Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 3 PS-C Bài 51-100 Mẻ cá lạ lùng
----------------------------------------
Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}: "Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô,
Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".] - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------------------------
PS3-C51: Hòa giải , yêu thương và tha thứ. 2
PS3-C52: Chúa Giêsu sống lại là niềm tin của chúng ta. 4
PS3-C53: ƠN GỌI VÀ SỨ MẠNG BÊN NGỌN LỬA HỒNG.. 5
PS3-C54: Chúa yêu ta qua tha nhân. 11
PS3-C55: Bảo đảm cho sự chân truyền. 12
PS3-C56: Phục vụ trong tin yêu. 14
PS3-C57: CHÚA PHỤC SINH - Lm. Phạm Thanh Liêm.. 16
PS3-C58: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội 18
PS3-C59: NGÀY BẾ GIẢNG.. 21
PS3-C60: PHẢI VÂNG LỜI THIÊN CHÚA.. 23
PS3-C61: Mẻ cá. 27
PS3-C62: Mầu nhiệm Giáo Hội - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 28
PS3-C63: Bữa ăn trên bờ biển. 30
PS3-C64: Chú giải của Noel Quesson. 32
PS3-C65: Suy niệm của nhóm Nha Trang. 36
PS3-C66: BẠCH TUYẾT VÀ BẢY CHÚ LÙN.. 41
PS3-C67: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH.. 44
PS3-C68: KIỂM ĐỊNH LÒNG MẾN.. 45
PS3-C69: MẦU NHIỆM GIÁO HỘI 47
PS3-C70: LÀM THEO LỜI CHÚA.. 50
PS3-C71: Mẻ lưới. 52
PS3-C72: SỐNG BẰNG SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA KITÔ PHỤC SINH.. 53
PS3-C73: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH.. 56
PS3-C74: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH.. 57
PS3-C75: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH.. 59
PS3-C76: PHÊRÔ CON CÓ YÊU MẾN THẦY HƠN CÁC ANH EM... 60
PS3-C77: VÂNG LỜI 63
PS3-C78: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH C.. 65
PS3-C79: GIÁO HỘI PHỔ QUÁT.. 67
PS3-C80: ÐƯỢC BIẾN ÐỔI NHỜ VÂNG LỜI CHÚA GIÊSU PHỤC SINH.. 68
PS3-C81: Hãy Theo Tôi 69
PS3-C82: ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH CHÚA KITÔ.. 73
PS3-C83: HÃY TIN VÀO TÌNH THƯƠNG CHÚA.. 80
PS3-C84: CHÚA HIỆN RA GẦN BIỂN TIBÊRIA - R. Veritas. 82
PS3-C85: Sức mạnh tình yêu. 85
PS3-C86: Trước khi truyền giáo, phải biết “yêu”. 89
PS3-C87: Hãy Theo Tôi 93
PS3-C88: Yêu mến Chúa. 96
PS3-C89: Lòng mến của vị mục tử. 100
PS3-C90: Tình mẹ trong tim Chúa Giê-su. 106
PS3-C91: ĐỨC GIÊSU HIỆN RA Ở BỜ HỒ TIBÊRIA.. 108
PS3-C92: MẺ CÁ 153 CON.. 118
PS3-C93: Lãnh nhận sứ mệnh Chúa trao. 120
PS3-C94: ĐIỀU KHIỂN GIÁO HỘI 121
PS3-C95: Chúa đã dọn sẵn cho các thợ phần thưởng ở Bến bình an. 123
PS3-C96: Chúa Nhật III Phục Sinh. 130
PS3-C97: BIỂN HỒ.. 132
PS3-C98: LÀM ĐẦU GIÁO HỘI 134
PS3-C99: TÌNH YÊU VÀ QUYỀN BÍNH. 136
PS3-C100: Chúa Nhật III Phục Sinh. 139
VietCatholic News (23/04/2004 )
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH
Mùa Phục Sinh không những là mùa vui mừng và hy vọng mà còn là thời điểm hòa giải, tha thứ: PS3-C51
Mùa Phục Sinh không những là mùa vui mừng và hy vọng mà còn là thời điểm hòa giải, tha thứ thể hiện cụ thể qua lời nói và việc làm của chính Chúa Kitô Phục Sinh sau ngày Người từ cõi chết sống lại.
Trước hết, Chúa sống lại là nguồn vui mừng lớn lao cho các Môn đệ của Người vì tất cả đều đã vô cùng buồn bã thất vọng khi chứng kiến cái chết thê thảm của Người trong ngày thứ Sáu trên Núi Sọ. Mặt khác họ cũng đã lấy lại được niềm tin và hy vọng từng bị cái chết của Chúa làm lung lay. Họ không những vui mừng vì được gặp lại Chúa mà còn cảm nghiệm sâu xa về tình thường khoan dung tha thứ của Người dành cho họ cách đặc biệt thể hiện qua thái độ đơn phương hòa giải của Chuá nữa.
Thật vậy, mỗi lần hiện ra với các Tông Đồ, Chúa Giêsu chỉ nói “ Bằng an cho các con”. Chúakhông hề quở trách các ông đa số đã hèn nhát chạy trốn khi Người bị bắt bớ và bị đem đi giết. Người cũng không trách mắng Phêrô đã công khai chối Người ba lần. Điều này cho thấy Chúa đã tha thứ tất cả, đã quên hết những gì các ông đã làm cho Người trong giờ phút đáng lẽ các ông phải chứng tỏ tình yêu trung kiên dành cho Chúa khi Người lâm nạn. Thường tình người ta dễ yêu nhau, gắn bó mật thiết với nhau khi không gặp nguy biến. Nhưng nếu gặp khó khăn, hoạn nạn mà không dám sống chết với nhau thì tình thân không có gì là keo sơn, bền chặt, thắm thiết thực sự như người ta nghĩ. Mặt khác, cũng thường tình thì người ta oán trách nhau, giận hờn nhau khi có sự phản bội, hoặc thiếu trung kiên gắn bó với nhau khi gặp hoạn nạn, thử thách gian nan. Chúa Giêsu đã đi ngược lại cái thường tình đó của loài người. Chúa bị phản bội, bị chối từ, bị lăng mạ, bị đánh đập tàn nhẫn trước khi bị treo trên thập tự và chết tất tưởi. Nhưng khi Người từ cõi chết sống lại, Chúa đã không một lời oán giận ai, không hài tội ai về những đối xử tàn tệ của của họ đối với Người. Những kẻ đóng đinh Người vào thập giá thì Chúa đã tha thứ ngay cho chúng trước khi Người tắt hơi thở cuối cùng. Đối với các môn đệ đã chây trốn và riêng Phêrô đã “chối Thầy” thì Chúa chỉ có những lời đầy yêu thương, khoan dung như “Bằng an cho anh em” (Jn 20:19) mổi khi Người hiện ra với các ông. Hơn thế nữa Chúa còn đặt Phêrô làm Tông Đồ Truởng để “ chăn dắt các chiên của Thầy” như chúng ta đọc thấy trong Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay. Cử chỉ này cuả Chúa thật bất ngờ cho Phêrô và khiến chúng ta phải suy nghĩ thêm nữa về luợng khoan dung khôn luờng cuả Chúa.
Thật vậy, Chúa đã đối xử đại lượng với các môn đệ, đặc biệt với Phêrô và những kẻ đã đóng đinh Chúa cũng như rất khoan dung đối với mọi nguời chúng ta; vì có biết bao lần chúng ta cũng đã chối từ, đã phản bội, đã đóng đinh Chúa khi chúng ta lỡ sa phạm tội, nhưng Chúa đã tha thứ hết để chấp nhận chúng ta cho đến giờ này.
Nếu Chúa đã làm gương tốt cho chúng ta về hòa giải, yêu thương và tha thứ như vậy, thì liệu chúng ta có nên chứng tỏ niềm tin và lòng mến của chúng ta đối với Người bằng cách tha thứ và hòa giải với nhau để có thể yêu thương nhau thực sự như Chúa đòi hỏi không ? Nếu chưa minh chứng được Đức Tin cách cụ thể như vậy thì chúng ta vẫn còn “yếu” hay chưa tin Chúa đủ như Tôma đã đòi phải được “xem thấy dấu đinh ở tay Người và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người” thì mới tin là Chúa đã sống lại thật. Chúng ta không cần xem thấy Chúa hiện ra nhãn tiền rồi mới tin có Chuá.
Không thấy nhưng vẫn tin, vẫn sống những đòi hỏi của Đức Tin cách cân xứng, thì mới là tin thật và đó chính là điều Chúa mong đợi nơi mỗi người chúng ta ngày nay vì “Phúc cho những người không thấy mà tin” (Jn 20:29).
Lm. F.X. Ngô Tôn Huấn
Tin mừng: Ga 21, 1-19
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã sống lại, đó là niềm tin của chúng ta và đó cũng là một thách đố cho nhân loại ngày: PS3-C52
Chúa Giêsu đã sống lại, đó là niềm tin của chúng ta và đó cũng là một thách đố cho nhân loại ngày xưa cũng như ngày hôm nay, Ngài đã sống lại và đang hiện diện với chúng ta trong thánh lễ này trên bàn thờ khi chúng ta cùng nhau ăn Thịt và uống Máu của Ngài, và đó là dấu hiệu để chúng ta nhận ra chúng ta đều là anh chị em với nhau trong Ngài. Trong niềm xác tín ấy tôi xin chia sẻ với anh chị em hai điểm sau đây:
1. Bẻ bánh là tuyên xưng Chúa Kitô đã sống lại.
Thánh lễ được lập lại mỗi giây mỗi phút trên khắp thế giới, nghĩa là nơi đâu có linh mục Chúa Kitô thì ở đó đều có thánh lễ, đó là một bằng chứng Chúa Giêsu đã phục sinh sống động nhất mà Giáo Hội luôn đề cao và khuyến khích, mời gọi các tín hữu sốt sắng tham dự thánh lễ.
Nơi thánh lễ linh mục làm lại cử chỉ mà Chúa Giêsu thường làm với các Tông Đồ đó là cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các Tông đồ. Cử chỉ này Chúa Giêsu đã làm trước khi chịu chết, và Ngài vẫn làm sau khi từ cõi chết sống lại, và sẽ được Giáo Hội của Ngài -Giáo Hội Công Giáo- tiếp tục làm (bẻ bánh) cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang.
Chúa Giêsu đã sống lại và tấm bánh mà chúng ta ăn chính là Mình Thánh sống động của Ngài, vì sống động nên trở thành động lực thúc đẩy những người ăn và uống Mình Máu Thánh trở nên những công cụ sống động phục vụ tha nhân theo ý muốn của Đấng đã từ cõi chết sống lại là yêu thương và phục vụ lẫn nhau như Ngài đã rữa chân phục vụ các Tông Đồ.
2. Phục vụ là tuyên xưng Chúa Kitô đã sống lại.
Chúa Giêsu đã sống lại, và Ngài nướng bánh cá phục vụ bữa ăn cho các Tông Đồ sau một đêm đánh cá mệt mỏi, Ngài là Thầy và là Chúa nhưng Ngài đã phục vụ trong cung cách là người bạn chí thiết của các Tông Đồ: bình dị và đầy yêu thương.
Ở đời có nhiều cách phục vụ: người bán hàng phục vụ khách hàng là vì để “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, họ phục vụ không phải vì yêu thương khách hàng nhưng là vì túi tiền của họ; bác sĩ khám bệnh chăm sóc bệnh nhân với cung cách là nghề bác sĩ; nhà giàu bố thí cho người nghèo khi có dịp lễ; các “cò mối” phục vụ khách hàng.v.v... đều là những người vì mình chứ không vì người...
Người Kitô có nhiều cách để tuyên xưng Chúa Giêsu sống lại, nhưng cách hữu hiệu nhất là vì tha nhân và vì anh em mà phục vụ như Chúa Giêsu đã làm, bởi vì không một xác chết nào biết phục vụ nhưng phải là người đang sống mới biết phục vụ. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, nghĩa là Ngài vẫn đang sống nên Ngài phục vụ trong chúng ta, và qua chúng ta mà mọi người nhận biết yêu mến và kính thờ Ngài...
Anh chị em thân mến,
Năm nay Giáo Hội Taiwan của chúng ta phát động một sinh hoạt là: kiến thiết xây dựng Tin, Cậy, Mến trong các gia đình, đây là một nổ lực lớn để cho mỗi người Kitô hữu và đặc biệt là mỗi người trong chúng ta ý thức về sứ mạng tông đồ của mình.
Từ trong gia đình cha mẹ và con cái “truyền đạo” cho nhau bằng cách phục vụ lẫn nhau như Chúa Giêsu đã rửa chân phục vụ cho các tông đồ của mình.
Bẻ bánh và phục vụ là hai điều kiện tiên quyết để mọi người nhận ra Chúa Giêsu phục sinh đang sống động trong công việc hàng ngày của chúng ta, do đó mà chúng ta cần có một tâm hồn biết đặt phục vụ lên trên mọi nguyên tắc để ưu tiên phục vụ mọi người chung quanh chúng ta...
Xin Chúa chúc là cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 3 phục sinh tại nhà thờ Phục Sinh, Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
[CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM C (22.04.2007)]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Hội Thánh lập ra Mùa Phục Sinh là để giúp các Ki-tô hữu đi sâu vào Mầu Nhiệm Chết & Phục: PS3-C53
Hội Thánh lập ra Mùa Phục Sinh là để giúp các Ki-tô hữu đi sâu vào Mầu Nhiệm Chết & Phục Sinh của Chúa Ki-tô Con Một Thiên Chúa. Cũng có nghĩa là sống Mầu Nhiệm ấy trong hành trình đi theo Chúa Ki-tô Phục Sinh. Hành trình đi theo Chúa Ki-tô Phục Sinh của mỗi Ki-tô hữu có những nét riêng mà không người nào khác có được. Tiếc là nhiều người trong chúng ta không ý thức về điều đó, không biết trân trọng những nét riêng ấy. Vì thế mà nhiều cuộc sống Ki-tô hữu thiếu tính độc đáo, lan tỏa và lôi cuốn.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Hội Thánh muốn chúng ta khám phá nét đặc thù của ơn gọi và sứ mạng của Phê-rô Tông Đồ Trưởng. Có thể nói cuộc đời theo Chúa Giê-su của Phê-rô có hai kỷ niệm, một buồn một vui, gắn liền với đống lửa. Thật vậy Phê-rô đã chối Thày bên đống lửa (Ga 18,25). Phê-rô đã chuộc lại lỗi lầm của mình và nhận lại ơn gọi và sứ mạng cũng bên đống lửa (Ga 21,1-9).
Chúng ta hãy đành ít phút để tìm hiểu các bài Thánh Kinh và nhất là bài Phúc Âm để khám phá ra ơn gọi và sứ mạng của Phê-rô cũng là ơn gọi và sứ mạng của riêng mỗi người chúng ta.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Cv 5, 27-32.40b-41: Về những sự kiện đó, chúng tôi làm chứng cùng với Thánh Thần.
27 Bấy giờ các Tông Đồ bị điệu đến giữa Thượng Hội Đồng, vị thượng tế hỏi các ông rằng: 28 "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi! " 29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. 30 Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, 31 và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. 32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."
40 Bấy giờ họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra. 41 Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.
(2) Bài đọc 2: Kh 5,11-14: Con Chiên bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quí và uy quyền.
11 Tôi là Gio-an, tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. 12 Các vị lớn tiếng hô: "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc." 13 Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! "
14 Bốn Con Vật thưa: "A-men." Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 21,1-19: Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá Người cũng làm như vậy.
1 Bấy giờ, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không." 6 Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! " 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." 16 Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." 17 Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn." 19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Cv 5, 27b-32.40b-41) là đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ miêu tả sự hăng say của các Tông Đồ trong việc làm chứng cho Chúa Ki-tô là Đấng đã chết và phục sinh để tha tội và cứu vớt nhân loại. Các ngài chỉ còn biết vâng lời Thiên Chúa, chỉ có một mối quan tâm là làm chứng cho Chúa Giê-su bất chấp mọi gian nan, thử thách, roi đòn và ngục tù. Trong lòng các ngài cháy bùng một ngọn lửa yêu mến không gì dập tắt được vì ngọn lửa ấy là do chính Chúa Thánh Thần đã đốt lên.
Trong đoạn sách Cv 5, 27b-32.40b-41 trên chúng ta thấy xuất hiện gương mặt hấp dẫn của Chúa Giê-su Chết và Phục Sinh. Người đã chiếm hữu tâm hồn các Tông Đồ, đã biến họ thành những chứng nhân trung kiên và nhiệt thành.
(2) Bài đọc 2 (Kh 5,11-14) là lời Thánh Gio-an Tông Đồ kể lại một thị kiến về Con Chiên Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã chịu chết và đã được Chúa Cha tôn vinh.
Trong đoạn thư Kh 5,11-14 trên, chúng ta cũng thấy tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Nhưng ở đây Thiên Chúa Cha đáp ứng một nhu cầu rất quan trọng và thực tế của người tín hữu: Chúng ta biết vào cuối đời của Thánh Gio-an (cuối thế kỷ thứ nhất theo Công Nguyên) thì Hội Thánh ở nhiều nơi đang phải đương đầu với những cuộc bách hại từ các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và vào giáo lý của Người cần được củng cố nơi nhiều cá nhân và cộng đoàn. Thị kiến của Thánh Gio-an có ý nghĩa trấn an và củng cố các tâm hồn.
(3) Bài Tin Mừng (Ga 21,1-19) là tường thuật của Thánh Gio-an về lần hiện ra thứ ba của Chúa Giê-su Phục Sinh. Về lần hiện ra này khung cảnh và nội dung rất khác với hai lần trước. Khung cảnh là một không gian lộng gió (bờ hồ) với mẻ cá lạ và bữa ăn thân mật giữa Thầy và trò bên bếp than hồng. Nội dung là ơn gọi và sứ mạng của các Tông Đồ nói chung và của Tông Đồ Trưởng Phê-rô nói riêng. Bị hỏi những ba lần: “Anh có yêu Thầy hơn…. không?” Phê-rô chẳng vui chút nào nhưng ba lần xác định tình yêu tuyệt đối đối với Chúa Giê-su khiến Phê-rô được giải thoát khỏi mặc cảm tội lỗi của một môn đệ phản (chối) Thầy và nhận lại sứ mạng chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Chúa.
Qua Bài Phúc Âm Ga 21,1-19 chúng ta không thấy tấm lòng yêu thương của Chúa Giê-su đối với các môn đệ nói chung và với Phê-rô nói riêng. Chẳng những Chúa Giê-su cho các ông thấy quyền năng của Người (mẻ cá lạ), mà Người còn thể hiện tấm lòng chăm lo chu đáo và tế nhị của Người (bữa ăn có bánh và cá nướng) đối với các ông. Riêng Phê-rô thì được làm hòa với Chúa và được giao sứ mạng Tông Đồ Trưởng mà Chúa đã dành cho ông ngay từ ngày đầu mới gặp.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được tóm gọn trong một câu hỏi và hai câu ra lệnh của chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh:
Câu hỏi là: “Con có yêu mến Thầy hơn những anh chị em này không?” (Tình yêu dành cho Chúa là cốt yếu của mối liên hệ giữa chúng ta với Chúa)
Hai câu ra lệnh là: “Hãy theo Ta!” và “Hãy chăn chiên của Thầy!” (Đi theo Chúa và chăm sóc anh em là trong cùng một dòng chẩy, một là ơn gọi và một là sứ mạng).
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình dựa vào ba câu hỏi đơn sơ này:
(1) Tôi có thật sự yêu Chúa không? Tôi có yêu Chúa hơn yêu các người khác, các thứ khác không?
(2) Tôi có thật sự theo Chúa không? Tôi theo Chúa để đáp lại Tình Thương và Lời Mời của Chúa hay để được lợi ích vật chất và tinh thần?
(3) Tôi có chăm lo cho tha nhân không? Tôi chăm lo như thế nào cho những người tôi có trách nhiệm (vợ/chồng/concái, giáo dân) và những người nghèo cần sự giúp đỡ của tôi?
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho chúng con ơn đức tin chân thật và vững bền. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn mạnh mẽ và kiên cường trong đức tin để chúng con được sống và được sống dồi dào!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã tôn vinh Con Một Chúa sau khi Người đã hoàn thành chương trình cứu độ của Chúa. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn mạnh mẽ và kiên cường trong sứ vụ mà Chúa đã giao phó cho chúng con, để chúng con hoàn thành sứ vụ ấy một cách tốt đẹp!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho Phê-rô và các Tông Đồ ơn gọi là đi theo Chúa Giê-su Ki-tô và trở thành môn đệ của Người. Chúa cũng ban cho mỗi người chúng con ơn gọi Ki-tô hữu là đi theo Chúa Ki-tô, trở thành môn đệ của Chúa Ki-tô. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn trung kiên và quảng đại trên hành trình theo Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã ban cho Phê-rô và các Tông Đồ sứ mạng cao cả là phục vụ anh em đồng loại là chiên của Chúa. Chúa cũng mời gọi chúng con cùng với Chúa chăm lo cho tha nhân. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn biết quên mình phục vụ những người chúng con có trách nhiệm và những người nghèo cần đến chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 11.04.2007.
Một thương gia tại Chicago có thói quen tốt đẹp như sau, đó là mỗi tuần ít là một lần, ông chọn: PS3-C54
Một thương gia tại Chicago có thói quen tốt đẹp như sau, đó là mỗi tuần ít là một lần, ông chọn dăm bảy em nhỏ của những gia đình nghèo, cho chúng một bộ đồ mới rồi dẫn chúng đi ăn và xem trình diễn văn nghệ. Lần kia, sau bữa ăn thịnh soạn, một em bé tám tuổi đã hỏi:
- Thưa ông, ông có phải là Chúa Giêsu hay không ?
Chúng ta đã từng nghe nói: Người khác, nhất là những kẻ đau khổ, nghèo túng và bất hạnh, chính là Đức Kitô.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu cũng đã xác quyết như thế:
- Những gì các con làm cho người anh em bé mọn nhất là các con đã làm cho Ta.
Tuy nhiên, trong giây phút này, tôi muốn đảo ngược lại một chút xíu như sau:
- Những ai làm điều lành cho chúng ta, thì họ là những người thay mặt cho Đức Kitô hay nói một cách mạnh mẽ hơn, họ chính là Đức Kitô cho chúng ta, bởi vì Ngài thường làm điều lành cho chúng ta nhờ người khác.
Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy: Chúa Giêsu đã dọn bữa điểm tâm cho các tông đồ và sau đó, các ông nhận ra Chúa.
Từ những ý tưởng trên, chúng ta đi vào cuộc sống cụ thể. Chẳng hạn, khi một bà mẹ nấu cơm và dọn bữa, chúng ta có biết rằng bà đang đứng vào địa vị của Chúa Giêsu hay không ? Khi bà giặt giũ, may vá hay quét nhà, có bao giờ chúng ta nghĩ rằng Chúa đang làm những việc ấy cho chúng ta qua bàn tay của người mẹ hay không ?
Cũng thế, qua những lao động vất vả và cực nhọc của người cha, của người anh, của người chị, Chúa cũng đang cung cấp cho chúng ta cơm để ăn, áo để mặc và nhà để ở cùng với những nhu cầu cần thiết khác, để duy trì và phát triển sự sống.
Chị lái đò nơi bến sông, người bán hàng trong cửa tiệm, anh cảnh sát ngoài đường phố, thày cô trên bục giảng… tất cả đều làm cho chúng ta những việc tốt lành. Ơn phúc ấy, từ Đức Kitô đến được với chúng ta qua bàn tay của họ. Chân lý đó, sự thật đó, còn đúng hơn nữa trên bình diện thiêng liêng.
Thực vậy, với Bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu trả lại cho chúng ta địa vị làm con Thiên Chúa qua hành động của vị linh mục. Với Bí tích Giải tội, Chúa Giêsu tha thứ tội lỗi chúng ta qua lời đọc của vị linh mục. Với Bí tích Xức dầu, Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta sức mạnh phần hồn cũng như sức mạnh phần xác qua việc làm của vị linh mục và trong giây phút này đây, với Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đang dọn cho chúng ta một bữa tiệc thiêng liêng qua bàn tay của vị linh mục và với thánh lễ cử hành Chúa Giêsu đang dạy bảo chúng ta qua môi miệng của vị linh mục.
Và như thế, chúng ta thấy: mỗi khi chúng ta làm một việc tốt cho người khác, thì chúng ta trở nên như là Đức Kitô cho họ, hay nói cách khác, chúng ta trở nên người thay mặt, người đại diện của Đức Kitô ở giữa họ.
Tuy nhiên, có một điều chúng ta cũng cần lưu ý, đó là sau khi dọn bữa cho các tông đồ, Ngài đã hỏi Phêrô:
- Con có yêu mến Thày không ?
Với chúng ta cũng vậy, mỗi lần Ngài làm điều gì tốt cho chúng ta qua người khác, chúng ta cũng hãy thưa lên với Ngài:
- Lạy Chúa, con yêu mến Chúa.
Để kết luận, chúng ta nhớ rằng: mỗi khi chúng ta giúp đỡ ai, dù là việc đơn sơ nhỏ bé, thì đó cũng chính là chúng ta đã làm cho Chúa, đồng thời, chúng ta cũng thay Chúa mà làm cho họ.
Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, chờ Người: PS3-C55
Theo lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, chờ Người ở Galilê. Các ông là những người rất tích cực, không khoanh tay ngồi chờ, các ông trở lại với công việc hằng ngày. Trong khung cảnh tâm lý chất phác thực tế ấy, Chúa bất thần hiện đến với các môn đệ giữa lúc các ông đang đánh cá. Một cách rất tự nhiên, không cần dùng những lời tuyệt diệu thích hợp với khung cảnh thi vị của bình minh đang lên, Chúa hỏi các ông có cá để ăn không? Gioan là người đầu tiên nhận biết chính Chúa đấy. Một cuộc đối thoại diễn ra giữa Chúa và các môn đệ, lời lẽ đơn sơ nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta để ý đến cách xử sự tế nhị của Chúa Giêsu. Người đốt than, nướng cá, dọn bánh và một lần nữa nói chuyện với các môn đệ trong một bữa ăn thân mật. Có lẽ tế nhị hơn nữa là khi Chúa hỏi lấy thêm cá của các ông mặc dầu Người có sẵn. Chúa làm vậy ngõ hầu nỗ lực và niềm tin của các ông tìm được phần thưởng khi kết hợp với ân huệ Chúa. Về phần Phêrô, chúng ta cần nhấn thêm vào một chi tiết trong bài Tin Mừng và những lời nói của Thầy.
1) Chi tiết được truyền thống Kitô giáo ưa thích làm nổi bật là sự kiện Phêrô vội vàng nhảy xuống biển bơi chừng trăm thước để vào bờ gặp Thầy. Chúng ta ghi sơ qua rằng bơi được quãng ấy chắc chắn phải là người rất tỉnh táo. Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu. Phêrô là người đầu tiên gặp Chúa Giêsu. Trong Giáo Hội là như vậy. Rất nhiều phen, tiến bộ về học thuyết và sáng kiến về đức tin sống thật sự đều xuất phát từ những Kitô hữu nhận được ân huệ thấu triệt trong khi tìm kiếm chân lý và ân huệ nhiệt thành trong khi thực thi bác ái. Họ thuộc hàng ngũ tiên tiến. Họ tường trình sự việc với Phêrô. Thuyền trưởng Phêrô, hay vị kế thừa ngày nay, tường trình với Chúa. Chính Phêrô bảo đảm cho tính chất chân truyền của hành động. Phêrô là người chịu trách nhiệm quyết định.
2) Những lời Thầy nói với Phêrô đã có tiếng vang mới nhất mấy năm gần đây trong Công Đồng Vaticanô II. Chúa Giêsu lựa chọn một số người ‘lập thành các tông đồ, tổ chức họ thành một cộng đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững. Chúa chọn Phêrô, một người trong nhóm, làm đầu cộng đoàn’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, 19). ‘Trong số mười hai tông đồ, Chúa chọn Phêrô và công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin… Sau khi ông tuyên xưng tình yêu đối với Người, Chúa trao phó toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt trong hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy Chúa Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc và chủ chăn linh hồn chúng ta’ (Sắc lệnh về Hiệp Nhất, 2). Đối với những ai am hiểu lịch sử cận đại Giáo Hội, thấy nổi lên một sự thật hiển nhiên khích lệ là mầu nhiệm Phêrô bảo đảm cho sự vững bền đức tin và củng cố anh em ông (các vị giám mục) trong đức tin – mầu nhiệm này đang hoàn tất trước mắt chúng ta.
Với mẻ lưới lạ lùng của Đấng Phục Sinh, Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ về tinh túy của: PS3-C56
Với mẻ lưới lạ lùng của Đấng Phục Sinh, Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ về tinh túy của đức tin là sự vâng phục yêu thương, và cuộc sống tin yêu ấy phải thể hiện qua việc phục vụ.
Theo lời Chúa dặn, các môn đệ quay về Galilê, Chúa hứa sẽ gặp họ tại đây. Trong lúc họ đợi Chúa hiện ra thì bảy người trong nhóm họ quay về với nghề cũ là đánh cá. Sau một đêm mệt nhọc vô ích, sáng sớm hôm sau họ thấy Chúa Giêsu đứng trên bờ hồ nhưng họ không nhận ra Ngài. Theo lời Ngài bảo họ thả lưới xuống và lạ lùng thay họ được một mẻ cá rất lớn. Lập tức Gioan nhận ra sự hiện diện của Chúa. Phêrô vội vàng nhảy xuống nước lội vào bờ để gặp Chúa ngay, còn những người khác đi theo thuyền mà vào. Khi bước lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa, không ai dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Bởi sự xuất hiện bất ngờ ấy, cũng như những lần hiển hiện khác sau khi phục sinh, Chúa Giêsu giúp cho các môn đệ dễ tin điều Ngài phán với họ về sự hiện diện liên tục của Chúa Thánh Thần với họ trong thời gian sắp đến. Bài học đầu tiên của đoạn này, là sứ điệp về sự hiện diện liên tục của Chúa Kitô với tất cả các môn đệ qua mọi thời đại. Đôi khi, sau những giờ dài đằng đẵng cô đơn và khó nhọc, hay những đêm trường tối tăm mệt mỏi, chúng ta cần nhớ lại lời hứa của Chúa chúng ta, nhận biết sự hiện diện của Ngài, ta tìm được bình an, vui mừng và hy vọng, để đón chờ ánh rạng đông của một ngày mới sáng lạn.
Tuy nhiên, sứ điệp chính yếu của bài Tin Mừng này là sự phục vụ Đức Kitô.
Mẻ cá lạ lùng này không thể lầm lẫn với phép lạ Chúa làm khi bắt đầu chức vụ. Tuy nhiên phép lạ này có thể nhờ phép lạ trước làm sáng tỏ ý nghĩa. Sau phép lạ lần trước Chúa bảo các môn đệ: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những tay đánh lưới người”. Lần này Chúa thấy không cần phải nói lên ý nghĩa đó nữa, nhưng chắc chắn họ hiểu rằng Chúa kêu gọi họ theo Chúa là để trao cho họ nhiệm vụ đi cứu người đời. Mỗi người môn đệ, mỗi Kitô hữu đều phải chú tâm vào công tác chinh phục người đời về cho Chúa Kitô. Cơ hội và tài năng tuy có khác nhau nhưng tất cả đều nhằm phục vụ việc đánh lưới người.
Tuy nhiên, qua biến cố này, Chúa cũng dạy chúng ta về sự hiện diện liên tục của Chúa, lúc nào Chúa cũng sẵn sàng hướng dẫn chúng ta, và chúng ta phải phụ thuộc vào sự hướng dẫn ấy nếu chúng ta muốn thành công. Những tay đánh lưới chuyên nghiệp này đã vất vả suốt đêm mà không được gì, nhưng Chúa bảo: “hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Họ vâng theo, và lưới đầy cá. Biết bao lần chúng ta cần một lời hướng dẫn của Thầy chúng ta!
Biến cố này còn chứng tỏ chúng ta phụ thuộc vào quyền năng Chúa khi làm việc cho Chúa. Không những ta có thể cắt nghĩa phép lạ ấy trên bình diện là Chúa Giêsu biết chỗ tốt nhất để đánh lưới, nhưng đúng hơn ta có thể giải thích rằng mọi sự đều phục tùng Chúa kể cả “cá và các vật trong biển”. Trong khi phục vụ Chúa, chúng ta được khích lệ vì tin rằng Ngài nắm mọi quyền “trên trời và dưới đất”.
Rồi câu chuyện cũng cho chúng ta thấy sự tiếp trợ Chúa ban cho các tôi tớ của Ngài, chẳng những chúng ta có thể cậy nhờ quyền phép của Ngài để làm việc mà còn có thể nhận được ân điển cần thiết cho linh hồn và thể xác chúng ta. Khi các môn đệ vào bờ, họ đã thấy có sẵn bánh và cá nướng để ăn, sự dự bị này làm tăng ý nghĩa của mẻ cá lạ lùng kia. Mẻ cá ấy có đến 153 con cá lớn, như vậy họ được Chúa dự bị cho tương lai cũng như hiện tại. Là tôi tớ phục vụ cho Chúa, chúng ta sẽ nhận được đầy dẫy ơn của Người và ơn lại càng thêm ơn.
Trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô, chúng ta có một huấn thị đầy đủ hơn về tính chất của việc phục vụ. Ở đây, Phêrô được Chúa ủy nhiệm ba điều: hãy chăm sóc chiên con của Thầy, hãy chăn dắt chiên của Thầy, hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Chẳng những phải cứu người bằng việc thả lưới Phúc Âm, đem họ về cùng Chúa Kitô, nhưng cũng cần hướng dẫn kẻ tin trong con đường chân lý, chăn giữ họ bằng sự săn sóc ân cần, và cho họ của ăn Lời Chúa. Có một số Kitô hữu được ủy thác nhiệm vụ này nặng hơn những kẻ khác, nhưng không ai lại không có phần trong chức vụ ân phúc này. Một sứ điệp đặc biệt hơn liên quan đến việc ủy nhiệm cho Phêrô, nhưng qua đó cũng cho tất cả mọi người chúng ta. Sứ điệp ấy cho ta biết hình thức phục vụ không quan trọng bằng động lực thúc đẩy sự phục vụ: đó là tình yêu tuyệt đối đối với Chúa Kitô. Phêrô đã chối Chúa, ông đã từ bỏ địa vị tông đồ của mình. Sau khi phục sinh, Chúa đã hiện ra riêng với Phêrô và chắc chắn đã ban ơn tha thứ cho người môn đệ ăn năn. Nhưng bây giờ Ngài sắp công khai phục chức cho ông, và trước khi làm việc ấy Ngài muốn nghe Phêrô nói rõ lòng yêu thương sùng mộ của ông đối với Ngài. Chúa hỏi ba lần, mỗi lần đều tiếp theo một mệnh lệnh phục vụ. Chắc Chúa muốn nhắc cho ông nhớ lại ba lần ông đã chối Ngài và một lần ông khoe khoang về tình yêu tột bậc của ông đối với Chúa trước đó: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Chúa hỏi câu đó để nhắc lại cho Phêrô vì ông đã tự phụ rằng ông sẽ theo Chúa Giêsu đến cùng dầu cho tất cả các tông đồ khác bỏ Chúa. Trong câu trả lời Phêrô xác nhận tình yêu của mình, nhưng nhớ lại sự sa ngã, ông không dám dùng từ mạnh mẽ như Chúa: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ông không xưng nhận là mình có tình yêu đầy đủ trọn vẹn, ông cảm biết hành động chối Chúa đã hạ giá tình yêu ấy, nhưng khi nhìn vào tận đáy lòng mình ông không thể nào chối bỏ được lòng kính mến cao cả và chân thật đối với Thầy mình. Chúa bảo ông: “Anh hãy chăm sóc chiên con của Thầy”.
Bây giờ Chúa đổi câu hỏi của Ngài lại, Ngài tránh lời quở trách sự khoe khoang của Phêrô, nên chỉ hỏi: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”. Cũng như lần trước Phêrô dùng chữ “yêu mến” của ông nhún nhường hơn chữ Chúa dùng, và một lần nữa ông làm chứng rằng Chúa biết rõ tâm can của ông: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chúa phán: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Chúa Giêsu lại đổi cách hỏi của Ngài, lần này Ngài dùng chữ “yêu mến” mà Phêrô đã dùng, và hình như có ý hỏi rằng có thật yêu Ngài dầu là với một niềm sùng mộ bất toàn như thế chăng? Phêrô buồn vô cùng vì chẳng những vì Chúa hỏi đến ba lần mà cũng vì Chúa đã thay đổi cách hỏi nữa. Ông không thể nào chối bỏ nhận thức của mình, dầu ông đã có lần chối Chúa; ông biết rằng ông yêu Chúa, và không thể nào làm gì hơn là xác nhận tình yêu ấy, và lần này ông lại xác quyết sự hiểu biết sâu kín của Chúa Giêsu, ông nhấn mạnh điều ấy trong câu: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phải, Chúa biết, chính vì đó Ngài lập lại lần thứ ba mệnh lệnh của Ngài: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.
Chúng ta cũng vậy, có thể chúng ta đã chối Chúa bằng lời nói hay hành động, nhưng nếu chúng ta thật lòng ăn năn, nếu trong thâm tâm chúng ta còn có tình yêu chân thật đối với Chúa Giêsu, thì chúng ta không còn lưỡng lự, với một lòng trông cậy, khiêm tốn, chúng ta hãy bước vào công việc phục vụ mới mẻ cho chính nghĩa của Chúa.
CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ
Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Chúa: PS3-C57
Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Chúa Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.
Hành vi không bình thường
Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Chúa Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.
Mẻ cá lạ giúp Yoan nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.
Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Yoan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?
Cách hành xử của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Chúa Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Chúa Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.
“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.
Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Chúa Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.
Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.
Số phận và thái độ cần có của con người
Sau bữa ăn, Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.
“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Chúa Giêsu đã phục sinh!
2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?
Những bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh hướng: PS3-C58
Những bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội, cộng đoàn những kẻ tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Rỗi. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người, là sự dấn thân của con người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng cho Chúa và thông truyền cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giải hòa con người với Thiên Chúa và với nhau.
Nơi bài đọc thứ nhất từ sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ vừa nói trên. Bị những vị lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu rỗi, bị những vị lãnh đạo uy quyền này của dân Do Thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa. Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người. Thiên Chúa, Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại. Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài và làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế, để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tuân phục Chúa, chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng."
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng của thái độ can đảm này, thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô và sự thật cứu rỗi của Người. "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người", đọc và suy nghĩ về lời này của thánh tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh mà chính thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những vị lãnh đạo dân Do Thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền và họ là những vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái cùng với quyền lãnh đạo dân Do Thái; Khi những vị lãnh đạo Do Thái này lạm dụng quyền hành của họ để xen vào việc tôn giáo, việc các tông đồ làm chứng Chúa Kitô Phục Sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo. Khi các vị lãnh đạo Do Thái lạm dụng quyền hành của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải có một trong hai thái độ hoặc theo Chúa Giêsu Kitô, hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do Thái, thì lúc đó, thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Giêsu Kitô, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo chứ không phải là lời kêu gọi dân chúng nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị.
Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ cho những tội lỗi, những tật xấu, những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo ngôn ngữ ngày nay, được hưởng sự tự do như đáng được, thì các ngài đâu cần phải xác nhận là phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người.
Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế chỗ của Thiên Chúa được? Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này, làm sao chúng ta có thể nói mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội, để sống đúng phẩm vị con người, sống như là những con cái của Thiên Chúa, và như là anh chị em với nhau? Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và được khuyến khích để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa, và cuối cùng, sau hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, hay một trăm năm, sẽ trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái độ của các tông đồ được trình bày trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. "Chúng tôi và Thánh Thần", không phải riêng tự sức các tông đồ nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Ơn Chúa không thiếu, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?
Bài Phúc Âm cũng kể lại biến cố Chúa hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống thường nhật trước khi được Chúa gọi, trở về nghề chài lưới. Chúa đến để củng cố sự dấn thân của họ và chúng ta biết rõ điều gì đã xảy ra cho các tông đồ. Chúa đến củng cố các ngài bằng một phép lạ và một bữa ăn. Bữa ăn bổ sức trong tình thân thiết Thầy trò, để các tông đồ có sức mạnh và niềm vui mà chu toàn sứ mạng đã lãnh nhận. Bài Phúc Âm hôm nay mang đến cho chúng ta niềm vui mừng và củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào Giáo Hội Chúa vì những lý do sau đây:
Chúa Kitô Phục Sinh không từ bỏ các môn đệ, những kẻ cách này hay cách khác đã vấp ngã trong thử thách Chúa đã trải qua, tức cuộc khổ nạn và chết của Chúa trên thập giá. Chúa sống lại không quở trách các ông mà ngược lại đã ban cho các ông bình an và niềm vui: "Bình an cho các con", như thể Chúa đã nói: "Thầy không chấp những lỗi lầm của các con đã bỏ Thầy, Thầy tha thứ cho các con, và hơn nữa, ban ơn Thánh Thần để đổi mới các con, cho các con được kiên vững trong tình yêu Thầy, để luôn luôn có sự bình an giữa sự thử thách".
Hơn nữa, như trong Phúc Âm ghi lại Chúa Giêsu thực hiện phép lạ mà chính Chúa đã thực hiện khi kêu gọi các tông đồ lần đầu tiên, phép lạ lưới được nhiều cá, và làm như vậy, các tông đồ hiểu rằng Chúa Phục Sinh mời gọi họ, tiếp tục mời gọi họ theo Ngài mặc cho những lỗi lầm của họ. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đóng góp phần của mình trong Giáo Hội và Chúa không bao giờ từ bỏ chương trình Ngài đã định.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được bình an và niềm vui. Xin thương đổ tràn Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con cho chúng con được củng cố trong đức tin và trung thành trong sứ mạng đã lãnh nhận.
Năm 2004, báo chí trên thế giới đưa một tin vừa cảm động vừa buồn cười: ở trong rừng sâu Phi: PS3-C59
Năm 2004, báo chí trên thế giới đưa một tin vừa cảm động vừa buồn cười: ở trong rừng sâu Phi Luật Tân, người ta bắt gặp một anh lính Nhật sống sót từ thời thế chiến thứ hai. Trước hết, anh không tin chiến tranh đã kết thúc và nước Nhật đã đầu hàng; thứ đến, không ai có thể nói anh ta bỏ vũ khí được, vì chưa có lệnh của cấp trên trực tiếp, tức là trung úy đại đội trưởng của anh từ... 60 năm trước. May mắn thay, vị trung úy ấy vẫn còn sống, bay sang gặp và ra lệnh, lập tức anh ta chấp hành ngay, dù khóc nức nở khi biết chắc nước Nhật của anh ta đã bại trận. Người lính chiến trao phó thân xác cho đất nước, qua việc phục tùng cấp trên.
Ngày trước, những nước có chương trình huấn luyện đào tạo sĩ quan theo khuôn mẫu của Pháp hoặc Mỹ, đều có từ một tuần tới một tháng huấn luyện đặc biệt, gọi là “huấn nhục” ở đầu mỗi khóa. Trong thời gian đó, tân sinh viên chỉ biết nhắm mắt tuân lệnh, những mệnh lệnh khắc nghiệt, kỳ quái và phi lý nhất ( không loại trừ ác ý, đùa dai và chơi khăm ), bất kể ngày đêm, không phải do các sĩ quan giáo viên, mà do chính các đàn anh các lớp trên, theo kiểu “lính buổi mai cai lính buổi hôm”. Các tân sinh viên phải cúi đầu vâng phục, cấm mọi hình thức phản đối và phản kháng. Họ mụ mị, có lúc cảm thấy mình bị đối xử như một con vật và chỉ biết cắn răng phục tùng và thực hiện, nếu không muốn bị đối xử tàn tệ hơn. Từ năm sau, đến lượt họ “làm vua” và hành hạ lớp đàn em. Có như vậy, ra chiến trận, họ mới biết quên mình, tuân phục các mệnh lệnh hành quân của cấp trên, dù lắm khi không hiểu hoặc thấy không phù hợp. Trung thành và chấp hành mệnh lệnh là quy tắc sống còn của quân đội.
Hôm nay, Tin Mừng chương cuối cùng của Thánh Gio-an giới thiệu cho chúng ta một cảnh rất quen thuộc của “tinh thần Gio-an”: đề cao địa vị, vai trò và quyền chỉ huy của vị Tông Đồ Cả Phê-rô, mặc dù nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng chương này không phải do Thánh Gio-an viết. Hình ảnh thích hợp nhất của ngày hôm nay, với mẻ cá lạ thứ hai và cuối cùng, là NGÀY BẾ GIẢNG, trong khi mẻ cá đầu tiên trong Phúc Âm Thánh Lu-ca ( Lc 5, 1 – 15 ) là NGÀY KHAI GIẢNG. Chúa Giê-su đã không cần chờ gọi cho đủ mười hai Tông Đồ, để “khai giảng”, thì Người cũng chẳng đợi cho tất cả hiện diện để “bế giảng”, nhưng ai khác có thể vắng mặt được, riêng “lớp trưởng” Phê-rô không thể thiếu và được nêu danh đầu tiên.
Và nếu trong các lễ tốt nghiệp đào tạo, sĩ quan thủ khoa thường được gắn lon vượt đồng đội một cấp, thì ở “lễ bế giảng” cũng là ngày tốt nghiệp hôm nay, Phê-rô cũng đã được xét đủ điểu kiện để làm đầu anh em, thay mặt Thầy coi sóc anh em và mọi chiên, cừu mà Thầy giao cho. Từ đó, nhất là từ sau khi Chúa Giê-su về trời, sự kính trọng và vâng phục của anh em đối với Phê-rô là điều nỗi bật và dễ nhận thấy nhất. Điều đó tạo ra hai trong bốn nét chính và đặc thù của Giáo Hội Công Giáo: duy nhất, tông truyền. Điều này nói lên sự trưởng thành tâm lý và đức tin vượt bực của các Tông Đồ, vì nếu chỉ xét về mặt nhân loại, thì Phê-rô không có nhiều tiêu chuẩn để có thể được anh em tin cậy, phục tùng. Cha ông Việt Nam nói: tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại. Phê-rô thì có gì xấu xa, khuyết điểm, đều đã phô bày ra hết !
Không phải vô tình mà phụng vụ Giáo Hội đặt Chúa Nhật hôm nay giữa hai Chúa Nhật đặc biệt có ý nghĩa, là Chúa Nhật lòng Chúa Xót Thương ( Chúa Nhật II Phục Sinh ) và Chúa Nhật Chúa Chiên Lành ( Chúa Nhật IV Phục Sinh ): Chúa Giê-su muốn cho mỗi Ki-tô hữu, nhất là các chủ chăn trong Giáo Hội, thấm nhuần lòng thương xót của Chúa, để khi nhìn thấy tha nhân bằng con mắt đức tin và hiểu được thế nào là khiêm nhường, vâng phục, hiệp nhất cùng với Đức Giáo Hoàng, mỗi người sẽ làm tròn bổn phận “chủ chăn” của mình: Giám Mục và Linh Mục đối với Giáo Dân; vợ chồng đối với nhau và đối với con cái; v..v...
Đau khổ trong cuộc sống, bất bình khi bị hiểu lầm, bực bội lúc không đúng ý, ... tất cả đều cần thiết cho chúng ta, như một “huấn nhục”: đức tin chúng ta sẽ được lớn mạnh và củng cố, nếu chúng ta hiểu những bài học khiêm nhường, hy sinh, vâng lời và yêu thương mà Chúa Giê-su dạy chúng ta, dùng để đào tạo chúng ta; ngược lại, chúng ta sẽ mất đức tin, nghi ngờ, kiêu ngạo, ưa phê phán và chỉ trích với một tinh thần phá hoại và tiếp tay cho Xa-tan chống đối Giáo Hội. Trong Giáo Hội mọi thời, nhất là hiện nay, rất nhiều người thừa thông thái, dư khả năng lý luận và ngôn ngữ, nhưng lại vô cùng thiếu khiêm nhường, vì thế họ đã gây cho Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng biết bao đau khổ, gieo rắc biết bao nọc độc hoả ngục.
Không thể có chân lý nơi những người Công Giáo chống lại Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô. Nếu chúng ta chưa thông suốt và xác tín điều này, thì không thể nào tiến vào phụng vụ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành được, Vị Chúa Chiên “vốn là Thiên Chúa, không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa, song đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm, sống như người trần, hạ mình VÂNG PHỤC cho đến chết và chết trên thập tự giá” ( Pl 2, 6 – 8 ).
Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Sử Gio-an muốn “để trống” danh tính của hai môn đệ. Khó có thể cho rằngThánh Gio-an quên tên của hai người bạn, trong khi cả thảy chỉ có năm ông cùng “hai người đó”. Chính là thâm ý của Thánh Sử muốn cho mọi người tự ghi tên mình vào chỗ trống đó, có nghĩa là khi Phê-rô đi đánh cá, cũng có “họ” và tất cả những gì xảy ra hôm nay – Chúa Giê-su hiện đến; mẻ cá lạ; việc chính thức đặt Phê-rô làm đầu Giáo Hội – đều có sự “hiện diện” của chúng ta, IN VISU, có thể về cả mặt con mắt giác quan ( như khi tôn thờ và rước Mình Máu Chúa ), nhưng chắc chắn là với con mắt đức tin. Vì vậy, sứ mệnh rao giảng nhận từ Chúa Giê-su và sự vâng phục mặc nhiên nhưng tuyệt đối đối với Phê-rô, trở thành bản chất của Ki-tô hữu. Thiếu nó hoặc làm sai, tức là chúng ta tự tách mình khỏi Giáo Hội và khỏi lẽ sống, nghĩa là khỏi ơn cứu độ.
Nay thì con hiểu được vì sao Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba với lời mời gọi tha thiết, mà Người không ngừng lập đi lập lại trong nhiều dịp, với nhiều giới: “Ước chi tâm hồn anh em có thể nghe được mỗi ngày tiếng vọng lời hiệu triệu của Đấng Cứu Chuộc: ‘Duc inaltum !’. Đó là một lời mời gọi thả những “tấm lưới cá thiêng liêng ”trong biển thế gian”. Phê-rô đã gọi. Mọi người – con số 7 hoàn hảo mà Thánh Gio-an đề cập hôm nay – đã lên đường, đã ra khơi, mà hành trang đầu tiên và quan trọng nhất là thập tự giá của Chúa. Ý nghĩa của Thánh Giá thì ai ai cũng hiểu: KHIÊM HẠ và VÂNG PHỤC.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu 46
HƠN LÀ VÂNG LỜI NGƯỜI TA
Theo dõi chu kỳ Phụng Vụ, từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: PS3-C60
Theo dõi chu kỳ Phụng Vụ, từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, xuyên suốt các Chúa Nhật Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ các Tông Đồ.
Sách Công Vụ các Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhấtcủa Ki-tô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Ki-tô giáo ở Pa-les-tina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Sy-ri-a, Tiểu Á, Hy Lạp và Rô-ma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Sách Công Vụ các Tông Đồ được trích đọc trong mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta thấy Hội Thánh Chúa Ki-tô đã thiết lập từ những buổi sơ khai cho tới lúc trở thành một Tôn Giáo Quốc Tế, được lan tràn khắp các dân tộc, không phân biệt mầu da tiếng nói... Đó là công trình của Chúa Thánh Thần, "Đấng được sai đến để làm chứng về Chúa Ki-tô" ( Ga 16, 26 ).
Bối cảnh của bài đọc 1 hôm nay là câu chuyện phép lạ người què, vốn ngồi ăn xin của bố thí tại Cửa Đẹp Đền Thờ mà ai cũng biết, nay được chữa lành, khiến mọi người bỡ ngỡ, cảm phục và đổ xô đến với Phê-rô và Gio-an. Thánh Phê-rô đã thẳng thắn tuyên bố với họ: "Tại sao anh chị em ngạc nhiên về việc đó, và tưởng như chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người què này đi được ? Thiên Chúa của Ab-ra-ham, I-xa-ac, Gia-cóp đã làm vinh danh Đức Giê-su Ki-tô Con của Ngài, Đấng anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt Phi-la-tô, trong khi Phi-la-tô xét là phải tha cho Người. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha cho tên sát nhân, còn Đấng ban sự sống thì anh chị em lại giết chết. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Chính lòng tin vào Người đã chữa anh què này hoàn toàn được lành mạnh".
Kết quả thứ nhất của việc chữa lành người què và bài giảng của Phê-rô về Chúa Giê-su Phục Sinh là ông và Gio-an bị bắt do lệnh của các thế lực đền thờ: tư tế, lãnh binh, và nhóm Sa-đu-cê-o. Hai ông bị tống ngục qua một đêm. Ngày hôm sau bị giải ra toà án tôn giáo Do Thái. Phê-rô lại có cơ hội rao giảng Chúa Giê-su Phục sinh. Sự thông thái uyên bác của ông làm cho hội đồng ngạc nhiên. Công vụ ghi lại: "Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phê-rô và Gio-an mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giê-su" ( CV 4, 13 ).
Kết quả thứ hai là nhiều thính giả đã tin vào sứ điệp của hai ông: "Nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng 5.000." ( CV 4, 4 ) Trong một thành phố chỉ khoảng 40.000 dân thì số 5.000 quả là ấn tượng. Tỷ lệ là 1/8. Tức cứ 8 người thì đã có một người tin theo lời của Phê-rô và Gio-an. Tỷ lệ này ngày nay chúng ta không thể đạt được.
Như thế việc Đức Ki-tô sống lại đã biến đổi các Tông Đồ một cách ngoạn mục. Mới mấy ngày trước các ông còn run sợ người Do thái, đóng kín cửa khi hội họp cầu nguyện. Bây giờ tuyên bố mình là nhân chứng. CácTông Đồ rao giảng Chúa Giê-su Phục Sinh với tất cả sự can đảm. Các Tông Đồ loan truyền Giáo Lý của Người bất chấp mọi đàn áp. Những người cầm quyền Do Thái không cho, bắt các ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an.
Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giê-su. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các ngài và bảo: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giê-su mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giê-ru-sa-lem" ( Cv 5, 28 ).
Bấy giờ Phê-rô và các Tông Đồ thưa: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta" ( Cv 5, 29 ). Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các Tông Đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giê-su mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan, vì thấy mình xứngđang chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giê-su.
Bài học quí giá đó của các Tông Đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế lực cố ý tiêu diệt, hạn chế, gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các Tông Đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại, lòng các ngài cảm thấy hân hoan, vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh Chúa Ki-tô, đường lối của các Tông Đồ thật rõ ràng.
Bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng lời Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản trở những bước chân rao giảng của các ngài.
"Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Khi phải vâng lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em được tự do tôn thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa.
"Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Nhất là khi người đó lại là cáo già đội lốt cừu non đến cùngđoan chiên, như Chúa Giê-su đã chỉ dạy trước. Trong công việc phụng thờ Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bị đàn áp, bị bách hại, người vâng lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi lòng. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giê-su, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi. Các Tông Đồ đã trở nên nhân chứng Tin mừng Phục sinh vì vâng lời Thiên Chúa.
"Chính anh em là chứng nhân về những điều này" ( Lc 24, 48 ). Khi hai môn đệ trở về từ Em-mau kể lại việc họ đã gặp Chúa sống lại và đã nhận ra Ngài lúc bẻ bánh và đang được mọi người nói cho hay Chúa cũng hiện ra với Si-mon thì bỗng nhiên Chúa xuất hiện, cắt ngang câu truyện của họ. Mọi người ngạc nhiên, sửng sốt và sợ hãi. Chúa khiển trách họ cứng lòng tin. Ngài cho họ xem các thương tích để minh chứng Ngài đã sống lại và đang sống bằng thân xác mà họ đã thấy khi họ theo Ngài. Cũng thân xác ấy đã chịu đóng đinh. Tuy nhiên sự bất ngờ quá sức họ chịu đựng và hiểu được. Ngài thấy rõ tình thế, cho nên ăn một mẩu cá nướng để họ vững tin hơn: Chính Ngài chứ không phải bóng ma. Cuối cùng thì họ vui mừng vì được gặp lại Thầy. Rồi Chúa Giê-su đã giải thích Kinh thánh và bẻ bánh để mở mắt cho các ông. Chúa Giê-su sai họđđi làm chứng "về những điều họ thấy tận mắt".
Tất cả các Tông Đồ ra đi tuyên xưng mình chính là nhân chứng về cái chết và sống lại của Chúa trước đám đoâng. Vaäy thì một nhóm người, quê mùa, dốt nát, nhát đảm, đóng kín cửa vì sợ, bỗng nhiên trở nên mạnh dạn, liều thân làm chứng Chúa đã phục sinh, không phải là dấu chỉ hay sao ? Từ thái độ ẩn trốn, rút lui, lúc này họ bước ra công khai và can đảm đó không phải là một sự thay đổi lớn hay sao ?
Vì vậy, chúng ta phải tin rằng ở Giê-ru-sa-lem, hơn hai ngàn năm trước, đã xảy ra một phép lạ lớn lao, biến đổi các môn đồ Chúa Giê-su từ những người mà hội đồng Do Thái tuyên bố là "không chữ nghĩa, thuộc tầng lớp cùng đinh" thành những con người can đảm và uyên bác. Họ bung ra rao giảng và ăn nói mạnh bạo, thông thái không kém các kinh sư, triết gia. Quyền năng họ nhận được ở "căn phòng trên lầu" thúc đẩy họ công bố sứ điệp biến đổi toàn thể loài người. Đức Giê-su đã chết, nay còn đang sống và ơn tha thứ đã được ban cho "mọi quốc gia".
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: "Chúng tôi xin làm chứng". Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: "Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe".
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giê-su.
Sau 12 Tông Đồ, đã có biết bao lớp Tông Đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giê-su. Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói: "Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân". Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Ki-tô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Anh chị em nghĩ sao về câu nói: "Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giê-su là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công Giáo tôi gặp, họ không thực hiện bác ái Đức Ki-tô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công Giáo chứ không phải là người Công Giáo thực sự".
Chúng ta có vào số những người Công Giáo đó không ? Chúng ta có phải là một Tông Đồ, một chứng nhân cho Chúa không ?
Lm. Giu-se NGUYỄN HỮU AN, Giáo Phận Phan Thiết
Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào: PS3-C61
Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.
Sau bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài ở trần gian, Ngài muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Đồng thời Ngài cũng muốn sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài ba lần trong cuộc thương khó. Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành, bằng cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài.
Như thế, Phêrô và những đấng kế vị ông trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa. Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất, chúng ta hãy lắng nghe và ngước nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc sống vĩnh cửu. Giông tố có thể nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, bởi vì ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để chúng ta nhận ra con đường phải đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao giờ bị sóng nước vùi dập.
Sau khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô được biết: Một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói: Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa.
Qua dòng thời gian, biết bao nhiêu vị tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao nhiêu người đang âm thầm chịu đựng những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng cho đức tin của mình. Những người này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị em đang gặp phải những gian nan thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong niềm tin của mình.
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc: PS3-C62 FB
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.
Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.
Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.
Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?
3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?
Cũng như các lần trước, Chúa Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ. Lúc: PS3-C63
Cũng như các lần trước, Chúa Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ. Lúc đầu họ chưa nhận ra Ngài. Phải có một lời nói hay một dấu chỉ gì của Chúa có liên hệ với kinh nghiệm trước kia của họ, họ mới giác ngộ và nhận ra sự hiện diện rất thật của Chúa Phục Sinh.
Câu chuyện Tin Mừng kể lại hôm nay rõ ràng gợi lại mẻ lưới lạ lùng trước đó gần ba năm. Cũng một mẻ lưới như vậy, nhờ đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi họ: “Hãy theo Thầy, từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá” (Lc 5,10). Ở đây, mẻ lưới nầy cũng sẽ được gắn với sứ mạng của các tông đồ. Con số 153 con cá bắt được là con số biểu tượng của tất cả mọi thứ cá biến. Và như thế nó muốn nói rằng, lưới của các tông đồ rồi đây sẽ quy tụ toàn thể nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội.
Thì ra, mẻ lưới thần kỳ nầy là để mở đường cho một giây phút gặp gỡ thân tình giữa Thầy và trò, giữa Đấng Phục Sinh và các tông đồ. Đối với Phêrô và các bạn ông thì đây không phải là gặp Chúa lần đầu. Đã có hai lần trước rồi. Và sau hai lần đó, họ vẫn tiếp tục nghề cũ. Phêrô nói: “Tôi đi lưới cá đây”. Mấy người kia nói: “Thì cùng đi”. Thế là họ lên thuyền ra đi, nhưng suốt đêm hôm ấy họ chẳng bắt được con cá nào! Vất vả mà chẳng được gì! Ngay lúc đó có ai đứng chờ trên bờ biển và cất tiếng gọi. Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra trước tiên và mách cho Phêrô: “Chúa đó!”. Rồi, ùm một cái, Phêrô đã lao xuống nước, đi đến với người đang chờ mình, gọi mình.
Sao Chúa lại đơn giản như vậy? Sao Chúa lại lui cui nướng cá, nướng bánh, dọn một bữa điểm tâm cho những người đi làm đêm trở về, như một bà nội trợ lo cho người trong nhà. Rồi thầy trò ngồi bên nhau và chia nhau một bữa ăn thân hữu. Không cần phải hỏi: “Ông là ai?” Vì biết rồi. Thuyền đây, lưới đây, cá đang chín vàng đây, bánh đang còn đây. Và Chúa đây, Người Phục Sinh, Người khơi nguồn sống, Vị Cứu Tinh.
Nhưng, thưa anh chị em,
Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Các ông ra về mà lòng hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn cứ tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đầy, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”.
Quả thật, có một cái gì đó đã xảy ra. Cái gì? Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Cái gì đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Gặp gỡ âm thầm thôi, chốc lát thôi, nhưng cái tiếp cận bằng mắt, bằng tay, không quan trọng băng sự giao tiếp của cõi lòng, giờ phút cơ duyên làm cho họ hiểu rằng họ đã đi vào, đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ cũng biến thành mới hoàn toàn. Từ đó, họ đinh ninh một điều: “Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội”. Vì thế, họ sẽ “vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta”. Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, cưỡng bức. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó.
Anh chị em thân mến,
Giáo Hội ngày nay, nếu muốn tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, nếu muốn phát triển, thì cũng không có con đường nào khác. Giáo Hội của Chúa Phục SInh chỉ có thể phát triển qua những cuộc đời có khi vất vả, tăm tối, có khi tù túng, nhọc nhằn, như các Tông đồ kia. Nhưng cũng như các Tông đồ đã gặp được Chúa Giêsu Phục sinh đang đơn sơ dọn bữa ăn cho họ và mời họ đến ăn chung với Ngài. Do đó,
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin vào sự hiện diện kề cận của Ngài bên chúng ta ngay trong công việc sinh sống, làm ăn vất vả hằng ngày.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là tin luôn luôn có cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nỗi đau khổ, thất bại, bị bỏ rơi, đơn độc của chúng ta.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là nhận thấy Chúa vẫn luôn tái diễn những việc kỳ diệu, những mẻ lưới đầy cá, những lần hoá bánh ra nhiều trong đời sống chúng ta và trong thế giới, để đáp ứng những nhu cầu ấm no, hạnh phúc cho con người.
- Tin Đức Kitô Phục sinh là đáp lại lời mời gọi của Ngài đến dự bữa ăn huynh đệ mà Ngài đã ân cần dọn sẵn cho chúng ta nơi bàn tiệc Thánh Thể, một bữa ăn hiệp nhất thắm tình Thầy trò xum họp, Cha con đoàn tụ, liên kết mọi người trong một sức sống của Đức Kitô Phục sinh để tiến đến một tương lai vinh quang vĩnh cửu.
Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn.
Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như: PS3-C64
Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh”.
Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.
Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.
Đánh cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya... họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.
Bảy người đang sống trên "biển nổi sóng", giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên... nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.
Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.
Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?". Các ông trả lời: "Thưa không". Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ... ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ "bờ" bên kia?
Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó". Vừa nghe nói “Chúa đó” ông Simon - Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống "yêu thương", nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.
Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.
Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.
Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "
Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một "bữa 'ăn" cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.
Ta biết tầm quan trọng của "bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã "phục vụ” các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.
Ông Simon - Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.
Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.
Sau trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như "tấm lưới" không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả "chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách" (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.
Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: "ông là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.
Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào "mầu nhiệm". Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác... Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên "O kiirios, Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!
Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
Đây là bữa ăn thực sự... đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm.
Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng "năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ", từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều…
Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở "trên bến bờ khác", trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta "lương thực từ trời " Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6,33). "Tôi là Bánh hằng sống... Thịt Tôi thật là của ăn... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời….” (Ga 6,51-55-58).
Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ "con cá" (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:
Lèsous Kristos Théou Unios Sôter
Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?". Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. "Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên" (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện "bằng xương, bằng thịt" nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".
Lần thứ hai... rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”.
Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?". Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy".
Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba "lần biểu lộ tình yêu! "Anh có mến Thầy không?": Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: "'Này anh X... anh có yêu Thầy không?". Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.
Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han….
Như thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)... nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu... Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân tận hiến.
Thật Thầy bảo thật cho anh biết: "Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn". Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy".
Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động ("Anh đi đâu tuỳ ý")... và tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động ("một người khác sẽ thắt lưng cho anh"), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)... Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. " Đó là hoạt động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm mất thể diện Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết là hoạt động cuối cùng.
“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”
I. Ý CHÍNH:
Chương 21 của Tin-Mừng thánh Gioan được gọi là phụ trương. Vì Gioan muốn nói thêm về: PS3-C65
Chương 21 của Tin-Mừng thánh Gioan được gọi là phụ trương. Vì Gioan muốn nói thêm về việc Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên ở Galilê và đặt Phêrô làm thủ lãnh của Giáo Hội. Bài Tin-Mừng hôm nay là phần đầu của chương này, nói về việc Chúa Giêsu dùng mẻ cá kỳ lạ để làm dấu chỉ cho các Tông Đồ tin nhận Người Phục Sinh.
II. SUY NIỆM:
1. “Lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria…”
Khi khởi sự công việc rao giảng ở trần gian, Chúa Giêsu đến bờ hồ Giênêgiarét và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên (5,1) để huấn luyện các ông. Bây giờ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu lại hiện đến với các ông đang ở bờ biển Tibêria để trao sứ mạng, cách riêng trao quyền thủ lãnh Giáo Hội cho Phêrô (Lc 21,15-23).
2. “Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Đidimô….”:
danh sách các môn đệ đã được Chúa hiện ra ở đây chỉ có năm nhưng theo diễn tả của doanh có thể hiểu là bảy. Sở dĩ hiểu như vậy là vì thánh Gioan không kể đến tên các người trong gia đình mình nên có lẽ trước kia chữ “hai con ông Giabêđê”người ta để trong ngoặc cho độc giả hiểu, sau này chép đi chép lại, người ta bỏ ngoặc đi.
3. “Simon Phêrô bảo: tôi đi đánh cá đây”:
Phêrô là người khởi xướng việc đánh cá. Câu này muốn nói lên vai trò thủ lãnh Giáo Hội của Phêrô.
4. “Chúng tôi cùng đi với ông….”:
Ơ đây muốn nói lên sự tùng phục của các môn đệ đối với vị thủ lãnh là Phêrô.
5. “Nhưng đến hôm ấy không bắt được con cá nào”:
Ở đây cũng liên tưởng đến Luca 5,5: “suốt đêm chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì”. Điều này chứng tỏ sự bất lực của con người.
6. “Lúc rạng đông Chúa Giêsu hiện đến bên bờ biển”:
Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ của Người. thoạt đầu các ông cho nhận ra Chúa là vì các ông chưa am hiểu về sự Phục Sinh của Chúa, mặc dầu các ông tin Chúa sống lại (Ga 20,9).
7. “Này các con, có gì ăn không?”:
Đây là câu hỏi thông thường như người ta quen hỏi những người đi đánh cá hay những người đi săn về. Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu muốn tỏ cự thân mật quen biết để gợi cho các môn đệ nhớ lại Người. Và cũng là câu hỏi để mở đầu câu chuyện.
8. “Họ đồng thanh đáp: thưa không!”:
Ở đây bày tỏ sự bất lực.
9. “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”:
Ơ đây liên tưởng đến Lc5,4: “Ra khơi mà thả lưới đánh cá”. Mặc dù các môn đệ chưa nhận ra Thầy mình, nhưng Chúa Giêsu cũng ra lệnh: Một thứ ra lệnh như người có quyền và nắm chắc được hiệu quả của việc “Thả lưới” thì sẽ được.
- “Các ông liền thả lưới…”:
Tin tưởng trong tinh thần phó thác, các môn đệ thả lưới như lệnh truyền và tức khắc có hiệu quả là “không kéo nổi lưới lên vì đầy cá
- “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô”:
Nếu qua những dấu chỉ của ngôi mộ trống, Gioan người môn đệ Chúa yêu dấu, “Thấy và tin”, thì ở đây qua dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ, ông cũng nhận ra và nói với Phêrô “Chính Chúa đó”. Điều này cho chúng ta thấy sức mạnh dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ, đã đánh động sự nhận thức và đức tin của Gioan.
- “Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào”:
Phêrô, dân chài, khi làm việc thì mặc áo cụt tay hay đóng khố, vì thế khi nhận ra Chúa thì ông khoác áo choàng để đến gặp Chúa: Đây là cử chỉ bày tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu, Thầy mình. ông nhảy xuống biển để bơi vào bờ cho nhanh hơn. Ở đây nói lên niềm vui mừng và lòng nhiệt thành của Phêrô đối với Chúa Giêsu phục sinh.
- “Các môn đệ khác chèo thuyền vào…”:
Phêrô bơi vào trước còn các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ sau. Sự kiện này diễn tả vai trò điều khiển Giáo Hội của Thánh Phêrô.
- “Khi các ông lên bờ thấy có sẵn lửa và than”:
Ở đây Chúa đóng vai trò “Anh nuôi”: Chúa dọn cho các môn đệ bữa ăn thanh đạm như bao bữa ăn khác mà Chúa thường ăn với các ông khi còn sống trong vùng này. qua hành động đó, Chúa muốn gợi lên cho các môn đệ nhớ lại những cử chỉ quen thuộc của Người trước đây, để các ông tin nhận ra Người.
- “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”:
Chúa đòi các môn đệ đem cá mới bắt được đến, vì Chúa muốn các môn đệ nhìn qua dấu chỉ của mẻ cá để nhận ra Người.
- “Lưới đầy toàn cá lớn, tất cả được 153 con”:
Con số 153 không có ý chỉ số lượng cá cho bằng chỉ ý nghĩa biểu hiệu. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà vạn vật học thời xưa khám phá ra được 153 loại cá. Vì thế con số ở đây chỉ số lượng tất cả các loại cá, và như vậy ý nghĩ của con số 153 này trùng hợp với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về Nước-Trời (Mt 13,47).
Giáo Hội phải quy tụ trong lưới của mình tất cả các dân tộc như mục tử chân chính qui tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ đàn khác ngoài Israel (Ga 10,1), như con người kéo lôi tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (Ga 12,32; 6,44).
Vì vậy mẻ cá kỳ lạ bắt được do một nhóm các môn đệ, dưới sự chỉ huy của Phêrô, theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu là hình bóng mở mang Giáo Hội.
Lưới không rách là hình ảnh của Giáo Hội, sự hợp nhất, không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,57-60). Những con cá là hình ảnh các Ki-tô hữu đã được chinh phục do Chúa Giêsu bằng lời giảng qua các Tông Đồ.
- ‘Chúa Giêsu bảo rằng: các con hãy lại mà ăn”:
Dấu chỉ mẻ cá cũng như cách cư xử thân mật quen thuộc “các con hãy lại mà ăn” của Chúa Giêsu là những bằng chứng khiến cho các môn đệ nhận ra “là Chúa”, nên không ai dám hỏi “ông là ai? nữa”.
- “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ …”:
Ở đây Chúa Giêsu lập lại cử chỉ như trong bữa tiệc ly người đã làm để tỏ bày cho các môn đệ nhận ra rằng Giêsu, Thầy mình, khi còn sống ở trần gian trước đây, thì bây giờ cũng là Giêsu, Đấng đã phục sinh từ cõi chết, đang hiện diện trước mặt các ông đây. Và như vậy, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho các môn đệ về sự hiện diện của Người sau khi phục sinh.
- “Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra…”:
Sự kiện này muốn nói các lần hiện ra khác mà Tin-Mừng nhất lãm kể lại xảy ra ở Galilê đều sau lần hiện ra nầy. Đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với nhóm các môn đệ. Hai lần trước được ghi lại nơi (Ga 20,19-31).
III. ÁP DỤNG:
A. Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin-Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta, một đàng nhờ những dấu chỉ của những sự việc xảy ra trong lần thứ ba Chúa hiện ra ở đây để chúng ta xác tín vào sự Phục Sinh của Chúa, và đàng khác biết nhận thức sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội và trong đời sống của mỗi người chúng ta.
B. Áp dụng thực hành:
1. Nhìn vào Chúa Giêsu:
a. Xem việc Người làm:
- Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ đang lúc đánh cá đánh động niềm tin của các môn đệ về sự phục sinh của Người. sự tiếp xúc với nhau là phương tiện gây lên tin tưởng thông cảm và hiểu biết nhau.
- Chúa Giêsu hiện đến lúc các môn đệ chưa nhận ra Người. Nhưng nhờ việc làm, lời nói và cử chỉ, các môn đệ nhận ra là Chúa. chúng ta cũng vậy lúc đầu chưa hiểu nhau, nhưng dần dà nhờ sự tiếp xúc nhận biết nhau qua những cử chỉ lời nói, việc làm và những tâm tình trao cho nhau. Cũng vậy, muốn tin nhận Chúa, chúng ta cũng cần tiếp xúc với Chúa thường xuyên bằng sự cầu nguyện, suy niệm, lãnh các phép Bí Tích.
b. Nghe lời Chúa nói:
- Này các con có gì ăn không? Chúa có thể dùng đủ mọi cách thế: tha nhân, việc làm, các biến cố điềm trời, vạn vật và ngay chính bản thân mình để khơi dậy cho chúng ta cái nhu cầu cần đến Chúa vì không thấy mình là không có gì cả.
- “Hãy thả lưới bên hữu thuyền…”ý Chúa được thể hiện cho chúng ta đôi khi nó không hợp với lý lẽ của ta, nhưng vì đó là ý Chúa, chúng ta cứ thực thi thì sẽ thấy hiệu quả.
- “Các con hãy đem cá mới bắt được vào đây”Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết nhận ra những ơn Chúa ban để trình lên Người trong tâm tình cảm tạ và kính phục Chúa.
2. Nhìn vào các môn đệ:
a. Các môn đệ, do Phêrô khởi xướng đi đánh cá, nhưng đêm ấy chằng bắt được con cá nào. Con người sẽ bất lực với sức riêng mình. Nhưng nghe lời Chúa các ông thả lưới, các ông bắt được đầy cá. làm việc thuận theo ý Chúa bao giờ cũng sinh hiệu quả nhất là hiệu quả phần rỗi cho ta.
b. Gioan và các Tông Đồ khác cũng nhận ra Chúa quả dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ. Chúng ta tìm được những dấu chỉ qua những cái kỳ lạ Chúa làm để tăng thêm niềm tin vào Thiên Chúa.
TIN MỪNG CHÚA NHẬT III PHỤC SINH (Năm C)
Ga 21, 1-19
Sau bộ phim 3D đầu tiên “Avatar” của đạo diễn James Cameron với chi phí khổng lồ 237 triệu: PS3-C66
Sau bộ phim 3D đầu tiên “Avatar” của đạo diễn James Cameron với chi phí khổng lồ 237 triệu đô-la,nhưng doanh thu kỷ lục 2,6 tỷ đô la còn đáng nể hơn nữa, ra mắt thành công, thì “Alice in Wonderland” (Alice ở xứ sở thần tiên), bộ phim bom tấn mới nhất của hãng Walt Disney và đạo diễn Tim Burton, là bộ phim 3D thứ hai được phát hành tại thị trường Việt Nam, được khởi chiếu ngày 12.03.2010. Những bộ phim hoạt đầu tiên của hãng Walt Disney như Bạch Tuyết và Bảy Chúa Lùn nổi đình nổi đám năm 1937,so ra chẳng khác gì đom đóm và ánh trăng rằm, không thể bì được với kỹ nghệ điện ảnh thế kỷ 21 và công nghệ 3-D tối tân. Nhưng vào năm 1937, nó cũng đã làm mưa làm gió một thời và cùng với phim Fantasia, Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn,phim đầu tiên được quay bằng công nghệ phim màu (technicolor) và lồng tiếng ngay trên phim, được xếp hạng 34 trong danh sách 100 phim thay nhất mọi thời đại.
Mất mẹ khi vừa chào đời, bị hoàng hậu vua cha cưới về ghen tị sắc đẹp và định tâm hãm hại, cô công chúa Bạch Tuyết thoát khỏi bị sát hại nhờ lòng tốt của người lính thi hành nhiệm vụ theo lệnh bà hoàng hậu độc ác, đã phải trải qua ba kiếp nạn: bị áo rút bó nghẹt thở; bị độc từ chiếc lược và ăn táo độc. Tất cả do đích thân bà mẹ ghẻ độc ác thực hiện. Hai lần ngộ nạn đều được bảy chú lùn kịp thời cứu sống,nhưng lần thứ ba thì phải bó tay và bảy chú lùn đành đặt Bạch Tuyết vào một cỗ quan tài bằng thủy tinh. Cô đã được một hoàng tử cứu sống một cách tình cờ,do vấp ngã khi khiêng quan tài về cung điện,khiến miếng táo độc văng ra. Đó là hồi kết. Từ ngày có Bạch Tuyết đến sống chung,cuộc sống của Bảy Chú Lùn thay đổi và sáng sủa,ngăn nắp, tươm tất hẳn ra. Suốt ngày làm lụng không còn vất vả mệt mỏi với họ nữa,vì khi về đến nhà, cơm canh dọn sẵn, tiếng vui đùa đàn ca vang lên ngời ngời ấm cúng hạnh phúc: có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ!
Bàn tay chăm sóc của Chúa Giêsu đối với “bảy chú rất lùn về mặt đức tin” hôm nay, thật ân cần chu đáo: có sẵn than hồng,có cá và bánh nữa (x.Ga 21,9). Sau một đêm rét mướt, có thức ăn nóng hổi bỏ vào bụng đã là hạnh phúc, nhưng ngồi ăn bên bếp lửa ấm cúng thì chẳng còn gì bằng. Bao mệt mỏi tan biến. Thầy vẫn ”như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh” (X. Lc 13,34) của những ngày chưa chịu khổ nạn và phục sinh. Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ rằng Người thấu hiểu những âu lo,muộn phiền,mệt mỏi,đau khổ mai sau của các ông trên đường thi hành sứ mệnh rao truyền Tin Mừng cho đến tận thế, giữa thế gian trùng điệp sự dữ và Satan độc ác luôn tìm cách tiêu diệt Giáo Hội, rằng không phải lo lắng sợ hãi gì, như lời Thánh Vịnh: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa…Cứ tin tưởng vào Chúa và làm việc lành,..Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn và Chúa,chính Chúa, Người sẽ ra tay” (Tv 37, 5 tt) hoặc như lời Thánh Vịnh nầy:”Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1). Bao lâu chúng ta còn làm hì hục lao nhọc một mình trong bóng đêm đen, thì cố gắng của chúng ta cũng vô ích, không nhìn thấy tương lai.Nhưng khi biết có Chúa Phục Sinh đang chờ chúng ta bên kia bờ, dọn sẵn cơm ngon canh ngọt và bếp lửa reo vui, thì lòng chúng ta tràn bập vui mừng và hy vọng.
Ở bầu thì tròn,ở ống thì dài! Thực tế trong cuộc sống làm người – dù là Kitô hữu, từ tấm bé đã nghe và học Lời Chúa, - chúng ta chẳng khác nào nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Anh Jonathan Swift,Gulliver phiêu lưu ký [cũng đã được chuyển thể thành phim và khởi quây vào tháng 3 năm 2009]: Khi du hành đến đất nước những người tí hon Lilliput, Gulliver là một thứ “ông kẹ”. Xung quanh anh,từ nhà vua tới hoàng hậu và thần dân lùn tịt bé tí tấc rưỡi. Anh cười nhạo đám người lùn nầy,nhưng cái thân thể đồ sộ dài lưng tốn cơm tốn vải của anh chỉ làm được một điều là sự dữ: anh giúp người ta làm chiến tranh. Rồi trước khi du hành đến nước Nhật Bản và đến đất nước Ngựa người, Gulliver lại lạc vào xử sở, mà anh ta thấy đúng như câu “cười người chớ khá cười lâu”: đất nước người khổng lồ Brobdingnag, nơi chỉ cần bất cẩn và thiếu cảnh giác là Gulliver có thể bị các chú chuột ăn thịt như chơi, nơi mấy con chó chẳng khác nào những chú voi. Thật may mắn,vì người dân khổng lồ xứ Brobdingnag lại khác đám tí hon Liiliput nhỏ nhen, hiếu chiến, vụ lợi và khác cả…Gulliver: họ đầy lòng nhân ái, ngay thẳng, có tâm hồn trong sáng, cao thượng.
Người Kitô hữu không thể có mặc cảm tự tôn hoặc tự ti. Sự an tâm đảm bảo vì có sức mạnh chở che của Chúa ở cùng,không thể là cái cớ hay nguyên nhân để Kitô hữu kiêu căng, nhìn ‘người lương’, hoặc ‘bọn vô thần’ như những kẻ đáng nguyền rủa, đáng sa hoả ngục. Ngược lại, lòng khiêm nhu nên giống Chúa Kitô ( x. Pl 2, 2 – 6), sự chịu đựng đau khổ tinh thần và vật chất, việc bị bách hại, gắn chặt số phận Kitô hữu, không thể phát xuất hoặc dẫn tới mặc cảm tự ti. Hãnh diện không phải là kiêu ngạo, mà chỉ là động cơ giúp sống tốt hơn, thánh hơn, Kitô hữu hơn. Khiêm nhường không đồng nghĩa với nhút nhát sợ hãi. Cái Dũng của bậc thánh nhân thâm trầm,tự tin, kiên vững, hào hùng, mạnh mẽ bất khuất, khác xa thái độ ứng xử của tiểu nhân, vốn xum xoe,nịnh hót,làm hại người, nhưng chỉ cần gió chiều nào mạnh,liền tức khắc ngã theo,phản bội. Người quân tử “uy vũ bất khuất, phú qúy bất năng dâm,bần tiện bất năng di” (không cúi đầu khuất phục sức mạnh, giàu sang không đâm ra đổ đốn trác táng; nghèo khó không thành trộm đạo). Chúa Giêsu còn đòi hỏi tiêu chuẩn một Kitô hữu cao hơn nhiều lần.
AI BẢO LÀ LÙN!
Ngậm ngùi thương cảm khi nghe tin Người lùn nhất thế giới,He Pingping,qua đời vào ngày 13 tháng 3 vừa qua ở tuổi 21. Cũng một kiếp người: cao 73,5 xentimet,sinh ra ở Trung Quốc, Pingping không để cho mặc cảm tự ti đè bẹp đời anh và anh luôn lạc quan quyết tâm vượt lên chính mình. Anh mất khi đang quay chương trình truyền hình “The Record Show” ở Roma,nước Ý. Hãng tin BBC dẫn lời tổng biên tập Kỷ Lục Guiness,Craig Glenday: “Với thân hình bé nhỏ như thế, He Pingping đã gây một ảnh hưởng to lớn trên toàn thế giới”. Pingping không lùn chút nào về tâm hồn và ý chí. Khi anh khổng lồ người Philitinh Gôliát ngã lăn ra chết, chỉ vì trúng viên đá từ cái ná như đồ chơi của “chú lùn” David, thì dân Israel thêm vững tin lời Kinh Thánh, rằng”chiến thắng đâu phải nhờ binh hùng tướng mạnh”, mà chính là có Chúa ở cùng,bênh vực cho. Cuộc sống của những người tận hiến phục vụ Chúa và tha nhân – linh mục, tu sĩ - sẽ chỉ là gánh nặng, xiềng xích, nếu không có sức mạnh từ lòng say mê Thánh Thể và không được “Nàng Bạch Tuyết “Maria săn sóc, giữ gìn, nhờ quyền lực của chuỗi hạt mai khôi. Cuộc chiến với Satan và các thế lực xấu xa, mà không được vũ trang bằng ơn Chúa và sự trợ giúp của “Nàng Bạch Tuyết” Maria, thì chúng ta vẫn chỉ là “những chú rất lùn” và cầm chắc phần chiến bại. Chỉ một ít động tác giả của Satan trong những ngày qua, đã khiến toàn tín hữu xấc bấc xang bang, chẳng khác nào đồn lũy bị giặc đánh úp, ngơ ngác và không biết làm sao để tự vệ, nói chi đánh trả! Những lúc nầy mới thấy chúng ta quả là “lùn”. Giáo Hội “thánh thiện,công giáo,tông truyền”, song vẫn rất ‘lùn”. Một cách nào đó, những việc làm sai trái,xuyên tạc,ác ý của các phương tiện truyền thông tấn công Giáo Hội và Đức Thánh Cha, cũng có tác dụng cảnh tỉnh các tín hữu, thanh luyện Giáo Hội và ý thức sự mỏng dòn kém cỏi về nhiều mặt của Giáo Hội trần thế. Câu cửa miệng “còn thiếu và còn yếu “ đâu phải chỉ dành cho các cơ quan thế tục!
KHÔNG TÍ HON CHÚT NÀO:
Sáng ngày thứ hai, 12.04.2010, tại lớp 7/5 vào tiết 2, trường cấp 2 An Bằng – Vinh An, Thừa Thiên Huế,Thầy Ngô Văn Tuyên đứng lớp, tổ chức thi học kỳ II môn Giáo Dục Công Dân. Thầy gọi em học sinh Lê Tiến Quốc lên trước lớp, ra lệnh em cởi bỏ dây và tượng Thánh Giá khỏi cổ. Em thưa: “Chúa của em thì em đeo". Thầy liền xách tai tát vào mặt em và nắm cây Thánh Giá kéo đứt dây đeo khỏi cổ em. Thầy còn lôi em đến phòng phòng Hội Đồng trưởng để xử lý
Được bao nhiêu tín hữu Công giáo ba miền có dũng khí và đức tin như cháu Lê Tiến Quốc?
ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 45
Ga 21, 1 - 14
Anh chị em thân mến.
Cha mẹ nào không yêu thương con, nhưng người làm con thì không ai mà không làm cho cha me: PS3-C67
Cha mẹ nào không yêu thương con, nhưng người làm con thì không ai mà không làm cho cha mẹ mình phải phiền lòng, nhiều khi còn làm cho các ngài phải đau đớn vất vả. Còn có những người con, suốt cả một đời không làm được một việc gì xứng đáng để gọi là đền đáp công ơn.
Nhưng một khi, nếu người con đó biết quay trở về với tình thương của cha mẹ, thì mọi lỗi lầm trước kia dường như không còn tồn tại nữa. Tình thương yêu được biểu hiện qua hành động rất cụ thể, qua sự lo lắng chăm sóc. Tình thương của cha mẹ có phần nào đó không thể giải thích được, dường như có một chút gì đó hơi mù quáng nếu đem cân đo đong đếm bằng khoa học. Từ ngàn đời vẫn thế. Cha mẹ vẫn thương yêu, vẫn tự hào đặt niềm tin vào con của mình. Còn những người con, có những người cũng biết cách đền đáp cho xứng đáng, cũng có những người dường như không nhận ra được tình thương yêu đó.
Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu, Ngài luôn yêu thương và thành tín. Các Tông Đồ đã từng theo Chúa Giêsu, đã được dạy dỗ, đã từng được yêu thương. Giờ đây Các ông đang làm gì? Các ông đang trở lại con đường cũ, con đường mà Chúa Giêsu đã kêu gọi các ông từ bỏ để theo Ngài. Các ông đang trở về với nghề của đêm tối. Nhưng cho dù các ông có đầy đủ kinh nghiệm, nếu không có Chúa bên cạnh, với những sức lực và tài năng cùng với kinh nghiệm, cũng không ích lợi gì.
Một phép lạ được thực hiện. Một mẻ cá bất ngờ. Nếu các ông không biết lắng nghe, thì phép lạ đã không được thực hiện. Nhưng điều quang trọng hơn là các ông đã nhận ra được Người đã từng yêu thương mình, đã từng kêu gọi mình đỗi đời. Các ông đã biết quay trở về. Các ông đã nhận được sự triều mến, thương yêu chăm sóc lo lắng qua thức ăn đã dọn sẵn.
Các ông đã biết cách đền đáp tình yêu thương bao la đó, các ông không còn trở lại con đường của ngày xưa nữa, mà bước theo con đường mà Đấng yêu thương kêu gọi và dẫn dắt.
Chính vì các ngài đã biết cách đền đáp tình yêu thương cho xứng đáng mà hôm nay, chúng ta những người công giáo, những người ngồi trong nhà thờ này cũng nhận biết được tình yêu thương đó. Chúng ta cũng từng được kêu gọi bước theo Chúa, từng sống với Ngài, được giảng dạy, được hưởng những hồng ân. Chúng ta cũng có những quyết tâm rất tốt đẹp để sống xứng đáng hơn. Nhưng cũng như các Tông Đồ, chúng ta cũng từng trở lại con đường cũ, con đường riêng tư, con đường mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta từ bỏ.
Chúng ta lần mò trong đêm tối của những toan tính không ngay chính, của những ước vọng không tốt đẹp, của những việc làm không chấp nhận được. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng hiện diện để kêu mời, để chỉ dạy qua những biến cố, những con người. Nhưng chúng ta có như các tông đồ, có nhận ra Chúa, có dám hăng hái, bất chấp dòng nước lạnh của cuộc đời ngăng cản mà quay trở về. Nếu chúng ta làm được như thế, thì phép lạ đã xảy ra, cuộc đời chúng ta đã được thay đỗi. Chúng ta nhận ra được sự thương yêu triều mến qua những hồng ân trong suốt cuộc đời.
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy tư, xem mình là người con biết cách đền đáp tình thương yêu, hay là người con luôn làm phiền lòng cha mẹ. Cứ nhìn vào đời sống đã qua và trong hiện tại.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh, để biết trở về với tình yêu thương bao la của Chúa.
Ga 21, 1 - 19
Đoạn Tin Mừng Ga21, 1-19 mà chúng ta được nghe đọc hôm nay là một đoạn Tin Mừng đẹp: PS3-C68
Đoạn Tin Mừng Ga21, 1-19 mà chúng ta được nghe đọc hôm nay là một đoạn Tin Mừng đẹp và hữu tình. Đẹp bởi phong cảnh của hừng đông ở bờ biển, đẹp bởi cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ nói chung và Phêrô nói riêng, vẻ đẹp còn được tăng lên bởi cách cư xử của các môn đệ đối với Chúa Giêsu cũng như cách cư xử của Phêrô … và đặc biệt đẹp bởi cách chọn người đứng đầu của Chúa Giêsu chỉ chọn trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu Chúa hơn hết mọi người.
Qua đoạn Tin Mừng dài và đẹp này chúng ta thấy được rằng Chúa Giêsu phục sinh vẫn luôn hiện diện với các môn đệ nhưng các ông không nhận ra mà chỉ có mình Gioan nhận ra. Đứng trước một người lạ chỉ cho nơi thả lưới ở bên phải mạn thuyền và đứng trước mẻ cá lạ lùng thì Gioan nhận ra người đó chính là Chúa. Chúa đó. Tại sao không phải là Phêrô người tông đồ trưởng? Tại sao không phải là một tông đồ nào khác? Thưa vì Gioan là người được Chúa yêu và trong tình yêu đó Gioan nhận ra người lạ đó chính là Chúa phục sinh. Chúng ta cũng thấy được điều này nơi Maria Mađalêna. Bà đã yêu mến nhiều nên được tha thứ nhiều và trong tình yêu mến đó Maria đã nhận ra được Chúa Kitô phục sinh. Người ta thường nói trong tình yêu không thể giải thích bằng lời. Chính trong tình yêu Gioan trực giác được Chúa hiện diện trước mặt các ông. Cũng chính trong tình yêu ta thấy được cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ: không một lời trách móc, không một lời kết án… Chúa đến với các ông đầy thông cảm yêu thương, san sẻ.. Vẫn là Thầy Giêsu đầy yêu thương cầm bánh, cầm cá trao cho các môn đệ.
Kế đó là cách chọn người của Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thêm an ủi và hy vọng. Ta thấy hay lắm, Chúa không hỏi Phêrô con có hiểu biết gì thêm không? Con có tài năng lãnh đạo không? Mà Chúa chỉ hỏi “Con có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” nhưng với câu này Chúa Giêsu hỏi đến ba lần cho thấy đây là nhân tố quyết định cho việc chọn người đứng đầu của Chúa. Tại sao như thế? Thưa bởi vì một lý do hết sức đơn giản đó là việc dẫn dắt lãnh đạo là của chính Chúa con người chỉ là cộng tác nên người lãnh đạo phải là người gắn bó mật thiết với Chúa, yêu ai là nên giống người đó, yêu Chúa là trở nên giống Chúa ngày một hơn và như thế là để cho chính Chúa hành động qua con người của chúng ta. Theo cái nhìn bình thường của con người thì Phêrô không đáng được chọn tý nào. Thủ lãnh gì mà khi Thầy bị bắt thì chạy mất, thủ lãnh gì mà chối Chúa đến ba lần… nhưng trong đoạn Tin Mừng hôm nay ta thấy cách cư xử của Phêrô cũng rất lạ. Khi nghe Gioan nói “Chúa đó” thì đáng lẽ Phêrô phải chạy trốn mất vì mặc cảm với Thầy, đáng lẽ Phêrô rụt rè đến với Chúa vì lo sợ chịu sự trách mắng nhưng Phêrô không xử sự như thế mà Phêrô vội khoát áo vào rồi ùm xuống biển để vội vàng đến với Chúa Giêsu. Tại sao ông cư xử như thế? Bởi lòng ông yêu mến Chúa, lòng yêu mến Chúa thúc đẩy ông đến với Chúa. Ông như quên đi tất cả, quên không gian, quên lỗi lầm, tình yêu Chúa trong ông thúc đẩy ông chỉ có một việc là đến với Chúa. Với tình yêu mến Chúa như thế, Chúa Giêsu không nhắc lại lỗi lầm, không nhắc lại những lần ông chối Chúa mà Chúa Giêsu ân cần đến với Phêrô và với các môn đệ, đồng bàn san sẻ với các ông cũng như đặt Phêrô làm thủ lãnh Giáo hội bởi Phêrô yêu mến Chúa hơn hết mọi người. Nhưng làm thủ lãnh là làm sao? Ở cuối bài Tin Mừng chúng ta nhận ra cách làm thủ lãnh mà Chúa muốn ở Phêrô đó là “Hãy theo Thầy”. Làm thủ lãnh là bước theo Chúa chứ không phải là dẫn dắt Chúa, là muốn làm sao cũng được. Chúng ta nhớ lại sau khi Phêrô tuyên xưng “Thầy là Con Thiên Chúa là Vua Israel” thì Chúa Giêsu mặc khải là Ngài sẽ phải lên Giêrusalem để chịu chết, vừa mới được Chúa khen Phêrô liền đứng ra can ngăn “Thiên Chúa thương Thầy không để Thầy như thế đâu”. Ngay lúc đó Phêrô bị Thầy khiển trách “Satan lui lại đằng sau Thầy”. Nên lần này Phêrô có kinh nghiệm nơi chính bản thân mình “Theo Thầy” không phải chỉ là theo Thầy biến hình trên núi Tabo, hay hãnh diện vì Thầy làm phép lạ… nhưng theo Thầy là theo suốt cả cuộc đời dù đó là Tabo hay Thập Giá. Và cuộc đời của Phêrô đã sống triệt để lời mời gọi của Chúa Giêsu khi Phêrô chịu chết vì tuyên xưng Chúa Kitô.
Chúa Kitô phục sinh hằng hiện diện ngay bên chúng ta nhưng để nhận ra được Ngài đòi hỏi chúng ta phải có lòng yêu mến, yêu mến để cảm nhận ra những dấu chỉ trong cuộc sống chính là sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh, yêu mến để gắn bó với Chúa hơn. Chính vì lòng yêu mến mà Phêrô được chọn nên chúng ta hãy yêu mến Chúa để trở nên người của Chúa. Cách Chúa chọn Phêrô cho chúng ta niềm hy vọng vì Chúa chọn không theo một tiêu chuẩn nào khác ngoài lòng yêu mến, ta hãy gắn bó với Chúa và phó thác cho Ngài. Sau cùng câu Chúa gọi Phêrô cũng là câu Chúa gọi mỗi người chúng ta “Hãy theo Thầy”. Theo Chúa là đón nhận mọi sự trong niềm tin tưởng phó thác cho dù dễ dàng hay khó khăn, cho dù là hoạn nạn hay an bình, khi vui cũng như lúc buồn… vì ta biết tất cả mọi sự nếu ta biết gắn bó với Chúa thì Chúa sẽ hành động trong ta, qua ta Chúa thể hiện tình yêu của Ngài. Theo Chúa là bước theo sau Chúa chứ không phải ép Chúa theo mình như Giuđa mà thất vọng.
Hãy tin tưởng phó thác trọn vẹn cho Chúa và hãy để Chúa hành động.
Ga 21, 1 - 19
Giáo hội thoạt nhìn như bao tổ chức trần thế khác, nhưng Giáo Hội bắt nguồn từ Thiên Chúa: PS3-C69
1. Giáo hội thoạt nhìn như bao tổ chức trần thế khác, nhưng Giáo Hội bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nên Giáo Hội còn là một mầu nhiệm. Đoạn Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, tại biển hồ Tibêria, giúp chúng ta có vài suy nghĩ về Giáo Hội của Chúa.
Chiếc thuyền tượng trưng cho Giáo Hội, mà các thuỷ thủ là các tông đồ trong đó có anh thuyền trưởng Phêrô do chính Đức Giêsu chỉ định. Các loại cá được bắt nhắc ta nhớ mọi dân tộc đều được mời gọi vào Giáo Hội… Giáo Hội là một mầu nhiệm, bởi được chính Chúa yêu thương tuyển chọn, Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng tình yêu, Giáo Hội được mời gọi loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc và Giáo Hội chỉ có sức sống thực sự khi hoạt động dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
2. Giáo Hội là một mầu nhiệm bởi được chính Chúa yêu thương tuyển chọn. Phêrô và các tông đồ khác đa số làm nghề chài lưới, ít học. Thậm chí có người, như Matthêu, làm nghề thu thuế, một nghề đáng nguyền rủa thời đó, vậy mà Đức Giêsu lại chọn các ngài. Tại sao ? Thưa, chỉ vì yêu thương mà Chúa chọn các ngài. Cũng vậy, bên cạnh chúng ta còn rất nhiều người chưa được biết Chúa, còn chúng ta được mời gọi vào Giáo Hội của Chúa, con đường dẫn ta đến hạnh phúc đích thực, có phải vì công trạng của chúng ta hay không ? Chắc là không, nhưng vì Chúa thương chúng ta thế thôi !
3. Giáo Hội là một mầu nhiệm bởi được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Vì yêu thương Đức Giêsu xuống thế gian để cứu chuộc con người, vì yêu thương Chúa đã lập Giáo Hội để tiếp tục phân phát ơn cứu độ của Chúa. Trước khi trao quyền lãnh đạo Giáo Hội cho Phêrô, Đức Giêsu ba lần hỏi Phêrô con có yêu mến Thầy không ? Phải chăng Chúa muốn nhắc lại quá khứ, ba lần Phêrô chối Chúa ? Nhưng, có lẽ điều quan trọng hơn đó là vì Chúa sắp giao cho Phêrô một trọng trách, và Chúa muốn Phêrô tỏ rõ lòng yêu mến của ông đối với Chúa, có thực lòng yêu mến Người thì mới có thể yêu mến đàn chiên của Người được.
Đoạn Tin Mừng nầy còn cho thấy những người có trách nhiệm trong Giáo Hội không những yêu mến Chúa, yêu mến đàn chiên của Chúa mà còn phải đồng tâm nhất trí với nhau nữa. Simon Phêrô nói với các tông đồ khác “tôi đi đánh cá đây”, câu nói nầy như trình bày với anh em một việc làm thường nhật của mình, cũng có thể hiểu đây là lời mời gọi nhẹ nhàng của anh trưởng để anh em cùng làm việc chung. Các tông đồ khác hưởng ứng ngay đề xuất và việc làm của Phêrô, nên đáp lại:“chúng tôi cùng đi với anh”, thay vì có thể nói những câu như:”anh đi mặc kệ anh, còn chúng tôi đi ngủ”, hay “nhiệm vụ ai nấy làm…!”. Phải chăng Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi lòng họ, muốn họ yêu thương hiệp nhất, bỏ qua việc tranh chức quyền, ngồi bên hữu bên tả Chúa…! Họ đã thấu hiểu được lời dạy của Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13,35).
4. Giáo Hội là một mầu nhiệm, Chúa muốn mầu nhiệm nầy được muôn dân biết đến qua việc truyền giáo. Đức Giêsu đã có lần nói với các tông đồ của mình: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá" (Mt 4,19 ; Mc 1,17). Mẻ cá lạ mà các tông đồ vừa đánh được, có đến 153 con cá lớn mà lưới không hề rách, làm cho chúng ta liên tưởng đến việc Giáo Hội phải có trách nhiệm cưu mang, giới thiệu cho mọi dân tộc, mọi quốc gia nhận biết Chúa. Với số lượng cá trên mang tính biểu tượng cho toàn thể, tất cả, vì thời đó người ta chỉ biết được có 153 loài cá. Chính Đức Giêsu Phục Sinh trước khi về trời đã có chỉ thị rõ ràng cho các tông đồ, môn đệ của Người về việc truyền giáo cho muôn dân (x. Mt 28,19). Những ngư phủ trước đây đánh bắt cá, giờ hoàn toàn đổi nghề sang “đánh bắt người” cho Chúa. Công Đồng Vatican II khẳng định lại bản chất Giáo Hội là truyền giáo. Vì vậy, từ xưa đến nay Giáo Hội không ngừng thực hiện lệnh truyền nầy của Chúa.
5. Giáo Hội là một mầu nhiệm vì sức sống của Giáo Hội chỉ có được khi nghe và thực thi lời Chúa. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, vậy mà đã vất vả suốt đêm nhưng không bắt được con cá nào! Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và bảo cho các ông hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông đã làm theo, và mang lại kết quả khả quan. Quả đúng như lời Đức Giêsu đã nói “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Giáo Hội có sức sống, có những hoạt động tốt đẹp, tích cực… không phải do sự cố gắng của con người mà do ơn Chúa ban. Mẹ Têrêsa Calcutta với những cống hiến lớn lao của mẹ cho xã hội, nhưng mẹ nhận rằng, mình chỉ là cây bút chì nhỏ bé của Thiên Chúa, Thiên Chúa muốn dùng như thế nào tuỳ Ngài. Mỗi người chúng ta chỉ là công cụ của Thiên Chúa, việc tông đồ chỉ mang lại hiệu quả đích thực, lâu bền khi chúng ta biết lắng nghe và thực thi lời Chúa dạy.
6. Trong tâm tình mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta có quyền tự hào là phần tử trong Giáo Hội của Chúa, không những bởi cách tổ chức, uy tín… của Giáo Hội, mà nhất là Giáo Hội còn có một sức sống huyền diệu. Nhưng mỗi Kitô hữu hãy nhìn lại đời sống của mình:
- Chúng ta có đáp lại tình thương của Chúa bằng đời sống tốt đẹp của mình hay không ?
- Chúng ta làm mọi việc, nhất là việc tông đồ với tất cả lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân hay không ?
- Chúng ta đã sống và đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho tha nhân như thế nào ?
- Chúng ta có lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống hay không ?
Xin Đức Kitô Phục Sinh đem lại sức sống mới cho chúng con, để chúng con góp phần xây dựng Giáo Hội ngày càng theo ý Chúa hơn. Amen.
Ga 21, 1 - 19
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ và với các người phụ nữ để PS3-C70
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ và với các người phụ nữ để củng cố niềm tin của họ. Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra với bà Maria Mađalena (Ga 20, 14); Chúa cũng hiện ra với các môn đệ đang họp nhau trong căn phòng mà các cửa đều đóng kín. (Ga 20, 19-29); Chúa Phục Sinh còn hiện ra với các môn đệ trên đường Emmau nữa (Lc 24, 13-35).
Hôm nay, một lần nữa Chúa Giêsu Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ của Người, nhưng lần này Chúa hiện ra ở Biển Hồ Tibêria, nơi các môn đệ đang thả lưới. Các ông đã vất vả suốt đêm mà không bắt được một con cá nào. Một nhóm thuyền chài lành nghề, vậy mà quần quật suốt đêm, rất vất vả, lại chẳng được gì hết. Phải chăng do tâm trạng của các môn đệ không ổn định, nổi buồn mất Thầy mấy ngày qua vẫn còn, niềm tin về việc Thầy sống lại cũng chưa chắc chắn. Tâm trạng không thoải mái và ổn định, thì làm việc sao có kết quả tốt được!
Chúa hiện ra và chỉ cho các ông chỗ để thả lưới: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạng thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá’. Kết quả thật lạ lùng, vượt quá sự mong đợi của các Tông đồ.
Chúng ta có thường xuyên làm theo lời Chúa dạy chúng ta không ? Do chúng ta chưa nghe lời dạy của Chúa nên cuộc đời của mỗi người chúng ta có nhiều hư hỏng, thất bại. Muốn thành công trong mọi công việc chúng ta phải dựa vào Chúa: năng tham dự Thánh lễ và năng lãnh nhận các Bí tích. Lấy Lời Chúa dạy làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành động của chúng ta. Cầu nguyện nhiều hơn không chỉ ở nhà thờ, ở gia đình mà còn ở mọi nơi mọi lúc nữa.
Nhà bác học thời danh của nước Pháp là ông Louis Pasteur. Ông được nổi tiếng chẳng những trong lãnh vực y khoa mà còn ở niềm tin sâu sắc của ông. Người ta thuật lại một lần ông đi xe lửa, có một sinh viên ngồi bên cạnh ông, thấy ông cầm tràng chuỗi đọc kinh cầu nguyện thì ngạc nhiên hỏi:
Thưa ông, thế là ông còn tin ở chuyện nhảm nhí à?
Ông điềm tỉnh trả lời:
Đúng thế. Tôi vẫn còn tin và tin đến chết. Còn cậu, cậu không tin sao ?
Người thanh niên cười ngạo nghễ và nói:
Lúc nhỏ tôi tin. Nhưng bây giờ tôi không còn tin nhảm nhí thế nữa, vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông hãy quăng bỏ tràng chuỗi đó đi và học những khám phá của khoa học, ông sẽ thấy tất cả những gì ông tin từ trước đến giờ toàn là mê tín dị đoan.
Ông thản nhiên hỏi lại:
Cậu vừa nói đến những khám phá của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi biết những điều đó không?
Cậu sinh viên vui mừng đề nghị:
Vậy ông cho tôi địa chỉ của ông. Hôm nào tôi gởi cho ông quyển sách, để ông học biết những điều nhiệm lạ của khoa học.
Ông từ từ lấy tấm danh thiếp trao cho cậu. Đọc xong tấm danh thiếp, cậu sinh viên tái mặt, xin lỗi và cúi đầu quay đi vì xấu hổ, vì danh thiếp đề như sau: ‘Louis Pasteur, viện trưởng nghiên cứu khoa học Paris ’.
Nhà bác học Louis Pasteur đã trả lời với chàng sinh viên: “Tôi vẫn còn tin và tin cho đến chết”; ông đã thể hiện đức tin đó bằng việc cầu nguyện, lần chuổi ngay cả lúc đi trên xe lửa. Niềm tin vào Thiên Chúa đã giúp nhà bác học Louis Pasteur thành công trong nghiên cứu khoa học.
Các Tông đồ đã nghe lời Chúa dạy mà thả lưới bên phải mạn thuyền và đã bắt được rất nhiều cá. Nhà bác học Louis Pasteur đã làm theo lời Chúa dạy: “hãy cầu nguyện luôn đừng nản chí “(Lc 18,1), nhờ đó ông đã thành công lẫy lừng trong nghiên cứu khoa học.
Còn chúng ta thì sao ? Những suy nghĩ, những việc làm của chúng ta có dựa vào lời Chúa dạy không ? Đời sống của chúng ta còn những hư hỏng, thất bại là do chúng ta không làm theo lời Chúa dạy, chúng chưa cầu nguyện nhiều, chưa gặp gỡ Chúa nhiều.
Xin Chúa cho mọi kitô hữu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa trong mọi việc, biết cầu nguyện thường xuyên và gắn bó với Chúa hơn qua việc lãnh nhận các Bí tích, để Chúa hướng dẫn chúng ta trong mọi việc làm, hầu đạt được kết quả tốt nhất ở đời này và cả đời sau nữa.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa: PS3-C71
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa.
Suốt đêm hôm ấy các ông đã vất vả và cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì. Sáng đến, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.
Theo nhiều nhà chú giải thì mẻ cá lạ lùng này chính là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Thực vậy, các môn đệ theo lời Chúa chỉ dạy đã hoạt động và ngay khi không có chút hy vọng gì thì cũng vẫn có thể quy tụ mọi người từ mọi nơi thành một cộng đoàn duy nhất, vì các ông đã làm theo lời Đấng đã sống lại. Con số 153 con cá được đưa ra ở đây cũng có thể góp phần làm nổi bật ý tưởng trên. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà động vật học hồi xưa phân biệt được 153 loại cá. Do đó con số này tượng trưng cho tất cả mọi thứ cá trong biển. Và như thế, dưới cái nhìn của các nhà chú giải thì mẻ lưới của các tông đồ sẽ quy tụ toàn thể gia đình nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc thi hành sứ mạng của Chúa Giêsu Phục sinh không phải lúc nào cũng dễ dàng ngay cả đối với các môn đệ. Bài đọc I, trích sách Tông đồ Công vụ đã nêu lên những khó khăn của việc rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ đã bị cấm không được rao giảng danh Chúa Giêsu. Lệnh cấm ấy lại xuất phát từ thẩy cả thượng tế. Trong chính cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài cũng đã từng gặp phải những khó khăn từ phía những người lãnh đạo Do Thái giáo. Và cuối cùng Ngài đã phải chết vì tay họ.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận thực hành. Kết luận ấy như thế này. Công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh, không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà còn là một bổn phận chung của mọi người tín hữu. Chu toàn được bổn phận ấy không phải là một việc dễ dàng, trái lại ở mọi nơi và trong mọi lúc, người tông đồ đều có thể gặp phải những khó khăn, những phản kháng.
Trong những hoàn cảnh như thế, nếu chỉ cậy dựa vào sức lực và tài năng riêng của mình, chúng ta sẽ dễ dàng nản chí và chắc chắn sẽ đi tới chỗ thất bại. Trái lại nếu biết cậy dựa vào tình thương và ơn sủng của Chúa, chúng ta sẽ luôn có được một lòng hăng hay và nhiệt thành để rồi sẽ đi tới thành công, bởi vì đối với Chúa, không có điều gì mà Ngài không thể làm được.
Noi gương các môn đệ, chúng ta hãy vâng theo lời Chúa, ra khơi và thả lưới, để nhờ đó chúng ta sẽ đem về cho Chúa những tâm hồn sám hối.
Ga 21, 1 - 19
Trong cuộc sống, người Kitô hữu phải đối mặt với một vấn đề thực tế hết sức cam go. Đó là vấn đề: PS3-C72
Trong cuộc sống, người Kitô hữu phải đối mặt với một vấn đề thực tế hết sức cam go. Đó là vấn đề sống đức tin. Thật vậy, chúng ta được nghe dạy Thiên Chúa quan phòng, nhìn thấu suốt và an bài mọi sự. Nhưng thực tế cho thấy, nhiều lúc gặp túng quẫn, chúng ta kêu cầu Chúa nhưng không thấy sự việc thay đổi. Vậy phải chăng Thiên Chúa quan phòng còn xa vời, chỉ là ý niệm?
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy gương sống đức tin, tin tưởng và phó thác vào tay Chúa quan phòng.
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tông đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do Thái không cho, bắt các ngài bỏ tù lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, sỉ vào mặt các ngài và bảo: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem". Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.
Chúng ta nhận thấy điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít hôm, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát. Thế mà, hôm nay thật can đảm đứng trước Công nghị Do Thái. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Phần các ông, khi ra về Các ông hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sĩ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đày, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta".
Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh. Các ông đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ được biến đổi hoàn toàn. Từ đó, họ xác tín một điều: "Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội". Vì thế, họ sẽ "vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta". Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, bất công. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó. Như thế, chúng ta học được gương sống đức tin của Các tông đồ: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Khi phải vâng lời Thiên Chúa để phục vụ anh chị em của mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em của mình được tự do tôn thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.
Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là con người xây nhà mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế quốc của trần gian đều có thể sụp đổ tan tành không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không thể chống lại chương trình của Chúa. Phần Thiên Chúa luôn được chúc tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời.
Bài Phúc Âm cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao, đó là hy vọng vào tình thương và quyền năng của Chúa Phục sinh. Phải, Thiên Chúa như người cha luôn yêu thương con cái mình. Người là Thiên Chúa giàu tình thương luôn quan phòng và lo lắng cho con người. Thật vậy, Chúa Giêsu nhìn thấy các môn đệ của Người vất vả suốt đêm với công việc chài lưới. Người biết các ông sau một đêm dài vất vả, mệt mỏi, chống chọi với sóng nước, biển khơi đã trở vào bờ với hai bàn tay trắng. Có bắt được con cá nào đâu! Nhưng rồi, khi các ông vừa lên đến bờ đã "thấy than lửa, trên đó có sẵn cá và bánh." Ngài đã quan tâm lo lắng cho các ông, là những người mà Ngài đã tuyển chọn và rất mực thương yêu. Điều này cũng nói cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa luôn lo lắng và quan phòng cho từng người chúng ta.
Bằng những cử chỉ quen thuộc, các tông đồ đã nhận ra Chúa. Còn chúng ta, trong đời sống đức tin, chúng ta cũng hãy nhận ra Chúa luôn hiện diện. Khi gặp vất vả và thử thách chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, không phải Chúa không hiện diện trong cuộc sống. Điều quan trọng là con người có tận lực với sức cố gắng của mình, và có dám tin vào lời Chúa để buông lưới trong cuộc đời như các tông đồ xưa hay không? Tình thương quan phòng của Chúa đã thể hiện khi Người còn ở với các Tông Đồ, cũng như sau ngày Ngài phục sinh từ cõi chết, chứng tỏ rằng Người là Thiên Chúa luôn yêu thương. Cũng vậy Chúa luôn ở bên chúng ta, để nâng đỡ, an ủi và bảo vệ chúng ta. Nhưng Người cũng muốn chúng ta phải nhận ra Người. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể nhận ra Chúa, thấy Chúa trong cuộc sống của chúng ta? Tông đồ Gioan đã nhận ra Chúa, và nói với Phêrô: "chính Chúa đó". Vì Gioan đã yêu mến Chúa nhiều và chính Gioan cũng được Ngài thương mến. Chúng ta cần phải có tâm hồn trong sạch, tâm hồn yêu mến Chúa và để mau mắn nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống mình. Chúng ta hãy nhận ra Chúa hiện diện trong thiên nhiên, trong vũ trụ bao la với mọi kỳ công Người sáng tạo. Chúng ta hãy nhận ra Chúa trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh may hay rủi, khó khăn hay dễ dàng, may mắn hay nghịch cảnh trong cuộc đời chúng ta. Cuộc sống chúng ta luôn được bình an, luôn được hạnh phúc, vì chúng ta biết rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta và chúng ta cũng hết lòng yêu mến Người. Do đó, giống các tông đồ xưa, chúng ta cần phải được tràn đầy Chúa trong lòng, nhờ đó chúng ta mới có thể tỏ cho người khác thấy Chúa được. Hơn nữa, chúng ta cần phải trở nên giống Chúa, được nên một với Chúa, để những người chung quanh nhận ra Chúa và tình yêu của Ngài, qua đời sống chứng nhân trong cuộc sống hằng ngày. Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin Chúa Kitô Phục Sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Hãy sống niềm tin Phục Sinh, để trở nên một dấu hiệu về sự sống của Chúa Kitô, trở nên ánh sáng, đem bình an và niềm vui của Chúa Phục Sinh đến cho tất cả những ai đang đau khổ, vất vả, âu lo. Thất vọng và đang tìm kiếm nguồn sống mới của Đấng đã từ cõi chết sống lại, của Đấng Phục Sinh.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng vào tình thương của Chúa dành cho chúng con, để chúng con luôn nhận ra sự hiện diện quan phòng đầy tình yêu thương nơi thế giới này. Và xin cho chúng con can đảm sống đức tin trong tình mến Chúa và yêu người, đó cũng là cách chúng con đang truyền đạt đức tin cho tha nhân. Amen.
Theo lời kể lại của thánh Gioan: Đêm hôm trước, mấy môn đệ cực khổ lên thuyền ra biển đánh c: PS3-C73
Theo lời kể lại của thánh Gioan: Đêm hôm trước, mấy môn đệ cực khổ lên thuyền ra biển đánh cá nhưng thức suốt đêm mà chẳng bắt được gì cả. Sáng ra, CG đến gặp các ông, kêu các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông làm theo lời Chúa và kéo lưới lên bắt được rất nhiều cá, nhiều đến mức kéo lưới lên không nổi. Cuộc đời của mỗi người chúng ta xem như một chuyến đi trên biển trong đêm, những ai có Chúa Giêsu trong đời sống đạo của mình, người đó có một chuyến đi thành công, một cuộc đời thành công.
Tôi đang ở CV Cái Răng, cũng gần Rạch Sút thôi, nên cũng hiểu được đời sống thường ngày của OBACE đạt những thành công lớn nhỏ khác nhau như: đi hỏi vợ cho thằng con trai, nhà gái đồng ý, sui gia hoà thuận với nhau lắm, cưới về rồi, con dâu giỏi dang, hiền lành, vợ chồng nó biết thương nhau, hai vợ chồng đứa nào cũng giỏi, cũng biết làm ăn, rồi nhờ người quen giới thiệu, thằng con trai vừa xin được việc làm, lương cũng khá, làm ba tháng, lãnh lương để dành mua được chiếc xe Wave. Đó là một thành công. Có gia đình khác, cả chục năm trời, hai vợ chồng làm lụng cực khổ, tiết kiệm từ đồng, giờ gom góp xây được cái nhà khang trang; Đó là một thành công. Hay mới đây, nghe người ta giới thiệu có ông thầy thuốc nam hay lắm, hai ông bà mừng quá, kêu xe ôm đi hốt thuốc, uống được mười mấy thang, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt. Và cũng có những thành công rất giản dị, đơn sơ, tuần trước, có một ân nhân nào đó đến cho gia đình mấy chục kg gạo, 1 thùng mì, 1 gói bột ngọt, vậy thì một tháng tới sẽ đỡ lo chuyện gạo thóc, mắm muối, mừng lắm.
Trong cuộc sống mình, chúng ta thường quan tâm làm sao để làm nhiều tiền, sắm nhiều của, được mạnh khoẻ, được đủ ăn, đủ mặc, và như vậy thì cho là thành công. Nhưng con nhìn thấy trong cuộc sống hiện tại của OBACE có một thành công rất lớn cần phải quan tâm và cần nên vui mừng. Đó là việc mỗi tuần lễ, OBACE đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật gặp gỡ CG, rồi về nhà, mỗi tối, kêu con cháu quây quần bên nhau đọc kinh tối, và bà con lối xóm mình mỗi khi họ cần 1 lít gạo, 1 chén nước mắm, 1 chút bột ngọt, mình noi gương bác ái của CG giúp đỡ họ. Có OBACE thắc mắc, những việc làm như vậy chỉ mệt nhọc, mất giờ, tốn của mà sao gọi là thành công được? Thưa, con xin trả lời, những việc đó đúng là thành công lớn lao của đời người vì ai dám làm những điều đó cho thấy có Chúa Giêsu đang hiện diện trong đời sống họ, trong tâm hồn họ. Mà TM hôm nay nói, có Chúa hiện diện thì thành công.
Vậy thì tại sao có CG trong đời mình là thành công? Con biết trong OBACE, có những ông bà lớn tuổi, kinh nghiệm cuộc sống nhiều, hiểu được rằng, dù cả cuộc đời mình vất vả kiếm tiền, kiếm bằng mọi cách, kiếm được tiền trăm bạc triệu, cất nhà lầu, sắm xe hơi, mà giữ đạo lôi thôi, nguội lạnh thì khi chết rồi, nằm đó, trắng tay, chẳng mang theo được cái, công đức cũng không có. Còn những ai dù cuộc sống có nghèo hơn một chút, nhưng sống đạo đàng hoàng: đi lễ Chúa Nhật, đọc kinh sáng tối, biết giúp đỡ mọi người, đến lúc họ chết đi, dù họ chẳng có của cải gì để lại nhưng có rất nhiều thứ công đức để mang theo ra trước toà phán xét của Chúa, họ sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu Chúa hứa ban. Đó chẳng phải là ích lợi lớn lao nhất khi cuộc đời mình có Chúa hiện diện sao thưa OBACE.
Thực hành LC hôm nay, xin OBACE cố gắng đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, sốt sắng, về nhà nhớ kêu con cái mình đọc kinh sáng tối, biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh. Làm tốt những công việc này, trước mặt Chúa, cuộc đời của OBACE là một cuộc đời thành công. Ngày OBACE nằm xuống là ngày TC trao ban hạnh phúc đời đời cho OBACE. Amen.
Ga 21, 1 - 19
Chúng ta vừa được nghe thánh Gioan kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên bờ biển: PS3-C74
Chúng ta vừa được nghe thánh Gioan kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tibêria. Đây là lần thứ ba CG hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Trong bữa ăn thân mật tình thầy trò, CG đã trao cho Phêrô và các môn đệ một sứ vụ mới đó là ra đi rao truyền Tin mừng cho muôn dân.
Câu chuyện xảy ra trên bờ biển Tibêria. Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm chài lưới nhưng không bắt được gì. Giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì CG đã đến với các ông. Người đứng trên bờ biển nhưng các môn đệ không nhận ra Người. CG bảo họ hãy thả lưới bên phải thuyền, họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra (ai là người nhận ra Chúa đầu tiên? Môn đệ đó tên gì?) người môn đệ được Chúa yêu nhận ra người đứng trên bờ biển không ai khác chính là Thầy. Phêrô khi nghe người môn đệ được Chúa yêu nói "Chúa đó" (ông đã làm gì-mặc áo vào và nhảy xuống biển) ông vui mừng nhảy xuống biển và bơi vào bờ. Khi mọi người đã đưa thuyền vào bờ thì thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn cho các ông có bánh và cá nướng. Thầy trò cùng ngồi ăn vui vẻ với nhau.
Sau khi ăn xong CG bắt đầu nói chuyện với Phêrô (Chúa hỏi Phêrô câu gì?- này anh Simon con ông Gioan anh có mến Thầy hơn các anh em này không? Phêrô đã trả lời thế nào? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. CG bảo ông hãy chăm sóc chiên của Thầy; Chúa hỏi Phêrô mấy lần?). Sau khi nghe Chúa CG hỏi mình tới 3 lần: con có yêu mến Thầy không? Phêrô buồn vì dường như Thầy chưa tin mình. Tại sao Chúa lại hỏi Phêrô đến ba lần? Có thể Chúa nhắc lại cho Phêrô để xoá đi những mặc cảm mà Phêrô đã chối Chúa 3 lần. Đồng thời Chúa muốn Phêrô khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát để Chúa trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề: "Lãnh đạo toàn thể Giáo hội" .Và chính sự cam kết tình yêu với Thầy mà Phêrô sang tận Rôma để rao giảng, giữa một cơn bắt đạo tàn nhẫn của hoàng đế Rôma, Phêrô đã dùng cái chết thập giá giống như Thầy mình để làm chứng cho Thầy.
Điều kiện mà Chúa đòi hỏi nơi người môn đệ của Chúa phải có là lòng yêu mến. Vì chỉ có tình yêu chúng ta mới có thể chấp nhận mọi thử thách để bước theo Chúa. Chúa Giêsu vì yêu thương chúng ta Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá, và tình yêu đó hôm nay cũng được thể hiện qua mỗi thành viên trong gia đình. Các em thấy, vì yêu thương con cái, cha mẹ chấp nhận khó nhọc để làm sao cho con mình được ăn học, dù vất vả nhưng cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con ngày càng lớn khôn. Và vì yêu mến cha mẹ, ngoài giờ đi học chúng ta cũng biết phụ giúp cha mẹ, mặc dù có cực nhọc nhưng chúng ta cảm thấy vui vì mình giúp đỡ cha mẹ chút gì đó. Vì yêu mến Chúa, ngày chúa nhật chúng ta hy sinh bỏ cuộc đi chơi với bạn bè, hay bỏ bộ phim hay để chúng ta đi lễ, học giáo lý đó là chúng ta đang nói với Chúa: Chúa biết con yêu mến Chúa.
Giờ đây chúng ta cũng được Chúa mời gọi làm chứng cho tình yêu Chúa trong gia đình, nơi trường học và qua những người mà chúng ta gặp gỡ. Có nhiều hình thức để chúng ta làm chứng cho Chúa: qua lời cầu nguyện, bằng gương sáng. Trong trường học chúng ta hãy cố gắng sống thành thật, biết giúp đỡ bạn bè.,không chửi thề nói tục đó là mình đang làm chứng cho Chúa, mình đang yêu mến Chúa. Có lẽ nếu giờ này Chúa hiện ra hỏi chúng ta: Con có yêu mến Thầy không?. Chắc ai cũng sẽ trả lời là có như thánh Phêrô xưa. Thế nhưng chúng ta có dám dùng thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ vả chính cuộc sống của mình để minh chứng tình yêu như Phêrô không? Chắc chắn tự sức ta sẽ rất khó khăn nhưng nếu chúng ta chấp nhận để Chúa dùng chúng ta như khí cụ của Chúa thì chúng ta sẽ dám mạnh mẽ nói như Phêrô: Thầy biết con yêu mến Thầy.
Kính thưa ông bà, cô bác và toàn thể anh chị em rất thân mến!
Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta quá tự tin trong các nghề nghiệp, trong các chuyên môn của mình.: PS3-C75
Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta quá tự tin trong các nghề nghiệp, trong các chuyên môn của mình. Chúng ta cứ khăn khăn trong lập trường đó, chúng ta nghĩ rằng, mình phải làm như thế này mới đúng cách, làm thế kia mới đúng kỹ thuật, đúng khoa học, nhưng nhiều lúc chúng ta cũng bị thất bại thật ê chề.Thái độ quá tự tin đó khiến ta không còn biết đón nhận sự góp ý, sự soi sáng của người khác, nó khiến ta không còn tin, không còn cậy trông phó thác vào ai cả, chỉ cậy dựa vào tài ba của mình mà quên đi cả Chúa nữa. Sự vâng lời Chúa Giêsu nơi các tông đồ hôm nay giúp ta nhận ra bản tính thấp hèn yếu kém của con người chúng ta.
Thật ra, các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, các ông rành rẽ thời điểm và nơi chốn để việc đánh bắt có hiệu quả cao. Các tông đồ chọn thời gian và địa điểm đánh bắt rất đúng: đánh bắt vào ban đêm và các ông cũng thừa biết nơi nào trên biển để bắt được nhiều cá. Các ông rất dày công cố gắng trong nghề nghiệp của mình, các ông đã vất vã lao động cả đêm. Các ông rất tự tin trong nghề nghiệp của mình, nhưng các ông đã thất bại. Chắc hẳn trong sự thất bại này, các tông đồcảm nhận được sự yếu kém, sự bất toàn, sự giới hạn của bản tính con người.Chúa Giêsu xuất hiện như một nguồn an ủi cho các ông. Một điều thật đáng cho chúng ta học hỏi là các tông đồ biết vâng nghe lời Chúa, biết xem những hiểu biết của mình là hạn hẹp, bất toàn nơi bản thân để thánh ý Chúa hoạt động nơi con người các ông.Các tông đồ thừa biết kiến thức trong nghề nghiệp của Chúa Giêsu thua kém các ông, nhưng các ông vâng lời Thầy trong niềm tin, vâng lời trong niềm phó thác vào Thiên Chúa. Chính sự vâng lời đó đã mang lại cho các ông một thành quả vô cùng lớn lao, một mẻ cá kỳ diệu, một thành quả từ chính quyền năng Thiên Chúa.
Mẻ cá kỳ diệu mà Chúa Giêsu Phục Sinh thực hiện cho các tông đồ, cũng đang nhắc nhở chúng ta là những người có niềm tin vào Thiên Chúa, những người được thừa kế niềm tin từ các tông đồ. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta quá tự tin về tài năng,về sở trường của mình, đến nỗichúng ta quên cầu nguyện, quên cậy trông, phó thác vào Chúa và xin Người ban ơn phù trợ.Nhiều lúc chúng ta đã quên lời nói thật chí lý mà ông cha ta để lại: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Kinh nghiệm này đã được đúc kết bao đời, mời gọi chúng ta, nhìn ra thân phận nhỏ bé thấp hèn của mình, để đến với Chúa,và nài xin lòng thương xót của Ngài.
Hôm nay, chúng ta hãy noi gương các tông đồ bằng việc ý thức nơi con người mình còn rất nhiều khuyết điểm, còn nhiều bất toàn và chúng ta rất cần sự phù trì, trợ giúp của Chúa trong công ăn việc làm của chúng ta, đặc biệt là trong đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy noi gương các tông đồ là biếtcậy trông vào Chúa vì "không có Thầy, các con chẳng làm được gì".Lạy Chúa xin phù trì và trợ giúp chúng con. Amen.
KHÁC KHÔNG?
Ga 21, 1-19
Ngày nay qua các nghiên cứu chuyên sâu về mọi mặt thì thấy lịch sữ của Ga không đơn giản như: PS3-C76
Ngày nay qua các nghiên cứu chuyên sâu về mọi mặt thì thấy lịch sữ của Ga không đơn giản như đã tưởng. Nhất là Ga 21, Cách chung đồng ý là không phải của Ga mà được thêm vào sau vì văn phong không giống phần trước và thuộc thời rất muộn về sau.
Các Phúc Âm được chuyền tay chép lại và chuyện có sữa đổi thêm bớt là bình thường vì chưa có phương tiện nào để nhân bản dù mỗi lần nhiều hơn một bản thôi. Cho tới cuối thế kỷ IV và đầu V mới có bản văn như ngày nay. Khi ấy người ta phải hợp tuyển từ cả ngàn bản chép tay, không bản nào giống bản nào. Và Thánh Giêrônimô đã dịch ra tiếng la tinh ( bản Vulgata) được Giáo Hội coi là bản chính thức của Giáo Hội thì vấn đề chép lại và sửa đổi cũng đở nhiều.
Ga 21 không phải là của Ga chính thống, cũng không biết của ai ( đươc coi là của một môn đệ viết theo như Gioan kể lại). Đoán thế thôi.
Còn về các câu chuyện Phục Sinh ( hiện ra) được viết sau hết trong sách Phúc Âm với mục đích rỏ ràng không phải để chứng minh Chúa Giêsu đã Phục Sinh, vì Đức tin vào Chúa Giêsu đã Phục Sinh là Chúa và là Đấng Kitô đã hai năm rỏ mưòi rồi. Mục đích chính là:
-Buổi sáng ngày thứ I, với các bà, trong mớ lẩn lộn những dị biệt là để nhắn với các môn đệ "hãy trở về Galilê ở đó sẽ gặp Thầy". Thật ra những lời nầy không bảo đi về Galilê theo nghĩa chử mà là đã tin chắc chắn Chúa Giêsu đã Phục Sinh, là Đấng Kitô và là Chúa thì hãy đem ánh sáng Phục Sinh mà soi sáng mọi ký ức của họ về Đức Giêsu Galilê ie. những gì họ đã sống , đã nghe,đã chứng kiến về Đức Giêsu Galilê để nhớ lại và thấu hiểu theo cách nói ' Chúa Giêsu thở hơi ban thần khí giúp nhớ laị đầy đủ và hiểu rỏ Kinh Thánh'.
- Buổi chiều ngày thứ I:
- Với hai môn đệ đi làng Em mau: Cách nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh nhờ Kinh Thánh và Thánh thể.
- Với 11 môn đệ ( coi như lần hiện ra chính thức): Để sai đi ( cùng với việc ban phương tiện). Đã tin và vui mừng thì hãy đi loan truyền niền tin và vui mừng ấy..
- Tám ngày sau có Tôma ( vì chiều ngày thứ I Tôma mắc đi vắng). Các Phúc Âm cách chung đều nói ' các môn đệ chưa tin', cứng lòng. Ga không nói cách đó mà nói bằng câu chuyện của Tôma ông Dydimo ( Ông đi mô) bị đem ra làm gương'đi vắng' bị mắc. Vắng thì không thấy, không tin lời người khác thấy nói lại nên cũng không nhận được gì cả khi Chúa Giêsu đến ban cho ngày thứ I trong tuần. Tôma là trong số 12 ông đã được chọn. Mất Giuda rồi, buồn lắm, không nở bỏ Tôma. Chúa Giêsu đã yêu thương họ thì yêu thương đến cùng ( trừ đứa con hư mất) Nên gọi là Chúa Nhật của lòng thương xót . Tám ngày là để cho Tôma thấy mà tin ( đừng cứng lòng) và có đưọc những gì Chúa đã ban mà các ông khác kể lại gồm cả việc thổi- hơi- sai- đi cùng với ơn tha tội.
Ga 21 cũng cùng mục đích là sai đi. Nhưng ở đây'điểm' là Phêrô, người cầm đầu công cuộc " sai đi" vì việc rao giảng đã được tiến hành bốn năm mươi năm rồi - kết quả mỷ mản- Phêrô đã vào vai trò cầm đầu không thể chối cải hoặc thay thế được. Phải hợp thức hóa thôi.
Ga 21là lần bắt cá thứ I được thuật lại dưới ánh sáng Phục Sinh.
Thuyền của Phêrô. Phêrô cầm đầu đi đánh cá.
7 môm dệ. Con số 7 chỉ toàn thể. Đánh cá thì một thuyền 2 người. Con thuyền Giáo Hội do Phêrô cầm đầu mới nhiều thế.
Cả đêm không được gì. Sức con người thì làm được gì !
Thả lưới bên phải theo Lời Chúa mới kết quả. Thả lưới bằng thần khí của Đấng Phục Sinh thì lưói đầy cá.
153 con cá. Rỏ ràng không phải là cá thật mà là Truyền giáo. Lưới không bị rách là Giáo Hội. Phải hiểu theo nghĩa biểu tượng.
Chỉ là chuyện để vào đề. Đề chính là chuyện về Phêrô.
Ba lần hỏi. Văn chương do thái nói ba lần để chỉ thì superlatif vg. thánh thánh thánh không phải là ba lần thánh mà muốn nói rất thánh, chí thánh...Số 3 là số trời, mà là trời già. Bất quá tam.
Có thể: Phêrô nông nổi. Nói ngon miệng mà rồi chối Chúa ba lần ( cũng ba lần). Là chuyện tối quan trọng phải đánh lưỡi ba lần mà trả lời cho đầy đủ ý thức và chỉ có một lần không có cơ hội để làm lại đâu. Hỏi ba lần, trả lời ba lần thì nhấn mạnh đủ, ý thức đủ và đủ cho mãi mãi.
1 - "Có yêu Thầy hơn các anh em nầy không?". Yêu là quan trọng hơn hết. Yêu nhiều thì hơn hết, làm cho người ta sẳn sàng hy sinh chịu khó kể cả liều mạng. Yêu hơn thì sẽ kể là hơn
Hãy chăm sóc các chiên con của thầy. Chiên con thì phải chăm sóc cực hơn lại ăn thịt dể và ngon nữa. Đòi yêu nhiều mới dám trao cho.
2 - Có yêu mến Thầy không? Hãy chăm sóc các chị chiên của Thầy. Các chị nầy có em bé rồi nhưng cũng không dể gì.
3 - Có yêu mến thầy không? Một lần nữa cho chắc. Hỏi hai lần và giao phó hai lần các chị.
- Để cho người ta thắt lưng và dẩn đi không theo ý mình. Hãy theo Thầy. Không phải tự ý đi mà đi theo. Yêu thì hy sinh tự do rồi. Chăm sóc chiên Thầy vì yêu Thầy không phải vì yêu chiên, là phục vụ như Thầy sẳn sàng hiến mạng sống vì chiên. Có như thế thì hãy theo Thầy: vác thập giá và hiến mạng sống. Theo truyền thuyết 'Quo vadis' thì Phêrô khăn gói bị gậy đi trốn ra cửa thành gặp Chúa Giêsu đi vào.....và ông đã trở vào vác thập giá và hiến mạng sống ( không để Chúa Giêsu chịu đóng đinh lần nữa).
Phêrô đóng vai là người cầm đầu việc rao giảng với lòng yêu mến Chúa Giêsu hơn các anh em khác để thay thế Chúa Giêsu hữu hình. Từ đầu Phêrô đã nổi lên và được công nhận là người cầm đầu thật sự ( chắc lúc viết bài nầy Phêrô đã hoàn tất nhiệm vụ). Gioan rất quan tâm đến việc ' được sai đi'. Thiên Chúa sai Đức Giêsu ( để anh em nhận biết Đấng Người đã sai đến). Chúa Giêsu sai các tông đồ. Đươc sai chính thức mới được ban các phương tiện và quyền năng để thi hành sứ mạng và mới đuợc tin tưởng. Phêrô phải được Chúa Giêsu chính thức 'sai' cầm đầu việc rao giảng mà Người đã truyền cho các tông dồ.
Điều mà đoạn Phúc Âm nầy muốn nhấn mạnh hơn hết là 'yêu mến hơn hết' làm tính cách đặc biệt của người cầm đầu cho những vị kế tiếp. Yêu mến hơn hết để cầm đầu trong việc phục vụ và hiến mạng sống như Chúa Giêsu và vì yêu mến Chúa Giêsu hơn hết.Nhưng không phải máy móc, khô khan mà ướt át, tình cảm vì yêu mến và yêu mếu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Chủ chăn được Chúa Cha sai. Đoàn chiên là của Chúa Giêsu, Đấng là Chúa và là Thầy và cũng là Đấng rữa chân. Phêrô và những vị kế tiếp, hãy làm vị cầm đầu như lòng Chúa mong ước.
Ga 21, 1-19
Lúc còn nhỏ, tôi thường nghe cha mẹ nói: Đức vâng lời trọng hơn của lễ. Con cái lớn có nhiều: PS3-C77
Lúc còn nhỏ, tôi thường nghe cha mẹ nói: Đức vâng lời trọng hơn của lễ. Con cái lớn có nhiều tiền cũng chưa chắc làm vui lòng cha mẹ bằng một đứa con nhỏ nhưng biết vâng lời. Điều này làm tôi suy nghĩ.
Thực ra, những gì con cái có cũng là do cha mẹ tích luỹ và giúp cho mới có. Vd: kiến thức, nghề nghiệp, vốn sống. con cái lúc còn nhỏ, nhờ cha mẹ nuôi nấng dạy dỗ, chăm sóc mới trưởng thành, mạnh khỏe. Trong giai đoạn này, conc ái có làm nên chuyện gì cho cha mẹ nhờ đâu! Nếu không vì con cái, cha mẹ sống dư ăn dư mặc. Cho nên, đối với cha mẹ, điều cha mẹ ưa thích nhất là con cái biết vâng lời hơn là chỉ trả hiếu bằng vật chất.
Từ đây, tôi nghĩ đến tương quan của con người đối với Thiên Chúa. Chúa là Cha Mẹ chúng ta, chúng ta có thể giúp gì cho Ngài, vì chính Ngài tạo nên trời đất muôn vật. Điều chúng ta làm vui lòng Ngài là vâng theo thánh ý. Loài người chúng ta tự sức mình có thể làm được gì? Trường hợp các Tông đồ trong bài phúc âm hôm nay cũng dạy ta điều đó. Các Tông đồ đã nhiều năm kinh nghiệm trong nghề chài lưới nhưng suốt đêm không bắt được con các nào! Lúc các ông giặt lưới, chuẩn bị về thì Chúa Giêsu hiện đến. Ngài chỉ phán một lời: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Quả nhiên, làm theo lời Chúa dạy, các Tông đồ được một mẻ cá lớn chưa từng thấy, không thể kéo nổi lên thuyền. Như vậy, với kinh nghiệm nhiều năm và sức cố gắng suốt đêm của các Tông đồ cũng chưa chắc được gì! Nhưng với sức Chúa thì trong tích tắc đã có đủ những gì chúng ta mơ ước.
Chúa Giêsu rất thương các tông đồ. Ngài biết các ông vất vả suốt một đêm nhưng không bắt được gì, nên đã ban cho một phép lạ, một mẻ cá đầy thuyền. Hơn nữa, Ngài còn muốn thể hiện tình thầy trò gắn bó mật thiết với các Tông đồ trước khi về trời, nên đã tự tay nướng cá và bánh đãi các ông. Rõ ràng, Chúa Giêsu sống rất tình nghĩa và luôn dõi theo các ông mà trợ giúp.
Với một tình nghĩa Thầy trò đầm ấm mật thiết như vậy, lẽ nào các ông lại phản bội Thầy Giêsu cũng là Chúa của mình.
Các ông biết Ngài là Thiên Chúa có quyền năng vô biên, cảm nhận tình nghĩa Thầy trò gắn bó, thân thiết. Do đó, khi thầy thượng tế ra lệnh cấm các ông nhân danh Đức Giêsu mà giảng dạy thì Phêrô và các Tông đồ trả lời ngay: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta. Thiên Chúa, cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, tôn Ngài làm Đấng Cứu Độ để cho Israel được ăn năn sám hối và ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các điều ấy cùng với Chúa Thánh Thần.
Các Tông đồ không thể nói trái sự thật được. Cho dù khi nói sự thật thì bị kẻ cầm quyền làm khó dễ. Khi bị nhà cầm quyền đánh đòn, các Tông đồ tuy đau đớn nhưng lòng đầy hân hoan vì thấy mình được chịu sỉ nhục vì danh Đức Giêsu. Mặc dù việc rao giảng về Chúa Giêsu gặp nhiều khó khăn, nhưng các Tông đồ không chùn bước khi nhớ lại tình nghĩa thầy trò và mẻ cá lạ lùng hôm nay. Qua mẻ lưới lạ lùng, các Tông đồ hiểu rằng: chỉ cần Chúa phán một lời thì kẻ thù Ngài tan rã và đồng lúa truyền giáo được mùa bội thu. Thế nhưng, ý nhiệm mầu của Chúa dường như muốn cho các ông phải khổ một thời gian để thông phần đau khổ với Chúa. Rồi mai đây Chúa sẽ cho các ông gặt hái những kết quả mỹ mãn, không phải bởi sức riêng của mình nhưng nhờ ơn Chúa. Và sau cùng, Ðức Giêsu sẽ cho các ông đồng hưởng vinh phúc với Ngài trên Thiên Quốc.
Con người ngày nay hay cậy sức riêng mà quên phó thác cho kế hoạch nhiệm mầu của Chúa nên hay thất vọng. Chúng ta con Chúa, hãy trông cậy vào Chúa, cứ cố gắng thờ phượng Chúa, đối xử tốt với tha nhân, loan báo Tin Mừng phục sinh, giữ vững niềm tin. Rồi Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho chúng ta, và cứu độ những ai có lòng thành tâm tìm Chúa.
Xin Chúa cho chúng con biết hướng lòng về Chúa, năng cầu nguyện và tìm mọi cách cho danh Chúa được cả sáng. Amen
Ga 21, 1-19
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe phác họa lại cảnh Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ: PS3-C78
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe phác họa lại cảnh Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ trên bờ biển Hồ Tibêria. Sự kiện này xoay quanh Tông đồ Phêrô. Trong lúc Phêrô và các Tông đồ trở lại nghề cũ là đánh cá thì Chúa Giêsu hiện ra. Sau bữa ăn, Đức Giêsu đã thẩm định tình yêu của Phêrô và trao cho ông một sứ vụ mới, đó là chăn dắt đàn chiên của Chúa. Sự kiện này có thể làm cho chúng ta thắc mắc: Tại sao Phêrô chỉ là một ngư phủ dốt nát, thậm chí ông là một người đầy những yếu đuối, mới chối bỏ Thầy mình cách đây vài ngày, thế mà giờ đây Chúa Giêsu sau khi sống lại đã không trách móc hay hạch tội Phêrô mà còn trao cho ông một sứ vụ, một ơn gọi thật lớn lao như vậy? Phải chăng Phêrô tuy yếu hèn nhưng lại có tài lãnh đạo cao? Không phải vậy.
Thầy Giêsu đã đi bước, Ngài đã thấy tấm lòng của Phêrô và Ngài chấp nhận con người yếu đuối của ông để từ tình tình yêu và lòng trung thành của Phêrô mà Thầy Giêsu hoàn tất những gì Ngài khởi sự nơi ông. Điều này còn cho ta thấy, Đức Giêsu không xây dựng Giáo hội của Ngài trên sức mạnh của con người nhưng xây dựng trên tình yêu và lòng trung thành của con người.
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Phêrô là người bộc trực, tính tình nóng nảy, rất nhiều lần ngài hành động mà không suy nghĩ, Phêrô phản ứng rất mau lẹ trước mọi biến cố, mặc dù gặp nhiều sai sót và bị Đức Giêsu sửa dạy nhiều điều. Chẳng hạn, khi vừa nghe Thầy Giêsu loan báo cuộc thương khó, Phêrô đã vội can ngăn thầy mình, liền bị Chúa rầy cho là đồ Satan. Hay khi Thầy Giêsu rửa chân cho Phêrô để dạy cho ông bài học yêu thương phục vụ thì Phêrô lại từ chối: "Không được, không đời nào thầy mà lại đi rửa chân cho học trò". Chưa hết, khi quân lính đến bắt Thầy Giêsu, Phêrô đã nhanh tay rút lấy gươm mà chém đứt tai của một người đầy tớ vị thượng tế. Và tệ hại hơn nữa, trong lúc Thầy Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn, trong đó có cả ông, Hơn nữa đang lúc Thầy Giêsu gặp cảnh khốn khó, đáng lẽ Phêrô phải đứng ra bênh vực nhưng Phêrô đã không làm như vậy, ông đã thẳng thừng chối bỏ Thầy mình. Con người Phêrô là thế đó, đầy khiếm khuyết, yếu đuối, bất toàn..Tuy yếu hèn như vậy, nhưng Phêrô lại có một tình yêu mãnh liệt vào Thầy của mình. Có ai vừa nghe nói: "Chúa đó" thì vội mặc áo vào rồi lại nhảy xuống nước không? Thế nhưng hành động này của Phêrô chứng tỏ rằng ông có một tình yêu mãnh liệt vào Thầy của mình.
Sau biến cố Thầy Giêsu tử nạn, các Tông đồ hoàn toàn thất vọng và buồn chán vì đã ba năm các ông bỏ mọi sự mà đi theo Thầy mong tìm được sự đổi đời. Thế mà bây giờ mọi sự đều phải bắt đầu. Ông Phêrô đành trở lại với nghề cũ của mình. Song le tâm hồn Phêrô vẫn còn âm ĩ một nỗi niềm mong chờ được gặp lại Thầy Giêsu. Phêrô vẫn còn khao khát mong sớm được gặp lại Thầy của mình. Chính vì thế mà cũng hiểu vì sao khi vừa nghe nói Chúa đó thì Phêrô không còn kịp chèo thuyền vào bờ nữa mà vội khoác áo vào rồi nhảy xuống nước để đến với Chúa cho nhanh hơn. Gặp được Chúa rồi thì hạnh phúc. Sau bữa ăn, Đức Giêsu bắt đầu thẩm vấn Phêrô về tình yêu và trao cho ông một sứ vụ mới, đó là làm thủ lãnh Giáo hội để tiếp tục công việc của Ngài. Không giống những cuộc thẩm vấn nào cả, Đức Giêsu không hỏi Phêrô bằng cấp, kinh nghiệm lãnh đạo, nhưng Ngài hỏi về tình yêu và lòng trung thành của ông đến ba lần: "có yêu mến Thầy không" ? Câu hỏi ấy thật tế nhị vì với Phêrô mới chối Thầy ba lần mà giờ đây Ngài lại hỏi ông có yêu mến Thầy không. Mới phản bội đây mà bây giờ lại nói lời yêu thương thì thật là ngại quá. Thế nhưng Phêrô đã mạnh dạn: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Ba lần chối Chúa thì giờ đây cũng ba lần Phêrô nói lời yêu thương để tuyên xưng lại niềm tin. Từ đó, Phêrô đã thực sự trở nên thủ lãnh chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Như vậy, Phêrô đã trung thành với ơn gọi của mình và đã trung thành cho đến chết.
Khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa trao cho một ơn gọi, đó là ơn gọi làm Kitô hữu, làm con Chúa. Tuy chúng ta đầy yếu hèn nhưng Chúa vẫn thương, kêu gọi chúng ta trở thành những Kitô hữu. Thế nhưng điều đáng tiếc là ngày nay có nhiều người đã không sống tròn bổn phận là Kitô hữu biết yêu thương như Chúa muốn. Như thế thì chúng ta còn gì là men là muối cho đời nữa, và như thế không còn trung thành với ơn gọi Kitô hữu. Ơn gọi Kitô hữu là một tiếng gọi trở nên "muối và ánh sáng cho trần gian". Chúng ta là những Kitô hữu, không phải chỉ để cho có danh, nhưng chúng ta phải hành động, phải sống đời Kitô hữu của mình. Chúng ta phải là ngọn đèn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy sống trọn ơn gọi làm Kitô hữu của mình. Nói cách khác, chúng ta hãy "sống đạo" chứ đừng "giữ đạo". Vậy chúng ta đã là những Kitô hữu thì chúng ta hãy sống trọn vẹn ơn gọi làm Kitô hữu của mình.
Xin Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta biết ý thức lại và sống ơn gọi Kitô hữu của mình để chúng ta luôn là những gương sáng cho những người khác, để chúng ta biết sống Thánh Lễ nối dài từ trong nhà thờ đến giữa đời để từ đó chúng ta luôn là men là muối ướp cho mặn đời. Amen.
Ga 21, 1-19
"Lưới đầy cá lớn, đếm được 153 con. Cá nhiều như vậy mà lưới không rách".
Thánh Inhaxiô thành Antiokia là người đầu tiên dùng danh từ phổ quát để diễn tả đặc tính cộng đồn: PS3-C79
Thánh Inhaxiô thành Antiokia là người đầu tiên dùng danh từ phổ quát để diễn tả đặc tính cộng đồng của Giáo Hội. Phổ quát có nghĩa là chung, dành cho tất cả mọi người. Tuy vậy, không phải đến thời của Thánh Inhaxiô thì điều này mới được thánh nhân phát hiện ra. Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ đã nhận ra được sứ vụ phải loan báo Tin Mừng cho mọi loài. "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). Nhưng chính xác hơn điều này đã thấy trước khi Đức Giêsu chịu nạn khi Ngài tiên báo là dân Do thái sẽ bị loại ra và các dân khác sẽ được hưởng ơn cứu độ. "(Mt 8,12).
Đoạn Phúc Âm cuối cùng của Thánh Gioan cho chúng ta thêm một lời khẳng định về tính phổ quát của Giáo hội. Ta thấy nơi Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên là ở bờ hồ Giênêgiarét (x. Ga 5,1). Và bây giờ Chúa lại đến bờ hồ Tibêria để trao quyền rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ hay nói đúng hơn là quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trong Kinh Thánh bờ hồ là nơi Đức Giêsu gặp gỡ và giảng dạy dân chúng. Nghĩa là Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ tiếp tục công việc của Ngài, nhưng hôm nay không phải chỉ ở bờ biển mà là mọi nơi trên trần gian này.
Theo trình thuật của Thánh Gioan thì Phêrô được xem như vai chính trong đoạn phúc âm này. Ông thả lưới suốt đêm mà chẳng được gì. Rồi cũng chính ông nghe theo lời Đức Giêsu thả lưới bên phải mạng thuyền. . Ông cũng là người kéo mẻ cá đó vào bờ. Ông đã thắng đậm. Lưới đầy cá lớn. Một mẻ lưới mà từ lúc khởi nghiệp nghề biển đến nay ông chưa bao giờ có được. Chắc chắn Thánh Gioan có dụng gì sâu xa khi để cho 153 con cá xuất hiện trong mẻ lưới của Phêrô. Nhà chú giải Thánh Kinh William Barclay đã trình bày 3 gợi ý rất thú vị về con số 153 này.
Thứ nhất, theo Cyril ở Alexandria cho rằng số 153 có 3 điểm để lưu ý. Số 100 tiêu biểu cho sự trọn vẹn, đàn chiên 100 con thì mới tốt(). Hạt giống tốt cũng sinh 100. Đó là một sự đầy đủ của mọi dân tộc. Còn 50 là số dân Israel còn sót lại được thu tập về. Còn số 3 là Ba Ngôi mà mọi vật phải qui tụ.
Thứ hai, theo thánh Augustinô, số 10 là 10 điều răn, là lề luật của Chúa. 7 là 7 ơn Chúa Thánh Thần. 7 cộng 10 là 17. Mà tổng các số từ 1,2,3.... đến 17 là 153. Như vậy, 153 là tất cả những ai nhờ lề luật hoặc nhờ ân sủng thúc bách mà tìm về với Đức Giêsu.
Đơn giản nhất là cách lý giải của Thánh Jerome. 153 là tất cả mọi sắc tộc, mọi quốc gia sẽ được quy tụ về một chủ chăn là Đức Giêsu.
Ở đây, chúng ta cần tìm hiểu thêm một hình ảnh rất sống động và cũng rất giàu ý nghĩa là chiếc lưới. Chiếc lưới dù bắt nhiều cá nhưng không rách. Tay lưới là Hội thánh. Hội thánh có đủ chỗ cho tất cả nhân loại trên địa cầu. Có bao nhiêu người thì Hội thánh cũng đủ rộng để ôm ấp, giữ gìn.
Trình bày như thế chắc là chúng ta cũng hiểu được dụng ý của Thánh Gioan một cách ít nhiều. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Hội thánh không còn là độc quyền của riêng người Do thái hay một nhóm dân đạo đức nào. Mà cho tất cả những ai tin và chịu phép rửa của Ngài, không có sự phân biệt màu da, ngôn ngữ, giới tính, sắc tộc. Ngày hôm nay Hội thánh vẫn giữ nguyên sứ vụ của mình như cách đây 2.000 năm. Đó là lãnh đạo nhân loại hướng về hạnh phúc thật trên thiêng đàng. Giáo hội vẫn mở rộng cửa đón tiếp mọi người. "Tính bao dung của Hội thánh cũng phổ quát như tình yêu thương của Đức Chúa Trời". Chính nhờ tính phổ quát đó mà giờ đây tôi được làm con cái Thiên Chúa, làm thành phần dân thánh của Người. Ý thức như thế để chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì đã cho ta tháp nhập vào thân thể thánh thiêng của Người. Nói như thánh Cypriano: "Không ai có thể có Thiên Chúa là cha, mà lại không có Hội thánh là Mẹ". Như vậy, dù thế nào thì chúng ta cũng phải có mẹ, để được sinh ra trong cuộc đời này. Cũng như không thể bước vào Nước Trời mà không qua Hội thánh. Qua đó, chúng ta cần hoà mình vào trong nhịp sống của Giáo hội, để trở nên con hiếu thảo, và góp cánh tay để Giáo hội được nới rộng ra cho nhiều anh chị em, để tính phổ quát của Giáo hội được biểu hiện thiết thực hơn.
Ga 21, 1 - 19
Khi hướng về tương lai, con người ta hay đặt hy vọng của mình vào điều gì đó hay một ai đó. Ðó: PS3-C80
Khi hướng về tương lai, con người ta hay đặt hy vọng của mình vào điều gì đó hay một ai đó. Ðó là động cơ thúc đẩy con người ta thêm phấn khởi để dấn bước. Tuy nhiên, nếu như đột nhiên người đó hay điều đó bỗng nhiên mất đi thì phần nhiều sẽ làm cho người hy vọng sẽ cảm thấy mất phương hướng. Ðang lúc mất phương hướng như thế, nếu họ may mắn gặp được một ai đó hay điều gì đó tốt hơn chắc chắn sẽ làm cho cuộc đời họ được biến đổi.
Chúng ta nhớ sau khi Chúa Giêsu bị bắt và bị treo trên cây thánh giá thì các Tông đồ như những con người mất cả phương hướng sống. Mặc dù, các ông được Chúa Giêsu kêu gọi đi theo nhưng trong các ông vẫn còn những tính toán theo kiểu người phàm. Các ông hy vọng mình sẽ được đổi đời. Bất ngờ, Chúa Giêsu bị người ta bắt và đem đi đóng đinh một cách khổ nhục trên cây thánh giá. Thử hỏi làm sao các ông có thể bình tĩnh cho được.
Một buổi sáng nọ, các ông quyết định trở lại nghề nghiệp của mình trước kia. Ông Phêrô đã gợi ý: "Tôi đi đánh cá đây." (Ga 21, 3b). Với gợi ý đó, các Tông đồ còn lại đồng thanh hưởng ứng: "Chúng tôi cùng đi với anh." (Ga 21, 3c). Dường như trong tâm trạng buồn chán thất vọng nên suốt đêm các ông hầu như không bắt được một con cá nào.
Chính lúc ấy Chúa Giêsu Phục sinh xuất hiện: "Người nói với các ông: Này các chú, không có gì ăn ư? Các ông trả lời: Thưa không. Người bảo các ông: Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." (Ga 21, 5 - 6). Theo lẽ thông thường các ông có quyền không làm theo vì đã suốt đêm rồi chẳng bắt được con nào. Dầu vậy, các ông vẫn làm theo: "Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá" (Ga 21, 6b). Ðến lúc này các ông mới nhận ra người kêu mình chính là Chúa Giêsu Phục sinh: "Người môn đệ được Ðức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: Chúa đó!. Vừa nghe nói , Chúa đó!, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển". (Ga 21, 7)
Ðây là cử chỉ khiêm tốn thật lòng của Phêrô. Từ một con người hung hăng đến chối Thầy giờ đây không còn nữa. Bây giờ Phêrô đã nhìn nhận được thân phận của mình. Thái độ khiêm tốn này chính nhờ ông tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh. Từ đây về sau ông không còn mơ ước được làm người người lớn theo kiểu người phàm nữa.
Chúa Giêsu đã biến đổi ông để sau này ông trở thành người lớn theo cách dạy của Chúa Giêsu. Ðó là hiến mình phục vụ Chúa và anh chị em. Mỗi người tín hữu chúng ta cũng được mời gọi tin và làm theo lời dạy của Chúa Giêsu Phục sinh trong đời sống hằng ngày. Nhờ đó, chắc chắn đời sống của chúng ta sẽ được biến đổi mỗi ngày tốt hơn.
Chúa Nhật III Phục Sinh C
Gio 21:1-19: 1 Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này.2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su.5 Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không."6 Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. 9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.10 Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.12 Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa.13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy."16 Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."17 Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn."19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."
Đoạn tin mừng gồm hai phần chính 21:1-14 và 21:15-19. Bố cục của đoạn 21:1-14 như sau: - Bối cảnh: PS3-C81
Đoạn tin mừng gồm hai phần chính 21:1-14 và 21:15-19. Bố cục của đoạn 21:1-14 như sau: - Bối cảnh của buổi hiện ra lần thứ ba (21:1-3); - Phép lạ mẻ cá (21:4-8); - Bữa ăn của Chúa Giêsu với các môn đệ (21:9-14). Đoạn 21:15-19 là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô và Người trao quyền chăn dắt đàn chiên cho ông.
Bối cảnh buổi hiện ra lần thứ ba (21:1-3). Trình thuật mở đầu với khẳng định là “Người lại hiện ra cho các môn đệ” (21:1). Đây là lần hiện ra thứ ba (21:14), sau hai lần khác (20:19.26). Hai sự kiện chính trong trình thuật nầy là Chúa Giêsu làm phép lạ mẻ cá lớn và Người ăn với các môn đệ. Động từ “phaneroō” được dùng để chỉ sự hiện ra hữu hình của Chúa Giêsu sau khi sống lại. Trong khi ở những nơi khác, động từ nầy chỉ sự biểu lộ những điều thuộc về Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Tuy vậy, có thể hiểu là sự hiện ra hữu hình nầy cũng là sự biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu sống lại cho các môn đệ, với mục đích là làm cho họ tin vào Người (21:7; x. 2:11). Danh sách tên của các môn đệ được nêu lên ở đây như là đại diện cho nhóm. Phêrô luôn đứng đầu nhóm (x. 6:67-69; 13:6-9; 20:2-7). Nathanael được ghi nhận là xuất xứ từ Cana xứ Galilêa (x. 1:46). Hai người con của Zêbêđê lần duy nhất được nêu lên trong Gioan. Còn “hai môn đệ khác” không nêu tên ở đây có thể là người môn đệ dấu yêu (21:7.20-24; 13:23; 19:26; 20:2.3.8). Hai môn đệ vô danh đã xuất hiện ở đầu trong bối cảnh của lời Gioan Tẩy giả giới thiệu là “Con Chiên Thiên Chúa” (1:35) và cuối tin mừng trong trình thuật sống lại (21:2); có thể ngụ ý đó là hai nhân chứng của tất cả những việc Chúa Giêsu đã thực hiện và đã giảng dạy ngay từ đầu. Việc Phêrô đi đánh cá, các môn đệ khác theo ông và kết quả không bắt được gì hết (21:3) không mang nhiều ý nghĩa như trong trình thuật của Luca (Lc 5:5). Đó là bối cảnh cho phép lạ sắp xảy ra trong phần tiếp theo.
Phép lạ mẻ cá lớn (21:4-8). Chúa Giêsu hiện ra vào sáng sớm; thời điểm gặp gỡ Chúa sống lại (x. 20:1). Các môn đệ trông thấy và nghe tiếng Người nhưng không nhận ra Người; Maria cũng đã như thế (20:14). Như Maria, họ cần một hành động từ Chúa Giêsu. Người bắt đầu bằng cách gọi họ là “Nầy các con”. Người cũng gọi họ như thế trong buổi giã từ (x. 13:33). Trong cả hai trường hợp họ đều ở trong tình trạng thất vọng và chán nản. Chúa Giêsu ra lệnh cho họ cách quyền uy để giúp họ vượt qua tình huống nầy, “Hãy thả lưới bên phải” (21:6; x. 13:34). Kết quả họ bắt được mẻ cá lớn, vì họ đã vâng lệnh làm theo lời Người. Qua phép lạ, người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến liền nhận ra Người trước tiên “Chúa đó” (21:7; x. 20: 8). Còn Phêrô, ông chỉ phản ứng theo sau sự nhận biết của người môn đệ được Chúa yêu.
Bữa ăn cho các môn đệ (21:9-14). Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn một bữa ăn trên bờ hồ cho các môn đệ. Họ đóng góp vào các con cá đã bắt được (21:10.12). Người trao cho các ông bánh và cá (21:13) như Người đã làm cho dân chúng cũng trên bờ hồ Tibêriát (6:1-13). Điểm khác biệt ở đây là Người cùng ăn với họ; nghĩa là cho họ hiệp thông với Người. Chính nhờ đó, họ đã nhận ra Người là Chúa (21:12; x. 24:30-31). Vậy, bởi sáng kiến của Chúa Giêsu là cho các môn đệ mẻ cá lớn và cùng ăn với họ, họ đã nhận ra Người đã hiện ra với họ sau khi sống lại.
Trình thuật tiếp theo liên hệ với trình thuật trước bởi ghi nhận “sau khi ăn”. Trong trình thuật nầy, Phêrô tiếp tục là nhân vật chính. Cuộc đối thoại sau cùng của Chúa Giêsu với ông là lúc giã từ (13:36-38). Trong lần đó, Phêrô đã cam kết với Người là liều mạng sống vì Người (13:37). Nhưng sau đó, ông đã chối Người ba lần như lời Người tiên báo (13:38; x. 18:17.25.27). Bởi đó, bây giờ Người hỏi ông đến ba lần cùng một câu hỏi “Anh có yêu mến Tôi không?”, vì Người muốn trao cho ông chăn dắt đàn chiên của Người (21:15.16.17). Người trao lại cho Phêrô tư cách làm người mục tử dành riêng cho Người, Mục tử tốt lành (10:11). Điều kiện Người đòi hỏi trước khi Người giao phó đàn chiên cho là yêu mến Người hơn tất cả mọi người khác; nghĩa là vì lòng mến đối với Người mà yêu mến và thí mạng sống cho đàn chiên (x. 10:17). Bởi đó, có yêu mến Người hơn mọi người, mới có thể chăn dắt đàn chiên của Người như cách Người mong muốn.
Sau việc trao quyền mục tử cho Phêrô, Chúa Giêsu nói đến định mệnh của ông. Trong buổi giã từ, Phêrô muốn theo Chúa Giêsu để liều mạng sống vì Người (13:37). Nhưng Người tuyên bố là ông sẽ làm điều ấy không phải ngay lúc ấy, mà sau nầy (13:36). Hai giới từ về thời gian “bây giờ” và “sau nầy” tương ứng với sự phân biệt “khi còn trẻ” và “khi nên già”. “Bây giờ” dù đã cam kết liều mạng sống vì Người, Phêrô đã không làm khi chối bỏ Người. “Sau nầy” khi đã hối cãi và yêu mến Người hơn mọi người, Chúa Giêsu cho ông đi theo Người như Người đã hứa với ông. Lúc ấy “khi đã nên già”, ông sẽ không tự quyết định đường đi cho mình nữa, mà Chúa Giêsu, “Hãy theo Tôi” (21:19.22). Điều “người khác” đã làm cho Chúa Giêsu cũng sẽ làm cho ông. “Chết như thế nào để làm vinh danh Thiên Chúa” đó là cái chết như Chúa Giêsu (18:32; x. 12:28; 13:31-32; 17:1; 21:19; Cv 21:11.14; 2Ph 1:14). Hơn nữa, việc tuyên xưng yêu mến Chúa Giêsu và nhận quyền mục tử thay Người đã bao hàm sự hy sinh cho đàn chiên như Người đã làm. Vậy, khi trao quyền cho Phêrô, Chúa Giêsu muốn ông nên giống Người hoàn toàn.
Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệ như một mục tử tốt lành. Các ông đã tin vào Người và được mời gọi trở nên như Người khi làm mục tử cho đàn chiên của Người.
Để nhận ra những điểm giáo lý về đời sống Hội Thánh Chúa Kitô, trước nhất chúng ta phải tìm: PS3-C82
Để nhận ra những điểm giáo lý về đời sống Hội Thánh Chúa Kitô, trước nhất chúng ta phải tìm hiểu:
- Tầm quan trọng trong chương 21 của Tin Mừng Gioan.
- Ý nghĩa 153 con cá.
- Lý do Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ: “Hãy thả lưới bên phải thuyền”.
- Lý do Chúa Giêsu hỏi ông Phêrô ba lần “có yêu Thầy không” trước khi Ngài trao quyền ?
- Những việc làm cụ thể, phát xuất từ đức ái để xây dựng Hội Thánh.
I/ TẦM QUAN TRỌNG TRONG CHƯƠNG 21 CỦA TIN MỪNG GIOAN.
Ngày nay có nhiều ý kiến khác nhau về tác giả chương 21 của Tin Mừng thứ tư, người thì bảo là của ông Gioan, kẻ khác cho là của môn đệ ông Gioan, ý kiến khác nữa lại cho là của một tín hữu vô danh nào đó. Sở dĩ đã có những ý kiến khác nhau như vậy, vì họ thấy ông Gioan đã kết thúc Tin Mừng ở chương 20,30-31: “Đức Giêsu đã làm trước mắt các môn đồ của Ngài nhiều dấu lạ khác nữa, không viết lại trong sách này …” , thế mà lời kết trong chương 21, tác giả lấy lại lời kết ở chương 20!
Vấn đề của tác giả nào, chúng ta hãy để cho các nhà chuyên môn tranh luận, còn phần các Ktô hữu phải xác tín rằng:
Chương 21 của ông Gioan được Hội Thánh Công giáo công nhận là phần của mạc khải, tác giả chính hay tác giả nguyên nhân là Chúa Thánh Thần ; tác giả phụ hay tác giả dụng cụ là người viết.
20 chương đầu của Tin Mừng Gioan, tác giả viết về Chúa Giêsu:
- Ngài là Đấng tái tạo mọi sự trong vũ trụ nên hoàn hảo hơn.
- Ngài là sự sống.
- Ngài là ánh sáng.
- Ngài là chân lý.
Chỉ có chương 21 ghi nhận những sinh hoạt đời sống Hội Thánh, tuy nhiên tầm quan trọng của chương 21 cũng bằng 20 chương trước, vì hai lời kết đều ghi giống nhau: “Đức Giêsu đã làm …” (x Ga 20,30 ; 21,25)
II. Ý NGHĨA 153 CON CÁ ?
1- Theo thánh Giêrônimô: Thời bấy giờ người ta nghĩ là tất cả mọi loại cá biển gồm 153 loại. Nếu thế thì đây là biểu tượng cho sứ mệnh của Hội Thánh: nhờ làm theo Lời Chúa, Hội Thánh thâu họp vạn vật để phục vụ con người, con người “thuộc về Chúa Kitô, Chúa Kitô thuộc về Chúa Cha” (x 1Cr 3,22-23). Đó cũng là ý mà Phụng vụ hôm nay đã nói trong Bài đọc II: “Mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5,13)
2- Theo thánh Augustin: Tin Mừng Gioan viết về cuộc sáng tạo mới trong Đức Giêsu, mọi hoạt động trong Hội Thánh cũng chính là con người được Đức Giêsu mời gọi cộng tác để kiện toàn cuộc tạo dựng mới này. Do đó số 153 con cá có nghĩa là:
a- Hình tam giác đều có ba cạnh, ba góc bằng nhau: chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa bằng nhau.
b- Sáu đoạn trên mỗi cạnh tam giác chỉ 6 ngày Thiên Chúa tạo dựng vạn vật trong vũ trụ rất tốt đẹp (x St 1).
c- Nhìn trên hình tam giác, số 17 = 10 + 7. Số 10 chỉ về 10 Điều răn (toàn thể Luật Chúa) ; số 7 chỉ về các Bí tích (toàn thể ơn Chúa). Đây là dấu chỉ: nhờ Lời Chúa ta được lãnh nhận dồi dào ơn qua các Bí tích.
d- Số 153 con cá trong lưới của ông Phêrô là tổng số từ 1+2+3+… 17. Đây là dấu chỉ sứ mệnh của Hội Thánh phải làm cho toàn thể nhân loại thuộc về Hội Thánh, thuộc về Thiên Chúa
Vậy cuộc tạo dựng mới này rất hoàn hảo nhờ Ba Ngôi Thiên Chúa dùng Lời và các Bí tích để tái tạo vũ trụ nói chung và người Công Giáo nói riêng.
Vì sứ mệnh của Hội Thánh là dùng Lời Chúa và Bí tích để làm cho cả loài người được tạo dựng lại trong Đức Giêsu Phục Sinh, cho dù các Tông Đồ có bị bách hại vì sứ mệnh này, họ cũng không sợ hãi. Trái lại, họ hân hoan bị sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu Kitô! (x Cv 5,27b-32 . 40-41: Bài đọc I) Bởi vì: “Máu các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Kitô hữu” (ông Tertuliano)
III. LÝ DO CHÚA GIÊSU RA LỆNH CHO CÁC MÔN ĐỆ: “HÃY THẢ LƯỚI BÊN PHẢI THUYỀN?” (x Ga 21,6)
Thuật ngữ “bên phải” của Thánh Kinh luôn luôn diễn tả về ơn cứu độ như con chiên (người lành) đứng bên phải Thiên Chúa cứu độ (x Mt 25,34), như lời ngôn sứ Êdêkiel chương 47, câu 1 nói: “Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì được cứu độ.”
“Nước từ bên phải đền thờ chảy ra” chính là trái tim Chúa Giêsu bị đâm trên thập giá !
Vậy lưới các Tông Đồ thả bên phải thuyền bắt được mẻ cá lạ lùng, chính là dấu chỉ những hoạt động của Hội Thánh sẽ đạt kết qủa lạ lùng nhờ nguồn cứu độ trong Phụng vụ, nhất là Bí tích Khai tâm (Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể) phát xuất từ cạnh sườn Đức Giêsu bị đâm ! (x Ga 19,31-37)
IV. LÝ DO CHÚA GIÊ-SU HỎI ÔNG PHÊRÔ BA LẦN “CÓ YÊU THẦY KHÔNG” TRƯỚC KHI NGÀI TRAO QUYỀN ?
Trước nhất, ta phải phân biệt hai động từ yêu được dùng trong trình thuật này:
* Agapê: yêu vô vị lợi, không phân biệt bạn hay thù.
* Philein: Yêu trong tình bạn, đặt trên công bằng giao hoán.
Ta thấy ba lần Chúa Giêsu hỏi và ông Phêrô trả lời:
- Con có Agapê Thầy không ? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn chiên (Arnia).
- Con có Agapê Thầy không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
- Con Philein Thầy sao ? Dạ, con Agapê Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
Như vậy,
a- Chỉ khi nào thủ lãnh Phêrô trả lời Agapê, Chúa Giêsu mới đồng ý, nghĩa là phải yêu như Chúa yêu mới đạt.
b- Ba lần Chúa Giêsu hỏi về tình yêu của ông Phêrô, Ngài muốn ông chuộc lại ba lần đã chối Thầy. Vì thế lần thứ nhất Chúa Giêsu hỏi ông: “Phêrô, con có yêu mến Thầy HƠN những người này không ?” (Ga 21,15: Tin Mừng).
Chữ HƠN ở đây có ý nhắc đến lần ông đã tự mãn thề thốt: “Dù mọi người đều vấp ngã vì Thầy, còn con, con sẽ không bao giờ vấp ngã !” (Mt 26,33) Nhưng rồi sau đó ông đã chối Thầy ba lần !?
Bởi thế, sau ba lần Thầy hỏi về tình yêu của ông, ông hiểu ý Thầy muốn ông nhớ lại ba lần ông đã chối Thầy, nên ông buồn và khiêm tốn trả lời: “Lạy Thầy, Thầy thông hay mọi sự (con đã chối Thầy ba lần), Thầy biết con yêu mến Thầy !” (Ga 21,17) Lúc đó Chúa mới trao quyền cho ông thâu họp mọi người trên dương thế thuộc về Hội Thánh, mà “thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến!” (Thánh Gioan Vianey)
c- Ba lần Chúa hỏi ông Phêrô về tình yêu, và sau mỗi lần Ngài lặp lại việc trao quyền chăm sóc Hội Thánh cho ông. Vì ba lần Chúa hứa trao quyền là không bao giờ Ngài rút lại, cũng như ông Abraham mua hang Makpela để an táng bà Sara, ông phải mặc cả với ông Kết, người địa phương tới ba lần, để miếng đất ông Abraham mua thuộc vĩnh viễn thuộc quyền sở hữu của ông, để mộ vợ ông không ai được động đến. (x St 23,1-20)
Đức Giêsu chọn ông Phêrô làm thủ lãnh, không phải vì ông học thức hơn ai, mà trái lại, ông bị dân liệt vào loại vô học (x Cv 4,13) ; không phải ông thánh thiện hơn ai, trái lại ông là kẻ kiêu ngạo: “Cho đi mọi người đều vấp ngã vì Thầy, tôi sẽ không vấp ngã bao giờ”. Đức Giêsu bảo ông: “Quả thật, Ta bảo ngươi, nội đêm nay trước khi gà gáy ngươi đã chối Ta ba lần” (x Mt 26,33-34) ; nhất là có lần ông dám lên tiếng khuyên răn dạy Thầy: “Đừng đương đầu với kẻ ác, vì đó là dấu Thiên Chúa không thương” ! Tức khắc Đức Giêsu mắng ông là: “Satan, lui lại đằng sau” (x Mt 16,21-23) ; ông cũng là kẻ nóng nảy và hung bạo: “chém đứt tai đầy tớ của vị thượng tế” ! (x Ga 18,10)
Dầu thế Đức Giêsu vẫn quyết trao Hội Thánh cho ông lãnh đạo. Đó là quyền tự do của Thiên Chúa. Nhưng quyền tự do này Chúa vẫn muốn lệ thuộc vào đức ái của con người, khởi đi từ lòng sám hối. Mà thực, trong số 12 Tông Đồ chỉ có ông Phêrô xưng thú tội mình trước mặt Thầy: “Lạy Thầy, con là kẻ có tội, xin Thầy tránh xa con” (Lc 5,8). Vì Chúa biết nhiệm vụ Ngài trao rất nặng nề và nguy hiểm đến tính mạng, như các Tông Đồ bị đòn vọt, ra tù vào khám (x Cv 5,7b-32.40-41: Bài đọc I). Chỉ có tình yêu mới giúp người môn đệ Chúa lướt thắng mọi khó khăn. Thánh Augustin nói: “Ở đâu có tình yêu, thì ở đấy hết khó nhọc, và giả như có khó nhọc, thì lại yêu chính sự khó nhọc ấy”. Và vì yêu Thầy mà chăm sóc chiên của Thầy, chứ không phải tìm lợi nhuận nơi đàn chiên của Thầy mà xén lông, vắt sữa, làm thịt!
Như vậy, dưới cái nhìn của tác giả Mátthêu, Chúa xây dựng Hội Thánh trên nền tảng đức tin người thủ lãnh của cộng đoàn. Đức tin ấy được biểu lộ bằng việc phát biểu về giáo lý xuất sắc, đã được lãnh nhận từ Cha trên trời (x Mt (16,15-19). Nhưng dưới cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu, thì Chúa xây dựng Hội Thánh trên đức ái của thủ lãnh, của tập thể.
V. NHỮNG VIỆC LÀM CỤ THỂ, PHÁT XUẤT TỪ ĐỨC ÁI ĐỂ XÂY DỰNG HỘI THÁNH.
Sau khi ta đã xác tín rằng Chúa Giêsu Phục Sinh mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài trong tình yêu Thiên Chúa ban để xây dựng Hội Thánh dựa trên Lời Chúa và các Bí tích, có thế mới làm hoàn tất công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa là phải tập họp mọi người trên trái đất gia nhập Hội Thánh. Muốn được thế ta phải ý thức thực hành các việc làm do tình yêu Đức Kitô thúc bách:
1/ Mọi người cần nhất trí với thủ lãnh. Đan cử ông Phêrô hô lên: “Tôi đi đánh cá đây”, các môn đệ khác nhao nhao: “Chúng tôi cùng đi với anh”, dù có người không biết nghề chài lưới như ông Matthêu, như ông Nathanael (x Ga 21,3).
2/ Vâng Lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta (Cv 5,29: Bài đọc I). Đan cử các môn đệ ngoan ngoãn, tin tưởng, mau mắn làm theo Lời Chúa dạy: “Hãy thả lưới bên phải thuyền”, dù họ đã vất vả suốt cả đêm mà không bắt được con cá nào (x Ga 21,6: Tin Mừng).
3/ Mọi thành công ta đạt được phải quy về vinh quang Thiên Chúa. Cụ thể như các Tông Đồ sau khi bắt được mẻ cá lạ lùng, ông Gioan nói với ông Phêrô: “Chúa đó” (x Ga 21,7), nghĩa là nhìn vào kết quả việc con người làm, ta nhận ra Thiên Chúa. Bởi vì “không có Thầy Giêsu, không ai có thể làm được việc gì” (x Ga 15,5b).
4/ Kết quả việc làm của các Kitô hữu phải góp với chủ chăn trong Hội Thánh, để qua tay chủ chăn cùng góp lên một của lễ với Chúa Giêsu. Đan cử như Chúa Giêsu bảo các Tông Đồ: “Đem ít cá mới bắt được tới đây”, nhưng chỉ có một mình ông Phêrô lên thuyền rồi kéo lưới vào bờ, lưới đầy những cá lớn, đếm được 153 con (Ga 21, 9-11: Tin Mừng).
5/ Khi đến dự tiệc của Chúa ăn mặc lịch sự, nết na. Điển hình khi ông Phêrô biết Chúa Giêsu đang đứng trên bờ, ông vội lấy khăn quấn vào mình vì ông đang ở trần, rồi ông nhảy tùm xuống biển bơi vào gặp Thầy (x Ga 21,7).
6/ Đoán ý muốn người khác để phục vụ là ta bắt chước Chúa Giêsu, Ngài cũng đoán ý các Tông Đồ đang buồn bã vì không bắt được con cá nào, nhưng chẳng ai cằn nhằn với thủ lãnh, Chúa lên tiếng hỏi các ông: “Các chú có gì ăn không ?” Họ đáp: “Thưa không”, thế là Chúa Giê-su nướng bánh và cá trên than hồng, rồi Ngài bảo các ông: “Anh em hãy đến mà ăn” (x Ga 21, 11-12).
7/ Ý thức thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình đã nhiều lần sa ngã phạm tội mà sám hối trước mặt Chúa. Bởi vì Chúa biết ông Phêrô đã phản bội chối Thầy ba lần, nhưng sau đó ông khóc lóc ăn năn, thì Ngài vẫn tín nhiệm ông mà trao cho ông quyền thủ lãnh Hội Thánh. Ba lần Chúa Giêsu hỏi: “Simon Phêrô con có yêu Thầy không ?” Và ngay sau đó cũng ba lần Ngài trao quyền chăm sóc chiên của Ngài cho ông. Ngài trao ba lần như thế để khẳng định rằng không bao giờ Ngài rút lại quyền đã trao, để ông có nhiệm vụ “an táng Thầy” vào lòng tha nhân, như ông Abraham mặc cả ba lần với ông Kết, vĩnh viễn nhường mảnh đất cho ông, hầu ông an táng Sara vợ ông mà không ai được động đến (x St 23,1-20).
8/ Muốn làm tròn nhiệm vụ Chúa trao, Chúa đòi ta phải yêu Ngài, vì “thế giới chỉ thuộc về tay ai biết yêu mến” (Gioan Maria Vianey) . Tình yêu Chúa phải được thể hiện khi ta phục vụ đồng loại nguy hiểm đến mất tính mạng giống như Chúa Giêsu, chính vì vậy mà Ngài nói với ông Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn."Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy.” (Ga 21, 18-19).
Mỗi khi gặp đau khổ, ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30/29,2: Đáp ca).
Vậy nếu ta sống được 8 điểm trên đây là dấu chỉ ta được tham dự vào sự sống Phục Sinh của Chúa Giêsu, vì Ngài đã sống lại vào ngày thứ 8.
Người làm ông làm bà, cha mẹ khi về gìa thường có nhiều tủi nhục với con cháu, thì chủ chăn trong Hội Thánh khi xế chiều còn tủi nhục hơn thế nữa ! Nhưng chấp nhận tất cả vì yêu !
Bông hoa trưng nơi bàn thờ cũng diễn tả kiếp người phục vụ: Khi còn trẻ, khỏe, tài năng thì như hoa tươi rực rỡ, ai cũng qúy. Nhưng lúc về gìa, hết sức, hết tài, thì bị coi rẻ như đóa hoa héo tàn, người ta ném vào sọt rác, không chút tiếc nuối !
Chúa báo trước cho biết như thế, để khi sự việc xảy ra, ta không ngỡ ngàng mà biết đón nhận như một hồng ân Chúa ban (x Giop 1,21 ; 2,10b), và ta đã chọn lựa, không ân hận, không hối tiếc, rồi trở nên bất mãn ! Trái lại ta hãy vui vì đã hoàn tất Hy Lễ cùng với Chúa Giêsu !
Truyện kể:
Hai ông Phêrô và Gioan theo Chúa lên núi, Chúa bảo các ông: Mỗi người chúng con lượm hai cục đá mang theo. Nghe thế, ông Phêrô cầm hai tay hai cục đá nhỏ bằng hòn bi ; còn ông Gioan lấy hai khối đá lớn vác trên hai vai. Đi được một lúc, ông Phêrô trông dáng bạn mình có vẻ nặng nề, vất vả quá, liền chế nhạo:
- Coi tớ này, cũng mang đá mà có vất vả gì đâu, ai bảo cậu vác hai cục to thế mà chuốc khổ vào thân? Thầy chỉ nói mỗi người lấy hai cục đá mang theo thôi mà!
Ông Gioan trả lời:
- Ôi tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi ! (x 2Cr 5,14).
Đi một quãng xa, cả hai môn đệ cùng thưa với Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, chúng con đói và khát quá, chúng ta ngồi nghỉ chân một lát rồi kiếm gì ăn cho đỡ dạ!
Chúa Giêsu bảo:
- Vậy chúng con đến gốc cây kia ngồi nghỉ mệt!
Rồi Ngài nói tiếp:
- Bây giờ chúng con đặt hai cục đá của mình trước mặt.
Hai ông mau mắn tuân lệnh Thầy. Chúa giơ tay làm phép tức khắc đá của mỗi người: một cục biến thành bánh và cục kia hóa ra nước! Phêrô cầm mẩu bánh bỏ vào miệng nuốt chửng, và uống miếng nước chỉ đủ ướt cổ họng. Lúc đó ông Phêrô nói với ông Gioan:
- Cho tớ ăn ké với cậu, tớ còn đói qúa! Chắc không đủ sức theo Thầy được !
Ông Gioan vui vẻ đáp:
- Ủa, cậu đã quên là khi nãy cậu nhạo tớ là thằng dại mang theo hai cục đá bự làm gì cho khổ thân? Thế tại sao bây giờ cậu lại ngửa tay xin “thằng dại dột” này ?!
Chúa Giêsu nhìn ông Phêrô thương và bảo ông Gioan:
- Thôi mà con, con chia cho bạn đi !
Lúc đó ông Phêrô mới hiểu Lời Thầy đã dạy: “Ai muốn đi sau Ta thì hay chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta.vì kẻ nào muốn cứu lấy sự sống mình, thì sẽ mất ; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta, và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu nó” (Mc 8,34-35).
THUỘC LÒNG.
Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi ! (2Cr 5,14)
http://phaolomoi.net
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nếu như Thánh Phaolô với biến cố té ngựa trên đường Damát đã thay đổi cuộc đời, thì thánh: PS3-C83
Nếu như Thánh Phaolô với biến cố té ngựa trên đường Damát đã thay đổi cuộc đời, thì thánh Phêrô với ba lần công khai nói lên lời "yêu mến Thầy", là dịp để ông đứng dậy làm lại cuộc đời. Hay nói đúng hơn là Chúa đã tạo cơ hội để Phêrô chuộc lại lỗi lầm. Lỗi lầm mà bởi nhất thời yếu đuối ông đã vấp phạm trong đêm tối vườn Cây Dầu.
Thực vậy, người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu hủy sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một ngư dân chất phát, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: "nếu anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ". Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy, tuy đã rút gươm chém đứt một tai của người lính. Một hành động mà Chúa chẳng hoan nghênh lại còn kết án: "Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm". Ông ân hận. Ông muốn chuộc lại lỗi lầm. Ông vẫn đi theo Chúa xen lẫn đám đông dân chúng đang cuồng nhiệt đòi kết án từ hình Thầy Chí Thánh. Một hành động táo bạo biểu lộ lòng thật chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Ông muốn biểu lộ một tình yêu sâu xa với Thầy mình, nhưng "lực bất tòng tâm". Ông không đủ can đảm đối phó với sự dữ. Ông đã sợ hãi chối Thầy đến ba lần. Nhưng may mắn cho cuộc đời ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm đã thức tỉnh lòng ông. Ông biết lỗi của mình. Ông đã đứng dậy và bước ra ngoài sự dữ. Ông đã dứt bỏ nơi chốn nên cớ vấp phạm. Ông đã ra khỏi sân tiền đình và khóc lóc ăn năn.
Và sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ. Có lẽ Phêrô đã sống trong dằn vặt của lương tâm. Tại sao ông lại bỏ Thầy? Tại sao ông lại chối Thầy đến ba lần? Ông biết trái tim ông yêu Chúa rất chân thành. Thế mà vì yếu đuối và hồ đồ ông đã phạm qúa nhiều sai lầm. Làm sao ông có thể chuộc lại lỗi lầm? Chúa đã sống lại và hiện ra nhiều lần, nhưng ông không hề dám nói một lời nào với Thầy. Vì ngại ngùng. Vì hổ thẹn. Phêrô dường như không dám nghĩ mình còn xứng đáng là trụ cột cho các anh em.
Hôm nay Chúa Phục sinh hiện đến và cho Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con ông Giona, "con có yêu mến Thầy không?". Câu hỏi được lập lại ba lần như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái dành cho ông.
Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. "Ai nên khôn mà không dại một lần". Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.
Nguyện xin Chúa là Đấng luôn đi trước trong tình thương tha thứ giúp chúng ta học nơi Chúa để đối xử khoan dung với nhau. Amen.
(Trích trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày')
Trong số các Giám Mục nổi tiếng can đảm của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar: PS3-C84
Trong số các Giám Mục nổi tiếng can đảm của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô San Sanvador. Ngày Đức Cha còn sống, Chúa nhật nào nhà thờ chính tòa cũng chật ních tín hữu đến tham dự thánh lễ và nghe ngài giảng. Đức Cha thường cho giáo dân biết tin tức liên quan đến Giáo Hội, đến tình trạng trong nước và mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực, bất công và nghèo đói do chính quyền cũng như phe du kích gây ra cho dân chúng. Đức tổng giám mục Romero cũng dùng đài phát thanh để gây ý thức nơi dân chúng và thẳng thắn tố cáo các vụ vi phạm quyền con người do các lực lượng nói trên chủ mưu. Nhưng tiếng nói của Đức cha không làm cho chính quyền quân đội El Sanvador cũng như lực lượng du kích hài lòng. Sau nhiều lần hăm dọa mà không có kết quả, những kẻ thù ghét Đức Cha đã quyết định giết ngài. Sáng ngày 24/03/1980 họ đã sai người ám sát Đức tổng Giám mục Romero ngay trong nhà nguyện của bệnh việc thủ đô, nơi Đức tổng Giám mục hằng ngày vẫn đến dâng thánh lễ cho các nữ tu, nhân viên y tế và bệnh nhân. Kẻ sát nhân ngồi trà trộn trong số các tín hữu hiện diện. Không hiểu Đức cha có linh cảm mình sắp sửa phải đổ máu ra như hiến tế mưu cầu hòa bình cho một dân tộc El Sanvador hay không, nhưng trong vài lời suy tư ngắn trong Phúc Âm, Đức cha nói: "Như chủ chăn sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên, Ngài cũng sẵn sàng chết miễn là nước nhà được hòa bình tươi sáng, nhân dân El Sanvador được sống trong ấm no thịnh vượng". Đức Cha rời tòa giảng tiến lên bàn thờ, thì chính lúc đó kẻ sát nhân tiến lên rút súng bắn Ngài. Đức Tổng Giám mục Romero gục ngã trước bàn thờ máu lênh láng chảy và thánh lễ cuối cùng của vị chủ chăn hôm đó đã dang dở, nhưng đã thành Thánh lễ trọn vẹn. Vì vị chủ tế đã trở thành con chiên hiến tế y như Chúa Giêsu trên Thập giá ngày xưa.
Đức tổng Giám mục Romero đã chết vì đã trung thành với sứ mệnh chủ chăn của Ngài: "Thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời người ta". Cái chết tử đạo của Đức cha giúp chúng ta hiểu sứ điệp Lời Chúa trong Phụng Vụ Chúa Nhật III mùa Phục Sinh hôm nay.
Sách Tông đồ công vụ là cuốn sách kể lại lịch sử thời giáo hội sơ khai, trong đó, nét nổi bật nhất của Giáo hội thời đó là thực tại Kitô hữu bị bách hại. Cũng như Chúa Giêsu đã bị khước từ và bị bắt bớ trong lúc rao truyền Tin Mừng cứu độ thế nào, thì giờ đây cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng bị bắt bớ như vậy.
Tin Mừng mà các tông đồ vâng lệnh Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng được dân chúng đón nhận như bị giới lãnh đạo khước từ, đặc biệt là giới lãnh đạo tôn giáo. Ngay từ đầu, các tông đồ đã ý thức được rằng khi các nhà lãnh đạo chống đối lời rao giảng là họ đã chống đối chính Thiên Chúa và chương trình của Ngài, chứ không phải chỉ chống lại các tông đồ, vì các tông đồ chỉ là dụng cụ loan báo Tin Mừng cứu độ. Nói cách khác, mọi cuộc bách hại Kitô hữu đều bắt nguồn từ thái độ thù ghét Thiên Chúa và chống lại chương trình cứu độ của Ngài. Chương trình mà chính Chúa Giêsu Kitô đã thành toàn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Nhiều người Do thái dù rất đạo đức và chân thành cũng không chấp nhận Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài. Đối với họ, Chúa Giêsu đã không sống theo luật Môisê và giáo huấn của Kinh Thánh, vì thế họ cần phải thủ tiêu Ngài. Nhân danh các luật lệ và giáo huấn, giới tư tế đã cấm các tông đồ phổ biến sứ điệp của Chúa Giêsu. Nhưng lời rao giảng của các tông đồ có mục đích giúp mọi người hiểu rằng: "Giáo huấn Kinh Thánh dẫn đưa con người đến chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đã thành toàn chương trình cứu độ".
Tin Mừng của Chúa Giêsu tiếp tục Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái, vì thế mọi người phải vâng lời Thiên Chúa, Đấng đã nói qua các ngôn sứ và sau cùng qua Đức Giêsu, Đấng đã hứa trao ban ơn tha tội và ơn cứu rỗi cho con người, Đấng đã từng bước trong lòng lịch sử dân Do Thái, và sau cùng trong bản tính nhân loại của Đức Giêsu thành Nazareth, nghĩa là phải vâng lời Thiên Chúa của toàn Kinh Thánh và trở về với Ngài chứ không phải là chiều theo ý muốn của giới lãnh đạo trần gian.
Áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày, qua chương 5 sách Tông đồ Công vụ, Thiên Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta điều này: Ngài cần đến các nhân chứng biết vâng lời bằng thái độ không vâng theo giới lãnh đạo trần gian dối trá, tham lam và ác độc. Bằng cách biết nói "không" với các đề nghị và dàn xếp đổi chác của họ, biết cương quyết nói "không" trước những ve vuốt, tâng bốc hứa hẹn, lợi lộc và cạm bẫy họ giăng để biến đổi Tin Mừng trở thành dụng cụ phục vụ họ và vô hiệu hóa giáo huấn của Chúa. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời bằng cách cương quyết chống lại tất cả những gì đe dọa sự sống, phẩm giá, tự do và tính chất thánh thiêng của con người. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời Ngài bằng cách nói "không" với tất cả những gì nghịch với luật Chúa và lương tâm của mình. Cho dù tiếng "không" ấy được cất lên mà có phải thất bại và thiệt hại trong cuộc sống đi nữa, thì họ vẫn cương quyết giữ vững lập trường để bảo vệ giáo huấn Tin Mừng của Ngài. Chỉ khi nào người tín hữu Kitô biết sống như thế thì họ mới diễn tả trung thực lòng tin của mình vào Chúa Kitô Phục Sinh mà họ tôn vinh và cử hành trong Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật trong năm.
Cũng giống như kinh nghiệm của tác giả sách Khải Huyền trong chương 5, "chính trong bầu khí Phụng Vụ Chúa Nhật, chính lúc tụ họp nhau lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể mà Kitô hữu sẽ được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và bối cảnh cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu mai sau.
Nói một cách khác, các buổi cử hành Phụng Vụ Thánh Thể rất quan trọng trong đời sống đức tin của người tín hữu Kitô vì đó là suối nguồn ân thánh giúp vun trồng đồng cỏ cuộc sống thiêng liêng và ba loài hoa quí là tin cậy mến. Nếu không ý thức được sự thật tuyệt vời này, Kitô hữu sẽ không bao giờ sống Phụng Vụ một cách trọn vẹn. Mỗi một Kitô hữu, mỗi một cộng đoàn Kitô hữu không sống các thực tại nhiệm mầu của Phụng vụ một cách trọn vẹn và sâu thẳm thì sớm muộn cũng trở thành thờ ơ bất động, tê liệt và nguội lạnh. Mà nguội lạnh là sắp chết nếu không nói là đang chết hay đã chết như một cái xác không hồn bất động. Nếu không biết ý thức và cảnh tỉnh, người Kitô hữu rất dễ trở thành những cái xác nguội lạnh không hồn và sẽ là những bộ phận ung thối rữa nát trong thân mình Giáo Hội.
Chương 21, thánh Gioan đã tường thuật biến cố Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và can thiệp giúp các ông đánh được mẻ cá lớn sau một đêm lao nhọc mỏi mệt mà chẳng bắt được gì. Qua đó, thánh sử muốn nhắn nhủ chúng ta những điều sau đây:
1. Nếu không muốn lao nhọc một cách vô ích trong công việc làm và cuộc sống mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Phục Sinh để Ngài hoạt động, hiện diện và hướng dẫn chỉ vẽ cho chúng ta trong mọi sự: nghĩa là biết vâng lời Đức Kitô Phục Sinh quẳng lưới phía bên phải. Trong truyền thống Kinh Thánh, bên phải là phía của phúc lành. Rất tiếc trong cuộc sống chúng ta lại thường cứng đầu cứng cổ, quẳng lưới bên trái là phía của án phạt và chúc dữ.
2. Chúng ta hãy biết noi gương Chúa Giêsu Phục Sinh duy trì chiều kích nhân bản của cuộc sống. Phúc âm thánh Gioan là Phúc âm thiêng liêng kết thúc với hình ảnh Chúa Giêsu Phục Sinh sửa soạn bữa ăn sáng cho các tông đồ trên bờ hồ Tibêria chứng minh cho thấy tất cả chiều kích nhân bản trong kiểu cách sống của Chúa Giêsu. Đức Giêsu thành Nazareth trước kia và Chúa Giêsu Phục Sinh giờ đây vẫn là một. Ngài chuyện vãn đối thoại với các tông đồ. Ngài chú ý đến công việc làm, các sinh hoạt, các vấn đề khó khăn của họ và ngồi ăn với họ.
Mầu nhiệm Nhập Thể dạy cho chúng ta biết rằng đức tin của chúng ta sẽ không vững chắc nếu không được xây trên chiều kích nhân bản với tất cả cái phong phú tuyệt diệu của nó.
Khi còn sống và rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã luôn luôn yêu thương bênh vực những người nghèo hèn, bé nhỏ bị gạt ra lề xã hội. Giờ đây, khi trao ban cho Phêrô chăn dắt chiên con, chiên mẹ, biểu tượng cho lớp người yếu đuối, khiêm tốn, bé nhỏ, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục đường hướng mục vụ ấy và muốn Giáo hội tiến bước trên con đường này.
3. Trong sứ mệnh phục vụ này, cường độ của tình yêu thường là điểm qui chiếu và thước đo duy nhất. Càng yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều bao nhiêu thì công tác phục vụ của Phêrô càng trung thực với tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô và càng hữu hiệu bấy nhiêu.
Vấn đề ở đây không phải là khả năng trí thức, học cao biết rộng, mà là biết yêu mến nhiều nhất, yêu thương nhiều hơn hết đó là tước hiệu duy nhất có giá trị biện minh cho quyền bính cai trị, nghĩa là phục vụ trong Giáo hội.
4. Tinh thần sẵn sàng theo Chúa Giêsu Kitô không phải để bước đi trên con đường danh vọng có nhiều đặc quyền đặc lợi, được người đời ca tụng kính nể, mà là để bước đi trên con đường Thập Giá khổ đau dẫn đến cái chết Phục Sinh.
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu. Yêu là gì? Chưa: PS3-C85
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu.
Yêu là gì? Chưa ai có một định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Người ta định-nghĩa-mà-không-định-nghĩa, và chỉ “mơ hồ” nói: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Thế nào là ít hay nhiều? Mức độ cũng thật trừu tượng!
Khi yêu người ta có thể hạnh phúc hoặc đau khổ, thường là khổ nhưng vẫn phải có trách nhiệm – dù nhẹ hay nặng. Yêu là lĩnh vực tình cảm, của trái tim, nhưng vẫn cần có lý trí, dù đôi khi chính lý trí cũng không thể hiểu lý lẽ của trái tim.
Tráila timà trung tâm phân phối máu giúp cơ thể sống, cũng là trung tâm tình yêu. Tình yêu đa dạng, riêng tình yêu Công giáo được mệnh danh là đức mến hoặc đức ái. Thánh Hirônimô phân tích: “Nếu ai không có đức ái thì dù có đức tin chính xác, đều không tài nào có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất. Linh hồn không có tình yêu thì tuyệt đối không thể sống nổi, linh hồn cần có tình yêu”.
Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13:13). Sự chết so với tình yêu chân thật thì chỉ là… “chuyện nhỏ”. Tình yêu “nổi tiếng” thế giới là tình yêu của Romeo và Juliet mà đại văn hào Shakespeare đã phác họa. Việt Nam có chuyện tình Lan và Điệp, chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ, hoặc chuyện tình Mộng Thường. Thế nên Đại văn hào Victor Hugo đã định nghĩa: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”.
Khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” (Cv 5:28). Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5:29). Một câu nói can đảm và tuyệt vời, Phêrô hôm nay chứ không còn là Phêrô hôm qua nữa!
Ông Phêrô còn hùng hồn nói thẳng: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5:30-32).
Thế rồi các Tông Đồ bị họ đánh đòn và họ cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Tuy nhiên, khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5:41). Yêu như điếu đổ, yêu hết cỡ thợ mọc, yêu như điên, càng khổ càng thú vị. Người ta gọi đó là “thú đau thương”. Cảm nhận được lòng thương xót của Chúa rồi nên các ông không thể làm trái với tiếng gọi của tình yêu.
Tác giả Thánh Vịnh tuyên xưng: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2).
Thật vậy, “từ âm phủ Ngài đã kéo lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Do đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ Thánh Danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Cv 5:5-6). Có quan tâm mới góp ý chân thành, dù lời thật làm mất lòng, như tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi”.
Với lòng tin mến, chúng ta hãy thành tâm cầu nguyện và tuyên xưng: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Cv 5:11-13).
Thánh sử Gioan tường thuật về thị kiến: Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh 5:12). Con Chiên Giêsu đã chịu đau khổ đến tột cùng nên Ngài xứng đáng lãnh nhận những gì xứng đáng nhất. Ai yêu nhiều thì được thương nhiều, ai khổ công thì được tưởng thưởng. Đó là công lý công minh và chính trực!
Thánh sử Gioan cho biết thêm: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5:13). Cả bốn Con Vật thưa: “Amen”. Và rồi các Kỳ Mục cùng phủ phục xuống thờ lạy. Mọi loài đều tâm phục khẩu phục mà thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, vì mọi loài tin thật và yêu mến.
Tại Biển Hồ Tibêria, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ. Người tỏ mình ra như thế này: Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Rồi mọi người cùng lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Đến sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Ngài nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21:5). Các ông trả lời: “Thưa không”. Ngài bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21:6). Dù chưa nhận ra đó là Sư Phụ Giêsu, nhưng các ông vẫn thả lưới xuống, và rồi họ không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
Lúc đó, người-môn-đệ-được-Đức-Giêsu-thương-mến nói nhỏ với ông Phêrô: “Chúa đó!” (Ga 21:7). Ôi chao! Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simôn Phêrô giật mình và vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi ông liền nhảy ùm xuống biển. Ngại quá! Nhưng bản tính Phêrô nhà ta là nóng nảy mà thật thà, có gì nói thẳng, chẳng úp mở chi cả, và muốn làm gì thì làm ngay. Thấy anh Hai làm vậy, các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Khi lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” (Ga 21:10). Ông Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21:12). Lúc này các ông biết rõ đó là Sư Phụ Giêsu rồi. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy.
Thánh Gioan cho biết đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, giây phút quan trọng bắt đầu. Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15a). Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21:15b). Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc CHIÊN CON của Thầy” (Ga 21:15c). Ngài lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?” (Ga 21:16a). Ông cũng đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21:16b). Ngài nói: “Hãy chăn dắt CHIÊN của Thầy” (Ga 21:16c).
Sau đó, Ngài hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21:17a). Ông Phêrô gãi đầu. Hôm nay sao Thầy kỳ hết sức, hỏi hoài! Ông buồn vì Ngài hỏi tới ba lần. Ông xác quyết: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21:17b). Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc CHIÊN của Thầy” (Ga 21:17c). Rồi Ngài nói với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21:18).
Thánh Gioan nói rằng Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Nghĩa là Thánh Phêrô cũng bị đóng đinh như Thầy, nhưng cảm thấy bất xứng nên ông xin được đóng đinh ngược đầu xuống đất. Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21:19).
Người Việt nói: “Quá tam ba bận”. Chúa Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác nhận ba lần, không phải Ngài ép buộc, mà Ngài muốn người ta hoàn toàn tự do mà tình nguyện theo Ngài. Đó là lời Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta hằng ngày, và Ngài muốn chúng ta trả lời thật lòng. Tự bản chất, tình yêu có sức mạnh phi thường, một khi đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thì khó có ai khả dĩ cưỡng lại mãnh lực này.
Về tình yêu, các thánh có nhiều cách cảm nhận: “Yêu là chiến thắng Thiên Chúa” (Thánh Bênađô), “Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài” (Thánh Phanxicô Salê), “Chúa Giêsu là nguyên nhân của tình yêu đến cuồng nhiệt” (Thánh Madeleine Barat), “Có tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị tình yêu hóa lỏng” (Thánh Augustinô), “Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi), “Ái tình là đao kiếm của chúng ta, dùng nó để trừ ma giết địch, để cho Vua Giêsu ngự trị trong lòng mọi người” (Thánh Terese Hài Đồng Giêsu), “Tình yêu là sợi dây đoàn kết mọi chi thể của Giáo Hội, không chỉ là đối với người hàng xóm còn sống, mà còn mở rộng ra đến cả những người chết trong ân sủng và tình yêu” (Thánh Thomas Aquinas), “Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy” (Thánh Inhaxiô Loyola). Và còn rất nhiều nữa…
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa Giêsu. Xin Tình Yêu Kitô biến đổi tất cả chúng con nên hoàn thiện qua sự tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi lúc càng nên mới hơn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Suy niệm Chúa Nhật III, Phục Sinh, C -
Sứ mạng truyền giáo đòi hỏi chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những cố chấp, nghi: PS3-C86
Sứ mạng truyền giáo đòi hỏi chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những cố chấp, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh văn hóa, truyền thống,…trong khi loan báo Tin Mừng.
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trước khi về trời Chúa Giêsu, đã truyền lệnh các Tông đồ hãy đi loan báo Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Lệnh truyền này mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Truyền giáo chính là bản chất của Giáo Hội. Hay nói cách khác, Giáo Hội của Đức Giêsu phải truyền giáo. Bao lâu Giáo Hội không còn truyền giáo, thì bấy lâu Giáo Hội đánh mất căn tính của mình. Hình ảnh mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không bị rách mà Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại chính là một lời mời gọi ra đi để quy tụ muôn dân và hướng tới một Giáo Hội phổ quát.
Tuy nhiên, Giáo Hội mà Chúa Giêsu thiết lập và trao phó cho các Tông đồ chăm sóc, loan truyền phải là một Giáo Hội đi trên, sống với và hướng về tình yêu. Chính vì thế, trước khi trao cho Phêrô quyền lãnh đạo Giáo Hội, cũng như mặc khải cho ông về sứ mạng truyền giáo qua mẻ cá lạ, Chúa Giêsu đã trắc nghiệm Phêrô về lòng yêu mến của ông.
1. Con có yêu mến Thầy không?
Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các Tông đồ trên biển hồ Tibêria và truyền lệnh cho các ông thả lưới bên phải mạn thuyền sau một đêm vất vả mà không được gì (x. Ga 21, 6). Họ đã nghe theo vị khách lạ xem ra có vẻ dày dạn về kinh nghiệm đánh bắt cá truyền bảo. Kết quả thật mỹ mãn. Đó là một mẻ lưới đầy cá. Khi thấy những sự kiện lạ như vậy, Gioan đã hô lên: “Chúa đó!”. Phải chăng vì lòng mến Chúa cách đặc biệt mà ông đã nhận ra Chúa trước anh em?. Quả thật, cũng vì lòng mến Chúa Giêsu tha thiết, nên Gioan cũng là người tin vào Chúa Phục sinh trước Phêrô khi cả hai cùng chạy ra một vào ngày thứ nhất trong tuần (x. Ga 20, 1-9).
Khi nghe Gioan nói: “Chúa đó!” các ông vào bờ và Đức Giêsu trực tiếp phục vụ các ông. Một bữa ăn đầy tình Thầy trò và huynh đệ giữa anh em.
Sau bữa ăn, chính là phần trao ban sứ vụ lãnh đạo cho Phêrô. Nhưng trước khi trao, Đức Giêsu cất tiếng hỏi vị Tông đồ trưởng tới ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21, 15a). Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15b). Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21, 15c). Chúa hỏi Phêrô tới ba lần như vậy là vì muốn phục hồi địa vị môn đệ của ông sau khi ông đã sa ngã qua ba lần vì trối Thầy. Hơn nữa, Đức Giêsu muốn cho chính Phêrô hiểu rằng: đây là vai trò đặc biệt mà Chúa trao cho ông và cũng cho ông thấy rằng lòng mến là nền tảng căn bản, quan trọng phải có của người môn đệ. Quả thật: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13, 4-7). Hay: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13, 13). Có lòng mến sẽ vượt qua mọi thử thách và ngay cả cái chết. Vì thế, Đức Giêsu nói tiếp với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21, 18). Cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu loan báo cho Phêrô có nghĩa là: ông không còn làm chủ đời mình nữa, mà là một đời môn đệ đích thực. Ông phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu chịu đóng đinh. Bị kẻ khác thắt lưng còn có nghĩa là bị bắt, chịu trói và bị giết chết. Thật vậy, phải tin yêu hết lòng thì mới không xấu hổ và sẵn sàng loan báo về một Đức Giêsu trần trụi trên Thập giá. Điều này đã được chính Phêrô diễn tả khi ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng các ông “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Phêrô đã xác tín mạnh mẽ và tin theo Đức Giêsu cách tuyệt đối. Chúa biết lòng ông, nên sau khi hỏi Phêrô đến ba lần “con có mến Thầy không?”, sau những lần trả lời đầy khiên tốn và yêu mến, Chúa đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho ông. Như thế: Mầu nhiệm phục sinh chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, thì đồng thời khai mở mầu nhiệm Giáo Hội.
2. Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Hình ảnh mẻ cá lạ và có tới một 153 con mà lưới không bị rách, diễn tả mầu nhiệm Giáo Hội phổ quát.
Theo các nhà động vật học của Hylạp thời bấy giờ, trên thế giới có tất cả là 153 loại cá. Mẻ cá lạ này, Chúa mặc khải cho các ông thấy rằng: Công cuộc loan báo Tin Mừng dưới quyền lãnh đạo của Phêrô phải được các ông loan đi tới tận cùng trái đất, cho hết mọi người, để mọi người được ơn cứu độ.
Nếu hình ảnh 153 con cá tượng trưng cho sứ mạng của người môn đệ, thì hình ảnh chiếc lưới lành lặn không bị rách mặc dù cá nhiều đến như vậy là tượng trưng cho một Giáo Hội của Chúa luôn đứng vững trước mọi cạm bẫy của “ba thù”. Mặt khác, dù nhiều chủng loại, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, thì vẫn là cộng đồng duy nhất trong một chiếc lưới của Chúa dưới vị lãnh đạo của Phêrô. Vẫn là một Chủ Chăn và một đoàn chiên duy nhất.
Khi truyền lệnh cho Phêrô thả lưới bên phải thuyền, ông đã vâng lời và kết quả đã thành công. Sự kiện này cho thấy, viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội có thành công hay không nhờ vào việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với lời hứa của Ngài. Chính thánh nhân cũng đã quả quyết cách khẳng khái khi bị quan tòa tra hỏi: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Khi vâng lời trong lòng mến, các ngài đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Đây cũng chính là nền tảng sứ mạng Tông đồ của chúng ta sau khi được Chúa gọi vào làm “vườn nho của Ngài”.
3. Sứ điệp cho chúng ta ngày hôm nay
Chúa đã trao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài vì ông đã vâng lời, khiêm tốn, tin tưởng và yêu hết lòng. Chúa trao cho ông vì chính Ngài cũng tin tưởng và yêu mến ông tha thiết.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Gẫm lại lịch sử đời chúng ta: chúng ta cũng thấy có biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, nhưng có khi không hề nói lên lời sám hối, hoặc sám hối hời hợt cho qua. Phải chăng lòng mến của chúng ta chưa đủ mạnh như Phêrô để một lần cho cả đời? Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng ta sau những lần ngã quỵ vì yếu đuối. Để mỗi lần như vậy, chúng ta lại càng yêu mến Chúa nhiều hơn như Phêrô.
Hôm nay, Chúa cũng trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Hãy loan tin ấy tới tận cùng trái đất. Đây là trách nhiệm của mỗi chúng ta khi đã lãnh nhận và cảm nghiệm được tình yêu ấy trong cuộc đời. Cuộc đời làm chứng của người môn đệ là luôn gắn liền với Thập Giá và những hy sinh, vất vả, cô đơn, hiểu lầm,và ngay cả cái chết như Phêrô để làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Hình ảnh 153 loài cá là hình ảnh một thế giới yêu thương, hiệp nhất và phổ quát. Như vậy, sứ mạng truyền giáo cũng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải vượt ra khỏi chính mình để loại bỏ những bon chen, cố chấp, hẹp hòi, nghi kỵ và sợ sệt, để biết thích ứng với từng hoàn cảnh như văn hóa, truyền thống, thiếu thốn, bệnh tật trong khi loan báo Tin Mừng... Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta và các thừa sai của Chúa trên cách đồng truyền giáo bao la ngàn trùng. Để các ngài ra đi loan báo Tin Mừng Phục sinh đến tận cùng trái đất. Xin cũng cho chúng ta đón nhận tất cả mọi thử thách trước, trong và sau khi Loan báo Tin Mừng với tâm niệm rằng: vì lòng mến Chúa, xin cho con đón nhận tất cả, bởi vì tần số của tình yêu là yêu không giới hạn.
Nếu được như thế, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho Phêrô khi xưa: “hãy theo Thầy” và cùng Thầy lên đường...?
Đây chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho các Tông đồ trong lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các ông, kể từ sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Chúa Nhật III Phục Sinh C
Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệ như một mục tử tốt lành. Các ông đã tin vào Ngài và được: PS3-C87
Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệ như một mục tử tốt lành. Các ông đã tin vào Ngài và được mời gọi trở nên như Ngài khi làm mục tử cho đàn chiên của Ngài.
Lm LG Đặng Quang Tiến
Ga 21:1-19: 1 Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này.2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su.5 Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không."6 Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. 9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.10 Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.12 Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa.13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy."16 Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."17 Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn."19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."
Đoạn tin mừng gồm hai phần chính 21:1-14 và 21:15-19. Bố cục của đoạn 21:1-14 như sau: - Bối cảnh của buổi hiện ra lần thứ ba (21:1-3); - Phép lạ mẻ cá (21:4-8); - Bữa ăn của Chúa Giêsu với các môn đệ (21:9-14). Đoạn 21:15-19 là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô và Ngài trao quyền chăn dắt đàn chiên cho ông.
Bối cảnh buổi hiện ra lần thứ ba (21:1-3). Trình thuật mở đầu với khẳng định là “Ngài lại hiện ra cho các môn đệ” (21:1). Đây là lần hiện ra thứ ba (21:14), sau hai lần khác (20:19.26). Hai sự kiện chính trong trình thuật nầy là Chúa Giêsu làm phép lạ mẻ cá lớn và Ngài ăn với các môn đệ. Động từ “phaneroō” được dùng để chỉ sự hiện ra hữu hình của Chúa Giêsu sau khi sống lại. Trong khi ở những nơi khác, động từ nầy chỉ sự biểu lộ những điều thuộc về Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Tuy vậy, có thể hiểu là sự hiện ra hữu hình nầy cũng là sự biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu sống lại cho các môn đệ, với mục đích là làm cho họ tin vào Ngài (21:7; x. 2:11). Danh sách tên của các môn đệ được nêu lên ở đây như là đại diện cho nhóm. Phêrô luôn đứng đầu nhóm (x. 6:67-69; 13:6-9; 20:2-7). Nathanael được ghi nhận là xuất xứ từ Cana xứ Galilêa (x. 1:46). Hai người con của Zêbêđê lần duy nhất được nêu lên trong Gioan. Còn “hai môn đệ khác” không nêu tên ở đây có thể là người môn đệ dấu yêu (21:7.20-24; 13:23; 19:26; 20:2.3.8). Hai môn đệ vô danh đã xuất hiện ở đầu trong bối cảnh của lời Gioan Tẩy giả giới thiệu là “Con Chiên Thiên Chúa” (1:35) và cuối tin mừng trong trình thuật sống lại (21:2); có thể ngụ ý đó là hai nhân chứng của tất cả những việc Chúa Giêsu đã thực hiện và đã giảng dạy ngay từ đầu. Việc Phêrô đi đánh cá, các môn đệ khác theo ông và kết quả không bắt được gì hết (21:3) không mang nhiều ý nghĩa như trong trình thuật của Luca (Lc 5:5). Đó là bối cảnh cho phép lạ sắp xảy ra trong phần tiếp theo.
Phép lạ mẻ cá lớn (21:4-8). Chúa Giêsu hiện ra vào sáng sớm; thời điểm gặp gỡ Chúa sống lại (x. 20:1). Các môn đệ trông thấy và nghe tiếng Ngài nhưng không nhận ra Ngài; Maria cũng đã như thế (20:14). Như Maria, họ cần một hành động từ Chúa Giêsu. Ngài bắt đầu bằng cách gọi họ là “Nầy các con”. Ngài cũng gọi họ như thế trong buổi giã từ (x. 13:33). Trong cả hai trường hợp họ đều ở trong tình trạng thất vọng và chán nản. Chúa Giêsu ra lệnh cho họ cách quyền uy để giúp họ vượt qua tình huống nầy, “Hãy thả lưới bên phải” (21:6; x. 13:34). Kết quả họ bắt được mẻ cá lớn, vì họ đã vâng lệnh làm theo lời Ngài. Qua phép lạ, người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến liền nhận ra Ngài trước tiên “Chúa đó” (21:7; x. 20: 8). Còn Phêrô, ông chỉ phản ứng theo sau sự nhận biết của người môn đệ được Chúa yêu.
Bữa ăn cho các môn đệ (21:9-14). Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn một bữa ăn trên bờ hồ cho các môn đệ. Họ đóng góp vào các con cá đã bắt được (21:10.12). Ngài trao cho các ông bánh và cá (21:13) như Ngài đã làm cho dân chúng cũng trên bờ hồ Tibêriát (6:1-13). Điểm khác biệt ở đây là Ngài cùng ăn với họ; nghĩa là cho họ hiệp thông với Ngài. Chính nhờ đó, họ đã nhận ra Ngài là Chúa (21:12; x. 24:30-31). Vậy, bởi sáng kiến của Chúa Giêsu là cho các môn đệ mẻ cá lớn và cùng ăn với họ, họ đã nhận ra Ngài đã hiện ra với họ sau khi sống lại.
Trình thuật tiếp theo liên hệ với trình thuật trước bởi ghi nhận “sau khi ăn”. Trong trình thuật nầy, Phêrô tiếp tục là nhân vật chính. Cuộc đối thoại sau cùng của Chúa Giêsu với ông là lúc giã từ (13:36-38). Trong lần đó, Phêrô đã cam kết với Ngài là liều mạng sống vì Ngài (13:37). Nhưng sau đó, ông đã chối Ngài ba lần như lời Ngài tiên báo (13:38; x. 18:17.25.27). Bởi đó, bây giờ Ngài hỏi ông đến ba lần cùng một câu hỏi “Anh có yêu mến Tôi không?”, vì Ngài muốn trao cho ông chăn dắt đàn chiên của Ngài (21:15.16.17). Ngài trao lại cho Phêrô tư cách làm người mục tử dành riêng cho Ngài, Mục tử tốt lành (10:11). Điều kiện Ngài đòi hỏi trước khi Ngài giao phó đàn chiên cho là yêu mến Ngài hơn tất cả mọi người khác; nghĩa là vì lòng mến đối với Ngài mà yêu mến và thí mạng sống cho đàn chiên (x. 10:17). Bởi đó, có yêu mến Ngài hơn mọi người, mới có thể chăn dắt đàn chiên của Ngài như cách Ngài mong muốn.
Sau việc trao quyền mục tử cho Phêrô, Chúa Giêsu nói đến định mệnh của ông. Trong buổi giã từ, Phêrô muốn theo Chúa Giêsu để liều mạng sống vì Ngài (13:37). Nhưng Ngài tuyên bố là ông sẽ làm điều ấy không phải ngay lúc ấy, mà sau nầy (13:36). Hai giới từ về thời gian “bây giờ” và “sau nầy” tương ứng với sự phân biệt “khi còn trẻ” và “khi nên già”. “Bây giờ” dù đã cam kết liều mạng sống vì Ngài, Phêrô đã không làm khi chối bỏ Ngài. “Sau nầy” khi đã hối cãi và yêu mến Ngài hơn mọi người, Chúa Giêsu cho ông đi theo Ngài như Ngài đã hứa với ông. Lúc ấy “khi đã nên già”, ông sẽ không tự quyết định đường đi cho mình nữa, mà Chúa Giêsu, “Hãy theo Tôi” (21:19.22). Điều “người khác” đã làm cho Chúa Giêsu cũng sẽ làm cho ông. “Chết như thế nào để làm vinh danh Thiên Chúa” đó là cái chết như Chúa Giêsu (18:32; x. 12:28; 13:31-32; 17:1; 21:19; Cv 21:11.14; 2 Pr 1:14). Hơn nữa, việc tuyên xưng yêu mến Chúa Giêsu và nhận quyền mục tử thay Ngài đã bao hàm sự hy sinh cho đàn chiên như Ngài đã làm. Vậy, khi trao quyền cho Phêrô, Chúa Giêsu muốn ông nên giống Ngài hoàn toàn.
Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệ như một mục tử tốt lành. Các ông đã tin vào Ngài và được mời gọi trở nên như Ngài khi làm mục tử cho đàn chiên của Ngài.
CN III Phục Sinh
Muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa.
Tin Mừng thuật lại hai tiếng gọi Chúa gọi Phêrô. Tiếng gọi đầu tiên là khi khởi đầu sứ vụ của Chúa: PS3-C88
Tin Mừng thuật lại hai tiếng gọi Chúa gọi Phêrô. Tiếng gọi đầu tiên là khi khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai sau khi Chúa sống lại như Tin Mừng hôm nay tường thuật. Hai tiếng gọi cách nhau ba năm. Dọc theo thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông khám phá được nhiều điều về Thầy của mình, học biết nhiều công việc khi theo Thầy, và nhất là ông có kinh nghiệm gặp được chính bản thân mình.
Khi Chúa gọi lần hai, Phêrô đã là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn.
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm tình thầy trò. Một đêm đen mờ mịt tại biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời Phêrô từ đêm đen thất bại ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Chúa Giêsu Phục Sinh đến với họ và ban tặng mẻ cá lạ lùng.
Sau mẻ cá, Đấng Phục Sinh hỏi: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: “Con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy”. Rồi Chúa nói: “Thầy bảo cho con biết, lúc còn trẻ con tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi con chẳng muốn”. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: “Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào”. Thế rồi Chúa bảo ông: “Hãy theo Thầy”. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”. Từ đây, những trang sử vẻ vang của Giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Thánh Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát” (1Pr 5,2-4).
Ngày 19.3.2013, thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của Đức Thánh Cha Phanxicô. Trong bài giảng lễ, ngài suy niệm: “…Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có ba lời mời gọi: hãy chăn các chiên con, hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải được linh hứng bởi sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, trung tín của thánh Giuse và như thánh nhân, ngài phải mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và đón nhận với lòng từ ái toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Mátthêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức bác ái: những người đói, khát, ngoại kiều, những người trần trụi, đau yếu, tù đày (x. Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết làm sao để bảo vệ!”.
Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi đã phục vụ Giáo hội với lòng yêu mến nên ngài là một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt còn là người luôn biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ngài thông cảm với yếu đuối của người khác. Thánh Phêrô học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Đó là, dù ngài đã chối Chúa nhưng Chúa vẫn luôn yêu thương ngài. Chính tình thương của Chúa đã thanh tẩy ngài khỏi mọi lỗi lầm. Cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là điều thật ngạc nhiên. Ân sủng là như thế đó.
Cũng như vậy, đối với Thánh Phaolô, tất cả là ân sủng. Khi được tha thứ và yêu thương, ngài đã hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô, sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những “... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cor 11,23-27). Phaolô viết từ ngục thất cho Timôthê: “Anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài”. Phaolô không hổ thẹn vì “tôi biết tôi đã tin vào ai...” (2 Tim 1,8-12). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt “chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2 Cor 4,8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1 Cor 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô, mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?. .. Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô hay Thánh Phaolô đều là tình yêu cứu độ.
Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ngài được Chúa yêu thương, được Chúa tuyển chọn cách đặc biệt. Tại sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài tổ chức, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô về tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không”, sau ba lần Phêrô xác định lòng yêu mến, Chúa trao Giáo hội cho ngài.
Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.
Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại dột! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngốc nghếch! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ khạo ! Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác. Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm hạnh phúc, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất chí lý: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc. Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực. Yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo cách miễn cưỡng.
Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.
Mọi ơn gọi đều là tình yêu. Nhờ lòng mến Chúa nên chúng ta yêu mến Giáo hội và yêu thương anh em.
Chúa hỏi Phêrô: con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: con có yêu mến Thầy không?
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Nhật III Phục Sinh C -
Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang hiện diện, đang đến với chúng ta, đang ở bên chúng ta và đang ở: PS3-C89
Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang hiện diện, đang đến với chúng ta, đang ở bên chúng ta và đang ở trong mỗi người chúng ta.
- HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 21,1-19
(1) Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này: (2) Ông Si-mon Phê-rô, Ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. (3) Ông Si-mon Phê-rô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Rồi mọi người ra đi, lên thuyền. Nhưng đêm hôm ấy họ không bắt được gì cả. (4) Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. (5) Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không” (6) Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (7) Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó”. Vừa nghe nói “chúa đó”, ông Si-mon Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. (8) Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần trăm thước. (9) Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. (10) Đức Giê-su bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!”. (11) ông Si-mon Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. (12) Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong đám môn đệ dám hỏi: “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. (13) Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông. Rồi cá, Người cũng làm như vậy. (14) Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết. (15) Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-mon Phê-rô: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giê-su nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. (16) Người lại hỏi: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? “Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”. (17) Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy. Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.(18) Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng, và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. (19) Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào, để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.
2. Ý CHÍNH: Đây là đoạn cuối của Tin mừng thứ tư, được chia làm 4 phân đoạn như sau:
- Các Tông đồ tập trung tại miền Ga-li-lê rủ nhau đi đánh cá và kết quả các ông không bắt được con cá nào! (cc. 1-3).
- Chúa Phục Sinh xuất hiện chỉ cho các ông nơi thả lưới. Các ông vâng lời và đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Nhờ đó các ông đã nhận ra Người (cc. 4-8).
- Trong bữa ăn sáng đã được dọn sẵn, Chúa Phục Sinh đã truyền lấy thêm cá mới bắt được và đã cử hành Lễ Bẻ Bánh giống như đã từng làm trước đó (cc. 9-14).
- Cuối cùng Chúa Phục Sinh đã sát hạch Phê-rô về lòng yêu mến trước khi trao quyền chăn chiên cho ông. Người cũng tiên báo về cái chết đau thương của ông vào lúc cuối đời (cc. 15-19).
3. CHÚ THÍCH:
- C. 1-3: + Biển hồ Ti-bê-ri-a: Tìn mừng Mát- thêu cho biết khi hiện ra với Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác tên là Ma-ri-a, Chúa Giê-su đã yêu cầu các bà báo tin cho các môn đệ để họ đến Ga-li-lê gặp Người (Mt 28,1.10). + Ông Si-mon Phê-rô...: Tin mừng kể ra số các môn đệ đang ở chung khi ấy là 7 ông: Si-mon Phê-rô, Tô-ma, Na-tha-na-en, hai anh em Gia-cô-bê Gio-an và hai môn đệ khác. Si-mon quyết định sẽ đi đánh cá và được các ông kia hưởng ứng. + Đêm hôm ấy họ không bắt được gì cả: Người ta thường đi đánh cá vào ban đêm. Nhưng đêm hôm ấy các ông đã luống công vô ích!
- C. 4-8: + Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!”: Gio-an luôn phát hiện ra Chúa Giê-su trước các anh em nhờ lòng yêu mến Thầy. + Phê-rô khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển: Phê-rô tính vốn nóng nảy, nên khi nghe “Chúa đó !”, ông đã lập tức khoác áo vào và nhảy xuống biển để bơi nhanh vào bờ gặp Người.
- C. 9-11: + Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên: Chúa Giê-su đã nêu gương phục vụ khi dọn sẵn bữa ăn sáng cho các môn đệ. Các ông đã được Người mời ăn và tăng cường thêm bằng cá mới bắt được. + Si-mon Phê-rô lên thuyền rồi kéo lưới vào bờ: Nếu Gio-an là người suy tư chiêm niệm nên sớm nhận ra Chúa trước mọi người, thì Si-mon Phê-rô lại là người mau mắn hành động để biểu lộ lòng yêu mến Thầy. Điều này cho thấy suy niệm và họat động cần luôn đi đôi với nhau trong việc xây dựng Hội thánh. + Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con: Theo thánh Hi-ê-rô-ni-mô thì các nhà vạn vật học thời xưa đã khám phá ra được 153 loại cá. Con số 153 ở đây tượng trưng mọi dân tộc, và tất cả đều được gọi gia nhập vào Hội thánh như dụ ngôn lưới cá: “Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển gom được mọi thứ cá” (x. Mt 13,47). + Lưới không bị rách: tượng trưng cho sự hiệp nhất trong Hội thánh.
- C. 12-14: + “Anh em hãy đến mà ăn!”: Lời Chúa mời gọi các môn đệ ăn, giống như Người đã mời các ông dự tiệc Thánh Thể (x. Mt 26,26). Bánh được trao cho môn đệ giống như Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,11). + “Con cá”: tiếng Hy-lạp là IK-TUS. Đây là năm chữ đầu của một lời tuyên xưng đức tin: “Giê-su Ki-tô Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa” (Ièsous Kristos Théou Unios Sôter). Khi chia sẻ Cá, Chúa Giê-su ngụ ý sẽ chia sẻ Thánh Thể Người là “Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa” cho các môn đệ. + Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ: theo Gio-an thì lần thứ nhất Chúa Phục Sinh hiện ra vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần không có Tô-ma (x. Ga 20,19-23); Lần hai vào 8 ngày sau đó và có Tô-ma (x. Ga 20,26-31). Đây là lần thứ ba Người hiện với 7 môn đệ tại biển hồ Ga-li-lê.
- C. 15-17: + “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”: Sau ba lần sát hạch về lòng mến, Đức Giê-su đã từng bước trao quyền để biến Phê-rô từ một người đánh cá trở thành một mục tử có quyền chăn chiên (x. Ga 10,11). Tuy nhiên đàn chiên kia vẫn thuộc về Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”. + Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?: Phê-rô đau lòng vì việc bị hỏi ba lần làm ông liên tưởng đến ba lần chối Thầy (x. Ga 13,38 ; 18,17.25-27). Đức Giê-su đã tế nhị khi không trực tiếp đề cập đến tội của Phê-rô, mà chỉ yêu cầu ông xác định tình yêu dành cho Người. Mỗi lần Phê-rô khẳng định lòng mến, Đức Giê-su lại tha tội và trao thêm quyền: “Hãy chăm sóc chiên… ” (C. 5-17).
- C. 18-19: + Lúc còn trẻ... Nhưng khi đã về già....: Tuổi trẻ có đặc tính là tự do hành động (“Đi đâu tùy ý”). Tuổi già có đặc điểm là bị gò bó thụ động (“Anh sẽ phải dang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn: ). + Người nói như vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào: Quả thật, lời tiên báo này đã được ứng nghiệm vào lúc cuối đời của Phê-rô trong cơn bách hại đạo tại Rô-ma thời hoàng đế Nê-rông. Phê-rô đã phải chịu khổ hình thập giá nhưng lại xin được treo đầu xuống đât, vì ông không dám chịu cùng một hình khổ giống như Thầy.
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao các môn đệ lại cùng hiện diện tại Biển hồ Ti-bê-ri-a thuộc xứ Ga-li-lê vào thời điểm sau khi Chúa phục sinh ? 2) Có mấy môn đệ cùng đi đánh cá với Si-mon Phê-rô ? 3) Do đâu mà Gio-an luôn nhận ra Chúa Giê-su trước các anh em ? 4) Chúa Giê-su đã tiên báo thế nào về số phận lúc cuối đời của ông Phê-rô ?
- SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21,6).
2. CÂU CHUYỆN: CẬU ĐÃ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO CHÚA GIÊ-SU ?
Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp SÁC ĐỜ PHU-CÔ (Charles de Foucauld) đang say sưa kể cho mọi người trong gia đình nghe về những chiến công hiển hách trong nhiều trận chiến cùng những cuộc thám hiểm của anh ở nước Ma-rốc xa xăm. Người chăm chú nghe nhất lại là cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kết thúc câu chuyện, thì cô bé bất ngờ hỏi: “Thưa cậu, cháu rất hãnh diện khi thấy cậu làm được những việc lớn lao cho nước Pháp. Thế nhưng cháu thắc mắc là: “Cậu đã làm đựơc gì cho Chúa Giê-su chưa ?”
Câu hỏi ấy như một luồng điện khiến anh giật mình. Từ trước đến nay, chưa bao giờ anh gặp câu hỏi bắt phải suy nghĩ nhiều như thế. Phải, “Anh đã làm được gì cho Chúa Giê-su chưa ?” Khi đối diện với Chúa, anh đã nhận ra rằng: từ trước đến nay anh đã phí phạm thì giờ ăn chơi xa xỉ, đã chạy theo bả vinh hoa phú quí vô ích. Giờ đây anh đã ý thức được sự nghèo khó của mình. Sau đó vài ngày, anh xin nhập vào một dòng tu và xin bề trên cho đến ở Na-da-rét nước Ít-ra-en là quê hương của Đức Giê-su, để tận hiến trọn đời phụng sự Người.
Một ngày nọ, đang lúc cầu nguyện trong nhà, anh bỗng nghe thấy có tiếng than van rên rỉ của một người Hồi giáo nhưng không biết tiếng nói đó phát ra từ đâu. Anh liên tưởng đến Lời Chúa Giê-su về thái độ phải có đối với những kẻ thù ghét mình, và quyết định sẽ đi làm bạn với người Hồi giáo. Anh dời đến sống ở giữa sa mạc Sa-ha-ra bên Phi châu, nơi có nhiều người Hồi giáo nghèo khổ. Thế rồi “điều phải đến đã đến”: Vào đầu tháng 12 năm 1916 khi đang cầu nguyện trong nhà, anh đã bị một toán người Hồi giáo cực đoan kéo đến sát hại. Ngày nay các tiểu đệ và tiểu muội tiếp tục sống theo lý tưởng của anh là “tự nguyện sống giữa người nghèo để lao động và chia sẻ nỗi khốn cùng của họ, và giúp họ thăng tiến để đón nhận ơn cứu độ”.
3. SUY NIỆM:
1) Cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Phục Sinh tại Ga-li-lê:
Sau khi gặp Chúa Phục Sinh ở Giê-ru-sa-lem, các Tông đồ đã quay về Ga-li-lê như lời Người đã chỉ thị trước khi chịu khổ nạn: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mt 26,31-32). Vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh, thiên sứ đã lập lại sứ điệp này với các phụ nữ đi viếng mồ Đức Giê-su: “Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (Mt 28,6-7). Trong bài Tin mừng hôm nay, có bảy môn đệ đang ở trên thuyền của Si-mon. Sau một đêm vất vả đánh cá không kết quả, các ông đã nghe lời hướng dẫn của một người đang đứng ở bờ hồ và đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Đếm được tời một trăm năm mươi ba con cá lớn. Con số này theo thánh Hiê-rô-ni-mô tượng trưng cho mọi lòai cá. Qua đó ám chỉ việc truyền giáo của Hội Thánh muốn thành công thì phải vâng theo lời dạy của Chúa Giê-su và phải hiệp thông với Si-mon Phê-rô.
2) Về Bữa ăn Bẻ Bánh của Chúa Phục Sinh:
Đức Giê-su đã chuẩn bị cho các môn đệ một bếp than hồng để sưởi ấm và một bữa sáng để được no lòng qua lời nói: "Anh em đến mà ăn”. Bữa ăn gồm bánh và cá, là hai biểu tượng của bí tích Thánh Thề. Như vậy:“Mẻ cá lạ lùng” và "bữa ăn của Chúa” trong Tin Mừng hôm nay diễn tả hoạt động truyền giáo và bàn tiệc Thánh Thể là hai yếu tố quan trọng luôn đi đôi với nhau:
- Mẻ cá lạ lùng cho thấy Hội thánh được mời gọi tiếp tục sứ vụ truyền giáo của Đức Giê-su, là đi loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc (x. Mt 28,19-20). Việc loan báo Tin Mừng này cần được bồi dưỡng bằng bữa ăn Bẻ Bánh để gia tăng lòng Tin Cậy Mến là điều kiện để chu tòan sứ vụ.
- Bữa ăn Bẻ Banh còn là hình ảnh của Bữa Tiệc Cánh Chung mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo sẽ được Đức Chúa thiết đãi muôn dân (x. Is 25,6-9). Đức Giê-su cũng đã hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy…” (Lc 22,30), và Người cũng cho biết: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,37).
3) Quyền mục tử của Phê-rô dựa trên lòng tin và lòng mến:
- Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca cho thấy quyền tối thượng của Phê-rô được Đức Giê-su trao ban cho ông sau khi ông tuyên xưng đức Tin “Đức Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Giê-su đã chúc phúc cho ông và đặt ông làm đá tảng đức Tin. Người hứa sẽ xây Hội Thánh của Người trên đức Tin của Phê-rô. Người cũng trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19). Đức Giê-su cũng truyền cho Phê-rô nhiệm vụ củng cố đức Tin cho các anh em: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của mình nên vững mạnh” (Lc 22,32).
- Còn Tin Mừng Gio-an lại cho thấy Chúa Phục Sinh đã trao quyền tối thượng cho ông Phê-rô dựa trên “lòng mến” của ông (x. Ga 21,15-17). Người đòi Phê-rô phải mến Người hơn anh em để được trao quyền mục tử chăn dắt đàn chiên của Người và sẵn sàng thí mạng vì đàn chiên ấy (x. Ga 10,11-15).
4) Lòng mến đối với người nghèo của Đức Tân Gíao Hòang Phan-xi-cô:
- Bài giảng lễ thánh Giu-se (19/03/2013) trong nghi thức đăng quang Đức Tân Giáo Hòang tại Rô-ma vừa qua, Đức Phan-xi-cô đã nói về quyền tối thượng của Phê-rô thể hiện qua vai trò phục vụ Hội Thánh noi gương Đức Giê-su. Ý hướng này được thấy rõ ở nơi tên gọi ngày lễ Đăng Quang là lễ Khởi Đầu Sứ Vụ Mục Tử của Phê-rô. Qua đó Đức Thánh Cha muốn cởi bỏ chiếc áo Giáo Hoàng để mặc lấy chiếc áo Mục Tử hầu gần gũi và ân cần phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo, phận nhỏ và bị bỏ rơi, những người bị lọai ra bên lề xã hội. Vì thế Đức Thánh Cha đã được dân chúng đồng hương ca tụng khi gọi ngài là "Giáo Hoàng khu ổ chuột của chúng tôi”.
- Từ kinh nghiệm của một vị mục tử ở Ác-hen-ti-na Nam Mỹ, Đức Thánh Cha biết rất rõ việc phục vụ những người nghèo theo mẫu gương của Đức Giê-su không phải dễ dàng, đôi khi gặp phải những bất lợi cho bản thân và công việc, nguy hiểm cả đến tính mạng của mình. Vì thế, những người mục tử đích thật như lòng Chúa mong ước cần chấp nhận bước đi trên con đường thập giá, con đường mà Đức Giê-su đã chọn để ôm mọi người vào vòng tay thương yêu của Người.
5) Làm chứng cho Chúa hôm nay là thực thi lòng mến: Dấu hiệu của người môn đệ đích thực của Chúa Giê-su hôm nay là: sống đức Tin bằng lời cầu nguyện (đức Cậy) và bằng thái độ năng nghĩ đến người khác (đức Mến): Khiêm nhường phục vụ, chia sẻ cơm áo, an ủi giúp đỡ người bên cạnh, đặc biệt những người đau khổ bệnh tật và bất hạnh... Mỗi tín hữu quyết tâm mỗi ngày đọc và thực hành một việc bác ái cụ thể theo lời kinh “Thương người” và “Kinh hoà bình” của thánh Phan-xi-cô...
4. THẢO LUẬN: 1) Anh em lương dân thường hay phê phán lối sống của các tín hữu chúng ta về điểm nào ? 2) Tuần này bạn sẽ làm gì cụ thể để làm chứng cho Chúa Giê-su?
5. CẦU NGUYỆN:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Lúc chúng con đi tìm Chúa trong nước mắt sầu thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con, như Chúa đã gọi tên bà Ma-ri-a Mác-đa-la khi bà đứng khóc bên mồ trống.
Lúc chúng con chán nản và muốn buông xuôi trở về con đường cũ tội lỗi, xin hãy cùng đi với chúng con trên những nẻo đường dài, như Chúa đã đi với hai môn đệ về làng em-mau.
Lúc chúng con đóng kín cửa lòng vì sợ hãi, xin Chúa hãy ngự đến đứng giữa chúc bình an cho chúng con, như Chúa đã đến và trấn an các tông đồ đang khiếp nhược sợ hãi vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần.
Lúc chúng con cố chấp làm theo ý riêng và ngày một xa lìa anh em, xin hãy biến đổi lòng trí chúng con, như Chúa đã không bỏ mặc ông Tô-ma cứng lòng tin về mầu nhiệm Chúa đã từ cõi chết sống lại.
Lúc chúng con vất vả thâu đêm mà không đạt được kết quả nào, xin hãy dẫn đường chỉ lối giúp chúng con trong thánh lễ như Chúa đã làm lễ Bẻ Bánh cho các Tông đồ trong Tin mừng hôm nay.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin tỏ cho chúng con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong Hội thánh và nơi tha nhân. Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa vẫn đang hiện diện, đang đến với chúng con, đang ở bên chúng con và đang ở trong mỗi người chúng con. Chúa vẫn đang thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con, để giúp chúng con chu toàn sứ vụ “được sai đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho mọi người”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com
(Ga 21,1-19)
Chúa Nhật 3 Phục Sinh -
Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình Cha bao la lẫn tình Mẹ dịu dàng.
Thánh Gioan tông đồ giới thiệu cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu và qua bốn sách Tin Mừng: PS3-C90
Thánh Gioan tông đồ giới thiệu cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu và qua bốn sách Tin Mừng, Chúa Giê-su mặc khải cho biết Thiên Chúa là Cha yêu thương. Người dạy chúng ta gọi Thiên Chúa Cha bằng tiếng “Áp-ba” rất thân thương, đó là tiếng bập bẹ của đứa con thơ gọi cha mình.
Tuy nhiên, điều đặc biệt là Thiên Chúa không chỉ yêu thương chúng ta bằng tấm lòng bao la của một người cha mà còn bằng trái tim dịu hiền của một người mẹ nữa. Chính Thiên Chúa đã hé mở cho chúng ta thấy khối tình từ mẫu của Người qua miệng ngôn sứ I-sa-i-a:
“Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (Is 66,13) và sau nầy, qua thánh sử Mát-thêu, Chúa Giê-su phán:
“Giê-ru-sa-lem… đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37) .
Trích đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay phác họa rõ nét hơn mối tình từ ái của người mẹ được biểu lộ qua tấm lòng của Chúa Giê-su.
Khi biết các môn đệ phải thức thâu đêm chài lưới giữa biển khơi, vừa phải chịu đói lạnh, vừa mệt nhoài, mối tình từ mẫu nơi Chúa Giê-su đã khiến Người dấn bước đến với đàn con để chia sẻ sự nhọc nhằn vất vả của họ, ngay lúc trời vừa hừng sáng.
Sở dĩ Chúa Giê-su đến sớm như vậy vì Người không muốn để cho các môn đệ phải chịu đói lạnh lâu hơn. Như người mẹ hiền, Chúa Giê-su mang đến cho họ sự chăm sóc giúp đỡ ngay khi họ đang cần.
Biết rằng các môn đệ vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, Người dạy họ thả lưới đúng nơi để bắt được nhiều cá.
Đối với người đi biển vừa mới lên bờ còn đang đói và lạnh thì không gì sung sướng bằng được thưởng thức ngay những miếng bánh và những con cá nướng còn nóng hổi và thơm ngon. Chính vì thế, khi đến với các môn đệ, ngoài những thực phẩm khô, Chúa Giê-su còn mang theo than để nướng bánh và cá.
Rồi Chúa Giê-su ngồi trên bãi biển như một người mẹ gia đình, nhóm lửa lên, đem cá và bánh nướng trên than hồng cho sẵn, để khi các môn đệ vừa bước lên bờ là có ngay bữa ăn sáng còn đang nóng.
Sau đó, Chúa Giê-su còn gọi các môn đệ mang thêm cá mới bắt được, để Người tiếp tục phục vụ như người mẹ gia đình, tiếp tục nướng những con cá còn tươi rồi trao cho từng đứa con đang đói. Thật đầm ấm như người mẹ hiền giữa đàn con ngoan, dạt dào tình mẫu tử.
***
Sự chăm sóc ân cần mà Chúa Giê-su dành cho các môn đệ hôm xưa, nay cũng được dành cho chúng ta. Hôm nay, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục chăm sóc và dọn bữa hằng ngày cho chúng ta.
Nơi bàn tiệc thánh, Chúa Giê-su đem Lời hằng sống của Thiên Chúa để ban tặng chúng ta. Nhờ Lương Thực tuyệt vời nầy, tâm hồn chúng ta được dưỡng nuôi và được dồi dào sức sống. Cũng nơi bàn tiệc yêu thương nầy, Chúa Giê-su phục sinh trao chính thân mình Người làm bánh nuôi dưỡng chúng ta, để chúng ta được hiệp thông nên một với Người, và qua đó, Người thông ban sự sống thần linh của Người cho chúng ta.
Hôm nay, Thiên Chúa còn tiếp tục nhờ Mẹ Maria để trao ban tình từ mẫu của Người cho chúng ta. Như mặt trăng đón nhận ánh sáng mặt trời rồi phản chiếu xuống mặt đất làm cho trái đất được chiếu sáng, thì Mẹ Maria cũng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và trao lại cho chúng ta. Qua Mẹ Maria, Thiên Chúa yêu thương ấp ủ chúng ta bằng một tình mẹ rất dịu dàng, dìu dắt chúng ta như đứa con thơ bé, vượt qua biển đời sóng gió về bến an bình.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình Cha bao la lẫn tình Mẹ dịu dàng. Ước gì chúng ta cũng biết đền đáp lại mối tình cao cả ấy với tất cả tấm lòng hiếu thảo của một người con ngoan.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
(Gioan 21,1-19 – CN III PS - C)
1.- Ngữ cảnh
Tuy ngay từ đầu, TM IV được lưu truyền luôn luôn có ch. 21, các nhà chú giải cho rằng chương: PS3-C91
Tuy ngay từ đầu, TM IV được lưu truyền luôn luôn có ch. 21, các nhà chú giải cho rằng chương này chỉ là một phụ trương được thêm vào sau. Nhưng vì không có được những bằng cớ thật xác đáng về ngôn ngữ và văn phong để có thể khẳng định mạnh hơn, các tác giả hiện nay chấp nhận rằng chương 21 đã được một môn đệ thuộc trường phái Gioan (hoặc một môn đệ của người môn đệ Đức Giêsu yêu thương) thêm vào khi xuất bản quyển TM IV. Với lại có một loạt những chi tiết rõ ràng là các biểu tượng, khiến không dễ gì mà nói được rằng điều gì đã xảy ra thực sự.
Riêng ở đây, chúng ta chọn đọc theo phương pháp đồng đại. Như thế, theo đường tường thuật của tác giả thánh, Đấng Phục Sinh đã hiện ra hai lần giữa các môn đệ, chứng minh rằng Người là Đức Chúa hằng sống và đã được tôn vinh (20,19-21), bằng cách cho các ông thấy các vết thương. Lần hiện ra được kể trong bản văn chúng ta đọc hôm nay là lần thứ ba. Vào lúc tảng sáng, Đức Giêsu ở trên bờ Hồ Tibêria; các môn đệ đang ở trên thuyền để đánh cá. Các ông thấy Người, nhưng không nhận ra Người (21,4). Các ông im lặng. Đức Giêsu nói và hành động, còn các ông thì hành động theo như Người truyền. Ở đây không còn phải là ghi nhận sự thật là Người đã sống lại, nhưng là trải nghiệm một điều khác: khi các ông hành động theo lời Người, các ông đạt được những kết quả khả quan, và các ông thấy là Người vẫn tiếp tục ăn uống với các ông (21,1-14). Sau đó, Đức Giêsu đã “bổ nhiệm” Simôn Phêrô làm mục tử chăn dắt chiên của Người và loan báo con đường tương lai của ông (21,15-19).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (21,1-14):
a) Cảnh đánh cá (cc. 1-8),
b) Bữa ăn trên bờ biển (cc. 9-13),
c) Một nhận xét (14);
2) Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (21,15-19):
a) Đức Giêsu phục quyền và giao nhiệm vụ cho Phêrô (cc. 15-17),
b) Đức Giêsu nói về số phận của Phêrô (cc. 18-19).
3.- Vài điểm chú giải
- Sau đó (1): Đến sau đoạn kết 20,30-31, công thức chuyển tiếp này không có giá trị về thời gian rõ ràng gì.
- tỏ mình (1): Đọng từ phanêroun được dùng 9 lần trong TM IV (còn trong chương 21: 2 lần trong c. 1 và 1 lần trong c. 14). Động từ này diễn tả một ý tưởng là có điều gì vượt lên khỏi bóng tối; đối với Ga, động từ này muốn nói đến một mạc khải từ trời cao ban cho trái đất.
- cho các môn đệ (1): Từ này nhắm đến những người đã chứng kiến Đức Giêsu hiện ra ở 20,19.26. Như thế, ta có thể cho rằng đây là Nhóm Mười Một (theo các TMNL). Bảy (hay năm) môn đệ sẽ được nêu tên ở c. 2.
- Ông Simôn Phêrô... (2): Con số các môn đệ có mặt là bảy ông. Tại ch. 21 này, chúng ta đang ở tại miền Galilê; miền này nhắc nhớ đến “Galilê của Dân ngoại”. Và bảy môn đệ là các thủ lãnh của cộng đoàn phát sinh từ Dân ngoại (x. Cv 6,1-6). Điểm mới ở đây là có những thủ lãnh đến từ Dân ngoại và những thủ lãnh thuộc Nhóm Mười Hai. Điểm này nhằm nêu bật sự hợp nhất của cộng đoàn.
- đêm ấy họ không bắt được gì cả (3): Động từ piazein (ở đây và c. 10) xuất hiện trong TM Ga 6 lần khi nói về việc bắt Đức Giêsu; trong thực tế, động từ này không mấy khi được dùng để nói về việc bắt thú vật hay bắt cá. Những người quen biết tập quán Paléttina cho biết là, thường thường, trên Hồ Galilê, người ta đánh cá ban đêm thì có kết quả tốt hơn là ban ngày; với lại cá bắt được ban đêm có thể bán được khi còn tươi vào lúc sáng sớm.
- thả lưới xuống bên phải mạn thuyền (6): Chi tiết lạ lùng này không có trong câu truyện song song của TM Lc (Lc 5). Bên phải là bên may mắn, bên tốt (x. Mt 25,33), nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa này. Tác giả Ga muốn gợi ý là Đức Giêsu có một sự hiểu biết vượt quá tự nhiên và người môn đệ có một bổn phận luân lý tương ứng là vâng lời Người chính xác.
- Chúa đó (7): Danh hiệu này được dùng như một lời tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh ở 20,18.25 và 28. Xem c. 12.
- Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần (7): Khó mà cho rằng Phêrô hoàn toàn trần truồng, vì như thế sẽ xúc phạm đến tính nhạy cảm của người Do-thái. “Ở trần” (gymnos) có thể có nghĩa là ăn mặc phong phanh. Chúng ta có thể hình dung ra hoàn cảnh sau: Lúc đó vì là buổi sáng, trời hơi lạnh, Phêrô khoác một tấm áo ngoài (ependytês) để làm việc. Vừa nghe biết là Đức Giêsu, ông liền thắt áo lại để nhảy xuống nước mà bơi vào, bởi vì động từ dyazônnymi (ở thì aorist là diezôsato) có nghĩa là “thắt [áo] quanh mình [bằng một dây lưng]”. Như thế ông thắt chặt áo lại để bơi dễ dàng.
- một trăm năm mươi ba con (11): Tác giả Ga thường dùng “khoảng/phỏng chừng” (hôs), thế mà ở đây ông lại cho một con số tròn. Rất có thể người ta đã đếm cá vì tò mò; nhưng con số này được ghi lại hẳn không chỉ vì muốn cho chính xác. Do đó, các nhà chú giải đã đoán là đây là một con số biểu tượng: (a) Thánh Giêrônimô cho rằng con số này lấy từ kiến thức về động vật học lúc đó (trên thế giới có 153 loại cá), để nói rằng công việc truyền giáo của các Kitô hữu sẽ đưa vào Hội Thánh mọi người hoặc ít ra mọi hạng người; (b) Thánh Âutinh cho rằng con số này tượng trưng cho sự hoàn hảo…; (c) Thánh Cyrillô Alexandria thì tách con số làm ba: số 150 chỉ toàn thể Dân ngoại, số 50 chỉ số sót của Israel, số 3 chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi… Vấn nạn cho các giả thuyết này là: các độc giả của TM IV có hiểu được theo cách tinh tế như thế chăng. Nhưng dù theo giả thuyết nào, ý nghĩa phổ quát vẫn nổi bật. Ta có thể cho rằng ý nghĩa của con số 153 bắt gặp công thức “gom được đủ thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (x. Mt 13,47). Hội Thánh phải quy tụ vào trong lưới của mình tất cả các dân nước, như Người mục tử chân chính quy tụ vào đàn mình những con chiên phát xuất từ những ràn chiên khác với ràn chiên Israel (Ga 10,16). Cũng vậy, Con Người sẽ lôi kéo tất cả mọi người vào trong một tấm lưới cánh chung (x. 12,32; 6,44). Như thế, cần liên kết vào đề tài này các chi tiết về chiếc thuyền duy nhất và tấm lưới nguyên vẹn.
- Đó là lần thứ ba (14): Từ công thức này, ta suy ra là người viết biết chương trước. Nhưng trong ch. 20, ta thấy có ba cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh. Vậy hẳn là tác giả chỉ quan tâm đến các cuộc hiện ra với Nhóm Mười Một (không kể đến cuộc hiện ra với Maria Mácđala).
- anh có mến/thương Thầy không? (15.16.17)[1][1]: Hầu như tất cả các nhà chú giải đã cho rằng Đức Giêsu hỏi ba lần là để tha việc ba lần Phêrô chối Người. Nhưng nếu vậy, hẳn là đến lần thứ ba, mới có việc trao quyền chăn chiên, như để cho Phêrô hiểu là ông đã thực sự được tha thứ. Thế thì tại sao ở đây lại có ba lần trao “bài sai”? Vào thời xa xưa, những công thức pháp lý thường không được viết ra, nhưng được lặp lại ba lần trước người chứng (chẳng hạn trong luật hôn nhân Paléttina); khi đó thủ tục kết giao đã được hoàn tất đúng quy cách và có hiệu lực. Như vậy, ở đây Đức Giêsu lặp lại ba lần là để cho hiểu rằng Phêrô đã được chính thức và đúng thể thức trao nhiệm vụ chăn dắt tất cả đàn chiên của Người. Qua ba lần trực tiếp trao nhiệm vụ, Đức Giêsu cũng gián tiếp tha thứ cho Phêrô.
Tình yêu mà Đức Giêsu nói đến là agapê, một tình yêu quảng đại, tự hiến mình hy sinh (agapas me). Sau khi đã chối Đức Giêsu, Phêrô không dám so sánh agapêcủa ông đối với Đức Giêsu với agapê của các môn đệ khác, nhưng ông khẳng định tình thương của ông (philô se) là tình thương trìu mến (philia) như một người bạn (philos). Ông đã chứng tỏ tình thương trìu mến của ông đối với Đức Giêsu lớn hơn tình thương của các môn đệ khác, khi nhảy xuống nước và bơi vào bờ để đến với Đức Giêsu trước (c. 7), còn các môn đệ khác từ từ vào bờ bằng thuyền (c. 8).
- hãy chăm sóc ... chăn dắt (15.16.17): “Chăm sóc” (boskein, cc. 15 và 17), “chăn dắt” (poimanein, c. 16). Bản LXX dùng cả hai động từ Hy-lạp này để dịch động từ Híp-ri râ‘âh (to feed; to pasture; to rule), nên ta có thể coi hai động từ này có cùng một ý nghĩa (Bản Neo Vulgata dịch cả hai trường bằng động từ La-tinh pascere). Tuy nhiên, cách tinh tế hơn, ta thấy boskein được sử dụng theo cả nghĩa chữ lẫn nghĩa bóng (Ed 34,2) để diễn tả việc “nuôi dưỡng thú vật”; còn poimanein có cả một vùng ý nghĩa bao quát hơn, gồm các công việc làm cho đàn vật như “hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng”, cả nghĩa chữ (Lc 17,7) lẫn nghĩa bóng (Ed 34,10; Cv 20,28; Kh 7,17...), và cũng có thể có nghĩa là “điều khiển, cai quản”. Tổng hợp lại với nhau, hai động từ này diễn tả toàn thể công việc mục vụ[2][2].
- chiên (15.16.17): Ở c. 15, “các chiên” là arnia (“lambs”); ở cc. 16 và 17, “các chiên” là probata (“sheep”). Arnia là từ hiếm, trong TM IV chỉ được dùng ở chỗ này[3][3], nên từ tương ứng với arnia ở c. 17, chúng tôi đồng ý với R.E. Brown mà cho rằng, thay vì đọc là probata thì phải đọc là probatia, cũng là một từ hiếm (theo Codex Alexandrinus và Codex Vaticanus); còn probata (theo Codex Sinaiticus) có thể là một sửa chữa của người chép cho hài hòa với c. 16 và Ga 10. Lý do: nếu bản gốc là probata, không lẽ người chép nào đó lại sửa thành từ ngữ hiếm là probatia [4][4].
Tuy có những tác giả, như Brown, cho rằng các từ ngữ này có cùng một ý nghĩa như nhau để chỉ chung là “các con chiên”, chúng ta có thể cho rằng cần phân biệt ý nghĩa các từ vì có một (hoặc hai từ) lạ (là arnia và probatia). Kh 7,17 mô tả Con Chiên (arnion) như là Đấng chăn dắt (poimanei) và dẫn đưa (odêgêsei) đàn chiên như một mục tử. Arnia ở Ga 21,15 hẳn cũng có ý nghĩa biểu tượng này. Vậy từ ngữ này rất có thể nhắm đến các thủ lãnh của cọng đoàn Kitô hữu. Nói cách khác, ở c. 15, Đức Giêsu ủy thác cho Phêrô nhiệm vụ nuôi dưỡng các thủ lãnh (mục tử) của các chiên Người. Ở cc. 16 và 17 “các chiên” là probata (“sheep”) và probatia (“little sheep”). Khi đó, chúng ta sẽ có một danh sách đi xuống là “mục tử”, “các tín hữu”, và “các tân tòng”. Dù sao, nếu không chấp nhận probatia, chúng ta vẫn có thể hiểu probata theo nghĩa bao quát là “các tín hữu” (nói chung) và “các tân tòng”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong Ga 21,19-31, tác giả muốn các Kitô hữu biết rằng bất cứ khi nào họ gặp nhau trong ngày của Chúa để cử hành Thánh Thể, Chúa Phục Sinh sẽ ở giữa họ. Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ vào một ngày trong tuần. Bản văn thật sự có những ý nghĩa biểu tượng.
* Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (1-14)
Theo đề nghị của Phêrô, bảy môn đệ đi đánh cá. “Bảy” là biểu tượng của sự hoàn thiện, sự đầy đủ, nên Phêrô và các tông đồ kia tượng trưng tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Còn “biển”, đối với Israel, là biểu tượng của tất cả những sức mạnh thù nghịch với con người. Nhiệm vụ các ông là đi ra “biển” mà “đánh/bắt cá” người, tức kéo họ khỏi những hoàn cảnh giới hạn tự do yêu thương và sống hạnh phúc. Suốt đêm, các ông không bắt được gì cả, vì không được Chúa Phục Sinh hướng dẫn. Khi đêm tối tan biến thì cũng tan biến ước mong đánh được một mẻ cá lớn.
Ngay lúc các ông còn đang chìm trong thất bại, Đức Giêsu ở trên bờ gọi các ông: “Này các chú (paidia)”. Trong tư cách Đấng Phục Sinh, Người không bị chia cách khỏi các ông, nhưng vẫn liên kết với các ông với lòng thương mến, để ân cần săn sóc các ông. Khi nghe Người gọi, các môn đệ thú nhận là đã thất bại. Đức Giêsu cho các ông những chỉ dẫn chính xác và tiên báo một mẻ cá phong phú. Các ông đã vâng nghe Người, nên đã đạt được một kết quả hết sức dồi dào. Kinh nghiệm cho các môn đệ thấy rằng họ đạt được kết quả không nhờ những vất vả mệt nhọc của họ, nhưng nhờ nghe lời Đức Giêsu. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến bây giờ nhận ra Chúa[5][5]. Cũng như vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, tại mộ trống (20,2.8), bây giờ người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã là người thứ nhất nhận biết Đức Giêsu với niềm tin tròn đầy. Người môn đệ này có trực giác bén nhạy và đã báo cho Phêrô biết khám phá của mình. Ông này không chờ đợi thêm, ông quên cả mẻ cá lớn, con thuyền và các môn đệ khác, ông nhảy xuống biển, để là người đầu tiên đến bên Đức Giêsu.
Đức Giêsu Phục Sinh không ở trên thuyền, mà lại ở trên bờ, còn các con thuyền nhắm Người mà đi vào. Ở đây, có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng nữa: Dù đang đứng trên bờ, Đức Giêsu đang ở trong vinh quang của Cha Người và cũng luôn luôn ở cùng chúng ta, mỗi ngày, cho đến tận thế. Đức tin cho các môn đệ được nên vững chắc là do Người tiếp tục trò chuyện với họ.
Đấng Phục Sinh chờ các môn đệ vào tới bờ, cũng có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng là đạt tới trời. Người đã có cá rồi (c. 9), đây là hoa trái của các hành vi của Người trong thế giới, cho dù công việc của Người phải được hoàn tất bởi những kẻ tin Người. Giống như bảy môn đệ, toàn thể cộng đoàn Kitô hữu được chờ đợi là mang theo cá với mình, tức hoa trái của việc tông đồ. Còn bánh thì Đức Giêsu luôn mang theo, đó là Thánh Thể, bánh mà Chúa Kitô Phục Sinh bẻ ra muốn tất cả chúng ta chia sẻ. Người mời tất cả các môn đệ ăn điểm tâm với Người và xin họ góp phần bằng số cá vừa đánh được (21,10.12). Cũng như trong bữa ăn với số bánh được Đức Giêsu nhân lên cho đám đông, trong đó Hồ Tibêria được nhắc tới (6,1), ở đây Đức Giêsu cũng “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (21,13). Chắc chắn, hơn bao giờ hết, bây giờ Đức Giêsu quả là “bánh ban sự sống” (6,35) cho các ông. Không một môn đệ nào hé một lời, bởi vì các ông đều biết rằng đó là Chúa. Các ông hoàn toàn sống dưới sự hiện diện và cho sự hiện diện của vị Chúa này, là Đấng đã sống lại, đã ngỏ lời với họ cách khả ái, Đấng vừa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ lùng và cho các ông được hiệp thông với Người và ban cho các ông sự sống viên mãn.
* Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (15-19)
Sau khi ăn xong, Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn Phêrô. Lần cuối cùng hai vị nói chuyện với nhau là vào giờ từ biệt (13,36-38). Lúc ấy, Phêrô đã quay lại hỏi là Người đi đâu và đã đoan chắc với Người là sẵn sang hy sinh mạng sống vì Người. Đức Giêsu đã ba lần tiên báo rằng Phêrô sẽ chối Người ba lần, và chuyện đã xảy ra như thế (18,15-18.25-27). Bây giờ Người hỏi ông ba lần là có mến thương Người không, rồi trao phó ba lần nhiệm vụ làm mục tử chăn dắt đàn chiên của Người, là để chứng tỏ Người đã tha thứ cho Phêrô, và nhất là cho hiểu ông đã được chính thức trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người.
Những câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô và những câu trả lời ông thưa lại là một lối “chơi chữ” rất ý nghĩa trên các động từ. Trong tiếng Hy-lạp, động từ phileô diễn tả tình yêu thương giữa bạn bè, dịu dàng nhưng không bao trùm cả cuộc sống, còn động từ agapaô diễn tả tình yêu không giới hạn, không dè giữ, trọn vẹn và vô điều kiện. Lần đầu, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “Simôn …, anh có mến Thầy (agapas me)”, nghĩa là yêu thương với tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện không (Ga 21,15)? Nếu chưa trải nghiệm sự phản bội, hẳn là ông đáp ngay: “Con mến Thầy (agapô se)” vô điều kiện! Bây giờ, khi đã nếm cảm nỗi đau buồn vì thất trung, đã sống tấn bi kịch về sự yếu đuối của mình, ôngchỉ dám khiêm tốn trả lời: “Thưa Thầy, con thương Thầy (philô se)”, nghĩa là “con thương Thầy bằng tình yêu con người nghèo hèn của con”. Đức Kitô lại hỏi: “Simôn, con có mến Thầy”, tức là yêu thương bằng tình yêu trọn vẹn mà Thầy mong muốn không? Phêrô lặp lại câu trả lời nói về tình yêu con người nghèo hèn của mình: “Kyrie, philô se”. Đến lần thứ ba, Đức Kitô chỉ hỏi: “Phileis me?”, “Anh có thương Thầy không?”. Simôn hiểu rằng Đức Giêsu bằng lòng với tình yêu nghèo hèn của ông, vì đó là thứ tình yêu duy nhất ông có thể bày tỏ, nhưng ông cũng buồn vì thấy Thầy đã phải nói với ông như thế. Thế là ông trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết rõ con thương Thầy (philô se)”. Có thể nói là Đức Giêsu đã thích ứng với Phêrô, hơn là Phêrô thích ứng với Người! Chính sự thích ứng này đã làm phát sinh niềm hy vọng và tin tưởng nơi Phêrô, sau khi ông đã phải đau khổ vì phản bội, để ông còn có thể bước theo Thầy (21,9)[6][6].
Tại Caphácnaum, Simôn Phêrô đãtuyên xưng niềm tin và tình yêu đối với Đức Giêsu, nhưng rồi ông đã chối Thầy ba lần. Hôm nay, ông tái lập tương quan cơ bản với Đức Giêsu, và đồng thời với Thiên Chúa (x. Ga 14,15-24): chính vì thế, ông lại có thể được nhận làm môn đệ Đức Giêsu và đi theo Người cho đến chết để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 21,18-19).
Trong tư cách là Người mục tử nhân lành, Đức Giêsu lo lắng cho đàn chiên của Người, vì bây giờ Người không hiện diện hữu hình ở giữa họ nữa. Bởi vì Người chăm sóc họ và muốn gìn giữ họ, Người ban Phêrô cho họ để ông làm mục tử dẫn dắt họ. Phêrô phải săn sóc họ, phải giữ cho họ đi trên đường ngay nẻo chính, phải điều khiển và hướng dẫn họ. Con đường đã là và vẫn là Đức Giêsu (14,6); sự sống chỉ đến nhờ kết hợp với Người. Nhiệm vụ của Phêrô là dẫn đưa họ đến với Người và giữ cho họ được hiệp thông với Người.
Bước đầu tiên để đi tới nhiệm vụ đó, là tình yêu của Phêrô đối với Người mục tử nhân lành. Điều cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.
Vào giờ ly biệt, Phêrô đã khẳng định là sẽ theo Chúa. Đức Giêsu đã loại bỏ sự tự phụ này và báo trước: “Sau này, anh sẽ đi theo Thầy” (13,36). Phêrô sẽ chia sẻ số phận của Đức Giêsu, sẽ chết như Người một cái chết tàn bạo. Ông sẽ bị dẫn đến nơi ông không muốn. Ông phải chấp nhận điều mà kẻ khác áp đặt cho ông. Ta không chắc là phải chăng là khi nói như thế, Đức Giêsu nhắm đến cái chết thập giá. Nhưng vào lúc mà Phêrô không còn chọn con đường của mình nữa, thì ông đã ở trên đường của Đức Giêsu, Đấng đã nhận lấy cái chết thập giá. Do đó, Đức Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy” (cc. 19.22). Dù thế nào, Đức Giêsu luôn luôn ở với Phêrô không những khi thành công, mà cả khi thất bại, cả khi ông bị người đời khước từ và giết chết (cc. 18.19).
+ Kết luận
Trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ sống thời gian sau này, khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các ông nữa. Các lần Người hiện ra sau Phục Sinh cũng nhắm mục tiêu này. Các ông phải biết chắc chắn rằng Người đã chiến thắng trên sự chết và Người sẽ trở về với Thiên Chúa. Các ông phải tin vào Người là Đức Chúa và Thiên Chúa. Điều tác giả thực sự muốn chúng ta biết chắc, đó là các tông đồ đã trải nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, nhưng đồng thời, ngài cũng cung cấp một bài giáo lý cho các Kitô hữu thời ngài. Hôm nay, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta qua mọi thăng trầm của cuộc sống.
Tuy nhiên, nếu chỉ để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, thì các chương 1-20 cũng đã đủ, hoặc chỉ cần nói thêm đến 21,14. Do đó, có thể nói bài tường thuật cuộc hiện ra này chỉ là dịp để đưa vào cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Phêrô. Như thế, ở đây không còn là một vấn đề Kitô học nữa, mà là một vấn đề Giáo Hội học.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn ở gần bên các môn đệ, âu yếm dõi theo các hoạt động của họ, nhưng họ không cảm thấy được sự hiện diện này. Và Người giúp họ thắng vượt những thất bại, nếu họ vâng nghe lời Người chỉ dẫn. Đối với chúng ta cũng thế, Đức Giêsu Phục Sinh luôn chúc phúc cho công việc chúng ta làm và vẫn là nguồn ban sự sống cho chúng ta. Chúng ta phải trung thành với những nhiệm vụ được giao phó và bước theo Người trên đường Người đi.
2. Hình ảnh Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các môn đệ nhắc lại cho các ông nhớ rằng Người chính là lương thực nuôi dưỡng các môn đệ. Hôm nay vì Người đã sống lại, Người đúng là lương thực thần linh, ban sự sống đời đời, giúp cho các môn đệ đủ sức tiến về quê hương vĩnh cửu.
3. Đức Kitô Phục Sinh tiếp tục hiện diện và hướng dẫn các môn đệ sống và làm việc bằng Lời của Người. Khi các cộng đoàn Kitô hữu đi theo các lời chỉ bảo của Người, họ sẽ thấy những kết quả thường phi thường, được bài Tin Mừng hôm nay tượng trưng bằng lượng cá lớn mà các môn đệ bắt được.
4. Qua hoạt cảnh Đức Giêsu Phục Sinh trao nhiệm vụ mục tử cho Phêrô, chúng ta hiểu: vị mục tử nhân loại cần nhớ rằng mình chỉ là người được giao phó nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của chính Đức Giêsu. Như thế, mục tử nhân loại cũng phải liên tục bước theo Đức Giêsu để có thể chu toàn sứ mạng được ký thác. Để luôn ở ngang tầm với sứ mạng, người mục tử cứ phải yêu mến Đức Giêsu hơn mọi người khác.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH, năm C
Ga 21, 1- 19
Chúa Phục sinh vẫn minh chứng cho các môn đệ và nhân loại Ngài đã sống lại thật, Ngài đang: PS3-C92
Chúa Phục sinh vẫn minh chứng cho các môn đệ và nhân loại Ngài đã sống lại thật, Ngài đang hoạt động trong Giáo Hội, trong con người và sống động trong lòng chúng ta. Lần nào Chúa sống lại cũng hiện ra với các tông đồ và ban bình an cho các Ông. Hôm nay, Chúa hiện ra với các tông đồ trên bờ hồ Tiberiat, nơi các Ông đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, nhưng vâng lời Chúa Phục sinh dù rằng các Tông đồ chưa biết là Chúa, các Ông vẫn thả lưới bên mặt phải thuyền, quả thực, các Ông đã bắt được mẻ cá ngoài sức tưởng tượng: 153 con cá lớn…
Đọc Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta thường thấy thánh sử thích dùng chữ “ khoảng chừng “, chẳng hạn khoảng chừng 5.000 người, giờ thứ 10, giờ thứ 6 vv…Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu Phục sinh đã gặp gỡ bảy môn đệ trên bờ hồ. Lần này, vai trò của Phêrô được nổi bật nhờ Ông đã vội nhảy xuống thuyền và đi trên mặt biển để đến với Chúa Phục sinh dù rằng Phêrô mới chỉ nghe thánh Gioan nói:’ Thầy đó “. Thánh Phêrô là người đầu tiên có sáng kiến đi đánh cá và sáu môn đệ đã xin Ngài cho đi đánh cá cùng. Phêrô đã kéo lưới lên tuy đầy cá, nặng nhưng lưới không rách. Điều này chứng tỏ Hội Thánh của Chúa ở trần gian có lúc gặp sóng gió nhưng con thuyền Giáo Hội vẫn luôn kiên vững. Con số 153 con cá là con số tròn đầy. Bữa ăn do Chúa Phục sinh thết đãi các môn đệ trên bờ làm cho chúng ta liên tưởng tới Bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu sẽ qui tụ muôn dân và nuôi dưỡng dân bằng chính Mình Máu của Ngài. Chúa Giêsu phục sinh ở trên đất liền, Ngài đang sống trong sự viên mãn của sự sống mới nghĩa là đời sống vĩnh cứu. Các môn đệ đang ở dưới thuyền, đang vất vả với đời sống tạm bợ. Các Ngài là những ngư phủ bắt người nhưng nếu không có Chúa, các môn đệ chẳng làm được gì cả.
153 con cá biểu thị cho mọi dân tộc trên thế giới sẽ được các tông đồ giới thiệu về Chúa Phục sinh và họ sẽ gặp gỡ Chúa mai sau trên nước trời. Tất cả mọi Kitô hữu sẽ được ơn cứu độ của Chúa chan hòa nếu họ biết mở rộng ra để đón nhận ơn của Chúa. Bởi vì, qua sự đau khổ, qua cái chết trên thập giá và qua sự phục sinh của Ngài, Chúa cứu độ nhiều người. Bến bờ vĩnh cửu, mọi Kitô hữu mong chờ quả không xa và không ngoài tầm tay vì bất cứ ai trung thành, ăn năn sám hối và luôn trở về với Chúa, chắc chắn Chúa sẽ cho họ được hưởng vinh phúc Nước Trời. Con người qua cuộc hành trình đức tin sẽ phải trải qua nhiều thử thách chông gai nhưng có Chúa ở bên, với sức mạnh của Chúa và với sự tác động của Chúa Thánh Thần, Chúa sẽ giải thoát con người.
Mẻ cá 153 con ngoài sức con người là phép lạ lớn lao của Chúa phục sinh giúp các môn đệ nhận ra quyền năng của Ngài. Thánh Gioan cho chúng ta hay, Chúa Phục sinh hiện ra cho các môn đệ, Ngài vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho chúng ta hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, đồng thời Ngài cũng hiện diện nơi những con người nghèo khó chúng ta gặp gỡ Ngài hàng ngày. Cuộc gặp gỡ hàng ngày của chúng ta đối với những người nghèo, những người neo đơn, đau khổ, bệnh hoạn vv…sẽ chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ vĩnh viễn của chúng ta sau này. Một cuộc gặp gỡ không tiền khoáng hậu giữa chúng ta và Chúa Phục sinh trên Thiên Đàng. Đời sống tạm bợ ở trần gian, cuộc sống mong manh này sẽ chuẩn bị cho cuộc sống mới may sau. Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng của thánh Matthêu về ngày cánh chung rằng:” Mỗi lần anh em làm cho những kẻ bé mọn này là anh em làm cho Thầy “ ( Mt 25, 40 ). Do đó, khi chúng ta qui tụ với nhau nhân danh Chúa là có Ngài ở cùng, khi chúng ta tới nhà thờ, lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể là chúng ta đến với Chúa.
Vâng như Phêrô, chúng ta phải thực mau mắn đến với Chúa vì khi nghe nói Thầy đó, Phêrô đã đến với Chúa phục Sinh liền.
Chúng ta hãy mượn lời của Đức Cha Bernard-Nicolas Aubertin để kết luận bài chia sẻ này:” Trong cuộc đánh cá lạ lùng lần thứ nhất, thì Đức Giêsu ở lại trong thuyền; còn lần thứ hai, sau ngày Phục Sinh, thì Người chờ đợi chúng ta trên bãi biển vĩnh cửu của Người. Chúng ta có biết nhận ra sự hiện diện của Chúa không ? Chúng ta có biết tin cậy vào Người không ? “.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với môn đệ trên bờ hồ Tibêriat vào lúc nào ?
2.Đây là lần thứ mấy Chúa sống lại đã hiện ra ?
3.153 con cá tượng trưng cho gì ?
4.Cử chỉ của thánh Phêrô chìm xuống nước ám chỉ gì ?
5.Lưới là hình ảnh gì ?
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 21:1-19)
Chúng ta đã có dịp nghe các thánh sử tường thuật việc Chúa gọi các môn đệ. Lời kêu gọi của Chúa: PS3-C93
Chúng ta đã có dịp nghe các thánh sử tường thuật việc Chúa gọi các môn đệ. Lời kêu gọi của Chúa là “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người”. Tuy nhiên với câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đặc biệt trao sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên của Người cho ông Phê-rô và sự kiện được lồng trong một khung cảnh cảm động và vô cùng ý nghĩa. Mỗi Ki-tô hữu có một sứ mệnh đặc biệt trong Giáo Hội. Vì thế, khi suy niệm việc Chúa trao sứ mệnh cho Phê-rô, chúng ta cũng không quên suy nghĩ về chính sứ mệnh của mình.
Trước hết, việc trao sứ mệnh là do Chúa Ki-tô Phục sinh, khác với việc Chúa kêu gọi môn đệ lúc Người khởi đầu sứ vụ. Thay vì mô tả sứ mệnh bằng việc giải thích thì Chúa lại dùng một sự kiện cụ thể là mẻ lưới cá lạ lùng. Sau những lần các môn đệ chứng kiến Chúa Phục sinh hiện ra tại Giê-ru-sa-lem, các ông đã trở về Ga-li-lê, vì theo lời thiên thần nói với các bà đã đến viếng mộ Chúa, là “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông, ở đó các ông sẽ được thấy Người” (Mát-thêu 28:7). Trong những ngày chờ đợi tại Ga-li-lê, các ông không biết làm gì nên rủ nhau đi đánh cá. Thế là bảy môn đệ “lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả”! Kết quả sứ mệnh Chúa trao không hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta đâu.
Rồi chúng ta thấy có sự can thiệp của Chúa Giê-su. Vào ban sáng, Người hiện ra, đứng trên bờ hồ, nhưng các ông không nhận ra Người. Chúa ra lệnh thả lưới bên phải mạn thuyền. Bên trái hay bên phải thì khác gì nhau! Nhưng đó là lệnh của Chúa. Sứ mệnh cũng có những điều xem ra vô lý đối với chúng ta, mà lại hữu lý đối với Chúa. Quan trọng là lời hứa của Chúa. Nếu Người đã bảo “thì sẽ bắt được cá” là thế nào chúng ta cũng bắt được cá. Người chỉ đòi hỏi chúng ta thả lưới, rồi kéo lưới lên, mà lại còn “không sao kéo lên nổi”. Chúa không khi nào trao một sứ mệnh vô hiệu cả, bởi vì trong việc thi hành sứ mệnh ấy, Người luôn hiện diện. “Chúa đó!” Người môn đệ được Chúa thương mến đã nhận ra sự hiện diện của Người trước tiên. Tình yêu đích thực luôn giúp chúng ta nhận biết người mình yêu mến.
Tiếp đến là bữa tiệc giống như Bữa Tiệc Ly. Thánh Thể là môi trường để người thi hành sứ mệnh kết hiệp với Đấng trao ban sứ mệnh. Tình yêu chăm sóc của Chúa Phục sinh đối với môn đệ được biểu lộ qua hình ảnh thân thương: Chúa đã dọn sẵn “than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa”. Một đêm làm việc vô hiệu, rồi kéo mẻ cá lạ vào bờ, chắc các ông đã mệt rồi. Cũng vậy, khi chúng ta mệt mỏi trong sứ vụ, Chúa sẽ chăm sóc chúng ta như Người đã chăm sóc môn đệ Người.
Tình yêu đòi phải được đáp lại bằng tình yêu. Việc Chúa đòi ông Phê-rô tuyên xưng tình yêu là một gương mẫu cho tất cả chúng ta, những người được Chúa yêu thương và trao ban sứ mệnh. Sứ mệnh và tình yêu không thể tách rời. Trao sứ mệnh vì yêu. Nhận và thi hành sứ mệnh cũng vì yêu. Có thực sự yêu thì mới chấp nhận phục vụ. Còn không yêu thì đâu khác gì những kẻ có quyền hành của thế gian này (Mác-cô 10:42-45).
Một lời kêu gọi cuối cùng khi Chúa trao ban sứ mệnh cho chúng ta, đó là “Hãy theo Thầy”. Để thi hành sứ mệnh Chúa trao, chúng ta không thể đi theo con đường riêng, nhưng là theo Chúa. Theo Chúa để biết rõ kế hoạch của Người. Theo Chúa để noi gương phục vụ và hành xử của Người. Theo Chúa để yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sứ mệnh của tôi là gì? Có thể đó vẫn còn là thắc mắc của nhiều người chúng ta. Sứ mệnh thường nằm ngay trong bậc sống và lối sống hằng ngày của chúng ta. Có sứ mệnh của giáo hoàng thì cũng có sứ mệnh của người giáo dân. Có sứ mệnh của cha mẹ, con cái, chủ nhân, thợ thuyền… Nhưng điều quan trọng là chúng ta có thi hành sứ mệnh ấy sao cho hiệu quả hay không. Những bài học về sứ mệnh chúng ta học được qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay đều có thể áp dụng vào cuộc sống mỗi người. Nhưng xem ra điều quan trọng là chúng ta hãy nhận ra “Chúa đó!” và nghe rõ tiếng Người gọi “Hãy theo Thầy”!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH, năm C
Ga 21, 1-19
Tìm hiểu con người của Phêrô, chắc chắn mỗi người đều có những suy nghĩ, những cảm nghiệm: PS3-C94
Tìm hiểu con người của Phêrô, chắc chắn mỗi người đều có những suy nghĩ, những cảm nghiệm về con người lạ lùng và hết sức bộc trực này. Phêrô và cái chết của Phêrô đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay:” Thầy bảo thật cho Anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng ấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, Anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn Anh đến nơi Anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ Ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa “ ( Ga 21, 18-19 ). Con người ấy, Chúa vẫn luôn tin tưởng, đặt Ngài làm đầu Giáo Hội hoàn vũ, làm thủ lãnh Giáo Hội mà chính Chúa đã thiết lập và đặt nền móng trên Phêrô và các tông đồ.
Đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra một con người của Phêrô thật kỳ lạ, nhưng cũng thật là dân dã, hoàn toàn bộc trực, nóng nảy, cương quyết nhưng cũng hay sa ngã và sa ngã đến lạ lùng, đến kinh ngạc. Phêrô rất trực tính, nên có lần nghe Chúa loan báo về cuộc thương khó, Ông đã khó chịu, nóng tính và cao hứng cản ngăn công việc của Chúa đến nỗi Chúa đã phải mắng Ông thậm tệ, gọi Ông là Satan, là đồ quỷ sứ. Phêrô rất cao hứng, cương quyết theo Chúa và không từ bỏ Chúa nhưng trước khi gà gáy Phêrô đã chối Chúa tới ba lần. Phêrô đầy khiếm khuyết, đầy khuyết điểm nhưng tấm lòng của Ông lại chân thật, tấm lòng thật tốt, do đó, Chúa vẫn tin tưởng đặt Ông làm thủ lảnh Giáo Hội. Vai trò của Phêrô được diễn tả rõ ràng trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Số là Chúa Giêsu đã bị bắt, bị kết án tử hình, bị treo trên thập giá. Chúa đã sống lại. Trong khi bị hoang mang, giao động, các tông đồ trở về đời sống bình thường, trở về với nghề đánh cá truyền thống. Phêrô lúc nào cũng là đàn anh, là người đem ra quyết định cuối cùng. Ông nói với các tông đồ:” Tôi đi đánh cá đây “. Các tông đồ khác cũng đồng tình với Phêrô:” Chúng tôi cùng đi với Anh “. Mặc dầu là những ngư phủ lành nghề, biết được chỗ nào biển sâu, chỗ nào có cá, nhưng cả đêm hôm ấy, một đêm các tông đồ đã vất vả trắng đêm nhưng không bắt được con cá nào. Trời hừng sáng, Chúa phục sinh hiện đến bên bờ hồ Tibêria, các tông đồ chưa nhận ra Chúa sống lại. Chúa nói các tông đồ:” Thả lưới bên phải mạn thuyền “. Các tông đồ đã làm theo lời người khách lạ. Một mẻ lưới lạ lùng đã xẩy ra. Các Ông bắt được 153 con cá lớn nhưng lưới không hề bị rách. Gioan phát hiện ra Chúa phục sinh. Ông hô “ Chúa đó “. Phêrô nhảy ngay xuống biển đến với Người. Phêrô năng nổ, nhiệt thành và hăng hái đến lạ lùng. Chúa Giêsu và các tông đồ đã dùng điểm tâm sáng ngay trên bờ hồ Tibêria. Lạ lùng thay, Chúa phục sinh đã yêu mến các tông đồ, đặc biệt là Phêrô, nên Ngài đã phỏng vấn Phêrô để trao sứ mạng mới cai quản Giáo Hội, Ngài hỏi Phêrô:” Này Anh Simon, con Ông Giona, Anh có mến Thầy hơn các Anh em này không ?”. Phêrô rất bối rối, âu lo và áy náy bởi vì Ông mới chối Chúa ba lần. Tội phản Thầy, chối Thầy còn rành rành ra đó. Phêrô rất ngượng ngùng. Ông phải thưa làm sao khi Ông vẫn còn nhận ra tội của Ông. Tuy nhiên Chúa Giêsu hỏi Ông tới ba lần:” Anh có yêu mến Thầy không “. Phêrô buồn nên trả lời:” Thầy biết con yêu mến Thầy “. Quả thực, Phêrô đã chối Chúa ba lần. Chúa nhìn Ông và Ông nhìn lại Chúa, ăn năn, khóc lóc vì tội Ông đã phạm, Chúa tha thứ tội lỗi cho Ông vì Ông đã yêu nhiều, nên được thương nhiều và được tha thứ nhiều. Ba lần chối Thầy, ba lần được thứ tha và cũng ba lần tra vấn về lòng yêu mến của Phêrô, Chúa đã đặt Ông làm thủ lãnh Giáo Hội của Ngài:” Hãy chăn dắt chiên của Thầy “ ( Ga 21, 17 ).
Phêrô từ lúc được Chúa phục sinh trao sứ vụ mới: làm đầu Giáo Hội, Ông đã nhiệt thành, can đảm và kiên cường củng cố lòng tin của các anh em và đức tin của cả Giáo Hội. Phêrô đã cương quyết và kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh. Phêrô và các tông đồ đã gặp biết bao thử thách, biết bao nhiêu chông gai trên đường phục vụ. Các Ngài đã không hề sợ gian nan, nguy hiểm. Bằng chứng, tất cả mọi môn đệ, ngoại trừ Gioan, đều đổ máu minh chứng cho Chúa phục sinh, làm chứng cho Thầy:” là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống “. Phêrô đã hiến mạng sống vì đàn chiên, để chiên được sống và sống dồi dào. Ngài đã bị đóng đinh ngược trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đàn chiên, và để minh chứng cho tình yêu của Chúa:” Không có tình yêu nào cao quí bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống vì đàn chiên của mình “ (Ga 15, 13 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một trái tim như Chúa để chúng con biết yêu thương “ Như Thầy Đã Yêu “. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Nhật 3 Phục Sinh Năm C
(Công vụ tông đồ 5,27-41; Khải huyền 5,11-14; Gioan 21,1-19)
Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".]
Suy Niệm:
Bài Tin Mừng Chúa nhật trước cho chúng ta thấy Chúa sống lại đã hiện ra một cách đặc biệt cho Tôma: PS3-C95
Bài Tin Mừng Chúa nhật trước cho chúng ta thấy Chúa sống lại đã hiện ra một cách đặc biệt cho Tôma; hôm nay chúng ta vừa nghe đọc, Người hiện đến với Phêrô một cách đặc biệt. Nhưng cả hai lần đều phải nói, Người đã muốn đến gặp gỡ tất cả các tông đồ, tức là toàn thể Hội Thánh chúng ta. Ðược sức mạnh của Chúa Phục Sinh thúc đẩy, Hội Thánh đã sinh hoạt rất đáng ngưỡng mộ. Chúa nhật trước chúng ta thấy các tông đồ làm nhiều dấu lạ điềm thiêng, hôm nay các ngài tỏ ra quả cảm trong việc rao giảng Tin Mừng. Người ta không thể nào hiểu được những điều này nếu không tin mầu nhiệm Chúa sống lại khiến Ðức Giêsu Kitô đã trở thành Chúa và là Thiên Chúa. Bài sách Khải Huyền tuyên xưng niềm tin ấy và chúng ta nên bắt đầu với bài sách này để hiểu hai bài Kinh Thánh kia hơn.
1. Chúa Tụng Chiên Con
Vẫn thánh Gioan là tác giả sách Khải Huyền nói với chúng ta. Người viết cho Hội Thánh về những mầu nhiệm mà Người được thấy mở ra ở trên trời, tức là nơi thế giới của Thiên Chúa. Ðó là những mạc khải nhằm an ủi Hội Thánh đang bị thử thách ở trần gian.
Vậy, Gioan nhìn thấy trên trời có đặt một chiếc Ngai. và chung quanh Ngai có đông đảo thiên thần. Số họ là vạn vạn ngàn ngàn. Cảnh tượng này thật ra cũng không lạ gì. Hễ ai nghĩ về thiên quốc đều có thể diễn tả như vậy. Ðiều lạ ở đây là vạn vạn ngàn ngàn thiên thần ấy hoan hô cả tiếng: Chiên Con đã chịu tế sát. Ở thời Gioan không thiếu gì nơi và người thờ các thiên thần. Nếu không thì người ta luôn sẵn sàng nghĩ rằng dưới Thiên Chúa là đến các thiên thần, chứ chẳng có bậc nào hơn được các thiên thần. Thế mà ở đây thiên thần dù đông vạn vạn ngàn ngàn, cũng chỉ đóng vai trò thờ lạy hoan hô... ai? Thiên Chúa ư? Không, họ hoan hô chúc tụng Chiên Con đã chịu tế sát.
Chúng ta ai cũng biết Chiên Con đã chịu tế sát là chính Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh, là Ðức Giêsu Kitô đã sống lại nhưng còn mang trên mình các thương tích của cuộc khổ nạn. Người đã trở thành Chiên Vượt qua của đạo mới để giải thoát dân Người ra khỏi cõi âm u tội lỗi mà đưa vào Nước sáng láng của Người. Bây giờ Người đang ở trên trời, không là Ðấng ngự trên Ngai nhưng cũng được tung hô chúc tụng như chính Ngài.
Thật vậy, tất cả những kiểu nói: quyền năng, phú quí, khôn ngoan, dũng lực, danh dự vinh quang và chúc tụng đều là những công thức qui định để tung hô Thiên Chúa. Nay vạn vạn ngàn ngàn thiên thần đứng quanh Ngai Thiên Chúa để hoan hô cả tiếng Chiên Con chịu tế sát với chính những lời quy định ấy. Ðiều này chứng tỏ Chiên Con đã được đồng hàng với Thiên Chúa. Lời chúc tụng của các thiên thần, công nhận Chiên Con là Chúa.
Mà không phải chỉ có các thiên thần, tất cả tạo thành trên trời, dưới đất, dưới gầm đất, nơi lòng biển, cùng toàn thể vạn vật nơi các chốn ấy cũng tung hô "Kính bái Ðấng ngự trên Ngai cùng Chiên Con" với những lời thánh thiện kia.
Cuối cùng bốn sinh vật tượng trưng cho tứ phương và các lão công tiêu biểu cho tất cả Hội Thánh cũng phục mình thờ lạy, làm chứng Chiên Con bị tế sát, tức là Ðức Giêsu tử nạn phục sinh, được tất cả trời đất vạn vật tôn thờ như Thiên Chúa. Tác giả Gioan nói cả đến gầm đất và lòng biển không phải chỉ để kể tên cho hết mọi nơi trong trời đất và tất cả vạn vật. Nhưng theo quan niệm ở thời của Người đó còn là thế giới của tử thần. Và như vậy Người muốn nói Ðức Giêsu Kitô tử nạn phục sinh bây giờ, cũng là Chúa của những nơi ấy, vì sự chết của Người đã toàn thắng sức mạnh của âm phủ.
Do đó bài sách Khải Huyền hôm nay là một bài tuyên xưng mạnh mẽ vương quyền cao cả của Chúa Giêsu Kitô tử nạn phục sinh. Việc tác giả nhấn mạnh đến từ ngữ "chịu tế sát" khi nói về Chiên Con chứng tỏ Người muốn cho chúng ta hiểu về giá trị thập giá của Ðức Kitô. Người đã chết, nhưng đã sống lại. Và cuộc tử nạn của Người bây giờ đang được tôn vinh.
Ðó không phải chỉ là sự chết, nhưng là sự chết đã trở thành sự sống sau khi đã chiến thắng và nắm giữ được quyền lực của thế giới tử thần. Ðiều này không làm phấn khởi lòng Hội Thánh trong khi bị thử thách sao? Niềm tin phục sinh là sức mạnh lớn nhất cho thân phận những người đang là lữ khách trần gian. Câu chuyện về các Tông đồ hôm nay còn làm chứng điều ấy.
2. Các Tông Ðồ Tuyên Chứng
Trước kia, các tông đồ là những người như thế nào ai ai cũng biết. Họ làm nghề chài lưới, ít học và rất sợ người Do Thái. Phêrô có lúc sợ cả một đứa ở gái. Thế mà hôm nay đứng trước công nghị nghe Thượng Tế cấm không được rao giảng Danh Ðức Giêsu nữa, Phêrô đã trả lời khẳng khái: Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhờ đâu đã có một sự thay đổi như vậy? Chúng ta cứ nghe Phêrô. Ông đang tuyên chứng trước công nghị, tức là cơ quan quyền lực tối cao của người Do Thái. Chính cơ quan này đã lập tòa xử án Ðức Giêsu và đã hành động để Người bị treo lên cây gỗ. Nhưng, Phêrô nói: "Thiên Chúa đã cho Ðức Giêsu sống lại". Thiên Chúa đã tỏ rõ phán quyết của Người. Người ta đã treo Ðức Giêsu lên cây gỗ; còn Thiên Chúa lại nhắc Ngài lên bên hữu Người. Vậy phải theo ai? Nhất định phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta. Thiên Chúa đã tôn vinh Ðức Giêsu, thì nhất định chúng ta phải rao giảng Danh Ngài. Mà rao giảng Ngài có thiệt hại gì ai? Trái lại, Ngài được Thiên Chúa nhắc lên làm Cứu tinh và Cứu thế. Rao giảng Ngài chỉ là để ban cho Israen ơn hối cải và tha tội.
Ðây không phải là một lời tuyên xưng cuồng tín vì lý luận như vậy thật chắc chắn. Phêrô không thể một mình làm như vậy được. Chính ông thú nhận khi nói: "Về các điều ấy, chúng tôi đây là chứng nhân cùng với Thánh Thần Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người". Ông phân biệt rõ những điều ông biết vì đã thấy, đó là việc Ðức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Nhưng nói lên được những điều tuyên xưng mạnh mẽ sáng suốt kia, chính là công việc của Thánh Thần mà Phêrô nhận được nhờ tuân phục phán quyết của Thiên Chúa khi Ðức Giêsu Kitô đã sống lại. Và đứng trước một lời tuyên xưng như thế, người ta còn biết làm gì? Họ cho đánh đòn các tông đồ, cấm rao giảng thêm, rồi thả về. Nhưng đó là biện pháp của những kẻ đã thua. Chúng chẳng có hiệu lực gì. Chỉ đáng tức cười thôi. Thế nên ra khỏi công nghị, các tông đồ còn được thêm hân hoan vì thấy mình đã được chịu xỉ nhục vì Danh Chúa Giêsu.
Chúng ta hãnh diện về các ngài. Chúng ta tin tưởng Hội Thánh mà các ngài đã thiết lập. Bề ngoài, đây có vẻ chỉ là đàn chiên nhỏ; hơn nữa xét về mặt xã hội chẳng có gì đáng vênh vang. Nhưng trong Hội Thánh ấy có phụng vụ phục sinh, có lời tuyên xưng Chúa Giêsu đã chết và sống lại, thì đó đã là Nước Trời, đã là Thiên Quốc.
Nơi đây không phải chỉ có vạn vạn ngàn ngàn thiên thần tung hô Chiên Con chịu tế sát cùng với các tín hữu của Chúa, nhưng còn có Thánh Thần được ban xuống dồi dào cho các tâm hồn, để những kẻ vốn tầm thường trở nên những khí cụ rất giá trị cho công cuộc của Thiên Chúa. Trời với Ðất gặp nhau trong các cộng đoàn này, vì khi Hội Thánh cử hành Phụng Vụ Phục Sinh, những điều Gioan viết trong sách Khải Huyền và những điều Luca kể trong sách Công vụ rõ ràng gặp nhau. Hội Thánh ở dưới đất tuyên xưng cũng những mầu nhiệm như ở trên Trời. Và trời cao đã đổ ơn thiêng xuống để Hội Thánh dưới đất không ngừng rao giảng Danh Ðức Giêsu, Ðấng mà vạn vạn ngàn ngàn Thiên Thần trên trời không ngớt tung hô là Chiên Con chịu tế sát.
Tuy nhiên để có sự hòa hợp đó, Ðức Giêsu Kitô phải chịu chết và sống lại; và Người đã phải hiện ra với các tông đồ như chúng ta đọc trong bài Tn Mừng hôm nay. Không có việc hiện ra này, đã không có gì cả. Vì thế chúng ta cần đọc kỹ lại bài Tin Mừng.
3. Chúa Sống Lại Hiện Ra
Ngày nay, người ta đã thấy rõ chương cuối cùng (chương 21) trong tác phẩm Tin Mừng theo thánh Gioan là phần đã được đính thêm vào một quyển sách đã được viết xong rồi. Tác giả đã có lời kết thúc từ biệt (20,30-31); Không có lý do nào Người lại viết tiếp, rồi lại từ biệt một lần nữa. Nhưng vì tư tưởng và lời văn trong chương 21 này rất phù hợp với toàn tác phẩm Tin Mừng thứ tư, nên người ta nghĩ đã có một bàn tay môn đệ của Gioan đã khéo léo viết ra chương này để bổ túc một số ý tưởng mà ông cho là cần thiết. Ở đây chúng ta chỉ để ý vai trò (hay nói đúng hơn, ơn gọi) lãnh đạo của Phêrô.
Chúng ta biết trước khi Phêrô là thuyền chài. Ông có thuyền có lưới và có đồng bạn thường ra khơi đánh cá. Một hôm Chúa đã gọi ông và các bạn đi theo Người. Họ đã bỏ đồ nghề và mọi sự mà đi theo Chúa. Có phải vì họ đã thấy quyền phép của Chúa khi cho họ đánh được một mẻ cá nhiều lạ lùng như Luca kể không? Hay là như Gioan kể ở phần đầu sách, chỉ vì họ nghe tiếng Người gọi? Chắc chắn đã có hai việc: Có việc Chúa gọi các ông và có việc Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá nhiều phi thường. Còn ghép hai việc lại với nhau nếu quả thực là những việc rời nhau, là công cuộc của các tác giả để làm nổi bật một ý nghĩa thần học nào đó.
Hôm nay, đoạn Tin Mừng này có thêm một ý tưởng nữa, rất sâu xa và phong phú. Tác giả cho rằng sau ngày Chúa sống lại, Phêrô và đồng bạn lại trở về nghề cũ. Sự thật như thế, hay là ở đây ông cũng muốn làm như Luca ở đoạn nói về hai môn đệ đi đến làng Emmaus? Các ông muốn nói lên điều này, là cuộc tử nạn của Chúa trên thập giá đã làm cho môn đồ của Ngài chán nản, thất vọng muốn trở về nghề xưa. Thêm vào ý tưởng ấy, tác giả Gioan ở đây còn nhấn mạnh ưu vị của Phêrô khi đưa sáng kiến đi đánh cá và được anh em họa theo tức thời. Nhưng cho dù có nhất trí và hăng hái, công việc loài người của họ cũng chỉ thất bại. Phải có Chúa Phục sinh hiện đến, sai đi và hướng dẫn, họ mới đạt được kết quả và kết quả dồi dào phi thường.
Người ta tò mò tự hỏi vì sao tác giả đếm kỹ đến thế? Họ đã bắt được 153 con cá lớn. Con số này có ý nghĩa gì không? Có phải tác giả theo quan niệm của các nhà sinh vật học ngày xưa cho rằng trong biến cố tất cả 153 loại cá? Hay là ông muốn làm một trò chơi toán học, lấy 17 số đầu tiên (cộng lại với nhau sẽ được 153), thay các số ấy bằng số các chấm, đặt các dấu chấm thẳng nhau và lần lượt trên dưới nhau, cuối cùng sẽ vẽ được hình ba góc ba cạnh đều và mỗi cạnh có 17 chấm.
Như vậy số 153 là một số lượng nhất định mà chỉ cần bớt đi một chấm nhỏ đã làm mất cả thăng bằng. Và mẻ cá 153 con sẽ diễn tả thực tại Hội Thánh vừa đông số vừa đủ số, vừa lớn lao vừa duy nhất. Nhưng thôi, chúng ta chỉ cần biết ý của tác giả là nhờ ơn Chúa Phục Sinh, công việc của Hội Thánh sẽ kết quả phi thường; cả nhân loại sẽ gia nhập Hội Thánh.
Và Chúa đã dọn sẵn cho các thợ phần thưởng ở "Bến bình an". Họ đã thấy có bánh và cá, nướng hơ trên lửa để làm thỏa mãn những con người có lẽ đang đói và lạnh vì nước và gió biển. Người ta dễ thấy bánh có thể tượng trưng cho chính Chúa; nhưng còn cá nướng? Chúng ta biết ở những thế kỷ đầu các tín hữu vẫn vẽ hình con cá để làm tín hiệu cho nhau vì chữ Ictus (cá) cũng là những chữ đầu nói lên lời tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Cứu tinh nhân loại. Và như vậy cá nướng sẽ gợi lên ý tưởng Ðức Kitô chịu nạn. Có người còn nói thêm "lửa" kia chính là Thánh Thần. Và người ta kết kuận, Chúa đã dọn sẵn cho Hội Thánh khi lao nhọc chính Mình và Máu Người đầy Thánh Thần.
Nhưng điều ít mầu nhiệm hơn và dễ thấy hơn là việc Phêrô đưa thuyền vào bờ, nói lên chính ông sẽ làm việc nơi các người kế vị ông cho đến khi con thuyền Hội Thánh đưa tất cả các dân tộc vào bến bình an. Và như vậy chúng ta không càn giải thích nhiều nữa việc ông được Chúa đặt làm mục tử coi sóc cả đàn chiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chủ đề của bài Tin Mừng hôm nay; nhưng tác giả đã sửa soạn kỹ quá, chúng ta thấy rõ ưu vị của Phêrô và hoạt động của ông; chúng ta sẵn sàng công nhận quyền lãnh đạo của ông khi Chúa đặt ông coi sóc chiên con và chiên mẹ.
Chắc chắn nhiều người vẫn hiểu việc Chúa hỏi Phêrô 3 lần về lòng mến như để bù lại 3 lần ông đã chối Người. Nhưng như thế cũng hơi lạ, vì nếu vậy, sao Chúa không đợi Phêrô trả lời xong 3 lần rồi hãy trao cho trách nhiệm chăn chiên? Do đó, nhiều nhà chú giải ngày nay nghĩ rằng: hỏi và thưa ba lần như vậy, cũng như được trao quyền 3 lần như thế, là để làm nổi bật ý nghĩa trọng đại của sự việc. Ấy là chưa kể ở thời kỳ chữ viết chưa phổ thông, việc lập lại lệnh truyền, hay lời thề ba lần là để nhấn mạnh sự chắc chắn và cho người làm chứng có thể nghe rõ ràng. Dù sao đây cũng là việc trao ban sứ mệnh quan trọng.
Và việc trao ban này đòi Phêrô phải mến Chúa Giêsu "hơn những người khác", vì thật là khó hiểu khi vị đại diện của Người trên trần gian lại không mến Người hơn những anh em khác? Và trách vụ chăn chiên đòi người ta phải theo gương vị Mục tử tốt đã hiến đến mạng sống mình vì yêu thương. Không có lòng yêu thương này, đã không có câu chuyện kể trong bài Tin Mừng hôm nay, và cũng đã không có những việc tốt đẹp thuật trong bài sách Công vụ các Tông đồ, và cũng chẳng có các buổi phụng vụ phục sinh ở dưới đất giống như Gioan nhìn thấy trong sách Khải huyền.
Chính Chúa đã thiết lập và để lại cho chúng ta Phụng vụ thánh thiện này để ở đây nơi bàn thờ này sẽ có Lửa Thánh Thần biến đổi bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô Tử nạn Phục sinh. Chúng ta hãy sốt sắng thờ phượng Con Chiên chịu sát tế như vạn vạn ngàn ngàn thiên thần ở trên trời.
Chúng ta hãy nhận lấy lương thực thiêng liêng này để thêm lòng mến Chúa Giêsu, dâng mình cho Người, sẵn sàng rao giảng Người bằng lời nói và hành động, và hợp tác với Hội Thánh và các vị chủ chăn trong việc đưa nhân loại về bến bình an nhờ Thánh Thần hoạt động nơi con người và đời sống yếu hèn của chúng ta; bởi vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã giao cho Hội Thánh chúng ta sứ mạng ấy.
Chúng ta hãy đến với Người, tung hô Người, yêu mến Người, lãnh nhận Người, sống với Người và làm công việc của Người là cứu nhân độ thế.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
2010
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 21:1-19)
Sách Tin Mừng Lu-ca kể lại câu truyện ông Phê-rô và các bạn theo lời chỉ dạy của Chúa Giê-su: PS3-C96
Sách Tin Mừng Lu-ca kể lại câu truyện ông Phê-rô và các bạn theo lời chỉ dạy của Chúa Giê-su, đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá. Ông “sấp mặt dưới chân Chúa”, nhìn nhận thân phận tội lỗi bất xứng và ông được Chúa hứa: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá” (Lc 5:1-11). Đấy là câu truyện xảy ra lúc Chúa Giê-su bắt đầu thi hành sứ vụ và khi Người kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Ba năm sau, lại có một mẻ lưới đầy cá nữa và những người lưới cá cũng vẫn là ông Phê-rô và các bạn. Nhưng lần này nó xảy ra sau khi Chúa sống lại và hiện ra với các ông, có lẽ ở cùng một địa điểm với lần trước.
Phản ứng của ông Phê-rô gặp Chúa lần này cũng khác. Ông không còn bối rối lo sợ, nhưng rất vui mừng. Vừa nghe người bạn nhắc nhở “Chúa đó!”, ông Si-mon Phê-rô ở trên thuyền còn cách xa bờ gần trăm thước đã “vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển”. Ba năm trước, ông run sợ nói với Chúa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Còn bây giờ, ông không thể chờ đợi thêm dăm ba phút nữa để thuyền cập bến, mà nhảy ùm xuống biển để mau được ở bên Chúa!
Điều gì đã làm cho Phê-rô thay đổi như vậy? Chắc chắn ba năm theo Chúa trên bước đường rao giảng Tin Mừng và được đào tạo trong trường truyền giáo của Thầy Giê-su, ông Phê-rô đã trưởng thành trong đức tin và ý thức sứ mệnh. Nhưng phát triển đáng kể là lòng yêu mến Thầy, lòng yêu mến mà Chúa Giê-su muốn ông nói lên trước mặt Người và các bạn Tông đồ của ông sau bữa ăn. “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đúng vậy, lòng mến là điều kiện căn bản nhất để một người dám dấn thân hoạt động tông đồ cho Chúa, cho Giáo Hội và thế giới. Chúa Giê-su Phục Sinh đã biến đổi mọi sự, nhưng sứ mệnh thì vẫn thế, là chinh phục nhân loại về cho Thiên Chúa. Các Tông đồ cũng như tất cả chúng ta cần được biến đổi để trở thành dụng cụ “bắt người như bắt cá”. Biến đổi đây là biến đổi lòng yêu mến. Chúng ta hãy để ý ba lần Chúa hỏi ông Phê-rô có yêu mến Người không. Lần thứ nhất Chúa hỏi Phê-rô có yêu mến Thầy “hơn các anh em này” không. Rồi lần thứ hai và thứ ba Người chỉ hỏi ông có yêu mến Người không. Điều ấy có nghĩa là Chúa muốn tình yêu mến phải chắc chắn và mỗi ngày một tăng thêm. Mà muốn biết có chắc chắn và tăng thêm hay không thì cần phải so sánh với người khác. Một khi đã thực sự có lòng yêu mến Chúa rồi, người ta chỉ còn biết có một mình Chúa thôi. Do đó, Chúa mới hai lần hỏi Phê-rô: “Anh có yêu mến Thầy không?” Nghĩa là lòng yêu mến Chúa phải đạt tới mức độ tuyệt đối.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có lẽ chúng ta nghĩ câu truyện Chúa hiện ra với các Tông đồ qua bài Tin Mừng hôm nay chỉ áp dụng cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục thôi. Không phải vậy đâu. Các ngài thi hành bổn phận rao giảng Tin Mừng theo chức phận của các ngài. Chúng ta là giáo dân tham gia vào sứ mệnh ấy theo hoàn cảnh và giới hạn của chúng ta. Nếu các ngài là những người lưới cá thì tại sao chúng ta không thể là những chiếc lưới? Thiên Chúa không phải là Đấng sử dụng cả người lưới cá cùng với những chiếc lưới hay sao? Chúa Ki-tô Phục Sinh đã biến đổi họ như thế nào, Người cũng biến đổi chúng ta như vậy. Tài năng, học thức, kỹ thuật có thể khác biệt giữa các ngài với giáo dân, nhưng lòng yêu mến Chúa cần được biến đổi thì giống nhau và đòi hỏi cùng một câu trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Lm. Dominic TTL
(CHÚA NHẬT III MÙA PHỤC SINH, NĂM C)
(Bài Đọc I: Công Vụ Tông Đồ 5: 27-32,40-41; Bài Đọc II: Khải Huyền 5: 11-14;
Bài Phúc Âm (Gioan 21: 1-19)
(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)
Mùa Phục Sinh là thời gian 50 ngày từ Lễ Phục Sinh đến Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: PS3-C97
Mùa Phục Sinh là thời gian 50 ngày từ Lễ Phục Sinh đến Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong Mùa Phục Sinh, Bài Đọc I luôn trích trong Sách Công Vụ Tông Đồ (cho cả Năm A, B và C). Công Vụ Tông Đồ do Thánh Sử Luca viết vào khỏang năm 70-80, để ghi lại những hoạt động truyền giáo của các Thánh Tông Đồ, và sự phát triển của Hội Thánh buổi ban đầu; cũng như những khó khăn, những bách hại các Tông Đồ và các tín hữu phải chịu đựng trong thời gian đó. Bài Đọc I hôm nay ghi lại việc Thánh Phêrô và các Tông Đồ bị bắt và dẫn ra Thượng Hội Đồng Do Thái để xét xử và bị đánh đòn và bị cấm “không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa”, nhưng các ông trả lời “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người” và các ông “vui mừng vì được chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu Kitô!” và tiếp tục rao giảng bất chấp mọi khó khăn thử thách.
Trong Mùa Phục Sinh, Bài Đọc II, (Năm C) thường được trích trong Sách Khải Huyền. Sách Khải Huyền là cuốn sách cuối cùng của toàn bộ Kinh Thánh, được viết vào thời kỳ Giáo Hội bị bách hại thật tàn bạo, nhất là thời Hoàng Đế Neron và Dômixianô. Sách được viết theo thể văn ‘biểu tượng’ gồm những ‘thị kiến’ và ‘mặc khải’ để an ủi, nâng đỡ đức tin cho các tín hữu đang bị bách hại năng nề vào thời đó. Bài Đọc II hôm nay diễn tả quang cảnh “Chiên Con” là chính Chúa Giêsu Kitô đã bị giết, nhưng giờ đây được “vinh dự và vinh quang với muôn lời chúc tụng đến muôn thưở, muôn đời!”
Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Gioan ghi lại lần Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với Thánh Phêrô và một số Tông đồ ở Biển Hồ Tibêria và chỉ cách cho các ông bắt được một mẻ cá lạ lùng.
Nếu chúng ta có dịp đi hành hương kính viếng Đất Thánh, quê hương của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy nước Israel (Do Thái) nằm dọc theo bờ biển Địa Trung Hải, biển ở phía tây. Sông Giođanô là một dòng sông chạy từ Libăng xuống Biển Hồ Tibêria, và tiếp tục chảy xuôi xuống phía nam tới Biển Chết (Biển Mặn). Hồ Tibêria là một hồ rất lớn nên thường được gọi là Biển Hồ Tibêria (Gioan 21:1), cũng có tên là Hồ Ghenesaret (Luca 5:1), hoặc Biển Hồ Galilêa (Matthêu 4:18; Matcô 1:16). Khách hành hương thường được đi thuyền ngang qua Biển Hồ để nhớ lại những biến cố rất quan trọng trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Giêsu, và những liên hệ với các Tông đồ, vì hầu hết các Tông đồ đã sinh sống bằng nghề chài lưới trên Biển Hồ. Khi Chúa Giêsu gọi các Ngài, các Ngài đã “bỏ chài lưới để theo Chúa.”(Matcô 1:18).
Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ. Lúc đầu, các ông không biết là Chúa Giêsu. Các ông đã vất vả đánh cá suốt đêm mà chẳng được con cá nào. Chúa Giêsu đã bảo các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền…” Làm theo lời chỉ dẫn của Chúa, các ông đã bắt được mẻ cá thật lớn. Chính lúc đó, Gioan ‘người môn đệ Chúa yêu’ nói cho Phêrô: “Thày đó!” thì bấy giờ các ông mới nhận ra Người.
Trong lần hiện ra này, Chúa Giêsu đã thân mật ăn bữa sáng với các ông. Sau đó, Chúa Giêsu đã trao quyền lãnh đạo đoàn chiên và thủ lãnh các Tông đồ cho Thánh Phêrô sau khi đã hỏi ông tới ba lần “Con có yêu mến Thày không?”, và Thánh Phêrô đã quả quyết thưa lại ba lần: “Con yêu mến Thày!”
Một quang cảnh thật cảm động nhắc nhở chúng ta về quyền lãnh đạo Giáo Hội mà Chúa Giêsu trao ban cho Thánh Phêrô như vị thủ lãnh chính, là vị Giáo Hoàng đầu tiên. Từ ngày đó tới nay, các Đức Giáo Hoàng được Chúa chọn qua các thời đại để điều hành Giáo Hội, và hiện nay là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, vị Giáo Hoàng thứ 265. Nếu xét theo Giáo Hội như một Nhiệm Thể, thì Chúa Giêsu vẫn là đầu của Giáo Hội, Chúa Giêsu vẫn ở cùng Giáo Hội và điều hành Giáo Hội của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu trao quyền điều hành Giáo Hội hữu hình tại trần gian cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục (coi sóc từng Giáo phận). Nhiệm vụ thật lớn lao và khó khăn! Vì thế, trong các Thánh Lễ, luôn có lời cầu nguyện cho Đức đương kim Giáo Hoàng và các Giám mục đang điều hành mỗi giáo phận.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cùng hiệp lời cầu nguyện cho Giáo Hội toàn cầu, cho Đức Giáo Hoàng và các chủ chăn cùng toàn thể dân Chúa; nhất là các vị chủ chăn, các tín hữu đang bị bách hại, bị đe dọa, bị tù đày ở các nơi. Xin Chúa Thánh Thần an ủi, nâng đỡ, hướng dẫn để mọi người tùy theo địa vị Chúa trao ban, luôn cùng hợp tác xây dựng Giáo Hội Chúa, và giúp mọi người tìm về gia đình Giáo Hội để được hưởng ơn Chúa cứu độ. Xin cầu nguyện cho các Tân Tòng vừa được gia nhập gia đình Giáo Hội trong lễ Phục Sinh vừa qua; cho các người xa lạc Chúa được “tìm về nhà Cha” theo chương trình “Catholics Come Home” đang được phát động mạnh mẽ trong toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Xin cũng tiếp tục cầu nguyện cho các Linh Mục trong Năm Linh Mục này, cũng như cầu nguyện cho giới trẻ được ơn Chúa mời gọi để dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa trong chức vụ Linh Mục. Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau.
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH, năm C
Ga 21, 1-19
Cái trớ trêu của Phêrô vẫn là thái độ quyết tâm theo Chúa và đồng thời Ông lại tỏ ra không giữ: PS3-C98
Cái trớ trêu của Phêrô vẫn là thái độ quyết tâm theo Chúa và đồng thời Ông lại tỏ ra không giữ lời, chối Thầy và trở nên mềm như bún trước những đối thủ chẳng ra gì. Tin Mừng thuật lại, Phêrô đã chối Thầy ba lần trước khi gà gáy. Tội của Phêrô cũng chẳng kém gì tội bán Thầy của Giuđa Iscarốt. Nhưng có cái khác lạ là khi bắt gặp ánh mắt của Chúa nhìn mình, Phêrô đã đấm ngực, khóc lóc ăn năn, quay trở về với Thầy. Do đó, Chúa vẫn tin tưởng và đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội hòan vũ.
VẪN LÀ CON NGƯỜI YẾU ĐUỐI NHƯNG HẾT MỰC YÊU CHÚA VÀ CẢM NGHIỆM SÂU XA ƠN THA THỨ CỦA CHÚA: Câu chuyện kể rằng Phêrô đến Roma giữa thời Nêron đang cấm cách bắt bớ Giáo Hội. Nhiều người đã được phúc tử vì đạo. Tình thế càng lúc càng nguy kịch, nên nhiều người khuyên Phêrô trốn ra khỏi thành Roma để sau này còn người duy trì đạo thánh Chúa. Phêrô vừa ra khỏi cổng thành, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Roma. Phêrô lên tiếng hỏi:” Quo vadis ?” nghĩa là” Người đi đâu đó ?”. Người ấy trả lời:” Thầy đi vào Roma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Phêrô chợt hiểu.Oâng vội vàng trở lại Roma. Phêrô nhập vào hàng ngũ những người sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi Phêrô chúng kiến nhiều tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hỏa thiêu trên một rừng thập giá, thì chính Phêrô cũng bị đóng đinh ngược, đầu chúi xuống đất, theo lời Phêrô xin vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay xác nhận con người ấy là Phêrô và cái chết cũng được chính Gioan minh chứng:” Thật Thầy bảo thật cho Anh biết: lúc còn trẻ Anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, Anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn Anh đến nơi anh chẳng muốn”. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”( Ga 21, 18-19 ). Phêrô nhiệt tình, hăng say, bộc trực, nóng tính. Ông nói yêu Chúa đó, nhưng rồi lại cản đường của Chúa. Ông cứ tưởng Thầy Giêsu sẽ khôi phục Vương quốc Israen: Ông và các môn đệ khác sẽ sung sướng, sẽ hạnh phúc. Do đó, khi nghe Thầy loan báo con đường khổ giá, con đường cứu chuộc, ông tỏ ra bực tức và bịt tai không muốn nghe. Chúa mắng ông là Satan. Ông hăng say đó nhưng rồi lại sa ngã, lại chối Chúa. Phêrô như thế, nhưng Chúa hiểu lòng ngay thật của Ông, Chúa vẫn tin tưởng đặt ông là Kêpha nghĩa là Đá Tảng, để trên Đá Tảng này, Chúa xây dựng Giáo Hội của Ngài. Sứ mạng và vai trò lãnh đạo của Phêrô được Tin Mừng thánh Gioan ghi rõ như sau:
-Sau khi Chúa Giêsu được chôn cất trong mồ và khi Ngài đã phục sinh. Lúc đó, các môn đệ vẫn chưa nhận ra Chúa sống lại cách rõ ràng. Các ông còn hoang mang, lo âu, chán nản. Nên, các ông trở về làng để làm lại nghề cũ. Dầu vậy, Phêrô vẫn giữ vai trò quyết định. Phêrô nói với các bạn:” Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũngđồng thanh nói:” Chúng tôi cùng đi với Anh”. Cả đêm ấy, dù là những tay thợ lành nghề, các ông không hề bắt được con cá nào. Nhưng nghe lời vị khách lạ, các ông thả lưới bên phải mạn thuyền chỗ gần bờ và bất ngờ các ông bắt được nhiều cá đến 153 con lớn đầy ắp cả hai thuyền. Và vừa nghe Gioan nói:” Chúa đó”, Phêrô liền nhảy ùm xuống biển, đến với Người. Ông quả là người năng nổ, hăng say và nhiệt thành.
-Điểm tâm xong, Chúa liền hỏi Phêrô về lòng yêu mến để rồi trao sứ vụ nặng nề cho Phêrô:” Chăn dắt chiên Con và chiên Mẹ cho Chúa”.
CÁI NÔNG NỔI CỦA PHÊRÔ LẠI TRỞ NÊN GIÁ TRỊ VÌ ÔNG BIẾT NHẬN RA CON NGƯỜI GIỚI HẠN CỦA MÌNH VÀ TRỞ VỀ VỚI THẦY GIÊSU: Theo dõi đọan đường Phêrô đi, người ta không khỏi buồn cười và ngạc nhiên. Buồn cười vì con người bộc trực, nóng nảy của Phêrô nói đó nhưng lại không giữ lời. Ngạc nhiên vì con người của Phêrô luôn biết nhìn ra khuyết điểm, yếu kém của mình để sửa đổi. Chúa hỏi ông có yêu mến Chúa không. Thật sự mà nói Phêrô yêu Chúa lắm chứ. Nhưng ông ngượng ngùng vì trước đó trong cuộc thương khó của Thầy, ông nói sẽ trung thành, sẽ theo Thầy cho tới hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên trước khi gà gáy Phêrô đã chối Thầy đến ba lần. Để bù đắp cái tội chối Thầy, Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô ba lần:” Phêrô, con có yêu mến Thầy Không?”.Phêrô vốn bộc trực, ông buồn vì sao Thầy hỏi mình tới ba lần như thế . Nhưng ở đây, Chúa muốn cho ông cơ hội để chuộc lại lỗi lầm của mình, ba lần hỏi của Chúa là ba lần để Phêrô nói lời yêu thương và tuyên xưng lại niềm tin. Phêrô đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, ông đã thưa:” Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy” ( Ga 21, 17 ). Chúa đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội. Phêrô đã trung thành chăn dắt Hội Thánh hòan vũ. Ông đã nhiệt thành với sứ vụ Chúa trao phó cho ông và ông đã hy sinh cả mạng sống, đổ máu đào để làm chứng cho Chúa phục sinh.Ông đã phục vụ như Chúa, đã yêu như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu mến, cầu nguyện cho các Đức Giáo Hòang là những vị đại diện Chúa ở trần gian. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Nhật 3C Phục sinh.
Tình yêu và quyền bính có mâu thuẫn không ? Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát. Trái lại: PS3-C99
Tình yêu và quyền bính có mâu thuẫn không ? Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát. Trái lại chiếm hữu và kiểm soát hoàn toàn trái ngược với tình yêu. Bởi thế, tình yêu và quyền bính hình như không đội trời chung. Có thể tìm thấy sự mâu thuẫn này khi nghe các nhà chú giải Tin lành giải thích về quyền bính Phêrô.
ĐI GIĂNG CÂU.
Tất cả sáu ngư phủ chuyên nghiệp cùng ông Simôn Phêrô vất vả suốt đêm, nhưng “đêm ấy họ không bắt được gì cả.” (Ga 21:3) Mặc dù đầy đủ phương tiện và khả năng chuyên môn, các ông cũng phải đầu hàng sau một đêm vật lộn với bóng đêm. Thuyền nhiều, lưới tốt (Ga 21:11) và khả năng tiên đoán thời tiết chuyên nghiệp cũng không giúp các ông lướt thắng nghịch cảnh. Hôm trước các ông đã hứa với vợ con sẽ đem về mẻ cá lớn sau chuyến giăng câu đêm qua. Nhưng đêm đen chỉ đem đến thất vọng và thất vọng. Không biết sẽ trả lời cho vợ con làm sao đây ? !
May thay, “khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển” (Ga 21:4) đem niềm hi vọng lớn lao cho các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” (Ga 21:6) Tại sao Chúa không đòi các ông chèo ra chỗ nước sâu hay ra khơi ? Chúa có phải là một tay chuyên nghiệp đâu ?! Các ông có thể nghi ngờ lắm chứ. Con mắt Chúa đã thấy rất rõ bầy cá đang lúc nhúc, đùa quẫy ngay bên phải mạn thuyền ! Thật là ngược đời ! Cái nhìn của Đức Giêsu không căn cứ vào chuyên môn. Vậy mà các ông cũng nghe. “Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá, đếm được một trăm năm mươi ba con.” (Ga 21:7,11) Kết quả thật trái ngược ! Nhưng đó lại là một dấu chỉ để “người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: ‘Chúa đó !’” (Ga 21:7)
Chính nhờ người môn đệ đó quả quyết, “ông Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.” (Ga 21:7) Lúc đó người ướt sũng, ông bơi vào bờ để đón tiếp Chúa. Thầy trò được bữa lớn. Đám tiệc ngay ngoài bãi biển. Nhưng không phải là những con cá hay bánh đã nằm sẵn trên than hồng (Ga 21:9). Chúa Giêsu không muốn ăn những thứ cá đã có sẵn trên bờ. Người đúng là một tay sành điệu khi nói với các môn đệ: “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” (Ga 21:10) Những con cá lớn còn tươi rói. Đức Giêsu trổ tài nấu ăn. Khi đã nấu xong, Người mời gọi các môn đệ: “Anh em đến mà ăn !” (Ga 21: 12) Người tôi tớ Thiên Chúa không bao giờ quên vai trò của mình, dù ngay khi ở giữa các môn đệ. “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22:27)
“Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết,” (Ga 21:14) “ở Biển Hồ Tibêria,”(Ga 21:1) thuộc miền Galilêa. Các tông đồ đã vất vả suốt đêm nhưng vẫn vô hiệu. “Khi trời đã sáng” (Ga 21:4), Đức Giêsu xuất hiện. Tình hình hoàn toàn biến đổi. “Đặt cảnh chài cá thất bại ban đêm (c.3) sát cảnh Chúa xuất hiện ban sáng, (c.4) có lẽ thánh Gioan có ý gợi lên biểu tượng thần học tương phản giữa ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối (1:5; 9:4; 11:9-10; 12:35-36; 13:30)” (NIB:1995:857, vol.IX). Nỗ lực con người chỉ là hư không, nếu không có Chúa đến can thiệp kịp thời. Đúng như lời Chúa nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Trái lại, “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” (Ga 1:16) Bằng chứng, “cảnh thân mật trong tương quan giữa Chúa Phục sinh và các môn đệ làm cho mọi người nhớ đến hành động Chúa Giêsu nuôi sống năm ngàn người (6:11). Các tín hữu đầu tiên đã thấy được biểu tượng Thánh Thể trong các bữa ăn này. Vì trong Tin Mừng Gioan, Thánh thể vẫn được hiểu là hồng ân Chúa Giêsu ban cho tín hưũ và một cách diễn tả tương quan của họ với Chúa Giêsu.” (NIB 1995:858, vol.9) Nhưng còn hơn một biểu tượng, Thánh thể chính là của ăn nuôi sống tín hữu trên hành trình về nhà Cha. Trong Thánh Thể, họ tìm được tất cả nguồn an ủi và sức mạnh để sống bình an với Thiên Chúa, anh em và với chính mình. Không một hành động nào tuyệt vời bằng việc Đức Giêsu lập Phép Thánh thể, vì ở đây tín hữu sẽ cảm nghiệm tất cả tình yêu có sức cứu độ muôn dân.
Để cứu độ muôn dân, Đức Giêsu còn quan tâm đến việc chăn dắt đoàn chiên của Người. Việc chăn dắt đoàn chiên không thể thuần túy dựa trên tình yêu. Nói khác cần phải đi vào thực tế. Đức Giêsu muốn thiết lập Phêrô làm người “nuôi sống” và “chăn dắt” đoàn chiên Người. Thật vậy, ngay trong đêm bị nộp, sau khi tiên báo về việc ông Phêrô chối Chúa ba lần, Đức Giêsu đã hứa hẹn: “Một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22:32) Hơn nữa “truyền thống cộng đồng Phêrô liên hệ còn lưu trữ trong Mt 16:18-19 cũng nói về việc Chúa đặt ông Phêrô làm ‘tảng đá’” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:985) Rõ ràng như thế, nhưng vẫn có người nghĩ rằng “Đức Giêsu không chỉ định ông Phêrô làm người kế vị đặc biệt của Chúa, nhưng như một hiện thực những gì Chúa nói về tất cả các tông đồ. Phêrô chỉ là một mẫu mực sống tình yêu Đức Giêsu. Chúa Giêsu không trao đoàn chiên cho một mình ông Phêrô, trái lại Người nhắc ông nhớ tới ý nghĩa của tình yêu Chúa Giêsu là gì.” (NIB 1995:861) Nếu chỉ nêu lên một biểu tượng tình yêu, tại sao Chúa không chọn “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu dấu” ? Oâng Gioan xứng đáng làm mẫu mực tình yêu hơn Phêrô nhiều, vì ông đã trung thành với Chúa cho tới chân cây thập giá. Trong bất cứ cộng đoàn nào, cũng phải có người đứng đầu, huống chi Giáo hội, làm sao không có người lãnh đạo toàn diện ? Trong các câu Ga 21:15-17, Đức Giêsu đã ba lần ủy thác cho Phêrô quyền “chăn dắt chiên của Thầy.” Oâng đã được Chúa đặt làm nền tảng Giáo hội (Mt 16:16-19)
CON ĐƯỜNG HIỆP NHẤT.
Dĩ nhiên quyền bính trong Giáo hội không thể tách lìa tình yêu Chúa. Trái lại quyền bính ấy phải xây trên nền tảng tình yêu Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới cần ông Phêrô xác quyết tới ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21:15, 16, 17) Quyền bính xây dựng trên một tình yêu chỉ biết phục vụ cho đến chết. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10:45; Mt 20:28) Giáo hội phải bước theo Thầy chí thánh trên đường phục vụ nhân loại. Nhưng nếu không có tổ chức, chắc chắn không thể nào thực hiện được sứ mệnh đó. Giữa bao nhiêu tăm tối trần gian, nếu không có người lãnh đạo, làm sao biết lối đi về nhà Cha ? Ai cũng có thể nói nhân danh Chúa, làm sao phân biệt đâu là thần khí của Chúa ? Thư Gioan căn dặn: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin. Nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không.” (1 Ga 4:1) Không có quyền bính, làm sao phân biệt giữa những mâu thuẫn trong việc giải thích Kinh thánh và đường lối mục vụ ? Chúa Giêsu rất thực tế khi đòi hỏi Giáo hội phải có người lãnh đạo để hướng dẫn muôn dân trong Thần Khí. Chắc chắn Thần khí sẽ nói qua Giáo hội, chứ không thể làm việc bừa bãi theo hứng khởi hay đam mê cá nhân. Hơn nữa, ngay cả khi chủ trương Thần khí làm việc theo hướng cá nhân, thực ra cũng là do truyền thống giáo phái hướng dẫn.
Tuy thế, ngày nay ngôi vị Giáo Hoàng vẫn là một cản trở lớn trên đường hiệp nhất. Chính ĐHY Lehmann đã nói “quyền Giáo Hoàng là ‘cản trở chính cho tiến hành đại kết..’” (CWNews 23/4/2001) ĐHY kêu gọi họp một công đồng mới để đưa ra một nền tảng cho ‘cộng đồng tính lớn hơn’ giữa các giám mục trên thế giới.” (CWNews 23/4/2001) “Nhưng Người không có ý đặt vấn đề về vai trò ĐGH, Giáo Triều, hay các thượng hội đồng giám mục. Người nói rằng ‘đã đến lúc suy nghĩ về cách thức Giáo hội nên quyết định về tương lai những vấn đề mục vụ căn bản.’ Người cũng cho biết ĐGH Gioan Phaolô II khuyến khích bàn luận xem làm sao có thể thay đổi quyền bính giáo hoàng để thích ứng với nhu cầu tân thiên niên kỷ.” (CWNews 23/4/2001) Quả thực, Giáo hội đã bị ảnh hưởng quá lớn của nếp sống quân chủ, trong khi thể chế nhân loại hướng mạnh về dân chủ. Thực tế, làm sao hài hòa được mọi ý kiến mà vẫn hiệp nhất được Giáo hội ? Bởi thế, ĐHY đề nghị “suy nghĩ về toàn thể những liên hệ giữa các thượng hội đồng Giám mục, Giáo triều Roma, các nghị hội giám mục và Viện Hồng y, và định nghĩa những bổn phận chuyên biệt của mỗi bộ phận đó.” (CWNews 23/4/2001) Thực ra, “tháng 10 năm 1999, ĐHY Carlo Maria Martini địa phận Milan đã lưu ý Thượng hội đồng Giám mục Aâu châu về một công đồng như thế có thể cung cấp “những kinh nghiệm mới và mở rộng về cộng đồng tính” cho các giám mục trên thế giới.” (CWNews 23/4/2001) Bao giờ đường lối dân chủ mở ra trong Giáo hội, may ra mới thấy con đường đại kết giữa những anh em cùng chung một niềm tin nơi Đức Kitô Giêsu.
Lm. Giuse Đỗ vân Lực, OP
(Gio-an 21: 1-19)
Mỗi lần Chúa Giê-su hiện ra sau khi sống lại là một câu truyện kỳ thú và có một ý nghĩa đặc biệt. Hiện: PS3-C100
Mỗi lần Chúa Giê-su hiện ra sau khi sống lại là một câu truyện kỳ thú và có một ý nghĩa đặc biệt. Hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, Chúa muốn nói lên một tương quan mới giữa Người với các môn đệ. Hiện ra với các môn đệ, Chúa Giê-su phục hồi lại bình an và niềm vui họ đã đánh mất do biến cố đau thương của Người. Lần này Chúa hiện ra với ông Phê-rô và các bạn tại Biển Hồ Ti-bê-ri-a là để trao cho ông trọng trách thay Người dẫn dắt đoàn chiên Giáo Hội tại trần gian. Câu truyện cho ta cái nhìn phong phú về Giáo Hội để ta suy nghĩ và tự hỏi mình đóng vai trò nào trong Giáo Hội ấy.
- Một mẻ lưới thành công kỳ diệu
Khung cảnh Chúa Giê-su hiện ra lần này là bên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Hẳn nơi đây mang nhiều kỷ niệm đối với Chúa và các môn đệ. Chúa đã khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng tại Ca-phác-na-um và vùng chung quanh Biển Hồ. Cũng tại đây, Người đã kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên và biến họ từ nay thành những kẻ đi lưới người (Lc 5:1-11). Đó cũng là nơi Giáo Hội Chúa Ki-tô thành hình. Với tất cả những dữ kiện ấy, ta dễ dàng hiểu Giáo Hội như một chiếc lưới cá (Mt 13:47-50) và những người chài lưới là các môn đệ Chúa. Giờ đây Chúa Phục Sinh hiện ra với các ông trong khung cảnh đánh lưới cá quả thực là một nhắc nhở đầy ý nghĩa. Đối với các ông, đây là cơ hội để các ông nhớ lại lời kêu gọi của Chúa và chuẩn bị bắt tay vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng để làm cho Giáo Hội được phát triển. Các ông được khích lệ khi nhận ra mẻ lưới thành công kỳ diệu là hình ảnh tương lai về Giáo Hội nhờ việc rao giảng của các ông. Đối với Giáo Hội, hình ảnh mẻ lưới cá kỳ diệu nói lên bàn tay can thiệp của Chúa Giê-su và sức mạnh Thánh Thần làm cho Giáo Hội được lớn lên. Nếu chỉ là cố gắng riêng của các môn đệ thôi, thì cho dù có vất vả suốt đêm họ cũng không bắt được gì cả (Ga 21:3). Nhưng họ phải hoàn toàn trông vào sự giúp đỡ của Chúa Giê-su. Tóm lại, thánh Gio-an muốn ghi lại khung cảnh của việc Chúa hiện ra để ta thấy được hoạt động của Chúa Phục Sinh và Thánh Thần trong Giáo Hội.
Lời nhắc nhở của người môn đệ được Chúa Giê-su thương mến: “Chúa đó!” giúp ta luôn nhận thức sự hiện diện của Người trong Giáo Hội. Quả thực, nhiều lần ta bị chi phối do những cơ cấu tổ chức bề ngoài của Giáo Hội nên đã quên mất sự hiện diện của Chúa giữa Giáo Hội. Nhất là tại Hoa-kỳ, giáo hội ít nhiều đã sinh hoạt hoặc hành xử theo chuyển động của một guồng máy hành chánh hơn là theo tác động sự hiện diện của Chúa Ki-tô. Như vậy, Giáo Hội không còn là một “mẻ lưới kỳ diệu” đem người ta về với Chúa nữa, mà là một văn phòng hay một dịch vụ không hơn không kém.
- Bữa ăn của Thầy với các môn đệ
Nếu sự hiện diện của Chúa Phục Sinh đã được bày tỏ qua mẻ lưới thành công kỳ diệu thì bữa ăn của thầy trò cũng mang ý nghĩa súc tích. Trước hết, chính bàn tay của Chúa Giê-su đã sửa soạn bữa ăn, như bà mẹ chăm sóc cho các con. Ta thử tưởng tượng sau một đêm làm việc vất vả đói khát mà không bắt được con cá nào, các môn đệ càng thêm thất vọng chán nản, nay “bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa” (Ga 21:9), thì các ông cảm động biết mấy khi nhận ra tình yêu thương của Thầy tha thiết nồng nàn đến chừng nào! Than hồng bừng bừng khác nào ngọn lửa yêu mến đang rực lên trong trái tim Chúa. Mà Người không chỉ chuẩn bị than hồng, cá và bánh, nhưng còn tự tay phục vụ, “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (Ga 21:13). Lập lại những cử chỉ quen thuộc ấy, Chúa Giê-su muốn ta hiểu rằng tâm điểm của Giáo Hội là Bí tích Thánh Thể. Giữa lòng Giáo Hội, việc cử hành Bí tích Thánh Thể là nguồn lan toả tình yêu thương của Chúa Giê-su và lòng bác ái của anh chị em cùng một đức tin vào Chúa Phục Sinh.
- Thi hành trách nhiệm mục tử trong tình yêu
Ta có cảm tưởng thánh Gio-an đã ghi lại hai câu truyện trên là để dẫn ta vào cốt lõi của biến cố Chúa hiện ra ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a: Chúa trao cho ông Phê-rô sứ mệnh mục tử. Ba lần ông Phê-rô xác nhận lòng yêu mến Chúa không chỉ là để “chuộc lại” ba lần ông chối Chúa trong cuộc Thương Khó, nhưng còn để biểu dương tình yêu tuyệt đối của ông đối với Chúa.
Tại sao phải có tình yêu thật lớn thì mới đảm trách được sứ mệnh mục vụ? Trách nhiệm mục tử là trách nhiệm phục vụ, chứ không phải để được người ta phục vụ (Mc 10:42-45). Tình yêu có lớn thì mục tử mới dám “hy sinh mạng sống” (Ga 15:13; 10:18) cho bạn hữu và cho đoàn chiên. Dĩ nhiên ai cũng phải công nhận ông Phê-rô không có bằng cấp hay văn hoá cao, nhưng lòng mến đối với Chúa thì có lẽ không ai sánh kịp. Vậy mà Chúa còn đòi ông phải xác nhận lại tình yêu ấy, đủ biết tầm mức quan trọng của tình yêu trong trách nhiệm mục tử lớn lao biết chừng nào. Nhìn vào Giáo Hội Việt Nam hôm nay, ta thấy được điểm sáng tình yêu mục tử nơi các vị lãnh đạo, nhất là trong những lúc khó khăn thử thách. Cảm tạ Chúa. Tuy nhiên ta cũng không phủ nhận là có một số ít những vị mục tử còn nặng đầu óc bàn giấy và quan lại, khiến cho con chiên thấy rõ khoảng cách quá xa giữa họ với vị mục tử.
Trong cuộc hiện ra với ông Phê-rô và các bạn, Chúa Giê-su đã lập lại lời Người kêu gọi các ông khi Người bắt đầu thi hành sứ vụ: “Hãy theo Thầy”. Đáp lại lời Thầy, các ông đã bỏ mọi sự để tin vào Chúa, đi với Chúa, học với Chúa. Giờ đây là lúc chính các ông sẽ bắt tay vào sứ vụ mục tử, nên các ông càng cần phải theo Chúa để học và thực hành tấm gương phục vụ của Người.
- Chúa Phục Sinh vẫn tiếp tục hiện ra với các môn đệ hôm nay
Sống trong lòng Giáo Hội, ta vẫn có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh bằng nhiều cách. Giáo Hội là một bí tích, nói lên rất nhiều thực tại. Điều quan trọng là ta có đọc được những dấu hiệu bí tích ấy hay không. Làm sao ta ý thức được sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội mà chính ta có bổn phận phải cộng tác, không chỉ bằng lời giảng như các linh mục, nhưng bằng gương sáng đời sống Ki-tô? Mỗi lần ta biểu dương đức tin Ki-tô là ta giúp cho Chúa Phục Sinh tỏ hiện trước anh chị em. Khi ta tham dự Thánh lễ với tất cả lòng sốt sắng và thông hiệp là ta đang tham dự bữa ăn của Chúa và các môn đệ tại bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Khi ta cộng tác với linh mục và anh chị em trong cộng đoàn để xây dựng một giáo xứ tốt đẹp là ta đáp lại lời gọi “hãy theo Thầy” của Chúa Ki-tô. Có lẽ thay vì gọi giáo xứ của ta là “cộng đoàn Công Giáo”, ta nên gọi là “cộng đoàn Chúa Ki-tô Phục Sinh” thì mới nói lên được những hình ảnh dễ thương của khung cảnh Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a.
- Suy nghĩ và cầu nguyện
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, tôi có mường tượng lại những bữa ăn của Chúa được kể trong sách Tin Mừng không? Thánh lễ giúp tôi gắn bó với Giáo Hội như thế nào?
Gặp trường hợp sống trong một giáo xứ hay giáo phận mà vị lãnh đạo thiếu tinh thần mục tử đích thực, tôi đã làm gì và tôi phải làm gì để mọi sự được tốt đẹp?
Thử suy nghĩ về một hành động nói lên niềm tin vào Chúa Phục Sinh.
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su phục sinh,
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên chị Ma-ri-a đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Em-mau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tô-ma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giê-su phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 86)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
G. Mlakuzhyil, The Christocentric Literary Structure of the Fourth Gospel, 344.
R.E. Brown, The Gospel according to John, II, xiii-xxi, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299).
Quyển sách Tân Ước khác dùng từ arnion là sách Khải huyền (29 lần).
R.E. Brown, The Gospel according to John, II, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299). C. Rusconi lại cho rằng phải đọc probata ở ngay c. 16 là probation, “agnello”, “agnella” (xem mục từ này trong Vocabolario del Greco del Nuovo Testamento, EDB, Bologna 1997, 287). Đây là quan điểm của Codex Vaticanus, Nestle, Aland Synopsis, Barrett, Bultmann.
Đây là hiện tượng mà các nhà chuyên môn gọi là anagnorisis, cũng là peripeteia.
Bài giáo lý của Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI ngày 24-5-2006. Đây cũng là quan điểm của PIB.