rằng, sau này sẽ có một số lớn các linh mục trẻ biết rằng Chị đã được nhận làm em thiêng liêng của hai vị linh mục thừa sai, sẽ xin được đặc ân ấy. Chị bảo tôi rằng việc đó có thể nguy hiểm cho một vài linh hồn. “Bất cứ linh hồn nào cũng viết được những điều con đã viết và cũng nhận được những lời ca tụng với lòng tin cậy như thế... Chính do cầu nguyện và hy sinh mà chúng ta có thể mưu ích cho Giáo Hội mà thôi. “Không nên viết nhiều thư từ và cũng đừng cho phép một vài chị hay bận tâm về thư từ, tưởng rằng viết tư là làm những việc tuyệt diệu, song thực ra chỉ làm cho tâm hồn họ bị thương tổn và có thể sa vào cạm bẫy tinh vi của ma quỷ. Mẹ à, những điều con nói với Mẹ rất quan trọng, sau này xin Mẹ đừng quên. “Ở Dòng Kín không nên đúc bạc giả để mua linh hồn. Và thường khi những lời đẹp được viết ra và được nhận lấy chỉ là những cuộc đổi trác tiền giả...”. 9-VII - Cha Bề trên đến để xem có nên cho Chị chịu xức dầu không nói với Chị: “Chẳng bao lâu nữa con sẽ về trời! Nhưng triều thiên của con vẫn chưa hoàn toàn. Con mới bắt đầu kết mà thôi!” “A, thưa cha, cha nói đúng lắm! Nhưng không, con chưa kết triều thiên của con đâu. Chính Chúa kết cho con đấy!” - Suốt thời giờ thăm viếng này Chị tỏ ra rất dễ thương và duyên dáng đến nỗi không ai nghĩ tới việc cho Chị chịu xức dầu như Chị vẫn hết sức mong ước nữa. Sau đó, tôi hỏi Chị sao không liệu để được xức dầu như Chị muốn. Chị nhã nhặn trả lời tôi: “Con không biết liệu mới chết chứ!...” - Người ta bảo Chị được đặc ân không biết sợ chết chút nào: “Tại sao tôi lại không sợ chết bằng người khác? Con không nói như thánh Phêrô: ‘Con sẽ không bao giờ từ chối Thầy’”. 10-VII - Chúng tôi nói với CHị: Có nhiều vị thánh sợ phải mất linh hồn, tại sao em lại không sợ như thế? Chị đáp lại với một lòng tin tưởng tuyệt vời: “Các trẻ nhỏ không bị trầm luân”. - Chị nghĩ rằng chịu đau khổ nhiều có lẽ không phải là bệnh trạng nguy kịch mà có khi bác sĩ lầm? “Nếu tâm hồn con không được lấp đầy bằng sự phó thác cho thánh ý Chúa, nếu nó lại để cho mình chìm ngập vào những tình cảm vui tươi hay buồn khổ bằng tiếp diễn mau lẹ trên trần gian này, thì đó là một đợt sóng đau thương vô cùng cay đắng! Nhưng những sự luân chuyển này chỉ mới chạm đến mặt ngoài linh hồn con thôi. Tuy nhiên, chúng lại là những thử thách rất lớn lao”. - Người ta nói trước mặt Chị rằng, thỉnh thoảng có những nét mặt nhăn nhúm trong giờ chết? “Nếu mặt em có nhăn lại như thế thì các chị cũng đừng buồn vì ngay sau đó, mặt em sẽ nở những nụ cười tươi thắm”. - Chị Geneviève de la Sainte-Face nhìn cái nắp hộp kẹo kỷ niệm ngày Rửa tội và nói rằng cái đầu xinh xinh của cậu bé đó sẽ dùng làm mẫu để vẽ đầu thiên thần, Chị Thánh muốn coi lắm nhưng không ai nghĩ tới việc chỉ cho Chị thấy, vì muốn tập nhân đức nên Chị không xin ai chỉ cho xem hết, sau này Chị mới nói điều ấy cho tôi hay. 11-VII - Bàn về bản tự thuật cuộc đời của Chị và về ích lợi các linh hồn lượm được khi đọc bản đó. “Nhưng rồi người ta sẽ thấy rằng tất cả đều do Chúa cả! Vinh dự con được do bản tự thuật ấy sẽ là một đặc ân nhưng không, mà đã là nhưng không rất sẽ không thuộc của riêng con. Vâng, hết mọi người sẽ công nhận thế...” - Chị nói với tôi về sự các thánh thông công và giải thích cho tôi nghe tại sao sự thiện của vị này lại là sự thiện của vị khác: “Cũng như một người mẹ hãnh diện vì các con của bà, chúng ta cũng sẽ hãnh diện vì nhau mà không chút chi ghen tị”. Vẫn bàn về tự thuật “... Người ta có thể tin rằng chính vì con được gìn giữ khỏi phạm tội trọng nên con đã hết lòng tin tưởng vào Chúa nhân từ. Mẹ ạ, hãy nói giả như con đã phạm tất cả những trọng tội có thể phạm thì con cũng vẫn hằng trông cậy vào Chúa, con cảm thấy rằng những vô số xúc phạm này sẽ như giọt nước rơi trong đống than hồng. Rồi Mẹ sẽ kể câu chuyện nữ tội nhân trở lại và đã chết vì tình yêu. Các linh hồn sẽ hiểu ngay và tấm gương ấy sẽ khích lệ họ”. - Và đây là câu chuyện Chị đọc cho tôi viết y nguyên văn: “Trong cuộc đời các thầy dòng ẩn tu, có kể một câu chuyện của một vị hoán cải được một nữ tội nhân công khai, mà những hành vi phóng đãng của bà đã làm gương xấu cho một vùng. Nữ tội nhân này được ơn Chúa, quyết theo đấng thánh ấy vào rừng vắng để ăn năn đền tội thật nghiệm ngặt. Tối đầu tiên của cuộc hành trình, trước khi tới nơi tĩnh tâm của bà, các dây tội ác trói buộc đã bị đứt hết vì sự ăn năn tội và vì lòng yêu Chúa mãnh liệt của bà, ngay lúc ấy vị ẩn tu trông thấy các thiên thần đem linh hồn bà đặt vào trong cung lòng Chúa. Đó là một tấm gương rất cảm kích đối với vấn đề con muốn nói, nhưng những điều đó lại không thể diễn tả được”. - Chị đau khổ rất nhiều vì bị cám dỗ về đức tin và do sức khoẻ quá kiệt quệ; bấy giờ Chị liền đọc một đoạn ca vãn dâng kính Đức Mẹ: “Bởi vì Con Thiên Chúa muốn Mẹ Người chịu cảnh tăm tối, qua nỗi đoạn trường, Vậy có phải đúng là tốt khi đau khổ trên đời? Vâng, đau khổ vì yêu là một hạnh phúc tuyệt vời Chúa Giêsu có thể lấy lại tất cả những gì Người ban cho con, Xin thưa Người đừng bận lòng vì con, Người có thể ẩn mình, con vui lòng chờ đợi Cho tới khi ngày hết tàn lụi, lúc niềm tin của con sẽ lịm tắt”. - Tôi bảo Chị: Chúa tốt lành ưu ái con biết bao. Con nghĩ gì về sự ưu ái ấy? “Con nghĩ rằng thần trí của Chúa thổi tới những chỗ Người muốn...” - Chị nhắc lại cho tôi nhớ mấy bản kinh của Chị xưa và những buổi chiều hè trong giờ thinh lặng nghiêm ngặt rồi cho tôi biết rằng nhờ kinh nghiệm Chị đã hiểu thế nào là cuộc “xuất thần”. Chị còn cho tôi biết một đặc ân khác thuộc loại này đã được Chúa ban cho trong hang thánh Mai Đệ Liên (ở vườn Nhà Dòng) khoảng tháng 7.1889, một đặc ân kéo dài suốt nhiều ngày “tĩnh tâm”. “... Như có một tấm màn chắn ngang giữa con và muôn vật trên dương thế... Con cảm thấy hoàn toàn được ẩn náu dưới khăn choàng của Đức Mẹ. Hồi đó con đang giữ việc dọn nhà cơm mà hiện giờ con nhớ lại rằng bây giờ con làm việc y như không làm vậy, dường như con hoạt động với một cái xác không hồn. Con cứ sống tái tình trạng ấy suốt một tuần lễ. Đó là một tình trạng siêu thoát khó mà giải thích được. Chỉ một mình Chúa mới có thể cho ta sống cái tình trạng ấy và đôi khi như thế cũng đủ để một linh hồn dứt lìa thế gian mãi mãi”. 12-VII “Con không giữ lại gì hết, tất cả những gì con có, tất cả những gì con được, con đều dâng cho Giáo Hội và các linh hồn. Giả như con sống tới tám mươi tuổi thì con cũng vẫn cứ nghèo suốt đời”. - Chị kể cho tôi nghe dạo trước, hồi làm công tác giữ cửa phụ, Chị đã chịu một thử thách nội tâm rất mạnh mẽ về việc người ta yêu cầu Chị mắc một cái đèn đêm ở ngoài cửa trong khi đáng lẽ không cần phải có đèn, mà bấy giờ Chị lại chẳng có vật liệu cần thiết để làm. Con chiến đấu mãnh liệt đến nỗi Chị phải tha thiết xin Chúa ban ơn cứu giúp để khỏi sa ngã. Chị dồn hết tâm lực vào công việc và để hoàn tất, Chị phải lấy cả giờ yên lặng trước khi hát Kinh Sách. “Để toàn thắng, con tưởng tượng là con mắc chiếc đèn đêm đó cho Đức Mẹ và Chúa Giêsu Hài Đồng, thế rồi con làm việc một cách kỹ lưỡng không thể tưởng tượng được, không để lại một hạt bụi nào dính vào đèn, rồi dần dần con cảm thấy tâm hồn được an bình và êm ả hết sức. Giờ Kinh Sách điểm mà con không thể đến dự ngay được. Giá như bấy giờ chị X đến bảo con rằng con đã làm sai và phải mắc chiếc đèn đêm khác thì con sung sướng vâng lời ngay và như vậy hẳn là con sẽ được một ơn rất lớn. Từ đó con dốc lòng không bao giờ đắn đo công việc bề trên truyền xem có ích hay không?” - Nếu con bắt đầu lại cuộc sống thì con làm thế nào? “Con sẽ làm như con đã làm. “Chúa sẽ phải làm theo ý con ở trên trời vì ở dưới đất này không bao giờ con làm theo ý con”. - Từ trên trời cao sẽ nhìn xem các chị phải không? “Không đâu, con sẽ xuống chứ. “Con không nói: ‘Nếu sống trong Dòng Kín cách khổ sở thì chết tại đó cách an vui’, nhưng con nói: ‘Nếu đời sống trong Dòng Kín êm đềm thì chết ở Dòng Kín còn êm đềm hơn”. - Người ta cho Chị uống rượu mạnh: “Tôi không muốn uống rượu dương thế nữa... Tôi muốn uống rượu mới trong Nước Cha tôi kia. “Con xin Mẹ làm một việc tỏ lòng kính mến Chúa và đọc lời khấn cầu các thánh ở trên trời, các ngài đều là bà con của con cả!” - Chị còn nói với tôi về sự các thánh thông công: “Với các thánh đồng trinh, chúng ta sẽ trở nên như những kẻ đồng trinh; với các thánh tiến sĩ chúng ta sẽ như những vị tiến sĩ; với các thánh tử đạo chúng ta sẽ như những người tử đạo, bởi vì tất cả các thánh đều là bà con với chúng ta; nhưng những ai đã theo đường thiêng liêng thơ ấu thì sẽ giữ mãi vẻ đẹp thơ nhi” “Từ ngày con còn nhỏ Chúa đã cho con linh cảm thấy rằng con sẽ chết trẻ. “Chúa hằng khiến con ước ao những cái Người muốn ban cho con”. - Nói với các chị ruột: “Các chị đừng tưởng rằng, rồi đây khi em ở trên trời các chị sẽ luôn được êm đềm sung sướng. Đó không phải là điều em đã được, cũng chẳng là điều em mong muốn. Trái lại, có lẽ các chị sẽ gặp nhiều thử thách, nhưng em sẽ gởi ánh sáng xuống khiến các chị ưa thích và yêu mến. Các chị sẽ bó buộc phải nói như em rằng: Lạy Chúa, Chúa sẽ đổ tràn đầy vui sướng cho chúng con bởi tất cả những việc Chúa đã làm”. “Con không thể nghĩ nhiều tới hạnh phúc đang đợi con ở trên trời. Chỉ nguyên một sự chờ mong này cũng đủ làm con hồi hộp: đó là nguồn Tình ái con sẽ nhận được và là Tình ái con sẽ có thể hiến dâng... Con nghĩ tới tất cả những sự lành con con muốn làm sau khi chết: làm cho nhiều trẻ em được rửa tội, giúp đỡ các linh mục, các vị thừa sai, tất cả Giáo Hội... “Chiều nay, con nghe thấy một nhạc khúc dạo xa xa và con tưởng rằng chẳng bao lâu nữa con sẽ được nghe những đại nhạc tấu vô song, những cái tình cảm vui tươi này chỉ thoáng qua thôi. “Nếu con là một người giàu có thì khi thấy người nghèo đói con không thể không cho họ tiền của. Cũng vậy, tuỳ theo của cải thiêng liêng con được, khi nghĩ tới các linh hồn đang sống trong tình cảnh nguy hiểm có thể sa xuống hoả ngục thì con sẽ cho họ tất cả những gì con có. Chưa lần nào con dám tự bảo mình: bây giờ ta sẽ làm việc cho ta. “Tất cả những gì Chúa ban cho con, con đều luôn luôn ưa thích, ngay cả những sự xem ra không tốt lành và không đẹp đẽ bằng những sự Chúa ban cho kẻ khác. “Lòng con tràn đầy thánh ý Chúa, cho nên khi ai đổ lên nó một cái gì thì cái ấy không thể lọt vào trong được, đó là một cái không đáng kể, trượt qua đi cách dễ dàng khác nào dầu không thể trộn lẫn với nước. Con hằng được an bình tận đáy lòng, không gì có thể làm con bối rối được”. - Với một điệu bộ tha thiết và một giọng mê ly, Chị ngâm lên một đoạn trong bài ca nhan đề “Xin hãy nhớ”: “Xin nhớ rằng thánh ý của Chúa, Nơi an nghỉ và hạnh phúc độc nhất của con Con phó thác và ngủ yên không lo gì Trong tay Ngài. Ôi Cứu Chúa từ bi! Nếu Chúa cũng ngủ thì khi bão tố gầm la, Con vẫn hằng bình thản tận đáy lòng sâu xa Nhưng trong khi Chúa ngủ, Xin Chúa hãy xếp thu, Để con được tỉnh thức Ôi Giêsu!” - Chị nói với tôi khi nhận thấy chân tay mình hết sức gầy guộc: “Ôi! Con cảm thấy sung sướng biết bao khi thấy con mỗi ngày mỗi hao mòn đi”. 13-VII “Trước kia, hồi Ba chúng ta đang bệnh nặng, mỗi lần chị Geneviève (Céline) đến thăm con, cuộc gặp gỡ chỉ được kéo dài có nửa giờ nên con không thể nói tất cả những gì con muốn nói. Bấy giờ nếu con quên một điều gì hoặc con có một ơn soi sáng mà muốn chị ấy thông cảm, con liền xin Chúa làm cho chị ấy biết và hiểu những điều con cảm nghĩ và lần sau tới, con thấy rõ ràng là Chúa đã nhận lời con xin... Ban đầu, khi chị ấy có điều gì buồn khổ mà con không thể an ủi được, lúc trở về con thấy lòng như tan nát, nhưng rồi không bao lâu con hiểu rằng tự con, con không thể an ủi nổi một linh hồn, rồi từ đó dù thấy chị ấy ra về buồn bã con cũng không sầu khổ nữa. Con chỉ còn biết xin Chúa bù đắp cho sự bất lực của con. “Từ hồi đó, nếu bất ngờ con vô tình làm phiền người khác, con liền xin Chúa đến an ủi họ và con không còn thấy lo lắng nữa”. - Tôi xin Chị cho tôi biết rõ chương trình làm việc của Chị tại Dòng Kín. “Thoạt khi mới vào Dòng Kín con được giao cho công tác coi việc vá may cùng với Mẹ Phó Bề trên đồng thời thêm công tác quét một cầu thang và một phòng ngủ. Thời kỳ đó cứ quãng 4 giờ rưỡi là con đi làm cỏ, điều này đã làm Mẹ bề trên không hài lòng lắm. “Sau ngày mặc áo, con được giao công tác lo nhà cơm cho tới khi lên 18 tuổi, con lau chùi, dọn nước và bia. “Tới phiên Dòng chầu lượt năm 1891, con đổi sang công tác lo phòng thánh. Từ tháng sáu năm sau con không có công tác nào suốt 2 tháng liền; trong thời gian đó con đã vẽ được bức bích hoạ chung quanh Nhà Tạm của nhà nguyện và con cũng đã phụ giúp chị Quản lý phòng văn khố trong Dòng. Sau hai tháng đó con được giao cho công tác phục vụ ở Bàn xoay và coi phòng vẽ. Con cứ tiếp tục hai chức vụ đó mãi đến cuộc bầu cử năm 1896. Sau cuộc bầu cử này, con lại trở về lo phòng thánh. Con bị bệnh vào thời kỳ này và con đã xin được giúp chị X vá mang ở bổn phận lo khăn áo”. - Với một thái độ khiêm nhường biết bao, Chị nhắc tôi nhớ rằng xưa kia người ta đã lần lẫn bảo Chị là người chậm chạp và ít nhiệt thành trong các công việc, đến nỗi đã có một thời gian tôi cũng nghĩ như thế... Rồi Chị cho tôi biết những đau khổ Chị đã chịu trong một vài trường hợp mà không thể cởi mở tâm hồn với tôi được khi tôi là “chị thứ nhất của Chị trong bổn phận” lo nhà cơm vì Chị muốn hy sinh không xin phép ấy, và Chị thêm rằng: “... Đến nỗi Mẹ không còn hiểu biết con nữa...”. Chị còn cho tôi biết rằng Chị đã phải ép mình đến thế nào để bắt những con nhện trong gian buồng thánh Alexis (Chị rất ghê tởm giống nhện) và đưa ra những chi tiết khác chứng tỏ Chị đã trung thành trong mọi việc và đã phải âm thầm đau khổ đến mức nào trong khi không một ai có thể ngờ được thế. 14-VII “Con đã đọc (trong Kinh Thánh) rằng xưa kia dân Israel xây tường thành Giêrusalem, một tay làm việc một tay cầm gươm. Chúng ta cũng phải làm như vậy, đừng bao giờ dấn thân hoàn toàn cho công việc cả”. 15-VII - Có lẽ ngày mai lễ Đức Mẹ núi Cát Minh, sau khi rước lễ rồi con sẽ chết? “Ồ! Chết như thế thì không hợp với con đường bé nhỏ của con. Con bước ra ngoài con đường đó để mà chết ư?... Chết vì yêu sau khi được rước lễ! Với con, như thế là quá tốt đẹp; các linh hồn bé nhỏ không thể bắt chước thế được... miễn là sáng mai con không gặp tai nạn nào là được rồi!” - Và Chị kể câu chuyện thánh Ven (Théophane Venard) đi tới pháp trường, trong tay đã nắm giữ được hộp nhỏ đựng Mình Thánh để tự chịu lấy thế mà lại bị đao phủ giật mất. Rồi Chị thở dài não ruột. Chị kể một hành vi sau đây mà kỷ niệm còn lưu lại nơi Chị một ân sủng: “Chị Marie de l’Eucharistie muốn thắp nến để đi rước; nhưng không có quẹt. Thấy một ngọn đèn nhỏ thắp trước hộp xương thánh, chị liền đến gần và dù ngọn đèn chỉ còn chút ánh sáng lờ mờ trên mẩu bấc tàn, chị cũng châm được cho ngọn nến cháy lên, nhờ ngọn nến đó mà tất cả nến của các chị khác cũng được thắp sáng. Bấy giờ, con tự nhủ: Vậy ai có thể tự phụ về công việc của mình?... Một ngọn đèn lù mù, nửa cháy nửa tắt đã phát ra được những ngọn lửa đẹp đẽ, rồi đến lượt những ngọn lửa ấy có thể đốt cháy bao nhiêu ngọn nến khác và có thể đốt sáng được cả thế giới. Tuy nhiên, lúc đó cái ngọn đèn lù mù ấy vẫn cứ là một ngọn đèn lù mù và nó cũng vẫn là một nguyên nhân đầu tiên của cái quang cảnh rực sáng này... “Việc các thánh thông công cũng thế. Vâng, một tàn lửa nhỏ xíu có thể phát sinh cả một luồng sáng lớn trong Giáo Hội, như các thánh tiến sĩ, các thánh tử đạo. Thường thường những ân điển và ánh sáng chúng ta nhận được đều là do một linh hồn ẩn dật mà chúng ta không biết. Vì Chúa muốn rằng: Các thánh thông đạt ân điển cho nhau do lời cầu nguyện, để khi ở trên trời các ngài yêu mến nhau với một tình yêu lớn lao hơn cả tình yêu gia đình dù là một gia đình lý tưởng nhất trần gian. “Biết bao lần con tưởng rằng có lẽ những ân điển con nhận được đều do lời cầu của một linh hồn bé nhỏ đã xin Chúa ban cho con mà chỉ lên trời con mới biết được. “... Trên trời, các linh hồn sẽ không nhìn nhau bằng những cái nhìn lãnh đạm, vì tất cả các kẻ được chọn sẽ nhận biết rằng họ đều mắc nợ nhau về những ẩn điển đã đem lại cho cho triều thiên rực rỡ”. 16-VII - Đề cập tới ước vọng của Chị đã được thực hiện là được ở với chị Céline (chị Geneviève de la Sainte-Face). “Con đã hoàn toàn hy sinh về chị Geneviève, nhưng con không thể nói rằng con không mến thích chị ấy nữa. Nhiều khi vào mùa hè, trong giờ yên lặng, trước khi hát Kinh Sách, ngồi trên sân thượng con tự nhủ: A! Giá mà Céline ở bên mình đây thì hay quá!... Nhưng không được, điều đó là một hạnh phúc lớn lao quá! Và hạnh phúc đó đối với con hình như là một giấc mộng không thể thực hiện. Tuy nhiên, không phải do tự nhiên mà con muốn được hạnh phúc đó, chính là vì ích lợi cho linh hồn chị ấy, vì muốn chị ấy theo con đường bé nhỏ của con. Khi con thấy Céline vào Dòng này, không những vào Dòng mà thôi, mà lại hoàn toàn được giao phó cho con giáo huấn, khi con thấy Chúa đi quá những ước muốn của con như thế, con liền hiểu rằng Người đã yêu con với cả một tình yêu mênh mông biết chừng nào! “Nhưng này, thưa Mẹ yêu dấu, nếu một ước vọng vừa mới tỏ ra mà đã được thoả nguyện như vậy thì tất cả những ước vọng to tát khác mà con khẩn khoản nài xin Chúa hẳn không thể không được chuẩn nhận”. - Về bản tự thuật đời sống của chị. “Thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ cần phải xem lại tất cả những điều con viết. Nếu Mẹ thấy nên bớt điều gì hoặc phải thêm vào đó những gì con đã nói với Mẹ thì xin Mẹ cứ làm như chính con thêm bớt vậy. Xin Mẹ nhớ thế và đừng ngại chi về vấn đề này. “... Chỉ một mình Mẹ là biết được tất cả những uẩn khúc trong tâm hồn con thôi...! “Thưa Mẹ, trong cuốn tập của con ấy, con chỉ viết có hai tiếng về Đức công bình của Chúa mà thôi. Nhưng nếu Mẹ muốn nữa, thì Mẹ sẽ đọc thấy tư tưởng của con trong một bức thư con gởi cho cha Roulland trong thư đó con trình bày rất rõ. “Các vị đại thánh đã làm việc để Chúa được vinh hiển, còn con, con chỉ là một tâm hồn bé nhỏ, con làm việc để Chúa được vui lòng và con rất sung sướng được chịu nhiều đau khổ lớn lao nhất khi sự chịu đựng ấy có thể làm Chúa mỉm cười dù Chúa chỉ mỉm cười một lần cũng được”. 17-VII “Con cảm thấy sứ mệnh của con sắp bắt đầu: sứ mệnh của con là làm cho người ta yêu mến Chúa như con yêu mến, là ban tặng con đường nhỏ bé cho các linh hồn. Nếu những ước vọng của con được chuẩn nhận thì thiên đàng của con sẽ lưu lại trên cõi đời này cho tới ngày tận thế. Vâng, con muốn lên thiên đàng để mưu ích cho mọi người. Điều đó rất có thể, vì các thiên thần ngay khi đang hưởng kiến cũng còn săn sóc đến chúng ta nữa là. “Không, bao lâu còn các linh hồn phải cứu vớt thì bấy lâu con không thể nghỉ ngơi được, nhưng khi thiên thần lên tiếng: Thời gian đã hết! Bấy giờ con sẽ nghỉ, con sẽ có thể vui chơi, vì số kẻ được chọn đã đầy đủ và hết mọi người đã vào nơi an nghỉ cực lạc. Lòng con reo vui với tư tưởng ấy...”. - Tôi xin Chị giải thích về con đường mà Chị đã nói là muốn đem dạy cho các linh hồn sau khi Chị qua đời. “Thưa Mẹ, đó là con đường thơ ấu thiêng liêng, đó là con đường tin tưởng và hoàn toàn phó thác. Con muốn dạy các linh hồn ấy những phương pháp bé nhỏ đã giúp con hoàn toàn thành công, con muốn bảo các linh hồn ấy rằng: Ở trần gian này chỉ có một điều phải làm là: dâng cho Chúa Giêsu những bông hoa hy sinh nhỏ, chiếm hữu Người bằng những nâng niu chiều chuộng. Con đã chiếm được Người như thế đấy và chính nhờ đó mà ngày mai đây con sẽ được đền trả rất nhiều. “Đôi khi con rất muốn hỏi chị Marie du Sacré-Coeur, sau khi chị vừa tiếp chuyện cha tuyên uý ở nhà khách về để biết xem ngài nói về tình trạng của con ra sao sau khi ngài thăm con. Con tự nghĩ rằng: Biết như vậy có lẽ giúp ích cho con nhiều và cũng được an ủi phần nào; nhưng khi nghĩ thế con lại tự nhủ: Không được, thế là tò mò, ta sẽ không làm gì để biết hết. Vì Chúa không ban phép cho chị ấy tự m ình nói cho con hay như thế là dấu Người không muốn cho con biết. Và khi nói chuyện con tráng không đả động đến vấn đề này, kẻo chị Marie du Sacré-Coeur lại phải ép tình mà nói cho con chăng; con đã không được sung sướng là vì thế...”. 18-VII “... Nếu Chúa không muốn ban cho con lòng ao ước đem ân phúc xuống trần gian sau khi con về trời, mà lại muốn ban cho con lòng ước ao được an nghỉ trong Ngài thì thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ nghĩ sao về điều đó...? - Chị Marie du Sacré-Coeur nói với Chị: Cái ý nghĩ em sắp lìa trần làm chị buồn khổ hết sức: giả như Chị lo sợ thì Chị cũng sẽ không nói cho ai hay - Chị thưa lại: “Như thế là không theo đúng tinh thần Phúc Âm. Trong bất cứ trường hợp nào ta cũng cần phải trở nên mọi sự cho mọi người. - Một trong các chị của Têrêsa nói rằng: Em hãy vui lên, chẳng bao lâu nữa em sẽ qua khỏi mọi cay cực của cuộc đời. “Em vui vì được qua khỏi mọi cay cực của cuộc đời ư! Ô, không phải thế đâu...” Rồi nhìn Chị ấy với nụ cười tươi thắm: “... Em là một chiến sĩ dũng cảm kia mà!” - Chị Geneviève de la Sainte-Face đọc cho Chị nghe một đoạn sách nói về hạnh phúc bất diệt, bỗng Chị ngắt lại: “Không phải điều đó làm em say mê đâu...”. - Sao thế? “Ồ! Tình yêu mới làm em say mê! Yêu, được yêu rồi trở về dương thế làm cho người ta yêu tình yêu!...” 20-VII - Con sẽ làm gì nếu một trong các chị của con (ba chị ruột) bệnh thay con? Con có đến nhà liệt vào những giờ chơi không? “Con sẽ đi chơi thẳng mà không hỏi thăm chi về bệnh trạng Mẹ đâu, nhưng con cố giữ thái độ ấy một cách đơn sơ hết sức để không ai có thể nhận thấy sự hy sinh của con. Nếu có ai gọi con đến nhà liệt, con liền bỏ ý định ấy và đến ngay cho Mẹ được hài lòng, như thể không phải là để con được thoả mãn nhưng là để xin Chúa ban ân phúc cho Mẹ mà nếu con lại tìm thoả mãn cho con thì hẳn Chúa sẽ chẳng ban những ơn ấy. Và riêng bản thân con, con cũng sẽ được thêm một nghị lực lớn lao do sự từ bỏ ý riêng ấy. Nếu đôi khi vì yếu đuối con lại hành động ngược với điều đã dự định thì con cũng sẽ không thất vọng, con sẽ cố gắng sửa chữa những thiếu sót bằng cách thiếu thốn hơn nữa mà không để lộ cho ai thấy. “Con rất sung sướng nếu được chết trong tay Mẹ bề trên vì Mẹ là người đại diện Chúa. Còn với Mẹ có lẽ con đã có một cảm tình tự nhiên; con muốn tất cả đều trở nên siêu nhiên hơn”. - Chúng tôi muốn lợi dụng những ngày sau hết của Chị để hỏi Chị cho hết mọi cái: “Mọi người đều thi nhau hỏi con làm con liên tưởng đến thánh Jeanne d’Arc đứng trước toà án. Hình như con cũng trả lời một cách thành thật như thế”. 21-VII “Không bao giờ con lại như Philato, không muốn nghe sự thật. Con luôn thưa với Chúa tốt lành rằng: Lạy Chúa, con rất sẵn lòng lắng nghe Chúa, xin hãy đáp lời mỗi khi con khiêm nhường thưa Chúa: “Lạy Chúa, sự thật là gì? Xin Chúa cho con nhìn mọi sự như chúng là, xin đừng để vật gì làm con bị loá mắt”. - Chị nhắc lại cho tôi lời nguyện mà Chị thường thích đọc hồi Rước lễ lần đầu: “Ôi Giêsu, Chúa dịu êm khôn sánh. Xin hãy đổi tất cả những ủi an dương thế thành những đắng cay cho con, - Rồi Chị thêm: “... Tuy nhiên, con không có xin Chúa đừng ban an ủi thiêng liêng cho con. Con chỉ xin Người đừng để những ảo mộng và những vui sướng làm con xa Chúa”. - Chúng tôi bảo Chị rằng Chị thật đáng vui sướng đã vạch cho các linh hồn một con đường Tình ái và tư tưởng. Chị đáp lại: “Dù con hay người nào khác vạch ra con đường đó cho các linh hồn thì có hệ gì, miễn là con đường đó được tỏ rõ là được rồi, còn ai vạch ra cũng được. 22-VII “Lúc nào con cũng chỉ biết dâng cho Chúa tấm tình yêu và đáp lại, Người cũng ban tình yêu cho con”. 23-VII - Con đau đớn nhiều quá và có lẽ con còn phải đau đớn nhiều hơn nữa... Điều đáng sợ ấy làm các chị rất buồn khổ!... Chị đáp lại: “Chúng ta là những kẻ đang chạy trên đường yêu đương, con thấy rằng chúng ta không nên bận tâm tới những cái có thể làm chúng ta đau khổ sau này, vì như thế là thiếu lòng tin tưởng và n hư là muốn can dự vào việc sáng tạo. “In te Domine speravi! Lúc gia đình chúng con gặp đau khổ, con rất sung sướng khi tới lượt con được đọc câu đó ở ca triều”. - Bên ngoài gởi vào cho Chị nhiều trái cây rất ngon nhưng Chị không thể ăn được. Chị cầm hết trái này đến trái khác như là để dâng cho ai và bảo tôi: “Thánh Gia được chiều đãi quá: này nhé, thánh Giuse và bé Giêsu mỗi người được một trái đào và hai trái mận, Đức Mẹ cũng có phần riêng. “Khi người ta đem cho con sữa với một ít rượu ‘rum’, con liền dâng cho thánh Giuse, con tự nhủ: Ồ chắc sữa và rượu sẽ làm ích cho thánh Giuse khó nghèo lắm! Ở nhà cơm, con luôn tìm được người để cho: món ngọt dành cho Giêsu nhỏ, món cứng thì cho thánh Giuse, còn Đức Mẹ thì dùng những món nóng và trái cây thật chín. Nhưng khi con thiếu món nào thì con lại vui thích hơn vì như thế là con mới thực dâng món đó cho Thánh Gia”. - Tôi thú thực với Chị là rút cuộc tôi mong cho Chị chết để khỏi thấy Chị đau đớn quá. “Mẹ ơi, xin Mẹ đừng nói thế, vì đau khổ chính là điều làm con sung sướng nhất đời!” - Đấng Ăn Trộm ở đâu bây giờ? Không ai nói với Vị đó nữa... Chị lấy tay đặt lên ngực và đáp: “Người ở đây! Người ở trong tim con đây!” - Tôi bảo Chị rằng, cứ bề ngoài mà xét thì cái chết thật đáng buồn thảm, cho nên thấy Chị chết thì tôi đau khổ biết chừng nào. Chị âu yếm trả lời tôi thế này: “Đức Mẹ đã ôm Chúa Giêsu rách nát và đẫm máu vào lòng! Mà điều Mẹ sẽ nhìn thấy nhất định là khác với cảnh tượng đó rồi. A! Con không hiểu bất giờ Đức Mẹ đã làm gì? Con giả sử nếu Ngài đem con cho Mẹ với tình trạng ấy (tình trạng Chúa Giêsu đẫm máu) thì bất giờ Mẹ sẽ thế nào?... Responde mihi?...” - Khi tôi đứng đấy thì có người xin Chị một vài ý kiến về vấn đề dẫn đàng thiêng liêng: “Em nghĩ cần phải đề phòng kẻo vì tìm vinh dự cho mình vì như thế tâm hồn sẽ bị tổn thương và rồi người ta có thể nói một cách xác thực rằng: “Quân anh đã lấy mất áo khoác của tôi, chúng đánh tôi bị thương... Chỉ sau khi đã thắng vượt chúng một chút tôi mới tìm thấy Đấng Yêu mến. Nếu linh hồn hạ mình hỏi những người khác xem Đấng Yêu mến ở đâu thì họ sẽ chỉ cho; nhưng nếu lại muốn đem mình lên thì linh hồn đó sẽ bị rối loạn và mất tấm lòng đơn sơ”. - Nói về một Chị Nhà Tập muốn giấu Chị các tâm tưởng của mình: “Em thấy rằng nhân đức ngời sáng lên một cách tự nhiên ngay khi chị ấy không còn ở đó nữa. “Lúc nãy nghiêm mình qua cửa sổ con thấy ánh hoàng hôn chùm lên vạn vật cái ánh sáng vàng vọt cuối cùng của nó, các ngọn cây như nhuộm toàn màu vàng. Bấy giờ con tự nhủ thầm: Linh hồn tôi cũng hiện ra sáng chói và vàng tươi vì nó được gội trong ánh sáng Tình ái. Nếu Mặt Trời Thiên Chúa không chiếu vào tôi những ánh lửa lộng lẫy nữa, lập tức tôi liền ra tối tăm mù mịt”. 27-VII - Sau một ngày giặt giũ, chiều đến Chị tâm sự với tôi: “Lúc một giờ con tự nhủ rằng: Các chị phải giặt giũ mệt nhọc quá! Và con đã cầu xin Chúa giúp đỡ các chị tất cả để công việc được thi hành trong an bình bác ái. Thấy mình ốm yếu thì con lại cảm thấy vui sướng vì được chịu đau khổ như các chị”. - Chị nhắc lại cho tôi mấy lời của thánh Gioan Thánh Giá: “Hãy xé đi tấm màn che cuộc gặp gỡ êm ái này! Con đã hằng ứng dụng lời đó vào cái chết yêu đương con ao ước. Tình ái sẽ không làm mòn tấm màn che cuộc đời của con, nhưng nó xé rách tấm màn ấy ngay lập tức. “Với cả một con tim khao khát và một niềm ủi an mênh mông từ hồi bắt đầu cuộc đời tu dòng con đã lặp đi lặp lại những lời khác nữa của thánh Gioan Thánh Giá: ‘Việc quan trọng hơn hết đối với một linh hồn là phải tập sống yêu thương nhiều nữa, để một khi tự tiêu hao cách mau lẹ, linh hồn đó sẽ không dừng bước trên dương thế lâu ngày nhưng sẽ gấp rút về hưởng nhan Chúa. “... Mặc dầu loài người ghen ghét, thánh ý Thiên Chúa cũng sẽ được hoàn tất đối với sứ mệnh của con cũng giống như sứ mệnh của thánh Jeanne d’Arc... “Con chỉ hoan hỉ đón nhận cái chết vì nó là biểu hiện của ý Chúa nơi con. “Không bao giờ con muốn xin Chúa cho con được chết trẻ, cho nên con chắc rằng trong lúc này Chúa chỉ có ý hoàn tất thánh ý của Người”. - Trong một cơn nghẹt thở, tôi tỏ cho Chị lòng cảm thương và nỗi buồn khổ của tôi: “Ồ! Mẹ đừng buồn khổ. Nếu con nghẹt thở Chúa sẽ ban sức mạnh cho con. Con yêu Chúa! Chúa không bao giờ bỏ con mà!” 28-VII - Chị Marie du Sacré-Coeur bảo chị: chết sau khi đã qua một cuộc đời yêu đương thì sung sướng biết bao! “Vâng đúng thế, nhưng để được nếm cái hạnh phúc đó, thì cần phải thực hành đức bác ái huynh đệ đã”. 29-VII - Có chị kể cho Têrêsa một câu hói đã nghe thấy trong giờ chơi: Tôi không hiểu tại sao người ta lại nói về Chị Têrêsa như một vị thánh. Chị ấy đã sống nhân đức thật đấy nhưng đâu có phải là nhân đức đã được do chịu sỉ nhục và đau khổ? Sau đó Chị cho tôi hay về vấn đề này: “Ngày từ hồi nhỏ dại con đã phải chịu biết bao nhiêu đau khổ. A! Ước chi lời nói đó giúp con nhận định được ý kiến của tạo vật khi con sắp chết”. - Có chị tưởng nếu mang cho Chị một đồ chơi giải trí thì Chị sẽ vui thích lắm. Nhưng sự thực lại xảy ra ngược hẳn. Chị lo sợ vì đã làm phiền cho chị ấy nên đã khóc xin lỗi. “Em xin chị tha lỗi cho em, em đã theo tính tự nhiên. Xin chị cầu cho em...”. - Và sau khi đó ít lâu: “Con sung sướng biết bao khi thấy mình bất toàn và khi chết con phải cần đến Lòng Thương Xót của Chúa nhân từ rất nhiều”. - Chúng tôi tỏ cho Chị biết chúng tôi sợ lỡ Chị chết ban đêm, Chị đáp lại: “Em sẽ không chết về đêm đâu, các chị cứ tin em; em đã ước ao được không chết ban đêm và em đã cầu xin Đức Mẹ sự ấy”. - Đến chiều tối Chị nói: “Con sắp chết rồi! Từ ba hôm nay con thực thấy đau nhiều lắm; lúc chiều này, con thấy như đang ở trong lửa luyện tội. “Khi có thể, con thường dâng mình lại cho Tình ái Xót thương của Chúa”. - Nói với tôi về mấy cơn thử thách đã qua: “Điều làm cho chúng ta phải chịu sỉ nhục một lúc thì lập tức cũng làm cho chúng ta được vinh hiển, dù ngay ở đời này. “Con hằng nhận thấy rằng, con không có chút khả năng nào để mà vui hưởng, nhưng con lại có rất nhiều năng lực để chịu khổ. “Lúc nào thân xác con cũng làm con khó chịu, con không thấy trong mình dễ chịu chút nào cả và ngay từ hồi còn nhỏ... con đã xấu hổ vì điều đó. “Dù chỉ lượm một cọng rơm để khỏi xuống luyện ngục thì con cũng không muốn. “Tất cả những việc con làm, con đều làm cho Chúa hài lòng và để cứu nhiều linh hồn cho Người”. - Đàn ruồi quấy rầy Chị nhiều lắm nhưng Chị không muốn đánh chết chúng: “Chỉ có chúng là những tên thù địch của con, mà như Chúa đã truyền tha cho kẻ thù địch nên con rất bằng lòng vì được dịp để tha thứ. Thế nên lúc nào con cũng ở nhân nhượng với chúng”. - Chị đau đớn như thế hẳn là khổ lắm phải không? “Ồ, không con còn có thể thưa với Chúa rằng con thích được đau khổ như thế. Thế là đủ!” - Chỉ vào cái ly đựng một thứ thuốc rất khó uống, thứ thuốc đủ màu giống như một thứ rượu ngon. Chị bảo tôi: “Mẹ xem cái ly nhỏ này, ai cũng tưởng đó là một ly đầy rượu ngon, nhưng thực ra con chưa hề thấy có thứ gì đắng hơn nó. Đó chính là hình ảnh của cuộc đời con đây: Trước mặt người ta, nó luôn luôn được phủ lên một màu sắc tươi đẹp, họ thấy con như đang uống một thứ rượu hảo hạng, mà thực ra nó lại là một thứ rất đắng cay. Con nói đến đắng cay, tuy nhiên đời con lại chẳng cay đắng tí nào vì con biết đổi đắng cay thành vui sướng và êm dịu. “Mẹ có muốn chuẩn bị cho con được chịu phép xức dầu không?... Xin hãy cầu Chúa cho con được chịu sốt sắng như người ta có thể. “Cha Bề trên đã bảo con: ‘Con sẽ như một trẻ em vừa mới chịu phép thánh tẩy xong’. Rồi ngài chỉ nói với con về vấn đề yêu mến. Con cảm động quá!” - Quãng xế trưa, Chị chịu phép xức dầu và rước lễ ăn đàng. Nghi lễ xong, Chị thân mến giơ tay ra cho chúng tôi. Vừa cám ơn xong có nhiều chị đến thăm và nói chuyện với Chị. Sau này Chị nói với tôi: “Trong khi cám ơn con bị chị em đến làm rầy rà! Nhưng ngay lúc ấy con liền nghĩ tới Chúa khi Ngài lui vào nơi cô tích cũng bị dân chúng theo sau quấy rầy, thế mà Chúa đã không đuổi họ. Con cũng muốn bắt chước Chúa mà tiếp đón các chị em như thế”. - Thấy Chị như sắp về trời đến nơi nên người ta đã đem tấm nệm rơm của Chị xuống trước. Chị nhìn thấy nệm rơm trong phòng bệnh ngay bên phòng Chị khi cửa phòng mở, Chị liền vui vẻ kêu lên: “A, tấm nệm rơm của chúng ta kia rồi! Nó sẵn sàng để đón lấy cái xác chết của con. “Mẹ ơi, sau khi con chết rồi nếu Mẹ muốn minh chứng lòng tri ân của con đối với bác sĩ Cornière là người đã săn sóc con thì xin Mẹ vẽ biếu ngài một bức ảnh và viết vào đó những lời này: Điều mà con đã làm cho người bé mọn nhất của Cha, tức là con đã làm cho Cha vậy”. 31-VII “Trên trần gian này con đã tìm thấy hạnh phúc và vui sướng, nhưng nguyên trong đau khổ mà thôi vì con đã đau khổ nhiều ở đời này. Sau này xin hãy nói cho các linh hồn biết như thế... “Từ ngày con được rước lễ lần đầu và từ ngày con xin Chúa Giêsu đổi tất cả những an ủi trần gian thành cay đắng cho con thì con hằng ao ước được chịu đau khổ. Tuy nhiên, con vẫn chưa nghĩ đến việc biến những đau khổ ấy thành vui mừng. Mãi sau này con mới được đặc ân ấy. Mãi cho tới ngày ấy thì đặc ân này y như một tàn lửa âm ỉ dưới đống tro tàn và như những bông hoa của một cây tới mùa phải kết trái. Nhưng lúc nào cũng chỉ thấy hoa rơi nghĩa là cứ để cho dòng lệ chảy khi bị đau khổ, con tự nhủ lòng với một tâm tư kinh ngạc và buồn bã rằng: vậy ra lúc nào nó cũng vẫn chỉ là những ước ao ư!” - Tôi bảo chị: Giá con còn sống lâu nữa thì sẽ chẳng ai hiểu chi hết về bệnh trạng của con. Têrêsa vui vẻ đáp lại tôi: “Làm gì điều ấy! Tất cả mọi người đều có thể khinh thị con, đó là điều lúc nào con cũng ước ao. Con sẽ ước ao được như thế mãi cho tới ngày mãn đời!” - Chúng tôi, tất cả ba chị em ở gần Têrêsa vì mỏi mệt và buồn bã nên chúng tôi bắt đầu thiu thiu ngủ. Têrêsa nhìn chúng tôi rồi lấy tay chỉ từng người một, đoạn mỉm cười bảo chúng tôi: “Phêrô, Giacôbê và Gioan!...” - Chúng tôi hiểu ngay Chị có ý ám chỉ các tông đồ ở Giêrusalem mà đồng thời cũng hiểu Chị có ý dùng một tư tưởng bất ngờ ấy để chúng tôi được khuây khoả.
- Chị nhắc tôi nhớ tới đặc ân Chị đã được xưa (hồi tháng 7/1887) trước tượng Chúa chịu nạn, tượng ấy Chị có nói tới trong tiểu sử của Chị. Chị lặp lại cho tôi nghe điều Chị đã tự bảo mình lúc bấy giờ: “Ôi! Con không muốn để mất máu châu báu này. Con sẽ dùng cả cuộc sống để hứng lấy máu ấy cho các linh hồn”. - Nói về bản viết thay tự thuật cuộc đời của Chị: “Thưa Mẹ, sau khi con qua đời rồi, không nên nói cho ai hay bản tự thuật viết tay của con nếu nó chưa được xuất bản với sự đồng ý của Mẹ bề trên. Nếu Mẹ không cứ thế thì ma quỷ sẽ vận dụng nhiều phương cách cản trở và làm hỏng công việc của Chúa... một công việc rất hệ trọng!” - Mấy ngày sau, khi yêu cầu Chị đọc lại trong cuốn Tự Thuật viết tay của Chị một đoạn mà tôi thấy hình như không được đầy đủ thì tôi thấy Chị mắt chứa chan châu lệ. Tôi hỏi Chị tại sao khóc, Chị liền trả lời tôi một cách đơn sơ như thiên thần: “Điều con đọc lại trong tập này, thật diễn tả đúng tâm hồn con!... Thưa Mẹ, những trang này sẽ mưu ích rất nhiều. Người ta sẽ hiểu biết Thiên Chúa êm dịu thế nào...”. - Bằng một giọng như được linh ứng. Chị thêm: “A, con biết lắm, mọi người sẽ yêu mến con... “... Như Chúa chúng ta đã nói rất đúng rằng: Có nhiều chỗ ở trong nhà Cha Ta. “Phần con, bị như thế chắc không chịu được. Có hãm mình thì con thích hãm mình bằng cách nào mà tâm trí vẫn được thanh thản hơn. “Người ta sẽ không thể nói về con như nói về Mẹ thánh Têrêsa: Người đau khổ vì không được chết. Vâng, tính tự nhiên con thích lên trời lắm! Nhưng ân sủng trong linh hồn con đã thống trị được bản tính tự nhiên nên giờ đây con chỉ có thể thưa lại với Chúa rằng: “Con còn ao ước sống lâu, Nếu là ý Chúa nhiệm mầu soi cho, Lên trời con muốn theo Cha. Nếu thực điều đó làm Cha vui lòng. Tình yêu lửa của thiên cung, Hằng thiêu con mãi không cùng một khi. Dù con sống chết hề chi, Phúc lành duy nhất: yêu vì Cha liên”. “Ở trần gian này, tất cả đều qua đi, cả Têrêsa bé mọn cũng thế... nhưng rồi Têrêsa sẽ trở lại... “Con cảm thấy một niềm vui khôn tả vì không được coi là kẻ đầy khuyết điểm mà nhất là vì cảm thấy con thực khuyết điểm như thế. Niềm vui này còn êm ái hơn hết mọi lời khen khiến con chán ngấy”. - Làm thế nào mà con đã chiếm được sự an bình bất tận như thế? “Con quên mình đi và cố gắng không tìm kiếm chi cho mình hết”. - Tôi nói với Chị về sự hãm mình bằng cách dùng những dụng cụ hành xác. “... Phải rất chừng mực trong những cách thực hành này, vì rất dễ theo tính tự nhiên hơn là nhân đức...”. - Một lần khác Chị nói với tôi về vấn đề này: “Trong cuộc đời chân phúc Henri Sauso, có một đoạn nói đến sự hành xác khiến con xúc động khi Ngài đã hành xác cách ghê gớm khiến sức khoẻ bị tiêu hao thì một thiên thần hiện ra và bảo ngài thôi đừng phạt xác nữa, đoạn thêm: ‘Bạn mới chỉ chiến đấu như một chiến sĩ thường, tư nay ta sẽ võ trang bạn thành hiệp sĩ’. Và thiên thần cho thánh nhân hiểu rằng chiến đấu thiêng liêng cao quý hơn là hành xác. “Đúng thế, thưa Mẹ, Chúa đã không muốn con chiến đấu như một chiến sĩ tầm thường, con đã được võ trang như hiệp sĩ ngay và con đã xuất trận chiến đấu với chính mình trong lãnh vực thiêng liêng bằng sự từ bỏ và những hy sinh bé mọn làm kín đáo; con đã tìm thấy an bình và khiêm cung trong trận chiến tầm thường này, mà trong đó bản tính tự nhiên không tham dự gì. “Các chị yêu quý, xin các chị hãy cầu cho các bệnh nhân đáng thương đang hấp hối. Giá các chị hiểu được những điều đang diễn biến nơi họ. Chỉ một chút thôi cũng đủ nản lòng rồi!... Phải bác ái và nhân từ đối với bất cứ bệnh nhân nào... - Nói với chúng tôi, ba chị ruột của Chị: “Các chị hãy chú ý đến luật nhà. Sau lúc tiếp khách, các chị chớ có nán lại để trao đổi tư tưởng vì như thế có khác chi ở nhà, mà ở nhà thì còn thiếu gì nữa”. - Tôi bảo Chị rằng: Chắc Chị đã phải chiến đấu nhiều lắm mới tới được mức hoàn hảo như chúng tôi thấy. Chị đáp lại với giọng khó tả: “Ồ! Không phải thế đâu...”. - Và sau đó một lúc: “Sự thánh thiện đâu ở tại làm việc này việc nọ, thánh thiện tuỳ thuộc vào tâm trạng khiến chúng ta khiêm nhường và nên bé mọn trong cánh tay Chúa; là ý thức về sự yếu hèn của ta và liều lĩnh phó thác vào lòng từ ái của Cha. “Ồ, giá các chị biết được vai em đã bị bầm tím nhiều!” - Người ta sẽ đắp bông cho. “Đừng, không được lấy đi cây thánh giá nhỏ của em”. 4-VIII - Về điều người ta nói về Chị: “Không, con không tin con là một đại thánh!... nhưng con tưởng rằng Chúa đã vui lòng ban cho con những điều mưu ích cho con và cho người khác”. - Người ta đem đến cho Chị một bó lúa mì, Chị rút lấy một trong các bông đẹp nhất và nói: “Thưa Mẹ, bông lúa mì này là hình ảnh linh hồn con, vì con và vì bao người khác Chúa đã đổ tràn đầy ơn lành xuống cho con... A, con muốn luôn luôn nghiêng mình dưới nguồn phong phú các ơn trên trời...”. - Rồi sợ rằng đã có một tư tưởng tự mãn, Chị nói thêm: “Ôi, con ao ước được chịu sỉ nhục và ngược đãi biết bao để xem tâm hồn con đã thực khiêm nhường chưa! Dầu sao, hồi xưa khi con bị người ta khinh bỉ, thì con đã thấy sung sướng lắm... Vâng hình như con đã khiêm nhường... Chúa tốt lành tỏ cho con thấy sự chân thật; con cảm thấy rằng mọi sự đều do Người mà đến”. - Chị đau đớn nhiều: “A! Con thấy rằng nếu con không có đức tin hay đúng hơn, nếu con không mến Chúa thì con đã thất vọng rồi... “Trong giờ nguyện ngắm con đã thiếp đi một lúc. Con mơ thấy người ta không đủ lính để xuất trận. Mẹ bảo: ‘Phải sai Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu đi’. Con đã đáp lại rằng giá đó là một trận thánh chiến thì con thích hơn. Thế rồi con cũng đi ngay. “Thưa MẸ - Chị nói thêm với lòng phấn khởi, giá như thời Nghĩa Binh Thánh Giá mà con được dự chiến hay là sau đó được chiến đấu chống những kẻ lạc giáo thì hạnh phúc biết mấy nhỉ. Nào đi! Con không sợ súng đâu Sao con lại có thể chết ở trên giường!” - Bây giờ con xếp đặt đời sống thiêng liêng thế nào? “Đời sống thiêng liêng của con khi đang mang bệnh là chịu đau khổ và rồi có thế thôi!... Con không thể buộc mình thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, con xin dâng cho Giáo Hội; lạy Chúa, con xin dâng cho nước con... Chúa đã biết rõ những điều Người phải làm với những công nghiệp của con; con dâng cho Chúa tất cả để Người được vui lòng. Rồi, nếu cứ lúc lúc lại thưa với Chúa: Xin ban cho Phêrô điều này, xin ban cho Phaolô điều kia thì con sẽ mệt trí lắm. Khi một chị con cầu nguyện con liền cầu nguyện ngay và sau đó con không nghĩ tới điều đó nữa. Khi con cầu nguyện cho các anh thừa sai của con, con chỉ nói đơn sơ thế này: Lạy Chúa, xin ban cho các anh con tất cả những gì con muốn cho con...”. 5-VIII ¬- Người ta thương hại các chị Dòng Kín phải mặc áo dày trong mùa viêm nhiệt: “A! Ở trên trời, Chúa sẽ trả công bởi ở dưới đất chúng ta đã mặc áo dày vì lòng kính mến Ngài”. - Một chị nói với Têrêsa rằng: khi Têrêsa chết các thiên thần sẽ đến để theo hầu Chúa, bấy giờ Têrêsa sẽ thấy các thiên thần ấy huy hoàng trong ánh sáng và sắc đẹp: “Tất cả những hình ảnh ấy chẳng giúp ích gì cho con hết, con chỉ có thể sống bằng sự thật. Ấy chính vì thế mà không bao giờ con ao ước được thấy thiên thần hiện ra. Ở trần gian này làm sao có thể thấy thiên đàng và các thiên thần cho đúng được, con thích đợi đến sau khi chết hơn. “Con nhắc lại như thánh Gióp rằng: Ban mai, con hy vọng không tới buổi chiều và buổi chiều con hy vọng không nhìn thấy ban mai’”. - Chúng tôi đặt bên giường Chị bức hoạ Dung Nhan Cực Thánh mà Chị vẫn ưa thích để ngày hôm sau - 6.8 - mừng lễ Chúa Hiển Dung, Chị bảo tôi: “May mà Chúa đã nhìn xuống cho chúng ta vẽ chân dung Người. Bởi vì mắt là tấm gương của linh hồn, nếu chúng ta thoáng thấy linh hồn Chúa, chúng ta sẽ chết vì vui sướng. “Ôi! Dung Nhan Cực Thánh này đã ban cho đời sống con bao nhiêu ơn lành! Trong khi con sáng tác bài ca ‘Sống vì yêu’, Dung Nhan Cực Thánh đã giúp con biết dễ dàng hết sức. Con đã viết thuộc lòng, trong ba khắc đồng hồ yên lặng buổi tối. 15 đoạn thơ con đã sáng tác ban ngày. Hôm đó, sau giờ xét mình, đang khi xuống nhà cơm, con sáng tác được câu này: “Sống yêu đương là lau chùi mặt Chúa Là xin ơn tha thứ cho tội nhân... “Con đã đọc đi đọc lại câu đó, trong khi đi qua Dung Nhan Chúa với tất cả tâm tình trìu mến... ngắm nhìn Dung Nhan Cực Thánh, con đã khóc lên vì yêu đương... “Lòng sùng kính Dung Nhan Cực Thánh, hay nói đúng hơn, tất cả tâm tình sùng hiếu của con, đã đặt nền tảng nơi những lời sau đây của tiên tri Isaia: Người đã hết huy hoàng, đẹp đẽ, chúng tôi đã thấy Người và Người không còn lấy một chút vẻ dễ coi... Bị khinh chê và là người rốt hết trong loài người, là người đau khổ, người yếu hèn; mặt Người như bị che kín và bị khinh dể, chúng tôi xem Người như đồ vô dụng... Con cũng thế, con ước ao không còn huy hoàng, không còn sắc đẹp, một mình đạp nho trong thùng vô danh không ai biết tới!” 6-VIII - Chị hy vọng được chết lúc rạng đông ngày hôm nay, suốt đêm không ngớt nhìn Dung Nhan Cực Thánh Chúa - sáng ra Chị bảo tôi: “Con đã đợi Chúa Giêsu thâu đêm. Con đã đẩy lùi được nhiều chước cám dỗ... A! Con đã giục lòng tin nhiều lần... Con cũng có thể nói được rằng: Tôi đã nhìn về phía hữu và tôi nhìn đăm chiêu, thế mà không một ai nhận biết được tôi... ai biết được giờ con chết... “Rồi Chị nhìn tượng Đức Mẹ và hát nho nhỏ: Khi nào sẽ tới, Mẹ ơi! Khi nào sẽ tới ngày tươi đẹp này Ngày con từ chốn lưu đày, Về nơi vĩnh phúc, con bay bay về”. - Về việc Bề trên miễn cho Chị không phải dự giờ kinh Nhật tụng cầu cho các linh hồn (offices des Morts) vì lý do đau yếu. Chị bảo tôi: “Con không thể cậy dựa vào con bất cứ điều gì, bất cứ một việc nào con làm để được lòng tin cậy cả. Chẳng hạn con không thể tự nhủ rằng: mình đã xong nợ đọc kinh cầu cho các linh hồn... nhưng ý thức nỗi nghèo hèn này, thực đã soi sáng cho con thấy rõ lắm. Con đã nghĩ rằng, suốt đời con, không bao giờ con có thể trả xong một trong những món nợ con mắc với Chúa và như thế đối với con thì như là một sự giàu sang thực và là một sức mạnh nếu con muốn được như vậy. Thế rồi, con cầu nguyện thế này: Ôi lạy Chúa của con, con nài xin Chúa hãy tự đền trả món nợ con đã mắc với các linh hồn trong luyện tội, nhưng xin hãy đền trả như Chúa đền để sự đền trả ấy được vô cùng tốt đẹp hơn là chính con phải đền trả món nợ ấy. Và con nhớ lại một ách hết sức êm ái những lời trong bài ca vãn của thánh Gioan Thánh Giá: Xin Người hãy đền trả hết mọi nợ nần. Con hằng áp dụng câu đó trong Tình ái. Con cảm thấy rằng ơn huệ này không thể báo đền được... Khi được tuyệt đối khó nghèo và khi chỉ biết trông cậy nơi Chúa nhân lành thôi, người ta sẽ được vô cùng an ủi”. - Chúng tôi nói với nhau về ít trường hợp thực tập nhân đức ẩn giấu. Chị thêm vào: “... Điều đó đánh động tâm hồn con, nhất là khi đọc đời sống thánh Gioan Thánh Giá. Người ta đã chẳng nói về Ngài thế này ư: Thầy Gioan Thánh giá à, Thầy thật là một tu sĩ rất xoàng!” - Bệnh trạng của Chị trầm trọng không ngờ! Người ta hỏi Chị: Chị sẽ chết về bệnh gì? “Tôi sẽ chết về bệnh chết! Chúa đã chẳng nói với Tổ phụ Adong về bệnh Tổ phụ sẽ chết ư? Người bảo Tổ phụ: Ngươi sẽ chết về bệnh chết! Ấy chỉ có thế thôi!” - Về kinh Thần tụng (Office Divin). “Con hãnh diện biết mấy khi đến phiên con làm chủ sự và con được đọc các lời tổng nguyện lớn tiếng giữa Ca triều! Con nghĩ rằng linh mục cũng đọc những lời nguyện ấy khi dâng lễ và con cũng như Ngài được quyền đọc lớn tiếng trước Thánh Thể, được ban phép lành, được đọc lời xá giải, được đọc Phúc Âm khi con là chủ sự. “Con có thể nói rằng kinh Nhật tụng đối với con vừa là một hạnh phúc vừa là một tử đạo vì con rất muốn đọc nó mà không sai vấp. Con không dám buộc lỗi cho những chị đã quên không xướng câu hay là xướng lầm. Chính con cũng có lúc vì vô ý chia trí, mà đến khi phải đọc lên lời gì thì lại quên lửng, cứ ngồi câm miệng hến, mặc dầu đã dọn trước và đánh dấu rõ ràng. “Tuy nhiên, con tưởng không còn có thể ước ao đọc kinh Thần tụng và dự giờ kinh với cộng đoàn hoàn hảo hơn thế đợi nữa”. - Trong một trường hợp Mẹ bề trên yêu cầu Chị cho biết về sự quên lãng của chị y tá trưởng (một chị nữ tu đã sống lâu trong Dòng) mà vì thế khiến bệnh trạng của Chị bị nhiều sự bất tiện tai hại, Chị nói với tôi: “Con phải nói thật với Mẹ bề trên nhưng khi nói, con thấy trong trí nảy ra được một lối diễn đạt tư tưởng nhuốm màu bác ái hơn lối con định nó, mặc dầu lối này không phải kém cỏi gì; con đã theo ơn Chúa soi sáng và Chúa đã thưởng con bằng cách ban cho niềm an vui trong tâm hồn”. - Người ta hỏi xem Chị hiểu thế nào về câu “ở như con trẻ trước mặt Chúa”. Chị đáp: “Đó là nhận mình là hư không và mong chờ mọi sự ở nơi Chúa, như một trẻ nhỏ chờ đợi mọi cái nơi Cha nó, đó là không lo lắng gì, không thu tích gì. Dù cha mẹ nghèo cũng cố liệu cho con những cái cần thiết, nhưng vừa khi đứa con khôn lớn, cha nó không còn muốn nuôi nữa và bảo nó: Thôi bây giờ con hãy làm việc đi, con có thể tự cung cấp cho con được rồi. Ấy chính vì không muốn nghe câu đó mà tôi đã không muốn lớn khôn vì nghĩ rằng tôi không thể tự liệu cho cuộc đời của tôi được, tức là cuộc đời vĩnh cửu trên thiên quốc. Vậy tôi lúc nào cũng bé nhỏ, tôi không phải làm gì hết ngoài việc đi hoá hoa, hoa tình yêu và hy sinh rồi dâng hoa ấy cho Chúa để Người được vui lòng. “... Sống bé nhỏ, còn là không nhận cho mình những nhân đức mình thực hành, là không tưởng rằng mình có thể làm được việc này việc nọ, nhưng hãy nhận rằng Chúa đặt kho tàng nhân đức ấy vào tay con nhỏ của Ngài để khi cần đến nó sẽ dùng, nhưng lúc nào kho tàng ấy cũng vẫn là kho tàng của Chúa. Sau cùng, là đừng nản chí vì những lỗi lầm của mình vì trẻ con thường ngã luôn nhưng vì chúng bé quá nên không thấy đau mấy”. 7-VIII “Ôi! Trên dương gian này người ta yêu Chúa ít quá đi, ngay cả những kẻ đã tận hiến cho Chúa cũng thế!... Vâng, chính thế, Chúa đã không được người ta hết lòng kính mến. “Thưa Mẹ, nếu con bất trung, nếu con chỉ phạm một lỗi bất trung nhỏ mọn thì con cũng cảm thấy rằng con sẽ phải bối rối hãi hùng để đền tội ấy và con cũng sẽ phải bối rối hãi hùng để đền tội ấy và con cũng sẽ không thể đón nhận cái chết được nữa. Cho nên con hằng thưa với Chúa rằng: Ôi! Lạy Chúa, con nài xin Chúa hãy gìn giữ con khỏi tội bất trung khốn nạn!” - Con muốn nói về tội bất trung nào vậy? “Một tư tưởng kiêu căng tự phụ hữu ý, chẳng hạn như: tôi đã có một nhân đức nọ, chắc chắn tôi có thể tập luyện được nhân đức ấy; như thế là tự dựa vào sức riêng mình và khi đã như thế thì liền sa xuống vực thẳm. Nếu con nói: Ôi lạy Chúa, như Chúa biết, con yêu Chúa nhiều quá, đến nỗi không thể chiều theo một tư tưởng trái đức tin; thì những cơn cám dỗ sẽ nên mãnh liệt khiến con sẽ sa ngã chắc chắn. “Nhưng nếu khiêm nhường, con sẽ ‘có quyền’ làm những sai lỗi dại dột nhỏ mọn, mãi cho tới chết mà không xúc phạm đến Chúa. Mẹ hãy xem trẻ nhỏ, chúng luôn luôn đập vỡ, xé rách và ngã lăn thế mà chúng vẫn rất yêu mến cha mẹ chúng. A, khi con ngã như một đứa trẻ thì cái ngã đó sẽ khiến con nhận rõ sự hư không và yếu đuối của con và con thầm nhủ: Tôi sẽ ra thế nào đây, tôi sẽ làm gì nếu tôi dựa vào sức riêng tôi! “Thánh Phêrô sa ngã, con hiểu lắm, thánh nhân thật đáng thương quá! Ngài đã dựa vào sức riêng thay vì dựa vào sức mạnh Chúa. Con chắc rằng nếu Ngài đã khiêm tốn thưa Chúa: ‘Xin Chúa hãy ban ơn can trường cho con để con theo Chúa cho tới chết’; thì Ngài sẽ được Chúa ban ơn can đảm ngay lập tức. Con lại còn chắc chắn rằng những điều Chúa chúng ta đã dạy cho các tông đồ do những lời giáo huấn và sự hiện diện hữu hình của Người thì Người cũng đem dạy cho chính chúng ta bởi những cảm ứng trong ân sủng của Người. Người có thể bảo thánh Phêrô: Hãy xin Ta ban sức mạnh cho để mà hoàn tất việc con muốn. nhưng không, vì đặt người cai quản Giáo Hội mà trong đó có biết bao tội nhân nên Chúa muốn rằng Ngài sẽ rút được kinh nghiệm ở chính mình về những việc con người có thể sa ngã khi không có Chúa hội giúp. “Ấy chính vì thế mà trước khi sa ngã, Chúa Giêsu đã phán bảo ông: Khi con đã trở lại, hãy làm cho anh em con vững tin, nghĩa là hãy kể cho anh em con câu chuyện sa ngã của con, hãy lấy kinh nghiệm của bản thân mà chứng minh cho họ biết sự yếu đuối của sức lực loài người”. 8-VIII - Tôi bảo Chị rằng: Sau này những nhân đức của Chị sẽ được thiên hạ coi là có giá trị. Chị đáp lại: “Chỉ một mình Chúa là ta phải đề cao thôi, vì trong cái hư không ti tiểu của con đây chẳng có gì đáng giá hết. “Nếu chính Chúa chúng ta và Đức Mẹ không đi dự tiệc thì con sẽ không bao giờ hiểu được cái thói quen mời bạn đến dùng bữa. Với con thì hình như khi ăn uống người ta phải kín đáo hay ít nữa là phải ăn uống nơi gia đình. Còn mời mọc thì cũng được, nhưng chỉ nên mời để chuyện trò hoặc kể cho nhau nghe những cuộc đi du lịch, kỷ niệm, tắt rằng để giúp tinh thần được giải trí. “Trước hết con rất tội nghiệp các người hầu bàn trong những bữa tiệc linh đình, nếu chẳng may họ vụng về đôi chút, con liền thấy bà chủ nhà lườm họ, thế là những người hầu bàn ấy thẹn đến đỏ mặt tía tai. Con tự nhủ: ‘Sự khác biệt ở dương thế này giữa chủ nhà và người giúp việc chứng tỏ rằng phải có một tiên đàng mà trong đó ai nấy đều được ngồi dự tiệc với Cha trong gia đình. Mà bấy giờ ta sẽ có một người hầu đặc biệt! Vì Chúa Giêsu đã phán rằng: Người sẽ đi đi lại lại để hầu hạ chúng ta. Đó là lúc những người nghèo khó và bé mọn được ân thưởng rộng rãi vì thân phận thấp hèn của họ”. - Chị nhìn trời và chị Marie du Sacré Coeur bảo Chị rằng: Em nhìn trời với một tâm tình yêu mến quá! Sau này Têrêsa bảo tôi: “Nghe nói thế, con thầm nhủ rằng: Chị ấy tưởng con nghĩ tới quê trời thật trong khi ngắm bầu trời bao la! Không phải thế đâu, con chỉ thán phục bầu trời vật chất đó thôi, còn quê trời thật thì càng ngày càng khép lại không cho con nhìn thấy! Con khổ tâm vì thế lắm nhưng rồi bỗng con thấy tâm hồn êm ái mà nghĩ rằng: Vâng, chính vì yêu mà con nhìn trời, vì linh hồn con đã toàn hiến cho Tình Ái, hết mọi hoạt động, ngay cả những hoạt động ít quan trọng đều được in ấu tin của Chúa. Con nghe như có tiếng trong tâm hồn động viên con thế và ngay bây giờ con cảm thấy được an ủi tràn trề. “Hôm nay, con duyệt lại đời sống quá khứ của con, con nhớ lại hành vi can trường mà xưa kia con đã làm trong dịp Chúa Giáng Sinh... Và nhớ tới cả lời người ta chúc tụng bà Giuđích: Bà đã hành động với lòng dũng mãnh nam nhi và tâm hồn bà trở nên kiện tướng. Thiếu gì tâm hồn đã nói: Tôi không đủ sức hoàn tất hy sinh này nọ. Thì họ hãy gắng sức đi! Chúa không bao giờ từ chối không ban ân sủng đầu tiên khiến họ can đảm hành động, sau đó tâm hồn vững mạnh thêm và người ta sẽ đi từ chiến thắng này tới chiến thắng khác”. 9-VIII - Tôi nói về Chị: Chiến sĩ của chúng ta đã bị hạ! Chị đáp lại: “Con đâu có phải là một chiến sĩ chiến đấu bằng vũ khí trần gian; trái lại con là chiến sĩ chiến đấu bằng gươm tinh thần, tức là lời Thiên Chúa, cho nên bệnh tật không thể hạ nổi con và vừa tối hôm qua con đã sử dụng gươm của con với một chị Nhà Tập... Con đã bảo: Tôi sẽ chết trong khi tay cầm khí giới”. - Có người bảo Chị rằng: Chị là một vị thánh! “Không, con không phải là một vị thánh. Con đã không bao giờ làm những việc các thánh làm. Con chỉ là một linh hồn rất bé nhỏ được Chúa ban cho dư đầy ân phúc. Con nói thực đấy mà, rồi đây ở trên trời Mẹ sẽ thấy như thế”. 10-VIII - Có người đọc cho Chị thánh nghe câu này của thánh Gioan Thánh Giá và ứng dụng câu đó cho Chị: Những linh hồn tiến tới tình án hoàn hảo có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp siêu nhiên của mình mà không sợ nguy hiểm. Chị liền tiếp: “Vẻ đẹp nào? Con chẳng thấy vẻ đẹp của con chút nào hết. Con chỉ thấy những ân sủng Chúa ban cho tôi”. - Ngắm nhìn bức hình thánh Jeanne d’Arc khi ở trong tù, Chị nói: “Con cũng được cách thánh khích lệ trong khi con ở trong tù ngục. Các ngài bảo con rằng: Bao lâu em còn mang xiềng xích, bấy lâu em chưa thể hoàn tất nhiệm vụ của em được; nhưng rồi đây, sau khi em chết, bấy giờ mới là lúc em đi chinh phục. “Con nghĩ tới thánh Inhaxiô thành Antiôkia, con cũng thế, con phải nhờ đau khổ để được nghiền nát thành bột bánh của Chúa. - Tôi nói với Chị: Mẹ đã cầu xin cho con đỡ đau đớn thế mà con vẫn đau đớn quá như vậy? Chị đáp lại: “Con đã xin Chúa đừng nhận những lời cầu làm trở ngại cho việc hoàn tất thánh ý Chúa nơi con”. - Tôi nói chuyện với Chị về thiên đàng, về Chúa Giêsu và về Đức Mẹ là những Đấng đang ở trên đó cả hồn lẫn xác. Chị thở dài não ruột. “Ôi!...” - Tiếng thở dài đó cũng đủ nói lên cho Mẹ hay rằng con phải đau khổ bên trong rất nhiều! “Vâng, chính thế!... Mặc dầu con yêu mến Chúa và Đức Mẹ nhiều lắm. Thế mà con còn có những tư tưởng ấy!... nhưng con không quan tâm đến nó...”. (Chị có ý ám chỉ cơn thử thách lớn lao trong tâm hồn). “Con cầu cùng các thánh luôn mà vẫn chẳng nhận được lời; nhưng các ngài càng giả điếc làm ngơ thì con càng yêu mến các ngài”. - Sao vậy? “Bởi vì con ao ước không được xem thấy Chúa và các thánh để được sống trong tình trạng đêm tối của đức tin hơn cả những người ước mong xem thấy và thấu hiểu mọi sự”. 11-VIII “Không bao giờ con muốn xin Chúa gởi tới cho con những đau khổ lớn lao hơn, vì nếu xin thế thì những đau khổ ấy sẽ là những đau khổ của riêng con, con phải một mình gánh lấy, mà con đã chẳng bao giờ có thể tự mình làm được gì hết”. 12-VIII “Từ hôm con bảy tỏ cảm tưởng của con về bông lúa cho Mẹ hay thì con có những tâm tưởng rất thấp hèn về con. Nhưng sáng hôm nay lúc bắt đầu đọc kinh Cáo mình trước khi cho con chịu Mình Chúa, con đã được một đặc ân mới vô cùng lớn lao! Con thấy Chúa ở đó, sắp hiến thân cho con và sự cáo mình đó đối với con là một việc hạ mình rất cần thiết: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng... tôi đã phạm tội nhiều... tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh, khẩn cầu cho tôi. “Ôi! Vâng, con thầm nhủ thế, lúc ấy người ta xin Chúa và các thánh ban ơn tha thứ cho con thì rất hợp. Như người thu thuế, con thấy mình là một tội nhân xấu xa. Chúa tỏ ra xót thương con biết bao! Và khi thấy phải nại đến tất cả triều đình thiên quốc, nhờ sự bầu cử của cả triều đình, để xin ơn tha thứ tội lỗi cho con thì con cảm động vô cùng! Thật khó lòng mà cầm nổi châu luỵ!... Và khi miệng con đón lấy Mình Thánh Chúa thì con cảm động vô kể. Thật lạ lùng biết bao vì con đã cảm thấy thế ngay khi con đọc kinh Cáo Mình! Con tin rằng đó là vì thân phận hiện tại của con: Con tự thấy mình hèn hạ quá! Lòng tin tưởng của con không vì thế mà giảm sút, trái lại, danh từ hèn hạ đâu có phải là một danh từ thích hợp vì con thật giàu có với tất cả những kho tàng của Chúa; nhưng chính vì thế mà con càng phải hạ mình hơn nữa... Khi con suy đến tất cả những ân sủng Chúa đã ban cho, con phải cố nén để khỏi khơi nguồn lệ tri ân. Những giọt nước mắt con đã trào ra sáng hôm nay con cho đó là những hàng lệ thống hối cách trọn. A! Thật không thể tạo cho chính mình những tâm tình như thế! Chính Chúa Thánh Thần ban cho những tâm tình ấy, Người là Đấng thổi qua những nơi Người muốn”. - Tôi nói với Chị về những ánh sáng bên trong mà đôi khi Chúa ban để ta thèm về thiên đàng thì Chị bảo tôi: “Riêng con, con chỉ có những ánh sáng để nhìn rõ cái hư vô bé nhỏ của con, nhưng như thế lại làm ích cho con nhiều hơn những ánh sáng về đức tin”. 14-VIII - Một ngày rất cực nhọc cả cho thân xác lẫn tâm hồn. Chiều đến tôi bảo Chị: Hôm nay con hẳn là phải vất vả nhiều? “Vâng, nhưng con thích những vất vả đó mà! Con thích tất cả những gì Chúa ban cho”. 15-VIII - Tôi kể lại cho Chị nghe những lời sau đây của thánh Gioan Thánh Giá nói về những linh hồn đang tiêu tan trong Tình ái Thiên Chúa: Họ chết trong những cơn say mến kỳ diệu và trong những trận tất công ngọt ngào mà Tình ái đã cung hiến cho họ... Chị thở dài và bảo tôi: “Phải nói rằng niềm vui và bầu nhiệt huyết chỉ ở tận đáy lòng con thôi. Điều đó sẽ làm cho bao nhiêu tâm hồn không được khích lệ nếu họ nghĩ rằng con đã không phải đau khổ nhiều”. - Chị rất đau đớn vì tức ngực: “Con không biết con sẽ ra thế nào đây”. - Tình trạng đó có làm con lo ngại không? “Ồ! Thưa không... “Chiều hôm qua con đã xin Đức Mẹ cho con đừng ho nữa để chị Geneviève có thể ngủ được. Nhưng con đã thêm: Nếu Mẹ không nhận lời thì con sẽ còn yêu Mẹ hơn nữa. “Chúa ban cho con lòng can đảm tương đương với những cơn đau đớn của con, lúc này con thấy như không thể chịu đựng được nữa, nhưng con không sợ vì nếu đau đớn tăng thì đồng thời Chúa cũng sẽ tăng lòng can đảm của con lên”. 16-VIII - Chị không thể nói được nữa vì yếu và tức ngực nhiều quá! “Dù... nói với... Mẹ... cũng không thể được nữa!... Ôi! giá người ta biết thế!... Nếu con không yêu mến Chúa”. 17-VIII “Con thấy rằng Chúa muốn con chịu đau khổ. Những thứ thuốc đáng lẽ phải mưu ích cho con và làm thuyên giảm các bệnh nhân khác thì lại khiến con phải đau đớn”. - Mẹ đi cầu nguyện xin Đức Mẹ cho con bớt tức ngực nhé! “Đừng, hãy để mặc ý các Đấng trên đó. “Con chịu đau đớn nhiều, con có chịu nên không? Đó mới là điều hệ trọng!” - Trong giờ giải trí Chị bảo tôi: “Xin Mẹ hãy đọc cho con nghe bức thư Mẹ đã nhận cho con. Hồi chiều con đã hãm mình không xin Mẹ đưa thư, để dọn mình rước lễ ngày mai”. - Thấy tôi cầm bút chì ghi lại điều ấy: “Có lẽ công nghiệp của con sắp mất rồi, vì con đã nói với Mẹ và Mẹ đã ghi điều đó!” - Vậy ra con cũng muốn được công nghiệp? “Vâng, nhưng không phải cho con... mà là cho các linh hồn, cho các nhu cầu của toàn thể Giáo Hội sau cùng để tung vãi hoa hồng cho mọi người, lành thánh cũng như tội nhân”. - Tôi bảo Chị rất kiên trì, Chị đáp: “Con chưa có lấy một phút kiên trì! Kiên trì đâu có phải của con! Thiên hạ cứ lầm hoài”. - Nếu con thấy khoẻ lại thì hẳn là con phải ngạc nhiên lắm! “Ồ! Không. Nếu quả là thánh ý Chúa thì con sẽ vui mừng dâng cho Người sự hy sinh đó nữa. Nhưng, xin Mẹ biết cho rằng đã sẵn sàng chết như thế mà lại khỏi thì đâu có dễ gì!” - Vì quá suy nhược nên Chị hầu như thấy khó chịu khi nghe đọc ca vịnh Miserere trước khi rước lễ, dầu đọc thật nhỏ cũng vậy. “Có lẽ con sắp lãng trí... Ôi! Nếu người ta biết được sự đau đớn của con! Đêm nay, vì không chịu nổi nữa, con đã xin Đức Mẹ ôm ấy đầu con trong tay Người để con có thể chịu đựng được”. - Có người đưa ảnh Chuộc Tội cho Chị. Chị âu yếm ôm hôn đầu Chúa Kitô hơi ngả xuống. Chị nói trong khi nhìn Chúa: “Chúa đã chết... Con rất ưa lối trình bày hình ảnh chết của Người, vì theo con nghĩ thì Người không còn đau khổ nữa”. - Chị xin thuốc và những săn sóc là những thứ Chị phải khó nhọc lắm mới dùng được. “Con xin những thứ đó - Chị nói - là vì vâng lời”. - Chị còn săn sóc tới các chị Nhà Tập và nói với một trong các chị ấy: “Không nên ngồi bắc ngang trên ghế như vậy. Luật dạy thế. “Con chỉ thấy đau từng hồi một... Vì người ta nghĩ tới quá khứ và tương lai nên mới ngã lòng và thất vọng”. 20-VIII - Người ta kể cho Chị nghe những khó chịu mà một chị dòng mắc bệnh thần kinh suy nhược làm cho các chị y tá. Chị nói một cách phấn khởi: “Giá con được làm y ta săn sóc chị ấy thì sung sướng biết bao! Lúc đó ân sủng sẽ thắng được tính tự nhiên. Vâng, con đã ham những công việc như thế làm... và giá được như thế con sẽ đặt tất cả tình yêu vào đấy. Ô! Con thấy như thế là con đã làm cho chị ấy được vui sướng, nhất là khi nghĩ tới lời Chúa: Con đã nâng giấc Ta khi Ta đau yếu”. - Chị không thể uống sữa được nữa vì sữa đối với Chị đã trở nên một thứ đồ uống cực kỳ ghê sợ. Tôi bảo Chị: Con có dám uống ly sữa này để cứu sống Mẹ không? “Ồ! Vâng... Con sẵn lòng uống sữa để cứu sống Mẹ mà con cũng sẵn sàng uống để làm đẹp lòng Chúa”. - Tồi Chị uống một hơi hết ly sữa ấy. “Khi con đau nhiều, con rất hài lòng vì đó chính là con chịu những đau đớn ấy chứ không phải ai trong Chị phải chịu”. - Đề cập tới lá thư của một linh mục nói rằng Đức Mẹ đã không phải chịu đau đớn nơi thể xác: “Thưa Mẹ, chiều nay khi nhìn ngắm Đức Mẹ, con đã hiểu nói thế quả không đúng, con đã hiểu rằng Đức Mẹ không những đã đau đớn trong tâm hồn mà còn ngoài thể xác nữa. Ngài đã đau khổ vì rét, vì nóng, vì mệt... Ngài đã nhịn ăn nhiều lần... Vâng, Ngài biết thế nào là đau khổ! “Sung sướng biết bao khi ở trên trời ta sẽ được biết tất cả những sự việc xưa kia đã diễn biến trong Thánh Gia! Khi bé Giêsu lớn lên lúc thấy Mẹ nhịn ăn có lẽ đã nói với Mẹ: ‘Con muốn nhịn ăn’. Và Đức Mẹ đáp lời con: ‘Không được, con Giêsu của Mẹ, con còn bé quá, con chưa đủ sức nhịn’ hay có khi Ngài đã không dám can ngăn con chăng? “Còn thánh Giuse quý mến nữa! Ồ, con yêu Ngài lắm! Vì phải lao tác nên Ngài không nhịn cơm được... Con thấy Ngài bào gỗ..., rồi thỉnh thoảng lau mồ hôi trên trán... Ồ! Ngài làm con thương hại quá! Thật con thấy đời sống Ngài giản dị quá! “Các người phụ nữ quanh miền đến chuyện trò với Đức Mẹ thân mật quá! Đôi khi họ xin Đức Mẹ cho họ đem bé Giêsu đi chơi với con cái họ và bé Giêsu nhìn Mẹ xem ý Mẹ có muốn cho bé đi không... “... Đều làm ích cho con là mỗi khi nghĩ tới Thánh Gia thì con lại tưởng đến một cuộc sống hoàn toàn bình thường. Không phải những câu chuyện người ta thuật lại hay như những điều người ta ước đoán! Chẳng hạn như câu chuyện bé Giêsu lấy đất nặn chim, rồi hà hơi vào cho nó sống! Không, bé Giêsu không có làm phép lạ vô ích đâu. Nếu không thế thì tại sao Chúa lại không làm một phép lạ thật dễ dàng để đem tất cả Thánh Gia sang Ai Cập! Chỉ trong nháy mắt là Thánh Gia sẽ ở bên đó rồi!... Nhưng không phải thế, mọi sự trong đời sống của Thánh Gia đều giống như đời sống chúng ta. “Rồi các Ngài còn chịu biết bao nhiêu thống khổ, bao nhiêu nỗi đắng cay nữa. Biết bao lần người ta đã trách móc thánh Giuse. Biết bao lần người ta đã không trả công cho Ngài. Giá người ta biết tất cả những nỗi thống khổ Thánh Gia đã chịu, hẳn người ta sẽ phải ngạc nhiên biết bao! “Con thấy vui sướng khi nghĩ rằng có người đang cầu nguyện cho con: thế rồi con đã thưa cùng Chúa rằng: Con muốn cho các tội nhân được hưởng những lời cầu đó”. - Thế con không muốn nhờ lời cầu đó để được đau đớn ư? “Không!” 21-VIII - Tôi quỳ gối nhìn Chị, cầu cho Chị với một con tim sầu khổ. “Thưa Mẹ, tại sao Mẹ lại buồn?” - Vì thấy con đau khổ quá! “Vâng, nhưng con được an bình biết bao!...” - Người ta đã thấy con không được hoàn hảo trong trường hợp nào đó vì người ta đã không hiểu con. Chị đáp một cách thoả mãn: “Ồ! Được thế càng hay!” 22-VIII - Chị đau đớn rất mực khắp nơi, do đó ai cũng sợ rằng Chị bị biến chứng trầm trọng. “... Được, đau nhiều và đau khắp nơi, lại mắc nhiều bệnh một lúc thì càng hay. Như thế có khác gì trong cuộc hành trình người ta can đảm chịu đựng hết mọi thứ bất tiện trong khi biết rằng những thứ đó sẽ qua đi mau chóng và một khi đạt tới đích họ sẽ được hoan hỉ nhiều hơn nữa. “Ôi thưa Mẹ, con sẽ ra làm sao nếu Chúa không ban sức mạnh cho con?... Con chỉ có hai bàn tay là không đau thôi! Người ta không hiểu được nỗi đau đớn như thế này! Không, phải cảm thấy thì mới biết được...”. - Thỉnh thoảng Chị rên khe khẽ. Được một lúc Chị bảo chúng tôi: “... Em không nên rên rẩm nữa vì như thế không ích lợi gì hết: Các chị yêu dấu, các chị hãy cầu nguyện cho em...”. - Thấy chúng tôi quỳ, Chị ngọt ngào bảo: “Không, đừng quỳ, ngồi kia! “Con chưa thấy đêm nào lại khổ sở như đêm vừa rồi. Ôi! Chúa phải nhân từ dường nào thì con mới có thể chịu đựng được tất cả những đau khổ con đang chịu! Không bao giờ con lại tin rằng con có thể chịu đau đớn được nhiều như thế! Tuy nhiên, con tin rằng những khốn khó của con chưa phải là chất dứt; nhưng Chúa sẽ không bỏ con!” - Như con đã hát: Tất cả những gì Người cho con, Chúa Giêsu có thể lấy lại. Người đã thực hiện lời đó không sai mảy may. “Vâng, đúng thế và con cũng không phàn nàn chi hết! “Chúa không cho con cảm thấy cái chết đã gần kề nhưng Người cho con cảm giác những đau đớn càng ngày càng ghê gớm hơn nhiều... Tuy vậy, con vẫn không xao xuyến chút nào, con chỉ muốn nghĩ tới hiện tại thôi”. - Nói với chị y tá: “Chị hãy cầu xin Đức Mẹ cho em, vì nếu chị có đau yếu thì em sẽ cầu xin Ngài thật nhiều cho chị. Khi phải cầu nguyện cho mình thì người ta không dám...”. - Chị dâng những đau đớn của Chị cho một chủng sinh đang bị cám dỗ bỏ ơn thiên triệu. Chủng sinh này biết thế và đã viết một lá thư rất mực khiêm nhường và cảm động. Chị nói cho tôi hay về vấn đề này: “Ôi! Lá thư đó đã đem lại cho con bao nhiêu là an ủi! Mẹ có thấy những tư tưởng khiêm tốn diễn tả trong thư đó không? Con thấy những đau khổ nhỏ mọn của con đã đem lại kết quả. Và, nhờ lá thư đó mà con hết sức vui mừng nhận thấy rằng chỉ một thời gian rất ngắn ngủi người ta cũng có thể có một cảm tình nồng hậu và một lòng tri ân tha thiết đối với một linh hồn xa lạ như thế! Phương chi khi ở trên trời, các linh hồn sẽ nhận biết những linh hồn đã cứu vớt mình thì sẽ ra làm sao nhỉ”. - Chị con nói với tôi về Đức Mẹ, Chị bảo tôi rằng tất cả những bài giảng ca tụng Người, Chị đã được nghe, chưa bài nào làm Chị cảm động cả: “Con đã ham muốn được làm một linh mục để ca tụng Đức Mẹ biết bao! Con còn thấy rằng chỉ cần ca tụng Người một lần mà thôi cũng đủ làm cho người ta hiểu tâm tưởng con đối với Người. “Trước hết, con sẽ nêu lên đời sống Đức Mẹ vẫn còn được ít người biết đến quá. Không nên dùng những sự việc thiếu xác thực hoặc, những điều không biết rõ để nói về Người. Chẳng hạn nói rằng: Lúc còn nhỏ, hồi ba tuổi, Người đã lên đền thờ dâng mình cho Thiên Chúa với những tâm tình nồng cháy vì yêu mến và với lòng sốt sắng lạ lùng, kỳ thực có lẽ Người lên đấy hoàn toàn vì vâng lời cha mẹ... “Còn đối với lời tiên tri của ông già Simêon. Tại sao lại nói rằng Đức Mẹ từ lúc ấy lúc nào cũng thấy ngay trước mắt cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu?... Một lưỡi gương đau đớn SẼ ĐÂM THÂU lòng Bà : Đấy, thưa Mẹ yêu dấu, hẳn Mẹ sẽ thấy rõ ràng đó là một lời tiên báo cho mãi về sau này... “Muốn cho bài giảng về Đức Mẹ mang lại nhiều kết quả thì cần phải trình bày đời sống thực của Người y như Phúc Âm đã cho ta thoáng thấy chứ không phải đời sống giả thiết và người ta suy đoán rằng đời sống thực của Người ở Nadarét cũng như sau này phải là một đời sống hết sức bình thường. Ngài vâng phục hai ông bà. Giản dị biết bao! “Người ta giảng dạy về Đức Mẹ như là một người không thể với tới được, phải chứng minh Đức Mẹ là người ta có thể bắt chước được, Người đã thực hành những nhân đức kín đáo, phải nói rằng Người đã phải sống trong đức tin như ta, hãy nên những bằng chứng rút trong Phúc Âm mà chứng minh: Hai ông bà không hiểu lời cậu vừa nói đó hoặc là Cha Mẹ em cảm phục về những điều người ta nói về em. Sự cảm phục ấy chứa đựng một phần nào sự kinh ngạc, thưa Mẹ, Mẹ cũng nhận thấy thế chứ? Con rất thích ca tụng Người lời sau đây: Con đường nhỏ hẹp về trời, Mẹ đà vạch rõ người người đều hay. Bằng luôn tập luyện đêm ngày, Bao nhiêu nhân đức nhuốm đầy khiêm cung”. - Sau đó một lúc, Chị lại trở về cũng một tư tưởng ấy: “Người ta biết rằng Đức Mẹ là Nữ Vương trời đất, nhưng Người là Mẹ hơn là Nữ Vương và không nên làm cho người ta tưởng rằng (như con thường nghe nói) vì những đặc ân của mình mà Đức Mẹ che lấp mất sự vinh quang của tất cả các thánh, chẳng khác chi mặt trời lúc mọc lên làm mờ các tinh tú khác. Lạy Chúa, thế thì lạ quá! Một người Mẹ mà lại làm tiêu tan đi sự vinh quang của con cái! Con thì con nghĩ hoàn toàn trái ngược hẳn, con tin rằng Đức Mẹ sẽ làm tăng thêm rất nhiều vinh quang cho những kẻ được chọn. “Nói tới các đặc ân của Đức Mẹ thì rất phải, nhưng không nên chỉ nói có thể thôi. Phải làm cho người ta yêu mến Người. Nếu nghe một bài giảng về Đức Mẹ, từ đầu chí cuối người ta cứ phải kêu lên chao ôi!... Chao ôi!... Người ta hẳn phải chán và như thế bài giảng đâu có khiến người ta yêu mến và bắt chước Đức Mẹ. Biết đâu lại chẳng có một số linh hồn khi nghe nói thế thì đâm ra cảm thấy mình xa cách một tạo vật cao sang như thế. “Đặc ân duy nhất của Đức Mẹ là không mắc tội tổ tông và làm Mẹ Thiên Chúa. Mà đối với đặc ân sau cùng này Chúa Giêsu đã phán bảo ta: Ai làm theo ý Cha Ta (là Đấng) ở trên trời thì kẻ ấy là anh, là chị, là Mẹ Ta. “Đàng khác, chúng ta còn được hạnh phúc hơn Đức Mẹ vì... Người không có Đức Mẹ để yêu!... Thế là chúng ta được hưởng thêm một sự dịu dàng êm ái còn Đức Mẹ thì không được!... “Ôi, con yêu Đức Mẹ ngần nào!... “Khi người ta cầu xin Đức Mẹ mà không được nhận lời thì cứ để mặc kệ đừng có cố nài Ngài và cũng đừng nóng lòng chi...”. 24-VIII - Tôi hỏi Chị xem có nản chí không: “Không, nay thế mọi sự đều tệ hơn, mỗi lần thở là mỗi lần con đau khôn tả”. - Chị chữa lại: “Không, mọi sự không tệ hơn đâu, tất cả đều tốt hơn!” 25-VIII - Tôi cho Chị hay rằng tôi muốn biết ngày Chị lìa trần. Chị đáp: “A! Phần con, con lại không muốn thế! Con chẳng bận tâm mấy về vấn đề đó! Tâm hồn con an bình biết bao”. - Có một chị dòng chiều nào cũng vào phòng và cứ đứng ở cuối giường, nhìn Chị và mỉm cười một lúc khá lâu... Chị Thánh cũng mỉm cười đáp lại. Nhưng tôi nghĩ rằng cái lối thăm bệnh quá lố như vậy hẳn là phải làm cho Chị mệt nhiều. Để đáp lại câu hỏi của tôi Chị nói: “Vâng, còn gì khó chịu bằng trong khi đau đớn mà lại có người cứ nhìn và cười, nhưng con nghĩ rằng: Trên thánh giá, Chúa chúng ta cũng bị người ta nhìn trong lúc đang chịu bao nhiêu đau khổ, vì trong Phúc Âm có nói: Họ nhìn Người và lắc đầu. Tư tưởng đó giúp con vui lòng hiến dâng cho Người hy sinh ấy”. - Con phải đau đớn nhiều quá, con có thấy nản chỉ hay buồn khổ không? “Ồ! Không, con không thấy khổ chút nào cả! Con có thể vác được bao nhiêu thì Chúa ban cho đúng ngần ấy”. - Con yêu dấu, con rất có thể lặp lại câu này trong Thánh vịnh: Cuộc lưu đày của con lâu dài biết bao! “Nhưng con, con lại không thấy nó dài chút nào! Không phải vì con phải đau khổ mà nó thành dài hơn đâu...”. - Người ta đã sốt sắng đọc một kinh để xin cho Chị bớt đau đôi chút. Thấy rằng lời nguyện đó đã không được chuẩn nhận, nên ít lâu sau Chị nói: “Mặc dầu ngay từ đầu con đã cảm thấy như thế, con cũng đã thưa lại với Chúa rằng con yêu mến Người nhiều hơn và con cũng yêu tất cả các thánh nữa”. - Trải qua nhiều ngày Chị sống trong tình trạng bất an và lo âu khôn tả. Thỉnh thoảng Chị lại nài xin chúng tôi cầu nguyện và nhờ người khác cầu nguyện cho Chị: “Ôi, cần phải cầu nguyện cho những người hấp hối dường nào! Nếu người ta hiểu được thế nào là hấp hối. Lời cầu trong kinh tối cần thiết ngần nào: Procul recedant somnia et noctium phantasmata...! “Con tin rằng ma quỷ đã xin Chúa cho phép thử thách con bằng một đau đớn đến cực độ, khiến con không còn nhẫn nhục và không còn tin tưởng nữa”. - Chị rên, nhưng rất sẽ: “Ôi! Con đã rên rỉ! Tuy nhiên, con vẫn muốn chịu đau khổ nhiều! Con sẵn sàng chịu mọi sự!... Cần phải phó thác!... Các chị yêu dấu của em ơi, em muốn rằng các chị cứ vui lên”. 26-VIII - Có người đốt cho Chị một ngọn nến và để cháy suốt đêm: “Nhờ cây nến phép ấy mà con đã qua một đêm không đến nỗi tệ quá”. - Trở lại tâm trạng thường lệ của Chị. Chị thưa với Mẹ bề trên đến ban phép lành cho Chị: “Con rất hài lòng vì đã không xin Chúa ban đau khổ, như thế bó buộc Chúa phải ban can đảm cho con...”. - Mẹ như thấy rằng con được sinh ra để chịu đau khổ, tâm hồn con đã được tôi luyện cứng cáp. “A, vâng đối với sự đau khổ trong linh hồn thì con có thể chịu được nhiều... nhưng đối với đau khổ phần xác thì con như một đứa trẻ thơ, đứa trẻ nhỏ xíu... Con không biết nghĩ gì hết, con đau đớn từng giây, từng phút... “Thưa Mẹ, đau đớn nhiều như thế, chắc phải được Chúa giúp nhiều lắm!” - Chị luôn luôn khổ vì khát, chị Marie du Sacré Coeur bảo: Em có muốn uống nước lạnh không? Và Chị buột miệng: “Ồ, em thích lắm”. - Chị Marie du Sacré-Coeur tiếp lời: Nhưng Mẹ bề trên đã buộc em phải tự xin tất cả những gì cần kia mà. Em hãy vâng lời mà làm như vậy, Chị trả lời: “Vâng, đúng thế, em xin tất cả những gì em cần...”. - Em chỉ xin cái cần thiết, không bao giờ em xin cái có thể làm em đỡ đau ư? “Không, em chỉ xin cái cần thiết thôi”. - Sau khi uống một lúc, Chị nhìn ly nước đá, có người bảo Chị: hãy uống thêm chút nữa. “Thôi, lưỡi em không có khô mấy”. 27-VIII - Có lẽ con còn bệnh mãi đến mùa Xuân, Mẹ lo thế, con con bảo sao?... “Được lắm, con bảo rằng thế càng hay!” 28-VIII - Qua cửa sổ, Chị chỉ vào một nơi tối ngoài vườn và bảo tôi: “Này, Mẹ hãy trông kìa, bên cạnh những cây dẻ có một lỗ trống tối để không ai có thể phân biệt được gì nữa... Con đang sống trong tình trạng tối đen như thế, cả tâm hồn lẫn thể xác...! Vâng, tối tăm quá, nhưng con lại sống an bình ở đó”. - Ngắm tượng Đức Mẹ: “Đức Mẹ nhân từ của con, đây là lý do khiến con muốn lìa trần: Con làm mệt chị y tá nhiều quá và con cảm thấy đau ốm như thế này làm nhọc lòng các chị yêu dấu của con... Vâng, con muốn về trời lắm”. - Có người cho Chị hay rằng Mẹ bề trên và các chị khác đã nói về vẻ đẹp và những duyên dáng bên ngoài của Chị: “Ồ! Làm gì cái đó, có ích lợi gì đâu. Chỉ tổ làm phiền con thôi. Đã gần mồ như con thì lấy đó làm vui thế nào được”. ¬- Chị nói với một chị Nhà Tập: “Khi tôi ở trên trời, chị phải lấy những hy sinh nhỏ và những lời cầu nguyện chất đầy tay tôi, để tôi được sung sướng tung chúng xuống như mưa ân sủng cho các linh hồn”. 29-VIII - Chị đau đớn như thế mà không được an ủi bên trong thì cực lắm nhỉ? Chị đáp: “Vâng, đúng thế, nhưng cái đau đớn của con là cái đau đớn vô tư lự. Con vui lòng chịu khổ vì Chúa muốn thế”. - Tôi đọc cho Chị nghe dụ ngôn người Samari hảo tâm trong lễ sáng Chúa nhật hôm nay: “... Con như người lữ hành khốn nạn Samari nửa sống nửa chết đó”. 30-VIII - Tôi bảo Chị: Nếu có người báo tin vài ngày nữa con sẽ chết, con có vui lòng không? Con thích như thế hơn là được cho biết rằng con sẽ đau đớn mỗi ngày mỗi hơn, hàng tháng và có khi hàng năm phải không? “Ồ! Con không vui lòng hơn chút nào hết. Điều duy nhất khiến con vui lòng là tuân hành thánh ý Chúa”. 31-VIII “Con cần phải được xem những sự kỳ diệu trên trời biết bao! Ở dưới đất này không gì đánh động lòng con được... “A! Thật không tưởng được, vì tất cả ước vọng của con đều đã được thực hiện. Xưa, khi đọc thánh Gioan Thánh Giá, con đã khẩn cầu Chúa thi hành nơi con những điều thánh nhân đã viết, nghĩa là xin Chúa cho con trong một thời gian ngắn mà được thánh thiện như là đã sống đến tuổi già, hầu con được chóng tiêu hao đi trong Tình ái... và con đã được nhận lời”. - Chị kể lại cho tôi nghe rằng trước kia để hãm mình Chị đã nghĩ đến những thứ kinh tởm trong khi dùng bữa. Chị thêm: “Nhưng sau đó, con nghĩ rằng dâng cho Chúa những gì con thấy ngon lành và đồng thời cảm tạ Người, như thế giản dị hơn”. - Chị đã kiệt lực: “Con phải can đảm biết bao để làm một dấu thánh giá! “Lạy Chúa!... Lạy Chúa, xin thương xót con cùng!... Con chỉ còn nói được thế thôi!”
2-IX “Con dâng nỗi niềm thử thách trong tâm hồn nhất là cho một người bà con không có đức tin trong gia đình ta. “... Khi người ta khiêm nhường nhận mình có nhiều khuyết điểm thì ơn Chúa sẽ đổ xuống ngay lập tức... “Ôi, vâng, con ao ước Nước Trời lắm! Ôi lạy Chúa, xin hãy xé tấm màn ngăn cách cuộc gặp gỡ êm ái ấy đi”. 3-IX - Tôi kể lại cho Chị nghe câu chuyện người ta đã cho tôi hay về việc đón tiếp long trọng mà nước Pháp đã dành cho Nga hoàng: “A, bao nhiêu cái đó không làm con quáng mắt đâu, xin hãy nói cho con nghe về Chúa, về gương các thánh, về những gì là chân thật...”. 4-IX - Người ta dọn cho Chị mấy miếng thịt, Chị nói: “Con rất hài lòng vì con thấy chán thịt như chán các thứ khác, bởi vì ít ra khi ăn, con chẳng thấy chi hứng thú cả. “Giá Mẹ biết con bình thản biết bao khi nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa con sẽ về trời. Tuy con sung sướng, nhưng không thể nói được là con thật vui và lòng tràn đầy hoan lạc, không phải thế”. - Vậy ra cho thích chết hơn là sống ư? “Ôi thưa Mẹ yêu dấu, con xin nhắc lại với Mẹ một lần nữa là không, con không thích bên nào hơn cả. Cái Chúa thích hơn và chọn cho con thì con cũng thích cái đó hơn”. - Nếu ai bảo con rằng con sẽ chết tức thì ngay lúc này thì con có sợ hãi không? “Không sợ chút nào, con sẽ sung sướng biết bao được bỏ cõi đất này!” - Vậy nếu con khoẻ lại thì hẳn con chán lắm nhỉ? “Không đâu, chẳng chán chút nào cả. Nếu con được khỏi, hẳn là thiên hạ sẽ nhìn con với cặp mắt ngạc nhiên, và con, con sẽ nói: Con rất hài lòng được khỏi bệnh để con được phụng sự Chúa nơi dương thế này, vì đó là ý Chúa. Con đã chịu đau đớn dường như con phải chết vậy. Vâng, con sẽ bắt đầu lại một lần nữa!” - Tôi lưu ý Chị rằng trong khi tôi ở bên Chị thì Chị bớt đau hơn. “Ồ! Vẫn thế!... Đau nhiều, nhiều lắm! Nhưng con đã than vãn với Đức Mẹ...”. 6-IX - Hôm ấy nhà Dòng nhận được Thánh tích của thánh Ven (Théophane Venard). Chị đón nhận Thánh tích ấy với đôi mắt mờ lệ vì vui sướng. Trọn buổi xế trưa, Chị đã tỏ ra dễ mến và vui tươi bằng đủ mọi cách. Tôi bảo Chị: Mẹ để ý thấy: hễ khi nào con có thể thì con lại tỏ ra dễ mến và vui tươi như khi khoẻ mạnh. “A! Đúng lắm! Vâng, khi nào có thể, con đều hết sức tỏ ra vui vẻ để làm vui lòng người khác”. 8-IX - Để mừng ngày kỷ niệm lễ Tuyên khấn của Chị, người ta mang cho Chị một bó hoa đồng nội; hơn nữa, trong ngày, có một chú chim cổ đỏ nhỏ bay vào phòng bệnh nhảy, hót trên giường Chị. Những cảnh tượng nhỏ mọn đó đã làm Chị cảm động và Chị giải thích lý do khiến Chị cảm động như sau: “Con cảm động vì Chúa đã đối xứ với con nhã nhặn quá; bề ngoài, con được thật đầy đủ. Tuy nhiên, bên trong, con vẫn luôn luôn bị thử thách, nhưng con hằng được an bình!” 9-IX “A! Con biết thế nào là đau khổ rồi!” 11-IX “Con lo ngại vì đã sợ chết! Nhưng chết rồi sẽ ra sao, thì con lại không sợ và không luyến tiếc gì cuộc đời cả, con hơi lo ngại tự bảo mình rằng: Hồn và xác lìa nhau thế nào, bí nhiệm quá nhỉ?... Lần thứ nhất con cảm thấy như thế, nhưng con liền phó thác con cho Chúa ngay. “Xin Mẹ đưa ảnh thánh giá cho con hôn sau khi được kinh Ăn năn tội để lãnh ơn toàn xá chỉ cho các linh hồn trong luyện ngục. Con chỉ có thế để dâng cho các linh hồn ấy thôi! “Con có phải sợ ma quỷ không? Hình như là không, vì con đều làm mọi việc vì vâng lời cả”. - Chị đã kết hai vòng triều thiên bằng hoa cây mua cho tượng “Đức Mẹ mỉm cười”. Một đặt ở chân và một đặt ở tay tượng. Tôi bảo Chị trong khi chỉ chiếc triều thiên ở tay tượng: Chắc là em tưởng rằng chiếc triều thiên này đã được dành cho em phải không?... “Ồ không, Đức Mẹ sẽ làm gì tuy ý Ngài. Con dâng triều thiên cho Ngài là để làm vui lòng Ngài thôi...”. - Sau đó Chị còn nhắc lại: “Con không ước mong được xem thấy Chúa trên mặt đất này! Không đâu, tuy nhiên, con yêu mến Người lắm! Con cũng yêu mến Đức Mẹ và các thánh nhiều, mà con cũng không ước ao được xem thấy các Đấng ấy. Con thích sống bằng đức tin hơn”. - Một chị Nhà Tập muốn cho Chị được giải trí nên đã đem cho Chị một cuốn sách có nhiều ảnh đẹp gồm nhiều truyện giải trí, nhưng Chị từ chối và nói: “Làm sao chị lại nghĩ rằng cuốn sách này có thể làm tôi hứng thú được! Tôi đã quá gần cõi đời đời của tôi rồi, không còn muốn tiêu khiển với những trò lặt vặt này nữa...”. 13-IX - Có người đem cho Chị bó hoa đồng thảo. “A! Hoa đồng thảo thơm quá...!” - Rồi Chị làm hiệu cho tôi xem Chị có thể ngửi hương thơm của hoa ấy mà không mấy hy sinh chăng. 14-IX - Người ta cho Chị một đoá hồng đẹp hái trong sân chơi. Chị bứt những cánh hoa và để rụng trên ảnh Chuộc Tội với lòng sốt sắng và yêu mến, rồi Chị lại cầm từng cánh hoa một để lau các thương tích Chúa. “Trong tháng chín - Chị nói - Têrêsa nhỏ còn ngắt cho Chúa Giêsu đoá hoa hồng xuân: Ngắt cho Chúa đoá hoa hồng xuân, Con muốn lau sạch giọt lệ Chúa!” - Và vì có những cánh hoa rơi xuống sân phòng bệnh, Chị bảo: “Các chị yêu dấu, các chị hãy nhặt lấy những cánh hoa này, chúng sẽ làm cho nhiều người được sung sướng. Đừng để mất cánh hoa nào hết.... “A, bây giờ con hy vọng lắm, cuộc lưu đày của con sẽ ngắn ngủi”. - Bác sĩ quyết với Chị rằng: Chị sẽ không hấp hối đâu và vì Chị cứ ngày ngày càng đau đớn hơn. Chị than thở: “Tuy người ta bảo con không hấp hối, nhưng rút cuộc con sẵn sàng chịu một lần”. - Nếu người ta bảo con chọn hoặc là phải hấp hối hoặc là không phải hấp hối thì sao? “Con sẽ không chọn chi hết”. 15-IX - Tôi bảo Chị: Khi nào con về trời thì những đau khổ lớn lao ngay ngày hôm nay đối với con sẽ chẳng nghĩa lý gì hết. Chị đáp: “Ồ, ngay trên trần gian này con cũng thấy rằng những đau khổ này chưa thấm vào đâu...”. - Giờ giải trí buổi tối, Chị bảo tôi: “Hồi chiều, con nghe người ta trả lời cho một chị hỏi thăm tin tức rằng: ‘Chị ấy mệt lắm’. Bây giờ con tự nghĩ: Thật thế, đúng như vậy! Vâng, con như một lữ khách mỏi mệt, bơ phò, ngã quỵ khi đến chặng đường cuối cùng! “Đúng thế, nhưng con đã ngã trong tay Chúa nhân lành...!” 16-IX - Chị đáp lại nhiều điều tôi đã bàn hỏi với Chị: “Chúa sẽ ban ánh sáng và sức hộ vực để hướng dẫn và an ủi các linh hồn một khi họ không kể lể những ưu sầu khổ não riêng của mình để được vơi đi phần nào; và lại kể lể như thế nỗi sầu khổ cũng chẳng thật vơi đi đâu, chỉ tổ khuấy nó lên thay vì làm cho nó lắng xuống”. 17-IX - Chúng tôi tỏ cho Chị hãy nỗi sầu buồn của chúng tôi vì thấy bệnh trạng của Chị cứ nặng thêm mãi. “Ở bên người đau yếu thì phải tỏ ra vui vẻ mới được! Không nên than khóc như những trẻ không hy vọng... Nếu cứ thế các chị sẽ làm cho em luyến tiếc cuộc đời đấy”. - Ồ! Nếu thế thì các chị có lỗi lắm! Rồi với giọng tinh nghịch: “Thật thế đấy... Em nói vậy cho các chị được một bữa hú vía mà”. 20-IX - Y sĩ ca tụng sức nhẫn nhục anh hùng của Chị: “... Làm thế nào mà ông ấy có thể bảo rằng con nhẫn nhục! Thế là nói dối!... Con không ngớt rên rẩm, than vãn và kêu lên: Ôi lạy Chúa! Ôi lạy Chúa! Con không thể chịu được nữa, xin thương xót!... Xin hãy thương xót con!” 22-IX - Tôi bảo Chị: Con yêu dấu của Mẹ ơi! Mẹ thấy con đau đớn quá mà bề ngoài các thánh như bỏ con. Con kêu cầu các ngài mà các ngài không đến tìm con. “Ồ! Dù vậy con vẫn mến các Đấng ấy lắm! Các Đấng ấy muốn xem con tin tưởng đến mức nào...”. - Sau khi đã nhắc lại nhiều trường hợp của Chị trong Dòng, những trường hợp Chị phải chịu nhiều nhục nhã, tôi tiếp thêm: Ôi, biết bao nhiêu lần Mẹ thương con quá! “Con dám cam đoan với Mẹ là Mẹ không đến nỗi phải tội nghiệp cho con. Hồn con bay lên cao hơn tất cả mọi sự đến nỗi chịu sỉ nhục, nó càng thêm mạnh sức. Gặp phải lửa, chẳng ai gan bằng con...”. 24-IX - Trong dịp kỷ niệm lễ lãnh lúp của Chị, tôi đã xin được cha làm lễ cầu cho Chị. Chị cảm ơn tôi: nhưng vì tôi thấy Chị đau đớn quá, tôi buồn sầu bảo Chị: thế mà con chẳng bớt đau chi cả. Chị đáp lại: “Thế là để con được bớt đau mà Mẹ xin lễ cho con sao?” - Đề mưu ích cho con. “Ích lợi của con ý à, chắc có lẽ là ở đau khổ rồi... Chẳng bao lâu nữa, con sẽ chỉ nói tiếng các thiên thần mà thôi”. - Con có trực giác được cái chết sắp đến của con không? “Thưa Mẹ! Những trực giác ư... Giá Mẹ biết được con nghèo nàn đến thế nào nhỉ! Điều mà Mẹ biết thì con chẳng biết tí gì hết... Con không đoán gì ngoài cái con nhìn và cảm thấy. Còn linh hồn con, mặc dầu bị tối tăm che phủ, thì cũng vẫn được an bình lạ thường”. - Không bao giờ con tỏ ra mệt nhọc vì đau đớn, nhưng thực sự con lại không thấy mỏi mệt ít là một chút ư...? “Không đâu! Hễ khi nào con không thể chịu được nữa thì con không thể chịu được nữa có thế thôi!” - Con sẽ lên trời giữa các Đấng thiên thần Séraphim! “A! Nếu con lên trời, con sẽ không bắt chước các Đấng ấy. Tất cả đều khép cánh che mình lại trước mặt Chúa. Còn con, con sẽ không lấy cánh mà che mình đâu”. 25-IX - Tôi thuật lại cho Chị những điều đã nói trong giờ giải trí về trách nhiệm của những kẻ dẫn dắt các linh hồn và của những kẻ sống lâu. Chị bảo tôi: “Đối với những trẻ nhỏ, chúng sẽ được đoán xét với một lòng dịu hiền tột bậc... Và rất có thể sống bé nhỏ, dù phải gánh vách những trách nhiệm kinh khủng nhất, dù phải sống rất lâu. “Nếu con sống đến 80 tuổi mới chết, nếu con đã sống trong nhiều tu viện, gánh nhiều trọng trách thì con thấy rằng con vẫn cứ sống bé nhỏ như ngay ngày hôm nay. Và có lời rằng: Sau cùng Chúa sẽ đứng dậy cứu vớt tất cả những ai hiền lành và khiêm nhường nơi dương thế. Không thấy nói rằng xét xử mà lại nói là cứu vớt”. - Một hôm trong những ngày cuối đời, bị đau đớn đến cực điểm, Chị nói với tôi trong lo âu rằng: “Ôi thưa Mẹ, tả rõ thật hay về sầu khổ thì có nghĩa gì! Vô ích! Phải chịu đau khổ thì mới biết được những lời hăng hái đó có giá trị thế nào...”. - Qua câu nói đó tôi đã ghi tạc một kỷ niệm chua xót là ngày hôm sau ấy, 24 tháng 9, như nhớ lại những điều Chị đã nói với tôi, Chị nhìn tôi với một cái nhìn thật đặc biệt và thốt ra những lời này: “Giờ đây, con thấy rõ ràng rằng những gì con đã nói và đã viết đều thật cả... Đúng thật là con đã ước ao chịu đau khổ nhiều vì Chúa và cũng đúng thật là con còn ước ao chịu đau khổ nữa”. - Có người bảo Chị: Chà, Chị chiều nhiều đau đớn một cách khủng khiếp quá! “Không, không phải khủng khiếp đâu. Một hiến vật bé nhỏ của tình yêu không thể nào lại coi những gì Bạn Tình mình gởi cho là khủng khiếp...”. 27-IX - Một chị Nhà Tập đến phòng bệnh một lúc. Thấy Chị Thánh hết sức bình tĩnh và mạnh mẽ giữa những đau khổ vò xé. Chị Nhà Tập bảo: “Chị là một thiên thần hiền từ và nhẫn nại!” “Ồ đâu phải thế, tôi đâu có phải là thiên thần... Các thiên thần... Các thiên thần làm sao có thể chịu đau đớn được và các ngài cũng chẳng sướng bằng tôi cơ mà”. 28-IX “Tôi thiếu không khí ở trần gian! Bao giờ Chúa mới cho tôi không khí trên trời...”. - Trước ngày Chị qua đời. Từ sáng, Chị như hấp hối, Chị lên cơn suyễn rất nặng và không thể thở được. Đến trưa, Chị thưa Mẹ Bề trên rằng: “Thưa Mẹ, con hấp hối chăng? Con phải biết làm thế nào để chết? Con chưa bao giờ biết phải chết thế nào cả!...” - Tôi đọc cho Chị nghe bằng tiếng Pháp kinh nhật tụng lễ thánh Micae Tổng lãnh thiên thần và kinh của những người hấp hối, khi đọc tới chỗ các ma quỷ, Chị làm một cử điệu như của một đứa trẻ, như để đe doạ chúng và vừa mỉm cười vừa kêu lên: “Ô! Ô!...” - Với một giọng như muốn nói: “Tôi không sợ ma quỷ đâu!” - Bác sĩ thăm bệnh xong, Chị nói với mẹ bề trên: “Thưa Mẹ! Hôm nay chăng!” - Mẹ bề trên trả lời: Phải, hôm nay và chúng tôi cũng phụ hoạ: hôm nay hẳn là Chúa phải vui mừng lắm! Chị kêu lên một cách can đảm: “Con cũng vui mừng nữa!” “... Giá mà con chết ngay bây giờ thì hạnh phúc biết bao”. - Sau trưa: “Con không thể chịu được nữa! Ôi, xin cầu nguyện cho con! Nếu Mẹ mà biết được...”. - Với chị Geneviève de la Sainte-Face đến xin Chị một lời vĩnh biệt: “Em đã nói cả rồi... mọi sự đều hoàn tất. Chỉ có Tình ái là đáng kể thôi”. - Sau giờ Kinh Sách, Chị đau đớn như chịu một cuộc tử đạo thực sự, hai tay chắp lại, với giọng êm ái và than van Chị lẩm bẩm: “Vâng, lạy Chúa, vâng, lạy Chúa! Con sẵn sàng cả rồi!” - Con đau đớn dữ dội lắm phải không? Mẹ Bề trên hỏi: “Không, thưa Mẹ, không dữ dội, nhưng nhiều, nhiều lắm... đúng mức con có thể chịu nổi...”. - Chị xin để Chị một mình qua đêm đó, nhưng mẹ bề trên không muốn cho. Chị Marie du Sacré-Coeur và chị Geneviève de la Sainte-Face cắt lượt nhau canh thức với Chị.
- Sáng nay, tôi canh Chị trong khi thánh lễ cử hành. Chị không hề nói một tiếng. Chị đã kiệt lực thở hổn hển. Tôi đoán rằng những đau đớn đang vò xé Chị thật không thể tả nổi. Chị chắp tay lại một lúc và nhìn tượng Đức Mẹ đặt đối diện với giường: “Ôi, con đã cầu xin Ngài rất sốt sắng! Thật hoàn toàn là một cơn hấp hối, không còn pha một chút an ủi nào...”. - Có thể nói rằng, suốt ngày Chị lúc nào cũng sống trong đau khổ. Chị như không còn chút hơi sức nào, thế mà thật lạ lùng quá. Chị lại có thể nhúc nhích và ngồi dậy: “Thưa Mẹ, Mẹ xem, hôm nay con khoẻ chưa, không, con không sắp chết đâu. Có lẽ con sẽ còn sống nhiều tháng nữa. Con không tin rằng con sẽ chết nữa, con chỉ tin rằng con sẽ phải chịu đau khổ thôi!... Ngày mai sẽ còn tệ hơn nữa... “Nhưng, được thế càng hay! “Ôi, lạy Chúa!... Con yêu Chúa, Chúa nhân từ... “Ôi, lạy Mẹ nhân lành, xin đến cứu con! “Nếu thế này là hấp hối thì chết nó sẽ ra làm sao?! “Ôi thưa Mẹ, con cam đoan với Mẹ rằng: chén đắng đã đầy đến tận miệng. Nhưng Chúa sẽ không bỏ con... Người đã không bao giờ bỏ con!... “Vâng lạy Chúa, tất cả những gì Chúa muốn, nhưng hãy thương xót con!... “Các chị ơi! Các chị yêu dấu ơi, hãy cầu nguyện cho em đi!... “Lạy Chúa! Lạy Chúa, Chúa là Đấng rất nhân từ!!! Ôi! Vâng, Chúa nhân từ! Con biết thế lắm...”. - Vào khoảng 3 giờ, Chị đặt tay theo hình thánh giá, Mẹ bề trên đặt trên gối Chị một mẫu anh Đức Bà núi Camêlô. Chị nhìn mẫu ảnh đó một lúc: “Ôi thưa Mẹ, xin Mẹ hãy mau mau dâng con cho Đức Mẹ. Xin hãy giúp con dọn mình chết”. - Mẹ bề trên đáp lại Chị rằng: Vì Chị đã luôn luôn hiểu và thực hành đức khiêm nhường nên Chị đã dọn mình chết rồi. Nghĩ một lúc, đoạn Chị khiêm tốn nói những lời sau đây: “Vâng, con thấy hình như không bao giờ con đã tìm gì khác ngoài chân lý... Vâng, con đã hiểu thế nào là khiêm nhường thật trong lòng”. - Chị còn nhắc lại: “Tất cả những gì con đã viết về sự ước ao chịu đau khổ của con. Ôi! Đều thật cả!” - Và với một sự xác tín mãnh liệt: “Con không phàn nàn vì đã tận hiến cho Tình yêu”. - Từ lúc đó, hình như không phải chỉ một mình Chị chịu đau khổ nữa. Nhiều lần, khi nhìn Chị, tôi lại tưởng tới các thánh tử đạo phó mình cho đao phủ, nhưng các ngài được một sức mạnh linh thiêng phấn khích. Chị lặp lại cách nồng nhiệt: “Ồ! Không, tôi không phàn nàn vì đã tận hiến cho Tình yêu, trái lại!...” - Sau đó một chút, Chị nói: “Con không bao giờ ngờ lại có thể chịu đau đớn được đến thế! Không bao giờ! Không bao giờ! Con chỉ có thể hiểu điều đó vì lòng ước ao nồng nhiệt muốn cứu vớt các linh hồn...”. - Nói trong thống khổ: “Con không thể thở được, con không thể chết được...”. - Nhưng với giọng chịu đựng: “Con sẵn sàng chịu đau đớn hơn nữa! “Những ước vọng bé nhỏ nhất của con đã được thực hiện... Còn ước vọng lớn lao nhất: Chết vì yêu mến, rồi sẽ phải được thực hiện...”. - Quãng 5 giờ, tôi một mình ở bên Chị, nét mặt Chị bỗng biến đổi: Cơn hấp hối bắt đầu. Khi cộng đoàn vào bệnh xá, Chị chào đón tất cả các chị với một nụ cười hiền dịu, Chị cầm và hằng nhìn ngắm thánh giá. Trong hơn hai giờ đồng hồ, cơn suyễn kinh khủng vò xé buồng phổi Chị, nét mặt của Chị bị xung huyết đỏ bừng, tay hơi tím lại, chân lạnh ngắt, tứ chi run rẩy. Mồ hôi toát ra đầm đìa trên trán rồi chảy tuôn xuống mặt Chị. Cơn nghẹt thở, mỗi lúc càng mạnh hơn, buộc Chị phải thốt ra những tiếng rên nho nhỏ ngoài ý muốn để hít hơi vào. Miệng Chị hình như bị khô khốc, để làm dịu cơn khô, Chị Geneviève Nhan Thánh nghĩ phải đặt trên môi chị một cục nước đá nhỏ. Không ai quên cái nhìn và nụ cười thiên giới của Chị thánh nhỏ của chúng ta với “Céline” trong lúc đó. Đó như một khích lệ thâm sâu, một lời từ biệt cuối cùng. Quãng 6 giờ, khi đổ chuông nhật một, Chị đưa cặp mắt khẩn cầu hướng về ảnh tượng Đức Nữ đồng trinh. Quãng 7 giờ qua vài phút, Mẹ bề trên tưởng tình trạng của Chị đứng lại đó, nên cho cộng đoàn giải tán. Chị than: “Mẹ ơi, đây chưa phải là cơn hấp hối sao! Con chưa sắp chết sao?...” - Phải, chính là cơn hấp hối đó con, nhưng có lẽ Thiên Chúa tốt lành muốn nó kéo dài thêm vài giờ nữa... Chị đáp lại với một sự can đảm: “Vậy!... Được, được. Ôi! Con không muốn đau khổ ít kéo dài hơn!” Và nhìn ảnh Chuộc Tội của chị: “Ôi! Con yêu ảnh Chuộc Tội của con!... Lạy Chúa!... Con... yêu mến... Chúa!!!...” Ngay khi vừa thốt ra những lời đó, Chị hơi ngửa về đằng sau, đầu nghiêng về bên phải. chúng tôi tưởng rằng Chị đã qua khỏi và Mẹ bề trên vội bảo kéo chuông ở bệnh xá để tập họp cộng đoàn. “Mở tất cả các cửa ra”, Mẹ nói (bệnh xá có tất cả 3 cửa ra vào). Lúc đó, lời ấy đượm một sức gì thật trang trọng và tôi nghĩ trên trời, Chúa cũng đang truyền lời đó cho các thiên thần. Các chị tới kịp, quỳ gối quanh giường và được chứng kiến giây phút xuất thần cuối cùng đó. mặt của Chị Thánh chúng tôi trở lại vẻ tươi như hoa huệ, y như khoẻ mạnh, đôi mắt hướng về trời, bừng sáng và nói lên một sự ca ngợi vượt hết mọi hy vọng của Chị. Đầu Chị làm vài cử động dường như người bị nhiều mũi tên tình yêu của Chúa bắn vào. Ngay sau cơn xuất thần ấy - lâu chừng đọc một kinh Tín Kính - Chị nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng. Trong khi chết, Chị Thánh Nhỏ của chúng tôi miệng còn giữ nụ cười khôn tả và một vẻ đẹp huy hoàng. Chị siết chặt ảnh Chuộc Tội đến nỗi khi liệm phải gỡ ra mới được. Chị Marie du Sacré Coeur và tôi đã hoàn tất công tác liệm Chị Thánh với chị chị Aimée de Jesus một cựu y tá và chúng tôi thấy bấy giờ Chị Thánh trông rất trẻ trung đến nỗi người ta bảo Chị chỉ mới độ 12, 13 cái xuân xanh. Trái lại, sau này khi Chị được đem đặt ở ca triều, nét mặt Chị trở nên oai nghiêm. Chân tay Chị còn mềm mại cho tới ngày hạ huyệt là ngày 4 tháng 10 năm 1897. Tôi xin lưu ý hai trường hợp khác nữa xảy ra trong chiều ngày 30 tháng 9 này: Trong suốt cơn hấp hối lâu dài của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, có một đàn chim nhỏ rất đông như đã hẹn gặp nhau ở cửa bệnh xá trên một cây gần ngay cửa sổ đang mở tung. Đàn chim say sưa hót líu lo cho tới khi Chị Thánh tắt thở mới thôi. Chúng tôi chưa bao giờ được nghe một cuộc hợp tấu như vậy ở vườn này. Tôi thấy trào lên một cảm tưởng nặng nề vì cái tương phản giữa những cơn đau đớn như đứt ruột nát gan ấy với những cung nhạc bổng trầm vui tươi. Có một chị sống lâu trong dòng đôi khi không hiểu Têrêsa mấy, bấy giờ cảm động bảo tôi: Thưa Mẹ, Mẹ có để ý những tiếng chim líu lo đó không? Con cam đoan với Mẹ, đó là một sự kiện phi thường! Hơn nữa, trong khi đau yếu, Chị Thánh chúng tôi có đoan quyết rằng: ngày Chị lìa trần, bầu trời sẽ trong sáng. Mà suốt ngày 30 tháng 9 trời tối sầm và mưa rả rích, nhưng vào 7 giờ tối, các đám mây như vội vàng tan biếng nhường chỗ cho trăm ngàn tinh tú lấp lánh trong một bầu trời thanh quang. Soeur Agnès de Jésus r.c.t
Lạy Chúa, để sượng sống hoàn toàn trong tình yêu, con xin tận hiến như Của Lễ Toàn Thiêu cho tình yêu lân tuất Chúa, xin Chúa thiêu huỷ con luôn, xin làm cho hồn con tràn ngập sóng yêu đương vô biên súc tích trong Chúa và như vậy. Lạy Chúa, con được trở nên tử đạo cho tình yêu Chúa. Ước chi sư tử đạo này, sau khi đã chuẩn bị cho con ra trước toà Chúa, đưa con về cõi chết và ước gì linh hồn con bay ngay về tình yêu lân tuất vĩnh cửu Chúa! Lạy Đấng Chí Ái, con muốn dâng lại của lễ này hằng ngày, hằng phút vô vàn lần cho đến khi những bóng tối biến tan, và con có thể mặt giáp mặt nhắc lại tình yêu của con đối với Chúa cho đến muôn đời! MARIA PHANXICÔ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU và của THÁNH NHAN Nữ tu sĩ bất xứng. Ngày lễ Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, 9/6/1895, năm đầy ân sủng
ÂN XÁ 1. Mỗi lần đọc kinh này mà có lòng sốt sắng ăn năn thì sẽ được một ơn tiểu xá 300 ngày. 2. Nếu ngày nào cũng đọc kinh này suốt một tháng liền và với những điều kiện vẫn quen (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng) thì sẽ được một ơn đại xá. Ban hành tại Lamã tại Thánh bộ Xá giải ngày 31/7/1923.
(Soạn cho một chị Nhà Tập) Ôi Chúa Giêsu, khi còn là một lữ khách trên cõi trần gian, Chúa đã nói: Hãy đọc biết Cha hiền lành và khiêm nhường trong lòng và các người sẽ tìm thấy sự an nghỉ cho linh hồn. Vâng, lạy Vua quyền phép cõi trời, linh hồn con tìm được sự an nghỉ khi thấy Chúa mặc lấy thân hình và bản tính tôi đòi, Chúa hạ mình xuống rửa chân cho các tông đồ. Con còn nhớ những lời Chúa đã thốt ra để dạy con thực hành đức khiêm nhường “Thầy đã làm gương cho chúng con để chúng con cũng làm cho nhau những điều Thầy đã làm. Môn đệ không cao trọng hơn Thầy đâu... Nếu chúng con hiểu điều này, chúng con sẽ được hạnh phúc trong khi thực hành những điều đó. Lạy Chúa, con hiểu những lời đã phát ra tự trái tim hiền hậu và khiêm nhường Chúa, với ơn Chúa giúp con muốn thực hành những lời đó. Con muốn khiêm nhường hạ mình xuống khuất phục ý con theo ý các chị em, không làm trái ý các chị điều gì và cũng không tìm hiểu xem các chị có quyền đòi hỏi hay không. Lạy Đấng Chí Ái, không ai có quyền đòi hỏi Chúa, thế mà Chúa đã vâng phục không những Mẹ Maria, thánh Giuse mà cả những tên lý hình. Giờ đây, trong Bánh Thánh con thấy Chúa tự huỷ bỏ mình đi nhiều quá. Lạy Vua vinh hiển, Chúa vâng phục mọi linh mục không phân biệt những vị yêu Chúa với những người, than ôi, hững hờ hay lạnh nhạt trong việc phụng sự Chúa. Các ngài có thể mau mắn hay chậm chạp trong giờ dâng lễ, Chúa vẫn luôn luôn sẵn sàng từ bỏ cõi trời ngự xuống theo lời kêu mời của họ. Lạy Đấng Chí Ái, dưới hình bánh trắng, Chúa tỏ ra hiền lành và có lòng khiêm nhường với con dường nào! Để dạy con đức khiêm nhường Chúa không thể hạ mình xuống hơn được nữa. Cho nên để đáp lại tình yêu Chúa, con cũng muốn hạ mình xuống hàng thấp hèn nhất, tham dự vào những hèn hạ của Chúa để được chung phần với Chúa trên Nước Trời. Lạy Chúa Giêsu, con khẩn xin Chúa hãy gởi sỉ nhục đến cho con mỗi lần con muốn nâng con lên trên những người khác. Nhưng lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biết sức con yếu đuối; mỗi buổi mai con nhất quyết tập đức khiêm nhường, nhưng chiều đến con lại nhận thấy con đã phạm bao nhiêu tội kiêu căng. Thấy thế, con như muốn thất đảm nhưng con biết sự thất đảm cũng là một hình thức kiêu ngạo. Vậy lạy Chúa, con muốn đặt niềm cậy trông vào một mình Chúa, vì Chúa có thể làm được mọi sự, xin làm nẩy nở nhân đức con ước ao trong linh hồn con. Để được ân huệ của lòng lân tuất vô biên đó con sẽ luôn luôn nhắc lại cùng Chúa rằng: Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin làm cho trái tim con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa tất cả mọi việc con sẽ làm ngay ngày hôm nay có ý để tôn vinh danh cho Trái Tim Cực Thánh Chúa, con muốn thánh hoá những nhịp đập của con tim, những tư tưởng cùng với những công việc đơn giản nhất của con; liên kết chúng với những công nghiệp vô cùng, con cũng muốn sửa mọi lỗi lầm của con trong lò lửa Tình Ái luân tuất Chúa. Lạy Chúa, con xin Chúa cho con và cho những người thân yêu của con được ơn chu toàn thánh ý Chúa, vì tình yêu Chúa cho chúng con lãnh nhận tất cả những nỗi hân hoan, đắng cay đời tạm này để một ngày kia chúng con cùng nhau sum họp trên quê trời muôn thuở. Amen.
Kinh cầu nguyện lễ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu Lạy Chúa, Chúa đã phán: Nếu chúng con không trở nên giống như con trẻ, chúng con không được vào Nước Trời, chúng con nài xin Chúa cho chúng con được trung thành noi theo con đường khiêm nhường đơn sơ của thánh Têrêsa để chúng con đáng được chung phần thưởng vĩnh cửu với Người. Kinh kính thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và để nhờ Người làm trung gian xin cảm ơn Lạy Cha các tầng trời, nhờ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Chúa muốn nhắc lại cho thế gian biết tình yêu lân tuất tràn đầy Trái Tim Chúa và lòng tin tưởng con cái loài người phải có đối với Chúa, chúng con khiêm nhường cảm tạ Chúa đã ban cho Chị Thánh thơ ấu trung thành của Chúa bao nhiêu vinh dự và Chúa đã ban cho Ngài một thế lực phi thường để hằng ngày lôi kéo về cho Chúa một số lớn các linh hồn hầu có người ca ngợi Chúa đời đời. Thánh nữ Têrêsa bé nhỏ! Xin hãy nhớ lời Chị đã hứa là Chị sẽ làm ơn cho thế gian, xin Chị hãy đổ mưa hoa hồng chan hoà xuống cho những người kêu cầu Chị và xin Chúa ban cho chúng em (tôi) được những ơn chúng em (tôi) trông đợi nơi lòng nhân từ vô biên Chúa. Lạy Chúa, Chúa đã dùng Chúa Thánh Thần, tình yêu thiêu đố tâm hồn thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, xin cho chúng con cũng được yêu Chúa và làm cho nhiều người yêu Chúa. Amen.