Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 20 TN–A Bài 1-50: Này bà, bà có lòng mạnh tin
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 15, 21-28: “Này bà, bà có lòng mạnh tin”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”. Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 20-A1. TÌNH MẸ.. 2
TN 20-A2. NTĐY/113- MỈM CƯỜI 4
TN 20-A3. CS / 122- LÒNG TIN.. 6
TN 20-A4. CSTM/ 191- LÒNG TIN.. 7
TN 20-A5. PV/494- ĐỨC TIN.. 9
TN 20-A6. PV/497- NGƯỜI NGHÈO.. 11
TN 20-A7. PV/499- NGƯỜI CUỐI CÙNG.. 12
TN 20-A8. SCĐ/431- ĐỨC TIN.. 14
TN 20-A9. ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN.. 16
TN 20-A10. LÒNG TIN CỦA BÀ MẠNH THẬT.. 20
TN 20-A11. NHỮNG BIA ĐÁ NIỀM TIN.. 22
TN 20-A12. NGƯỜI NGOẠI Ở CỬA BÊN CẠNH. 24
TN 20-A13. ĐỨC TIN CỦA BÀ ĐƯỢC TOẠI NGUYỆN.. 26
TN 20-A14. THIÊN CHÚA LÀ CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI, 27
TN 20-A15. GIÁO HỘI KHÔNG BIÊN GIỚI 31
TN 20-A16: Khi “lũ chó con” được đồng bàn với chủ …... 32
TN 20-A17: Chứng nhân bằng cuộc sống - Lm. Đinh Quang Vinh. 34
TN 20-A18: SLC – Đau khổ. 36
TN 20-A19: CSTM/176 – Vững vàng tin tưởng. 37
TN 20-A20: Niềm Tin Chịu Thử Thách - Lm Bùi Quang Tuấn CSsR.. 39
TN 20-A21: Bà Có Lòng Tin Mạnh Nên Được Như Bà Muốn... 42
TN 20-A22: Một Đức Tin Mạnh và Tâm Thành - Lm Nguyễn Bình An. 43
TN 20-A23: Người phụ nữ Ca-na-an - John Nguyễn. 45
TN 20-A24: Lòng tin của bà mạnh thật - Huyền Đồng. 49
TN 20-A25: HỘI THÁNH KHÔNG BIÊN GIỚI 51
TN 20-A26: Yêu Thuong và Khiêm Nhường. 54
TN 20-A27: Ơn Cứu Độ Đến Với Dân NgoạI - Lm Trần Bình Trọng USA.. 55
TN 20-A28: CẦU ĐƯỢC ƯỚC THẤY! 57
TN 20-A29: SLCTTY/273 - Lòng tin. 60
TN 20-A30: SLCTTY/273 - Lòng tin. 62
TN 20-A31: Chú ý! Chú ý! Thiên Chúa hằng sống! 64
TN 20-A32: Bà “có lòng tin mạnh”. 66
TN 20-A33: CHỊU ĐẤM ĂN XÔI ! 68
TN 20-A34: Cầu nguyện. 71
TN 20-A35: Lòng Mẹ. 73
TN 20-A36: TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA KHÔNG LOẠI TRỪ AI 75
TN 20-A37: Sức mạnh của lòng tin. 80
TN 20-A38: Thiên Chúa cứu độ người có lòng tin. 82
TN 20-A39: Không ai bị loại trừ khỏi trái tim của Thiên Chúa. 86
TN 20-A40: Này bà, lòng tin của bà mạnh thật 88
TN 20-A41: CHÓ CON - Trần Mỹ Duyệt 89
TN 20-A42: Thiên Chúa là Chúa của mọi người yêu thương mọi người 91
TN 20-A43: ẨN SỐ TRONG MỘT ẨN SỐ.. 97
TN 20-A44: NGƯỜI NGOẠI MÀ MẠNH TIN.. 102
TN 20-A45: NHỮNG ÂN TÌNH ĐỜI THƯỜNG.. 106
TN 20-A46: LÒNG TIN LỚN LAO.. 108
TN 20-A47: ĐẶT NIỀM TIN VÀO CHỖ CÓ UY TÍN.. 110
TN 20-A48: LỜI XIN… ĐẸP NHẤT ! 114
TN 20-A49: “ĐÀN RƠI PHIẾM RŨ, SẦU MƯA GIÓ…”. 116
TN 20-A50: Đức Kitô không để người nào ở ngoài. 120
------------------------------------------
Đọc lại Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã nhiều lần gặp gỡ và tiếp xúc với các bà mẹ: TN 20-A1
Đọc lại Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã nhiều lần gặp gỡ và tiếp xúc với các bà me. Nhất là Ngài đã dàng cho các bà một tình yêu thương dạt dào và chân thành.
Trước hết là đối với Đức Maria, mẹ của Ngài: Suốt ba mươi năm ẩn dật dưới mái nhà Nagiarét, Chúa Giêsu luôn vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse. Khi bước vào cuộc sống công khai, phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu đã làm là do lời van xin của Mẹ. Thấy hoàn cảnh khó xử của nhà đám, Mẹ đã kín đáo báo cho Chúa hay:
- Họ hết rượu rồi.
Và Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước lã biến thành rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn được tràn đầy.
Rồi trên đỉnh đồi Canvê, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan, để người môn đệ được Chúa yêu thương này sẽ chăm sóc Mẹ.
Tiếp đến là đối với những bà mẹ đem con mình đến với Chúa: Thực vậy, thấy tấm lòng Chúa ưu ái và trìu mến, nhiều bà mẹ đã dẫn con mình đến với Chúa. Ngài đã không xua đuổi chúng như các môn đệ làm, trái lại còn bồng ẵm chúng và chúc lành cho chúng.
Còn đối với bà mẹ thành Naim: Trước cảnh bà đang sụt sùi khóc lóc đi chôn cất đứa con trai duy nhất của mình, Chúa Giêsu đã thực sự xúc động và Ngài đã làm phép lạ cho cậu được sống lại, rồi trao cậu lại cho bà mẹ.
Và sau cùng, ngày hôm nay đối với người đàn bà xứ Canaan. Chúng ta thấy một lần nữa, Ngài đã chịu thua trước lời van xin kiên nhẫn của một người mẹ yêu thương con mình và Ngài đã làm phép lạ cứu chữa đứa con của bà.
Hẳn ràng ai trong chúng ta cũng đã từng biết đến và thuộc ít nữa là phần nào bài “Lòng mẹ”, một bài ca bất hủ của cố nhạc sĩ Y vân:
- Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.
Cũng qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta còn thấy được tấm lòng thương con tha thiết của một người mẹ. Bà đã thưa lên cùng Chúa Giêsu:
- Lạy Thày, con gái tôi bị quỉ ám cực khổ lắm.
Con gái bà, đó là đối tượng, đó là mỗi lo âu duy nhất đã ám ảnh và chiếm trọn tâm trí bà. Vì thế, bà đã đến và quì gối mà van xin Chúa Giêsu.
Tình thương của bà đối với đứa con gái thật mãnh liệt đến nỗi đã thúc đẩy bà vàn nài hết lời, cho dù phải chấp nhận những hất hủi và khinh miệt.
Trước hết, bà đã van xin Chúa Giêsu thương xót. Tiếp đến bà còn quì lạy để xin Ngài cứu giúp. Cuối cùng bà chấp nhận một so sánh thật bẽ bàng, đó là bị so sánh với loài chó. Nhưng vì thương con, bà đành chấp nhận.
Thế nhưng, ngoài tình thương dạt dào dành cho con, bà còn có một điểm khác đáng cho chúng ta chú ý, suy nghĩ và bắt chước, đó là là sự phát triển niềm tin trong tâm hồn của bà.
Thực vậy, lúc ban đầu bà đã gọi Chúa Giêsu là con vua Đavít, một tước hiệu mang tính cách trần thế. Với tước hiệu này, bà chỉ nhìn Chúa Giêsu như một con người.
Tiếp đến, khi nghe Chúa Giêsu nói: mình chỉ được sai đến cùng những chiên lạc nhà Israel, thì bà đã chấp nhận Ngài như một vị tiên tri và hơn thế nữa, bà đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Ngài.
Một tước hiệu mang tính cách thiêng liêng, tương tự như danh xưng:
- Lạy Chúa.
Và như thế, chứng tỏ rằng cuối cùng bà đã chấp nhận bản tính Thiên Chúa nơi Ngài.
Sự phát triển niềm tin đó khiến cho bà biết khiêm nhường ma trả lời:
- Vâng lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mẫu bánh vụn từ bàn rơi xuống.
Niềm tin của bà đã bị thử thách và rồi bà đã hội tụ được những điều kiện cần thiết để được Chúa nhận lời:
- Này bà, bà có đức tin mạnh, bà muốn sao thì sẽ được như vậy.
Và như thế, chính tình yêu chân thành và lòng tin mãnh liệt, sẽ là những chiếc chìa khóa để mở rộng cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
------------------------------------------
Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa mua hàng, với tên của từng món đồ: TN 20-A2
Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa mua hàng, với tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.
Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:
- Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.
Em bé mỉm cười đáp:
- Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con.
Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao vậy?
Em bé dí dỏm trả lời:
- Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.
Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay lớn lao quyền phép của Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả, là con bà tức thì được chữa khỏi quỉ ám.
Đó chính là thái độ cần phải có khi cầu nguyện.
Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.
Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.
Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã chối từ lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel”, thậm chí Người còn nặng lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà Đức Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác, Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước các môn đệ.
Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu gương khi cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà cũng được nhận lời, thì chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà Người muốn ban ơn cho ai là tùy ý Người.
Có thể nói, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có đức tin, con người phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy trông một mình Người mà thôi.
--------------------------------
Một vài năm trước đây, con cháu các cán bộ được ưu tiên trong nhiều lãnh vực. Họ dễ được: TN 20-A3
Một vài năm trước đây, con cháu các cán bộ được ưu tiên trong nhiều lãnh vực. Họ dễ được nhận vào làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp, dễ được vào học trong những trường chính qui, dễ có cơ hội để tiến thân trên đường công danh sự nghiệp… Chính vì vậy, nhiều người đã không quan tâm tới việc học hành, tới việc tu thân để trở thành những người lãnh đạo tài đức có thể đem lại ích lợi cho đồng bào, cho quê hương đất nước. Trái lại, họ ỷ vào uy tín của cha anh để sống ngang tàng, lười biếng, bởi họ biết rằng dù thế nào đi nữa, chỉ một cú điện thoại, chỉ một miếng giấy giới thiệu của cha anh thôi, họ vẫn có thể ung dung ngồi vào những chiếc ghế quan trọng trong guồng máy lãnh đạo (vì bé không học lớn vẫn có thể làm chủ tịch xã được cơ mà).
Thế nhưng xã hội hôm nay đã đổi mới khá nhiều. Những người muốn tiến thân trong xã hội phải là người có tài, có đức, có tư cách, có bằng cấp, có trình độ. Dù lời khai trong lý lịch là con ông chủ tịch này, ông giám đốc nọ, nhưng nếu không có những yếu tố tài đức kể trên thì cũng chẳng hy vọng gì để được thâu nạp vào những cơ quan, công ty, xí nghiệp.
Thái độ ỷ lại vào gốc gác của một số con cái cán bộ cũng giống như thái độ của dân Do thái xưa. Các bài đọc Lời Chúa cho ta thấy rõ điều đó. Dân Do thái đã tự phụ mình là con cháu ông Abraham, là dân riêng của Thiên Chúa. Và họ tưởng rằng với những điều kiện ấy, họ sẽ đương nhiên được hưởng ơn cứu độ, chứ không cần tin nhận Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và là Đấng Cứu Chuộc. Tuy nhiên, chỉ là con cháu ông Abraham về phương diện huyết tộc thôi thì chưa đủ điều kiện để được lãnh nhận ơn cứu độ. Và ơn cứu độ không chỉ dành độc quyền cho người Do thái, dân riêng của Thiên Chúa. Trái lại, Nước Trời dành cho tất cả mọi người, cho những người tin nhận và vâng phục Thiên Chúa, cũng như tin nhận và vâng phục Đức Kitô, Đấng Người sai đến. Chúa Giêsu đã nói: “Sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất, chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô”. Nếu là con cháu của ông Abraham mà không có niềm tin nơi Thiên Chúa và Đức Kitô thì cũng coi như vô ích.
Người đàn bà Canaan, dù không phải là con cháu ông Abraham, dù không phải là người Do thái, dù bà là một người ngoại đạo, nhưng vì có một đức tin mạnh mẽ và chân thành nên đã được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Niềm tin của bà đã được biểu lộ qua lời van xin tha thiết, qua sự kiên trì trong thử thách, qua thái độ khiêm cung dù bà bị coi như một con chó. “Lạy con vua Đavid, xin thương xót tôi, con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm”. “Thưa Ngài, những con chó cũng được ăn những miếng bánh vụn từ bàn của chủ rơi xuống chứ?”
Thật vậy, bà tin Chúa Giêsu có thể chữa lành cho con gái bà, nhưng bà cũng biết bà không có quyền đòi hỏi Người. Bà chỉ kêu xin với lòng cậy trông. Bà trông cậy nơi Người giống như con chó chờ đợi phần bánh vụn rơi xuống từ bàn của chủ nó. Bà cậy trông bởi bà biết Đức Giêsu là Đấng quyền năng và giàu tình thương.
Câu chuyện Tin mừng hôm nay nhắc nhở ta về đời sống đức tin của mình. Phải chăng đã chẳng có những lúc ta ỷ lại vào Bí tích Rửa tội mà ta đã lãnh nhận, ỷ lại vào danh hiệu là công giáo và tưởng mình đã nắm chắc ơn cứu độ trong tay. Bí tích Rửa tội không phải là một thứ phù phép để một khi lãnh nhận là đương nhiên ta được hưởng ơn cứu độ. Cần phải biết sống niềm tin, sống ơn gọi làm con Chúa mà mình đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội. Mà sống đức tin, sống ơn gọi làm con Chúa là gì nếu không phải là yêu mến Thiên Chúa và vâng giữ lời Người, là thi hành các giới răn của Người như đã được nói tới trong bài đọc trích sách tiên tri Isaia, và trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma mà ta vừa nghe.
--------------------------------
Tuần vừa qua, đài truyền hình thành phố cho chúng ta xem một cuốn phim tài liệu về những: TN 20-A4
Tuần vừa qua, đài truyền hình thành phố cho chúng ta xem một cuốn phim tài liệu về những bí mật của con tàu Ti-ta-nic. Ngày 10.4.1912, tàu Ti-ta-nic khởi hành chuyến vượt biển đầu tiên từ Sao-tham-tư đến Hoa Kỳ. Màu sơn trên tàu sáng rực, 46 ngàn tấn thép đã được dùng để đóng con tàu khổng lồ này. Hơn hai ngàn hành khách đã bước lên con tàu đó. Đây là một chuyến tàu đông nhất thời bấy giờ. Trong số này có 700 người di cư sang Mỹ sống, nên họ đã đem theo tất cả những tài sản quí giá của họ.
Ti-ta-nic được coi như một con tàu an toàn nhất thế giới. Những người vẽ kiểu con tàu này kiêu hãnh gọi nó là “con tàu không bao giờ chìm”. Nhưng không ai trên con tàu ấy lại ngờ được rằng chỉ 3 ngày sau khi ra khơi lần đầu tiên, con tàu đã nằm yên dưới đáy biển mãi cho đến bây giờ. Dĩ nhiên, trong lịch sử hàng hải đã từng có những vụ đắm tàu kinh khủng hơn nhiều… Nhưng việc con tàu Ti-ta-nic chìm vẫn làm bận tâm trí óc con người từ đó đến nay.
Trong một cuộc điều tra, người ta tìm ra rằng đã có một số điều cảnh báo trước khi tàu chìm. Nhưng không ai để ý: 9 giờ sáng Chúa nhật thảm khốc ấy, con tàu Ca-rôn-ni-a đánh đi khẩn cấp một bức điện báo động như sau: “Thuyền trưởng tàu Ti-ta-nic hãy chú ý, các chuyến tàu đang hướng về phía tây báo cáo rằng: có nhiều tảng băng và bãi nước đá đang trôi”. Ít ra cũng có 5 bức điện tín cảnh cáo như vậy. Nhưng Ti-ta-nic vẫn mở hết tốc lực phăng phăng trên biển Đại Tây Dương.
Khoảng 11 giờ 30, một tảng băng khổng lồ, 90 o/o chìm dưới mặt nước, từ từ hiện ra. Chuông báo động trên tàu vang lên, nhưng chẳng mấy ai quan tâm cả. Một tiếng va chạm dữ dội và con tàu nghiêng hẳn đi. Những tảng nước đá đổ xuống boong tàu và đánh chìm “con tàu không bao giờ chìm” ấy. 900 người đã thiệt mạng. Chỉ vì quá kiêu ngạo tin tưởng, con tàu khổng lồ ấy từ đó trở thành bảng cảnh cáo cho mỗi người rằng: “Quá tin tưởng là một trong những kẻ thù tai hại nhất”. Kinh Thánh dạy chúng ta đừng quá tin tưởng vào loài người, vào vũ khí, ngay cả vào những chủ nghĩa nữa. Nhưng hãy đặt lòng tin tưởng nơi Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ bị phản bội.
Các bạn đang tin tưởng những gì trong đời này: tiền của, ảnh hưởng hay danh tiếng chăng? Cũng tốt thôi, nhưng tin tưởng ấy thật mong manh. Các bạn tin vào người khác chăng? Cũng tốt thôi, sống với nhau mà không tin tưởng nhau thì khó sống được với nhau, nhưng tình cảm con người cũng dễ đổi thay lắm: “Còn tiền còn bạc còn non nước, hết tiền hết bạc hết ông tôi”… Chỉ một mình Chúa đáng cho chúng ta tin tưởng hơn cả, vì Chúa không bao giờ phụ lòng tin của chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Hôm ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đi đến miền Ti-rô, một vùng toàn dân ngoại. Có một phụ nữ đến van xin Chúa cứu chữa con gái bà bị quỉ ám rất đau khổ. Mặc dù bà là người ngoại đạo, nhưng đầy lòng tin tưởng, kiên trì kêu xin, đã khiến Chúa thương cứu giúp làm phép lạ cho con của bà được lành bệnh.
Chúng ta thấy: trước hết, bà van xin, nhưng Chúa Giêsu im lặng, không đáp lại lời nào. Chúa thử lòng tin và đức kiên nhẫn của bà. Bà cứ xin, còn Chúa cứ tiếp tục im lặng như không nghe thấy, và cứ đi tới, không dừng lại. Lời van xin của bà làm các môn đệ bực mình sốt ruột phải thưa với Chúa: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi”. Chúa dừng lại, thái độ của Chúa lại càng khó hiểu hơn, Chúa nói: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà của Israen mà thôi”, nghĩa là chưa đến với dân ngoại. Nhưng câu từ chối khéo đó đã không làm bà ta nao núng bỏ cuộc. Bà lại kêu xin tiếp. Chúa lại trả lời bằng thái độ quyết liệt: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Câu nói của Chúa có vẻ nặng nề quá phải không các bạn? Nhưng người phụ nữ này lại cho là đúng lý, thân phận mình hèn hạ như con chó, nhưng đáng thương, nên bà thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”, nghĩa là dù là người ngoại giáo, nhưng cũng đáng được hưởng một chút ơn huệ của Chúa. Câu nói ấy làm Chúa xúc động nên Chúa nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”, và Chúa cho bà được như ý.
Gương đức tin của người phụ nữ trên đây mời gọi chúng ta nhìn lại chính đức tin của mình. Liệu trong đời sống, chúng ta có yếu lòng tin và nhiều lần đã cậy dựa vào những mưu kế hay phương tiện trần thế hơn là phó thác vào Chúa hay không? Các bạn đang âu lo về tương lai ư? Các bạn không chắc chắn về dự tính của mình ư? Các bạn đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn ư? Thế mà vẫn còn tăm tối mờ mịt. Vậy thì các bạn hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Hoặc các bạn là người đang suy tư về đức tin của mình. Các bạn lo âu vì biết rằng đức tin mình vẫn còn yếu kém, các bạn đã cầu xin Chúa giúp, nhưng xem ra Ngài vẫn chưa nhận lời, để rồi các bạn lại bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa. Vậy thì các bạn hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Đó là sứ điệp bài Tin Mừng hôm nay nhắn nhủ chúng ta.
--------------------------------
Tình yêu là sức mạnh lớn lao nhất trên thế giới. Được tình yêu chiếm hữu tức là được đổ đầy: TN 20-A5
Tình yêu là sức mạnh lớn lao nhất trên thế giới. Được tình yêu chiếm hữu tức là được đổ đầy bởi một sức mạnh mà người ta không thể chối từ. Điều mà người ta có thể là và sẽ làm khi được tình yêu thúc đẩy thì rất lạ lùng. Chúng ta thấy điều đó, đặc biệt trong trường hợp của một bà mẹ.
Một bà mẹ sẽ làm mọi sự, đương đầu mọi sự, chịu đựng mọi sự vì lợi ích của con bà.
Trong những năm phục vụ trong nhà tù. Tôi không gặp tù nhân nào mà không có một quan hệ tốt với mẹ họ. Các bà mẹ không bao giờ quên thăm nuôi và tránh né trách nhiệm. Chúng tôi thấy họ mỗi ngày, các bà mẹ có lẽ có hơn một người nghiện ma túy trong gia đình, xếp hàng thăm con trong nhà giam, còn đời sống bên ngoài của họ thì không còn của cải, không sự hỗ trợ, không gì cả.
Đó là việc không thể tưởng tượng nổi, khi chúng ta thấy biết bao áp lực mà các bà ấy phải chịu đựng những mỗi dày vò mà họ phải đi qua chỉ vì con cái họ rơi vào sự rối loạn và tội ác (John Lonergan, Quản đốc nhà tù Mountjoy, Dublin).
Một lần nọ, suốt một mùa đông khắc nghiệt ở Nam Cực tất cả đều chết vì đói trừ hai người. Hai người sống sót là một người đàn bà Eskimo và đứa con nhỏ của bà.
Người đàn bà bắt đầu tìm kiếm một cách tuyệt vọng một vài phương tiện để có được thức ăn. Tình cờ bà tìm thấy một lưỡi câu. Tìm một đoạn dây là một vấn đề đơn giản, nhưng bà không có mồi và cũng không hy vọng tìm được mồi. Không một chút do dự, bà cầm lấy con dao cắt một miếng thịt đùi bà. Dùng thịt này làm mồi để bắt cá. Bà nuôi con bà và chính mình, chừa ruột cá lại để làm mồi. Bà sống bằng cá cho đến mùa xuân bà mới ra ngoài để tìm kiếm người khác.
Không phải là ngẫu nhiên khi người lớn nhất còn sống trong trại ấy là một bà mẹ. Điều làm cho bà mẹ sống sót chính là nỗi lo lắng của một bà mẹ vì lợi ích của con mình. Một bà mẹ không dễ dàng bỏ cuộc.
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy một ví dụ tuyệt vời khác. Ở đây chúng ta thấy quyết tâm không lay chuyển của một bà mẹ. Bà không chấp nhận rút lui hay bỏ cuộc. Và bà sung sướng biết bao khi sau cùng Đức Giêsu đáp lại lời cầu xin của bà. Điều đó có nghĩa mọi lo âu, mọi lời cầu xin, mọi bối rối, không phải là vô ích.
Bà là một tấm gướng về tính kiên trì, lòng can đảm và tình yêu cho chúng ta. Nhưng bà còn là một tấm gương về đức tin. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Bà là một kiểu mẫu của một đức tin mạnh mẽ. Thỉnh thoảng bạn nghe người ta nói: “Ồ, điều đó dễ dàng với bạn, bạn có đức tin lớn lao”. Nhưng sự việc dễ dàng. Thật vậy, đúng hơn là điều ngược lại. Bởi vì chúng ta có đức tin nên chúng ta phải kiên trì, phải chiến đấu, với sự bảo đảm về một kết quả hạnh phúc.
Đức tin không phải là một chiếc đũa thần. Nó phát huy lòng khiêm nhừơng, can đảm, sự kiên nhẫn và nhất là tình yêu thương của chúng ta. Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc ! Một người có đức tin cũng thế, không bao giờ bỏ cuộc. Đức tin và tình yêu được liên kết không thể tách rời nhau. Tình yêu là một biểu lộ của đức tin chúng ta.
--------------------------------
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất lạ lùng,và đối với chúng ta, cũng rất quen thuộc. Nó thuật: TN 20-A6
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất lạ lùng,và đối với chúng ta, cũng rất quen thuộc. Nó thuật lại một cuộc gặp gỡ một người đi xin xỏ. Thật vậy, người đàn bà Canaan không xin tiền bạc. Nhưng bà đi xin một ân huệ. Có những lúc, chúng ta gặp những người ăn xin, hoặc ở nơi bậc cửa nhà mình hoặc trên đường phố. Người ta tự hỏi Đức Giêsu xử sự ra sao trong những hoàn cảnh như thế.
Đức Giêsu đã cùng các môn đệ lui về miền Tia và Xiđon, đó là miền đất của dân ngoại. Dường như Người lui về đó để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ngay sau khi đến đó có một người đàn bà đi theo quấy rầy Người, xin Người chữa lành cho con gái của bà.
Phản ứng của chúng ta thế nào, khi chúng ta gặp một người nào đó xin xỏ ? Tôi nghĩ rằng ít người trong chúng ta từ chịu bố thí, mà được như thế thì quá tốt. Thông thường chúng ta từ chối giúp người khác. Chúng ta biện minh sở dĩ chúng ta không có khả năng và tốt hơn hết là không cho họ thứ gì bởi vì khi cho, chúng ta nuôi dưỡng tâm lý xin xỏ, dựa giẫm, ỷ lại.
Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra một niềm an ủi từ bài Tin Mừng hôm nay. Phản ứng của các Tông đồ không khác phản ứng của chúng ta. Đối với họ, người đàn bà Canaan là một kẻ quấy rầy, phiền nhiễu. Họ chỉ muốn Đức Giêsu tống khứ bà ấy càng nhanh càng tốt.
Dĩ nhiên, phản ứng của Đức Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trước hết, Người không biết bà ấy. Vì thế, Người từ chối bà và cố gắng thoái thác. Tuy nhiên bà là một phụ nữ có rất nhiều quyết tâm và không chịu chấp nhận một câu trả lời không. Sau cùng, Người phải thỏa mãn lời cầu xin của bà.
Từ đó, người ra rút ra điều gì: chúng ta sợ tiếng kêu của người nghèo. Gặp gỡ với một người ăn xin có thể là một kinh nghiệm quấy rầy phiền nhiễu. Nó có thể làm lộ ra những điều đáng ghét trong chúng ta. Nó làm nổi lên trong chúng ta những cảm giác mâu thuẫn về lòng thương xót, bực bội, tức giận và phạm tội. Chúng ta ghét điều mà chúng ta khám phá về mình. Và nếu không thận trọng, chúng ta có thể hướng lòng thù hận về người nghèo bất hạnh đã dám đến gần chúng ta.
Gặp gỡ một người nghèo có thể là một kinh nghiệm làm người ta khiêm nhường bởi lẽ nó làm chúng ta nhận ra sự nghèo nàn của chính chúng ta. Chúng ta nhận thức rằng trong lúc người ăn xin nghèo nàn về mặt vật chất, thì chúng ta nghèo nàn trong một ý nghĩa khác. Chúng ta nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự sẵn sàng giúp nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự xẵng sàng giúp đỡ một người khác, nghèo nàn khả năng yêu thương.
Tuy nhiên, dù gặp gỡ một người nghèo có thể làm phiền chúng ta, nó cũng có thể sinh ra ích lợi. Qua người nghèo, chúng ta khám phá sự yếu đuối và thương tật của chúng ta mà xét cho cùng, chúng ta là như thế. Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên đeo mặt nạ và gán cho mình điều mình không có. Có như thế, chúng ta mới đạt đến sự giải phóng nội tâm sâu xa. Nó đặt chúng ta vào sự tiếp xúc với sự thật về chính mình.
Gặp gỡ ấy cũng có thể làm thức tỉnh và bộc lộ tâm hồn. Nó có thể đánh thức trong chúng ta cảm giác dịu dàng và thương xót, nhân từ và hiệp thông. Nó cho chúng ta thấy có thể hiện hữu nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, và dâng hiến chính mình nhiều hơn. Nó có thể thay đổi chúng ta. Nó phát huy chúng ta và kêu gọi chúng ta đến với nhân loại. Vì thế nó có thể dẫn đến một sự bắt đầu mới.
Và nó nhắc nhở chúng ta rằng trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều nghèo. Vị linh mục cầu nguyện trong thánh lể với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện trong thánh lễ với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện như thế là biết rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều nghèo và chúng ta đặt như cầu hàng ngày của chúng ta vào lòng thương xót và tình yêu của Người. Vì thế chúng ta như người ăn mày đưa cái bát trống rỗng cho những khác qua đường. Thực tế chúng ta đã nói: “Lạy Chúa, trước mặt Ngài, con nghèo nàn như một người hành khất”.
--------------------------------
Người đàn bà đến với Đức Giêsu là một dân ngoại. Sự thể còn tồn tệ hơn khi bà là thành viên: TN 20-A7
Người đàn bà đến với Đức Giêsu là một dân ngoại. Sự thể còn tồn tệ hơn khi bà là thành viên của một chi tộc mà tổ tiên là kẻ thù của người Do Thái. Tuy nhiên bà có nhiều đức tin đối với Đức Giêsu hơn dân của Người. Họ chỉ tin khi nào họ thấy được điềm thiêng dấu lạ. Dĩ nhiên họ đã thấy các phép lạ Chúa làm, nhưng họ vẫn không tin.
Ngày xưa có một nhóm người tập họp bên ngoài cổng Thiên Đàng. Họ là những người sống tốt, có trách nhiệm những người biết kính sợ Thiên Chúa, là yếu tố vững chắc, trụ cột của xã hội. Khi còn ở dưới trần gian họ hoạt động trong cùng một doanh nghiệp và cùng một tầng lớp xã hội. Trong lúc họ đứng xung quanh, chờ Thánh Phêrô mỡ cổng, họ trao đổi những lời chào hỏi thân thiện: “Trời ơi, có phải anh John không” “Hân hạnh chào chị Mary !” và vân vân.
Thánh Phêrô đã chào mừng họ và ngay khi còn lần mò tìm chìa khóa cổng, họ ngạc nhiên và không thấy có phán xét và họ cũng không có gì phải phàn nàn ! Giờ đây họ chắc chắn mình sẽ được vào bên trong, họ hăm hở giành lấy chỗ của mình ở hàng đầu tiên.
Thình lình, có một xúc động, và một tiếng nói vang lên “Tốt, hãy xem ai đang đến ! Có phải lão Gia cóp không” Gia cóp là một thương nhân Do Thái, khi còn ở trần gian ông nổi tiếng về tính bủn xỉn. Kế đó, là một người đàn bà Gip xi, người đã nhiều lần bị kết án ăn trộm trong cửa hàng cũng đã đến. Và rồi trước sự kinh hoàng của họ, họ thấy một phụ nữ xưa kia là một cô gái đứng đường bước đến. Theo sau có một thanh niên thường la cà các quán nhậu.
Những người mới đến sau cùng này cảm thấy sự ghét bỏ của nhóm thứ nhất nên tự động tụ tập thành một nhóm nhỏ. Rồi một người quay về họ và nói “Cái gì làm cho các người tưởng mình sẽ vào Thiên Đàng ? Chắc chắn các người không xứng đáng”.
“Chắc chắn không” một câu trả lời gây ngạc nhiên đáp lại “Chúng tôi hy vọng được vào nhờ lòng thương xót và nhân hậu của Thiên Chúa. Và, nếu tôi có thể hỏi, cái gì làm các vị nghĩ làm có thể được vào Thiên Đàng ?”
“Dĩ nhiên là một đời sống tốt lành” đáp lại là một lời đầy tự tin.
Thế nhưng cuối cùng Chúa đã mở cổng, và nhóm thứ hai theo Người vào Thiên Đàng, nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt họ. Còn nhóm thứ nhất thì bị loại trừ.
Không có chỗ dự bị ở bàn tiệc nhưng chớ dựa vào bất cứ việc gì ngoại trừ lòng thương xót và nhân hậu của Thiên Chúa.
Người đàn bà Canaan đã phải đương đầu với mọi trở ngại để con bà được chữa lành. Bà phải vượt qua lòng kiêu ngạo của mình để cầu xin. Là dân ngoại, bà biết rằng bà không được người Do Thái tiếp nhận. Bà phải vượt qua, trước hết vẻ lãnh đạm của Đức Giêsu, kế đến là sự sỉ nhục và loại bỏ.
Nhưng bà không bỏ cuộc. Tại sao không ? Bởi vì bà không tìm kiếm vật nào đó cho bà. Tính vị tha có thể làm cho chúng ta đạt được hầu hết mọi việc. Nó cho chúng ta khả năng vượt qua chính mình.
Bà ấy là một con người gây kinh ngạc. Dù sao hầu hết các bà mẹ < và các ông bố nữa > có thể làm được điều đó, và nhiều người đã làm được, cùng một loại sự việc, mà không có bảo đảm nào của một sự vượt qua hạnh phúc. Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc.
Người phụ nữ Canaan đó đã đưa ra cho chúng ta một gương mẫu về đức tin, lòng can đảm và yêu thương.
--------------------------------
Người phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người do thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà: TN 20-A8
Người phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người do thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm, vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên.
Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa Quan Phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng ? Nhưng vị tiên tri Nadarét đã phản ứng cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời nói quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ trứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà đáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khác lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa, sát bên Người. Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghétto <pháo đài> về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kị ra mặt,khinh bỉ người khác không dấu diếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bà phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đau là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể ?
Giáo huấn Chúa nhựt hôm nay có vẻ như mời gọi chúng ta truyền giáo, đem Tin Mừng của Chúa đến những anh em lương dân.
Thực ra nó còn hơn là truyền giáo nữa. vì khi truyền giáo, chúng ta muốn dẫn người khác vào đạo của chúng ta. Đối với những người nào mà ta thấy Kitô hữu có hy vọng đem vào đạo thì chúng ta “dừng bước”.
Giáo huấn hôm nay không “dừng bước” trước bất cứ người nào, cho dù họ nhất định không theo đạo Chúa, cho dù họ còn không cảm tình với đạo Chúa. Cho dù họ thế nào đi nữa, ta vẫn xác tín rằng Chúa cũng thương yêu họ như thương yêu chúng ta. Từ niềm xác tín ấy, chúng ta không loại trừ họ, không khinh bỉ bọ, không coi họ là “người khác hệ”. Trái lại chúng ta tôn trọng: tôn trọng suy nghĩ của họ, tôn trọng chọn lựa của họ. Chúng ta cũng yêu thương: yêu thương họ như Chúa yêu thương họ.
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ỉ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Người. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài Giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?”
Chúa nói: “Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”.
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi: “Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?”
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời: “Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu”.
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười: “Hừ, kẻ vô thần”.
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay: “Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác”.
Chúa Giêsu đồng ý: “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát”.
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng: “Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế”.
--------------------------------
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một cử chỉ tượng trưng xảy ra ở ngoài biên giới...
Đám đông dân chúng theo Chúa trong hoang địa Đức Giêsu đã nhân 5 ổ bánh và 2 con cái lên: TN 20-A9
Đám đông dân chúng theo Chúa trong hoang địa Đức Giêsu đã nhân 5 ổ bánh và 2 con cái lên nhiều đến dư dật (Chúa nhật thứ 18). Rồi Người bắt buộc các môn đệ lên thuyền và chèo sang bờ bên kia trước. Trong khi đó Người rút lui lên núi cầu nguyện một mình. Rồi sau đó Người đã đến nhập bọn với họ, bằng cách đi trên mặt biển, lúc thuyền của họ đang bị sóng gió dập vùi (Chúa nhận 19).
Giờ đây, các biệt phái và ký lục đến từ Giêrusalem chất vấn Người về chuyện các môn đệ Chúa không giữ luật thanh sạch, phá tục lệ của tổ tiên. Đức Giêsu đặt lại các lề thói của tổ tiên vào đúng chỗ, nghĩa là các tục lệ đó phải phục vụ các giới răn của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng sự thanh sạch của một người không lệ thuộc vào những thực hành, cho dù nó hợp pháp và theo truyền thống đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ lệ thuộc vào hành động, phản ảnh nội tâm sâu xa nhất của người đó, phản ảnh con tim của họ. Điều đó dẫn đến việc gặp gỡ người đàn bà Canaan ngoại giáo.
Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “dơ”, Đức Giêsu lui về miền Tyrô và Sidon, ngày nay thuộc miền Nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ từ miền đó tiến đến gặp Chúa. Một phụ nữ mà tác giả Matthêô đã cố ý gọi là người đàn bà Canaan, để chỉ rõ ý nghĩa cái hố sâu không thể vượt qua giữa họ và thế giới Do Thái. Địa danh cổ kính này dùng để chỉ miền đất mà dân Hipri đã đánh chiếm làm lãnh thổ của mình. Người phụ nữ ấy thuộc về “kẻ ngoại” những kẻ “dơ”, những dân mà dân Do Thái coi khinh như những “con chó”. Còn tệ hơn nữa, bà thuộc một dân tộc mà người Do Thái chính thống tránh xa hơn các dân khác, mà từ thời cha ông họ đã thề nguyền giữ mối thù truyền kiếp.
“Lạy Chúa, xin thương xót tôi” bà ấy van xin, trong khi kêu Đức Giêsu bằng danh hiệu “con vua Đavit”.
Trước hết Đức Giêsu làm thinh. Nhưng rồi bị các môn đệ nài ép đuổi người đàn bà vẫn đeo đẳng kêu van ấy, Người nhắc đến sứ mạng của Người là chỉ được sai đến với những “chiên lạc của nhà Israel” mà thôi. J. Radmakers giải thích: “Câu đáp của Đức Giêsu am hạp hoàn toàn với bài diễn từ khai mạc sứ mạng của Người (câu 10,6). Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể các dân nước và lan rộng ra tới tận cùng thế giới” ("Aufil de l'Evangile selon St Matthieu”, trang 211).
“Lạy Ngài, xin hãy đến cứu giúp” người phụ nữ một lần nữa sấp mình trước mặt Chúa và kêu cầu theo lời kinh phụng vụ.
Đức Giêsu bấy giờ nói trắng ra rằng: Người không thể lấy bánh của con cái - là của dân Do Thái, dân của Lời hứa - để ném cho con chó nhỏ. Tuy câu nói “chó nhỏ” thì đã nhẹ bớt ý khinh dể, nhưng câu nói vẫn còn mang vẻ sỗ sàng.
Người phụ nữ không phật lòng trước câu nói đó, bà còn dùng chính lời đó để đáp lại Chúa một cách tinh tế. “Đúng vậy, thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”. Cl. Tassin giải thích: Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử thánh được ưu tiên, họ là “chủ”, còn bà là dân ngoại, bà chỉ cầu được những “miếng bánh vụn” trong sự tuyển chọn mầu nhiệm của Thiên Chúa (L'Evangile de Matthieu Centurion, trang 167).
Đức tin mãnh liệt ấy đã gây nên sự ngỡ ngàng nơi Đức Giêsu. “Bánh” Lời Chúa bị người Do Thái khước từ, vậy mà người đàn bà này, một người ngoại giáo, một người xa lạ, một người “dơ” đối với con mắt Do Thái, đã chấp nhận và chấp nhận với đức tin vững vàng. Chúa liền kết luận “Hỡi bà, đức tin của bà thật to lớn, bà muốn sao thì được vậy”. Đức Giêsu đả phá mọi cấm cản, dẹp tan mọi loại trừ để ban cho bà điều bà ta xin, đó là con bà được lành.
2. Báo hiệu một Tin Mừng không biên giới
Tác giả Matthêô thuật lại câu truyện người đàn bà Canaan này có ý nhắm những người Kitô hữu gốc Do Thái. Những người này tuy bị người đồng bào ruồng rẫy, nhưng họ cũng vẫn cảm thấy lòng nghi kỵ mãnh liệt đối với những Kitô hữu gốc dân ngoại, những người đón nhận Tin Mừng và gia nhập Hội Thánh ngày càng đông.
* Đặt cuộc gặp gỡ này vào trong khung cảnh “bé bánh”, tác giả như muốn làm sáng tỏ giáo lý Tin Mừng về sự cách biệt giữa người “sạch” và người “dơ” từ nay không còn nữa. Từ nay điều kiện duy nhất để được ngồi vào bàn tiệc Hội Thánh đề ra cho dân ngoại, và nhận “bánh của con cái” là lòng tin vào Đức Giêsu.
* Từ một thái độ ban đầu của Đức Giêsu xem ra Ngài chỉ chịu chết để cứu chuộc những người thuộc dân tộc tuyển chọn, Matthêô đã dẫn đến bài học về thái độ cởi mở trong truyền giáo. Cl. Tassin viết: “Đức Giêsu thật đã thi hành sứ vụ cứu thế đối với dân Israel cách trung thành, tuy nhiên Người đã mềm lòng trước lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ ngoại đạo... Ngày nay, nếu những người ngoại giáo cũng chứng tỏ một đức tin mạnh mẽ như thế đối với Đấng Cứu thế, lẽ nào Hội Thánh lại có thể đóng cửa không cho họ vào? Lẽ nào Hội Thánh lại có thể đặt giới hạn cho Đức Kitô, ngăn cản Người chiếu sáng cho dân ngoại?” (sđd trang 167-168).
Cuộc tranh luận giữa những Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại đã tắt từ lâu. Nhưng trong Hội Thánh vẫn còn âm ỉ cơn cám dỗ đối nghịch giữa những người thuộc các chủng tộc khác nhau: cám dỗ giả điếc làm ngơ trước những kêu gọi đến từ những nước xa xôi; cám dỗ cuộn tròn trong vỏ ốc của mình; cám dỗ trốn tránh mạo hiểm và khước từ mở rộng cửa để đón những cơ may.
Do đọc lại đoạn Tin Mừng Matthêô hôm nay câu truyện người phụ nữ Canaan mời gọi Hội Thánh hãy tìm ra trong lịch sử của mình niềm hứng khởi và sức mạnh cần thiết để trung thành với sứ mạng toàn cầu và liên tục tự vượt thắng chính mình.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Đức tin phá đổ mọi rào cản” (G.Bessière, trong cuốn “Dieu si proche” NXB Deschée de Brouwer, 1992, trang 136-137).
Người ta không biết tên bà, người ta gọi bà là “người phụ nữ Canaan”. Tuy nhiên bà giữ một vai trò độc đáo.
Đức Giêsu và các môn đệ vừa vượt ranh giới, bởi vì tình hình căng thẳng ở Galilê: Dĩ đào vi thượng mà. Họ đi về hướng Bắc, đến Tyr và Sidon, ngày nay là miền Nam Liban. Đã từ nhiều thế kỷ, người Do Thái giữ một khoảng cách đối với dân chúng miền này, tôn giáo của người Canaan bị người dân trung thành với Thiên Chúa Israel khinh miệt.
Một phụ nữ của xứ này đến kêu xin Đức Giêsu chữa con gái bà. Chúa làm thinh. Khi các môn đệ nài xin Chúa ban phép lạ để thoát khỏi người đàn bà quấy rầy, thì Chúa trả lời rằng Người chỉ được sai đến kiếm những chiên lạc nhà Israel. Rồi khi người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa, thì Người còn tỏ ra cứng cỏi hơn: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con”. Và đây chính là lúc sự việc diễn ra.
Một người phụ nữ chộp lấy cách gọi khinh bỉ đó và đối đáp lại bằng câu ví: “thật đúng vậy, nhưng chó con được ăn những miếng bánh vụn từ bàn ăn của chủ rơi xuống”. Bà ấy không phản đối, không chống lại. Bà chỉ kêu mời Đức Giêsu đi tới cùng. Đức Giêsu ngạc nhiên: “Lòng tin của bà quá lớn...”. Và đứa con được lành bệnh.
Đức Giêsu vừa bước qua một ranh giới, ranh giới nội tâm. Chúa mở rộng tâm hồn cách quyết liệt. Câu đối đáp của người phụ nữ ngoại này có chiều kích nhân đạo và tôn giáo vô hạn.
Đối với các Kitô hữu đến từ các dân tộc và tôn giáo khác - người ta thường kêu là “dân ngoại” - đoạn Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đến với người ngoại quốc, được coi là quý hoá. Bởi vì họ có thể đồng hoá với viên đại đội trưởng, với người phụ nữ Canaan. Khi có cuộc tranh luận xem có cần phải theo đạo Do Thái để theo chân Đức Giêsu không, thì người ta nhắc lại kỷ niệm này.
Tại sao Đức Giêsu khen ngợi người phụ nữ Canaan? Chính là vì đức tin kiên trì của bà. Nhìn bà, chúng ta cũng khám phá ra rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác, đôi khi cần chúng ta phải bỏ đi cái nhìn hẹp hòi của ta, và nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đến từ nơi khác.
2. “Đức tin của một người phụ nữ ngoại” (F.Declos, trong cuốn “Prends et mange la Parole” NXB Centurion - duculot, 1992, trang 73).
Người phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên.
Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa quan phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nadarét đã phản ứng một cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trong đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tưởng sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà đáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa. Sát bên Người.
Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu giếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể?
--------------------------------
Suy Niệm
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi: TN 20-A10
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Đức Giêsu. Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến, con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh. Đức Giêsu khen bà là người có lòng tin lớn lao. Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó. Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng. Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được? Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không? Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối. Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Đức Giêsu. Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi. Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài, và nài xin Ngài cứu giúp. Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng:
"Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con."
Bà có bị sốc không khi Đức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà không đáng được hưởng phần bánh của con dân Ít-ra-en? Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn. Bà chấp nhận lối so sánh của Đức Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con, chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con.
Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn. Tin không phải là đòi hỏi. Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa, và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.
Đức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ dân ngoại vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài: Ngài chỉ được Cha sai đến với người ít-ra-en thôi. Nhưng Đức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua mọi cảnh ngộ, nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra, ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ. Ngài để cho mình bị chinh phục và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu. Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí. Thay đổi là trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta. Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày, và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lòng tin lớn lao của người phụ nữ dân ngoại đã khiến Đức Giêsu đổi ý. Ngài đổi ý vì Ngài nghe thấy một lời mời gọi mới của Cha. Bạn là người uyển chuyển hay là người có tính nguyên tắc? Làm sao để uyển chuyển không trở thành thiếu kiên định, và tính nguyên tắc không trở thành cứng nhắc?
Bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn hiện nay? Bạn có còn tin vào Thiên Chúa không? Theo bạn, tin là gì?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên. Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng. Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
--------------------------------
Đến viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba: TN 20-A11
Đến viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba Chuông, Sàigòn, người ta thấy những tấm bảng đá gắn đầy tường. Phần đông người tạ ơn đề tên gọi, không có tên thánh, chứng tỏ người lương được ơn cứu giúp nhiều hơn người Công giáo.
Tại sao vậy ?
Chúng ta thật khó trả lời. Có lẽ câu trả lời của ta là: Ta đã được nhiều ơn Chúa rồi. Còn họ bây giờ mới được ! Có lẽ Chúa muốn lôi cuốn họ trở về với Chúa, nên cho họ được ơn cứu giúp rõ ràng.
Không, đó là câu trả lời của ta, ngầm chứa một sự tự phụ, một sự bào chữa, cho mình là hơn người ngoại.
Chỉ có Chúa mới trả lời thật chính xác: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao được vậy, ngay lúc đó con bà được khỏi quỷ ám” (Mt. 15,18). Thế là quá rõ: họ được ơn cứu giúp chính vì họ có lòng tin mạnh thật. Còn ta, ta không được ơn cứu giúp, vì ta kém lòng tin, không xứng đáng nhận được ơn Chúa.
Ơn Chúa dồi dào cho mọi người, như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến cho họ được sống và được sống dồi dào” Người còn giải thích bằng những hình ảnh rất rõ: “Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5, 45).
Ơn Chúa tràn ngập khắp vũ trụ như ánh sáng mặt trời, nhuần thấm cùng cõi trái đất như mưa sa. Công thần Nguyễn Công Trứ ở thời cấm đạo khốc liệt mà còn nhận thấy “Của trời trăng gió kho vô tận” hay: “Của trời muôn sự để chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Đúng vậy, của trời thì vô tận chỉ hơn nhau có lòng tin anh hùng mà người này thì được ơn dồi dào, người kia thì không được, chứ không phải mang danh có đạo là được ơn. Tiên tri Isaia đã được Chúa tỏ cho biết rõ: Những người ngoại bang nào gắn bó cùng Chúa, phụng sự và yêu mến danh Người, thì được nên tôi tớ của Người... “Ta sẽ dẫn họ lên núi thánh của Ta và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện của Ta…” (Bài I - Is. 56, 6-7).
Thế là Thiên Chúa không tây vị ai, chỉ nể vì: “Bà có lòng tin mạnh thật”. Đó là lý do chính xác nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng.
Lý do thứ hai tuy Chúa Giêsu không nói ra, nhưng sau này Thánh Phaolô đã nêu trong bài đọc II:
“Trước kia anh em không vâng phục Thiên Chúa, nay được xót thương... để cho chính họ cũng được xót thương” (Rm. 15, 30- 31). Họ đây là dân mới có đạo, tức là: dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được ơn Thiên Chúa thương xót, để cho dân Do Thái, dân đã có đạo lâu đời, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải lo có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh thật của dân ngoại, đánh thức lòng tin của ta, khuyến khích ta gia tăng lòng tin thêm mạnh mẽ, mới mong nhận được ơn cứu giúp như bà dân ngoại xứ Canaan.
Lòng tin mạnh thật của bà thế nào ?.
Trước nhất, bà cầu nguyện với Đức Giêsu bằng nhận biết Ngài là con vua David: “Lạy Ngài là con vua David”. Người Do Thái mong đợi con vua David đến giải phóng đế quốc hơn là đến cứu độ. Vì thế khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem họ đã hoan hô Ngài như một David chiến thắng dũng tướng Goliad (Mt. 21, 9). Còn bà dân ngoại, bà tin Đức Giêsu là Đấng Cứu thế đến “Đem Tin mừng cho người khốn khó, ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được tự do, loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc. 4, 18-19). Lòng tin của bà giống như lòng tin của bà góa tại Sarepta thời tiên tri Elisa và Naaman người Syri thời tiên tri Elisa.
Như vậy lòng tin của bà vào lòng thương của Thiên Chúa, chứ không phải vào tài thao lược của một tướng quân như David. Bà kêu khấn: “Xin dủ lòng thương tôi”. Chính vì tin vào lòng thương xót của Chúa, lòng thương không giới hạn, vượt biên giới Israel mà bà đã đến với Đức Giêsu, dù bà biết mình là dân ngoại và dù Người nói chỉ đến với chiên lạc nhà Israel.
Thứ đến, lòng tin mạnh thật của bà tỏ ra rất kiên trì và khiêm tốn. Bà kiên trì cứ theo sau các Ngài đến nỗi môn đệ không thể chịu đựng nổi nữa. Có lẽ các ông đã đuổi bà đi nhiều lần mà không xong, đành phải xin Thầy bảo bà ấy đi đi. Nhưng bà quyết tâm kêu nài bằng được, đến nỗi Ngài phải nặng lời xỉ vả theo thói dân Do Thái khinh bỉ dân ngoại coi họ như chó má: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà đang sụp lạy trước mặt Người hơn con chó nằm chực chờ vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc ! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
Lòng tin khiêm tốn mạnh thật của bà đã sai khiến được lòng thương của Thiên Chúa: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được vậy”. Ngay lúc đó con gái của bà được khỏi quỷ ám.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương lòng tin mạnh mẽ, kiên trì, khiêm tốn, sâu thẳm của bà dân ngoại xứ Canaan. Con đã quá quen với ơn phúc tràn đầy của Chúa, đúng là “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Xin đánh thức lòng con, biết nhiệt tâm, tin mạnh mẽ vào lòng thương xót vô bờ của Chúa, biết luôn luôn sấp mình trước tôn nhan hiền từ của Chúa, để van nài: Lạy Chúa, xin cứu con, như cứu lấy con bà Canaan xưa khỏi bị khổ sở của quỷ ám.
--------------------------------
Glady bị mù từ lúc mới sinh. Vậy mà cô đã nhập trường Đại Học. Cô co thể tìm đường đi bất: TN 20-A12
Glady bị mù từ lúc mới sinh. Vậy mà cô đã nhập trường Đại Học. Cô có thể tìm đường đi bất cứ chỗ nào trong khu vực nhà trường mà không cần ai giúp đỡ, trừ khi cô đi vội vàng. Thế rồi có một cô gái cần giúp đỡ. Một đêm điện bị cúp. Phòng ngủ tối đen như mực. Các cô sờ soạn tìm lối đi, vấp ngã và va chạm ở những dãy hành lang. Nhưng Glady ở đúng trong môi trường của mình. cô sống trong bóng tối luôn mãi nên cô có thể dẫn các bạn của cô an toàn chắc chắn đi mọi chỗ họ muốn tới. Glady thực sự hình thành chính mình đêm đó.
Tin Mừng hôm nay nói về người đàn bà khác gặp cản trở và đã hình thành chính mình khi gặp Chúa Giêsu. Người đàn bà Canaan gặp cản trở vì phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là dân ngoại, nhưng từ lâu còn là địch thù của dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Thế mà bà cứ kêu to nài xin cứu chữa con bà bị quỉ ám.
Bà mẹ ở Canaan này là người dân ngoại. Bà ấy biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết những phép lạ của Chúa Giêsu, bà lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua David, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà mẹ này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài, xin giúp tôi”. Bà ấy biện hộ rằng: bà thỏa mãn với những mảnh bánh vụn chứ không cần phải là được cả năm chiếc bánh. Chúa Giêsu khen ngợi lòng tin của bà và đã chữa lành con gái bà ngay tức khắc.
Cũng có hơn một tỷ người như bà mẹ này trên thế giới. Ngay ở Hoa Kỳ, dù rằng 90% tuyên bố rằng: họ tin vào Thiên Chúa mà chỉ 50% chính thức lưu tâm đến Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta phải lưu tâm đến hàng triệu người không được gặp Chúa Kitô. Nhưng tôi muốn làm tiêu tan về cá nhân, như bà mẹ ở Canaan, họ không thuộc về gia đình Thiên Chúa nhưng như bà, họ rộng mở đối với Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài.
Mỗi người chúng ta biết một vài người hay gia đình, một người láng giềng, một người bạn công nhân, một người quen thuộc, xem ra họ ít hay không lưu tâm tới Thiên Chúa. Họ không phải là người xấu đâu. Thực vậy, họ có thể có đức tính tự nhiên trổi vượt, như tính chân thật, sự ân cần. Nhưng họ là nhưng người xa lạ đối với Chúa Kitô.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho họ, chân thành và đều đặn xin Chúa Kitô lôi kéo họ về cùng Ngài. Các bạn hãy dâng thánh lễ này, hãy nói về họ với Chúa Giêsu khi hiệp lễ, hãy giới thiệu cho họ những sách báo công giáo, hãy mời họ tham dự một vài buổi lễ đặc biệt như lễ Giáng sinh, phục sinh, nhất là các bạn hãy tỏ cho họ thấy rằng: Chúa Kitô có ý nghĩa rất lớn đối với các bạn. Ngài cũng có ý nghĩa rất lớn đối với họ. Ngài đã đổ máu ra vì mọi người. Các bạn đừng đẩy người ngoại đi như các tông đồ làm. Hãy đem họ lại cùng Chúa Kitô.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
--------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục trình bày việc Chúa Giêsu vượt qua biên giới để tiến vào vùng: TN 20-A13
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục trình bày việc Chúa Giêsu vượt qua biên giới để tiến vào vùng đất của dân ngoại, và một người trong dân là người đàn bà xứ Canaan sắp sửa được dự phần vào tác vụ của Ngài, đó là được lãnh nhận hồng ân như những người Do Thái. Đây là điểm khởi đầu, một dấu chỉ mời gọi để rồi sau này các tông đồ được Chúa Thánh Thần soi sáng vượt qua ranh giới hạn hẹp của quốc gia để đi đến tận cùng bờ cõi trái đất rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
Khi bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu gặp những lời kêu van của người đàn bà đang bị thử thách: "Lạy Con Vua David, xin dủ lòng thương tôi, đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở tắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời nào, và trước lời khẩn cầu tha thiết như vậy lại sao Chúa Giêsu không đáp lại
Lời cầu nguyện của người đàn bà thật cảm động, thật chân thành, thế mà lại sao Chúa lại không đáp trả. Chúa là Đấng nhân từ trước những người cùng khổ chạy đến kêu cầu Ngài. Hơn nữa, Ngài đã dạy cho các đồ đệ cầu nguyện rằng: “Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho, hãy xin thì sẽ được", thế mà lại sao trong lúc này Chúa tặng thinh không trả lời người đàn bà, hẳn phải có lý do nào đó mà Ngài không trả lời.
Thật vậy, các tông đồ không thể hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy, nên nói với Thầy mình: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, kẻo bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu xin mãi". Các đô đệ hiểu tầm thái độ im tặng của Chúa như một sự chối từ nên các ông cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho rảnh, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Không những Chúa im tặng mà Ngài còn lên tiếng chối từ lời van xin của người đàn bà trong cơn thử thách: "Ta chỉ được sai đến với chiên lạc của nhà Israel".
Đứng trước một thách thức về lòng tin như vậy, người đàn bà xứ Canaan đã không ngã lòng trước lời từ chối của Chúa, bà đến sụp Lạy dưới chân và thưa với Ngài rằng; "Lạy Ngài, xin thương giúp tôi". Bà không thắc mắc, không giận dỗi hay trách móc Chúa thế này thế nọ, nhưng bà khiêm tốn hạ mình hơn nữa. Bà không những van xin bằng lời nói mà còn van xin bằng cả con người, bà sụp Lạy trước Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương cứu giúp tôi". Sự im tặng của Chúa, sự chối từ của Ngài là một thử thácho Thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện, Ngài muốn thử thách người đàn bà van xin nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho con chó". Lời nói cứng cỏi này xem ra không phù hợp với một con người nhân từ đầy yêu thương như Chúa. Và rồi thử thách đã đến mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được, nhưng người đàn bà dân ngoại này đã vượt qua, bà đã thưa với Chúa Giêsu như sau: "Thưa Ngài đúng tắm, nhưng các chó con cũng được ăn những vụn bánh từ nơi bàn ăn của chủ rơi xuống". Tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Giờ đây Chúa Giêsu mới trả lời: "Này bà, đức tin của bà đã được chấp nhận, bà muốn sao thì được vậy". Người đàn bà đã xin được Chúa Giêsu cho con mình khỏi bị quỉ ám.
Thái độ của Chúa Giêsu từ im tặng đến chối từ đã hướng dẫn bà đến mức độ trưởng thành của lòng tin: "Lòng tin của bà vững mạnh, bà muốn sao thì được như vậy". Sự thử thách đã đến lúc chấm dứt, và cuối đoạn đường gian nan, khi nhìn lại xem ra như Chúa im tặng hay từ chối trước lời ta cầu xin, nhưng giây phút đó là những giây phút quí báu vô cùng, vì những phút im tặng và chối từ ấy giúp lòng tin của ta được trưởng thành. Như vậy, vào cuối đoạn đường gian nan ta mới hiểu được phần nào chương trình của Chúa cho cuộc đời của mình. Nhưng liệu ta có đủ sức để đi đến cuối con đường, đến nơi mà Chúa muốn chúng ta trưởng thành trong đức Tin hay không? Đó là một đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
--------------------------------
YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI
GỢI Ý GIẢNG
1. Tin và yêu:
Vào thánh 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên xô cũ giết: TN 20-A14
Vào thánh 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên xô cũ giết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hủ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt vào đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón ta nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào rồi tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng giống Bà mẹ Armenia trong chuyện trên. Vì thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị xua đuổi Bà vẫn kiên trì, bị Đức Giêsu nói nặng là "đồ chó", Bà vẫn không nản.
Những sự kiên trì và khiêm tốn ấy chẳng những chứng tỏ một tình yêu mãnh liệt mà còn chứng tỏ một đức tin không gì lay chuyển nổi. Chính Đức Giêsu đã đánh giá sự kiên trì của Bà là một bằng chứng đức tin: "Này Bà, Bà có lòng tin mạnh. Bà muốn sao thì được như vậy" .
Tin và Yêu đi đôi với nhau ban cho người ta một sức mạnh vô địch giúp người ta tan đảm, kiên trì và khiêm tốn.
2. Đức tin của một người Phụ nữ ngoại.
Người phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người Do thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm, vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên.
Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa Quan Phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng "theo luật" của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nadarét đã phản ứng cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tưởng sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ thường mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không đám nghĩ tới.
Giờ đây, người "dơ" trở nên mẫu mực cho người "sạch". Người mà đáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Ngươi phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ dây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và "con chó nhỏ" được ngồi vào bàn ăn của Chúa, sát bên Người.
Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không dấu diếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những "con chó nhỏ", giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những "người khách lạ" khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể?
3. Còn hơn là truyền giáo
Giáo huấn Chúa nhât hôm nay có vẻ như mời gọi chúng ta truyền giáo, đem Tin Mừng của Chúa đến những anh em lương dân.
Thực ra nó còn hơn là truyền giáo nữa . Vì khi truyền giáo chúng ta muốn dẫn người khác vào đạo của chúng ta. Đối với những người nào mà ta thấy không có hy vọng đem vào đạo thì chúng ta "dừng bước".
Giáo huấn hôm nay không “dừng bước” trước bất cứ người nào, cho dù họ nhất định không theo đạo Chúa, cho dù họ còn không cảm tình với đạo Chúa. Cho dù họ thế nào đi nữa, ta vẫn xác tín rằng Chúa cũng thương yêu họ như thương yêu chúng ta. Từ niềm xác tín ấy, coi họ là “người khác hệ”. Trái lại chúng ta tôn trọng: tôn trọng suy nghĩ của họ, tôn trọng chọ lựa của họ. Chúng ta cũng yêu thương họ như Chúa yêu thương họ.
4. Chuyện minh họa
a/ Tôn giáo nào có Chúa?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi Giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầu lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài Giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra tôi hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?”
Chúa nói: “Ta không tổ chức hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”.
b/ Các tôn giáo
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chư bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xm một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi: "Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào?" .
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời: "Tôi hả? ô, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu’.
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười: "Hừ, kẻ vô thần".
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay: "Chúa ạ, thật buồn cười về những ngươi trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác".
Chúa Giêsu đồng ý: "Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát.
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng: "Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế”.
5. Một lời cầu nguyện của dân Ai-len .
Chúa tốt lành với bạn trong suốt mọi ngày
Chúa nhân ái với bạn trên mọi nẻo đường
Chúa ban sức mạnh cho bạn lúc thánh giá đè nặng trên vai.
Chúa gửi ánh sáng cho bạn lúc mây mù vây phủ
Chúa ban bình an trong những cơn xung đột
Chúa chúc phúc cho đời bạn chan chứa ơn lành
Chúa gửi niềm vui trong những lúc ưu phiền
Chúa dẫn đường bạn đến tận cửa Thiên đàng (Brian O, Higgins)
--------------------------------
“Này bà, Bà có lòng tin mạnh mẽ”
Thánh Phalô trong thư gửi giáo đoàn Rôma, đã có những suy tư về vấn đề người Do Thái: TN 20-A15
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma, đã có những suy tư về vấn đề người Do Thái. Chúa Giêsu là người Do Thái, gia đình ngài cũng như các môn đệ đều là người Do Thái. Các cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem, ở Damas, ở Antiochia đều gốc Do Thái. Cũng như biết rằng từ 20 thế kỷ nay, dân Do Thái, từ người lãnh đạo đến dân chúng, đếu không nhìn nhận Chúa Kitô thành Nazarét là Đấng Messia Cứu Chúa.
Vì sao giữa Giáo Hội và Do Thái giáo có sự chia ly ấy? Phaolô quả quyết phần trách nhiệm nằm về phía dân Israel, Thiên Chúa không liên can gì cả.
Thiên Chúa vẫn giữ lời hứa với dân Người. Cuộc chi ly chỉ là tạm thời. Một ngày kia, dân Do Thái sẽ trở lại, lui về cùng một đoàn chiên. Giáo Hội ngày ấy sẽ tốt đẹp biết chừng nào! Là một cuộc Phục sinh! Giáo Hội được gọi là “Israel của những ngày sau hết”, Giáo Hội phải luôn đối thoại với anh em Do Thái và cầu nguyện cho ngày hiệp nhất chóng được thực hiện.
Alphongsô Ratisbonne (1812-1884) và anh là Theodore (1802-1884), sau một thị kiến đặc biệt được ơn trở lại, đã lập dòng nam: các Cha Sion và dòng nữ là các bà Sion, chuyên lo việc truyền giáo cho đồng hương Do Thái.
Trong bài Phúc Âm, Thánh Matthêô nói đến những ngày tĩnh dưỡng của Chúa và các môn đệ sau một thời gian lao lực thánh vụ. Ngài chọn những nơi thanh vắng, xa quần chúng như miền núi Thabor (Mt 17,1), như cảnh suối rừng dưới chân núi Hermon gần Cearê (16,13). Hôm nay, Ngài dẫn các môn đệ đến phần đất gần thành Tyr và Sidon, để các ông có dịp tiếp xúc với dân ngoại, tuy các ông chưa được lệnh rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại.
Ngài là cứu Chúa của mọi dân tộc. Giáo Hội của Ngài là Giáo Hội hoàn vũ không biên giới. Danh tiếng Ngài đã vượt biên giới Do Thái nên hôm nay môi đại diện dân ngoại, một người đàn bà ở Canaan đến kêu cầu Ngài: “Lãy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi. con gái tôi bị quỉ ám khốn cực lắm”. Chúa Giêsu không trả lời. Ngài từ chối và từ chối đến hai lần với vẻ cứng cỏi. lần thứ nhất để nhắc lại rằng Ngài được sai đến chỉ cho đoàn chiên lạc nhà Israel. Đó là ý định của Đức Chúa Cha, dân Do Thái trước, dân ngoại sau (Mt 10,5-6; Rom 1,16). Lần thứ hai với vẻ cứng cỏi hơn: “Không nên lấy bánh của con cái mà vức cho chó”. Câu này phải chăng là một câu từ chối thường quen, phổ thông, hay là phải đặt vào bầu khí của cộng đoàn Do Thái trở lại đối với việc rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại?
Đúng hơn cả, có lẽ đó là một thói quen Chúa thường dùng để khêu gợi lòng tin mạnh mẽ hơn (Gn 2,4; Mt,24; 12,10; 14,16). Người đàn bà đau khổ không những có một niềm tin vững mạnh mà lại có tài đối đáp: “Vâng, lạy Ngài, vì cho con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Câu trả lời đánh động lòng Chúa: “Này bà, Bà có lòng tin mạnh! Bà muốn sao thì như vậy”. Ngay lúc ấy, phép lạ xảy ra.
Đức Tin của đàn bà xứ Canaan đã đi vào ngôn ngữ. Đó cũng là niềm Tin của các bà mẹ biết “chọc trời khuấy nước” để được mãn nguyện.
Chúa Giêsu đã nhiều lần gặp các bà mẹ. Trước hết là chính Mẹ Ngài và vì Mẹ, Ngài đã làm phép lạ tiên khởi biến nước thành rượu. Và có biết bao bà mẹ đã dẫn con đến xin Ngài chúc lành. Cảnh bà mẹ sụt sùi đi theo đám tang của con tại làng Naim đã làm cho Chúa cảm động. Ngài làm cho kẻ chết sống lại và “trao lại cho mẹ nó” (Lc 7,11).
Lạy Chúa, xin cho con một niềm Tin mạnh mẽ.
--------------------------------
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Chúa nhật 20 thường niên A
Mt 15 21-28
Thời Chúa Giêsu, Tia và Xiđon- ngày nay là miền nam Libăng, được xem là miền đất dân ngoại.: TN 20-A16
Thời Chúa Giêsu, Tia và Xiđon- ngày nay là miền nam Libăng, được xem là miền đất dân ngoại. Vì thế, việc Chúa Giêsu và các môn đệ lui về đây không chỉ để tránh tai mắt của nhóm Biệt phái hay tránh sự cuồng nhiệt của dân chúng muốn tôn Ngài làm vua ngay sau sự kiện hoá bánh ra nhiều (x. Ga 6, 15), mà còn mang một ý nghĩa thần học theo dụng ý của tác giả Mátthêu. Theo đó, ơn cứu độ lẽ ra chỉ dành cho Israel, nhưng vì họ từ chối, thì nay ơn cứu độ đó được mang đến cho dân ngoại mà người phụ nữ Canaan là một đại diện.
Nói đến Canaan, không người Dothái nào lại không biết đến mảnh đất mà cha ông họ đã chiếm làm lãnh thổ cho riêng mình. Miền đất này được xem là miền đất hứa, miền đất của sữa và mật, vì thế, để chiếm được nó, người Dothái phải đổ không ít xương máu mới có được. Chính vì thế, nói đến miền đất Canaan và con người Canaan là không chỉ nói về một chiến tích, nói về một thời hào hùng của dân tộc mà còn nói đến một mối thù “truyền kiếp” giữa hai dân tộc. Người Dothái vốn xem người Canaan là dân ngoại, là những kẻ dơ bẩn cần phải tránh xa bao có thể. Sự khinh thường này đôi khi thái quá và làm cho hố ngăn cách ngày càng thêm sâu đậm khó có thể hoà giải một sớm một chiều. Sự kiện người phụ nữ Canaan đến gặp Chúa Giêsu và các môn đệ cũng không nằm ngoài hố ngăn cách này.
Trước khi đến gặp Chúa Giêsu, chắc hẳn người phụ nữ Canaan đã lường trước những thách đố mà mình sẽ gặp khi “chạm trán” với những người mà bà biết họ chẳng ưa thích gì khi có sự hiện diện của mình. Nhưng biết làm sao được. Bởi động cơ dẫn lối đưa đường bà đến gặp Chúa Giêsu chính là cô con gái yêu quý của bà đang ngày đêm khổ sở vì bị quỷ ám. Vì tình mẫu tử, bà đã vượt qua mọi cản ngăn để đến gặp Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ cứu giúp con bà.
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”. Không một lời lên tiếng. Im lặng bao trùm. Quả đúng như những gì bà đã lường trước. Người bà đang cần sự giúp đỡ chẳng mặn mà gì. Sự im lặng của Người đến khó hiểu. Còn các môn đệ của Chúa Giêsu xem ra cũng khó chịu khi có sự hiện diện của bà, nên không ngừng hối thúc Thầy mình đuổi bà ấy về cho khỏi chướng tai gai mắt. Mặc dù vậy, người phụ nữ Canaan vẫn kiên trì. Bà biết mình phải làm gì trong trường hợp không lấy gì làm dễ chịu này.
“Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Tiếng bà lại vang lên khi toàn thân bà phục xuống bái lạy Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ đoái thương. Phủ phàng thay, câu trả lời của Chúa Giêsu, vô hình trung, như gáo nước lạnh giữa trời đông xối vào mặt bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Cho đến lúc này, Chúa Giêsu vẫn trung thành với điều mà Người đã nói trong lúc khai mạc sứ vụ rao giảng Tin mừng. Theo đó, sứ mệnh của Người chỉ dành cho “con chiên lạc nhà Israel” mà thôi. Vì thế, câu nói của Chúa Giêsu xem ra sỗ sàng, khiến người khác phật lòng nhưng lại nói lên lòng mong mỏi của Người dành cho nhà Israel.
Liên tiếp phải hứng chịu sự thật phủ phàng, người phụ nữ Canaan không mảy may dao động hoặc tức giận tháo lui. Trái lại, bà còn dùng ngay chính sự thật phủ phàng này để trả lời Chúa Giêsu một cách hết sức khôn khéo và tế nhị. “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thưa bà Canaan! Chúng tôi không biết tên bà. Nhưng có thể tên bà là đại diện cho một dân tộc hay đại diện cho toàn khối dân ngoại. Câu nói của bà không chỉ là câu nói hay nhất, tế nhị và khôn khéo nhất mà còn là một lời tuyên xưng niềm tin của bà đối với người mà bà đang đối diện. Chính niềm tin mãnh liệt của bà đã làm cho Chúa Giêsu kinh ngạc nếu không nói nó gây nên một cú xốc cho Người. Thưa bà Canaan! Với niềm tin mãnh liệt, bà đã thắng Thiên Chúa.
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Lời của Chúa Giêsu không chỉ là lời tán thưởng, lời ban bình an và xua đuổi tà thần mà còn là lời xoá đi mọi trở ngăn, mọi thứ lề luật nhỏ nhen thấp hèn do con người tạo nên. Từ đây, nhờ niềm tin, người phụ nữ Canaan - một hạng dân ngoại, một kẻ dơ bẩn được Thiên Chúa đón nhận, cho làm bạn nghĩa thiết với Người. Niềm tin mãnh liệt đó đã làm cho bà trở nên người đáng được tôn vinh, làm cho bà từ một khách lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa và còn hơn thế nữa, từ nay “lũ chó con” kia được đồng bàn với chủ, được hưởng mọi ân lộc của chủ, được hưởng ơn cứu độ chứ không phải chỉ ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.
Người phụ nữ Canaan là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Chính đức tin của bà làm cho mỗi người chúng ta phản tỉnh. Với những gì mà người phụ nữ Canaan đã làm, chúng ta hãy xem chúng ta đang ở đâu trong bàn tiệc Thiên Chúa, trong Giáo hội và trong lòng nhân loại?
--------------------------------
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN
Is 56,1.6-7; Rm 11,13-15.29-32; Mt 15,21-28
Sau buổi cơm chiều, vị linh mục già với tràng chuỗi trên tay đang gõ đều những nhịp chân trên dãy: TN 20-A17
Sau buổi cơm chiều, vị linh mục già với tràng chuỗi trên tay đang gõ đều những nhịp chân trên dãy hành lang của nhà xứ. Bỗng một loạt chuông dài từ phía cổng vang lên, không chút đắn đo, vị linh mục tiến về cổng chính. Cánh cửa bật mở, một khuôn mặt thật tiều tụy xuất hiện, kèm theo lời kêu cứu: "Linh mục ơi! Xin cứu gia đình con với"; với giọng ôn tồn ngài nói: "Mời chị vào phòng khách, có điều chi hãy từ từ giải bày".
Đón lấy ly nước mát lạnh từ tay ngài, người phụ nữ chỉ nhấp đôi chút và vội vàng cất tiếng với giọng nói thật thống thiết: "thưa linh mục, xin ngài cứu gia đình con với, xin cứu người chồng đáng thương của con. Anh ấy ngã bệnh đã hai năm nay, con đã cố gắng hết sức mình, ngay cả gia tư vốn liếng con cũng chẳng tiếc chi. Nhưng cho đến nay, mọi chuyện như muối đổ bể: bệnh tình của nhà con chẳng đỡ chút nào, còn gia đình con thì lại rơi vào khánh kiệt". "Vậy giờ đây chị muốn tôi giúp gì cho chị? Chị cứ nói, trong khả năng của tôi, tôi xin sẵn sàng giúp chị", vị linh mục cất tiếng nói. Xúc động bởi sự chân tình của vị linh mục trong tiếng nghẹn ngào chị ta bộc bạch: "thưa linh mục, gia đình con là gia đình cách mạng, chúng con là những đảng viên, tuy chúng con không biết về Chúa, cũng chẳng quen biết linh mục, nhưng nhờ những người hàng xóm Công Giáo gần nhà giới thiệu, cho nên con mạnh dạn đến đây để nhờ linh mục cầu nguyện cho nhà con qua khỏi cơn nguy biến này". Vẫn với giọng nói thật chân tình, vị linh mục hỏi: "Chị tin vào lời cầu nguyện của tôi ư?" chị đáp lời: "Thưa linh mục, giờ con biết làm gì hơn ngoài điều này; vả lại có tin con mới đến đây để cậy nhờ linh mục". "Thế thì chị hãy an tâm, tôi hứa ngay từ chiều hôm nay sẽ cầu nguyện cho chồng của chị". Cảm động bởi tấm lòng cao thượng của vị linh mục, chị ta còn chỉ biết tạ ơn và cáo biệt ngài ra về cho kịp chuyến xe chiều. Hai tháng sau, người phụ nữ ấy trở lại với người chồng của mình để tạ ơn vị linh mục. Và cũng từ đó khơi mào cho hành trình niềm tin của hai vợ chồng.
Câu chuyện trên đây cũng phần nào diễn tả Lời Chúa ngày hôm nay: Niềm tin của người phụ nữ xứ Ca-na-an. Người phụ nữ ấy đã tin vào Đức Giêsu Kitô: Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít (Mt 15,22); dẫu chỉ nghe nói về Ngài qua những người chung quanh. Niềm tin ấy được diễn tả ngày càng mạnh mẽ, nhất là khi Đức Kitô nói với chị ta: "không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (c.26). Đáp lời Ngài, chị ta nói: "thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống". Đây phải chăng là lời vặn vẹo hay tranh luận với Chúa Giêsu? Thưa không, lời nói của chị đượm nét khẩn cầu của một kẻ đầy lòng khiêm nhường, cúi mình trước Đấng Tối Cao; chính câu trả lời của chị như thêm một lần nữa xác tín niềm tin của mình vào Con Vua Đavít, vì chị tin rằng Ngài luôn thương đến những kẻ mọn hèn, dẫu cho là những chú "chó con" (ngôn từ mà người Do Thái thời xưa dùng để ám chỉ dân ngoại). Đọc được những tâm tình sâu thẳm ấy, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và chữa lành cho con gái chị.
Lời Chúa hôm nay còn muốn diễn tả sứ vụ của Đức Kitô: Được sai đến với những chiên lạc nhà Ít-ra-en (c.24). Thực vậy, có những con chiên mà đôi lúc do những hiểu lầm hoặc chưa được nghe Lời Chúa đã không ở trong một đàn. Trong và qua Tình Yêu Thập Tự Đức Kitô đã muốn quy tụ tất cả về trong một đàn chiên duy nhất, sống sự hiệp thông, tình yêu, bình an; Ngài muốn dẫn đưa tất cả chúng ta lên Núi Thánh Ngài (Is 56,7). Sứ vụ ấy được ủy thác lại cho các Tông Đồ khi Ngài về trời, và cho chính mỗi người chúng ta, những thành phần của Hội Thánh (Đến với muôn dân, 2).
Trăn trở trước sứ vụ thật cao cả ấy, đôi lúc chúng ta cũng tự đặt câu hỏi cho mình: "Đâu là cách thế để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay?". Tôi muốn mượn lời của ĐGH Gioan Phaolô VI để trả lời cho vấn nạn này: "Người đương thời sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy", thế nên "Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng cách làm chứng, một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới" (Loan báo Tin Mừng, 21;41).
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta những bài học quý giá. Qua hình ảnh người phụ nữ xứ Ca-na-an ta học được bài học về sống niềm tin. Chính niềm tin hun đúc và giúp chúng ta bước đi cách vững chắc trong hành trình hướng về quê trời, dẫu cho hành trình đó còn vương đầy sỏi đá; chính lối sống tín thác vào Đức Kitô, khiến ta trở thành những chứng nhân sống động của Tin Mừng, của tình yêu: rao giảng không những bằng lời nói, nhưng còn bằng chính đời sống. Thiết nghĩ khi thực thi được những điều đó ta đã thực thi phần nào sứ mạng mà Chúa uỷ thác cho mỗi người chúng ta.
--------------------------------
Người đàn bà ngoại giáo, có đứa con đau yếu đã đến tìm gặp Chúa Giêsu. Lần thứ nhất bà kêu: TN 20-A18
Ngöôøi ñaøn baø ngoaïi giaùo, coù ñöùa con ñau yeáu ñaõ ñeán tìm gaëp Chuùa Gieâsu. Laàn thöù nhaát baø keâu xin, nhöng Ngaøi ñaõ thinh laëng khieán caùc moân ñeä phaûi leân tieáng can thieäp. Laàn thöù hai bà kêu xin, thì bị Chúa Giêsu trả lời: Đừng lấy bánh của con cái mà ném cho chó. Thế nhưng bà vẫn không mất lòng cậy trông khi thưa cùng Chúa: Lạy Thầy, nếu như vậy thì con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống chứ. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và đã làm phép lạ cho con bà được khỏe mạnh.
Từ câu chuyện này chúng ta rút ra được một bài học, một thái độ sống giữa những khổ đau và bất hạnh, giữa những gian nguy và thử thách chúng ta gặp phải giữa lòng cuộc đời. Như chúng ta đã biết: đau khổ và thử thách là như một cái gì gắn liền với thân phận con người: thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì. Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta vốn thường cho rằng đời là nơi khổ ải, nơi khóc lóc, đời là thung lũng nước mắt. Đứng trước những khổ đau và thử thách, người thì can đảm chấp nhận, không kêu ca, không oán trách, kẻ thì hậm hực tức tối, khóc lóc than van, dường như ở trên đời này chỉ mình họ là khổ đau mà thôi. Nếu có dịp, chúng ta hãy ghé thăm những bệnh viện và chúng ta sẽ thấy những khổ đau chúng ta đang phải chịu, chẳng thấm tháp vào đâu so với những khổ đau của người khác.
Ngày kia đức Khổng Tử gặp Vĩnh Khải Kỳ, tay cầm đèn, vừa đi vừa hát một cách vui vẻ. Khổng Tử bèn hỏi: Hôm nay có chi mà tiên sinh mừng vui thế. Vĩnh Khải Kỳ trả lời: Trời sinh ra muôn vật, mà loài người là loài trọng nhất, bỉ nhân đây là loài người, thì làm sao chẳng vui cho được. Trong loài người thì đàn ông hơn đàn bà. Bỉ nhân đây được may mắn là đàn ông, thì làm sao chẳng vui cho được. Sinh ra có kẻ mù lòa câm điếc hay què quặt, bỉ nhân đây không mù lòa, không câm điếc cũng chẳng què quặt, thì làm sao chẳng vui cho được. Còn nếu như nghèo nàn, bệnh tật và chết chóc là số phận chung của mọi người, không ai có thể tránh thì việc gì mà phải buồn phiền lo lắng.
Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta, những người luôn tin tưởng và cậy trông vào Chúa thì những khổ đau chúng ta chịu sẽ không kéo dài quá thời gian cuộc sống chúng ta. Chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ chấm dứt. Người giầu và kẻ nghèo rồi thì cũng phải chết, cũng như ông phú hộ và người ăn xin tên là Lagiarô. Thế nhưng sau cái chết là cuộc sống đời đời, là tương lai vĩnh cửu sẽ mở ra cho chúng ta tùy theo như những việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Vì thế, chúng ta phải cố gắng biến những khổ đau chúng ta gặp phải trở thành nguồn ơn phúc, đem lại lợi ích cho chúng ta như lời thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: Được chịu gông cùm vì Chúa, tôi lấy làm hãnh diện hơn là ngồi trên 12 tòa các tông đồ mà xét xử muôn dân. Tại sao thế ? Bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường tiến tới Phục sinh.
--------------------------------
Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm . Hôm đó anh: TN 20-A19
Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm . Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thoả chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm . May quá, anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.
Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu con , con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống: “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn con có thực sự tin Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói: “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”. Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không ? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không ? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu truyện sau:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cáy bùng lên tại một ngôi nhà trong khi ngọn lửa đang phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra mình thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể liều lĩnh đi vào trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.
Cha nó thấy nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khóí lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hìng ảnh diễn tả người Ki-tô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao ? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng lúc chúng ta cần đến Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay,một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược được tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Ngưòi phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương cứu trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà đã tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đã đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chưã con gái bà.
Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Ca-phác-na-um thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Ca-na-an này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giê-su. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.
--------------------------------
Chúa Nhật 20 Thường Niên-Niềm Tin Chịu Thử Thách
Is 56,1,6-7; Rm 11, 13-15.29-32; Mt 15, 21-28
Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi TN 20-A20
Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi danh tại một trường Cao đẳng Sư phạm. Nhà trường chấp thuận với điều kiện: cô phải luôn luôn giữ điểm cao trên trung bình.
Nhập học. Giáo sư dạy Triết lớp cô là một người vô thần. Mỗi lần nói về Giáo hội hay Đức Kitô, ông luôn tìm cách che đậy hay xuyên tạc. Elvire cảm thấy bất bình. Cô biết rằng nếu phản đối giáo sư, cô sẽ khó tránh khỏi việc lãnh về những con điểm không tốt.
Thế nhưng, lòng tin yêu Chúa Giêsu đã thúc bách cô. Nhiều lần cô can đảm giơ tay phát biểu. Có khi cô còn nói: "Thưa thầy, điều đó không đúng" hay "Em không đồng ý".
Đôi lúc cô cảm thấy đuối lý trước đầu óc thông thái và cáo già của ông thầy. Thế nhưng, trong các lời phát biểu của cô luôn ánh lên tia sáng của niềm tin, thứ niềm tin ôm ấp chân lý. Điều nầy khiến người ta suy nghĩ.
Elvire không thích thú gì khi đương đầu với thầy mình. Nhưng cô không thể sống theo kiểu "nín thở qua cầu". Thấy thế, các bạn cũng tìm cách khuyên ngăn, nhưng họ không thành công.
Thời gian trôi qua. Kỳ thi cuối khóa đã đến. Giây phút nhận kết quả mới hồi hộp làm sao. Elvire và các bạn mỗi người được phát một phiếu điểm. Tay cô run run mở phiếu. Chợt cô reo lên: "Điểm A".
Thành quả cuối cùng trong lớp Triết học của Elvire là điểm tối đa.
Câu chuyện người con gái có tên Elvire khiến tôi không khỏi tự vấn: nếu rơi vào trường hợp tương tự, liệu tôi có đủ tinh tế và can đảm nói lên niềm xác tín của mình không, hay tôi sẽ làm ngơ cho qua chuyện?
Nếu hành trình đức tin gặp phong ba thách đố, phải chọn lựa giữa giá trị Phúc Âm và lợi lộc trần gian, liệu tôi có dám đặt chân lý Tin Mừng lên trên tất cả không?
Khi phải đương đầu với khó khăn, cô đơn, vùi dập, từ khước..., liệu tôi có vững lòng đi theo sự thật Giêsu cho đến cùng không?
Qua việc tự vấn, tôi khám phá ra rằng mình dễ hèn nhát tránh né làm chứng cho niềm tin. Đôi khi vì một chút danh dự, tự lợi, hay địa vị tôi dễ rơi vào cảnh sống như kẻ vô thần. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng những lần mình can đảm đáp trả tiếng gọi của Tin mừng là những khi mình sống bình an và phong phú nhất. Những lúc đó tôi thấy mình cũng đạt được điểm tối đa như Elvire vậy.
Thế ra, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước trong niềm tin, người ta sẽ gặt hài được hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Chính câu chuyện người đàn bà xứ Canaan trong Thánh Kinh cũng minh chứng cho điều đó.
Hôm ấy, Đức Giêsu đi lên mạn cực bắc của nước Do thái, vượt qua biên giới Galilê để tiến vào vùng Tyrô và Sidôn. Ngài muốn tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Một người phụ nữ ngoại giáo chạy theo và kêu cầu Ngài cứu chữa cho con gái bà đang bị quỷ ám.
Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Kinh Thánh kể, Chúa Giêsu "không đáp lại một lời nào".
Tại sao Ngài im lặng? Tại sao Chúa Giêsu làm thinh trước một lời cầu xin chính đáng? Có lẽ lắm khi trong cuộc đời tôi cũng đặt vấn đề như thế.
Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm phép lạ để tỏ mình cho dân chúng. Phép lạ đóng vai trò như một dấu chỉ. Thế nhưng lắm khi người ta lại đọc sai dấu chỉ đến nỗi thay vì nhận chân Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, họ lại khinh thường và rêu rao Ngài dùng quyền ma quỉ để làm phép lạ (Mc 3,22). Có khi người ta lại suy tôn phép lạ như nhu cầu thiết yếu và xem Chúa Giêsu là cái máy cung cấp. Thế nên có lần Ngài phải chạy trốn lên núi (Gn 6,15) hoặc cấm không cho họ nói lại những phép lạ Ngài làm (Mc 8, 26).
Thái độ "dè đặt" của Chúa Giêsu thật đáng suy nghĩ: Ngài không đến để phô trương các việc lạ lùng hòng thu hút niềm thán phục nơi quần chúng và sự mến mộ của kẻ hiếu kỳ. Ngài đến là để thực thi Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó là tìm kiếm chiên lạc của Israen.
Yvon Daingeault có viết: "Israen của Chúa Giêsu là Israen của lòng tin, qui tụ những ai có niềm tin vào Ngài. Trong Israen đó, ta nhìn thấy một viên bách quản Rôma, một người cai trị có những lối sống không mấy rõ ràng, một phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm như Madalêna, và một đám đông không kể xiết những người tội lỗi. Trong đó có chúng ta hợp thành con cháu thật sự của Abraham.
Chúa Giêsu không muốn loại trừ người phụ nữ Canaan khỏi Israen này. Đây là dân mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Chúa Giêsu thánh đố bà tiến đến đức tin chân chính để có thể gặp được Ngài. Bà hiểu điều này và đã diễn tả niềm tin mới của mình bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm nhượng".
Đây là phần lạ lùng nhất của đoạn Phúc âm: khi nghe Chúa Giêsu nói "Người ta không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho đàn chó," bà đã khiêm tốn thưa:"Vâng, lạy Ngài, nhưng chó cũng được ăn những bánh vụn rơi xuống từ bàn của chủ nó" (Mt 15, 26-27).
Không biết trong hoàn cảnh như thế liệu đức tin của tôi có đủ mạnh để khiêm tốn và bền chí cầu xin, hay tôi sẽ quay ra than trách: không ban ơn lại còn xỉ vả bêu nhuốc nghĩa là thế nào? Chắc tôi sẽ tự ái, khó chịu mà bỏ Chúa mất.
Thái độ kiên trì khẩn nài và vững tin trước thách đố của người đàn bà Canaan đáng cho tôi học hỏi biết bao. Nhờ kiên tâm bám vào Chúa mà bà đã được điểm"A". Chúa Giêsu tuyên bố: "Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì được như vậy" (Mt 15,28).
Tôi ước ao được điểm A như thế lắm. Song trước tiên, có lẽ tôi phải biết thốt lên với tất cả lòng thành lời nguyện như người phụ nữ ngày xưa: "Kyrie eleison - Xin Chúa thương xót con".
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
--------------------------------
Sr Magdalena Oanh, MTGQN
Chúa Nhật 20 Thường Niên
Mt 15,21-28
Đâu là đức tin Công giáo của bạn giữa cuộc sống đầy thách đố hôm nay. Đặc biệt khi đứng trước những: TN 20-A21
Đâu là đức tin Công giáo của bạn giữa cuộc sống đầy thách đố hôm nay. Đặc biệt khi đứng trước những vụ scandals trong Giáo hội. Bạn còn tin vào Thiên Chúa, vào sự thánh thiện của Giáo hội nữa không? Nhưng trước khi trả lời câu hỏi này, xin mời bạn hãy cùng tôi đi sâu vào định nghĩa thế nào là "Tin". Đức tin là hạt giống Thiên ân. Hạt giống đức tin được vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. "Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo" (ĐHY Nguyễn Văn Thuận).
Thật vậy, người phụ nữ Canaan tin Đức Giêsu là con vua Đavid, Đấng có quyền năng chữa con mình khỏi bị quỷ ám. Bất chấp sự kỳ thị, bà nài van Đức Giêsu đoái thương con mình. Đức Giêsu vẫn lặng thinh. Sự lặng thinh ấy không làm bà nhụt chí. Kiên trì cầu xin, bà đã làm xiêu lòng các tông đồ. Các ông ngỏ lời xin Đức Giêsu can thiệp, nhưng Ngài một mực khước từ cách lạnh lùng:"Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi". Ngã lòng ư, bỏ cuộc ư? Người phụ nữ can trường đã nhẫn nại nài van Chúa cách khiêm tốn, tín thác. Bà chấp nhận sự thấp bé phận người dân ngoại và xác tín mạnh mẽ vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa luôn bao phủ trên nhân loại. Đức Giêsu cảm khích trước lòng tin kiên vững của người phụ nữ dân ngoại, Ngài đã tuyên nhận đức tin của bà làm nên phép lạ như lòng bà mong ước. Đức tin bà vững mạnh nhờ bén rễ sâu trong vùng đất khiêm nhường, nhẫn nại, phó thác và cậy trông. Bà đã vượt qua những gì người khác xem là nghịch lý, khó chấp nhận. Bà đón nhận sự thinh lặng của Thiên Chúa, sự chối từ, sự lạnh nhạt của Ngài cách kiên trung.
Quả thật nơi bà ngời sáng một đức tin tinh ròng. Đức tin không dựa trên sự trao đổi hai chiều "qua-lại". Nhưng là niềm tin vì Tin, vì Yêu, vì trọn tình tín thác. Nếu chúng ta chỉ tin vào Thiên Chúa giữa những may mắn, giữa bầu khí hạnh phúc thánh thiện trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ, hay giữa sự thành công trên bước đường sự nghiệp, thì vô tình chúng ta biến Thiên Chúa thành vị thần hộ mệnh hơn là nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa Đấng Chân Thiện Mỹ, Đấng sẽ dẫn đưa chúng ta đến nguồn hạnh phúc đích thực xuyên qua mọi gian nguy thử thách cuộc đời. Vậy một khi bạn đặt niềm tin vào Thiên Chúa, xin hãy xác tín rằng Thiên Chúa đang kiện toàn chi thể của Người qua những thương tích, sau cuộc chiến đấu đầy cam go giữa sự giằngn co của sự giòn mỏng phận người với thiên chức làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Ngài chỉ lặng thinh, chờ đợi sự lớn mạnh đức tin nơi con cái của Người, để một khi đức tin chúng ta đặt vào Thiên Chúa, vào Giáo hội lớn mạnh mẽ, sẽ làm nên phép lạ kỳ diệu trong lòng xã hội, Giáo hội, gia đình chúng ta.
Cùng suy niệm mẫu gương đức tin can trường của người phụ nữ xứ Canaan, chúng ta hãy cùng nhau trả lời câu hỏi về niềm tin bằng chính hành động cụ thể thực tiễn trong vai trò một Kitô Hữu giữa môi trường sống.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng thấu suốt lòng trí chúng con. Ngài là Người Cha nhân ái, là Người Mẹ dịu dàng và là Người Thầy dạy đức tin cho chúng con. Xin ban thêm sức mạnh tình yêu trên chúng con, giúp chúng con nên can trường trong trận tuyến niềm tin Công giáo. Để qua những thử thách đức tin, chúng con càng kiên trung sáng ngời để chứng minh cho thế giới về khuôn mặt đích thực của niềm tin Kitô Giáo luôn sống động, đầy lòng khiêm nhường, tín thác và đầy sức mạnh biến hóa mọi vết thương Giáo Hội nên hào quang chiến thắng rạng ngời tình yêu: cảm thông, chia sẻ và vô vị lợi.
NS Trái Tim Đức Mẹ
--------------------------------
Chúa Nhật 20 Thường Niên
Lúc phong trào vượt biên ở cao điểm, rất nhiều người lương đến Đền Thánh Fatima, cầu Bình Lợi: TN 20-A22
Lúc phong trào vượt biên ở cao điểm, rất nhiều người lương đến Đền Thánh Fatima, cầu Bình Lợi khấn hứa, xin cho được "như ý cát tường" và hứa sẽ tạ ơn Mẹ nếu "cầu được, ước thấy". Một số đã tự ý xin gia nhập Giáo hội và trở thành những tín hữu thật sốt sắng và đạo đức. Số còn lại đã tạo mãi ảnh mẹ, thắp nhang tôn kính tại nhà và ân cần dặn con cháu "tụi con phải cám ơn Đức Mẹ, vì bả, mà gia đình ta được đến đây bình an." Đây là dấu chứng tỏ tất cả nhân loại, không phân biệt tiếng nói, màu da, chủng tộc, đều là con cái Chúa, và đồng được Chúa ban ơn, chở che và Mẹ Maria nâng đỡ, bao bọc và độ trì.
Từ thời tiên tri Isaiah, Chúa đã phán "người ngoại bang phụng sự Chúa và mến yêu danh Ngài, đều trở thành tôi tớ Chúa" (bài đọc một). Nói chung thì cả nhân loại đều nhận biết Chúa theo mức độ khác nhau. Tùy theo phong tục, tập quán, chủng tộc, mỗi sắc dân lại có một nghi lễ dị biệt. Nhưng tựu trung là tỏ lòng kính yêu tôn thờ "ông Trời", "Thượng Đế" "Đấng Chí Tôn". Vì có nhiều mê tín và dị đoan trong nhân gian, Chúa đã tuyển chọn dân riêng với trách vụ gìn giữ và phát huy "đức tin độc thần". Thái độ kiêu hãnh và khinh miệt những người không cùng niềm tin và không chung nghi lễ phụng thờ phát sinh từ đó. Chúa Kitô đã sửa sai quan niệm thiển cận và sai lầm này qua thiếu phụ Samaria. Bà không được phép bén mảng đến gần đền thánh Giêrusalem, nhưng bà lại được diện kiến và trực thoại với Chúa. Biên giới ngăn cách tôn giáo và nghi lễ do con người tự tạo đã bị Chúa Kitô phá vỡ. Từ đây những ai chân thành tìm Chúa và thờ trời đều hợp nhất trong "tinh thần và chân lý."
Trong tinh thần và trong chân lý, thiếu phụ Canaan đến nài xin và khấn hứa. Bà có thể đã nghe Chúa dậy, hay chứng kiến những phép lạ Chúa thực hiện. Hoặc bà mới chỉ được nghe danh Giêsu qua các lời đồn xa gần. Nhưng bà tin và đó là yếu tố thúc giục bà mạo hiểm đến gặp Chúa, dù bà là người lương. Chúa thoạt như hắt hủi để thử thách, nhưng khi nhậnra một đức tin trong lành và vững mạnh nơi bà, Chúa mủi lòng phán "Bà cầu sao thì được như vậy". Bà không phải là người lương thứ nhất được ơn lạ. Tể tướng Naaman thời tiên tri Êlisha, và bà góa thời tiên tri Êlia đã được hưởng ơn lành Chúa ban cũng vì lòng tin mạnh mẽ.
Hans Kung, một thần học gia cấp tiến thời danh thập niên 60, gần đậy đã bị giáo hội lên án vì những chủ trương sai lầm và trái ngược với giáo huấn của Hội thánh. Hans Kung phân tích mỏng lời Chúa và hiểu một cách rời rạc và méo mó nên chủ trương là Chúa chỉ được sai đến với người Do Thái. Ông không hình dung ra một Giêsu giữa dân Samari, trước viên quan người lương và ơn lành bà xứ Canaan đã nhận được. Ông giới hạn lời "Các con đừng vội đến các làng dân ngoại, đừng vào thành Samaria, hãy đến với các chiên lạc Israel trước" (Mt 10,50) để đề xướng thuyết kỳ thị và cảnh con yêu con ghét torng sứ mạng cứu thế của Chúa. Ông quên điều kiện tiên quyết Chúa đòi phải có là một đức tin mạnh và tâm thành.
Các tông đồ, ý thức lời truyền "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy, vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần", đã thực thi sứ mạng truyền giáo và hào hùng lấy máu đào minh chứng niềm tin. Niềm tin này đã được chuyển giao đến chúng ta. Niềm tin này sẽ bị mai một và phôi pha nếu chúng ta kiêu kỳ, hãnh diện vì là "con dòng cháu giống" hay "lá ngọc cành vàng" để khinh khi người khác. Niềm kiêu hãnh này giết chết đức tin và đưa chúng ta đến án phạt và ngõ cụt. Đang khi những người thu thuế, phường đĩ điếm và quân tội lỗi vào trời vì họ tin vào tình Chúa thứ tha, vì họ đấm ngực ăn năn và vì họ can đảm thân thưa "Xin tha cho con, kẻ tội lỗi".
Giang sơn của Chúa hay nước trời là gia sản chung của những ai biết đắm mình trong máu chiên gánh tội trần gian.
--------------------------------
Chúa Nhật 20 Thường Niên
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is 56,1.6-7: (6) Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, (...) (7) đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. (...) Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân
· Rm 11,13-15.29-32: (13) Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại (...) (30) Trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ (=người Do Thái) không vâng phục; (31) họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót.
· TIN MỪNG: Mt 15,21-28
Đức Giê-su chữa con gái người đàn bà Ca-na-an
(Mc 7,24-30)
(21) Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, (22) thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: «Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!» (23) Nhưng Người không đáp lại một lời.
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: «Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!»
(24) Người đáp: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». (25) Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: «Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!» (26) Người đáp: «Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con». (27) Bà ấy nói: «Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống» (28) Bấy giờ Đức Giê-su đáp: «Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy». Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
SUY NIỆM
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao Đức Giê-su lại đối xử với người phụ nữ Ca-na-an một cách có vẻ kém nhân bản như thế?: TN 20-A23:
1. Tại sao Đức Giê-su lại đối xử với người phụ nữ Ca-na-an một cách có vẻ kém nhân bản như thế? Ta có nên bắt chước Ngài cư xử như thế với người ngoại giáo không?
2. Đức Giê-su thử thách niềm tin người phụ nữ Ca-na-an. Ngài có thử thách ta như vậy không? để làm gì? có cần thiết và ích lợi cho ta không?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ đạo sư của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này
Để hiểu thái độ của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư Đông phương chứ không phải của một người thông thường. Các đạo sư Đông phương nhiều khi có những cách hành xử khác thường, với mục đích giáo dục (cho một bài học) hoặc thử thách (gây khó khăn) người đệ tử. Đó không phải là những hành động Ngài muốn làm gương để mọi người bắt chước. Chẳng hạn thiền sư Đơn Hà chẻ tượng Phật trong chùa ra làm củi để sưởi vì đệ tử kiếm củi không ra. Mục đích của ông không phải để các đệ tử từ nay cứ thế mà bắt chước ông, mà để dạy cho họ biết Phật không phải là những bức tượng bằng vật chất, mà là một thực thể sinh động và thiêng liêng ở ngay trong tâm hồn của mỗi người: «Tức Tâm tức Phật». Ông làm thế vì thấy các đệ tử quá chú trọng vào những nghi thức bề ngoài trước tượng Phật, mà quên bổn phận quan trọng hơn rất nhiều là phải ý thức tâm mình mới là Phật đích thực, và phải tu tâm, tức tập sống cho xứng với phẩm giá cao quí đó.
2. Giải thích tình huống trong bài Tin Mừng
Đức Giê-su và và môn đệ lúc này đang ở miền Tia và Xi-đôn, không thuộc vùng đất của Do Thái. Đây là một dịp tốt khiến Ngài ý thức lại sứ mạng loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và cứu độ họ. Còn Ca-na-an là một trong những tên cũ của Pa-lét-tin, vốn là một dân tộc thù nghịch với Dân Do Thái từ thời các tổ phụ. Ban đầu, Thiên Chúa hứa cho A-bra-ham vùng đất của dân Ca-na-an (x. St 12,6-7; 15,18), và dân Do Thái đã phải chiến đấu rất cam go - khi thắng khi bại - với họ để chiếm lấy đất ấy (x. Xh 23,23-24; Gs 3,10; Tl 1,9-10). Thái độ cố hữu của người Do Thái là tỏ ra không ưa người Ca-na-an, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các tông đồ đối với người phụ nữ Ca-na-an là một điển hình: xem ra các ông chẳng có cảm tình với bà. Trong bài Tin Mừng này, người phụ nữ Ca-na-an đại diện cho dân ngoại.
Tâm tình của Đức Giê-su đối với bà này không phải giống như các tông đồ hay người Do Thái, vì Ngài cũng có sứ mạng đối với dân ngoại, nên Ngài cũng rất yêu thương họ. Nhưng Ngài lại tỏ thái độ xem ra không thân thiện lắm đối với bà này vì Ngài có dụng ý của Ngài. Thái độ của Ngài là một sứ điệp chủ yếu cho các tông đồ và người Do Thái hơn là cho bà ấy. Ngài chỉ muốn thử thách bà ấy một chút thôi.
3. Thái độ và chủ ý của Đức Giê-su
Người phụ nữ Ca-na-an này có đứa con gái bị quỷ ám, đương nhiên là đáng thương. Bà xin Ngài chữa cho con bà. Nhưng Ngài lại nói với các môn đệ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thực ra Tin Mừng và ơn cứu độ là dành cho mọi người, mọi dân tộc, nhưng trước tiên là dành cho dân Do Thái, sau mới tới các dân tộc khác. Tuy nhiên, mỗi sự mỗi việc đều có thời điểm của nó. Vào thời điểm Đức Giê-su nói câu này, Tin Mừng và ơn cứu độ đang ở giai đoạn dành cho người Do Thái. Chính Ngài đã từng ra lệnh cho các môn đệ: «Tốt hơn, anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en» (Mt 10,6). Nhưng sẽ tới thời điểm Đức Giê-su ra lệnh cho các ông: «Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ » (Mt 28,19).
Đối với các môn đệ, Đức Giê-su muốn chuẩn bị báo trước cho các ông sơ đồ sự việc sẽ xảy ra: Tin Mừng và ơn cứu độ được Ngài rao giảng ưu tiên cho người Do Thái, và sau đó người Do Thái có nhiệm vụ đem Tin Mừng và ơn cứu độ ấy đến với muôn dân. Nhưng sơ đồ ấy đã không xảy ra, vì chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy. Dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), và dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) nói lên sự từ chối ấy. Vì thế, Tin Mừng và ơn cứu độ được đem ra rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều ấy trong thư Rôma 9,25-33. Đức Giê-su đến với người Do Thái, nhưng nói chung họ đã không tin Ngài, thậm chí đã giết Ngài. Trái lại, chính dân ngoại lại tin vào Ngài, và vì thế họ được cứu độ. Điều quan trọng để được cứu là họ phải tin vào Ngài, điều này được chứng tỏ trong việc Ngài cứu con gái người phụ nữ Ca-na-an có niềm tin rất đáng trân trọng này.
Đức Giê-su, với tư cách một đạo sư, đã thử thách lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an. Vả lại, qua việc biểu lộ niềm tin của bà ta, Ngài cũng muốn cho các môn đệ thấy rằng: ai tin vào Ngài, dù là dân ngoại, đều được Ngài xót thương và cứu độ. Chính vì thế, Ngài đã nói với bà những lời mà khi nghe ta cũng phải chạm tự ái thay cho bà, và có thể ta thầm trách Đức Giê-su đã quá tàn nhẫn, hoặc đã quá coi thường dân ngoại. Vì ví dân Do Thái như con cái trong nhà (=con người), còn dân ngoại như chó (=thú vật) chỉ đáng ăn đồ thừa của con cái, thì quả thật là quá đáng! Nhưng Ngài cố ý nói như thế để thử thách niềm tin của bà chứ không phải Ngài khinh bỉ bà như thế. Vả lại, Đức Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta biểu lộ niềm tin. Ngài không thể làm phép lạ cho họ khi họ không tin (x. Mt 13,58). Người phụ nữ Ca-na-an này đã tỏ ra niềm tin, lòng khiêm nhường và sự kiên nhẫn rất đáng khen, chính vì thế, bà đã được toại nguyện.
4. Thiên Chúa thử thách để củng cố và thánh hóa ta
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị/được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh Thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giê-su đối với người phụ nữ Ca-na-an là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách trong một mức độ nào đó là rất cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện nên vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lãnh của ta tới mức độ nào. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn thử thách con người, nhất là những người yêu mến Ngài và được Ngài yêu mến, những người Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi, mục đích là để họ thăng tiến và xứng đáng hưởng vinh quang (x. Rm 8,30). Đến nỗi thánh Tê-rê-xa A-vi-la khi bị thử thách quá độ đã phải kêu lên: «Chúa đối xử với bạn thân của Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn thân là phải!». Vì thế, ta hãy tạ ơn Chúa khi được Ngài thử thách. Thử thách xong mà lại được toại nguyện như người phụ nữ Ca-na-an thì thử thách đó cũng đáng mong ước!
5. Hãy rút kinh nghiệm bài học lịch sử
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các tông đồ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thiên Chúa và Đức Giê-su đã dành cơ hội ưu tiên cho người Do Thái trong việc tiếp nhận Tin Mừng và ơn cứu độ. Nhưng lịch sử cho thấy chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy: thậm chí hiện nay đa số người Do Thái trên thế giới vẫn còn giữ đạo của Mô-sê, hay đạo của Cựu ước. Vì thế, các tông đồ đã quay sang rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, tức những người ngoài Do Thái thời đó. Và «dân ngoại» đã tiếp nhận Tin Mừng của Đức Giê-su, đã trở thành Ki-tô hữu, và hiện nay đã chiếm tới 1/3 thế giới, tức khoảng 1 tỷ người, trong đó có chúng ta.
Hiện nay, các Ki-tô hữu - chiếm 1/3 thế giới - đã thay thế dân Do Thái trong việc làm cầu nối giữa Thiên Chúa với thế giới, và có nhiệm vụ đem Tin Mừng đến cho 2/3 thế giới còn lại. Bài học lịch sử từ sự kiện dân Do Thái từ chối ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho họ khiến chúng ta phải coi chừng kẻo chính chúng ta, Giáo Hội Công giáo hiện nay, lại đi vào chính vết xe đã đổ ấy. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống ba «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23), là ba điểm cốt yếu về thực hành trong Do Thái giáo hay Ki-tô giáo. Nhưng rất có thể là chính người Ki-tô hữu lại coi thường những điều cốt yếu ấy để quan trọng hóa những điều phụ thuộc như các lễ nghi, những hình thức bề ngoài
không khác gì các Pha-ri-siêu thời trước (Mt 23,13-32; Mc 12,40; Lc 11,39-48; 20,47). Đang khi ấy, rất có thể người ngoài Ki-tô giáo lại sống những điều quan trọng ấy hơn chúng ta. Thật thế, nhiều tín đồ các tôn giáo khác sống tốt hơn chúng ta về những điều ấy. Vì thế, một cách nào đó, chúng ta không đáp ứng được điều Thiên Chúa chờ mong nơi chúng ta, là trở thành cầu nối giữa Ngài và tôn giáo, mà còn lại từ chối sự ưu tiên trong việc lãnh nhận ơn cứu độ vì cách sống thiếu tình thương của mình. Hãy cẩn thận để tránh vết xe đi trước đã đổ.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con học được những bài học mà Đức Giê-su đã muốn cho con học qua cách hành xử của Ngài đối với người phụ nữ Ca-na-an. Xin cho con nhận ra tình thương của Cha trong những cơn thử thách, những khi gặp khó khăn đau khổ, vì mục đích của Cha khi thử thách là muốn con thăng tiến hơn trên con đường hoàn thiện. Xin cho con trở thành cầu nối vừa giới thiệu vừa đem Cha đến với những người sống chung quanh con. Amen.
------------------------------------------
Chúa Nhật 20 Thưởng Niên20th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: LÒNG TIN CỦA Bà MẠNH THẬT !
* WOMAN, YOU HAVE GREAT FAITH *
Bài đọc 1: Isaia 56, 1; 6-7= Hãy tuân giữ điều chính trực / Observe what is right.
Bài đọc 2: Rom.11,13-15; 29-32= Chúa thương xót anh / God show you mercy.
Tin Mừng: Math. 15, 21-28= Phần thưởng của lòng Tin / Reward of Faith.
A. Gơị ý cảm nghiệm Sồng và chia sẻ 3 bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Người đàn bà Cana-an tha thiết xin Chúa chữa con mình, nên các môn đệ nói: "Xin Thầy bảo bà: "Xin Thaày: TN 20-A24
1/ Người đàn bà Cana-an tha thiết xin Chúa chữa con mình, nên các môn đệ nói: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi." Bà này đã có một cách cầu xin tha thiết, kiên nhẫn và không chán nản. Tôi đã bền chí cầu nguyện và sống gương mẫu cho gia đình thế nào?
His disciples came up and began to entreat Him: "Get rid of her, she keeps shouting after us". ( Mat. 15, 23 )
2/ Khi thấy lòng kiên trì xin của bà, Đức Giêsu đã nói: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Người Tín hữu cần có thái độ khiêm tốn và bền tâm trong khi cầu nguyện cho tâm hồn cũng như thể xác. Bạn đã xin Chúa Thánh Thần thay đổi gì cho mình và Giáo xứ?
Jesus then said in reply: "Woman, you have great Faith! Your wish will come to pass." ( Mat. 15, 27-28 )
3/ Thánh Phaolô nhấn mạnh về lòng thương xót của Chúa như sau:"Quả thế, khi Thiên Chuá đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý." Tất cả mọi người dù là Do Thái hay Hy lạp, Chúa đều tỏ ra lòng nhân từ và thương xót. Tôi đang làm gì cho những trẻ em khuyết tật tại Viêt Nam?
God's gifts and His call are irrevocable. ( Rom. 11, 29 )
4/ Tiên tri Isaia viết lại Lời Đức Chúa phán như sau: "Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới." Trong gia đình và xã hội hôm nay cón nhiều tham lam, ích kỷ, gian dối và bất công. Bạn đã cố gắng, mạnh dạn đóng góp những gì cho cộng đoàn?
Observe what is right, do what is just. ( Isaia 56, 1 )
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's Words)
1-"Này bà, lòng tin của bà mạnh thật ! bà muốn sao thì sẽ được vậy. " ( Mat.15, 28 )
2- Hãy tuân giữ điều chính trực, hãy thực hành điều công minh. ( Isaia 56, 1 )
C. Tuần này tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa dạy: ( So what am I doing / For action )
a/ Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A đề thực hành trong đời sống.
b/ Bạn có thể tham gia một chương trình thiện nguyện nào đang gíup các trẻ em bệnh tật...
D. Tôi cầu nguyện không nản và thực hành lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice/ Pray in action)
- Lạy Chuá Giêsu, người đàn bà Ca-na-an đã biểu lộ niềm tin của bà thật mạnh liệt, không nản lòng trông cậy. Xin Chúa giúp con bền vững cầu nguyện để xây dựng gia đình và giáo xứ con.
- Tiên tri Isaia đã nói: "Hãy tuân giữ điều chính trực, hãy thực hành điều công minh." Nhưng con chỉ nghe mà không làm. Xin dạy con biết biết thực hành công bằng và bác ái cho anh em.
Lời hay ý đẹp: CÁNH ĐỒNG TRUYỀN GIÁO GẦN NHÀ BẠN HƠN LÀ BẠN TƯỞNG
The mission field is closer to home than you may think
------------------------------------------
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Nhật 20 Thường Niên
Mt 15, 21 – 28
Chúa Giêsu khi khai mở công việc truyền giáo, đã kết nạp 12 môn đệ đi theo Ngài, Ngài nói về nước: TN 20-A25
Chúa Giêsu khi khai mở công việc truyền giáo, đã kết nạp 12 môn đệ đi theo Ngài, Ngài nói về nước trời, Ngài giới thiệu về Thiên Chúa Cha và về chính Ngài. Ngài đã làm cho nước lã hóa thành rượi ngon trong tiệc cưới Cana với sự khẩn xin của mẹ Ngài là Đức trinh nữ Maria.Ngài đã làm cho bánh và cá hóa nên nhiều để nuôi sống nhiều ngàn người ăn chưa kể đàn bà và con nít. Ngài chạnh thương bà goá thành Naim khi làm cho con trai duy nhất của bà sống lại. Chúa yêu thương chị em Mácta và Maria khi cho Lazarô chết bốn ngày, đã chôn trong mộ được sống lại. Chúa cảm hóa bà Maria Mađalêna vì bà đã tỏ ra yêu thương nhiều.Chúa lưu tâm đến mọi người đặc biệt những người sầu khổ, yếu đuối,những kẻ chân yếu tay mềm.
Trong Chúa nhật 20 quanh năm, năm A, ba bài đọc cho ta một cái nhìn bao quát,một cái nhìn rộng khắp về một Giáo Hội không biên giới. Hội Thánh do Chúa Giêsu thiết lập là một Giáo Hội được đặt trên nền tảng tình thương. Đạo của Chúa mạc khải là đạo tình yêu vì như thánh Gioan nói: " Thiên Chúa là tình yêu "( 1Ga 4,16 ).
Tin mừng thánh Matthêu trong trích đoạn Mt 15,21-28 gợi lại cho ta về một sự đối nghịch của những con người được tuyển chọn, những con người được coi là ở trong với những con người ngoại giáo tức những người nằm ở ngoài. Cái nghịch lý lớn nhất của câu chuyện thánh Matthêu đưa ra trong chúa nhật này là Chúa Giêsu đã mở rộng vòng tay to lớn, vòng tay vô biên, vòng tay không biên giới để yêu thương, qui tụ mọi người.Ngài là vị mục tử tốt lành biết chiên Ngài và yêu thương chiên ( Tv 23 ). Ngài chạnh lòng thương khi thấy đám đông đói khổ, bơ vơ. Cái trớ trêu vẫn là các kinh sư, các ông biệt phái, các người Pharisiêu luôn hung hăng, lên mặt với những người khác. Họ bầy ra nhiều luật lệ, nhưng chính họ lại không làm mà cứ muốn chất lên vai người khác cho thỏa lòng kiêu ngạo của mình. Những người mà Tin Mừng có lần đã thuật lại họ xúng xính trong trang phục lòe loẹt, tua áo dài, thẻ kinh đeo tòng teng, lủng lẳng. Vâng, những người này chỉ muốn một mình vào nước trời và tự làm hàng rào cản người khác gặp Chúa và vào nước trời.
Người đàn bà Canaan mà đoạn Tin Mừng hôm nay đề cập tới là người ngoại giáo, người mà dân Do thái tối kỵ vì mối thù truyền kiếp từ xa xưa. Dân tộc của họ và dân tộc của người Do Thái, dân được Chúa tuyển chọn, dân riêng của Chúa có mối thù ngàn đời. Họ không đợi trời chung với nhau. Nhưng người đàn bà Canaan đã được Chúa đề cao vì lòng tin mạnh mẽ,sắt đá của bà.Chúa đã đoái thương bà, đã nhìn tới tấm lòng chân thành của bà. Chúa đã từng nói có những người ngoại có lòng tin còn mạnh mẽ hơn cả người Do Thái nữa. Tiên tri Isaia đã chẳng nói trước sao: "Dân này thờ ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta ". Chúa giảng đạo, Chúa loan truyền Tin Mừng nước Thiên Chúa, những người xem ra ở trong,nhưng thực ra lại ở ngoài. Có biết bao nhiêu người bị đẩy ra ngoài vòng lề luật, bị đặt ra ngoài Đền thờ, bên lề Hội Thánh, nhưng tâm họ tốt, cái tim họ tinh tuyền, trong sạch, lòng trí mới, quả tim mới. Họ thật sự có tấm lòng thống hối ăn năn, tâm hồn thuộc trọn về Chúa. Chúa đã từng nói cách thẳng thắn với những hạng người giữ đạo hình thức, giữ đạo máy móc, bề ngoài: " không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được cứu độ". Chúa muốn con người thực thi ý Chúa. "Ai là mẹ,là anh,là chị Ta. Đó là những người làm theo ý Chúa ".
Người đàn bà Canaan trong tình thế tuyệt vọng, khó khăn hầu như không còn lối thoát, dù bà chẳng hiểu gì luật Môsê, không hiểu gì về đạo mới của Chúa Giêsu, đã sống niềm tin cách sâu xa,mạnh mẽ.Bà đã kêu lên một cách tin tưởng,cậy trông, một lời khẩn nài vượt biên giới: " Lạy Ngài là con vua Đavít,xin thương xót tôi, con gái tôi bị qủy ám khốn cực tứ bề ". Chúa hiểu lòng tin của bà,nhưng Ngài vẫn tỏ ra như muốn thử lòng bà. Trước lòng tin sắt đá,trước sự kiên nhẫn của người đàn bà Canaan, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót đối với bà. Sự van xin,nài nỉ của người đàn bà Canaan, với một đức tin kiên cường, mạnh mẽ, bà đã gặp được Chúa Giêsu và phép lạ đã xẩy ra đối với bà. Điều này làm ta gợi nhớ khi viên bách quản tới gặp và xin Chúa tới cứu chữa người đầy tớ của ông đang đau thập tử nhất sinh. Chúa thấy lòng tin vững mạnh của viên bách quản,nên đã cứu chữa người đầy tớ ấy khỏi bệnh. Phép lạ luôn đòi hỏi lòng tin và sự cộng tác của con người.Chúa nói với người đàn bà Canaan: " Này bà, bà có lòng tin mạnh! Bà muốn sao thì được như vậy ".
Trong dòng đời, trong cuộc hành trình của một con người, con người dẫu có gặp chông gai thử thách, khó khăn,có lúc hầu như tuyệt vọng, người kitô hữu luôn được mời gọi sống niềm tin. Trong một giới khô cằn, người Kitô hữu được gọi mời sống yêu thương. Trong một thế giới xa rời Thiên Chúa, người Kitô hữu được gọi mời giương cao ngọn lửa đức tin để làm chứng cho Chúa phục sinh. Có như thế người Kitô hữu mới sống đúng danh hiệu Kitô hữu của mình. Giáo Hội Chúa Kitô là Giáo Hội vượt qua mọi biên giới vì tình yêu thì không giới hạn.
Gợi ý:
1.Đức tin của ông,của bà, của anh chị như thế nào ?
2.Trước những thử thách của cuộc đời,ta đã đặt niềm tin nơi Chúa ra sao ?
3.Anh chị có coi Hội Thánh là của anh chị hay không ?
------------------------------------------
Sr Theresa Thanh Thiên, ỌP
Chúa Nhật 20 Thường Niên
Mt 15, 21-28
Nếu nói chung về ý nghĩa của các bài đọc cho ngày Chúa Nhật hôm nay, ta thấy chúng cùng ca ngợi: TN 20-A26
Nếu nói chung về ý nghĩa của các bài đọc cho ngày Chúa Nhật hôm nay, ta thấy chúng cùng ca ngợi lòng thương xót vô biên của Chúa đã vui lòng khấng ban ơn cứu độ cho hết mọi người, không phân biệt ai. Riêng bài Phúc Âm, ngoài bài học về đức công bình bác ái, coi mọi người là anh chị em ngang hàng với ta, còn dạy ta cách cầu nguyện nữa, mà bà mẹ người Canaan dân ngoại là mẫu gương sáng.
Câu chuyện của người mẹ Canaan cũng được Chúa Giêsu thương nhận lời cầu xin chữa bệnh cho con của bà là một bằng chứng cho lời tiên tri trong bài đọc thứ nhất, về việc ơn cứu độ sẽ được lan tràn khắp địa cầu: "... Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu, và hiến tế của chúng trên bàn thờ,vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc". Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng muốn minh chứng cho mọi người chúng ta đặc biệt là những người Do Thái đồng thời với Ngài biết tại sao ngài đã làm tông đồ cách riêng cho dân ngoại. Ngài đã viện tới lý lẽ của trái tim đầy thương xót bao dung của Thiên Chúa, muốn cho hết mọi người con cái được thứ tha và được cứu độ. Lý lẽ mà thánh Phaolô dùng đây nhắc nhở chúng ta cần phải suy nghĩ đến thái độ của mình: một đôi lần đã sai sót, đối xử không công bình, phân biệt giàu nghèo, tuổi tác, kỳ thị chủng tộc, màu da, ngôn ngữ với anh chị em sống chung quanh ta.
Chỉ có hai lần trong Phúc Âm nói đến việc Chúa Giêsu đi ra khỏi vùng đất Do Thái, đến với dân ngoại và đây là một. Lần này lại là lần duy nhất mà Phúc Âm kể chuyện có kẻ lanh lợi cãi thắng Chúa Giêsu trong cuộc đấu trí với Ngài. Người ấy lại là một người đàn bà Canaan, dân ngoại. Đối với người Do thái thời bấy giờ, người đàn bà không có địa vị trong xã hội. Họ còn thản nhiên khinh thị gọi những người dân ngoại là "cho". Vừa là dân ngoại, lại thuộc hạng đàn bà, bà mẹ Canaan nhận mình là "chó con" thì cũng không lạ lắm. Chúa Giêsu tưởng là sẽ làm cho bà ta bỏ cuộc không quấy rối các môn đệ nữa khi nghe Ngài thử gọi bà trong lối đối xử bất công là "chó". Thật không ngờ bà dùng ngay chính lối nói khiêu khích của Chúa Giêsu để trả lời Ngài. Có người cho rằng nhận là "chó con" thì vinh dự gì mà gọi là thắng cuộc đâu. Nhưng nên nhớ rằng khi phải "tranh cãi" với lòng thương xót thì vũ khí lợi hại nhất và chắc thắng là đức khiêm nhường. Bà mẹ Canaan này đã dùng đúng vũ khí và đúng thủ đoạn khi tranh cãi với một người thông minh như Chúa Giêsu, người "đã làm cho bọn Saducê phải câm miệng" (Mt 22,34), và bọn Pharisêu thông luật "không đáp lại những câu chất vất của Người được một tiếng" (Mt 22,46). Vì thế, chúng ta không nên ngại ngùng gì khi phải "tranh cãi" với cả Thiên Chúa, nhưng phải nhớ dùng đến vũ khí "đức khiêm nhường" mới thắng được.
Làm sao mà bà mẹ Canaan này có được thứ vũ khí "đức khiêm nhường" để mà đấu với Chúa Giêsu? Chắc hẳn đó phải nhờ đến lòng thương con vô bờ bến của bà. Để được Chúa thương nhận lời cầu nguyện của ta, ít là cần 3 yếu tố sau: yêu thương, khiêm nhường, và bền chí. Thực ra cả ba yếu tố đó quy lại chỉ một mà thôi: lòng bác ái yêu thương. Lòng yêu thương của bà mẹ đối với người con gái của bà là lòng yêu thương thật sự. Chính lòng yêu thương nầy đã khiến cho bà có thêm được nhân đức khiêm nhường mau mắn nhận mìnhlà "chó con" và kiên nhẫn, bền lòng bền chí đi lẽo đẽo theo Chúa mà "kêu mãi", đến nỗi các môn đệ phải sốt cả ruột lên.
Nhắc đến tình người mẹ yêu thương con mình đang phải chịu đớn đau mà đã không ngần ngại đi xin xỏ năn nỉ người mắng chửi mình là "cho", đã mau mắn nhận mình là "chó con" để người đó chữa bệnh cho con mình, chúng ta liên tưởng đến tình Chúa quá đỗi yêu thương ta. Người đã vui lòng hạ mình xuống nhận thân phận thấp hèn để cứu chữa ta khỏi tội lỗi và sự chết. Người đã không ngần ngại chịu thống khổ và chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá như một "con chó chết" để cứu chuộc chúng ta. Lòng ta sao không bừng lên ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa của ta, là người Mẹ Hiền, là người Mẹ Yêu đã sinh ra ta vào cuộc đời, nuôi dưỡng ta bằng chính Thịt Máu mình, chữa lành ta khỏi mọi tội lỗi tật nguyền, và cứu ta cho khỏi chết đời đời! Hãy yêu mến Người bằng cả trái tim, với trọn tình yêu, sức lực, và ý chí của ta! Hãy yêu Người!
------------------------------------------
Chúa Nhật 20 Thường Niên –
Is 56, 1.6-7; Rm 11, 13-15.29-32; Mt 15,21-28
Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi tất cả những ai không có máu Do Thái là dân ngoại. Ngay cả những: TN 20-A27
Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi tất cả những ai không có máu Do Thái là dân ngoại. Ngay cả những người có máu Do Thái, nhưng nếu bị tiêm nhiễm bởi những thói hư nết xấu của dân ngoại bang thì cũng bị coi là dân ngoại. Tuy nhiên người đàn bà xứ Canaan được coi là dân ngoại đã không sợ đến với Chúa để xin một ân huệ. Các môn đệ Chúa toan đuổi bà đi, vì bà có vẻ quấy rầy. Điều đó giúp ta hiểu cái cuộc đấu lý giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan.
Có lẽ để thử đức tin của bà, ngay cả chính Chúa cũng toan đặt cản trở cho lòng tin của bà lúc ban đầu, khi bảo bà rằng sứ mệnh của Người là được sai đến với những chiên lạc nhà Israel mà thôi, nghĩa là sứ mệnh của Người không được sai đến với dân ngoại như bà.
Lúc đầu Chúa có vẻ lãnh đạm, lại còn nói những lời có vẻ chạm đến tự ái của bà như không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con (Mt 15,26). Theo mạch văn, thì con cái đây được hiểu là dân được chọn, còn dân ngoại như bà được ví như chó con. Đó là cuộc đấu lý hay đúng hơn là cuộc chơi chữ. Và bà cũng tỏ ra tài khéo trong cách đối đáp: "Vâng. Lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bản chủ rơi xuống" (Mt 15,27). Lời đối đáp của bà có nghĩa là bà sẵn sàng nhận một ơn huệ nhỏ Chúa ban cũng được vậy.
Thấy bà có lòng tin vững mạnh, Chúa lên tiếng ca tụng đức tin của bà, và ban cho bà được toại nguyện, cho con gái bà được thoát khỏi quỉ ám. Chúa nói với người đàn bà ngoại giáo sứ mệnh của Người là trước hết giảng dạy và chữa lành dân riêng của Chúa. Dân Chúa có được cơ hội đầu tiên để nhận lãnh ơn cứu độ, sau đó đến lượt dân ngoại.
Bằng việc Chúa ban cho người đàn bà dân ngoại có lòng tin được hưởng ân huệ, cũng như Chúa đã mở rộng tâm hồn cho người đàn bà dân ngoại, cho viên sĩ quan dân ngoại, cho người phụ nữ dân ngoại ở giếng Gia-cóp, các môn đệ hiểu được cái sứ mệnh của Chúa bao quát hơn, rộng lớn hơn, không chỉ giới hạn về một dòng giống, một dân tộc mà thôi.
Trước những biến cố này, đức tin vào Đấng cứu độ chỉ giới hạn đến một dân tộc Chúa chọn. Cái thủ đô và trung tâm tôn giáo của họ là Jerusalem. Tuy nhiên Tiên tri Isaia nhìn thấy một Jerusalem mới, có tính cách thiêng liêng, là trung tâm của lòng xót thương của Chúa. Bài trích sách Tiên tri Isaia hôm nay ghi lại: Người ngoại bang nào muốn phụng sự Chúa và yêu mến Người, thì cũng trở nên tôi tớ của Người (Is 56,6).
Jerusalem là thành được chọn cho ơn cứu độ, nhưng ơn cứu độ không phải là độc quyền cho dân thành Jerusalem mà thôi. Cái vương quốc mà Chúa hứa cho dân riêng của Chúa bây giờ trở nên rộng lớn hơn vì Chúa Cứu Thế đã đến và bày tỏ mình ra, không những cho dân riêng mà còn cho cả dân ngoại nữa. Cái việc chuyển hướng từ cái nhìn có tính cách địa phương, cá biệt, đến cái nhìn có tính cách phổ quát nơi các tông đồ bắt đầu từ khi Thánh Phaolô rao giảng tin mừng cho dân ngoại.
Thánh Phaolô là người Do Thái, nhiệt thành theo đạo Do Thái đến độ cuồng tín. Chẳng thế mà ông đã xin trát của quan tòa để đi bách hại đạo mới là đạo Kitô giáo. Khi được ơn trở lại, Thánh Phaolô đã nhiệt thành rao giảng đạo Kitô giáo cho người Do Thái. Chỉ khi người Do Thái không chịu chấp nhận tin mừng Phúc Âm của đạo mới, thì Thánh Phaolô mới tìm đến rao giảng tin mừng Phúc Âm cho dân ngoại.
Người đàn bà xứ Canaan khẩn khoản nài xin Chúa ban cho con bà được khỏi bệnh quỉ ám. Những cử chỉ khó chịu của các tông đồ, cộng thêm thái độ hờ hững của Chúa lúc ban đầu cũng không làm nản lòng bà. Lời từ chối ban đầu của Chúa với người phụ nữ chỉ là hình thức thử thách đức tin và lòng kiên trung của bà.
Đối với đạo cũ, đạo Do Thái, ta cũng được coi là dân ngoại. Bằng việc chấp nhận đức tin vào Chúa Cứu Thế, ta được trở nên dân riêng, mới được chọn. Thiết tưởng câu chuyện Chúa thử thách đức tin của người đàn bà ngoại giáo phải dạy ta bài học về đức tin. Vậy đức tin của ta đang ở mức độ nào?
NS Dân Chúa Mỹ Châu
------------------------------------------
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Để giới thiệu Chúa Giê-su cho các tín hữu và người đương thời của mình và cho hết mọi người trong: TN 20-A28
Để giới thiệu Chúa Giê-su cho các tín hữu và người đương thời của mình và cho hết mọi người trong tương lai, Mat-thêu đã trình bày Chúa Giê-su là Đấng có quyền năng trên con người, sự vật và cả quỷ ma nữa. Mát-thêu cũng cho độc gỉa thấy Chúa Giê-su đã bộc lộ lòng yêu thương con người, nhất là những người đau khổ, như thế nào khi kể lại những phép lạ Người làm để cứu giúp họ. Sau phép lạ bánh hóa nhiều và sự kiện đi trên mặt nước của Chúa Giê-su bài Phúc âm Chúa Nhật XX Mùa Thường niên năm A hôm nay tường thuật việc Chúa Giê-su giải thoát người thiếu nữ bị quỷ ám do lời khẩn khoản cầu xin và lòng tin sắt đá của người mẹ cô gái ấy. Chúng ta hãy lắng nghe và tìm hiểu Lời Chúa để nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa Giê-su mà tin tưởng vàkêu cầu Người cho chúng ta và cho những người khác.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 15, 21-28: Đức Giêsu chữa con gái một bà Ca-na-an
Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tia và Xi-đôn, thì này có người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: ”Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Nhưng Người không đáp lại một lời.
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi”. Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Chúa Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.aiHai
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 21-28 trên, chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Ai?
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê-su là Đấng đầy tình thương và quyền năng. Nhưng có thể cũng gợi lên trong tâm trí chúng ta một thắc mắc cần được giải đáp cách thỏa đáng.
(1o) Chúa Giê-su đã biểu lộ tình thương và quyền năng khi làm cho người con gái của một bà Ca-na-an được giải thoát khỏi tình trạng khốn khổ do quỷ dữ xâm chiếm tâm hồn.. Hơn nữa Chúa Giê-su đã chữa lành và giải thoát cô gái từ xa và không cần phải có một hành động nào cả. Việc làm này chứng tỏ Chúa Giê-su là Vị Ngôn sứ ưu tuyển và là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa. Người còn là Vua chiến thắng quỷ thần, là Chúa Tể trời đất vạn vật.
(2o) Đoạn Tin Mừng của Mát-thêu hôm nay có hai câu khó hiểu và có thể gây thắc mắc. Đó là câu 23: “Nhưng Người không đáp lại một lời”: Tại sao Chúa Giêsu lại cỏ vẻ thờ ơ và vô tình với một người mẹ đang đau khổ như thế? Và câu 26: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”: Có phải Chúa Giê-su có ý khinh miệt người phụ nữ Ca-na-an này không? Các nhà chú giải Thánh Kinh đều trả lời rằng: Chúa Giê-su không thờ ơ cũng chẳng khinh miệt người phụ nữ Ca-na-an mà chỉ có ý thử thách và đề cao lòng tin của bà ấy mà thôi. Tìm hiểu sâu hơn về bối cảnh và sứ điệp của Phúc âm Mát-thêu, chúng ta biết thêm rằng Mát-thêu chép Phúc âm trước hết là cho người Do Thái. Chính vì thế mà tác gỉa nhấn mạnh và đề cao quyền ưu tiên của người Do Thái là dân riêng của Yavê Thiên Chúa: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” Nhưng nhiều lần tác gỉa cũng cảnh cáo người Do Thái về sự cứng lòng của họ khi họ từ chối đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa là chính Chúa Giê-sụ. Có thể hình dung ra hàm ý của Mát-thêu muốn với người Do Thái như vầy: Các anh chị hãy coi chừng! những kẻ mà các anh chị khinh miệt (người Do Thái gọi những người dân ngoại là chó) lại chính là những người tin nhận Chúa Cứu Thế và được Người yêu thương và chúc phúc hơn các anh chị bội phần! Ví dụ cụ thể trong trường hợp này là người đàn bà ngoại đạo xứ Ca-na-an đã được Chúa Giê-su khen ngợi một cách rất đặc biệt: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Có lời khen ngợi nào ngọt ngào làm mát lòng mát dạ hơn lời khen ngợi trên của Chúa Giê-su không? Hiểu như thế chúng ta sẽ thấy rằng Chúa Giê-su không hề có thái độ thờ ơ hay miệt thị đối với người mẹ tin tưởng cầu cứu Người chữa cho con mình. Trái lại chúng ta có thể nói Chúa Giê-su ngưỡng mộ lòng tin và sự kiên nhẫn của bà nên đã làm theo ý bà ấy.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 21-28 dạy chúng ta điều gì?
(1o) Trước hết, cũng như nhiều đoạn Phúc âm của các Chúa nhật trước, Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta biết Chúa Giê-su là Đấng đầy lòng yêu thương và đầy quyền năng. Vì quyền năng nên Chúa Giê-su dẹp tan hành động ám hại của quỷ trên người thiếu nữ. Vì yêu thương và quyền năng Người mới giải thoát người thiếu nữ khỏi bị quỷ ám và đem lại bình an cho bà mẹ đang đau khổ vì con.
(2o) Kế đến Lời Chúa hôm nay dậy chúng ta về lòng chung thủy tôn trọng lời cam kết của Thiên Chúa đối với dân Do Thái là dân đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng của Người. Giữa Thiên Chúa và dân ấy đã có một giao ước. Vì giao ước ấy mà Thiên Chúa dành nhiều ưu tiên hay đặc ân cho họ. Nhưng tiếc rằng là rất nhiều người Do Thái đương thời và thuộc các thế hệ sau đã không nhận ra đặc ân ấy.
(3o) Sau cùng Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải biết chạy đến và kêu cầu Chúa Giê-su với lòng khiêm nhường, tin tưởng và nhẫn nại. Cách kêu xin và lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an là tấm gương cho mọi người noi theo.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
(1o) Lời Chúa hôm nay cho tôi biết thêm về quyền năng và lòng yêu thương của Chúa Giê-su Ki-tô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Tôi quyết tâm phó thác cuộc đời, gia đình, sự nghiệp và tương lai của tôi và của những người thân yêu của tôi cho Chúa. Nhất là những khi tôi và những người thân của tôi gặp khốn khó, buồn phiền, tôi sẽ nhanh chân chạy đến khẩn cầu Chúa Giê-su với lòng khiêm nhường tin tưởng và kiên trì nhẫn nại.
(2o) Lời Chúa hôm nay còn dạy cho tôi biết rằng tôi cũng thuộc về dân riêng của Chúa vì tôi đã được gia nhập vào Giáo hội là dân mới qua giao ước mới nơi/nhờ Chúa Giê-su Ki-tô. Tôi quyết tâm yêu mến và trân trọng nhiều hơn nữa những hồng ân mà Chúa đã ban cho tôi. Tôi sẽ tăng cường việc học hỏi Lời Chúa và Giáo Lý và tăng thêm việc làm cụ thể nhằm phục vụ tha nhân để thể hiện tư cách, ơn gọi và sứ mạng Ki-tô hữu của tôi cách rõ rệt hơn nữa.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Con xin phó thác cuộc đời, gia đình, sự nghiệp, tương lại của con và của những người thân của con cho Chúa. Xin Chúa hãy chúc phúc, bảo vệ, chở che và ban sức mạnh cho con và cho những người thân ấy.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Chung quanh con có rất nhiều người đang gặp cảnh khổ đau, chán nản và thất vọng. Họ không biết chạy đến với Chúa hoặc họ đã chạy đến với Chúa mà không đủ lòng tin và sự nhẫn nại. Con tha thiết nài xin Chúa hãy đoái thương ban ơn trợ giúp cho những người ấy để họ được bình an và hạnh phúc như ý Chúa muốn.
Gs. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Atchison, Kansas, ngày 28 tháng 07 năm 2005.
------------------------------------------
Trước Công đồng Vatican II, những người tín hữu có đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng: TN 20-A29
Trước Công đồng Vatican II, những người tín hữu có đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng không chịu ăn năn trở lại, khi chết thường bị các cha sở cấm không cho chôn cất trong nghĩa trang của nhà thờ, vì nghĩa trang Công giáo là phần đất đã được thánh hiến, chỉ dành cho những người tín hữu có đời sống xứng đáng mà thôi.
Có một ông cụ già sống bê bối về luân lý, say sưa cờ bạc, ăn ở lung tung… Khi chết, cha sở ra lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài hàng rào của nghĩa trang trong xứ. Sau nhiều năm, cha sở đã đổi đi nơi khác, người con gái của ông già trở về nhà thờ cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện cho ông. Bà đi kiếm mộ cha mình ở bên ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy. Bà đành phải đi tìm người trông coi nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Người trông coi nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của thân phụ, nhưng đã nằm ở bên trong hàng rào nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông lại dời mộ của thân phụ tôi?” Người trông coi nghĩa trang mỉm cười trả lời: “Chúng tôi đã không dời mộ của ông cụ, nhưng vì bên trong nghĩa trang không còn đủ chỗ chôn cất nữa, nên phải mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà thôi”.
Đây là điều Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc âm hôm nay, khi chữa bệnh cho con gái của người đàn bà xứ Canaan. Người đàn bà Canaan đến với Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới do sự kỳ thị phân biệt của xã hội.
Đối với những người Do thái, sự trong sạch và nhơ bẩn được phân định rõ ràng. Nếu là người Do Thái và biểu tỏ đức tin qua việc giữ luật Do Thái, người đó được coi là trong sạch. Nếu là ngoại kiều, hay là Do Thái mà không tuân giữ luật lệ Do Thái, đó là người dơ bẩn. Sự phân định ranh giới này rất đơn giản và rõ ràng !
Có hai điều làm cho người đàn bà xứ Canaan bị loại trừ trong bậc thang phân định giá trị của người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc âm Mt 14, 13-21, Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều cho 5000 người ăn uống no nê, “không kể đàn bà và trẻ con”. Đàn bà và trẻ con không được kể đến, coi như không có giá trị. Hôm nay một lần nữa, thánh Matthêu nói đến người đàn bà xứ Canaan, mà không nhắc đến tên của bà. Điều này có ý nghĩa. Chắc chắn bà phải có tên. Nhưng không được nhắc đến tên chứng tỏ bà đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại trừ.
Điểm thứ hai, bà là người dân ngoại xứ Canaan. Đối với người Do Thái, dân ngoại là xấu. Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên người Do Thái, còn xấu hơn nữa. “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Chúa Giêsu đã sử dụng phong tục và lối nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh những người dân ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng chiều và quý trọng chó như xã hội tây phương thời nay. Gọi ai bằng chó là một điều sỉ nhục. Vì chó liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh truyền nhiễm như trong câu chuyện người phú hộ và ông Ladarô.
Theo William Barclay, bởi lòng kiêu căng, người Do Thái đã gọi dân ngoại là “những con chó ngoại đạo”, “những con chó vô tín ngưỡng”. Sau này họ gọi những người theo Kitô giáo là “những con chó Kiô hữu”. Một sự diễn tả đầy khinh bỉ! Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi, vị thánh của người An Độ giáo, ông kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh, ông đã đọc Phúc Am và nhìn thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu câu trả lời cho vấn nạn lớn lao của người dân An Độ phải giải quyết với chế độ đẳng cấp. Đang khi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một buổi sáng Chúa nhật, Gandhi bước vào nhà thờ với ý định sẽ bàn thảo với mục sư về tư tưởng của mình. Tuy nhiên, vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn chỗ ngồi đã từ khước không tìm chỗ và đề nghị ông nên bước ra ngoài đi đến nhà thờ dành riêng cho giai cấp của ông. Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ trở lại nữa. Sau này ông nói: “Nếu những người Kitô hữu cũng có những đẳng cấp khác nhau, thì tốt hơn tôi nên ở lại với An Độ giáo”. Vì sự kỳ thị và phân biệt mà người đàn bà Canaan và ông Gandhi đã bị loại trừ. Nhưng Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy rằng ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới của con người dựng nên.
------------------------------------------
Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi: TN 20-A30
Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả”. Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui đùa trên bãi biển.
Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”.
Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.
Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng mà sống hoà thuận với hết mọi người như những người con một Cha trên trời”.
Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, Công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người Công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất”.
Đối với những anh chị em ly khai, Công đồng Vatican II nói: “Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”.
Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút ra được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin.
Trong cuốn truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu chuyện của một bà lão đang bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà đến bàn luận vấn đề này với linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau.
Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức tin của bà chắc chắn hơn bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người láng giềng cho thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin của bà càng trở nên mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã thử nghiệm và thấy có kết quả.
Linh mục Mark Link S.J., trong bài giảng Chúa nhật XX hôm nay, đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer, trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính trọng Cuộc Sống” như sau:
“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không ? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không ? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.
Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy bắt chước người đàn bà Canaan, đến với Chúa Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi người, muốn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở rộng tâm hồn để chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập trường chính trị, văn hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
------------------------------------------
Cuộc sống hiện tại có quá nhiều đòi hỏi làm chúng ta đến mệt và không biết làm thế nào để bổ: TN 20-A31
Cuộc sống hiện tại có quá nhiều đòi hỏi làm chúng ta đến mệt và không biết làm thế nào để bổ sung lại sức lực của chúng ta. Trong thế giới chúng ta đang sống tiến triển quá nhanh, những bổn phận về gia đình, công ăn việc làm và cộng đồng của chúng ta đặt ra nhiều đòi hỏi nặng nề trên chúng ta.
Hãy thử nghĩ lại coi đã bao lâu rồi chúng ta có được một buổi tối êm đềm thảnh thơi không làm gì cả. Một buổi tối thong thả; một buổi tối chỉ ngồi đấy mà thôi; một buổi tối để chỉ cho mình ta mà thôi. Nhiều người trong chúng ta chắc không thể nhớ được buổi tối như thế nữa rồi. Ngay khi chúng ta về nhà, thì đã có tất cả mọi điều chúng ta phải làm trong tâm trí chúng ta rồi. Và bạn ngồi xuống và cảm thấy bối rối vì bạn đã không làm gì cả.
Tại San Francisco, một nhà quàn quảng cáo phía trước nhà: "Tại sao lại phải đi vòng quanh, những kẻ gần chết, khi mà chúng tôi có thể chôn cất bạn chỉ tốn có 98 đồng mà thôi?" Đấy đúng là một bảng quảng cáo oái oăm sắc bén, bởi vì rất nhiều người trong những ngày gần đây sẵn sàng đón nhận lời đề nghị này. Thế nhưng còn một cách thức hay hơn để hỏi câu hỏi này. Và những ký giả Thánh Kinh, mỗi người trong chính cách thức riêng, hỏi đi hỏi lại chúng ta: "Tại sao bạn lại đi vòng quanh, những kẻ sắp chết, khi mà có phương pháp bổ sung sức mạnh của bạn?" Các bạn coi, một phần trong Tin Mừng Kinh Thánh chính là Thiên Chúa không chỉ tạo dựng chúng ta rồi bỏ rơi chúng ta. Thiên Chúa Đấng tạo dựng chúng ta thì luôn luôn ở với ta, luôn luôn củng cố sức mạnh cho chúng ta thực thi những gì cần được thực hiện.
Kinh nghiệm tôn giáo chân chính khởi đầu từ với ý thức quan trọng và tuyệt diệu về Sự Hiện Hữu của Thiên Chúa Hằng Sống. Thế nhưng rất thông thường nó đi đến chỗ thói quen. Người ta thấy chính họ máy móc đọc đi đọc lại cùng những lời kinh, hát cùng những bài ca và làm cho có lệ cùng những nghi thức cho đến lúc kinh nghiệm tôn giáo trở nên vô hồn và Thiên Chúa Hằng Sống không còn cảm thấy như là thực sự nữa. Đấy chính là những gì đang xảy ra cho nhiều người trong chúng ta. Chúng ta mất đi ý thức tuyệt diệu về Sự Hiện Hữu của Thiên Chúa Hằng Sống. Và bởi vì cảm nghiệm của ta về Thiên Chúa Hằng Sống trở nên lỗi thời han rỉ, chúng ta trở nên lỗi thời han rỉ về thiêng liêng.
Chúng ta hãy nhìn xem cuộc đời của nhà bác học Hoa Kỳ, George Washington Carver, người đã cách mạng hoá nông nghiệp của Miền Nam. Carver, với nhiều việc vĩ đại khác, đã phát minh ra hơn 300 sản phẩm khác nhau từ đỗ lạc, và 75 sản phẩm từ quả hồ đào. Nhà bác học Carver thức dậy mỗi buổi sáng và quỳ cầu nguyện. Và chủ đề cho lời kinh nguyện của ông luôn chỉ là những lời này: "Chú Ý!" Hãy lắng nghe Thiên Chúa đang nói! "Chú Ý! Nhìn coi có thấy gì? Sự vật mới gì?" Một lần, khi ông có cuộc kết hiệp này với Thiên Chúa, ông có một củ khoai lang trong tay. Và Thiên Chúa nói, "Hãy chú ý, George Washington Carver, con có gì hả?" Ông trả lời, "Lạy Chúa, một củ khoai lang." Và Thiên Chúa nói, "Con có thể làm gì với nó?" "Con có thể bỏ lò nướng nó, chiên nó, và có thể giằm nát nó ra." "Con còn có thể làm gì với nó nữa, George Washington Carver? Hãy chú ý!" Và ông đi đến chỗ suy tư và tự hỏi. Nếu các bạn đến viếng thăm Tuskegee Institute tại tiểu bang Alabama, họ sẽ chỉ cho bạn thấy những mẫu thử của 118 cách thức được sử dụng từ khoai lang thông thường. Và tất cả bởi vì ông đã sống với tinh thần cầu nguyện công khai để củng cố sức mạnh trước Sự Hiện Diện của Thiên Chúa Hằng Sống.
Thiên Chúa chúng ta chính là Thiên Chúa Hằng Sống. Ngài không bao giờ ngừng và nói với ta: "Giờ đây chúng ta đã hoàn thành!" Nó luôn luôn chính là chuyển động tiến tới trong tương lai. Nó luôn luôn chính là Sự Hiện Diện của Ngài với chúng ta tại lúc này, đang làm một sự vật gì đó mới mẻ. Chúng ta có thể đang trong vực thẳm của sự thất vọng, và chúng ta có thể cảm thấy mình đang bị khuất phục, thế nhưng Thiên Chúa tiến vào, và ánh sáng đã rọi chiếu qua, và niềm hy vọng cũng như sức mạnh cùng với việc cứu chữa đã đến.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, một người phụ nữ xin Chúa Giêsu giúp đỡ. "Xin hãy thương đến tôi, Lạy Ngài, Con Vua Đavít," bà nài nỉ. "Con gái tôi bị quỉ ám dữ dội" (Mt 15:22). Các môn đệ cố đẩy bà ra xa nhưng bà không quản ngại và gan lì kêu to hơn. Bà quỳ lạy trước Chúa Giêsu, và nói, "Lạy Ngài, xin hãy thương giúp tôi!" Tâm hồn bà đã mở rộng cho Sự Hiện Diện quyền năng của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Bà tin rằng Thiên Chúa sẽ tiến vào và sự cứu chữa sẽ đến. Rồi bà nghe câu trả lời của Chúa Giêsu: "Hỡi bà, đức tin bà thật vĩ đại!" (Mt 15:28). Và con gái bà đã được chữa lành ngay lập tức.
Nếu các bạn cảm thấy tinh thần của mình bị giảm sút trong những ngày này, hãy mở rộng tâm trí và linh hồn các bạn cho Sự Hiện Hiện quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống trong Chúa Giêsu Kitô. Những kẻ sắp chết, tại sao phải đi vòng quanh, khi mà có một phương thế bổ sung sức mạnh các bạn? Hãy thưa với Chúa Giêsu, "Lạy Chúa, xin hãy thương giúp con! Xin giúp con cảm nghiệm sự hiện diện quyền năng của Chúa!"
------------------------------------------
Mt 15,21-28
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu đáp lại lời xin của một phụ nữ Canaan. Có một số điểm đáng ta lưu ý: 1. Về thân: TN 20-A32
Chúa Giêsu đáp lại lời xin của một phụ nữ Canaan. Có một số điểm đáng ta lưu ý:
1. Về thân phận của bà này: Bà là một người bị xã hội do thái khai trừ vì bà vừa là phụ nữ vừa là người ngoại.
2. Về sự thử thách mà bà gặp phải: thân phận bị khai trừ, Chúa Giêsu lại làm ngơ trước lời bà xin, lại còn nói nặng ví bà là chó. Nhưng bà đã kiên trì vượt qua mọi thử thách ấy.
3. Kết quả: Chúa Giêsu khen bà “có lòng tin mạnh”, và còn nói “bà muốn sao thì được vậy”.
B.... nẩy mầm.
1. Có thể khẳng định rằng không ai không gặp thử thách về đức tin. Chính Chúa Giêsu muốn thế. Người phụ nữ này bị thử thách đức tin rất nặng. Vậy khi đức tin ta bị thử thách, ta đừng nản lòng, vì đó là chuyện phải có thôi, chẳng sớm thì muộn.
2. “Xin Thầy thương (mà ban ơn) để cho bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”:
- Ý nghĩa thái độ của các môn đệ: làm ơn không phải vì thương mà vì để khỏi bị quấy rầy nữa. Phần Chúa Giêsu thì chẳng những muốn ban thứ ơn mà bà xin, mà còn muốn ban thêm một ơn quý trọng hơn nữa là chính đức tin.
- Khi tôi xin Chúa ơn gì mà Chúa chậm ban, tôi hãy tự nghĩ: tôi muốn Chúa ban ơn cho nhanh để Chúa khỏi bị quấy rầy nữa, hay thà chậm một chút nhưng được thứ ơn quý hơn ơn mà tôi xin.
3. “Muốn sao thì được vậy”: quả là một ơn ban vô cùng to lớn. Ai mà không mong mình muốn sao được vậy. Chúa Giêsu sẵn lòng ban cho ta ơn này miễn là chúng ta có đức tin mạnh.
4. “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26)
Đọc xong đoạn Phúc Âm, một bạn trong nhóm nói: “Có những lúc mình cảm thấy Chúa thử thách mình quá đáng !” Tôi cũng đã có lúc như vậy. Những lúc ấy tôi đã nổi giận, đã nghĩ: chẳng cần Chúa nữa. Và mỗi lúc tôi càng cảm thấy thất vọng. Phải, tôi đã không có được sự tin tưởng, phó thác của người đàn bà dân ngoại.
Lạy Chúa, Chúa thử thách để lòng tin của con mạnh mẽ. Với lòng tin mạnh mẽ, con mới có thể làm được mọi điều thiện hảo. (Hosanna)
5. ‘Vâng lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”: người phụ nữ này chẳng những có đức tin mà còn có lòng khiêm tốn. Khi xin thì phải có sự khiêm tốn kèm theo. Xin người ta và xin những thứ vật chất mà còn phải khiêm tốn, huống chi xin Chúa và xin những ơn siêu nhiên.
6. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. (Mt 15,28)
Một lần nọ, tôi cùng nhóm bạn trò chuyện. Chúng tôi nói về sự sống và cái chết. Câu chuyện mỗi lúc một căng thẳng, mọi người tranh cãi kịch liệt. Khi tôi nói: “Con người chết đi mai mốt tới ngày tận thế sẽ sống lại”, thì một số bạn bật cười và cười một cách diễu cợt. Tôi muốn biện bạch cho lời nói của mình nhưng không thể vì họ còn mãi cười. Có điều làm tôi rất buồn là thấy có cả những người đồng niềm tin với tôi cũng cười. Tôi không hiểu vì sao họ cười, có lẽ vì bè bạn cười chăng, vì sợ quê lây với tôi hay vì tự bản thân họ cho đó là phi lý... Niềm tin của chúng ta như thế có đúng chưa ? Người đàn bà dân ngoại còn hơn tôi và bạn, một mình bà chạy đến với Chúa Giêsu mà tuyên xưng niềm tin của mình cho dù xung quanh là những người xa lạ, chưa quen hoặc chưa tin vào Chúa. Hình ảnh về người đàn bà dân ngoại và hình ảnh về những người bạn ấy giúp tôi suy nghĩ lại niềm tin của chính mình. Tôi đang tin vào ai hay tin vào cái gì ? (Hosanna)
Lạy Chúa, xin củng cố niềm tin của con, xin thêm sức để con biết sống niềm tin ấy ở giữa anh em. (Hosanna)
7. Mầm khác:
------------------------------------------
Trong lịch sử của mọi thời đại, cũng như trong thực tế cuộc đời, biết bao người vì chút lợi danh: TN 20-A33
Trong lịch sử của mọi thời đại, cũng như trong thực tế cuộc đời, biết bao người vì chút lợi danh, mà phải qụy lụy cầu thân nịnh bợ, để mong đạt được điều địa vị, bạc tiền. Có khi họ tự an ủi: ”Tránh voi chẳng xấu mặt nào”, hoặc trơ tráo hơn: ”Thời thế, thế thời thời phải thế”. Việt Câu Tiễn nuôi chí phục thù, chẳng những nằm gai nếm mật, sai Phạm Lãi ngày ngày đánh roi để nhắc nhở mối hận phải trả, mà còn dám nếm cả phân của Ngô Phù Sai để đoán bệnh, nhờ đó mà qua mắt địch quân, để rồi khi thời cơ đến, đã trả được mối thù nước mất nhà tan.
Con người với nhau, trước lợi danh hoặc khi nhắm một đích nào đó, đã biết ẩn nhẫn, kiên trì và chấp nhận mọi thử thách gian nan, kể cả nhục nhã ê chề nhất, để có được điều hằng tâm niệm. Được bao nhiêu Ki-tô hữu không buông xuôi, khi mà lời cầu xin dường như chẳng được đoái nghe, khi phải nín chịu bao điều có vẻ đáng bất bình, đụng chạm đến phẩm giá và địa vị cá nhân, mà lời ước nguyện xem ra vẫn mịt mù ? Bài học Tin Mừng hôm nay phải mở mắt cho chúng ta.
Người đàn bà này không phải là người Do Thái, mà là dân Si-rô Phê-ni-xi, nghĩa là “dân ngoại”. Nhiều thành kiến hiện hữu giữa dân ngoại và dân Do Thái. Hai nhóm này có khuynh hướng loại trừ nhau. Khi bà kêu cứu Chúa Giê-su, thì Người đã thử thách rất căng bà khi trưng dẫn thứ thành kiến phân biệơ2 của người đời để vờ từ chối chữa bệnh cho con gái bà. Câu Chúa Giê-su trả lời với người phụ nữ thật chua chát: ”Hãy để con cái ăn no nê trước đã, vì không có lý nào lấy bánh của con cái mà vứt cho lũ chó con”.
Trước một câu từ chối thẳng thừng và những lời lăng mạ nặng nề từ miệng Chúa Giê-su, bất cứ ai cũng chán nản, bực bội, tức giận mà bỏ đi, chưa kể là có người sẽ gây sự “ăn miếng trả miếng”, bởi người ta có quyền từ chối giúp đỡ, nhưng không có quyền lợi dụng hoàn cảnh và thế bí của người khác, để lăng mạ ! Chỉ có người mẹ và tình thương của bà đối với con cái, đã khiến bà hiểu thế nào là “tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, ngũ lục đèo cũng qua”, để con gái được lành.
Người phụ nữ ấy đã không tuyệt vọng bỏ đi. Bà không đôi co tranh luận. Nhưng ai cũng đọc được trong câu nói của bà sự tủi hờn đau khổ: ”Vâng thưa Thầy ! Và lũ chó con ở dưới bàn ăn các vụn bánh của con cái”. Bà lấy lại ngay cái lý do mà Chúa Giê-su dùng, để biện minh cho lời cầu xin của mình. Bà hạ mình thấp nhất, chấp nhận so sánh thấp hèn đối với Bà và đứa con gái yêu dấu: chó cái và chó con.
Chúa Giê-su ngạc nhiên. Người bảo: "Này bà, Lòng Tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy". Và Người chữa lành con gái của bà. Người phụ nữ này đã đóng một vai trò quan trọng trong việc rao giảng của Chúa Giê-su. Bà cho Người hiểu rằng lời kêu gọi của Người đã vượt các biên giới tôn giáo và chính trị chia cắt Pa-lét-tin. Bà cho Người nhận thấy rằng Nước Trời được loan đi cho mọi người bất kể thuộc tôn giáo, giới tính hay nền văn hoá nào, không được loại trừ một ai.
Nhưng trên hết, Chúa Giê-su muốn “dìm” nhân phẩm của bà tận đáy bùn, để rồi lại tôn vinh Lòng Tin của bà và dùng câu chuyện này để dạy ta nhiều bài học quý giá: Trước hết, đó là bài học về Đức Tin và lòng kiên trì, bởi vì đức tin luôn phải được thử thách và tinh luyện, ”lửa thử vàng, gian nan thử đức”, cũng còn phải nói thêm: “thức lâu mới biết đêm dài”.
Kế đến, hành động và lời cầu nguyện của chúng ta phải xuất phát từ ý ngay lành, từ một động cơ vô vụ lợi, vì tình yêu thương và tình bác ái.
Sau cùng, đừng quên rằng mỗi việc làm của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ảnh hưởng đến tha nhân, và vì thế, lời cầu nguyện của chúng ta dành cho tha nhân cũng mang lại ơn ích cho họ. Tín điều “các thánh thông công” xuất phát từ căn bản Đức Tin này. Hẳn chúng ta sẽ không từ chối nài nỉ và kiên trì trong cầu nguyện, để được Chúa nhận lời chúng ta cầu xin cho người khác, cho cha mẹ, con cái, anh em, bạn hữu và cả kẻ thù, bởi vì “lũ chó con” còn biết thương yêu, đùm bọc và mong muốn sự lành cho nhau, thì con cái Chúa phải hành xử ra sao cho phải đạo ?
“Chịu đấm ăn xôi”: Ai chẳng muốn mọi sự được mau mắn, thuận lợi, nhưng kinh nghiệm cuộc đời dạy ta rằng rất ít khi điều mong ước được “thuận buồm mát mái”, mà chẳng phải qua bao cay đắng, ê chế nhục nhã. Trước người đời, lắm khi ta còn phải nhẩn nhục, thì tại sao ta lại chóng tuyệt vọng, mau bất mãn rồi bỏ cuộc, khi Chúa thử thách ta ? Người ăn xin phải chịu bao xỉ vả, phải tranh giành cãi cọ, phải chịu cả những nắm đấm đầy ganh ghét, cũng chỉ mong có được và bảo vệ được miếng xôi.
Phải chăng chúng ta luôn tự đặt mình lên cao, quá cao, – vào hàng “cậu ấm cô chiêu” – luôn ăn bánh ngon, luôn “phải” nhận được những ơn lành hồn xác như một sự đương nhiên, chứ không thể chấp nhận làm “lũ chó con”, xì xụp lạy lục cầu xin ơn phúc, cho dù đó là Ơn Phúc Chúa ban và cho dù chúng ta đang tội lỗi, còn tệ hơn cả quỷ ám, chỉ đáng chịu hình phạt ?
Cậu ấm cô chiêu danh giá hay lũ chó con hèn hạ, thì có một chân lý không cho phép ai được lãng quên: “Các con đã và chỉ nhận nhưng-không”. Nếu tiếp tục suy nghĩ và thái độ vô ơn, thì rồi đã chắc gì có “xôi” để cho ta được xin “chịu đấm”, hầu mong có mà ăn !
CVK 62 NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 113
Chuyện: CHIẾC BONG BÓNG BAY
Câu chuyện được thuật lại xảy ra tại vùng Nam nước Ý, nơi dân chúng không được sung túc cho lắm, so với những vùng khác. Câu chuyện trên mang tựa đề là: "Chiếc bong bóng bay màu hồng". Chiếc bong bóng này là kết quả của sự góp nhặt và tiết kiệm từng xu của Beppo, một em bé lên tám. Hôm ấy, trong lúc các trẻ đồng tuổi cắp sách đến trường, Beppo trốn học, chạy nhanh lên ngọn đồi để thả chiếc bong bóng màu hồng bay lên không trung. Cùng với chiếc bong bóng, Beppo cẩn thận cột bức thư nó đã nắn nót viết từng chữ như sau:
"Chúa ơi, vài tuần nữa con sẽ có một đứa em. Gia đình con đã có sáu anh em, nhưng cha mẹ con nghèo lắm. Nhà cửa chật chội và không có đủ giường chiếu, nên chúng con phải ngủ chung ba đứa một giường. Lần này con không xin gì cho con, nhưng con xin Chúa cho đứa em sắp sinh của chúng con một ít quần áo và tã, quần áo xài rồi cũng được. Nhà con ở làng Arcol miền Nam nước Italia. Con tên là Beppo Sala". Sau khi thả chiếc bong bóng hồng mang bức tâm thư lên trời, Beppo đứng ngước mắt nhìn lên trời mãi đến khi chiếc bong bóng mất hút trong đám mây, nó mới thơ thẩn đi về nhà...
Những ngày sau đó là những ngày tháng hồi hộp nhất đời của Beppo. Nhưng nó vẫn tiếp tục hy vọng và cầu nguyện. Sáu ngày nặng nề trôi qua, nhưng một buổi kia, lúc đang chơi với các trẻ khác cùng xóm, Beppo thấy người giao bưu phẩm mang vào nhà một thùng quà. Nó hồ hởi chạy nhanh về và nghe cha nó đang lớn tiếng cãi vã với nhân viên bưu điện: "Chắc anh lầm rồi, tôi đâu có quen ai ở thành Rovigo. vả lại chúng tôi đào đâu ra tiền để mua quà cáp". Người giao bưu phẩm phân trần: "Món hàng đề tên và địa chỉ nhà ông, nếu không phải gửi cho ông thì còn gửi cho ai nữa ? Ông nhận nhanh lên, tôi còn phải đi giao nhiều món hàng nữa chứ có phải chỉ có thùng này thôi đâu". Cha của Beppo trả lời: "Thôi đi ông ơi, nhận hàng không phải của mình để rồi sau đó mang họa, làm gì có tiền mà bồi thường".
Thấy câu chuyện dai dẳng, Beppo bạo phổi nói xen vào: "Thì cha cứ mở ra xem thử, nếu không phải là của mình thì mình gói trả lại". Thùng đồ được mở ra, thấy toàn đồ cho trẻ sơ sinh. Nào tã, nào những chiếc áo nhỏ tí ti, nào những băng rốn. Người gửi không quên gói vào hai hộp phấn và một lố những chiếc kim tây. Mắt của mẹ Beppo bừng sáng lên. Beppo cảm thấy vui như ngày tết, vui nhất là người gửi đồ không đề địa chỉ nên không thể gửi trả lại. Nó chạy nhanh ra ngọn đồi, nơi nó thả chiếc bong bóng màu hồng sáu ngày trước đây. Đến nơi nó ngước mắt nhìn trời, miệng thì thầm: "Chúa ơi, con cám ơn Chúa"...
Trích “365 câu chuyện cùng đọc và suy gẫm”
------------------------------------------
Cầu nguyện có thể coi là việc quan trọng nhất của đời ta: ta cần được cứu rỗi, và chính Chúa đã: TN 20-A34
Cầu nguyện có thể coi là việc quan trọng nhất của đời ta: ta cần được cứu rỗi, và chính Chúa đã đoan chắc “xin thì sẽ được”, vậy ta phải cầu xin, để Chúa ban phần rỗi đời đời cho ta.
Cầu nguyện là gì?
Mỗi lần ta nhắc lòng trí ta lên với Chúa là cầu nguyện, khi làm bất cứ công việc gì, ta dâng lên Chúa, cũng là cầu nguyện. Tuy nhiên cầu nguyện đúng nghĩa có 4 hình thức như sau: Ngợi khen, thống hối, cảm tạ và xin ơn.
Chúa Giêsu dạy ta phải cầu nguyện, và nhất là phải kiên nhẫn cầu nguyện.
Chúa nói dụ ngôn một vị quan tòa, gặp một bà góa cứ kiên nhẫn đến xin ông xử, tuy là một quan tòa độc ác, nhưng vì sự kiên nhẫn của bà ta, thì vị quan tòa này phải xử cho xong, để bà khỏi quấy rầy. Rồi chính trong bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe, Chúa Giêsu cho người con gái một người đàn bà Syrophénicienne được khỏi bệnh, vì chẳng những lòng tin bà mạnh mẽ, mà nhất là do lòng kiên nhẫn của bà: ban đầu Chúa có nói những lời nặng nề, khắt khe, quá đáng để thử lòng kiên nhẫn của bà, và rồi vì kiên nhẫn, nên bà đã đạt kết quả mong muốn.
Bất cứ vị tử đạo nào cũng đã cầu nguyện và kiên nhẫn cầu nguyện nho tới giây phút các ngài bị điệu ra pháp trường để lãnh nhận trìu thiên tử đạo.
Lòng kiên nhẫn sẵn sàng chịu chết, cũng như tinh thần kiên nhẫn cầu nguyện đã được biểu lộ trong cuộc tử đạo của Thánh Giuse Vũ Duy Hiển (tử đạo ngày 9-5-1840, 71 tuổi). Trước khi đi xử, Cha Giuse Hiển được gọi ra tòa lần chót, quan hứa sẽ trả tự do cho người, nếu chịu khóa quá. Cha Giuse điềm nhiên đáp: “Xin quan đừng nói đến vấn đề này nữa.” Thấy vậy, quan truyền cho lính đặt Thánh giá trước mặt Cha và thả hai con voi rất lớn, để Cha sơ mà phải bước qua Thánh giá nếu muốn tránh hai con vật. Kế hoạch của các quan vẫn không có kết quả, vì mặc dầu Cha có sợ con vật song không bước qua Thánh giá, chỉ né tránh sang một bên. Thái độ này khiến con vật quấn vòi vào rồi đứng lại. Bấy giờ Cha áng kính nói trước tòa: “Tôi đã thưa với ngài nhiều lần rằng: tôi muốn chết hơn là bước qua ảnh Thánh tôi thờ, đã đến lúc tôi được như lòng mong ước, xin quan thi hành theo lệnh vua, và đừng mất thời gian nữa.” Trịnh Quang Khanh nghe nói tức giận lắm, lệnh cho Cha Giuse phải ra pháp trường ngay.
Cha Giuse mang gông rất nặng đi giữa một toán lính, vừa đi vừa cầu nguyện và cảm tạ Chúa cho tới lúc bị chém đầu.
Đang khi bị giam, Thánh Giuse Hiển vẫn dạy đạo và rửa tội được một số tân tòng, khuyên nhủ các tín hữu trung kiên xưng đạo. Thánh nhân dùng thời giờ ở trong ngục vẽ những hình Thánh giá, để khi giáo dân đến thăm, ngài pháp cho mỗinư một hình, khuyên họ cung kính, cầu nguyện và xin ơn sống kiên nhẫn giữ đạo đến cùng. Việc làm của thánh nhân gây nên một phong trào tôn sùng Thánh giá, nhiều người đến xin ảnh Thánh, nhưng vì số ảnh có hạn, nên một giáo dân có sáng kiến làm một Thánh giá nhỏ bằng gỗ rất đẹp rồi dùng mực in Thánh giá này trên hiều mảnh vải nhỏ, cung cấp cho Thánh nhân nhiều ảnh để làm thỏa mãn lòng sốt sắng của mọi người đến thăm Cha.
Vì từ chối không chịu đạp lên Thánh giá, quan biểu đánh Cha 40 rọi, tiết đông giá rét làm những vết roi thêm tê buốt.
Việc khuyên thầy Tôma Toán trở lại với Chúa, đến tao Trịnh Quang Khanh, ông phẫn nộ truyền giam Cha Giuse vào một ngục rất chật hẹp và để thầy Tôma một mình đường đầu với những thử thách mới. Song không vì thế mà Cha giuse bỏ nhiệm vụ truyền giáo.
Cha Giuse được gọi ra tòa nhiều lần, lần nào Cha cũng hỏi Cha chính Vọng ở đâu, và ép Cha bước qua Thập giá. Cha hỏi: “Đã từ lâu tôi không được tin về cha bề trên của tôi, còn việc bước qua Thánh giá, thì tôi xin nói rõ cho quan biết, tôi là Linh mục hằng rao giảng sự Tôn sùng Thánh giá, thì ls nào tôi lại xúc phạm đến ảnh Thánh này được. Tôi đã cương quyết và chỉ mong được chết vì Đấng mà tôi đã yêu mến hết lòng.” Những lời nói chân thành của Cha chỉ làm cho quan thêm tức giận, đánh đòn Cha và bắt Cha chịu nhiều thứ khổ hình. Vào một ngày giá rét mùa đông lính lột trần truồng Cha, bắt Cha tắm nước lạnh rất lâu khiến Cha suýt chết cóng. Sau cùng, các quan lên xử tử, và bản án được gởi vào kinh xin vua châu phê. Ngày 9 tháng 5, bản án trở lại nam Định và quan được lệnh phải thi hành tức thời.
Trước khi đi xử, Cha Giuse và thầy Tôma được gọi ra lần chót, quan hứ sẽ trả tự do cho hai vị và hủy bản án tử hình, nếu chịu khóa quá. Cha Giuse điềm nhiên đáp: “Xin quan đừng nói đến vấn đề này nữa.” Thấy vậy, quan truyền cho lính đặt Thánh giá trước mặt hai đấng tử đạo và thả hai con voi rất lớn, để hai vị sợ mà phải bước qua Thánh giá nếu muốn tránh hai vật. Kế hoạch của các quan vẫn không có kết quả, vì mặc dầu các vị anh hùng có sợ hãi con vật song không bước qua Thánh giá, chỉ né tránh sang một bên. Thái độ này khiếnhai con vật quấn vòi vào rồi đứng lại. Bấy giờ Cha đáng kính nói trước tòa: “Tôi đã thưa với ngài nhiều lần: tôi muốn chết hơn là bước qua ảnh Thánh tôi thờ, đã đến lúc tôi được như lòng mong ước, xin quan thi hành theo lệnh vua, và đừng mất thời gian nữa.” Trịnh quang Khanh nghe nói tức giận lắm, lệnh cho cha Giuse phải ra pháp trường ngay, còn thầy Tôma được dẫn về ngục.
Cha Giuse mang gông nặng đi giữ một toán lính, vừa đi vừa cầu nguyện và cảm tạ Chúa cho tới lúc bị chém đấu. Xác Thánh được chôn ngay tại pháp trường, tám tháng sau mới được anh Phêrô Dậu rước lvề an táng tại Lục Thủy.
------------------------------------------
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”: TN 20-A35 .
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”.
Chẳng ai trong chúng ta lại không biết câu hát này. Với giai điệu thật mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh thật bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.
Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như thế. Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình yêu muôn thuở đó.
Chúng ta cảm động trước tình thương con lớn lao cao cả của bà, hơn thế nữa nơi bà chúng ta còn học được tấm gương của một lòng tin kiên vững. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu cho bà có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con bà.
Thương con hẳn bà đã chạy thầy chạy thuốc, đã khấn vái tứ phương trước khi gặp được Chúa Giêsu. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Đức Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.
Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ, hận thù, để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.
Thương con nên khổ vì con. Người đàn bà Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm”. Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ ? Con đau, khổ một, thì mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muốt xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ nơi đây đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi !”
Bà xin Người nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nỗi đau của con người như vậy ? Chắc hẳn chúng ta cũng đã từng gặp sự thinh lặng của Chúa như thế. Tại sao Chúa không đáp lời cầu xin của chúng ta ?
Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nỗi các môn đệ Chúa không chịu nổi những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để Người đuổi bà về.
Chẳng kể gì thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Đức Giêsu và nài xin Người cứu giúp. Lần này bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Sao lạ vậy ? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư ?
Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Thế nhưng, chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và đức tin của bà.
Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật ! Bà muốn sao thì được như vậy”.
Làm sao mà Người có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao ? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ, Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nỗi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ mình. Cũng có một bà mẹ, thế nên Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, Người chẳng nỡ từ chối những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.
Bà mẹ Canaan là tấm gương cho tất cả các Kitô hữu chúng ta về sự kiên trì cầu nguyện, đặc biệt là cho các bậc làm cha mẹ.
Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không ? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu xin, đã tin tưởng cầu xin, như người mẹ Canaan này chưa ?
Vĩnh An
------------------------------
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN A
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA KHÔNG LOẠI TRỪ AI
( Mt 15, 21 -28)
Thưa quí vị,
Khi lưu đày sang Babylone, dân Do thái bị tước đoạt hầu như mọi sự: đất đai, tổ quốc, quê hương, đền: TN 20-A36
Khi lưu đày sang Babylone, dân Do thái bị tước đoạt hầu như mọi sự: đất đai, tổ quốc, quê hương, đền thờ, tự do… Trên đất khách quê người, họ còn bị đe doạ mất luôn cả niềm tin tôn giáo, truyền thống cha ông. Họ nghi ngờ nền phụng tự của mình. Liệu Thiên Chúa họ thờ xưa nay có phải là Thiên Chúa thật không? Bởi vì các thần thánh của người Babylone xem ra mạnh sức hơn và do đó chân thật hơn. Đế quốc Babylone đã chinh phục Israel. Cai trị Israel với bàn tay hà khắc. Sức mạnh của họ hiện diện mọi nơi. Vì vậy nhiều cư dân Giêrusalem cũng như Do thái trong các thành thị đế quốc Ba tư dần dần bỏ đức tin và nghiêng theo tập tục của dân ngoại, kẻ chinh phục họ, ngõ hầu được nhiều ân huệ, chức vị. Như vậy cuộc lưu đày Babylone đã phá huỷ tinh thần của nhiều người Do thái, con cháu Abraham. Sự kiện giống hệt chúng ta ngày nay. Không có ơn Chúa chúng ta chẳng thể nói mạnh, mình sẽ trung thành với Ngài đến đâu? Sống đua đòi thế gian sẽ dẫn tới phản bội Chúa, hình thức này, kiểu cách khác, chẳng làm sao tránh khỏi. Đó là kinh nghiệm ngàn đời, không cần bàn luận.
Tuy nhiên ngay ở giữa cuộc lưu đày và trong khủng hoảng lớn về đức tin, Thiên Chúa vẫn chọn lựa cho Ngài một nhóm nhỏ trung thành. Họ hy vọng liều lĩnh rằng Thiên Chúa vẫn ở với tuyển dân và ngày nào đó sẽ cứu vớt, đưa họ trở về đất hứa. Hiện thời họ cố gắng hết khả năng bảo vệ mình và con cháu khỏi những ảnh hưởng của dân ngoại. Liệu chúng ta có thể tưởng tượng được cuộc chiến đấu của ho cam go thế nào không? Chắc chắn họ gặp rất nhiều khó khăn trong công việc. Cuộc vật lộn không phải dễ dàng và nhanh chóng. Nó kéo dài hằng ngày trong nhiền năm tháng. Điều này vẫn đúng với chúng ta ngày nay, nếu muốn truyền lại cho con cháu và các thế hệ mai sau đức tin tinh tuyền của cha ông? Xin nhớ lời thánh Phaolô người ta ưa thích những điều tầm phào hơn Lời Thiên Chúa. Hay như các tông đồ trong bài Phúc Âm tuần vừa qua: Đức tin của chúng ta luôn phải đối phó với sóng gió của biển đời dương gian, chỉ khi nào Chúa ở trên thuyền, sóng gió mới bị dẹp tan. Hơn một lần trong cuộc sống chúng ta đã phải kêu cầu Chúa. Con cháu sau này cũng vậy, cho nên chúng ta ngay từ bây giờ luôn phải kiện cường đức tin cho chúng. Việc đó chính là bác ái và yêu thương! Xin đừng giả dối, yêu thương bằng miệng lưỡi chứ không bằng việc làm. Đức tin của thế hệ tương lai phản ánh đức tin của thế hệ hiện tại, cũng như chúng ta phản ảnh niềm tin kính của cha ông mình.
Trong cuộc đấu tranh để giữ vững niềm tin tinh tuyền ở những điều kiện gay go nhất, họ quyết định dùng chiến thuật cho “xe đi vòng vòng” ( xin coi các phim chinh phục miền tây của nước Mỹ). Họ tụ họp thành những nhóm nhỏ, nâng đỡ lẫn nhau trong phụng vụ và cương quyết chống lại các ảnh hưởng ngoại lai, tức các thần, các phong tục Ba tư. Nhiều người đã chịu tử đạo vì trung thành với đức tin của cha ông. Nhờ vậy họ có thể sống còn mà trở về quê hương. Đối với những ai có cơ hội trở về, thấy mình rất ngỡ ngàng vì có những thay đổi nơi quê cha đất tổ. Các dân ngoại đã chiếm hữu đất đai, phong tục đã thay đổi, đức tin pha trộn nhiều yếu tố khác lạ. Liệu họ lần nữa phải cho xe (bò) đi vòng vòng, như đã làm trên đất nước Babylone? Nhiều gia đình trên thực tế đã làm như vậy theo cổ xúy của các tiên tri! Họ thành lập nhóm còn “sót lại” trên toàn cõi đất nước (chúng ta có thể suy ra từ thái độ của Chúa Giêsu với người phụ nữ Canaan: Thầy chỉ được sai đến các con chiên lạc của Israel mà thôi). Họ nghiệt ngã tẩy chay tất cả những gì không phải là do thái, kể cả hàng xóm láng giềng của mình.
Hậu quả là những cộng đoàn khép kín, cứng nhắc, mà tiên tri Isaia phải can thiệp (bài đọc 1). Vị tiên tri vô danh này (Isaia III) mở một con đường cho những ai “Làm điều chính trực, thi hành điều công minh”, “vì nhà ta là nhà cầu nguyện cho muôn dân”. Ông nhắc nhở người Do thái rằng tình yêu của Thiên Chúa không loại trừ ai, trái lại, bao gồm mọi linh hồn, mọi dân tộc. Ngài đã tuyển chọn dân Israel để tuân giữ các lề luật của giao ước mà nhiều lần Ngài đã ký kết. Kẻo họ không còn khả năng nhận ra những nhu cầu của mình để canh tân thường xuyên. Vì tiên tri không có ý định nơí lỏng đức tin theo phong trào, nhưng luôn trung thành với Thiên Chúa. Tuy nhiên ông kêu gọi dân tộc (và cả chúng ta nữa) không nên hẹp hòi. Nhưng phải theo gương Thiên Chúa. Tình yêu của Ngài trải rộng khắp địa cầu chứ không chỉ riêng Israel. Hết những ai sống trên đất nước đều hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa. Tinh thần Isaia III giống hệt như thánh Mattheo mà chúng ta sẽ bàn tới sau. Vị tiên tri tuyên bố “ người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng vụ Người và yêu mến Thánh Danh cũng trở nên tôi tớ của Người. Hết những ai giữ ngày Sabát mà không vi phạm, cùng những ai tuân giữ giao ước của ta đều được ta dẫn lên núi thánh”. Nhiều nhà chú giải Kinh thánh đã dùng bản văn này để gợi ý bên ngoài Giáo hội hữu hình vẫn có ơn cứu độ, bằng những con đường mà chỉ một mình Thiên Chúa biết. Chúng ta nên có cái nhìn khóang đạt như tình yêu Thiên Chúa đòi hỏi, đừng hẹp hòi đóng khung Ngài vào trí khôn bần tiện của mình, chúng ta sẽ gặp nhiều sai lầm bởi những phán đoán hồ đồ, tưởng tượng. Nhất là khi chúng ta sống trong các quốc gia đa tôn giáo, như Hoa Kỳ, Việt Nam. Bên cạnh tôi là gia đình do thái làm bánh “ Kosher Pizzas” rất ngon. Người có đạo thường lui tới thưởng thức. Isaia III tin rằng Thiên Chúa kêu gọi dân Do thái, để mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, chứ không chỉ riêng dân Israel. Không phải dân Do thái tốt lành hơn các dân tộc khác mà chỉ vì Thiên Chúa đã tuyển chọn họ, trao cho họ công bố tình yêu của Ngài. Chúng ta cũng vậy đừng kiêu căng phong mình thánh thiện, mà phải khiêm tốn vì tất cả là do ơn thánh Chúa: Tout est grace (thánh Therèse de Lisieux). Nhiều tu sĩ nam nữ không hiểu hết chân lý này nên sống ngông ngênh, tự mãn, khinh dể người khác.
Như vậy, vị tiên tri muốn chúng ta huấn luyện cho mình một cái nhìn rộng rãi, bao la, về các hoạt động của Thiên Chúa. Ông kêu mời chúng ta chiêm ngưỡng muôn hình vạn trạng kiểu cách Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài cho nhân loại. Không nhất thiết Ngài phải hành động theo một đường lối nào. Chúa Giêsu là thể hiện rõ ràng của tình yêu đó. Cứ chiêm ngắm đời sống của Ngài chúng ta sẽ hiểu tình yêu Thiên Chúa ra sao? Những lời mở đầu của bài đọc một cho chúng ta chìa khoá để tìm ra những linh hồn phụng thờ Chúa. Tuân giữ điều chính trực, thực hiện điều công minh. Dù họ thuộc về chúng ta hay không. Các ngôn sứ thường chỉ cho chúng ta hay Thiên Chúa là ai? Ngài kỳ vọng nơi chúng ta thế nào? Khi suy gẫm về hành vi của Thiên Chúa nơi đời sống của người khác, chúng ta đừng ương ngạnh từ chối họ một cách tiên thiên, nhưng chấp nhận họ vào cộng đoàn Hội Thánh. Thiên Chúa đang cư ngụ trong tâm hồn họ! Isaia III mô tả “ nhà” Thiên Chúa rộng bao la bát ngát đủ để những ngoại kiều thờ phượng Chúa: Đối với tôi xem ra nhà đó vô hạn định. To hơn cái nhìn của tôi nhiều lần. Vậy đó, nhiệm vụ của ngôn sứ là mở rộng tâm hồn và trái tim mọi người cho Thiên Chúa ngự vào. Thiên Chúa của vũ trụ mênh mông hơn biển rộng trời cao.
Thánh Matheo viết Phúc Âm cho cộng đoàn tín hữu tiên khởi gốc Do thái. Ngài chiêm ngắm Chúa Giêsu như Môsê mới, ban lề luật yêu thương để thiết lập Israel mới, tức Hội thánh. Tuy nhiên người ta tìm thấy những trường hợp người dân ngoại cũng tỏ lòng tôn kính trong Tin mừng của ông. Đó là các đạo sĩ đến từ phương đông (2,1 -12), người sĩ quan Rôma (8, 5 - 13) và người phụ nữ xứ Canaan hôm nay. Điều này ám chỉ dụng ý nào? Xin đọc kỹ Phúc Âm. Chúa Giêsu đang ở Tirô và Siđon, miền đất ngoại giáo. Một sự kiện khác thường trong lối hành xử của Ngài. Chúng ta mong đợi Ngài sẽ gặp nhiều chống đối, vì bước đi trong đất thù nghịch. Miền đất này thuộc Do thái xưa kia, nhưng đã bị lân bang chiếm đóng trước khi dân Do thái trở về quê hương. Những người Do thái ở lại đã lập thành những đồn luỹ chắc chắn về niềm tin của cha ông và chiến đấu trong suốt lịch sử để được giữ vững niềm tin ấy. Bây giờ Chúa Giêsu và các môn đệ rao giảng giáo lý mơi lạ, thử hỏi làm sao các ngài không bị chống đối? Và chúng ta ngày nay chẳng ngạc nhiên về thái độ chống dân ngoại còn tồn tại trong Hội Thánh tiên khởi. Thánh Matheo mô tả Chúa Giêsu ngần ngại mở rộng phạm vi sứ vụ của mình: “Ta chỉ được sai đến các con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Dĩ nhiên người đàn bà dốt nát này không hề nghe biết các ưu tiên của dân Do thái. Bà chẳng thể hiểu được lời Chúa Giêsu, nhưng thực tế con gái bà đau nặng, bị quỉ ám khổ sở lắm. Bà chạy đến với Ngài gọi Ngài là con vua Đavit như thói quen của dân chúng. Rõ ràng bà đã bày tỏ đức tin vào Ngài, đức tin mà Ngài hàng mong đợi nơi “ dân riêng của Thiên Chúa”. Bà cũng nhận ra bánh của Thiên Chúa chỉ dành cho tuyển dân chứ không cho mình. Tuy nhiên bà khẩn khoản xin mảnh vụn rơi từ bàn ăn xuống. Đức tin và lòng khiêm nhường của người phụ nữ Canaan đáng được Chúa thương. Vì thế nhiều bình luận gia đã đổi từ những con chó thành chó con để diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với bà. Thực tế Chúa Giêsu đã khen bà “ Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”! Liệu chúng ta có dám bày tỏ đức tin của mình như vậy khi gặp gian nan khốn khó không? Liệu chúng ta có dám nài nẵng Chúa khi xem ra Chúa hắt hủi mình không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con có lòng tin, lòng khiêm nhường như người phụ nữ Canaan. Hằng ngày chúng con cần gương bà để sống am hợp ơn gọi làm con Chúa.
Đức tin của người đàn bà đã được Chúa đáp lời. Có thể nói bà đã thắng được Chúa “Bà muốn thế nào sẽ được như vậy”, mặc dầu bà là người không có đạo, không được hưởng gia sản của giao ước! Chúng ta nên tin thật vào sức mạnh của cầu nguyện mà thực hành theo đúng lòng tin của mình. Kinh thánh thường tỏ rõ sức mạnh vô song của lời cầu nguyện. Vậy thì tại sao chúng ta còn hoài nghi? Người phụ nữ Canaan dù không được giáo dục về đức tin nhưng đã thoáng thấy sức mạnh của nó, nên đã không ngần ngại nài nẵng Chúa, cho dù Chúa xua đuổi gọi là “chó”, (tiếng phổ thông Do thái gọi dân ngoại). Chúng ta làm sao? Có thực bụng gọi Ngài là Thiên Chúa, đấng ban bánh cho mọi người ? phải chăng tiệc Thánh Thể hôm nay gợi ý câu truyện Tin mừng này? Nếu vậy chúng ta sốt sắng cử hành thánh lễ với lòng sùng mộ chứ không phải hình thức bên ngoài. Rất nhiều lần chúng ta chẳng chứng kiến người ngoài Giáo hội, chẳng ghi danh vào tổ chức tôn giáo nào, nhưng lời nói, hành động của họ chứng tỏ chịu ảnh hưởng tinh thần Chúa Kitô? Thiên Chúa đã tìm ra những lối, những phương thức nuôi dưỡng họ trong sự thật và chân lý. Làm sao họ hành xử được như vậy nếu không có Chúa hướng dẫn?
Cho nên thánh Phaolô trong bài đọc hai đã nuôi hy vọng trở lại của đồng bào mình: “Thưa anh em tôi xin ngỏ lời với anh em, là những người gốc dân ngoại, với tư cách là tông đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi. Mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào của tôi phải ganh tỵ, và tôi cứu được một số anh em đó…Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý”.
Cộng đoàn thánh Mattheo đang lớn mạnh, gồm cả dân ngoại, nơi cộng đoàn loan báo về Chúa Giêsu. Họ trở lại làm môn đệ Chúa. Câu chuyện hôm nay là dấu vết của tình hình cộng đoàn. Nó giúp các tín hữu gốc Do thái chấp nhận anh chị em tân tòng mà trước kia họ gọi là “chó”. Họ được nghe về đức tin của người đàn bà, lòng khiêm nhường của bà ta thừa nhận ân huệ ưu tiên của dân Do thái và tình yêu rộng mở của Thiên Chúa, đón nhận hết thảy các linh hồn qua trung gian Đức Kitô. Người phụ nữ Canaan là bằng chứng Thiên Chúa vươn tới mọi dân tộc, kể cả những người ở ngoài tôn giáo truyền thống. Mặc dầu bà không thuộc nhóm môn đệ Chúa nhưng lòng xác tín của bà vào Đấng được xức dầu là dấu chỉ Thiên Chúa hành động ngoài dự kiến của nhân loại. Chúng ta có khuynh hướng xếp hạng các tâm hồn trong và ngoài Giáo hội. Nhưng nếu một linh hồn ngoài Giáo hội lại bày tỏ đức tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu thì chúng ta là ai mà dám hạn chế hoạt động của Thiên Chúa trên trái đất này? Amen.
Lm Jude Siciliano, OP
------------------------------------------
(Chúa Nhật 20 thường niên - Matthêu 15, 21-28)
Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng:TN 20-A37
Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books), trong đó có cuốn “sức mạnh của tư tưởng tích cực” (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành. Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế nó vì giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công. Bằng cách nào? Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình. Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.
Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi. Câu đó là: “nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được.” (Mt 17,20)
Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:
Khi Chúa Giê-su vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Ca-na-an, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giê-su và thống thiết nài xin Người: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Chúa Giê-su lặng thinh không đáp.
Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm. Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Ca-na-an đụng phải, nhưng bà không thối lui.
Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giê-su thì cứ tiếp tục lặng thinh. Bà kêu xin bền bĩ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giê-su đáp lại ước vọng của bà: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !"
Chúa Giê-su lại từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en”.
Sứ mạng của Chúa Giê-su vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Ít-ra-en mà thôi. Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.
Bị từ chối thẳng thừng, bị dụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí. Bà vẫn tiếp tục van xin. Bà bái lạy Người cách thành khẩn: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”.
Lần nầy, Chúa Giê-su trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con”. Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước. Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Đến đây thì Chúa Giê-su không thể chối từ được nữa và nguyện vọng của người phụ nữ Ca-na-an đã được đáp ứng hoàn toàn. Con gái bà đã được cứu chữa.
Chúa Giê-su xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giê-su không nói: “Ta đã chữa lành con, hãy về bình an”, nhưng Ngài lại nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
Tin Mừng Mát-thêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giê-su về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13, 58) hay như tường thuật của thánh Mác-cô: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó … Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6, 5-6)
Chúa Giê-su khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì. “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17,20)
Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giê-su đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giê-su cho ông thực hiện điều đó. Chúa Giê-su chấp thuận. Tin vào quyền năng Chúa Giê-su, Phê-rô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy. Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ. Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm. Ông hốt hoảng la lên. Chúa Giê-su nắm lấy tay Phê-rô kéo lên và trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi !” (Mt 14, 22 - 33)
Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giê-su muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin. Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.
LM Inhaxiô Trần Ngà
------------------------------------------
VietCatholic News (Thứ Năm 14/08/2008 08:22)
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN(A)
Isaia 56: 6-7; Tv: 67; Roma 11: 13-15, 29-32; Matthêu 15: 21-28
Anh chị em thân mến,
Bài phúc âm hôm nay diễn tả Chúa Giêsu một cách hơi cao kỳ. Một người đàn bà chán nản đến bẻn lẻn xin: TN 20-A38
Bài phúc âm hôm nay diễn tả Chúa Giêsu một cách hơi cao kỳ. Một người đàn bà chán nản đến bẻn lẻn xin Chúa Giêsu giúp đỡ cho con gái bà bị quỷ ám. Nhưng vì bà ta là người Canaan, là người ngoài đạo Do Thái, Chúa Giêsu có vẻ hắt hủi bà ấy. Đầu tiên Chúa Giêsu không để ý đến bà, rồi dùng cách nói khinh miệt thời ấy coi bà ta như "chó". Còn bạn có nghỉ vậy không?
Câu chuyện trong phúc âm làm chúng ta cảm thấy mình thuộc hàng hạ cấp. Chúng ta cùng hệ với người đàn bà Canaan. Chúng ta mong Chúa Giêsu sẽ dủ lòng thương nghe lời than của một người mẹ. "Đừng chán nản. Chúa Giêsu sẽ nghe Bà". Thường thường khi chúng ta nghe một người kêu van xin Chúa Giêsu giúp đỡ. thì chính Ngài là người tỏ lòng thương xót giúp đỡ ngay những người tin vào Ngài. Nhưng trong bài phúc âm hôm nay Chúa lại không như vậy. Chẳng lẻ Chúa Giêsu không để ý đến những kẻ kêu xin như chúng ta vừa thấy? Vậy tại sao lại có chuyện như thế?
Điều giúp chúng ta hiểu thêm câu chuyện phúc âm hôm nay là chúng ta nên nhìn vào lòng tin cậy của chúng ta vào Chúa Giêsu. Chúng ta tin gì vào nhân tính của Ngài? Tôi nghĩ rằng phần đông chúng ta có lòng tin mạnh mẻ về thiên tính của Chúa Giêsu. Chúng ta tin Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chúng ta không được hướng dẫn nhiều về lòng tin vào nhân tính của Ngài: Chúa Giêsu là một người như chúng ta. Thế nên chúng ta phải giử hai phần của đức tin về Thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu ngang nhau. Nhưng chúng ta thường nhấn mạnh một bên, thường là phần thiên tính của Ngài. Còn phần nhân tính chúng ta ít để ý đến; đó là do quá trình được giáo huấn của chúng ta. Chính phần nhân tính của Chúa Giêsu cũng quan trọng như phần thiên tính vậy.
Chúng ta hãy tự hỏi: Nếu có ai đến gỏ cửa Chúa Giêsu, Ngài cần biết người đó là ai trước khi Ngài mở cửa không? Theo lẻ thường chúng ta sẽ trả lời là "có, Chúa Giêsu là Chúa nên Ngài biết hết mọi sự". Về khía cạnh đó chúng ta thấy cách hành xử của Chúa Giêsu với người đàn bà Canaan hôm nay là cách Ngài muốn thử lòng tin của bà. Và Bà ấy có đức tin thật sự.
Đức tin của bà thúc đẩy bà ta đi đến cùng. Bà là người Canaan, mà bỏ nhà để chạy đến Chúa Giêsu. Các bạn nên nhớ người Canaan là những người trước kia sống nơi đất Chúa hứa, họ đã bị người Israel đuổi ra khỏi phần đất đó. Nên sự chống đối giữa người Do Thái và người Canaan kéo dài từ trước đến nay, việc người đàn bà Canaan đánh liều chạy vào đất của kẻ thù để xin Chúa Giêsu giúp đỡ là một sự can đảm. Có thể khi đi đường bà ta đã biết đất đó là của người Do Thái, nơi đó người Do Thái có Thiên Chúa của họ là Đấng có lòng thương xót, Ngài sẽ giúp bà ta. Sự chán nản và sự can đảm khiến bà một mình chạy đến Chúa Giêsu mà không có người đàn ông đi cùng là một điều rất lạ thời bấy giờ.
Đức tin của bà ấy lại được chứng tỏ trong lời kêu van với Chúa Giêsu. Bà ta không dễ gì chịu thua khi Chúa Giêsu nói là không ném đồ ăn của trẻ con "là người Do Thái" cho chó "là người ngoại". Cách nói đó cũng như bây giờ chúng ta nói là: “cơm đâu cho chó ăn”. Chúng ta cảm thấy Chúa Giêsu đã bắt đầu mở lòng nghe người đàn bà kêu xin. Ngài đã bớt cứng lòng như người Do Thái thời ấy gọi người Canaan là "chó". Rồi người đàn bà trả lời là bà ta cũng có chút quyền, mặc dù bà thuộc hạng "chó". Và "chó" cũng có quyền ăn của dư thừa trên bàn. Bà ta ám chỉ là bà ta tin là Thiên Chúa cho thức ăn các "trẻ con” và các "chó con", nghĩa là cho người Do Thái và kẻ ngoại.
Trước đó người Pharisiêu đã chỉ trích Chúa Giêsu vì các môn đệ không rữa tay trước khi ăn theo phong tục người Do thái (15:1-20). Và Chúa Giêsu gọi các thầy tư tế là những người giả dối chỉ phục vụ Thiên Chúa ngoài môi miệng thôi. Rồi Chúa Giêsu lại khen người đàn bà Canaan có đức tin mạnh mẽ. Đây là loại người mà các thầy tư tế khinh khi lại được Chúa Giêsu khen. Vậy ai là người có đức tin trước mặt Chúa Giêsu? Đó là những ai nhìn thấy lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn chữa lành, tha tội, và mời kẻ khác vào bàn tiệc với Ngài. Nơi bàn tiệc thánh hôm nay Thiên Chúa chiêu đãi bánh ngon thượng hạng.
Các môn đệ lại muốn đuổi người đàn bà Canaan đi. Nhưng trái lại Bà là người chứng tỏ đức tin còn mạnh hơn đức tin các môn đệ vì bà ta thấy Chúa Giêsu nói về tất cả mọi người, kể cả những người mà các thầy tư tế khinh khi. Thiên Chúa không nghỉ gì đến giai cấp trong xã hội hoặc màu sắc các dân tộc để Ngài ban cho ân sũng. Tất cả những ai có đức tin điều được Thiên Chúa để ý đến lời cầu xin của họ.
Trở lại câu hỏi tôi nêu ở trên. Nếu có ai gỏ cửa Chúa Giêsu thì Ngài có biết người đó là ai trước khi mở cửa không? Nếu chúng ta nhấn mạnh về Thiên tính của Chúa Giêsu thì câu trả lời của chúng ta sẽ là "lẽ cố nhiên là có". Nhưng trong những năm gần đây chúng ta bắt đầu hiểu thêm về nhân tính của Chúa Giêsu qua những dịp học hỏi kinh thánh. Theo thư thánh Phao lô nói: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế." (Phi.2:6-7). Trong thư Do Thái thánh Phao lô lại viết: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt. 4:15). Rồi thánh Phao lô lại viết thêm: "Chúa Giêsu phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (Dt. 5:8). Và thánh Luca cho chúng ta biết là sau khi Chúa Giêsu gặp lại Đức Mẹ và thánh Giuse ở đền thờ, nơi Ngài giảng: "Sau đó Người đi cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài".(Lc.2:51-52) Theo những lời kinh thánh đó chúng ta thấy được Chúa Giêsu, sinh hoạt như mọi người trần, Ngài không vào thế giới chúng ta với tất cả mọi hiểu biết, nhưng Ngài cũng "ngày càng khôn lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta"(Lc.2:52)
Theo những yếu tố vừa nêu chúng ta có thể nghĩ rằng khi Chúa Giêsu gặp người đàn bà Canaan và nghe lời kêu xin của bà, Ngài nói ngay ý nghĩ của Ngài là phải giảng dạy cho "các chiên lạc của Israel trước đã". Nhưng sau khi Chúa Giêsu thấy đức tin của người đàn bà ấy quá mạnh, nhất là sau khi bà ta bị các thầy tư tế xua đuổi, Ngài liền thay đổi ý về nhiệm vụ của Ngài.
Người đàn bà Canaan là dấu chỉ rõ rệt về việc cứu độ của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu là cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, không phải chỉ cho người Do Thái mà thôi. Hôm nay Chúa Giêsu gặp gở người đàn bà Canaan cho chúng ta thấy sự thay đổi trong ý thức nhân tính của Ngài, và theo nhân tính ấy Ngài hiểu thêm ý định của Thiên Chúa đối với loài người. Sự thay đổi đó xảy ra như thế nào? Đó chính là sự kêu xin liên lỉ của người đàn bà Canaan, và bà ta nhất định không lùi bước trước ý định nhỏ hẹp của Thiên Chúa. Bà ta nhận định rằng nguồn gốc dân tộc hay tôn giáo không thể ngăn chặn lòng thương xót loài người của Thiên Chúa. Nếu chúng ta trình bày một Thiên Chúa hẹp lượng và lòng thương có giới hạn thì rỏ ràng chúng ta không nghe hiểu gì về phúc âm cả.
Như thế chúng ta có hai cách tìm hiểu phúc âm hôm nay. Một là: Nhấn mạnh về Thiên tính của Chúa Giêsu qua cách đối xử của Ngài, và yếu tố Thiên Chúa của Ngài trong việc là Đấng hiểu biết mọi sự. Dựa vào đó Ngài thấy đức tin của người đàn bà ngoại đạo là một dạng đức tin sẽ được rao giảng "khắp cùng trái đất". Hai là: nhấn mạnh về nhân tính của Chúa Giêsu trong việc gặp gỡ người đàn bà Canaan giúp Ngài hiểu thêm việc phục vụ của Ngài là cho tất cả các dân tộc.
Giáo hội thời xưa, cũng như giáo hội thời nay, đã tranh chấp về tin mừng riêng biệt như trong phúc âm hôm nay. Ngay sau khi Chúa Kitô sống lại, có giáo hội nghĩ rằng tin mừng Chúa Giêsu chỉ dành riêng cho dân Israel. Mặc dù phúc âm thánh Matthêu kết thúc với tin mừng Chúa Giêsu sống lại cần được rao giảng cho toàn thế giới: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ"(Mat 28:18-19).
Thiên Chúa đã dạy trong lời rao giảng của Chúa Giêsu về sự tha thứ và sự hòa giải. Chúng ta không tự hưởng được ơn tha thứ và hòa giải đó. Chúng ta được hưởng là nhờ sự sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, và chúng ta đã chấp nhận lời mời gọi đến bàn tiệc thánh mà Thiên Chúa đã hiến mình cho chúng ta. Hôm nay chúng ta họp nhau nơi bàn tiệc thánh để cùng nghe lời Chúa Giêsu sống lại bảo chúng ta là rao giảng tin mừng cho tất cả các dân tộc.
Có những ai hay những nhóm người có cùng liên kết với các bạn hữu và các thành viên trong nhà thờ của chúng ta không? Có những ai bị bỏ quên không? Ai là những người đứng hạng đầu? Và ai là những người đứng hạng thấp không đáng chúng ta để ý đến? Nói cách khác, ai là những người Canaan trong đời chúng ta mà chúng ta khi dễ hay bỏ rơi họ? Chúa Giêsu nghe lời kêu xin của người đàn bà Canaan và Ngài chấp nhận bà ta. Vậy hằng ngày tôi có lắng nghe những lời kêu xin tới giúp đỡ người khác không? Chúng ta hảy cố gắng đáp lại lời mời gọi của phúc âm để giúp những người khác như chúng ta đã được kẻ khác giúp chúng ta. Cũng như Thiên Chúa đã nghe và đáp lại lời kêu xin của chúng ta, do vậy chúng ta nên lắng nghe và đáp lại lời kêu xin của kẻ khác khi họ cần đến chúng ta giúp đỡ.
Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Lm Jude Siciliano OP
--------------------------------
(Chúa Nhật XX Thường niên A)
Không ai xa lạ, không một ai bị loại trừ khỏi trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là chủ đề:TN 20-A39
Không ai xa lạ, không một ai bị loại trừ khỏi trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là chủ đề chính mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta.
Extra ecclesiam nulla salus? (Ngoài Giáo hội không có sự cứu rỗi?)
Ngày xưa, Giáo Hội Công giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ” (san Cipriano). Quan niệm này đã bị hiểu cách méo mó và cũng đã tồn tại trong Giáo hội rất lâu hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vatican II mới cho ta một cái nhìn quân bình và mới mẽ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo hội.
Trong hiến chế Lumen Gentium Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do thái và Hồi giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo hội.
Cái nhìn này có nền tảng Kinh thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ.
Và đây cũng là cái nhìn của Lời Chúa hôm nay: ở bài đọc I, Isaia cho biết: Thiên Chúa không chỉ muốn cứu độ Israel – Dân riêng, Ngài còn muốn đón nhận và cứu độ tất cả những ai “giữ luật và thực thi công bình”, cả những người “ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và yêu mến danh Người vì “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Nói như Thánh vịnh là: Thân Lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (Tv 66,6). Thánh Phaolô quả quyết: “Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc” (Rm 11, 13-15).
Đức Giêsu trong bài Tin Mừng cũng xác nhận Ngài được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel, nhưng Ngài cũng đến để cứu độ Dân Ngoại, khi Ngài công khai khen ngợi đức tin của người đàn bà Canaan và nhờ đức tin mạnh mẽ và kiên nhẫn của Bà, Chúa chữa lành con gái của bà bị quỷ ám. Đức tin đó mang lại ơn cứu độ, Đức tin đó khiến Chúa thực hiện những điều kỳ diệu cho Bà.
Vâng, chúng ta phải xác tín rằng: ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến là cho tất cả, không lại trừ ai, không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai. Đó là niềm hy vọng lớn lao nhất cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo hội. Thiên Chúa không loại trừ ai, chỉ có con người loại trừ nhau. Thiên Chúa không có kỳ thị và phân biệt ai, chỉ có con người mới kỳ thị nhau và tạo ra những hàng rào ngăn cách. Vì thế hôm nay, tất cả chúng ta được mời gọi mở rộng cái nhìn của mình theo cách nhìn của Thiên Chúa, là biết kính trọng và biết đón nhận sự khác biệt và sự đa dạng phong phú của những người khác, của tôn giáo khác. Đồng thời tất cả chúng ta cũng được mời gọi truyền giáo và rao truyền những gì tốt đẹp của Tin Mừng cho những người xưng quanh, nhất là những người chưa biết Chúa.
Câu chuyện sau đây cũng diễn tả được điều mà chúng ta vừa nói: Ngày nọ, Chúa đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, người ta treo quảng cáo: “Chúa là Ðấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ”.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, thì rao rằng: “Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa”.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, thì trưng bày: “Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập Giáo hội hoặc là mất linh hồn đời đời”.
Trên đường trở ra, có người hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?”
Chúa trả lời: “Ta không tổ chức hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”!!!
Lm. Phêrô Nguyễn Hương
--------------------------------
CHỦ NHẬT XX THƯỜNG NIÊN
Tin mừng: Mt 15, 21-28.
Bạn thân mến,
Đức tin của người đàn bà Ca-na-an trong bài Phúc Âm hôm nay quả thật là kiên cường, rất đáng cho:TN 20-A40
Đức tin của người đàn bà Ca-na-an trong bài Phúc Âm hôm nay quả thật là kiên cường, rất đáng cho chúng ta noi theo. Bà đã “dám” đối chất lại với người mà bà đang cầu cứu, bởi vì bà tin tưởng người đang rao giảng Tin Mừng yêu thương này sẽ nhậm lời cầu xin của bà. Lòng yêu thương con gái cách mãnh liệt đã giúp bà tin tưởng và trở nên gan dạ khi cầu cứu với Chúa Giê-su, bởi vì bà biết rằng, chỉ có Chúa Giê-su mới chữa cho con gái của bà khỏi bị quỷ ám mà thôi.
Đức tin của bạn và tôi chắc chắn là đã có từ rất lâu rồi, có từ thời ông bà tổ tiên truyền lại, hoặc ít nữa là tự mình đi tìm Thiên Chúa và Ngài đã cho gặp qua một vài hoàn cảnh biến cố của cuộc sống. Nhưng cho đến hôm nay, bạn và tôi có lúc nào dám bày tỏ đức tin của mình vào Thiên Chúa chưa ? Đức tin của bạn và tôi thuộc loại “gộc” khi chúng ta cố gắng chứng minh cho mọi người thấy, bằng cách đi tham dự thánh lễ chủ nhật cách đều đặn, hoặc thuộc làu kinh hôm kinh mai hơn những người có đạo khác. Nhưng cho đến hôm nay, bạn và tôi có chứng minh cho mọi người thấy đức tin của mình thuộc loại “gộc” chưa: một cơn bách hại thoáng qua là từ chối niềm tin và bỏ lễ nhà thờ; một người nào đó làm phật lòng mình thì giận dữ điên cuồng la lối thóa mạ; hay vì một chút danh phận rồi ghen tương với anh em mình và tìm cách “chơi” họ ?
Bạn thân mến,
Đức tin mạnh mẻ không phải là cứ đi lễ nhà thờ đều đặn, nhưng chính trong cơn gian nan khốn khó, chính trong hoàn cảnh khó khăn, mà chúng ta biết tin tưởng và phó thác vào Chúa với lòng yêu mến và vui vẻ, thì đó mới là đức tin mạnh mẻ.
Người đàn bà Ca-na-an đã lên tiếng thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi...” chỉ có lòng tin mạnh mẻ mới thốt lên được lời ấy, chỉ có lòng tin mới bật ra những lời khiêm nhường như thế. Đức tin của người đàn bà Ca-na-an này đáng làm cho bạn và tôi suy nghĩ lại đức tin của chính mình, đức tin mà chúng ta nhận lãnh cách nhưng không bởi tình yêu của Thiên Chúa: tôi đã làm gì để đức tin của tôi trở nên sống động và mạnh mẻ trong hoàn cảnh cuộc sống hôm nay ?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
-------------------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
--------------------------------
“Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho loài chó” (Mt 15:26).
Tại sao Chúa Giêsu lại xỉ nhục người thiếu phụ Canaan quá vậy. Không cho bà điều bà xin và không:TN 20-A41
Tại sao Chúa Giêsu lại xỉ nhục người thiếu phụ Canaan quá vậy. Không cho bà điều bà xin và không muốn chữa con bà thì cũng không nên mỉa mai, xỉ nhục bà. Gọi bà là chó. Tuy nhiên, câu truyện Phúc Âm hôm nay không dừng lại ở chỗ Chúa Giêsu gọi người đàn bà ấy là chó, hoặc coi bà ngang hàng với chó, mà là lòng tin vững mạnh của bà khi đến với Ngài. Đức tin ấy đã làm Ngài sững sờ, khiến Ngài không thể im lặng, lạnh lùng nhưng đã ra tay thi ân, thực hiện một phép lạ: “Này bà, bà có đức tin mạnh. Bà muốn sao thì được như vậy” (Mt 15:28).
Hành động và lời van xin của người đàn bà Canaan đã trở nên mẫu gương sống động cho tôi trong mối tương quan với Thiên Chúa. Khám phá ra cái huyền nhiệm và cốt lõi của niềm tin của bà còn là điều cần thiết cho đời sống tâm linh của tôi. Vì nó sẽ giúp tôi mạnh mẽ tiến thẳng vào tình yêu của Thiên Chúa. Sẽ làm cho tôi thêm can đảm và tin tưởng vào tình yêu ấy, mặc dù đôi lúc tôi gặp phải sự thử thách của Chúa. Mặc dù đôi lúc tôi tưởng như Ngài ngoảnh mặt làm ngơ.
Nó cũng giúp tôi khám phá ra lối hành xử của Chúa, một lối hành xử thân tình, yêu thương nhưng nhiều lúc cũng thật là khó hiểu. Như Ngài đã bảo các Tông Đồ hãy lo cho dân chúng ăn trong hoang địa, nhưng rồi cũng lại tự mình Ngài nuôi họ, vì các ông làm gì có đủ thực phẩm nơi hoang địa mà nuôi hàng ngàn người ăn hôm đó. Như Ngài cho phép Phêrô đi trên biển để đến với Ngài, nhưng rồi chính Ngài lại đến và nâng ông lên vì ông sắp chìm xuống lòng biển cả. Hôm nay, Ngài cũng làm bộ xua đuổi, làm bộ chửi rủa người thiếu phụ đang khổ sở vì con bà, rồi lại mau mắn thi ân cho bà một cách hết sức rộng rãi và đặc biệt: “Bà muốn gì thì được như vậy”.
Phải kể là người đàn bà ngoại lai này có đức tin mạnh thật. So với Phêrô trong lần đi trên biển, hoặc so với các Tông Đồ nơi hoang địa, thì thái độ của Chúa đối với người đàn bà này có vẻ lạnh nhạt và tàn nhẫn hơn nhiều. Phêrô chỉ mới mở miệng xin một lời là được Ngài cho liền: “Lậy Thầy, nếu phải là Thầy thì xin cho tôi đi trên biển đến với Thầy” (Mt 14:28). Nhưng khi Chúa nói “cứ đi” thì lại bắt đầu chìm lỉm. Còn người đàn bà này mặc dù bị Chúa giả làm ngơ, lạnh lùng và hất hủi vẫn kiên trì. Dù bị Ngài xếp hàng với loài chó: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho loài chó” (Mt 15:26), nhưng bà vẫn không nản lòng rút lui. Vậy lý do nào đã khiến bà kiên trì với niềm tin của bà?
Tình yêu: Tình yêu mà bà dành cho con bà. Không còn có cơ hội nào khác nữa. Đây là lúc bà có thể hy sinh cho con bà. Chấp nhận nhục nhã đôi chút cũng không sao, miễn con mình khỏi bệnh. Trong khi hành động như vậy, phải chăng bà cũng nghĩ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với bà. Chẳng lẽ Ngài lại thua kém tình yêu mà bà dành cho con bà sao? Ở đây, bà đã nhân danh tình yêu, và bà đã đánh đúng tim đen của Chúa Giêsu đến nỗi Ngài không thể cầm lòng được lâu hơn nữa mà đành phải gia ân cho bà, thực hiện như ý bà xin. Tình yêu Thiên Chúa phản ảnh nơi tình yêu con người. Chúa yêu bà, yêu con bà hơn chính bà yêu bà và yêu con bà. Và bà đã đánh đổi tình yêu ấy bằng cách chấp nhận thử thách.
Chúa đã mở lời trước: Chúa Giêsu trong câu truyện này đã dành cho bà 2 cơ hội để bà chứng tỏ đức tin của bà:
Khi Ngài trả lời các môn đệ: “Ta chỉ được sai đến với các chiên lạc nhà Israel thôi” (Mt 15:24). Chúa chỉ được sai đến cho nguyên nhóm chiên lạc đó thật sao? Chẳng lẽ sứ mạng của Ngài hạn hẹp thế sao. Chẳng lẽ bà không được hưởng ké chút tình thương của những con chiên lạc ấy sao. Và bà như thầm hiểu Chúa muốn nói gì với bà.
Vì là người ngoại bang, nếu muốn nhẩy vào ăn có phần của con cái trong nhà, e làm Chúa khó xử, và vì thế bà mạnh dạn bước tới. Bằng một đức tin mạnh mẽ, bà đã đạt được điều mình xin khi Ngài nói với bà: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho bầy chó” (Mt 15:26). Không bỏ lỡ cơ hội, bà thưa ngay: “Lậy Thầy, nhưng những con chó con cũng được hưởng những miếng vụn từ bàn chủ rơi xuống” (Mt 15:27). Đến đây thì Chúa Giêsu không còn cầm nổi lòng mình nữa. Đủ rồi. Thử thách đã đủ, và đức tin cũng được chứng minh qua thử thách, và Ngài đã thực hiện phép lạ như ý bà.
Giữa những thử thách thường ngày, Chúa cũng để sẵn trong đó những chìa khóa khai mở ơn của Ngài. Nhưng có lẽ tôi không giống như người bàn bà Canaan này. Tôi đã vội vàng dừng lại ở những cái bên ngoài của thử thách, của gai góc mà quên không tìm cái ý nghĩa, cái chìa khóa tình thương của Ngài dấu ẩn bên trong.
Như thửa ruộng có dấu sẵn viên ngọc quí, giữa những đau thương cuộc đời, Chúa cũng dấu sẵn chìa khóa ân sủng và bình an. Người đàn bà ngoại lai kia làm gì nhìn thấy phép lạ, nếu như bà bỏ cuộc. Nếu như bà chỉ nhìn cái vẻ bên ngoài qua cách đối xử lạnh lùng, khinh khỉnh của Chúa. Bà đã chứng minh cho Chúa rằng bà đã tìm được cái chìa khóa mở cửa hạnh phúc, kéo được ơn của Ngài, bắt buộc Ngài phải thực thi phép lạ đó là bà không thể tin rằng Thiên Chúa mà bà đang cầu khấn lại có thể quay lưng để mặc bà đau khổ.
Chúa đã chẳng âu yếm nói bóng gió với bà rằng Ngài thương bà và con bà lắm sao. Ngài chơi chữ với bà, gọi bà là chó. Nhưng bà lại dùng cớ đó để chơi chữ lại với Chúa: “Không. Không phải là chó đâu, mà là chó con thôi”. Chó con khác hẳn với chó lớn, mặc dù cũng là chó. Cái làm cho Chúa thích thú nơi bà là ở điểm này.
Có những thử thách và đau khổ mà bằng con mắt trần tục, con mắt thế gian con người khó nhìn thấy và khám phá ra được ý nghĩa của nó. Có những phần thưởng lớn lao mà khối óc nhân loại và trí khôn nhân loại cũng không thể phân tích thấu đáo nếu chỉ nhìn vào những gai góc, những thất bại, khổ đau bên ngoài. Và trong những thách đố, thánh giá và đau khổ ấy, Chúa cũng muốn tôi áp dụng đức tin vững mạnh như người đàn bà Canaan, để hiểu và để khám phá ra tình yêu của Ngài đang tiềm ẩn quanh những biến cố của cuộc đời mình. Chúa gọi mình bằng chó. Tôi thưa với Chúa: “Vâng. Con là chó, nhưng chỉ là chó con thôi”.
--------------------------------
- Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
(Mt 15,22)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong khi chúng ta đang tập họp nhau trong nhà thờ này để thờ phượng Chúa, thì có nhiều người khác:TN 20-A42
Trong khi chúng ta đang tập họp nhau trong nhà thờ này để thờ phượng Chúa, thì có nhiều người khác, tuy cũng là kitô hữu, không có mặt; và còn biết bao anh chị em người lương chưa biết Chúa.
Thiên Chúa là Cha của hết mọi người, yêu thương hết mọi người và muốn ban ơn cứu độ cho hết mọi người.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các kitô hữu nguội lạnh trở về với tình thương của Chúa, và cho anh chị em người lương có dịp cảm nếm tình thương của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có thành kiến coi thường những người ngoài tôn giáo của chúng ta.
Chúng ta không quan tâm giới thiệu Chúa cho lương dân.
Nhiều khi cuộc sống của chúng ta còn thua kém người lương nữa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 56,1.6-7)
Phần thứ ba của sách Isaia gồm các chương 56-66, được gọi là Ðệ Tam Isaia. Phần này được viết sau khi dân Israel thoát ách lưu đày Babylon, hồi hương về thánh địa.
Ðoạn được trích đọc hôm nay mở đầu phần này. Ðại ý: Thiên Chúa đã đưa dân Ngài hồi hương từ chốn lưu đày. Ngài muốn mở rộng dân này, để không chỉ có người Israel mà có cả lương dân nữa, vì 'nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc'.
2. Ðáp ca (Tv 66)
Ðây là một Thánh vịnh tạ ơn. Nhưng lời tạ ơn này đặc biệt do hai điểm:
Tác giả kêu mời các 'dân ngoại' cùng hợp tiếng với mình mà tạ ơn Chúa: 'Chư dân hãy ca tụng Ngài'
Tác giả cầu xin Chúa tỏ mình ra cho mọi dân tộc trên địa cầu nhìn biết Ngài.
3. Tin Mừng (Mt 15,21-28)
Câu chuyện xảy ra ở miền Tyrô và Siđon, tức là ngoài lãnh thổ Palestina. Nên nhắc lại là dân Israel nghĩ rằng Thiên Chúa là Chúa của riêng họ, Ngài không ban ơn cho dân ngoại. Người phụ nữ trong chuyện là một người ngoại. Chắc bà cũng chia sẻ quan niệm trên. Vì thế khi đến với Ðức Giêsu, bà rất khiêm tốn, tự nhận mình là 'chó con' và chỉ dám xin ăn những vụn bánh thừa từ bàn ăn của con cái trong nhà rớt xuống.
Nhưng Ðức Giêsu, sau khi làm ra vẻ lạnh nhạt để thử đức tin của bà, đã phải nhìn nhận bà có đức tin rất mạnh. Và chính vì có đức tin cho nên bà được kể là con cháu của Abraham và do đó đáng được Ðức Giêsu ban ơn.
Qua chuyện này, Ðức Giêsu cho thấy: con cháu đích thực của Abraham -mà cũng là dân Thiên Chúa đích thực - không phải là những người cùng huyết thống với Abraham, nhưng là những người có đức tin như Abraham, kẻ được gọi là 'Cha của những người tin'.
4. Bài đọc II (Rm 11,13-15.29-32)
Thánh Phaolô nói với những tín hữu Rôma vốn trước kia là lương dân nay đã tin vào Ðức Kitô:
Tôi là tông đồ dân ngoại
Do việc đi rao giảng cho dân ngoại, nếu Phaolô có làm cho đồng bào Do Thái của ông phải phân bì, thì ông cũng chấp nhận, miễn là dân ngoại cũng được cứu độ.
IV. Gợi ý giảng
1. Tin và yêu
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: 'Mẹ ơi con khát quá'. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: 'Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống'
Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng giống Bà mẹ Armenia trong chuyện trên. Vì thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Ðức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị Ðức Giêsu nói nặng là 'đồ chó', bà vẫn không nản.
Những sự kiên trì và khiêm tốn ấy chẳng những chứng tỏ một tình yêu mãnh liệt mà còn chứng tỏ một đức tin không gì lay chuyển nổi. Chính Ðức Giêsu đã đánh giá sự kiên trì của bà là một bằng chứng đức tin: 'Này bà, bà có lòng tin mạnh. Bà muốn sao thì được như vậy'.
Tin và Yêu đi đôi với nhau ban cho người ta một sức mạnh vô địch giúp người ta can đảm, kiên trì và khiêm tốn.
2. Ðức tin của một người phụ nữ ngoại
Người phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm, vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên.
Ðây là cuộc gặp gỡ do Chúa Quan Phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng 'theo luật' của Ðức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nadarét đã phản ứng cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Ðức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Ðứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Ðức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ ấy chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tưởng sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người 'dơ' trở nên mẫu mực cho người 'sạch'. Người mà đáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và 'con chó nhỏ' được ngồi vào bàn ăn của Chúa, sát bên Người.
Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu diếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những 'con chó nhỏ' giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Ðâu là những 'người khách lạ' khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể? (F. Declos, được trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 262-263)
3. Còn hơn là truyền giáo
Giáo huấn Chúa nhựt hôm nay có vẻ như mời gọi chúng ta truyền giáo, đem Tin Mừng của Chúa đến những anh em lương dân.
Thực ra nó còn hơn là truyền giáo nữa. Vì khi truyền giáo, chúng ta muốn dẫn người khác vào đạo của chúng ta. Ðối với những người nào mà ta thấy không có hy vọng đem vào đạo thì chúng ta 'dừng bước'.
Giáo huấn hôm nay không 'dừng bước' trước bất cứ người nào, cho dù họ nhất định không theo đạo Chúa, cho dù họ còn không cảm tình với đạo Chúa. Cho dù họ thế nào đi nữa, ta vẫn xác tín rằng Chúa cũng thương yêu họ như thương yêu chúng ta. Từ niềm xác tín ấy, chúng ta không loại trừ họ, không khinh bỉ họ, không coi họ là 'người khác hệ'. Trái lại chúng ta tôn trọng: tôn trọng suy nghĩ của họ, tôn trọng chọn lựa của họ. Chúng ta cũng yêu thương: yêu thương họ như Chúa yêu thương họ.
4. Chuyện minh họa
a/ Tôn giáo nào có Chúa?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Ðấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa: 'Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?'
Chúa nói: 'Ta không tổ chức hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó'.
b/ Các tôn giáo
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Ðó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Ðiều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi: 'Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào?'
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời: 'Tôi hả? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu'.
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười: 'Hừ, kẻ vô thần'.
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay: 'Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác'.
Chúa Giêsu đồng ý: 'Ðó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát'.
Một người trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng: 'Ngài phải thận trọng. Ngài phải biết là đã một lần Ngài bị đóng đinh vì nói như thế'.
5. Một lời cầu nguyện của dân Ai-len
Chúa tốt lành với bạn trong suốt mọi ngày
Chúa nhân ái với bạn trên mọi nẻo đường
Chúa ban sức mạnh cho bạn lúc thánh giá đè nặng trên vai.
Chúa gửi ánh sáng cho bạn lúc mây mù vây phủ
Chúa ban bình an trong những cơn xung đột
Chúa chúc phúc cho đời bạn chan chứa ơn lành
Chúa gửi niềm vui trong những lúc ưu phiền
Chúa dẫn đường bạn đến tận cửa Thiên đàng (Brian O' Higgins)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Chúa của mọi người, mọi dân tộc. Ngài yêu thương tất cả và muốn cứu độ tất cả. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin Chúa.
1. Hội Thánh là ánh sáng của muôn dân, Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giúp Hội Thánh biết cách giới thiệu hình ảnh Thiên Chúa yêu thương cho tất cả mọi người trong thế giới hôm nay.
2. Trên thế giới, có nhiều nơi đang xảy ra chiến tranh, nhiều nơi nghèo túng khốn khổ. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo những nơi ấy tìm ra những biện pháp hữu hiệu để tái lập hòa bình và giúp dân mình được no cơm ấm áo.
3. Ðất nước chúng ta có nhiều tôn giáo và nhiều người không tôn giáo nào cả. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người đối xử với nhau trong tinh thần tôn trọng và yêu thương.
4. Do thành kiến đạo mình là tốt nhất, nhiều kitô hữu có thái độ khinh miệt những người khác không cùng tín ngưỡng, khiến cho hình ảnh của Thiên Chúa và của Giáo Hội trở thành méo mó xấu xa trước mặt người khác. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta sống hòa thuận, tôn trọng và tương thân tương ái với hết mọi người trong phạm vi giáo xứ của mình.
CT: Lạy Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Ðấng cho mặt trời chiếu sáng trên kẻ lành người dữ, cho mặt trời mọc lên trên tất cả mọi người. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại bao la của Chúa, để chúng con có thể tôn trọng và yêu thương hết mọi người như Chúa đã yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
--------------------------------
(Mt 15:21-28)
Ngày 13.08.2008 vừa qua, từ Houston, chúng tôi phóng xe đi Dallas thăm các nạn nhân xe bus:TN 20-A43
Ngày 13.08.2008 vừa qua, từ Houston, chúng tôi phóng xe đi Dallas thăm các nạn nhân xe bus hành hương Missouri đang nằm rải rác trong các bệnh viện. Chứng kiến thảm cảnh khủng khiếp các Kitô hữu đang phải trải qua, chúng tôi không thể cầm được nước mắt. Chiều về, một người trong chúng tôi thốt lên: “Thế mới biết những người đã tử nạn thật hạnh phúc !” Quả thực, tai nạn đúng ngày 08.08.2008 đã gieo bao thảm họa cho gia đình và bản thân nạn nhân. Người mất vợ. Kẻ mất chồng. Thân thể nạn nhân không còn toàn vẹn như xưa nữa.
Trước biến cố kinh hoàng đó, nhiều người đặt vấn đề: hành hương kính Ðức Mẹ là một việc rất đạo đức, tại sao lại gặp thảm họa như vậy ?
Vấn đề đó có thể có thể tìm được lời giải đáp nơi Tin Mừng hôm nay không ? Người đàn bà ngoại giáo, nhưng lại có một lòng tin rất mạnh (x. Mt 15:28), cũng đã gặp những thử thách rất lớn từ nơi chính Chúa Giêsu. Chúa muốn cho mọi người thấy sức mạnh vô địch của đức tin.
KỲ THỊ HAY THỬ THÁCH
Người phụ nữ dân ngoại đã vượt qua biên giới đến gặp Chúa Cứu thế. Tuy thuộc vùng Tia và Xiđon, nhưng bà không gò bó tầm nhìn cũng như nếp sống loanh quanh trong hàng rào ngoại bang. Cuộc gặp gỡ với Chúa cho thấy đã từ lâu bà làm quen với văn hóa và tôn giáo Do thái. Bà không ngại kêu lên giữa đám người đồng hương: “Lạy Ngài là Con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi !” (Mt 15:22) Lời kêu ấy cũng không đủ che dấu thân thế của bà, dù bà đã cố gắng hết sức để nói lên một sự thật rất quen thuộc trong Thánh Kinh. Bà không phải là người Do thái, nhưng bà đã nhắc đến điểm chính yếu trong niềm hy vọng của dân Chúa dựa trên một lời hứa vô cùng quan trọng, lời hứa do lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Nếu không có lòng tin như bà, người ta chỉ thấy một sự bất công và kỳ thị nặng nề trong thái độ khinh thị và phân biệt đối xử của Chúa.
Nếu muốn thấy rõ con đường sống đạo, chúng ta cần tham khảo với người phụ nữ hôm nay để biết cách tháo gỡ những cơ cấu đã tạo nên sự ngăn cách phi lý giữa con cái Thiên Chúa cũng như nhân loại đang sống trong tình yêu Chúa.
Trước hết, bà dạy chúng ta biết can đảm sống ơn gọi Kitô hữu hòa giải toàn thể nhân loại với Thiên Chúa. Thử đặt mình vào địa vị một người dân ngoại và phụ nữ như bà, chúng ta mới thấy bà thật can đảm khi quyết định chung vai sát cánh với những người đàn ông Do thái như Chúa Giêsu và các môn đệ. Vừa tung hô Chúa là Con vua Ðavít, bà đã đón nhận một thái độ lạnh lùng nơi Chúa. “Người không đáp lại một lời.” (Mt 15: 23) Gặp trường hợp như thế, nhiều người đã bỏ đi và chấp nhận thua cuộc. Nhưng người phụ nữ Canaan không thế. Ðúng hơn, bà càng cố gắng hơn và càng bày tỏ ước nguyện, đến nỗi các môn đệ phải xin Chúa Giêsu làm một cái gì đó cho bà (x. Mt 15:23b).
Thứ đến, chúng ta có thể học nơi bà để biết chú tâm vào điều mà phong trào dân quyền gọi là “hãy chú mục vào phần thưởng.” Khi thấy Chúa Giêsu nói với bà bằng một ngôn ngữ hạ thấp dân tộc: “"Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con," (Mt 15:26) bà không mất bình tĩnh, nhưng không ngừng dán mắt vào mục tiêu của sứ vụ: ngay cả những người ngoài Do thái cũng có quyền lãnh nhận phúc lành Thiên Chúa nơi Chúa Kitô. Lúc đó, nếu không đủ kiên nhẫn, bà có thể đánh mất mục đích. Nhưng vì quyết nhắm tới và dồn cái nhìn vào giải thưởng, bà đã đạt được điều mong đợi. Bà là một khuôn mẫu bất bạo động. Dù biết Chúa xử dụng những ngôn từ không đúng để tấn công bà và dân tộc, bà cũng không đáp lại.
Cuối cùng, chính Chúa Giêsu phải đầu hàng: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15:28) Thế là người phụ nữ đạt được điều bà mong muốn. Bà muốn gởi cho người thời đại hôm nay một sứ điệp: Ðừng sợ ! Ðừng sợ khi phải đương đầu với những thành kiến và sai lầm ngay cả nơi những nơi cao sang hay cả với những người có địa cao trong tôn giáo. Người nhỏ nhất trong chúng ta có thể là phương tiện Chúa dùng đem lại công lý và phương dược chữa lành tất cả những người bất hạnh của Thiên Chúa trên khắp thế giới, một thế giới đang đau khổ vì những bạo động và khủng bố.
Thiên Chúa vĩ đại hơn chúng ta tưởng. Người giải phóng mọi chướng ngại để chúng ta có thể sống làm con cái Chúa. Người tìm mọi cách để chúng ta có thể chấp nhận được “sự điên dại của thập giá.” Nếu chỉ nhìn thập giá với con mắt thường tình, con người dễ đánh giá theo tiêu chuẩn pháp lý. Không có lời giải đáp nơi sự đau khổ tột cùng đó. Nhưng nếu biết mở tấm lòng ra với Thiên Chúa, người ta sẽ tìm được giải đáp thỏa đáng cho những đau khổ hôm nay.
TỪ BỎ HAY BẠO ÐỘNG
Nghe sơ qua hay nhìn từ bên ngoài, có vẻ Chúa dùng những ngôn từ bạo động để tấn công người phụ nữ xứ Canaan. Ngay thái độ im lặng của Chúa cũng mặc hình thức bạo động nữa. Khi mở miệng, hình như Chúa cũng có vẻ kỳ thị chủng tộc. Thái độ Chúa càng tỏ ra cứng rắn hơn khi lạnh lùng tấn công vào chính danh dự cá nhân và lòng tự ái của bà. Thật ra, những ngôn từ mặc hình thức bạo động đó chỉ có mục đích thử thách lòng tin của bà, chứ không nhằm nhận chìm dân tộc và cá nhân bà tới bùn đen.
Có một điểm vô cùng khác biệt giữa Chúa Giêsu và những người bạo động. Chúa không cưỡng bức, nhưng luôn tôn trọng tự do của con người. Trái lại, người bạo động dùng mọi phương tiện bất chính để cưỡng bức người khác thực hiện mưu đồ của mình, bất chấp nhân phẩm, tự do và quyền lợi của con người.
Nhìn bề ngoài Chúa có vẻ cũng bóc lột con người. Nhưng thực ra đó chỉ là những đề nghị. Không ai bắt buộc người phụ nữ ngoại đạo đó phải đi theo và xin Chúa chữa lành cho con bà. Bởi thế, con người cần phải tình nguyện, việc từ bỏ mới giá trị. Bất cứ ai muốn theo Chúa, đều phải từ bỏ tới tận cùng. Ðể theo đuổi kế hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng phải “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” của một vị Thiên Chúa.
Sau khi trải qua cơn thử thách và từ bỏ đến tận cùng, người phụ nữ đã nhận được tất cả. Thực vậy, Chúa quả quyết với bà: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15: 28) Không những con gái bà được khỏi bệnh, nhưng tất cả danh dự và quyền lợi của dân tộc và cá nhân bà đều được phục hồi nguyên vẹn. Ðó là điều những kẻ bạo động không bao giờ có thể đem lại cho con người. Lập trường Giáo Hội rất rõ rệt: “Bạo động là điều ác, không thể chấp nhận bạo động như một giải pháp cho các vấn đề, bạo động không xứng đáng với con người. Bạo động là nói láo, vì chống lại chân lý của đức tin chúng ta, niềm tin của nhân loại hôm nay. Bạo động hủy diệt tất cả những gì nó đòi bảo vệ: phẩm giá, sự sống, tự do của con người.”[1] Thật là một điều cực kỳ mâu thuẫn ! Dân tộc Việt Nam có quá nhiều kinh nghiệm cay đắng về sự mâu thuẫn này!
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi con người phải từ bỏ tất cả. Con người không thể có quyền bính đó, vì con người không thể ban cho đồng loại những giá trị cao cả của con người và siêu việt hơn con người. Ðể có thể đạt đến những giá trị cao cả đó, “thế giới ngày nay cần đến những chứng từ của các sứ giả biết chối từ bạo động và đổ máu, và biết lợi dụng những phương tiện bảo vệ có hiệu lực cho những người yếu thế nhất để bảo đảm nhân quyền cho họ, làm chứng cho đức ái Tin Mừng, miễn là không làm hại những quyền lợi và bổn phận của những con người và xã hội khác. Họ có lý mà làm chứng rằng thật là nghiêm trọng nếu người ta cậy dựa vào bạo động với tất cả sức phá hoại và hủy diệt của nó vì nó sẽ đem lại những nguy cơ về vật chất cũng như tinh thần.”[2]
Trong Tin Mừng hôm nay, nếu Chúa thốt lên những lời bạo động để đem lại những nguy cơ về tinh thần và vật chất cho người phụ nữ xứ Canaan, chắc hẳn bà đã không thể chứng tỏ tất cả sức mạnh đức tin cho Chúa. Muốn lớn lên, đức tin đó phải trải qua những cơn thử thách. Dù đang quá đau khổ vì bệnh tình của người con gái, bà vẫn có dư sức mạnh đức tin để chịu đựng những lời cứng cỏi của Chúa.
Còn hơn những lời cứng cỏi đó, những biến cố không thể hiểu nổi vẫn xảy ra cho những người đầy lòng tin nơi Chúa. Chúa muốn điều gì khi để cho những biến cố đó xảy ra ? Trong ánh sáng đức tin, chúng ta thấy rằng “phát sinh từ hồng ân, chứng từ của tín hữu được nhìn nhận, nuôi dưỡng và trưởng thành. Ðộng lực này làm cho sự dấn thân của họ vào trần gian mang đầy ý nghĩa và đối nghịch với những tính chất hành động của thuyết nhân bản vô thần, một học thuyết thiếu nền tảng cơ bản và bị hạn chế trong những giới hạn hoàn toàn trần tục. Viễn ảnh cánh chung là điểm cốt yếu giúp ta hiểu đúng về những thực tại con người. Từ cái nhìn về những của cải cuối cùng này, người tín hữu có thể dấn thân vào các sinh hoạt trần thế theo những tiêu chuẩn chân chính. Các tiêu chuẩn sống và năng xuất kinh tế không phải là những dấu chỉ độc nhất có giá trị đo lường toàn thể con người trong cõi đời này. Các mẫu mực đó còn kém giá trị khi xét đến đời sống mai sau, ‘vì những tầm nhìn của con người không bị bao vây bởi lãnh vực trần thế mà thôi. Dù sống khung cảnh lịch sử nhân loại, con người còn mang cả một số phận đời đời nữa.”[3]
Chính vì có một tầm nhìn như thế, người phụ nữ Canaan đã cố vươn lên trong cơn thử thách. Bà chẳng nhân danh một ưu thế hay giá trị nào để đòi hỏi Chúa đáp lại lời cầu khẩn. Trước sau, bà chỉ xin Chúa thương cứu giúp bà mà thôi. Có ở trong hoàn cảnh của bà, chúng ta mới có thể cảm thấu trái tim của một bà mẹ đau khổ tới mức nào khi có con gái bị quỷ ám. Bà chỉ biết cầu khẩn lòng thương xót của Chúa đoái thương đến hoàn cảnh của bà. Nếu quỷ không kiêng nể một ai, chắc chắn nó phải sợ Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng và cai quản nó. Bởi đó, bà không ngần ngại đến với Chúa Giêsu.
Bà đã trở thành một mẫu gương sống đức tin cho các Kitô hữu. Chúng ta cần khám phá nơi bà tất cả sức mạnh đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Người đã đến và còn đang ở giữa chúng ta với tất cả sức mạnh cứu độ cho mỗi người chúng ta trong bất cứ cảnh ngộ nào.
LỬA THỬ VÀNG
Xin trở lại biến cố đau thương 08.08.08 vừa qua tại tiểu bang Texas, để tìm câu giải đáp cho một thách đố rất lớn cho đức tin của chúng ta hôm nay. Cuộc hành hương không tới Missouri nhưng vượt qua biên giới trần gian để kính viếng Ðức Mẹ Lên Trời trên Thiên đàng. Những tín hữu ngộ nạn là những người đạo đức và là những phần tử nòng cốt trong các hội đoàn của các giáo xứ Việt Nam tại Houston.
Giống như Chúa Giêsu, họ cũng đã trải qua cuộc hành trình trần gian về quê trời. Không những là một người đạo đức, Chúa Giêsu chắc chắn còn được Chúa Cha yêu mến và đẹp lòng Cha mọi đàng. Nhưng giữa lúc danh vọng đang lên cao, cuộc đời Người giống như “nửa chừng xuân, thoắt gẫy cành thiên hương.” Trên hành trình về Nhà Cha, Người đã làm gì xấu để bị giết cách thê thảm như vậy ? Người đã nói gì xúc phạm đến Thiên Chúa và con người đến nỗi bị đóng chặt hai chân và hai tay vào thập giá, giữa lúc còn có thể đi khắp tứ phương rao giảng Lời Chúa cho muôn dân ?
Ý định và cái nhìn của Thiên Chúa khác hẳn con người. Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã muốn Ðức Giêsu phải ngang qua đau khổ mới bước vào vinh quang. Thiên Chúa cũng muốn cho những người con ngoan của Chúa bước theo Ðức Kitô để đi sâu vào mầu nhiệm tình yêu của Người. Cuộc kết hiệp vô cùng sâu thẳm sẽ đem lại lời giải đáp thỏa đáng nhất cho những bí nhiệm của cuộc sống hôm nay. Thực vậy, thánh Phaolô đã nói, “những ai Chúa đã chọn, Người để cho họ nên giống Con Chúa,” trong trong thập giá cũng như vinh quang.
Tóm lại, ngay tại miền đất Canaan, Chúa Giêsu đã gặp một người phụ nữ dân ngoại. Chúa ngạc nhiên về lòng tin của bà. Chính lòng tin này đã khiến bà vượt qua tất cả những thách đố do Chúa đặt ra. Mặc dù thuộc dân ngoại, bà cũng vượt qua mọi thứ biên giới để đến với Chúa và thừa hưởng tất cả những gì Chúa hứa. Trước mắt, bà đã đạt được điều bà mong muốn cho con gái. Bình an và hạnh phúc đã đến với gia đình bà. Tất cả đều nhờ lòng tin. Bà đã trở thành một gương mẫu cho mọi Kitô hữu hôm nay. Ðức tin quả thực là sức mạnh giải thoát và là lời giải đáp cho mọi ẩn số cuộc đời.
Lạy Chúa, xin Chúa thương ban thêm đức tin để chúng con có đủ sức mạnh vượt qua những thử thách của cuộc sống hôm nay. Amen.
đỗ lực 17.08.2008
[1] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội, 496.
[2] Ibid.
[3] Ibid., 544.
--------------------------------
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN NĂM A (14.08.2011)
[Is 56,1,6-7; Rm 11,13-15.29-32; Mt 15,21-28]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong Phúc Âm không ít lần Chúa Giê-su đề cao lòng tin của những người không thuộc Ít-ra-en: TN 20-A44
Trong Phúc Âm không ít lần Chúa Giê-su đề cao lòng tin của những người không thuộc Ít-ra-en là dân riêng của Thiên Chúa. Trong xã hội ngày nay không thiếu những người lương dân (hay ngoại đạo) lại có đời sống tốt lành bác ái hơn các Ki-tô hữu. Các bài Sách Thánh hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa và Chúa Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể làm người, đã đối xử như thế nào đối với những người bị người Do-thái coi là dân/người ngoại. Và mời gọi chúng ta điều chỉnh quan điểm và cách sống cho phù hợp với quan điểm và cách ứng xử của Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 56,1.6-7): Ta sẽ dẫn những người ngoại bang lên núi thánh của Ta.
1 Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.
6 Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, 7 đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 11,13-15.29-32): Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý.
13 Thưa anh em, tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, 14 mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. 15 Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?
29 Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý. 30 Thật vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục; 31 họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. 32 Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 15,21-28): Này bà, lòng tin của bà mạnh thật.
21 Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!" 23 Nhưng Người không đáp lại một lời.
24 Người đáp: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi." 25 Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” 26 Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con." 27 Bà ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá ra Thiên Chúa:
* Là Đấng coi là tôi tớ của Người bất cứ người ngoại nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh Người. Thiên Chúa cũng đưa lên núi thánh những ai giữ ngày sa-bát và những người tuân thủ giao ước. Thiên Chúa cũng chấp nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ họ dâng trên bàn thờ. Nói tóm lại Thiên Chúa xem xét cõi lòng con người và cách sống của họ chứ không căn cứ trên danh nghĩa hay lý lịch.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã khen ngợi người phụ nữ Ca-na-an có lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng và lòng thương xót của Người. Lòng tin của người mẹ ngoại giáo ấy đã khiến Chúa Giê-su khâm phục và chữa lành cho con gái bà đang bị quỷ ám cách vô cùng khốn khổ.
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa mở lòng đón nhận con dân Ít-ra-en cũng như dân ngoại, miễn là họ sống theo Ý Chúa. Chúa Thánh Thần cũng hiện diện trong lời nói và hành động chữa lành của Chúa Giê-su.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra sứ điệp hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay,
- Một là chúng ta phải kính trọng những người không cùng tín ngưỡng tôn giáo với chúng ta, vì Thiên Chúa còn tôn trọng và chờ đợi gặp gỡ họ trong cuộc sống đời thường của họ.
- Hai là chúng ta phải làm chứng cho anh chị em lương dân sống bên cạnh chúng ta về tinh thần khoan dung, độ lượng, cởi mở, đón nhận, quý trọng của Ki-tô giáo vì mọi người đều là con cái của Thiên Chúa và là anh em của nhau.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay bằng cách tôn trọng, cởi mở, khoan dung đối với những anh chị em lương dân sống cùng làng, cùng xóm, cùng khu phố với mình.
Và bằng cách làm chứng cho những anh chị em lương dân sống cùng làng, cùng xóm, cùng khu phố với mình, thấy thế nào là quan điểm và cách đối xử của Thiên Chúa đối với những người còn ở bên ngoài Giáo Hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, nhất là cho những người thành tâm thiện chí thuộc mọi tầng lớp xã hội loài người, để họ biết tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh để đón nhận Nước Trời và Ơn Cứu Độ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô - nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để các Ki-tô hữu hướng mọi hoạt động phục vụ của mình về những người còn ở bên ngoài Hội Thánh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta để mọi người có được một đức tin mạnh mẽ làm động lòng Thiên Chúa và được Người ban ơn.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đang phải lo âu, sầu khổ vì con cái như người phụ nữ Ca-na-an trong Phúc Âm, để họ nhận được ơn chữa lành của Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng “chạnh lòng thương” trước mọi nỗi khổ của con người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
--------------------------------
( Chúa Nhật XX TN A )
Phải vào đạo Công giáo mới được được lên thiên đàng sao? Vâng, đúng thế. Một thừa sai cách: TN 20-A45
Phải vào đạo Công giáo mới được được lên thiên đàng sao? Vâng, đúng thế. Một thừa sai cách đây khoảng 300 năm không chỉ xác quyết như trên mà còn nói thêm rằng mọi người không vào đạo Công giáo đều xuống hỏa ngục. Một bà thuộc hàng vương tộc nước Việt chúng ta, người đặt câu hỏi trên đây đã nhất quyết không vào đạo Công giáo vì một chức sắc của đạo ấy quả quyết tiên tổ của bà đều xuống hỏa ngục tất tần tật. Và chính bà ta đã thẳng tay đuổi vị thừa sai ra khỏi nhà.
Cần khiêm tốn thú nhận rằng đã một thời Kitô hữu chúng ta tự nhốt mình trong tháp ngà tự kiêu chủ quan: Chỉ có đạo ta mới là đạo thật, chỉ có chúng ta mới nắm trọn chân lý, ngoài đạo ta, anh em lương dân, bà con khác đạo đều là sai lạc sạch sành sanh và không thể được cứu rỗi.
Thử hỏi chân lý ta có được do bởi đâu, phải chăng là nhờ sự truy tìm của trí khôn? Không loại trừ sự góp phần của lý trí, nhưng nguyên lý trí vẫn chưa đủ. Chân lý ta thủ đắc là nhờ lòng tin dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa. Đức tin là ân sủng nhưng không do Chúa ban tặng. Thiên Chúa lại là Đấng giàu lòng từ bi, nhân ái. Người muốn mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định sự thật này với môn đệ Timôtê (x.Tim 2,3-4). Thiên Chúa, Đấng chẳng nể vì hay tây vị một ai, Đấng rộng tay cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn kẻ bất lương, chắn chắn Người chẳng hẹp hòi với bất cứ ai. Tiên tri Isaia công bố rằng mọi người sẽ được Chúa dẫn lên Núi thánh, cho họ hân hoan bước vào Nhà cầu nguyện, vì Nhà Chúa là nhà cầu nguyện của muôn dân nước (x.Is 56,6-7).
Đức tin là do Chúa ban tặng. Thế nhưng đức tin không phải là một món quà cụ thể được trao ban một lần tức thời, nhưng thường là dần dần qua những điều kiện tự nhiên khách quan lẫn chủ quan. Một trong những điều kiện tự nhiên ấy chính là những mối tình chân chính bình thường của kiếp người: Tình phụ tử, mẫu tử, tình phu thê, tình bằng hữu… Một người mẹ, một phụ nữ xứ Canaan, một lương dân hay ngoại giáo đã bày tỏ niềm tin sắt đá khiến Chúa Giêsu phải khâm phục. Đấng Thiên sai cũng đã từng khâm phục lòng tin của một viên sĩ quan bách quản đến nỗi Người khẳng định rằng chưa thấy có lòng tin nào mạnh mẽ như thế trong Israel (x.Mt 8,10).
Viên sĩ quan bách quản và người mẹ xứ Canaan trên đã sớm chân nhận căn tính Thiên Sai của Chúa Giêsu chăng? Điều này chúng ta không thể trả lời cách chắc chắn. Nhưng một điều thật hiển nhiên ta có thể khẳng định, đó là tấm lòng của người phụ nữ ngoại giáo dành cho đứa con và tấm lòng của viên sĩ quan bách quản dành cho người đầy tớ thật sâu đậm và dạt dào. Vì thương con, chị phụ nữ kiên trì lẽo đẽo theo chân Thầy Giêsu. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua chướng ngại của sự tự ái, đồng thời bày tỏ sự khiêm nhu: “Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống” (Mt 15,27). Vì thương người đầy tớ, viên sĩ quan bách quản không ngại ngần đến gặp Chúa Giêsu, một người Do Thái vốn là dân đang bị cai trị, đồng thời lại bày tỏ sự khiêm nhu: “ Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi…” (Mt 8,8).
Theo tiến trình tự nhiên, thì không phải nhờ đã có lòng tin nên ta biết yêu, mà ngược lại nhờ biết yêu thương thì lòng tin của ta dần dà nên vững mạnh. Chúng ta dễ nhận ra hiện thực này qua tương quan đôi lứa. Vì yêu nhau nên đôi bạn trẻ ngày càng tin tưởng nhau hơn là vì đã tin tưởng nhau nên họ yêu nhau. Như thế niềm tin thường khởi đi từ trái tim hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sử Hội Thánh minh chứng rằng người ta đến với đức tin thường là do cảm nhận một mối tình, một nghĩa cử nào đó hơn là do “bị thua lý”. Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin của một Kitô hữu ngã nghiêng, chao đảo hay khô cằn, thì lý do thường thấy là vì đời sống luân lý sa sút hơn là do thiếu hiểu biết, mặc dù ta không thể loại trừ hay giảm nhẹ vai trò của lý trí trong việc gìn giữ và củng cố đức tin.
Trong thời gian rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu thường bày tỏ tình yêu của Người qua việc thi ân giáng phúc rồi sau đó mời gọi người ta tin vào Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi no đủ gần cả vạn người cũng như nhiều phép lạ khác như chữa lành người mù từ thưở mới sinh… là một minh chứng (x.Ga 6,35; 9,35). Ngay đêm Tiệc lý, sau khi cử hành “Lễ tạ ơn” và rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu tha thiết: “Anh em hãy tin vào Thầy…” (Ga 14,1).
Là những người đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được xem là người có đức tin, ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin của mình bằng chính những nghĩa cử bác ái yêu thương. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi khẳng định chân lý này thánh Giacôbê tông đồ trước tiên muốn nói đến hành vi bác ái mà Kitô hữu cần thường xuyên thực thi. Vì trước đó Ngài nói: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hằng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ cần, thì nào có ích lợi gì?” ( Gc 2,15-16 ).
Một sứ vụ gắn liền với căn tính của Kitô hữu, đó là rao giảng tin mừng, là chia sẻ niềm tin mình đã lãnh nhận. Có nhiều cách thế để thực thi sứ mạng truyền giáo, tuy nhiên cách thế xem ra thiết thực nhất, để khởi đầu việc gieo hạt giống đức tin đó là rộng tay chia sẻ tấm lòng của mình qua các mối tình nhân loại chính đáng và phải đạo. Dĩ nhiên không phải dùng của cải vật chất như chiêu bài để câu tín hữu như đã có một thời với “chuyện đạo gạo, đạo bộp bắp, bột xép…”, nhưng phải phát xuất từ một tấm lòng yêu thương chân thật.
Biết yêu thương, dù với những nghĩa cử thường tình của tình nhân loại, thì niềm tin sẽ được củng cố. Được yêu thương thì niềm tin sẽ được gợi mở và dệt xây. Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận những ân tình bình thường của ta để tuôn ban ân sủng đức tin. Có đức tin thì sẽ có sự sống đời đời. Xin đừng quên lời cảnh báo của Thầy chí thánh: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến cùng dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac va Giacop trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt 8,11-12).
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
--------------------------------
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại chuyện một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là: TN 20-A46
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại chuyện một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của của bà. Nhưng không biết nhờ đâu mà bà biết được danh tiếng Đức Giêsu. Bà tin Ngài có thể chữa cho con bà khỏi bệnh. Khi thấy Ngài, bà biết cơ may đã đến, bà tin tưởng con bà được giải thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo này. Bà cầu xin Ngài cứu chữa cho đứa con khốn khổ của bà. Lời cầu xin van nài của bà phát xuất từ lòng tin.
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. "Lạy Ngài là con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi. Ðứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!" (Mt.15:22). Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được? Nhiều lúc ta cũng gặp sự thinh lặng như thế. Ta khắc khoải tự hỏi: Chúa ở đâu? Ngài có nghe thấy tiếng tôi van xin không? Ngài có thấy gì không trước những khổ đau của con người ?
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Đức Giêsu. Bà cứ kiên trì theo sau Đức Giêsu sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi. Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài, nài xin Ngài cứu giúp. Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng: "Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con." (Mt.15:26). Bà có bị sốc không khi Đức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà, không đáng được hưởng phần bánh của con dân Israel? Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.
Bà chấp nhận lối so sánh của Đức Giêsu. Bà chấp nhận mình là dân ngoại, chấp nhận mình chỉ là chó con, chỉ dám trông chờ những mảnh bánh vụn từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con. "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." (Mt.15:27). Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn. Chính vì lòng tin mạnh mẽ đó mà Đức Giêsu đã đáp trả lời cầu xin của bà, đã cho bà được toại nguyện: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”(Mt.15:28). Ngay lúc đó, con gái của bà được khỏi bệnh.
Tin không phải là đòi hỏi. Tin là khiêm tốn chờ đợi tất cả từ tay Chúa, và đón lấy tất cả như “hồng ân nhưng không”.
Chỉ những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.
Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng nản chí, cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.
Đó chính là thái độ ta cần phải có mỗi khi cầu nguyện.
***
Lạy Cha! Con tạ ơn Cha vì những “ơn ban” Cha đã dành cho con… những ơn con nhìn thấy được, và những ơn con đã không nhận ra, vì con cứ nghĩ đó là chuyện tự nhiên trong cuộc đời.
Con thường đau khổ vì những gì Cha đã không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng của Cha.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban, bởi lẽ điều đó có hại cho con, hoặc vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con luôn vững tin vào tình yêu Cha, cho dù con không hiểu hết Thánh Ý nhiệm mầu của Cha đã thể hiện trong cuộc đời con. Amen
Tổng hợp từ R. Veritas
(BĐ1:Is.56,1.6-7 * BĐ2: Rm.11,13-15. 29-32 * PÂ: Mt 15: 21-28)
------------------------------------------
Tin Mừng cho dân ngoại
Lời Chúa hôm nay quả là một Tin Mừng cho dân ngoại.
Sách Ngôn Sứ Isaia đã mở đầu với lời hứa của Thiên Chúa cho “những người ngoại bang” theo: TN 20-A47
Sách Ngôn Sứ Isaia đã mở đầu với lời hứa của Thiên Chúa cho “những người ngoại bang” theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabát, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc" ( Is 56, 1 . 6 – 7 ).
Bài Đáp Ca với Thánh Vịnh 66, 2 – 3.5 – 6 và 8 nói đến niềm vui Ơn Cứu Độ cho khắp cùng bờ cõi trái đất, cho hết các dân tộc: “Chư dân hãy ca tụng Ngài ! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài”.
Thánh Phaolô nhắc lại việc chính ngài là dân ngoại đã trở nên Tông Đồ của dân ngoại để mọi người dân ngoại được Chúa thương xót. ( x. Rm 11, 13 – 15 . 29 – 32 ).
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của một người dân ngoại có niềm tin, niềm tin vào chỗ có uy tín, vì là uy tín của Thiên Chúa. Và khi đã đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, con người ta kiên trì trong thử thách, trước nghịch cảnh, bất chấp mọi cấm cản, mọi xua đuổi khước từ.
Người xứ Canaan, vẫn bị người Do Thái xem thường là ngoại giáo, là giống dân xấu xa tồi tệ, không xứng đáng là con cái Thiên Chúa, là loại “chó con”… Thế mà có một bà Canaan đến với Chúa Giêsu lại nằn nì, năn nỉ xin thương xót bà, vì con gái bà đang bị quỷ ám. Bà bất chấp tất cả mọi ánh mắt khinh bỉ, bất chấp mọi lời xua đuổi loại trừ, bất chấp cả sự lãnh đạm vô tình của Chúa Giêsu: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Bà xin được lòng thương xót. Như thế là biết khiêm tốn nhận ra thân phận Canaan của bà hiện nay không ai thèm thương xót cả ! Kìa những ánh mắt xa lạ, khinh bỉ. Kìa những lời lẽ khiếm nhã. Kìa những thái độ đuổi xua !
Bà mãi nằn nì với Chúa Giêsu cho thấy bà có niềm tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu, nghĩa là, bà vẫn xem Chúa Giêsu là con người có uy tín, có lòng thương. Bà đã kiên trì gõ đúng cửa nhà Đấng có thể cảm thông thương xót bà.
Và khi đã xác tín mình đặt niềm tin đúng chỗ, thì không ai có thể cấm cản nỗi. Có thể bà không nghe câu này “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !”, nhưng bà có thể nhận ra sự chối từ của các môn đệ, vì thế bà kiên trì vượt qua bằng cử chỉ quì sấp mình xuống mà khẩn khoản lạy xin: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Bà cũng vượt qua thái độ rất Do Thái của Chúa Giêsu: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó con" bằng một lý luận rất mộc mạc, đơn sơ phát xuất từ niềm tin của bà: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Có một chi tiết quan trọng là khi các Tông Đồ thảo luận nội bộ với Chúa Giêsu về việc đuổi bà đi, Chúa Giêsu đã cho thấy sứ vụ của mình: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Và đó cũng là sứ vụ của các Tông Đồ, của chúng ta những người theo Chúa: loan tin mừng cho dân ngoại.
Câu chuyện Tin Mừng kết thúc tuyệt đẹp: Chúa Giêsu đã tưởng thưởng cho bà người Canaan, ngoại giáo: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Thay đổi cái nhìn
Lời Chúa hôm nay, trước tiên, mời gọi chúng ta thay đổi cái nhìn của chúng ta đối với tha nhân. Trong mắt Thiên Chúa, không có sự phân biệt kỳ thị. Chúa cũng muốn chúng ta gửi đến mọi người ánh mắt đầy yêu thương và khoan dung của Thiên Chúa. Ai cũng có một thân phận người như nhau, và ai cũng được Chúa yêu thương ban ơn cứu độ. Cái nhìn chủ quan tự phụ luôn dẫn chúng ta đến chỗ lầm lẫn. Bởi vậy, hãy khiêm tốn mà nhìn nhận và tôn trọng sự hiện diện của mọi người. Người đàn bà xứ Canaan, vừa là đàn bà, vừa là người Canaan, cả hai chi tiết đều không tốt đẹp gì, giá trị gì dưới mắt người Do Thái, nhưng Chúa Giêsu đã đảo ngược cái nhìn của họ và dạy cho họ bài học: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Trong đời thường, chúng ta cũng đã bao lần ngộ ra sự lầm lẫn nguy hiểm của mình khi đặt cho tha nhân một đánh giá thấp kém, một cái nhìn khinh bỉ, và cả một sự loại trừ thiếu bác ái. Và còn nguy hiểm hơn nữa là chủ quan rước lấy cái tốt của sự ngọt ngào dối trá, nịnh bợ, khen tặng, đến khi vỡ lẽ ra mới hỡi ôi than thở tôi đã lầm.
Vậy, xin đừng xem thường ý tốt của người mà mình cho là xấu, nhưng hãy biết sợ ý xấu của người mà mình cho là tốt.
Đang có một thực tế không ai phủ nhận được, là, có nhiều người lương dân, chưa được rửa tội, chưa phải là người công giáo, họ đang sống tốt hơn chúng ta.
Đặt niềm tin vào chỗ có uy tín
Bà người Canaan đã để cho chúng ta bài học là hãy đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, vì Người có uy tín. Vì thế, đừng vơ vẩn đặt niềm tin vào người đời, và càng không thể đặt niềm tin nơi những người luôn chống lại Thiên Chúa.
Qua thiên tai kép động đất và sóng thần ở Nhật, người ta ca tụng người Nhật có nếp sống khá văn minh, cụ thể như việc biết nhường nhịn cho nhau, chia sẻ cho nhau và tuân thủ thứ tự lịch sự khi nhận lương thực.
Rồi qua đó, người ta lại đặt một giả sử, nếu chuyện đau buồn ấy xảy ra tại Việt Nam thì sao ! Có văn minh, có lịch sự như vậy không !
Có một lý luận khá là thú vị: Người Nhật xếp hàng lãnh gạo, có đứng ở vị trí hai ngàn thì họ vẫn kiên trì giữ kỷ luật cho đến lúc tới phiên họ, vì họ tin tới phiên họ, vẫn còn gạo để lãnh. Còn người Việt Nam, chen lấn xô đẩy nhau, vì họ không dám tin là đến phiên họ mà còn gạo để mà lãnh hay không !
Cho dù là đặt niềm tin vào người trần gian, thì chắc hẳn chúng ta cũng phải đặt vào đúng chỗ có uy tín, đáng tin cậy, nói được làm được, không nói một đường làm một nẻo, không hứa cuội nuốt lời, không mưu ma kế quỷ úp ngửa như trở bàn tay hai mặt. Ai dám đặt niềm tin vào chỗ mất uy tín ! Liều lĩnh chăng !
“Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người”, nói về lòng người hay thay đổi, vẫn là câu nói với ngụ ý con người tốt đó rồi ra xấu xa chẳng mấy hồi ! Câu này không có dụng ý cho việc xấu trở nên tốt. Cũng vậy, khi đặt niềm tin vào người trần gian, ai cũng rất ngờ vực vì có dám tin được ai trên đời. Tốt đó, rồi xấu đó ! Hoặc, nghe nói rất hùng hồn uy tín, nhưng việc làm thì mất uy tín quá đỗi ! Sự gian tà dối trá trong cái vỏ bọc ngọt tưởng như là uy tín. Hèn chi người ta gọi là mỵ dân.
Lời cầu nguyện với lòng tin vững mạnh và kiên trì
Khi đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa đầy uy tín, chúng ta có thể khẩn khoản nài xin với lòng tin vững mạnh và kiên trì. Cả điều chúng ta xin cho chúng ta và cả điều chúng ta xin cho người khác với lòng bác ái, đều được Thiên Chúa nhậm lời.
Ba năm trước, cũng câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tôi nhớ có buổi chia sẻ thú vị của các Huynh Trưởng:
“Em xin Chúa thương xót em, vì người bạn đời của em đang bị quỷ ám, mà chưa được…”
“Ổng ấy bị quỷ gì ám !”
“Quỷ kiêu ngạo, quỷ rượu chè trai gái… hình như cả lũ bảy quỷ luôn !”
“Quỳ xuống trước bàn thờ, lạy xin, và kiên trì đi. Em xin được rồi. Ông nhà em cũng bị quỷ gái với quỷ rượu, quỷ bỏ lễ Chúa Nhật, đủ thứ quỷ… mà hôm nay đàng hoàng rồi”.
“Tôi thua các bà, bà nhà tôi thì bị quỷ nhan sắc nó ám mãi, nên cứ hai ba ngày lại đến thẩm mỹ viện, mất tiền, mất giờ, mất tình cảm của tôi, cũng chỉ vì câu nói của ai đó: “Em ơi, em còn đẹp lắm”.
“Xin qua chuyện ấy đi, tui nghĩ, nếu có lòng tin mạnh, thì được tất, kể cả nguyện xin rằng: “Xin Ngài thương xót tôi, vì thế giới này, hoặc vì dân tộc này đang bị… quỷ ám !”
Lạy Chúa, xin cho chúng con cái nhìn tốt đẹp đối với anh em lương dân, và cái nhìn sâu thẳm vào lòng mình để thấy lòng mình đang bị đủ các thứ quỷ vây hãm, ám hại. Xin Chúa thương xót chúng con. Chúng con tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Chúa.
PM. CAO HUY HOÀNG, 11.8.2011
------------------------------------------
Có bệnh thì vái tứ phương”, không phải tự nhiên mà dân gian có câu nói để đời, nhưng đây: TN 20-A48
“Có bệnh thì vái tứ phương”, không phải tự nhiên mà dân gian có câu nói để đời, nhưng đây là cả một kho tàng kinh nghiệm của nhân loại trước những nỗi đau thương mất mát do bệnh tật gây ra. Tiền bạc mất, là không mất gì cả, nhưng mất sức khỏe, là đã mất những điều quí giá. Chẳng vậy, nhìn lại lịch sử, con người qua mọi thời đại đều chăm chút truy tìm cho bằng được phương thuốc giúp con người trường sinh bất tử. Mặc dầu, không ai sống mãi mà không chết, nhưng người ta vẫn cứ muốn sống, nhiều khi chẳng phải để hưởng thụ nhưng sống hiển nhiên vẫn hơn… chết chứ !Sự sống mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Chính Thiên Chúa chẳng đã chết cho nhân loại được sống hay sao. Tự bản chất, sự sống là điều tốt đẹp, đáng trân trọng, yêu quí, thế nhưng sống thế nào, sống làm sao, sống đúng bản chất ơn gọi của mình mới quan trọng. Như vậy, không phải con người tham sống sợ chết, mà đúng hơn, bảo tồn sự sống là nhu cầu bản năng Thiên Chúa phú bẩm cho nhân loại. Mặc dầu biết để tồn tại giữa đời, với đời, con người phải vật lộn với không ít gian truân thử thách, nhưng chẳng ai không muốn cố gắng hết mình để sống… cho trọn vẹn kiếp người.
Thực tế, cuộc chia ly nào không gây tang tóc, đau đớn cho người ở lại. Người đi có thể đã hết, nhưng nỗi đau người ở lại phải hứng chịu. Ngày ngày, trên thế giới có biết bao nhiêu cuộc chia ly đẫm máu và nước mắt, những giọt nước mắt chồng khóc thương vợ, vợ lìa xa chồng, cha mẹ, con cái, anh chị… giọt nước mắt nào cũng đau đớn cả. Người ta sống, nhưng chẳng ai muốn sống một mình, mà là cùng sống, cùng hạnh phúc với người thân của mình. Chia lìa, xa cách người thân, như mất đi chính hơi thở và thịt máu mình vậy.
Chẳng thế mà người đàn bà Canaan hôm nay đã khẩn thiết tìm đến Đức Giêsu van xin, nài nỉ. Tình yêu thương mẫu tử đã khiến chị bất chấp tất cả, không nại gì đến sự khác biệt tôn giáo hay tín ngưỡng, chỉ cần nhận biết và tin tưởng người chị đang cầu khấn có khả năng giúp con chị khỏi bệnh: “Lạy Ngài là con vua Đavít xin dù lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm” ( Mt 15, 22 ).
Lời tuyên tín, cầu xin thành khẩn của người phụ nữ dân ngoại hôm nay cho thấy, sự am hiểu của chị về Đức Giêsu là có thật. Chắc hẳn chị đã chứng kiến quyền năng và phép lạ mà Ngài đã làm và đã tin. Không chỉ có thế, mà đúng hơn chị còn tin tưởng mạnh mẽ vào tình yêu thương tuyệt đối của Ngài nữa.
Nhìn lại cuộc tranh luận của chị để thuyết phục cho bằng được Đức Giêsu chữa trị cho con mình để thấy rằng cái ý thức của việc “cầu xin với Đấng” mà chị xin không phải “được chăng hay chớ” – được thì được, chả được thì thôi ! Để đáp lại, Đức Giêsu, Ngài có bao giờ thua lý ai đâu, vậy mà đây, cái lý của con tim, của lòng tin đã khiến chị chiến thắng, Ngài đã bị thuyết phục. Chị đã cầu xin được Đấng cứu độ mang lại sự sống cho con mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” ( Mt 15, 27 ).
Tự nhận mình là người ngoại, tự biết mình là ai, tự nhận mình không xứng đáng, nhưng vẫn tin vào Đấng ban phát nhưng không, Đấng cao cả, quảng đại. Là người không thuộc về Thiên Chúa, nhưng chị vẫn tin tưởng tuyệt đối vào tình thương vô biên của Ngài. Một niềm tin mạnh mẽ, lớn lao quá, mà chả phải ai cũng thủ đắc được. Chính niềm tin vững mạnh ấy giúp chị được toại nguyện, niềm tin của chị đã cứu độ chị và con chị. Nó mạnh mẽ đến độ Đức Giêsu phải ngạc nhiên: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao được vậy” ( Mt 15, 28 ).
Có nhiều nguyên nhân, động lực thúc đẩy người phụ nữ dân ngoại làm nên câu chuyện lịch sử, không kế đến nguyên nhân phát sinh từ tình mẫu tử đứng trước cái sống cái chết trong tình trạng thập tử nhất sinh của con mình, người mẹ có thể làm tất cả vì con mình, ngay cả hy sinh tính mạng, còn phải nhắc đến niềm tin như đã được đóng ấn. Xác tín mạnh mẽ và tuyệt đối với Đấng mà mình tôn thờ, nài xin, chị thật hạnh phúc vì được toại nguyện với những gì mình trông đợi.
Cũng vậy, khi đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, con người sẽ có được hạnh phúc với những điều mình tin tưởng, chờ đợi, bởi Ngài là Chủ, là Đấng quyền năng, yêu thương và ban phát. Quan trọng là nhân loại có biết kiên nhẫn trước những gian nan thử thách, để bước đi đến cùng trong niềm tin hay không. Đứng trước mất mát, hay chông gai, chống đối, vội vàng bỏ cuộc không phải là niềm tin của người đặt trọn tín thác vào Thiên Chúa.
Lạy Chúa, nhìn lại hành động tuyên tín của người phụ nữ dân ngoại, con mới thấy hổ danh làm người Kitô hữu. Tự hào làm con cái Thiên Chúa nhưng thực tế niềm tin hời hợt, mỏng dòn, yếu đuối. Nếu đã tôn thờ Thiên Chúa và tuyên tín vào sức mạnh quyền năng của Ngài, sao con còn mãi hoài nghi ngờ vực, đứng trước khó khăn thử thách đã thấy muốn buông xuôi bỏ cuộc.
Thiên Chúa yêu thương nhưng tôn trọng tự do thờ phượng, Ngài chờ đợi đáp trả như là phương thế để kín múc được sức mạnh mang lại ơn cứu độ cho con. Niềm tin đã giúp người phụ nữ có được sự sống, cho nên thái độ sống niềm tin sẽ mang lại án phạt nếu con không kiên vững đến cùng.
Lạy Ngài – con vua Đavít, xin cứu độ con, con yêu lời cầu xin này biết bao. Vì chưng, nó tiềm ẩn sự thành khẩn ở tận đáy lòng. Tự sức mình con chỉ có yếu hèn và tội lỗi, chẳng thể làm được gì nếu không nương nhờ vào sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Lạy Ngài, xin nâng đỡ niềm tin yếu kém của con…
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
------------------------------------------
“Đàn rơi phiếm rũ, sầu mưa gió,
Nguyệt khuất mây mờ, lạnh khói sương”
( dẫn từ thơ Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân )
Sầu mưa gió. Lạnh khói sương. Có thể đó là cảnh tình của người đời. Đàn rơi phiếm rũ. Nguyệt: TN 20-A49
Sầu mưa gió. Lạnh khói sương. Có thể đó là cảnh tình của người đời. Đàn rơi phiếm rũ. Nguyệt khuất mây mờ. Nhưng cũng chưa hẳn là tình tự của người trong Đạo bấy lâu nay.
Tình tự nhà Đạo, nay Thánh Mátthêu kể về người phụ nữ xứ Canaan gặp Chúa, rất cảm kích mới có lời xin. Xứ Canaan có thủ phủ Tya và Siđôn là đất miền cận duyên, bên bờ Địa Trung Hải. Hai thị trấn cách đất liền đến 80 cây số phía Nam Phênixia. Hôm nay, thánh sử kể về các sinh hoạt khác thường của Chúa ngoài đất nước Do Thái ở xứ Canaan.
Về sinh hoạt Chúa làm bên ngoài xứ miền Do Thái, Thánh Mátthêu kể cũng khá nhiều. Nhưng không nói lý do tại sao Chúa lại đi xa như thế. Có thể, Chúa đã mệt vì đường xa xứ lạ. Ở đây người phụ nữ xa lạ đã đón Chúa vào làng. Cũng có thể, luận cứ ở truyện kể còn quan yếu hơn chi tiết địa dư khoảng cách.
Trình thuật nay là truyện kể người phụ nữ “ngoài luồng” và con gái bà lâm bệnh. Đúng ra là, mẹ con sinh sống ở xứ miền Phênixia. Với người Trung Đông, Canaan là một trong những địa danh có tên rất xấu, gồm toàn những người lạ kỳ, và cũng nhiều thứ ít thấy trong Thánh Kinh.
Nói gì thì nói, bà Canaan đây, thuộc lớp người ngoài Đạo, là người dưng khách lạ mà lại được Chúa đón nhận như người trong cuộc. Bởi thế nên, luận điểm đề cập nơi trình thuật hôm nay là để nhấn mạnh lối hành xử rất nhân lành hầu đón nhận người ngoài vào với cộng đoàn Hội Thánh mình.
Trình thuật nhấn mạnh khuynh hướng gọi họ bằng những tên rất xấu để loại bỏ. Loại và bỏ, như người thời nay khi nói đến dân con Ả Rập, Hồi Giáo, người người có thói quen chụp lên người họ những mũ chụp thiếu thanh tao lịch sự, như… dân Rệp hoặc đám Hồi Giáo khủng bố. Và trình thuật cũng nói đến cung cách Chúa dung nạp những người mang tai tiếng, xấu đến như thế.
Mặt khác, bà này lại có người con vướng mắc một thứ tật bệnh mà người thời ấy gọi là “quỷ tha ma bắt” khiến bà phải gào thét đến cuồng điên, cốt để Đức Chúa Nhân Hiền nghe biết đến bà, chữa trị cho con gái bà. Ngài có chữa kẻ ngoài luồng mắc chứng dơ bẩn hay không, đó mới là vấn đề. Và dân thường thời bấy giờ vẫn còn thắc mắc.
Kể ra, thì bà Canaan dù ngoài Đạo, nhưng đã tin Đức Kitô, nên bà gọi Ngài là “Con Vua Đavít“. Với Thánh Mátthêu, bà là người đầu tiên trong Kinh Thánh, dám tuyên xưng Ngài là Chúa bằng miệng lưỡi. Chính bà là người dùng lời khẩn cầu Phụng Vụ và Thánh Vịnh của các đấng bậc từng tuyên tín vào Đức Kitô, như lời kinh Phụng Vụ lâu nay vẫn nhắc: “Xin Chúa thương xót chúng tôi.”, một lời kinh bằng tiếng Hy Lạp, rất… “Kyrie eleison”, trong Thánh Lễ. Bà còn bái gối lạy quỳ trước mặt Ngài, một động thái khẩn nài ít thấy nơi người Do Thái, khi nhắc nhớ điều gì với Giavê Thiên Chúa.
Nói rõ hơn, người đàn bà ngoài Đạo đã van xin Chúa một ân huệ, rất khó thực hiện: là xin Ngài vượt lằn ranh thói tục luôn chê bai kẻ hạ cấp thấp hèn như mẹ con bà, những kẻ bị đào thải khỏi mọi chọn lựa trở nên dân riêng của Giavê. Bà xin Ngài thực hiện điều mà Giavê Đức Chúa không có chọn lựa nào khác ngoài việc đưa toàn thể mọi người về với tình thương. Cả khi đồ đệ Ngài bày tỏ: “Hãy bảo bà ấy đi đi, đừng đến mà làm phiền Thầy.”
Nơi trình thuật, chừng như Đức Giêsu đã thách thức lời kêu cầu của người đàn bà bằng lời từ chối. Đây là việc ít thấy ở Tin Mừng mà các Thánh vẫn ghi. Bởi lẽ kinh nghiệm cho thấy, hễ ai kêu cầu Chúa điều gì, Ngài vẫn đáp ứng bằng đáp ứng trọn vẹn cho người ấy. Trường hợp ở đây, không giống thế. Ngài không ứng đáp lời kêu cầu của người phụ nữ “ngoại luồng”, là bởi vì Chúa Cha gửi Ngài đến với dân con được chọn mà thôi. Sứ vụ Ngài thực hiện, chỉ dành cho dân con người Do Thái, rất đích thực. Chính vì thế, mà người đọc mới nghe thấy những câu so sánh cũng khá lạ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con ( ở ngoài )." ( Mt 15, 26 ). Bằng vào lời này, ta thấy người Do Thái xưa vẫn coi dân “ngoài luồng”, rất thấp hèn. Thách thức ở đây, còn có nghĩa: Chúa phản ứng như người Do Thái bình thường sống theo luật, không để lời nài van từ ngoài, áp lực Ngài hành xử ngoài ý định của Cha.
Nhưng, nữ phụ Canaan vẫn thưa: ”Đúng thế, thưa Ngài, nhưng lũ chó con cũng được hưởng vụn bánh trên bàn chủ, rơi xuống." ( Mt 15, 27 ). Điều mà bà goá xứ Canaan muốn nói đến là: loài chó nuôi trong nhà, tuy chạy rong ngoài đường, nhưng cũng được hưởng ơn lành như thú đã thuần hoá. Tức phải được hưởng công bằng cần thiết. Bên tiếng Hy Lạp, mỗi khi nói đến loài chó nuôi, là nói đến gia súc sống gần gũi với chủ, do đó ít nhiều cũng được đối xử như người nhà, gần chủ nhà. Tức cũng có chỗ đứng, ngồi gần bàn tiệc, dù dưới gầm. Và đây là trọng điểm mà vấn đề trình thuật đặt ra.
Ngay đó, Chúa thay đổi cung cách Ngài đối thoại bằng ngợi khen niềm tin của người đàn bà. Trình thuật không nói rõ đó có là niềm tin vào Ngài, vào Chúa hay không. Nhưng, bà Canaan lại đã chứng tỏ rằng bà vẫn là bản vị hiện hữu cần được đối xử như người trong cuộc. Xem thế thì, qua việc khen ngợi niềm tin của bà goá, Chúa muốn bảo cho mọi người biết: người phụ nữ “ngoài luồng” này, nay đã là người trong cuộc. Tức đã có trọng trách khiến cho người dưng khách lạ thấy được sự công bằng cần có, khi đối xử với người trong cuộc, trong Đạo. Tức cần dân con trong Đạo yêu thương, đón nhận họ để họ trở nên thành viên Hội Thánh, như mọi bản vị biết thương yêu, nhân hiền, cởi mở.
Cũng có thể, Thánh Mátthêu đã ghi lại tâm tình của Chúa muốn nói đến các chủ thể lâu nay vẫn bị coi rẻ như loài chó, cốt để thử thách niềm tin mà thôi. Kịp khi người phụ nữ Canaan sẵn sàng chấp nhận thân phận thấp hèn lâu nay của mình, bị đối xử tồi tệ như loài thú, nhưng vẫn muốn được yêu thương trọng đãi như người nhà. Bởi loài chó lâu nay vẫn được coi là gia súc rất trung thành với chủ mình. Vậy thì loài gia súc đã thuần hoá, có thuỷ chung với người trong nhà hay không ! Nữ giới trong cuộc có được đối xử đồng đều như nam nhân không ! Có được yêu thương kính trọng không thua kém nam nhân không !
Đó là qui cách mà người đàn bà Canaan dùng đến, cốt để thuyết phục Chúa. Chính bà là người dám bộc lộ với Chúa tâm trạng của người “ngoài luồng”. Và kêu cầu của bà, chính ra là để mọi người trong cuộc nên coi lại mà đối xử bà ngang bằng như người trong cuộc, một khi dân con của Chúa tin vào tình thương và sự lương thiện. Đây còn nói lên một đặc trưng yêu thương là không bao hàm yếu tố lằn ranh, biên giới, trong với ngoài !
Ngay đến ý định của Chúa Cha khi chọn lựa con dân trong hoặc ngoài luồng để cứu rỗi, cũng giống như thế. Chúa có tự do thực hiện việc chữa lành cho bất cứ ai, kể cả những người trong hay ngoài luồng. Họ vẫn là những hữu thể, cũng tử tế, ngang bằng nhau. Và họ cởi mở, ăn ở phải phép hệt như nhau. Lời nài van của người phụ nữ, tuy không nói rõ, nhưng đã chứng minh được điều đó. Và kết quả là: Chúa đã ban cho bà những gì bà khẩn nài. Con gái bà được chữa lành. Vậy ý của trình thuật Thánh Mátthêu muốn nhấn mạnh, là hãy coi khách lạ người dưng như người nhà vậy.
Điều khác nữa là: thông thường thì, loài thú ít được nhắc đến ở Tin Mừng. Nhưng khi đã được nhắc nhở, chúng đều có tên. Ta biết được tên loài thú vào hôm kiệu lá, lễ Vượt Qua, là chú lừa. Và loài vật được nói đến khi Thánh Phêrô chối bỏ Thầy mình, là con gà trống. Ngoài ra còn có: chiên lạc, dê hiền, đàn heo sạch v.v...
Có vị Giáo Lý Viên nọ người Pháp, vẫn quen thói đặt tên cho một số loài thú được nhắc đến ở Tin Mừng, như: chú lừa vào lễ Vượt Qua gọi là “lừa Placido”. Gà trống hôm Thánh Phêrô chối Chúa, là “gà Archibald” v.v… Còn chó nuôi trong nhà, ở trình thuật hôm nay, nên đặt tên gì đây !
Còn một điều cần kể thêm, là: ở trình thuật các Thánh ghi, bất cứ ai được Chúa chữa lành, đều đã trở thành đồ đệ đắc lực, quyết theo chân Ngài, mà rao giảng. Con gái của người đàn bà xứ Canaan đây, có làm những việc như thế không !
Tựu trung thì, bài học Thánh Mátthêu để lại nơi người đọc hôm nay, là khi nghe ai đó gọi người Ả Rập bằng những tên rất xấu, như “dân Rệp”, hoặc “bọn Hồi giáo chuyên khủng bố” v.v… thiết tưởng người nghe và đọc Tin Mừng cũng nên liên tưởng đến chú chó vẫn nằm chực dưới gầm bần của chủ, để được hưởng ơn mưa móc của người trong nhà. Suy cho cùng, loài chó nuôi trong hoặc ngoài nhà, vẫn là gia súc được yêu thương, nể trọng. Không phải vì chúng sở hữu đặc tính trung thành với chủ, mà vì chúng được coi như một thành viên trong gia đình, không là kẻ dưng nước lã xa lạ nữa.
Sở dĩ Đức Giêsu là Đấng chữa lành mọi người, trong ngoài nhà Israel, vì Ngài là Đấng Nhân Hiền trong cuộc, rất cao cả. Học được bài học quý giá rút tỉa từ trình thuật hôm nay, hẳn người nghe và đọc, sẽ quyết tâm noi gương lành của Chúa mà xử thế, xử giống như Ngài vẫn dạy.
Với tâm tình đó, cũng nên ngâm nga lời ca mà người nghệ sĩ trích dẫn ở trên, từng bộc bạch:
“Gương hờn tủi phận, vùi son phấn,
Lược trách buồn duyên, lỡ đá vàng !
Hương sắc đắm chìm, thân mệnh bạc,
Thương lòng xót liễu, rụng đài trang !”
( Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân – Thương Tiếc )
Thương và tiếc, không chỉ “xót liễu, rụng đài trang” thôi, mà còn “trách buồn duyên, lỡ đá vàng”. Trách và thương, những ai vẫn cứ coi dân “ngoài luồng” như chú chó chạy ngoài đường, không thương tiếc, mà quên rằng, Chúa vẫn tiếc và thương hết mọi người, mọi loài, vào mọi thời.
Lm. NGUYỄN ĐỨC VINH SANH, bản dịch của Mai Ta
------------------------------------------
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của – Charles E. Miller)
Đôi khi có vẻ như thời đại này có nhiều cuộc tranh cãi nhất bên trong Giáo Hội. Những người Công: TN 20-A50
Đôi khi có vẻ như thời đại này có nhiều cuộc tranh cãi nhất bên trong Giáo Hội. Những người Công giáo tranh cãi với nhau về nhiều điều và phương tiện truyền thông đại chúng giống như thế gian tin rằng nước Mỹ chống lại mọi điều Đức Thánh Cha đã nói. Khi những cuộc tranh cãi kết thúc trong oán ghét và chia rẽ, chúng ta biết rằng chúng thật tai hại.
Thật sự là không có gì trong Giáo Hội hiện nay của chúng ta có thể so sánh với sự tai hại và cay đắng trong cuộc tranh cãi nơi Giáo Hội tiên khởi giữa người Do thái và dân ngoại trở lại với đức tin. Những người Kitô hữu Do thái, những người được gọi là “những người nhiệt thành” tin rằng những người dân ngoại muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải được cắt bì và theo luật Môisen. Nói cách khác, họ phải trở thành người Do thái trước đã. Những người dân ngoại thì nhấn mạnh là Chúa Giêsu đã thực hiện mọi việc mới rồi. Người đã mở rộng sự mời gọi cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc để thân mật với Thiên Chúa của Israel, Đấng là Thiên Chúa thật.
Sự mời gọi của Người đã được tiên báo trong sách tiên tri Isaia. Bài đọc chúa nhật hôm nay được lấy từ phần thứ ba trong sách tiên tri Isaia. Đoạn văn ấy nói về những người Do thái trở về sau cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị những người ngoại quốc xâm chiếm và họ rất phẫn nộ. Những người Do thái trở về luôn bị cám dỗ phải đánh đuổi những người ngoại quốc hoặc họ phải nghe theo lời giảng dạy của tiên tri isaia, lời ấy nói rằng những người ngoại quốc ấy có thể hợp làm một với họ và đáng được Thiên Chúa chấp nhận. Chúa nói qua miệng tiên tri rằng: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân nước”.
Chủ nghĩa đại kết là một bài học khó nhai đối với người Do thái. Đó là lý do vì sao vào thời Chúa Giêsu và ngay sau đó diễn ra một cuộc tranh cãi mạnh mẽ về chỗ của người dân ngoại. Người đàn bà xứ Canaan trong bài Phúc Âm hôm nay không phải là người Do thái, bà ta là người dân ngoại. Các môn đệ của Chúa Giêsu muốn Người đừng làm gì cho bà ta và muốn đuổi bà ấy đi. Khi người đàn bà cự lại và xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho con gái bà, Chúa Giêsu đáp: “Không lý gì lại lấy thức ăn của con cái mà ném cho chó”. Tại sao Chúa Giêsu lại nói nặng lời như thế và điều đó có ý nghĩa gì? Thật ra những lời của Người chỉ là tiếng vang của những người Giuđa không muốn Người làm gì cho dân ngoại và coi dân ngoại như chó vậy. Thánh Mathêu khi viết Phúc Âm, ngài đã hy vọng rằng khi nghe những lời nặng nề khó nghe trên môi miệng của Chúa Giêsu sẽ làm cho những người nghe bị sốc vì sự loại bỏ dân ngoại đến cỡ nào. Người đàn bà với đức tin của mình đã chiếm được ân sủng nơi Chúa Giêsu.
Ngày nay, chúng ta không nghĩ rằng mọi người phải trở thành người Do thái trước khi trở thành người Công giáo nữa. Nhưng chúng ta có thể thực hành những hình thức khác của sự loại trừ. Trong một số vai trò hình thức cũ đã trở lại “chống chủ nghĩa Semit” ngày nay đã thay thế “chủ nghĩa bài dân ngoại” của thế kỷ Kitô giáo đầu tiên. Chủ nghĩa chủng tộc là một vấn đề nghiêm trọng nơi xã hội của chúng ta ngày hôm nay. Oán ghét dân nhập cư, nhiều người trong những phong trào đó, mang danh là người công giáo, đã được gán cho một từ rất lạ, chủ nghĩa “bài ngoại”.
Từ mà chúng ta sẽ tập trung chú ý là “người Công giáo”. Từ đó nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là một Giáo Hội toàn cầu, bao gồm cả thế giới, Giáo Hội thân thiết với mọi dân tộc. Mọi nhà thờ công giáo đều là nhà cầu nguyện cho tất cả mọi người. Ở đó Thiên Chúa đã tự hiến vì tất cả chúng ta, không phải là những bánh vụn rơi từ bàn ăn nhưng là Thịt và Máu Chúa. Chúa đã đến với chúng ta trong Bánh Thánh, là Chúa của mọi dân tộc. Trở nên tín hữu của Người là chấp nhận tất cả mọi người không loại trừ một ai hết.
------------------------------------------