Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 19 TN-A Bài 51-100: Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 14, 22-33: “Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa!”, và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Phêrô thưa lại rằng: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Chúa phán: “Hãy đến!” Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con!” Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 19-A50: Đi Bộ trên Biển Hồ. 2
TN 19-A51: Đức Tin Tuyệt Đối 9
TN 19-A52: Một điểm tựa duy nhất trên cõi đời 12
TN 19-A53: Nhận ra Chúa trong những cơn Giông Tố Cuộc Đời 15
TN 19-A54: BIỂN ĐỜI DẬY SÓNG.. 17
TN 19-A55: NHÌN CHÚA THÀNH MA.. 23
TN 19-A56: NGƯỜI ĐỒNG CẢM ĐẦY YÊU THƯƠNG.. 26
TN 19-A57: KÊU TRỜI ! 28
TN 19-A58: CHÚA Ở BÊN CẠNH CHÚNG TA.. 31
TN 19-A59: SÓNG ĐỜI 37
TN 19-A60: TA ĐỨNG NGỒI, ƯỚT LẠNH DƯỚI CƠN MƯA.. 40
TN 19-A61: CHÍNH THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ.. 44
TN 19-A62: CÓ DỪNG CHÂN NHƯNG KHÔNG ĐỨNG LẠI 48
TN 19-A63: LẠY THẦY! XIN CỨU CON.. 50
TN 19-A64: Biển đời. 52
TN 19-A65: An toàn trên biển cả. 53
TN 19-A66: Chú giải của Noel Quesson. 55
TN 19-A67: CHÚA VẪN BÊN TA.. 60
TN 19-A68: CHỜ CON… BƯỚC ĐẾN ! 63
TN 19-A69: “ANH ĐÃ THẤY, DÁNG EM BUỒN CÚI MẶT…”. 66
TN 19-A70: Củng cố đức tin. 70
TN 19-A71: Lòng tin của bà mạnh thật. 71
TN 19-A72: Lòng tin của bà lớn thật. 73
TN 19-A73: Tin yêu sống bí tích thánh thể theo gương Đức Mẹ. 77
TN19-A74: Ơn Cứu Độ phổ quát. 79
TN19-A75: UY QUYỀN.. 82
TN 19-A76: Con thuyền Giáo Hội 85
TN 19-A77: Dìu nhau tiến bước. 86
TN 19-A78: Chúa Giêsu đi trên mặt biển. 88
TN 19-A79: Con tưởng! 92
TN 19-A80: Đức Giêsu đi trên mặt biển Hồ. 94
TN 19-A81: SÓNG GIÓ.. 102
TN 19-A82: CÙNG PHIÊU LƯU THEO CHÚA.. 104
TN 19-A83: THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ.. 108
TN 19-A84: XIN CỨU CON.. 109
TN 19-A85: THẦY ĐÂY MÀ! ĐỪNG SỢ! 111
TN 19-A86: LẠY CHÚA, NGÀI LÀ NƠI CON NƯƠNG ẨN.. 113
TN 19-A87: SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN.. 115
TN 19-A88: CHÚA CẦN LÒNG TIN.. 117
TN 19-A89: HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA.. 118
TN 19-A90: CHÚA NHẬT 19 MÙA THƯỜNG NIÊN.. 120
TN 19-A91: CHÚA NHẬT THỨ XIX MÙA THƯỜNG NIÊN.. 124
TN 19-A92: TẠI SAO PHÊRÔ BỊ CHÌM... 128
TN 19-A93: THẦY ƠI! CỨU CON.... 130
TN 19-A94: LẠY THẦY! XIN THÊM LÒNG TIN CHO CHÚNG CON.. 132
TN 19-A95: ĐÃ TIN và CHƯA TIN.. 136
TN 19-A96: ĐI TRÊN MẶT BIỂN.. 138
TN 19-A97: ĐỪNG SỢ! THẦY ĐÂY MÀ! 140
TN 19-A98: LƯỠI DAO CẠO.. 141
TN 19-A99: TIN CẬY VÀO QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA GIÊ-SU.. 144
TN 19-A100: Hoài nghi trong đức tin. 151
------------------------------------------
VietCatholic News (Thứ Năm 07/08/2008 16:49)
Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật XIX Thường Niên – A (Mt 14:22-31)
Bài Tin Mừng tuần trước nói về việc Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi trên năm:TN 19-A50
Bài Tin Mừng tuần trước nói về việc Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi trên năm ngàn người. Tuần này Hội Thánh nhắc đến việc Chúa đi trên mặt biển và làm cho sóng gió in lặng để củng cố Đức Tin của các môn đệ vì các ông còn yếu tin. Chúa dạy bài học này cho các môn đệ khi các ông đang ở trên thuyền. Con thuyền của các ông tượng trưng cho Hội Thánh. Hội Thánh là gia đình những người tin vào Chúa và nâng đỡ Đức Tin của nhau. Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa nên Chúa luôn để tâm đến mọi hoạt động của Hội Thánh. Tuy Đức Tin là ân sủng nhưng không Thiên Chúa ban cho từng cá nhân, nhưng cần được nuôi dưỡng trong Hội Thánh qua lời giảng dạy và các Bí Tích, như các chi thể cần có máu luân chuyển từ tim và bộ não sống động. Không một chi thể nào có thể sống được mà không gắn liền với thân thể, cho nên không một ai có thể có Đức Tin độc lập với Đức Tin của Hội Thánh. Đức Tin cũng cần phải được thực hành trong đời sống hằng ngày thì mới có hiệu quả. Ngày nay có nhiều Giáo Phái nhận mình là Giáo Hội thật của Chúa. Nhưng chỉ có một Hội Thánh Công Giáo là Giáo Hội còn đứng vững trước các tấn công của thế gian mà không nhượng bộ, không để mình chìm theo những làn sóng thế tục, vô luân, vì luôn luôn kiên trì tin tưởng vào Chúa và trung thành làm theo Ý Người.
Nhiều khi chúng ta cũng hỏi Chúa như Thánh Phêrô, “Lạy Chúa nếu thật sự là Chúa thì cho con trúng số, làm cho con cái của con ngoan ngoãn, cho giáo xứ con đoàn kết, cho học trò con biết vâng lời, thì đóng cửa các nhà thương phá thai, thì bịt miệng các chính trị gia đang loan truyền sự dữ,….” Chúng ta sẽ phản ứng ra sao nếu Chúa không ban cho chúng ta những điều ấy? Chúng ta còn tin Chúa không hay nghi ngờ để bị chìm theo các làn sóng dồn dập của thế gian, của vật chất, của thuyết tương đối, của thuyết duy vật vô thần…?
Mt 14:22 - Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng.
Dịch là Chúa Giêsu giục các môn đệ trở xuống thuyền thực ra chưa lột được ý của câu này. Nếu dịch sát theo bản Hy Lạp, thì phải là Chúa lập tức bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước. Lý do mà Chúa bắt các môn đệ xuống thuyền và qua bờ bên kia, tức là về Capernaum, trước, vì Người không muốn các ông chứng kiến cảnh dân chúng bắt Người lên làm vua (x Ga 6:14-15). Vào thời ấy người Do Thái đang nóng lòng mong đợi một vị Mêsia đến giải phóng họ khỏi ách nô lệ Rôma và tái lập vương quyền của Vua Đavid như Thiên Chúa đã hứa. Thấy Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, họ bảo nhau: “Đây thật sự là vị ngôn sứ, đấng phải đến trong thế gian” (Ga 6:14). Chính các môn đệ khi theo Chúa cũng hy vọng được quyền thế, vì các ông thật sự chưa hiểu rõ về Chúa và các giáo huấn của Người (x. Mt 20:21-24; Mc 25:35-41). Cho nên Người đã lập tức bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia, vì sợ các ông cũng sẽ đồng tình với dân chúng mà tôn Người lên làm vua.
Ngày nay chúng ta cũng chẳng khác gì dân Do Thái và các môn đệ bao nhiêu. Mặc dù đã biết là Vương Quyền của Chúa không phải là vương quyền trần thế, nhưng hầu hết những điều chúng ta cầu nguyện là xin Chúa cho những gì là vật chất nhiều hơn tinh thần như: làm ăn phát đạt, thi đỗ, khẻo mạnh, …. Có người còn cầu xin cho được trúng số…. Các môn đệ ngày nay cũng thế. Nhiều người đi tu làm linh mục để được “lên hàng khanh tướng.” Nhiều người ra làm việc tông đồ để mưu cầu danh tiếng hay để được mang ơn. Có những Giáo Lý viên chỉ muốn dạy lớp Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu hoặc Thêm Xức vì sau hai lớp này họ được cám ơn trên nhà thờ còn dạy các lớp khác thì không ai biết đến….
Khi bắt các môn đệ lập tức xuống thuyền qua bờ bên kia, Chúa cũng muốn dạy tôi rằng khi làm được việc gì tốt tôi cũng phải lập tức xuống thuyền về Capernaum, tức là hạ mình xuống nhớ lại nguồn gốc thấp hàn của mình, và nếu có thể được thì lánh đi ngay, đừng chần chờ kẻo bị người ta cám ơn hoặc khen thưởng mà thành ra kiêu ngạo, tự mãn, mà quên rằng mình từ Capernaum, là nơi đánh cá quê mùa.
Mt 14:23 - Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình.
Sau khi làm cho bánh hóa ra nhiều nuôi năm ngàn người chắc Chúa Giêsu rất cảm động khi nghĩ đến một ngày không xa, chính Người sẽ trở nên của ăn cho chúng ta cho đến tận thế. Nên Chúa cần phải tâm sự riêng với Cha Người. Cầu nguyện với Ñức Chúa Cha là một đặc điểm của Chúa Giêsu (x Lc 6:12). Tuy Người lúc nào cũng kết hợp với Ñức Chúa Cha, nhưng Người vẫn dành những thời giờ riêng biệt để cầu nguyện riêng, đặc biệt là trước khi quyết định những việc trọng đại (x Mt 26:36; Lc 9:27). Một trong những mục đích của Người là để dạy cho chúng ta tầm quan trọng của việc cầu nguyện riêng bằng chính việc làm của Người. Ở đây chúng ta học được của Chúa bốn đặc tính của cầu nguyện riêng:
Rút lui khỏi đám đông tức là hồi tâm, không để cho những việc thế trần chi phối
Lên núi tức là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa
Một mình tức là dành tất cả thời gian đó cho Thiên Chúa để kết hợp với Ngài mà thôi
Trong đêm
trường tịch mịch.
Mt 14:24 - Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Dịch sát nghĩa là: Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy dặm, bị sóng đánh vì ngược gió. Biển đây là Biển hồ, tức là hồ Giênêsarét, hồ Tibêria hay là hồ Galilê (x Ga 6:1). Hồ này hình bầu dục, dài khoảng 21 km, rộng khoảng 12 km. Vì hồ quá lớn, lại có núi bao quanh nên thường có nhiều sóng gió (x Mt 8:23). Các môn đệ chắc chắn là đã quen với sóng gió của Biển Hồ. Tuy nhiên các ông vẫn sợ hãi.
Biển Hồ tượng trưng cho trần gian, mà cũng có thể tượng trưng cho đời sống thường nhật của mỗi người chúng ta. Sau khi được ăn Bánh Trường Sinh Chúa cũng sai chúng ta trở về đời sống thường nhật. Cũng như các môn đệ, chúng ta trở về, không phải như những cá nhân riêng rẽ, mà như chi thể của Nhiệm Thể Chúa là Hội Thánh. Chúng ta cùng Hội Thánh đi vào thế gian. Con thuyền tượng trưng cho Hội Thánh ở trần gian đang phải đương đầu với nhiều trở ngại. Sóng gió là những trở ngại ấy. Cũng vậy, đời sống của mỗi người chúng ta cũng phải đương đầu với nhiều sóng gió trong gia đình, ở sở làm, và nhiều khi cả ở trong giáo xứ của chúng ta.
Mt 14:25 - Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông.
Canh tư đêm tối hay vào khoảng canh tư - Trong thời Cựu Ước, người Do Thái chia đêm ra làm ba canh, mỗi canh 4 giờ. Vào thời Chúa Giêsu, họ theo người Rôma chia ngày thành 12 giờ, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều, và chia đêm thành 4 canh, mỗi canh 3 giờ. Canh tư từ 3 giờ đến 6 giờ sáng. Có lẽ sự phân chia này là theo giờ đổi lính canh của người Rôma.
Chúa Giêsu ở trên núi, nhưng luôn quan tâm đến các môn đệ. Khi thấy các ông bị sóng gió nguy ngập, Người liền đi trên mặt biển mà đến cứu các ông. Cũng thế, lúc nào Chúa cũng quan tâm đến chúng ta trong cuộc chiến đấu vật lộn với phong ba nơi trần thế.
Người đi trên mặt biển. - Đối với người Do Thái, biển tượng trưng cho sự hỗn độn dưới quyền năng của tối tăm. Cựu Ước nhiều lần nói tới việc Thiên Chúa chế ngự biển cả khi tạo dựng, cho Dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ, và Ngài đi trên biển (x G 9:8; Tv 77,20). Việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển không phải để biểu diễn, nhưng để chứng tỏ rằng Người có quyền trên biển, ngõ hầu củng cố đức tin của các môn đệ. Ñây là những phép lạ riêng để cho các môn đệ nhận ra và vững tin rằng Người là Thiên Chúa (Mc 6:45-52; Ga 6:14-21).
Mt 14:26 - Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng.
Các môn đệ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến gần thì tưởng là ma. Điều này không có gì là ngạc nhiên cả vì người thời đó tin rằng ma quỷ làm chủ biển cả. Biển là một con quái vật hỗn độn trong huyền thoại về tạo dựng của người Trung Đông. Biển bị Thiên Chúa chế ngự trong phạm vi của nó (G 38:8-11), nhưng khi chèo thuyền vào biển là trong phạm vi của biển, nên nó có quyền trên tàu bè. Nhưng lý do chính là đức tin của các ông còn yếu. Lần trước khi các ông kêu la trên biển cả (Mt 8:23-27), Chúa đã khiển trách các ông, “Tại sao các con sợ hãi, hỡi những kẻ yếu tin!” và các ông đã tự hỏi, “Người này là người nào mà cả gió và biển cũng vâng phục Người.” Đức tin này vẫn còn yếu kém sau khi Chúa sống lại đến nỗi khi Người hiện ra với các ông, các ông cũng tưởng là ma (Lc 24:37). Đức tin ấy chỉ được mạnh mẽ sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống với các ông vào Lễ Ngũ Tuần.
Mt 14:27 - Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!"
Hãy yên tâm – Chúa trấn an các môn đệ bằng lời nói quen thuộc của Người, “Hãy yên tâm” (Mt 9:2; 9:22; Mk 10:49). Hội Thánh và cuộc đời của mỗi người chúng ta nhiều khi cũng có những sóng gió mà chúng ta không chống cự nổi, nhưng Chúa luôn bảo vệ Hội Thánh và bảo vệ mỗi người chúng ta nếu chúng ta tin vào Người. Khi gặp sóng gió hãy vững tay chèo lái, tức là vẫn trung thành tuân giữ giới luật Chúa, sống theo giáo huấn của Người cùng tin cậy vào Người và hãy yên tâm, đừng sợ vì Chúa luôn ở bên.
Thầy đây, đừng sợ! – Khi dịch ra tiếng Việt Nam, “Thầy đây” không còn lột được ý nghĩa siêu nhiên của câu trả lời. Trong Cựu Ước Thiên Chúa hay tự xưng "Ta là", "Ta là Đấng Hiện Hữu" (x St 46,3; Xh 3,14). Khi xưng, "Thầy đây", Chúa Giêsu ám chỉ Người là Thiên Chúa. Vì là Thiên Chúa, Người có quyền năng trên biển cả, Người có thể đi trên nước, nên Người bảo các ông “Đừng sợ”.
Mt 14:28 -29 - Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". 29 Chúa phán: "Hãy đến!" Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu.
Thánh Phêrô quả thật là một con người chất phác, thành thật và mau tin hơn các môn đệ khác. Một khi đã tin là đem ra thực hành liền, nên khi Chúa phán “Hãy đến!” thì ngài lập tức ra khỏi thuyền và đi bộ trên nước đến cùng Chúa mà chẳng hoài nghi chút nào. Không một hãng xưởng nào thời nay có thể thuê một người bộp chộp và nông cạn dễ tin như thế làm giám đốc điều hành công ty của mình. Thế mà Chúa lại chọn Thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh hữu hình của Người. Sở dĩ Thánh Phêrô dám liều mình bước xuống nước giữa con giông bão vì ngài tin vào lời Chúa, và có can đảm thực hành lời ấy bất chấp mọi nguy hiểm. Chúa đã cho Thánh Phêrô chia sẻ quyền năng của Người. Ngày hay các Đức Thánh Cha cũng thế. Bốn mươi năm về trước, khi cuộc cách mạng tính dục bắt đầu, sau khi tất cả các giáo phái Tin Lành đều nhượng bộ dư luận quần chúng mà cho tín hữu của họ dùng thuốc ngừa thai. Nhiều giám mục và các nhà thần học Hoa Kỳ cũng tin rằng Hội Thánh Công Giáo cũng sẽ cho phép như thế. Còn Đức Thánh Cha Phaolô VI thì đã bác bỏ những đề nghị của đa số thành viên trong ủy ban chuyên môn về ngừa thai mà ra Thông Điệp Humanae Vitae. Ngài gọi nó là “dấu chỉ mâu thuẫn của thời đại.” Khi ra thông điệp ấy, Đức Thánh Cha đã can đảm chịu mọi chống đối sẽ xảy đến cho ngài trong Hội Thánh. Nhưng ngài nhất định vững tai lèo lái con thuyền Hội Thánh giữa cuộc phong ba vũ bão vô tiền khoáng hậu ấy. Ngài bị tấn công đủ mọi phiá, không những ở ngoài Hội Thánh mà ngay trong lòng Hội Thánh. Linh Mục Charles E. Curran, giáo sư về Thần Học Luân lý tại Catholic University of America đã dẫn đầu cuộc vận động phản đối Đức Thánh Cha với sự ủng hộ ngầm của nhiều giám mục cấp tiến. Cuộc vận động này đã gây ra nhiều sóng gió trong Hội Thánh mà đến bây giờ vẫn chưa yên. Tuy nhiên ngày nay nhiều người đã phải nhìn nhận rằng Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói tiên tri trong Thông Điệp Humanae Vitae về những hậu quả mà thuốc ngừa thai đem đến cho nhân loại.
Mt 14:30-31 - Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con!" 31 Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?"
Thấy gió mạnh, ông sợ hãi - Bao lâu Thánh Phêrô đẩ ý đến Chúa Giêsu, thì ông có thể đi trên mặt nước mà không sợ gì cả. Nhưng khi thay vì để tâm vào Chúa, ông để tâm vào sóng gió, và quên rằng Chúa ban quyền cho ngài để thắng vượt ba đào thì ngài đâm ra sợ hãi, hoài nghi, và bắt đầu chìm xuống.
Lạy Thầy, xin cứu con với! – Có bản dịch là “Thưa Ngài, xin cứu con” - Thật ra chữ κυριε là thể vocative của κυριος của Hy Lạp, có ba nghĩa là ông chủ, để xưng hô với một người trên như Sir của tiếng Anh hay ngài của tiếng Việt, nhưng cũng dùng để xưng hô với Thiên Chúa. Vì thế dịch là “Thưa Thầy” thì không chỉnh lắm. Có lẽ dịch “Lạy Chúa” là đúng nhất.
Tại sao lại mà nghi ngờ? – Đây là một lời trách yêu của Chúa vì Người thừa biết rằng đức tin ngài còn yếu. Chúng ta nhiều khi cũng như Thánh Phêrô, tin vào Chúa đấy, nhưng vẫn còn nghi ngờ. Ñó là chuyện bình thường.
Ở đây Chúa muốn dạy Thánh Phêrô và tất cả chúng ta một bài học là đừng cậy sức mình, vì con người vừa yếu đuối vừa hèn nhát. Đôi khi lòng mình không muốn để bị chìm vào trong biển cả tội lỗi, nhưng vì yếu đuối mà sa ngã, vì hèn nhát nên nhượng bộ làm theo bạn bè hay dư luận quần chúng. Muốn không bị chìm thì phải dựa vào ơn Chúa. Và một khi đang chìm thì phải bắt chước Thánh Phêrô kêu cầu cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con!” Mỗi khi bị cám dỗ, mỗi khi gặp hiểm nghèo, cũng xin cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con!”
Mt 14:32-33 - Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. 33 Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Gió liền yên lặng - Ở đâu có Chúa thì ở đấy có bình an.
Thật Thầy là Con Thiên Chúa - Lần trước khi Chúa Giêsu truyền cho sóng gió yên lặng, các môn đệ hỏi nhau, "Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8:37). Lần này các ngài thật sự tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nghĩa là Đấng Mêsia.
Câu Hỏi để Thảo Luận
1. Tại sao Chúa Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước trong khi Người giải tán đám đông? Ñiều gì làm Chúa e ngại khi danh tiếng của Người được đồn ra khắp trong dân chúng (xem Jn 6:15)?
2. Tại sao Chúa Giêsu lại muốn cầu nguyện một mình?
3. Dư luận quần chúng và phản ứng của Chúa Giêsu ở đây tương tự như cám dỗ ở các câu Matthêu 4:3-10 thế nào?
4. Chuyện gì xảy ra ở giữa Biển Hồ làm lắc lư con thuyền của các môn đệ? Làm cho các ông sợ hãi? Làm cho đức tin của các ông thêm mạnh?
5. Hội Thánh cũng như chiếc thuyền trên biển cả. Hãy kể ra những trận phong ba mà Hội Thánh đã phải chịu trong quá khứ? Biến cố nào gần đây mà bạn cho là một trận cuồng phong đang lắc lư tầu Hội Thánh? So với các biến cố trong quá khứ thì biến cố này có phải là biến cố trầm trọng nhất không?
6. Ñời bạn cũng có rất nhiều sóng gió, bạn làm gì để sống sót đến hôm nay? Có khi nào bạn cầu nguyện cùng Chúa trong các phong ba đó không? Nếu có thì bạn thấy hiệu quả ra sao?
7. Tại sao Thánh Phêrô lại xin Chúa truyền cho ngài đi trên nước mà đến với Người? Khi nào thì ông bắt đầu chìm? Tại sao sao ngài không chìm ngay khi mới bước xuống nước?
8. Nếu bạn là Thánh Phêrô bạn có dám ra khỏi thuyền hay cứ ngồi lỳ trong thuyền?
9. Trong đời bạn có chuyện gì xảy ra hay việc gì bạn làm tương tự như việc Thánh Phêrô đi trên nước không?
10. Các môn đệ kết luận gì về Chúa sau phép lạ này?
Phaolô Phạm Xuân Khôi
------------------------------------------
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các: TN 19-A51
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến!" Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con!" Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 22-33).
Bài dụ ngôn Chúa dậy chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay, làm tôi liền nhớ lại cái thuở còn rất nhỏ khi được học bài học đầu tiên cách làm sao để lái được chiếc xe đạp. Quả thật nếu tôi đem so sánh một chuyện là đi được trên nước sao cho khỏi chìm? và một chuyện là làm sao đạp được chiếc xe đạp cho khỏi bị té? Cả hai chuyện nếu đem ra so sánh thì tôi thấy cũng không sai lệch nhau lắm đâu!? Một là học cách đi trên nước khi được Chúa Giêsu mời gọi, hay hai là học cách đạp xe đạp khi có bố luôn kềm sát một bên chiếc xe đạp. Vấn đề đặt ra ở đây là ta có thật lòng tin tưởng là ta sẽ không bị chìm xuống lòng biển hay không? Hay ta có thật lòng tin tưởng tuyệt đối vào bố của mình là bảo đảm mình sẽ không bao giờ bị té hay không? Yếu tố quan trọng và thiết yếu là ở chỗ đó! Ở chỗ mà ta có thật sự đặt lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa hay bố của mình hay không mà thôi?
Thú vui của tôi thường cuối tuần thích được ra biển thật sớm khi chưa có mặt trời, và trời còn rất mát. Không gì bằng được ngửi được mùi biển, với không khí trong lành, bỏ được ra ngoài tất cả mọi sự suy nghĩ và bận tâm. Nhìn cảnh vật thiên nhiên, dõi ánh mắt thật xa xa đến tận cuối chân trời, cuối tận chân mây, thú vị lắm các bạn ạ! Không gì bằng khi ta lợi dụng cơ hội để làm một vài động tác lấy khí trời vào lồng ngực (gọi là để đổi gió thành thị với gió biển). Tốt lành biết là bao nhiêu! Hạnh phúc cho tâm hồn của ta biết mấy!? Không đòi hỏi ta phải tốn kém nhiều nhưng hạnh phúc và bình an sẽ cho ta thật nhiều. Nhất là nếu ta mang theo một ly cafe pha sẵn và một ổ bánh mì thịt, vừa đi trên cầu vừa ăn thì tuyệt vời cho một buổi sáng của bạn. Nếu được và hạnh phúc hơn nữa là ta có một người bạn thân, ông xã, bà xã, hay người yêu, đi cùng, thì bảo đảm ta sẽ có một buổi sáng rất hạnh phúc, rất nên thơ, rất an lành, rất vui, và rất lý thú!
Tại nơi đây ta mới có dịp quan sát quang cảnh chung quanh mình. Trời cao, mây lơ lửng, gió hiu hiu lành lạnh, chim lượn bay trên cao, thỉnh thoảng nói câu chào hỏi khi chạm mặt anh chị em. Nơi đây tôi không thấy được khuôn mặt nào rầu rĩ cả! Tất cả như hiện trên nét mặt sự thổn thức tâm tình của mình với cảnh vật thiên nhiên. Trời và ta. Bao la quá! Cảm giác cho ta như muốn hít thật sâu tất cả không khí của biển vào trong lồng ngực và đẩy được hết tất cả những độc tố của không khí thành phố bám sâu trong buồng phổi của ta suốt cả một tuần lễ. May mà tôi ở cũng không xa lắm để làm biếng đi đến với biển, chỉ tốn độ nửa giờ mà thôi!
Thường thì tôi thích được đứng gần mấy cái lan can thật cao trên đất liền mà nhìn xuống biển, khi vừa mới bước xuống xe ngay gần chỗ đậu xe. Ly cafe trong tay thật nóng còn đang bốc khói, từ từ nhấp từng ngụm một, trong khi cặp mắt được dõi nhìn một khung trời thật rộng thật bao la trước mắt. Thật tuyệt diệu vì cả một tuyệt tác của Thiên Chúa Cha mà chính Chúa là người hoạ sĩ đại tài.
Đã thật lâu lắm tôi không được đạp lại chiếc xe đạp của tôi, vì thứ nhất không lái đã lâu nên trở thành nhút nhát vì sợ té. Cái sợ của tôi cũng không vô lý lắm đâu vì thân tôi thì thước tấc không được cao mà chiếc xe đạp thì lại cao quá khỏi cái chân của tôi nên tôi không cảm thấy vững khi phải cầm tay lái. Nhất là khi đạp xe mà chung quanh lại có người hoặc cần phải thắng gấp khi tránh né ai. Bao nhiêu đó cũng đủ cho tôi cảm thấy nhút nhát và sợ nên không thích đạp xe nữa mà chỉ thích nhìn người ta đạp xe.
Có phải khi ta chưa từng bao giờ đạp xe đạp thì ta sợ bị té lắm hay không? Nhất là xe tự nhiên bẻ bánh lái mà đâm xầm vào đâu đó? Thứ nhất là ta mắc cở, thứ hai là đau đớn vì trầy trụa, tệ hơn nữa là có thể trẹo lọi cả tay hay chẩy cả máu đầu?? Nhất là lại thường xẩy ra cho một người có trái tim nhút nhát và hay có tánh mắc cở. May mà tôi đã từng biết đạp xe đạp huống hồ gì cho những người đang có ý nghĩ muốn tập?
Thưa đây là tôi đang nói cảnh vật hữu tình của biển vào ban ngày, chứ không phải cảnh vật của biển vào ban đêm đâu anh chị em nhé! Vào ban đêm tất cả trời và đất cho ta một mầu tối đen, đen như mực vậy! Chỉ tưởng tượng thôi mà tôi đã cảm thấy rùng mình rồi thì hà huống gì tôi cùng đang ở trên một chiếc thuyền đánh cá cỏn con của các môn đệ Chúa xưa. Tưởng tượng các ông là dân đánh cá nhà nghề và cả cuộc đời của các ông là sống chung quanh vùng biển mà khi gặp Chúa Giêsu mà các ông còn la hoảng lên như vậy! Ban đêm luôn cho ta cảm giác mất hết tự tin và sợ đủ mọi thứ do trí óc ta tưởng tượng vì không thấy rõ! Gặp người nhát gan khi gặp Chúa lại tưởng thấy ma mà té xỉu cũng nên lắm! Rõ Chúa cũng biết lòng người mà thử thách các ông như vậy! Và kìa trong số các môn đệ Chúa mà chỉ có một mình Thánh Phêrô là không sợ sau khi được Chúa trấn an là Thầy đây! Nhưng còn các môn đệ kia thì sao! Họ cũng vẫn còn sợ vì chưa chắc đã tin vào lời nói của Chúa Giêsu Thầy của mình.
Đời thường tâm tánh của con người rất nhút nhát và sợ hãi. Sợ hãi những gì con mắt của mình không được thấy! Nhất là lại mờ mờ ảo ảo như ánh đèn leo lắt trong các Chùa mà chúng ta cũng có dịp được thấy!? Hay bàn thờ của những người ngoại giáo lúc nào cũng một mầu đỏ lúc mờ lúc ảo, không bao giờ được rõ ràng, và những hình ảnh của các thần mặt đỏ au, trông sợ lắm! Thuở xưa và nay những chuyện ma quái dù không biết thật hay được đặt ra để răn đe con nít theo kiểu giáo dục của những người quê mùa ít học. Đã ăn sâu trong tâm trí của con nít và lớn lên hình ảnh ma quỷ luôn luôn được vẽ vời trong đầu và hay tưởng tượng thêm lên gấp bội phần.
Không hoảng sợ sao được, khi ban đêm trời tối như mực thì Chúa đã xuất hiện với các ông. Ngài lại đến bằng đường biển. Ngài đi trên mặt biển khi sóng vỗ chòng chành trên chiếc thuyền con. Không sợ sao được khi các ông đồng thanh la lên là ma. ... ma, ma đang hiện ra để nhát chúng mình, các anh em ơi! Thế đấy Chúa đã muốn thử đức tin của các ông bằng cách đấy! Nhưng Chúa cũng còn nhân từ vì không hiện ra với chỉ một môn đệ mà thôi! Chứ không chắc cũng cứng đơ mà chết.
Dầu sao đi chăng nữa ta cũng phải khen tặng Thánh Phêrô đã mạnh dạn mà xin Chúa cho đi trên nước mà đến với Ngài, sau khi đã thật sự nhận ra đó chính thật là Thầy của mình. Chứ không như mấy môn đệ kia! Quả Thánh Phêrô có trái tim yêu Chúa một cách đơn sơ trung thành và cương quyết. Tình yêu thật sắt son, tin tưởng, và nhất quyết muốn đi theo Chúa Giêsu cả cuộc đời của mình. Bởi phải có một trái tim yêu rực lửa như thế mới muốn được đến cùng Chúa và muốn nên được giống Chúa ngay cả cách đi được trên mặt nước. Nếu thông thường một trí khôn trung bình mà không ai gọi mình là khùng thì thiết nghĩ chẳng ai muốn làm giống như Thánh Phêrô cả! Nhưng bởi Thánh Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối, tình yêu dành cho Chúa Giêsu thật tuyệt đối, phó thác cuộc đời cho Chúa Giêsu Thầy của mình cũng tuyệt đối, cho nên mới dám làm và xin một chuyện rất ư là điên rồ hay không? Trong khi tất cả những môn đệ kia vẫn giữ sự im lặng và nhìn theo Thánh Phêrô tiến gần đến với Chúa Giêsu.
Sau cơn mừng rỡ vì đã thấy được Thầy của mình nên cũng chưa được hoàn hồn hoàn toàn để biết lời nói và hành động của mình đang làm là điên rồ, nhưng khi đã chợt tỉnh ra, lúc bấy giờ cơn sợ đã bắt đầu điều khiển được việc mình làm, nên ông mới bị chìm lỉm xuống dưới nước. Chúa Giêsu có trách nhẹ ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?". Tuy Chúa có trách nhẹ ông nhưng vẫn rất thương vì hiểu được lòng dạ của môn đệ mình mà sau này Ngài đã chọn ông làm đầu của Giáo Hội. Có phải khó cho Chúa lắm hay không khi muốn chọn một người để Chúa giao trách nhiệm nhỏ hay lớn mà không có đức tin hay thiếu đức tin nơi Thiên Chúa? Cho nên tuy bị Ngài quở trách rất là nhiều lần nhưng vẫn được Chúa tuyển chọn vì đã hoàn toàn tín thác nơi bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Làm con Thiên Chúa và được Chúa yêu thương có phải là dễ lắm không? Chúa chẳng đòi hỏi nơi ta bất cứ điều gì ngoài tấm lòng tin tưởng nơi Ngài tuyệt đối. Chúa lại chẳng biết chúng ta tất cả đều bất toàn và đầy những khiếm khuyết? Nhưng Chúa không cần và không trách cứ ta điều đó! Vì có phải chăng Ngài đã tạo dựng nên chúng ta mà Ngài lại không hiểu rõ chúng ta hay sao!? Tất cả những khiếm khuyết của ta đều được Chúa tha thứ và thanh luyện. Chúa vẫn tiếp tục dậy dỗ chúng ta hằng ngày trong suốt cuộc đời của ta. Hy vọng chúng ta có trái tim giống như Thánh Phêrô là môn đệ trung thành của Chúa.
Tuyết Mai
------------------------------------------
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN (Mt 14, 22-33)
Đang chèo thuyền giữa khơi trong bóng đêm dày đặc, các môn đệ bỗng phát hiện một bóng ma: TN19-A52
Đang chèo thuyền giữa khơi trong bóng đêm dày đặc, các môn đệ bỗng phát hiện một bóng ma chập chờn trên sóng nước. Mọi người hốt hoảng la lên. Nào ngờ đó lại là Chúa Giê-su. Ngài trấn an họ: “Chính Thầy đây! Đừng sợ!”. Biết vậy, Phê-rô hăm hở đòi đi trên nước như Thầy: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt nước và đến cùng Ngài”.
Được Chúa chấp thuận, Phê-rô bước ra khỏi thuyền, bước chân chao đảo trên sóng nước như người say. Thế rồi một cơn gió mạnh thổi đến, nước xô ập vào người làm Phê-rô chới với. Ông hoảng hốt la lên: “Lạy Thầy, xin mau cứu con!”.
Lập tức, Chúa Giê-su nắm lấy tay Phê-rô, kéo ông lên rồi đưa ông vào thuyền bình an vô sự. Sống trên đời nầy, chúng ta cũng như Phê-rô đi trên mặt biển. Mọi sự chung quanh đều chao đảo, bấp bênh, hỗn độn. Mới đây còn đang vui đùa, nhảy múa reo cười… đùng một cái, bỗng hoá ra người thiên cổ! Mạng người quá đỗi mong manh. Kiếp người như ngọn đèn lung linh trước gió, như một giấc chiêm bao!
Cuộc đời đầy dẫy tai ương
Những thiên tai xảy ra dồn dập khắp nơi trên thế giới: bão tố, lũ lụt, động đất, sóng thần, lốc xoáy... đã gây ra tổn thất khủng khiếp về nhân mạng cũng như về tài sản.
Bên cạnh đó, những tai hoạ do con người gây ra cũng khủng khiếp và tàn bạo không kém: chiến tranh, bạo lực, khủng bố, đàn áp, bóc lột, bệnh tật, đói nghèo...
Trước những tai ương hoạn nạn đó, con người biết tìm đâu nơi nương tựa vững bền? Biết bám víu vào ai để bảo toàn mạng sống? Biết dựa vào sức mạnh nào để đương đầu?
Chẳng có chi vững bền
Trên cõi đời nầy, tìm đâu ra một điểm tựa vững bền?
Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật và chết chóc.
Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.
Chẳng có gì kiên cố
Toà tháp đôi ở Newyork cao đến 110 tầng (417- 425 mét) đứng uy nghi sừng sững giữa trời, vượt hẳn lên các công trình kiến trúc hoành tráng chung quanh, ngạo nghễ thách thức với cả những cơn địa chấn mạnh nhất, nằm ở trung tâm một đất nước phồn vinh và hùng mạnh nhất thế giới, nhưng có ai ngờ: nó đã bị tấn công, bị bốc cháy ngùn ngụt và sụp đổ tan tành trước sự kinh hoàng của hàng tỉ người trên thế giới, chôn vùi ngót năm ngàn nạn nhân dưới khối bê tông khổng lồ của nó trong một biến cố gây chấn động thế giới vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Mọi thứ đều bấp bênh
Hành trình của con người trên dương gian không khác chi hành trình của Phê-rô trên mặt nước; nhìn trước, nhìn sau, nhìn lui, nhìn tới, mọi thứ đều chao đảo, tất cả đều bấp bênh, chẳng có gì vững bền.
“Ôi nhân sinh là thế: như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Khuyết danh)
Biết nương tựa vào đâu
Con người không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo như mình. Một chiếc tàu sắp đắm không thể cứu vớt chiếc tàu khác cũng đang chìm đắm như mình.
Cần phải có một “quyền lực” nào đó ở bên trên, ở một bờ bến vững vàng, mới có thể cứu vớt những ai đang chìm đắm trong biển đời chao đảo. Hãy nắm lấy bàn tay Chúa Giê-su
Duy chỉ có bàn tay Chúa Giê-su mới có đủ quyền năng cứu vớt mọi người trên dương thế và bàn tay ấy luôn đưa tay ra để nâng đỡ, dìu dắt, cứu vớt bao người.
Bàn tay Chúa Giê-su đã đẩy lùi bệnh tật ra khỏi kiếp người: chạm đến những người phong hủi khiến những người nầy được sạch (Mt 8,3); đặt lên “những người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn và họ được chữa lành” (Lc 4, 40)
Bàn tay Chúa Giê-su trả lại ánh sáng cho người mù tối: chạm đến mắt người mù khiến y được sáng. (Mt 9,29. 20, 34))
Bàn tay Chúa Giê-su đã lôi kéo con người ra khỏi cõi chết: nắm lấy bàn tay bé gái đã chết và trả lại sự sống cho em. (Mt 9,24)
Và cũng chính bàn tay ấy đã đưa ra nắm lấy tay Phê-rô đang chới với giữa sóng gió hãi hùng, kéo ông khỏi bị chìm đắm và đưa ông vào trong thuyền bình an vô sự. (Mt 14, 31)
Lạy Chúa Giê-su,
Chỉ có Chúa và duy chỉ có một mình Chúa mới là điểm tựa duy nhất cho nhân loại đang chơi vơi, chao đảo giữa biển đời tăm tối hãi hùng.
Bàn tay Chúa vẫn đưa ra và sẵn sàng nắm lấy bàn tay yếu đuối của con người đắm chìm giữa biển đời tối đen đầy sóng gió, nhưng tiếc thay, người đời không chịu để cho Chúa nắm lấy tay mình.
Chúa yêu mến con người và sẵn sàng cứu vớt họ, nhưng đồng thời Chúa cũng luôn tôn trọng tự do của họ.
Xin soi sáng cho nhân loại hôm nay khám phá ra bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu đang luôn vươn ra để che chở và cứu vớt mọi người.
Xin cho chúng con được trở thành bàn tay nối dài của Chúa, sẵn sàng đưa ra nắm lấy những bàn tay khác đang gặp sóng gió gian nan.
LM Inhaxiô Trần Ngà
------------------------------------------
VietCatholic News (Thứ Tư 06/08/2008 20:18)
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XIV Thường Niên - Năm A
Các bài đọc Chúa Nhật tuần này có một điểm giống nhau là nói về thái độ khác nhau của những ngườ: TN 19-A53
Các bài đọc Chúa Nhật tuần này có một điểm giống nhau là nói về thái độ khác nhau của những người tin vào Thiên Chúa khi gặp Ngài trong những cơn giông tố của cuộc đời.
Đời tôi là một cuộc hành trình tiến về quê trời. Trong cuộc hành trình ấy, tôi đã, đang và sẽ gặp rất nhiều gian nan thử thách. Như ngôn sứ Êlida phải đương đầu với Hoàng Hậu Giadêbel và phải chạy trốn vào hang núi, tôi cũng bị người ta tẩy chay vì muốn làm theo lời Chúa dạy, và đôi khi cũng muốn chạy trốn. Như dân Do Thái bị dày xéo dưới ách nô lệ ngoại bang và mong chờ Đấng Mêsia đến cứu, thì tôi cũng có những tật xấu không tài nào bỏ được, cũng có những hoàn cảnh éo le vô phương cứu chữa, cần Chúa giúp đỡ. Như các môn đệ vật lộn với sóng gió trên Biển Hồ mà không biết sao chèo chống mặc dù họ là những ngư phủ nhà nghề, đời tôi cũng gặp hết khó khăn này đến khó khăn khác mà không biết sao giải quyết! Và trong cả ba trường hợp, Thiên Chúa đều hiện đến để cứu giúp. Phản ứng của ngôn sứ Êlida, của dân Do Thái và của các môn đệ là bài học cho tôi hôm nay.
1) Ngôn sứ Êlida nhận ra Thiên Chúa trong tiếng gió hiu hiu, thay vì trong cơn bão xé non nghiền đá, thay vì trong cơn động đất kinh hoàng. Ngôn sứ Êlida đã dễ dàng nhận ra Chúa trong cơn gió nhẹ hiu hiu và đã tiến ra cửa hang đá để đón Ngài vì suốt đời ông đã luôn lắng nghe Lời Chúa và làm theo huấn lệnh của Ngài.
2) Dân Israel đã được Thiên Chúa tuyển chọn thành dân riêng và luôn cứu giúp. Họ hãnh diện vì họ “được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa” (Rom 9:4) như Thánh Phaolô viết trong bài đọc hai. Ngay cả các tổ phụ đức tin của chúng ta cũng là của họ. Và chính Đấng Mêsia, là Đức Kitô, cũng là dân của họ, có cùng một giòng máu và màu da như họ. Thế mà khi Ngài đến trong lúc họ đang nôn nóng mong chờ Ngài, họ đã không nhận ra Ngài, dù Ngài đã làm bao nhiêu phép lạ như hóa bánh ra nhiều được kể trong bài Tin Mừng tuần qua. Sở dĩ họ đã không nhận ra Ngài vì họ muốn có một Đấng Mêsia theo ý họ chứ không theo ý Chúa. Họ nuôi trong lòng một hình ảnh một Đấng Mêsia sẽ đưa đến cho họ một thứ vinh quang và uy quyền trần thế; một Đấng Mêsia có đoàn quân hùng mạnh như những cơn giông bão xé non nghền đá, như những cơn động đất chuyển núi rời non; một Đấng Mêsia sẽ cho họ bá chủ hoàn cầu đến muôn đời. Chính vì quan niệm như thế nên họ đã không nhận ra Ngài trong hình dạng một bậc thiền sư “hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29), trong hình dạng một người “cùng bàn với bọn thu thuế và phường tội lỗi?” (Mt 9:11; Lc 5:30), và cuối cùng là một tử tội bị chết treo trên Thập Giá.
3) Còn các môn đệ trong lúc đang vật lộn với cơn sóng gió Biển Hồ cũng đã không nhận ra Chúa. Tuy tin vào Chúa, nhưng các ông vẫn dựa vào sức mình mà vật lộn với ba đào. Khi Chúa đến cứu thì các ông đã tưởng là “ma”. Không chỉ lần này, mà cả lần sau khi Ngài sống lại hiện ra với các ông, các ông cũng “tưởng là ma” (x. Lc 24:37). Sở dĩ các ông có thái độ ấy vì lòng tin của các ông còn quá yếu.
Chúa nhiều lần xuất hiện trong đời tôi dưới những khuôn mặt tầm thường mà tôi cũng không biết và không nhận ra. Tôi thường tìm Chúa trong những hình ảnh do mình dựng nên, theo những quan niệm mà tôi đã có sẵn về Ngài, nên khi Ngài xuất hiện cách khác tôi không tài nào nhận ra được. Ngài hiện diện hằng ngày nơi những người chung quanh tôi, nơi vợ con và bạn bè tôi mà tôi không biết. Ngài đã xuất hiện như một em bé bất lực trong lòng Mẹ Maria. Và ngày nay Ngài vẫn đang xuất hiện như những trẻ em còn trong bụng mẹ đang cần tôi bênh vực vì người ta đang nhẫn tâm giết chết cả mấy chục triệu em mỗi năm, mà không một mảy may thương xót. Ngài đang hiện thân nơi những người nghèo hèn bệnh tật đang cần tôi giúp đỡ. Sở dĩ tôi không nhận ra Ngài vì tôi đang coi thường những người yếu thế trong xã hội, đang đi tìm một Đấng Mêsia thế tục là tiền tài, danh vọng và thỏa mãn cá nhân, chứ không phải đi tìm một Thiên Chúa nhân từ trong ngọn gió hiu hiu. Ngài xuất hiện trong các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể để ở cùng tôi “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20), mà một tuần tôi đến được với Ngài mấy lần? Và nhiều khi tôi đến vì bất đắc dĩ, thân xác thì ở đó mà lòng trí thì vẫn lo toan tính sự đời. Ngài ở trong Thánh Kinh mà tôi để trong tủ cả năm không một lần đụng đến!
Nhiều khi trong những cơn giông tố cuộc cuộc đời, trong những đau khổ thất vọng ê chề, trong khi vật lộn với những khó khăn trong cuộc sống, Chúa cũng đã sai nhiều người đến để giúp đỡ, nhưng vì tôi không ưa họ hoặc vì nghe thấy họ nói những lời chói tai, nên tôi cũng tưởng họ là “ma” mà không tin họ. Ngài cũng xuất hiện trong Thánh Kinh, trong các sách đạo đức và những lời giảng dậy mà tôi đọc hay nghe thấy mỗi ngày, nhưng tôi đã coi thường. Ngài còn xuất hiện trong nhiều biến cố của đời tôi, nhưng tôi không biết hoặc không muốn biết.
Đôi khi tôi cũng tin vào Ngài và thử nghe lời Ngài, bước ra khỏi thuyền để đi bộ trên nước như Thánh Phêrô. Nhưng thường thì tôi chưa làm đã mong thấy thành công. Giống như Thánh Phêrô, thay vì nhìn lên Chúa để đi về phía Người, tôi đã nhìn xuống mặt biển và hãnh diện rằng rằng mình đang đi trên nước. Mới thấy mình thành công một tí đã tự hào là mình tài giỏi, mà quên rằng tất cả những gì tốt tôi làm được là do hồng ân Chúa ban. Chính vì thế chỉ gặp một chút thử thách là tôi đã chán nản bỏ cuộc, như Thánh Phêrô vì thấy sóng gió mà mất niềm tin nên đã bị chìm.
Lạy Chúa, đời con có quá nhiều giông tố như con thuyền đang vất vả với ba đào nơi biển cả. Xin cho con biết vững tin chèo lái vì biết rằng lúc nào Chúa cũng ở bên con. Xin cho con biết luôn hướng tâm về Chúa trong mọi giây phút của cuộc đời để quân thù không làm hại được con. Xin cho con biết kêu cầu cùng Chúa khi gặp hiểm nguy: "Lạy Chúa, xin cứu con!" Amen.
Phaolô Phạm Xuân Khôi
------------------------------------------
(Mt 14:22-33)
Trước ngày khai mạc Olympics, không khí ở Bắc Kinh vẫn tràn ngập sương khói. Ủy Ban Thế Vận TN 19-A54
Trước ngày khai mạc Olympics, không khí ở Bắc Kinh vẫn tràn ngập sương khói. Ủy Ban Thế Vận nói sẽ hoãn hay hủy bỏ các cuộc tranh tài nếu không khí ở thành phố có phẩm chất dưới mức an toàn do Tổ Chức WHO quy định. Tháng qua, chính phủ Trung Hoa tung ra một chuỗi những biện pháp cắt giảm ô nhiễm trước Olympics 2008: cấm nhiều loại xe di chuyển, đóng cửa các nhà máy, và trì hoãn việc xây cất. Kinh phí lên đến 17 tỉ Mỹ kim. Ủy ban Thế Vận công nhận những cố gắng này.
Nhưng các nguồn độc lập từ BBC và AP lại cho thấy không đúng như vậy. Theo một cựu chuyên viên hóa học về khí quyển, nỗ lực vượt mức của Trung Hoa sẽ có ít hay không ảnh hưởng chút nào tới không khí.[1] Tại sao ? Vì không khí của Bắc Kinh tồi tệ nhất, tức là, thiếu khí lạnh từ Mông Cổ thổi ngang thành phố. Những ngày đẹp trời không phải do hoạt động của con người, nhưng do các hiện tượng thời tiết.[2]
Như thế mới thấy giới hạn của con người và xã hội trước thiên nhiên. Thiên Chúa có bất lực như vậy không ? Hôm nay Tin Mừng Mathêu sẽ cho thấy một cảnh vô cùng ngoạn mục. Chúa Giêsu đi trên mặt nước và trấn át cơn phong ba, trả lại sự bình an và niềm tin cho các môn đệ.
MA HAY CHÚA ?
Hôm đó trên biển cả, các môn đệ Chúa Giêsu đang ở trên thuyền. Bỗng một cơn giông nổi lên, đánh bạt con thuyền xa bờ (x. Mt 14:24). Giữa lúc phong ba như thế, Chúa không hiện diện trong khoang thuyền với các ông, vì Người đang ở trên núi một mình cầu nguyện (Mt 14:23). Người trên núi, kẻ dưới biển, làm sao tiếp cứu nhau ?
Trong Thánh Kinh, biển cả vẫn là mối đe dọa thường xuyên và một sức mạnh nguy hiểm. “Ñôi khi người Do thái dùng hình ảnh biển cả để nói đến những cuộc tấn công của kẻ thù mà họ cảm thấy không thể chống lại nếu không có Chúa can thiệp (ví dụ Gr 6:23).”[3] Ai có lênh đênh trên biển cả, mới thấy tất cả sức mạnh kinh hồn của thiên nhiên. Con người như bị choáng ngợp.
Sóng biển như muốn nhận chìm con thuyền các môn đệ. Vừa ra khơi, các ông đã đụng ngay cơn sóng dữ. Ñang vất vả chèo chống, các ông lại càng mất hết tinh thần khi thấy như một bóng ma chơi vơi trên mặt biển. Chưa bao giờ thấy hiện tượng kỳ lạ đó, trong cơn sợ hãi tột cùng, các ông kêu lên: “Ma đấy !” (Mt 14:26) Khi hoảng sợ và kêu thất thanh như thế, các môn đệ cảm thấy hoàn toàn bất lực và như bị dồn vào đường cùng. Những nỗ lực con người hình như không còn ý nghĩa gì.
Chính lúc bất lực như thế, các ông mới có thể cảm nghiệm được tất cả quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Dù giữa cơn sóng gió, Chúa vẫn lên tiếng trấn an và bảo đảm cho các ông: Chúa đang hiện diện đích thực giữa các ông (x. Mt 14:27). Nghe vậy, ông Phêrô cảm thấy niềm tin mạnh hẳn lên. Sau cái vẫy tay của Chúa, ông mạnh dạn bước xuống biển, bất chấp những nguy hiểm đang chờ đón ông. Thái độ này tỏ lộ bản chất con người ông. Sau này, người ta còn chứng kiến ông hành động chớp nhoáng như thế khi Chúa bị bắt.
Hành động đó phát xuất từ tính khí, chứ không từ niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa. Chỉ một thách đố do hoàn cảnh bên ngoài cũng đủ làm con người thay đổi thái độ. Một làn gió thổi hay một lời nói đe dọa tới sự an toàn cá nhân cũng đủ làm ông bối rối và không còn như trước nữa. May mà ông còn biết kêu cứu đến Chúa trong lúc nguy cấp ! Nếu không, ông đã rơi vào nỗi tuyệt vọng và nguy hiểm rồi !
Chính vì tiếng kêu cứu đó, Chúa đã ra tay. Nhìn vào tận đáy tâm hồn Phêrô, Chúa thấy như cả một bầu trời sắp sụp đổ. Phêrô chìm không phải vì sóng gió hay sức nặng của thân xác, nhưng vì “kém lòng tin !” (Mt 14:31) Tuy nhiên, một lòng tin mong manh cũng đủ để Chúa hành động. Chúa muốn củng cố niềm tin ấy khi “đưa tay nắm lấy ông” và đưa “lên thuyền.” (Mt 14:31.32) Ông thoát nạn. Vào được trong thuyền, ông mới hoàn hồn và nhận ra bình an đã đến với tất cả khi có Chúa vào trong thuyền Chứng kiến cảnh tượng đó, “những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: ‘Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!’” (Mt 14:33)
Lời tuyên xưng này là cốt lõi niềm tin của các môn đệ. Lời tuyên xưng đó chẳng khác lời reo vang của dân Do Thái trên Biển Ñỏ năm xưa. Quả thế, “khi diễn tả cuộc chiến thắng vĩ đại nhất trong truyền thống Xuất Hành, người Do thái có ý nói tới sự phân rẽ nước – nhất là, việc phân rẽ nước ở Biển Ñỏ. Khi phân rẽ nước như thế, Giavê tỏ quyền lực tối cao trên những lực lượng nổi loạn, cả trong thiên nhiên lẫn con người. Quyền lực Chúa đã được ca ngợi trong Bài Ca Biển Cả”[4]:
“Nộ khí Ngài, lạy Chúa, đã khiến nước dâng lên,
sóng trùng dương dồn lại dựng đứng như tường thành;
giữa lòng biển thẳm sâu, nước bỗng đâu ngừng chảy.” (Xh 15:8)
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa nơi Người. Chỉ cần tin, họ sẽ thấy Chúa hiện diện và hành động để cứu sống Giáo Hội. Phép lạ đặc biệt hôm nay chủ yếu nhằm đem lại cho Giáo Hội niềm an ủi trong thời gian Chúa Giêu không còn sống giữa các môn đệ nữa. Giáo Hội giống như con thuyền trong cơn bão tố vắng mặt hoa tiêu. Giáo Hội có nguy cơ chìm xuồng hay vỡ tan thành từng mảnh khi đụng đầu vào đá. Như chiếc thuyền các môn đê trong cơn biển động, Giáo Hội như bị những con sóng lớn vùi dập, sau khi Chúa chết.
Dù vắng mặt, Chúa vẫn còn ở với môn đệ. Ñiều đó đã xảy ra với Giáo Hội sau khi Chúa chết. Thời nay, Chúa Giêsu vẫn còn sống với chúng ta. Chúa sống với chúng ta khi chúng ta hành động trong công lý cho đồng loại. Chúa Giêsu không sống ở ngoài hay xa Giáo Hội, nhưng ở ngay trung tâm Giáo Hội, dẫn chúng ta tới cõi sống của Thiên Chúa, đưa chúng ta bước đi không phải trên mặt nước xao động, nhưng trong luồng ánh sáng chan hòa bình an của Ñấng Công Chính.
CON THUYỀN GIÁO HỘI GIỮA BIỂN ÑỜI HÔM NAY
Con thuyền Giáo Hội đang lao vào biển cả trần gian. Biết bao lần tưởng như con thuyền bị lật úp vì sóng bão và những bóng ma thời đại. Nhưng tới nay, con thuyền Giáo Hội vẫn đang lướt sóng. Nhờ đâu Giáo Hội có thể tồn tại và tiến lên như vậy ?
Qua những biến cố trên biển trần gian, Chúa muốn môn đệ nhận ra tất cả những giới hạn của mình và quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Nhờ đó, họ không bao giờ đánh mất niềm hy vọng. Quả thật, “đời sống cá nhân và xã hội, cũng như hành động của con người trong thế giới, luôn bị tội lỗi đe dọa. Thế nhưng, Chúa Giêsu Kitô “đã mở cho chúng ta một con đường. Nếu chúng ta bước theo Người, sự sống và sự chết trở thành thánh thiêng và có một ý nghĩa mới. Trong đức tin và qua các bí tích, các môn đệ Chúa Kitô gắn bó với Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu, để cái tôi cũ xưa, cùng với những khuynh hướng xấu xa, bị đóng đinh vào thập giá với Chúa Kitô. Như một tạo vật mới, họ có thể ‘bước đi trong đời sống mới’ nhờ ân sủng (Rm 6:4).”[5] Nếu đức tin ông Phêrô luôn bền vững, chắc chắn ông sẽ có thể bước đi vững chắc giữa cơn gầm thét của sóng dữ. Cũng thế, muốn không chao đảo giữa sóng gió cuộc đời, Kitô hữu phải đặt tất cả niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô.
Niềm tin nơi Chúa sẽ khiến con người lớn lên trong mọi chiều kích và làm thành một cộng đoàn duy nhất của Chúa Kitô. Quả thật, “trong Chúa Kitô, Thiên Chúa không những cứu rỗi cá nhân, nhưng cả những tương quan xã hội giữa con người. Như thánh Phaolô đã dạy, đời sống trong Chúa Kitô làm cho căn tính con người và chiều cạnh xã hội – với những hậu quả cụ thể trên bình diện lịch sử và xã hội – vươn lên trọn vẹn và một cách mới mẻ: ‘Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô.’ (Gl 3:26-28). Về phương diện này, khi được Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô liên kết và Thánh Linh quy tụ quanh Chúa Phục Sinh (x. Mt 18:20, 28:19-20; Lc 24:46-49), các cộng đoàn Giáo Hội hiến dâng chính mình làm nơi hiệp thông, làm chứng và truyền giáo, cũng như làm xúc tác đẩy mạnh công cuộc cứu chuộc và biến cải các tương quan xã hội.”[6] Như thế, nhờ niềm tin, không những Kitô hữu có thể vượt qua chính mình mà còn có thể nâng cao nhân loại lên tầm mức của Chúa Kitô. Nhờ đó, họ có thể tiêu hủy những hậu quả tội lỗi và liên kết nhân loại với Thiên Chúa.
Chỉ một mình Chúa Giêsu mới có khả năng đưa con người lên cao. Ñúng thế, “trong Người lúc nào chúng ta cũng có thể nhận ra dấu chỉ sống động về sự vô lượng và siêu việt của tình yêu Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, Ñấng nhận lấy sự yếu đuối của dân Người, bước đi với họ, cứu độ và làm cho họ nên một. Trong Người và nhờ Người, đời sống xã hội có thể được tái khám phá như một nơi tràn đầy sự sống và hy vọng, mặc dù có những mâu thuẫn và tăm tối. Chính nơi đó, có dấu hiệu ân sủng liên lỉ ban cho mọi người và đó là một lời mời gọi con người lên cao và dấn thân hơn vào những hình thức chia sẻ.”[7] Có chia sẻ mới hy vọng có công lý và hòa bình.
Chính nhờ chia sẻ thân phận con người cho tới “chết trên thập giá,” (Pl 2:8) Chúa Giêsu làm cho mối liên kết giữa tình liên đới và bác ái chói sáng trước mặt mọi người, đồng thời làm rõ toàn thể ý nghĩa của mối liên kết này: ‘Trong ánh sáng đức tin, tình liên đới tìm cách vượt qua chính mình, mặc lấy chiều kích đặc biệt Kitô giáo đầy tính vô vị lợi, tha thứ và hòa giải. Như thế, người lân cận không chỉ là con người với những quyền riêng và bình đẳng với mọi người khác tận căn bản, nhưng còn trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, được máu Chúa Giêsu cứu chuộc và ở dưới sức tác động thường xuyên của Thánh Linh. Bởi đó, người thân cận phải được yêu thương, dù họ là kẻ thù, bằng một tình yêu Chúa đã yêu thương họ. Vì họ, chúng ta phải sẵn sàng hy sinh, dù phải hy sinh tới cùng: hy sinh mạng sống vì anh em (x. 1 Ga 3:16).’”[8]
Thày Chí Thánh đã đạt đến mức độ hy sinh lớn lao đó. Nếu có đức tin thực sâu xa, chúng ta có thể noi gương Người dễ dàng. Nếu không, chúng ta sẽ co cụm lại với những tính toán đầy “khôn ngoan” của mình. Một khi đã nghe Chúa mời gọi: “Cứ đến !” (Mt 14:29), dù sống giữa những hoàn cảnh bi đát nhất, Kitô hữu vẫn kiếm được con đường dấn thân theo tiếng gọi của Chúa.
“CỨ ÑẾN ! ÑỪNG SỢ !”
Trên biển cả dậy sóng, Chúa vẫn nói với các môn đệ: “Cứ yên tâm ! Thày đây ! Ñừng sợ !”(Mt 14:27) và với Phêrô: “Cứ đến !” (Mt 14:29) Trong hoàn cảnh khó khăn như Việt Nam, Chúa có nói gì không ? Trong những lúc khó xử, chúng ta thường nói: có ở trong cuộc mới thấy vấn đề ! Có giỏi về Việt Nam mà tỏ thái độ ! Cần phải nhìn xa trông rộng ! Cần phải dè dặt và khôn ngoan ! Mỗi người có cách phản ứng riêng ! Ñừng bắt Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bắt chước Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất !
Có cả hàng triệu lý do để chui vào vỏ ốc ! Cùng một hoàn cảnh, không phải ai cũng chui vào vỏ ốc như nhau. Trong GHCGVN, tuy đa số thầm lặng và làm theo chỉ thị, nhưng cũng không thiếu những tâm hồn quả cảm. Mặc dù sống giữa những căng thẳng và đe dọa, nhưng vẫn có người dám nói lên sự thật. Chỉ những con người có niềm tin mạnh mẽ mới có can đảm nói lên sự thật mà thôi.
Hiện nay GHCGVN đang phải đối diện với quá nhiều vấn đề. Càng ngày càng có những ngôn sứ lên tiếng nhắc nhở Giáo Hội. Không biết Giáo Hội có nghe thấy không ? Hay guồng máy cai trị ồn ào quá mức khiến Giáo Hội hết khả năng lắng nghe rồi ?!
Công lý đang nổi cộm với những vấn đề đất đai từ Tòa Khâm Sứ Hà Nội đến Giáo Xứ Thái Hà. “Vụ đất đai ở Thái Hà biểu lộ những bức xúc và sự thiếu lòng tin vào công lý xã hội của giáo dân chúng ta, bà con tin rằng hiện nay những thế lực tiền bạc đang khống chế xã hội, chứ không phải là công lý.
Khi những hiện tượng tiêu cực và phi nhân đạt tới mức độ bao trùm xã hội, thì có lẽ Giáo Hội chúng ta cũng cần phát triển sự phục vụ của mình lên một tầm cao hơn những cố gắng xuất sắc nhưng đơn lẻ, để đi tới một định hướng cộng đồng rõ rệt hơn trong lĩnh vực nhân bản Ki-tô giáo và công bình xã hội.”
Chúng con hiểu rằng trừ khi Giáo Hội huy động lực lượng tâm trí của toàn thể cộng đồng, thì chẳng có cá nhân tín hữu hay giáo sĩ nào có thể giải quyết hết những vấn đề khó khăn như thế, nhưng đàng khác nếu không đối diện với những vấn đề ấy, thì chúng con cũng khó mà tuân hành được các giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng con cầu mong có một uỷ ban và một chương trình hành động cho công lý và hòa bình, như ở Toà Thánh, ở nhiều giáo phận và Dòng tu trên thế giới đã có.”[9]
Như một ngôn sứ, Lm Vũ Khởi Phụng đã đưa vấn đề công lý lên một bình diện lớn hơn và bao quát hơn. Có sống sát với dân và sống sâu xa niềm tin vào Thiên Chúa, mới có thể gióng lên tiếng nói như vậy. Còn Hội Ñồng Giám Mục Việt Nam thì sao ?!
Bên cạnh vấn đề đất đai, Giáo Hội cũng đang bị tước mất quyền giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho người nghèo. Trong niềm tin và căn cứ vào thực tế, Kitô hữu nghĩ rằng: “Chỉ có Giáo Hội, với sứ mạnh và tâm nguyện của mình, mới có thể giúp các em nghèo đến với trường lớp. Và cũng chỉ có Giáo Hội với cái tâm trong sáng của mình mới có thể vô vị lợi đến với thế hệ tương lai. Nhưng ở đây chúng tôi cũng đau lòng xin mở cái ngoặc: những người tự xưng là thành phần của Giáo Hội, kể cả hàng giáo sĩ, khi đã vì tư lợi hay vì hèn kém mà đầu quân vào những chỗ không xứng đáng, vì làm mọi quỉ dữ, thì đừng a dua chạy vào làm giáo dục, kẻo Giáo Hội lại mang tiếng là luôn muốn quyền danh!”[10] Hội Giám Mục Việt Nam cũng đã đặt vấn đề giáo dục, nhưng sao không thấy có những cái nhìn và trăn trở sát thực như thế nhỉ ?
Ñã đến lúc GHVN nhìn thẳng vào ánh mắt và bàn tay Chúa đang vẫy gọi: “Ñừng sợ ! Cứ đến !” Hãy mạnh dạn bước ra biển đời, dù sóng lớn đang phủ ngập khắp nơi. Nếu cố tình quên đi vai trò ngôn sứ, Giáo Hội sẽ đánh mất căn tính của mình. Có quá nhiều vấn đề cấp bách, các vị lãnh đạo GHVN có thể ngồi yên mà nhìn dòng đời trôi qua với bao nhiêu đau khổ như vậy không ?
Hãy mạnh dạn lên tiếng và đặt thẳng vấn đề xoáy sâu vào lương tâm những kẻ cầm quyền: “Nếu chính quyền thực sự thương dân thương nước này, nếu chính quyền thực sự tôn trọng tự do tôn giáo, nếu chính quyền thực sự tôn trọng pháp luật, chính quyền phải để cho các tổ chức tôn giáo tham gia vào tiến trình xã hội hoá giáo dục-y tế, cụ thể là được mở trường và lập bệnh viện như những cá nhân và tổ chức khác.”[11]
Tóm lại, Chúa đã xuất hiện trên biển cả để cứu nguy các môn đệ. Tin tưởng vào lời mời gọi của Chúa, ông Phêrô đã liều bước ra biển cả giữa cơn sóng dữ. Nhưng vì yếu tin, ông đã chìm xuống. Nếu không kêu cầu Chúa, chắc chắn ông đã biến mất trong lòng biển. Chúa đã cứu ông và đem lại bình an cho cả con thuyền. Người đã dạy các môn đệ một bài học thực tiễn về niềm tin. Giữa biển đời đầy sóng gió hôm nay, con thuyền Giáo hội cũng đang gặp đầy thử thách. Nếu không vững niềm tin nơi Chúa, Giáo Hội không thể can đảm đóng trọn vai trò ngôn sứ trong thời đại hôm nay.
Lạy Chúa, Chúa đã thương cứu ông Phêrô và các môn đệ khỏi trận phong ba trên biển cả. Xin Chúa thương đến GHVN chúng con trong cơn sóng gió hôm nay. Xin cho các vị lãnh đạo Giáo Hội biết lắng nghe và mạnh dạn theo tiếng Chúa mời gọi mà thực sự làm chứng cho Chúa. Amen.
đỗ lực 10.08.2008
------
[1] http://blog.wired.com/wiredscience/2008/08/olympic-committ.html
[2] http://blog.wired.com/wiredscience/2008/07/why-chinas-effo.html
[3] The Anchor Bible Dictionary 1992: V.1059.
[4] The Anchor Bible Dictionary 1992: V.1059.
[5] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội, 41.
[6] ibid., 52.
[7] ibid., 196
[8] Ibid.
[9] http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=5126
[10] http://www.chuacuuthe.com/chiase/9568gd.html
[11] http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=5105
------------------------------------------
Mhtm 113
- Trần Mỹ Duyệt
Nhìn Chúa thành ma! Đây không phải là chuyện bá láp hoặc tưởng tượng, nhưng là chuyện có: TN 19-A55
Nhìn Chúa thành ma! Đây không phải là chuyện bá láp hoặc tưởng tượng, nhưng là chuyện có thật và đã được thuật lại trong Thánh Kinh. Qua trích đoạn Tin Mừng của Mátthêu và Luca, ít nhất hai lần các môn đệ của Chúa đã nhìn Ngài mà tưởng là ma.
Trong Mátthêu hôm nay (x. Mt 14:21-33), các môn đệ đã tưởng Chúa là ma khi Ngài đến với các ông trên mặt biển. Và trong Luca, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng Ngài là ma đang khi đang tụ họp nghe hai môn đệ vừa từ Emmau trở lại tường thuật câu chuyện Chúa hiện ra và bẻ bánh với hai ông (x. Lc 24:37). Vậy đâu là lý do khiến các môn đệ nhìn thầy mình mà tưởng là ma?
Đọc kỹ trích đoạn Tin Mừng của Mátthêu và Luca, ta thấy rằng sở dĩ các môn đệ nhìn Chúa thành ma vì:
- Các ông đang phải lao đao, vất vả và chống chọi với sóng gió biển khơi.
- Và vì các ông đã để mình lạc mất niềm tin.
Đó cũng là những gì mà Kitô hữu chúng ta hôm nay đang gặp phải, và cũng như các môn đệ, khiến chúng ta nhìn Chúa thành ma. Thật vậy, trong biển đời đầy sóng gió và thử thách, nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau chúng ta đã để cho lòng mình bị xôn xao, lo lắng và sợ hãi đến độ không nhận ra Chúa, mặc dầu Ngài đang ở bên ta giữa những biến cố cuộc đời.
Thế Chúa ở đâu giữa những đau thương như vậy. Mất vợ, mất chồng, mất con, mất nhà, mất việc. Chúa ở đâu giữa những tai bay, vạ gió; giữa những ốm đau, bệnh tật; giữa những bất công chồng chất mà người ta đổ lên đầu con, là nước mắt mà con hằng ngày đổ ra vì phải gánh chịu những nghiệt ngã, đau thương như thế. Trước mắt con, và đối với con những thứ đó là gì nếu không phải là ma quỉ, là những điều khốn nạn nhất mà con sợ hãi và muốn trốn tránh. Như vậy thì sao lại bảo đó là Chúa.
Rồi cũng như các tông đồ và môn đệ đang họp nhau, vừa vui, vừa sợ nghe Clêopha và bạn mình mới từ Emmau trở về cho hay họ đã gặp Chúa, nghe Chúa nói, và thấy Chúa bẻ bánh. Nhưng rồi Ngài đang đứng giữa các ông mà các ông lại sợ hãi tưởng là ma. Bởi vì, các ông đã đánh mất niềm tin. Chúa đã chết rồi. Người ta đã đóng đinh Ngài và Ngài đã được chôn trong mồ rồi. Tất cả niềm tin, tất cả hy vọng giờ đây sụp đổ thì việc Chúa thình lình ở giữa các ông không phải là ma thì còn là gì nữa.
Thử thách cuộc đời và đánh mất niềm tin, đó là hai lý do khiến cho các tông đồ và môn đệ nhìn Chúa thành ma. Và đó cũng là những lý do khiến chính chúng ta nhìn Chúa và cũng tưởng là ma. Nhưng nếu Chúa mà nhìn thành ma, thì ngược lại, ma có thể nào nhìn giống Chúa không?!
Có! Nhìn ma thành Chúa đang được phản ảnh qua lối suy nghĩ, lối nhìn, và lối sống của con người thời đại. Suy nghĩ, sống và hành động theo triết lý “tương đối”, một triết lý mà Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đang bỏ bao công sức để giải thích và để giúp cho con người thoát khỏi vòng ảnh hưởng của nó. Bởi vì, với lối cảm nhận và tầm nhìn này, sự lành, sự thiện, nhân đức cũng đồng nghĩa với sự dữ, xấu xa và tội lỗi. Hoặc ngược lại, sự dữ, xấu xa và tội lỗi cũng nhìn giống như sự lành, sự thiện, và nhân đức.
Chúng ta thử nhìn vào thế giới hôm nay: Ly thân, ly dị, đồng tính, hôn nhân đồng tính, phá thai đang trở thành đồng nghĩa với hạnh phúc hôn nhân, hạnh phúc ái tình, và hạnh phúc của tự do chọn lựa. Cũng thế gian dâm, trộm cướp, giết người, khủng bố, chiến tranh, bạo loạn cũng đồng nghĩa với thành công, quyền lực, và chiến thắng. Đó là lối suy nghĩ, lối nhìn, và lối sống “cứu cánh biện minh cho hành động” của nhân loại ngày nay. Và bởi vì thế, mà thiện và ác, chính và tà, đạo đức và vô đạo đang nở rộ trên cánh đồng nhân loại, và trên biển trần đầy sóng gió. Những điều này đang làm cho cặp mắt tâm linh của nhiều người trở nên bệnh hoạn, mù lòa và không thể phân biệt Chúa và ma.
Vậy để sửa lại tầm nhìn, và để cặp mắt tâm linh chúng ta nhìn và phân biệt được đâu là Chúa và đâu là ma thì tôi phải làm gì?
- Trong mọi khốn khó cuộc đời. Trong mọi lo toan cuộc sống, như Phêrô lúc sắp chìm xuống lòng biển, tôi cũng phải giơ tay ra, nhìn lên Chúa và kêu lớn: “Lạy Thầy xin cứu con” (Mt 14:30). Chỉ trong cách sống ấy, tôi mới nhận ra Chúa mặc dù Ngài có đi trên biển mà đến với tôi. Tức là mặc dù Ngài có đến với tôi dưới bất cứ hình thức nào, thì tôi cũng nhận ra Ngài. Ngược lại, nếu nhìn vào mình, và nếu nhìn xuống dưới chân mình, tức là tìm mình và dùng khả năng của chính mình để bước đi trên biển đời, lúc ấy dù Chúa có đứng ngay trước mắt, tôi cũng không nhìn ra Ngài.
- Trong mọi thử thách cuộc đời. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng không được để mất niềm tin. Chúa đã nói với các môn đệ khi các ông hốt hoảng tưởng Ngài là ma như sau: “Tại sao các con nghĩ như vậy? Hãy nhìn xem tay chân Thầy. Chính Thầy đây. Hãy sờ xem, ma làm gì có xương thịt” (Lc 24:39).
“Ma làm gì có xương thịt”. Chúa Giêsu đã cho tôi một ý niệm rõ ràng để vững tin vào Ngài. Nói ma quỉ không có xương thịt, hay nói rằng những gì ma quỉ làm nên không đem lại cho tôi sự bằng an tâm hồn, và không đem lại cho tôi sự sống đời đời. Ngoài ra, Ngài còn thách đố tôi là hãy chạm vào Ngài để thử nghiệm tức là hãy đem Lời Ngài và hãy để chính Ngài đi vào cuộc đời của tôi để nghiệm xem Ngài là ai và Ngài như thế nào.
Nhìn Chúa thành ma, hay nhìn ma thành Chúa. Đó là một cuộc chiến nội tâm không ngừng nghỉ trong sinh hoạt nội tâm của mỗi Kitô hữu chúng ta, đặc biệt, giữa thế giới hôm nay khi mà tầm nhìn và sự lựa chọn của chúng ta càng ngày càng trở nên khó khăn hơn giữa thiện và ác, giữa lành và dữ, giữa thiên đàng và hỏa ngục, và giữa Chúa và Satan.
- Ma! “Lạy Thầy xin cứu con” (Mt 14:30).
- “Tại sao các con nghĩ như vậy? Hãy nhìn xem tay chân Thầy. Chính Thầy đây. Hãy sờ xem, ma làm gì có xương thịt” (Lc 24:39).
------------------------------
(CN 19TN – Mt 14, 22-33)
Theo cảm nghiệm của tôi, khi làm phép lạ hóa bánh và cá hóa nhiều, Chúa Giêsu ao ước mọi: TN 19-A56
Theo cảm nghiệm của tôi, khi làm phép lạ hóa bánh và cá hóa nhiều, Chúa Giêsu ao ước mọi người nhận ra thánh ý của Chúa Cha “là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 40).
Thế nhưng, “dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình.” (Ga 6, 14-15) Vì thế, “Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi giải tán đám đông, Người đi lên núi mà cầu nguyện. Chiều đến Người vẫn ở đó một mình.” (Mt 14, 22-23)
Quả là, theo tâm lý thường tình của con người, Đưc Giêsu cảm thấy lo âu, buồn phiền và thổn thức, bởi như thánh Phaolô xác tín: “Chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với người Israen” (Rm 9,5). Và để tìm nguồn sức mạnh bình an vượt lên nỗi trăn trở, khắc khoải như có lần Người tâm sự: “Thầy đã ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 49-50), Đức Giêsu phải ra sức cầu nguyện và liên lỉ kết hợp gặp gỡ Thiên Chúa Cha.
Một khi đã tìm được sự ủi an nâng đỡ nơi Chúa Cha qua cầu nguyện, khi phải đương đầu với thử thách gian nan trong sứ vụ, Đức Giêsu rất dễ dàng đồng cảm với những nỗi khốn khổ của người khác, nhất là các môn đệ yêu dấu của Ngừơi vẫn còn yếu lòng tin. Chính vì thế mà khi “thuyền của các ông đã xa bờ nhiều dặm, bị sóng đánh vì ngược dòng, Người liền đi lên mặt nước mà đến với các ông,” bất chấp thời tiết khắc nghiệt, bất chấp thời gian đã tối đen kể cả vào canh tư.
Với lòng yêu thương và tha thứ, Đức Giêsu đã cảm thông được nỗi sợ hãi của các môn đệ đã không nhận ra Người vì trời tối và vì sóng gió bão bùng, nên Người đã âu yếm vỗ về: “Cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27) Ngay khi nhận ra tiếng nói thân quen của Thầy trong cơn nguy nan khốn khó, thánh Phêrô vẫn chưa hòan toàn tin vào tai và mắt mình. Nên, với lòng ao ước được ở gần bên Chúa, ngài đã xin được đến với Người. Và rồi Chúa vẫn không từ chối đáp ứng điều mong mỏi chân thành của ngài.
Như vậy từ lắng nghe được tiếng Chúa cho đến khi được ở gần kề bên Người cũng không phải là cuộc hành trình êm thấm và trôi chảy. Trong cuốn “Thiên Chúa và Trần Thế”, khi ký giả Peter Seewald đặt ra câu hỏi:
- Điều này có thể tôi lầm, là tín hữu Kitô có thái độ quá sùng tín đối với Thiên Chúa. An-tịnh nói: “Chúa ơi, con không đôi co với Chúa, vì Ngài là sự thật... Con không bắt đền Chúa... Nhưng, là bụi tro, con để cho lòng nhân từ Chúa nói.”
Hồng y Ratzinger tức Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã trả lời:
- Thánh An-tịnh là người luôn đau khổ và không ngừng chiến đấu, ngài rất cảm kích về lòng nhân của Chúa. Lúc đầu ngài nghĩ, một khi trở lại đạo, mình sẽ phơi phới đi lên. Nhưng về sau, ngài nhận ra con đường đi lên đó quá vô cùng gian lao, và trên đường đó có nhiều bóng đêm thung lũng. Ngài bảo, ngay cả thánh Phaolô cuối cùng cũng không tránh khỏi bị cám dỗ. Nói thế, hẳn An-tịnh muốn phóng rọi chính mình vào thánh nhân. Nhưng chính vì bị dằn vặt, nên An-tịnh mới nhận ra lượng từ ái lớn lao của Chúa, và có thể nói với Ngài như một Đấng Nhân Từ, mới dám chờ đợi sự che chở nơi Ngài, mới thấy bộ mặt hiền từ của Ngài, và không phải đôi co với Ngài.
Trong ý nghĩa đó, tôi tin rằng, bóng dáng Chúa Kitô quả thật làm giảm đi ít nhiều nỗi đắng cay của cuộc sống đôi co của ta. Lòng nhân của Đấng Tạo Dựng, mà Gióp trước đây chỉ thấy lờ mờ, giờ đây – qua Đức Kitô – đã hiện hình rõ nét. ( Trích “Thiên Chúa và Trần Thế” của Hồng Y Joseph Ratzinger do Phạm Hồng Lam dịch)
Suy tới đây, tôi rất đỗi vui mừng, khi nhìn ra chính cuộc đời Chúa Giêsu cũng đã phải kinh qua nhiều những khó khăn và lo âu, cũng như nhiều những tâm tình thổn thức sâu đậm. Nhưng mỗi khi gặp những vấn nạn đời thường đó, sức mạnh làm cho Người đứng vững và vượt lên phía trước chính là đời sống cầu nguyện thâm sâu của Người. Chỉ có qua cầu nguyện liên lỉ như thế, Đức Giêsu mới có thêm bình an để tiếp tục hoàn thành sứ vụ của mình. Chỉ khi có mới cho đi được, nên Người đã dễ dàng đồng cảm với những nỗi thống khổ của con người.
Thánh Phaolô đã kinh nghiệm được điều vô cùng thiết yếu quan trọng này. Nên ngài đã dâng lên lời cảm tạ:
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giầu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi.” (2Cr 1, 3-5)
Lạy Cha giầu lòng từ bi lân ái,
Chung quanh chúng con còn nhiều những mảnh đời đang sống trong lo âu và đói khổ, nhưng chúng con chưa đủ sức mạnh bình an của Cha để nâng đỡ ủi an họ.
Xin Cha hướng lòng chúng con luôn biết ngắm nhìn lên chân dung Con Yêu Dấu của Cha, vừa là người thật với tâm hồn đồng cảm đầy yêu thương và cũng vừa là “Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”
Chúa Nhật 19TN, 10/08/2008
Phêrô Vũ văn Quí CVK64
Email: peterquivu@gmail.com
------------------------------
Những tháng ngày nầy, nếu có cái gì chung nhất cho mọi người, mọi giới, mọi ngành nghề, ở: TN 19-A57
Những tháng ngày nầy, nếu có cái gì chung nhất cho mọi người, mọi giới, mọi ngành nghề, ở đất nước nghèo đói nầy, thì đó là tiếng “kêu trời”: Điện cúp, doanh nghiệp kêu trời; hết rét đậm rét hại lại đến nắng cháy khô hạn, nông dân kêu trời; nông dân kêu trời vì giá phân bón chẳng những cao ngất ngưỡng khiến giá thành vượt cả giá bán, mà còn vì phân bị làm giả; tiểu thương kêu trời vì tăng thu từ giá mặt bằng cho tới thuế và vô vàn khoản thu khác cả hợp lý lẫn bất hợp lý; học phí tăng khiến phụ huynh kêu trời. Hết dịch bệnh lại giá thực phẩm tăng cao và lỗ lã vì bị hết tư thương đến doanh nghiệp tư doanh, quốc doanh ép giá, người chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả cá chỉ còn biết kêu trời. Các bà nội trợ kêu trời, vì giá lương thực thực phẩm thay đổi từng ngày. Doanh nhân bất động sản kêu trời vì nhà cửa đóng băng ế ẩm. Nhà nghèo khóc than đất, nhà giàu cũng khóc kêu trời. Bạo lực và những trò dâm ô sa đoạ, băng đảng hoành hành đầy dẫy mặt báo hằng ngày hơn ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới, khiến những ai còn tâm huyết với tiến đồ đất nước, buộc phải kêu trời, bất lực kêu trời. Kêu trời hình như là hành vi hợp lý nhất trong sự bất lực, để mong nhen nhúm một tia hy vọng, dù là nhỏ. Kêu trời trở thành phản ứng dây chuyền. Nơi đâu, giờ nào cũng râm ran tiếng kêu trời. Nghệ sĩ hài Bảo Quốc đã phải dựng và diễn vở hài kịch “Cấm kêu trời”. Và tiếng thở dài khó ai đoán đuợc là thất vọng hoặc cam chịu: “kêu trời không thấu!”
Chỉ có những người đang quên mình vì người khác, đang chịu nhiều khổ đau dày vò, đang chịu tứ bế thiếu thốn và khinh thị, là không kêu trời. Lý do duy nhất, là vì họ chẳng còn thời giờ để mà kêu. Tâm sức và tình thương để dành cho những kẻ bất hạnh mà họ hết lòng yêu thương, khiến họ quên cả bản thân: một người chồng ở Thanh Hoá hơn 30 năm qua vẫn một lòng một dạ với ngươi vợ bị thấp khớp biến dạng co quắp một chỗ. Anh phải lo từ chuyện vệ sinh đánh răng cho tới bón từng thìa cơm muỗng cháo. Hai câu nói “ngô nghê” nhất của anh: “Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu mần răng bà ấy lại chọn mình, vì có rất nhiều người hơn mình kia mà!” và khi người vợ thấy chồng quá khổ sở vì mình, đã khuyên anh tìm người khác làm lại: ”Anh có làm chi sai mô, mà phải làm lại?” (Báo Lao Động 03.2004).
Một người vợ ở Quảng-Nam, tuổi đời mới 32, mà đã hơn mười năm chịu mọi vất vả, đắng cay, quyết tâm chăm sóc người chồng bị xuất huyết não liên tiếp nhiều lần, mà chính các bác sĩ chuyên môn cũng lắc đâu hết hy vọng. Người vợ trẻ nầy cũng có hai câu thật “ngô nghê”: “Dù chỉ còn một chút hy vọng mong manh, em cũng cố bám lấy. Trông lên mình chẳng bằng ai, trông xuống lại thấy có kẻ không bằng mình. Dù là ảnh có nằm đây, thì em vẫn có chồng, nhất là con em vẫn đang có cha!...Trong hoạn nạn mới biết vẫn còn nhiều người tốt. Vợ chồng em không oán hận gì cuộc đời, mà chỉ thấy mình chịu ơn của mọi người quá nhiều”, và:”Em không đủ sức làm được điều gì to tát, nhưng chắc chắn em sẽ tiếp tục làm tròn cái điều mà em đã làm hơn mười năm qua, là không bỏ rơi chồng con trong hoạn nạn, để tìm cho mình hạnh phúc khác!” (biên tập lại VietnamNet 17.06.2003).
30 tuổi, người thanh niên Nguyễn Ngọc Sơn phát hiện bị suy thận độ 4, nhưng khát vọng sống và khát vọng cống hiến luôn mãnh liệt. Cứ hai ngày anh phải tự đi gần một trăm cây số tới bệnh viện để lọc máu cho mình. Anh bảo rằng anh nợ cuộc đời này quá nhiều, và dù ngày mai phải ra đi thì hôm nay anh vẫn phải cống hiến. Anh chỉ thương mẹ sẽ cô đơn khi anh ra đi: “Mẹ ơi! Không phải khi sắp lìa xa mẹ con mới nói rằng con rất yêu mẹ, mẹ ơi! Không phải giờ đây khi nhìn tấm thân gầy của mẹ run lên bần bật con mới hiểu đời mẹ khổ đau đã nhiều vì con, mẹ ơi! Con yêu mẹ lắm, mẹ có biết không? … Xin đừng khóc nữa mẹ ơi! Ngày mai con sẽ về nơi ông bà…. Con đi, mẹ nhé, đừng chờ!”... Không bao giờ đọc thấy trong tập ký “Xin đừng khóc nữa, mẹ ơi” một tiếng “kêu trời”.
Lạy Chúa Giêsu, không có ai trong những người nầy hoặc trong câu chuyện những bà mẹ trẻ có con trai, con gái bị chứng bệnh “xương thủy tinh” quái ác, chỉ cần đụng nhẹ là gãy, tận cùng vực thẳm khổ đau, âu lo, mà kêu trời, mà oán than số phận. Chỉ có hy sinh vô bờ bến vì con cái! Điều con ghi nhận là tất cả họ đều không có Đạo, kể cả người mẹ trẻ của em Hội thỉnh thoảng thắp nến cầu xin với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa. Con muốn tìm một câu trả lời, không phải từ các linh mục hoặc tu sĩ, không phải từ các Kitô-hữu, mà ở những lời tâm sự chân thành của một ai đó. Và rất mau, rất dễ tìm, con đọc thấy một Blogger đặt câu hỏi và tự trả lời: Trên đời không có ông Trời?
Một ngày bầu trời xám xỉn, tôi nhìn thấy một người bị cụt chân ngồi xe lăn đi bán vé số. Đã gần giờ xổ số mà xấp vé còn khá nhiều. Khuôn mặt con người khốn khổ nhàu đi trong chán nản khi anh ta lăn bánh xe đến trước một nhà thờ nơi các tín đồ đang tấp nập gởi xe đi vào trong dự lễ Thánh. Hầu như chẳng ai đoái hoài gì đến anh ta. Quần áo đẹp và son phấn lộng lẫy, người ta đang bận bịu chuẩn bị vào ca tụng ’ông Trời’ của mình, chuẩn bị dâng tài vật, nghe Cha nói về tình yêu thương rằng “phải yêu anh em như chính mình con vậy”, rồi người ta sẽ sốt sắng cầu nguyện cho bản thân và gia đình để rồi cuối cùng hân hoan ra về sau khi được Cha ban phước lành. Khi đến và đi nhanh như thế, chắc người ta không biết rằng có lẽ ông Trời cũng cảm thấy ngán ngẩm vì phải ngồi yên trong những công trình kiến trúc nhân tạo, nơi mà công việc chính của “ông” đơn giản chỉ là để con người đến nhìn ngắm và cầu xin n + 1 thứ mà chính bản thân họ không cảm thấy tự tin. Một khi bàng quan và “quen mắt” trước những nỗi khổ sở nhan nhản quanh mình, người ta đã vô tình “giam” ông Trời trong sách vở và những công trình nhân tạo. Chẳng có ông Trời nào tồn tại như vậy nổi! Tuy nhiên, chẳng phải là không có ông Trời, và tiêu đề của tôi chỉ là một phần chưa hoàn chỉnh của đại ý… Đầy đủ thì nó phải thế này: Trên đời không có ông Trời nếu người ta không biết yêu thương nhau! (www.60S.com.vn)
Khác với “kêu trời”, con người không thể không kêu cầu. Hai cách thế và cũng là hai gương “kêu cầu” cho mọi Kitô-hữu: sẵn sàng vâng phục Ý Chúa và tin nhận quyền năng của Chúa. Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu, trong cơn hãi hùng đến độ mồ hôi trộn lẫn máu, đã cầu xin Chúa Cha cứu Người khỏi uống chén đắng, nhưng xin hoàn toàn vâng theo bất cứ điều gì mà Chúa Cha đã định. Và lời kêu cầu của Thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay, khi biết giới hạn của mình, và nhận biết quyền năng của Chúa Kitô. Sự vâng phục và lòng cậy tin làm nên vẻ đẹp và giá trị của mọi lời kêu cầu. Không có hai yếu tố - thái độ nầy, thì lời “kêu cầu” lại trở thành tiếng “kêu trời”!
CVK Nguyễn-Thế-Bài
------------------------------
Đoạn Phúc Âm hôm nay, nối tiếp liền sau phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều chúng ta có dịp: TN 19-A58
Đoạn Phúc Âm hôm nay, nối tiếp liền sau phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều chúng ta có dịp suy niệm Chúa Nhật tuần trước. Sau câu văn nhắc lại biến cố phép lạ tuần trước: "Chúa Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng" ( Mt 14, 22 ), đoạn Phúc Âm được chia làm hai phần chính:
- Các môn đệ kinh hoảng thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước ( Mt 14, 23 – 27 ),
- Kinh nghiệm bản thân của chính Thánh Phêrô ( Mt 14, 28 – 31 ).
Đoạn kết thúc nói lên tình trạng sóng yên gió yên lặng bên ngoài và tâm hồn các môn đệ thanh thản, vững tin ở nội tâm ( Mt 14, 32 ): "Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió lặn ngay" ( Mt 14, 32 ), và vai trò của Thánh Phêrô được Thánh Mátthêu đề cập thoáng qua, "Ông Phêrô liền nói: Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, xin truyền cho con đi trên nước mà đến với Thầy" ( Mt 14, 28 ).
"Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa" ( Mt 14, 33 ) tiên báo cho những gì sẽ được Chúa Giêsu long trọng xác nhận ở chương 16 sắp tới.
Mặc dầu thành quả của phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều ( Mt 14, 13 – 21 ) là kết quả ngoạn mục, vượt quá sức tưởng tượng, nhưng không phải đó là lúc dừng lại để vui hưởng vinh quang, khoái chí tự đắc. Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ lập tức ra đi và sau khi giã từ đoàn lũ dân chúng, Người cũng ra đi: “Chúa Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng". Kết quả ngoạn mục của phép lạ được đặt vào trong bối cảnh thinh lặng và cầu nguyện, thông hiệp hoàn toàn với Chúa Cha.
Đó cũng là đặc tính của Chúa Giêsu: Người lui về nơi thanh vắng trong vườn Ghêtsêmani để cầu nguyện, thông hiệp thân tình với Chúa Cha trước khi bắt đầu sứ mạng của Người, phải đương đầu với thử thách khổ nạn thương khó.
Và đó cũng là đặc tính cố định của Chúa Giêsu: mỗi khi lời nói hay tác động của người làm cho dân chúng hân hoan, say sưa, Người liền lánh đi khỏi họ, để tránh cho bất cứ ai lợi dụng cơ hội để toan tính lợi thú, uy quyền chính trị.
Mối lo âu ưu tiên lúc đó của Chúa Giêsu là huấn dụ các môn đệ. Người dùng bao nhiêu thời gian để dạy dỗ, cắt nghĩa riêng cho các ông từng chi tiết các dụ ngôn, để các ông hiểu được Người hơn, sống liên hệ, thông hiệp với Người hơn, biết rõ hơn căn tính của Người, bản tính con người và bản tính Thiên Chúa nơi Người.
Dưới nhãn quan vừa kể, chúng ta đọc và suy niệm đoạn Phúc Âm hôm nay với biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt nước, trong đó Thánh Phêrô được đề cập qua như là nhận vật chính, nổi bật: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, xin truyền cho con đi trên nước mà đến với Thầy".
1. Chúa Giêsu đi trên mặt nước ( Mt 14, 23 – 27 )
Nhiều môn đệ là dân chài lưới, quen sống với biển động, sóng gió, bão táp bất ngờ. Nhưng buổi tối hôm đó, biển trở nên biến động khác thường làm cho thuyền các môn đệ ngoài khơi bị nghiêng ngả: "Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến mấy cây số, bị sóng đánh vì gió ngược" ( Mt 14, 24 ).
Các môn đệ, dù cho phần lớn là những người có kinh nghiệm với sóng gió, cũng không khỏi sợ hãi. Tình trạng càng nguy ngập hơn, vì không có Chúa Giêsu ở bên cạnh để trấn an các ông. Người là điểm tựa tinh thần các môn đệ, bởi lẽ các môn đệ đã từng chứng kiến các phép lạ Người làm, nên nếu có Người bên cạnh, các ông yên tâm hơn. Bởi đó, sau phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, cho dân chúng ăn, được lệnh xuống thuyền đi qua bờ bên kia, dù trời đã tối, các ông cũng không ngần ngại.
Giờ đây các môn đệ đang chịu sóng gíó một mình, không có Chúa Giêsu bên cạnh. Điều đó cho thấy trạng thái lo sợ của các ông. Sức người có hạn, không làm gì được trước sức mạnh tàn phá của thiên nhiên đến bất chợt.
Thánh Matthêu không ghi lại cho chúng ta cảnh hãi hùng đó kéo dài bao lâu, nhưng dầu trong khoảng khắc trước cơn doạ nạt của tử thần, chắc chắc chúng ta có cảm tưởng dường như vô tận.
Nhưng rồi bất thần Chúa Giêsu hiện diện giữa biển cả, bước đi trên mặt nước, càng làm cho các ông hốt hoảng hơn, bởi lẽ các ông thấy một bóng người từ xa tiến lại, tưởng là bóng ma: "Vào giữa canh tư, Người đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ. Thấy Người đi trên mặt nước, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đó", và sợ hãi la lên ( Mt 14, 25 – 26 ). Trước cảnh tượng trời tối, biển động, lại thêm "bóng ma" xuất hiện bất ngờ như vậy, nỗi kinh hoàng có thể đến tột điểm, Chúa Giêsu cất tiếng lên trấn an các môn đệ: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” ( Mt 14, 27 ).
2. Kinh nghiệm bản thân của Thánh Phêrô ( Mt 14, 28 – 31 ).
Lược thuật đến đây, Phúc Âm Thánh Mátthêu là Phúc Âm duy nhất ghi lại một sự kiện thú vị của Thánh Phêrô. Thánh Phêrô đứng ra, nổi bật hơn nhóm các môn đệ khác, gan dạ xin Chúa Giêsu cho mình đi trên mặt nước đến với Người: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy" ( Mt 14, 28 ). "Chúa Giêsu bảo ông: Cứ đến !” ( Mt 14, 29 ).
Chúa Giêsu cho phép Phêrô đi trên mặt nước đến bên cạnh Người và liên kết Người với Phêrô, cũng như kế đến ở chương 16, Chúa Giêsu liên kết Phêrô với Người vì những lý do quan trọng hơn. Nhưng phương thức làm cho Phêrô đi được trên mặt nước không kéo dài được bao lâu, bởi cảnh sóng to gió lớn vẫn tiếp tục và nhất là vì Phêrô không đủ tin tưởng vào Người, làm cho Phêrô phải kêu lên: "Lạy Chúa, xin cứu con với !" ( Mt 14, 30 ). ( “Seigneur, sauve-moi !", La Sainte Bible, L'École biblique di Jérusalem, Cerf, Paris 1961, 1309 ).
Nếu chú ý, chúng ta thấy rằng trong lời kêu cứu vừa kể, Thánh Phêrô không gọi Chúa Giêsu bằng "Thầy" ( Maitre ) nữa, như câu nói ở trên ( Mt 14, 28 ), mà cũng không gọi Chúa Giêsu là "Ngài" ( Monsieur ), như trong bản dịch Việt Ngữ ( "Thưa Ngài, xin cứu con với", Thánh Kinh Trọn Bộ, NXBTPHCM 1998, 1875 ), mà lại gọi Người bằng "Lạy Chúa" ( "Seigneur", La Sainte Bible, id. ).
Lời kêu cứu được Thánh Matthêu ghi lại, vừa nhìn nhận quyền năng của Đấng có thể cứu mình, vừa tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu là "Chúa". Và cử chỉ của Chúa Giêsu là cử chỉ vừa tế nhị, vừa vững chắc cho thấy quyền năng của Người, cho thấy Người là điểm tựa chắc chắn mà Phêrô có thể ủy thác mọi tin cậy: "Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy ! Sao hoài nghi ?" ( Mt 14, 31 ). Chúa Giêsu xác nhận Phêrô có Đức Tin, nhưng là Đức Tin còn yếu kém, chưa đủ "Người đâu mà kém tin vậy ! Sao hoài nghi ?” Đức Tin của Phêrô còn thiếu sót, yếu kém để có thể một đương đầu với những cơn sóng gió trong cuộc sống, đơn độc và không có sự giúp đỡ của Người.
3. Tuyên xưng Đức Tin của các môn đệ ( Mt 14, 32 )
Chỉ đến lúc khi Chúa Giêsu bước lên thuyền, sóng gió mới lặng yên và nội tâm các môn đệ cũng hết dao động, tất cả đều cất tiếng lên như một ban nhạc hoà tấu, cùng cất lên bản hoà tấu khúc ( symphonie ) cuối cùng của Mozart: "Quả thật, Thầy là Con Thiên Chúa" ( Mt 14, 33 ).
Biến cố chúng ta vừa đọc qua, biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt nước và các môn đệ bị thử thách, là hình ảnh của cuộc sống và cũng là bài học Giáo Lý. Hình ảnh của cuộc sống thường nhật, bởi lẽ khi nào chúng ta cảm thấy Chúa Giêsu không hiện diện bên cạnh mình nữa, ấy là lúc chúng ta rơi vào những cơn lốc sóng gió làm cho chúng ta mất định hướng và cảm thấy cô đơn. Có Chúa Giêsu, được Chúa Giêsu nắm tay, như lúc Người đưa tay nắm lấy Phêrô dưới nước, mọi cơn sóng gió đều im lặng và mọi tình trạng đen tối trở nên sáng sủa.
Đó cũng là hình ảnh của các bài học Giáo Lý, bởi vì biến cố dạy cho chúng ta biết Đức Tin là cuộc hành trình dài dẳng không bao giờ kết thúc, là một cuộc hội nhập khắng khít can đảm và hoàn toàn dấn thân theo con người Chúa Giêsu, nói như nhà triết học và thần học Đan Mạch Kierkegaard: "Trở thành môn đệ hệ tại ở việc hoàn toàn dấn thân trong cuộc đọ sức thảm đạm nhưng đầy sức sống giữa cuộc sống hiện tại và dấn thân khắng khít với Chúa Giêsu, thay vì vẫn giữ vị thế của người ngưỡng mộ nhưng sợ hy sinh".
Đức Tin là một chủ đề làm cho ai nấy cũng nức lòng, nhưng phức tạp. Và vì phức tạp, nên có cái nguy là vẫn còn nằm trên phương diện suy tư thuyết lý và biểu tượng, hơn là được dấn thân đem ra thực hành, nếu không có một biến cố nào đó làm cho Đức Tin trở nên hiện thực nhập thể thành lời nói, động tác, cử chỉ và tình cảm. Biến cố được đoạn Phúc Âm hôm nay thuật lại là một bằng chứng thiết thực.
Chủ đề của đoạn Phúc Âm hôm nay đề cập đến Đức Tin, được minh chứng bằng câu nói của Chúa Giêsu: “Người đâu mà kém tin vậy !" ( Mt 14, 31 ). Chắc chắn không phải là câu nói khen thưởng đối với Phêrô, con người đã theo Chúa Giêsu, thương mến Người, bỏ hết mọi sự, bỏ thuyền, bỏ chài lưới, nghề nghiệp để theo Người.
Phêrô đã dấn bước vào con đường mạo hiểm, không cần biết những gì sẽ đến với ngày mai, bỏ cuộc sống được bảo đảm trong hiện tại. Điều đó cho thấy Phêrô là con người có Đức Tin, bởi lẽ ngài tin vào Chúa Giêsu và đi theo Người. Tuy nhiên Đức Tin của Phêrô chưa được trưởng thành, vẫn còn ở trạng thái khởi thủy, gần như trạng thái tế bào mới thành hình. Phêrô không được dừng lại ở lằn mức vừa kể khi đi theo Chúa Giêsu, ngài còn phải tin tưởng và phó thác vào Người, xác tín rằng: với Người, không gì thiệt hại có thể xảy ra, Người không bao giờ để cho Phêrô phải chết chìm.
Lời cầu xin "Lạy Chúa, xin cứu con với" ( Mt 14, 30 ) đáng lý ra phải là một lời cầu nguyện tuyệt đẹp, nếu không phải là lời cầu được thốt ra trong cơn hoảng hốt, vì sợ chết chìm. Nói đúng hơn là lời cầu cứu được thốt ra trong lúc ngờ vực. Dĩ nhiên là con người, ai trong chúng ta cũng có phản ứng tự nhiên của bản năng tồn tại và bảo toàn thân thể, nhứt là đứng trước những mối đe doạ trầm trọng.
Tuy vậy người tín hữu Chúa Kitô cần nhớ rằng có Chúa hiện diện, cơn sợ hãi của con người mình có thể được định chuẩn lại và cũng có thể đứng dậy, thẳng người lên, trực diện với mối nguy hiểm. Người tín hữu đích thực là người chắc chắn có Chúa lo lắng cho mình, ngay cả trong những hoàn cảnh hoàn toàn vô vọng đối với khả năng con người: "Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi" ( Mt 10, 30 ).
Nhà thần học J. Daniélou cũng nói lên ý tưởng tương tợ: "Đối tượng của Đức Tin, không phải là tin có một Thiên Chúa xa vời không vói tới được, chỉ được biết đến qua các biểu tượng và lời tường thuật huyền bí. Đức Tin là tin vào động tác của Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa là Đấng can thiệp vào cuộc sống con người và tỏ mình ra trong lịch sử con người bằng các công trình mà chỉ có Người mới có quyền năng thực hiện được".
Biến cố của Giôna trong Thánh Kinh cũng có thể là một sự kiện hữu ích để nhắc nhở chúng ta. Ngôn Sứ Giôna cũng gặp khó khăn để thực hiện chương trình được Chúa giao phó cho. Chúng ta hãy chấp nhận và ý thức rằng Đức Tin cũng gồm cả những gì "nguy hiểm" và "công khó lao lực".
Một nhà thần học khác, B. Besset, cũng nêu lên những khía cạnh vừa kể của Đức Tin: "Một cuộc sống Đức Tin không phải là một cuộc sống luôn luôn quân bình êm ả. Một cuộc sống Đức Tin là một cuộc sống luôn luôn mất thăng bằng, nhưng vẫn ở trong tay trong Chúa".
Chúa Giêsu đi trên mặt nước, khuyến khích tất cả và nhất là Phêrô cũng bước khỏi thuyền đi trên nước như Người, qua cử chỉ thinh lặng và như không có gì để ý đến ai, Người mời gọi tất cả hãy khám phá ra sự hiện diện của Đấng yêu thương và có quyền năng làm được mọi sự, luôn ở bên cạnh mỗi người. Lòng tin ít ỏi của Phêrô hệ tại ở chỗ việc Phêrô, mặc dầu chỉ trong giây phút thôi, nghĩ rằng Chúa Giêsu bỏ mặc mình cho số phận của mình. Phêrô nghi ngờ không biết Chúa Giêsu sẽ can thiệp hay không, nghi ngờ con người của Chúa Giêsu, nghi ngờ tình thương của Người đối với mình.
Giá như Phêrô, thay vì với tâm hồn bối rối nhìn sóng gió đang nổi trận cuồng phong đe doạ dưới chân, lại đủ vững tin để nhìn thẳng và nghĩ đến Đấng đang bước đi yên tĩnh trên mặt biển. Thái độ của Phêrô ở đây là là thái độ hành xử theo bản năng con người, không phải theo tinh thần Phúc Âm. Bởi đó ngài bị Chúa Giêsu cho là "Người đâu mà kém tin vậy !" ( Mt 14, 31 ). Lời trách cứ của Chúa Giêsu là lời trách móc dịu dàng, một lời cảnh tỉnh cho biết rằng Phêrô còn phải "bước đi thêm" nhiều bước đường nữa để theo Thầy.
Bước đường theo Chúa đã bắt đầu, nhưng sẽ không bao giờ kết thúc, đó là ý nghĩa tư tưởng của giáo sư B. Maggioni, giáo sư thần học tín lý Đại Học Gregoriana ở Roma: "Có ít Đức Tin đối với những ai không có can đảm bỏ hết mọi sự để trở thành môn đệ. Nhưng cũng có ít Đức Tin đối với ai – sau khi đã liều bỏ tất cả vì Chúa Kitô – không cảm thấy mình vững chắc và yên ổn, khi Chúa Kitô giữ thinh lặng" ( B. Maggioni ).
Trong biến cố phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước hôm nay, sự hiện diện của chiếc thuyền cũng là ý nghĩa để chúng ta suy niệm đoạn Phúc Âm dưới ý niệm về Giáo Hội ( Ecclesiologica ). Con thuyền biểu tượng cho Cộng Đồng Giáo Hội, Cộng Đồng Đức Tin. Cùng nhau đi trên thuyền, không thể có nhiều cách lựa chọn khác nhau: hoặc là con thuyền đi đúng hướng, lướt qua các trở ngại, cập bến hoặc bị sóng gió đánh chìm.
Từ thế kỷ thứ hai trở đi, các tín hữu tiên khởi lúc đó đã có thói quen lấy con thuyền làm biểu tượng cho Giáo Hội. Giáo Hội là con thuyền đang lướt đi trong dòng thời gian, giữa các cơn sóng gió của cuộc sống, được Chúa trợ giúp cho cập bến an toàn. Trong một bức thư Thánh Giáo Phụ Ambrosio, Giám Mục vùng Lombardia ( bắc Ý ) viết: "Giữa bao nhiêu dòng nước chuyển đổi trên thế giới, Giáo Hội vẫn vững chắc bất di dịch, bởi vì Giáo Hội được xây dựng trên Tảng Đá Tông Đồ, Giáo Hội vẫn đâm rễ vững chắc vào nền tảng không thể bị đổ ngã, chống lại các cơn bão táp cuồng phong của biển cả trong cơn lốc. Con thuyền Giáo Hội bị các làn sóng xô đẩy dập vùi, nhưng không hề lay chuyển, và dẫu cho các yếu tố trần gian này có tan vỡ từng mảnh, hung bạo, mãnh liệt lăn xả tấn công vào Giáo Hội, Giáo Hội vẫn là một bến đậu vững chắc nhất cho ơn cứu rỗi, đón nhận những ai đã lao lực vất vả".
Lời trách móc của Chúa Giêsu đối với Phêrô "Người đâu mà kém tin như vậy” ( Mt 14, 31 ) vẫn còn vang lên qua các thế hệ, như là lời cảnh tỉnh cho mọi thành phần Giáo Hội. Mọi tín hữu Chúa Kitô ở mọi thời đại đều có thể nhận thức được rằng hoàn cảnh lữ hành của mình trong Đức Tin, nhiều khi bị trở lực, đe doạ, có thể lướt thắng được cơn cám dỗ "kém tin" bằng phó thác, hoàn toàn tin cậy vào Chúa Giêsu luôn hiện diện bên chúng ta. Có Chúa Giêsu, con người của Người là bảo chứng chắc chắn cho Ơn Cứu Rỗi.
Đó là những gì biến cố xảy ra trên biển hồ Tibêriát của đoạn Phúc Âm hôm nay dạy chúng ta và Thánh Phêrô bằng nhân chứng trực tiếp của cá nhân ngài có thể xác nhận với mỗi người tín hữu Chúa Kitô.
NGUYỄN HỌC TẬP
-------------------------------
Khi nói đến sóng, người ta nghĩ ngay tới biển. Sóng có lúc rất hiền hòa, rất thơ mộng khi sóng “mơn: TN 19-A59
Khi nói đến sóng, người ta nghĩ ngay tới biển. Sóng có lúc rất hiền hòa, rất thơ mộng khi sóng “mơn man vỗ mạn thuyền”, do đó mà người ta áp dụng nghĩa này cho vấn đề trừu tượng và gọi là “lãng mạn”. Sóng cồn dù dữ dội nhưng là sóng nổi, không đáng sợ bằng sóng ngầm, không thể nhìn thấy. Sóng còn khủng khiếp hơn nếu đó là sóng bạc đầu hoặc sóng thần, điển hình là sóng thần tại Nhật Bản ngày 11-3-2011 đã cuốn mất khoảng 16.000 người và quét sạch mọi thứ vào lòng biển khơi.
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu” ( * ), cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu ?... Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã giữa tim người... Biển sóng biển sóng đừng âm u đừng nuôi trong ấy trái tim thù”. Ca từ của ông đầy triết lý sống. Biển vừa hiền vừa dữ. Biển sâu thẳm và bao la yêu thương, lòng biển không bao giờ lặng, luôn động, dù có lúc nhìn biển rất tĩnh. Biển như đời người vậy !
Sóng còn gọi là ba đào ( dậy sóng – ba: sóng; đào: nổi dậy ). Có loại sóng dữ dội và dai dẳng hơn các loại sóng, đó là sóng đời. Chúng ta đang miệt mài hành trình lữ hành trần gian, lênh đênh trên biển đời, luôn gặp những loại sóng đời – đủ dạng và đủ cỡ. Không vững tay chèo là thuyền đời chìm ngay. Vì thế, lúc nào chúng ta cũng phải phát tín hiệu báo khẩn: SOS, lạy Thiên Chúa ! ( SOS là viết tắt của Save Our Soul – Xin cứu linh hồn chúng con ).
Thiên Chúa hiện diện mọi nơi và thể hiện trong mọi sự, kể cả những thứ chúng ta cho là không tốt, nhưng Thiên Chúa không làm điều không tốt. Chính đau khổ và những thứ không tốt xảy ra cho chúng ta, không phải Ngài không biết, nhưng Ngài cho phép nó xảy ra theo tự nhiên để dạy chúng ta bài học giá trị. Có thể đó là hậu quả do sai lầm của chúng ta hoặc của người khác, nhưng cũng có thể đó là để làm vinh danh Chúa – như trường hợp người mù bẩm sinh ( Ga 9, 1 – 3 ). Tội lỗi cũng có tính liên đới.
Khi ông Êlia vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Đức Chúa hỏi ông: “Êlia, ngươi làm gì ở đây ?” ( 1V 19, 9 ). Rồi Ngài nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua”.
Gió to, bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông nhận biết Đức Chúa đang ở trong làn gió nhẹ đó. Quả thật, lúc đó có tiếng hỏi ông như trước: “Êlia, ngươi làm gì ở đây ?” ( 1V 19, 13 ). Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ítraen đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con” ( 1V 19, 14 ).
Không dễ để lắng nghe tiếng Chúa hoặc nhận biết ý Chúa, ví thế mà chúng ta phải không ngừng cố gắng lắng nghe để nhận biết ý Ngài, rồi tiếp tục cố gắng chấp nhận và thực hiện, người có lòng nhiệt thành đối với Chúa thì sẽ để ý Chúa nên trọn chứ không mong ý mình nên trọn. Về lĩnh vực này, chúng ta lại thường có xu hướng trái ngược, vì chúng ta luôn thích “xin được như ý”.
Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” ( Tv 85, 9 – 10 ).
Ở đâu có Chúa thì mọi sự đều tốt đẹp: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” ( Tv 85, 11 – 14 ). Điều này cũng có nghĩa là, nếu ở đâu vắng Chúa thì mọi sự sẽ hoang vu và nguy hiểm.
Phải mau đón Chúa vào lòng, càng sớm càng tốt, trước khi công lý được áp dụng, trước khi hết thời gian thương xót. Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về như người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về ( Lc 15, 11 – 32 ). Ai khôn ngoan thì biết tỉnh thức đợi chờ Ngài như mười trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể ( Mt 25, 1 – 13 ), vì “thời gian không chờ đợi ai – time waits for no man”. Lý do ? Bởi vì “Chúa đã gần đến” ( Pl 4, 5 ), “ngày Chúa quang lâm đã gần tới” ( Gc 5, 8 ), và “thời giờ đã gần đến” ( Kh 1, 3; Kh 22, 10 ). Đó là không ngừng rèn luyện Đức Tin, để khi gặp thử thách sẽ không bị chao đảo, không như hạt giống rơi vào đất sỏi đá hoặc bụi gai.
Tỉnh thức chờ Chúa như vậy thì không ai có thể ngồi yên, luôn như biển động, luôn nổi sóng, khi sóng nhỏ, lúc sóng to. Thánh Phaolô cũng đã luôn đứng ngồi không yên. Ông thề có Đức Kitô chứng giám, rồi nói sự thật chứ không nói dối, nhờ Thánh Thần hướng dẫn: “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” ( Rm 9, 2 ). Sao vậy ? Thánh Phaolô giải thích: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, tôi cũng cam lòng. Họ là người Ítraen, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” ( Rm 9, 3 – 5 ). Có Chúa thì hạnh phúc và vinh dự như thế đấy !
Nhưng nói rồi quên, hứa rồi thôi. Phàm nhân khốn nạn lắm thôi. Không chỉ nghe người khác nói mà chứng kiến tận mắt, thế mà chúng ta vẫn chưa dám tin thật. Ôi thôi, con người ơi !
Vào một buổi chiều nọ, có lẽ trời quang mây tạnh, đẹp lắm, thú vị lắm. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Ngài giải tán dân chúng, vì chắc chắn dân chúng lưu luyến Ngài, khoái Ngài lắm, không thể về được, dù trời đã gần tối. Mãi mới giải tán được. Khi giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Ngài vẫn ở đó một mình. Chúa Giêsu luôn thích sống tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa Cha qua lời cầu nguyện. Ngài luôn căn dặn mọi người phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ ( Lc 22, 40 – 46 ), cầu nguyện còn là sức sống và là sức mạnh của linh hồn. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động.
Khi Chúa Giêsu ở một mình và cầu nguyện, chiếc thuyền chở các môn đệ đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư – tức là quá nửa đêm về sáng, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy !”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” ( Mt 14, 27 ). Nghe vậy, ông Phêrô bán tín bán nghi nên liền thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” ( Mt 14, 28 ). Đức Giêsu ôn tồn bảo ông: “Cứ đến !”. Ông Phêrô hí hửng bước ngay xuống khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Vô tư. Rất ngon lành. Thế nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ, hồn xiêu phách lạc, chín vía lên mây ráo trọi, và khi bắt đầu chìm, ông la toáng lên: “Sư Phụ ơi, xin cứu đệ tử với !” ( Mt 14, 30 ).
Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có hơn gì Phêrô nhà ta đâu. Biển đời chỉ mới gợn sóng lăn tăn thôi, vậy mà thuyền đời của chúng ta đã tròng trành tưởng chừng chìm đến nơi. Lòng tin tích góp bao năm, giờ bỗng “bốc hơi” muốn cạn kiệt; cây Đức Tin vun tưới bao năm, giờ bỗng héo úa mau chóng. Lạy Chúa tôi ! Đức Tin chỉ “sống” khi dòng đời êm ả, khi tiệc tùng linh đình, khi ung dung rung đùi, khi được người ta tâng bốc lên tận mây xanh... Còn khi gặp phải gió xoáy hoặc gió lốc, con-thuyền-Đức-Tin quay tít như chong chóng, chẳng còn biết đâu là phương hướng !
Thấy đệ tử Phêrô ngoi ngóp trong dòng nước, có thể bụng nhiều nước rồi, Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?” ( Mt 14, 31 ). Lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Đó cũng là lời trách mà Thầy Giêsu đang nói với mỗi chúng ta hôm nay, ngay bây giờ.
Khi thầy trò đã lên thuyền thì gió yên, biển lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và nói: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa !” ( Mt 14, 33 ). Đó là bài học Đức Tin vô giá mà Chúa Giêsu dạy chúng ta ngay trong những lúc chúng ta gặp cơn sóng gió của cuộc đời. Ước gì chúng ta khả dĩ nhận biết mình yếu kém về Đức Tin, nhờ đó mà có thể cố gắng chăm sóc cây Đức Tin ngày càng lớn mạnh.
Cuộc đời không như thảm lụa hoặc như chiếu trải hoa hồng. Thiên nhiên còn lúc nắng, lúc mưa, lúc hạn hán, lúc mưa dầm, thậm chí là áp thấp hoặc bão tố. Cụ Nguyễn Công Trứ đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai ?” Giữa sóng gió cuộc đời, dù nhỏ hay lớn, ước gì chúng ta vẫn luôn khả dĩ xác tín với Đức Giêsu Kitô: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa !” ( Mt 14, 33 ).
Liên quan Đức Tin, Thánh Tiến Sĩ Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu Đức Tin mà ra”. Câu này đáng để chúng ta phải “giật mình” mà cố gắng tự chấn chỉnh và vun xới Đức Tin lắm. Và đừng quên: “S.O.S., Chúa ơi !”
Lạy Thiên Chúa, xin cứu và giúp chúng con biết tín thác vào Ngài trong mọi hoàn cảnh như Tổ Phụ Ápraham, như Thánh Gióp, như Đức Maria, và như Đức Giuse, nhất là khi biển đời chúng con đầy những đợt sóng vỗ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
( * ) Theo lời kể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ca khúc này được lấy cảm hứng từ câu chú Bát Nhã: “Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha”. Nghiã là: “Qua rồi, qua rồi, qua bờ rồi, qua bờ hết rồi, giác ngộ rồi, vậy đó”.
-------------------------------
Chén đã cạn tình vừa đơm trái ngọt
Tay run run chắp lại cảm ơn đời
Em mang đến vườn ta nghìn tiếng hót
Ta quay về khép cổng bỏ rong chơi
( dẫn từ thơ Trần Từ Duy )
Tình nhà thơ, có vị xem ra đã biết sợ. Sợ tình mình đã cạn. Sợ, người khép cổng bỏ rong chơi: TN 19-A60
Tình nhà thơ, có vị xem ra đã biết sợ. Sợ tình mình đã cạn. Sợ, người khép cổng bỏ rong chơi, chốn nợ đời. Tình nhà Đạo, có Thánh Tông Đồ cũng biết sợ. Sợ quỷ, sợ ma, sợ cả sông nước lẫn thuyền bè, thiếu niềm tin. Thiếu niềm tin nay đã sợ, còn là ý nghĩa trình thuật Chúa nói, suốt hôm nay.
Trình thuật hôm nay, ghi đoạn kế tiếp trong đó Thánh sử có nói: Đức Giê-su giải tán đám đông, để “lên núi một mình, mà nguyện cầu” ( Mt 14, 22 ). Riêng, Thánh Gio-an lại thêm: “Đức Giêsu biết rõ là bọn họ sắp đến để tôn Ngài lên làm vua, Ngài bèn rút lên núi một mình” ( Ga 6, 14 ). Như đồ đệ, dân con người Do Thái đều không hiểu ý nghĩa của việc sắp xảy đến. Nên mới lo âu. Sợ sệt.
Đức Giêsu “bỏ lên núi một mình, mà nguyện cầu”, đây là “điều lạ” Ngài tỏ cho mọi người thấy. Lên núi, không phải để có tầm nhìn hoành tráng về vương quốc ở thế trần. Nhưng, để Ngài có thể “một mình, nguyện cầu cùng Cha” mặc dù Ngài có uy lực của vị Vua. Lên núi, để đổi mới tâm can. Quyết theo đường Cha đã định. Lên núi, Ngài dùng quyền cao chức cả ngõ hầu thực hiện công trình thương yêu, phục vụ. Không khuynh loát. Cũng chẳng có ý kích động người dân nổi dậy, đòi thay đổi thể chế.
Việc Ngài làm, không nhằm chứng tỏ quyền uy tối thượng Ngài vốn có; hoặc, phô trương quyền phép vô song, đầy “sự lạ”. Nhưng trước hết và trên hết, là để thực hiện sứ vụ Chúa Cha trao cho Ngài trong tương quan đầy phẩm chất mà Ngài có với Cha. Với mọi người. Với chính Ngài. Sứ mạng ấy, không gì khác ngoài tinh thần phục vụ, sẻ san và dựng xây tình cộng đoàn, Là biến cải môi trường sinh động, thành Vương Quốc của tình thân thương.
“Thuyền đã xa bờ, sóng đánh mạnh”, là ảnh hình của Hội Thánh, ở mọi thời. Một thời, có các đồ đệ ngồi trên thuyền, nhưng hãi sợ. Một thời, đầy thù địch hòng chực bủa vây. Với sóng gió, thù địch. Thù và địch từ phiá thế gian, luôn tìm chuyển lay tình đoàn kết thân thương giữa dân Đức Chúa. Chân chất. Thật thà.
“Ngài lướt đi trên mặt biển mà đến với các ông”, điều này làm cho đồ đệ Chúa càng hãi sợ, nhiều hơn. Quá hoảng sợ, có vị còn hét lên “Ma đấy !” Tâm trạng này, nói lên tính dị đoan mê tín vẫn ẩn tàng, nơi nhiều vị. Tính chất dị đoan mê hoặc của các vị, cần được trừ khử để, thay vào đó, bằng niềm tin vững mạnh. Thật lòng. Đây là tâm trạng vẫn còn thấy có ở nhiều nơi. Ngay hôm nay. Ở xã hội này. Xã hội tự hào về nền văn minh hiện đại. Rất ngoan cường.
Ngài lên tiếng: “Hãy yên tâm, có Thầy đây, đừng sợ !” đây lời trấn tĩnh gửi đến với dân con đồ đệ còn nghi hoặc, ít dũng cảm. Nghi hoặc vẫn là bản tính chưa thể bỏ của các vị muốn bước theo Chúa xưa và nay. Vẫn là các vị, cần tự tin phó thác vào Đức Chúa, Đấng vỗ về bảo bọc.
“Có Thầy đây !”, cụm từ này dịch từ tiếng Hy Lạp “ego eimi” hàm ngụ ý nghĩa: Đức Kitô muốn tỏ bày Ngài có quyền uy sức mạnh của Thiên Chúa. Ý nghĩa của cụm từ, quy về lời lẽ khi xưa lúc Chúa tỏ bày cùng Môsê, nơi Cựu Ước. “Có Thầy đây !” Chớ lo âu, khiếp sợ. Dù, hiểm nguy đang bao trùm.
Ứng đáp tức thời, là lời của Phêrô, vị Tông Đồ bộc trực, lãnh tụ các môn đệ: “Nếu là Ngài, xin cho con được đi trên nước !” Thánh nhân đã nhanh chân đến với Thầy, tràn đầy sức mạnh vượt sóng gió, ngút ngàn. Nhưng vốn hãi sợ và lòng còn nghi hoặc, thánh nhân đã ngúm chìm, vội kêu lên: “Cứu con với, hỡi Thầy !” Đây là lời nài van từ tín hữu Đạo Chúa, luôn lo sợ thế gian vùi dập bóp nghẹt rất nhiều năm.
Đây cũng thế, có đôi điều nên suy nghĩ: Đức Giêsu không ở trong thuyền của dân con, đồ đệ. Nhưng Ngài có mặt tại môi trường thù địch, ở khắp nơi trên thế giới. Ở nơi nào, mọi người còn hãi sợ, chẳng dám đến gần. Tựa chốn, co cụm quẩn quanh bên Hội Thánh. Thật nhiều lúc, Chúa cũng có mặt nơi sông biển có phong ba, chốn thế gian. Là con Chúa, ta cũng nên ra ngoài để gặp Ngài. Dù làm thế, rất hiểm nghèo. Dù nhiều lúc ta cứ ở trong thuyền mà lo âu hãi sợ. Ta vẫn quên rằng, gặp khi sóng dồn cùng bão táp, vẫn còn đó lời nhắc nhở: “Hỡi người kém tin, sao vẫn còn nghi hoặc ?” Và Lời ấy, hôm nay lại được gửi đến với chúng ta, mỗi ngưòi, thêm một lần nữa.
Trình thuật hôm nay, có Phêrô-thánh-nhân cùng Chúa bước vào thuyền. Gió lặng im. Như thế là bình an. Như vậy là lặng êm. Lặng và êm trong an bình nghĩa là: đồ đệ Chúa nay đã hiểu, cũng vẫn tin. Và vị thủ lãnh đã mau mắn tuyên xưng lời xác chứng để đời: “Quả thật, Thầy là Con Thiên Chúa !” Điều này xác nhận: Thầy đã vào thuyền. Và, Thầy còn lưu lại với mọi người nơi trần thế đến muôn đời.
Trình thuật hôm nay, còn phản ánh một số vấn đề của Hội Thánh thời tiên khởi. Vấn đề của những rẽ chia. Xung khắc. Có khác biệt về thần học và tu đức, của người ở trong. Còn bên ngoài, là những bách hại. Thiếu cảm thông. Niềm cảm thông/hỗ trợ, từ phía người Do thái, có thẩm quyền. Điều này, Thánh Phaolô đã đề cập trong thư gửi cộng đoàn Rôma, khi Thánh nhân thấy đau lòng phiền não, vì có sự phân biệt giữa con cái Chúa với người Do Thái, chưa nhập đoàn. Vẫn cãi tranh. Vẫn thù nghịch. Và hôm nay, quan hệ ngay giữa người đồng Đạo đã có vấn đề. Vấn đề khác biệt. Rất đau lòng.
Thánh Mátthêu hôm nay, nói đến vai trò đặc biệt của vị thủ lĩnh Giáo hội là Thánh Phêrô, người dám bước ra khỏi thuyền để gặp Thầy, ngay lúc có phong ba sóng dồn. Đây, là ảnh hình của Hội Thánh đang bước khỏi con thuyền “nội bộ”, để đem Chúa đến với nhân trần. Dù, chốn nhân trần còn nhiều thù nghịch. Và, vai trò của Hội Thánh, không còn mang ý nghĩa co cụm, cục bộ trong thuyền, để tránh vấn đề, nữa. Nay qua rồi, tác phong vẫn có khi xưa, trước Lễ Ngũ Tuần. Nhưng hôm nay, Thánh Thần Chúa đã cải biến tất cả. Ngài thổi Thần Lực đến với các Thánh. Để, chúng ta có thể ra đi mà phục vụ. Ra đi, để rao báo Nước Trời đến với đất, miền tận cùng của địa cầu.
Làm như thế, tất nhiên sẽ chuốc vào mình, nhiều hiểm nguy. Làm như thế, sẽ không tránh khỏi mọi chống đối, gây thương tổn. Nhưng, ta luôn có Chúa cận kề. Ngài vẫn hiện diện tại nơi nào ta đặt chân đến, để giảng rao. Ngài quyết không để cho Hội Thánh đắm chìm trong phong ba bão táp. Thực tế chứng minh: mỗi khi Hội Thánh Chúa trỗi dậy từ đống tro tàn nát đổ, thì cộng đồng dân con của Ngài đã mạnh mẽ hơn nhiều. Như cộng đoàn Giáo Hội ở Trung Quốc vẫn trỗi dậy sau gần 4 thế kỷ lặn hụp nơi sóng gió rất nghịch thù.
Bài đọc hôm nay, đem đến cho ta nhiều điều để học hỏi: ta vốn từng trải qua chốn nhiễu nhương sóng dồn thật nhiều lúc. Nhưng, có Chúa là cội nguồn mọi an bình. Yên ổn. Lời Ngài xác quyết với các thánh tông đồ còn đó hôm Tạ từ: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban, không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến. Cũng đừng sợ.” ( Ga 14, 27 ). Lời bảo ban, Thầy nói vào hôm Thầy ra đi chấp nhận khổ hình, đã chứng tỏ rằng: thế giới chẳng thể nào tạo sự an bình, đem đến cho ta. Chỉ mỗi Chúa. Ngài, duy nhất, là Đấng ban bình an cho hết mọi người, vào mọi lúc. Lúc siêu thăng, cũng như khi trầm mặc. Ở mọi giai đoạn, rất đời thường.
Bài đọc 1, sách Các Vua có lời dặn: “Hãy ra ngoài mà đứng trên núi, trước mặt Đức Chúa.” ( 1V 19, 11 ). Và, Chúa đã đi ngang. Đi ngang, nhưng Ngài không ở trong gió làm rung chuyển, xẻ lấp núi. Ngài không ở nơi đất động, những cuồng phong. Không ở trong lửa. Cũng chẳng hiện diện chốn thiên tai, chết chóc. Nhưng, Ngài có mặt ở nơi có tiếng gió hiu hiu, nhè nhẹ thổi. Nơi, Êlia và mọi người nhận ra rằng: mình được Chúa tỏ bày, sự hiện hữu. Ngài sờ chạm làn da của chúng ta, bằng gió hiu hiu nhè nhẹ thổi. Mỗi ngày. Mọi ngày. Nhưng, chừng như ta mải bận tâm với những bất hạnh. Thiên tai. Động đất. Với lửa ngọn thiêu đốt toàn cuộc sống. Rất đáng lo.
Bài đọc hôm nay, còn đem đến cho ta thêm đôi điều, để học hỏi: Đời người, chẳng có gì khiến ta lo âu, hãi sợ. Có Chúa ở bên, ta còn gì để lo ngại. Thiên tai xảy đến, ta có lo cũng thế. Không lo, cũng vẫn thế. Vậy, chớ nên lo, dù mọi chuyện có xảy ra ?
Hãy bỏ mặc mọi đam mê ước vọng, với thế trần. Bỏ tất cả, tìm chốn lặng yên, mà nguyện cầu. Thế giới nhân trần, sẽ là nơi ta ra đi ngõ hầu dựng xây Nước Trời. Là nơi, ta được mời – đừng tuỳ thuộc vào thế gian, nhưng về với thế giới – để trở nên muối ướp, trở thành men trong bột. Ta được gọi mời hãy ra đi, mà hướng dẫn hết mọi người; để họ biết rằng: Chúa vẫn có mặt. Ngài luôn sinh động, ở trong ta. Ra đi, mà nói với mọi người: “Quả, Ngài là Con Thiên Chúa.”
Ra đi, ta sẽ hân hoan cùng mọi người cất cao giọng hát:
“Người đã cho tôi tiếng nói con tim hiền hòa
Đầy chứa thương yêu dù cho mưa gió cuốn nhạt nhòa
Gọi tiếng anh ơi cùng góp bàn tay
Gọi tiếng em ơi cùng chung lấp nỗi đau đọa đầy”. ( Ngô Thuỵ Miên – Lời cám ơn )
Gọi tiếng anh ơi. Gọi tiếng em ơi. Tiếng ấy, vẫn rao vẫn gọi, vang cùng khắp ngõ. Nơi đất trời, có lời mời gọi, hãy ra đi. Vào vùng biển cả, có người anh, người chị đang cần bàn tay dựng xây Hội Thánh. Dựng và xây, Nước Trời ở trần gian. Dù anh, dù chị “có ướt lạnh dưới cơn mưa”. Mưa cuộc đời. Mời cả một đời người.
Lm. PHAN ĐỖ THỤC LINH, MAI TÁ diễn dịch
------------------------------------------
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN NĂM A (07.08.2011)
[1 V 19,9a.11-13a; Rm 9,1-5; Mt 14,22-33]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong bất cứ xã hội, quốc gia nào cũng có những người không biết sợ là gì, dù là nghèo đói: TN 19-A61
Trong bất cứ xã hội, quốc gia nào cũng có những người không biết sợ là gì, dù là nghèo đói, vất vả, đòn roi, ngục tù, thậm chí cả cái chết. Họ quả là những con người dũng cảm, đáng kính phục. Trong khi đó, đại đa số con người ta thường bị cái sợ chế ngự cả tâm trí lẫn hành vi. Có người sợ đói, sợ rét. Có người sợ bệnh tật và tuổi già. Có người sợ mất của cải, địa vị, chức quyền. Có người sợ tù tội, giam cầm. Có người sợ ma, sợ quỉ là các thế lực vô hình độc ác.
Tin Mừng Mát-thêu kể lại câu chuyện các môn đệ Đức Giê-su đang phải chống chọi với sóng gió lại thấy một bóng người đi trên mặt nước tiến lại gần thuyền của các ông nên các ông hoảng sợ vì tưởng là ma. Nhưng Đức Giê-su đã trấn an họ “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Ý nghĩa của bài Phúc âm hôm nay là Chúa Giê-su muốn bảo chúng ta là hãy tin tưởng vào sự hiện diện yêu thương và quyền năng cũng như vào sự can thiệp đúng thời đúng lúc của Thiên Chúa để không còn sợ hãi trước những mối hiểm nguy của cuộc sống ! Vậy chúng ta hãy tập phó thác cậy trông vào Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (1 V 19,9a.11-13a): Hãy đứng trên núi trước mặt Đức Chúa.
9 Khi ngôn sứ Ê-li-a tới núi Khô-rếp là núi của Thiên Chúa, ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời Đức Chúa phán với ông: 11 "Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua." Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất. 12 Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. 13 Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 9,1-5): Giả như ông vì anh em mà tôi có bị nguyền rủa, thì tôi cũng cam lòng.
1 Thưa anh em, có Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: 2 lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. 3 Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng. 4 Họ là người Ít-ra-en, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; 5 họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. A-men.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 14,22-33): Xin Ngài truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.
22 Sau khi dân chúng được ăn no nê, Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. 23 Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. 24 Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. 25 Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. 26 Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy!", và sợ hãi la lên. 27 Đức Giê-su liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" 28 Ông Phê-rô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." 29 Đức Giê-su bảo ông: "Cứ đến! " Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. 30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" 31 Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?" 32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. 33 Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa! "
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa, Đấng đã hiện ra với ngôn sứ Ê-li-a trong tiếng gió hiu hiu, nhẹ nhàng thổi qua sườn núi. Lời Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa không có mặt trong giông bão. Người cũng không có mặt trong động đất hay trong ngọn lửa bừng bừng mà Người lại có mặt trong tiếng gió hiu hiu. Phải chăng Lời Kinh Thánh có ý nói rằng Thiên Chúa đến với chúng ta trong/qua những cảnh huống bình thường mà chúng ta ít ngờ tới.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã không để cho sự cuồng nhiệt của đám đông lôi cuốn mà luôn tìm cách kết hiệp mật thiết với Chúa Cha trong những khoảnh khắc thanh tịnh mặt đối mặt với Thiên Chúa. Người còn là Đấng có toàn quyền thống trị trên biển nước mênh mông và trên những cơn sóng dữ (tượng trưng cho thế lực của sự dữ và ác thần). Chúa Giê-su mời các môn đệ tin tưởng và phó thác mạng sống của mình cho Người.
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa xuất hiện với ngôn sứ Ê-li-a, trong tiếng gió hiu hiu. Chúa Thánh Thần cũng hiện diện và cùng hành động với Chúa Giê-su khi Người thức đêm cầu nguyện, khi Người đi trên mặt biển đến với các môn đệ và cho Phê-rô bước trên mặt nước đến với Người cũng như khi Người hạ lệnh cho biển yên gió lặng.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra sứ điệp hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay
- Một là chúng ta hãy chờ đón Thiên Chúa là Đấng muốn tỏ mình ra cho chúng ta. Thường thì chúng ta có khuynh hướng tìm gặp Thiên Chúa trong những biến cố kinh thiên động địa (bão táp, động đất, lửa) trong khi Thiên Chúa lại ưa xuất hiện trong những cảnh huống bình thường, giản dị (như tiếng gió hiu hiu).
- Hai là chúng ta hãy hoàn toàn tin cậy phó thác vào Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng có quyền năng trên tất cả vũ trụ vạn vật, kể cả thế lực ác thần và sự dữ. Tín thác vào Chúa trong khi chúng ta được sống yên ổn, bình an thì tương đối dễ. Nhưng tín thác vào Chúa khi chúng ta gặp đủ mọi thứ khó khăn, thử thách, bách bại, chống đối mới thực sự là tín thác.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay
- là tôi noi gương ngôn sứ Ê-li-a mà mong chờ Chúa đến, và luôn tỉnh thức để nhận ra Chúa khi Người xuất hiện.
- là tôi giao phó cuộc sống hiện tại và tương lai của cá nhân và gia đình tôi cho Chúa Giê-su Ki-tô vì tôi tin Người là Chúa Tể vũ trụ vạn vật trên trời dưới đất.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, nhất là cho những người phải sống thường xuyên trong lo âu, sợ hãi, để họ cảm nhận được lòng yêu thương của Thiên Chúa là Cha nơi Chúa Giê-su Ki-tô và nơi các cộng đoàn Ki-tô hữu.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô - nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để mọi Ki-tô hữu vững tin vào sự hiện diện liên lỉ và sự can thiệp kịp thời của Chúa Giê-su trong con thuyền của Người là Giáo Hội.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta, để mọi người được thêm lòng tin/cậy/phó thác đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người, để sống tín thác cho quyền năng và tình thương của Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho những người đang lớn tiếng kêu cầu sự bênh vực và cứu giúp từ Đấng Tối Cao hay từ đồng loại, để họ sớm nhận được sự hỗ trợ cần thiết trong cơn nguy khốn.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
------------------------------------------
(Chúa Nhật XIX TN A)
Là Kitô hữu, chúng ta thường nghe cụm từ “hành trình đức tin”. Tin là một quá trình bước đi: TN 19-A62
Là Kitô hữu, chúng ta thường nghe cụm từ “hành trình đức tin”. Tin là một quá trình bước đi không ngừng, tiến mãi về phía trước để gặp Đấng vô hình. Thỉnh thoảng có dừng chân nhưng không bao giờ đứng lại.
Sau khi hỉ hoan về phép lạ cả thể mà Thầy đã thực thi cho gần vạn người no nê, các tông đồ lại phải chưng hửng lần nữa vì lệnh của Thầy: Hãy lên đường! Hãy xuống thuyền mà qua bờ bên kia! Cám dỗ dừng chân đứng lại và nghỉ ngơi trên thành công, trên chiến thắng vẫn luôn có đó với phận người. Sau khi khánh thành một công trình hoành tráng, sau khi hoàn thành một cuộc lễ hay một cuộc tổ chức lớn bé, thì dừng chân, ngồi lại để lượng giá, kiểm thảo để rút kinh nghiệm là điều cần thiết, nhưng để đứng lại chiêm ngắm vinh quang là một cám dỗ triền miên và thật khó lường hậu quả. Ròng rã hơn mười mấy năm trong vai trò thầy giúp xứ cũng như hơn mười mấy năm đời linh mục, bản thân nghiệm thấy chính mình và các đấng khi xây dựng một công trình nào đó thì chuyện hay đi lui đi tới ngắm nghía công trình là chuyện như cơm bữa. Ai lại không thích ngắm nghía vinh quang của mình. Ai lại không thích nghe người ta trầm trồ về cái gọi là thành công của mình. Hễ có khách đến thăm thì phải tìm dịp giới thiệu cho được những gì mình đã “ra tay”.
Các tông đồ năm xưa chẳng hơn gì chúng ta hôm nay. Dù chỉ là những người giúp phân phát bánh – cá, nhưng các ngài làm như chính tay mình thực thi kỳ công “phép lạ hóa bánh”. Theo Tin mừng thánh Gioan thì việc người dân muốn tôn Chúa Giêsu làm vua có thể là do dân chúng tự phát nhưng rất có thể là do sự gợi ý có chủ đích của nhóm mười hai vị rất tham “ngồi bên hữu, bên tả Thầy trong vinh quang” (x.Mc 10,35-40). Đêm đã về. Dân chúng đã no nê. Chúng mình cũng đáng được hả hê nghe bao lời chúc tụng chứ. Chuyện bất ngờ đã đến, dù không ai thích thú chút nào. Thầy ra lệnh tất cả xuống thuyền ngay. Còn Người thì giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình.
Bỏ vinh quang, bỏ thành công rực rỡ để ra đi là một điều không dễ chút nào. Cảnh đời phía trước mịt mùng khó tiên liệu và sóng gió ba đào là chuyện dường như khó tránh. Các tông đồ hôm ấy đã phải đương đầu với hiện thực ấy. Sóng thì to, gió thì lớn. Thuyền đang chơi vơi nghiêng ngã. Lòng các ngài cũng ngã nghiêng theo gờ cạnh con thuyền. Tâm trạng của tiên tri Êlia năm nào cũng không khác gì. Sau chiến tích oanh liệt hạ gục những 450 sư sãi thần Baal, Êlia đã phải trốn chạy khỏi sự truy đuổi, tìm diệt của hoàng hậu Giêdabel. Sau vinh quang thì tai họa liền kề.
“Ra đi là chết trong lòng một ít”. Chẳng có sự dứt bỏ nào mà chẳng có xót xa hay đau đớn, nhất là phải từ bỏ những thành công huy hoàng hay những hạnh phúc êm ả, cho dù chúng là hữu hạn của đời thường. Hạnh phúc đích thực vẫn ở phía trước. Đó là Thiên Chúa, Đấng không chỉ chờ đợi mà đang tiến tới để đón gặp chúng ta.
Tin là bước đi, là ra đi, tiến về phía trước, về nơi chưa hề biết như Abraham ngày nào. Bỏ quê hương, xứ sở, bỏ cả gia tộc thân yêu để lên đường. Xót dạ khi ra đi và bâng khuâng khi tiến về phía trước. Nào là sóng gió cuộc đời, nào là phong ba tình người, tất thảy như đang chờ đợi để dập vùi, đánh đắm con thuyền đời ta. Một Phaolô hết lòng hết dạ với người đồng hương Do Thái, ngài đã khẳng định: “Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và lìa xa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,3). Hiểu cho đúng thì Phaolô không quay lưng với tôn giáo tổ tiên mà tiến lên một tầm cao mới trong hành trình đức tin khi đã được diện kiến Đức Kitô phục sinh, Đấng Thiên Sai mà tổ tiên ông hằng mong đợi, thế mà ngài vẫn mãi bị người đồng hương xem là phản đạo, bội giáo, bỏ đạo để rồi luôn tìm cách bắt giết. Một khi đã ra đi, tiến về phía trước thì cái giá cần trả không chỉ là gian nguy, khốn khó mà cả sự lo âu, phiền muộn. Ngài thú nhận: “Thưa anh em, có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật. tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đổi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2).
Với Êlia, với Phaolô hay với các tông đồ khi ở trên thuyền chòng chành giữa biển đầy sóng gió, Thiên Chúa không bao giờ để các ngài cô đơn một mình. Người hằng ở với họ. Người luôn đồng hành với họ. “Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor 12,9). “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Gio 14,18). Dù giữa biển khơi hay giữa đêm tối của cuộc đời, Đấng làm người mãi ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20). Chỉ một điều là hãy nhắm đích và tiến thẳng trong niềm tin.
Thỉnh thoảng cũng nên biết dừng chân để tự kiểm để định hướng hay chỉnh hướng, nhưng không được phép đứng lại. Đứng lại là một trong những thái độ tự hài lòng về thành công của chính mình. Từ chỗ hài lòng đến chỗ tự cao tự đại là một khoảng cách không mấy xa. Và hậu quả của sự tự kiêu, tự mãn như đã nhãn tiền. Chưa tính đến chuyện Chúa hạ kẻ tự kiêu và nâng cao người phận nhỏ (x.Lc 1,52), thì chính kẻ cao ngạo, họ đã tự đặt mình vào vị thế cheo leo và sẽ ngã chìm không biết lúc nào như Phêrô trong lần được Thầy ban cho cái ơn đi trên mặt biển (x.Mt 14,22-33).
Đứng lại cũng là một hành vi tỏ dấu sự nghi ngờ. Khi thiếu niềm tin hay khi lòng tin yếu kém thì ta rất dễ bị cám dỗ dừng lại, không can đảm tiến lên. Những cái sợ như sợ khó, ngại khổ, sợ thất bại…nhiều khi nhấn chìm chúng ta trong các trở ngại khách quan vốn dĩ không thể tránh của kiếp người.
Không ai là không một lần gặp chông gai, sóng gió. Không ai là không đã từng nhiều lần ngã quỵ vì gian truân, khốn khó. Chuyện ngã, chuyện té là chuyện bình thường của phận người. Điều quan trọng là biết chỗi dậy và tiến lên. Trong niềm tin vào tình yêu của Đấng đã tự nguyện làm bạn đời của ta là Đức Giêsu, ước gì chúng ta được như thánh tông đồ dân ngoại là “quên đi những gì phía sau để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
------------------------------------------
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, và sau khi mọi người đã được no nê bánh và: TN 19-A63
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, và sau khi mọi người đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia. Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Ngài chìm sâu trong cầu nguyện. Ngài gặp gỡ trong thân mật với Thiên Chúa Cha. Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ. Ngài biết họ một mình đang vật lộn với sóng gió. Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến với họ. Các môn đệ tưởng Ngài là ma, nên kêu la sợ hãi. Đức Giêsu trấn an họ: "Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ."
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều lĩnh đề nghị: "Nếu quả là Thầy, thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy." ( Mt 14,28 ). Thật là một lời đề nghị làm ta ngạc nhiên. Thật là một đề nghị đầy nguy hiểm. Nhưng Phêrô đã chấp nhận nguye hiểm, đã dấn thân nghiêm túc để được gần Thầy mình. Nếu đó không phải là Thầy mình, thì thật là dại dột. Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
Đức Giêsu nói với Phêrô: "Cứ đến". Thế là Phêrô bước ra khỏi thuyền, ông đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Thật không thể tưởng tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay con người có đức tin trở nên nhẹ bỗng. Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi: "Đúng là Thầy rồi!" Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước, nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì niềm tin mới được trọn vẹn.
Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng tin mạnh mẽ. Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao đảo với sóng gió, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển. Ông chỉ kịp kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu con." Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy bàn tay của ông và đưa ông về thuyền. "Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!" ( Mt 14,31 ). Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông xuống. Phêrô hăng say đó, nhưng lại xìu đó và tỏ ra nhát đảm vì thiếu tin tưởng vào Chúa Giêsu.
Cuộc đời của mỗi người là một cuộc vượt biển đầy cam go, cho dù đi bằng thuyền hay bằng tàu, không ai có thể nói là tuyệt đối bằng an. Còn bơi trong sóng nước thì vô phương. Phêrô, một người sành sỏi về bơi bội, sông nước là nghề nghiệp của ông. Thế mà khi bị thụp xuống, lại cuống cuồng la lên: "Lạy Thầy! Xin cứu con".
Muốn vượt biển đời bình an, thơ thới, chỉ có một cách là cậy trông vào Đức Giêsu Kitô, chỉ mình Ngài mới có quyền năng đạp sóng, và làm bão tố tan biến đi. Đưa tay cho Ngài dắt, chúng ta sẽ đi trên bão tố đường đời như đi trên thảm cỏ xanh êm dịu tươi mát.
***
Lạy Chúa Giêsu! Sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước:
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu. Sự nặng nề của thân xác cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con gần chìm. Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã. Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ nhàng mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
(Tổng Hợp từ R. Veritas)
-------------------------------
Có một cậu bé xin đi biển để học nghề làm thuỷ thủ. Ngày nọ trời dông bão, người ta bảo cậu: TN 19-A64
Có một cậu bé xin đi biển để học nghề làm thuỷ thủ. Ngày nọ trời dông bão, người ta bảo cậu leo lên cột buồn. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt ngước lên trời. Nhưng đến lưng chừng, cậu phạm phải một sai lầm, đó là cậu nhìn xuống mặt biển dậy sóng. Thế là cậu bị chóng mặt như muốn ngã xuống. Thấy vậy, một thuỷ thủ già bèn la lên: Này cậu bé, hãy nhìn lên trời. Nghe theo lời chỉ dẫn trên, cuối cùng cậu bé đã leo tới đỉnh cột buồm một cách an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé giống hệt lỗi lầm của Phêrô qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Cậu bé đã rời mắt khỏi bầu trời và đã nhìn xuống mặt biển dông bão như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa và nhìn xuống những ngọn sóng.
Điều này cũng thường xảy đến với mỗi người chúng ta. Thực vậy, có những lúc trong cuộc đời, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Chúa, nhất là những lúc chúng ta được may mắn và những thành công như mỉm cười với chúng ta. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng sóng yên biển lặng. Trái lại cuộc đời của chúng ta cũng có những ngày phong ba và bão táp. Chính trong những giờ phút đen tối này, chúng ta dễ dàng rời xa Chúa, chúng ta dễ dàng từ bỏ Ngài để đi tìm những sự vật khác, để rồi bản thân chúng ta bị chao đảo, mất thăng bằng và chìm xuống.
Đoạm Tin Mừng sáng hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm được những sự chúng ta kêu van, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tước cũng không ra gì.
Và để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau đây của một câu danh ngôn: Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Trái lại, nếu không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
-------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử hàng hải chắc không bao giờ quên thảm họa đắm tàu Titanic xảy ra hồi 2 giờ 20 phút: TN 19-A65
Lịch sử hàng hải chắc không bao giờ quên thảm họa đắm tàu Titanic xảy ra hồi 2 giờ 20 phút sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. đó là con tàu lớn nhất và sang trọng nhất thời đó. Nó được thiết kế để không thể bị đắm, thế mà đã bị đắm ngay trong chuyến vượt biển đầu tiên từ Anh sang Mỹ Châu!
Tàu Titanic với bụng tàu chia đôi thành 16 gian bít kín để nước không vào được. Theo đúng kỹ thuật thì cho dù 4 trong 16 gian bít kín ấy bị ngập nước, tàu vẫn nổi, nên kể như không thể bị đắm. Nhưng bất ngờ, tàu Titanic đang chạy thì bị đụng vào một núi băng trôi cách bãi ngầm của phần đất Tân Phần Lan (New Foundland) 150km, nay thuộc Canađa. Vì đụng mạnh, bên phải tàu bị toạc ra một vết dài 91 mét khiến 3 gian bít kín ở bụng tàu bị nước tràn vào. Kết quả là chiếc tàu với khối lượng khổng lồ là 46.000 tấn bị chìm từ từ xuống biển, mang theo số phận của 1.513 người trên tàu bị chết đuối.
Năm 1913 Hội Nghị quốc tế đầu tiên về an toàn cho sinh mạng trên biển cả được triệu tập tại Luân Đôn. Hội nghị này đã soạn một số qui định đòi mọi tàu đi biển phải có đầy đủ phương tiện cứu đắm cho mọi người trên tàu.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng bàn về an toàn cho sự sống con người trên biển cả. Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng như đối với dân Do Thái nói chung, biển cả tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ. Sức mạnh ấy chính Thiên Chúa đặt dưới quyền năng vô song của Ngài (Tv 88,9-11). Và quyền năng vô song này cũng được tỏ hiện nơi Đức Giêsu, khi Ngài dẹp yên biển động hay khi Ngài đi trên biển sóng gió đến với các môn đệ đang hoảng sợ.
Riêng với biến cố Đức Giêsu đi trên mặt biển, điều được nhấn mạnh là: muốn được an toàn, các môn đệ phải hoàn toàn tin tưởng vào Thầy Giêsu. Nhưng trong Nhóm 12, người được chú ý hơn cả là Phêrô. Phêrô không những phải đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thầy Giêsu mà còn phải duy trì niềm tin đó, không nao núng, không nghi ngờ. Thiếu niềm tin mạnh mẽ hơn sóng gió để đối phó với thử thách, thì cả đến Phêrô là người sốt sắng nhiệt thành đối với Thầy hơn mọi người trong Nhóm, cũng không thể đứng vững được, mà phải bị đắm chìm. Trái lại, bao lâu Phêrô vững vàng trong niềm tin, ông được tham dự vào quyền năng siêu việt của Thầy Giêsu.
Qua biến cố này, chúng ta thấy điểm chủ yếu là lòng tin. Lòng tin từ tình trạng yếu đuối tiến đến việc tuyên xưng mạnh mẽ, nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu trong chính hoàn cảnh thách đố lòng tin của các môn đệ. Điều này gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ về lòng tin của chúng ta và sự dấn thân với lòng tin trong những hoàn cảnh sống khó khăn, thử thách. Lòng tin của chúng ta là gì, nếu không phải là tin vào Thiên Chúa toàn năng và ơn cứu độ của Ngài. Đức tin còn phải được những khó khăn, thử thách rèn luyện mới lớn mạnh trưởng thành. Đức tin nằm yên một chỗ, không phải đương đầu, đối chọi với sóng gió của cuộc đời, đức tin ấy sẽ luôn yếu mềm, ấu trĩ. Tin là phải như Phêrô, nhảy vào khoảng trống, phải bước ngay xuống nước để đến với Chúa. Con người không thể đi trên nước, và niềm tin cũng không tiêu diệt được sóng gió. Nhưng có Chúa đứng đó, cũng trên mặt nước và sóng gió, nên ông không ngần ngại nhảy ngay xuống nước để đến với Ngài. Tin là một sự liều lĩnh, nhưng không phải là sự liều lĩnh tuyệt vọng: nhảy xuống nước để tự tử! Trái lại, tin là một liều lĩnh tràn đầy hy vọng, vì nắm chắc sẽ gặp được Chúa đang đứng ở bên kia bờ tuyệt vọng: Ngài là Đấng Cứu Độ, là sự sống.
Nếu giữa gian nguy, thử thách, chúng ta sợ hãi thì càng nguy hiểm hơn, vì chính nỗi sợ hãi sẽ nhấn chìm chúng ta, khiến chúng ta buông xuôi, thất vọng. Khi Phêrô chỉ nghĩ đến Chúa, chỉ dựa vào sức mạnh của Chúa, thì ông mạnh, ông nổi lên mặt nước. Nhưng khi ông nghi ngờ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ co rút vào bản thân, thì ông bị chìm xuống. Khi ông hướng về Chúa, kêu cứu: “Lạy Chúa, xin cứu con!”Chúa Giêsu liền nắm lấy tay ông. Chúng ta yếu đuối, bất lực trước những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến Chúa, dựa vào sức mạnh toàn năng của Ngài và kêu cầu Ngài, thì Ngài sẽ kéo chúng ta lên. Cuộc sống chúng ta giống như đi trên mặt nước nổi giông bão. Chúng ta hãy kêu đến Chúa Giêsu. Trước những cơn sóng gió dù khủng khiếp đến mấy cũng đừng quên hướng về Người có thể cứu chúng ta được, đó là chính Chúa Kitô.
Để tiến đến một lòng tin đích thực, chúng ta phải sống sự hiện diện của một Thiên Chúa vắng mặt. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện mà chúng ta không thấy. Người Kitô hữu sống trong lòng Giáo Hội lắm khi bị chao đảo ghê gớm vì “con thuyền Giáo Hội”có lúc như sắp bị chìm và biến mất. Còn thân phận người Kitô hữu thì bị giằng co, giữa nỗi sợ hãi và niềm tin, giữa bất ổn và bình an. Trong những lúc ấy, người Kitô hữu phải sống kinh nghiệm của một Thiên Chúa vắng mặt. Vì hoảng hốt và sợ hãi, các môn đệ khó có thể tưởng tượng hay tin rằng Chúa vẫn hiện diện, nên khi Chúa đến, các ông đã không nhận ra Ngài mà còn tưởng là bóng ma.
Trong thực tế, đức tin của chúng ta không thể chỉ gói trọn nơi những lời tuyên xưng, những tham dự lễ nghi phụng tự, những lãnh nhận bí tích, nhưng đức tin đó phải đi vào cuộc sống thực của chúng ta với mọi hình thức sinh hoạt của xã hội loài người. Tin Chúa là phải dấn thân vào thực tại, sống chung đụng với mọi người, chấp nhận đi vào những cực nhọc, vất vả, khó khăn, nguy hiểm… để cùng với Chúa hoạt động biến đổi bộ mặt thế giới. Đó chính là sứ mạng của mỗi Kitô hữu đối với thế giới ngày nay mà Công đồng Vaticanô II đã khẳng định.
Hãy luôn tin rằng Chúa luôn hiện diện và liên đới với chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để từ bên trong, Ngài giúp chúng ta vượt qua mọi sóng gió bão táp của cuộc hành trình về quê hương vĩnh hằng, mà không phải đắm chìm như các nạn nhân của con tàu Titanic năm xưa, nhưng được bảo đảm an toàn trên biển cả như con thuyền của các Tông đồ, vì trong đó có Chúa Giêsu đang hiện diện.
------------------------------------------
Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông.
Tại sao Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ xuống thuyền? đi trước? Tại sao Đức Giêsu giờ đây: TN 19-A66
Tại sao Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ xuống thuyền? đi trước? Tại sao Đức Giêsu giờ đây giải tán đám đông sau khi đã nói rằng đám đông không cần đi đâu cả (tức vào các làng mạc mua thúc ăn)? Những chi tiết này không phải là không quan trọng. Chúng có một ý nghĩa và được Matthêu và Máccô thuật lại, nhưng chỉ có Gioan đem lại cho chúng ta một lời giải thích: Việc ban bánh trong sa mạc có một ý nghĩa chỉ về Đấng Mêsia đã làm cho nhiệt tình của đám đông bốc cao lên, họ hoàn toàn cuồng nhiệt bởi sự xuất hiện rất nhiều vị thiên sai ở thời kỳ lịch sử này của Israel.
Các đám đông, với những cảm nghĩ mơ hồ thường thấy và những động tác không kiềm chế lúc đó đã muốn kéo Đức Giêsu trong một cuộc phiêu lưu chính trị tôn giáo như đã có nhiều trong những quốc gia bị La Mã đô hộ và sau cùng tất cả đều kết thúc trong sự đàn áp đẫm máu. "Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,15). Đức Giêsu cũng biết rất rõ các môn đệ của Người, còn gắn bó với quan điểm về một Đấng Mêsia trần thế ". Họ dễ dàng buông mình theo sự say sưa muốn biểu dương ấy Đức Giêsu buộc họ phải xuống thuyền đi trước.
Vâng Đức Giêsu đôi lúc thấy mình phải đương đầu với những kiểu vấn đề như thế. Một mình người đối phó với mọi người.
Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện.
Người ta có thể thử tưởng tượng Đức Giêsu tranh luận tay đôi với những kẻ ngoan cố nhất và cuồng nhiệt nhất không muốn giải tán: không tôi không đến để làm chính trị: nước tôi không thuộc về thế gian này… tôi đâu có trách nhiệm cho các ông ăn mỗi ngày… các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát nhưng để có lương thực thường tồn" (Ga 6,27).
Mệt mỏi vì những cuộc tranh luận ấy, khi còn lại một mình, Đức Giêsu cảm thấy nhu cầu cần phải cầu nguyện. Và chúng ta tưởng tượng Người giờ đây trong màn đêm buông xuống, bước theo con đường sỏi đá để lên núi. Bài đọc đầu tiên của Chúa nhật này nhắc nhở chúng ta nhớ rằng “núi” trong Kinh Thánh là nơi ưu việt để "gặp gỡ Thiên Chúa" (1V 19,9) Đó là một chủ đề mà Matthêu ưa thích một cách đặc biệt: núi của các mối Phúc Thật (5,1 )… núi của sự cám dỗ (4,8)... núi của sự biến hình (17,1)... núi của Đấng sống lại (28,16)... Trong những tháng hè này, một số người đi nghỉ hè ở trên núi. Khi chúng ta có cơ hội lên núi, chúng ta có biết tranh thủ để cầu nguyện trong cô tịch và sự im lặng hay không?
Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình...
Phải để cho hình ảnh ấy thâm nhập vào tâm hồn chúng ta thật lâu: Đức Giêsu trên đỉnh núi trong bóng đêm, trong sự im lặng từ trái tim đến trái tim đơn độc, trong sự hiệp nhất với Chúa Cha.
Người ta dễ dàng đoán ra Người đọc kinh nào, đêm hôm đó. Người ta đã thử lái Người ra khỏi sứ mạng chủ yếu. Nhưng như một bản năng Người trở lại sứ mạng của mình: Vai trò của Người thuộc về tinh thần dù vai trò ấy có những hậu quả quan trọng trong lãnh vực vật chất. Một lần nữa, Đức Giêsu phải chiến đấu chống lại ma quỷ của thứ chủ nghĩa Mêsia quốc gia đã "hứa hẹn cho Người tất cả các nước thế gian" (Mt 4,8-10). Một sự cám dỗ khủng khiếp, ám ảnh gần gũi; và lặp lại mãi. Sự quyến rũ của sự thành công tức thời mà Đức Giêsu can đảm đẩy lui bởi sự cầu nguyện. Không, người sẽ không là vị "vua" vinh quang và được tôn vinh. Người sẽ là Đấng Mêsia nghèo khó, sống tróng bóng tối, bị đau khổ và cái chết đánh gục. Chiến thắng của Đức Giêsu sống lại từ cái chết chỉ dành cho những ai tin.
Đức Giêsu cũng cầu nguyện nhiều cho các "môn đệ" Người vừa sai đi trước. Người phải nghĩ về Giáo Hội mà người thành lập, và cơn cám dỗ thường xuyên muốn đưa những phương tiện của con người lên hàng đầu. Phần tôi, tôi có tin vào giá trị cầu nguyện không? Nếu xét về bề ngoài và theo tính chất của con người, thời gian mất đi ấy lại vô cùng quan trọng về mặt tâm linh. Thỉng thoảng tôi có cầu nguyện một mình không?
Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiêu dặm, bị sóng đánh vì ngược gió.
Trong động tác bất ngờ của máy quay phim, cũng như trong một phân cảnh tài tình của phim ảnh. Matthêu đi từ hình ảnh Đức Giêsu trên núi qua hình ảnh chiếc thuyền trên mặt biển. Đạo diễn trước tiên tập trung chú ý trên “chiếc thuyền” bằng việc sử dụng bút pháp dị thường: trong lúc Máccô nói các môn đệ phải vất vả chèo chống (Mc 6,48)... thì Mátthêu cũng bằng những chữ ấy nói rằng chiếc thuyền bị sóng đánh vật vã. Tất cả những nhà chú giải từ những giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội đã nhìn thấy trong chiếc thuyền ấy là biểu tượng của Giáo Hội. Vào thời thánh Mátthêu, các cộng đoàn Kitô hữu trong thực tế chỉ là những chiếc thuyền mong manh chèo chống khó khăn trên mặt biển đầy sóng gió của ngoại giáo và đi ngược gió!
Vào khoảng canh tư Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.
Cảnh trước đó (Đức Giêsu cầu nguyện trên núi… chiếc thuyền bị sóng đánh) như thế đã kéo dài suốt đêm!
Đối với nhiều người, cảnh Đức Giêsu đi trên mặt biển có thể chỉ có vẻ như một câu chuyện thần tiên, một giai thoại tuyệt vời chỉ tốt cho trẻ em và những kẻ ngây thơ. Khác với các phép lạ chữa bệnh mà chúng ta tưởng lập tức hiểu hết ý nghĩa bởi vì những phép lạ ấy "có ích", chúng ta ngạc nhiên về những cử chỉ bề ngoài xem ra vô ích: tại sao Đức Giêsu lại không gặp trực tiếp các bạn hữu của mình? vì chúng ta rất hay quên rằng các phép lạ của Đức Giêsu trước hết là những "dấu chỉ": Đó là những cử chỉ nói được, hoặc có một điều gì nói với chúng ta. Tính chất tượng trưng của chúng đứng hàng đầu, không vì thế mà chối bỏ giá trị sự kiện lịch sử của chúng. Các tác giả Tin Mừng rõ ràng đã đọc lại các biến cố, từ ba yếu tố dùng để giát thích: 1. Sự sống lại của Đức Giêsu… 2. Truyền thống của Cựu Ước... 3. Những nhu cầu của các cộng đoàn mà họ kể lại.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, biển là hiện thân của sức mạnh thù địch với con người. Những người Do thái, như nhiều dân tộc sống trong đất liền đặt vào biển mọi nỗi sợ hãi lâu đời dưới hình thức những quái vật huyền thoại như: Lêviathan; Raháp (Tv 104,5-9-26; 106, 9 - 74,13-14; Is 51,9-10). Bão tố, trong mọi ngôn ngữ không chỉ được xem như một hiện tướng tự nhiên như một biểu tượng của những sức mạng xấu nhưng mạnh hơn con người. Còn Thiên Chúa được giới thiệu như Đấng “thống trị biển cả", Đấng "đi trên mặt biển" (Ga 9,8; Tv 77,20; Kb 3,15). Như thế Đức Giêsu đi trên mặt biển chứng tỏ Đức Giêsu làm được điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm: đó là một "biểu hiện của Thiên Chúa", một sự thần hiện, hình ảnh của sự sống lại…
Những cộng đoàn Kitô hữu HÔM NAY và nói riêng mỗi người chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu thống trị sự ác với tất cả quyền Chủ Tể của Người.
Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy!" và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ!”.
Khẳng định: "Đừng sợ!" đối chiếu cảnh này lúc Người đi trên những vực thẳm của sự chết với cảnh trong lễ Vượt Qua lúc: Người biến hình (Mt 17,7) và sống lại (Mt 28,5-10)...
Mỗi lần một người đến gần Thiên Chúa, trong Kinh Thánh, có một cử chỉ điển hình gồm hai khía cạnh: "sự sợ hãi" chiếm lấy con người... "lời mời gọi đừng sợ" mà Thiên Chúa luôn lặp lại..' (St 21,17; Is 7,4; Dn 10,19; Lc 1,13; Cv 18,9; Kh 1,17 ). Than ôi, trong cả một đời người không thiếu bão tố. Biết bao lần chúng ta lại không cảm thấy mình như bị buồn nôn khủng khiếp vì say sóng tưởng trút linh hồn (Tv 107,25-27). Chúng ta không chọn lựa cho mình biển hồ và thời tiết xấu... cũng không chọn bão tố, bóng đêm... cũng không chọn những cơn cám dỗ, những cơn thử thách. Và nỗi sợ hãi chiếm lấy chúng ta!
Giờ đây như các môn đệ của biển hồ Galilê, chúng ta được mời gọi cảm nhận sự "hiện diện của Đấng Vắng Mặt". Lạy Chúa, Chúa ở đây với chúng con trong cơn bão tố này và Chúa lại nói với chúng con: "Chính Thầy đây, hãy cậy trông! Đừng sợ!".
Ông Phêrô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài". Đức Giêsu bảo ông: "Cứ đến!". Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng của Thánh Matthêu, Phêrô được giới thiệu như người đứng đầu các tông đồ, "người phát ngôn" của họ (Mt 10,2; 15,15; 16,16-17; 17,24-27; 18, 21).
Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài xin cứu! con với!". Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”
"Người đâu mà kém tin vậy!” Chủ đề “đức tin nhỏ bé” là một trong những chủ đề mà Matthêu không ngừng nhấn mạnh (6,30; 8,26; 14,31; 16,8; 17,20). "Người có đức tin quá nhỏ bé... bước đầu của đức tin... đức tin không hoàn hảo..." chúng ta nhận thấy mình trong cách diễn tả đức tin không phải là một đồ vật làm sẵn, có được một lần là xong. Đúng hơn đó là một "sự sống" đang tăng trưởng hoặc đang suy thoái. Đó là một "lịch sử" đang vận hành và vì là quan hệ giữa hai người nên không ngừng biến đổi.
Đức Giêsu chấp nhận sự yếu đuối đức tin của chúng ta nhưng nmời gọi chúng ta tiến bộ. Và chính trong thử thách, trong bão tố mà “đức tin nhỏ bé, kém cỏi" của chúng ta được thẩm định và thực hành.
Ở đây đức tin được trình bày trong một bối cảnh bi đát như một cuộc chiến đấu chống lại sự hồ nghi và sợ hãi. Phêrô người tín hữu đầu tiên không được đặt lên hàng đầu vì những phẩm chất cá nhân. Chúng ta thấy ông đã hụt chân, như buổi tối mà ông đã chối Chúa ba lần sau khi hung hăng lớn tiến tuyên bố lòng trung tín (Mt 26,35.69.75)
Tuy nhiên giữa lúc hoài nghi, ông cầu nguyện: "Thưa Ngài, xin cứu con với! Kyrie eleison!”.
Vậy sơ đồ của đức tin chúng ta là gì: một lời kêu gọi của Đức Giêsu bảo chúng ta "Hãy đến.!" một cuộc hành trình trên những vực thẳmcủa sự phi lý bề ngoài của đức tin..sự hoài nghi làm chao đảo... sự chỉnh đốn hoàn toàn của Đấng cầm tay chúng ta.
Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió yên lặng ngay.
Một nhận xét đơn giản bề ngoài không quan trọng đối với người đọc quá nhanh.
Một lần nữa, đây là một chi tiết tượng trưng mà hình ảnh đã lên tiếng: "Thầy trò” cả hai đã lên thuyền, và gió lặng. Đức Giêsu và Phêrô cứu chiếc thuyền này trong cơn tai biến.
Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"
Trong sách Tin Mừng Matthêu, đây là sự tuyên xưng đức tin đầu tiên. Chúng ta phải giữ lại trang Tin Mừng này cho cơn bão tố sắp tới của chúng ta. Phêrô suốt đời sẽ nhớ lại điều này, khi ông sẽ bước vào những cơn giông tố khác trầm trọng hơn ở Rôma vào thời của Vua Nêrôn.
------------------------------
Có lẽ những người vừa ăn được một bữa no nê bởi phép lạ bánh hóa ra nhiều, chưa ai nói được: TN 19-A67
Có lẽ những người vừa ăn được một bữa no nê bởi phép lạ bánh hóa ra nhiều, chưa ai nói được một lời cảm ơn các Tông Đồ đã lo việc phân phát lương thực cho họ. Chúa Giêsu thúc giục các ông xuống thuyền để qua bờ bên kia ngay !
Sao lại vội vã thế ? Chúa không biết là họ vất vả lắm sao ? Họ cũng xứng đáng được nhận lấy lời cảm ơn như một phần thưởng vì đã nhiệt tâm phục vụ mọi người đấy chứ ? Phần mình, Chúa Giêsu cũng chẳng màng chuyện được người ta tôn vinh, một mình Ngài lên núi cầu nguyện.
Chúa đang huấn luyện cho các Tông Đồ của mình tinh thần bất vụ lợi khi phục vụ, dù chỉ một lời khen tặng hay tiếng cảm ơn. Thương Chúa Giêsu quá ! Thương các Tông Đồ quá !
Đã vậy, lúc dong thuyền ra khơi, các Tông Đồ còn bị những con sóng dữ đánh cho chao đảo giữa biển đêm. Lúc ấy các ông lại không có Chúa hiện diện trên thuyền. Chúa muốn huấn luyện Đức Tin các ông nên vững vàng mạnh mẽ về sự hiện diện cách vô hình của Chúa trong không gian, thời gian, nhất là trước hoàn cảnh tưởng như Ngài đã vô tình biến mất.
Quả thật, Chúa vẫn có đó. Những bước chân của Ngài đi trên sóng, làm các Tông Đồ hoảng sợ, cứ tưởng là bóng ma kinh dị. Chúa Giêsu bảo: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”.
Thánh Phêrô đã tin vào Thầy mình. Bước xuống biển và đi trên sóng. Nhưng khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm, vội kêu lên “Lạy Thầy, xin cứu con !”
Biển nào không có sóng ? Nếu sóng biển là định luật tự nhiên của trời đất, thì giữa biển đời của các tín hữu, con sóng dữ là hình ảnh của quyền lực ma quỷ muốn nhận chìm con thuyền Đức Tin, không cho chúng ta có thể đến được bến bờ.
Vì thế, con thuyền của các Tông Đồ ngày xưa gợi lên hình ảnh của con thuyền Hội Thánh của mọi thời: Hội Thánh toàn cầu, Hội Thánh địa phương, Hội Thánh tại các gia đình cũng đang bị bao cơn sóng dữ tấn công: sóng dối trá bất công, sóng trụy lạc tha hóa, sóng vô luân thường vô đạo lý, sóng vô lương tâm vô kỷ luật, sóng phi nhân phi nghĩa, sóng hưởng thụ hôm nay và vô trách nhiệm ngày mai, sóng đốt nhà dân luộc cho nhà quan quả trứng ăn chơi… Tư bề sóng, muôn trùng sóng.
Trước giờ kinh của gia trưởng, có cuộc chuyện trò nho nhỏ:
“Xin hãy cầu nguyện cho gia đình tôi, sóng gió tơi bời...”
“Ở nhà ông làm gì có sóng mà tơi bời ?”
“Có chứ ! Sóng từ nhà bếp, sóng từ phòng ngủ, sóng cửa trước, sóng cửa sau, sóng trong sóng ngoài, lúc sóng âm ĩ ngầm ngậm, lúc lồng lộng lên như ác thần, kinh khiếp lắm ông ơi ! Đôi khi, còn có cả cá mập nữa ấy chứ, cứ muốn nuốt chửng người ta !”
Nếu mỗi người nhìn lại hành trình Đức Tin đời mình, có thể thấy chúng ta đã từng có những bước chân trên sóng đầy tin yêu phó thác như Tông Đồ Phêrô, nhưng cũng không biết bao lần chúng ta phải chào thua con sóng dữ, để con sóng dữ tự do tràn đến, phủ lấp, nhấn chìm đời mình.
Khi gặp những cơn sóng đời nghiệt ngã, chúng ta cũng đã từng thân thưa như Tông Đồ Phêrô rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con !”
Rất nhiều phen chúng ta đã kêu cứu rằng: Xin cứu con khỏi cảnh nghèo túng, nợ nần. Xin cứu con thoát vòng lam lũ, dãi nắng dầm sương. Xin cứu con khỏi cơn bệnh ngặt nghèo trầm kha bất trị. Xin cứu con khỏi cảnh ngục tù của một gia đình bất hạnh, chồng nguội, vợ lạnh, con cái tan tác như gà lạc bầy. Xin cứu con khỏi tiếng đời dị nghị hay khinh bỉ cười chê vì phút lỡ lầm đam mê ai mà không có. Xin cứu con khỏi nỗi oan trái của luật rừng rú hoang dã, không phải luật của người nhưng là luật của ngợm !
Và thỉnh thoảng chúng ta cũng lại gặp thấy những tiếng kêu cứu hơi khác thường: Xin cứu con thoát khỏi con sóng đam mê, trụy lạc. Xin cứu con khỏi lòng tham lam danh vọng tiền tài. Xin cứu con khỏi lòng hận thù ghen ghét. Xin cứu con khỏi những bất chính gian tà. Xin cứu con khỏi những lời dụ dỗ đường mật của các chuyên gia càng nói dối càng cưỡng bức người khác nói thật…
Lại thấy cũng có những tiếng kêu cứu thành khẩn hơn, nhất là khi con người đứng trước ngõ cụt của cuộc đời, đối diện với cái chết: Xin cứu con khỏi lửa hỏa ngục ngàn đời.
Vâng, đã có quá nhiều lời kêu cứu cho bản thân mình. Tiếc là quá ít lời kêu cứu cho Danh Thiên Chúa đang bị xúc phạm, khước từ, chống đối. Cũng quá ít lời kêu cứu vì ngộ ra lòng hèn tin của chính mình.
Vì khi đã tin tưởng và ký thác, chúng ta không được phép nhát đảm hay khiếp sợ. Tệ hại hơn nữa là: nhát đảm hay khiếp sợ còn được bảo kê bằng việc biện minh chủ quan lầm lẫn rằng ấy là sự khôn ngoan cần có của con rắn ! Từ đó kết án việc mạnh dạn làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Tin, cho Công Lý của anh em là điều chủ quan điên dại, hay liều lĩnh.
Thật ra, có những người đã mạnh dạn hy sinh làm chứng cho Chân Lý, nhưng nếu vì để sáng danh cho cái Tôi của mình, thì tự bản chất việc hy sinh ấy đã trở nên vô nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Nhưng không phải như thế ! Chúng ta có 117 chứng nhân Đức Tin được tôn phong hiển Thánh và hơn 300.000 tín hữu chịu chết vì đạo, họ là những người “không sợ” cách dại dột hay là người “không sợ vì tin có Chúa Kitô”.
Chúa Giêsu đang thành khẩn nói với tôi, với bạn rằng: Ngài luôn hiện diện ở bên tôi, bên bạn, và nhất là luôn hiện diện khi mỗi chúng ta gặp sóng gió, bão táp, gặp điều nguy khốn khiến ta khiếp sợ giữa biển đời thế gian. Điều cần thiết nhất là chúng ta phải vững tin Ngài vẫn đang và luôn hiện diện.
Tôi còn nhớ những ngày gian khó sau 1975, có một bài hát sinh hoạt của các em Thiếu Nhi Thánh Thể, mà Cha Gioan, Tuyên Úy Liên Đoàn TNTT Giáo Phận vẫn cùng hát với các huynh trưởng:
“Đừng tưởng lầm Chúa không quan tâm.
Người vẫn thức bên ta âm thầm.
Dù cuộc đời sóng xô cao dâng.
Hãy vững tin sóng lặng biển yên”.
Cho dù ta hát ca rong chơi,
Người vẫn đứng bên ta chung lời.
Cho dù lệ mắt ta tuôn rơi,
Chúa vẫn luôn bên ta người ơi.
Vì Người là Chúa tác sinh muôn loài,
vì Người là Vua vũ trụ thiên nhiên.
Vì Ngài là Chúa mến thương ta hoài.
Này này anh em vững tâm cậy tin.
Đừng tưởng lầm chúng ta đang thua.
Người vẫn đứng bên ta kiên trì.
Dù biển đời sóng xô lâm nguy,
Chúa vẫn luôn bên ta sợ chi.
Cho dù ta trốn đi nơi xa,
Người vẫn đến kêu ta về nhà.
Cho dù ta lãng quên ơn Cha,
Chúa vẫn luôn bên ta, người ơi…
Nếu Thánh Phêrô đã vì hèn tin, vì nghi ngờ, mà bị hụt chân chìm nghỉm giữa sóng gió biển khơi, thì mỗi chúng ta, cũng vậy, không ai tránh khỏi những lúc hèn tin, nghi ngờ vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa mà đâm ra hèn nhát hay buông xuôi thất vọng.
Lời Chúa hôm nay, nhắc nhớ mỗi người tin tưởng rằng: “Chúa vẫn luôn bên ta”, sức mạnh của ta là sức mạnh của Chúa, chiến thắng của ta là chiến thắng của Chúa. Tín thác nơi Chúa, chúng ta không hề chào thua trước quyền lực của con sóng dữ, vì nơi Thiên Chúa, cùng Chúa Giêsu, không hề có sự thất bại.
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu. “Có Thầy đây, đừng sợ”, cũng đồng nghĩa với việc đừng buông tay Thầy, đừng tin tưởng nắm níu tay thế lực chống lại Thầy, mà sẽ phải chuốc lấy cho mình những nỗi sợ kinh hoàng triền miên.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là sự chiến thắng của con trong trận chiến chính nghĩa. Chúa là sự bình an của con trong biển sóng tư bề, sóng muôn trùng. Chúa là thuyền trưởng cho thuyền đời con chắc chắn về đến bến bờ vĩnh cửu. Xin cứu con khỏi lâm cảnh hèn tin. Amen
PM. CAO HUY HOÀNG, Qui Nhơn 6.8.2011
------------------------------
Đức Giêsu đến trần gian không gì khác hơn ngoài sứ mạng mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Nước: TN 19-A68
Đức Giêsu đến trần gian không gì khác hơn ngoài sứ mạng mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Nước Trời cho nhân loại nhận biết, tin thờ và yêu mến. Thế nên trong toàn bộ cuộc sống của Ngài, lối sống, suy nghĩ, cử chỉ, hành động cũng như ngôn từ đều nhằm mục đích chuyển tải thông điệp chứng nhân Tình Yêu cho nhân loại. Tình Yêu ấy phát sinh từ cội nguồn Tình Yêu Thông Hiệp của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Yêu thương thế giới, nhưng Đức Giêsu không hề hành động trái ngược ý muốn của Thiên Chúa, nghĩa là Ngài sống và thi hành mọi việc theo như ý muốn của Cha, hoàn toàn qui hướng mọi sự về Cha. Bởi vậy mà trong suốt ba năm trường rao giảng, sau những bộn bề vất vả của những chuỗi ngày rong ruổi mệt nhọc, Ngài vẫn dành thời gian kết hiệp với Cha. Đối thoại, gặp gỡ, lắng nghe, trao đổi với Cha của mình. Hành động ấy không chỉ diễn ta một sự gắn bó mật thiết mà còn nói lên tầm quan trọng của việc qui phục Thiên Chúa.
Đến với Thiên Chúa Cha, con người không chỉ trò chuyện, sẻ chia mà còn để lắng nghe tiếng Ngài nói với. Nhân loại thường chỉ thích nói mà không thích nghe. Gặp gỡ Thiên Chúa, chỉ để trút lên vai Ngài những gánh nặng nhọc nhằn kiếp người, than thân trách phận, hay oán trách đất trời… còn chỗ đâu cho việc lắng nghe tiếng thì thầm yêu thương của Ngài ?!? Thiên Chúa không bao giờ thinh lặng, Ngài vẫn lên tiếng và hằng nói với nhân loại trong từng thời khắc cuộc sống, quan trọng là người ta có muốn nghe và biết lắng nghe không mà thôi.
Cứ nhìn Đức Giêsu trò chuyện mật thiết với Cha thế nào mà học đòi. Không có sự kết hợp nên một với Thiên Chúa làm sao có thể hiểu biết đường lối và thánh ý Ngài. Một tâm hồn có Chúa, một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa là những con người biết dành thời gian để lắng nghe tiếng Thiên Chúa nói với mình chứ không phải để Ngài nghe mình nói. Chỉ những tâm hồn biết lắng nghe, mới hy vọng dám sống thực thi ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm hồn con người, chả lẽ Ngài bưng tai bịt mắt nhẫn tâm làm ngơ trước những nỗi khổ đau nhân loại hay sao ?
Tất nhiên, khi đã có sự gắn kết yêu thương, mật thiết với Thiên Chúa, con người kín múc được niềm tin và sức mạnh, can trường bước đi, vượt qua mọi sóng gió, thử thách của cuộc sống để qui hướng trọn vẹn về Ngài. Bằng không, ngược lại là sự hoài nghi, ngờ vực, bất bình an. Cứ nhìn cách biểu hiện của các tông đồ hôm nay thì biết. Đó cũng là tâm trạng chung của nhân loại. Những con người được diễm phúc kề cận, chung vai sát cánh với Ngài trên con đường rao giảng, thế mà vẫn chưa tìm được niềm tin vững chắc, tiềm tàng trong mớ hỗn độn của cái được cái mất, cái chính cái thiện, vẫn là cái bản ngã đầy tính nhân loại: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” ( Mt 14, 28 ).
“Chính Thầy đây, đừng sợ” ( Mt 14, 27 ), không chỉ là ngôn từ riêng cho các Môn Đệ nhưng chính là thông điệp mà Đức Giêsu muốn dành cho cả nhân loại. Tin Thiên Chúa ở với mình, có Thiên Chúa ở trong mình… làm sao còn sợ hãi. Như thế, chỉ còn hỏi lại mình, nhìn lại chính mình, mỗi cá vị có thể nhận biết mức độ kết hợp với Thiên Chúa sâu xa đến mức độ nào. Một con người có Thiên Chúa thật, chắc chắn không còn biết đến sợ hãi là gì. Bởi sức mạnh, tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa vượt trên tất cả.
Cuộc sống muôn mặt, trong thật có giả, trong giả có thật. Cái nhân loại sở hữu tưởng rằng vững chắc trường tồn, thế nhưng thực tế lại trái ngược. Trong mọi sàng lọc, cái chuẩn mực, sự tồn tại vẫn là một minh chứng hùng hồn. Gữa một thế giới ngập tràn sự ác, người có Chúa, là của Chúa, thuộc về Thiên Chúa vẫn kiên dũng bước đi trong ánh sáng cứu độ.
Thế nhưng, niềm tin không được thử thách như vàng thử lửa, thì không phải là niềm tin thật. Nói để mà tin, mà yêu, hàng ngàn năm nay nhân loại vẫn làm. Tin và sống, là điều kiện cần và đủ để nhân loại khẳng định mình. Tôi có thuộc về hàng ngũ những con người có Thiên Chúa hay không, chỉ cần nhìn đến cách sống, hành động và suy nghĩ của tôi, là có thể đọc được câu trả lời.
Kiên cường đứng vững trước mọi gian truân thử thách của cuộc sống không phải là chuyện đơn giản. Lý thuyết ai cũng hiểu, cũng nắm bắt, nhưng thực tế phải mất mát, phải tử bỏ mình, phải hy sinh… người ta mới thấy hết được cái thách đố của nó. Nói tin yêu Thiên Chúa cũng vậy, không ai thấy khó khăn khi nói lời yêu nhưng sống tình yêu, hành động yêu, minh chứng yêu lại là cả một vấn nạn !
Thiên Chúa ở trong thinh lặng, Ngài ẩn mình trước mọi xao động của cuộc đời. Đằng sau cái ồn ào của cuộc sống, Thiên Chúa luôn hiện diện phù giúp, ban ơn cho nhân loại. Thế nhưng, con mắt phàm nhân thực dụng, tham vọng thì nhiều, mà từ bỏ lại ít, cho nên ở đâu cũng chỉ thấy tranh chấp, bất an và lo sợ. Một con tim chân chính, một tâm hồn dám sống cho chính nghĩa mắc gì phải sợ hãi, hoài nghi.
Lạy Chúa, hậu quả của những lần hoài nghi, thất đảm, thua thiệt… cũng chỉ vì sống tách rời Thiên Chúa, thu quén lợi ích tư riêng, con bỏ qua Đấng làm chủ cuộc đời mình. Chỉ muốn sống cho mình, tìm hạnh phúc của mình, con không còn nghe được tiếng Thiên Chúa yêu thương mời gọi. Nếu ở tận đáy lòng, con tin vào sức mạnh, quyền năng, tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, thì làm sao còn có những giọt nước mắt oán trách, hoài nghi. Được Thiên Chúa yêu thương là một đại phúc, sao còn có thể thách đố lòng khoan dung của Ngài.
Xin nắm tay con, hãy cầm tay con thật chặt, mặc cho cuộc đời sóng gió, mặc lòng người tráo trở đảo điên, cũng không thể bứt con ra khỏi vòng tay quyền lực đầy quan phòng của Ngài. Quá khứ đã qua đi, làn sóng nộ cuồng hung ác cũng đã lặng, tương lai vẫn là một bóng mờ mà chiếc thuyền đời con vẫn đương lênh đênh giữa biển đời đầy ô trọc. Dù có phải khóc với nắng với mưa và sóng gầm gió hú, mặc cho người người chê bai khinh bỉ, xin cũng hãy đợi con ở phía trước, xin hãy chờ con bước đến, vì chưng đi hết con đường nhân loại, nhất định con không phải truy tìm hưởng thụ chính mình, mà chính vì Ngài đang muốn… con đi !
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
------------------------------
Anh đã thấy, dáng em buồn cúi mặt,
Anh cảm lòng, vì lệ của thương đau.”
( dẫn từ thơ Đinh Hùng )
Anh cảm lòng vì lệ của thương đau hay thấy dáng em buồn ? Hẳn đó có là tâm trạng của nhà thơ khi: TN 19-A69
Anh cảm lòng vì lệ của thương đau hay thấy dáng em buồn ? Hẳn đó có là tâm trạng của nhà thơ khi xưa ? Em chạnh lòng là bởi xót thương hơn hờn giận, đấy mới là tình tự của nhà Đạo, rất hôm nay.
Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Mátthêu hôm nay, ghi về niềm tin vào Tình Chúa, có Thánh Phêrô dám bước khỏi thuyền mà đi bộ trên sóng nước. Nên chăng gọi đó là sự việc kỳ diệu hay phép lạ ? Gọi gì thì gọi, cũng nên nói rõ ở đây về những khác biệt giữa sự việc diệu kỳ và phép lạ. Bởi diệu kỳ là những gì ta không cắt nghĩa được vào mọi lúc. Ta ở vào thế giới có quá nhiều điều kỳ diệu nên chỉ cảm nghiệm chứ không giải thích được.
Nhà Đạo gọi sự việc kỳ diệu Chúa làm là “phép lạ”. Bởi phép lạ cũng tạo hành xử tốt đẹp hơn là chỉ cảm nhận những điều kỳ diệu ấy. Tốt đẹp là nhờ niềm tin. Tin chắc là Chúa hiện diện ở trong và ở trên mọi diệu kỳ. Và ta quyết sống thực điều diệu kỳ bằng cung cách rất đặc biệt. Bởi Chúa có làm điều huyền nhiệm diệu kỳ cũng vì ta, để ta sống cảnh tình đặc biệt ấy theo cung cách trực tiếp. Thế nên, phép lạ kỳ diệu là sự việc mà dân con thành tín vẫn tin rằng: Chúa hoạt động vì ta theo cung cách bất ngờ, đặc biệt.
Phải chăng ta vẫn tin phép lạ kỳ diệu vào mọi lúc ? Nhất định thế. Ta tin rằng: ai từng cảm nghiệm và tin Chúa vẫn đang làm điều diệu kỳ đẹp như thế. Nhưng vấn đề là hỏi rằng: Chúa có làm điều diệu kỳ như thế thường xuyên chăng ? Có thể là không, vì người người đều nghĩ Chúa chỉ thực hiện những điều hợp với thiên nhiên. Ngài để mọi sự trôi chảy cách tự nhiên, để con tim Ngài đập theo nhịp đập của thiên nhiên trần thế rất diệu kỳ. Và phép lạ kỳ diệu không là cung cách duy nhất giúp ta cảm nghiệm sống có Đức Chúa.
Trình thuật hôm nay kể về phép lạ diệu kỳ rất tự nhiên. Phép lạ mà đồ đệ Chúa đạt được là tin có Chúa hiện diện bên mình. Truyện kể về việc đồ đệ bắt được số cá nhiều vô kể. Việc Chúa truyền lệnh cho gió bão phải lặng êm. Về chuyện Ngài đi trên sông nước, như trình thuật hôm nay diễn tả, là Chúa thực hiện diệu kỳ cho người ngoài cuộc. Điều này không có gì để ngờ vực, cả về tính lịch sử cũng thế. Trình thuật kể nhiều về Chúa làm những việc lạ lùng hơn cả tự nhiên, là cốt cho dân con, người trong cuộc nhận thấy rõ. Ngõ hầu đồ đệ thấy đó mà tin vào Ngài. Truyện kể rất hay, rất giá trị, nhưng ta sẽ đọc và hiểu trình thuật phép lạ diệu kỳ như thế nào ? Có coi đó như sự thật rất lạ về Chúa không ?
Vấn đề là: ta có hiểu trình thuật phép lạ theo nghĩa đen không ? Hoặc chỉ như sự kiện cụ thể về Ngài. Hoặc ta phải hiểu trình thuật như một biểu tượng rất giả tưởng ? Phải chăng việc Chúa đi trên nước là có thật ? Hay đó chỉ là cung cách đem đến cho ta một luận cứ, một sứ điệp ? Hoặc cả hai ?
Về cảnh trí, sự việc xảy ra trên biển hồ Galilê, có đồ đệ lên thuyền để bắt cá. Thuyền không to nhưng rất vững, và kiên định. Hôm ấy, ngày đặc biệt Chúa dạy dân con đồ đệ hãy lên thuyền mà ra khơi, không có Ngài cùng đi. Ngài muốn ở một mình để nguyện cầu suốt cả đêm. Ngài nguyện cầu khi nhà cầm quyền những muốn ám hại, giết chết Ngài. Nguyện cầu chốn tư riêng nơi Vườn Dầu. Và đồ đệ Chúa đành miễn cưỡng tuân lệnh.
Đêm ấy, thuyền xa bờ chừng 5 cây số. Vẫn chìm trong bóng đêm chập chùng. Bỗng nhiên, phong ba bão táp dồn dập đến, khiến đồ đệ vốn đã mệt, lại càng mệt thêm. Các Thánh nào sợ gì giông bão vì các ngài vẫn nghĩ, mỗi khi gặp điều gì chẳng lành, đã có Thầy đoái hoài đỡ nâng. Và đêm ấy, các ngài đã thấy Thầy Chí Thánh bên mạn thuyền, trên sông nước. Ngại rằng Thầy sẽ chết ngụp vì mải đến với dân con đồ đệ. Nên đó cũng là lúc các Thánh lãnh nhận sứ điệp: “Anh em đừng sợ ! Hãy can đảm mạnh dạn lên ! Thầy đây vẫn phải giáp mặt với sự chết. Nhưng Thầy sẽ sống. Bởi sau cái chết, vẫn còn đó cuộc sống miên trường. Này đây, Thầy đã có mặt. Anh em cứ an tâm”.
Và các Thánh rất an tâm là: lúc nào cũng có Thầy ở cạnh bên. Các ngài thấy Thầy chầm chậm bước vào thuyền. Sóng gió bèn lặng yên. Thật ra, trình thuật nay muốn nói lên thông điệp quan trọng là: Chúa vẫn phải giáp mặt với sự chết. Nhưng Ngài lớn lao hơn cả cái chết. Kịp đến khi các Thánh nhận ra là Thầy đang ở cạnh bên, nơi mạn thuyền, thì rõ ràng là: Thầy còn cao cả hơn cả lớp sóng vỗ rất dữ dằn.
Thông điệp nay là thông tri để người người biết rằng: quyền uy cao cả của Đức Chúa luôn lớn hơn sự chết. Và những gì liên quan đến uy quyền của Ngài vẫn uy nghi cao cả hơn cả thiên nhiên vạn vật, hơn cả sự chết. Ai tin Ngài bằng niềm tin đích thực, thì chính Ngài là sự lạ lùng kỳ diệu ta ắt thấy. Trình thuật Chúa đi trên nước, nhìn dưới nhãn quan này, sẽ ăn khớp với tình huống xảy đến sau ngày Chúa sống lại, vẫn rất thật.
Tuy nắm bắt được thông điệp Chúa gửi, nhiều người vẫn tự hỏi: “Có thật là Chúa đi trên nước, không ?” Người Do Thái xưa, tin rằng Giavê vẫn làm thế. Họ tin chính Môsê cũng từng ra lệnh cho Biển Đỏ tách làm hai cột dọc nước rất khô, là để con dân Chúa xuất hành về Đất miền Ngài từng hứa. Có thể là một số người trong họ vẫn nhớ truyện thần thoại anh hùng hảo hán ở Hy Lạp, có hiền nhân cũng từng đi trên mặt nước. Có thể tác giả xưa từng sử dụng chi tiết ấy để nói lên sự thể về Đức Chúa lớn lao hơn cả anh hùng hảo hớn rất Hy Lạp. Hơn hẳn tổ phụ Môsê. Và ngang bằng với Giavê Thiên Chúa. Tác giả khi xưa, vẫn viết truyện kể rất phép lạ, để nói lên điều kỳ diệu Chúa vẫn làm. Nhưng phải chăng tác giả Tin Mừng nay muốn nói: truyện kể về sự lạ diệu kỳ đây, thật sự từng xảy đến ? Phải chăng, chính Thánh sử đây muốn minh chứng rằng: việc Chúa bước đi trên sông nước là có thật ?
Thật ra, khi ghi chép lại trình thuật hôm nay, tác giả Tin Mừng chỉ muốn đưa ra một biểu tượng để cho mọi người thấy là: trên thuyền Hội Thánh, vai trò của Chúa Đấng Thủ Lãnh rất hệ trọng. Chỉ mình Ngài là Đấng có trọng trách hướng dẫn hết mọi người. Đồ đệ thân thương của Ngài có thể giữ vai trò lãnh đạo, nhưng không thể cáng đáng con thuyền Hội Thánh, và cũng chẳng kham nổi sóng gió nếu như không có Ngài đỡ đần, phụ giúp, chở che.
Vấn đề là: ai làm được việc quản cai Hội Thánh, nếu Chúa không đỡ đần ? Cả đến Tông Đồ cùng dân con đồ đệ lẫn đấng bậc cao tít, đầy tớ Chúa, cũng chẳng thể tạo cho mình quyền uy cao cả, nếu không có Chúa phụ giúp. Như Thánh Mátthêu ghi rõ ở trình thuật.
Lời minh định rõ nhất mà trình thuật hôm nay đưa ra, là: sự lạ diệu kỳ được thể hiện nơi đặc trưng của Chúa, để mọi người tin Ngài. Tất cả, đều tin vào sự lạ diệu kỳ nơi bản thân Chúa, qua việc Ngài vượt trên phong ba bão táp, trên cả sự sống lẫn cái chết. Và hệ quả là: mọi hãi sợ nơi ta đã giảm bớt. Tác giả Tin Mừng, như Thánh Máccô và Mátthêu, cũng quan niệm như trên. Tuy nhiên, cho đến nay, Hội Thánh vẫn chưa có phán quyết rõ rệt về vấn đề này.
Thêm vào đó, Thánh Mátthêu ghi lại trình thuật hôm nay là rút tỉa từ truyện kể do Thánh Máccô sáng chế. Và Thánh Mátthêu còn thêm vào đó đôi điều cho hợp nghĩa. Lại nữa, ở trình thuật hôm nay, ta đều thấy Thánh Phêrô bao giờ cũng là người có tính hồn nhiên bộc trực, nên bất chợt thánh nhân bốc lên mà đi trên sóng nước để đến với Thầy. Thế rồi, không lượng được sức mạnh niềm tin nơi chính mình, Thánh nhân đã bị ngộp. Phải nhờ Thầy giơ tay nâng đỡ mới xong việc. Sự việc quả đã rõ: Thánh Phêrô chỉ nhận ra được phép lạ diệu kỳ là lúc bản thân mình được nâng đỡ chữa lành, chẳng do dự.
Thêm vào đó, sự lạ diệu kỳ ở trình thuật còn thêm là: Thánh Phêrô nhận ra được sự thật là: Thầy luôn ở cạnh mình, để mình được Thầy cứu vớt. Rất có thể, Thánh Mátthêu ghi trình thuật này, là để nói lên luận cứ về quyền lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phêrô không thể đi trên sóng nước, không giải quyết được phong ba bão táp của Hội Thánh, mà không có sự tiếp tay đỡ đần của chính Chúa.
Thành thử ra, ta có nghe và đọc trình thuật theo chiều hướng nào đi nữa, cũng chớ nên biện luận, tranh cãi, cách ly. Nhưng hãy cứ mạnh dạn đương đầu mọi khó khăn trở ngại trong cũng như bên ngoài Hội Thánh. Hãy vượt lên tất cả mà cùng đi với Chúa, vì Chúa, như Chúa vẫn làm. Và hãy khuyên nhủ bạn bè người thân: “Chớ hãi sợ ! Mọi sự đã có Chúa tiếp tay, đỡ đần.”
Tóm lại, dù mọi người mọi nhà đã có ao hồ ở sau vườn, cũng đừng thử thời vận mà bước đi trên sóng nước. Làm thế rất nguy hiểm, vì dù vẫn tin mình làm được, cũng đừng hành xử như thế, nếu không có phép của đấng bậc ở bên trên, của vị lãnh đạo nhà Đạo mình.
Rút tỉa bài học từ trình thuật trên, ta cũng nên ngâm nga lời ca của thi sĩ, vốn từng viết:
“Và từ đây, trong khe núi bên ngàn,
Các em dạo, làm những hồn oan khổ.
Anh bơ vơ, lạc trên đường thiên cổ.
Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu
Mất Anh rồi, các Em sẽ về đâu ?”
( Đinh Hùng – Cung Đàn Tưởng Niệm )
Quả có thế. Dù bơ vơ lạc lõng bên đường, trên sóng nước, các Em là Hội Thánh vẫn không mất đi người Anh Cả. Chẳng mất được Ánh Tinh Cầu. Bởi vẫn còn đó Nước Trời người anh em. Ở đây. Bây giờ.
Lm. NGUYỄN ĐỨC VINH SANH,
bản lược dịch của MAI TÁ, Sydney
------------------------------
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một: TN 19-A70
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan. Còn đức tin của chúng ta lúc này thì sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin của chúng ta lúc này đang yếu kém, thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay không?
Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Trong tác phẩm “Anh em nhà Karamaốp”, Dostoevski, kể lại rằng: Một bà già bị khủng hoảng về đức tin, đến hỏi ý kiến một vị linh mục. Cuối cùng vị linh mục đã đưa ra một phương cách để giúp bà củng cố niềm tin của mình, đó là bằng tình yêu. Vị linh mục nói: Hãy cố gắng yêu thương láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống mai hậu sau khi chết. Càng yêu thương, đức tin của bà càng lớn lên và những nỗi ngờ vực sẽ bị tiêu tan.
Từ lời khuyên này, chúng ta nhận thấy đức tin và đức mến luôn đi đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên kết với nhau mật thiết như xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa hay không? Nếu muốn, thì chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời buổi đầy ngờ vực này, thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm những điều ấy cho Ngài.
Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như thể Ngài là một người vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ Canaan của đoạn Tin Mừng hôm nay. Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với Chúa vì tình yêu, với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối với đứa con của mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.
Trong phạm vi đức tin, có những ngày tươi sáng và hứng khởi, nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như lúc này đức tin chúng ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng ta hãy thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta.
Sau thế chiến thứ II ít lâu, người ta thu dọn những đổ vỡ và người ta thấy trên một bức tường nhỏ, có hàng chữ sau đây của một người Do Thái đang trên đường trốn tránh bọn Đức quốc xã. Người Do Thái ấy đã viết như thế này: Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc nó vắng bóng. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.
------------------------------------------
Suy Niệm
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi: TN 19-A71
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Đức Giêsu. Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến, con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.
Đức Giêsu khen bà là người có lòng tin lớn lao. Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó.
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được? Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Đức Giêsu. Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi. Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài, và nài xin Ngài cứu giúp. Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng: "Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con." Bà có bị sốc không khi Đức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà không đáng được hưởng phần bánh của con dân Israel? Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.
Bà chấp nhận lối so sánh của Đức Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con, chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con. Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn.
Tin không phải là đòi hỏi. Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa, và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.
Đức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ dân ngoại vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài: Ngài chỉ được Cha sai đến với người Israel thôi. Nhưng Đức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua mọi cảnh ngộ, nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra, ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ. Ngài để cho mình bị chinh phục và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.
Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí. Thay đổi là trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta.
Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày, và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lòng tin lớn lao của người phụ nữ dân ngoại đã khiến Đức Giêsu đổi ý. Ngài đổi ý vì Ngài nghe thấy một lời mời gọi mới của Cha. Bạn là người uyển chuyển hay là người có tính nguyên tắc? Làm sao để uyển chuyển không trở thành thiếu kiên định, và tính nguyên tắc không trở thành cứng nhắc?
Bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn hiện nay? Bạn có còn tin vào Thiên Chúa không? Theo bạn, tin là gì?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
------------------------------------------
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa, tại Tia và Xiđon, vùng đất: TN 19-A72
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
***
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
***
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
***
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
***
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
***
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
***
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
***
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
***
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
***
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
***
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
***
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
------------------------------------------
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất: TN 19-A73
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.
Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?
2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?
3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?
------------------------------
Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện cho: TN19-A74
Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường vào rừng, tìm đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận lời ông và độ trì cho dân chúng.
Khi nhà đạo sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người kế tục. Họ tìm được một người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ trước kia thường đến cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.
Người này nói với Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng con tin chắc rằng Chúa không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thiên Chúa đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi khi đến nhờ ông cầu nguyện.
Khi người này qua đời, thì dân làng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Họ tìm được một người. Người này thuộc lời cầu nguyện, nhưng lại không biết chỗ cầu nguyện trong rừng.
Ông bèn thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, con biết không màng đến nơi chốn. Nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa. Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.
Thiên Chúa cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin ông cầu nguyện.
Thế nhưng đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân chúng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết chỗ trong rừng lại cũng chẳng thuộc lời cầu nguyện.
Ông đã thưa Chúa:
- Lạy Chúa, con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh mà chỉ lắng nghe nỗi thống khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thế là một lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân chúng trong làng. Nhưng sau khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết chọn ai thay thế nữa. Cuối cùng họ phải nài nỉ một người mà họ biết là không đạo đức chút nào. Ông ta chỉ biết có tiền bạc.
Ông càu nhàu với Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa là ai mà cứ bắt con cầu nguyện rồi mới ra tay cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu cứu đây tôi xin giao cho Chúa tất cả. Tuy Chúa muốn làm gì thì làm.
Nói xong ông quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu giúp.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng tượng được. Lời kinh, nơi chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải những gì cốt yếu để Thiên Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài. Điều cốt yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn vẹn.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa còn nghe lời kêu xin của một phụ nữ ngoại đạo ở Canaan, vì nhận thấy lòng kêu xin của bà thật là vững mạnh. Đức tin quả lấp đầy cái hố xem ra ngăn cách hồng ân Thiên Chúa với các dân ngoại. Bà đã kêu cầu với Chúa Giêsu bằng danh hiệu “Con Vua Đavit”. Bà có lòng trông cậy đặc biệt vào quyền năng cao cả của Ngài. Nhưng vì người ngoại đạo nên bà không phải là người mà Đưc Giêsu phải đến thực hiện lời hứa dành cho người Do Thái. Chúa làm thinh. Các môn đệ đã mau mắn can thiệp: “Bà đã làm cho chúng tôi điếc tai mất, xin Thầy bảo bà ta yên cho chúng con nhờ!”. Câu trả lời của Đức Giêsu “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”xem ra ăn khớp với yêu cầu của các môn đệ. Nhưng cũng cho thấy rằng, các con chiên lạc của nhà Israel có thể đôi khi lại ít gắn bó với Đức Giêsu hơn là những con chiên xa lạ trong dân ngoại. Quả thực, Đấng chăn chiên tốt lành đã không từ chối người này hay người kia.
Nghe câu trả lời có vẻ dứt khoát, người đàn bà không ngã lòng và cứ nài nẵng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Đến đây câu trả lời của Chúa lại có vẻ khinh bỉ hơn: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Ai cũng thấy rằng không nên so sánh như vậy, nhưng chắc cũng đoán ra rằng có lẽ là một thử thách lòng tin. Người đàn bà ngoại giáo Canaan cũng có thái độ như thế, bà đã chịu chơi không kém. Bà không phản đối mà còn tự nhận mình là “chó con”trong nhà để đòi được ăn những mảnh vụn rơi xuống đất, nghĩa là đòi cho con mình được khỏi bệnh. Đức Giêsu đọc rõ lòng tin tưởng của bà, Ngài như lấy làm ngạc nhiên về lòng tin của bà và đã nhận lời cùng với lời ca ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa thấu suốt tận đáy lòng con người và Ngài muốn tìm ở đấy trước hết là lòng tin. Với lòng tin chân thật thì bất cứ ai, dù là người ngoại đạo, cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Ngài là ơn phổ quát, cho mọi dân tộc. Ngày nay Chúa dùng Giáo Hội của Đức Kitô để cứu độ nhân loại qui tụ mọi dân tộc lại cho Ngài. Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ chung và duy nhất của cả nhân loại. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay cũng đã cho thấy: Thiên Chúa đầy lòng thương xót và muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Vì thế, Thánh Phaolo đã quyết định đi tới dân ngoại để đem lại cho Tin Mừng cứu độ. Rồi đây Do Thái và dân ngoại sẽ gặp nhau trong Giáo Hội của Đức Giêsu như một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chủ Chiên.
Thánh lễ tái diễn mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nhớ đến tình thương và ơn huệ lớn lao Ngài đã ban cho chúng ta qua Đức Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cùng với Ngài mở rộng cõi lòng yêu thương đến với hết mọi người, để ơn cứu độ phổ quát của Chúa có thể đến được với mọi dân tộc trên thế giới.
------------------------------
(1Vua 19, 9a.11-13a; Rm 9, 1-5; Mt 14, 22-36)
Tiên tri Êlia xuất hiện và làm nhiều việc phi thường tại miền Bắc Kinh Thành nước Israel dưới thời: TN19-A75
Tiên tri Êlia xuất hiện và làm nhiều việc phi thường tại miền Bắc Kinh Thành nước Israel dưới thời vua Ahab, vào thế kỷ thứ 9, trước Công Nguyên. Theo sách Các Vua, Êlia đã bảo vệ việc tôn thờ Thiên Chúa Yavê chống lại thần Baal thuộc xứ Canaan. Êlia đã thực hiện một số việc lạ lùng như cho kẻ chết sống lại, cho lửa từ trời xuống và được cất nhắc lên trời trong xe lửa. Trong sách Malachi, nói về sự trở lại của Êlia trước ngày Chúa quang lâm. Trong Tân Ước, có nhắc đến tên Êlia, khi người ta so sánh tiên tri Êlia với Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Ông Êlia xuất hiện cùng với Môisen trong sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê.
Chúng ta không biết nhiều về tiểu sử đời tư của tiên tri Êlia. Tên Êlia có nghĩa là Chúa của tôi là Yavê. Tại Israel, khi vua Ahab và hoàng hậu Jezebel tôn thờ các thần dân ngoại và xây dựng đền thờ kính thần Baal. Baal là thần xứ Canaan, họ tin rằng thần này chịu trách nhiệm về việc làm sấm chớp, mưa bão và sương sa. Jezebel nhập cư các thầy tư tế và các tiên tri của thần Baal vào đất Canaan. Êlia cảnh cáo và thách thức vua Ahab và các đồ đệ của thần Baal là sẽ có hạn hán trong ba năm. Êlia cũng đã thách đố quyền lực của thần Baal trên của lễ toàn thiêu. Kết qủa thần Baal chỉ là hư danh. Êlia đã toàn thắng trước mặt chư dân, nhưng vì ghen tương, bà hoàng hậu Jezebel tìm cách trả thù, nên ông phải trốn chạy lên núi. Chúa đã nâng đỡ an ủi ông trong cơn khốn cùng: Chúa phán cùng ông Êlia rằng: Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa. Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xẻ núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất (1Vua 19, 11).
Bài phúc âm hôm nay, sau khi Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, Chúa ở lại trong hoang địa để cầu nguyện. Thánh Matthêô viết: Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông (Mt 14, 25). Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Một sự kiện lạ lùng. Con người bình thường với sức nặng khi bước xuống nước sẽ bị chìm xuống. Ở miền Nam Do-thái, vùng Giuđêa có Biển Chết, nước rất mặn. Khi xuống nước tắm, chúng ta có thể nằm ngửa và thân xác sẽ nổi trên mặt nước và không cần phải cựa quậy chân tay. Khi đứng thì nhẹ nhàng nhưng nằm thì thân xác có thể nổi. Không ai có thể đi trên mặt nước. Trong một vài cảnh lạ quảng cáo trên truyền hình, đôi khi chúng ta cũng thấy có người đi trên mặt nước, nhưng phải cẩn thận quan sát vì có sự dàn dựng phía sau để che mắt thiên hạ. Cũng giống như tất cả các nhà ảo thuật, họ đều có kỹ năng chuyên môn để qua mắt bà con. Chúng ta có thể tìm hiểu về nguồn ngọn của các sự việc cách cụ thể trên sách vở báo chí.
Chúa Giêsu đi trên mặt nước và đến với các tông đồ vào ban đêm: Chúa Giêsu nói với các ông rằng: Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ (Mt 14, 27). Các tông đồ là những người chài lưới rất quen thuộc với khung cảnh sóng biển. Khi thấy sự kiện lạ, các ông hoảng sợ. Đúng thế, ai mà không sợ chứ! Một phản ứng rất tự nhiên của con người. Các sự kiện lạ vượt ra ngoài qui luật của không gian và thời gian. Chúa Giêsu củng cố đức tin của các ông bằng các dấu lạ, để các ông nhận ra uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta thấy các tông đồ được chứng kiến nhiều phép lạ mà Chúa đã thực hiện, nhưng tới lúc nguy nan và khó khăn, đức tin của các tông đồ cũng vẫn bị lung lay và sợ hãi.
Ông Phêrô tính tình rất thật thà và nhiệt thành. Ông đã xin Chúa cho đi trên mặt nước, Chúa chấp nhận, nhưng: Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sấp mình xuống nên la lên rằng: Lạy Thầy, xin cứu con (Mt 14, 30). Phêrô là dân chài lưới. Ông sống trên sông nước và tắm lội hằng ngày, vậy mà khi gió thổi mạnh, ông chìm xuống và vội la lên, xin Chúa cứu. Đứng trước Đấng có quyền phép vô cùng, Phêrô cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối. Ông cậy dựa vào tình thương của Chúa để xin cứu vớt. Có Chúa, con còn sợ chi ai. Tính tình của ông Phêrô rất bộc trực nhưng chân thành. Chúa Giêsu đã yêu thương và trao cho ông quyền trên các tông đồ. Chúa còn trao quyền cho ông cai quản Giáo Hội mà Chúa thiết lập. Chúa hỏi ông và ba lần ông đã tuyên xưng: Lạy Thầy, con mến yêu Thầy.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng đối diện với năm chìm bảy nổi. Nhưng các khó khăn và thất bại trong cuộc sống là những bài học giúp chúng ta sống trưởng thành hơn. Mới đây, trong một cuộc họp hàng tháng, chúng tôi đã chia sẻ về các vấn đề gây sự ưu tư trong cuộc sống đạo. Một linh mục chia sẻ rằng: Mỗi ngày cha đều dâng lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa, vậy mà sau ba mươi năm linh mục, cũng chẳng thay đổi được bao nhiêu. Tính nào vẫn tật đó. Các tính xấu cứ lập đi lập lại. Lời chia sẻ rất chân tình. Hầu như ai trong chúng ta cũng thế. Tội đó đã xưng mười năm trước, nay vẫn còn tái phạm. Đôi khi chúng ta muốn sửa đổi và chừa tội, nhưng chỉ thay đổi và chừa cải được chút chút. Sau vài suy nghĩ, tôi tự an ủi rằng: Dù sao chúng ta cũng còn tiếp tục ở lại trong ơn nghĩa Chúa cho tới ngày hôm nay. Cũng giống như thức ăn thức uống giúp nuôi dưỡng chúng ta qua tháng ngày, nhờ từng bữa ăn bổ sức mà chúng ta còn sống khỏe tới ngày hôm nay. Tạ ơn Chúa.
Mỗi ngày sống là một ngày mới hoàn toàn. Chúng ta cùng dâng lời tạ ơn Chúa. Sống ngày hôm nay cho trọn vẹn. Ngày hôm qua có bị ngã, bị chìm thì sự việc cũng đã qua. Chúng ta không thể làm gì được với quá khứ. Bình sành đã bể là đã bể. Hàn gắn lại là việc của ngày hôm nay. Chúng ta không nên ngồi đó để phiền trách về quá khứ đã qua. Cái đã qua giúp chúng ta học hỏi nhiều kinh nghiệm để tiến thân và sống tốt hơn. Đừng chìm đắm trong qúa khứ, nhưng hãy vui sống giây phút hiện tại mà chúng ta đang có đây. Phêrô đã chìm xuống nước và vội la lên, xin Thầy cứu con. Nếu có khi nào chúng ta bị rơi chìm, thất bại và chán nản, hãy nhớ rằng chúng ta có Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng có uy quyền trên hết mọi tạo vật. Hãy thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin cứu con!.
Phần thưởng của cuộc sống là sự an vui và hạnh phúc. Khi con người nhận rõ vai trò, sứ vụ và cùng đích của cuộc đời, thì không còn phải lắng lo nhiều. Niềm tin sẽ dẫn dắt chúng ta hoàn thành sứ mệnh của con người trong cuộc lữ hành. Hãy tránh dần sự tranh chấp vô thưởng vô phạt để duy trì tình thân ái. Bỏ bớt cái tôi cao ngạo và dễ ghét, để cùng hòa đồng xây dựng sự hài hòa trong an bình. Tất cả mọi sinh hoạt đều qui hướng tạo niềm an vui hôm nay và ngày mai. Niềm vui lớn lao nhất của chúng ta là được làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Trong niềm tin sống đạo và ân sủng của các Bí tích trong Giáo Hội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô, để đồng thừa hưởng gia nghiệp đã hứa ban. Không riêng gì dân Do-thái mà tất cả mọi người tin vào Chúa Kitô: Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phụng tự và lời hứa (Rm 9, 4). Chúng ta sẽ được thừa kế gia sản ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành sẵn cho loài người qua Con Chúa Nhập Thể và cứu chuộc.
Lạy Chúa, Chúa là chủ của muôn loài muôn vật. Chúa có quyền sáng tạo, biến hóa và tái tạo. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở thành những mảnh đất phì nhiêu sinh hoa kết trái nhân đức tốt lành trong cuộc sống. Xin cho chúng con can đảm tin tưởng và dõi theo lối bước của Chúa. Hãy lắng nghe lời của Thầy Chí Thánh: Thầy đây, các con yên tâm, đừng sợ!
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York
------------------------------------------
Phải chăng đoạn Tin Mừng sáng hôm nay phản ảnh cho một kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội thời: TN 19-A76
Phải chăng đoạn Tin Mừng sáng hôm nay phản ảnh cho một kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội thời sơ khai? Thực vậy, như một con thuyền tròng trành giữa biển khơi dậy sóng, Giáo Hội chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé và yếu đuối giữa một thế gian đối nghịch và không ngừng áp đảo...
Trong cuốn chuyện Quo vadis, tác giả Sienkievich đã đặt Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát trong thế đối diện với Néron, một hoàng đế hùng mạnh, chủ tể của trần gian. Phêrô đã run rẩy, ngẩng mái đầu bạc trắng của mình lên trời cao mà thầm thĩ kêu xin: Lạy Chúa, con biết làm gì với thành phố mà Chúa sai con tới. Của y nào là biển cả và đất liền. Của y nào là muông thú trên mặt đất cũng như thuỷ tộc dưới lòng đại dương. Của y nào là những vương quốc, thành quách và 30 chiến đoàn đang canh giữ. Còn con, lạy Chúa, con chỉ là một tên ngư phủ, sống quanh quẩn trên các mặt sông hồ. Con biết làm gì đây. Làm sao con thắng được sự dữ mà y đã gieo rắc.
Quả là mong manh, bé bỏng và yếu đuối, thế nhưng Giáo Hội vẫn không ngừng đi tới vì tin rằng Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện như lời Ngài xác quyết: Thầy đây, đừng sợ. Cho dẫu đó chỉ là một sự hiện diện vô hình, tưởng chừng như ảo ảnh. Thế nhưng cộng đoàn nhỏ bé ấy đã làm đảo lộn cả lịch sử. Néron đã biến đi như một cơn mộng dữ đẫm máu. Còn Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát vẫn còn đấy, đã chiếm lĩnh đến muôn thuở cả trần gian.
Cũng chính vì thế mà câu chuyện của 2.000 năm về trước luôn là nguồn suy tư và sức mạnh cho Giáo Hội, đặc biệt trong những giai đoạn phải đối diện với những khó khăn và thử thách, với những phong ba và bão táp, để ở đó, Giáo Hội hâm nóng lại niềm tin của mình và can đảm tiến bước.
Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Pháp vào năm 1989, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã lấy đoạn Tin Mừng hôm nay làm chủ đề để khai triển suy tư và tăng cường sức mạnh cho một Giáo Hội đã từng có thời kỳ vàng son đáng nhớ, nhưng hôm nay đang phải đối đầu với những vấn đề được xem là bi quan và nan giải.
Đồng thời, nếu hình ảnh Phêrô đi trên sóng biển được nhìn với tư cách người lãnh đạo Giáo Hội, thì Phêrô ấy cũng còn là hình ảnh tượng trưng cho từng người Kitô hữu đang sống trong lòng cuộc đời. Với niềm tin bên cạnh những giây phút nghi nan và ngờ vực. Với những niềm vui mừng xen lẫn những âu lo và sợ hãi. Với quyết tâm giữa những ngả nghiêng và chao đảo. Chính nơi con người Phêrô ấy mà mỗi người chúng ta sẽ nhận ra thân phận mỏng manh và yếu đuối của bản thân. Và nhất là nơi con người Phêrô ấy, chúng ta cần hun nóng lại niềm cậy trông và kêu cầu: Lạy Chúa, xin cứu vớt con.
------------------------------------------
– Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi đối diện với đau khổ chúng ta thường hỏi: Chúa ở đâu? Và khi đứng trước những nghi nan: TN 19-A77
Khi đối diện với đau khổ chúng ta thường hỏi: Chúa ở đâu? Và khi đứng trước những nghi nan chúng ta thường đặt điều kiện: "Nếu có Thiên Chúa xin hãy cứu con?". Thế nhưng, đau khổ vẫn cứ tiếp diễn trên thế gian. Mỗi ngày trôi qua chúng ta phải chứng kiến biết bao cái chết đau thương, biết bao những bất hạnh rủi ro đến với con người chúng ta. Nhìn vào cuộc đời khiến nhiều người bi quan bảo rằng: "Đời là bể khổ", hay 'Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh - Biết mình thế này thà đừng sinh ra". Quả thực, nếu sinh ra trong cuộc đời để rồi chịu cực, chịu khổ, chịu nhiều đắng cay đoạ đầy là một bất hạnh cho kiếp người chúng ta. Nhưng thực ra, trong cuộc sống vẫn có những niềm vui. Niềm vui của tình liên đới, của sự chia sẻ, của lòng bác ái, của tinh thần hy sinh dấn thân phục vụ vì lý tưởng và vì đồng loại...
Trong giáo xứ Bình Lâm có một em bé 6 tuổi tên là K' Thủ Lĩnh. Em vừa lọt lòng mẹ đã bị bỏ đi. Điều tệ hại là chính người vứt em đi đã bẻ gãy đôi chân của em thành tàn phế rồi mới bỏ em bên vệ đường. Em đã được một gia đình người dân tộc Châu Mạ đón về nuôi. Mỗi ngày em đi học phải có người bồng ẵm đi, nếu đi một mình phải đi bằng khuỷ chân thật tội nghiệp! Thấy cảnh thương tâm, giáo xứ đã quyết định đưa em đi bệnh viện để chữa trị đôi chân. Tại trung tâm chấn thương chỉnh hình ơn Chúa đã đến với em và giáo xứ. Vì đã có nhà tài trợ sẵn lòng trả toàn bộ chi phí cho ca mổ và suốt thời gian điều trị cho em. Đây là một món quà quá bất ngờ đối với gia đình mẹ nuôi của em và với giáo xứ. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì trên thế gian này vẫn còn đó những tấm lòng quảng đại được trao ban một cách quảng đại và vô vị lợi.
Thực vậy, nếu không có tấm lòng nhân ái được trao ban thì những bất hạnh rủi ro đến với nhân loại sẽ mãi mãi không bao giờ nguôi ngoai, nhưng nếu có nhiều tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ cho nhau, thì những đau thương mất mát sẽ sớm được hàn gắn và chữa lành. Vì có ai đó đã nói rằng:
"Có một đường đi, đi chung Đường sẽ vui hơn,
Có một quặn đau, đau cùng sẽ sớm nguôi ngoai".
Trở lại với bài phúc âm của Chúa nhật 18 thường niên, thánh Matthêu đã nhấn mạnh với chúng ta một điều: nếu không có lòng nhân ái của em bé dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và hai con cái, có lẽ đã không có phép lạ hoá bánh ra nhiều để chia sẻ với hơn 5 ngàn người đang đói vào buổi chiều hôm đó. Bài phúc âm hôm nay, Chúa còn khẳng định với chúng ta: sự dữ luôn có mặt ở quanh ta. Cuộc đời không thiếu những sóng gió nghi nan. Nhưng, Chúa có thể làm những điều tốt hơn từ trong những bất hạnh này. Em K' Thủ Lĩnh từ trong bất hạnh nhưng hôm nay em đã học được bài học về nhân ái khi đôi chân của em đang được chữa trị. Và Chúa Giêsu Ngài đã làm phép lạ từ lòng tốt của người dâng cho Chúa bánh và cá. Phải chăng, Chúa muốn dạy chúng ta bài học, khi đứng trước khổ đau của anh em mình, chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đang ở đâu khi khổ đau ập xuống anh em? Chúng ta đã làm gì cho anh em mình khi chứng kiến những cảnh tang thương và bất hạnh của anh em? Sự dữ vẫn đang hoành hành. Quyền lực của ác thần vẫn làm cho con người sợ hãi, đôi khi đánh mất niềm tin. Nhưng Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta: Anh em đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian. Thầy đã thắng thế gian, đó cũng là tiếng mời gọi các môn đệ của Chúa là chúng ta, hãy cũng với Chúa để chiến thắng sự dữ, để đẩy lùi cái ác ra khỏi thế gian, để xoa dịu những đau thương mất mát trong cuộc đời. Đồng thời Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đưa tay cho Ngài dìu chúng ta bước qua những khó khăn của dòng đời. Thánh Phê-rô đã có thể đi trên mặt nước, đi qua hiểm nguy khi ông nhận ra Chúa đang đến với ông. Cuộc đời chúng ta cũng chỉ bình an trước gian nan khi chúng ta tin tưởng rằng: Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những khó khăn của cuộc đời để Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi hiểm nguy.
Và hôm nay với biết bao khổ đau của tha nhân, Chúa cũng muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và lòng nhân ái của Chúa, khi chúng ta cùng cầm tay nhau vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Khi chúng ta biết chạnh lòng thương xót trước những bất hạnh của tha nhân. Khi chúng ta không phủi tay trốn tránh trách nhiệm trước những nhu cầu của thời đại. Vâng cuộc đời sẽ ấm áp hơn nếu mỗi người biết liên đới và chia sẻ cho nhau để làm vơi đi những khổ dau, những lắng lo trong cuộc sống.
Chúng ta có thể không có khả năng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng chúng ta có khả năng trao vào tay Chúa một chút lương thực ít ỏi, để Chúa có thể nhân rộng cho hàng ngàn người hưởng dùng.
Chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống.
Chúng ta có thể không khiến cho sóng gió ba đào im lặng, nhưng chúng ta có thể góp phần đầy lùi sự dữ và xoa dịu những đau thương bằng lòng quảng đại và nhân ái của chúng ta.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để chúng ta trở nên khí cụ mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của Chúa. Amen.
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 14,22-33) là một trình thuật được viết theo thể văn “thần hiện”, trong: TN 19-A78
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 14,22-33) là một trình thuật được viết theo thể văn “thần hiện”, trong đó, các yếu tố văn chương được sắp xếp để làm nổi bật một cuộc tỏ hiện lạ thường và bất ngờ của một hữu thể thần linh, dành cho một số đối tượng đặc biệt, nhằm mục tiêu mặc khải một phẩm chất hay một hành động thần linh.
Hôm ấy, sau khi dân chúng ăn no nê bởi phép lạ hóa bánh ra nhiều (14,13-21), “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng” (c.22). Đức Giêsu thúc giục, thậm chí là ép buộc, các đồ đệ xuống thuyền. Người muốn các ông mau chóng rời xa khung cảnh “huy hoàng” của một phép lạ cả thể, và rời xa đám đông đang phấn khích vì phép lạ đó. Chính Người đảm nhận việc giải tán đám đông dân chúng này.
“Giải tán xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Người vẫn ở đó một mình” (c.23). Đây là lần đầu tiên Mt nói về việc Đức Giêsu cầu nguyện, cho dù, như Lc cho thấy, đây là một việc làm rất thường xuyên của Người. Lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng Mt kể về việc Đức Giêsu cầu nguyện sẽ là trong câu chuyện ở vườn Ghếtsêmani (26,36tt). Điều này kín đáo cho chúng ta hiểu nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu tối nay trên núi, khi Người ở riêng một mình, còn các môn đệ thì đang ở trong thuyền lênh đênh trên biển. Quả thực, sự kiện Người vội vã bắt buộc các môn đệ rời xa đám đông sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, và sự song song của cảnh tượng cầu nguyện này với trình thuật Ghếtsêmani, cho phép chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở đây có liên quan đến cám dỗ về lý tưởng Mêsia hiển thắng mà các môn đệ của Người (và Hội Thánh mọi thời) phải đối diện. Nói cách khác, sự kiện Đức Giêsu buộc các môn đệ xuống thuyền khi Người giải tán đám đông, đề nghị một cách hiểu Đức Giêsu cầu nguyện suốt đêm cho các môn đệ, để họ không bị sa vào chước cám dỗ về một Đấng Mêsia quyền năng, hiển hách, “hoành tráng”.
Khi Đức Giêsu đang cầu nguyện một mình trên núi, thì chiếc thuyền của các môn đệ “đã ra xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (c.24). Trong Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Các môn đệ đang ở trong con thuyền ấy, còn con thuyền thì đang lênh đênh giữa biển.
Trong tư duy Thánh Kinh (x. Is 27,1; 51,9t; Đn 7; G 7,12…), biển là nơi cư ngụ của các mãnh lực tà thần. Khi con thuyền đã ra xa bờ “cả mấy cây số” (dịch sát: nhiều stađiôs; mỗi stađiôs = 185m), tức là con thuyền đang ở giữa vùng cư ngụ và hoạt động của các mãnh lực đó. Cộng đoàn các môn đệ, như thế, đang ở trong tình trạng bị đe dọa bởi các mãnh lực của bóng tối và quyền lực tà thần.
Con thuyền của các môn đệ đang bị sóng đánh vì ngược gió. Trước đây, ở 8,24, tác giả Mt đã từng dùng một lối nói đặc biệt hơn nhiều để mô tả hoàn cảnh của cộng đoàn Hội Thánh: con thuyền bị tra tấn (basanizô) bởi các cơn sóng. Khi viết về tình trạng con thuyền ở 8,24 cũng như ở 14,24, có lẽ tác giả Mt liên tưởng đến những hoàn cảnh đau khổ mà Hội Thánh phải trải qua khi thi hành sứ mạng. Nhưng có sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh. Một bên là những cơn sóng “tra tấn” con thuyền, như thể có “động đất” (seismos) trên biển (x. 8,24), tức là những khó khăn đến từ xã hội bên ngoài, từ những hoàn cảnh biển đời nổi sóng “hành hạ/tra tấn” con thuyền Hội Thánh. Còn bên kia, trong 14,24, là một nguyên nhân bên trong: trạng thái tâm linh và tinh thần không đúng đắn của các môn đệ. Đức Giêsu sai các môn đệ xuống thuyền để “sang bờ bên kia” (c.22), là nơi mà các ông đã từng đến với Người (x. 8,28), tức là trong một vùng dân ngoại. Ngọn gió thổi ngược (c.24) ngăn cản các môn đệ thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, có lẽ chính là phản ứng của các ông khi phải rời bỏ nơi chỗ vừa diễn ra một biến cố hoành tráng cả thể, rời bỏ nơi chỗ trong đó vừa bùng lên niềm hy vọng về một sự chiến thắng hiển hách, tức là niềm hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ trở thành một thủ lãnh huy hoàng của đám đông dân chúng đang phấn khích vì được ăn no nê sau một phép lạ cả thể. Chính trạng thái tâm hồn không muốn rời xa niềm hy vọng đó đã làm cho con thuyền của các môn đệ tròng trành: con thuyền bị ngược gió.
“Vào khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (c.25). Trong sách Gióp, Thiên Chúa “đi trên mặt nước” (G 9,8: “Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”; x. 38,16). Bằng cách lướt đi trên mặt biển, Đức Giêsu cho thấy Người là Đấng được Thiên Chúa ban cho quyền lực thần linh tuyệt đối.
Nhưng phản ứng của các môn đệ lúc này là phản ứng của sự không tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. Trong cái trạng thái tâm linh không thích hợp như đã nói trên kia (“ngược gió”), khi được nhìn thấy sự thể hiện phẩm tính và quyền lực thần linh của Đức Giêsu qua việc Người đi trên mặt biển mà đến với họ, các môn đệ đã không có lòng tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. “Thấy Người đi trên mặt biển, các môn đệ hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’ và sợ hãi la lên” (c.26). Họ không nhận ra nơi Đức Giêsu vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. 1,23). Và vì thế, họ từ khước chấp nhận mọi tính cách hiện thực trong sự hiện diện của Người bên cạnh họ. Họ nghĩ đó là ma! Họ từ chối thực tại Người – Chúa nơi Ngài.
“Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (c.27). Đối diện với phản ứng tiêu cực và sợ hãi của các môn đệ, Đức Giêsu tự giới thiệu mình. Mệnh đề “cứ yên tâm” nhằm trấn an các môn đệ khỏi nỗi sợ mà các ông đang trải qua vì thiếu lòng tin. Ứng với lời kêu gọi đó là một khẳng định quan trọng “chính Thầy đây!”. Lời khẳng định này trước hết nhằm mục tiêu điều chỉnh: chính là Thầy đây chứ không phải là ma như anh em lầm tưởng. Nhưng đồng thời, lời khẳng định này lại trùng khít với biểu thức mà Thiên Chúa đã dùng để tự mặc khải về chính mình trong Cựu Ước (x. Xh 3,14; Is 43, 1.3.10t).
“Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (c.28). Ông Phêrô có vẻ tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó là lòng tin vào quyền năng làm những sự lạ lùng của Đức Giêsu chứ không phải là lòng tin vào tình yêu của Người. Ông muốn được “đi trên mặt nước” tức là muốn được tham dự vào cái điều kiện và thân phận thần linh của Đức Giêsu. “Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” (c.29a). Chúa không từ chối ông Phêrô, trái lại, còn mời ông thực hiện ước muốn của ông. Vấn đề không phải là Người sẵn sàng thỏa mãn tham vọng của ông Phêrô. Thực ra, mọi kẻ đi theo Người đều được mời gọi đón nhận và sống trong tư cách và thân phận của người con Thiên Chúa (x. 5,9). Vì thế, Đức Giêsu không ngần ngại bảo ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Vậy “ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (c.29b).
“Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ” (c.30a). Ông mong được hưởng một điều kiện thần thiêng không có bất cứ chướng ngại vật nào. Ông vẫn mang tâm tính của một người mong phép lạ. Ông vẫn ước mong một cuộc “đến với Thầy” theo một cách thức lạ thường, huy hoàng và không khó khăn. Ông đã quên mất rằng người ta trở nên con Thiên Chúa là giữa những chống đối, bách hại và khó khăn mà thế gian gây ra, như chính Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,10-11).
“Khi bắt đầu chìm, ông Phêrô la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (c.30b). Nỗi sợ hãi của ông Phêrô ở đây cũng giống như nỗi sợ hãi của các môn đệ trước đây trong câu chuyện con thuyền của các ông bị “tra tấn” bởi các con sóng lớn trên biển (x. 8,23tt). Trong câu chuyện đó, cũng như trong câu chuyện hôm nay, các môn đệ hoặc ông Phêrô đều kêu cầu với Đức Giêsu, xin Người can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Thái độ và cách hành xử này, xét theo một khía cạnh, là thái độ đáng khen. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng lời xin của ông Phêrô ở Mt 14,30 phảng phất thái độ và quan niệm được diễn tả trong Tv 18,5-18 và Tv 144,5-7, theo đó, người cầu xin mong chờ một sự can thiệp ngoại thường của Thiên Chúa từ trời cao để giải quyết tình trạng bi đát và tuyệt vọng của con người.
“Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (c.31). Tất nhiên Đức Giêsu sẵn sàng can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải là những can thiệp ngoại thường, mà là sự ở với của Người. Khi có Người ở với, người ta có thể làm được mọi sự (x.19,26) và chắc chắn sẽ được cứu.
“Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng” (c.32). Sự đối nghịch và thậm chí là phản kháng của các môn đệ đối với lệnh truyền phải rời xa tham vọng về một vương quốc Mêsia huy hoàng chiến thắng, bây giờ chấm dứt: “Gió lặng”. Cơn gió thổi ngược ấy vốn là sự kiếm tìm sự vẻ vang phàm trần.
Bấy giờ, “những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (c.33). “Những kẻ ở trong thuyền” tức là cộng đoàn Kitô hữu ở trong Hội Thánh. Cộng đoàn ấy bây giờ tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và tuyên xưng lòng tin ấy.
Lời tuyên xưng này được đặt ở cuối trình thuật, tức là sau khi Đức Giêsu đã lướt đi trên mặt biển đồng thời tự mặc khải về mình bằng cách sử dụng chính biểu thức mà Thiên Chúa tự nói về Người trong Cựu Ước (“Ta là”), và sau khi Đức Giêsu đã can thiệp để cứu ông Phêrô khỏi tình trạng bị chìm xuống biển. Vì thế tước hiệu “Con Thiên Chúa” được áp dụng cho Chúa Giêsu ở đây vừa mang giá trị Kitô học, vừa mang ý nghĩa cứu độ học. Đồng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học) và quyền lực ấy được thi thố để cứu các môn đệ (phương diện cứu độ học).
Đó chính là xác tín đức tin vĩ đại mà Hội Thánh muốn công bố với chúng ta hôm nay, và đồng thời cũng là xác tín đức tin làm nền tảng cho cuộc sống của mỗi tín hữu và của tất cả Hội Thánh trong hiện tại.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Hơn một lần Đức Giêsu mời gọi các môn đệ rời xa lý tưởng Do Thái về một vương quốc Mêsia đắc thắng kiểu thế gian. Trong bài Tin mỪng hôm nay, Người bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước, tránh xa cám dỗ tận dụng phép lạ hóa bánh ra nhiều để mơ tưởng về một phong trào Mêsia hoành tráng… Ngày nay, hình như Người vẫn thường phải yêu cầu chúng ta xuống thuyền ngay và sang bờ bên kia như vậy, thay vì mơ tưởng về một Hội Thánh bách chiến bách thắng bề ngoài với hàng loạt lễ hội không có thực chất Tin Mừng.
2. Sẽ có gió ngược làm cho con thuyền Hội Thánh tròng trành, và gió ngược đó trước hết là ngược với hướng mà Chúa Giêsu yêu cầu các mộ đệ nhắm tới. Chính những mơ tưởng về một Hội Thánh đắc thắng ngược với lý tưởng của Đức Giêsu sẽ là một trong những ngọn gió ngược đó. Rồi biết bao toan tính, biết bao chương trình, biết bao tham vọng ngược với bản chất và sứ mạng đích thật của Hội Thánh…
3. Lướt đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ trong đêm, sử dụng chính biểu thức “Ta là” của mặc khải Cựu Ước về Thiên Chúa để tự trình bày về chính mình, Đức Giêsu cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa và nắm trong tay quyền lực thần linh tuyệt đối. Và Ngài đến với con thuyền Hội Thánh trong tư cách Con Thiên Chúa có quyền linh tuyệt đối đó. Đó không chỉ là chuyện xưa, mà còn là chuyện của ngày hôm nay nữa. Chúng ta có tin thế không? Chúng ta có cảm nghiệm về thực tại đó không?
4. Chấp nhận cho ông Phêrô tham gia vào thân phận Con Thiên Chúa (= đi trên mặt nước) của mình, cứu ông khi ông chìm xuống biển vì thiếu lòng tin, cùng ông lên thuyền và khiến gió ngược phải yên lặng, Đức Giêsu cho thấy chính Người, trong tư cách là Con Thiên Chúa có quyền lực thần linh tuyệt đối, là Đấng cứu độ nhân loại. Chúng ta trải nghiệm quyền năng cứu độ đó như thế nào?
------------------------------------------
– Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn Duy quả là suy niệm thật: TN 19-A79
Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn Duy quả là suy niệm thật thích hợp cho chủ đề Lời Chúa của tuần 19 thường niên năm A. Câu chuyện “Chúa đi trên mặt biển” và sự kiện “chìm nghỉm” của Phêrô đã nói lên thực tại thân phận con người khi phải đối diện với những sức ép của mãnh lực thiên nhiên,thế lực trần gian và cả chính sự yếu đuối tự thân của mỗi người. “Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống tòan những hoa hồng”. Nhiều khi, chúng ta tưởng rằng mình đã đủ lớn,lớn cả thể xác, lớn cả chức vị nhưng thực ra chúng ta cũng chỉ là một tạo vật thật tầm thường, bé nhỏ và yếu đuối giữa biển đời mênh mông, đầy bão tố.
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ thiên nhiên. Những đợt sóng dữ, dồn dập vỗ tứ bề, con thuyền thì chòong chành sắp chìm, bầu trời phủ một màu đen tối, chẳng thấy đâu là bến bờ. Tất cả làm nên sức mạnh của thiên nhiên khiến cho con người phải hỏang sợ và mất hết phương hướng, mặc cho những kinh nghiệm từng trải của đời ngư phủ. Sức ép về tâm lý đã làm cho các môn đệ cảm thấy chới với, mệt mỏi và buông xuôi, hỏang hốt bảo nhau “Ma đấy!” Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ con người. Những cơn bão tố đến từ quyền lực, trù dập, phe cánh xem ra thời nào cũng tràn ngập xã hội và cả ngay trong lòng giáo hội, làm mất “lửa tông đồ” và gây tác hại mất cả niềm tin. Biết đâu là chân lý, còn đâu là tình anh em huynh đệ hay chỉ là chập chùng thử thách và đêm tối. Chẳng còn ai có nhuệ khí mà chống chèo, chẳng còn ai nhiệt tâm phục vụ, trước những cơn bão quyền lực, hay cái tôi nội bộ làm thui chột tính chiến đấu. Hoảng hốt và sợ hãi là tâm trạng chung của các tông đồ ngày xưa và cả ngày nay trước sức ép ngược gió đến từ con người! Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ chính bản thân: Bệnh tật, yếu đuối và cả những cơn “cám dỗ ngọt ngào” của xác thịt, quyền lực, tình cảm đang làm cho mọi người ngày càng mất hết phương hướng giữa chợ đời đầy dẫy những cạm bẫy. Giá trị của con người đang bị đảo lộn bởi những thách thức của nếp sống văn minh hưởng thụ, bởi trào lưu chạy theo thành tích bề ngoài, “yêu cuồng sống vội, đầy thác loạn”. Con người cứ luôn phải đối diện với những “cơn sóng ngược” khi sống niềm tin của mình. Mất hết niềm tin!
Không có Chúa trên thuyền cùng đồng hành, các môn đệ một mình đương đầu với những cơn sóng dữ. Cảm giác bị bỏ rơi và cô độc, lẻ loi sẽ mãi là những cơ hội làm cho các tông đồ cảm thấy hỏang hốt, sợ hãi và đánh mất hết phương hướng. Con người đang dần dần tự đánh mất hết niềm tin vào những giá trị tôn giáo và chỉ cần những thử thách nho nhỏ, những khó khăn hay những đòi hỏi hy sinh, con người sẽ bị chao đảo, và chìm nghỉm trong vực thẳm của đam mê dục vọng.
“Sao con lại hoài nghi”. Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về sự tín thác, tin cậy vào Ngài. Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người thật mong manh và yếu hèn của chúng ta. Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ” nhưng rồi “ông vẫn sợ”
“Sao con lại hoài nghi”. Đó chính là thực tại của con người chúng ta hôm nay khi mà trước mắt bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng ta không còn vững tin vào Chúa. Tiền bạc, dục vọng, quyền lực đang ngày càng làm lu mờ con mắt đức tin của chúng ta.
Lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chết mất”. Mang thân phận con người với sự giới hạn vì “gió ngược”, niềm tin của chúng con dễ tròng trành giữa biển đời với biết bao thử thách. Xin Chúa hãy là “núi đá” là “điểm tựa” để chúng con cậy trông và tín thác. “Thưa Thầy, xin cứu con với” …..“Vì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.
Con đang cần đến Chúa từng phút giây, khi an vui cũng như khi sầu đầy”…. Amen.
------------------------------
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17: TN 19-A80
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17 của Tin Mừng Matthêu. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: "Tiến tới việc loan báo Giáo Hội"hoặc "Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời" hoặc "Hành trình đức tin trong Giáo hội", bởi vì qua các chương này, tác giả Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
- Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin..." (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
Về thể văn, truyện Đức Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là thể văn "hiển linh" (épiphanie. Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27). Thể văn này được định nghĩa là: Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường thuật một cuộc tỏ mình bất ngờ và lạ thường của một hữu thể thần linh hoặc thiên quốc, được một số người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh mạc khải một phẩm tính, một hành động hoặc một mạc khải thần linh. Đặc điểm của thể "hiển linh" là nó cho thấy một vài phương diện của hoạt động Thiên Chúa nhằm cứu độ dân Ngài.
Ở bên trong tác phẩm Mt, truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió (8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung cấp một lời tuyên xưng mào đầu của các môn đệ, chuẩn bị cho lời tuyên xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với TM I để minh họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu trong tư cách là Con Thiên Chúa.
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A - Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (14,22-24):
a) (22)
b) (23a)
b') (23b)
a') (24)
B - Đức Giêsu đi trên mặt biển (14,25-27):
a) (25)
b) (26)
a') (27)
B'- Phêrô đi trên mặt biển (14,28-31):
a) (28-29a)
b) (29b)
b') (30)
a') (31)
A'- Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (14,32-33):
a) (32)
b) (33)
3.- Vài điểm chú giải
- cây số (24): Từ ngữ Hy Lạp gốc là stadion, "dặm" (NTT) = 192 m. Hồ Ghennêsarét có chu vi khoảng 53 km (33 miles), dài khoảng 21 km (13 miles), và rộng khoảng 13 km (8 miles). Diện tích khoảng 166 km2 (64 sq mi), và sâu tối đa khoảng 43 m (141 feet). Hồ thấp hơn mặt biển 214 m (702 ft).
- Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong Tin Mừng Matthêu, "con thuyền" là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được xác nhận khi tác giả viết rằng con thuyền bị "tra tấn (hành hạ)" (basanizô) bởi các con sóng (chứ không nói như Mc 6,48: "các ông phải vất vả chèo chống"). Kiểu nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có "động đất" (seismos) trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ đến các đau khổ Hội Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, "biển" là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7...). Nói rằng "đang ở trên mặt biển" có nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy "biển" ở đây là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu.
- canh tư (25): Canh (phylakê) tư ở vào khoảng từ 3g đến 6g sáng.
- đi trên mặt biển (25): Cụm từ epi tên thalaasan có thể có nghĩa là "về phía biển". Do đó, có những tác giả cho rằng Đức Giêsu đứng trên bờ mà làm yên sóng gió (Paulus; Jeremias; J. Duncan Derrett). Tuy nhiên, theo ngữ cảnh, phải hiểu là "trên biển".
- hoảng hốt (26): Đây là phản ứng của con người khi tiếp cận với thần linh (x. Xh 19,16; Ed một,4...).
- Chính Thầy đây (27): Trước tiên, egô eimi là một lời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ không phải là ma như anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên Chúa dùng dể tự giới thiệu với Môsê (Yhwh: x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có một sự song đối giữa Đức Giêsu và Yhwh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (22-24)
Vừa cho đám đông ăn no xong, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền. Chúng ta nhớ đến 8,23; nhưng lần này Đức Giêsu không đi với các ông. Tác giả Mt không nói là các môn đệ đi Bếtxaiđa như Mc (6,45), vì biết rằng Bếtxaiđa không gần Ghennêsarét. Ngài sửa một sai lầm của Mc mà không quan tâm đến địa lý. Đức Giêsu lên núi một mình để cầu nguyện. Cũng như ở 17,1-8, "núi" là nơi đặc biệt gần kề Thiên Chúa. Lúc này, trời đã tối.
Thuyền của các môn đệ đã xa bờ nhiều stadia và đang bị sóng "tra tấn" (basanizomenon). Hẳn là tác giả chủ ý dùng từ thuộc thế giới con người cho con thuyền. Nước, bão, và đêm là những biểu tượng của tình trạng cùng quẫn, sợ hãi và chết chóc, rất quen thuộc với Hội Thánh, được rút ra từ các Thánh vịnh (nước: Tv 18,16-17; 32,6; 69,2-3.15; đêm: Tv 91,5; 107,10-12; bão: Tv 107,23-32; Gn 1–2).
* Đức Giêsu đi trên mặt biển (25-27)
Canh tư, từ 3g đến 6g sáng, cũng là giờ mà theo Kinh Thánh, Thiên Chúa can thiệp để cứu trợ Dân Ngài (x. Xh 14,24; Tv 46,6; Is 17,14), và theo truyền thống Kitô giáo, là giờ Đức Giêsu sống lại (x. 28, 1). Vào giờ này, Đức Giêsu băng qua hồ, bước trên mặt nước, mà đến với các môn đệ (c. 25). Thấy một dáng người di chuyển trên mặt biển, dễ hiểu vì sao các môn đệ nghĩ đây là một hữu thể siêu nhiên, một bóng ma, và các ông hốt hoảng.
Nhân vật thần linh bắt đầu lên tiếng: egô eimi không kèm theo một túc từ nào cả. Đức Giêsu không nói rằng Người là cái này hay cái kia, nhưng chỉ nói: "Là Thầy". Ở bề mặt, đây là cách người nói quy về chính mình. Vậy Đức Giêsu đã đánh đổ "bóng ma" bằng cách chỉ vào chính bản thân Người, và các môn đệ thì biết Người. Tuy nhiên, ở bề sâu, công thức egô eimi (Híp-ri: 'aný hu') nhắc lại lời Đức Chúa (Yhwh) tự giới thiệu mình trong Kinh Thánh (x. Đnl 32,39; Is 41,4; 43,10; 45,18-19; 48,12; 51,12). Đức Giêsu bảo: "Chính Thầy đây, đừng sợ!". Ở trong Kinh Thánh, Thiên Chúa ngỏ lời với các tổ phụ và Israel bằng câu: "Đừng sợ, Ta là..." (St 15,1; 26,14; 28,13; 46,3; Is 41,13. x. c. 10; 43,1.3). Vậy lời nói của Đức Giêsu là một bản văn đa chiều kích: Với câu "Là Thầy", ở bề mặt, các môn đệ được quy hướng về con người Giêsu mà họ biết. Còn bên trong, họ trải nghiệm một điều thuộc vị Thiên Chúa của Kinh Thánh.
* Phêrô đi trên mặt biển (28-31)
Đức Giêsu chưa làm yên sóng gió. Thay vào đó, Phêrô trả lời Người. Ông thưa với Đức Giêsu bằng công thức của người môn đệ, "Thưa Ngài (kyrie)", và xin vị Chúa này truyền lệnh cho ông đến với Người. Thế là thay vì vị "thần", Giêsu, thì lại là con người, Phêrô, muốn bước đi trên mặt nước. Ai cũng biết rằng việc này không thể làm được, cũng như không thể xê dịch núi non (x. 17,20). Lời thỉnh cầu này nhắm đến một điều không thể được cho thấy đức tin của Phêrô, nghĩa là niềm tin tưởng ông đặt vào con người có mọi quyền trên trời dưới đất (Mt 28,18). Tuy nhiên, câu nói "nếu quả là Ngài" lại báo trước sự hoài nghi sẽ xuất hiện trong nỗi sợ hãi của ông khi bước đi trên mặt nước. Đức Giêsu ban lệnh truyền như Phêrô xin ("Cứ đến"). Đây là nền tảng trên đó ông có thể hành động. Lệnh truyền của Đức Giêsu là nền tảng để con người có thể hoạt động. Vậy, nếu có đi được trên mặt nước, Phêrô cũng chẳng phải là một thầy phù thủy hay một siêu nhân; ông chỉ vâng lời Chúa của ông thôi.
Nhưng ông đâm sợ. Không phải là nỗi sợ hãi do gặp một nhân vật thiên giới, nhưng là sợ bão, sợ bị đe dọa, sợ không được an toàn. Tác giả Mt dùng các từ của Tv 69,2-3 (x. cc. 15-16): Khi bước đi trên mặt "nước", "nhìn vào gió" (blepôn ton anemon) thay vì nhìn vào Chúa của ông, ông bắt đầu "chìm" (c. 30), ông liền "kêu" lên: Thưa Ngài, "xin cứu con" (các từ trong ngoặc đều trích từ Tv 69).
Đức Giêsu đưa tay ra nắm lấy Phêrô và nói với ông. Ở bề mặt, cử chỉ này của Người là cần thiết để cho Phêrô khỏi bị chìm. Nhưng ở một chiều sâu khác, hẳn là tác giả Mt nghĩ đến Tv 143,7: Đức Giêsu cung cấp sự che chở của Thiên Chúa. Đối với tác giả, điều quan trọng là sự hiện diện cứu độ này của Thiên Chúa không có nghĩa là không còn bão tố, nhưng là ta trải nghiệm được sự hiện diện này ngay trong gió bão. Những ai dám vâng lời và di chuyển ra bên ngoài sự an toàn của mình sẽ trải nghiệm được sự hiện diện này. Một lần nữa, Phêrô vẫn chỉ là "người có đức tin nhỏ bé" (= người kém tin, oligopistos), và đức tin là một sự pha trộn giữa can đảm và sợ hãi, vâng nghe Chúa và nhìn vào gió, tin tưởng và hoài nghi, và đây là đặc tính căn bản của đời Kitô hữu (x. 28,17).
* Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (32-33)
Câu chuyện kết thúc rất nhanh. Đức Giêsu và Phêrô cùng lên thuyền với nhau và gió lặng ngay (c. 32). Một lần nữa, phép lạ Đức Giêsu làm xảy ra sau khi đức tin đã được chấn chỉnh.
Các môn đệ quỳ xuống (= thờ lạy): Cung cách này dễ hình dung hơn nếu ở trên "con thuyền Hội Thánh", chứ không phải trên một con thuyền trên hồ vừa ra khỏi sóng gió. Họ tuyên xưng: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa". Đây là danh hiệu Kitô học quan trọng nhất đối với tác giả Mt, đồng thời hầu chắc cũng là lời tuyên xưng trung tâm nhất của Hội Thánh. Cách nào đó, ngược lại với Mc, tác giả Mt muốn phác vẽ ra các môn đệ như là những con người có lòng tin và hiểu biết, dù có lúc họ đã tỏ ra thất vọng và dù vẫn cần học hỏi thêm nữa.
+ Nhận định & Kết luận
Có thể nói bài tường thuật chuyến vượt "biển" (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật một phương diện mới và có một không hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Hội Thánh Người trên "tảng đá" là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả là hiển nhiên, được diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu không những tỏ ra mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Tuy nhiên, phương diện Cứu độ học phải được cứu xét trong tương quan hữu cơ với chiều kích Kitô học. Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên trong câu nói của các môn đệ: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!" (14,33; x. 8,27). Như thế, chiều kích Kitô học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào quyền lực và bản thân của Đấng cứu hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng quyền năng thần linh tuyệt đối để mà bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy không những Người có thể cứu khỏi bất cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu có thể cứu các môn đệ Người bằng cách siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì Người cũng có đầy đủ quyền năng cần thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ dân Người.
Phương diện Giáo hội học được diễn tả qua các vai trò của các môn đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh túng cực, các độc giả có thể hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô. Các môn đệ và Phêrô, do đã trải nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng không những họ phải tin vào Đức Giêsu như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt tin tưởng rằng Hội Thánh gồm những ai tin và đi theo Đức Giêsu thì được che chở bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.
Có thể nói hoạt cảnh cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Hội Thánh mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.
Tác giả Matthêu trình bày một cuộc thần hiển cho "những người đang ở trong thuyền", nghĩa là Hội Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho đức tin của các tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khác với Lc, Mt hiếm khi cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23). Đây là một đòi hỏi thông thường của tinh thần Người, một nhu cầu có thực là được hiệp thông với Chúa Cha và tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là vào lúc này, thời gian quyết liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi hỏi làm sáng tỏ đã trở nên cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng Người ở một mình; một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là một báo trước sự cô độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu của cá nhân mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức mạnh và sự an toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người là Đấng cứu độ họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.
2. Đối với tác giả Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái (x. c. 28). Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị "tra tấn" vì cơn giông trên biển. Lúc này là "đêm tối" (c. 25), là giờ của thử thách, của "quyền lực bóng tối" (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
3. Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất Người. Phản ứng kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu như thế (c. 26). Đây là một hình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các cuộc hiện ra sau Phục Sinh. Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh.
4. Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Hội Thánh. Ông phản ứng nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu lạ, các bằng cớ chứng tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là một đòi hỏi không thể bỏ qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần những dấu chỉ, để có thể dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong lòng Hội Thánh, cũng cần có những bằng cớ mới, nhưng ta không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức Giêsu: "Chính Thầy đây" (= Ta là), "Cứ đến!" (cc. 27-29).
5. Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là chấp nhận một chiều kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc chiều kích thể lý, là mở tâm hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực tại siêu nhiên. Đây là vượt lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn thế, cần tin vượt quá cái hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp nhận "hỏng chân". Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm tựa vững chắc kiểu loài người.
6. Các độc giả Tin Mừng, rất quen với Tv 69, cùng cầu nguyện với Phêrô. Họ nhận ra mình nơi Phêrô và thấy nước chính là tất cả những mối đe dọa trong đời họ: cái chết, tình trạng thiếu an toàn, sự thù nghịch, bệnh tật, tội lỗi... Họ biết rằng nếu chỉ "nhìn vào" gió chứ không nhìn vào Chúa, họ sẽ không đứng vững được.
------------------------------
Chúa Nhật 19A Thường Niên
Giữa những sóng gió cuộc đời, đâu là con đường đến với Chúa ? Con đường đó phải được khai thông: TN 19-A81
Giữa những sóng gió cuộc đời, đâu là con đường đến với Chúa ? Con đường đó phải được khai thông, mọi vấn đề mới có thể giải quyết. Hi vọng truyện thánh Phêrô đi trên biển hôm nay sẽ mạc khải con đường ấy.
ĐỜI CHỈ LÀ BÃO TỐ
Mở đầu và kết thúc câu truyện hôm nay là một cảnh yên tĩnh đầy ý nghĩa. Làm sao thấy hết được tâm hồn Đức Giêsu bình an tới mức nào khi “Người lên núi riêng một mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình” (Mt 14:23) ? Thật là một cảnh thanh tĩnh tuyệt đối. Bầu khí thanh tĩnh không dẫn đến hư vô, nhưng tới sự hiện hữu vô cùng phong phú với Thiên Chúa.
Kết thúc câu truyện là cảnh thanh tĩnh vì “gió lặng” (Mt 14:32) sau khi “chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió.” (Mt 14:24) Cảnh thanh tĩnh tràn ngập sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” (Mt 14:27) Sự thanh tĩnh này đã dẫn các môn đế đến niềm tin lớn lao: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !” (Mt 14:33) Nhưng niềm tin đó đã phải trả một giá rất mắc. Chút xíu nữa Phêrô mất mạng. Thật vậy, sau khi “từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước” (Mt 14:29), “thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm.” (Mt 14:30) Tức khắc, “Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông” (Mt 14:21) mà đưa vào thuyền. Bằng hành động cụ thể Người đã trả lại sự bình an cho ông và các môn đệ.
Chỉ trong thanh tĩnh, môn đệ mới nhận ra bản chất con người Đức Giêsu. Thực vậy, chính ngôn sứ Eâlia chứng nghiệm: “Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Đức Chúa không ở trong trận động đất. Đức Chúa cũng không ở trong lửa.” (1 V 19:11.12) Nhưng sự bình an đó chỉ đến với những ai thực sự tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa. Xa Chúa, đời chỉ còn là bão tố. Kinh hoàng và sợ hãi sẽ bao trùm cả cuộc đời. Nhờ hiện diện, Thiên Chúa sẽ đem tất cả quyền năng để cứu những ai kêu đến Người. Không phải đức tin có thể cứu được con người. Nhưng khi sống với đức tin, con người thiết lập một tương quan với Thiên Chúa. Nói khác, đức tin là một mời gọi Thiên Chúa đến hiện diện với con người. Tự bản chất, đức tin không phải là một sức mạnh. Nhưng Thiên Chúa chỉ hành động nơi những ai có niềm tin mà thôi. Đó chính là một kinh nghiệm các môn đệ đã đạt được sau cơn bão tố trên biển cả.
Chính vì không có niềm tin nơi Đức Giêsu, người Do thái đã làm cho thánh Phaolô “rất đỗi ưu phiền, và đau khổ không ngơi.” (Rm 9:2) Đáng lẽ Đức Giêsu phải hiện diện với đồng bào của Người sâu xa và mãnh liệt hơn bất cứ đâu. Vì “chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ.”(Rm 9:5) Thấy cảnh đồng bào không quan tâm gì tới ơn cứu độ của Đức Giêsu, thánh Phaolô đã phải đau đớn thốt lên: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng.” (Rm 9:3) Như thế mới thấy tình yêu thánh nhân dành cho dân tộc sâu xa biết chừng nào. Oâng không thể chịu nổi cảnh dân tộc xa lìa Đức Kitô. Không có một dân tộc nào được vinh dự lớn lao như Do thái. Họ có đủ điều kiện gần gũi hơn bất cứ ai. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là vinh quang Đức Chúa Cha, đã đến thực hiện tất cả những điều đã viết trong lề luật và ngôn sứ. Vậy mà chính người chối bỏ Đức Giêsu lại là dân tộc “đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lệ luật, một nền phụng tự và các lời hứa.” (Rm 9:4) Thật là chua xót !!!
Không những xa lìa Đức Giêsu, họ còn trở thành những cuộn sóng giận dữ trong lòng “biển cả đây là một chướng ngại tách lìa các môn đệ khỏi Đức Giêsu, tượng trưng cho hiện diện của Thiên Chúa.” (NIB vol. VIII:327) Tuy thế, người tín hữu luôn tin tưởng chiến thắng cuối cùng vẫn thuộc về Đức Kitô. Vì “chỉ một mình Thiên Chúa mới bước đi trên biển cả.” (G 9:8; 38:16; Tv 77:19; Is 32:16; 51:9-10; Kb 3:5) (NIB vol. VIII:327) Nếu Đức Giêsu có cho ông Phêrô “đi trên mặt nước” (Mt 14:29) vì muốn chia sẻ quyền bính với ông mà thôi. Cũng chính Đức Giêsu đã cứu ông dậy khỏi cơn phẫn nộ của trùng dương ngạo nghễ và biến ông thành hoa tiêu đem con thuyền ra khỏi cơn bão tố. Nhưng muốn vượt qua cơn hiểm nghèo, tới bến bình an, con thuyền Giáo Hội phải luôn có Chúa hiện diện. Thật vậy “Thiên Chúa ở với chúng ta trong thuyền, thực sự hiện diện trong cộng đoàn đức tin khi làm cho con thuyền Giáo Hội vượt qua cơn bão tố.” (NIB vol. VIII:330)
GIÁO HỘI HÔM NAY
Dưới quyền điều khiển của hoa tiêu Gioan Phaolô II, con thuyền Giáo Hội hôm nay đang lao đi giữa biển cả mênh mông. Không phải lúc nào cũng êm đềm. Có những lúc sóng gió nổi lên dữ dội. Thế nhưng, con thuyền lúc nào cũng đầy ắp sự hiện diện của Đức Giêsu. Bởi thế Giáo Hội đã thực hiện được những bước tiến ngoạn mục trong thế giới hôm nay. Ví dụ cuộc thăm viếng Mỹ Châu tuần qua đã kết thúc ở Mexico. Khắp đường phố Mexico, 12 triệu người ùa ra đón chào Đức Giáo Hoàng. Nhiều người đã khóc vì vui sướng khi nhìn thấy người. Đó không phải dịp để biểu dương quyền lực cá nhân, nhưng là sự hiện hữu của chính quyền bính Giáo Hoàng, và của Giáo Hội nữa, bất chấp những khó khăn hay gương mù.
Nhân dịp phong chân phước cho Juan Bautista và Jacinto de los Angeles, ĐGH nói: “ Trước dung nhan dịu hiền của Đức Mẹ Guadalupe, Đấng hằng hỗ trợ đức tin con dân Mexico, chúng ta hãy canh tân lời thề Phúc âm hóa, đức tính trổi vượt của hai chân phước. Chúng ta hãy làm cho các cộng đoàn Kitô hữu chia sẻ công tác này, để họ có thể nhiệt thành loan báo niềm tin và truyền lại toàn vẹn niềm tin ấy cho thế hệ tương lai. Phúc âm hóa bằng cách làm kiên cường những giao ước hiệp thông huynh đệ và làm chứng cho niềm tin nhờ một cuộc sống gương mẫu trong gia đình, nơi làm việc và những tương quan xã hội ! Hãy tìm Vương Quốc Thiên Chúa và sự công chính Người ngay tại miền đất này qua sự liên đới huynh đệ với những người cùng khốn nhất và những người ngoài lề xã hội (xc Mt 25:34-35) ! Hãy là những nhà xây dựng niềm hi vọng cho toàn thể xã hội.” (Zenit 01/08/02) Chính nhờ sự hi sinh lớn lao của hai vị chân phước, cả tu viện Đa Minh đã thoát chết. Các ngài rất can đảm khi vượt qua những sóng gió kinh hoàng nhất để “đến với Đức Giêsu” (Mt 14:29) “là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự.” (Rm 9:5) Sau những trận tra tấn dã man, các ngài vẫn cương quyết giữ vững đức tin, mặc cho bao lời dụ dỗ của những người thổ dân nổi loạn.
Xét về mặt xã hội, hai vị chân phước Juan và Jacinto đều là những chưởng ấn. “Các ngài đã khuyền khích các dân tộc bản xứ hôm nay biết quí trọng văn hóa và ngôn ngữ của mình, và nhất là phẩm giá làm con Thiên Chúa. Phẩm giá này phải được người khác tôn trọng trong hoàn cảnh đất nước Mexico, do nhiều dân tộc thuộc các nguồn gốc khác nhau nhưng cùng muốn xây dựng thành một gia đình sống trong công lý và tình liên đới.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 01/08/02) Đàng khác, hai vị đều là những người chồng và người cha trong gia đình, và được đồng bào thời đó nhìn nhận là những người có phẩm cách cao quí. Điều đó nhắc nhở các gia đình Mexico hôm nay về ơn gọi cao cả, giá trị của sự trung tín và tình yêu, và lòng quảng đại chấp nhận sự sống.” (Zenit 01/08/02) Trước cảnh những gia đình bị vùi dập dưới những cơn sóng gió trần gian, hai vị đã trở thành điểm sáng hướng dẫn các gia trưởng lèo lái gia đình thấy rõ con đường “đến với Đức Giêsu,” (Mt 14:29) Đấng cứu độ duy nhất của toàn thể nhân loại.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
------------------------------
Anh Maciek Kozierski, 26 tuổi, người Ba Lan, là người có thể chạy trên mặt nước dễ dàng như chạy: TN 19-A82
Anh Maciek Kozierski, 26 tuổi, người Ba Lan, là người có thể chạy trên mặt nước dễ dàng như chạy trên mặt đất. Trước khi thực hiện màn chạy trên nước, anh Maciek Kozierski đã sử dụng một con diều và bay với tốc độ tối đa, sau đó anh đứng trên ván lướt và thả con diều ra, cách làm này để anh "cảm giác" được những bước đi trên mặt nước.
Để có thể làm được như này, anh Maciek Kozierski đã phải tập luyện rất nhiều lần. Anh đã mất 4 ngày để "làm quen" với con sông Galilee ở Israel. Trong 4 ngày tập luyện này, anh mất tới 50 lần thử nghiệm mà không thành công, anh đã gặp phải không ít khó khăn như gió quá mạnh hay trời mưa… nhưng cuối cùng mọi việc cũng đã ổn.
Ngoài vấn đề về cách chạy, anh Maciek Kozierski còn phải chọn lúc biển lặng và gió không quá mạnh thì mới có thể thực hiện màn trình diễn của mình. Anh tự hào nói: “Những gì tôi làm hoàn toàn không có một chút thủ thuật gì.” ( Zing )
Dù rất cố gắng tập luyện, anh Maciek Kozierski chỉ chạy bộ trên hồ Galilê theo quán tính, rồi cuối cùng cũng chìm lỉm, khi hết đà. Làm sao sánh nổi với Đức Giêsu nhẩn nha, bình tĩnh đi bộ trên biển hồ Galilê trong cơn bão ?
Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu thuật lại phép lạ thật bất ngờ. Trong khi vật lộn với bão tố trong đêm tối, các môn đệ nhìn thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước. Họ sợ hãi vì nghĩ đó là ma, nhưng Người bảo họ đừng sợ mà hay vững tâm. Người ra tay dẹp tan cơn bão, bước lên thuyền và cùng họ vào bờ.
Một chi tiết đáng chú ý trong câu chuyện này, vốn chỉ được chép trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, khi thấy Đức Giêsu, ông Phêrô bước ra khỏi thuyền, đi trên mặt nước để đến với Người, nhưng đang khi đi thì ông Phêrô bỗng sợ hãi và bắt đầu chìm xuống nước, Đức Giêsu đã cứu ông.
Thiên Chúa luôn an nhiên tự tại. Ngài là chủ tể vũ trụ, nên mọi loài, mọi vật, thời gian và không gian đều quy hướng về Ngài. Theo cảm nhận của Ngôn Sứ Êlia: Ngài không ở trong bão táp mưa sa gầm hú, chẳng ở động đất kinh khủng, cũng chẳng ở trong lửa đỏ nóng bỏng, mà hiện diện êm ái bình an trong cơn gió hiu hiu. ( x. 1V 19, 9a, 11 – 13a ).
Bình an trước cám dỗ
Sau phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều gấp vạn lần, có lẽ các môn đệ đã xuất sắc trở thành những “dư luận viên”, tác động dân chúng vừa được no thỏa, đồng lòng tôn vinh Đức Giêsu lên ngôi hoàng đế. “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” ( Ga 6, 15 ).
Chẳng phải lần đầu Đức Giêsu chịu cơn cám dỗ háo danh, ham hố quyền lực, phú quý, sang giàu, mà ngay trước khi đi rao giảng, Người đã thấm thía trải qua, khi Satan hứa hẹn trao cho tất cả vinh hoa lợi lộc các nước trên thế gian, nếu bái lạy, tùng phục quỷ vương.
Vũ khí chống lại dục vọng kiêu căng, tham sân si, mà Đức Giêsu sử dụng hiệu quả, chính là mũi giáo cầu nguyện và tấm khiên lao động, hãm mình, hy sinh. Người cách ly ngay các môn đệ khỏi đám đông, lệnh cho các ngài ra khơi. Còn chính Người giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Như thế mới vững vàng bình an trước cơn thử thách cám dỗ thế gian.
Đức Giêsu hẳn muốn nhắn nhủ các môn đệ: Hãy quên ngay đi chút vinh quang phù phiếm, quên đi những thành công ngoạn mục, quên đi những công trình giáo đường nguy nga mới kiến thiết, quên đi những thành quả rao giảng rực rỡ. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa, mà con người chỉ có vinh dự tiếp tay hoàn thành. Bởi vì sự kiện, sự việc đó chỉ để vinh danh Thiên Chúa, chứ không phải tôn vinh bản thân, cá nhân bất cứ ai, vốn đều chỉ là tạo vật thừa hành. Diệt được dục vọng tham quyền cố vị, háo danh, háo lợi, thoát khỏi thói kiêu căng, hợm hĩnh, trở nên khiêm nhường, nhu mì con người mới được bình an đích thực trong Chúa.
Bình an trong bão tố cuộc đời
Cuộc đời ai cũng đều là một cuộc bể dâu, ba chìm bảy nổi, chín bấp bênh, chẳng ai có thể nắm tay qua đêm. Mọi thứ đều có thể xảy ra trong đêm tối giông tố cuộc đời. Nhưng giữa bão bùng, gió thét gầm hú, tưởng chừng sắp bị nhận chìm vào ba đào, thì Đức Giêsu vẫn luôn thương yêu quan tâm, mà âm thầm, lặng lẽ tìm đến an ủi, che chở, cứu giúp. “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” Nếu tỉnh táo, sốt mến liền nhận ra Người, hân hoan mừng rỡ và bình an ngay lúc hiểm nguy đó. Nếu không, chắc chắn buông xuôi chìm nghỉm, vì thất vọng ê chề, ngỡ là ma quái gọi hồn, sợ hãi la lên: “Ma đấy !” Vậy cứ vững lòng phiêu lưu cùng Chúa Giêsu trên hành trình Nước Trời, dù bao thử thách phong ba bão táp đe dọa.
Ngay trong bài giảng khai mạc sứ vụ Tông Đồ Phêrô ngày Chúa nhật 22.10.1978, tại quảng trường Thánh Phêrô, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới “Đừng sợ”:
“Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người !”
“Anh chị em đừng sợ ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô ! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.
“Đừng sợ ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người” ! Và chỉ một mình Người biết rõ” ( Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông Đồ Phêrô ).
Bình an trong Tin Cậy Mến
"Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !” ( Mt 14, 32 – 33 ). Khi có Chúa đồng hành, cư ngụ trong tâm hồn, khi tràn đầy lòng Tin Cậy Mến, thì lập tức có bình an, sự dữ bị khuất phục, đẩy lui. Tà thần sóng dữ, gió gầm đành bó tay, tan biến.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” ( Ga 14, 27 ). Đừng bao giờ quên lời dặn ân cần chan chứa tình yêu nồng thắm của Đức Giêsu, Người là Đức Chúa, là Thầy, cùng là Bạn, và là Anh của chúng con.
“Đường con đi có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, đi như Cyrillô, Anathasiô… Đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” ( Đường Hy Vọng, số 693 ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đưa tay cho ông Phêrô nắm lấy, thoát chết, xin Chúa tiếp tục nắm lấy tay chúng con, cứu chúng con khỏi sa chước cám dỗ, khỏi cạm bẫy ma quỷ, khỏi hiểm họa, tai ương trần thế, để được mãi bình an của Chúa trao ban.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, che chở, giúp đỡ và ban sức mạnh chúng con chiến đấu khải hoàn những mưu ma chước quỷ, những cạm bẫy thế gian và những ham muốn dục vọng thấp hèn của chúng con, để chúng con được bình an trong Chúa. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Sau phục sinh, Chúa Giêsu hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày tận thế. Ngài đã thực hiện lời: TN 19-A83
Sau phục sinh, Chúa Giêsu hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày tận thế. Ngài đã thực hiện lời hứa đó trong Hội thánh, trong Bí tích Thánh thể để ở với từng người chúng ta cách đặc biệt và luôn nâng đỡ chở che cho chúng ta mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Trong đức tin, chúng ta được gặp gỡ Chúa và nhận được sự trợ giúp của Ngài. Xưa kia thánh Phêrô và các Tông đồ trong đêm tối chống chọi với sóng gió, họ sợ hãi vì không cảm thấy Chúa đang ở với mình. Ngay khi Chúa xuất hiện và tiến đến gần, họ cũng không nhận ra vì lòng còn bối rối. Thế nhưng, Chúa Giêsu không muốn các Tông đồ phải sợ hãi quá nhiều. Ngài đã lên tiếng xoá tan nỗi hoảng hốt của các ông: "Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Phêrô là người đầu tiên đáp lại lời Thầy nói, ông tỏ niềm tin vào Đức Giêsu và không còn sợ hãi những cơn sóng to gió lớn còn đang bạt vào thuyền:“Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14,28). Trước niềm tin và sự hăng hái của Phêrô, Đức Giêsu đã ban cho ông đặc ân đi trên mặt biển. Tuy nhiên, khi đối diện với thực tế vượt quá sức phàm nhân, Phêrô bắt đầu sợ hãi, không ý thức vững vàng vào sự trợ giúp của Thầy. Chính lúc đó, thân phận phàm nhân của ông đã theo quy luật tự nhiên bắt đầu chìm xuống nước. Nhưng Phêrô đã biết kịp thời nài xin Chúa cứu giúp cho lòng tin còn non kém của ông. Lòng tin đó chỉ vững vàng sau ngày Chúa Phục sinh. Tuy nhiên, sau sự kiện đó, lòng tin của các môn đệ dần dần tiến triển và hiểu rằng Đức Giêsu là Mêssia Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Ngày nay, nhiều lúc chúng ta cũng gặp những trường hợp giống như Phêrô, có những lúc cuộc đời gặp gian nan sóng gió, chúng ta hay quên rằng Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng trợ sức cho chúng ta, chúng ta dễ lo lắng, không nhận ra Chúa đang tiến lại gần chúng ta, không nhận ra Chúa đang nhắn nhủ hay nhắc nhở chúng ta. Thường khi, lúc gặp hoạn nạn chúng ta hay phiền trách người xung quanh không giúp đỡ, nhưng khi Chúa cho cuộc sống khá lên, chúng ta lại quên giúp đỡ những anh em kém may mắn hơn mình về vật chất và tinh thần. Thật ra, nhiều lúc Chúa cũng để cho chúng ta gặp khó khăn để thanh luyện chúng ta. Xưa kia, Chúa Cha cũng để cho Con mình gặp khó khăn vất vả đến chết vì muốn cứu độ chúng ta, Ngài đã vui lòng đón nhận những hình phạt mà loài người chịu trên Thánh giá. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Mêssia đau khổ đến cứu loài người khỏi nô lệ tội lỗi chứ không phải một vị vua trần thế đem lại lợi lộc vật chất theo ý loài người! Nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa thì chúng sẽ đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến, dù là thánh giá hay hoa hồng, miễn là trong đó có dấu hiệu tình yêu của Chúa đối với chúng ta.
Chúa đến để nâng cao đời sống tinh thần, cho chúng con thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất chóng qua chóng tàn này và hướng về sự thật vững bền. Đời này là đời tạm. Chúng ta không bỏ những bổn phận đời này nhưng biết hoàn thành bổn phận cho thật tốt: bổn phận kính Chúa và phục vụ anh em trong tình bác ái để xứng đáng nhận phần thưởng của Chúa trao, được kết hợp với Chúa và nên con Chúa đời đời trên Thiên đàng hạnh phúc.
Chúng ta hãy mạnh dạn xin Chúa cho mình vượt qua những khó khăn sóng gió cuộc đời như thánh Phêrô hôm nay. Những lúc gặp khó khăn như Phêrô đang bước đi trên mặt biển là lúc chúng ta kiểm chứng được niềm tin của mình: Chúng ta còn hoài nghi tình yêu của Chúa hay đã vững tin, chúng ta có thật là chứng nhân của Chúa chưa hay hoài nghi khi gặp thử thách gian nan? Chúng ta có mạnh dạn chèo thuyền để vượt qua những khó khăn hay buông xuôi và đổ thừa Chúa không giúp sức!
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến trợ giúp niềm tin yếu kém của chúng con. Xin cho chúng con ngày một trưởng thành trong đời sống đức tin, ý thức nhiệm vụ và bổn phận cải thiện cuộc đời mình, gia đình mình, xã hội mình đang sống theo sự hướng dẫn của Chúa trong Kinh thánh, qua Giáo huấn của Giáo hội, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong lương tâm của mình.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Đời người từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời là một chuỗi dài của những tiếng kêu: kêu: TN 19-A84
Đời người từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời là một chuỗi dài của những tiếng kêu: kêu xin, kêu cầu, kêu cứu, kêu gọi . . . tiếng kêu ấy được biểu lộ với nhiều hình thức khác nhau: kêu khóc, than thở, nhờ vả, sợ hãi . . . điều này muốn nói lên rằng: con người không thể tự lo cho mình, không thể tự cứu lấy mình. Vì thế, con người cần phải sống liên đới với nhau, nhất là phải biết hướng lòng mình lên một Đấng siêu vượt trên mình để làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời của mình và đảm bảo cho cùng đích của mình.
Trong đời sống tôn giáo, khi con người biết mở miệng kêu xin lên Đấng mình tôn kính thì có nghĩa là họ đã có đức tin và đã biểu lộ đức tin của mình. Nhưng bất hạnh thay cho những ai kêu xin với Đấng mà mình không biết và không yêu mến.
Người Kitô hữu là người có Chúa Kitô trong mình và tin tưởng vào Chúa Kitô cũng như tin tưởng vào Thiên Chúa mà Đức Kitô đã mạc khải. Chúng ta cần nhận ra sự thật căn bản này là: Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, là Đấng dựng nên muôn loài và nuôi sống chúng, trong đó có chúng ta; còn chúng ta là tạo vật của Ngài. Chúng ta cần đến Ngài để được thương yêu và chăm sóc. Vũ trụ này là một bản trường ca tình yêu được viết lên nhằm thông truyền rằng: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương mọi loài nói chung và yêu thương con người nói riêng.
Hãy kêu cầu Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Đừng ngại mở lời kêu xin Ngài. Không phải Thiên Chúa không thấy trước những nhu cầu của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta tự do bày tỏ tấm lòng của mình với Ngài. Nếu Thiên Chúa chỉ ban cho con người những gì họ kêu xin mà thôi, thì có lẽ rất nhiều người của chúng ta đã ra tro bụi lâu rồi. Bởi lẽ, những gì là căn cốt làm nên sự sống cho con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa ban cho và gìn giữ liên tục. Có nhiều điều con người đã không hề thấy để xin nhưng Chúa vẫn ban cho vì chúng cần cho sự sống của con người. Còn những điều khác, Chúa muốn con người kêu cầu lên Chúa với mục đích duy nhất là biểu lộ sự gần gũi, thân tình và gắn bó giữa con người với Thiên Chúa, cũng như biểu lộ sự tín thác trọn vẹn của con người vào Thiên Chúa. “Ta muốn tình thương chứ không phải hy hy lễ”. Quên kêu cầu Chúa và quên tạ ơn Ngài là thái độ vô tâm, vô ơn nhất của con người.
Khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với mình, các môn đệ hốt hoảng la lên. Đó là một tiếng kêu trong cơn bối rối và Chúa Giêsu đã đáp lời họ ngay “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”. Rồi khi thấy mình sắp chìm xuống biển sâu, Phêrô lại kêu la: “Thưa Thầy, xin cứu con”, và Chúa Giêsu đã đáp lời ông. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã ở gần các môn đệ thế nào, thì ngày nay, Ngài cũng ở kề bên chúng ta và cứu giúp chúng ta y như vậy. Có khác chăng là cách thức Ngài hiện diện với ta mà thôi. Chúng ta đừng dùng lối suy nghĩ của con người để suy đón về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong bài đọc 1, tiên tri Êlia cảm thấy hết sức buồn bã và đau khổ khi ông quyết tâm chống lại việc thờ ngẫu tượng mà bị nữ hoàng Dezebel tìm sát hại ông. ông đã chạy trốn vào sa mạc và trú ẩn trong một cái hang. Con người đau khổ ấy đã kêu xin Chúa và cầu mong cho mình được chết đi. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, ông đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa luôn ở gần bên ông để giúp sức cho ông và cứu thoát ông. Cũng chính khi đó, ông khám quá ra rằng: đường lối của Thiên Chúa không giống với đường lối của con người. Thiên Chúa đến với ông trong một cơn gió nhẹ chứ không đến với ông trong cơn giông bão hay động đất kinh hoàng như ông nghĩ tưởng. Khi Chúa đến với ông thì ông tìm được sức mạnh để tiếp tục hành trình của mình.
Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta chắc chắn cũng có những khoảnh khắc đau buồn và chán nản khi hết lòng sống cho niềm tin mà mình đã lãnh nhận nhưng lại bị người đời chống đối, bắt bớ và vu khống. Chúng ta hãy vững tin vào Chúa và không ngừng kêu cầu Ngài. Chính Ngài đang ở kề bên chúng ta và sẽ giải thoát chúng ta. Vì thế, ta đừng để mình lạc mất lòng tin nhưng hãy thành tâm kêu cầu Chúa.
Có người đến hỏi vị linh mục:
“Thưa cha, có nhiều lần con cầu nguyện với Chúa, nhưng sao con cảm thấy chán nản và thất vọng quá. Lời cầu của con không được Chúa đáp lại. Hơn nữa, những biến cố không may lại cứ dồn dập đến với con. Hầu như con không thấy Chúa can thiệp vào những sự kiện này cho con. Đôi lúc, con thấy Chúa ở thật xa. Thậm chí con còn thấy nghi ngờ sự hiện diện của Chúa nữa”.
Vị linh mục lắng nghe và nhỏ nhẹ: “Này con, cha hằng cảm nhận rằng Chúa luôn ở với chúng ta. Nhưng vì con chưa thật sự phó thác vào Chúa, chưa kiên trì trong việc cầu nguyện và chờ đợi Chúa ban ơn; chưa kiên trì để khám phá ra ý Chúa trong cuộc sống của con. Vì con chỉ muốn nhìn thấy những thành quả ấy trước mắt con ngay mà lại không muốn chấp nhận thử thách trong đời sống của con. Con hãy kiên nhẫn và chờ đợi Chúa”.
Rất nhiều người trong chúng ta cũng có những tâm trạng tương tự như thế trong cuộc sống của mình. Nhưng chúng ta hãy xác tín một điều là Chúa đang ở bên cạnh ta và không hề bỏ quên một lời kêu xin nào của chúng ta. Những gì Chúa chưa ban cho ta là vì chúng chưa cần thiết hoặc nguy hại cho đời sống đức tin của chúng ta mà thôi. Nhưng chắc chắn một điều là “Chúa sẽ kiếp giải oan cho những ai thành tâm tìm đến với Ngài”.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Đức Piô thứ IX, khi vừa mới lên ngôi Giáo hoàng, có một anh họa sĩ trẻ mới học nghề, anh ta: TN 19-A85
Đức Piô thứ IX, khi vừa mới lên ngôi Giáo hoàng, có một anh họa sĩ trẻ mới học nghề, anh ta muốn được nổi tiếng và vừa để kiếm tiền, anh họa hình Đức Tân Giáo hoàng. Hình họa không giống, không đẹp lắm! Anh đem bức họa vào để xin Đức Piô 9 ký tên bên dưới. Đức Piô 9, vẫn vui vẻ nhận lời. Bên trên chữ ký, ngài ghi lại câu Phúc âm này, Matthêu 14, 27: “Cứ bình tỉnh, Cha đây, đừng sợ.” Ý Đức Thánh Cha cũng hơi hài hước. Ngài muốn nói: hình họa vừa xấu vừa không giống nữa… Nhưng anh chàng họa sĩ xem ra không hiểu, vẫn đem bức họa in ra và đi bán… Kính mời anh chị em cùng suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước và lời nói của Chúa, chúng ta vừa nêu ở trên…
a/. Nguồn gốc câu chuyện phép lạ Chúa đi trên mặt biển: Câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn no nê, chúng ta nghe trong tuần trước. Câu chuyện này xảy ra, vị trí ở phía bên kia bờ biển hồ Tibêriađê; tức là phía bên hoang địa; bên này bờ hồ là thành Capharnaum. Như vậy Chúa giảng dạy rồi hóa bánh ra nhiều cho họ ăn là ở phía bờ bên hoang địa. Ăn xong trời muốn tối; dân chúng lại muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Người không đồng ý, nên bảo các môn đệ xuống thuyền mau về bên kia bờ là Capharnaum; còn Chúa, Người lại lên núi một mình. Canh tư đêm đó, lối quá nửa đêm, Chúa Giêsu đi trên mặt nước, đi đến thuyền của các ông. Khi Chúa đi gần tới họ tưởng là ma nên la hoảng lên. Chúa Giêsu đã trấn an họ: “Bình tĩnh, Thầy đây, đừng sợ.”
b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì ?
Trên đời này, nếu không có niềm tin, con người sợ nhiều thứ lắm: sợ chết – sợ bệnh tật – sợ bị thua kém – sợ người khác (sợ ma, quỉ)… Con người sợ những thứ đó, cũng phải thôi, vì trong vũ trụ này, thực ra con người là một tạo vật xem ra khá bé nhỏ. Bài tin mừng của chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu lại dạy mỗi người kitô hữu chúng ta: “đừng sợ”, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn…chỉ sợ Đấng đã giết rồi, lại còn ném vào hỏa ngục nữa (Lc 12, 4 - 5) – đừng lo cho mạng sống, lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc (Lc 12, 22) – Tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi (Lc 12, 7). Con người lo sợ cũng phải, vì con người thấy mình thua kém, và không có chổ nương tựa. Ở đây Chúa dạy: “đừng sợ” , nhất là “hãy tin cậy nơi Chúa”
c/. Câu chuyện sau đây, minh chứng cho lòng tin mến vững vàng, không sợ hãi, của một người cùi, lại mù lòa nữa. Chị Vêrônica, một người Pháp, vào năm 1979, chị đã ngoài 58 tuổi. 55 năm mắc bịnh cùi, 20 năm bị mù lòa, chị vẫn làm việc trong một xí nghiệp sản xuất đồ dùng của người cùi tại nước Cameruon, châu Phi. Trong tập nhật ký của chị có ghi một lời kinh đầy niềm tin, không sợ hải như sau:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Phần con, con cũng hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia, con thích đọc sách, rồi Chúa muốn mượn đôi mắt của con. T rước đây con thích chạy nhảy trong khu rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con... Mỗi khi xuân về, con tung tăng hái những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin đôi tay của con…
Con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn một sợi tóc nào! Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa! Chỉ còn lại vài que củi… khô queo nhám nhúa…!
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến độ nào rồi… Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn…Vâng lạy Chúa, muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn…Bởi vì nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cỏi thế, con cũng sẽ chẳng hối tiếc điều gì. Đời con đã đầy tràn hồng ân kỳ diệu: đó là vì con được đắm mình trong Tình Yêu vô bờ của Chúa…Lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử tốt với bé gái Vêrônica của Cha…Chiều nay, con xin dâng lên lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương đặc biệt đến những người cùi tâm hồn, đang đè bẹp hủy hoại họ. Chiều nay, trong âm thầm con xin tận hiến đời con cho họ, vì họ cũng là anh chị em của con…
Con là bé gái thân thương của Cha. Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi, như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình. Hãy nhận chìm con, sâu xuống tận đáy trái tim Cha, cho con được ở đó với mọi người thân yêu của con, bây giờ và cho đến mãi muôn đời. Amen…”
Chúng ta vừa nghe một lời kinh tràn đầy niềm tin yêu, không hề sợ hải, như chính những gì Chúa Giêsu muốn dạy qua bài TM chúa nhật hôm nay. Rõ ràng đây là một lời kinh nói lên chân lý: Tình yêu mạnh hơn sự chết…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua bài Tin mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy tin vững vàng nơi Chúa mà không sợ hải. Là người kitô hữu, ta có đủ tin vào lời Chúa không? Câu chuyện của Chị Vêrônica ta vừa nghe, có đánh động ta không? Ta có muốn cầu xin Chúa cho ta biết sống niềm tin vững vàng, không sợ hải trước mọi thử thách, khổ đau trong cuộc sống không?
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Anh chị em có dịp nhìn một đứa trẻ nhỏ ung dung bước đi trên đường, nó bước đi rất nhanh mà: TN 19-A86
Anh chị em có dịp nhìn một đứa trẻ nhỏ ung dung bước đi trên đường, nó bước đi rất nhanh mà không cần nhìn hay quan sát chung quanh. Những bước chân của nó hết sức tự tin. Dẫu cho con đường có gồ ghề hay đầy những vũng nước, nó cũng không lo sợ gì hết. Nó vẫn bước đi và vẫn an toàn. Nhìn kỹ lại, thì ra những bước chân của nó vẫn bước, nhưng còn có đôi tay của người cha luôn bảo vệ cho nó. Đứa bé đã hoàn toàn tin tưởng nơi cha mình, nên nó không lo sợ gì trên bước đường nó đi qua vì nó được bảo vệ thật sự. Có những lúc nó không cần phải bước nữa vì nó đã mệt, những lúc đó nó cũng được an toàn trên đôi tay của người cha, hơn nữa nó còn được người cha ôm vào lòng. Chính vì biết đặt trọn niềm tin vào cha mình nên đứa bé không còn lo âu sợ sệt điều gì nữa. Niềm tin của nó được đền đáp xứng đáng.
“Lạy Thầy xin xứu con”.
Lời kêu cứu của Phêrô khi thấy mình sắp bị những cơn sóng biển nhận chìm. Phêrô đã được cứu và được an toàn, nhưng ông phải nhận lời quở trách: “Kẻ hèn tin, sao mà nghi ngờ”.
Phêrô và các Tông Đồ xuống thuyền vượt biển trong đêm tối. Đối với các ông đây là những công việc hết sức bình thường, các ông rất thành thạo, không phải lo sợ gì hết. Các ông tự tin vào tài năng và sức lực của mình. Nhưng những gì các ông tin tưởng không đem lại bình an thật sự. Các ông phải chống chọi với gió bão. Màn đêm tăm tối như góp phần làm cho các ông thêm vất vả hơn. Càng vất vả càng cố gắng, nhưng các ông đã quên mất Chúa Giêsu. Những lúc như thế Ngài vẫn ở bên cạnh các người mà Ngài yêu thương, nhưng các ông vẫn không nhận ra, nên mới hốt hoảng. Phêrô nhanh nhẹn nhưng trong lúc nhất thời, ông chỉ làm theo cảm tính, chưa tin tưởng phó thác, nên ông càng hốt hoảng hơn khi thấy biết bao sự nguy hiểm chung quanh. Khi đó ông càng nhìn thấy rõ sự bất lực của con người, chỉ còn biết trông cậy vào Chúa, nên ông la lên: “Lạy Thầy xin cứu con”. Mặc dù bị quở trách là kém tin, nhưng ông đã được bình an khi có Chúa bên cạnh.
Con người đứng trước những khó khăn thì lo âu sợ sệt, nhất là khi nhìn thấy được sự bất lực của chính mình. Càng lo sợ hơn khi sự nguy hiểm càng đến gần mà mình không biết làm sao để thoát khỏi. Đó là tâm trạng của Phêrô ngày xưa, cũng là tâm trạng chung của con người qua mọi thời đại. Chúng ta, những con người của thời đại mới cũng không thoát khỏi cái thường tình của con người như thế.
Những lúc an bình thư thái, những lúc được thành công trong cuộc sống, những lúc sức khoẻ con người trong tình trạng bình thường không có vấn đề gì; những lúc đó, Thiên Chúa có hiện diện hay không cũng không cần thiết, vì chúng ta chưa cần đến. Nhưng khó khăn từ đâu lại tuôn đến, làm cho chúng ta vất vả, bao nhiêu toan tính giờ đây không thể thực hiện được, những gì đã dự trữ, giờ đây cũng bay đi mất, thế giới hoàn toàn sụp đổ. Những lúc đó nếu chúng ta biết la lên như Phêrô: “Lạy Thầy xin cứu con”, chắc chắn chúng ta sẽ được cứu và những lời trách nhẹ nhàng cũng sẽ đến để làm thức tỉnh và làm cho mìmh nhận ra rằng: Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ không phải chỉ là nhu cầu khi cần thiết, để giải quyết những khó khăn, rồi sau đó không biết gì đến Ngài nữa.
Phêrô đã nhận ra, nên ông biết tin tưởng phó thác, ông đã được trao cho trách nhiệm và hoàn thành. Như đứa trẻ hoàn toàn tin tưởng nơi người cha, nên được bao bọc chở che khi cần thiết.
Chúng ta có dám đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa chúng ta? Hay Thiên Chúa chỉ là nhu cầu trong những lúc nào cần cho chúng ta sai khiến, ngoài ra Thiên Chúa không hiện diện trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Như thế thì lời quở trách với Phêrô ngày xưa cũng vẫn là lời cho chúng ta hôm nay: “kẻ hèn tin, sao mà nghi ngờ”. Nhưng phêrô đã tin và sống trọn niềm tin của mình. Còn chúng ta, bao giờ chúng ta mới biết quay trở lại như Phêrô, chừng nào chúng ta mới nhận ra quyền năng Chúa trong đời sống, để biết quỳ gối xuống mà cảm tạ Hồng Ân.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhận ra Chúa trong cuộc sống đời thường, để biết tin tưởng và phó thác cho trọn vẹn.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Vào cuối năm 2007 vừa qua, một tại nạn chìm đò đã lấy đi sáu mạng người trong đó có một người: TN 19-A87
Vào cuối năm 2007 vừa qua, một tại nạn chìm đò đã lấy đi sáu mạng người trong đó có một người vợ ông lái đò và năm học sinh. Câu chuyện xảy ra vào một buổi trưa như thường lệ, ông lái đò và vợ ông vẫn ngày ngày chở các em học sinh qua sông để đưa đi học và đi về. Nhưng hôm nay ông lại chở khẩm hơn mọi hôm và tại nạn đã xảy ra; chiếc thuyền bất ngờ bị lật úp tất cả những người đi trên thuyền mà phần lớn là các em học sinh đều bị té nhào, nhưng trong đó có một số em không biết bơi nên đã bị chết đuối, các em chết vì không có người đưa cánh tay ra cứu. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, Ngài đã đưa cánh tay cứu ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Chắc chắn những người thân của các em cũng rất muốn có một ông Giêsu như ngày hôm nay để cứu vớt các em như Ngài đã từng cứu Phêrô. Cho nên việc Đức Đức Giêsu làm phép lạ đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và làm cho biển yên gió lặng không phải là để làm trò tiêu khiển cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Từ thời Giáo Hội sơ khai, không ít lần các tông đồ phải sợ hãi lo lắng, có lúc chao đảo như muốn chìm đi giữa phong ba bão táp. Khi mà con người ta không còn gì để bám víu, thì lúc đó Đức Giêsu lại ở bên cạnh để trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”.
Hôm nay, Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin “đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với”. Và cùng là ông bị Đức Giêsu mắng cho là kẻ yếu lòng tin. Bị Thầy mình mắng thật sự không oan tí nào, trên đường đến với Thầy mà ông còn nghi ngờ. Tuy bên ngoài thì mạnh dạn, năng nổ, nhưng đó chỉ là hành động tức thời chứ chưa phải là tin, nhưng hành trình Đức tin của Phêrô có điểm hay là ông đã để cho nó lớn lên rất nhanh. Để đượclớn nhanh như vậy thì sức người không thể nào làm được nhưng phải nỗ lực bản thân cộng thêm với ơn Chúa. Tiêu biểu như Phêrô, ban đầu đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu “cứ đến”, mà ông đã bước đi được trên mặt biển. Trong cuộc sống mỗi người cũng vậy, khi niềm tin vững mạnh sẽ giúp ta vượt qua được mọi giông bão của cuộc đời. Ngược lại, khi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi, hụt chân. Nhưng khi đã đặt được niềm ti vững mạnh nơi Chúa thì cho dù chúng ta hụt chân vẫn không sợ hãi vì có Chúa đang đưa cánh tay nâng mình lên.
Con thuyền Giáo Hội vượt qua bai chông gai thử thách, qua biết bao thăng trầm nhưng với niềm tin vững mạnh vẫn băng băng tiến về đích. Con thuyền Giáo Hội chính là con thuyền mẹ gồm nhiều con thuyền tính hữu hợp lại. Do đó, con thuyền Mẹ chỉ có thể tiến nhanh về đích khi các con thuyền của mỗi người chúng ta có một đưc tin vững mạnh, đức tin của mỗi người chúng ta chính là động lực để thúc đẩy con thuyền Giáo Hội càng tiến nhanh hơn.
Lạy Chúa, trong cuộc hành trình về quê trời chắc chắn đời con còn gặp rất nhiều phong ba bão táp, xin cho con biết luôn phó thác tin tưởng vào Chúa vì chỉ có đức tin mới có thể cứu vớt chúng con về bến bình an. Amen.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Một trong những yếu tố quan trọng để gìn giữ hạnh phúc gia đình là những thành viên trong gia: TN 19-A88
Một trong những yếu tố quan trọng để gìn giữ hạnh phúc gia đình là những thành viên trong gia đình cần tin tưởng nhau. Mỗi người phải luôn biết tạo niềm tin cho nhau. Nhất là những người lớn, là người trước hết tạo cần tạo niềm tin cho con cái, cho những người nhỏ hơn.
Cũng thế, vì muốn cho các cho các Tông đồ được sống hạnh phúc nên Chúa Giêsu luôn luôn làm mọi cách để tạo niềm tin và củng cố niềm tin cho họ. Dầu vậy, dù đi theo và sống gần gũi với Chúa Giêsu nhưng các ông vẫn còn chưa thật sự tin vào Người. Cụ thể, hôm nay khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với mình thì các ông đã hoảng sợ la lên: “Ma đấy”. Chúa Giêsu bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! " (Mt 14, 27).
Như thế, ta có thể thấy được là với phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê chưa là yếu tố để cho các Tông đồ tin vào Chúa Giêsu. Nhưng đó chỉ là để củng cố lòng tin của các ông vào Người. Nếu như lần giở những trang Tin mừng chúng ta cũng sẽ thấy hầu hết trước khi chữa lành cho ai Chúa Giêsu đều nói “lòng tin của con đã cứu chữa con” hay “con tin thế nào thì được như vậy”…
Đặt niềm tin của mình vào Chúa là điều cần thiết cho đời sống đức tin của người kitô hữu. Tin tưởng vào Chúa ta mới dám phó thác tất cả đời sống cho Người. Tin tưởng vào Chúa ta mới dám can đảm sống theo lời dạy của Người.
Ngày 4. 8 vừa qua, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ thánh Gioan Maria Vianney.
Đây là một trong những mẫu gương cho ta về đời sống tin tưởng vào Chúa. Mặc dù bị những người hướng dẫn đánh giá là “ngu như lừa” nhưng ngài vẫn tin tưởng vào Chúa. Quả thật, với sự tin tưởng ấy Thiên Chúa đã làm nên công trình vĩ đại nơi ngài. Sự tin tưởng ấy được thể hiện nơi cách sống đơn sơ, khiêm tốn và tinh thần phó thác qua việc siêng năng cầu nguyện. Nhờ đó qua ngài rất nhiều anh chị em được trở về với Chúa.
Hãy xin Chúa Giêsu tiếp tục gia tăng lòng tin của mỗi người chúng ta vào Người. Đó là điều mà Chúa Giêsu đang cần nơi mỗi người chúng ta.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, trình thuật việc Đức Giêsu giảng dạy dân chúng, chữa lành bệnh: TN 19-A89
Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, trình thuật việc Đức Giêsu giảng dạy dân chúng, chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Sau đó là việc Đức Giêsu biến hình để củng cố lòng tin nơi các môn đệ và mặc khải cho các ông biết về hành trình theo Chúa thì phải trải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang. Hôm nay, thánh Mátthêu cho biết Đức Giêsu truyền cho các ông sang bờ bên kia trước, còn Ngài ở lại giải tán dân chúng và sang sau. Đến rạng sáng thì Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến cùng các môn đệ.
Tại sao Đức Giêsu ở lại và các môn đệ phải đi trước? Sao không để các ông cùng giải tán và thu dọn…rồi thầy trò cùng xuống thuyền…? Và sao Đức Giêsu không đến, hiện diện ở trên thuyền ngay mà lại phải đi trên mặt nước…?
1. Ý nghĩa bài Tin Mừng
Thưa, vì quá thương xót dân chúng, nên Đức Giêsu đã tìm mọi cách để giúp dân được thỏa mãn cơn đói thể xác và chữa lành sự đau đớn thể lý cho những ai đang mang trên mình bệnh tật, đui hủi, què quặt…, đồng thời ban cho họ lương thực thần thiêng chính là những lời giáo huấn.
Vì thấy Đức Giêsu là một người: “văn võ song toàn”, từ trước đến giờ chưa có trong lịch sử, họ không hiểu được vai trò của Đức Giêsu trong chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa Cha muốn. Vì thế, dân chúng có ý định tôn Ngài lên làm vua.
Việc họ muốn đây không có gì khác ngoài động lực thực dụng. Họ thấy Đức Giêsu đem lại cho họ cuộc sống ấm no, làm được những chuyện phi thường, và hy vọng giúp họ thống lãnh các miền phụ cận. Đây chính là động lực duy nhất của dân khi muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua.
Họ nghĩ rằng điều họ muốn sẽ được Đức Giêsu chấp thuận. Tuy nhiên, dân chúng đâu có biết rằng lối suy nghĩ của họ đã bị sai lầm, vì sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu không phải vậy. Sứ mạng của Ngài đến để cứu và chuộc những gì đã mất bằng chính cái chết chứ không phải quyền lực theo kiểu binh đao, cho nên, mọi hành vi, lời nói của Ngài phải hiểu trong vai trò là người Tôi Trung của Giavê.
Cảm và thấy được trước những điều mà dân chúng muốn nơi mình, nên Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ sang bờ bên kia trước. Phần vì muốn các ông nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc, phần vì muốn các ông không bị cuốn theo lối suy nghĩ của dân chúng mà sai đường trật lối trong chương trình cứu độ mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước.
Khi được lệnh, các ông vâng lời và trèo thuyền để sang bờ bên kia. Tuy nhiên, hành trình của các ông lần này không được suôn sẻ lắm.
Khi thuyền đã ra giữa biển thì bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Các ông đang phải vật lộn với hiểm nguy. Gần sáng, Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ. Nhưng khi vừa thấy Ngài, các ông tưởng là ma nên kêu la: "Ma kìa!".
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trấn an các ông: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!".
Thật ra thì các môn đệ cũng là những người trần mắt thịt như chúng ta thôi. Các ngài cũng đâu thoát ra được cảnh yếu đuối mặc dù đã từng được Thầy của mình dạy dỗ, căn dặn và củng cố đức tin. Vì thế, không lạ gì khi khó khăn xảy đến, họ đâu còn nhớ gì đến quyền năng của Thầy, nên đâu có thể tin được là Thầy đang đi trước dẫn đường cho mình! Điều này chúng ta thấy rất rõ khi được Đức Giêsu trấn an, Phêrô đã thử Đức Giêsu bằng cách xin với Ngài: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Nhưng khi vừa được đến với Đức Giêsu để đi trên mặt biển, thì đức tin của ông đã bị thử thách, và ông đã không còn tin vào quyền năng của Thầy mình tuyệt đối nữa, vì vậy ông đã bị nhấn chìm dưới nước.
Lý do tại vì ông và ngay cả các môn đệ khác không có đủ nhạy bén để nhận ra và tin vào Chúa, bởi vì lòng các ông còn nặng trĩu những “tham, sân, si” không kém gì dân chúng.
Đó là ý nghĩa nội dung bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Nhưng điều mà chúng ta cùng nhau suy nghĩ, khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa và đem ra thực hành mới là quan trọng.
2. Hiểu và sống Sứ Điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta 5 điều:
Thứ nhất, cuộc sống trên trần gian của chúng ta chỉ là tạm bợ, vì thế, trước tiên hãy tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Chúa sẽ lo cho sau. Sẵn sàng khước từ hết tất cả những gì đi ngược lại với ơn cứu độ và khẳng khái từ bỏ những điều bất chính, quyền hành, nếu những điều đó không có ích lợi cho phần rỗi của chúng ta và niềm hy vọng của tha nhân. Cần can đảm vứt bỏ những rào cản làm chậm trễ hành trình thi hành sứ vụ của chúng ta trong cuộc sống đức tin. Noi gương Đức Giêsu, khi dân chúng tìm cách tôn mình lên làm vua, Ngài đã từ bỏ vì đó không phải là con đường cứu độ mà Chúa Cha muốn.
Thứ hai, khi thấy những nguy hiểm đến phần rỗi của anh chị em, chúng ta phải khôn khéo để giúp cho anh chị em mình thoát ra khỏi những cạm bẫy đang rình chờ. Biện pháp này đã được Đức Giêsu sử dụng khi nhìn thấy viễn cảnh không tốt cho các môn đệ khi các ông phải chứng kiến cảnh dân chúng tôn mình lên làm vua.
Tiếp theo, phải tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì Chúa đã nói: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!". Tin Chúa lúc vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như khi thất bại. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, chỉ có điều chúng ta không nhận ra hay cố tình lãng quên Ngài mà thôi.
Bên cạnh đó, hãy noi gương Đức Giêsu trong việc phục vụ. Càng làm lớn, càng phải phục vụ. Hình ảnhĐức Giêsu ở lại giải tán đám đông cho thấy, Ngài sẵn sàng phục vụ mọi người, trong khi công việc này lẽ ra phải là của các môn đệ.
Cuối cùng, Đức Giêsu nêu gương trong việc kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Nếu chỉ có hoạt động thì sẽ có nguy cơ xảy ra tình trạng “ngôn hành bất tất” và hiệu quả của công việc không cao, mặt khác rất dễ rơi vào tình trạng kiêu ngạo tự phụ và khoe khoang. Khi cầu nguyện, ta biết tìm ra thánh ý Chúa và chỉ thực hành điều Chúa muốn mà thôi. Khi cầu nguyện, ta biết mình yếu đuối và cần đến ơn Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm tốn, quên mình để phục vụ anh chị em. Amen.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
John Nguyễn
1. Cầu nguyện có cần thiết không?
Giải tán họ xong, Người lên núi một mình cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình». Bài Tin: TN 19-A90
«Giải tán họ xong, Người lên núi một mình cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình». Bài Tin Mừng cho thấy: cuộc đời Đức Giê-su có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động và cầu nguyện. Nghĩa là Ngài không chỉ hoạt động cũng không chỉ cầu nguyện, mà cả hai luân phiên nhau. Nhưng cầu nguyện để làm gì? Vì hoạt động thì rõ ràng đem lại lợi ích cho mọi người, còn cầu nguyện có vẻ như chẳng làm gì cả, như vậy thì lợi ích cho ai? Các sách Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su cầu nguyện một mình rất nhiều lần (x. Mc 1,35; 6,45; Lc 5,16; Mt 26,36-44
), và Ngài cũng khuyên các tông đồ cầu nguyện như Ngài (x. Mt 26,41; Lc 21,36). Chắc chắn cầu nguyện phải rất cần thiết và đem lại nhiều ích lợi thì Đức Giê-su mới cầu nguyện nhiều và khuyên các tông đồ hãy cầu nguyện như vậy.
2. Cầu nguyện, một hình thức «sạc pin» tâm linh
Một vài minh họa giúp ta hiểu được vai trò của cầu nguyện:
a) Mục đích của bình ắc-quy là để phóng điện hầu làm sáng bóng đèn, làm động cơ quay, tạo nên những phản ứng hóa học, khởi động máy, v.v
nói chung là sinh một lợi ích nào đó. Nhưng ắc-quy không thể cứ phóng điện hoài, vì điện phóng một thời gian là hết, không phóng được nữa. Nếu muốn tiếp tục phóng điện để sinh lợi ích, thì phải «sạc điện». Sạc điện xem ra vô ích, chẳng tạo ích lợi trực tiếp, nhưng hết sức cần thiết để ắc-quy có thể tiếp tục hoạt động.
b) Khi đóng đinh, người ta phải nâng búa lên và đập xuống, rồi lại nâng búa lên và đập xuống nữa. Cứ vậy cho đến lúc chiếc đinh lún xuống hoàn toàn. Chỉ động tác đập xuống mới làm đinh lún, còn động tác nhấc lên có vẻ như hoàn toàn vô ích, nhưng phải nói rằng nó tuyệt đối cần thiết. Nếu không nhấc búa lên, không ai có thể đập búa xuống lần thứ hai, và như thế đinh chỉ lún xuống một chút xíu, và như thế là không đạt yêu cầu.
Cầu nguyện xem ra chẳng lợi ích gì cả, nhưng quả thật nó là một điều tối cần thiết cho những ai muốn hoạt động hữu hiệu cho Thiên Chúa, cho nhân loại, cho tha nhân, và cho sự phát triển tâm linh của bản thân. Cầu nguyện chính là tiếp xúc với Thiên Chúa, nguồn của mọi năng lực, nhất là sức mạnh tâm linh để yêu thương và mạnh dạn dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân, để củng cố đức tin vào Thiên Chúa và tự tin vào chính mình, để được khôn ngoan, sáng suốt, nhận định chính xác điều nào điều nào đúng điều nào sai, điều nào chính điều nào phụ trong mọi lãnh vực hoạt động (tâm linh cũng như trần thế), để tâm hồn được bình an và tràn ngập niềm vui, v.v
Thiếu sức mạnh tâm linh ấy, con người giống như một bình ắc qui hết điện, hay như những bóng đèn và động cơ không nhận được nguồn điện, khiến mọi hoạt động của họ chỉ còn được thúc đẩy bởi những động lực tự nhiên như: «đói thì đầu gối phải bò», ham được tiếng khen, muốn được danh vọng, v.v
Những động lực này vẫn cần thiết và có ích cho sự sống tự nhiên, nhưng không ích lợi cho sự sống siêu nhiên hay tâm linh. Nói tới đây, thiết tưởng mỗi người chúng ta cần tự xét xem sự sống siêu nhiên hay tâm linh của mình thế nào? có phát triển hay còn èo ọt?
3. Cầu nguyện đích thực tất nhiên phải nhận được sức mạnh từ Thiên Chúa
Bản chất của cầu nguyện là tiếp xúc thật sự với Thiên Chúa, và nhờ đó tiếp nhận được năng lực (tâm lực, trí lực, thể lực, sự an vui
) từ nơi Ngài. Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, rước lễ
Tất cả những cách thức cầu nguyện vừa kể chỉ là một số trong rất nhiều phương tiện hay cách thức để tiếp xúc với Thiên Chúa. Tuy nhiên, vẫn có thể có những người đọc kinh, dự thánh lễ, thậm chí rước Mình Máu Thánh Đức Giê-su vào lòng mà không phải là cầu nguyện, vì họ không thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Thiên Chúa. Trái lại, cũng có những trường hợp người ta thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Thiên Chúa mà không cần phải dùng những cách thức vừa kể.
Muốn biết mình có thật sự cầu nguyện, nghĩa là có thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay không, ta chỉ cần xem mình có nhận được sức mạnh từ nơi Ngài hay không, và đời sống có biến đổi thật sự sau khi cầu nguyện không. Vì càng tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, thì càng nhận được sức mạnh tâm linh của Ngài. Nhờ đó, đời sống tâm linh của ta tất yếu phải thay đổi, chẳng khác gì một người nghèo càng nhận được nhiều tiền thì đời sống vật chất hay kinh tế của người ấy tất nhiên phải thay đổi. Không thể khác được! Chính Đức Giê-su cũng được biến đổi khi cầu nguyện (x. Lc 9,29). Rất nhiều người đã được biến đổi tâm hồn khi tiếp xúc với Đức Giê-su: như Mát-thêu, Gia-kêu, Ma-đa-lê-na, người phụ nữ Sa-ma-ri, v.v
Vì thế, không thể có trường hợp thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Ngài một thời gian mà lại không nhận được sức mạnh của Ngài, và không được Ngài biến đổi nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Nếu sau cả một thời gian cầu nguyện mà không thấy mình được biến đổi về tâm linh, không nhận được sức mạnh, bình an và niềm vui sâu xa, thì ta cần phải nghiêm túc xét lại xem cách thức cầu nguyện của ta có thật sự giúp ta tiếp xúc với Thiên Chúa không.
4. Đừng quan niệm Thiên Chúa là một bóng ma theo tưởng tượng của ta
Trở lại với bài Tin Mừng, ta thấy thoạt đầu các tông đồ tưởng Đức Giê-su là ma. Điều ấy cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Rất nhiều khi chúng ta tưởng Thiên Chúa là một bóng ma, hay là một cái gì đấy mà bản chất không phải là Ngài. Có người tưởng Ngài là một bức tượng, hiện diện trước mặt mình một cách vật chất; họ đã vật chất hóa Ngài. Những người trí thức thì lại tưởng tượng Ngài, phác họa chân dung của Ngài theo những quan niệm riêng của mình, hoặc của nền văn hóa dân tộc mình. Vì thế, thay vì gặp được Ngài, ta chỉ gặp được một bóng ma, một Thiên Chúa do chính ta tạo dựng nên theo quan niệm hay sức tưởng tượng của mình.
Để đề phòng chuyện này, Thiên Chúa đã cấm người Do Thái không được tạc tượng Ngài, vì Ngài có hình dáng đâu mà tạc, nên tạc thế nào cũng chẳng bao giờ là tượng của Ngài được (x. Xh 20,4; Đnl 5,8; 27,15). Nhưng con người từ thời cổ đại đến giờ luôn luôn bị cám dỗ tạc tượng Ngài. Người bình dân tạc theo kiểu bình dân, tạc bằng gỗ, đá
Người trí thức tạc theo kiểu trí thức, tạc bằng những ý niệm. Nhà thần học tạc theo kiểu thần học, bằng những tư tưởng thần học. Nhưng Thiên Chúa vốn vượt khỏi mọi kinh nghiệm, mọi ý niệm và ngôn ngữ của con người, nên không thể diễn tả hay quan niệm Ngài bằng bất kỳ một ý niệm hay ngôn ngữ nào của con người. Thiên Chúa không thể diễn tả hay quan niệm được ấy đã bị con người biến thành một Thiên Chúa diễn tả được, quan niệm được, thậm chí được xác định và mô tả dứt khoát bằng vô số chi tiết nhỏ nhặt. «Thiên Chúa» do con người tạo dựng nên ấy làm sao đem lại sức mạnh tâm linh đích thật cho ta? «Thiên Chúa» ấy có thật sự là Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, và là Thiên Chúa của Đức Giê-su không?
5. Vai trò của đức tin khi cầu nguyện
Khi các tông đồ nhận ra Đức Giê-su, Ngài liền nói: «Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!» Một trong những đặc tính căn bản của Đức Giê-su là, khi ta gặp được Ngài, Ngài làm cho tâm hồn ta được bình an, Ngài tiêu hủy mọi nỗi sợ hãi của ta. Khi gặp các tông đồ, Ngài hay nói: «Bình an cho anh em!» (Lc 24,36; Ga 20,19; 20,21; 20,26). Và bình an của Ngài là thứ bình an «không ai lấy mất được» (Ga 16,22).
Khi gặp được Đức Giê-su, Phê-rô tin tưởng rằng nếu đó chính là Thầy mình thật, ắt Ngài có thể cho mình đi trên mặt nước giống như Ngài. Và quả thực ông đã đi được trên mặt nước. Nhưng đức tin của ông vào Ngài không vững, nên khi thấy gió thổi, ông sợ, và lập tức bị chìm xuống nước. Thì ra việc ông đi trên nước được là do quyền năng của Đức Giê-su, nhưng cũng do đức tin của ông vào Ngài nữa. Tin Mừng cho biết: tại Na-da-rét, «Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin» (Mt 13,58). Khi chữa ai khỏi bệnh, Ngài thường nói: «Đức Tin của anh đã cứu anh» (Mt 9,22; Mc 5,34; Lc 8,48; 17,19). Để được cứu rỗi cũng vậy, chính Đức Giê-su cứu ta, nhưng chính ta cũng phải tin vào Ngài thì Ngài mới cứu ta được. Đó chính là điều kiện tối yếu về phía ta. Tương tự, đức tin của ta vào Thiên Chúa cũng đóng một vai trò không thể thiếu được khi cầu nguyện để Ngài có thể làm điều gì đó cho ta, như ban bình an, ban sức mạnh, hay biến đổi ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin dạy con biết cầu nguyện đích thực, nghĩa là dạy con tiếp xúc với Cha thật sự, để nhờ đó nhận được sức mạnh của Cha. Rất nhiều khi con đọc kinh, dâng lễ, rước lễ chẳng khác gì một cái máy, trí óc con không hề nghĩ đến Cha mà chỉ tập trung vào những nhu cầu mà con muốn xin Cha thỏa mãn. Con chỉ có vẻ cầu nguyện, chứ không phải là cầu nguyện đích thực. Xin Cha hãy dạy con cầu nguyện đích thực.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Lm. Đan Vinh
LỜI CHÚA: Đức Giê-su liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14,27).
Phê-rô thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" (Mt 14,30).
CÂU CHUYỆN: HÃY NHÌN LÊN BẦU TRỜI !
Vào thời kỳ mới có thuyền buồm, một thiếu niên kia được vị thuyền trưởng cho đi thuyền vượt biển để: TN 19-A91
Vào thời kỳ mới có thuyền buồm, một thiếu niên kia được vị thuyền trưởng cho đi thuyền vượt biển để học tập làm thủy thủ. Một hôm gió bão nổi lên làm mặt biển dậy sóng. Viên thuyền trưởng ra lệnh cho cậu ta phải leo lên cột buồm để tháo các cánh buồm ra, tránh cho con thuyền khỏi bị gió bão vùi dập. Khi cậu ta vừa leo vừa ngước mặt lên trời thì mọi sự đều suông sẻ. Chỉ thoắt cái là cậu đã leo đến lưng chừng cột buồm. Nhưng khi cậu bắt đầu nhìn xuống mặt biển đang nổi sóng trong cơn gió bão, thì cậu lập tức bị chóng mặt như sắp bị té xuống đến nơi. Bấy giờ một thủy thủ gìa nhiều kinh nghiệm đã la to lên rằng:"Này chú bé, mau ngước mặt lên trời đi chứ đừng nhìn xuống! Hãy tiếp tục nhìn lên trời đi!" Cậu bé làm theo lời chỉ dẫn đó và đã leo lên tới đỉnh cột buồm và cậu đã hoàn thành nhiệm vụ là tháo được sợi dây để thả cánh buồm xuống.
Lỗi của cậu thiếu niên cũng giống như lỗi của Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: Cậu ta đã bỏ đích nhắm là bầu trời để nhìn xuống mặt biển nổi sóng, giống như Phê-rô đã rời mắt khỏi Đức Giê-su để nhìn vào mặt biển đầy giông tố. Vì thế ông đã bị chao đảo và bắt đầu chìm xuống. Cuộc đời các tín hữu chúng ta cũng vậy: Bao lâu chúng ta còn nhìn vào chúa Giê-su thể hiện qua việc siêng năng dự lễ và rước lễ. Bao lâu chúng ta còn năng nhớ đến Chúa, thì ta còn sống đạo tốt. Nhưng ngày nào chúng ta bỏ những việc đạo đức kia, thì tâm hồn chúng ta bắt đầu chìm đắm dưới quyền lực của ma quỷ, sa đà vào các thói hư tật xấu và các đam mê bất chính khác.
ĐỨC TIN CON NGƯỜI THƯỜNG MỎNG DÒN YẾU ĐUỐI:
Một chàng thanh niên nọ có sở thích chơi những trò mạo hiểm. Một hôm anh ta mang theo một chiếc dù màu vàng hình chữ nhật leo lên một mỏm núi khá cao, định sẽ từ đó nhảy xuống dưới, rồi khi đang rơi sẽ cho dù bung ra và anh ta sẽ được hưởng cảm giác bay đi trong gió trước khi đáp xuống an toàn dưới mặt đất. Nhưng đang lúc chạy lấy đà để nhảy thì chẳng may anh bị trượt chân và té xuống bên dưới mà chưa kịp bung chiếc dù ra. May thay anh ta đã kịp thời bám được vào một cành cây mọc nhô ra bên sườnnúi. Khi đó, anh cố gắng ôm chặt lấy cành cây kia. Nhìn lên mỏm núi không một bóng người. Nhìn xuống đất thì anh lại cảm thấy choáng váng vì chỉ thấy một vực sâu thăm thẳm ở bên dưới. Bấy giờ theo thói quen, anh chợt nghĩ đến Chúa và thầm thĩ cầu xin rằng: "Lạy Chúa, xin mau cứu giúp con. Con xin thề sẽ làm tất cả những gì Chúa muốn, miễn là con xuống tới mặt đất an toàn". Bỗng anh nghe thấy một tiếng nói từ trời vọng xuống: "Được, Ta sẽ cứu con, với điều kiện con phải tin vào Ta". Anh ta liền đáp: "Lạy Chúa, con xin vững tin và cậy trông vào Chúa! Xin hãy mau cứu con vì tay con đã mỏi lắm rồi!". Bấy giờ Chúa lại phán: "Tốt lắm ! Ta sẽ đưa tay đỡ con, nếu con chịu buông cành cây ra để rơi xuống !". Nhưng thay vì buông tay khỏi cành cây, anh ta lại càng bám chặt hơn nữa. Rồi anh quay lên mỏm núi cao và cố la lớn: " Có ai ở trên đó không? Mau cứu tôi với! Cứu tôi với !".
Quả thật đức tin của chàng thanh niên trong câu chuyện trên cũng thật yếu kém chẳng khác gì Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay. Ong Phê-rô đã dược Chúa cho phép đi trên mặt biển mà đến cùng Người. Nhưng đức tin của ông không đủ mạnh để tin cậy phó thác trọn vẹn cho Chúa. Khi thấy gió thổi, ông sợ hãi và bắt đầu chìm đắm. Bấy giờ ông vội la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với !", Chúa đã đưa tay nắm lấy ông mà trách: "Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?". Còn đức tin của chúng ta thì sao? Giả như chúng ta ở trong hoàn cảnh của anh thanh niên thì chúng ta có dám buông tay ra để được Chúa cứu hay không ? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để phó thác trọn vẹn cho Chúa khi ta gặp tai ương và những sự rủi ro trái ý không ?
CẦU NGUYỆN ĐEM LẠI BÌNH AN CHO TÂM HỒN.
KÉT MIU-LƠ (Keith Miller) tác giả cuốn sách tựa đề là "Hương rượu mới" (The taste of new wine). Trong sách, ông đã thuật lại một biến cố xảy ra làm thay đổi cả cuộc đời của ông như sau:
Vào một đêm nọ, trên đường về nhà, Kết bị một chiếc xe từ sau tông làm anh té nằm bất tỉnh bên lề đường suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, trong khi chờ xe cứu thương đến mang đi. Khi tỉnh dậy và ý thức tình trạng của mình, anh bắt đầu cầu nguyện với Chúa. Sau khi cầu nguyện xong,tự nhiên anh cảm thấy tâm hồn mình được bình an lạ lùng. Kết viết: "Tôi nghĩ thật đáng là đáng xấu hổ biết bao khi mà mãi cho đến bây giờ tôi mới khám phá ra giá trị của lời cầu nguyện. Từ khi ấy, dù đang phải đối diện với cái chết, nhưng tôi không thấy sợ hãi chút nào. Tôi có cảm giác Chúa luôn hiện diện bên tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp tôi". Sau đó, Kết đã được các bác sĩ kịp thời cứu sống và dần dần bình phục hoàn toàn. Anh quay trở lại đại học và được bầu làm chủ tịch lớp sinh viên năm thứ hai. Nhưng rồi về sau, bị các hoạt động xã hội lôi cuốn, anh đã thôi không đến nhà thờ nữa và bắt đầu lún sâu vào các đam mê tội lỗi.
Sau khi tốt nghiệp dại học, anh lập gia đình và vào làm việc cho một hãng xăng dầu ở tiểu bang Tếch-sớt (Texas). Nhưng cuộc sống gia đình và công việc đã không suông sẻ như anh mong ước. Một hôm chơi bài và bị thua một số tiền lớn, bao nhiêu tiền bạc dành dụm bấy lâu giờ đây hết sạch ! Anh bị vợ nặng lời mạt sát và đòi ly hôn. Anh buồn chán đánh xe chạy vọt đi mà không biết phải đi dâu. Sau khi chạy được một lúc, anh tấp xe vào bên lề đường, tắt máy rồi ngồi đó im lặng hút thuốc. Trước đây mỗi lần gặp phải điều gì buồn phiền, anh chỉ cần quay về nhà uống vài ly rượu mạnh rồi nằm vật ra giường ngủ một giấc đến sáng hôm sau là hết. Thế nhưng bây giờ sự thể lại không còn đơn giản như thế. Anh đã bị dồn đến bờ vực phá sản vì một phút lỡ lầm! Anh nhìn lên trời và la to lên rằng: "Nếu Chúa muốn gì nữa thì xin hãy lấy tất cả đi. Con thực sự muốn như vậy đó!" Ngay lúc ấy, anh cảm thấy tâm hồn bình an, một cảm giác mà cách đây mười mấy năm anh đã từng trải qua khi bị thương nằm bất tỉnh bên đường. Ngay lúc đó, anh đã có một quyết tâm là phải thay đổi cuộc sống. Dù không có những tia sấm chớp trên trời, cũng chẳng có tiếng nói mầu nhiệm nào của Thiên Chúa, nhưng Kết đã nhận biết rõ điều Chúa muốn nơi anh. Người không cần tiền bạc, thời giờ hay sức lực của anh. Có thể nói: Kết đã thực sự tái sinh để trở nên một con người mới hoàn toàn.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào mình. Khi chúng ta cảm thấy tâm hồn bất an, chính là lúc chúng ta đã bỏ không nhìn vào Chúa nữa. Chính khi bị chìm sâu trong các đam mê tội lỗi, là lúc chúng ta đã hoài nghi tình thương của Chúa, đã bỏ các việc đạo đức. Bấy giờ chúng ta hãy noi gương Thánh Phê-rô xưa để cầu xin với Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu con với!". Chắc chắn Người sẽ đưa tay ra nắm lấy chúng ta và dẫn ta lên thuyền bình an.
SUY NIỆM: CỨ YÊN TÂM. CHÍNH THẦY ĐÂY. ĐỪNG SỢ !:
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giê-su lên làm vua. Nhưng Người đã giục các môn đệ lập tức lên thuyền qua bờ bên kia trước, còn Người thì ở lại mà giải tán đám đông. Sau đó, Người lên núi cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Cha.
Nhưng Đức Giê-su vẫn không quên các môn đệ của Người. Người nhìn ra biển để dõi theo con thuyền của các ông. Người biết các ông đang vất vả đương đầu với sóng gió. Nhưng đây cũng là điều cần để thử thách đức tin của các ông và làm cho đức tin ấy trưởng thành. Đến gần sáng, Người đã đi trên mặt biển mà đến với các ông. Khi thấy người đi trên biển, các ông tưởng mình thấy ma và kêu la sợ hãi. Nhưng Người đã trấn an họrằng: Cứ yên tâm. Chính Thầy đây. Đừng sợ!
Biển tượng trưng cho sức mạnh của ma quỷ, có thể nuốt chửng con người. Do đó, đi trên mặt biển là Đức Giê-su biểu lộ quyền năng Thiên Chúa trấn áp quyền lực của ma quỷ. Khi để chúng ta gặp phải những tai ương, bệnh tật và đau khổ là Người muốn huấn luyện đức tin của chúng ta. Đức Giê-su luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta và sẵn sàng giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ và sự dữ. Nếu thực sự tin vào Người thì chúng ta sẽ không sợ hãi khi gặp bất cứ thử thách nào, nhưng luôn tin cậy Chúa sẽ rút từ sự dữ ra sự lành để chúng ta được ơn cứu độ.
"THƯA NGÀI, XIN CỨU CON VỚI".
Thấy Đức Giê-su đi trên biển, Phê-rô bán tín bán nghi và muốn kiểm chứng có phải là Thầy hay không, nên ông đề nghị cho mình được đi trên biển mà đến cùng Thầy. Tin tưởng và luôn nhìn vào Thầy, Phê-rô đã có thể vượt trên biển cả giống như Thầy mình. Nhưng khi gió mạnh ào đến xua tan đức tin, thì ông bắt đầu chìm xuống. Ong vội kêu lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!".
Bàn tay Đức Giê-su đã kịp đưa ra nắm lấy ông và đưa ông lên thuyền bình an với lời trách nhẹ: "Người đâu mà kém tin như vậy ! Sao lại hoài nghi ?"
LUÔN TIN TƯỞNG CẬY TRÔNG VÀO CHÚA:
Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng đã bị Chúa bỏ rơi khi để chúng ta liên tiếp gặp phải tai nạn rủi ro. Nhưng thực ra đó lại là cách Chúa thương dùng để huấn luyện đức tin cho chúng ta. Người muốn thử thách đức tin của chúng ta: " Lửa thử vàng, gian nan thử sức !". Nếu gặp những tai ương hoạn nạn mà chúng ta lại sợ hãi, bỏ cầu nguyện dự lể, để tin theo bói toán, bùa ngải, thì đức tin nơi ta đã chết. Nhưng nếu chúng ta vẫn trung thành với Chúa, vẫn chu toàn các việc đạo đức. Nhất là xin Chúa soi sáng để biết phải làm gì và làm như thế nào, luôn phó thác đời mình trong tay Chúa
thì mới chúng tỏ chúng ta có đức tin mạnh.
"Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện" (Mt 14,23), còn chúng ta thường hay chữa mình: Tôi bận quá không có giờ rảnh nào để vào sa mạc là nhà thờ mà cầu nguyện. Nhưng thật ra Chúa luôn ở bên cạnh ta và ở trong lòng ta. Chỉ cần một chút cố gắng là ta có thể tạo ra sa mạc cho mình: Mỗi ngày chúng ta có biết bao giờ rảnh rỗi để đi chơi, uống cà-phê, tán gẫu với chúng bạn hay ngồi hàng giờ trước vô tuyến truyền hình
Tại sao ta lại không bớt ra một ít phút để vào sa mạc tâm hồn mà cầu nguyện với Chúa. Mỗi ngày có rất nhiều cơ hội gặp Chúa, mà vì không ý thức sự cần thiết hay do sự lười biếng mà chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội gặp Chúa. Chẳng hạn: Những lúc cửa hàng vắng khách, khi chờ đèn xanh đèn đỏ, khi đang đợi điện thoại, đang chờ đóng gói món hàng
Mỗi lần bị kẹt xe hay khi bất ngờ bị cúp điện không thể làm việc bình thường, thay vì bực bội khó chịu, chúng ta có thể nhớ Chúa đang hiện diện trong mình và thưa với Người về những điều làm ta lo lắng và đang phải đối phó.
THẢO LUẬN: Khi trẻ con tới tuổi biết bò biếi đi mà cha mẹ không tập cho con đứng trên đôi chân của mình vì sợ nó bị té đau, thì làm sao con ta có thể đi đứng bình thường được ? Trong Tin Mừng hôm nay, tại sao Đức Giê-su lại để cho Phê-rô gặp phải gió lớn khi đang đi trên biển ? Tại sao nhiều lúc Chúa để chúng ta vấp ngã hay gặp phải những điều rủi ro trái ý?
III. HIỆP SỐNG CẦU NGUYỆN
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua câu chuyện con thuyền các môn đệ gặp sóng to gió lớn giữa biển khơi hôm nay, Chúa muốn ám chỉ con thuyền Hội Thánh chúng con. Hội Thánh ngày nay cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trở lực nhiều khi không thể tiến triển được.
LẠY CHÚA. Xin cho các vị mục tử trong Hội Thánh luôn tin cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho mỗi tín hữu chúng con luôn biết chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng việc quên mình vị tha và yêu thương phục vụ. Xin cho chúng con sẵn sàng đóng góp công của để góp phần vào sứ mệnh loan Tin Mừng của Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Sau khi cho hơn năm ngàn người ăn uống no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa Giêsu truyền cho: TN 19-A92
Sau khi cho hơn năm ngàn người ăn uống no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ lên thuyền sang bên kia biển Galilê, còn Người giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện. Đêm đó, biển Galilê dậy sóng, phong ba bão táp tràn đến như muốn nhấn chìm con thuyền các môn đệ xuống đáy sâu. Chính lúc ấy, Chúa Giêsu xuất hiện cứu nguy cho con thuyền đang chòng chành giữa bão táp cuồng phong. Cũng chính lúc đó, qua lời khiển trách của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đức tin của tông đồ Phêrô cũng như các môn đệ còn non nớt như thế nào.
Theo Kinh thánh, biển khơi tượng trưng cho quyền lực của sự dữ, là cạm bẫy thường xuyên đe doạ tính mạng của con người. Con thuyền các môn đệ ra khơi và dĩ nhiên, không thể tránh khỏi cạm bẫy này. Những ai có dịp đi biển và trải qua cơn giông bão giữa sóng nước mênh mông mới cảm nghiệm hết nỗi sợ hãi mà hôm nay các môn đệ gặp phải. Thế nhưng, với kinh nghiệm từng trải của nghề biển, các môn đệ tuy sợ hãi nhưng không đến nổi quá hãi hùng nếu không có sự xuất hiện của một bóng người bước trên sóng biển đang tiến về phía các ông. Nổi ám ảnh về cuồng phong, về sóng đánh và ngược gió không làm các ông hốt hoảng cho bằng sự xuất hiện của chủ nhân biển cả- quyền lực của sự dữ, mà các ông cho là “ma” đang tiến đến gần chiếc thuyền. Các ông cho rằng nếu chỉ là sóng đánh và ngược gió, các ông có thể chống chọi bằng kinh nghiệm của mình, nhưng nếu có sự nhúng tay của ác thần, của bóng ma sự dữ, thì điều này thật tệ hại, các ông chắc chắn sẽ bị chôn vùi trong biển khơi.
Chính lúc các ông hoảng loạn, không còn biết phải làm gì hơn là việc gào thét để mong sao “bóng ma” kia rẽ lối khác mà đi, đừng đến quấy phá các ông, thì một giọng nói thân quen vang lên: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Giọng nó ấy rõ ràng là của Thầy- người mà các ông biết là sau khi giải tán dân chúng, đang cầu nguyện trên núi. Thế nhưng, sao Thầy lại xuất hiện ở nơi đây, trong lúc biển gầm sóng thét thế này? Giọng nói thân quen ấy chứng tỏ Chúa Giêsu không hề rời bỏ các môn đệ của mình, dù các ông đang làm gì và ở đâu. Giọng nói ấy cũng minh thị rằng Chúa Giêsu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, nhất là trong những hoàn cảnh hiểm nguy của cuộc đời.
Hình ảnh chiếc thuyền các môn đệ vượt đại dương, đương đầu với sóng gió được sánh ví như con thuyền Giáo hội trôi theo giữa dòng đời trần thế. Phêrô được xem như viên thuyền trưởng hướng dẫn con thuyền vượt sóng đến bến bờ bình an. Trên hành trình ấy, những tảng đá ngầm, những cơn sóng thần, những trận cuồng phong và ngay cả hải tặc, … tất cả đều có thể làm cho con thuyền mỏng manh này bị nhấn chìm xuống đáy biển sâu nếu viên thuyền trưởng lơ là nhiệm vu. Chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng trong việc lèo lái con thuyền vượt sóng đại dương. Chúng ta thấy một khi Phêrô biết bám vào Chúa, biết tin tưởng và cậy trông vào Chúa, ông có thể làm được tất cả những phép lạ cũng như chiến thắng sự dữ như Chúa đã làm. Thế nhưng tại sao Phêrô lại bị chìm giữa biển khơi? Điều dễ nhận ra là một khi ông rời xa Chúa, tâm trí ông xao lãng việc kết hiệp với Chúa, ông sẽ không thể làm được chuyện gì. Việc ông bị chìm vào biển khơi khi đang bước đi ngon lành là một minh chứng điển hình cho việc ông rời xa Chúa. Như thế đã rõ, Phêrô chìm vào biển khơi là bởi vì ông dựa vào sức mình mà không dựa vào Chúa; Phêrô chìm vào biển khơi là bởi vì ông kém lòng tin; Phêrô chìm vào biển khơi là bởi vì ông vẫn còn hoài nghi ngay cả việc mình đang thực hiện bởi ý Chúa.
Hình ảnh Phêrô chìm vào dòng biển cũng là hình ảnh tiêu biểu cho mỗi Kytô hữu trong mọi thời đại. Trên hành trình đức tin, nhiều khi chúng ta bị vấp ngã do quá tự tin, quá dựa vào sức mình mà không cậy trông vào ơn thánh Chúa. Bài học của Phêrô vẫn còn đó. Vững tin vào Chúa, bám chắc vào ơn Chúa, ông đã bước trên biển cả như đi trên đại lộ thênh thang. Thế rồi chỉ một phút tự hào, khoái chí vì nghĩ rằng mình đang làm được điều kỳ diệu mà không dễ ai làm được, ông đã bị nhấn chìm vào biển khơi. Đôi khi chúng ta cũng như Phêrô, luôn tự đắc vì mình hơn người, mình làm được nhiều công trạng mà quên mất điều quan trọng này là tất cả đều đến từ Thiên Chúa, ngoài Chúa ra, con người không thể làm được điều gì đáng để tự hào.
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta nhận ra thân phận mỏng giòn yếu đuối của mình để không ngừng cậy trông vào ơn Chúa, xin ơn Chúa giúp và củng cố niềm tin hầu có thể can đảm vượt qua mọi trở ngại, mọi cám dỗ trong đời.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Lm Francis Lý Văn Ca
Bài Tin Mừng Chúa nhật 19 Năm A này cũng mang cùng một tư tưởng như Chúa Nhật 18. Đó là: TN 19-A93
Bài Tin Mừng Chúa nhật 19 Năm A này cũng mang cùng một tư tưởng như Chúa Nhật 18. Đó là: Chúa Giêsu đã can thiệp kịp thời trước nỗi bất lực cửa các môn đệ.
Sau khi dân chúng mải mê nghe Lời giảng dạy của Chúa Giêsu mà quên đi trời đã về chiều với cái bụng rỗng. Các môn đệ muốn phục vụ bữa ăn cho họ nhưng trong tay chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng cái khả năng nhỏ bé của các ông mà làm phép lạ cả thể nuôi 5 ngàn dân chúng ăn no.
Chúa nhật 19: Trong lúc các môn đệ đang bất lực trước sóng gió bão táp, họ tưởng như chết tới nơi, nhưng Chúa Giêsu đã xuất hiện truyền cho sóng yên biển lặng và kéo thuyền các ông vào bờ. Theo như Tin Mừng tường thuật thì khi xẩy ra cơn bão Chúa Giêsu không ở trên thuyền với các ông, thế nhưng Ngài không để các ông cô độc một mình, Ngài vẫn ở với các ông…
Thật vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình, còn các môn đệ bị bắt buộc phải lên đò qua bờ bên kia trước Ngài. Chúa Giêsu muốn tránh cho các môn đệ cơn cám dỗ về quyền bính, vì ngay lúc ấy theo Jn.6,15 thì họ muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua, nên chính Ngài cũng phải lên núi cầu nguyện để khỏi rơi vào cơn cám dỗ phục vụ áo cơm, và như thế sẽ đi trệch đường Thiên Sai mà Thiên Chúa Cha đã định.
Nhưng trên đò, các môn đệ đã gặp sóng cả gió ngược, Chúa Giêsu biết điều ấy nên giữa đêm tối Ngài đã đến với họ, nhưng họ không nhận ra Chúa và họ sợ hãi. Chúa đến với các môn đệ vào canh tư đêm tôi, canh tư là thời điểm cuối cùng của một đêm, nghĩa là vào thời cuối của công cuộc cứu độ. Ngài đến và tỏ uy quyền trên sóng biển, không những đi trên mặt biển mà còn truyền lệnh cho gió phải yên, đồng thời thông chia quyền hành với Phêrô, cho ông đi trên mặt biển.
Phêrô đòi đạp trên sóng mà đến với Chúa, nhưng khi nhìn thấy sóng ông sợ quá và chìm nghỉm, Chúa Giêsu phải đến với ông. Phêrô đạp trên sóng khi ông làm theo lệnh Chúa Giêsu, nhưng thấy gió ông chìm xuống. Chúa Giêsu đánh giá “ quân hèn tin”. Câu mắng của Chúa cho thấy Phêrô có tin nhưng đức tin của ông còn yếu. Như thế, nếu “vâng lời Thầy” thì mọi sự đều có thể làm được, còn khi tự mình mà đối đầu với sự dữ thì sẽ chìm.
Hội Thánh được ví như con thuyền vượt qua những thế lực xấu, vượt qua biển là sào huyệt của quyền lực sự ác, nó họat động mạnh mẽ và thuyền phải đội sóng mà đi, nghĩa là phải chiến đấu với ác thần và đôi khi Ngài phải vắng mặt để cho Hội Thánh chiến đấu một mình, như đã để cho các môn đệ phải đấu trí với lực lượng sự ác là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thế nhưng Ngài cũng đã đến với các ông, nhưng các ông không nhận ra Ngài đó là cuộc Phục Sinh, Ngài hiện đến với các ông, các ông không nhận ra. Qua kinh nghiệm ấy Hội Thánh tất yếu phải gặp sóng gió, nhưng nếu cứ theo lệnh Chúa, dựa vào lệnh Chúa thì sẽ đạp sóng mà đi thôi ! Nếu nhìn vào những khó khăn, nghĩa là nhìn vào sóng gió thì Hội Thánh sẽ chìm. Có nghĩa là ngưng dựa vào Chúa, ngưng lắng nghe tiếng Chúa thì sẽ chìm, sẽ mất can đảm.
Khi được chứng kiến phép lạ, các môn đệ đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa vì việc bước trên nước là biểu hiệu của Đấng hòan thành công cuộc tạo dựng. Đó là một dấu hiệu báo bình minh của ngày Giavê ( Is. 51,9-10). Đi trên nước là một cách hiển linh của quyền năng Thiên Chúa ở trong Đức Kitô.
Qua bài Tin Mừng, mẹ Hội Thánh muốn dạy chúng ta: Biển, sóng gió là những lực lượng của sự dữ đang hòanh hành trên thế giới, nỗi sợ của các môn đệ cũng là nỗi sợ của chúng ta. Chúng ta sợ vì thiếu đức tin và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúng ta nhận ra gương mặt Ngài trong sự thiện nhưng chúng ta không tin được lại gặp Ngài trong sự dữ, chúng ta sợ phải lựa chọn.
Hôm nay Chúa muốn mời gọi chúng ta lên thuyền như đã mời gọi các môn đệ và Ngài cũng sẽ để chúng ta chống lại sóng gió, chèo ngược gió, nhưng chính Chúa Giêsu cũng sẽ bước đi trên mặt nước của những lực lượng sự dữ. Chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt nhưng thực sự Ngài đang hiện diện, Ngài tin tưởng chúng ta và Ngài đi trước chúng ta.Lạy Chúa Giêsu, trong đời họat động tông đồ của chúng con, nhiều khi chúng con gặp những thất bại, nhưng chúng con quên đi rằng Chúa đang hiện diện ở đó. Xin cho chúng con qua bài học của các tông đồ, chúng con cảm nghiệm rằng chính Chúa đang ở bên trong sự dữ và đang đi trước chúng con. Nhờ tin tưởng như thế chúng con sẽ thành công trong sứ vụ được trao phó.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
LM Anmai, DCCT
Liệu người ta có sống được không khi không có lòng tin? Câu trả lời dường như quá dễ dàng: TN 19-A94
Liệu người ta có sống được không khi không có lòng tin? Câu trả lời dường như quá dễ dàng, người ta chết vì thiếu cơm thiếu gạo, thiếu chất dinh dưỡng hay thuốc men chứ có ai chết vì thiếu lòng tin!
Nhưng cứ thử hình dung, một đứa trẻ nếu không có lòng tin vào tình thương, vào trách nhiệm của cha mẹ mình thì dù có ăn ngon mặc đẹp, được hưởng thụ mọi tiện nghi, thậm chí được học hành thì đứa trẻ ấy cũng chẳng bao giờ được sung sướng. Nếu sống như vậy nó chỉ là một đứa trẻ vất vưởng mồ côi, có lẽ trong số những trẻ bỏ nhà đi bụi đời nhiều em đã mang theo cõi lòng tan hoang như thế. Bình thường, ra khỏi cái thế giới của gia đình, một thiếu niên có thêm lòng tin mới, tin vào thầy cô bạn bè, nhà trường. Chúng đau khổ khi bị bạn bè chơi xấu, và đâu đó nhà trường đã biến thành thị trường, người dạy không vì chúng mà vì túi tiền của cha mẹ chúng nên chúng đã hỗn láo, hư hỏng hoặc lớn lên ra trường đi làm, chúng tìm mọi cách để tận thu lại với đời.
Vợ chồng mà không tin nhau thì dù nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm thì cũng chỉ là một sự "liên hiệp", và những cuộc hành lạc hợp pháp. Không niềm tin thì không thể có tình yêu, còn hạnh phúc càng là chuyện hoang tưởng.
Một cuộc sống thiếu lòng tin thì đó không phải là cuộc sống…
Chẳng hiểu làm sao mà ngày hôm nay con người sống trong một thế giới thiếu vắng lòng tin để rồi từ thiếu vắng lòng tin nó đã gây ra cho con người biết bao nhiêu là xáo trộn, biết bao nhiêu à bất an. Ngày hôm nay người ta phải đối diện với quá nhiều sự giả trá, sự gian tà để rồi không còn tin vào nhau như xưa nữa.
Nhan nhản, sách báo, tivi, các chương trình truyền thông đại chúng cho chúng ta thấy một cuộc đời thật ê chề, thật chán chường. Tất cả chỉ là những lời hứa hão huyền, những lời hứa cuội. Mới đây thôi, tuần qua, một sự kiện đáng nhớ của người dân Sài Gòn: cơn mưa chiều ngày 1 tháng 8 đã biến Sài Gòn thành một dòng sông. Do đâu ? Do người ta hứa hẹn, người ta thiếu trách nhiệm để ma lo cho dân. Ngân sách rót ra cho chuyện sửa chữa cầu cống, ngập lụt đổ ra bạc tỷ, tiền ấy gom góp từ mồ hôi nước mắt của dân, vậy mà sau những trận mưa thì người dân hoàn toàn chịu trận. Chịu riết rồi chẳng còn ai tin vào lời hứa là sẽ lo cho dân, sẽ phục vụ dân nữa. Một lần, hai lần, ba lần người ta còn cố gắng chờ đợi để mà tin nhưng nhiều lần quá chẳng ai còn can đảm để mà tin.
Ngoài đường là như vậy, còn trong nhà thì sao ? Trong nhà hình như cũng nhuốm một cái màu đen tối của sự mất niềm tin vào nhau. Ai cũng sợ sống sự thật, đối diện với sự thật để rồi người ta không còn đến với nhau thật lòng nữa. Chắc có lẽ từ cái lối sống “làm láo báo cáo hay” nó nhen nhúm vào trong con người ta khi nào mà người ta không hay để rồi ai cũng báo cáo, cũng “nổ” cũng tô son trát phấn về mình. Vì sao ? Vì sợ người đối diện biết cái bộ mặt thật của mình nên người ta phải làm như vậy. Và khi làm như vậy đến một lúc nào đó cũng xuất đầu lộ diện thì thử hỏi còn ai dám tin vào nhau nữa ?
Cay đắng, bi đát ở chỗ là con người, ai ai cũng thấy và cần sống với những người có niềm tin vào nhau nhưng rồi người ta cư xử với nhau làm sao đấy. Cứ thật thật giả giả lẫn lộn để rồi đi tìm một lòng tin nguyên vẹn hơi bị hiếm.
Đứng trước vấn nạn của lòng tin, chúng ta có lòng tin như thế nào với người xung quanh và người xung quanh chúng ta có tin chúng ta hay không ? Cách riêng, người kitô hữu, người có Chúa thì sống lòng tin như thế nào ?
Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ về lòng tin. Phêrô, là người đã từng theo Thầy mình đi rao giảng nhưng đụng chuyện Phêrô cũng chưa tin vào Chúa, vẫn ngờ vực Chúa. Qua thái độ ngờ vực của Phêrô, Chúa Giêsu đã thẳng thắn trách móc ông. Chúng ta nhìn lại đời mình, chúng ta theo Chúa nhiều năm lắm, có người hai chục, có người ba chục, có người bốn chục … được Chúa yêu thương nhiều, được Chúa ủ ấp nhiều nhưng hình như chúng ta vẫn mang trong mình thái độ ngờ vực như Phêrô thì phải. Thế nhưng chuyện hay nơi Phêrô là sau bao nhiêu lần ngã lên vấp xuống nhưng cuối cùng Phêrô đã tin và sống chết với Thầy. Còn chúng ta, chúng ta sẽ sống sao với Thầy của chúng ta ?
Ngày hôm nay, cơ hội để chúng ta đặt lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Chúng ta đã theo Chúa nhiều năm nhưng hiện giờ lòng tin của chúng ta vào Chúa như thế nào ? Chúng ta tin vào người đời hay tin vào Thiên Chúa.
Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta trong các thánh vịnh:
Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời
Thì hơn tin cậy ở người trần gian
Tin vào thần thế vua quan
chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời (Tv 117, 8.9)
Cuộc đời mỗi người chúng ta vẫn bị giằng co, vẫn đứng giữa cái ngã ba đường là dựa vào Chúa hay dựa vào thần thế vua quan, tin vào Chúa hay tin vào của cải vật chất ? Đây không phải là chuyện đơn giản mà là chuyện chúng ta phải đối diện mỗi ngày trong cuộc sống thường nhật.
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, nhìn lại tất cả các biến cố lớn bé từ khi cất tiếng khóc chào đời đến ngày hôm nay chúng ta thử hỏi xem ai đã quan phòng cho cuộc đời chúng ta ? Ai yêu thương chúng ta ? Ai là thành luỹ đời chúng ta ? Ai là cùng đích đời chúng ta ? Vậy mà chúng ta đã không dựa vào tình yêu, vào đấng quan phòng, vào thành luỹ, vào Chúa của đời chúng ta mà chúng ta cứ quanh quẩn mãi trong cái thế giới vật chất, trong cái thế giới mau qua chóng tàn này.
Tuần trước, khi đang giúp cho một đôi hôn phối do một cha trong Dòng nhờ bỗng dưng cô bé nói với tôi rằng: “Mẹ bạn trai con đi coi thầy rồi, phải là trong tháng 10 này phải cưới vì tuổi của con và tuổi của anh ấy chỉ cưới trong tháng 10. Nếu không thì chúng con phải đợi đến 3, 4 năm nữa mới cưới được !”.
Tôi nghe xong tôi ngạc nhiên vì tôi biết rằng hai bên đều là đạo gốc, được học hành giáo lý nghiêm túc ở một giáo xứ lớn hẳn hoi mà nói với tôi như thế ! Hoá ra là mẹ của chú rễ dù là người có đạo nhưng hình như chẳng còn tin vào Chúa mà tin vào ông thầy bói. Tôi bèn nói với hai bạn trẻ rằng tôi cảm ơn mẹ của chú rễ. Và, nếu được xin kính mời bà mẹ của chú rễ đến đây, dẫn tôi đến với ông thầy bói nào đó đã coi cho hai bạn. Tôi nói rằng:
Thứ nhất: tại sao ông thầy bói coi cho hai bạn được mà sao không coi tương lai cho ông như thế nào ? Tại sao ông phải đi lượm bạc cắc từ những người nhẹ dạ và thiếu lòng tin vào Chúa ? Nếu giỏi, sao ông không coi chiều nay xổ số ra số mấy để ông mua nguyên tập vé số để có nhà lầu xe hơi mà phải đi coi bói thế này ?
Thứ hai: nếu được nhờ ông coi xem tương lai tôi có làm giám mục hay không ? Nếu tôi làm giám mục tôi mời ông về ở trong “Toà” với tôi ? Làm gì mà ông coi được ? Ngay cái bản thân của ông ông không biết ông sống ngày nào, chết ngày nào sao mà coi được cho ai?
Và còn nữa về chuyện thiếu lòng tin vào nhau, thiếu lòng tin vào Chúa nên đến với bói toán. Nhất là các cô các chị. Đôi khi chồng mình mệt mỏi hay có vấn đề gì không chịu hỏi, chạy tới hỏi ông thầy bói và khi mở bài lên con đầm bích. Ông phán ngay cho một câu là chồng chị có một người nước da ngăm ngăm theo đuổi ! Thế là về nhà mặt nặng mày nề với ông chồng mà không chịu hỏi thực hư!
Thời buổi ngày hôm nay người ta thường nói đùa với nhau là “lên cung trăng” rồi mà người ta còn tin vào bói toán. Thật ra số người tin vào bói toán ngày nay còn nhiều chứ không phải là ít, cách riêng là nữ giới. Vì nhẹ dạ, vì thiếu lòng tin và nhất là thiếu lòng tin vào Thiên Chúa nên họ dựa vào bói toán là điều dễ hiểu. Lẽ ra trong những cơn gian nan thử thách của cuộc đời họ tìm đến Chúa, họ cậy vào Chúa nhưng không, họ đã tìm đến những con người tầm thường của thế gian.
Và như đã nói ở trên, cuối đời Phêrô hối hận về tất cả những gì mình làm buồn phiền Thầy mình nên Ngài đã làm lại tất cả những gì có thể được để minh chứng cho tình yêu của Ngài đối với Thầy Chí Thánh. Và với lời nguyện xin quen thuộc của Ngài khi Chúa Giêsu hiện ra sau khi Phục Sinh với mẻ cá lạ, mỗi người chúng ta trong từng phút từng giây của cuộc đời cũng biết thưa như Phêrô: “Lạy Ngài ơi thương đến ! Xin củng cố giúp con ! Này lòng tin con đây còn mỏng dòn non yếu ! “Lạy Ngài ơi thương đến ! Xin củng cố giúp con ! Này lòng tin con đây hầu đã vỡ tan rồi” (bài Con tin thưa Thầy – linh mục Thành Tâm)
Khi và chỉ khi ta đặt niềm tin của ta vào Chúa như Phêrô thì cuộc đời ta mới bình an giữa muôn sóng sóng gió của cuộc đời này được.
Nguyện xin Chúa là nguồn mạch của sự sống, nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch của lòng tin đến và ở lại trên cuộc đời của mỗi người chúng ta để chúng ta luôn trao phó cuộc đời của chúng ta vào trong bàn tay của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào mà chúng ta đang sống.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Lm Phêrô Nguyễn Hương
Như có lần chúng ta đã nói: Sống là một hành trình tìm kiếm liên lĩ, tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa: TN 19-A95
Như có lần chúng ta đã nói: Sống là một hành trình tìm kiếm liên lĩ, tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Có bao nhiên con người thì có bấy nhiêu cuộc hành trình. Với người kitô hữu, hành trang cuộc đời không gì khác hơn là Đức Tin. Đức tin là kim chỉ nam, là bảng chỉ đường hướng dẫn chúng ta đi tới mục đích.
Vậy thì tin có nghĩa là gì? Sách Giáo lý Công Giáo mới có một đĩnh nghĩa rất vắn gọn: “Tin là lời con người đáp trả lại Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải và hiến mình cho con người, khi ban ánh sáng chứa chan cho con người đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình” (s. 26).
Tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý thức hệ, một số lề luật, nhưng tin chính là gắn bó, là gặp gỡ, là bước theo một Con Người, và để Con Người đó hướng dẫn ta, chỉ cho ta biết đâu là hạnh phúc đích thực và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Con người đó có tên là Đức Giêsu Nazareth. Như thế tin là sống với, sống như, sống cho Đức Kitô và cùng với Người bước đi trong cuộc đời này.
Những sóng gió của Đức tin
Nhưng sống niềm tin vào Đức Kitô đó trong bối cảnh của ngày hôm nay đang gặp sóng gió mà Lời Chúa hôm nay nói tới với những hình ảnh đầy tính biểu tưởng.
Nếu “biển” là biểu tượng của cuộc đời này, thì sóng gió là những thử thách và trở ngại của con thuyền Đức tin.
Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng: Các môn đệ và nhất là Phêrô là những người “đã tin mà vẫn chưa tin”, đã tín thác mà vẫn còn hoài nghi ngờ vực, khi họ phải đối diện với sóng gió cuộc đời. “Thấy Chúa đi trên biển, họ hoảng hồn mà nói rằng: Ma kìa”! Đúng là những người kém tin, nên mới “nhìn gà hóa cáo” thôi. Trước những khó khăn, họ không còn nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa nữa!
Nhìn vào các tông đồ để chúng ta cũng soi bóng mình và thấy mình ở trong đó. Các tông đồ và Phêrô chính mỗi người chúng ta, những người đã tin mà vẫn còn chưa tin.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị thử thách bởi một nền văn hóa vắng bóng Thiên Chúa (nhiều người thấy Chúa tưởng là ma, thấy ma tưởng là thiên thần, thấy thiên thần tưởng là quỉ dữ!), một nền văn hóa đề cao tiền bạc, tính dục, và hưởng thụ cá nhân. Sự hấp dẫn của chúng đã khiến nhiều người bỏ Chúa để chạy theo những lối sống dễ dãi, thực dụng và vì cái lợi trước mắt mà quên nhân phẩm và đạo lý của mình.
Cũng như các môn đệ, khi bình an, thành công, thì chúng ta dễ dàng tin Chúa, đến với Chúa, nhưng những khi hoạn nạn, thất bại thì chúng ta thất vọng, bỏ Chúa, không cầu nguyện và đến nhà thờ nữa, như bài thơ Dấu Chân Trên Cát diễn tả: khi bình an yên ổn thì con nhận ra dấu chân Chúa bên cạnh dấu chân con, lúc con đau buồn lẫn cô đơn. Con chỉ thấy một dấu chân trên cát. Nhưng Chúa trả lời, chính lúc đó lúc Ta đang ẳm bồng con!
Phải có một Đức Tin mang tính cá vị để khám phá sự hiện diện của Chúa
Trước những thử thách của cuộc sống, mỗi người chúng ta phải có một Đức Tin mang tính cá vị vào Đức Kitô. Có nghĩa là Đức Tin đó phải dựa trên một xác tín, một chọn lựa và dấn thân riêng của tôi để sống gắn bó với Chúa mỗi ngày. Dù có nhiều lối rẽ, cám dỗ mời mọc hấp dẫn, tôi vẫn xác tín rằng: Chỉ có Chúa mới mang lại cho tôi ý nghĩa cuộc đời và hạnh phúc bền vững. Dù có bị thử thách, bị chao đảo, nhưng tôi xin chọn “Chúa là gia nghiệp của riêng mình” (Tv 32, 12b), tôi vẫn bám lấy Chúa, trung thành với Chúa cho đến cùng. Đức tin như thế là cuộc gặp gỡ mang tính cá vị với Đức Giêsu, chỉ có đức tin đó mới giúp chúng ta vững vàng trước sóng gió cuộc đời và chỉ có Đức Tin đó mới giúp chúng ta khám phá sự hiện diện, dấu chân và cánh tay yêu thương của Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa, con thuyền đức tin của Chúng con đang bị sống gió cuộc đời vùi dập, xin Chúa ban cho chúng con có một Đức tin sống động, mang tính cá vị và biết tĩnh thức, để dù có phải trải qua những thử thách, chúng con vẫn trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin cho cặp mắt đức tin của chúng con luôn sáng ngời để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời chúng con. Amen!
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Niềm tin vào Thiên Chúa qua Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu phải được mọi Kitô tuyên xưng một cách: TN 19-A96
Niềm tin vào Thiên Chúa qua Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu phải được mọi Kitô tuyên xưng một cách mạnh mẽ, sâu xa như thánh Phêrô đã thay mặt các môn đệ tuyên tín: ” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Tin là phó thác và để Chúa Giêsu làm chủ cuộc đời con người. Các bài đọc hôm nay, đặc biệt bài Tin Mừng mời gọi những môn đệ Chúa, những Kitô hữu, mời gọi tất cả chúng ta đặt tất cả tin tưởng vào quyền năng vô biên của Chúa.
Các môn đệ đã theo Chúa Giêsu trên đường truyền giáo, Ngài đã huấn luyện các Ông và đã nhiều lần tỏ cho các Ông thấy quan niệm phục vụ, quan niệm làm Vua và Vương Quốc mà Đức Kitô chiếm lĩnh hoàn toàn khác với suy nghĩ, mơ tưởng của nhiều người, cũng như của các môn đệ. Bởi vì theo các môn đệ nghĩ tưởng Chúa Giêsu nếu lên làm Vua, các Ông sẽ sung sướng, các Ông sẽ được làm lớn trong Vương Quốc ấy. Chúa Giêsu lại có suy nghĩ hoàn toàn khác. Vương Quốc hay Nước Trời, Ngài đang rao giảng là Nước Tình Yêu. Và quan niệm phục vụ của Ngài là “ đến để phục vụ, chứ không đến để được hầu hạ “ “ Ai muốn làm lớn phải hầu hạ, phải làm đầy tớ anh em “. Ngài còn nói: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác Thập giá của mình mà theo Ta “. Quan niệm này đã đánh tan mộng ước, ảo tưởng của các môn để vì chính thánh Giacôbê và Gioan con Ông Giêbêđê đã đưa mẹ mình tới với chúa Giêsu để xin cho con của mình, một người ngồi bên hữu, một người bên tả trong Vương Quốc Thiên Chúa. Do đó, sau phép lạ làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa thành nhiều để cho dân chúng ăn no nê. Chúa Giêsu biết trước dân chúng muốn tôn Người lên làm Vua, chính vì thế, Ngài đã buộc các môn đệ lên đò mà sang qua bờ bên kia để tránh sự hân hoan, cuồng nhiệt của dân chúng khi chứng kiến phép lạ quá sức tưởng tượng và hết sức ngoạn mục của Chúa Giêsu. Khi dân chúng được giải tán xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, trò chuyện thân mật với Thiên Chúa Cha. Các môn đệ lên đò ra đi, ra khơi nhưng lòng các Ông chẳng phấn khởi chút nào vì niềm hứng thú và ước vọng được làm lớn, cơ hội đã tới nhưng không những Chúa đã chối từ mà còn ra lệnh cho các Ông phải bỏ nơi vừa xẩy ra phép lạ. Bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng theo sự suy nghĩ trần gian của các môn đệ. Bực tức, bất mãn, mệt nhọc, chán nản làm cho các Ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rất rõ tâm trạng của các môn đệ. Ngài nhìn các Ông và thấy rõ tâm hồn của các Ông khi Ngài đang cầu nguyện. Các môn đệ chèo chống ngược với sóng gió, ngược với cả ý muốn của các Ông. Biển dậy sóng, gió to, cuồng phong bão tố. Các môn đệ sợ hãi, mất cả niềm tin. Các Ông cuống quýt vì gió quá to và sóng đánh tứ bề. Đang lúc bối rối, lo âm sợ hãi, Chúa hiện đến với các Ông. Phêrô nói như thách thức Chúa Giêsu. Nếu thực là Thầy, xin Thầy hãy truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy. Chúa Giêsu quá biết Phêrô. Ngài nói “ Hãy đến “. Phêrô lập tức bỏ thuyền bước trên mặt nước mà đến với Chúa. Nhưng bước đi được vài bước, Phêrô ngần ngừ, Phêrô do dự, nghi ngờ, Phêrô liền bị nhận chìm xuống nước. Phêrô liền vội vã kêu cầu Chúa Giêsu: ” Lạy Chúa xin cứu con với “. Chúa liền cứu Ông dù Ông kém lòng tin. Đây là hành trình đức tin của Phêrô, của các môn đệ, của mọi tín hữu và của chúng ta nữa. Câu chuyện kết thúc khi tất cả đều ở trên thuyền. Gió yên, biển lặng vì có mặt Chúa Giêsu ở đó.
Thật là tuyệt vời, câu chuyện Chúa can thiệp làm cho biển lặng, gió yên, minh chứng rằng Chúa luôn có mặt trong cuộc đời của con người. Dù lúc chúng ta gặp hạnh phúc, vui tươi hoặc lúc chúng ta gặp thử thách, gặp phong ba bão táp biển đời cuộc sống, dù có lúc chúng ta quên Ngài, thậm chí chúng ta xa rời Ngài, Ngài vẫn có mặt…một sự hiện diện kín đáo, âm thầm nhưng vô cùng hữu hiệu, vô cùng độc đáo. Vâng không phải lúc nào chúng ta cũng dễ nhận ra Ngài. Cuộc đời của chúng ta có lúc như Phêrô và các môn đệ gặp phong ba bão táp trên biển, đã có lúc chúng ta gặp thử thách, khó khăn trong cuộc đời. Có lúc chúng ta nhất quyết theo Chúa và sống đạo đức sốt sắng nhưng quả thực với thời gian nhiều khi những cám dỗ, những cạm bẫy trên đường đời làm chúng ta tròng trành, trôi nổi như thuyền của Phêrô và các môn đệ bị gió cuốn trôi, chúng ta nguội lạnh, khô khan, đức tin của chúng ta yếu kém dần, không còn hừng hực lửa cháy. Và như Phêrô, chúng ta bị nước nhận chìm…
Chúa luôn luôn có chương trình của Ngài. Chúng ta đừng bắt Ngài làm theo ý chúng ta nhưng điều quan trọng nhất là hãy làm theo ý Chúa. Chúng ta đừng phàn nàn, kêu trách Chúa nhưng chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa và như Phêrô, chúng ta hãy thưa với Chúa: “ Lạy Chúa, xin cứu vớt chúng con “. Chúa luôn có mặt để cứu giúp chúng ta. Chúng ta hãy phó thác, đặt hết tin tưởng vào Ngài và như thế, tâm hồn mỗi người chúng ta sẽ được bình an.
Đó là hành trình đức tin của mỗi người chúng ta…Chúng ta hãy tin tưởng như Abraham, như Gióp, như Thánh Giuse và Mẹ Maria. Thánh Phanxicô Salêsiô đã có một xác tín mạnh mẽ: ” Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa: .
Lạy Chúa, giao ước thuở xưa, xin nhìn lại. Đừng mãi mãi bỏ rơi mạng sống dân nghèo khổ của Ngài. Lạy Thiên Chúa, xin đứng lên biện hộ cho Ngài. Xin đừng quên tiếng những ai tìm kiếm Chúa. ( Ca Nhập Lễ Chúa Nhật XIX thường niên, năm A ).
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sống ở trên đời, ai cũng có lúc phải lo âu, sợ hãi. Sợ vì gặp thử thách nguy gian.Sợ ma, hoặc sợ: TN 19-A97
Sống ở trên đời, ai cũng có lúc phải lo âu, sợ hãi. Sợ vì gặp thử thách nguy gian.Sợ ma, hoặc sợ người hung ác,dữ tợn.Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay cũng cho chúng ta hiểu nỗi sợ hãi của các tông đồ khi vắng mặt Chúa Giêsu trên thuyền lúc gió to sóng lớn. Chúa Giêsu đã can thiệp kịp thời khi đi trên mặt biển mà đến với các tông đồ. Chúa lên thuyền thì làm cho sóng lặng gió yên, làm cho tâm hồn các tông đồ bình an, vững tin vào Ngài…
Chúa Giêsu giới thiệu Nước Trời và cho mọi người thấy, Nước Trời đang hiện diện với sự có mặt của Người. Ngài huấn luyện các tông đồ để các tông đồ sẽ là nền tảng vững chắc cho Giáo Hội của Chúa sau này.Thánh Matthêu qua câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước và làm cho sóng gió yên lặng.Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho thánh Phêrô, người sẽ làm đầu Giáo Hội và các tông đồ hãy vững tin vào Ngài, vì không có Ngài các tông đồ không thể làm gì được. Sóng gió mênh mông.Gió to biển động như muốn nhận chìm con thuyền Giáo Hội. Sức mạnh của ma quỷ, của sự dữ như muốn nuốt chửng các tông đồ. Nhưng Chúa luôn luôn hiện diện, luôn can thiệp đúng lúc, đúng thời, vẫn giơ tay nắm lấy các tông đồ để các Ngài và Giáo Hội luôn tồn tại…Chúa Giêsu cầu nguyện. Ngài vẫn thường cầu nguyện, Ngài có thói quen cầu nguyện vào ban đêm và ở nơi thanh vắng.Thánh Matthêu nhắc tới Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện như cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Môsê khác, vì Môsê vẫn lên núi để gặp Giavê. Thuyền của các tông đồ đi đánh cá trên biển hồ Tibêriat, với mặt biển rộng 12 cây số.Các tông đồ đang có mặt trên biển hồ Gênêsaret vào khoảng 3 tới 6 giờ sáng. Tin Mừng cho hay lúc đó bão táp nổi lên, các tông đồ hoang mang sợ sệt vì không có Chúa ở đó, Ngài đang cầu nguyện. Khi Chúa xuất hiện Ngài nói với các tông đồ:” Chính Thầy đây, đừng sợ “.Câu nói này làm cho chúng ta liên tường đến một kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước để chỉ về Gia Vê Thiên Chúa.Môsê đã dùng câu nói ấy để làm cho dân Chúa an tâm, vững tin.Giờ phút này, chính Chúa Giêsu dùng từ ngữ ấy để làm cho các tông đồ bình an và vững tin vào Ngài.Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Matthêu cũng làm nổi bật vai trò của thánh Phêrô và sự gần gũi của Ngài đối với Chúa Giêsu.Tuy rất yêu mến, nể trọng thánh Phêrô vì Ngài sẽ cầm đầu Giáo Hội, tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn nhắc bảo, sửa trị Phêrô khi Ngài có biểu hiện bất xứng để khi Phêrô trở về Ngài sẽ củng cố đức tin cho anh em Phêrô(Lc 22, 33 ).
Bài Tin Mừng hôm nay quả thực là một lời trấn an và là một đảm bảo cho mọi Kitô hữu, cho Giáo Hội. Có những lúc con thuyền Giáo Hội như đang tròng trành giữa biển khơi sóng gió. Con người chúng ta đang gặp những thử thách hoang mang.Tuy nhiên, Giáo Hội hay mỗi người chúng ta vẫn cảm thấy như Chúa vẫn im lặng.Một sự im lặng hầu như đáng sợ. Chúng ta tự hỏi:” Chúa đang ở đâu ?”. Chúa vẫn trả lời cho chúng ta:” Thầy đây mà! Đừng sợ “.Con thuyền Giáo Hội qua muôn sóng gió, bão táp, vẫn đứng nguyên vì Chúa luôn có mặt nâng tay đỡ nâng phù trì. “ Chúa có đó, nên không có gì có thể phá đổ được “ ( Mt 16, 18 ). “…Trời đất sẽ qua đi, những Lời Chúa vẫn muôn đời tồn tại “ ( Mt 5, 18 ). Để xây dựng Giáo Hội, Chúa đã mời gọi các môn đệ, các tông đồ, huấn luyện họ về lòng nhân ái và niềm tin vững mạnh nơi Chúa. Chúa lèo lái, hướng dẫn con thuyền Giáo Hội và con thuyền cuộc đời chúng ta để mỗi lúc gặp khó khăn chúng ta và cả Hội Thánh tin tưởng:” Hãy an tâm, có Thầy đây đừng sợ “.Điều phải sợ là những lúc vắng Chúa, lúc chúng ta quên khẩn cầu, quên nài van Chúa, quên kiếm tìm Chúa, những lúc chúng ta đối xử thiếu bác ái với nhau, những lúc chúng ta dựa vào quyền hành, dựa vào đồng tiền vv…Những lúc thiếu Chúa, thiếu thánh Phêrô, Giáo Hội sẽ không còn là Giáo Hội. Con người và Hội Thánh sẽ an tâm, sẽ vững bền “ Khi cả hai cùng lên thuyền “ ( Mt 14, 32 ).
Chúng ta luôn phải cảm nghiệm và vững tin, thốt lên hằng ngày:” Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa “ ( Mt 14, 33 ). Và cuộc đời mỗi người chúng ta sẽ trở lại bình thường khi gặp khó khăn, nếu chúng ta có xác tín:” Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa “ ( thánh Phanxicô Salêsiô ).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết tích cực chia sẻ những góp sức của mình để đem an bình, tin tưởng cho tha nhân, cho Giáo Hội. Amen.
------------------------------------------
Mt 14, 22 – 33
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Có một nhà văn Anh (Somerset Maugham) viết cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Lưỡi dao cạo” (The: TN 19-A98
Có một nhà văn Anh (Somerset Maugham) viết cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Lưỡi dao cạo” (The Razor"s Edge, năm 1944), nhưng suốt trong mấy trăm trang của cuốn truyện không hề thấy một chữ “lưỡi dao cạo” nào. Ý của tác giả muốn diễn tả con đường mà nhân vật chính trong câu chuyện (Larry Darell) phải trải qua là một con đường khó khăn, y như bước đi trên cạnh sắc của lưỡi dao cạo vậy. Bài Tin Mừng hôm nay không có cạnh sắc của lưỡi dao cạo nào -ngược lại là đàng khác, dịu êm như đệm nước- nhưng ý nghĩa là tương đương như cạnh sắc của lưỡi dao: tức là cũng rất khó khăn để bước trên đó: đi trên mặt nước. Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Các môn đệ tưởng là ma. Ngài nói: Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ. Phêrô nghe vậy liền nói: Lạy Thầy, nếu là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước đến với Thầy. Đi trên mặt nước, chứ không phải bơi trong nước, không dễ, nên Phêrô đã chìm, phải cầu cứu thầy Giêsu: Lạy Thầy xin cứu con.
1. Cuộc sống Kitô hữu ở trần gian này ví như cuộc đi trên mặt nước.
Không phải chỉ một mình Phêrô mới đi trên mặt nước để đến với Thầy Giêsu, mà hầu như mọi người đệ tử của Thầy Giêsu là chúng ta đây đều được truyền hãy đi trên mặt nước để đến với Thầy: Lạy Thầy, nếu là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước đến với Thầy. Ta thử tưởng nghĩ ra một số trường hợp không xa lạ gì:
-An là một sinh viên sống xa gia đình và dĩ nhiên phải ở nhà trọ trên thành phố để đi học. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. An không muốn trỗi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo cùng trọ thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, An cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là An bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
-Bình là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết ra thì... ôi thôi, Bình không dám nghĩ tiếp ! Cô định đi phá thai. Con đường thật đơn giản, giống như ai đó ăn xong chùi mép. Nhưng rồi cô can đảm giữ lại bào thai ấy. Bình cũng đang bước đi trên mặt nước bập bình, nhưng lại an bình vì dám bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận, và bão bùng của muôn khó khăn không lường trước được.
-Công là một cảnh sát. Một tên buôn bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn; Làm ngơ sẽ có tiền to, để mắt lo vào, coi chừng mất cả mạng sống. Đám tay chân đâm thuê chém mướn sẽ đến tính sổ với Công. Nhưng anh cương quyết chối từ. Công cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và dám đương đầu với sóng gió của đe dọa.
-Chính là nhà buôn. Nhà buôn nào chẳng muốn mau giàu. Giàu mau thật mau chỉ có một con đường là con đường tắt. Tắt trong thương trường mang nhiều nghĩa lắm, nào là bỏ qua con đường thuế má; nào là bỏ qua công đoạn phức tạp để có được một mặt hàng nhanh, rẻ giá thành, nhưng cứ bành trướng giá bán. Chính không muốn đi con đường tắt đó. Anh đang đi trên mặt nước, giữa sóng gió những lời chê bai của dòng họ bạn đời mình: “Mầy lấy phải một thằng chồng chẳng biết làm ăn gì cả.”
Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác trong đó có thí dụ phù hợp với hoàn cảnh của chính mình. Mỗi người, bất kể ai, miễn là đệ tử của thầy Giêsu, đều được truyền đi trên mặt nước mà đến với Thầy.
2. Làm sao để đi trên mặt nước mà không chìm
Phêrô khi thốt lên lời xin: Lạy Thầy, nếu là Thầy thì xin truyền cho đi trên mặt nước đến với Thầy. Chúa nói: Cứ đến. Và Phêrô đã từ thuyền bước xuống đến với Đức Giêsu. Ta không biết Phêrô bước trên mặt nước được mấy bước. Một bước, hai, hay ba bước. Matthêu không nói (Marcô và Luca không thuật Phêrô đi trên nước, mặc dầu có thuật Chúa Giêsu đi trên mặt biển), nhưng chắc chắn Phêrô có đi được một số bước. Nếu không đi được bước nào, nhảy xuống là chìm liền, thì Tin Mừng Matthêu đã không ghi như thế này: Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu (Mt 14,29). Chỉ khi thấy gió thổi, sóng nổi, ông mới sợ và bắt đầu chìm, vội la lên cầu cứu. Không phải ông đi được mấy bước rồi, mới có gió thổi lên, sóng to trở lại, mà sóng vẫn to, gió vẫn lớn, như Mt ghi trước đó, trước khi Chúa đi trên mặt nước đến với họ:“Thuyền đi xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển đến với họ.” Vậy cái gì khiến Phêrô đi được mấy bước trước khi bị chìm ? Chắc chắn không phải vì biển êm đột ngột, gió lặng hiu hiu làm Phêrô đi trên nước dễ dàng. Vì biển chỉ im khi Chúa cùng Phêrô lên thuyền. “Khi Thầy trò đã lên thuyền thì gió lặng” (Mt 14,32). Các nhà chú giải Kinh Thánh lẫn các nhà giảng thuyết lừng danh vẫn đồng ý với nhau là Phêrô bước đi được là do Tin vào Thầy, mắt dán chặt vào Thầy. Khi hạ mắt xuống nhìn sóng to, ông lo sợ và bắt đầu chìm lỉm ngay. May mà Phêrô nhanh miệng kêu cứu, đúng lúc, đúng người. Kêu Thầy, chứ không phải “Gioan ơi, Giacobê hỡi cứu ta với.” Vậy khi ta tin vào Chúa, nhìn vào Ngài, ta sẽ đi trên mặt nước được.
Vào thời kỳ mới có thuyền buồm, một thiếu niên kia được vị thuyền trưởng cho đi thuyền vượt biển để học tập làm thủy thủ. Một hôm gió bão nổi lên làm mặt biển dậy sóng. Viên thuyền trưởng ra lệnh cho cậu ta phải leo lên cột buồm để tháo các cánh buồm ra, tránh cho con thuyền khỏi bị gió bão vùi dập. Khi cậu ta vừa leo vừa ngước mặt lên trời thì mọi sự đều suông sẻ. Chỉ thoắt cái là cậu đã leo đến lưng chừng cột buồm. Nhưng khi cậu bắt đầu nhìn xuống mặt biển đang nổi sóng trong cơn gió bão, thì cậu lập tức bị chóng mặt như sắp bị té xuống đến nơi. Bấy giờ một thủy thủ già nhiều kinh nghiệm đã la to lên rằng:"Này chú bé, mau ngước mặt lên trời đi chứ đừng nhìn xuống! Hãy tiếp tục nhìn lên trời đi!" Cậu bé làm theo lời chỉ dẫn đó và đã leo lên tới đỉnh cột buồm và cậu đã hoàn thành nhiệm vụ là tháo được sợi dây để thả cánh buồm xuống.
Lỗi của cậu thiếu niên cũng giống như lỗi của Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: Cậu ta đã bỏ đích nhắm là bầu trời để nhìn xuống mặt biển nổi sóng, giống như Phê-rô đã rời mắt khỏi Đức Giê-su để nhìn vào mặt biển đầy giông tố. Vì thế ông đã bị chao đảo và bắt đầu chìm xuống.
Cuộc đời các tín hữu chúng ta cũng vậy: Bao lâu chúng ta còn nhìn vào Chúa Giê-su thể hiện qua việc siêng năng dự lễ và rước lễ. Bao lâu chúng ta còn năng nhớ đến Chúa, thì ta còn sống đạo tốt. Nhưng ngày nào chúng ta bỏ những việc đạo đức kia, thì tâm hồn chúng ta bắt đầu chìm đắm dưới quyền lực của ma quỷ, sa đà vào các thói hư tật xấu và các đam mê bất chính khác. Nói theo chủ đề của bài giảng hôm nay, chúng ta không đi trên mặt nước được.
Mặc dầu không xao nhãng các công việc trần thế, như lời dạy của CĐ Vatican 2, nhưng chúng ta cần phải tâm niệm lời thánh Phaolô trong thư Cô-lô-xê 3,1: Anh em đã được sống lại cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Nói theo kiểu nói của Tin Mừng hôm nay: hãy dán mắt vào Đức Kitô, hãy tin vào Ngài, thì anh em sẽ dễ dàng lướt đi được trên mặt nước, tức vượt qua được những khó khăn thử thách ở đời này. Ước gì được như vậy. Amen.
Nguồn vietcatholic.org
-------------------------------
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN A
1 V 19,9a.11-13a ; Rm 9,1-5 ; Mt 14, 22-33
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 14, 22-33
(22) Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông. (23) Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện. Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình. (24) Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm, bị sóng đánh vì ngược gió. (25) Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. (26) Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “ma đấy !” và sợ hãi la lên. (27) Đức Giê-su liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”. (28) Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. (29) Đức Giê-su bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. (30) Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với !”. (31) Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?”. (32) Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. (33) Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !”.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU BÀY TỎ QUYỀN NĂNG QUA VIỆC ĐI TRÊN MẶT BIỂN:
Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,13-21), dân chúng hào hứng, muốn tôn Đức Giêsu: TN 19-A99
Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,13-21), dân chúng hào hứng, muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Do không muốn cho các môn đệ hiểu lệch lạc về sứ mạng Thiên Sai theo nghĩa thế tục như dân Do thái đang mong đợi, nên Đức Giê-su đã ra lệnh cho các ông lên thuyền sang bờ bên kia trước, đang khi Người ở lại giải tán đám đông. Khoảng 3 giờ sáng, Người đã đi trên mặt biển tiến đến gần thuyền các môn đệ. Các ông sợ hãi la hoảng tưởng mình thấy ma, nên Người đã lên tiếng trấn an. Sau đó Người đã cho Phê-rô đi trên mặt nước đến với Người và đã lập tức cứu ông khỏi bị chìm xuống khi ông kêu cầu. Sau biến cố này, các môn đệ đã tin Đức Giê-su và tuyên xưng đức tin: ”Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 22-24: + Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền: Sau phép lạ nhân bánh, dân chúng phấn khởi muốn tôn Đức Giê-su làm Vua Thiên Sai và các môn đệ cũng bị phấn khích không kém. Để tránh cho các ông ảo tưởng về sứ mạng Thiên Sai trần thế của Người, nên Đức Giê-su đã giục các ông mau xuống thuyền sang bờ bên kia (x. Ga 6,14-15). + Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện: Đức Giê-su thường dành thời gian yên tĩnh ban đêm để cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 6,12), nhất là khi sắp phải giải quyết những công việc quan trọng (x. Mt 26,36; Lc 9,27). + Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình: Ở một mình là không có người nào bên cạnh, trừ ra Chúa Cha hằng ở với người (x. Ga 8,29). + Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm: Đây là Biển hồ Giê-nê-sa-rét hay cũng gọi là Ti-bê-ri-a hoặc Ga-li-lê (x. Ga 6,1). Biển Hồ này có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km, mực nước thấp hơn Địa Trung hải 208 mét. Vì quá lớn, nên Biển Hồ thường hay có sóng to gió lớn (x. Mt 8,23). + bị sóng đánh vì ngược gió: Bấy giờ thuyền các môn đệ đã ra giữa biển hồ và đang bị sóng đánh chập chờn không thể tiến xa vì ngược gió. Sự kiện này tượng trưng cho con thuyền Hội thánh giữa biển trần gian luôn phải đương đầu với những nghịch cảnh.
- C 25-27: + Khoảng canh tư: Vào thời Đức Giê-su, dân Do Thái cũng như người Rô-ma: chia ngày thành 12 giờ từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều, và chia đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Canh tư tức vào khoảng từ 3 đến 6 giờ sáng. + Người đi trên mặt biển: Cựu Ước nhiều lần nói tới Đức Chúa đi trên biển (x. G 9,8; Tv 77,20). Đức Chúa đã từng tỏ uy quyền trên sự hỗn mang khi tạo dựng trời đất, khống chế Biển Đỏ khi giải thoát dân Do thái khỏi ách nô lệ của người Ai cập. Ở đây Đức Giê-su muốn ám chỉ Người là Thiên Chúa, có quyền trên sức mạnh của biển khơi. + Các ông hoảng hốt bảo nhau: “ma đấy !” và sợ hãi la lên: Các môn đệ thấy bóng Đức Giê-su đi trên mặt nước đến gần thuyền thì sợ hãi kêu la vì tưởng mình thấy ma. + “Cứ yên tâm, đừng sợ !”: Là lời Đức Giê-su trấn an các ông. + Chính Thầy đây: Trong Cựu Ước Đức Chúa nhiều lần xưng mình: “Chính là Ta”, “Ta là Gia-vê”, “Ta là Đấng Có” … khi hiện ra với các tổ phụ (x. St 46,3; Xh 3,14). Ở đây, khi xưng mình: “Chính Thầy đây”, Đức Giê-su ngầm mặc khải Người chính là Thiên Chúa.
- C 28-31: + “Nếu quả là Ngài”: Phê-rô vẫn còn nghi ngờ không biết có thực là Thầy Giê-su không. + “Thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”: Câu này cho thấy Phê-rô tính khí bốc đồng, ăn nói bộc trực. + “Cứ đến !”: Phê-rô được Đức Giê-su chia sẻ quyền năng siêu nhiên đi trên mặt nước, nhờ biết đặt trọn niềm tin vào Người. + Thấy có gió thổi thì ông đâm sợ: Đức Giê-su có lần đã ban quyền chiến thắng quyền năng âm phủ cho Phê-rô (x. Mt 16,18b), nhưng ông có nhận được quyền năng ấy hay không là tuỳ vào đức tin của ông mạnh hay yếu. Bao lâu Phê-rô còn tập trung chú ý vào Đức Giê-su, thì ông còn khống chế được sức mạnh của biển cả. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi, ông đâm ra nhát sợ và lập tức bị chìm xuống nước. + “Thưa Ngài, xin cứu con với”: Câu này tương tự câu của các Tông đồ cầu cứu Đức Giê-su khi thuyền của các ông bị gió bão sắp bị chìm (x. Mt 8,25). Trong Thánh Vịnh cũng có nhiều lời cầu nguyện của dân Do thái xin Chúa giúp vượt qua sức mạnh của biển cả đe dọa (Tv 69,15-16; 144,7). + Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông: Trước lời cầu xin khẩn thiết của Phê-rô, Đức Giê-su đã mau mắn đáp lại bằng cách đưa tay ra nắm lấy ông. + “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?”: Lời Đức Giê-su vừa trách đức tin yếu kém của ông, vừa khích lệ ông hãy tín thác cậy trông vào Người.
- C 32-33: + Gió lặng ngay: Sự hiện diện của Đức Giê-su đã đánh tan sóng gió và đem lại bình yên cho con thuyền của các môn đệ. + Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !: Đây là lời tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa quyền năng. Tin Mừng Mát-thêu đã mượn lời tuyên xưng này để cho thấy đức tin của Hội thánh Sơ Khai như sau: “Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Đức Chúa Cha !”.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giê-su lại truyền cho các môn đệ mau xuống thuyền sang bờ bên kia trước ?
2) Đức Giê-su lên trên núi để làm gì ?
3) Bạn biết gì về Biển hồ được đề cập trong Tin mừng hôm nay ?
4) Tại sao con thuyền các môn đệ bị chập chờn không tiến xa được ?
5) Canh tư tương đương với mấy giờ sáng hiện nay ?
6) Ý nghĩa của việc Đức Giê-su đi trên mặt biển là gì ?
7) Thái độ của các Tông đồ ra sao khi thấy bóng người đi trên biển đến gần thuyền và Đức Giê-su đã làm gì để trấn an các ông ?
8) Qua câu nói: "Chính Thầy đây", Đức Giê-su ngầm mặc khải Người là ai ?
9) Phê-rô đã biểu lộ tính khí ra sao khi mau miệng xin được đi trên mặt nước đến cùng Thầy ?
10) Tại sao Phê-rô đang đi trên mặt biển lại bị chìm và ông đã làm gì để được Thầy ra tay cứu giúp ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”. Phê-rô thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với !” (Mt 14,30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) HÃY NGƯỚC NHÌN LÊN CAO
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin được đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển nổi cơn giông bão, thuyền trưởng đã ra lệnh cho cậu bé leo lên cột buồm cột lại một sợi dây buồm bị gió làm tuột ra. Cậu bé đã dễ dàng leo lên phân nửa cột buồm vì cậu luôn hướng mặt lên cao. Nhưng khi leo đến lưng chừng thì cậu đã mắc phải một sai lầm lớn là quay mặt nhìn xuống mặt biển đang dậy sóng. Do đó cậu bị chóng mặt và sắp bị té ngã. Thấy vậy, một thủy thủ già nhiều kinh nghiệm đã la to nhắc cậu: ” Này nhóc, hãy ngước mặt lên cao ! Hãy mau nhìn lên trời !”. Cậu bé đã nghe theo lời chỉ dẫn khôn ngoan ấy và đã leo được tới đỉnh thi hành lệnh của thuyền trưởng một cách an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé nói trên giống như lỗi lầm của ông Phê-rô trong Tin mừng hôm nay. Cũng như cậu bé đã rời mắt khỏi đích nhắm để nhìn xuống mặt nước nên có nguy cơ bị té ngã, thì ông Phê-rô do rời mắt khỏi Thầy để nhìn xuống mặt biển nên đã bị chìm xuống.- (M. Link)
2. SỰ CẦU NGUYỆN ĐEM LẠI BÌNH AN CHO TÂM HỒN:
KÉT MIU-LƠ ( Keith Miller) tác giả cuốn sách tựa đề “Hương rượu mới” (The taste of new Wine), đã thuật lại một biến cố làm thay đổi cuộc đời của ông như sau:
Vào một đêm nọ, trên đường đi bộ về nhà, Két đã bị một chiếc xe hơi từ phía sau tông phải làm anh bị té bất tỉnh bên lề đường suốt hơn một tiếng đồng hồ khi chờ xe cứu thương. Lúc tỉnh dậy và ý thức về tình trạng của mình, anh đã cầu nguyện với Chúa. Sau khi cầu nguyện xong, anh cảm thấy tâm hồn thật sự được bình an. Két viết: “Tôi cảm thấy xấu hổ về việc tại sao mãi đến lúc này tôi mới biết được giá trị của sự cầu nguyện. Ngay lúc đó, dù đang phải đối diện với cái chết, nhưng tôi không còn cảm thấy sợ chút nào. Tôi có cảm giác Chúa đang hiện diện bên tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp tôi”. Sau đó, Két đã được các bác sĩ kịp thời cứu sống và mau chóng bình phục. Anh trở lại đại học được bầu làm chủ tịch lớp sinh viên năm thứ hai. Nhưng về sau, do bị các hoạt động xã hội của trường đại học lôi cuốn, anh lại thôi, không còn đến nhà thờ nữa và tiếp tục lún sâu vào các đam mê tội lỗi như trước.
Sau khi tốt nghiệp đại học, anh lập gia đình và được nhận vào làm việc cho một hãng xăng dầu ở tiểu bang Tếch-sớt (Texas). Cuộc sống gia đình và công việc không suông sẻ. Một hôm Két chơi bài bị thua đậm. Bao nhiêu tiền bạc dành dụm bấy lâu giờ bị thua trắng tay! Anh đã bị vợ nặng lời mạt sát và đòi làm đơn ra tòa ly hôn. Anh buồn chán đánh xe chạy đi khỏi nhà mà không biết phải đi về đâu ? Sau khi chạy được một lúc, anh tấp xe vào bên lề đường, tắt máy rồi ngồi đó im lặng vừa hút thuốc vừa suy nghĩ. Trước đây mỗi lần gặp phải điều gì buồn phiền, anh chỉ cần uống vài ly rượu mạnh rồi nằm vật ra giường ngủ một giấc đến sáng là hết. Thế nhưng bây giờ sự thể lại không đơn giản như thế. Anh đã bị dồn đến bờ vực phá sản sau một phút lỡ lầm! Anh nhìn lên trời và la to: “Nếu Chúa muốn gì nữa thì xin hãy lấy tất cả đi. Con thực sự muốn như vậy đó !” Ngay lúc ấy, đột nhiên anh cảm thấy tâm hồn thư thái bình an trở lại, một cảm giác mà cách đó mười mấy năm anh đã từng trải qua khi bị thương bất tỉnh bên lề đường. Ngay lúc đó, anh đã hạ quyết tâm phải thay đổi đời sống. Dù không có những tia sấm chớp trên trời, cũng chẳng có tiếng nói mầu nhiệm nào của Thiên Chúa trong lòng, nhưng Két đã nhận biết rõ điều Chúa muốn anh phải làm là hiến toàn thân phụng sự Người. Người không cần tiền bạc, thời giờ hay sức lực của anh mà chỉ cần anh quyết tâm thay đổi lối sống, để Người ban bình an cho anh và giúp anh trung thành phụng sự Người. Có thể nói: Két đã thực sự được tái sinh nên một người mới thuộc trọn về Chúa.
3. SUY NIỆM:
Câu chuyện Phê-rô đi trên mặt biển và được Đức Giê-su cứu khỏi bị chìm gợi lên cho chúng ta bài học về đức Tin: Mỗi khi cảm thấy tâm hồn bất an là lúc chúng ta đã quên Chúa, đã không còn tập trung vào Người. Khi bị chìm vào các đam mê tội lỗi, là lúc chúng ta đã hoài nghi về tình thương cứu độ của Chúa và bỏ làm các việc đạo đức. Bấy giờ chúng ta cần noi gương thánh Phê-rô để kêu cầu với Chúa Giê-su. Chắc chắn Người sẽ nắm lấy chúng ta và trả lại bình an cho tâm hồn chúng ta.
1) “Cứ yên tâm. Chính Thầy đây. Đừng sợ !”:
Đôi khi Chúa để chúng ta gặp phải các tai ương, bệnh tật và đau khổ là Người muốn thử thách đức tin của chúng ta như người ta thường nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Cũng như dù đang cầu nguyện trên núi, nhưng Đức Giê-su vẫn dõi mắt theo con thuyền của các môn đệ đang lênh đênh trên biển cả và Người đã đi trên mặt nước để đến cứu giúp các ông, thì ngày nay Người cũng luôn quan tâm đến con thuyền Hội Thánh trong cơn phong ba bão táp hầu kịp thời ứng cứu khi cần. Nếu thực sự tin vào quyền năng của Đức Giê-su, thì chúng ta cũng sẽ không hoảng sợ khi phải đương đầu với các nghịch cảnh, vì tin rằng Chúa vẫn luôn dõi theo chúng ta và sẽ kíp thời cứu giúp chúng ta khi cần. Hãy luôn ý thức: “Có Chúa cùng đi với chúng ta, chúng ta sẽ không còn sợ chi và chắc chắn sẽ đạt đến bến bình an”.
2) “Thưa Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”:
Qua việc bước ra khỏi thuyền đi trên mặt nước đến với Đức Giê-su cho thấy Phê-rô có một đức tin hành động hơn là lý thuyết suông. Như vậy đức tin thực sự sống động phải được thể hiện qua hành động cầu nguyện và thực hành Lời Chúa dạy như lời thánh Gia-cô-bê: “Đức Tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
Thực vậy, cũng như một học viên học vi tính hay học bơi lội. Ngoài việc nghe hướng dẫn viên trình bày bài học để có một kiến thức căn bản, học viên còn phải biết ngồi vào máy tính để tập thao tác cho thuần thục, hoặc phải lội xuống nước sông hồ để tập từng động tác mới có thể bơi được… Cũng vậy, để đạt được một đức tin trưởng thành, ngoài việc học giáo lý thánh kinh, người tín hữu còn phải cầu nguyện và áp dụng Lời Chúa qua lối ứng xử với tha nhân giữa đời thường. Nếu không chịu thực hành Lời Chúa, thì dù có bằng tiến sĩ thần học, đức tin của nhà thần học này có thể vẫn yếu đuối hơn một tín hữu bình dân nhưng lại năng cầu nguyện với Chúa. Các gian nan thử thách gặp phải chính là thước đo đức độ của một con người như câu người ta quen nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thánh Phao-lô cũng từng trải qua nhiều cuộc chiến đấu cam go như ngài đã viết: ”Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,7-9).
3) “Thưa Ngài, xin cứu con với !”:
Khi nhìn vào Đức Giê-su, ông Phê-rô đã có thể đi trên mặt nước như thầy mình. Nhưng khi cơn gió mạnh ào đến, đức tin của ông bị suy giảm thì ông lập tức bị chìm. Phê-rô trong cơn nguy biến đã tín thác cậy trông qua lời kêu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với !”. Bàn tay của Đức Giê-su đã kịp nắm lấy ông và đưa ông lên thuyền bình an kèm theo lời trách nhẹ: “người đâu mà kém tin như vậy! Sao lại hoài nghi ?“.
Ngày nay nhiều khi chúng ta có cảm tưởng như bị Chúa bỏ rơi khi chúng ta liên tiếp gặp phải những tai nạn rủi ro và những điều trái ý cực lòng. Nhưng thực ra đó là phương cách Chúa thường dùng để huấn luyện đức tin của chúng ta. Khi gặp tai ương hoạn nạn mà chúng ta sợ hãi, bỏ cầu nguyện dự lễ và tìm đến với các trò mê tín như bói toán, bùa ngải… là dấu cho thấy đức tin của ta đã suy yếu trầm trọng hoặc đã chết rồi. Trái lại, nếu chúng ta biết dâng lời cầu xin: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” rồi làm theo lời Chúa chỉ dạy, thì mới chứng tỏ đức tin của ta vững mạnh.
4) Năng cầu nguyện kết hiệp với Chúa:
Về việc cầu nguyện, nhiều người thường bỏ cầu nguyện với lý do: “Tôi bận quá không có thời giờ rảnh để cầu nguyện với Chúa”... Nhưng thật ra Chúa luôn ở bên ta, ngay trong lòng ta. Chỉ cần ta ý thức sự hiện diện của Chúa Giê-su và thưa chuyện với Người bằng một lời nguyện tắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta có nhiều giờ đi uống cà phê tán gẫu với chúng bạn hay ngồi hàng giờ xem truyền hình… mà lại không thể bớt ra ít phút để vào sa mạc của lòng mình cầu nguyện với Chúa. Mỗi ngày chúng ta có khá nhiều cơ hội để gặp gỡ Chúa, mà vì không ý thức về sự cần thiết của việc cầu nguyện, nên ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội gặp gỡ Người. Chẳng hạn: Những lúc cửa hàng vắng khách, khi chờ đèn xanh đèn đỏ, khi bị kẹt xe hay bất ngờ nhà bị cúp điện… Thay vì bực bội khó chịu, chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa và thưa chuyện với Người về những điều làm ta lo lắng hay đang phải đối phó.
4. THẢO LUẬN:
1) Chúng ta cần học tập thánh Phê-rô điều gì về sự cầu nguyện ?
2) Nên cầu nguyện những lúc nào trong ngày ?
3) Khi gặp thất bại hay rủi ro trái ý, ta cần làm gì để noi gương thánh Phê-rô ?
5. CẦU NGUYỆN:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hội Thánh ngày nay cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trở lực nên không thể thăng tiến được. Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn tin cậy vào tình thương quan phòng và quyền năng của Chúa. Xin cho chúng con biết chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa bằng lối sống quên mình vị tha và yêu thương phục vụ tha nhân. Xin cho chúng con sẵn sàng góp công góp của để cộng tác vào sứ vụ loan Tin Mừng của Hội Thánh.
- LẠY CHÚA. Chúa muốn chúng con luôn vững tin vào Chúa mỗi khi gặp thử thách gian nan. Ngày nay vẫn có những cơn sóng gió làm chúng con hoài nghi và không còn tin cậy vào Chúa, khiến chúng con ngày một chìm sâu vào các đam mê tội lỗi. Mỗi khi con sắp chìm đắm, xin Chúa hãy động viên con như đã động viên các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: “cứ yên tam. Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Xin hãy cầm lấy tay con khi con sắp quỵ ngã, và hãy nâng đỡ đức tin yếu hèn của con, giúp con đứng vững trước bao sóng gió cuộc đời. Nhất là xin cho con biết luôn ngước nhìn lên Chúa là nguồn hy vọng và là sự trông cậy độc nhất của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
------------------------------------------
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 14:22-33)
Đức tin chúng ta thường gặp phải nhiều thử thách và khó khăn. Đó là những cơ hội để đức tin được: TN 19-A100
Đức tin chúng ta thường gặp phải nhiều thử thách và khó khăn. Đó là những cơ hội để đức tin được thêm phát triển. Nhưng một trong những thử thách lớn cho đức tin là hoài nghi. Có lẽ chúng ta không quên câu chuyện tông đồ Tô-ma đã hoài nghi Chúa thực sự sống lại. Nhiều lần được kể lại trong sách Tin Mừng, Chúa Giê-su thường trách người ta thiếu lòng tin, hoặc kém lòng tin. Những người ít có dịp tiếp xúc với Chúa Giê-su mà thiếu lòng tin cũng là chuyện bình thường. Nhưng ngay đến các tông đồ là những người sống bên cạnh Chúa, đồng hành với Người, mà vẫn có thể hoài nghi trong đức tin, thì điều này chứng tỏ hoài nghi là một nguy hiểm làm suy yếu hoặc tiêu diệt đức tin. Mỗi câu chuyện đức tin đều nói lên một khía cạnh đặc biệt. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện ông Phê-rô được Chúa Giê-su cho đi trên mặt nước để đến với Người. Rồi khi thấy gió thổi thì ông sợ hãi, bắt đầu chìm xuống nước và kêu cứu với Chúa Giê-su. Vậy câu chuyện này cho chúng ta biết gì về đức tin và sự hoài nghi?
Tin vào Chúa Giê-su là chúng ta nhìn nhận vai trò của Người, cùng với tất cả thế giá, sự đáng tin và những chân lý Người muốn thông đạt. Như thế, hoài nghi trong đức tin là khi chúng ta không hoàn toàn nhìn nhận chân tính và uy quyền của Chúa. Chúng ta thử nhìn vào những hành động của ông Phê-rô để thấy tại sao Chúa lại gọi ông là “kẻ kém lòng tin”. Với khẳng định này của Chúa, rõ ràng Phê-rô không phải là người không có lòng tin, mà ông chỉ “kém lòng tin” thôi! Dấu hiệu chứng tỏ ông kém lòng tin là vì ông hoài nghi sự hiện diện của Chúa, và hậu quả là ông “bắt đầu chìm”.
Chúng ta trở lại với khung cảnh trên Biển Hồ Ga-li-lê. Lúc ấy đã quá nửa đêm, trên con thuyền vắng mặt Chúa Giê-su, các môn đệ đang chèo chống với sóng gió. Bỗng Chúa đi trên mặt nước đến với họ làm cho họ hoảng hốt, lầm tưởng Người là ma quái. Chúa Giê-su gợi lên lòng tin của họ khi Người trấn an họ và quả quyết: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Nhưng các ông vẫn nghi ngờ. Ông Phê-rô muốn xóa đi sự nghi ngờ ấy nên ông xin Chúa một ân huệ bất ngờ: ông có thể đi trên mặt nước để đến với Chúa! Nếu như ông Phê-rô vững lòng tin, ông đã nhìn vào Chúa, nhận biết quyền năng của Người và bước đến với Người rồi. Nhưng thực sự trong lòng, ông vẫn còn hoài nghi uy quyền và sự hiện diện của Chúa, nên vừa mới “thấy gió thổi, ông đã đâm ra sợ” và “bắt đầu chìm”. Hoài nghi không làm chúng ta mất đức tin ngay lập tức, nhưng làm chúng ta “bắt đầu chìm” thôi! Khi ấy, nếu ông Phê-rô không la lên xin Chúa cứu, thì ông đã chìm luôn rồi. Nhưng Chúa Giê-su vẫn hiện diện ở đấy và Người không thể để cho kẻ Người yêu thương chìm mất được: “Người liền đưa tay nắm lấy ông”.
Nhìn vào sự kiện này, chúng ta học được thật nhiều bài học từ Chúa Giê-su và ông Phê-rô. Nhưng quan trọng nhất, đó là chân lý sau đây: Càng khiêm nhượng nhận biết Chúa là Đấng nào, thì chúng ta càng bớt đi hoài nghi. Nói khác đi, đức khiêm nhượng là điều kiện căn bản giúp đức tin chúng ta phát triển. Cũng có một chân lý quan trọng khác, là Chúa sẵn sàng nâng đỡ lòng tin của chúng ta nếu chúng ta biết kêu xin Người nâng đỡ mỗi khi chúng ta gặp những nguy hiểm cho đức tin.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Ngôn sứ Ê-li-a đã cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa thật đặc biệt. Chúa không hiện diện trong những biến cố lớn lao như bão táp, sấm sét hoặc động đất, nhưng trong tiếng gió hiu hiu của thiên nhiên. Trái lại, Tin Mừng Mát-thêu lại cho chúng ta thấy Chúa Giê-su hiện diện không những trong cơn sóng gió của Biển Hồ Ga-li-lê, mà còn hiện diện giữa cơn sóng gió của đức tin trong tâm hồn chúng ta nữa. Sóng gió hoài nghi nhiều khi đưa chúng ta tới tình trạng tuyệt vọng giống như ông Phê-rô bắt đầu “chìm” xuống nước. Nhưng bất cứ trong hoàn cảnh nào, Chúa Giê-su cũng hiện diện để sẵn sàng nâng chúng ta dậy. Người nhắc nhở chúng ta: “Hỡi kẻ kém lòng tin! Sao lại hoài nghi?” Nhưng xin đừng quên là Người cũng bảo chúng ta: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------------