Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 1-50 Vâng lời Thầy con xin thả lưới

Thứ hai - 06/05/2019 07:02
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 1-50 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 1-50 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-C Bài 1-50 Vâng lời Thầy con xin thả lưới
----------------------------------------
Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}: "Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô,
Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".] - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------------------------
PS 3-C1. CÓ CHÚA NÂNG ĐỠ.. 2
PS 3-C2. HRK/102- HIỆN RA.. 5
PS 3-C3. NTGT/127- SỐNG LẠI 7
PS 3-C4. CSTM/109- LÀM CHỨNG.. 9
PS 3-C5. PV/246- VÌ CHÚA.. 12
PS 3-C6. PV/249- TIẾNG GỌI 13
PS 3-C7. SCĐ/255- TÌNH YÊU.. 15
PS 3-C8. SCĐ/257- THỦ LÃNH.. 16
PS 3-C9. SCĐ/259- TÌNH YÊU.. 18
PS 3-C10. SCĐ/263- ĐỪNG XÓA SỔ.. 20
PS 3-C11. CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ.. 21
PS 3-C12. Ông Ấy Không Biết Mình Có Sức Mạnh Như Vậy. 23
PS 3-C13. Chúa đó. 25
PS 3-C14. Hai Cảnh Bên Bếp Than Hồng - Nhóm Đồng Hành. 28
PS 3-C15. NIỀM VUI PHỤC SINH – Lm. Bùi quang Tuấn. 29
PS 3-C16. SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH.. 31
PS 3-C17. PHÊRÔ, ANH CÓ YÊU MẾN THẦY KHÔNG?. 34
PS 3-C18. Chúa đó – Lm. Jos. Nguyễn hưng Lợi 37
PS 3-C19. Cậy dựa vào quyền năng Chúa- Lm. Trần bình Trọng. 38
PS 3-C20: Tin và yêu là điều kiện để nhận ra Chúa. 40
PS 3-C21: Đánh bắt các linh hồn. 44
PS 3-C22: Anh có mên Thầy không ?. 52
PS 3-C23: Chúng tôi cùng đi với anh. 54
PS 3-C24: Thời gian dành cho sứ mạng các Tông Đồ. 56
PS 3-C25: Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần. 59
PS 3-C26: Anh là Phêro nghĩa là tảng đá. 61
PS 3-C27: Can đảm làm chứng cho Chúa. 64
PS 3-C28: Cần hai điếu. 69
PS 3-C29: Sinh hoạt của dận mới 71
PS 3-C30: Vị thủ lãnh “Nhát Gan”. 74
PS 3-C31: KHÁCH SẠN HILTON HÀ NỘI - Mark Link S.J. 78
PS 3-C32: CHÚA GIÊSU YÊU CHÚNG TA QUA THA NHÂN.. 80
PS 3-C33: HAI MÔN ĐỆ EMMAU.. 82
PS 3-C34: ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH VẪN HIỆN DIỆN.. 83
PS 3-C35: CHÚA HIỆN RA BÊN BỜ HỒ TIBÊRIAT.. 88
PS 3-C36: ĐỨC VÂNG LỜI 92
PS 3-C37: CHÚA GIÊSU HIỆN DIỆN GIỮA CUỘC SỐNG CHÚNG TA.. 97
PS 3-C38: ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH CHÚA KITÔ. 98
PS 3-C39: Cho dẫu Phêrô có chối Chúa, Chúa vẫn không loại bỏ. 102
PS 3-C40: Là sự can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục sinh. 105
PS 3-C41: Vận mạng tương lai của Giáo Hội 107
PS 3-C42: Một phép lạ kỳ diệu. 109
PS 3-C43: KHÔNG CÓ CHÚA GIÊ-SU CHÚNG TA KHÔNG LÀM GÌ ĐƯỢC.. 112
PS 3-C44: THẦY ĐẤY – VIKINI 113
PS 3-C45: VỚI CHÚA.. 115
PS 3-C46: NHẬN RA CHÚA - MNSCMN/67. 118
PS 3-C47: ĐỨC TIN - SNTMCN/87. 119
PS 3-C48: Việc các Tông Đồ chữa lành cho một số bệnh nhân. 120
PS 3-C49: SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI PHỤC SINH.. 123
PS 3-C50: YÊU MÊN THIÊN CHÚA.. 125

--------------------------------

 

PS 3-C1. CÓ CHÚA NÂNG ĐỠ

 

Phần lớn các tông đồ đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Hôm được nhiều, hôm được ít và có: PS 3-C1


Phần lớn các tông đồ đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Hôm được nhiều, hôm được ít và có hôm chẳng được gì. Đó cũng là kinh nghiệm sống vốn thường xảy ra cho chúng ta.

Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã suy nghĩ, đã cân nhắc, đã cố gắng hết sức, thế mà vẫn cứ thất bại. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là thái độ của chúng ta  trước những thất bại.

Thực vậy, trước những thất bại gặp phải, có những kẻ nản lòng và thối chí, nhưng cũng có những người vẫn kiên trì theo đuổi, vì họ nghĩ rằng:

- Thua keo nay, ta bày keo khác.
- Thất bại là mẹ thành công…

Và sự kiên trì nhiều khi đã xoay ngược tình thế, mà đem lại những thành quả tốt đẹp.

Ông Schmitt, thuở còn là thanh niên, đã bán tất cả gia tài, sang Mỹ tìm vàng. Tìm mãi tìm hoài mà vẫn chẳng thấy. Tiền bạc thì mỗi lúc một cạn, còn đói khổ và cực nhọc thì cứ mỗi ngày một gia tăng. Chịu không nổi, nhiều người đã bỏ cuộc.

Trong khi đó, ông ta vẫn miệt mài tìm kiếm và sau cùng ông đã thấy được những dấu vết của vàng trong lòng một ngọn núi. Ông kêu gọi mỏi người góp vốn, nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Không thất vọng, ông ta tiếp tục làm việc. Sau ba mươi hai năm vất vả, ông đã trở thành một nhà tỷ phú.

Thất bại trong cuộc sống là một sự kiện bình  thường, như ca dao Việt Nam đã nói:

- Cơm sôi cả lửa thì khê,

  Việc làm hay hỏng, là lề thế gian.

Sự thành công có được một phần do kiên trì chịu đựng và cố gắng:

- Ai ơi giữ chí cho bền,

  Dù ai xoay hướng, đổi nghề mặc ai.

Thế nhưng, kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy được một sự thật khác nữa, đó là với sức riêng, khi thì chúng ta thất bại, khi thì chúng ta thành công, Chẳng ai thất bại hoài và cũng chẳng ai thành công mãi. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ thành công dù bên ngoài xem ra như không có thể.

Thực vậy, các tông đồ đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, vâng lời Chúa, các ông đã ra khơi thả lưới, và lập tức đã có được một một mẻ cá lạ lùng. Thất bại đã trở nên thành công, khó hóa  thành dễ và không có thể đã biến thành có thể.

Tìm tưởng vào mình đã đành, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, bởi vì như lời Chúa đã phán:

- Không có Thầy, các con không thể làm gì được.

Thánh Phaolô đã xác quyết:

- Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái.

Và người Việt Nam chúng ta cũng thường  nói:

- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.

Chẳng hạn khi làm ruộng, chúng ta phải dùng mọi phương thế tự nhiên như cày bừa, gieo xạ, xịt thuốc và bón phân…Tuy nhiên, lúa tốt và trúng còn lệ thuộc vào thời tiết, mưa thuận gió hòa. Việc này thì dường như ngoài tầm tay của chúng ta.

Chẳng hạn khi buôn bán, chúng ta phải điều nghiên thị trường, hàng tốt, giá cả phải chăng…Tuy nhiên, nếu gặp phải thời buổi loạn lạc, thì chắc hẳn số người đến mua cũng chẳng bao nhiêu.

Chẳng hạn khi lập gia đình, chúng ta phải tìm hiểu và bàn hỏi… Tuy nhiên, chẳng may sau khi cưới và chung sống với nhau, chúng ta mới thấy người mình yêu không giống với người mình mơ ước vì có quá nhiều khuyết điểm. Lúc đó phải làm sao đây ? Hôn nhân không giống  như một chiếc áo, vừa thì mặc, không vừa thì bỏ. Nhờ người này người nọ nhắc nhở bảo ban mà vẫn không chuyển biến. Nếu kéo lê cuộc tình như vậy suốt dọc cuộc đời thì qua là một gánh nặng.

Trong trường hợp như thế, vẫn còn có một phương thế đó là tin tưởng và phó thác cho Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự, như lời thánh vịnh đã xác quyết:

- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
  Thợ nềvất vả chỉ là uổng công.
  Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
  Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.

Hay như lời thánh Félix de Nole đã nói:

- Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Và chính Chúa cũng đã phán:

- Đối với Thiên Chúa, không việc gì là không có thể.

Tóm lại, trong mọi việc, chúng ta hãy sử dụng sử dụng hai phương tiện trơ giúp cho nhau, đó là  tự nhiên và siêu nhiên, đó là sức mình và ơn Chúa, nhờ đó mới bảo đảm được những thành quả tốt đẹp.

--------------------------------

 

PS 3-C2. HRK/102- HIỆN RA

 

Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh: PS 3-C2


Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội. Cộng đoàn là những kẻ tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế.

Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Ơn cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người là sự dấn thân của con người dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giao hòa con người với Thiên Chúa và với nhau.

Nơi bài đọc 1 trích từ sách Tông đồ Công vụ giúp chúng ta nhìn thấy thái độ mà các tông đồ phải đấu tranh, bị những người lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, bị những người lãnh đạo Do thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa.

Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha đã cho Chúa Kitô sống lại, Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài, làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi: “Về tất cả điều này chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng”.

Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên thái độ can đảm này. Thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Kitô và cho sự thật cứu rỗi của Ngài: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”.

Đọc và suy nghĩ về lời tuyên bố này của thánh Phêrô trong hoàn cảnh mà thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó phải trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những người lãnh đạo dân Do thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền mà lạm dụng quyền hành của họ để xen mình vào việc tôn giáo thì các tông đồ đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo.

Khi các vị lãnh đạo lạm dụng quyền của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn một trong hai thái độ là theo Chúa Kitô hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do thái thì chính lúc đó thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Kitô Phục sinh, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.

Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo, chứ không phải là một lời kêu gọi con người nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi, của những sự xấu, của những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau thì các tông đồ đã chọn sự tự do ấy, đó là việc rao giảng Tin Mừng giải phóng cho con người. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo kiểu nói ngày nay được hưởng sự tự do như đang được thì các ngài đâu cần phải xác nhận phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế Thiên Chúa được.

Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này làm sao chúng ta có thể nói là mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Thiên Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội để sống đúng địa vị con người, sống như là con cái Thiên Chúa và như là anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta không cần được sự nâng đỡ để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa và cuối cùng qua 20, 30 năm hay 100 đi nữa thì cũng sẽ phải trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.

Thái độ các tông đồ được trình bày trong bài đọc 1 của bài đọc hôm nay đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần không phải tự sức riêng các tông đồ, nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần làm chứng cho ơn Chúa, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không ?

Bài Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống hằng ngày, trở về với nghề chài lưới. Nhưng Chúa đến để kêu gọi họ trở về với ơn gọi tông đồ, đồng thời Ngài củng cố đức tin cho các tông đồ.

Điều gì đã xảy ra cho các ngài ? Từ đó Chúa đến củng cố các ngài nhờ một phép lạ và một bữa ăn; bữa ăn bổ sức trong tinh thần. Ước gì chúng ta cũng được củng cố như vậy trong Bí tích Thánh Thể, để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa, chứng nhân hữu hiệu trong mọi hoàn cảnh và cho mọi người ở khắp mọi nơi.

--------------------------------

 

PS 3-C3. NTGT/127- SỐNG LẠI

 

Đặc biệt tôi rất vui mừng khi thấy có rất nhiều anh chị em mà tôi xin được phép gọi là các bạn: PS 3-C3


Đặc biệt tôi rất vui mừng khi thấy có rất nhiều anh chị em mà tôi xin được phép gọi là các bạn trẻ đang hiện diện trong ngôi thánh đường này.

Có một sự thật – thật đến nỗi đã có nhiều người không dám tin là có thật: Đó là sự kiện Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại hiển vinh. Đây chính là trọng tâm, là cốt lõi, là nền tảng của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô còn xác quyết: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì điều anh em tin thật là hão huyền… và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trên trần gian này”.

Tất cả chúng ta vừa trịnh trọng lắng nghe thánh Gioan tông đồ thuật lại việc Đức Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ tại biển hồ Tibêria. Đây không phải là một cuộc thoáng hiện của Đức Giêsu, nhưng Ngài còn ngồi lại, cùng dùng bữa thân mật với các ông nữa. Chính trong khung cảnh lãng mạn đó, Đức Giêsu đã đặc biệt ngỏ lời, đã tỏ tình với Phêrô: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không ?... Phêrô, con có yêu mến Thầy nhất không, hơn các người này không ?”

Nghe đến đây, tôi và các bạn có lẽ đã tức điên lên và tự nhủ: Chúa Giêsu ơi ! Sao Chúa dại quá vậy ? Chúa hết người để yêu rồi hay sao mà lại đi yêu và yêu đến cuồng si Phêrô, kẻ đã từng phản bội – kẻ đã từng chối Chúa, xử quê Chúa trước mặt công chúng, Chúa có còn nhớ hay không ?

Thánh Têrêsa thành Avila từng trách Đức Giêsu đã quá yêu con người đến điên dại, kể cũng không quá đáng. Phêrô là con người thế nào ? Chúng ta đã quá rõ: Một tên ngư phủ quê mùa, tính tình thì nóng nảy, thuộc “tuýp bốc”, hay làm tàng, ta đây… được Đức Giêsu thương nhận làm đệ tử, cho ngồi đồng bàn, chia sẻ vui buồn, dạy dỗ đủ điều… lại còn được mời gọi trao ban sứ vụ tông đồ cao cả… Thế mà, khi có sự cố, hàn vi, biến loạn xảy đến lại chối Thầy bỏ bạn. Con người đó hỏi thử có gì đáng để Đức Giêsu yêu thương đến thế ?

Đúng ra, trong số các tông đồ, nếu Đức Giêsu có muốn yêu thì Gioan là xứng đáng hơn cả, hay là Natanaen – một con người không có gì là gian dối, (như Đức Giêsu đã từng khen).

Ngẫm nghĩ: tình yêu thật khó hiểu ! Con tim của Đức Giêsu có những lý do riêng mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tôi thường nghe Hồng Nhung hát bài “vẫn mãi hát lời tình yêu”của Dương Thụ. Nhưng thực sự giờ đây tôi mới hiểu và dám quả quyết: chỉ có Đức Giêsu mới thật sự là người vẫn mãi hát lời tình yêu mà thôi. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu thật có lý khi xác tín rằng: “Bạn đừng sợ Chúa, Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”

Con người Phêrô cộc cằn và đáng ghét đó. Đúng ra nên dành một dấu chấm hết cho xong chuyện. Thế nhưng, Phêrô lại được Đức Giêsu yêu thương một cách đặc biệt và chính tình yêu Giêsu đã cảm hóa được Phêrô cách lạ lùng. Con người bất trị đó cuối cùng đã phải thốt lên: “Thầy biết mọi sự mà, Thầy biết con yêu mến Thầy mà!”Đúng là “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Một lần bị nguyền rủa là Satan, ba lần chối Chúa – chán nản, bỏ cuộc, về hưu đánh cá, coi như lòng đã chết. Giờ đây lại chỗi dậy bằng ba lần cam kết yêu thương.

Điều gì đã làm Phêrô biến đổi như vậy ? Phải chăng Phêrô đã ân hận vì quá khứ nhiều xót xa ? Hay choáng ngợp vì mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không rách ?

Đó cũng chưa là lý do đầy đủ để thuyết phục và chinh phục Phêrô. Nguyên nhân sâu xa nhất là Phêrô đã khám phá và xác tín vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô. Bằng chứng là suốt quãng đời còn lại của Phêrô đã không ngừng rao giảng và hầu như chỉ rao giảng và làm chứng về Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã dùng tình yêu để cảm hóa Phêrô.

Tình yêu của Đức Giêsu thật sự có sức mạnh cảm hóa con người và đối với bất cứ ai, nếu người ta biết đặt niềm tin vào Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân và khép lại quá khứ để trở thành thánh nhân. Sống giữa cuộc đời ô trọc – thị phi – hư danh – chóng qua này; tình yêu Giêsu là một lý do cuối cùng để con người hôm nay hy vọng.

Khám phá và tin vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô là điều không dễ. Chúng ta dù vẫn biết rằng: Đức tin là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, nhưng từ Tin đến Yêu và yêu tha thiết, yêu say đắm như Phêrô lại là cả một quá trình cảm hóa từng bước, ngày qua ngày trong cuộc sống. Đức Kitô đã đi vào lịch sử, đã chấp nhận lịch sử và không bị lịch sử giới hạn bằng chính sự thật Phục sinh của Ngài. Với thời gian, mãnh lực cảm hóa của tình yêu Giêsu sẽ được chúng ta kiểm chứng cảm nghiệm giống như ly rượu đào uống dần – thấm lâu – say mãi. Để một khi đã yêu thật sự, chúng ta sẽ không còn hờ hững nữa; nhưng trái lại là một sự lựa chọn, dấn thân và hiến thân trọn vẹn cho tình yêu Giêsu đó.

Ngày nay, trước xu hướng của tình yêu “thời mở cửa”, mọi cái đều phải quảng cáo, tranh thủ, tốc độ, chộp giật… Tình yêu cũng dễ dàng bị nhuốm màu kinh doanh đó. Vả lại, từ tình yêu lãng mạn của “khung trời đại học”đến thứ tình yêu thực tế phũ phàng được cân, đo, đong, đếm bằng “cơm-áo-gạo-tiền”. Người trẻ chúng ta dù muốn dù không cũng có ít nhiều ngờ vực, nghi nan khi bước vào ngưỡng cửa của tình yêu, mà trước đó người ta dễ dàng đã thấy quảng cáo, tiếp thị, bầy bán với hàng trăm thứ quan niệm lệch lạc về tình yêu nơi các cửa hàng giả hiệu, bất chấp đúng sai, miễn sao có lời.

Chẳng hạn, có một số bạn trẻ cho rằng tình yêu là “thứ trời cho”nên họ sẵn sàng biến thành thú “trò chơi”. Một số khác lại thực tế hơn đi tìm và xây tổ trước khi có tình yêu, bạn đời họ cần phải là “nhà mặt phố, bố làm to”. Ngoài ra, còn có kiểu “tình hờ”, “tình cờ”, “tình cho không biếu không”… kết cuộc lối chịu chơi đó biến cuộc đời của những chàng trai, cô gái thành những trái táo thối chín non, rẻ mạt !

Gút lại, những kiểu tình yêu phát xuất từ những xu hướng lệch lạc thời mở cửa này, thực chất có mang lại tình yêu và hạnh phúc đúng nghĩa thật sự cho người trẻ hôm nay hay không ? Chúng ta hiểu: trong tình yêu luôn có muôn vàn sắc thái, mùi vị, ngọt, bùi, đắng cay… Tuy nhiên nếu tình yêu không bắt đầu bằng sự rung động của con tim và cần có thời gian để cảm hóa, thanh luyện cho thật tinh ròng, là thứ quí hơn vàng, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ nếm được hương vị ngọt ngào do tình yêu mang lại. Trong tình yêu, ngay cả niềm tin cũng không được lạm dụng; chọn lựa phải chắc chắn, dấn thân triệt để. Có như vậy việc hiến thân cho nhau mới trọn vẹn và đến cùng. Thách đố lớn nhất của thời đại hôm nay, của tình yêu hôm nay: lòng trung thành.

Các bạn đang nghĩ gì và làm gì để xây dựng đời sống “văn minh tình yêu”cho chính mình và người khác ? Trước ngưỡng cửa nửa tối – nửa sáng của cuộc đời bạn đang tin tưởng hay chối từ, nghi nan ? Chắc chắn chúng ta cần phải có một thần tượng, một lý tưởng để theo đuổi và can đảm bước tới trong hy vọng: tình yêu Giêsu thật sự là lý do cuối cùng, là khuôn mẫu đích thực cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Dốc hết vốn liếng đức tin ra, chúng ta cần xác tín một điều: “Thiên Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”. Và đối với tình yêu Giêsu thì chỉ một lần được sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa.

--------------------------------

 

PS 3-C4. CSTM/109- LÀM CHỨNG

 

Trong một buổi tọa đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên là Lim, không tin Đức Kitô Phục: PS 3-C4


Trong một buổi tọa đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên là Lim, không tin Đức Kitô Phục sinh. Anh nói: “Tin tôi đi, các bạn, chẳng có Đức Kitô nào sống lại hết. Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng mà thôi, tranh cãi làm gì mất công, phí thời giờ, các bạn sẽ thấy ngay bây giờ, tôi cho Đức Kitô hai phút, nếu có Ngài thì Ngài cứ việc đánh tôi chết”. Nói xong anh ưỡn ngực chờ đợi. Hai phút trôi qua, chẳng có gì xảy ra. Lim đắc thắng nói: “Đó, các bạn thấy rõ rồi nhé, Đức Kitô có đâu nào ?”. Mọi người đều im lặng.

Một lúc sau, có một người lên tiếng: “Anh Lim này, tôi là một người cha. Tôi có một đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm dao đưa cho tôi rồi nói: “Tôi không chắc ông có phải là cha tôi thật không, người ta nói sao thì tôi biết vậy thôi. Họ bảo ông là cha tôi, nếu thực sự đúng như vậy, thì sao đây, ông hãy cầm lấy và đâm tôi đi, nếu không, chính tôi sẽ đâm ông”. Anh nghĩ coi: tôi phải xử trí thế nào ? Thú thật tôi không đủ khả năng cho nó thấy tôi là cha nó theo cách nó đòi hỏi. Nhưng có phải từ sự kiện tôi không dám đâm chết nó mà anh có thể kết luận: tôi không thực sự là cha nó không ? Vì thương nó nên tôi không đâm chết nó. Là cha nó, tôi thà để mình bị đâm chết hơn là cầm dao đâm chết con. Chết vì tay nó, tôi chứng tỏ cho nó thấy tôi chính là cha nó. Nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm nó chết. Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói chứ ? Anh cũng vừa phỉ báng Thiên Chúa như thế đấy, nếu Đức Kitô không đánh chết anh, thì không phải là vì không có Ngài, mà vì Ngài thương anh đó thôi. Bởi vì trong tình yêu, bao giờ cũng có một yếu điểm nghịch thường, mà người ta không thể diễn tả hết được”.

Người ấy nói tiếp: “Anh nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá thì tay anh sẽ bị đau chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu căng của anh một cách mãnh liệt. Nhưng nếu anh đấm xuống nước, tay anh không hề hấn gì, nước chỉ dao động một chút rồi thôi. Và nếu anh đấm vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ chẳng cảm thấy gì hết. Không khí có vẻ bất lực ấy lại cần cho đời sống của chúng ta hơn là đá cứng nhiều.

Cũng thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và như vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai chúng ta, trong khi nếu chúng ta làm thế với bất kỳ ai khác, chúng ta sẽ lãnh đủ. Thiên Chúa trở nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cần đến Ngài hơn bất cứ điều gì khác.

Anh Lim này, Đức Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải yêu lại Ngài nhé. Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt hơn anh sẽ cảm thấy điều tôi nói là chân thật”. Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin cũng như tuyên xưng đức tin. Đức tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Nguyên việc chúng ta có mặt trong nhà thờ lúc này là một bằng chứng cụ thể rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Phục sinh. Mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh. Việc Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc chắn. Điều đó các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm nghiệm: đã thấy Chúa, đã nghe tiếng Chúa rõ ràng, đã thấy những việc quen thuộc Chúa thường làm, đích thực 100/o Chúa đã sống lại.

Còn chúng ta, chúng ta tin, vì chúng ta không thấy. Dù không thấy, chúng ta vẫn tin một cách tuyệt đối. Chúng ta đi đạo, theo đạo, giữ đạo, tin đạo, tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển vũ trụ này. Một trong những điều đòi hỏi chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều ghi lại trong bài Tin Mừng, đó là các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không được gì. Lúc ra về, họ đành thú nhận tay trắng, công dã tràng. Đó là sự giới hạn của họ và cũng là bài học cho tất cả chúng ta. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nếu con người chúng ta cứ thành công mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch, mình có thể làm được mọi sự mà không cần đến Chúa. Nhưng rất may, ở trần gian này có một định luật là sự giới hạn: giới hạn của vật chất chung quanh chúng ta, giới hạn của khả năng con người, giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai trong chúng ta có thể sống vượt ra ngoài những giới hạn đó.

Cho nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận biết thế đứng của mình trước Thiên Chúa, biết sự giới hạn của mình trước Đấng toàn năng đã phán: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Vì thế, trong mọi hoạt động của đời sống, chúng ta phải cầu xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta biết thân phận mình, biết sự giới hạn của mình, để chúng ta luôn tin tưởng và cậy dựa vào Chúa.

Một điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhớ: các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, làm chứng cho mọi người biết Chúa đã sống lại. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách thánh hóa những việc làm hàng ngày, là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc làm của chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế, vào nghề nghiệp, vào các giao tiếp với người khác, vào cả những lúc vui chơi giải trí… Chúng ta xao lãng bổn phận này hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng khỏi đời sống, là chúng ta chưa sống đạo đầy đủ đúng nghĩa.

Trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng. Nhưng hiệu quả hơn cả chính là cuộc sống của chúng ta. Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng nhất diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng sống thế nào để người khác nhận biết chúng ta là người có đức tin, là người con của Chúa.

-----------------------------------

 

PS 3-C5. PV/246- VÌ CHÚA

 

Bài đọc từ sách Công vụ Tông đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những: PS 3-C5


Bài đọc từ sách Công vụ Tông đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những nhà lãnh đạo Do thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một thời gian trước đây đã từng chối Đức Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã giữ vững được lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các tông đồ đồng môn của ông đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô có được lòng can đảm mới mẻ đến thế ? Ông có được lòng can đảm là nhờ ở Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các tông đồ đồng môn của ông. Thật may mắn là kể từ thời các tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẫu giấy, rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.

Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói “Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi”. Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau, và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm đối với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.

Irina và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã trở thành nữ tu. “Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”.

Những người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quì gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được. Chúng ta là những người môn đệ của Đức Giêsu. Người tùy thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ – thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta. Chúng ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.

-----------------------------------

 

PS 3-C6. PV/249- TIẾNG GỌI

 

Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong: PS 3-C6


Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong qúa trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao ? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.

Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy rực sáng. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời anh vào ! Mời anh vào !”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại  lâu hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh đã ghé qua”.

Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được yêu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những người bị lạnh lẽo.

Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của anh sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.

Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư là phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.

Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu. Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “xin vâng”của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.

Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe một lần, và đáp lại một lần mà thôi, nhưng phải lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.

Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu – yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).

-----------------------------------

 

PS 3-C7. SCĐ/255- TÌNH YÊU

 

Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng: PS 3-C7


Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.

Như thế nghĩa là gì ? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ra ngay ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế ? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.

Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau ? Thích chở nhau đi chơi ? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại ! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu ! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ ! Phải không ? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha ! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

-----------------------------------

 

PS 3-C8. SCĐ/257- THỦ LÃNH

 

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa: PS 3-C8


Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:

Ông (Phêrô) đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.

Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quovadis ?”nghĩa là “Người đi đâu đó ?”Người ấy trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hỏa thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”.

Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “đá tảng”, thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:

Sau biến cố Phục sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: “Chúa đó !”Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không ? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn ; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần ! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn”. Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy đã yêu”.

-----------------------------------

 

PS 3-C9. SCĐ/259- TÌNH YÊU

 

Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh: Tôma: PS 3-C9


Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh: Tôma đã tuyên bố “nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin “. Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa: một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình và Tin Mừng ghi chú “Gioan là người môn đệ Chúa yêu”. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.

Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên ; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.

Trong vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu”có hai anh em sinh đôi tên là Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đi đày Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay: “Phải mày là thằng Chơn đó không ?”Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời “Không con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà”. Nhưng bà mẹ nói “thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà”. Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.

Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu ?  Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng “Tiếng hò Sông hậu”nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.

Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giêsu đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. Và rồi đang khi các tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến tám ngày sau khi Chúa Giêsu hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.

Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy !

-----------------------------------

 

PS 3-C10. SCĐ/263- ĐỪNG XÓA SỔ

 

Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm: PS 3-C10


Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị “xóa sổ”. Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xóa sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời ?

Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.

Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?”Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài ? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.

Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.

Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi”.

Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vặt cắn rứt.

Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.

Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng hội đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.

Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng.

-----------------------------------

 

PS 3-C11. CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ


 Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

 

Đức Yêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức: PS 3-C11


Đức Yêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Yêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.

Hành vi không bình thường

Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Yêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.

Mẻ cá lạ giúp Yoan nhận ra Đức Yêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Yêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.

Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Yoan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?

Cách hành xử của Đức Yêsu

Đức Yêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Yêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Yêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.

“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.

Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Yêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.

Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.

Số phận và thái độ cần có của con người

Sau bữa ăn, Đức Yêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.

“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Yêsu đã phục sinh!
2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?

-----------------------------------

 

PS 3-C12. Ông Ấy Không Biết Mình Có Sức Mạnh Như Vậy

 

Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ, Calvin Coolidge, một lần đã đọc một bài diễn văn cho một bộ: PS 3-C12


Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ, Calvin Coolidge, một lần đã đọc một bài diễn văn cho một bộ lạc người Da Đỏ ở trên miếng đất cằn cỗi mà đã từ lâu không có một giọt mưa nào. Những người phù thủy thổ dân và những người có thể làm cho mưa đã làm những nghi lễ vô ích. Bầu trời vẫn trong sáng và mùa màng sẽ bị mất. Tổng thống Coolidge đã nhìn vào những gương mặt đau khổ và nói, "Các bạn đừng nghĩ rằng tôi ở Washington và tôi không biết về hoàn cảnh sống của các bạn. Đừng nghĩ rằng tôi không khỏi những ưu tư lo lắng. Các bạn đừng nghĩ rằng tôi đã không lo lắng tìm cách để cứu giúp các bạn.”Sau đó, trước cảnh lạ lùng của mọi người, những cơn mây đã kéo đến và một trận mưa rào to đã đổ xuống. Tổng thống đã bị ướt đẫm trước khi ông tìm được chỗ để trú thân. Nhìn những giọt mưa đổ xuống, tổng thống đã kêu lên, "Trời ơi! Tôi đã không biết là tôi có sức mạnh như thế ở trong mình tôi!"

Simon Phêrô đã không biết rằng ông có sức mạnh như thế ở trong con người của ông cho đến cái giây phút ông bắt gặp được Người Lạ ở trên bờ hồ là Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, ông bắt đầu rao giảng không ngừng, không mệt mỏi, hăng say, không sợ sệt gì cả về Tin Mừng về Chúa Kitô Phục Sinh . Từ cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã có thể làm cho người ta cảm thấy mạnh mẽ, cảm động lòng người, chữa các bệnh tật, thay đổi muôn vàn tâm hồn. Thánh Phêrô đã giảng, "Anh em đã giết chết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng”(Cv 3:15).

Simon Phêrô đã không biết điều mà ông có trong người. Tuy nhiên, khi giây phút quyết định đã đến, khi Phêrô nhảy xuống thuyền và bơi vào với Chúa Giêsu Phục Sinh, ngài trở thành một Kitô hữu lập dị mà dám nói với Thượng Hội Đồng Do Thái rằng, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Trong chương 5 của sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Luca nói cho chúng ta truyện Thánh Phêrô và các Tông Đồ đứng trước Thượng Hội Đồng của người Do thái bởi vì họ bị tố cáo một số tội, cộng luôn cả tội phá ngục. Thượng Hội Đồng đã ra lệnh cấm các Tông Đồ không được rao giảng về Chúa Kitô Phục Sinh. Các Tông Đồ đã được thành lập theo một tổ chức. Họ biết những điều mình nói sẽ đưa họ đến chỗ nào. Ai cũng phải biết về sự nguy hiểm của kiểu giảng dạy như thế. Thượng tế của hội đồng đã lên tiếng cảnh cáo, "Chúng tôi đã ra lệnh cấm các anh nói về Giêsu, và các anh đã không tuân theo và đã làm cho thành Giêrusalem này nực đầy mùi giáo huấn của các anh.”Thánh Phêrô đã trả lời, "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Với lời nói ấy, Phêrô và các Tông Đồ có thể bị giết. Thế nhưng, một người Pharisiêu đã đứng ra và lên tiếng, "...nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quí vị không thể nào phá hủy được; không khéo quí vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.”Sau cùng, các Tông Đồ đã được thả về và một lần nữa, Thượng Hội Đồng lại ra lệnh cấm các ông không được rao giảng. Thế nhưng, các Tông Đồ hiểu rằng Phúc Âm Chúa Kitô vượt trên mọi lời đe dọa.

Chúng ta thấy sự so sánh giữa bài thánh thư của Thánh Luca, diễn tả sự gan dạ của Thánh Phêrô đứng giữa Thượng Hội Đồng, và bài Tin Mừng theo Thánh Gioan, tả lại cảnh Thánh Phêrô đang đánh cá. Thánh Gioan thuật lại cảnh ngộ mà Thánh Phêrô đã trở nên một con người mới. Thánh Phêrô và một số Tông Đồ đang ngồi nghỉ tại bờ sông Tiberia. Chúa Giêsu đã bỏ họ, và họ không biết phải làm cái gì cả. Có lẽ có một số người đã chọc tức họ, "Đó kìa, những người môn đệ của Giêsu Nagiareth. Có lẽ cuộc phiêu lưu đã chấm dứt. Chuyện gì đã xảy ra với những ước mơ của quí huynh? Sư phụ đâu rồi?"

Những lời nhạo báng mỉa mai đó đã đưa đến kết quả. Thánh Phêrô đã nói lên quyết định của ngài: "Tôi đi đánh cá.”Và những người khác đã đồng thanh, "Chúng tôi cũng đi với anh.”Mọi sự coi như là tan theo mây khói, và họ phải trở về với chiếc tàu đánh cá, chiếc lưới, và những việc làm thường ngày. Tệ hơn nữa, họ thả lưới cả đêm mà không bắt được chút gì cả. Khi trời vừa mới hừng đông, một Người Lạ đã nói với họ phải thả lưới ở mạn thuyền và họ đã bắt được nhiều cá mà họ không thể nào kéo lên nổi.

Thánh Gioan đã nhanh nhẩu nói với Phêrô, "Chính Chúa đó!”Trong chính cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã trở thành một người mới. Không có một cái gì có thể cản trở ông đến với Chúa Giêsu, và ông đã nhanh nhảu nhảy xuống và bơi vào với Chúa Giêsu. Sự trở lại của Thánh Phêrô đã hoàn tất. Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta lời cuối cùng Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Hãy theo Ta!”và Phêrô đã đi theo.

Chúng ta thấy địa vị của chúng ta và của Thánh Phêrô thời xưa cũng tương tự giống nhau. Sự trung tín hoàn toàn của chúng ta thường bị thử thách. Thiên Chúa phán, "Hãy nói!", và con người nói, "Hãy im!", và chúng ta phải chọn lựa...

Chúa Kitô bị đóng đinh đang nhìn xuống chúng ta với dòng máu ở trong bàn tay, bàn chân, nhưng sự sống từ trong ánh mắt của Ngài, kêu gọi chúng ta sự lựa chọn giữa tình yêu và sự lãnh đạm. Ngài sẽ không để chúng ta mồ côi và đi chỗ khác, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta với bàn tay bị đóng đinh của Ngài. Ngài sẽ không để cho chúng ta dùng thế giới này như là một công viên để chơi, hoặc là một chiến trường. Chúng ta phải chăm sóc nó, nếu không thế giới sẽ bao trùm bằng bóng tối.

Nếu chúng ta chọn Chúa như Thánh Phêrô, có lẽ chúng ta sẽ chẳng được những vinh quang như được huy chương, bằng cấp, học vấn, được báo chí ca ngợi, nhưng là những vết sẹo. "Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5:10).

-----------------------------------

 

PS 3-C13. Chúa đó

 

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò. Dù đã: PS 3-C13


Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.

Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.

Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo: "Tôi đi đánh cá đây.”Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại: "Chúng tôi cùng đi với anh”. Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm. Đây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm, và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.

Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo, nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.

Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.

Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.

Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.

Đây không phải là một nhóm bạn khép kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.

Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.

Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.

"Không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).

Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.

Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.

Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.

Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.

Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn, qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.

Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.

Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.

Đó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.

Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô.

Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy, nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo. Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu: "Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy". Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."

Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh, cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên. Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến. Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta trong đời thường, giữa lúc ta nhọc nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa đến với bạn và cho bạn một "mẻ cá lớn”không?

Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam? Đó có phải là một Hội Thánh đầy tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng các bí tích và đươc lãnh đạo bằng tình yêu không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chản nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không đươc gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

-----------------------------------

 

PS 3-C14. Hai Cảnh Bên Bếp Than Hồng - Nhóm Đồng Hành


Chi Tiết Hay

 

Phúc âm thánh Gioan có hai cảnh bên bếp than hồng. Trong chương 18, Phêrô chối thầy ba lần: PS 3-C14


Phúc âm thánh Gioan có hai cảnh bên bếp than hồng. Trong chương 18, Phêrô chối thầy ba lần bên lò sưởi. Ở đoạn này, cũng bên bếp than, ông lại bày tỏ tình thuơng với Thầy mình ba lần. Tình thương đã tẩy xóa tội của ông và nối kết ông trở lại với Đức Giêsu.

Tình thương dẫn đến hành động. Cụ thể là việc nuôi nấng săn sóc đàn chiên của Đức Giêsu (cc.15-17) dù cho có phải thiệt chính mạng sống của mình (c.18). Đàn chiên thuộc về Đức Giêsu chứ không thuộc về Phêrô.

Tình thương cũng đem lại ánh sáng và sự hiểu biết: người môn đệ dược yêu mến (tức Thánh Gioan) là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu (c.7). Tình thương của Gioan dành cho Thầy đã làm lợi cho Gioan nhiều hơn Phêrô trong nhiều trường hợp khác nữa: trong bữa tiệc ly Gioan được ngồi cạnh Thầy (13:23); rồi khi Phêrô cần hỏi Thầy cũng phải nhờ Gioan hỏi dùm. Rồi khi Gioan cũng như Thầy Giêsu vào nhà Caipha bằng cổng chính như những mục tử, thì Phêrô lại phải ở ngoài chờ Gioan ra dẫn vào như dẫn chiên con.

Các môn đệ của Gioan, những người viết chương này, rất hãnh diện là Thầy Gioan của họ thân mật với Đức Giêsu một cách đặc biệt, nhưng họ cũng công nhận một cách rõ ràng trong chương này là Đức Giêsu đã chọn Phêrô làm thủ lãnh. Tuy nhiên Phêrô chỉ được ban chức này sau khi công bố yêu Thầy, như Gioan đã yêu.

Bữa ăn mà Đức Giêsu dọn cho các môn đệ (cc.9-13) chỉ tới phép Thánh Thể. Các môn đệ mang 153 con cá, biểu hiệu cho cả thế giới, đến với Đức Giêsu. Lưới không rách là dấu chỉ sự hiệp nhất.

Một Điểm Chính

Vì yêu, Đức Giêsu nhờ các môn đệ mang cả thế giới đến dự tiệc Thánh Thể Với Ngài, để Ngài nuôi cả nhân loại bằng chính Ngài.

Suy Niệm

Khi Chúa hỏi tôi, "Con có yêu Thầy không?”tôi sẽ trả lời Ngài thế nào?
Trong tình yêu, Thầy Giêsu mời gọi tôi làm gì ngay trong hoàn cảnh hiện tại?
Tôi sẽ đáp lời mời gọi của Ngài tới mức độ nào?

-----------------------------------

 

PS 3-C15. NIỀM VUI PHỤC SINH – Lm. Bùi quang Tuấn

 

Theo một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc từ một: PS 3-C15


Theo một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc từ một bàn tay khéo léo nào đó trong các môn đệ của Thánh Gioan. Bởi vì không lý nào với những lời từ biệt kết thúc ở chương 20 -- "Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài”(Ga 20:31) -- rồi sau đó vị thánh sử lại từ biệt thêm một lần nữa-- "Còn lắm điều khác, Đức Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều thì thiết tưởng thế gian không đủ chỗ mà chứa sách viết ra (Ga 21:25).

Tác giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh "rắn mất đầu.”Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông.

Nhiều người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên: "Tôi đi đánh cá.”Phêrô đã thốt lên câu nói đó.

Thế rồi ông được anh em phụ hoạ: "Chúng tôi cùng đi với ông.”Tất cả cùng lên thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào, cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.

Thế nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, "đêm ấy họ vẫn không bắt được gì”(Ga21:3). Hoá ra, dù có trong tay phương tiện đánh cá, dù đã hăng hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi thường.

Phải chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao "ra khơi”nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi "bên hữu bên tả", và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô... "đầy tớ"?

Kết quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ hồ, là một mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó: "Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa”(Ga 21:12).

Cuộc tao ngộ Thầy trò bên biển hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một câu vấn đáp về lòng mến yêu: "Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta không?"

Căn cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: "Các ngươi trốn nơi đâu?”cũng không hề trách: "Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và chối Thầy không?"

Trong câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Ga 21:15). Thế ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ trở nên người chăn chiên đích thực. Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.

Chúa gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu xót phải nhường cho hiện tại giàu thương yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.

Trong yêu thương có thứ tha. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết. Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những điểm dị biệt của tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.

-----------------------------------

 

PS 3-C16. SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH


 Lm. Phêrô Phạm ngọc Lê chuyển ngữ

 

Theo cách riêng của mình mỗi tác giả Tin Mừng đều trình bày sứ mạng phổ quát của Hội Thánh: PS 3-C16


Theo cách riêng của mình mỗi tác giả Tin Mừng đều trình bày sứ mạng phổ quát của Hội Thánh như là một phần nền tảng của sứ điệp của Đức Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan sử dụng các biểu tượng theo cách riêng của ông. Biển, hình ảnh về thế giới, về mọi dân tộc rất quen thuộc trong thời của Đức Giêsu cũng như của tác giả Tin Mừng; Hình ảnh chiếc thuyền, ví dụ như chiếc thuyền quốc gia, cũng rất quen thuộc, ít ra là với người Hy Lạp và La Mã. Dựa trên một số đoạn văn trong Tân Ước (Lc 5, 3; Mt 8, 23; Mc 1, 17; Ga 21, 1-4) các kitô hữu tiên khởi muốn nói về con thuyền Hội Thánh. Riêng Thánh Gioan có cách dùng biểu tượng khác. Ta nói đến con số những con cá bắt được: 153 con. Theo nền văn hóa thời Đức Giêsu, con số có một giá trị biểu tượng và thường được người ta dùng. Con số 153 chỉ sự trọn vẹn, hoàn hảo. Thường người ta giải thích bằng hai cách: 1+5+3 bằng 9, bội số của 3 và nhờ đó nhấn mạnh đến cao độ của sự trọn hảo. Một cách giải thích khác về sự trọn hảo: 144 là bội số của 12; nếu ta cộng 9 với 144 ta được 153. Đây cũng là một cách để nhấn mạnh đến sự trọn vẹn. Tóm lại, sứ mạng của Hội thánh, trong biển đời, chẳng khác nào một ngư phủ đánh bắt mọi người không trừ ai, và dẫn đưa họ về bến cảng bình an của niềm tin và của đời sống vĩnh cữu.

Hình ảnh con thuyền và việc đánh cá được bổ túc bằng một hình ảnh khác: hình ảnh của người mục tử và đàn chiên. Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử tốt lành, nói với Phêrô: “Hãy chăn các con chiên của Thầy”. Tiên tri Êgiêkien đã gọi Thiên Chúa là Mục Tử của dân Ítraen; Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh này để nói về chính mình như mục tử của Hội Thánh, và giao phó cho Phêrô sứ mạng của Ngài. Người Mục Tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, yêu thương, che chở và nuôi dưỡng chúng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ đến độ hy sinh mạng sống mình. Sứ mạng của Phêrô và của mọi mục tử trong Hội Thánh phải lấy đó làm gương để mọi con chiên được ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Hai cách để chu toàn sứ mạng.

Trong bài sách Công Vụ (bài đọc 1), sứ mạng được thực hiện bằng việc rao giảng. Các tông đồ rao giảng Đức Giêsu Kitô, đặc biệt mầu nhiệm về sự chết và sống lại của Người, và “lưới bắt đầu đầy cá”. Việc rao giảng mang lại kết quả đến độ các nhà lãnh đạo Do Thái hoảng sợ và cho tống giam các tông đồ vào ngục. Phêrô và các tông đồ đáp lại: “Nghe lời Thiên Chúa hơn là nghe lời người đời.”Là những người đã lãnh nhận cùng một sứ mạng như Đức Giêsu, lại có thể đầu hàng sao? Có sứ mạng nào sánh bằng sứ mạng này trong cuộc đời sao? Các tông đồ cảm thấy không thể có được, và họ đã không ngại bằng mọi giá hoàn thành sứ mạng của họ.

Phương cách thứ hai rút từ sứ mạng, đó là bằng cách tôn thờ, đặc biệt là thái độ thờ phượng Đức Giêsu, Chiên Hy Tế. "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.”(bài đọc 2). Để sứ mạng của các tông đồ được hoàn thành, việc rao giảng phải đưa đến việc tôn thờ. Biết Đức Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta mà không thờ phượng Người như là Chúa và là Thiên Chúa, như vậy là chưa hoàn thành sứ mạng. Tách biệt hai thực tại này hoặc quá quên lãng một trong hai điều trên thì cũng đồng nghĩa với một hình thức độc thể thuyết có tính tông đồ và mục vụ.

GỢI Ý MỤC VỤ

Truyền giáo trong cộng đồng thế giới.

Ngày nay, thế giới trở thành ngôi nhà chung. Việc truyền thông, thế giới tài chính và thế giới tư tưởng là không biên giới. Nhờ vào vô tuyến truyền hình, mọi người có thể đồng thời theo dõi bất cứ một nghi lễ nào của Đức Giáo Hoàng từ bất cứ nơi nào trên thế giới, nhờ vào mạng Internet, người ta có thể trao đổi về bất cứ chủ đề nào với các người nam nữ ở cách xa nhau hàng ngàn cây số. Với những phương tiện đó, các kitô hữu phải tiếp xúc được những người có một cuộc sống khác ta, có một lối sống khác ta, theo một tôn giáo hay những niềm tin khác ta. Hiện tượng này có thể khơi dậy một tình trạng khủng hoảng nào đó nơi các kitô hữu, điều này có thể dẫn họ rơi vào thuyết tôn giáo tương đối. Tuy nhiên, công bình mà nói, có thể đó là cơ may tuyệt diệu cho họ thực hiện sứ mạng toàn cầu của Hội thánh, trên một quy mộ rộng lớn nhất và với những phương tiện hiện đại nhất. Khi nào thì Hội Thánh có nhiều phương tiện hơn để rao giảng Đức Kitô? Có lẽ chúng ta đối diện với thách đố mạnh mẽ nhất trong lịch sử trong sứ vụ toàn cầu của Hội Thánh. Sứ vụ toàn cầu lớn lao này không chỉ dành cho một số ít các vị thừa sai thực hiện nơi những vùng chưa được phúc âm hóa; nó phải được mỗi kitô hữu chúng ta thực hiện, ngay từ nhà riêng của tôi, văn phòng của tôi. Phải hiểu rõ rằng sứ mạng toàn cầu của Hội Thánh đòi mỗi kitô hữu sống niềm tin của mình, và sẵn sàng giải thích niềm tin cho bất cứ ai cần hỏi, trên đường phố, trong văn phòng hay trên mạng Internet.

Thực hành việc tôn thờ Thánh Thể.

Tôi nghĩ rằng trong những thập niên vừa qua, việc tôn thờ Thánh Thể đã giảm sút nơi người tín hữu. Có nhiều nhấn mạnh đến cộng đoàn phụng vụ mà ít để ý đến Đấng mà cộng đoàn quy tụ xung quanh. Rồi tính chất lễ hội của các bí tích được làm nổi bật hơn là lòng tôn thờ. Thỉnh thoảng cũng nhấn mạnh vài điểm như Đức Giêsu Kitô là người bạn, người thầy và người mẫu mực cho ta, trong khi đó hình ảnh Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Thiên Chúa của ta lại bị lãng quên. Những lý do này hay khác đã làm giảm thiểu ý thức lòng tôn thờ của người kitô hữu. Khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, đặt mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời làm trung tâm điểm, là cơ hội thuận tiện cho ta canh tân và tái khám phá tinh thần tôn thờ đối với Đức Giêsu Kitô. Sách Giáo Lý dạy: “Để đào sâu đức tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, Hội Thánh coi trọng việc thinh lặng tôn thờ Chúa đang ngự trong Mình Thánh.”(số 1379). Ý thức về sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô trong Mình Thánh cần phải được chấn hưng và làm sống động lại. Nơi số 2145, Sách Giáo Lý viết tiếp, “Việc rao giảng và huấn giáo phải được thực hiện trong tinh thần thờ phượng và tôn kính đối với Thánh Danh Đức Giêsu Chúa chúng ta.”Các giáo lý viên và những nhà rao giảng phải suy niệm điều này! Để có thể tự đổi mới, thế giới cần một Hội Thánh có tinh thần tôn thờ hơn.

-----------------------------------

 

PS 3-C17. PHÊRÔ, ANH CÓ YÊU MẾN THẦY KHÔNG?


 Suy Niệm của Lm. Jos. Phạm ngọc Ngôn

 

Sau khi sống lại, đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ. Hai lần trước, Người: PS 3-C17


Sau khi sống lại, đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ. Hai lần trước, Người hiện ra với các ông tại nơi các ông ẩn náu vì lo sợ người Dothái bách hại. Lần này trên Biển hồ Tibêria, nơi Phêrô và các môn đệ khác đang thả lưới chài cá. Tin mừng hôm nay không chỉ nói đến việc Chúa Giêsu hiện ra, cùng ăn uống sinh hoạt với các môn đệ, mà còn là việc tập trung vào hai nhân vật quan trọng mà một đại diện cho tình yêu và một đại diện cho thủ lãnh gánh vác trọng trách của Giáo hội sau này, đó là tông đồ Gioan và Phêrô.

GIOAN - MÔN ĐỆ CỦA TÌNH YÊU

Lời Chúa hôm nay một lần nữa giúp chúng ta hiểu rõ hơn về con người Gioan và lý giải tại sao ông lại có biệt danh là “người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến”.

Trước hết chúng ta thấy cuộc đời của Gioan luôn gắn kết mật thiết với cuộc đời của Chúa Giêsu, với Mẹ Maria và với Giáo hội thời sơ khai. Ông là một trong những môn đệ đầu tiên bước theo Chúa Giêsu và cũng là người được ưu ái chứng kiến những biến cố xảy ra trong suốt hành trình bước theo Thầy chí thánh. Từ biến cố Hiển dung cho đến bữa tiệc ly; từ cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, đứng dưới chân thập giá để nhận lời Chúa Giêsu giao phó Mẹ Maria cho mình đến biến cố Chúa Phục sinh và hôm nay, chính ông là người “phát giác”ra sự hiện diện của Chúa và cũng là đối tượng để gắn kết cuộc nói chuyện giữa Chúa Giêsu với Phêrô. Điều gì đã khiến cho Gioan có được sự bén nhậy như thế? Câu trả lời hết sức giản dị, đó chính là tình yêu! Vâng, với Gioan thì quả đúng như vậy thật. Trong các tác phẩm của mình, Gioan đã đem hết lòng say mê và sự nhậy cảm của tâm hồn để diễn tả về Thiên Chúa mà một trong ba kiểu diễn tả đó chính là “Thiên Chúa là Tình yêu”(x. 1Ga 4,8). Khi diễn tả về một Thiên Chúa là Tình yêu, Gioan cho thấy đây không phải là một khái niệm trừu tượng khó hiểu nhưng là một sự diễn tả hết sức cụ thể và cô đọng. Tình yêu đó được thể hiện qua việc Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm, trở nên của lễ đền tội và mang lại sự sống cho nhân loại.

Gioan tỏ ra là một con người rất bén nhậy với những dấu lạ. Nếu ở Chúa nhật trước chúng ta thấy trong khi Phêrô và Maria Mácđala nhìn thấy sự kiện ngôi mộ trống rỗng và theo đuổi với những ý nghĩ rất riêng tư thì Gioan, trái lại, ông đã nhìn sự kiện đó không chỉ bằng “lý lẽ của con tim”mà còn là lối suy lý của khối óc tài ba. Hôm nay cũng vậy. Phêrô cũng như các môn đệ khác đang mệt nhọc vì một đêm thả lưới mà chẳng có một con cá nào mắc lưới. Các ông cũng chẳng quan tâm đến sự hiện diện của một “ông khách”nào đấy đang đứng trên bờ vừa chỉ chõ vừa cười nói, gợi chuyện với các ông và còn chỉ cho các ông thả lưới xuống bên phải mạn thuyền để bắt cá. Có điều hết sức đặc biệt là Phêrô cũng như các môn đệ đã không dựa vào kinh nghiệm cũng như tài đánh bắt cá của mình để cười nhạo vị khách đang đứng trên bờ thao thao bất tuyệt kia rằng: ông chả biết gì về nghề biển cả, chỗ này là bờ, chúng tôi đang giặt lưới. Cả đêm chúng tôi phải chèo chống ra xa khơi mà còn chả được mống cá nào huống là ở bờ, có mà hốt cát thì có, vân vân và vân vân… Trái lại các ông âm thầm làm theo mà nhờ đó phép lạ xuất hiện. Mẻ cá lạ lùng cho thấy rằng các môn đệ tự sức mình không thể làm được gì nếu không biết nhờ vào Đấng Phục sinh, nhờ và Lời của Người. Và khi nhìn thấy mẻ cá lạ lùng đó, trong khi Phêrô cũng như các môn đệ khác có lẽ đang nghĩ rằng ông khách kia quả là một ngư phủ dày dạn kinh nghiệm thì Gioan thầm ghé tai Phêrô nhắc nhỏ: “Chúa đó!”. Gioan một lần nữa lại cho chúng ta thấy rằng để nhìn ra Đấng Phục sinh, người môn đệ cần phải nuôi dưỡng bằng tình yêu và bằng một trực giác chiêm niệm mà mắt thường không thể nào nhận ra được. Nói như thánh Peter Chrysologue, thì sự bén nhậy của Gioan chính là sự bén nhậy của “kẻ được yêu”và “con mắt tình yêu thì tinh tường hơn và kẻ được yêu cũng cảm nhận cách sắc bén hơn”.

PHÊRÔ - NGƯỜI CHĂN DẮT ĐOÀN CHIÊN GIÁO HỘI

Từ sau cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta thấy có ít nhất hai lần Phêrô đi ra khỏi nơi hầm trú. Một lần sau khi được Maria Mácđala cho biết tình trạng ngôi mộ của Chúa, ông và Gioan đã vội vã chạy đến mộ Chúa và trở thành chứng nhân đầu tiên chứng kiến ngôi mộ trống và lần này, chính ông là người chủ động khởi xướng chuyện đi biển để bắt cá và tại đây ông và các môn đệ được Chúa hiện đến và, quan trọng hơn, chính ông là người được Chúa trao phó nhiệm vụ chăm sóc Giáo hội.

Trên biển hồ Tibêria, Phêrô cho thấy ông là một con người rất can trường, lăn xả và tận tình với công việc. Khi nghe Gioan mách nhỏ “vị khách”đang đứng trên bờ là “Chúa đó”, ông vội vàng lấy áo mặc vào rồi nhảy xuống biển để vào gặp Người. Có thể nói khi được mẻ lưới đầy cá như thế, Phêrô vẫn chưa “ngộ”ra điều gì, tâm trí ông lúc đó vẫn không có gì liên tưởng giữa ông khách trên bờ với Thầy mình. Chính vì thế, chúng ta thấy Phêrô có lẽ đang say mê với mẻ cá hay đang âm thầm khâm phục con mắt “rành nghề”của ông khách kia, mà chẳng để ý, chẳng thắc mắc gì cả cho đến khi được Gioan gợi nhắc. Câu nói của Gioan làm cho ông thức tỉnh và tin tưởng. Hành động nhảy ùm xuống biển của Phêrô được thánh Peter Chrysologue lý giải như là một hành vi “muốn rửa sạch các vết nhơ vì đã chối Thầy đến ba lần”và vì ông là tông đồ trưởng nên hành vi này cũng được xem là hành vi của “kẻ sám hối đầu tiên”.

Chính Phêrô là người nghe theo ông khách để thả lưới và giờ đây khi biết đích thực là Chúa, cũng chính ông là người cùng với các môn đệ kéo lưới vào tận bờ, gỡ từng con cá một để rồi trình cả thảy 153 con lên cho Chúa. Tại sao chỉ có 153 con mà không có ít hơn hay nhiều hơn? Có nhiều cách giải thích nhưng chúng ta chỉ dừng lại với cách giải thích mang tính thần học. Thời xưa, các nhà sinh vật học tìm thấy và xác định chỉ có 153 loài cá sinh sống trong biển khơi và vì thế, mẻ lưới mà Phêrô và các môn đệ bắt trọn vẹn 153 con cá là hình ảnh báo trước mẻ lưới của các ngài cũng sẽ tập hợp mọi dân tộc, mọi giống nòi trên toàn thể vũ trụ này trong cùng một Giáo hội duy nhất.

Để quy tụ mọi dân tộc, mọi giống nòi về một Giáo hội duy nhất, điều Chúa Giêsu muốn là phải có một người dẫn dắt đoàn chiên như lòng Chúa ước mong, người đó không ai khác, lại chính là Phêrô - vị tông đồ có không ít những lỗi lầm. Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt thì điều kiện tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi: “Phêrô, anh có yêu mến Thầy không?”. Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó bởi không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại, với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã phải hỏi Phêrô đến ba lần - có thể là sự gợi nhớ ba lần ông chối Thầy mà cũng có thể theo thói quen thời đó, để chính thức uỷ thác cho ông nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên. Với nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn. Phêrô đã đi theo thầy của mình trong quãng đời còn lại và đã lấy cái chết của mình để làm chứng về Thầy. Phêrô đã tham dự vào sứ mệnh của Thầy tức là tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa, đồng thời hiến dâng mạng sống mình cho anh em, cho đoàn chiên mà hôm nay chính Chúa Giêsu - Đấng Phục sinh, đã trao phó cho ngài.

Với mẻ cá lạ lùng, Đấng Phục sinh đã khai mở cho các môn đệ một cái nhìn mới về nhiệm cục cứu rỗi: không có Đấng Phục sinh, hành trình ra khơi của Giáo hội, của Phêrô hay của bất cứ ai cũng chỉ là một đêm dài vất vả, trở về trong ánh bình minh nhợt nhoà mà thuyền đánh cá vẫn không có con cá nào, thuyền vẫn nhẹ tênh sau đêm dài vô tận. Chỉ khi nào chúng ta nghe được tiếng nói của Đấng Phục sinh và mau mắn đáp lại trong tình yêu và sự phó thác, khi đó sự nghiệp ra khơi của Giáo hội, của mỗi người chúng ta mới mang về những mẻ cá ngập thuyền. Vâng, chỉ có Đấng Phục sinh chứ không ai khác mới có thể dẫn dắt chúng ta ra khơi trong sự mạo hiểm, đồng thời gợi mở cho chúng ta những điều kiện tiên quyết để đạt đến bến bờ hạnh phúc.

-----------------------------------

 

PS 3-C18. Chúa đó – Lm. Jos. Nguyễn hưng Lợi

 

Biến cố chúa Giêsu phục sinh vẫn hiển hiện rõ ràng nơi tâm trí các tông đồ. Các Ngài vẫn chưa: PS 3-C18


Biến cố chúa Giêsu phục sinh vẫn hiển hiện rõ ràng nơi tâm trí các tông đồ. Các Ngài vẫn chưa ra khỏi nỗi bàng hoàng của sự việc Chúa Giêsu, một người tiếng tăm lừng lẫy nhưng lại chịu để người đời bắt, lên án và giết chết. Nỗi băn khoăn, lo lắng và bối rối trước sự kiện Chúa Giêsu sống lại được các Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng của Thánh Gioan tường thuật một cách tường tận, tỉ mỉ vẫn là những chứng cớ cốt cán diễn tả Chúa đã phục sinh khải hoàn.

VẪN NHỮNG CỬ CHỈ QUEN THUỘC CỦA CHÚA GIÊSU PHỤC SINH:

Các tông đồ đã đi theo Chúa suốt ba năm trường. Chúa đã uấn nắn, chỉ bảo, hướng dẫn các ông. Từng lời nói, việc làm, từng cử chỉ của Chúa Giêsu trong thời gian Người sống với các tông đồ, đã ghi đậm tâm khảm của các Ngài. Do đó, những hành vi, cử chỉ, thái độ của Chúa Giêsu luôn đánh động tâm hồn các tông đồ. Chúa đã hiểu thấu tính khí, cách sống của từng tông đồ một. Nên, khi Chúa từ trong kẻ chết sống lại, việc đầu tiên Người làm là để lại ngôi mộ trống với những cuộn băng, với vải áo tang để gọn gàng một bên. Đây là một bằng chứng Chúa Giêsu không còn ở trong nấm mồ nữa. Việc gọi tên Maria Magđala là một bằng chứng hùng hồn về sự thân mật, quen thân của Chúa Giiêsu đối với người phụ nữ mà Chúa Giêsu đã tha thứ nhiều. Rồi ba lần Chúa hiện ra với các tông đồ, một lần thiếu Toma và một lần sau đó tám ngày khi Chúa phục sinh, có cả Toma nữa, Chúa đã trao ban bình an và nói với Toma hãy xỏ tay vào cạnh sườn và thọc ngón tay vào lỗ đinh trên tay, trên chân của Chúa. Đây cũng là bằng chứng hiển nhiên chứng tỏ Chúa sống lại đang ở giữa các ông.

Lần thứ ba, Chúa phục sinh hiện ra với các tông đồ trên bờ biển với những cử chỉ thật thân thương mà các tông đồ nhiều năm đã quá quen thuộc với các ông. Chúa nói: “Lại đây mà lót lòng, mà ăn đi”. Giọng nói của Chúa, thái độ và cử chỉ của Chúa Giêsu vẫn hoàn toàn quen thuộc như Chúa Giêsu phục sinh lúc trước. Những việc làm quen thuộc, những lời nói quá thân thiết của Chúa Giêsu phục sinh trong Tin Mừng nhất lãm và trong Tin Mừng của thánh Gioan muốn nói lên rằng Chúa đã sống lại thật như lời Thánh Kinh và lời của Chúa đã nói trước. Nhân loại chỉ có thể nhận ra những cử chỉ, hành động, lời nói của Chúa phục sinh nhờ Sách Thánh, nhờ lời của Chúa soi dẫn, chỉ đường. Từ những sự kiện ấy, các tông đồ đã nhận ra những lời Kinh Thánh Cựu Ước đã được thực hiện trong thời Tân ước, qua cả cuộc sống của Chúa và qua đó, các tông đồ được củng cố lòng tin cách mãnh liệt. Các tông đồ tin nhận vào Chúa là Đấng đã dựng nên mọi sự, Ngài là chủ và trung tâm của lịch sử cứu độ.

CHÚA ĐÓ:

Lời nói của Gioan như tóm gọn tất cả Tin Mừng của thánh sử vì nghe tiếng Chúa đó, Phêrô đã vội khoác áo vào và nhảy xuống biển. Các tông đồ khác cũng tới vì họ ở sát đó và kéo vào bờ đầy cá. Ở đây, chúng ta ghi nhận sự kiện là trên bờ đã có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa (Ga 21, 9) và Chúa nói: “Đưa ít cá mới bắt được tới đây”(Ga 21, 10). Những sự việc ấy nói lên tính cách thân mật, quen thuộc của Chúa Giêsu đối với các tông đồ và diễn tả con người thực của Chúa Giêsu phục sinh. Phêrô, được Chúa tuyển chọn đặc biệt, đã vâng nghe lời Chúa: “Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy”(Ga 21, 17). Cả Phêrô, cả Gioan đã choáng ngợp trong những cử chỉ thân quen của Chúa Giêsu. Cả Phêrô, Gioan và cả các môn đệ khác đã nghe theo lời Chúa Giêsu phục sinh: “Hãy đi theo Thầy”(Ga 21, 19). Gioan, người đã viết đoạn tường thuật này, đã tin Chúa Giêsu khi ông bước vào ngôi mộ trống và cũng chính ông đã được Thánh Thần thúc đẩy, đã mách bảo cho Phêrô: “Chúa đó”. Chúa đó, nhận ra Ngài là cả một quá trình của lòng tin…

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin cho mọi người hiểu được lời của thánh Gioan viết:”Các điều viết đây là để anh em tin rằng: Đức Giêsu, chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài”(Ga 20, 31).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Tại sao các tông đồ lại thả lưới ở bên mạn phải thuyền sau cả một đêm vất vả mà không có con cá nào ?
2. Tại sao Gioan lại thốt lên với Phêrô:”Chúa đó “?.
3. Các tông đồ đã có những kinh nghiệm nào về Chúa Giêsu phục sinh ?

-----------------------------------

 

PS 3-C19. Cậy dựa vào quyền năng Chúa- Lm. Trần bình Trọng

 

Sau khi sống lại, việc Chúa hiện ra với các tông đồ đều nhắm một mục đích nào đó, chứ không: PS 3-C19


Sau khi sống lại, việc Chúa hiện ra với các tông đồ đều nhắm một mục đích nào đó, chứ không phải Chúa cứ hiện ra khơi khơi, có hứng thì xuất hiện, còn không thì thôi. Mỗi lần Chúa hiện ra với các tông đồ là mỗi lần Chúa trao ban cho các ông những sứ vụ khác nhau. Theo Phúc âm hôm nay ghi lại thì đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với các tông đồ sau ngày phục sinh. Trong lúc tâm trạng các ông còn hoang mang với những vui buồn lẫn lộn: buồn vì cuộc tử nạn của Thày mình, vui vì Thày mình đã sống lại, hoang mang vì sự hiện diện của Thày mình sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khoả. Xuống thuyền, các ông thả lưới suốt đêm mà không bắt được cá. Ở đây ta phải phục sự kiên nhẫn của các tông đồ. Thả lưới suốt đêm không bắt được con cá nào mà vẫn tiếp tục.

Chính trong lúc các ông bị cụt hứng thì Chúa hiện ra với các ông. Chúa giả vờ hỏi: Sao các con có bắt được gì ăn không? (Ga 21:5). Các ông đồng thanh trả lời: Thưa không (Ga 21:5). Bấy giờ họ chưa nhận ra người khách lạ là Chúa. Và theo đề nghị của người khách lạ, họ thả lưới. Kết quả là mẻ lưới của các ông nặng trĩu đầy cá. Bấy giờ các ông mới nhận ra Chúa. Các tông đồ nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng Chúa, chứ không phải do sự chuyên nghiệp của các ông. Mặc dầu là thuyền chài chuyên nghiệp, hôm nay các ông cũng chịu thua. Mẻ lưới mà các ông kéo lên đếm được một trăm năm mươi ba con cá. Tại sao Phúc âm không ghi con số chẵn 150 con cá cho dễ nhớ mà lại ghi 153 con? Theo thánh Hiêrônimô, một học giả về thánh kinh thì số 153 có nghĩa là các nhà chuyên môn về cá thời bấy giờ biết được có được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá chứ không nhất thiết phải là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩa như vậy, thì Chúa muốn các tông đồ phải đi rao giảng tin mừng cứu độ cho cả thế giới, cho năm châu bốn bể. Như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người sẽ nhận lãnh đức tin sau này.

Bài học mà Chúa muốn dạy các tông đồ hôm nay là các ông phải tuỳ thuộc vào ơn Chúa và quyền năng Chúa. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết phải bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành chương trình cứu độ không tuỳ thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của loài người, nhưng tuỳ thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa phục sinh đã biến đổi các tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi lẩn tránh quân dữ. Chính ông Phêrô còn chối Chúa. Sau khi gặp Chúa sống lại, các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Tông đồ Công Vụ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Cv 5:29). Là chứng nhân các tông đồ phải nói lên cái sứ điệp dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe doạ đến tính mạng.

Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đứv tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng phúc âm…. Thiên Chúa hằng hiện diện giữa ta. Chính những khi các tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thày mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường Emau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Hôm nay ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.

-----------------------------------

 

PS 3-C20: Tin và yêu là điều kiện để nhận ra Chúa


CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH

 

Cuộc sống quanh ta có rất nhiều biểu tượng. Một biển báo đi, đường, một hình vẽ diễn tả sự tai hại: PS 3-C20


Cuộc sống quanh ta có rất nhiều biểu tượng. Một biển báo đi, đường, một hình vẽ diễn tả sự tai hại của bênh AIDS, của ma túy, một ký hiệu cấm hút thuốc nơi công cộng, cấm đậu xe bừa bãi… Tất cả những biểu tượng đó là những lời nói vô âm soi rọi cho mình về một vấn đề nào, một quy định nào mà mình cần thực hiện, hay sống… Ngôn ngữ biểu tượng rất phong phú. Nó gần gũi với ta, ở xung quanh ta.

I. LỬA VÀ NƯỚC

Trong đêm tưng bừng của thứ Bảy tuần Thánh, khi công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội không chỉ công bố bằng ngôn ngữ của lời, của âm thanh; hay ngôn ngữ trừu tượng của Thánh Kinh, của thần học, của suy tư tích lũy hàng ngàn năm qua… Rất đặc biệt, đêm vọng Phục Sinh, Giáo Hội đã sử dụng nhiều ngôn ngữ mang tính biểu tượng để công bố Tin Mừng Phục Sinh. Đó là những hành động biểu tượng giúp ta hiểu mầu nhiệm Phục Sinh và nội dung phong phú chất chứa trong mầu nhiệm này.

Đặc biệt đêm Phục Sinh có hai biểu tượng nền tảng đó là Lửa và Nước.

1. LỬA

Trước khi bắt đầu cử hành đêm cực Thánh này, nhà thờ tắt hết đèn. Một khung cảnh tối tăm bao trùm. Khung cảnh đó diễn tả một thế giới chìm trong nỗi chết do tội. Một thế giới mà lòng người còn đầy dẫy hận thù, yếu đuối, bất toàn, gian trá…

Thế rồi giữa cảnh tăm tối đó, thừa tác viên thắp sáng và rước nến Phục sinh từ cuối nhà thờ lên cung thánh. Nến Phục Sinh được thắp sáng ấy tượng trưng cho Chúa Kitô. Bởi vậy khi rước nến, linh mục lặp đi lặp lại lời này: “Ánh sáng chúa Kitô”.

Ánh sáng Chúa Kitô tới đâu, đẩy lùi bóng tối tới đó. Người tham dự cũng lấy lửa từ Lửa Phục Sinh, thắp sáng từng ngọn nến trên tay mình. Với ngọn nến được chuyển lửa từ Lửa Phục Sinh, cả nhà thờ, tràn ngập ánh sáng, không còn chìm trong bóng tối nữa.

Nếu bạn và tôi biết thắp lên niềm tin vào Chúa Phục Sinh trong cuộc đời của mình, và sống niềm tin ấy bằng một đức mến mãnh liệt nơi Thiên Chúa giàu lòng yêu thương, là chúng ta thắp lên Ánh sáng Chúa Kitô cho cuộc đời. Ánh nến cháy sáng trên tay chúng ta có ý nghĩa là như vậy.

2. NƯỚC

Biểu tượng thứ hai là Nước. Trong đêm Phục Sinh, thừa tác viên làm phép nước và nhún cây nến Phục Sinh vào trong dòng nước. Nếu từ nơi Chúa Kitô, máu và nước chảy ra mang lại sức sống cứu độ trần gian, thì hôm nay, trong đêm Cực Thánh, dòng nước vừa mới được làm phép bởi nến Phục Sinh, trở nên dòng nước thanh tẩy chúng ta.

Dòng nước này sẽ đổ lên đầu các tân tòng để đưa họ vào thế giới của ơn cứu độ, của tình yêu, của sự sống. Dòng nước ấy cũng được rảy trên đầu mọi người tham dự, nhắc lại ơn tái sinh mà chúng ta đã lãnh nhận trong bí tích rửa tội.

II. BIỂU TƯỢNG DIỄN TẢ ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU

Suy tư sâu hơn một chút, ta sẽ thấy, thuở ban đầu khi tạo thiên lập địa, Chúa bắt đầu dựng ánh sáng trước hết. Ngay sau ánh sáng là nước. Như vậy, khởi đầu của sự sống là ánh sáng và nước. Trên nền tảng của ánh sáng, nước, Thiên Chúa tạo dựng thế giới, tạo dựng muôn loài, tạo dựng một nhân loại, và tạo dựng cả vũ trụ nguy nga này.

Tạo dựng chính là sáng kiến của tình yêu. Tạo dựng cũng là làm cho sống. Nghĩa là, từ thuở đời đời, Thiên Chúa vì yêu, đã san sẻ sự sống của Người cho tạo vật. Tạo vật sống cũng chính là tạo vật được yêu. Vì được yêu, tạo vật mãi mãi được sống trong sự sống của Người. Nhưng do tội, tạo vật đã đánh mất sự sống ấy của mình.

Như vậy, trong đêm công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội muốn sử dụng hình ảnh Lửa và nước của thuở ban đầu ấy để mọi người biết rằng, thế giới này, nhân loại này, vũ trụ này đã chìm trong bóng tối, đã chết trong tội, giờ đây được sống lại trong ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Nói cách khác, Nhờ ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô chiếu giãi, và nhờ dòng máu và nước từ cạnh sườn Chúa Kitô mà nhân loại này, vũ trụ này, thế giới này được sống, hơn thế, được sống trong sự sống của Thiên Chúa: sự sống của Đấng Phục Sinh.

Khi Giáo Hội rước lửa và rảy nước trên toàn dân, là Giáo Hội muốn công bố một niềm xác quyết: Tin Mừng Phục Sinh là Tin Mừng về một thế giới mới, một công cuộc sáng tạo mới, một nhân loại mới được bắt đầu từ Chúa Kitô Phục Sinh. Niềm xác quyết ấy chứa đựng trong ngôn ngữ biểu tượng của Lửa và Nước.

Đó là đức tin của chúng ta. Đó là đức tin của một sức sống mới, sức sống Phục sinh chảy tràn từ Đấng Phục Sinh mà chúng ta phải khắc ghi và phải sống.

Đó cũng là lòng mến của các Kitô khi cử hành đêm vọng Phục Sinh long trọng này để khắc ghi tình yêu của Chúa, một tình yêu cứu độ từ thuở đời đời hóa nên một tình yêu cứu chuộc quá đỗi diệu kỳ. Vì nếu Chúa tạo dựng con người bởi tình yêu, thì hôm nay, Người tái tạo cũng bằng tình yêu.

III. ĐỂ NHẬN RA ĐẤNG PHỤC SINH

Chỉ có ai sống đức tin của mình như ánh lửa cháy sáng, hay như một dòng nước có sức lan rộng, người ấy mới có thể yêu mến Chúa một cách chân thật. Chỉ có lòng yêu mến trong đức tin, mới nhận ra Đấng Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời mình.

Thánh Gioan tông đồ là người đã tin và đã yêu như thế. Ngay trong lễ Phục sinh đầu tiên, nhìn ngôi mộ trống, trước cả những phụ nữ là những người phát hiện mộ trống, trước cả thánh Phêrô, người đã vào thăm mộ trước, thánh Gioan đã tin.

Hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho ta biết tầm quan trọng của cảm thức đức tin và sự cần thiết của một đức mến nồng nàn.

Có ai ngờ rằng, suốt một đêm cực nhọc đánh cá, các môn đệ đã không bắt được một con cá nào, thì bây giờ, khi trời đã bắt đầu rạng sáng, một người lạ xuất hiện, dạy các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Không hiểu sao, dù chỉ thấy đó là một người lạ, nhưng các môn đệ lại nghe theo, để cuối cùng, họ đã thu được một kết quả quá bất ngờ: “Lưới đầy toàn cá lớn”.

Thánh Gioan cũng lại là người phát hiện ra chúa Phục Sinh trước các anh em mình. Sau mẻ cá đầy ắp như muốc rách tung chiếc lưới, “Người môn đệ Chúa yêu” thật hãnh diện mà cả quyết: “Chúa đó”.

Vì “Người môn đệ Chúa yêu” đã có sẵn một lòng yêu mến Chúa, một đức tin từ kinh nghiệm sống với Chúa, nên đã nhận ra Chúa một cách hết sức dễ dàng.

Cũng thế, không ai trong bạn và tôi lại cho rằng mình không có đức tin. Mình không có lòng yêu mến Chúa.

Nhưng Nói là nói như vậy. Hiểu là hiểu như thế. Trong thực tế của cuộc đời, không ít lần, bạn và tôi dường như chao đảo, dường như mất sức sống. Đức tin vào Chúa, lòng yêu mến Chúa của mình có lúc như bị đánh gục, như tuyệt vọng.

Bạn ạ, trong đêm rước nến Phục Sinh, chỉ đi từ cuối nhà thờ lên cung thánh, một đoạn đường ngắn thôi, vậy mà ngọn lửa ấy đã chực tắt mấy lần. Và đã có những ngọn nến trên tay của những người tham dự tắt ngúm, phải lấy lại lửa từ phía những anh chị em bên cạnh.

Tôi nhìn thấy ngọn lửa mong manh ấy cũng chính là hình ảnh của đức tin, của lòng mến nơi bạn và tôi. Nếu có lúc nào đức tin chúng ta tắt ngúm, lòng yêu mến của mình chết lạnh, hãy tìm cách lấy lại ngay. Lấy lại bằng chìm đắm trong cầu nguyện, chứ đừng tuyệt vọng. Vì nếu có lúc đức tin và lòng mến càng trở nên tối tăm bao nhiêu, chúng ta càng phải đến gần Chúa nhiều hơn bấy nhiêu.

Và cũng như khi tắt lửa, ta lấy lại lửa từ anh chị em, thì cũng hãy nhìn những tấm gương sống đạo đức, thánh thiện của anh chị em mà vững tin, mà yêu mến Chúa hơn. Nhất là xung quanh chúng ta có biết bao nhiêu anh chị em bất hạnh: mù lòa, tật nguyền, nghèo đói… nhưng họ vẫn tin Chúa, vẫn sống đạo. Họ chính là bài học sống, dạy chúng ta tin và yêu Chúa.

Hãy tin và hãy yêu để bạn và tôi cũng trở thành những môn đệ Chúa yêu. Từ đó nhận ra Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình, trong mọi hoàn cảnh mà chúng ta phải đối mặt với nó. Chỉ cần đức tin, chúng ta sẽ được tăng thêm lòng mến. Khi có đức mến, tự nhiên đức tin cũng sẽ được bồi đắp hơn. Và khi tin tưởng vào Chúa trong một tình yêu, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện với mình.

Như vậy Lửa và Nước không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng của việc công bố Tin Mừng Phục Sinh, không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng để diễn tả đức tin và tình yêu của Giáo Hội. Nó còn là ngôn ngữ biểu tượng của lòng yêu mến Thiên Chúa, của đức tin, của sự gặp gỡ và đón nhận Chúa Kitô đang hiện diện, không phải chỉ trong lễ Phục Sinh nhưng trải dài suốt cuộc đời của mỗi người.


Lm. Vũ Xuân Hạnh

-----------------------------------

 

PS 3-C21: Đánh bắt các linh hồn


CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH C

Ga 21, 1-19

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1) ÝCHÍNH:


 

Đây là đoạn cuối của Tin Mừng thứ tư, được chia làm 4 phân đoạn như sau:  a). Các tông đồ tập: PS 3-C21


Đây là đoạn cuối của Tin Mừng thứ tư, được chia làm 4 phân đoạn như sau:

a). Các tông đồ tập trung tại miền Galilê, Phêrô lên tiếng ra đi đánh cá. Sáu môn đệ còn lại hưởng ứng xin cùng đi theo. Nhưng kết quả của cuộc đánh cá hoàn toàn bị thất bại: Các ông đã lao nhọc suốt đêm mà không bắt được con cá nào ! (Ga 21, 1-3).

b). Chúa Giêsu Phục Sinh xuất hiện trên bờ mà các môn đệ chưa nhận ra. Người chỉ cho các ông chỗ thả lưới. Các ông vâng lời và đạt kết quả lạ lùng. Gioan nhận ra Chúa Phục Sinh và nói với Simon Phêrô: “Chúa đó !”. Simon lập tức nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ, đang khi các ông khác thì chèo thuyền theo sau (Ga 21, 4-8).

c). Chúa Giêsu Phục Sinh đã dọn bữa sáng trên bãi biển và truyền cho các ông lấy thêm cá mới bắt được lên mà ăn. Các ông xuống thuyền kéo lưới lên bãi và đếm được một trăm năm mươi ba con cá lớn. Mọi người hiện diện dù không ai bảo ai cũng đều nhận biết Chúa. Rồi Người bẻ bánh trao cho các ông như Người đã từng làm trước đó (Ga 21, 9-14).

d). Chúa Giêsu Phục Sinh sát hạch Phêrô về lòng yêu mến trước khi trao quyền chăm sóc đàn chiên Hội Thánh cho ông. Người cũng tiên báo về cái chết thập giá đang chờ đón ông vào lúc cuối đời (Ga 21,15-19).

2) CHÚ THÍCH:

- Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này: Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh “. Rồi mọi người ra đi, lên thuyền. Nhưng đêm hôm ấy họ không bắt được gì cả (Ga 21, 1-3):

+ Đoạn kết của Tin Mừng thứ tư (Ga 20,30-31): Câu 31 nói lên mục đích của cuốn sách này là: Giúp cho độc giả tin vào Đức Giêsu là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa.

+ Riêng đoạn này (Ga 21,1-25): Là một phụ trương, không có trong Tin Mừng Nhất Lãm. Ngôn ngữ và cách hành văn ăn khớp với mọi phần ở trên. Có thể do một trong các đồ đệ của Gioan đã nghe Gioan giảng và viết lại, rồi ghép vào phần cuối của Tin Mừng này. Về ơn linh ứng: Tuy là phụ trương, nhưng được Giáo Hội công nhận là Lời Chúa và có giá trị ngang hàng với các đoạn Tin Mừng khác.

+ Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria: Tin Mừng Mátthêu cho biết khi hiện ra với Maria Mácđala và một bà khác tên là Maria, Chúa Giêsu đã yêu cầu các bà báo tin cho các môn đệ để họ đến Galilê gặp Người (Mt 28,1.10).

+ Ông Simon Phêrô,…: Tin mừng kể ra số các môn đệ đang ở chung một chỗ với nhau là 7 ông. Trong thời gian chưa biết phải làm gì, thì Simon nêu ra quyết định đi đánh cá như thời gian trước khi theo Đức Giêsu, và đã được các ông kia hưởng ứng đi theo.

+ Đêm hôm ấy họ không bắt được gì: Người ta thường đi đánh cá vào ban đêm. Nhưng hôm ấy các ông đã thất bại: Một cuộc ra đi đánh bắt luống công vô ích !

- Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông trả lời: “Thưa không” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước (Ga 21,4-8):

+ Đức Giêsu đứng trên bãi biển: Đối với người Do thái, biển là nơi có thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ thù nghịch…

+ Này các chú, không có gì ăn ư ?: Đức Giêsu biết rõ các tông đồ gặp phải thất bại khó khăn. Người chủ động hỏi thăm và hướng dẫn các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”.

+ Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó !”: Gioan luôn là người phát hiện ra Chúa Giêsu trước các anh em nhờ lòng mến Chúa.

+ Phêrô khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển: Tính tình Phêrô nóng nảy và phản ứng nhanh. Do đó, khi nghe Gioan cho biết “Chúa đó !”, thì Phêrô vội khoác áo vào và nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ để gặp Thầy.

- Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây !”. Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách (Ga 21,9-11):

+ Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên: Chính Đức Giêsu đã dọn bữa cho các môn đệ. Các ông được mời dự và tăng cường thêm bằng cá mới bắt được.

+ Simon Phêrô lên thuyền rồi kéo lưới vào bờ: Nếu Gioan là một con người suy tư chiêm niệm, nhìn thấy Đức Giêsu trước mọi người, thì Simon Phêrô lại là một con người dấn thân hoạt động. Suy niệm và hoạt động là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo Hội.

+ Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con: Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà vạn vật học thời xưa khám phá ra được 153 loại cá. Con số ở đây tượng trưng cho tất cả các dân tộc đều được kêu gọi gia nhập vào Giáo Hội: “Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển gom được mọi thứ cá” (x. Mt 13,47).

+ Lưới không bị rách: Sự hiệp nhất trong Giáo Hội được diễn tả qua hình ảnh “chiếc lưới không bị rách”, giống như áo dài của Đức Giêsu “không có đường khâu, được dệt liền từ trên xuống dưới”, đã không bị bọn lính xé ra chia nhau, nhưng bắt thăm xem ai được thì lấy (x. Ga 19,23-24).

- Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn !”. Không ai trong đám môn đệ dám hỏi: “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông. Rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết (Ga 21, 12-14):

+ “Anh em hãy đến mà ăn !”: Lời Chúa mời gọi các môn đệ đến ăn, giống như Người đã mời các ông tham dự bàn tiệc Thánh Thể (x. Mt 26,26).

+ Cầm lấy bánh trao cho các ông. Rồi cá, Người cũng làm như vậy: Bánh được trao cho các môn đệ giống cách thức Đức Giêsu đã làm khi hóa bánh ra nhiều (x. Ga 6,11). “Con Cá” tiếng Hy lạp gọi là LK-TUS. Đây là năm chữ đầu của một lời tuyên xưng: “Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa” (Lèsous Kristos Théou Unios Sôter). Khi chia sẻ Cá là Đức Giêsu chia sẻ niềm tin cho các môn đệ.

+ Không ai trong các môn đệ dám hỏi: “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là “Chúa”: Cuộc phục sinh đã khiến Đức Giêsu Nadarét hôm qua biến đổi nên một người mới. Đức Giêsu hôm qua đã trở nên “Đức Chúa” hôm nay.

+ Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ: Theo Gioan thì đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Lần thứ nhất vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần không có Tôma (x. Ga 20, 19-23); Lần hai vào 8 ngày sau đó có Tôma (x. Ga 20, 26-31).

- Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không ?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”. Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không ?” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không ?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy (Ga 21, 15-17):

+ “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?”: Qua ba lần hỏi về lòng mến, Đức Giêsu đã biến đổi Phêrô từ một người thuyền chài trở thành một vị Mục Tử. Người trao quyền lãnh đạo cho Phêrô, Đức Giêsu là Mục Tử duy nhất (x. Ga 10,11) trao sứ mạng cho Phêrô. Tuy nhiên đàn chiên vẫn luôn thuộc về Đức Giêsu: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

+ Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không ?”:Bị hỏi ba lần về lòng mến, Phêrô đau lòng liên tưởng tới ba lần ông đã chối Thầy (x. Ga 13,38; 18,17.25-27). Đây là thái độ tế nhị của Đức Giêsu: Không đề cập đến tội chối Thầy của Phêrô, mà chỉ yêu cầu ông 3 lần xác định tình yêu dành cho Thầy. Sau mỗi lần xác định lòng mến, Đức Giêsu lại tha tội và trao quyền chăn chiên: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (c. 15-17).

- Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng, và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào, để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21, 18-19):

+ Lúc còn trẻ…Nhưng khi đã về già…: Tuổi trẻ như biểu tượng của sự tự do và hoạt động (Đi đâu tùy ý). Tuổi già như biểu tượng của sự gò bó, giới hạn của bản thân và có tính cách thụ động ( “Anh sẽ phải dang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”).

+ Người nói như vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào ?: Quả thật, lời tiên báo này đã được ứng nghiệm. Vào lúc cuối đời, Phêrô đã phải chịu khổ hình thập giá trong cơn bách hại đạo tại Rôma, dưới triều hoàng đế Nê-rông.

II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA

CHỦ ĐỀ MỘT: Đánh bắt các linh hồn.

1) LỜI CHÚA: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21,6).

2) CÂU CHUYỆN 1: Tuyên xưng đức tin.

Trong tác phẩm Quo Vadis được giải thưởng Nô-ben về văn chương năm 1905, đại văn hào Sienkievich đã thuật lại câu chuyện tình lãng mạn giữa một chàng trai Mác-cút thuộc hàng quí tộc của đế quốc Rôma dưới triều hoàng đế Nê-rông, với một cô gái đạo công giáo, vốn là công chúa của nước Ba-lan, bị bắt làm con tin và đang bị quản thúc tại Rôma. Chàng trai cảm thấy mến cô gái ngay từ lần gặp đầu tiên, và đã không tiếc lời tán dương cô. Những lời khen ngợi ấy làm cho Li-ghi-a e thẹn. Cô không nói một tiếng nào, mà chỉ im lặng vẽ hình một con cá nhỏ trên mặt đất và bỏ về nhà. Mác-cút không hiểu ý nghĩa của hình con cá kia. Anh tìm đến hỏi ông cậu nổi tiếng là khôn ngoan nhất trong các cố vấn của hoàng đế Nê-rông, và ông này cũng bất lực không hiểu gì về ý nghĩa của hình con cá ấy ?

Nhưng đối với các tín hữu thời bấy giờ thì hình con cá là một dấu hiệu diễn tả lời tuyên xưng đức tin như sau: “Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa”. Qua hình ảnh này, dù đang bị bách hại, các tín hữu vẫn có thể nhận ra và động viên nhau trung thành với đức tin đến cùng.

3) CÂU CHUYỆN 2: Cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu ?

Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi tên là Charles de Foucauld đang say sưa kể cho mọi người trong gia đình nghe về những chiến công hiển hách của anh trong nhiều trận chiến, những cuộc thám hiểm ở Ma-rốc. Người chăm chú lắng nghe câu chuyện nhất là một bé gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa chấm dứt câu chuyện, thì bất ngờ cô bé đã đặt câu hỏi như sau: “Thưa cậu, cháu rất hãnh diện khi thấy cậu làm được những việc lớn lao cho nước Pháp. Thế nhưng cháu thắc mắc điều này là: Cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu ?”

Câu hỏi ấy như một luồng điện khiến anh giật mình. Từ trước đến nay, chưa bao giờ anh gặp câu hỏi nào khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế. Phải, “Anh đã làm gì cho Đức Giêsu chưa ?” Khi đối diện với Chúa, anh đã nhận ra rằng: từ trước đến nay anh đã phí phạm thì giờ ăn chơi xa xỉ, đã chạy theo bả vinh hoa phú quí cách vô ích. Giờ đây anh đã ý thức được về sự nghèo hèn của mình. Sau đó vài ngày, anh xin xưng tội với một linh mục và đệ đơn xin được nhập vào một dòng khổ tu, rồi anh xin bề trên đến ở thành Nadarét bên nước Ítraen, để sống cuộc sống tận hiến cho Chúa Giêsu.

Một ngày kia, đang lúc cầu nguyện trong nhà, anh bỗng nghe thấy có tiếng than van rên rỉ của một người Hồi giáo không biết phát xuất từ đâu. Anh liên tưởng đến lời Chúa Giêsu về thái độ phải có đối với những kẻ ghét mình, và anh quyết định sẽ trở thành bạn hữu của những người Hồi Giáo. Anh dời đến sống ở giữa sa mạc Sahara bên Phi châu nơi có nhiều người Hồi Giáo nghèo khổ. Thế rồi “điều phải đến đã đến”: Vào đầu tháng 12 năm 1916, khi đang cầu nguyện trong nhà, anh đã bị một toán người Hồi Giáo cực đoan kéo đến sát hại. Ngày nay các tiểu đệ và tiểu muội tiếp tục lý tưởng sống của anh. Lý tưởng ấy là tự nguyện đến sống giữa người nghèo để lao động và chia sẻ nỗi khốn cùng của họ, và giúp họ với hy vọng giúp họ thăng tiến vươn lên.

4) SUY NIỆM:

+Về dấu hiệu của các tín hữu: Ngày nay, các tín hữu chúng ta cũng có nhiều dấu hiệu giúp nhận ra nhau và giúp người ngoại nhận ra chúng ta là môn đệ Đức Kitô như sau: Anh Thánh giá được đeo; Việc làm dấu thánh giá; Việc cầu nguyện tại gia và đi lễ nhà thờ; Bàn thờ Chúa được lập trong nhà; Việc tham dự các khóa giáo lý Thánh kinh; Việc nói về Chúa cho những ai muốn tìm hiểu…

+ Tuy nhiên dấu hiệu của một môn đệ thực sự của Chúa Giêsu là: sống tình yêu thương, khiêm nhường phục vụ, chia sẻ cơm áo và an ủi giúp đỡ những người đau khổ bất hạnh; Thực hành kinh “Mười Điều Răn Đức Chúa Trời”, “Sáu điều răn Hội Thánh”, “Thương Người có Mười Bốn Mối”, “Phúc Thật Tám Mối” và kinh “Hòa Bình”…

5) THẢO LUẬN: Hiện nay, bạn có thể làm gì để biểu lộ đức tin ? Người bên lương thường phê phán các tín hữu chúng ta về điều gì ?

CHỦ ĐỀ HAI: Quyền chăn chiên của Phêrô

1) LỜI CHÚA: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21,15).

2) CẬU CHUYỆN: “Thầy đi đâu ?”

Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Nê-rông đang ra tay bách hại các tín hữu Chúa Kitô. Ông vua này sai thủ hạ đi đốt nhà dân chúng sống trong các khu nhà ổ chuột tồi tàn để xây dựng nhà mới cho khang trang hơn. Khi dân chúng nổi lên chống đối, thì Nê-rông liền đổ tội đốt nhà ấy cho các Kitô hữu và ra lệnh bắt bớ những ai theo đạo, kết án tử hình và xử tử tại khu hí trường ở Thủ đô Rôma. Một số khá đông các tín hữu đã trở thành miếng mồi ngon cho lũ sư tử đói khát vồ xé, số khác thì bị chết trong các cuộc thi giác đấu, số còn lại thì bị lên giàn hỏa thiêu hay bị đóng đinh tay chân vào thập giá…Trước tình thế nguy hiểm ấy, cộng đoàn ở Rôma đã khuyên Phêrô cấp thời cải trang chạy trốn khỏi thành.

Nhưng khi ra được ngoài thành, Phêrô gặp thấy một người mặc áo trắng đang đi ngược chiều vào thành. Ông nhận ra đó là Chúa Giêsu, Ông lên tiếng hỏi: “Thầy đi đâu ?” (Quo Vadis ?). Chúa Giêsu đáp: “Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa”. Sau đó, Người biến mất. Phêrô hiểu ý Chúa muốn ông quay vào thành để chịu chết vì danh Chúa, và ông đã làm theo lời Chúa, ông đã bị bắt, bị kết án tử hình và bị giam chung với các tín hữu sắp bị hành hình. Ông đã động viên an ủi họ và giúp họ giữ vững đức tin. Sau cùng tới lúc thi hành án, ông xin được chịu đóng đinh lộn đầu xuống đất, vì nghĩ mình không đáng được chịu cùng một khổ hình thập giá giống như Thầy !

3) SUY NIỆM:

+ Cái chết của Simon Phêrô đã được Đức Giêsu báo trước trong bài Tin Mừng hôm nay: “Khi về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng, và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”(x. Ga 21, 18-19). Sau khi đã nhận ra Chúa Phục Sinh (c.6-8), và được tham dự lễ Bẻ Bánh (c.9-13), tông đồ Phêrô đã được Chúa sát hạch về lòng mến Chúa để gián tiếp tha tội và cũng để ban quyền chăn dắt đoàn chiên (c.15-17).

+ Từ đây, Phêrô trở nên Mục Tử tối cao chăm sóc đoàn chiên của Chúa Giêsu. Cuối cùng, noi gương Thầy, Phêrô đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ông đã tình nguyện chịu chết để chứng tỏ một tình yêu tột đỉnh: “Yêu như Thầy đã yêu” (x. Ga 15,12).

4) THỰC HÀNH: Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân: Số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách xa dấu thập phân thì giá trị của nó càng thấp như: 000,000,1. Tuy nhiên nếu số “một” đứng đầu thì sau nó càng nhiều số “không”, thì càng tăng giá trị như: 1.000.000. Chúa chính là số “một” ấy. Vậy ta cần đặt Chúa lên hàng đầu trước mọi việc ta làm, làm vì lòng yêu mến Chúa, để giá trị công việc được gia tăng.

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Lúc chúng con đi tìm Chúa trong nước mắt sầu thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con, như Chúa đã gọi tên chị Maria Mácđala đang đứng khóc bên mộ trống. Lúc chúng con chán nản và muốn bỏ Chúa mà đi con đường cũ, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài, như Chúa đã đi với hai môn đệ làng Emmau. Lúc chúng con đóng kín cửa lòng vì sợ hãi, xin Chúa hãy ngự đến đứng giữa chúng con, như Chúa đã đến đem bình an cho các tông đồ. Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã không bỏ mặc tông đồ Tôma cứng lòng tin Chúa sống lại. Lúc chúng con vất vả thâu đêm mà không được kết quả nào, xin hãy quan tâm bổ dưỡng chúng con trong bữa tiệc Bẻ Bánh như Chúa đã nướng bánh và cá phục vụ bảy tông đồ trong Tin Mừng hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Xin tỏ mình ra cho chúng con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong Giáo Hội và nơi tha nhân. Nhờ đó, chúng con luôn xác tín rằng: Chúa vẫn đang sống, đang đến với chúng con, đang ở bên chúng con và đang ở trong chúng con. Chúa vẫn đang thổi hơi ban Thần Khí Chúa cho chúng con, hầu giúp chúng con chu toàn sứ mạng “được sai đi” loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2) Lạy Mẹ Maria. Hôm nay trên bờ hồ Galilê, Chúa Giêsu Phục Sinh lại xuất hiện để cho các ông được kế thừa sứ mạng thả lưới bắt các linh hồn. Chính nhờ vâng theo lời Chúa đã đưa kết quả thật lạ lùng, đã biến thất bại trước đó nên thành công, biến nỗi vất vả trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta trở thành niềm vui cho chúng con.

Lạy Mẹ Maria. Chúng con cũng xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho các vị mục tử đang chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Xin Chúa Phục Sinh đổ đầy Thần Khí sự sống thiêng liêng trên các vị chủ chăn của chúng con. Xin gia tăng lòng tin cậy mến cho các ngài, để nhờ đó các ngài sẽ được Chúa tha thứ những lầm lỗi khuyết điểm và giúp các ngài chu toàn sứ mạng chăn dắt đoàn chiên, giúp cho đoàn chiên của Chúa mỗi ngày một thêm đông số, “được sống và được sống cách dồi dào”.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Trích Hiệp Sống Lời Chúa

Lm Đan Vinh

-----------------------------------

 

PS 3-C22: Anh có mên Thầy không ?


CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH

Ga 21,1-19


 

Khi xem cuốn phim: “Cuộc Thương Của Chúa Giê-su” của đạo diễn Mel Gibson, ta thấy cảnh ông Phê-rô: PS 3-C22


Khi xem cuốn phim: “Cuộc Thương Của Chúa Giê-su” của đạo diễn Mel Gibson, ta thấy cảnh ông Phê-rô chối Chúa, rồi cũng thấy cảnh ông khóc lóc, ăn năn về lầm lỗi của mình. Có lẽ Phê-rô cũng rất đau buồn về lỗi lầm đó.

Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại cảnh, sau một bữa tiệc, Chúa Giê-su hỏi Phê-rô những ba lần rằng: “Anh có mến Thầy không?”. Khi đó có nhiều bạn đồng môn của Phê-rô cùng hiện diện ở đó. Nhất là nỗi đau chối Thầy vẫn còn hằn sâu trong tâm khảm ông. Với ba câu hỏi liên tiếp dã đụng tới nỗi đau đớn thẳm sâu trong cõi lòng của ông. Thế nhưng ông không tự ái, mà còn khẳng định lòng yêu mến Thầy của mình. Lòng yêu mến này được thể hiện cụ thể qua suốt cuộc đời còn lại, mà đỉnh điểm là cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa Phục sinh.

Ngày nay, nếu Chúa hỏi mỗi người chúng ta: Con có mến Thầy không? Thì các bạn trả lời thế nào? Chúng ta cũng dám trả lời là “có”. Nhưng lấy gì để đảm bảo cho câu trả lời của chúng ta là thực và lâu dài? Đây mới là vấn đề cần đặt ra.

Ngay lúc này, chúng ta nói là con yêu mến Chúa hết lòng. Thế rồi sau đó chúng ta lại phạm tội. Con người chúng ta yếu đuối dễ thay đổi. Người Việt Nam chúng ta có câu: “Mấy ai nắm tay đến tối, gối đầu đến sáng”. Không ai nói trước được điều gì. Bởi vì “nói trước bước không qua”. Ngay thánh cả Phê-rô cũng thế, mới hôm trước thề sống thề chết: dù mọi người có bỏ Thầy chăng nữa, còn con quyết theo Thầy đến chết (x. Ga 14,37); thế rồi không bao lâu sau đó ông đã chối Thầy, không chỉ một lần mà tới những ba lần (x. Ga 18, 17-27).

Thế nhưng, sau khi Chúa Giê-su Phục sinh ban Thánh Thần cho các môn đệ, từ đó trở đi, Phê-rô trở thành một con người kiên trung rao giảng và làm chứng cho Chúa Giê-su Phục sinh, bất chấp gông cùm, tra tấn, tù ngục và chết chóc. Tại sao Phê-rô lại có sự thay đổi kỳ diệu như thế? Trước khi Chúa Phục sinh thì Phê-rô là một con người tự nhiên thuần tuý - yếu đuối, dễ thay đổi, ham sống sợ chết. Còn sau khi Chúa Giê-su Phục sinh, được dồi dào ơn Chúa Thánh Thần ông đã trở thành một con người mới, con người của Thần Khí. Bởi vậy lời nói của ông: “Con yêu mến Thầy” là lời hứa của con người Thần Khí, nên chắc chắn, khó có thể đổi thay.

Còn chúng ta? Chúng ta giống Phê-rô ở giai đoạn nào? Có người nghĩ mình giống Phê-rô ở giai đoạn đầu, vì mình vẫn còn yếu đuối, sai lầm, thiếu sót mà! Chúng ta hãy nhớ lại, nếu là người Ki-tô hữu trưởng thành, có nghĩa là đã chịu các bí tích Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể, thì đã lĩnh nhận dồi dào ơn Chúa Thánh Thần. Như vậy là chúng ta giống Phê-rô ở giai đoạn sau khi Chúa Giê-su Phục sinh. Đáng lẽ chúng ta phải can đảm sống, rao giảng, và làm chứng cho Chúa Giê-su Phục sinh như thánh Phê-rô vì nhờ Chúa Giê-su Phục Sinh chúng ta cũng là con người của Thần Khí như Phê-rô. Nhưng trong thực tế, chúng còn cách xa thánh Phê-rô nhiều lắm. Sức ì của con người còn líu kéo chúng ta quá mức. Chúng ta chỉ giống Phê-rô ở giai đoạn trước mà chưa giống Ngài ở giai đoạn sau. Hôm nay là dịp để chúng ta suy gẫm về con người Phê-rô. Để rồi ta bắt chước Phê-rô. Phê-rô có lúc sa ngã nhưng sau đó chỗi dậy cách can đảm. Sự chỗi dậy đó (cùng với ơn Chúa) đã biến đổi con người Phê-rô một cách toàn diện. Phê-rô và Giu-đa đều sa ngã, nhưng hai con người đó khác nhau ở chõ, Phê-rô thì ăn năn trở lại, còn Giu-đa thì không được như vậy. Nếu ta sa ngã mà không chỗi dậy thì ta cũng chỉ giống như Giu-đa mà thôi. Đây là điều không ai muốn. Ai cũng muốn bắt chước Phê-rô nếu trót sa ngã thì can đảm đứng dậy, với ơn Chúa trợ giúp, chúng ta sẽ đứng dậy và đứng thẳng trong Chúa Phục sinh. Mặc dù là người Ki-tô hữu trưởng thành, nhưng với thân phận con người, chẳng ai tránh khỏi thiếu sót, điều quan trọng là luôn biết đứng dậy và bước đi trong đường ngay nẻo chính.

Lậy Chúa Giê-su, Chúa đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh để cho chúng con trở thành những con người mới. Xin biến đổi chúng con như xưa đã biến đổi Phê-rô, để chúng con can đảm sống đạo cách sốt sắng như thánh Phê-rô xưa, để nhờ đó mà mọi người nhận ra Chúa Phục sinh và sống trong ân sủng mà Chúa Phục sinh đem lại cho mỗi người chúng ta. Amen.


Têphanô Mai Bình An

-----------------------------------

 

PS 3-C23: Chúng tôi cùng đi với anh


CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH C / 3rd Sunday of Easter

Lời Chúa cho hôm nay: CHÚNG TÔI CÙNG ĐI VỚI ANH

* We also will come with you –


 

Thánh Phaolô và các tông đồ khác nói: Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.: PS 3-C23


* BÀI ĐỌC 1: Công vụ 5, 27- 32; 40- 41= Thánh Phaolô và các tông đồ khác nói: Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm./ But Peter and apostles said in reply: We must obey God rather than men.

* BÀI ĐỌC 2: Khải huyền 5, 11- 14= Các vị lớn tiếng hô Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý v uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh./ They cried out: Worthy is the Lamb that was lain to receive power and richs...

* TIN MỪNG(Gospel): Gioan 21, 1- 19= Đưc Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria, Ngài nói: Này các chú, không có gì ăn ư?/ At the Sea of Tiberias Jesus showed Himself to the disciples: “Children, have you...to eat?”

A. Bạn và tôi cùng Cảm- Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and share )

1/ Bài Tin Mừng nói: khi các môn đệ cả đêm không bắt được gì, Đức Giêsu hiện ra lần nữa, Ngài đứng trên bãi biển nhưng các môn đệ không nhận ra: Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, anh em sẽ bắt được cá...” Các môn đệ đã thưc hành Lời Chúa và bắt được nhiều cá, nhiều tín hữu chỉ muốn tham vọng chóng qua, bắt Chúa phải làm theo ý mình; nhưng không thực hành điều Chúa muốn nên đã that bại và nản lòng. Trong cuộc sống hôm nay, tôi đã để Chúa dẫn dắt như thế nào? (Hành đạo)

“So He said to them: “Cast the net over the right side of the boat and you find something.” ( Gioan 21, 6 )

2/ Kết quả vâng Lời Chúa như sau: “Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.” Vì vâng Lời Chúa, các ông đã chinh phục được nhiều tín hữu hiệp nhất. Con số 153 chỉ tượng trưng mọi dân tộc được quy tụ lại trong một Giáo hội của Chúa. Bạn đã làm gì cho Gia đình hay Cộng đoàn hiệp nhất?(Sống đạo)

“So Simon Peter went over and dragged the net ashore full of one hundred fifty-three large fish.” ( Gioan 21, 11 )

3/ Sách Công vụ thuật lại các thượng tế nghiêm cấm các tông đồ giảng dạy. Bấy giờ ông Phêrô và các tông đồ đáp lại: “Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” Tín hữu hôm nay cần được các vị thay thế các tông đồ xưa, tổ chức cung cấp nhiều sách Phúc âm, phát động nhiều buổi học hỏi và chia sẻ Lời Chúa song song với các chương trình kiến thiết, tiệc mừng kỷ niệm khác...; để xứng đáng với thánh thiện và tông truyền của Chúa &Giáo hội. Tôi thật sự quan tâm tới truyền bá Tin Mừng thế nào?(Học đạo)

“We must obey God rather than men.” (Công vụ 5, 29)

4/ Vì vâng Lời Thiên Chúa mà các Tông đồ đã là chứng nhân hữu hình nên bị: “Họ cho gọi các ông lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu...” Nhưng Thánh Thần là chứng nhân vô hình, đã biến các ông là những người nhút nhát thành can đảm, ít học, dốt nát thành người ăn nói lưu loát và am tường Thánh Kinh. Các ông laị phấn khởi chịu xỉ nhục, bị xỉ vả là ô nhục mà lại vui mừng khi bị đánh đòn vì danh Đức Giêsu. Bạn đã làm chứng cho Chúa trong Xã hội bằng cách nào? ( Sùng đạo)

“The Sanhedrin ordered the apostles to stop speaking in the name of Jesus and dimissed them.” (Công vụ 5, 40b)

B. Câu Kinh Thánh dạy tôi Sống thực hành Lời Chúa tuần này: ( The Best God’s Word )

CỨ THẢ LƯỚI XUỐNG BÊN PHẢI MẠN THUYỀN, ANH SẼ BẮT ĐƯỢC CÁ (Ga 21, 6)

Cast the net over the right side of the boat and you will find something.”

C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì cụ thể để Sống chứng nhân: ( So what am I doing / For Action )

Tôi có thể chọn 1 trong 4 gợi ý Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống hay một việc làm cụ thể khác.

D. Bạn và Tôi cùng cầu nguyện và Sống lời mình cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action.)

Lạy Cha, các Tông đồ đã can đảm nói: Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm. Xin cho con biết mạnh dạn chịu đau khổ và vui mừng khi được làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu trong xã hội nhiều khó khăn hôm nay.


Hoa thơm cỏ lạ: GIỐNG CHÚA KITÔ THÌ LUÔN LUÔN HỢP THỜI TRANG

Christlikeness is always in season

Ptế Nguyễn Định

-----------------------------------

 

PS 3-C24: Thời gian dành cho sứ mạng các Tông Đồ


Bài đọc 1: Cv 5, 27-32.40-41; Bài đọc 2: Kh 5, 11-14; Bài Tin Mừng: Ga 21, 1-19

CHỦ ĐỀ CÁC BÀI ĐỌC


 

Sau khi Đức Giêsu Kitô sống lại là đến thời gian dành cho sứ mạng của các tông đồ. 150 con cá: PS 3-C24


Sau khi Đức Giêsu Kitô sống lại là đến thời gian dành cho sứ mạng của các tông đồ. 150 con cá bắt được một cách lạ lùng tượng trưng tính chất phổ quát và hoàn hảo của sứ mạng của các tông đồ và của Hội Thánh. Đức Kitô phục sinh đã ba lần trao sứ mạng cho Phêrô là: “Hãy chăn dắt các chiên của Thầy” (Bài Tin Mừng). Sau Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ bắt đầu thực hiện sứ mạng lãnh nhận, đi rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1). Sứ mạng không chỉ nhằm cho người ta biết Đức Kitô mà còn đưa họ đến việc tôn thờ Ngài như là Chúa và là Thiên Chúa của họ (Bài đọc 2)

SỨ ĐIỆP NIỀM TIN

Sứ mạng của Hội Thánh.

Theo cách riêng của mình mỗi tác giả Tin Mừng đều trình bày sứ mạng phổ quát của Hội Thánh như là một phần nền tảng của sứ điệp của Đức Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan sử dụng các biểu tượng theo cách riêng của ông. Biển, hình ảnh về thế giới, về mọi dân tộc rất quen thuộc trong thời của Đức Giêsu cũng như của tác giả Tin Mừng; Hình ảnh chiếc thuyền, ví dụ như chiếc thuyền quốc gia, cũng rất quen thuộc, ít ra là với người Hy Lạp và La Mã. Dựa trên một số đoạn văn trong Tân Ước (Lc 5, 3; Mt 8, 23; Mc 1, 17; Ga 21, 1-4) các kitô hữu tiên khởi muốn nói về con thuyền Hội Thánh. Riêng Thánh Gioan có cách dùng biểu tượng khác. Ta nói đến con số những con cá bắt được: 153 con. Theo nền văn hóa thời Đức Giêsu, con số có một giá trị biểu tượng và thường được người ta dùng. Con số 153 chỉ sự trọn vẹn, hoàn hảo. Thường người ta giải thích bằng hai cách: 1+5+3 bằng 9, bội số của 3 và nhờ đó nhấn mạnh đến cao độ của sự trọn hảo. Một cách giải thích khác về sự trọn hảo: 144 là bội số của 12; nếu ta cộng 9 với 144 ta được 153. Đây cũng là một cách để nhấn mạnh đến sự trọn vẹn. Tóm lại, sứ mạng của Hội thánh, trong biển đời, chẳng khác nào một ngư phủ đánh bắt mọi người không trừ ai, và dẫn đưa họ về bến cảng bình an của niềm tin và của đời sống vĩnh cữu.

Hình ảnh con thuyền và việc đánh cá được bổ túc bằng một hình ảnh khác: hình ảnh của người mục tử và đàn chiên. Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử tốt lành, nói với Phêrô: “Hãy chăn các con chiên của Thầy”. Tiên tri Êgiêkien đã gọi Thiên Chúa là Mục Tử của dân Ítraen; Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh này để nói về chính mình như mục tử của Hội Thánh, và giao phó cho Phêrô sứ mạng của Ngài. Người Mục Tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, yêu thương, che chở và nuôi dưỡng chúng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ đến độ hy sinh mạng sống mình. Sứ mạng của Phêrô và của mọi mục tử trong Hội Thánh phải lấy đó làm gương để mọi con chiên được ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Hai cách để chu toàn sứ mạng.

Trong bài sách Công Vụ (bài đọc 1), sứ mạng được thực hiện bằng việc rao giảng. Các tông đồ rao giảng Đức Giêsu Kitô, đặc biệt mầu nhiệm về sự chết và sống lại của Người, và “lưới bắt đầu đầy cá”. Việc rao giảng mang lại kết quả đến độ các nhà lãnh đạo Do Thái hoảng sợ và cho tống giam các tông đồ vào ngục. Phêrô và các tông đồ đáp lại: “Nghe lời Thiên Chúa hơn là nghe lời người đời.” Là những người đã lãnh nhận cùng một sứ mạng như Đức Giêsu, lại có thể đầu hàng sao? Có sứ mạng nào sánh bằng sứ mạng này trong cuộc đời sao? Các tông đồ cảm thấy không thể có được, và họ đã không ngại bằng mọi giá hoàn thành sứ mạng của họ.

Phương cách thứ hai rút từ sứ mạng, đó là bằng cách tôn thờ, đặc biệt là thái độ thờ phượng Đức Giêsu, Chiên Hy Tế. "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.” (bài đọc 2). Để sứ mạng của các tông đồ được hoàn thành, việc rao giảng phải đưa đến việc tôn thờ. Biết Đức Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta mà không thờ phượng Người như là Chúa và là Thiên Chúa, như vậy là chưa hoàn thành sứ mạng. Tách biệt hai thực tại này hoặc quá quên lãng một trong hai điều trên thì cũng đồng nghĩa với một hình thức độc thể thuyết có tính tông đồ và mục vụ.

GỢI Ý MỤC VỤ

Truyền giáo trong cộng đồng thế giới.

Ngày nay, thế giới trở thành ngôi nhà chung. Việc truyền thông, thế giới tài chính và thế giới tư tưởng là không biên giới. Nhờ vào vô tuyến truyền hình, mọi người có thể đồng thời theo dõi bất cứ một nghi lễ nào của Đức Giáo Hoàng từ bất cứ nơi nào trên thế giới, nhờ vào mạng Internet, người ta có thể trao đổi về bất cứ chủ đề nào với các người nam nữ ở cách xa nhau hàng ngàn cây số. Với những phương tiện đó, các kitô hữu phải tiếp xúc được những người có một cuộc sống khác ta, có một lối sống khác ta, theo một tôn giáo hay những niềm tin khác ta. Hiện tượng này có thể khơi dậy một tình trạng khủng hoảng nào đó nơi các kitô hữu, điều này có thể dẫn họ rơi vào thuyết tôn giáo tương đối. Tuy nhiên, công bình mà nói, có thể đó là cơ may tuyệt diệu cho họ thực hiện sứ mạng toàn cầu của Hội thánh, trên một quy mộ rộng lớn nhất và với những phương tiện hiện đại nhất. Khi nào thì Hội Thánh có nhiều phương tiện hơn để rao giảng Đức Kitô? Có lẽ chúng ta đối diện với thách đố mạnh mẽ nhất trong lịch sử trong sứ vụ toàn cầu của Hội Thánh. Sứ vụ toàn cầu lớn lao này không chỉ dành cho một số ít các vị thừa sai thực hiện nơi những vùng chưa được phúc âm hóa; nó phải được mỗi kitô hữu chúng ta thực hiện, ngay từ nhà riêng của tôi, văn phòng của tôi. Phải hiểu rõ rằng sứ mạng toàn cầu của Hội Thánh đòi mỗi kitô hữu sống niềm tin của mình, và sẵn sàng giải thích niềm tin cho bất cứ ai cần hỏi, trên đường phố, trong văn phòng hay trên mạng Internet.

Thực hành việc tôn thờ Thánh Thể.

Tôi nghĩ rằng trong những thập niên vừa qua, việc tôn thờ Thánh Thể đã giảm sút nơi người tín hữu. Có nhiều nhấn mạnh đến cộng đoàn phụng vụ mà ít để ý đến Đấng mà cộng đoàn quy tụ xung quanh. Rồi tính chất lễ hội của các bí tích được làm nổi bật hơn là lòng tôn thờ. Thỉnh thoảng cũng nhấn mạnh vài điểm như Đức Giêsu Kitô là người bạn, người thầy và người mẫu mực cho ta, trong khi đó hình ảnh Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Thiên Chúa của ta lại bị lãng quên. Những lý do này hay khác đã làm giảm thiểu ý thức lòng tôn thờ của người kitô hữu. Khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, đặt mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời làm trung tâm điểm, là cơ hội thuận tiện cho ta canh tân và tái khám phá tinh thần tôn thờ đối với Đức Giêsu Kitô. Sách Giáo Lý dạy: “Để đào sâu đức tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, Hội Thánh coi trọng việc thinh lặng tôn thờ Chúa đang ngự trong Mình Thánh.” (số 1379). Ý thức về sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô trong Mình Thánh cần phải được chấn hưng và làm sống động lại. Nơi số 2145, Sách Giáo Lý viết tiếp, “Việc rao giảng và huấn giáo phải được thực hiện trong tinh thần thờ phượng và tôn kính đối với Thánh Danh Đức Giêsu Chúa chúng ta.” Các giáo lý viên và những nhà rao giảng phải suy niệm điều này! Để có thể tự đổi mới, thế giới cần một Hội Thánh có tinh thần tôn thờ hơn.


Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển ngữ

-----------------------------------

 

PS 3-C25: Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần


Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19

 

Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất PS 3-C25


Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất nói lên niềm xác tín của các tông đồ khi tuyên bố sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và chính Đức Chúa Cha đã phục sinh Con chí ái của Ngài. Điều này bây giờ chúng ta cho là hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi nữa. Nhưng vào thời buổi đó thì thật là hết sức quan trọng và không bao giờ các vị tư tế cũng như biệt phái thời đó chấp nhận được. Họ có thể chấp nhận một người từ cõi chết sống lại (thí dụ trường hợp Lazarô em của Matta) dù khó tin nhưng còn có thể hiểu được... đàng này nói "ông ta" là Con Thiên Chúa thì là phạm thượng vô cùng và đi ngược lại với tất cả niềm tin của Do Thái về một Thiên Chúa duy nhất... dù cho đến ngày nay họ cũng không thể chấp nhận điều này. Như thế việc rao giảng "tín điều" mới này cũng không phải là dễ đối với các tông đồ thời đó, cho nên các ngài đã tuyên bố: "Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần". Nếu có Chúa Thánh Thần thì không thể nói là chúng tôi đã "rượu vào lời ra" và dù có bị cấm cách, đánh đòn, tra tấn đến đâu đi nữa thì chúng tôi vẫn "phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta".

- Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng và thiên tính: thánh Gioan là vị tông đồ của tình yêu cũng là người sống lâu nhất của nhóm 12 đã từng được chứng kiến tận mắt những gì đã xẩy ra ngay từ đầu trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cho đến khi ngài bị kết án, sống lại, lên trời... thì chắc chắn nhân chứng của ngài về "thiên tính" Đức Kitô phải có một nền tảng và giá trị vững chắc hơn ai hết. Cũng như các con chiên vẫn hiến tế mỗi ngày trong đền thờ Giêrusalem mà ai cũng nhìn nhận thấy tận mắt, thánh Gioan đã dùng hình ảnh này để diễn tả thật thâm sâu mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô. Thời đó dân chúng biết rằng Do Thái giáo không "sát tế" sinh mạng con người nữa như thời Abraham-Isaac mà họ thay thế vào đó là những con vật (chiên bò) hiến tế thay cho chính mạng sống con người (là dân chúng). Dù hy lễ là người hay chiên bò thì máu vẫn là biểu tượng của sự sống, chỉ có một mình Đấng Tạo hóa mới có quyền trên sự sống mà thôi... vì thế không ai có quyền diệt sự sống nơi anh em mình và cũng không có quyền tự diệt sự sống nơi chính mình và cho đến ngày nay: giết người, tự tử, phá thai vẫn là một trọng tội trong Do Thái giáo... Cho nên bấy giờ, theo thánh Gioan, chính Đức Kitô cũng như một con chiên vô tội đã chấp nhận bị "sát tế" thay cho toàn dân và cả nhân loại để làm "của lễ toàn thiêu" dâng kính Đức Chúa Cha thì chắc chắn rằng của lễ này sẽ là của lễ toàn thiện, toàn hảo nhất và cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha nhất.

- Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn... tôi vẫn còn nhớ cách đây 22 năm khi còn đang nằm bãi Vũng Tầu chờ thời ra đi vượt biển: rất giống cảnh hôm nay trong Phúc âm... Chưa đến 5 giờ sáng khi trời còn tối lắm thì đã nghe tiếng các bạn chài gọi nhau ơi ới, tiếng của những người rao bán hoặc đi mua tôm cá thật sớm... Cũng thế hôm nay có một "chàng nghệ sĩ" tóc phủ vai đang ung dung ngồi nướng cá và bánh; trong ánh lửa chập chờn các bạn chài của anh chưa nhận ra anh ngay và đang táp thuyền vào bờ với những tiếng thở dài mệt nhọc vì cả đêm họ chả được con cá nào... Không có cá thì lấy gì mà điểm tâm đây vì thế họ vẫn chưa muốn vào bờ. Chàng bảo họ hãy thả lưới bên phải... thế là họ trúng mối được đầy thuyền ca và cùng lúc đó họ cũng nhận ra chàng chính là Đức Kitô, vị sư phụ trẻ đã tuyên bố là Ngài sẽ sống lại từ cõi chết trước khi trước khi bị kết án trên thập giá. Đúng là Ngài chăng? Nhưng không một ai dám hỏi điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn sau khi đã đọc lời chúc tụng... và tất cả các môn đệ đã nhận ra Ngài.

Xin Đức Kitô phục sinh ban cho chúng ta một niềm tin vững vàng nơi Ngài dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào trong cuộc sống tha hương này cũng như biết và nhận ra Ngài trong mỗi người anh chị em chúng ta dù họ là bần cùng khó nghèo nhất trong xã hội.


Lm. Joseph Vũ Mộng Thơ

-----------------------------------

 

PS 3-C26: Anh là Phêro nghĩa là tảng đá

 

Chương đầu sách Tin Mừng của Gioan cho thấy nhân vật chính là Đức Giêsu được vị ngôn sứ cuối: PS 3-C26


Chương đầu sách Tin Mừng của Gioan cho thấy nhân vật chính là Đức Giêsu được vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước giới thiệu (Ga 1,35). Kết quả là hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả liền đi theo Đức Giêsu (c.37). Hai ông này chỉ là những môn đệ đầu tiên. Tiếp theo còn có một loạt những môn đệ khác, trong số đó có ông Simon, con ông Gioan, được Đức Giêsu gọi bằng một tên đặc biệt là Kêpha (c. 42) nghĩa là "Đá!". Danh xưng này gợi ý độc giả nhớ lại lời Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố về vai trò Người trao phó cho khi nói: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16,18).

Hai mươi chương sách Tin Mừng của Gioan đã cho thấy nhân vật chính là Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chết, nhưng qua sự chết mà Người tự nguyện lãnh lấy, Người đã bày tỏ vinh quang của Người bằng việc Người phục sinh. Sách Tin Mừng quả thật đã kết thúc ở chương 20. Chương 21 được thêm vào để cho thấy Đức Giêsu Phục Sinh còn ở lại với các môn đệ như thế nào, đặc biệt với ông Simon, con ông Gioan, mà Người gọi là Kêpha, nghĩa là Đá Tảng. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thế nào là Hội Thánh được Đức Giêsu thiết lập trên ông Simon Phêrô.

Hình ảnh sống động nhất về Hội Thánh như sách Tin Mừng của Gioan mô tả là: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho… Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được." (Ga 15,1-5).

Quả thật phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay trình bày một số những yếu tố đã thấy trong trình thuật về mẻ cá lạ lùng mà sách Tin Mừng của Luca kể ở chương 5. Trong chương này Luca đặt ta trong bối cảnh đời sống làm ăn của dân chài hồ Galilê với một số người đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Chính lúc ấy, Đức Giêsu xuất hiện với đám đông dân chúng chen lấn nhau. Người phải xuống một chiếc thuyền để ngồi trên đó mà giảng cho dân chúng. Luca xác định rõ đó là thuyền của ông Simon (Lc 5,3).

Phêrô Hoàn Toàn Bị Khuynh Đảo Trước Mẻ Cá Lạ Lùng

Giảng xong, Đức Giêsu bảo ông Simon chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông liền thưa: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy tôi sẽ thả lưới." (c.5). Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Cá được chất lên hai chiếc thuyền đầy đến nỗi gần chìm (c.7). Đó là lúc Phêrô hoàn toàn bị khuynh đảo. Ông sấp mình dưới chân Thầy Giêsu mà thưa: "Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi." (c.8).

Câu chuyện mẻ cá lạ lùng nói trên hầu như được lặp lại trong bài Tin Mừng hôm nay tuy với bối cảnh khác hẳn: Ở đây Đức Giêsu sau khi đã tự nguyện lãnh lấy cái chết, Người đã sống lại. Riêng ông Simon Phêrô tuy đã chối Thầy nhưng Thầy đã không bỏ ông. Nhờ cái nhìn dịu hiền và tha thứ của Thầy nên ông đã ra ngoài, khóc lóc thảm thiết (Lc 22,62). Do đó ông vẫn còn là điểm qui tụ của các môn đệ của Đức Giêsu Phục Sinh. Do đó ông vẫn còn là điểm qui tụ của các môn đệ của Đức Giêsu Phục Sinh. Ông lên tiếng kêu gọi thì mọi người đều đáp ứng để đi đánh cá với ông (Ga 21,3). Nhưng đêm ấy Phêrô và các bạn không bắt được con cá nào (c.3). Lý do được hiểu ngầm là vì thiếu vắng Đức Giêsu trong đêm tối.

Màn Tin Mừng này bỗng trở nên khác hẳn khi trời đã sáng, với Đức Giêsu đứng trên bãi biển, cho dầu các môn đệ chưa nhận ra đó chính là Đức Giêsu (c.4). Đức Giêsu đã đi bước trước khi hỏi các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" Tiếp theo câu trả lời "Thưa không" của các ông, Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá." (c.6). Quả thật, các ông vừa làm theo lời Đức Giêsu dạy, lưới các ông liền đầy cá đến nỗi các ông không sao kéo lên nổi. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến liền nói với ông Phêrô: "Chúa đó!" và Phêrô vội khoác áo vào vì ông đang ở trần, để đến với Đức Giêsu.

Điều Được Tái Xác Nhận Trước Than Hồng Cùng Với Bánh và Cá Nướng

Thế là chính Đức Giêsu Phục Sinh tái xác nhận Người sẽ can thiệp để làm cho nên trọn điều Người đã nói với ông Phêrô sau mẻ cá lạ lùng trong trình thuật của Luca là "Đứng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá." (Lc5,10; xem Cv 2,41-47). Người còn cung cấp than hồng cùng với bánh và cá nướng, làm cho các môn đệ được ấm no sau một đêm làm việc vất vả (c.13). Ở đây tiệc Thánh Thể được ám chỉ cho thấy chính Đức Giêsu, đã trở nên của ăn của uống bảo đảm cho sự sống đời đời cho các môn đệ.

Tột đỉnh của bài Tin Mừng hôm nay là việc Đức Giêsu Phục Sinh phục hồi lại tư cách môn đệ của Phêrô với ba câu hỏi đầy kịch tính. Kế đến là việc Chúa giao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên của Chúa (cc.15-17).

Ba Lần Bị Chất Vấn Về Tình Yêu

Ba lần Đấng Phục Sinh lên tiếng hỏi Phêrô "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" Ba lần Phêrô đều trả lời "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Hầu hết các nhà bình giải Kinh Thánh đều đọc thấy ở đây việc Đấng Phục Sinh giải toả tội chối Thầy ba lần của Phêrô. Phêrô được phục hồi lại tư cách môn đệ chính ông đã đánh mất khi chối Thầy. Phải là môn đệ trung thành của Chúa để làm người tông đồ cho Chúa. Phêrô không dám tự hào rằng mình yêu Thầy hơn ai. Nhờ ơn hối cải Chúa ban, ông cậy dựa vào hiểu biết của Chúa mà thôi (c.17)

Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc nuôi dưỡng hoặc chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Tại sao phải lặp đi lặp lại ba lần như vậy? Lý do vì ở Trung Đông xưa cũng như nay, người ta có thói quen nói đi nói lại ba lần trước các chứng nhân điều gì đó cần được nói lên một cách long trọng. Ở đây điều được nhấn mạnh là vai trò của Phêrô là mục tử. Vai trò ấy phải thấm nhuần tinh thần là: "Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Phêrô 5,2-4).

Điều rất đáng chú ý là bài Tin Mừng hôm nay được viết và được đọc nơi Giáo Hội sơ khai sau khi ông Phêrô đã qua đời tới hai mươi hoặc ba mươi năm. Điều đó cho thấy vai trò mục tử của Phêrô vẫn còn giữ nguyên tầm quan trọng dọc theo lịch sử.

Một số câu hỏi gợi ý

1. Bạn thấy điều gì nổi bật khi so sánh hai trình thuật về mẻ cá lạ lùng theo Luca 5,4-11 và theo Gioan 21,1-14? Làm thế nào để sinh hoa trái dồi dào cho đời sống Kitô của bạn?

2. Bạn nghĩ điều gì được tái xác nhận trước bối cảnh than hồng cùng với bánh và cá nướng trong bài Tin Mừng hôm nay?

3. Bạn hiểu và cảm nghiệm được gì qua ba lần Phêrô bị chất vấn về tình yêu của ông đối với Thầy Giêsu? Bạn nghĩ tinh thần của đoạn thư 1Phêrô 5,2-4 có thể được áp dụng với những người làm cha làm mẹ đối với con cái trong gia đình chăng?


Lm Augustine, S.J

-----------------------------------

 

PS 3-C27: Can đảm làm chứng cho Chúa


A. CÁC BẢN VĂN KINH THÁNH

Bài đọc 1 Cv 5,27-32.40b-41


 

Trước kia các Tông Đồ nhút nhát và thường nản lòng, nhưng bây giờ hết sức vui mừng được chịu: PS 3-C27


Trước kia các Tông Đồ nhút nhát và thường nản lòng, nhưng bây giờ hết sức vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giê-su Ki-tô. Các ngài mời gọi chúng ta cũng can đảm làm chứng cho Chúa mà không hề sợ hãi.

Lời Chúa trong sách Công vụ Tông Đồ.

27 Bấy giờ, các Tông đồ bi điệu đến giữa Thượng Hội Đồng ; vị thượng tế hỏi các ông rằng: 28 "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi !" 29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. 30 Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi ; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, 31 và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. 32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."

40b Bấy giờ, họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra. 41 Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.

Đó là lời Chúa.

Đáp ca Tv 29

Tác giả thánh vịnh suýt chết và ông đã kêu cầu Chúa. Nhờ kinh nghiệm, bây giờ ông mới hiểu rằng Thiên Chúa ban sự sống cho ông. Đây là lời tạ ơn của Đức Ki-tô Phục Sinh và của hết thảy những chứng nhân đã nếm mùi thử thách.

Câu đáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa, vì Chúa đã cứu con.

Bài đọc 2 Kh 5,11-14

Thánh Gio-an được phúc chiêm ngưỡng thiên quốc trong đó Đức Giê-su, Con Chiên Vượt Qua, từ nay đã chiến thắng và toàn thể triều thần thánh cùng muôn loài thụ tạo lần lượt đến tôn thờ Người.

Lời Chúa trong sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.

11 Tôi là Gio-an, tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. 12 Các vị lớn tiếng hô:

"Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận

phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,

danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc."

13 Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô:

"Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên

lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng

đến muôn thuở muôn đời!"

14 Bốn Con Vật thưa: "A-men." Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.

Đó là lời Chúa.

Tung hô Tin Mừng

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.

Đức Ki-tô nay đã Phục sinh / chính Người đã tạo thành vạn vật /

và xót thương cứu độ loài người. Ha-lê-lui-a.

Bài Tin Mừng Ga 21,1-19

Việc Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra bên bờ hồ có một ý nghĩa đặc biệt đối với các Tông Đồ là những người hành nghề đánh cá. Và toàn thể câu chuyện gợi lên sự sống của Giáo Hội: sứ vụ rao giảng, bữa tiệc Thánh Thể, sự hiện diện sống động của Đức Giê-su.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

1 Bấy giờ, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phe-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư ?" Các ông trả lời: "Thưa không." 6 Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó !" Vừa nghe nói "Chúa đó !", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây !" 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn !" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai ?", vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." 16 Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không ?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." 17 Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ?" Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không ?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn." 19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."

Đó là lời Chúa.

B. GIÚP HIỂU CÁC BÀI ĐỌC

Bài đọc 1 (Cv 5,27-32.40-41)

Việc các Tông Đồ chữa lành cho một số bệnh nhân khiến vị thượng tế và hội đồng cố vấn của vị này nổi giận. Bị tống giam và được giải thoát cách lạ lùng, Phê-rô cùng các Tông Đồ khác lại xuất hiện và tiếp tục giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ. Khi bị điệu đến giữa Thượng Hội Đồng và bị vị thượng tế bắt bẻ, thánh Phê-rô đã trả lời một cách quả quyết: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm." Đoạn văn bỏ qua một đoạn trong đó Ga-ma-li-en, một tiến sĩ luật, nhắc nhở Thượng Hội Đồng coi chừng việc làm của các ông chống lại chính Thiên Chúa. Tuy nhiên các Tông Đồ vẫn bị đánh đòn. Nhưng không gì có thể ngăn cản các ông tiếp tục giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Ki-tô Giê-su ; các ông vui mừng vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở cùng các ông.

Bài đọc 2 (Kh 5,11-14)

Đoạn văn mô tả một lễ nghi phụng vụ nhằm tôn kính Con Chiên, tượng trưng cho Đức Giê-su, đã bị loài người giết chết nhưng giờ đây đang chiến thắng. Hình ảnh Con Chiên gợi lên con chiên vuợt qua mà sách Xuất hành đã đề cập đến ; và nghi thức sát tế chiên vượt qua nhắc dân chúng nhớ lại lúc kết thúc thời kỳ nô lệ của dân chúng. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như một vị vua và Thiên Chúa. Trên trời, bảy từ (số bảy có ý nghĩa hoàn hảo) được dùng để ca tụng sự cao cả của Người. Còn đối với mọi loài thụ tạo, thì sử dụng bốn từ. Đấng ngự trên ngai là Chúa, Đấng đưa ra lời phán xử cuối cùng và thưởng công hoặc luận tội mỗi người tuỳ theo việc họ đã làm

Bài Tin Mừng (Ga 21,1-19)

Các chuyên viên Thánh Kinh thấy trong chương 21 Tin Mừng Gio-an công trình của một môn đệ. Quả thật, chương 20 đã kết thúc bằng một lời kết (xem Tin Mừng Chúa nhật thứ 2 Phục Sinh). Biến cố nhắc lại mẻ cá lạ lùng co Lu-ca kể lại vào lúc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Lúc đó các môn đệ gồm bảy người sinh sống tại Ga-li-lê, nơi lao động thường xuyên của các ông. Phê-rô giữ một vai trò quyết định. Người môn đệ Đức Giê-su yêu quý thường không được nêu tên ra, nhưng ông luôn nhạy bén trong tình yêu đối với Đức Giê-su. Hai thời điểm khác nhau của việc đánh cá tượng trưng cho các giai đoạn của công cuộc rao giảng Tin Mừng. Trước tiên các môn đệ chỉ có một mình trong đêm tối, và những cố gắng của các ông trở nên vô ích. Các ông không nhận ra Đức Giê-su khi Người đến, ngay cả khi Người nói với các ông. Chỉ nhờ mẻ cá lạ lùng các ông thu hoạch được theo lệnh Đức Giê-su, các ông mới mở mắt ra.

Đức Giê-su đã chuẩn bị bữa ăn sáng cho các ông. Những từ liên quan đến bánh rõ ràng ám chỉ Thánh Thể. Các Ki-tô hữu đầu tiên xem hình ảnh con cá là tượng trưng cho Đức Ki-tô. Tác giả Tin Mừng lưu ý rằng tất cả các môn đệ đều biết đó là Chúa, nên không ai dám hỏi gì … Có lẽ con số 153 chỉ có giá trị tượng trưng, chỉ một số lượng lớn. Với Đức Giê-su Phục Sinh, công cuộc rao giảng Tin Mừng sẽ đạt được thành công mỹ mãn ngoài sức tưởng tượng của con người. Và Người dọn cho các vị thừa sai bữa ăn bồi dưỡng. Chính Người chọn người chăn các chiên của Người - ta đọc thấy điều đó trong phần thứ hai của bài Tin Mừng - Người đòi hỏi người được chọn phải có một tình yêu mãnh liệt, đồng thời cũng báo trước có nhiều thử thách đang chờ họ.

C. CHIA SẺ LỜI CHÚA (Bài Tin Mừng)

1. Trong khi phần lớn các câu chuyện về Phục Sinh đều diễn ra vào "ngày thứ nhất trong tuần", ở Giê-ru-sa-lem hoặc vùng ven thành phố, thì ở đây Đấng Phục Sinh hiện ra ở Ga-li-lê vào buổi sáng sớm của một ngày lao động bình thường. Cảnh tượng xảy ra bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, nơi Đức Giê-su đã gọi các môn đệ đầu tiên của Người và hứa cho các ông trở thành những người thu phục người khác.

2. Đức Giê-su gặp lại các môn đệ thân yêu của mình giữa những lo âu thường ngày. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nhận ra Người trước tiên, nhưng chính Si-môn Phê-rô kéo vào bờ lưới đầy cá, tượng trưng cho vo số các tín hữu. Chính Đức Giê-su chuẩn bị một bữa ăn và mời các ông chia sẻ. Các Tông Đồ và các môn đệ sau này có sứ mạng tập họp vào trong một chiếc lưới, hình ảnh của Nước Thiên Chúa, tất cả những ai sẽ nhận biết Đức Giê-su là Đấng cứu chuộc họ, Đấng Hằng Sống đang đứng trên bờ cuộc đời đầy biến động của họ và cùng đến ăn chung với họ.

3. Thay vì co cụm lại trên chính mình, Giáo Hội sẽ phải mở ra cho hết thảy mọi người. Làm thế nào Giáo Hội có thể đương đầu với những cơn lốc của lịch sử ? Phải chăng nhờ một bộ luật hoặc một nền hành chánh tỉ mỉ ? Ba câu hỏi Đức Giê-su đặt ra cho Phê-rô trước khi trao cho ông nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người thật ra chỉ gồm một điểm, nhưng là điểm then chốt: "Phê-rô, anh có yêu mến Thầy không ?" Chính tình yêu Đức Ki-tô đã thôi thúc Phê-rô trả lời cho Thượng Hội Đồng là phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (bài đọc 1). Khi trả lời cho vị thượng tế, Phê-rô dựa vào chứng nhân: các Tông Đồ và Chúa Thánh Thần. Đây cũng là nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Dần dần, tất cả mọi công cuộc rao giảng Đức Ki-tô Phục Sinh đều liên kết chặt chẽ với chứng từ của các Tông Đồ. Chứng từ này luôn kín múc sức mạnh thường xuyên của Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho chứng từ của các ngài luôn mới mẻ và hợp thời.

4. Từ nay về sau, chính tình yêu can trường đối với Đức Ki-tô mới quan trọng trong công cuộc rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cơ cấu tổ chức. Lòng trung tín thực sự - giữa những người đã vất vả suốt đêm mà không có kết quả gì - là có đôi mắt gắn chặt vào Đức Ki-tô hằng sống, hiện diện bên bờ của cuộc đời chúng ta.


Lm Ignatio Hồ Văn Xuân

-----------------------------------

 

PS 3-C28: Cần hai điếu


VietCatholic News (19/04/2004 )

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH C


Gioan 21: 1-19

 

Theo Thánh sử Gioan thì đây là lần cuối cùng Chúa hiện ra với các môn đệ, nên buổi gặp gỡ này: PS 3-C28


Theo Thánh sử Gioan thì đây là lần cuối cùng Chúa hiện ra với các môn đệ, nên buổi gặp gỡ này hết sức quan trọng cho tất cả mọi thành phần tham dự. Chính trong buổi gặp gỡ hôm nay chúng ta có thể nói rằng đây là giây phút Phêrô được đăng quang, chính thức trở thành vị Giáo Hoàng đầu tiên, thay thế Chúa Kitô điều khiển Giáo Hội của Ngài trên trần gian này.

Khi Chúa hỏi Phêrô ba lần cùng một câu hỏi, chúng ta liên tưởng đến việc Phêrô chối Chúa ba lần, nên nay Chúa hỏi ba lần để rồi tha thứ cho Phêrô. Nhưng ý nghĩa ở đây nói lên một tập tục của nhân gian. Khi người ta tin tưởng ở nhau, chỉ cần nhắc lại điều gì đó và được xác định đến ba lần, theo thói thường của nhân gian đó là dấu ấn của một giao kèo, hoặc khế ước không cần văn bản. Hôm nay Chúa đã thực hiện một giao kèo với Phêrô: Chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Giao kèo này được thực hiện trước mặt các môn đệ khác -là những nhân chứng-, nói lên tính công khai, hợp lý, hợp tình, không thể phủ nhận được của quyền bính Phêrô.

Vào năm 1708, vị Linh mục cuối cùng đang sống ở nước Nhật, thuộc Dòng Tên bị chém đầu. Ngài bị bắt năm năm trước về tội nhập lén vào đảo quốc này. Hoàng đế nước Nhật nghĩ rằng đây là vị Linh mục cuối cùng trên quê hương của ông ta bị giết chết, Công giáo vừa mới chớm nở tại đây coi như chấm hết. Nhưng ông ta đã lầm ! Vào năm 1859, sau khi thuyền trưởng Perry nhập bến Nhật bản, ký kết một hiệp ước với quốc gia này, là cho phép thuyền nước ngoài được ghé thăm các hải cảng của Nhật, và các giáo sĩ được sống tại những thành phố cảng này, một số Linh mục lại đến sống ở đây.

Sáu năm sau (1865), một nhóm người từ một làng rất xa xôi đến gặp một trong những Linh mục trên. Họ muốn nhìn xem nhà nguyện, sau khi nhìn thấy tận mắt các nghi thức của bí tích được cử hành tại nguyện đường, họ hài lòng. Tuy nhiên người trưởng nhóm hỏi vị Linh mục hai câu hỏi:”Linh mục có tôn kính Đức Trinh nữ Maria không ?” và “Có phải Đức Thánh Cha ở Rôma là vị lãnh đạo Giáo Hội không ?”. Sau khi nghe vị Linh mục trả lời “Có” cho cả hai câu hỏi, người trưởng nhóm nói rằng:” Như thế ngài có cùng niềm tin như chúng tôi. Chúng ta là người Công giáo”. Câu chuyện này cho thấy sau gần 150 năm, tuy không có người giảng dạy, nhưng những con người mộc mạc, đơn sơ trên đây, vẫn hiểu và nhớ những quy định của Giáo hội về căn tính của người Công giáo. Họ tùng phục Giáo hội do Đưc Giáo Hoàng lãnh đạo và sùng kính, mến yêu Đức Mẹ là Mẹ của Hội Thánh.

Tóm lại, hôm nay Chúa trao quyền bính cho Phêrô lãnh đạo đoàn chiên của Ngài, trước mặt các môn đệ khác, cho thấy rằng chỉ có một Giáo hội duy nhất, do Phêrô và những người kế vị Phêrô chỉ huy Giáo hội của Chúa ở trần thế này. Đây là chân lý bất di bất dịch, cho nên những người tín hữu khiêm tốn, đơn sơ nhất vẫn có thể nhận dạng, xác định được căn cước của mình và người khác. Thiên Chúa vẫn hiện diện và quan phòng mặc dù chúng ta không nhận ra, như Phêrô hôm nay. Ngày xưa, sau khi nhận ra Chúa, Phêrô khoác áo vào rồi chạy đến gặp gỡ Chúa. Hôm nay người công giáo chúng ta, nếu chưa nhận ra Chúa, chỉ cần khoác vào người chiếc áo Mân côi -với những chục Mân côi thường ngày- là có thể gặp gỡ được Chúa, người anh cả chí tôn nơi Đức Trinh nữ Maria, vì Đức Mẹ là điểm hẹn và là giao điểm của mỗi người tín hữu chúng ta và con cực Thánh của Mẹ. Ước gì qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhìn lại chính mình -về hai điều cần có-, rồi thử so sánh với những người quê mùa ở Nhật bản năm xưa, hầu nhận biết để điều chỉnh cuộc sống cho xứng hợp với danh xưng người Công giáo của mình.


Phaolô Ngô Suốt

-----------------------------------

 

PS 3-C29: Sinh hoạt của dận mới


VietCatholic News (19/04/2004 )

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH C

Bài đọc 1: Cv 5, 27b-32. 40b-41

Bài đọc 2: Kh 5, 11-14

Tin Mừng: Ga 21, 1-19


 

Sau khi Phục Sinh, mặc dù Đức Giêsu đã hiện ra nhiều lần để chứng tỏ sự sống lại của mình, nhưng: PS 3-C29


Sau khi Phục Sinh, mặc dù Đức Giêsu đã hiện ra nhiều lần để chứng tỏ sự sống lại của mình, nhưng các tông đồ vẫn chưa vững niềm tin. Các ông tưởng như mọi sự đã chấm dứt với cái chết của Thầy mình. Thế là họ trở về với nghề cũ, nghề đánh bắt cá. Các ông không còn nhớ tới lời mời gọi của Đức Giêsu thuở ban đầu: “Ta sẽ cho các người nên ngư phủ bắt người.” (Mt 4, 19). Như thế, kế hoạch của Thiên Chúa nơi Đức Kitô xem như đã thất bại. Thế nhưng, với mẻ cá lạ hôm nay, Đấng Phục Sinh đã một lần nữa nhắc các tông đồ về nhiệm vụ: đánh bắt người về cho Thiên Chúa.

Tuy nhiên để chu toàn được nhiệm vụ này, trước hết, các ông phải là những người luôn lắng nghe và sống lời Chúa, để rồi nhờ sức mạnh của lời Chúa nâng đỡ, các ông đủ can đảm lên đường dẫn đưa mọi người về với Đấng Phục Sinh. Để thấy rõ hơn vấn đề này, chúng ta cùng quay trở lại với các bài đọc trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.

1. HÀNH ĐỘNG THEO LỜI CHÚA:

Câu chuyện mà chúng ta vừa nghe thánh Gioan thuật lại trong bài Tin mừng, xảy ra vào một buổi chiều tối tại bờ biển Tibêria. Lúc đó, các môn đệ gồm có: Simon-Phêrô, Tôma, Nathanael, Giacôbê, Gioan và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Có lẽ câu chuyện trao đổi giữa các ông đang xoay quanh cái chết của Thầy mình, và việc Thầy đã hiện ra hai lần với mình, chẳng biết có thật không. Thế rồi trong một tâm trạng, nửa lo sợ, nửa hoang mang, nghi ngờ, và như để khoả lấp đi sự im lặng ngột ngạt, nặng nề, Simon-Phêrô lên tiếng: “Tôi đi đánh cá đây”. Thế là các môn đệ khác cũng đồng thanh: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Các ông trở lại với nghề cũ, các ông muốn quên đi mọi chuyện đã xảy ra, để trở về với cuộc sống trước đây. Thế nhưng, sự việc đã không diễn ra như ý muốn của các ông. Mặc dù là dân chuyên nghiệp, các ông đã vất vả suốt một đêm, mà vẫn “không bắt được con cá nào”.

Và rồi trong ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh, xuất hiện một người trên bờ biển, bảo các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Và cũng chẳng hiểu vì sao, các ông lại làm theo lời người ấy bảo. Thế là sự lạ đã xảy ra, lưới đầy cá, khiến các ông hầu như không kéo lên nổi “lưới toàn cá lớn; tất cả được 153 con”. Trước sự việc xảy ra, lập tức người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nhận ra người đang nói với với mình chính là người Thầy mình hằng yêu dấu, nên ông nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”.

Như thế, khi đọc lại cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng hôm nay, mẹ Giáo Hội như muốn cho chúng ta thấy rằng: dân mới được khai sinh từ cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu từ đây sẽ không còn sống theo ý riêng mình nữa, nhưng phải luôn sống theo lời Chúa. Thật vậy, khi các tông đồ quên đi lời dạy của Chúa, trở về làm theo ý mình, các ông đã gặp thất bại, nhưng khi các ông mở lòng ra sẵn sàng làm theo ý Chúa, các ông đã thu được một kết quả ngoài sức tưởng tượng của các ông. Kể từ giờ phút đó trở đi, các tông đồ đã dần dần được biến đổi. Nhờ sức mạnh của Lời Chúa, từ những người yếu đuối nhát đảm, các tông đồ đã trở nên mạnh mẽ; từ những kẻ sợ hãi, buồn bã các ông đã trở thành những người hân hoan, vui mừng. Xác tín điều đó, ngay trước toà Công Nghị của người Do Thái, Phêrô và các tông đồ đã tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Luôn lắng nghe và sống theo lời Chúa, các tông đồ giờ đây xứng đáng thuộc vào đoàn chiên của Đấng Phục Sinh, như lời Đức Giêsu đã nói: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.

Không chỉ nói với các tông đồ trên bờ biển Tibêria năm xưa, hôm nay Đấng Phục Sinh vẫn đang nói với chúng ta qua mỗi biến cố vui buồn trong cuộc sống của chúng ta. Chúa đang nói với chúng ta qua lời của Ngài trong Thánh Kinh, qua sự hướng dẫn của Giáo Hội, qua cha mẹ, bạn bè và cũng có thể từ những người vô danh, thấp kém hơn chúng ta. Thậm chí có khi Chúa còn nói với chúng ta qua những người mà chúng ta không có thiện cảm.

Hơn nữa, nguyên việc lắng nghe lời Chúa không mà thôi cũng chưa đủ để xứng đáng thuộc vào dân mới của Đấng Phục Sinh. Các tông đồ mặc dù đã vất vả suốt đêm, giờ đây lại phải thả lưới bên phải thuyền, chưa biết có được cái gì không hay lại uổng công, nhưng các ông đã không đắn đo. Các ông đã nghe và đã làm. Thế là các ông đã thu được kết quả, một kết quả ngoài sức tưởng tượng của các ông. Như thế, luôn lắng nghe và hành động theo sự hướng dẫn của Lời Chúa là một trong những đặc tính quan trọng của dân mới.

Và một trong những lệnh truyền quan trọng mà Đấng Phục Sinh để lại cho từng người chúng ta, những người được tái sinh nhờ cuộc Vượt Qua của Ngài, đó là lên đường loan báo cho mọi người biết về Tin mừng Phục Sinh của Đức Kitô.

2. LÊN ĐƯỜNG ĐẾN VỚI ANH EM:

Trong cuộc sống thường ngày, khi yêu mến ai, chúng ta thường muốn làm theo ý của người đó. Tương tự như vậy, việc chúng ta lên đường đến với anh chị em là dấu chứng rõ ràng nhất của việc lắng nghe và lòng yêu mến Thiên Chúa của chúng ta. Chính lòng nhiệt thành trong công tác tông đồ và truyền giáo của một người sẽ là dấu hiệu cho thấy mức độ yêu mến Thiên Chúa của người ấy.

Đọc lại sách Công vụ tông đồ, chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Sau khi đã gặp gỡ được Đấng Phục sinh, đã cảm nghiệm được tình yêu của Ngài dành cho mình, các tông đồ đã mau mắn lên đường để loan truyền tin vui này cho anh chị em mình. Các ông đã lên đường cho dù trước mắt còn đầy những khó khăn. Bài sách Công vụ tông đồ chúng ta vừa nghe cho biết, lúc đó, các thầy Thượng Tế đã nói với các tông đồ: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy”. Thậm chí, họ còn “ra lệnh đánh đòn các tông đồ”. Tuy nhiên, những điều đó cũng không ngăn cản được lòng nhiệt thành truyền giáo của các tông đồ. Các ông đã mạnh dạn trả lời trước công nghị: “Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người”. Hơn thế nữa, khi ra khỏi công nghị, các ngài còn “hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Đức Giêsu”. Thế đó, chính những khó khăn, trở ngại trong công tác tông đồ sẽ là phương thế tốt nhất để tôi luyện đức tin và là dịp để chúng ta chứng tỏ niềm tin của mình.

Được tái sinh nhờ phép Rửa, mỗi người chúng ta được vinh dự là thành phần dân mới trong Nước của Đức Kitô. Noi gương các tông đồ, chớ gì mỗi người trong chúng ta siêng năng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày để có thể nghe được lời Chúa. Đồng thời can đảm sống đúng như lời Chúa dạy. Nhờ đó, tất cả mọi người và mọi thụ tạo sẽ nhận biết được vinh quang và uy quyền của Đấng Phục sinh như thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải huyền mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng: “Chúc tụng Đấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời”. Amen.


Lm Phêrô Trần Thanh Sơn

-----------------------------------

 

PS 3-C30: Vị thủ lãnh “Nhát Gan”


VietCatholic News (21/04/2004 )

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH. C

(Ga 21,1-19)

Thưa quý vị,


 

Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, bài đọc 3 chúa nhật hôm nay thuộc chương 21 Phúc Âm thánh: PS 3-C30


Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, bài đọc 3 chúa nhật hôm nay thuộc chương 21 Phúc Âm thánh Gioan là một chương độc lập. Chính thức Phúc Âm kết thúc ở chương 20: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấn lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này…”. Như vậy chương 21 được môn đồ nào đó của thánh sử Gioan thêm vào; có lẽ nó là một cổ bản rời, độc lập được ghép vào cuốn sách. Tuy nhiên nó vẫn được linh hứng vì có mặt như một phụ trương của Tin Mừng thứ tư ngay từ thuở ban đầu, để quyết định vấn đề quyền “trưởng nhóm” của tông đồ Phêrô.

Cứ như câu chuyện thì ông Phêrô quả là cứng cổ. Ông chối Chúa ba lần và hôm nay thản nhiên rủ các bạn chài đi đánh cá, tưởng chừng như ông đã quên hết chuyện cũ và trở lại nghề nghiệp xưa. Chúa đã tỏ mình ra cho các ông sau mẻ lưới lạ lùng. Thánh Gioan kêu mời chúng ta liên kết câu chuyện hôm nay với cái đêm định mệnh “Phêrô chối Chúa. Cả hai chuyện, Phêrô đều đứng bên đống lửa. Lửa trong đêm Chúa Giêsu bị tra hỏi và lửa bên bờ hồ Tibêria. Ba lần phản bội và cũng ba lần tuyên xưng đức tin. Hôm nay ngoài đống lửa còn có bánh và cá gợi lên hình ảnh bữa tiệc ly. Chúa hỏi Phêrô: “Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Trong đêm Chúa Giêsu bị bắt, người ta ngạc nhiên khi Phêrô thẳng thừng chối cãi không biết Thầy mình là ai. Và để cho lời chối nặng ký hơn, ông còn thề độc (Mt 26, 14). Đây là bài học lớn cho các tín hữu. Chúng ta đừng vội vàng trách cứ Phêrô. Ông là một trong những tông đồ được Chúa Giêsu gọi đầu tiên và là một con người rất hăng say, trung thành với Thầy mình. Ở bữa tiệc cuối cùng, ông vỗ ngực tuyên bố mình sẽ theo Thầy cho đến cùng, dầu cho có phải mất mạng. Một lời thề hứa trang trọng và đanh thép. Nhưng chẳng bao lâu sau ông vấp ngã. Không ai dám chối cãi lời nói của ông thành thật, thoát ra từ tâm tính của một con người bộc trực. Ông thực sự yêu mến Chúa Giêsu và muốn suốt đời phục vụ Ngài dù có phải chết. Nhưng điều sai lầm là ông quá tự tin, cậy vào sức riêng, chứ không phải từ ơn trên. Đơn giản chỉ có thế. Nhưng trong đời sống thiêng liêng thì là một điều rất nguy hiểm. Chúng ta cần Thần Khí Chúa thúc đẩy, soi sáng để thực hiện những việc lành. Nói cách khác, cần cầu nguyện và suy niệm, chẳng thể đơn thuần là nhiệt huyết suông. Biết bao lần chúng ta có thái độ tương tự như ông Phêrô, hăng hái thề hứa ăn ngay ở lành, làm việc cho sáng danh Chúa nhưng thực tế thì ngược lại, phản bội Ngài như cơm bữa, thu quén tiền tài danh vọng cho mình, thậm chí còn chối bỏ đức tin một cách công khai khi quyền lợi, mạng sống bị đe doạ. Chúng ta hèn nhát hơn ông Phêrô rất nhiều. Viết đến đây, tôi nhớ ra một câu chuyện bông đùa. Người ta kể rằng vào mùa Phục Sinh ở xứ đạo nọ, giáo dân thường kể cho nhau nghe “tin lành, tin dữ” về Chúa Giêsu. Tin lành nói rằng Chúa đã sống lại và hiện ra với các tông đồ. Còn tin dữ kể: Ngài nổi giận như chiếc hoả lò. Ấy là tưởng tượng theo thói thường thế gian. Ngài tức giận khi trông thấy các tông đồ sợ hãi và âu lo: “Ta đã bảo mà, Ta sẽ sống lại vào ngày thứ ba, đúng không?” Rồi Ngài quay sang Phêrô: “Tưởng anh là viên đá, chẳng hoá ra nhát như thỏ đế!”. Câu chuyện áp dụng vào mỗi tín hữu thì thật đúng từng chữ.

Để làm cho trọn lời phản bội, Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay nói: “Tôi đi đánh cá đây”. Liệu ông hoàn toàn quay mặt khỏi Chúa Giêsu? Liệu ông đã từ bỏ ơn kêu gọi và trở về nếp sống cũ? Hay ông lãnh đạo theo ý nghĩa khác, ý nghĩa trần tục như quá khứ, trước khi gặp và theo Chúa? Lời ông nói: “Tôi đi đánh cá đây” chứng tỏ các tông đồ đã hết tin vào sự kiện Chúa đã sống lại. Họ chỉ tin bao lâu Chúa hiện diện giữa họ hoặc lòng tin kính của họ chưa thể chuyển sang hành động để thực hiện sứ vụ. Nói cách khác, họ đã quên bặt, coi như không có lệnh Chúa truyền đi “chinh phục” người ta cho Nước Trời. Chỉ khi lãnh nhận đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, lệnh truyền này mới được thực hiện và thực hiện cho tới cùng. Còn như hiện thời, sau ba năm sống với Chúa Giêsu, chứng kiến Ngài chịu khổ hình, chịu chết và sống lại, họ lui về Galilêa, sống đời bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Mới hay lòng dạ người đời chóng quên! Đúng như câu ngạn ngữ “Xa mặt cách lòng”. Như vậy vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống Giáo Hội. Chưa có Thánh Thần thì đời sống các tông đồ chưa hề thay đổi. Giọng điệu “Tôi đi đánh cá đây” của ông Phêrô chứa đầy an phận, tương tự như ông muốn nói “còn chi nữa đâu mà hy vọng”. Mọi sự đã tan rã. Lời Chúa kêu gọi không còn hiệu lực và bị triệt tiêu với cái chết của Thầy!

Đó là tâm trạng của các tông đồ bên bờ hồ Tibêria vào buổi sáng hôm đó, Chúa Giêsu hiện ra với các ông đúng lúc, nhắc lại cho họ mọi sự. Ngài không lìa bỏ, nhưng vẫn giữ vai trò chủ động trong việc thi hành sứ vụ của Đức Chúa Cha. Giống như lúc khởi đầu Phúc Âm, Ngài tìm kiếm họ, vượt qua cửa đóng và khoá chặt để khích lệ họ bung ra mà đi rao giảng Nước Trời. Điều này thật cốt yếu cho toàn thể nhân loại, và Ngài lại thấy họ giữa công việc hàng ngày. Cũng vậy thôi, Chúa Giêsu muốn chúng ta tiếp tay với Ngài giữa nghề nghiệp đời thường; liệu chúng ta có đồng ý đi theo Ngài, làm công việc mà mọi người đều biết rất hệ trọng?

Điểm đáng lưu ý là giữa những thất bại, cay đắng, mơ hồ thì Chúa Giêsu đã trở lại gặp các tông đồ và đối diện với họ. Nhưng lạ lùng thay, Ngài không tức giận vì họ đã bỏ trốn để mặc một mình Ngài trong cuộc khổ nạn. Ngài hoàn toàn thông cảm và tha thứ, bất chấp những yếu đuối và sa ngã. Cho nên ngày nay chúng ta có bài học để đời: Chúng ta sẽ được Ngài luôn tha thứ lỗi lầm và trở lại làm môn đệ Ngài, miễn là chúng ta thành tâm quyết chí. Bài học thứ hai là Ngài sai chúng ta đi khắp bốn phương thiên hạ rao giảng tình thương của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, noi gương Thầy chí thánh.

Những sa ngã và phản bội của chúng ta ngày nay dù nặng nề gấp bội nhưng không nhiều kịch tính như ông Phêrô. Ít nhất chúng ta đã không dám công khai chối Chúa ba lần. Nhưng chúng ta thường để bổn phận trượt khỏi tầm tay, không nghiệm chỉnh thi hành, tệ hơn nữa không coi lời Ngài như Chân Lý Cứu Độ. Giả hình giả tảng là người theo Chúa mà thực chất vẫn còn nhiều ích kỷ, hại nhân. Kẻ xấu miệng hay gọi chúng ta là nhân chứng dỏm của Chúa sống lại. Có lẽ phần nào đúng, bởi lẽ trong những ngày non trẻ, chúng ta đầy nhiệt huyết và sức sống đức tin, nhưng khi trưởng thành thì trở nên nguội lạnh, thúc giục người khác đạo đức còn mình thì ươn lười. Đến đây tôi lại nghĩ đến thái độ của mấy người công giáo tiên khởi trên đất Mỹ: “Nếu có đạo là một tội ác, họ lấy bằng chứng nào để buộc tội chúng ta?” Đúng vậy, chẳng thể buộc tội, nhưng nếp sống lập dị thì rành rành ra đó. Áp dụng vào thái độ lạnh nhạt, chúng ta không bị kết án, nhưng gương mù gương xấu cho những người xung quanh thì tầy trời, hoặc câu nói vô trách nhiệm khác: “Ai có linh hồn người nấy giữ”. Họ quên nguyên tắc liên đới: “Không ai lên thiên đàng một mình” hay như linh mục Thomas Merton: “Không ai là một hòn đảo” (no man is an island). Cho nên hôm nay chúng ta mang những “phản bội” của mình đến trước bàn thờ Thánh Thể. Và lại một lần nữa Chúa Giêsu đảm nhận vai trò tiên phong, kêu gọi chúng ta bước theo Ngài, bỏ qua những yếu đuối, thất bại trong cuộc sống hàng ngày. Đúng như Ngài đã tha thứ cho ông Phêrô và các tông đồ. Nếu Ngài muốn trả thù thì đối tượng đầu tiên phải là Caipha, Anna, Philatô, nghĩa là các thế lực đền thờ. Nhưng trên thánh giá chính Ngài là trạng sư, kêu xin Đức Chúa Cha tha tội cho họ, hôm nay Ngài lại chẳng tha thứ cho chúng ta sao?

Tôi hết lòng khâm phục các cộng đoàn tiên khởi khi họ giữ lại chuyện ông Phêrô và các tông đồ cho thế hệ mai sau. Họ không ém nhẹm những yếu đuối loài người của các vị. Vào trường hợp chúng ta, vì sĩ diện, chúng ta chẳng đủ can đảm tiết lộ những chuyện này. Nhưng thật là may mắn, các người tín hữu đầu tiên đã không làm như thế, đây là tấm gương để chúng ta noi theo. Chuyện có thể làm Phêrô xấu hổ, nhưng chúng ta lại được thêm kiên cường trong lòng tin. Bất chấp những yếu đuối và sa ngã, ông vẫn được Chúa tha thứ, yêu thương. Giống như các tông đồ, giáo dân ngày nay vẫn được Chúa thương xót thứ tha. Tuy nhiên, không nên dựa vào điều này mà ăn ở bừa bãi. Chúng ta nỗ lực sống ngay lành là vì đã được Chúa cứu chuộc, là để đền đáp ơn Ngài, chứ không phải vì công lênh. Nước thiên đàng Chúa Giêsu đã phục hồi cho nhân loại, chúng ta ăn ở tốt để chiếm lấy. Chúng ta phải cộng tác với Ngài thực hiện sứ vụ Ngài trao cho Hội Thánh: Kêu gọi toàn thể nhân loại trở về với tình thương của Đức Chúa Cha.

Trong tất cả các lần hiện ra sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu chỉ quan tâm một điều, nhắc lại lời Ngài kêu gọi các tông đồ: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Nghĩa là Ngài muốn các ông tiếp tục sứ vụ Đức Chúa Cha đã trao phó cho Ngài. Hôm nay bên bờ hồ Tibêria cũng vậy, Ngài kêu gọi các ông hãy chăn dắt đoàn chiên của Ngài (nguyên văn: feed my lambs). Nhưng lần này các ông còn một sứ mệnh mới: gánh lấy số phận của Ngài: “Thật Thầy bảo cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người ta thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Những ai muốn bắt chước Chúa Cứu Thế, nhiên hậu sẽ chết cái chết đầy bạo lực như Ngài. Điều này thật khó cho các tín hữu! Nhưng với ơn Chúa trợ giúp thì mọi sự sẽ được thực hiện dễ dàng. Cho nên ơn sống lại bao gồm hy sinh và sự chết. Từ chối hy sinh sẽ chẳng bao giờ được trông thấy ơn Phục Sinh. Các tông đồ trong bài đọc 1 đã kinh nghiệm như vậy: “Bấy giờ, họ cho gọi các tông đồ lại mà đánh đòn, đoạn cấm các ông không được nói đến Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Các tông đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”. Họ cảm nghiệm sự sống lại, bởi lẽ đã được vác lấy thập giá. Tuy nhiên, Chúa sai ông Phêrô đến “nơi ông không muốn”, không phải do sức riêng ông, mà là do ơn trợ giúp Chúa Thánh Thần. Thế giới công giáo đã được biết ông Phêrô chết cách nào! Vì không phải là công dân La Mã, ông đã chịu đóng đinh ở ngọn đồi Vaticanô, Rôma. Ông hoan hỷ chấp nhận nhưng xin đóng đinh ngược, bởi cảm thấy không xứng đáng chết như Thầy mình! Ngay từ hôm nay Chúa đã sửa soạn hy sinh đó cho ông Phêrô bằng một bữa tiệc tương tự như bữa tiệc ly, tức có bánh, cá và lửa yêu mến. Ông được nuôi dưỡng bằng của ăn thiêng liêng, để ông có khả năng tự huỷ và nuôi dưỡng người khác.

Các tín hữu cũng vậy, họ được Chúa nuôi dưỡng hàng ngày bằng bí tích Thánh Thể. Cho nên chúng ta cũng phải tự huỷ để nuôi dưỡng thế giới. Nuôi dưỡng bằng đấu tranh cho hoà bình, chống chiến tranh, áp bức và bất công. Nuôi dưỡng bằng chăm lo cho những người nghèo khổ, cô nhi và quả phụ; an ủi, giúp đỡ, khích lệ, hướng dẫn, bảo vệ, bênh vực, nghĩa là mọi hình thức yêu thương bác ái, biểu lộ ơn sống lại cho một thế giới đang nhuốm màu tang tóc. Ở đây chúng ta thấy chứng cớ rõ ràng của tội “mang danh Đức Kitô”. Nếu “có đạo” là một “tội” trước mắt thế gian! Công việc nuôi dưỡng này đòi hỏi trọn đời người tín hữu. Bởi lẽ chúng ta không phải là tín hữu bán thời gian, một tuần, một tháng hay một năm. Ơn gọi của chúng ta suốt đời. Nhưng bánh trường sinh Chúa Giêsu ban trong bí tích Thánh Thể thừa sức trợ giúp mọi người trong cuộc chạy đua Marathon phục vụ và trung thành. Amen. Halleluia.


Lm. Jude Siciliano, OP.

-----------------------------------

 

PS 3-C31: KHÁCH SẠN HILTON HÀ NỘI - Mark Link S.J.


Bài đọc: Cv 5: 27-32, 40-41;Kh 5: 11-14; Ga 21: 1-19

Chủ đề: Chủ đề Chúa là Mục Tử thống nhất toàn bộ Kinh Thánh. Chủ đề này mặc khải tình thương chăm sóc của Chúa đối với chúng ta.

 

Ở miền bắc VN có một trại giam tù binh nổi tiếng. Người VN gọi tên trại đó là Hoả lò, nhưng các: PS 3-C31


Ở miền bắc VN có một trại giam tù binh nổi tiếng. Người VN gọi tên trại đó là Hoả lò, nhưng các tù binh Mỹ đặt tên cho nó là khách sạn Hilton Hà Nội. Ngày giáp lễ Giáng sinh năm 1971, vì muốn làm quà Giáng sinh cho đám tù binh, viên quản trại đã cho phân phát cho họ vài cuốn Kinh Thánh, Tuy nhiên, ông bảo họ phải gom những cuốn ấy lại vào đêm Giáng Sinh. Thế là, đám lính Mỹ quyết định phải dùng thời gian trước mắt sao cho thực sự khôn khéo. Họ lấy cọng dây thép làm bút, nước hoà với bụi gạch làm mực, và viết lên giấy vệ sinh vài đoạn then chốt trong Kinh Thánh dùng cho việc phụng vụ. Trong số các đoạn Kinh Thánh chép lại đó có bài dụ ngôn con chiên lạc của Chúa Giêsu. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu đã so sánh Chúa Cha với người Mục tử đi tìm kiếm một con chiên lạc. Các tù binh đã ví chính họ là chú chiên lạc đó. Ngoài ra họ còn chép lại Thánh vịnh 23 nói về Thiên Chúa như sau: “Chúa là Mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì… dù đi qua thung lũng tối tăm, tôi vẫn chẳng lo sợ hiểm nguy, vì Chúa luôn ở bên tôi”. Đám tù binh tự ví mình như bầy cừu đi trong tăm tối mà vẫn không sợ vì biết rằng Chúa luôn ở với họ.

Chắc chắn các tù binh ấy không thể nào tìm ra một chủ đề nào phù hợp với họ chủ để Người Mục Tử và đàn chiên của Ngài. Đây là một trong những chủ đề thường gặp nhất trong toàn bộ Kinh Thánh từ xa xưa, dân Do Thái đã ví Thiên Chúa là mục tử của họ. Chúng ta vừa gặp chủ đề này trong Thánh vịnh 23 trong đó tác giả đã gọi “Chúa là mục tử tôi’. Cùng với thời gian, tước hiệu Mục tử cũng được gắn cho các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel vì họ là những đại diện của Chúa trên trần gian. Rủi thay nhiều người trong số họ đã tỏ ra không xứng đáng với ơn kêu gọi của mình vì thế tiên tri Ezékiel đã nhắm những mục tử bất xứng này và tuyên phán: “Khốn cho các mục tử của Israel đã chỉ biết lo ăn cho mập! lẽ ra mục tử thì phải chăm sóc nuôi nấng đàn chiên chứ! Các ngươi đã không nâng đỡ những con yếu đuối, không chữa lành các con bệnh hoạn, cũng chẳng băng bó cho những con bị thương, các ngươi chẳng…. Tìm kiếm những con đi lạc,… bởi vì các ngươi đã dùng sừng húc vào tất cả các con chiên yếu đuối cho đến khi chúng bị kiệt lực. Thế thì ta sẽ cứu bầy chiên ta để chúng không còn bị bóc lột nữa… Ta sẽ chỉ định một mục tử để chăn dắt chúng tức là Đavit tôi tớ ta. Ngài sẽ chăm sóc chúng và sẽ là mục tử của chúng (Ed 34, 2-4, 21-23)

Vậy chúng ta phải đọc những lời Phúc Âm tuyệt vời của thánh Gioan trong bối cảnh này: Chúa Giêsu nói; “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta… Ta sẽ hiến mạng sống cho đàn chiên. Ta còn có những chiên khác không thuộc về đàn này, Ta cũng sẽ dẫn dắt chúng và chúng sẽ nghe tiếng Ta và sẽ chỉ còn một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên” (Ga 10: 14-16) Nói cách khác, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là vị mục tử mà Thiên Chúa hứa ban qua lời các tiên tri tiên báo suốt dòng Cựu ước.

Từ đó chúng ta trở lại với bài Phúc Âm hôm nay để nghe Chúa Giêsu uỷ thác cho thánh Phêrô  tiếp tục sứ mạng mục tử chăn dắt đoàn chiên. Đây thực là giây phút trọng đại khi Chúa hỏi Phêrô: “Hỡi Simon, con Giona, con có yêu Ta hơn những người khác không? Phêrô trả lời; “Thưa Thầy, Thày biết con yêu mến Thày”. Chúa liền bảo ông: “Hãy chăn dắt các chiên con của Ta”. Đoạn Ngài lại hỏi thánh Phêrô lần thứ hai: “Hỡi Simon, con Giona, Con có yêu Ta không?” Phêrô đáp lại: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chúa liền nói; “Hãy chăm sóc các chiên mẹ của Ta”. Và Ngài lại hỏi phêrô lần thứ ba: “Hỡi Simon, con Giona con có yêu Ta không?” và lần thứ ba Phêrô đáp lại “Dạ có” và Chúa cũng bảo lại ông lần thứ ba; “Hãy chăn dắt các chiên mẹ của Ta”. Qua ba lần Chúa Giêsu đã uỷ thác cho thánh Phêrô tiếp nối Ngài trong vai trò mục tử của đàn chiên. Ngài chỉ định cho Phêrô đứng đầu các tông đồ khác.

Cuối cùng, như chúng ta biết, sau đó nhiều năm, có sự triển khai rộng lớn chủ để mục tử trong Thánh Kinh. Thánh Phêrô thường thư từ cho các vị thủ lãnh Giáo hội từng địa phương, tức các đức giám mục và Ngài gọi họ là với tước hiệu là Mục tử. Ngài san sẻ cho họ phần nào vai trò mục tử nặng nề của Ngài và nhắn nhủ họ: “Hãy xứng đáng là mục tử của đàn chiên Chúa giao phó cho các con… Hãy nhiệt tình phụng sự đàn chiên” (1 Pr 5:2)

Trở lại vấn để của chúng ta hôm nay. Chúng ta thường gọi là Mục tử các linh mục có phận vụ chăm sóc giáo xứ chúng ta. Các mục tử là những người chia sẻ quyền năng của thánh Phêrô, và các Giám mục là những người đã nhận sự uỷ thác của Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha uỷ thác. Như thế linh mục đóng vai trò trọng đại bên cạch các vị lãnh đạo khác trong Giáo hội để làm người đại diện sống động cho Thiên Chúa Cha ở giữa chúng ta.

Như thế, chủ đề mục tử Phúc Âm hôm nay gồm ba điểm chính:

Thứ nhất, với chủ đề này, ta thấy Cựu ước và Tân ước đã phù hợp với nhau một cách thật là tuyệt hảo.

Thứ hai, trong chủ để này. Ta thấy Chúa cha đã chia sẻ vai trò mục tử của Ngài với Chúa Giêsu, đến lượt Chúa Giêsu lại chia sẻ vai trò ấy cho thánh Phêrô, rồi thánh Phêrô lại chia sẻ lần nữa cho các vị lãnh đạo tôn giáo cấp thấp hơn.

Thứ ba, chủ để này nhắc nhở chúng ta vai trò trọng đại của các vị lãnh đạo tôn giáo. Các ngài chính là những đại diện của Thiên Chúa Cha sống giữa chúng ta.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo hội:

Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa chúc phúc lành đặc biệt cho các vị lãnh đạo Giáo hội. Xin giúp chúng con nhìn thấy các vị ấy thực sự là những dấu chỉ sống động của Chúa đang hiện diện giữa chúng con, cho dù các vị ấy có phạm phải những lỗi lầm, và nhất là xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với các ngài, để qua các ngài Nước Chúa được mở rộng khắp thế giới.

-----------------------------------

 

PS 3-C32: CHÚA GIÊSU YÊU CHÚNG TA QUA THA NHÂN


 Gm. Arthur Tonne

 

Một nhà kinh doanh ở Chicago có môn giải trí vui vui: ít nhất mỗi tuần một lần, ông chọn dăm: PS 3-C32


Một nhà kinh doanh ở Chicago có môn giải trí vui vui: ít nhất mỗi tuần một lần, ông chọn dăm bẩy em bé của các gia đình nghèo, cho chúng trọn bồ đồ mới, dẫn chúng đi ăn và đưa chúng đi xem trình diễn, hội hè. Một lần kia, sau bữa ăn thịnh soạn, một em bé tám tuổi bật mí: “Thưa ông, ông là Yêsu?”

Nhiều lần chúng ta nghe nói; “Hãy nhìn đến người khác nhất là những người nghèo khổ như là chính Chúa Kitô và điều này rất quan trọng vì Chúa Giêsu đã phán: “Những gì các con làm cho người anh em bé mọn nhất của Ta, là các con làm cho chính Ta”.

Tôi muốn đảo ngược chút xíu:  Những ai làm điều lành cho chúng ta, cũng thay mặt Chúa Giêsu, Chúa chúng ta luôn làm điều lành cho chúng ta qua người khác. Họ là Đức Kitô cho chúng ta.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dọn bữa điểm tâm cho các môn đồ và sau đó các tông đồ nhận ra Chúa. Nhiều lần các tông đồ không nhận ra Chúa cho tới lúc Chúa tỏ ra cho các ngài.

Khi bà mẹ dọn bữa ăn cho bạn, bạn có biết rằng Bà đứng vào địa vị Chúa Giêsu? Khi bà giặt, ủi đồ cho bạn, may vá và lau nhà cho bạn, có bao giờ bạn nghĩ rằng chính Chúa đã làm những việc ấy cho bạn- qua Mẹ của  bạn? qua người cha của bạn, Chúa Giêsu cung cấp thức ăn, áo mặc nhà cửa cho bạn.

Bác tài xế xe buýt của trường, người bán hàng trong tiệm, Người cảnh sát ở góc phố… Người thợ nguội gắn vòi nước…. tất cả đều làm điều tốt cho bạn, ơn phước đó thật sự đến với bạn từ Chúa Kitô qua những người ấy.’

Chân lý này đúng hơn nữa trên phương diện thiêng liêng. Trong giờ phút này, Chúa Giêsu dọn bữa tiệc cho tất cả chúng ta - Việc rước lễ Người qua vị linh mục. Chúa Giêsu tha thứ qua linh mục, Người Rửa tội, đóng ấn hôn phối, xức dầu cho bệnh nhân, qua một con người khác, vị linh mục. Chúa Giêsu giảng chân lý qua người đọc sách và vị chủ tế trong Thánh lễ.

Những khi bạn làm tốt cho một người, bạn là Chúa Kitô cho người ấy, bạn làm được vì Chúa Kitô muốn bạn làm, Chúa Kitô giúp bạn làm. Và đây là một mầu nhiệm nữa: Ai làm một hành vi tốt, họ thay mặt Chúa Kitô. Bạn làm một việc tốt cho một người, người này cũng thay mặt Chúa Kitô.

Ngay sau khi Chúa Giêsu dọn điểm tâm có các tông đồ, Người hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Mỗi lần Chúa Giêsu làm điều gì cho chúng ta qua một người khác chúng ta phải với Người rằng: Chúng con yêu mến Người. Thánh lễ này là hành vi lớn lao nhất của tình yêu. Chúa Kitô hiến thân cho Cha Người  trên trời thay cho chúng ta. Hãy nài xin Chúa giúp bạn hiểu rằng làm điều lành cho tha nhân là làm cho Chúa và khi có ai làm điều lành cho bạn, bạn không hỏi: “Ngài là Đức Giêsu?” nhưng bạn có biết đó là Chúa Giêsu.

Xin Chúa chúc lành bạn. Amen.

-----------------------------------

 

PS 3-C33: HAI MÔN ĐỆ EMMAU


Lc 24,13-35

A. Hạt giống...

 

Trong câu chuyện hai môn đệ Emmau nhận biết Chúa Giêsu phục sinh, thánh Luca chỉ kể tên: PS 3-C33


Trong câu chuyện hai môn đệ Emmau nhận biết Chúa Giêsu phục sinh, thánh Luca chỉ kể tên một người là Clêôpát. Có nhà chuyên môn Thánh Kinh nói rằng Thánh Luca cũng biết tên người kia nhưng ông không kể ra, vì có ý coi người kia là đại diện cho bất cứ môn đệ nào của Chúa Giêsu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể có được cảm nghiệm về sự nhận biết Chúa Giêsu phục sinh như người môn đệ ấy.

Vậy nhờ đâu mà hai môn đệ này cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu phục sinh ?

- Thứ nhất là nhờ Thánh Kinh: “Khi Ngài nói chuyện và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bùng cháy lên đó sao !”.

- Thứ hai là nhờ bí tích Thánh thể: “Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng, tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.

- Thứ ba là nhờ cuộc sống cộng đoàn: “Họ quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó”.

B.... nẩy mầm.

1. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật của quá khứ. Ngài đang sống ngay sát bên cạnh ta tuy giác quan ta không cảm thấy Ngài. Có lẽ từ trước tới nay, tôi chỉ tin điều này một cách “lý thuyết”. Nếu tôi thực sự tin và sống với Đấng phục sinh đang ở bên cạnh tôi thì cuộc đời tôi sẽ khác, và hiệu quả những hành động của tôi cũng sẽ khác rất nhiều.

2. Khi ta sốt sắng đọc Thánh Kinh, tham dự Thánh lễ và sống tình hiệp nhất cộng đoàn thì ta có thể cảm thấy sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu phục sinh.

3. Nhiều người coi Chúa là ma và sợ Chúa như sợ ma. Chúa không muốn như vậy: Ngài muốn ta coi Ngài là một người sống, và hãy yêu thương phó thác vào Ngài.

4. Noreen Towers là một người làm việc phục vụ cho những người nghèo. Nhưng cô chán nản vì thấy hầu như những việc làm của mình không thành công. Một tối kia cô giật mình thức giấc và cảm thấy hình như Chúa Giêsu đang nói chuyện với cô, Ngài hỏi: “Con không thể tin vào chương trình của Thầy đã vạch sẵn cho con ư ?”. Một thoáng cảm nghiệm chóng qua ấy đã thay đổi hẳn con người cô: từ một người chán chường, cô đã trở thành một người có đức tin không thể nào lay chuyển nổi (Mark Link, Vison 2000).

5. “Chúa Giêsu Kitô có cách nào khác để đi vào lòng người nếu không phải là qua một trái tim tan nát ?” (Oscar Wilde).

6. Mầm khác:

-----------------------------------

 

PS 3-C34: ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH VẪN HIỆN DIỆN


 TRONG HỘI THÁNH NGƯỜI

(Ga 21,1-14)

I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Tảng áng, Đức Giêsu đã có mặt trên bờ biển hồ.

 

Các câu 30-31: "Còn nhiều phép lạ... " kết thúc bài Tin Mừng Chúa nhật trước hiển nhiên là: PS 3-C34


 Các câu 30-31: "Còn nhiều phép lạ... " kết thúc bài Tin Mừng Chúa nhật trước hiển nhiên là đoạn kết của Tin Mừng thánh Gioan. Bởi vậy, nhiều nhà chuyên môn coi đoạn 21 như một phụ lục được thêm vào sau.

Alain Marchadour nhanh chóng quả quyết: "đoạn phụ lục này không phải chỉ là một "lời bạt", những là một nối tiếp có tính Giáo Hội học cho một Tin Mừng nặng tính Kitô học Giữa Tin Mừng tập trung vào Đức Kitô coi như kết thúc sau đoạn 20 và phụ lục là đoạn 21 không có mâu thuẫn mà chỉ là sự chuyển hướng nhắm vào Giáo Hội (I. Zumstein). Những trung Gioan cần thiết để Đấng Mạc Khải tiếp tục công trình đều được trưng diễn: bữa ăn tạ ơn trong đó sự hiện diện của Người được tiếp tục nhiệm vụ mục tử của Phêrô và các đấng kế vị, nhiêm vụ của người môn đệ được Chúa yêu và Giáo Hội của  Ngài " ("L'evangile de Jean", Centurion, trg 253).

Một lần nữa, chúng ta lại thấy 3 giai đoạn của tiến trình Phục sinh:

sáng kiến của Đấng Phục sinh
nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết Người dã chết
sứ mệnh Đấng Phục sinh trao cho Phêrô

a/ Khung cảnh diễn ra trên bờ hồ Tibêriát, nơi họ gặp Đức Giêsu Nadarét. Simon Phêrô và 6 anh em khác? Tôma, Nathanael quê Cana xứ Galilêa, hai con ông Zêbêđê và hai môn đệ nữa đang dưới thuyền đánh cá. Nhưng không được gì hết: “Nhưng suốt đêm ấy, họ không bắt được gì. " (so sánh với bản tường thuật khởi đầu sứ vứ tại Galilê của Luca 5,l-ll)

b/ Tảng sáng, Đức Giêsu phục sinh hiện đến trên bờ hồ. Các môn đệ không nhận ra Người. A. Marchadour chú rằng: Họ không nhận ra Người. Sự Phục sinh đã tạo một đổi nào đó nơi Đức Giêsu. Vì sự biến đổi đó nên các bản tường thuật cũng có những chi tiết khác biệt. Ở đây, cả sự hiện diện thể lý, cả giọng nói cũng không làm cho các môn đệ nhận ra, trừ người môn đệ được Chúa yêu. " (Sđd, trg 256).

Khi Đức Giêsu hỏi: “Các con bắt được con cá nào không ? " (Hãy nghĩ tới câu Chúa hỏi các môn đệ trên đường đi Emmaus: các bạn nói chuyện gì mà rầu rĩ thế?. Họ thú thật: vất vả thâu đêm mà chẳng được gì, nhưng, vâng lời Người, "họ thả lưới ' .

c/ Sau đó, mẻ cá lạ lùng được trình bày như một biểu trưng cho sứ mệnh tông đồ của cộng đoàn. Các tông đồ, tự sức mình, không thể thành công trong sứ mệnh, nhưng, dựa vào lời Đấng Phục sinh, họ bắt tay vào việc, và ngoài sự mong đợi, họ tập hợp được muôn người khắp nơi (bội thu: 153 con cá, gợi nhớ ở tiệc cưới Cana nơi Ga 2; bánh hóa nhiều Ga 6). Lại còn hình ảnh hợp nhất (thánh sử đã muốn tượng trưng bằng chi tiết: lưới không bị rách, theo ngữ nghĩa Hy Lạp, không bị phân, ly không có chia rẻ).

2. Chúa đó.

- Gioan, người môn đệ Chúa yêu (như nơi Ga 20,2-10: "ông thấy và ông tin '), đã tỏ ra bén nhạy với dấu lạ. Và nhờ trực giác chiêm niệm này mà mắt các anh em khác mở rộng để thấy Đấng Phục sinh hiện diện trên bờ hồ: "Chúa đó". Thánh Phêrô Chrysologue chú giải: "Kẻ được yêu thấy trước, vì con mắt tình yêu tinh hơn, và kẻ được yêu cdm nhận bén nhạy hơn. " '

- Lời của Gioan làm cho Phêrô tin tưởng, ông vội khoác áo vào và nhảy ùm xuống (Thi vị thật. Phêrô đang ở trần. Xin nhớ đến Luca 5,8: "Lạy Thầy)', xin xa con ra, con chỉ là tên thuyền chài ")

- Cái gì làm cho tâm trí Phêrô trì trệ vậy?  Ông vẫn là người ban phát cho người khác mà bây giờ phải nhờ người khác mách bảo'? Vẫn thánh Phêrô Chrysologue chú giải: "Đâu rồi lời tuyên xưng " Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Hay tại ông đã chối Thầy khi nghe một dứa nữ tì tra vấn ? Khi nghe bạn ông nói " Thầy đó” ông vơ lấy áo vì đang ở trần, nhảy  xuống biển, như muôn rửa sạch các vết tội nhơ chối Thầy 3 lần. Ong, người đứng đầu các Tông đồ, trở thành kẻ sám hối đầu tiên. "

- Vào tới bờ, các môn đệ thấy bánh và cá đã nướng sẵn đó. Trong bữa ăn mà Chúa đã chuẩn bị để đãi họ (“đến mà ăn "). Ánh sáng thâm nhập tâm hồn: Không môn đệ nào còn hỏi Người Thầy là ai? Vì họ đều biết đó là Chúa!

A. Marchadour chú thích rằng: " Trong những bức họa cổ, bánh và cá biểu tượng tiệc Thánh Thể. Như vậy, trình thuật này của thánh Gioan, muốn nhắc nhở độc giả nhớ rằng: cử hành Thánh Thể là sự nối dài và hiện thực hóa điều mà các chứng nhân tiên khơi của biến cố Phục sinh tin nhận. Trong sứ vụ cũng như công việc đời thường, các tin hữu cần nhớ: Chúa Giệsu vinh hiển đang chờ họ, đang chuẩn bị cho họ bữa ăn nuôi sống họ và làm cho họ có sức mà gặp dược Người " (Sđd. trg 257).

3. Hãy chăn các chiên của Ta.

Toàn bộ trình thuật của Gioan khẩn khoản mời chúng ta hướng về Phêrô. Ở bờ hồ, Phêrô được liệt kê trước hết trong danh sách các môn đệ. Ông là kẻ khởi xướng chuyến ra biển, các anh em khác theo ông và xuống thuyền của ông; chính ông nhào xuống nước lội vào gặp Đấng mà Gioan vừa chỉ ra là Chúa; và rồi, chính ông trở lại thuyền để kéo lưới vào tận bờ, đầy những cá lớn và trình mẻ cá cho Đức Giêsu thấy.

Và bây giờ, trong câu chuyện có tính quyết định, Phêrô đóng vai trò chính yếu nhất, khi Đấng phục sinh long trọng xác nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt của ông cũng như những điều kiện cần thiết để chu toàn sứ mệnh ấy.

Ba lần hỏi: con có yêu mến Thầy không? Con có yêu mến Thầy hơn những người này không ? " Những câu hỏi vừa gợi lại vừa sửa lỗi ba lần Phêrô đã chối Thầy (Ga13,37 và 18.25.27). Đức Giêsu đón nhận một tội nhân sám hối.

Ba lần trao nhiệm vụ. Kẻ mới chối Người, Người lại trao một nhiệm vụ đặc biệt trong Giáo Hội Người. Ba lần trao nhiệm vụ theo thói quen thời đó, Đức Giêsu đã chính thức uỷ thác cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên.

Nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn khi "theo" Thầy mình cho tới cái chết để làm chứng. (Ga 13,36): tham dự vào sứ mệnh của Đức Giêsu, chính là tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người; và cũng chính là chấp nhận hiến Đấng mạng sống cho những anh em đã được Chúa trao phó như Đức Giêsu.

II. BÀI ĐỌC THÊM:

1. Đức Giêsu trên bờ biển hồ

("Bible du Dimanche", trg 582).

Đức Giêsu đã hứa với các Tông đồ: Người sẽ gặp các ông ở Galilê sau khi sống lại. Người đang ở bờ biển Hồ (biểu tượng của vĩnh cửu), trong khi các môn đệ đang vất vả trên mặt biển, trong thử thách, hiểm nguy. Các Tông đồ không nhận ra Người ngay. Chỉ đức tin mới làm cho người ta nhận ra Người qua những dấu chỉ Người tỏ bày.

Đức Chúa vinh hiển, Đấng từ xa kêu gọi và chỉ tỏ mình trong đức tin, lại cũng chính là người phục vụ chuẩn bị bữa ăn và mời gọi chúng ta ngồi chia sẻ bữa ăn ấy. Đức Kitô sai các Tông đồ đi chài lưới người ta. Mẻ chài này, Người điều khiển Người làm cho cá vào đầy lưới, biểu tượng Nước Trời (Mt 13,47). Người trao nhiệm vụ chủ chăn cho Phêrô. Uy quyền này được trao cho một con người rất bình thường (Simon con Gioan), một con người mỏng giòn, đã chối bỏ Người và không thể yêu Người sâu xa hơn ngoài sự gắn bó thuần tình cảm.

Nhưng từ đây, Đức tin của Phêrô dựa trên Đức Giêsu chứ không dựa trên sức mình: Thầy biết ". Phêrô không đòi chia sẻ mọi tâm tư của Thầy, ông chỉ còn việc duy nhất phải làm: theo Thầy.

Số phận của Phêrô cũng sẽ là số phận của các tín hữu: từ lòng tin nhiệt thành phác họa lối đi, ông tiến tới đức tin chín chắn,(dám để cho Chúa dẫn dắt cuộc đời cho tới chết, tới lử đạo.

2. Người của bờ biển hồ

(G. Bessière, trong "Dieu si proche, Năm'C", DĐB, trg 57-58).

Không ai nhận ra con người đứng trên bờ biển Hồ. Người môn đệ Đức Giêsu yêu đã kêu lên: "Chúa đó!" Vào sáng phục sinh, ông là người đã đến mồ trước tiên, "ông đã thâý và đã tin " và trong ánh sáng của tình yêu, ông còn là người đầu tiên nhận ra Đấng Phục sinh. Phêrô cũng là người có phản ứng rất đặc biệt: nhảy ùm xuống nước mà lội vào với Chúa.

Bản tường thuật như quên những anh em khác để tập chú vào hai nhân vật này. Mỗi người một vẻ. Người thì được Đức Giêsu quá yêu thương. Người thì là thủ lãnh năng động của tập thể. Giáo Hội sơ khai cần nhận ra đặc điểm của hai khuôn mặt vĩ đại này. Đó là hai cực sống động của những cộng đồng quan trọng tiên khởi, hai trào lưu khác nhau của Kitô giáo thuở đầu. Cả hai vị đều tiếp nhận lừ Đức Giêsu vai trò đặc biệt của mình.

Còn một biểu tượng rất giàu ý nghĩa: người ta chèo huyền, người ta thả lưới, đêm đài vô tận, bình minh nhợt nhạt, và thuyền cá nhẹ tênh. Phải nhìn ra Đấng Phục sinh đang ở xa xa, phải biết đi tới tận cùng thế giới. Nghe Người chỉ mà quay lại quăng lưới. Chỉ Người có thể dẫn ta vào những cuộc mạo hiểm khi nhắc cho ta những đòi hỏi và hạnh phúc của cuộc mạo hiểm đó. Đời sống của Giáo Hội phải luôn được “hiệu chinh " dưới ánh mắt của Đức Giêsu.

Lươi không rách. Cộng đồng Kitô giáo cũng vậy. Nhiều dị biệt. Nhưng là nơi người ta nghe nhau, hiệp thông với nhau dù rất khác biệt.

Đức Giêsu lưôn mời gọi. Người hiến tặng bánh và cá, như thời nuôi dân trong hoang địa, như bữa tiệc chiều ly biệt. Chúng ta thoáng nhận ra hình ảnh bữa tiệc ngày thế mạt mà Người muốn mời cả loài người. Chân trời này gợi nơi ta một mối quan tâm vô cùng sâu sắc.

Các Kitô hữu, thực hiện sứ mệnh mỗi người mỗi cách, nhưng phải tương hợp với ý Đức Giêsu, nhận ra Người, nghe được tiếng Người khi thi hành sứ mệnh (.....). Chính Người nuôi dưỡng và làm cộng đồng sống động: chúng ta nghĩ đến Bữa tiệc Thánh Thể. Và như tại Emmaus, chúng la nhận ra Đấng Phục Sinh nhờ cử chỉ khi hiện diện, phục vụ và chia sẻ của Người.

-----------------------------------

 

PS 3-C35: CHÚA HIỆN RA BÊN BỜ HỒ TIBÊRIAT


Ga 21,1-9

 

Đa số các nhà phê bình nhất trí cho rằng chương này là một phụ chương được thêm sau khi: PS 3-C35


1. Đa số các nhà phê bình nhất trí cho rằng chương này là một phụ chương được thêm sau khi phúc âm hoàn toàn chấm dứt; một số khác cho rằng chính tác giả phúc âm đã soạn thảo ra nó, vì chương có những nét đặc biệt của Gioan (ngôn ngữ, bút pháp, ngữ vựng...). Đúng vậy, nhưng người ta cũng thấy những yếu tố xa lạ với Gioan và gần với Lc hơn (có những con số; x. phép lạ hóa bánh, Lc 9,10-17). Hãy thận trọng khi giải thích những con số này vì cách tường thuật cuộc đánh cá kỳ diệu và việc hóa bánh ra nhiều rất khác nhau.

Ngoài ra, vì có khá nhiều thành ngữ không thuộc Gioan, nên người ta nhìn nhận là không phải chính Gioan viết, nhưng là một môn đệ của ông viết thêm vào, dựa trên những câu chuyện của chính Gioan kể lại. Có lẽ phụ chương này được thêm vào nagy từ đầu. Thật vậy, người ta thấy nó trong tất cả mọi thủ bản và được nhiều tác giả Kitô giáo đồng thời với chính phúc âm được xuất bản, nghĩa là được phổ biến trong các giáo đoàn. Hình như tác giả phúc âm đã chết vào thời đó (c.21-23); toàn chương nói về ông như nói về một người khác (21,7:ekeinos, người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến ấy). Đàng khác ngôn ngữ thần học thường thấy trong các văn tập của Gioan ở ấy đã nhường chỗ cho việc mô tả các nhân vật và tương quan của họ trong Giáo hội. Người biên soạn bản văn này chú ý nhiều đến chi tiết cá nhân. Bản danh sách trong 21,2, việc nhắc đến nguồn gốc của Mahanael (ông từ Cana đến) và việc nói đến 2 con ông Giebêđê (mà phúc ân thứ tư đã cố tình tránh né) cho thấy điều đó. Và cách giải thích quyền tối thượng của Phêrô trên Gioan minh chứng rõ ràng có sự can thiệp của một biên tập viên khác hằng muốn làm nổi bật giá trị của phúc âm, hằng muốn cho người ta biết rằng tác giả đã xuýt trở thành nhân vật điều khiển Giáo hội. Theo ý kiến nhiều người thì phần kết luận (cc.24-25) là do một người môn đệ đặc trách việc xuất bản viết, phúc âm gia không phải là tác phẩm phần kết luận đó, vì ông chính là môn đệ dấu yêu mà trình thuật cuối cùng nói đến.

Như thế, vì thiếu chứng cớ rõ ràng dựa trên ngôn ngữ và văn thể, toàn bộ dữ kiện và chiều hướng chung của bản văn cho phép nghĩ rằng chương 21 là công trình của môn đệ đặc trách việc xuất bản. Việc Gioan đã kết thúc phúc âm ở 20,30-31 bênh vực cho kết luận này của chúng ta. Tưởng cũng nên lưu ý rằng bất xác thực tính này (non-authenticité) không ảnh hưởng gì đến linh hứng tín của chương 21; tuy nhiên bất xác thực tính đó không phải tuyệt đối, vì trình thuật này dựa trên cơ sở những gì chính tác giả phúc âm kể lại.

2. Đoản văn ghi chú các tông đồ bắt được 153 con cá trong mẻ lưới lạ lùng. Phải nghĩ gì về con số lạ lùng này ? Có thể người ta vì tò mò, đã đếm xem số lượng... Tuy nhiên ở đây không chỉ có việc ghi lại cách chính xác số cá bắt được. Các giáo phụ đã đưa ra nhiều giả thiết, trong đó lối giải thích của thánh Jêrôme dễ chấp nhận nhất: các nhà vạn vật học thời xưa biết được 153 loại cá. Thực ra, một biểu hiện không hề có cơ sở trong CƯ như thế mà lại được ghi nhận trong phúc âm Gioan, kể cũng hơi lạ. Dù sao, nếu thánh Jêrôme có lý, thì ý nghĩa của con số này trùng phùng với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (Mt 13,47). Giáo hội phải hội tụ trong nước mình tát cả mọi dân tộc, như mục tử chân chính qui tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ chuồng khác ngoài Israel (10,1b), như Con Người kéo lôi tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (x.12,32; 6,44). Vì thế, phải liên kết đề tài biểu tượng này với các chi tiết liên quan đến chiếc thuyền duy nhất và chiếc lưới không bị thủng.

3. Một câu hỏi, lặp lại ba lần “Phêrô, con có mến Ta không ?” xem ra được nhấn mạnh bù lại ba lần chối Chúa, hầu hết các nhà chú giải đều nhất trí như thế. Nhưng chỉ sau lần hỏi thứ ba, mới nghe Chúa Giêsu thôi nói với Phêrô: “Hãy chăn nuôi đàn cừu của Ta”, như thể ngầm bảo rằng ông đã được tha. Vậy tại sao lời uỷ nhiệm này được trao cho ông ba lần luôn ?

Nhiều nhà chú giải nhấn mạnh: việc lặp lại này nhằm tăng thêm phần long trọng cho khung cảnh. Theo Bultmann, việc long trọng lặp lại như thế gợi lên “một tập tục tế tự hoặc một tập tục pháp lý có tính cách ma thuật”. Còn P. Gaechter đề nghị cách giải thích sau: “như những công thức luật pháp cổ xưa thường không được viết ra nhưng phải được lặp lại ba lần trước những nhân chứng. Cũng thế, lời uỷ nhiệm chính thức được trao ban cho Phêrô cũng có giá trị pháp lý nhờ lặp lại ba lần trước các nhân chứng. Để minh chứng cho ý kiến này ông đưa ra nhiều ví dụ rút từ luật giá thú xứ Palestine và nhắc lại công thức ba lần đã được dùng đến khi Abraham nhận căn động của Makpéla để chôn xác Sara (St 23,3-18). Ngoài ra, có thể kể thêm trường hợp luật dòng thánh Biển Đức, thế kỷ thứ sáu, buộc phải đọc lời khấn ba lần. Nói tóm lại, tâm thức luật pháp chung chung của cổ thời giúp ta dễ dàng hiểu lời uỷ nhiệm ba lần được lặp lại này. Việc lặp lại có ý nói rằng Phêrô chính thức được giao phó nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Đức Kitô.

4. Ba lần Chúa Giêsu hỏi và ba lần Phêrô trả lời tạo nên tâm điểm của trình thuật: địa vị Phêrô và môn đệ dấu yêu có đủ mọi cơ may được phong làm người lãnh đạo: các con ông Giêbeđê (được đó có Gioan) và mẹ các ông đã chẳng ngần ngại xin những chỗ tốt trong Nước Trời sao ? (Mc 10,35-41)

Nếu Phêrô đã chiếm chỗ nhất, đó không phải là vì công lao của ông. Ba lần Chúa Giêsu hỏi rõ ràng là dư âm của ba lần ông chối Chúa. Ông đã thề theo Chúa Giêsu cho đến chết, dù các người khác chối bỏ Người... (Mc 14,29). Và giờ đây, ông bị tra vấn về tình yêu và lòng trung tín của ông:"Con có mến ta hơn những người này không ?”, câu hỏi đầu tiên là vậy. Để hướng dẫn kẻ khác, phải chứng tỏ có một tình yêu lớn hơn. Chúa Giêsu hoàn toàn không muốn khơi lại niềm đau xa xưa. Nhưng Phêrô hãy biết rằng việc ông được quyền tối thượng không do công lao của ông. Mọi trình thuật về ơn gọi, trong CƯ cũng như trong TƯ, luôn đi theo lời xác quyết tính cách bất xứng của đương sự (15,16). Khi Chúa hỏi Phêrô có yêu mến Ngài hơn những người khác không, câu hỏi này nhắm đến tương lai nhiều hơn là quá khứ. Phêrô không được chọn vì đã yêu nhiều. Các sự kiện quá khứ đều phủ nhận điều đó; chỉ có Gioan, vì yêu nhiều hơn nên mới dám đến đứng dưới chân thập giá sau khi đã chạy trốn. Nhưng vì một khi được chọn, ông phải từ đó yêu nhiều hơn những kẻ khác.

5. Vì là người lãnh đạo, từ nay, theo chân Chúa Giêsu Phêrô phải đi trước đoàn chiên (13,36). Xưa kia vì quá tự tin, ông đã tuyên bố có thể theo Chúa cho đến chết. Ông sẽ có cơ hội thực hiện điều đó. Khi trích một châm ngôn bình dân, Chúa Giêsu báo cho Phêrô biết một ngày kia ông sẽ chết tử vì đạo. Lúc còn trẻ, người ta có thể tự mặc áo, thắt nịt, như Phêrô đã làm lúc nãy (21,7). Nhưng khi về già, sẽ bị người khác áp chế. Cũng vậy, Phêrô sẽ giăng tay để người khác thắt lưng. Hình ảnh này nói lên việc mất tự do, chứ không nói đến hình thức cụ thể của việc Phêrô tử đạo; truyền thuyết ghi nhận đã bị đóng đinh.

Lời bí ẩn mà Chúa Giêsu đưa ra có được Giáo hội giải thích như là lời tiên báo về cuộc tử đạo của Phêrô. Chính tác giả cũng gợi lên cách giải thích này (12,33; 18,32). Nhờ việc tử đạo, Phêrô sẽ tôn vinh TC. Từ ngữ tôn vinh ở đây không có cùng một ý nghĩa như trong trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (13,31; 17,1). Nhờ cái chết, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người thấy vinh quang của Cha Ngài và một cách nào đó trở nên lăng kính của vinh quang TC. Nhờ việc tử đạo, Phêrô tuyên xưng vinh quang hay thần tính của TC, khi thực hiện thánh ý của Ngài (1P 4,16). Trong lúc chờ đợi, Phêrô chỉ cần đi theo Chúa Giêsu (10,4; 12,26). Con đường này đương nhiên đưa ông đến cuộc tử đạo (12,26.36).

KẾT LUẬN

Giavê, mục tử Israel (Ez 34,11-12; Tv 23) đã cho Chúa Giêsu trở nên mục tử tốt lành và đích thực (Ga 10,1-16; 1P 5,4). Từ đây chính Phêrô sẽ thay mặt Đức Kitô thi hành quyền chăn dắt hữu hình: ông trước hết rồi đến những người kế vị ông.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Người mục tử nhân lành săn sóc đàn chiên mình mà chúng ta đã biết mà phúc âm đã trình bày, đó chính là Đức Kitô; tuy nhiên Phêrô hôm nay được giao phó một công việc thật đặc biệt: coi sóc để mỗi con chiên được ăn đầy đủ. Chúng ta có thể dễ dàng hiểu đây là của ăn đã được Chúa Giêsu đưa ra, của ăn chính Ngài thiết lập và không thể thiếu: Mình và Máu Ngài. Với Thánh Thể, còn có của ăn Lời chúa đi kèm nữa. Nếu Chúa Giêsu vẫn là mục tử tối cao, thì Phêrô đặc trách về lương thực và an toàn thiêng liêng của đàn chiên.

Trong cách Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh Ngài cho vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo hội, chúng ta có thể tìm thấy hai bài học:

- Nếu Phêrô và qua ông, những đấng kế vị, có bổn phận nuôi dưỡng thì chúng ta phải biết chạy đến với các Ngài. Có lẽ bổn phận đầu tiên của chức tư tế, qua đoạn phúc âm này, là bảo đảm của ăn thiêng liêng phát triển và giữ gìn Giáo hội.

- Cũng như Phêrô, tất cả chúng ta đều có chức vụ phải thi hành, vai trò nắm giữ để phục vụ tha nhân. Dù chức vụ khiêm tốn hay hào khoáng, quan trọng hay tầm thường, hiệu lực hay không đáng kể, cũng chẳng sao. Có lẽ hôm nay chúng ta nên suy nghĩ về cách thức chúng ta đã thi hành công việc: có đúng như Chúa Giêsu đòi hỏi Phêrô, nghĩa là làm vì yêu, trong tinh thần phục vụ và vô vị lợi hay không ?

3. Chính vì Phêrô xác quyết yêu mến Chúa, nên được Chúa trao phó đoàn chiên cho. Và chính vì đàn chiên được trao phó cho mình mà Phêrô phải lệ thuộc và vâng lời.

Nếu Phêrô được trao công việc này là vì ông yêu Đức Kitô. Việc ông phục vụ tha nhân sẽ được nung nấu không phải là vì lòng ham danh cầu lợi, nhưng vì lòng tín trung với tình yêu Đức Kitô. Tình yêu với Đức Kitô thanh tẩy ý hướng phục vụ tha nhân của ông.

Khi phục vụ tha nhân vì yêu Chúa, ông can đảm dấn thân trong con đường lệ thuộc, vâng lời. Đa số các nhà chú giải thấy trong dụ ngôn kỳ lạ của Chúa Giêsu lời tiên báo việc tử đạo của Phêrô vào cuối đời. Nhưng người ta cũng thấy trong đó lời tiên báo: cuộc đời Phêrô, vì ngày càng bận bịu phục vụ tha nhân, sẽ được thúc đẩy bởi một sự vâng lời đến nỗi ông bị chiếm đoạt hoàn toàn.

Đây là một sự lệ thuộc chặt chẽ giữa tình yêu Chúa, việc phục vụ tha nhân là sự từ bỏ chính mình, tất cả những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi Phêrô, thủ lãnh Giáo hội. Do đó, được trao ban quyền bính, với sứ mạng thiết lập một sứ mạng mới, Phêrô phải tuân hành trong sự vâng phục thánh linh. Ông được chính Chúa bảo vệ khỏi cám dỗ thống trị anh em. Khỏi quyến rũ áp đặt một quyền lực tôn giáo, khỏi tham vọng mưu đồ địa vị cá nhân.

4. “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến mới nói cùng Phêrô: “Chúa đó” (c.7). Theo văn mạch, người môn đệ nhận ra Đức Kitô không phải vì nhìn thấy Chúa trực tiếp, nhưng vì thấy phép lạ Chúa làm. Truy nhiên không phải ai cũng nhận ra; bản văn cho thấy chỉ một mình môn đệ Chúa Giêsu yêu mới có được sự minh mẫn mà các tông đồ khác không có. Đối với chúng ta cũng thế: việc nhận ra Chúa Giêsu, sự khám phá ra hiện diện của Ngài, trước tiên không nằm trong tầm trí giác bén nhạy và tức khắc, nhưng được thực hiện nhờ việc giải thích biến cố trong đó biểu lộ hiệu lực của Lời Ngài và hiệu năng của công việc chúng ta dựa trên “Lời Ngài” (Lc 5,5). Chỉ một mình môn đệ Chúa Giêsu yêu mến mới có thể làm được điều ấy, bởi vì sự vắng mặt lâu của thày, sự nặng nề của công việc mà thói quen dễ thất vọng đã không dập tắt trong ông cái nhìn của tình yêu. Khi mà các môn đệ khác chỉ thấy một sự may mắn bất ngờ, thì ông lại khám phá ra sự can thiệp của Đấng phục sinh. “Ông thấy và ông tin” (20,8). Ngược với Tôma muốn thấy và sờ đến trước khi tin, ông không cần một minh chứng rõ ràng, nhưng đức tin và cái nhìn trở nên một nơi ông: điều ông thấy mạc khải cho ông Đấng ông tin, vì Đấng ông tin làm cho ông thấy. Và chúng ta, những Kitô hữu, sự phục sinh của Đức Kitô có thâm nhập và biến đổi cuộc đời chúng ta, có canh tân cùng tinh luyện cái nhìn của chúng ta về các biến cố không ?

-----------------------------------

 

PS 3-C36: ĐỨC VÂNG LỜI


Nghe:

BÀI ĐỌC 1: Cv 5,27b-32.40b-41.

Ong Phê-rô và các Tông Đồ không sợ sệt trước quyền uy và đã nói một câu bất hủ " Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm. Đức Giê-su đã bị các ông ( Thượng Hội Đồng ) treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội." Dù bị đòn vì tội dám rao giảng danh Đức Giê-su, nhưng lòng các Ngài hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ nhục vì Danh Thánh Ay.

BÀI ĐỌC 2: Kh 5, 11-14

BÀI TIN MỪNG:   Ga 21,1-19 Đức Giê-su hiện ra ở biển hồ Tibêria

Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. Ong Si-mon Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đi-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ong Si-mon Phê-rô nói  với các ông: "Tôi đi đánh cá đây" Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

          Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư ?" Các ông trả lời: "Thưa không." Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì luới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó !" Vừa nghe nói "Chúa đó !", ông Si-mon Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo các ông:"Đem ít cá mới bắt được tới đây !" Ong Simon Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn !" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ong là ai ?", vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết.

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-mon Phê-rô: "Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?" Ong đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." Người lại hỏi: "Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không ?" Ong đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ?" Ong Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không ?" Ong đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến ơi anh chẳng muốn." Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."

Ngẫm:

Câu hỏi gợi ý:

 

Đức Vâng lời là gì ?  Các thuộc tính của nó ? 2. Vâng lời ai ? 3. Tầm quan trọng và hiệu quả: PS 3-C36


1. Đức Vâng lời là gì ?  Các thuộc tính của nó ?
2. Vâng lời ai ?
3. Tầm quan trọng và hiệu quả của Đức Vâng Lời ?
4. Kinh nghiệm sống

Suy tư gợi ý:

1. Định nghĩa Đức Vâng Lời. Các thuộc tính của nó.

Trong Bài đọc 1, Thánh Phê-rô đã khẳng định trước Thượng Hội Đồng là các Tông Đồ cần phải vâng Lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Trong bài đọc 2, Đức Giê-su vì vâng lời Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập giá, nên Thiên Chúa dã cho Ngài Phục Sinh trong vinh quang bất diệt. Trong Bài Tin Mừng, các Tông Đồ đã vâng theo sự chỉ dạy của "Một người" mà các Tông Đồ xem như có kinh nghiệm về nghề đánh cá hơn mình ( lúc đó các Tông Đồ chưa biết người đó là Đức Giê-su ),  nên đã thả lưới bên phải mạn thuyền và kết quả mỹ mãn. Vậy vâng lời là gì và các thuộc tính của nó như thế nào ?

          Vâng là tuân phục, nghe theo. Lời là ý kiến, sự chỉ dạy , mệnh lệnh của  người khác mình, thường là người trên mình về tuổi tác, kinh nghiệm, tài năng hay chức vụ. Vâng lời là làm đúng theo ý của người cố vấn hoặc ra lệnh cho mình.  Nhưng đề tài của chúng ta bàn ở đây là Đức Vâng Lời. Tại sao lại có chữ Đức ? Vì  Vâng lời với tất cả ý nghĩa tràn đầy của nó phải bao hàm các thuộc tính: khiêm nhường, tự do và tình yêu.

–  Trước hết, vâng lời là một nổ lực chống lại tính tự kiêu, một tội đứng hàng đầu trong bảy mối tội. Khuynh hướng tự nhiên luôn  cho mình là tốt nhất, hay nhất, giỏi nhất. Chúng ta không muốn đầu luỵ ai về bất cứ  vấn đề gì. Lu-xi-phe muốn có quyền bằng Thiên Chúa. Adam và Eva ăn trái cấm  để biết lành dữ như Thiên Chúa. Do đó hành động vâng lời  của ta luôn hàm chứa một sự khiêm hạ, một sự chấp nhận người khác hơn mình.

          –  Kế đến, sự vâng lời  chỉ có giá trị đích thực khi ta đang ở trong tình trạng tự do. Chỉ riêng từ "VÂNG" cũng đủ nói lên sự tự nguyện chấp nhận  chỉ đạo của người khác. Không thể nói đến Đức Vâng Lời khi ta bị ép buộc phải làm một điều gì với một họng súng đen ngòm bên mang tai.

–  Cuối cùng, sự vâng lời đòi buộc ta phải hành động với tình yêu. Ta chấp nhận lệnh truyền với sự tự do có nghĩa là ta đã có tình yêu rồi. Tình yêu đối với tha nhân và chân lý. Ta vâng lời vì yêu mến người sai bảo ta. Ta vâng lời vì điều được sai bảo là chân lý dẫu rằng nhiều lúc ta không mấy thiện cảm đối với người  truyền lệnh. Đến đây, một câu hỏi được đặt ra  là ta phải vâng lời ai ?

2. Ta phải vâng lời ai ?

Trong bài đọc 1, Thánh Phê-rô cả quyết: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm." Ta cần phải xác định quan niệm về Thiên Chúa và người phàm. Nếu hiểu Thiên Chúa là Đấng linh thiêng thì làm sao ta có thể trông thấy và tiếp xúc với Ngài được ? Và nếu hiểu nguời phàm là những người cụ thể trong  cộng đồng nhân loại với ta, thì  suốt cuộc đời ta, ta chỉ tiếp xúc với người phàm và vâng lời người phàm mà thôi sao ! Quan niệm như thế e không chỉnh lắm. Thiên Chúa ở đây phải được hiểu là chân lý, là tất cả những gì hợp với đức tin và luân lý. Người phàm hay người thế gian phải được hiểu là những người không tin có Chúa, là những thế lực chỉ nhằm hạnh phúc tạm thời của trần gian, là ác thần thù địch cùng Thiên Chúa. Nên bất cứ ai nói lên được tiếng nói của công lý, của bác ái, Ta xem đó như là tiếng nói, là mệnh lệnh của Thiên Chúa và ta có bổn phận nghe theo. Ngược lại, nếu ai đó bó buộc ta  phải theo  những chủ thuyết vô thần, vô luân, thì đó là mệnh lệnh của người phàm, chẳng nhũng ta không phải vâng lời mà còn có bổn phận phản bác lại. Ong Phê-rô không thể vâng lời quí ông trong Thượng Hội Đồng khi họ cấm đoán ông rao truyền Đức Ki-tô Phục sinh, vì sự kiện này là một chân lý. Tuy nhiên ông lại nghe theo lời khuyên nhẹ nhàng của một  người đáng tin cậy dể thả lưới phía phải mạn thuyền. Người con gái ngoan đạo sẽ cưỡng lại lệnh phá thai dù làcủa  cha mẹ, đấng sinh thành và dưỡng dục mình… nhưng có thể vâng lời một người bạn gái  khuyên bảo mình tiếp tục vững lòng tin nơi Chúa. Như thế, Đức Vâng Lời mang một giá trị đặc biệt và đem lại hiệu quả khôn lường.

3. Tầm quan trọng và hiệu quả của việc Vâng lời Thiên Chúa.

          Lu-xi-phe không vâng lời Thiên Chúa chấp nhận mình là kẻ thụ tạo nên đã trở thành quỉ dữ. A-đam E-và đã không vâng lời Thiên Chúa,  ăn trái cấm,  nên đã nếm trãi sự khổ cực và sự chết.  Còn Abraham đã vâng lời Thiên Chúa hiến tế dứa con độc nhất của mình nên đã trở thành tổ phụ của một dân tộc con đàn cháu đống. Tiếng xin vâng của Đức Mẹ đã ban tặng cho trần gian một Đấng Cứu Tinh duy nhất.  Sự Vâng lời của Chúa Giê-su đối với Đức Chúa Cha đã ban cho nhân loại sự sống trường cửu. Như vậy, Đức Vâng Lời đã mang lại nhiều hoa trái trường cữu. Vấn đề là trong cuộc sống đời thường,  ta không biết đâu là ý Chúa để nói lên hai tiếng xin vâng,

4. Một kinh nghiệm sống cho các thành viên Khôi Bình

Làm sao phân biệt được đâu là Ý CHÚA đâu là Ý PHÀM ? 

Chân lý tuyệt đối là vô hạn mà trí khôn ta thì hữu hạn.  Chân lý tuyệt đối lại hiện hữu thông qua những chân lý tương đối.  Nghĩa là chân lý đó bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nơi thế này, lúc cách khác. Chính vì vậy giới tín hữu bình dân như ta thường hay nói luật Chúa thì bất biến nhưng luật Giáo Hội có thể thay đổi tuỳ nơi tuỳ lúc.  Cách đây 50 năm, Giáo Hội cấm ta lập bàn thờ tổ tiên, ăn đồ cúng. Ngày nay tín hữu có thể dâng mâm ngũ quả lên bàn  thờ tế lễ. Còn luật xã hội thì trăm hoa đua nở, mỗi châu mỗi khác, mỗi nước mỗi cách. Lúc thì vượt biên là phản quốc, lúc lại Việt Kiều là yêu nước. Vấn đề còn lại là với trí khôn và lương tâm Chúa ban cho mỗi người, trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, với ơn Thánh Linh soi dẫn, với sự tư vấn của các bậc trách nhiệm, ta có thể biết được điều lành phải vâng phục và điều ác phải né tránh. Dù sao với lương tâm ngay chính, khi chúng ta vâng lời thực hành một điều mà ta xét thấy là thiện, thì lúc đó ta không còn chịu trách nhiệm nữa.

Nguyện:

Lạy Chúa, xin cho con khả năng nghe được tiếng Chúa để con biết làm theo lời Chúa dạy. Trước mắt, xin cho con biết vâng lời những người có trách nhiệm phần hồn phần xác của con. Đó là giáo quyền, là cha mẹ, là thầy dạy, là bạn hữu xa gần, là thế quyền  hợp pháp và hợp luân lý đạo đức. Sự vâng lời của con sẽ là bằng chứng hùng hồn con là con ngoan của Chúa, là đồ đệ trung thành của Đức Ki-tô Phục sinh. Amen.

 An-rê Nguyễn Hữu Nghĩa.

-----------------------------------

 

PS 3-C37: CHÚA GIÊSU HIỆN DIỆN GIỮA CUỘC SỐNG CHÚNG TA

 

Sau khi cuộc sống bị đảo lộn vì cơn bệnh lâu ngày và cái chết của một người thân, chúng ta trở: PS 3-C37


Sau khi cuộc sống bị đảo lộn vì cơn bệnh lâu ngày và cái chết của một người thân, chúng ta trở lại với những công việc bình thường mỗi ngày. Ta nhẫn nhục tự nhủ: "phải tiếp tục sống chứ". Nhưng ta vẫn mang nơi mình hình ảnh của người thân yêu. Nhất là ta mang nơi mình những câu hỏi đã nẩy sinh nhân biến cố vừa qua hoặc những giá trị ta đã khám phá được nơi đó.

Các tông đồ trở về với nghề cũ.

Sau ngày thứ sáu tuần thánh, khi không còn có Thầy nữa, các tông đồ cảm thấy lúng túng. Điều vừa mới xảy ra không chỉ là một biến cố nhất thời, nhưng là kết thúc bi thảm của suốt ba năm trời họ đã sống bên một con người vừa là tôn sư vừa là bạn hữu. Ba năm hy vọng được một chỗ đứng trong nước trời giờ đây đã thành mây khói. Chẳng còn gì để làm nữa ngoài việc trở về Galilê, nơi họ đã sống nhiều nhất với Chúa Giêsu và nơi họ cảm thấy thoái mái khi tiếp tục lại công việc quen thuộc của mình, đó là việc đánh cá.

Ngài đến gặp họ giữa cuộc sống hằng ngày. .

Chính tại nơi đó mà Chúa Giêsu muốn hiện ra với họ để cho họ có được kinh nghiệm lạ lùng về sự hiện diện của Ngài. Chính nơi đó mà Ngài đến gặp họ để mặc khải cho họ quyền năng phục sinh của Ngài. Và Ngài làm điều ấy một cách âm thầm, gần gũi, kín đáo, như để tôn trọng sự đau buồn còn lại trong lòng họ. Có gì gần gũi hơn và thân mật hơn là cùng nhau chia sẻ một bữa ăn?

Sự hiện diện của Chúa. Giêsu thay đổi cuộc đời chúng ta .

Họ biết rằng Chúa đó mà không dám nói ra. Họ nhận ra Ngài và chẳng bao lâu việc nhìn nhận này sẽ đảo lộn cuộc sống của họ. Họ nhận thực rằng Ngài chính là Đấng đã đồng hành với họ trong những năm tháng họ vừa trải qua. Có những người một ngày nào đó đã được ơn gặp Chúa qua một biến cố tầm thường hoặc một cuộc hành trình dài, hay qua một  số người họ gặp gỡ. Có những người đã nhận ra Chúa một cách nhanh chóng, như thánh Phaolô, Thánh Têrêsa Avila? Thánh lnhaxio Loyola và nhiều vị khác. Còn chúng ta thì không được như vậy. Ngài đòi hỏi chúng ta lưu ý đến lời mời gọi của Ngài dưới bất cứ hình thức nào.

..... Bởi quyền uy của Lời Ngài

Các môn đệ được Thầy ngỏ lời theo hướng công việc các ông làm: các con có bắt được cá không? Hãy thả lưới bên hữu". Các ông có thể tự hỏi: Làm sao người lạ mặt này có thể ra lệnh cho những người chuyên nghề đánh cá như chúng ta? Nhưng các ông đã vàng lời. Lời Chúa Giêsu hữu hiệu, quyền uy, có sức tác động. Kết quả vượt quá mọi mong chờ. Chính nơi những dấu chỉ này mà các ông nhận ra Ngài.

Cả chúng ta nữa, chúng ta lại chẳng cần được lời Chúa thức tỉnh sao, khi mà đức tin của ta dường như tê liệt, khi chúng ta thiếu tin tưởng vơi những cố gắng bé nhỏ của mình?

Trước hết, chính Phêrô, đã có sáng kiến đi đánh cá. Khi nói với Phêrô, người cầm đầu, Chúa Giêsu giao cho tất cả các ông sứ vụ tiếp tục sự nghiệp của Ngài: đi loan báo lời Ngài, đổi mới sự hiện diện của Ngài giữa loài người, xây dựng tương lai của Giáo hôi.

Trong Thánh lễ này, tất cả chúng ta dều được gọi tin vào quyền năng của Lời Chúa, được gọi để cho Lời Chúa biến đổi chúng ta. Chúng ta được mời gọi tham gia vào sứ vụ của các tông đồ trong cuộc sống và những hành động hằng ngày của chúng ta. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã mặc khải cho chúng ta sự hiện diện của Ngài ỏ giữa chúng ta.

GABRLELLE  MORIN

-----------------------------------

 

PS 3-C38: ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH CHÚA KITÔ.


1.Tầm quan trọng chương 21 của Gioan:

 

Ngày nay có nhiều ý kiến khác nhau về tác giả chương 21, người thì bảo là của Gioan, kẻ khác: PS 3-C38


Ngày nay có nhiều ý kiến khác nhau về tác giả chương 21, người thì bảo là của Gioan, kẻ khác cho rằng là của môn đệ Gioan, ý kiến khác lại cho rằng là của tín hữu vô danh nào đó. Lý do quan trọng nhất là người ta đã thấy Gioan kết thúc Tin Mừng của ông ở chương 20,30-31: "Đức Giêsu đã làm trước mặt các môn đệ của Ngài nhiều dấu lạ khác nữa, không viết lại trong sách này...". Thế mà Gioan lại còn thêm chương 21, và lấy lại lời kết chương 20!

Vấn đề của tác giả nào, chúng ta để cho các nhà chuyên môn, phần các Kitô hữu cần nhất là phải xác tín rằng:

a. Chương 21 của Gioan được Hội thánh công nhận là phần của mạc khải, tác giả chính là Chúa Thánh thần, tác giả phụ là người viết.

b. 20 chương đầu của Thánh Gioan viết về Chúa Giêsu, chỉ có chương 21 này viết về Hội thánh cũng bằng giá trị 20 chương đầu, vì hai lời kết đều nói rằng "Đức Giêsu đã làm..." (Ga 20,30; 21,25).

2. Số 153 con cá có nghĩa gì?

a. Theo thánh Giêrônimô: Thời bấy giờ người ta nghĩ là tất cả mọi loài các biển gồm 153 loại. Nếu thế thì đây là biểu tượng cho sứ mệnh của Hội thánh: Nhờ làm theo Lời Chúa Hội thánh thâu nạp vạn vật để phục vụ loài người, cho con người tôn vinh Thiên Chúa (xem 1 Cr 3, 22-23). Đó cũng là ý mà phục vụ hôm nay đã nói trong bài đọc 2: "Tất cả tạo thành trên trời dưới đất, trong gầm trời, nơi lòng biển, cùng toàn thể vạn vật các nơi chốn ấy, chúng tung hô: Kính bái Đấng ngự trên ngai cùng Chiên Con, Chúc tụng danh dự và vinh quang, cùng uy lực cho đến đời đời kiếp kiếp". (Kh 5,13).
b. Theo thánh Augustinô: Tin Mừng viết về cuộc sáng tạo mới trong Đức Giêsu hoạt động trong Hội thánh cũng chính là con người được mời gọi cộng tác với Đức Giêsu để kiện toàn cuộc tạo dựng mới này. Do đó, số 153 con các nghĩa là:
 
 


Hình tam giác đều chỉ Ba Ngôi Thiên Chúa.

Sáu điểm trên một cạnh chỉ 6 ngày tạo dựng.

Số 153 là tổng số từ 1+2+3... 17.

Số 17=10+7: Số 10 và 7 chỉ sự hoàn toàn. 10 điều răn (toàn thể Lời Chúa) và 7 phép Bí Tích (toàn thể ơn Chúa).

Vậy cuộc tạo dựng mới này là rất hoàn hảo nhờ Ba ngôi Thiên Chúa. Dùng Lời Chúa và dùng Bí Tích để tái tạo vũ trụ nói chung và kẻ tin  nói riêng.

Vì sứ mệnh của Hội thánh là dùng Lời Chúa và Bí Tích để làm cho loài người được tạo dựng lại trong Chúa Giêsu Phục Sinh, Cho dù các môn đệ Chúa có bị bách hại vì sứ mệnh này, họ cũng không sợ hãi. Trái lại họ hân hoan sỉ nhục vì Danh Chúa. (Bài đọc 1).

3. Tại sao Chúa ra lệnh: Hãy thả lưới bên phải thuyền, các ngươi sẽ gặp" ? (Ga 21,6).

Thuật ngữ "Bên phải" của thánh kinh luôn diễn tả về ơn cứu độ như chiên (người lành) đứng bên phải (Mt 25,34), bên Thiên Chúa cứu độ, như lời ngôn sứ Ez. 47 nói: "Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì được cứu độ".

Vậy lưới môn đệ thả bên thuyền đã được mẻ cá lạ lùng, chính là dấu chỉ việc làm của Hội thánh sẽ đạt kết quả lạ lùng nhờ nguồn cứu độ xuất phát từ cạnh sườn Chúa bị đâm!

4. Tạo sao Chúa hỏi Phêrô đến 03 lần yêu, rồi Ngài mới trao quyền?
Trước tiên, ta phân biệt hai động từ yêu được dùng trong câu chuyện này:

Agapê: Yêu vô vị lợi, không phân biệt bạn hay thù.
Philein: Yêu trong tình bạn, đặt trên công bằng giáo hoán.

Ta thấy ba lần Chúa hỏi Phêrô trả lời:

Con có Agapê? Dạ, con Philein. Con hãy chăn chiên (Arnia).
Con có Agapê? Dạ, con Philein. Con hãy chăn cừu (Probata)
Con có Philein? Dạ, con Agapê. Con hãy chăn cừu.

Như vậy:

a. Chỉ khi nào Phêrô trả lời Agapê, Chúa mới chịu, nghĩa là phải yêu như yêu Chúa mới đạt.

b. Ba lần Chúa hỏi về tình yêu của Phêrô, Ngài có ý muốn ông chuộc lại 03 lần đã chối thầy. Vì thế, lần thứ nhất Chúa hỏi: "Phêrô con có yêu mến Thầy Hơn những người này không?

Chữ Hơn ở đây có ý nhắc đến lần ông đã tự mãn thề thốt: "Dù mọi người đều vấp ngã vì Thầy, còn tôi, tôi sẽ không bao giờ vấp ngã!" (Mt 26,33). Nhưng rồi sau đó, ông đã chối thầy 03 lần!

Bởi thế, sau 03 lần hỏi về tình yêu của ông, ông hiểu ý Chúa, nên ông buồn và lên tiếng trả lời: "Lạy Thầy, Thầy thông hay mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy..." (Thầy biết con đã thề là không bỏ Thầy, nhưng sau đó con đã chối Thầy).

c. Ba lần hỏi yêu rồi mới trao quyền, có nghĩa là: Chúa không bao giờ rút lại ý định trao Hội thánh cho Phêrô chăm sóc.

Cũng như Abraham mua hang Makpela để an táng Sara, Ông phải mặc cả với người địa phương 03 lần, để họ không được động đến mồ mả của vợ ông (xem 23,3-8).

Thế giới thuộc về tay ai biết yêu mến! (Ga.Vianey).

Tại sao Chúa chọn Phêrô làm thủ lãnh? Không phải vì ông học thức hơn ai, mà trái lại ông bị dân liệt vào loại vô học (xem Cv 4,13); không phải ông thánh thiện hơn ai, trái lại ông là kẻ kiêu ngạo: "Tôi không bao giờ bỏ Thầy như những tên kia!" (xem Mt 26,33) Ông cũng là kẻ bạc tình chối không biết Thầy, Ông cũng là kẻ nóng nảy và hung bạo: Chém đứt tai người đầy tớ vị thượng tế (xem Ga 18,10).

Dầu  thế, Chúa vẫn quyết trao Hội thánh cho ông chăm sóc, đó là quyền tự do của Thiên Chúa. Nhưng quyền tự do này vẫn còn phải dựa trên đức ái của con người. Vì Ngài biết nhiệm vụ Ngài trao rất nặng nề và nguy hiểm đến tính mạng, như các tông đồ bị đòn vọt, ra tù vào khám (xem Bài đọc 1). Chỉ có tình yêu mới giúp người môn đệ lướt thắng mọi khó khăn. Thánh Augustinô nói: "Ở đâu có tình yêu, ở đấy hết khó nhọc, và giả như có khó nhọc, thì lại yêu chính sự khó nhọc ấy".

Như vậy, dưới cái nhìn của Mt (16,15-19), Chúa xây dựng Hội thánh trên nền tảng đức tin của thủ lãnh, của cộng đoàn, nhưng dưới cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu thì Chúa xây dựng Hội thánh trên đức ái của thủ lãnh, của tập thể. Đức ái trong Hội thánh được diễn tả cách cụ thể trong Tin Mừng Chúa Nhật này:

a. Đối với nhau:

Cần nhất trí với thủ lãnh, Phêrô hô: "Tôi đi đánh cá đây". Các người khác nhao nhao: "Chúng tôi cùng đi với anh!". Dù có kẻ không biết nghề chài lưới như Mathieu, Nathanael!

b. Đối với Chúa:

Tin vào giá trị Lời Chúa: Như  Chúa bảo họ thả lưới bên phải thuyền, họ mau mắn làm ngay, dù đã vất vả cả đêm mà không được gì!

Quy mọi thành công cho vinh quang Thiên Chúa: Khi được mẻ cá lạ, Gioan nói với Phêrô: "Chúa đó!", nghĩa là làm sao qua kết quả việc làm ta nhận ra Thiên Chúa, vì như Chúa nói: "Không có Thầy, chúng con không thể làm gì được!" (Ga 15,5).

Nhất là chết như Thầy: Chúa đã báo trước cho Phêrô: "Khi người về già, ngươi sẽ giang tay ra, và người khác sẽ thắt lưng cho ngươi, và lôi đi nơi ngươi không muốn", nghĩa là Phêrô phải chết như Thầy: Chính Thầy đến Núi Cây Dầu cầu nguyện xin Chúa Cha: "Nếu Cha muốn xin cất chén đắng này khỏi con" (khỏi chết trên Thập Giá), nhưng vừa cầu nguyện xong, kẻ ác xông đến lôi Ngài đi giết (xem Lc 22,39t).

Người làm ông làm bà, khi về già có nhiều tủi, nhục với con cháu; thì người thủ lãnh khi xế chiều, còn tủi nhục hơn nữa...!

Bông hoa nơi bàn thờ cũng diễn tả kiếp người phục vụ: Khi còn trẻ, khỏe, tài thì như hoa tươi, ai cũng quý. Nhưng khi về già, hết sức hết tài, thì bị coi rẻ như đoá hoa héo tàn, người ta ném vào sọt rác, không chút tiếc nuối!

Chúa nói trước cho biết như thế, khi sự xảy đến, để ta biết đón nhận như một hồng ân Chúa ban cho mình, và ta đã chọn lựa, không ân hận, không hối tiếc, rồi trở nên bất mãn! Trái lại, vui vì đã hoàn tất hy lễ cùng với Chúa Giêsu!

-----------------------------------

 

PS 3-C39: Cho dẫu Phêrô có chối Chúa, Chúa vẫn không loại bỏ


Dẫn vào Thánh lễ và sám hối

 

Cho dẫu Phêrô có chối Chúa Giêsu, Chúa vẫn không loại bỏ Phêrô, mà Người uỷ thác cho: PS 3-C39


Cho dẫu Phêrô có chối Chúa Giêsu, Chúa vẫn không loại bỏ Phêrô, mà Người uỷ thác cho Phêrô sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu cũng không loại bỏ chúng ta khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta cơ hội để đền bù những thiếu sót của chúng ta bằng tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa phục hồi sự sống cho tất cả những ai chôn vùi trong phần mộ của hối tiếc và tuyệt vọng.

Ân huệ Chúa tồn tại lâu dài đến muôn đời.

Chúa đã biến đổi tang tóc của chúng con thành vũ hội nhờ tình thương tha thứ của Ngài.

Dẫn vào các bài đọc

Bài đọc 1: Cv 5,27-32.40-41

Chúng ta thấy các tông đồ can đảm làm chứng về cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu và vui mừng chịu đau khổ vì danh Đức Giêsu
Ba i đọc 2: Kh 5, 11-14

Chúng ta nghe bài ca chúc tụng Đức Kitô khổ nạn và Phục Sinh.

Tin Mừng: Ga 21,1-19

Đây là bài tường thuật cuộc hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh với bảy môn đệ trên bờ của Biển Ilồ Tibêria, với những chi tiết xoay quanh thánh Phêrô.

KHÔNG ĐƯỢC BỎ RƠI MỌI NGƯỜI

Stalin đã nói: “Nếu bạn phạm phải một lỗi lầm, thì điều đó cũng giống như bạn đã xử lý sai một ngòi nổ - đó là lỗi cuối cùng mà bạn đã vi phạm. Nhiều lần chúng ta đã loại bỏ người anh em vì một hành động xấu của họ. Nhưng ai trong chúng ta lại muốn mình bị xét xử trong những khoảnh khắc đơn độc trong đời ?

Sau khi xảy ra sự cố vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta mong chờ Chúa Giêsu phen này sẽ loại trừ Phêrô bởi vì sự yếu đuối, hèn nhát, không đáng tin cậy của ông.

Giả như nếu Ngài có làm như thế, thì hầu chắc mọi người sẽ nói rằng Người đã không còn sự lựa chọn nào khác. Lẽ ra, Phêrô đã trở thành thủ lãnh của các tông đồ, ông đã nêu gương xấu cho người khác.

Nhưng Chúa Giêsu đã không loại trừ ông. Thậm chí Người không giáng chức ông. Và cũng chẳng có sự buộc tội nào. Sự phản bội của Giuđa là một việc có hoạch định trước, và được thực hiện với thái độ lạnh lùng, có đắn đo suy nghĩ.

Hành động chối Thầy của Phêrô không hoạch định trước, đây là hậu quả của sự yếu đuối hơn là ác tâm. Chúa Giêsu, Người thấu suốt mọi tâm hồn, đã biết điều này. Sau buổi điểm tâm, Người quay nhìn Phêrô và nói: "Này Phêrô, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?"

Thật là một câu hỏi kỳ lạ, khi hỏi: "Anh có mến Thầy không ?" Phải chăng Phêrô đã không bày tỏ, ngoài một chút bóng mờ của sự nghi ngờ ông không mến Thầy? Song đây là câu hỏi mà Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô. Và Phêrô đã thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy." ông đã chân thật nói lên những lời này. Còn gì hơn - đó là sự thật. Ông đã thật sự yêu Thầy Giêsu. Chúa Giêsu biết Phêrô còn có phương diện khác tốt hơn. Sự mạnh mẽ và yếu đuối có thể cùng hiện hữu nơi một con người. Chúa Giêsu mời gọi Phêrô tiến bước. Người yêu cầu ông phải công khai tuyên bố tình yêu của mình với Thầy, vì lẽ ông đã công khai chối Thầy.

Chúa Giêsu đã không ghi tội của Phêrô. Nhưng Người mời gọi ông chăn dắt đoàn chiên của Người, tức là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Đó là sự ăn năn hối lỗi của ông. Đó là cách tốt nhất để chuộc lỗi. Bởi vì sau này chính Phêrô đã viết: lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi" (I Pr 4,8).

Tôi đoan chắc rằng Phêrô sẽ không bao giờ quên biến cố ông đã chối Thầy Giêsu. Song tôi không biết biến cố ấy có ám ảnh ông theo cách mà mọi người thường bị ám ảnh bởi tội lỗi của họ không. ông đã rút được bài học lớn từ sự. Vấp ngã của mình. ông biết ông đã không can đảm như ông nghĩ. Thật là một việc tốt và bổ ích hơn nhiều để học một bài học hơn là dạy một bài học. Khi học từ sự vấp ngã, thì mỗi khi nhớ lại có thể gợi lên lòng biết ơn hơn là tự kết tội.

Và ông cũng được biết sự thật tuyệt vời về Thầy Giêsu. Ông biết rằng mặc dù ông đã chối Thầy, nhưng Thầy Giêsu vẫn yêu ông. Đó là tình yêu đưa Phêrô trở lại với cuộc sống. Đó là kinh nghiệm đáng kinh ngạc vì được yêu trong sự yếu đuối và tội lỗi của con người. Yêu một người vì sự tốt đẹp của họ là lẽ thường tình. Nhưng yêu một người với những cái xấu của họ - đó mới thật phi thường. Điều đó cho biết ân sủng là như thế nào.

Phêrô đã can đảm đứng dậy sau lần vấp ngã. Chúng ta có thể tưởng tượng được rằng ông là một người lãnh đạo rất giỏi. Người lãnh đạo nhận thức rõ sự yếu đuối của bản thân. Kinh nghiệm đã giải thoát ông khỏi sự kiêu ngạo và sự tin tưởng mù quáng vào tài xoay sở của mình. Đồng thời giúp ông có thể hiểu được sự yếu đuối nơi người khác.

Và Phêrô đã trở nên tốt. Trong bài dọc của sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy ông đã đứng dậy trước công nghị và đã làm chứng cho Chúa Giêsu như thế nào. Phêrô là nguồn an ủi rất lớn cho chúng ta. Lòng can đảm đánh gục tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta chỉ là những người không trung thành trong niềm tin. Chúng ta phải học biết tự tha thứ cho chính mình những thất bại và yếu đuối nhất thời. Chúng ta không phán xét chính mình hay người khác bằng những sai sót nhất thời, nhưng phải bằng sự cam kết lâu dài với niềm tin của mình.

--------------------------------

 

PS 3-C40: Là sự can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục sinh

 

Các bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng ta đặt: PS 3-C40


Các bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng ta đặt mình vào cương vị của Phêrô và của các tông đồ. Đó là sự can đảm rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, loan truyền giáo lý của Người bắt chấp mọi đàn áp. Vì chỉ có Chúa là Chủ tể mọi loài trên trời dưới đất và người có đượcc tin phải noi gương thánh Gioan chỉ rõ và nói cho mọi người rằng: "Chính Chúa đó! ".

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tông đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do Thái không cho, bắt các ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các ngài và bảo: Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý dó khắp cả Giêrusalem ". Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa: "Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng Lời người ta ". Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.

Ôi! bài học quí giá đó của các tông đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế lực cố ý tiêu diệt, hạn chế gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các tông đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát: "Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng người ta ". Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại, lòng các ngài cảm thấy hân hoan vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, đượcờng lối của các tông đồ thật rõ ràng.

Bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng Lời Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản trở những bước chân rao giảng của các ngài. "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Khi phải vâng Lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em của mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em của mình được tự do tôn thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. "Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng Lời người ta". Nhất là khi người đó lại là cáo già đội lốt cừu non đến cùng đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy trước. Trong công việc phụng thờ Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bi đàn áp, bị bách hại, người vâng Lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi lòng. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.

Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là con người xây nhà mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế quốc của trần gian đều sụp đổ tan tành không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm như một vết nhơ bẩn thỉu của nhân loại. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không thể chống lại chương trình của Chúa. "Ai giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho người ấy". Phần Thiên Chúa luôn được chúc tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời.

Bài Phúc âm đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng thật to lớn, đó là hy vọng vào quyền năng Phục sinh của Chúa biến đổi tất cả mọi sự, kể cả những việc mà chúng ta cho là tầm thường, để đem lại những kết quả giá trị. Thân xác hay chết của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể làm người, đã được biến đổi thành thân xác vinh quang Phục sinh và với quyền phép, Người đã cho các tông đồ một mẻ lưới đầy cá to. Từ một việc tầm thường của người chài lưới là thả lưới xuống nước, nhưng vì làm theo Lời chỉ dạy của Chúa, các tông đồ đã bắt được rất nhiều cá. Hơn nữa hành động đó còn có một ý nghĩa tiên tri cao quí hơn, đó là các tông đồ sẽ là những kẻ lưới người và công việc của các ngài sẽ được kết quả mỹ mãn, khi các ngài luôn tuân theo thánh ý của Chúa.

Sau cùng, chính thánh Gioan trong bài Phúc âm cho chúng ta một bài học quan trọng là, nhìn vào kết quả của việc mình làm, không bao giờ tự hào do sức do tài của mình mà làm nên nhưng nhận ra ngay sự hiện diện của Chúa. Khi thấy lưới cá lạ lùng, người hiểu ngay sự hiện diện của Thầy và bảo cho các người khác biết rằng: "Chính Chúa đó!" Biết được Chúa hiện diện trong đời sống mình và luôn truyền sự hiện diện đó cho mỗi người là bổn phận của chúng ta, những người có đượcc in.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ để ý đến đời sống đức tin của tôi. Tôi sợ Chúa hay tôi sợ người đời? Tôi vâng Lời Chúa hay tôi vâng Lời người đời? Và tôi hãy nhìn vào đời sống của các tông đồ, của các thánh tử đạo để sống đượcc tin của tôi mọi ngày trong đời sống của tôi.

------------------------------------

 

PS 3-C41: Vận mạng tương lai của Giáo Hội

 

Những bài đọc hôm nay có thể hướng những suy tư chúng ta về vận mạng tương lai của Giáo: PS 3-C41


Những bài đọc hôm nay có thể hướng những suy tư chúng ta về vận mạng tương lai của Giáo Hội, của cộng đoàn, những kẻ tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu rỗi, giữa một thế giới, giữa một môi trường không thuận lợi cho niềm vui của mình. Vận mạng tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc, là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, là Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người. Và trên sự dấn thân của mỗi người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng và thông truyền cho anh chị em những sự thật có sức mạnh cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, hoà giải con người với Thiên Chúa và với nhau.

Trở lại bài đọc thứ nhất được trích từ sách Tông đồ Công vụ, chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ nói trên. Bị những vị lãnh đạo đầy uy quyền, nhưng không tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu rỗi, ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa, thì thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả Lời: "Phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người". Thiên Chúa Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại, đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài bên hữu Người và làm cho Ngài trở thành thủ lãnh và là đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tùng phục Chúa"."Chúng tôi và Chúa Thanh Thần cùng làm chứng".  Đó là những Lời tuyên bố của Thánh Phêrô tông đồ.

Vận mạng tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên thái độ can đảm này, thái độ sống đức tin làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô và sự thật cửu rỗi của Người. "Chúng tôi phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người". Đọc và suy nghĩ về lời tuyên bố này của thánh Phêrô tông đồ trong hoàn cảnh mà chính thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó phải trải qua, chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó khi những vị thượng tế, những vị lãnh đạo dân Do Thái đầy uy quyền lạm dụng quyền lành của họ để xen vào việc tôn giáo, là việc các tông đồ làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo. Khi các vị thượng tế, các vị lãnh đạo dân Do Thái lúc đó lạm dụng quyền hành của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn một trong hai thái độ, hoặc theo Chúa Giêsu Kitô hoặc chiều theo sự lạm dụng của họ, thì lúc đó, thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn vâng phục Thiên Chúa, chọn theo Chúa Giêsu Kitô hơn là vâng phục loài người. Đây là một câu trả lời cho một hành động lạm dụng xen mình vào việc tôn giáo, chớ không phải là một lời kêu gọi dân chúng nổi loạn, chống lại một quyền hành chính trị.

Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, rao giảng sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ cho những tội lỗi, cho những tật xấu, những sự dữ đang làm cho con người trở thành những kẻ thù ghét nhau chia rẽ với nhau; nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nếu nói theo ngôn ngữ ngây nay được hưởng sự tự do như đáng được, thì các ngài đâu cần phải xác nhận phải vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng Lời con người. Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị của Thiên Chúa được, hoặc thay thế được cả. Ngày hôm nay trong thâm tâm mỗi người chúng ta, trong giây phút này, làm sao chúng ta có thể tự phụ cho mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Chúa giải thoát khỏi những điều xấu điều tội, để sống được phần vụ con người, sống như là những con cái của Thiên Chúa Cha và như là những anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và được khuyến khích để sống trọn vẹn cuộc sống con người của mình? Một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ Đấng tối cao và cuối cùng qua khoảng đời 20 năm, 30 năm, 50 năm hay tối đa 100 năm sẽ trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và khuyến khích để sống trọn kiếp đời của mình?

Thái độ của các tông đồ được trình bày trong bài đọc thứ nhất trong thánh lễ hôm nay đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. Nhưng các tông đồ không tự phụ cho mình, không chính các ông tự sức các ông. Thánh Phêrô đã nói: "Chúng tôi và Chúa Thành Thần". Không phải riêng tự sức các tông đồ nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần, chúng tôi làm chứng cho tất cả những điều này. Ơn Chúa không thiếu nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?

Bài Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra cho các tông đồ, trong lúc các ngài đang bị cám dỗ từ bỏ ơn kêu gọi của mình để trở về với cuộc sống thường nhật trước khi được Chúa kêu gọi, trở về với nghề chài lưới. Biến cố Chúa Giêsu chịu chết trên phập giá vì sự chối bỏ của con người đã làm cho các ngài trở thành những kẻ lạc hướng, không biết phải tiếp tục cuộc đời dấn thân cho Chúa nữa không? Chính lúc Chúa Phục sinh hiện đến để công cố, để mời gọi các ngài hãy dấn thân mạnh mẽ hơn nữa. Và chúng ta đã biết rõ sự gì xảy ra cho các tông đồ. Chúa đến củng cố các ngài bằng một dấu lạ để mời gọi các ngài vào một bữa ăn, bữa ăn bổ sức trong tình thân thiện thầy trò. Và ngày nay, bữa ăn đó là bí tích thánh Thể, là việc cử hành bí tích Thánh Thể cho mỗi người chúng ta.

Ước chi mỗi lần chúng ta bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình không dấn thân cho Chúa nữa, thì chúng ta được Chúa hiện ra mời đến dự, mời cử hành bí lích thánh Thể để múc lấy từ đó sức mạnh, để làm chứng cho Chúa, để vâng Lời Thiên Chúa hơn là vâng Lời con người.

------------------------------------

 

PS 3-C42: Một phép lạ kỳ diệu

 

Bài đọc đầu tiên mà chúng ta vừa mới nghe được trích ở trong sách Tông đồ Công vụ, bài đọc: PS 3-C42


Bài đọc đầu tiên mà chúng ta vừa mới nghe được trích ở trong sách Tông đồ Công vụ, bài đọc thứ hai được trích trong sách Khải Huyền và bài đọc thứ ba là bài Phúc âm của thánh Gioan.

Bài đọc thứ nhất mà chúng ta đã nghe ở tuần trước, khi mà Thiên Chúa cho thánh Gioan thị kiến Chúa sống lại. Bài Phúc âm hôm tuần rồi, thánh Gioan đã kể lại một biến cố mà chính ngài đã được mục kích, còn với các tông đồ khác, trong hoàn cảnh chứng kiến việc Chúa Giêsu đã hiện đến, không phải chỉ là một lần, nhưng là nhiều lần trong những căn nhà đóng kín cửa. Sự hiện đến của Chúa trong những trường hợp này để củng cố đức tin của các tông đồ, trong giai đoạn đầu tiên và đặc biệt là thánh Tôma, người đã bị mọi người trong số đó, rất có thể có cả chính chúng ta nữa, coi là một tông đồ kém tin nhất trong số những người đi theo Chúa Kitô khi Ngài còn tại thế. Bởi vì mỗi khi trong lúc trà dư tửu hậu, chúng ta vẫn thường nói để diễn tả về một người kém lòng tin.

Bởi đó hôm nay trong một thị kiến khác, thánh Gioan lại kể cho chúng ta một phép lạ cả thể và có thể kể đây là phép lạ Chúa thực hiện với toàn quyền năng trên trời, trên mặt đất, dưới mặt đất và ngay cả trong lòng của biển cả nữa. Có thể nói đây là phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu thực hiện sau khi Ngài từ cõi chết sống lại để nuôi sống các tông đồ. Một phép lạ kỳ diệu so với cách giải thích bình thường của con người, và là một phép lạ với lý trí của con người chúng ta phải chấp nhận trong sự câm lặng, một sự câm lặng với qui phục ngưỡng mộ. Bởi vì phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là một phép lạ mà chúng ta phải ở trong hoàn cảnh, chúng ta mới có thể hiểu được.

Là những người ngư phủ sau suốt thời gian một đêm đánh cá không được con cá nào cả, thì chúng ta có thể hiểu tâm trạng vào những giây phút buổi sáng đó. Chúa là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ. Đây chính là sứ điệp thứ nhất thánh Gioan trao ban cho chúng ta, sẽ không thể một Chúa nào khác ngoài Chúa Giêsu, sẽ không có một Thiên Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa mà chúng ta đang kính thờ. Ngài là Thiên Chúa của mọi tạo vật không có một trường họp ngoại trừ nào, không có tạo vật nào có thể hiễn hữu ở  bên ngoài Thiên Chúa cả. Dầu tạo vật đó đang ở trên trời, đang sống trên mặt đất, đang phơi bày dưới ánh sáng mặt trời và ngay cả đang chìm sầu ở trong lòng biển cả. Dầu tạo vật đó có thể là vật chất hay lạo vật có thể thuần nhất, tất cả đều là thụ tạo do Chúa dựng nên và tất cả mọi thụ tạo đó đều được qui tụ ở trong Chúa.

Phúc âm thánh Gioan hôm nay không kém phần quan trọng, đó là tất cả những tạo vật mà chúng ta vừa đề cập tới đó, phải quy phục ở trong Chúa, phải quy phục nơi Chúa và nếu không có Chúa, tất cả chỉ là hư vô mà thôi. Mọi tạo vật cần có một Đấng tạo thành và đó là tất cả những gì chúng ta chấp nhận. Những điều chúng ta vừa đề cập có liên hệ gì đến bài Phúc âm ngầy hôm nay chúng ta vừa nghe không? Một Bài Phúc âm mà có thể bị nhiều người coi như là một chuyện hoang đường cách đây nhiều năm hay là nhiều trăm năm, với những khiếm khuyết về kiến thức khoa học ngày nay. Với những khám phá tân kỳ đã và đang được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới, người ta kể rằng có những chiếc thuyền đánh cá hiện đang hoạt động ở ngoài biển khơi chung quanh chúng ta, đang được trang bị với chiếc máy ra đa điện háo về thời tiết sắp sủa xảy ra, được trang bị với những máy báo động kêu gọi mọi người ở chung quanh giúp đỡ những người ở trên chiếc tàu đó với những phương tiện chóng nhất, tiện nghi nhất. Và nhất là với những máy móc mà người ta có thể dò tìm các loài cá đang di chuyền từng đàn hay từng nhóm không chỉ vài ba chục sải nước bên dưới mặt biển im lặng. Đối với những khám phá tân kỳ như vậy và đối với những khiếm khuyết về kiến thức khoa học của con người cách đây vài năm, thì quả thật có thể. Trong bài Phúc âm hôm nay chúng ta nhận thấy sự hiện diện của sáu tông đồ. Sáu tông đồ này là những người đã vất vả đánh cá suốt đêm. Biến cố Chúa Giêsu sống lại cách đó mươi, mười lãm ngày thời gian như đã đi vào quên lãng. Người ta giết Chúa, ngay cả Phêrô là người đi theo Chúa đầu tiên cũng đã chối Chúa. Giuđa là người được Chúa kêu gọi đã bán Chúa: Và Phúc âm không kể lại từng trường hợp của từng tông đồ, nhưng mà mỗi người trong mỗi tâm trạng đều bằng một cách thế nào đó...

Nhưng mà ngày hôm nay, sự hiện diện của sáu tông đồ này với phép lạ mà rồi ngay với phép lạ đó, họ nhận ra đó là Chúa, thì chúng ta phải hiểu rằng, sự hiện diện của chúng ta để chúng ta thể hiện đức tin của mình trong đời sống là một sự hiện diện được Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta, đề cho chúng ta chấp nhận việc Thiên Chúa đã chết cho tội lỗi của chúng ta và để cho chúng ta chấp nhận việc Chúa sống lại cũng cho chúng ta nữa.

Khi các lông đồ trở về bờ biển, các tông đồ thấy một người đàn ông lạ Sở dĩ chúng ta dùng danh từ "lạ" là vì các ông không nhận ra đó là Chúa Giêsu. Hình như là một người không hề quen biết gì cả, nhưng mà có một cái sức mạnh nào đó, có một cái quyền năng nào đó một cái lệnh nào đó của con người đàn ông lạ bảo với các tông đồ rằng: "Hảy thả lưới bên phải cạnh chiếc thuyền ". Và bình thường như chúng ta biết, nếu chúng ta biết về những luật ngư phủ thì ít khi nghe một người lạ, sau một đêm dài đánh cá như vậy mà không được con cá nào. Nhưng ở đây các môn đệ đã nghe lời người đàn ông lạ một cách bình thường và họ thả lưới. Như chúng ta đã thấy, lưới đầy cá và khi họ kéo lưới lên lưới không rách và trên bờ đã có lửa sẵn, đã có cá sẵn, đã có bánh sẵn sàng. Và vì như vậy, cho nên không thể nào dưới bất cứ hình thức nào, một trong sáu môn đệ đó không chấp nhận cái người xa lạ đó là Chúa Giêsu. Và khi thánh Phêrô khám phá ra đó là Chúa Giêsu, ngài đã làm gì Ngài đã bỏ tất cả mọi sự để chạy lại với Chúa. Thánh Phêrô đã tuyên bố rằng là người duy nhất đã chối Chúa ba lần trước khi Chúa chịu chết.

Đoạn Phúc âm chúng ta vừa nghe là đoạn Phúc âm cuối cùng của phúc âm thanh Gioan. Sau khi câu chuyện đã xảy ra như chúng ta đã nghe rồi, trong bữa ăn, Chúa Giêsu đã hỏi thánh Phêrô ba lần. Lần đầu tiên thánh Phêrô trả Lời: "Thưa Thầy, con yêu mến Thầy". Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô lần thứ hai: "Simon Phêrô, con có yêu mến Ta không?" Thánh Phêrô trả Lời  "Thưa Thầy, có". Đến lần thứ ba, Chúa Giêsu hỏi: ' Simon Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?". Và thánh Phêrô trả Lời: Lạy Thầy, con yêu mến Thầy". Và trong mệnh lệnh, trong sứ điệp Chúa Giêsu trao cho các tông đồ qua Phêrô, là cái sứ điệp của tình yêu. Trong những tông đồ mà chúng ta nhắc tới trong ngày hôm nay không phải chỉ là một mình Phêrô là người được nhắc tới. Người thứ hai được nhắc tới là Gioan. Là bởi vì trước đó, các ông cũng còn bàn tới chuyện trong số các tông đồ này, ai sẽ là người lớn nhất. Và bởi vì chính Gioan trẻ, cho nên Chúa Giêsu đã nói là: Nếu Ta để Gioan ở lại với Ta cho đến ngày nào đó, thì liệu điều đó có ảnh hưởng đến các ngươi hay không?

Đó là kết thúc của Phúc âm thánh Gioan ngày hôm nay. Tất cả điều đó đưa đến cho chúng ta một niềm tin là Chúa Giêsu đã chết cho tội lỗi của chúng ta và Ngài sống để Ngài cho chúng ta cũng sống lại với Ngài.

------------------------------------

 

PS 3-C43: KHÔNG CÓ CHÚA GIÊ-SU CHÚNG TA KHÔNG LÀM GÌ ĐƯỢC


 Dòng Đồng Công

 

Có câu truyện về một mục sư. Ông hay dùng những cái cụ thể để phân chia bài giảng của ông: PS 3-C43


Có câu truyện về một mục sư. Ông hay dùng những cái cụ thể để phân chia bài giảng của ông. Ví dụ, khi ông giảng về truyện của Đa-vít và Gô-li-át thì ông dựa vào năm hòn đá mà Đa-vít đã dùng để đấu Gô-li-át để mà chia bài giảng của ông thành năm phần. Hay khi giảng về dụ ngôn ba người đầy tớ mà ông chủ đã trao tiền khi ông đi vắng để phân chia bài giảng của ông thành ba phần. Rồi một Chúa nhật nọ, mục sư đã làm cho tất cả giáo dân hết hồn vì ông nói rằng ông sẽ chia sẻ bài kể lại thánh Phê-rô bắt được 153 con cá. Có lẽ ông sẽ chia bài giảng thành ... 153 phần!

Văn sĩ AJ. Cronin tí nữa thì đã bỏ ý định viết sách trước khi ông thành nghề. Đang viết nửa chừng cuốn sách đầu tiên của ông, ông đã bỏ cây bút xuống và đã vứt tác phẩm của mình vào thùng rác. Cuốn này tựa đề Hatter’s Castle sau này đã được dịch ra 19 thứ tiếng. Rồi ông ra ngoài giữa trời mưa và bắt đầu bách bộ trên một con đường vắng ở Scotland. Ông đi một quãng, ông gặp một nông dân già đang đào rãnh trong ruộng. Nhìn ông già một mình đào trong mưa đã đánh động ông và ông đã lượm lại và viết tiếp tác phẩm của ông. Sau khi đã nổi tiếng được ít năm, Cronin đã thừa nhận sự thành công của ông là do người nông dân già kia đã đánh động, khiến ông tiếp tục cố gắng trong khi ông đã chán nản bỏ cuộc.

Chúa Giê-su đã nói với văn sĩ AJ. Cronin qua sự việc người nông dân một mình làm ruộng giữa trời mưa cũng những lời tương tự như Ngài nói với Phê-rô: “Hãy thả lưới một lần nữa đi”.

Bài Tin mừng hôm nay khi Phê-rô nói rằng họ đã đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cả. Rồi Chúa nói với Phê-rô hãy thử lại một lần nữa. Phê-rô đã làm theo và kết quả rất kinh ngạc. Phê-rô và các bạn bắt được quá nhiều cá đến độ phải nhờ thuyền khác tới giúp. Chúng ta có thể rút ra được ý nghĩa nào từ câu truyện này ?

Phê-rô đã thất bại lần đầu tiên vì ông làm việc một mình, không làm với Chúa Ki-tô. Giả sử như Phê-rô, chúng ta đã làm thâu đêm mà không bắt được gì, hay như ông AJ. Cronin, chúng ta vất vả làm việc nhưng ít hoặc không thành công, có lẽ chúng ta đã làm việc một mình, không có Chúa. Có lẽ chúng ta thất bại vì chúng ta đã cố gắng làm một mình. Có lẽ chúng ta thất bại vì chúng ta đã quên những lời mà Chúa đã nói với các môn đệ trong Tin mừng Gio-an: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga. 15,5)

Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm theo sức riêng nhưng biết nghe tiếng Chúa để làm điều Chúa muốn và luôn được Chúa giúp sức.

------------------------------------

 

PS 3-C44: THẦY ĐẤY – VIKINI

 

Trong tác phẩm Quo vadis  được giải Nobel văn chương 1905, Đại Văn Hào Sienkievich tả những: PS 3-C44


Trong tác phẩm Quo vadis  được giải Nobel văn chương 1905, Đại Văn Hào Sienkievich tả những cảnh cực hình rùng rợn mà hai thánh tông đồ Phêrô, Phaolô và các tín hữu chịu dưới thời Hoàng Đế Nêrông, biệt danh: Râu đỏ. Các tín hữu phải sống ẩn danh. Họ chỉ nhận biết nhau qua tín hiệu về hình con cá.

Một hôm, chàng quý tộc Markus là cận vệ đặc biệt của Nêrông, là tướng hùng bách chiến bách thắng, gặp công chúa Ligia nước Ba Lan bị bắt làm con tin. Chàng cảm động nói những lời tán tụng mến phục làm Ligia bối rối cúi đầu vẽ trên cát hình con cá, rồi bỏ chạy. Hình con cá thổ lộ gì với Markus. Đầu óc chàng suy nghĩ đến quay cuồng mà chẳng hiểu gì ? Chàng đành hỏi ông cậu Pêtrônius nổi tiếng khôn ngoan nhất trong các cố vấn của Nêrông cũng không biết gì hơn.

Nhưng đối với các tín hữu thời đó hình con cá là một tín hiệu tin mừng vô hạn giữa những đau khổ để họ nhận ra nhau là những người tuyên xưng Đức Kitô Phục sinh. Người đã dùng hình ảnh con cá để ám chỉ về Người.

Lần thứ nhất, Người làm phép lạ từ hai con cá và năm chiếc bánh cho cả chục ngàn ngưới ăn, nếu kể cả đàn bà con trẻ, rồi Người tuyên báo về Bánh Hằng sống đời đời (Mt. 14,13.) Lần thứ hai, từ vài con cá và bảy tấm bánh cho hơn bốn ngìn người ăn, không kể phụ nữ và trẻ em. Từ phép lạ này Người nói về điềm lạ trọng đại như Giona ở trong bụng cá ba ngày thế nào thì Con Người cũng ở trong lòng đất ba ngày rồi sống lại (Mt. 15, 36-16,4). Lần ba, Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm mà không được con cá nào, nhưng khi vâng lời Thầy ông thả lưới, đã bắt được hai thuyền cá đầy (Lc. 5,2..). Lần bốn, nhân dịp họ đòi Phêrô và Thầy phải nộp thuế Thầy bảo Phêrô câu cá để lấy tiền nộp thuế. Như thế, Người muốn đồng hóa con cá với mình và Phêrô (Mt. 17, 27).

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật hai việc: Việc thứ nhất, Đức Giêsu hiện ra an ủi các ông đang buồn sầu, không còn được sống với Thầy, các ông đã trở về làm nghề đánh cá mà chẳng được gì, và Người cho họ được mẻ cá đầy. Việc thứ hai, Người hỏi Phêrô: “Anh có yêu mền Thầy không”. Sau đó, Người mới trao đoàn chiên cho Phêrô coi sóc.

1- Hoàn cảnh các môn đệ như những kẻ mồ côi, buồn sầu khổ cực. Thầy đã chịu chết, đã sống lại, nhưng không sống bên các ông như trước nữa. Người chỉ thỉnh thoảng hiện ra an ủi, chúc lành và dậy dỗ các ông những điều cần thiết. Các ông còn bị đói khổ vì phải về quê tiếp tục nghề đánh cá vất vả, cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì. Cuộc sống thật bấp bênh. Trước thảm cảnh đó, Chúa đã hiện ra giữa buổi bình minh trên bờ biển lúc các ông đánh cá về. Như một người mua cá, Người hỏi: “Này các chú, không được gì ăn ư ?” các ông kêu lên với giọng cụt ngủn, chán nản: “Không !” Một câu nói khác như dậy dỗ chọc tức các ông: “Hãy thả lưới bên phải thuyền. Các anh sẽ bắt được cá”. Nghe thế, các anh dân chài không bực bội, nhưng như có sức mầu nhiệm giúp các anh vui vẻ làm theo. Thật bất ngờ, lưới đầy cá không kéo nổi. Họ ngạc nhiên tự hỏi: Ai nói đấy ? Một trực giác nhạy cảm giữa hai người yêu nhau: Môn đệ Chúa yêu nhận ra ngay và bảo Phêrô: “Thầy đấy”. Như cá gặp nước, Phêrô nhảy xuống biển chạy lên gặp Thầy. Có Thầy, sẽ thoát khỏi mọi nổi cô đơn, sợ sệt, buồn sầu, lo lắng, mệt nhọc. Có Thầy có tất cả: Có cá, có bánh, có lửa sưởi ấm, có bạn đồng tâm nhất trí, có Thánh Thần tràn đầy hoan lạc, đầy sức sống yêu thương mãnh liệt.

2- Hoàn cảnh các tín hữu thời các thánh tông đồ phải chịu đầy đau khổ, buồn sầu, lo lắng. Bao nhiêu cực hình hiện ra trước mắt: Tù tội, đánh đập, khổ giá, đóng đinh từ trẻ con, thanh niên, phụ nữ tới ông già bà cả. Họ vẽ hình con cá để nhắc nhở nhau nhớ đến Đức Kitô Phục sinh. Người sẽ an ủi, ban bình an cứu giúp họ, ban Thánh Thần soi sáng cho họ giữ vững đức tin, hun đúc họ mến Chúa nồng nàn, đem lại sức mạnh mãnh liệt cho họ chiến thắng sự chết. Họ sẽ được sống vinh quang với Đức Kitô. Họ sẽ được như Gioan “mải nhìn và nghe vang lên tiếng muôn vàn Thiên thần, đông tới ức ức triệu triệu, đứng chung quanh Ngài… và lớn tiếng hoan hô: Con Chiên đã bị giết, rất xứng đáng lãnh nhận phú quý và quyền năng, khôn ngoan và uy lực, danh dự với vinh quang, cùng muôn lời chúc tụng” (Bài II). Như vậy, Đức Giêsu đã yêu thương Phêrô, các môn đệ và các tín hữu thời đó đến cùng. Người rất tế nhị, không hỏi tội Phêrô chối Thầy ba lần, không hỏi các ông bỏ Thầy chạy trốn và cứng lòng tin khi Thầy sống lại. Người chỉ hỏi như hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không ?” Người hỏi ba lần để nhấn mạnh Người chỉ cần họ yêu mến, vì chỉ có lòng yêu mến mới có sức mạnh đáp lại lòng thương yêu vô cùng của Thiên Chúa. Chỉ có lòng yêu mến mới được tha nhiều “được tha nhiều thì yêu mến nhiều”. Chỉ có lòng yêu mến như  “Thầy yêu các con” mới nên một với Thầy trong chăn dắt đoàn chiên và thí mạng sống vì đoàn chiên. Chỉ có lòng yêu mến mới dám thí mạng sống vì Thầy, và như Thầy bước lên thập giá để tế lễ Đức Chúa Cha và cứu độ người  ta. Không lạ gì, Thánh Phaolô đã quả quyết: “Dù tôi nói được hết các thứ tiếng của nhân loại và các Thiên thần… được lòng tin chuyển núi rời non… và nộp mình chịu thiêu, mà không có đức mến thì cũng như không, vô ích cho tôi… lòng mến lớn hơn cả đức tin, đức cậy… vì đức mến tồn tại đời đời” (1Cr. 13, 1-3. 8. 13)

Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại để có thể hiện đến khắp nơi, cứu chữa hết mọi người, ban bình an, ơn tha tội và ban Thánh Thần đầy hoan lạc. Xin cho chúng con luôn luôn cảm tạ lòng thương yêu vô cùng của Chúa để hết lòng tin mến Chúa và hy sinh phục vụ anh em.

------------------------------------

 

PS 3-C45: VỚI CHÚA


“Suốt đêm hôm ấy, các ông chẳng bắt được một con cá nào”.

 

Đọc xong đoạn Tin mừng hôm nay, tôi nhớ tới lời Thánh vịnh: - Ví như Chúa chẳng xây nhà: PS 3-C45


Đọc xong đoạn Tin mừng hôm nay, tôi nhớ tới lời Thánh vịnh:

- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
  Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.
  Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
  Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.

Thực vậy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:

- Không có Thày, các con chẳmg làm được gì.

Tự tin vào sức lực, vào tài năng của mình là điều tốt vì như một câu danh ngôn đã bảo:

- Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.

Muốn vượt thắng những khó khăn, thì chúng ta đã làm được một nửa công việc. Ai nghĩ rằng mình thất bại, thì chắc chắn người đó sẽ thất bại.

Thế nhưng, tài năng và sức lực của chúng ta mới chỉ là một góp phần nhỏ bé vào những thành công mà thôi, bởi vì lắm lúc chúng ta đã cố gắng rất nhiều mà kết quả lại chẳng được bao nhiêu, vì ngoài sức lực và tài năng của chúng ta, còn một Đấng có quyền ấn định sự thành công hay thất bại của chúng ta. Và Đấng ấy chính là Thiên Chúa..

Thực vậy, ngay từ đầu, con người đã nuôi một tham vọng phản bội cùng Thiên Chúa, vì thế họ đã góp sức xây một ngọn tháp chọc trời, lấy tên là ngọn tháp Babel. Nhưng rồi công việc ấy đã bị đình trệ dang dở và không bao giờ ngọn tháp chọc trời ngạo nghễ ấy trở thành sự thật, bởi vì Thiên Chúa đã khiến cho ngôn ngữ của họ trở nên bất đồng, để rồi mỗi người phân tán đi tới một chân trời góc biển khác nhau mà sinh sống. Không có Chúa, con người không thể làm gì được.

Hay như một đội quân Ai cập hùng mạnh, dưới sự điều động của vua Pharaon, đã vội vã lên đướng và hăng say đuổi theo đoàn người Do thái đang trong cuộc xuất hành, trở về miền đất hứa. Nhưng rồi tất cả chiến mã cùng với kỵ binh của họ đều bị vùi dập dưới lòng Biển Đỏ.

Chống đồi Chúa, thù địch với Chúa chẳng khác gì giơ chân đạp mũi nhọn. Nếu có thành công, thì thành công ấy chỉ hời hợt thoáng qua, để rồi chắc chắn sẽ phải thất bại đắng cay ê chề. Vì nào ai có uy quyền và hùng dũng cho bằng Thiên Chúa.

Các môn đệ ngày hôm nay cũng đã trải qua kinh nghiệm cụ thể ấy. Các ông đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Không có Chúa thì sức lực và cố gắng của chúng ta nhiều lúc đã trở nên vô ích và uổng công, gống như tục ngữ đã bảo:

- Dạ tràng xe cát bể Đông,

  Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

Thực vậy, ngày thi sắp đến, chúng ta thức khuya dậy sớm, vất vả ôn lại bài vở…Thế rồi khi bước vào phòng thi, chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ khiến mắt chúng ta hoa lên, đầu chúng ta nhức như búa bổ và chúng ta phải bỏ dở cuộc thi.

Chúng ta ra sức cầy sâu cuốc bẫm, nhưng Chúa không cho mưa thuận gió hòa, trới cứ nắng mãi, nắng hoài…thì chắc mùa màng cũng sẽ thất bát, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:

- Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chinh Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái

Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Thế nhưng, có Chúa là có tất cả, có Chúa chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái những thành công tốt đẹp.

Cựu ước có kể lại:

Bà Giuđích, vốn chỉ là phận liễu yếu đào tơ, thế nhưng, với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, bà đã chiến thắng được mọi khó khăn, cuối cùng đã chặt được đầu tướng Holopherne và đem lại vinh quang cho dân tộc mình.

Một hình ảnh khác cũng thật dễ thương và dễ nhớ, đó là hình ảnh của Maisen. Hễ bao giờ ông giang tay cầu nguyện, thì đội quân Do thái liền chiến thắng. Thế nhưng, hễ bao giờ ông bỏ tay xuống, thì lập tức dân Do thái liền bị quân thù trấn áp.

Tin tưởng và kết hiệp với Chúa chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta nhưng thành công như thế.

Các môn đệ này hôm nay cũng vậy. Từ khi các ông thả lưới theo lệnh truyền của Chúa,  thì lập tức các ông bắt được nhiều cá, một mẻ cá thật lạ lùng mà có lẽ từ trước cho đến bây giờ, các ông chưa bao giờ được thấy.

Có Chúa đi bên cạnh và tin tưởng vào Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được những thành công rực rỡ, vì như lời Chúa đã phán:

- Nếu các con có được đức tin bằng hạt cải mà thôi, các con có thể làm được những việc phi thường như chuyển núi dời sông.

Sở dĩ như vậy, vì chỉ mình Chúa mới đủ quyền năng biến không thành có, chuyển thất bại hóa nên thành công, không có gì mà Chúa chẳng làm được.

Và sau cùng, tin tưởng vào Chúa, bước đi với Chúa  và sống dưới cái nhìn trìu mến của Chúa, chắc chắn cuộc đời chúng ta sẽ được hạnh phúc và yên vui bởi vì chúng ta không còn phải băn khoăn và lo lắng, không còn phải run sợ và khiếp hãi trước những gian nan và thử thách, trước những khổ đau và cay đắng chồng chất trên đôi vai chúng ta.

Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau   đây:

- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

------------------------------------

 

PS 3-C46: NHẬN RA CHÚA - MNSCMN/67

 

Vào đầu thập niên 1960, Liên xô là nước đầu tiên trên thế giới đã phóng thành công một vệ tinh: PS 3-C46


Vào đầu thập niên 1960, Liên xô là nước đầu tiên trên thế giới đã phóng thành công một vệ tinh chở người vào khoảng không vũ trụ, bay chung quanh trái đất, rồi trở về an toàn. Người được vinh dự đầu tiên bay vào vũ trụ là thiếu tá Yuri Gagarin. Vì thế, khi mới trở về trái đất, các ký giả, nhiếp ảnh viên vây chặt lấy ông để phỏng vấn về cảm tưởng sau chuyến bay hi hữu này. Một phóng viên đột ngột hỏi Gagarin: “Ngoài ra ông còn thấy điều gì lạ lùng nữa không ?” Gagarin kiêu hãnh trả lời: “Ngoài trái đất và bầu trời ra, tôi chẳng thấy bóng dáng Thiên Chúa đâu cả”. Sau đó, toàn Liên xô mở chiến dịch hội thảo về thành tựu khoa học độc đáo này. Và trong một buổi họp mừng công, sau khi trình bày về thành quả chuyến bay, diễn giả có ý mở ngõ cho các người tham dự thảo luận một hồi lâu, bỗng có một giọng nói cuối phòng vang lên: “ Đức Kitô đã sống lại rồi”. Thế là nhiều người cũng đồng thanh lặp lại câu nói đó như một điệp ca đầy tin tưởng và mạnh mẽ hơn nữa.

Còn chúng ta phải làm gì đi tìm gặp được Chúa ? Qua kinh nghiệm sống của những người lành thánh, nhất là qua diễn tiến lần hiện ra của Chúa mà bài Phúc Âm hôn nay trình bày, chúng ta có thể rút ra được một phương cách duy nhất, một con đường độc đạo, chắc chắn dẫn đưa con người đến gặp được Chúa mà thôi. Đó chính là tình yêu. Vì thế, không lạ lùng gì khi thấy Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa trước các môn đệ khác do ông là người yêu Chúa và được Chúa yêu nhiều. Hơn nữa, Chúa còn dẫn Phêrô đi nói chuyện riêng với ông không gì khác ngoài câu hỏi chủ chốt   này: “Con có yêu mến Thầy không ?”. Và Phêrô đã phải xác quyết ba lần về tình yêu của mình với Chúa thì Chúa mới giao trọng trách đứng đầu Giáo Hội Người đã thành lập.

Như thế, tình yêu là mối dây liên kết chặt chẽ những kẻ yêu nhau, là con mắt vô hình nhạy cảm nhất khiến họ dễ dàng nhận ra nhau. Vì bản chất của tình yêu là muốn gần gũi, muốn hòa hợp và luôn nghĩ đến nhau nên những kẻ yêu nhau ghi nhớ rất kỹ hình dáng, củ chỉ, giọng nói, thói quen của nhau đến nỗi chỉ cần một dấu hiệu quen thuộc nho nhỏ thì con tim của họ đã đủ để nhân ra nhau. Đúng như người ta thường nói “ con tim có những lý lẽ riêng” nghĩa là ngôn ngữ của tình yêu không phải là thứ ngôn ngữ lý luận, cứng nhắc, tính toán, so đo, trái lại đó là thứ ngôn ngữ cảm thụ rất nhanh, vượt khỏi mọi ràng buộc của thời gian và không gian.

Chính vì thế, muốn nhận ra được Chúa hiện diện thật sự trong đời mình, nếu chỉ dùng khối óc tìm tòi mà thôi chưa đủ, mà cần phải có một quả tim nhạy cảm trong tình yêu, một tâm hồn thao thức mỏi mòn vì muốn được yêu. Nhờ vậy, chúng ta mới có thể tìm gặp được Chúa bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào vì khi đã yêu nhau thực sự thì không có trở ngại nào có thể ngăn cản họ tìm gặp nhau.

 Thử hỏi hiện tại mỗi người chúng ta có nhận ra được Chúa trong cuộc sống của mình không ? Nếu không thì có nghĩa là chúng ta chưa yêu Chúa thực sự. Nói khác đi, tình yêu Chúa của ta bấy lâu nay chỉ dừng lại ở mức độ khiêm tốn, nghèo nàn, chưa vượt thoát khỏi vụ lợi, ích kỷ, chưa dám hy sinh từ bỏ ý riêng, tiện nghi. Nếu ở đời này mà ta không cố gắng tìm gặp được Chúa trong tình yêu thì đời sau mãi mãi ta cũng không được ở với Chúa.

------------------------------------

 

PS 3-C47: ĐỨC TIN - SNTMCN/87

 

Mặc Tử ở nước Lỗ sang chơi nước Tề, ghé thăm nhà người bạn cũ. Người bạn nói chuyện với Mặc: PS 3-C47


Mặc Tử ở nước Lỗ sang chơi nước Tề, ghé thăm nhà người bạn cũ. Người bạn nói chuyện với Mặc Tử rằng:

- Bây giờ thiên hạ chẳng ai còn biết đến việc thiện, việc nghĩa nữa. Một mình ông khổ công làm việc thiện, việc nghĩa, thì có thấm vào đâu ! Chẳng thà thôi đi có hơn không ?

Mặc tử đáp:

- Bây giờ, nhà bác có 10 đứa con: một đứa ra đồng cày ruộng, chín đứa ngồi nhà ăn chơi, thì đứa cày ruộng lại phải cày nhiều hơn lên chứ.

- Tại sao thế ?

- Tại những đứa ngồi ăn không thì nhiều, mà đứa đi cày thì ít ! Bây giờ chẳng ai chịu làm việc thiện, việc nghĩa, đúng ra, ông càng phải khuyên tôi làm mới đúng, có đâu ông lại ngăn tôi như thế !…

Cũng thế, dù gặp nghịch cảnh nào trong cuộc sống, người tín hữu luôn sống niềm tin mãnh liệt. Trước cái chết đau thương của Thầy Chí Thánh, các tông đồ buồn sầu, thất vọng: Kẻ bỏ về làm vườn, người trở lại nghề đánh cá như xưa…Nhưng sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa hiện ra với các tông đồ, chuyện trò ăn uống với các ông, lại ban cho các ông mẻ cá lạ. Phép lạ “Mẻ lưới đầy cá”, thánh Gioan thuật lại trong phúc âm hôm nay, làm cho các ông sáng mắt nhìn nhận Chúa quyền năng. Phép lạ ấy cũng củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Sau lần gặp gỡ Chúa ở bờ biển Tibêria, các tông đồ hăng hái ra đi rao giảng tin mừng khắp đó đây. Các thượng tế cấm các ông không được nhân danh Đức Kitô rao giảng khắp cả Jerusalem như vậy. Các tông đồ trả lời: “ Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”. Cản ngăn không được, các thượng tế mang các ông ra công đường đánh đòn ; các ông hãnh diện được chịu xỉ nhục vì danh Thiên Chúa.

Nhìn những tấm gương can đảm sống đạo và tuyên xưng đức tin của các tông đồ, cũng như của cac tín hữu Việt Nam bao đời sống đạo, đã hiên ngang tuyên xưng đức tin, dù gặp biết bao ngịch cảnh: hơn 300 ngàn tín hữu Việt Nam đã hy sinh chết vì đạo thánh Chúa, là một bằng chứng hùng hồn.
Một nhà văn Pháp du lịch sang La Mã. Sau khi vào chiêm ngắm đền thờ thánh Phêrô, ông vào yết kiến Đức Giáo Hoàng. Ông trình bày với Đức Giáo Hoàng về cảm tưởng của ông : “ Tâu Đức Thánh Cha, phi lòng tin của người xưa, người ta không thể xây được một ngôi thánh đường nguy nga, lộng lẫy, đầy dáng vẻ nghệ thuật như thế”.

Không lẽ lòng tin của chúng ta ngày nay, lại chẳng mạnh mẽ như lòng tin của cha ông chúng ta xưa kia ? Dẫu sao, chúng ta cũng phải khiêm nhường kêu xin cùng Chúa: “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.

------------------------------------

 

PS 3-C48: Việc các Tông Đồ chữa lành cho một số bệnh nhân


 Lm Ignatio Hồ Văn Xuân

GIÚP HIỂU CÁC BÀI ĐỌC

Bài đọc 1 (Cv 5,27-32.40-41)

 

Việc các Tông Đồ chữa lành cho một số bệnh nhân khiến vị thượng tế và hội đồng cố vấn của: PS 3-C48


Việc các Tông Đồ chữa lành cho một số bệnh nhân khiến vị thượng tế và hội đồng cố vấn của vị này nổi giận. Bị tống giam và được giải thoát cách lạ lùng, Phê-rô cùng các Tông Đồ khác lại xuất hiện và tiếp tục giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ. Khi bị điệu đến giữa Thượng Hội Đồng và bị vị thượng tế bắt bẻ, thánh Phê-rô đã trả lời một cách quả quyết: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm." Đoạn văn bỏ qua một đoạn trong đó Ga-ma-li-en, một tiến sĩ luật, nhắc nhở Thượng Hội Đồng coi chừng việc làm của các ông chống lại chính Thiên Chúa. Tuy nhiên các Tông Đồ vẫn bị đánh đòn. Nhưng không gì có thể ngăn cản các ông tiếp tục giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Ki-tô Giê-su ; các ông vui mừng vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở cùng các ông.

Bài đọc 2 (Kh 5,11-14)

Đoạn văn mô tả một lễ nghi phụng vụ nhằm tôn kính Con Chiên, tượng trưng cho Đức Giê-su, đã bị loài người giết chết nhưng giờ đây đang chiến thắng. Hình ảnh Con Chiên gợi lên con chiên vuợt qua mà sách Xuất hành đã đề cập đến ; và nghi thức sát tế chiên vượt qua nhắc dân chúng nhớ lại lúc kết thúc thời kỳ nô lệ của dân chúng. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như một vị vua và Thiên Chúa. Trên trời, bảy từ (số bảy có ý nghĩa hoàn hảo) được dùng để ca tụng sự cao cả của Người. Còn đối với mọi loài thụ tạo, thì sử dụng bốn từ. Đấng ngự trên ngai là Chúa, Đấng đưa ra lời phán xử cuối cùng và thưởng công hoặc luận tội mỗi người tuỳ theo việc họ đã làm

Bài Tin Mừng (Ga 21,1-19)

Các chuyên viên Thánh Kinh thấy trong chương 21 Tin Mừng Gio-an công trình của một môn đệ. Quả thật, chương 20 đã kết thúc bằng một lời kết (xem Tin Mừng Chúa nhật thứ 2 Phục Sinh). Biến cố nhắc lại mẻ cá lạ lùng co Lu-ca kể lại vào lúc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Lúc đó các môn đệ gồm bảy người sinh sống tại Ga-li-lê, nơi lao động thường xuyên của các ông. Phê-rô giữ một vai trò quyết định. Người môn đệ Đức Giê-su yêu quý thường không được nêu tên ra, nhưng ông luôn nhạy bén trong tình yêu đối với Đức Giê-su. Hai thời điểm khác nhau của việc đánh cá tượng trưng cho các giai đoạn của công cuộc rao giảng Tin Mừng. Trước tiên các môn đệ chỉ có một mình trong đêm tối, và những cố gắng của các ông trở nên vô ích. Các ông không nhận ra Đức Giê-su khi Người đến, ngay cả khi Người nói với các ông. Chỉ nhờ mẻ cá lạ lùng các ông thu hoạch được theo lệnh Đức Giê-su, các ông mới mở mắt ra.

Đức Giê-su đã chuẩn bị bữa ăn sáng cho các ông. Những từ liên quan đến bánh rõ ràng ám chỉ Thánh Thể. Các Ki-tô hữu đầu tiên xem hình ảnh con cá là tượng trưng cho Đức Ki-tô. Tác giả Tin Mừng lưu ý rằng tất cả các môn đệ đều biết đó là Chúa, nên không ai dám hỏi gì … Có lẽ con số 153 chỉ có giá trị tượng trưng, chỉ một số lượng lớn. Với Đức Giê-su Phục Sinh, công cuộc rao giảng Tin Mừng sẽ đạt được thành công mỹ mãn ngoài sức tưởng tượng của con người. Và Người dọn cho các vị thừa sai bữa ăn bồi dưỡng. Chính Người chọn người chăn các chiên của Người - ta đọc thấy điều đó trong phần thứ hai của bài Tin Mừng - Người đòi hỏi người được chọn phải có một tình yêu mãnh liệt, đồng thời cũng báo trước có nhiều thử thách đang chờ họ.

CHIA SẺ LỜI CHÚA (Bài Tin Mừng)

1. Trong khi phần lớn các câu chuyện về Phục Sinh đều diễn ra vào "ngày thứ nhất trong tuần", ở Giê-ru-sa-lem hoặc vùng ven thành phố, thì ở đây Đấng Phục Sinh hiện ra ở Ga-li-lê vào buổi sáng sớm của một ngày lao động bình thường. Cảnh tượng xảy ra bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, nơi Đức Giê-su đã gọi các môn đệ đầu tiên của Người và hứa cho các ông trở thành những người thu phục người khác.

2. Đức Giê-su gặp lại các môn đệ thân yêu của mình giữa những lo âu thường ngày. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nhận ra Người trước tiên, nhưng chính Si-môn Phê-rô kéo vào bờ lưới đầy cá, tượng trưng cho vô số các tín hữu. Chính Đức Giê-su chuẩn bị một bữa ăn và mời các ông chia sẻ. Các Tông Đồ và các môn đệ sau này có sứ mạng tập họp vào trong một chiếc lưới, hình ảnh của Nước Thiên Chúa, tất cả những ai sẽ nhận biết Đức Giê-su là Đấng cứu chuộc họ, Đấng Hằng Sống đang đứng trên bờ cuộc đời đầy biến động của họ và cùng đến ăn chung với họ.

3. Thay vì co cụm lại trên chính mình, Giáo Hội sẽ phải mở ra cho hết thảy mọi người. Làm thế nào Giáo Hội có thể đương đầu với những cơn lốc của lịch sử ? Phải chăng nhờ một bộ luật hoặc một nền hành chánh tỉ mỉ ? Ba câu hỏi Đức Giê-su đặt ra cho Phê-rô trước khi trao cho ông nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người thật ra chỉ gồm một điểm, nhưng là điểm then chốt: "Phê-rô, anh có yêu mến Thầy không ?" Chính tình yêu Đức Ki-tô đã thôi thúc Phê-rô trả lời cho Thượng Hội Đồng là phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (bài đọc 1). Khi trả lời cho vị thượng tế, Phê-rô dựa vào chứng nhân: các Tông Đồ và Chúa Thánh Thần. Đây cũng là nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Dần dần, tất cả mọi công cuộc rao giảng Đức Ki-tô Phục Sinh đều liên kết chặt chẽ với chứng từ của các Tông Đồ. Chứng từ này luôn kín múc sức mạnh thường xuyên của Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho chứng từ của các ngài luôn mới mẻ và hợp thời.

4. Từ nay về sau, chính tình yêu can trường đối với Đức Ki-tô mới quan trọng trong công cuộc rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cơ cấu tổ chức. Lòng trung tín thực sự - giữa những người đã vất vả suốt đêm mà không có kết quả gì - là có đôi mắt gắn chặt vào Đức Ki-tô hằng sống, hiện diện bên bờ của cuộc đời chúng ta.

------------------------------------

 

PS 3-C49: SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI PHỤC SINH


 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật III Phục Sinh Năm C

 

Người môn đệ trên đường làm chứng, loan báo Nước Trời luôn được sức mạnh và niềm vui của PS 3-C49


TMĐP- Người môn đệ trên đường làm chứng, loan báo Nước Trời luôn được sức mạnh và niềm vui của Đức Giêsu phục sinh gìn giữ.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đi vào bầu khí hân hoan của những người tin vào Đức Giêsu sống lại. Họ là những môn đệ đã đi theo Đức Giêsu, được ở với Ngài, chia sẻ  gian truân, đau khổ với Ngài và được thấy Ngài trong thân xác phục sinh. Họ là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7,9) đang cùng “ức ức triệu triệu các thiên thần” lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời chúc tụng” (Kh 5,11-12).

Bài đọc thứ nhất làm chứng sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh đã biến đổi những con người yếu đuối, nhát đảm mới hôm nào còn lấm lét sợ người Do Thái, còn kinh hãi bỏ Thầy trốn chạy để bảo toàn mạng sống, còn nao núng, chao đảo, thất vọng qua hành động thề thốt “không biết người ấy là ai” trước đầy tớ gái của thượng tế Caipha đang khi Thầy bị tra khảo (x. Mc 14,66-71), nay trở thành những chứng nhân anh dũng, mạnh mẽ trước uy lực của “thần quyền” là “Thượng Hội Đồng gồm” vị thượng tế và những người kề cận, cùng toàn thể viện bô lão Ítraen” (Cv 5,21) khi cương quyết tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29), trước lệnh “nghiêm cấm các ông không được giảng dạy” về danh Đức Giêsu, Đấng đã chịu đóng đinh, “nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy” (x.Cv 5, 28.30).

Bên cạnh sức mạnh phục sinh là niềm vui phục sinh của các môn đệ được Tin Mừng Gioan kể lại.

Trước hết, các môn đệ  hớn hở vui mừng vì bất ngờ “có người” đến chỉ cho các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” sau đêm dài thức trắng mà không bắt được con nào, và các ông đã “trúng” mẻ cá khủng, “vì lưới đầy những cá” (Ga 21,6).

Và niềm vui ấy bất chợt vút cao, khi bước lên bờ, các ông thấy “người ấy” đã chuẩn bị sẵn “than hồng với cá đặt trên, và có cả bánh nữa”, lại còn thân thiện  mời các ông: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21,12).

Điều quan trọng chúng ta cần ghi nhận  đây là cho đến lúc này không ai trong các ông đã nhận ra “người ấy” chính là Đức Giêsu, và có “nhận ra đó là Chúa”  cũng “không ai trong các môn đệ dám hỏi Ngài: “Ông là ai?” (x. Ga 21,4.12).

Sau cùng, niềm vui  đã vỡ òa  khi chính “Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (Ga 21,13), là cử chỉ Đức Giêsu đã làm trong bữa ăn cuối cùng với các ông trước khi chịu khổ nạn và tử hình đóng đinh. Cử chỉ này làm các ông nhớ lại những lời trăn trối dạt dào yêu thương của Ngài, và  hôm nay, sau khi sống lai, tình yêu ấy lại được công khai thể hiện khi Đức Giêsu  âu yếm hỏi Phêrô đến ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” và nói với ông: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21.15.16.17).

Quả thực, Đức Giêsu sống lại là sức mạnh và niềm vui của những ai tin vào Ngài và đi theo Ngài.

Họ được trở nên mạnh mẽ vì qua biến cố phục sinh, họ nhận ra Đức Giêsu chính là “vị Thủ Lãnh, Đấng Cứu Độ”, Đấng mà “Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, hầu đem cho dân Người ơn sám hối và ơn tha tội” (Cv 5,31), đồng thời là “Chúa” như thánh tông đồ dân ngoại đã quả quyết: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người… và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9.11).

Họ được hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh của Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, vì qua Thánh Giá, Ngài đã chiến thắng tội lỗi, thần chết, hỏa ngục. Bằng chứng là khi được thả ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các Tông Đồ phấn khởi, “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).

Niềm vui ấy sẽ không bao giờ vơi cạn, vì ơn phục sinh đã cho đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu nhận ra Ngài là “người cha nhân hậu, quan phòng” quan tâm đến từng đứa con, như Đức Giêsu phục sinh đã chu đáo chuẩn bị sẵn than hồng, bánh, cá trên bờ, vì biết các môn đệ của Ngài  rất đói sau đêm dài mất ngủ và vất vả chài lưới.

Niềm vui ấy ngày càng phong phú, sâu sa vì họ nhận ra Đức Giêsu chính là Mục Tử  nhân lành chăn dắt đàn chiên bằng tình yêu; chăm sóc  chiên con yếu đuối, thơ dại bằng tình mẹ bao la, ân cần, tận tụy; và chăm nom đám chiên đau bệnh, xa đàn, lạc đàn bằng tình yêu nhẫn nại chịu đựng, kiên trì đợi chờ và  bao dung, thương xót.

Tóm lại, người môn đệ trên đường làm chứng, loan báo Nước Trời luôn được sức mạnh và niềm vui của Đức Giêsu phục sinh, Đấng mà Thiên Chúa đã nâng lên làm “Chúa, Thủ Lãnh, Đấng Cứu Độ và Mục Tử nhân lành” bao phủ, gìn giữ, bảo đảm. Và chính Ngài là Đấng chúng ta tuyệt đối tin tưởng và hy vọng, vì chỉ một mình Ngài là “Đường, Sự Thật, Sự Sống” và “Sự Sống Lại” (Ga 14,6 ; 11,25).

Jorathe Nắng Tím

------------------------------------

 

PS 3-C50: YÊU MÊN THIÊN CHÚA


và TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU

CÂU HỎI GỢI Ý:

 

Người tông đồ có những nhu cầu thực tế của đời sống như bao người khác không ? Nếu phải lo: PS 3-C50


1. Người tông đồ có những nhu cầu thực tế của đời sống như bao người khác không ? Nếu phải lo thỏa mãn những nhu cầu ấy như mọi người, thì họ còn thì giờ và năng lực để có thể toàn tâm toàn ý cho công việc tông đồ không ? Thiên Chúa có quan tâm đến những nhu cầu thực tế của họ không ?

2. Tại sao mỗi lần Đức Giê-su muốn giao việc chăn dắt bầy chiên của mình cho Phê-rô, Ngài đều hỏi xem ông có yêu mến Ngài không ? Điều này có ý nghĩa gì ? Không yêu Đức Giê-su thì có thể làm mục tử hữu hiệu không ?

SUY TƯ GỢI Ý:

1. NGƯỜI TÔNG ĐỒ CŨNG CÓ NHỮNG NHU CẦU CỤ THỂ CẦN THỎA MÃN

Là con người, ai cũng có những nhu cầu cần phải được thỏa mãn. Nếu những nhu cầu ấy không được thỏa mãn, con người sẽ lâm vào tình trạng bất hạnh. Vì thế, một trong những bận tâm rất lớn của con người là lo cho nhu cầu của mình: nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Người tông đồ lo việc cho Thiên Chúa cũng có những nhu cầu ấy, và cũng cần phải được thỏa mãn mới có thể sống hạnh phúc được. Nhưng nếu người tông đồ cũng phải lo những nhu cầu này cho mình, thì họ còn thì giờ và đầu óc đâu để lo công việc cho Thiên Chúa ? Những người muốn hiến thân cho Thiên Chúa, muốn dành trọn đời mình phụng sự Ngài, thì Ngài có cách nào giúp họ giải quyết những nhu cầu cụ thể của họ không ?

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một viễn cảnh tốt đẹp về sự quan phòng của Thiên Chúa đối với những nhu cầu cụ thể của những người lo việc cho Ngài.

2. THIÊN CHÚA LUÔN QUAN TÂM LO LIỆU CỤ THỂ CHO NGƯỜI CỦA NGÀI

Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ Ngài cũng có lúc phải lo việc kiếm thức ăn để sống. Nghề của các ông là nghề đánh cá, nên các ông rủ nhau đi đánh cá tại hồ Ti-bê-ri-a. Những chuyện xảy ra đêm hôm ấy và sáng hôm sau là một mặc khải quan trọng mang tính biểu tượng

Đêm ấy, các ông vất vả suốt đêm mà không bắt được một con cá nào. Điều đó có nghĩa gì ? – Dường như những người có ý hướng theo Chúa, muốn dấn thân làm làm tông đồ, những người có khuynh hướng nội tâm, thường ít khi thành công trong công việc làm ăn sinh sống, mặc dù họ có tài, biết cách suy tính. Muốn thành công trong công việc làm ăn, người ta thường phải để hết tâm trí của mình vào đó, và cũng phải gắn bó với tiền bạc, vật chất. Nhưng người đã chọn Thiên Chúa, thì thường không thể để hết tâm trí vào chuyện vật chất được. Nên khi làm ăn sinh sống, họ dễ bị thất bại vì thiếu tập trung vào công việc ấy. Họ đã được Thiên Chúa chọn và kêu gọi để làm một công việc thuộc loại khác. Những thất bại của họ trong công việc trần gian là một cách nhắc nhở hay thúc đẩy họ nên chuyên tâm vào công việc của Ngài.

Khi trời sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển bảo họ thả lưới bên phải mạn thuyền. Đề nghị của Ngài quả thật có phần phi lý: thả lưới bên phải hay bên trái ở ngoài biển thì có gì khác nhau ? Nếu có cá thì thả bên nào mà chẳng bắt được. Nếu không có cá thì thả bên này hay bên kia có gì khác nhau ! Nhưng các tông đồ vẫn tuân theo lời đề nghị có vẻ chẳng hợp lý của Ngài, và kết quả là một mẻ lưới thành công ngoài sức tưởng tượng. Điều đó có nghĩa gì ? – Đối với những người theo Chúa, những người làm tông đồ, Thiên Chúa thường cho họ thấy đời sống vật chất của họ không tùy thuộc vào tài trí hay nỗ lực của họ, mà tùy thuộc vào Ngài. Họ có dồn hết nỗ lực để làm giàu cũng vô ích, cũng vẫn lâm vào cảnh thiếu thốn. Nhưng nếu họ dành hết tài năng, thì giờ, sức lực để lo việc cho Ngài, thì Ngài có đủ mọi cách để họ có thể đủ sống, không phải lo lắng gì. Một khi đã trở thành người của Ngài, họ sẽ được Ngài lo liệu, chăm sóc một cách chu đáo như một ông chủ lo cho các nhân viên của mình. Điều Ngài mong đợi nơi họ là họ toàn tâm toàn ý, hết mình với công việc của Ngài. Còn việc của họ, Ngài sẽ lo thay cho họ. Ngài từng nói: “Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước đã, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau” ( Mt 6, 33 ).

Một sự kiện rất ý nghĩa khác: khi đánh cá xong, bước lên bờ, các tông đồ “nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa”. Và Đức Giê-su mời các ông ăn bánh và cá mà Ngài đã dọn sẵn cho các ông. Như vậy, cho dẫu các ông không đánh cá đêm ấy, hay không đánh được con cá nào, thì các ông vẫn có bánh và cá để ăn, vì Đức Giê-su đã lo liệu tất cả cho các ông. Sự việc này cho thấy Thiên Chúa sắp đặt sẵn tất cả mọi sự một cách chu đáo cho những kẻ hiến thân cho công việc của Ngài. Vấn đề là họ có đức tin để nhận ra điều đó hay không. Nếu Ngài là một Thiên Chúa quyền năng, mọi công việc của Ngài đều kỳ diệu ( G 5, 9; 9, 10; Tv 139, 14; Hc 42, 22 ), ắt nhiên sự quan phòng của Ngài dành cho những kẻ hiến thân cho Ngài cũng hết sức kỳ diệu. Ngài đã tạo dựng nên một vũ trụ một cách vô cùng thông minh, chính xác, Ngài đã cho con người một thể xác vô cùng diệu kỳ, với những cơ chế tự động rất lạ lùng, chẳng lẽ Ngài lại không đủ kỳ diệu và thông minh trong việc quan tâm chăm sóc những kẻ muốn dồn hết nỗ lực cho công việc của Ngài ?

3. NGƯỜI TÔNG ĐỒ HÃY TẬP TRUNG NĂNG LỰC VÀO CÔNG VIỆC TÔNG ĐỒ VÀ CHĂN DẮT ĐÀN CHIÊN CỦA MÌNH

Sau khi cho các môn đệ thấy sự sắp xếp chu đáo của Thiên Chúa đối với những nhu cầu thực tế của các ông, Đức Giê-su mời gọi các ông hãy chăm lo cho bầy chiên của Ngài. Trước mỗi lần Đức Giê-su mời gọi Phê-rô chăn dắt bầy chiên của Ngài, Ngài đều hỏi ông: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” Điều này cho thấy công việc chăn dắt bầy chiên của Đức Giê-su đòi hỏi một tình yêu rất lớn lao đối với Ngài, vì nó đòi hỏi các tông đồ phải dành hết thời gian và hết sức mình cho công việc đó. Việc gắn liền hai sự kiện này với nhau – việc lo liệu sắp xếp của Thiên Chúa về nhu cầu sống của người tông đồ và lời mời gọi chăn dắt bầy chiên – muốn nói lên rằng: người tông đồ muốn chăn dắt bầy chiên một cách hiệu quả thì phải toàn tâm toàn ý với công việc ấy. Toàn tâm toàn ý đến nỗi không còn đầu óc hay thì giờ để lo lắng cho những nhu cầu riêng của mình. Tuy nhiên, dù không lo cho những nhu cầu của mình, người tông đồ vẫn được Thiên Chúa sắp xếp lo liệu cho tất cả để có thể sống thật đầy đủ và hạnh phúc trong cuộc đời này ( x. Mc 10, 29-30 ). Vậy, người làm tông đồ hãy yên tâm phó thác tất cả những nhu cầu riêng tư của mình, của gia đình mình trong tay Chúa Quan Phòng, Ngài sẽ lo liệu tất cả để ta an tâm phụng sự Ngài và công việc của Ngài.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nếu Cha đã dựng nên thế giới này thật diệu kỳ, và cả thân xác của con đây cũng thật diệu kỳ, thì con tin rằng Cha điều hành và quan phòng thế giới này cũng thật diệu kỳ. Vì thế, con tin chắc rằng một khi con toàn tâm toàn ý lo cho công việc của Cha, và điều đó rõ ràng cũng là ý muốn của Cha, thì Cha sẽ quan phòng lo lắng cho mọi nhu cầu của con. Xin cho con sống đúng tinh thần lời của Đức Giê-su: “Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước đã, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau” ( Mt 6, 33 ). Xin cho con đủ đức tin và lòng thanh thoát để sống được như thế.   

Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT

------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây