Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 22 TN-A Bài 51-100: Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 16, 21-27: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 22-A51. Phải từ bỏ mình. 2
TN 22-A52. Theo Chúa, chúng ta tìm và mong đợi điều gì?. 4
TN 22-A53. PV/516- THẬP GIÁ.. 8
TN 22-A54. Tiền của. 9
TN 22-A55. Thập giá: Con đường chúng ta đi 11
TN 22-A56. Hai con đường – Lm Nguyễn Ngọc Long. 14
TN 22-A57. Thọc gậy bánh xe. 16
TN 22-A58. Đức Giêsu tiên báo khổ nạn lần thứ nhất 18
TN 22-A59. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 24
TN 22-A60. Chú giải theo Fiches Dominicales. 27
TN 22-A61. Chú giải của Noel Quession. 31
TN 22-A62. Theo Chúa, phải từ bỏ mình và vác thập giá. 35
TN 22-A63. Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ. 38
TN 22-A64. Con đường vinh quang ngang qua Thập Giá. 41
TN 22-A65: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI CN 22 TN A.. 47
TN 22-A66: Bỏ Mình Vác Thập Giá Theo Thầy. 51
TN 22-A67: Vào Trong Vinh Quang Ngang Qua Thập Giá. 54
TN 22-A68: LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT.. 61
TN 22-A69: THẬP GIÁ VÀ NGƯỜI MÔN ĐỆ.. 67
TN 22-A70: Phêrô, con chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người! 70
TN 22-A71: THEO CHÚA.. 73
TN 22-A72: Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình. 75
TN 22-A73: Từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này. 76
TN 22-A74: CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN.. 79
TN 22-A75: TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA.. 84
TN 22-A76: CSTM/201- ĐAU KHỔ.. 86
TN 22-A77: SCĐ / 451- TỪ BỎ.. 88
TN 22-A78: CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ ĐỂ BIỂU TỎ TÌNH YÊU.. 89
TN 22-A79: Suy Niệm của JK.. 92
TN 22-A80: Dự phần vào tình yêu đang đưa mọi người tới hiệp nhất 95
TN 22-A81: CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ.. 98
TN 22-A82: Chấp Nhận Thập Giá và Sẵn Sàng Hy Sinh. 101
TN 22-A83: Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình. 103
TN 22-A84: SỐNG CHẾT BẰNG NIỀM TIN VÀO CHÚA GIÊ-SU.. 105
TN 22-A85: Theo Dấu Chân Chúa. 110
TN 22-A86: Một Đời Phục Vụ. 111
TN 22-A87: CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG.. 113
TN 22-A88: Mất và được. 114
TN 22-A89: Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình. 116
TN 22-A90: Ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình. 119
TN 22-A91: ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ THEO ĐỨC GIÊ-SU.. 121
TN 22-A92: CƠN CÁM DỖ NGỌT NGÀO.. 124
TN 22-A93: DÁM LIỀU VỚI CHÚA VÀ VÌ CHÚA ! 127
TN 22-A94: Phải từ bỏ chính mình. 129
TN 22-A95: SẲN SÀNG CHIA SẺ THÂN PHẬN MÌNH VỚI THẦY GIÊSU.. 131
TN 22-A96: Cuộc “hành trình về Giêrusalem” vẫn đang đợi chờ phía trước. 135
TN 22-A97: Suy niệm của Noel Quession. 140
TN 22-A98: Danh chính thì ngôn thuận. 144
TN 22-A99: Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình. 146
TN 22-A100: Hãy lui lại đằng sau Thầy mà vác thập giá. 149
------------------------------------------
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật XXII Thường Niên năm A hôm nay tiếp TN 22-A51
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật XXII Thường Niên năm A hôm nay tiếp tục đoạn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chúng ta đã chia sẻ với nhau trong Chúa Nhật tuần trước. Sau khi hỏi các tông đồ: "Người ta bảo Con Người là ai?", và Chúa Giêsu hỏi chính các tông đồ; "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?", Phêrô đại diện cho các tông đồ tuyên xưng đức tin: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống".
Từ sau lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các tông đồ biết rõ hơn về vận mạng cuối cùng của Ngài, đó là con đường khổ nạn mà Ngài sẽ phải thực hiện lại Giêrusalem. Lúc đó Phêrô lại can ngăn Chúa: "Lạy Thầy, không thể được, không phải như vậy đâu. Nhưng Chúa Giêsu quở trách Phêrô và tiếp tục mạc khải về những điều kiện để theo Chúa: "Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá rồi hãy theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống đời lời. Nếu ai được lời tãi cả thế gian mà mất lình hồn thì được ích gì!".
Chúa Nhật tuần trước chúng ta đã cùng nhau chia sẻ về cuộc đời của người Kitô, và chúng ta đã nói nơi người Kitô có hai con người: Một con người tuyên xưng đức tin vào Chúa, tức là một con người chấp nhận cộng tác với ơn thánh của Chúa để rồi có thể tuyên xưng đức tin, giữ vững đức tin của mình. Và con người thứ hai là con người cũ, con người có những khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi và và các đam mê xấu xa. Con người cũ đó cần phải thanh tẩy để mỗi ngày con người mới được trở nên mạnh mẽ hơn.
Hôm nay chúng ta tiếp tục chia sẻ về đề tài này, về đời sống của người Kitô hữu theo chân Chúa. Xin được kể ra một câu chuyện vui như sau:
Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng. Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ Makia giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác. Trước vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu thêm: Đây là nữ thần Jupia có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên Thập tự như thế này và đạo sĩ chậm rãi trả lời: "Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Kitô". Với chút xúc động lộ trên gương mặt, anh Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên Thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: "Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một thì cất mất sự đau khổ, còn một thì đề nghị tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích người nào cả. Thế nhưng lại sao giờ đây anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên Thập tự như vậy?”
Anh Intyra giải thích cho đạo sĩ Makia: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa suông, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống khiếp hèn tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né khỏi đau khổ. Vì tránh được sự đau khổ này thì sự đau khổ khác cũng sẽ tới.
Tuy nhiên, nhìn vào vị Chúa của người Kitô chấp nhận đau khổ vì người Kitô trên Thập giá như vậy, con người được mời gọi hiểu ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Hơn nữa, một khi hiểu và chấp nhận mầu nhiệm đau khổ, thì niềm vui và an hoà có thể trổ sinh trên trái đất này. Đó là lý do tôi cảm thấy lại sao bị thu hút bởi Đấng chịu chết trên Thập giá và muốn làm môn đệ của Ngài. Vậy xin đạo sĩ hãy đưa tôi đến nơi mà người Kitô sống để được trở thành người Kitô.
Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta chấp nhận theo làm môn đệ, Ngài không hứa cho chúng ta được danh vọng, giàu sang, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: "Nếu ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá hằng ngày mà theo Ta. Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống muôn đời".
Đây là một sự thật hết sức tốt đẹp mà có thể nhiều người hay mỗi người trong chúng ta thường tặp đi tặp lại nơi chính mình. Nhưng nếu chỉ tặp đi tặp lại ngoài môi miệng mà thôi thì không sinh ích lợi gì, chúng ta cần phải sống và thực hành những chân lý ấy
Câu chuyện về anh Intyra và nhà đạo sĩ Makia còn một đoạn kết thúc nữa, đó là lúc đạo sĩ Makia hướng dẫn anh Intyra đến nhà thờ những người Công giáo để xin lãnh Bí tích Rửa tội. Khi bước vào làng của người Công giáo thì hai người chỉ nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp. Đây thì có nhóm những người đang cãi lộn với nhau nơi khác thì giống như sắp giết nhau, nơi công cộng thì vang lên những lời nói tục tằn vô lễ Intyra hỏi nhà đạo sĩ: "Đây là đâu vậy?" Đạo sĩ Makia trả lời: "Đây là làng của người Công giáo". Vừa nghe qua những lời này, Intyra thúc giục nhà đạo sĩ: Chúng ta hãy đi nơi khác, tôi mộ mến vào Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, nhưng tôi không muốn trở thành người Kitô nữa.
Nếu chúng ta chỉ nói: "Lạy Chúa, Lạy Chúa" ngoài môi miệng mà không sống thực hành trong đời sống của mình, có thể chúng ta sẽ rơi vào trường hợp như đã xảy ra trong câu chuyện vui trên. Chúng ta nói mình sẵn sàng theo Chúa, chấp nhận làm môn đệ của Ngài, chấp nhận những hy sinh, chấp nhận đi trên con đường Thập giá, nhưng trong đời sống chúng ta có thự hành điều này hay không?
Xin Chúa giúp chúng ta được thực sự sống những gì mỗi người chúng ta tin, thực hành những gì chúng ta nói, không phải để khoe khoang, nhưng để góp phần của mình làm tốt cho xã hội chúng ta đang sống, góp phần giúp anh chị em xung quanh đến với Chúa và chính chúng ta là người đầu tiên phải đi trên con đường này để đến với Chúa trước tiên, thì mới có thể hy vọng giúp anh chị em đến với Chúa được. Xin Chúa gìn giữ tất cả chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người ta tìm thấy lá thư của một người tù Do Thái tại trại giam Auschwitz. Lá thư viết bằng máu TN 22-A52
Người ta tìm thấy lá thư của một người tù Do Thái tại trại giam Auschwitz. Lá thư viết bằng máu, được nhét trong một lọ thủy tinh. Lá thư có nội dung như sau: Tôi là một người Do Thái, tôi tin vào Thiên Chúa của tôi, tôi yêu chuộng lề luật của Ngài. Làm người Do Thái thì khổ lắm vì đã nhiều lần bị Thiên Chúa của mình hành hạ gần như đến chết mới thôi. Thế nhưng, tôi vẫn tin và vẫn yêu mến Thiên Chúa của tôi. Tôi thượng tôn lề luật của Ngài, dù có những lúc Ngài đánh tôi, hất hủi tôi, nhưng tôi vẫn tin vào lề luật của Ngài, dù như có những lúc Ngài làm mọi cách để tôi từ bỏ Ngài, từ bỏ lề luật đáng kính của Ngài, nhưng tôi vẫn yêu Ngài, vẫn theo Ngài cho dù Ngài có bỏ tôi đi nữa….
Thưa quý OBACE, đọc tâm sự trong lá thư trên của một người tù Do Thái đang cận kề với cái chết trong trại tập trung kinh khủng nhất của nhân loại, mà ông vẫn thể hiện lòng tin và sự trung thành với Thiên Chúa và lề luật của Ngài như thế, quả là điều xúc động và đáng để chúng ta suy nghĩ. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta bị giằng co khi tin Chúa, theo Chúa. Nhiều người nghĩ rằng tin Chúa, theo Chúa là tìm kiếm một chỗ dựa tinh thần, một cuộc sống thoải mái, dễ dãi, hoặc nhìn Thiên Chúa không khác gì một người thủ kho hoặc người bảo vệ để canh gác và là người giải quyết những khó khăn khi cần, mà quên mất đòi hỏi của Chúa khi tin và theo Ngài. Theo Chúa, chúng ta tìm và mong đợi điều gì? Chúa đòi chúng ta điều gì?
Tâm sự của Giêrêmia trong bài đọc một cho thấy ông đã bị cuốn hút, bị khuất phục bởi Thiên Chúa và bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài. Tuy nhiên, ông cho thấy, theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Có thể nói rằng, trong tất cả các ngôn sứ, Giêremia là một trong những người khổ sở nhất: Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ nhạo báng. Vì Lời của Chúa mà con đây bị xỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có những lúc, vị tiên tri cảm thấy chán nản vì sứ vụ của mình và muốn bỏ cuộc: Tôi tự nhủ là tôi sẽ không nghĩ đến Người nữa, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa. Thế nhưng, Lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim, âm ỉ trong xương cốt khiến con phải hao mòn. Tâm sự của Giêremia có lẽ cũng là tâm trạng của nhiều người trong chúng ta khi thấy mình tin Chúa, theo Chúa, giữ lề luật của chúa mà dường như chỉ thấy gặp toàn điều xui xẻo; có khi còn rơi vào cảnh tù đày, bị hắt hủi, bị đề phòng hoặc rơi vào chán nản, thất vọng.
Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu đến là để đem lại niềm vui, hân hoan và hy vọng cho cuộc sống này như khi Ngài hóa bánh ra nhiều, hoặc hóa nước thành rượu ngon, chữa lành người què khiến cho dân chúng vui mừng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không hề hứa hẹn, bảo đảm cho ai một cuộc sống dễ dãi, thoải mái ở đời này; trái lại, Chúa luôn đòi hỏi mọi người tin theo Chúa phải chấp nhận một sự từ bỏ dứt khoát để đạt được hạnh phúc và niềm vui Nước Trời. Điều này không hề dễ dàng để chấp nhận, ngay đến Phêrô cũng đã không muốn chấp nhận điều đó.
Câu chuyên trong Tin Mừng cho thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và ông đã được Đức Giêsu khen trước mặt mọi người. Phêrô nghĩ rằng, ông đang đi trên con đường thênh thang, chỉ cần tuyên xưng như thế là đủ mà không cần phải làm thêm việc gì nữa. Thế nhưng, Chúa Giêsu cho thấy việc tuyên xưng của Phêrô chỉ là khởi đầu của một cuộc hành trình theo Chúa cách quyết liệt, đó là phải cùng Ngài đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ do các kỳ mục gây ra, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Chính vì thấy không được như mong đợi, Phêrô đã muốn can ngăn Chúa, hay đúng hơn, ông muốn dắt Chúa đi theo suy nghĩ, con đường của ông và ước mộng của ông. Cho đến lúc này, Phêrô và các tông đồ vẫn nuôi một hy vọng hết sức trần thế, đó là nếu Thầy của các ông thành công thì chắc chắn các ông sẽ được chia sẻ quyền lực, danh vọng. Đi theo Thầy, các tông đồ muốn tìm vinh quang trần thế hơn là tìm chính Chúa. Vì thế, Phêrô đã đứng ra can ngăn Chúa, ông còn nhân danh Thiên Chúa để ngăn cản Thầy của mình: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.
Lần này, Chúa hết sức nặng lời với Phêrô khi mắng ông: Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Vì muốn một cuộc sống vinh hoa của thế gian, nên Phêrô không muốn nghe nói về đau khổ; vì muốn cuộc sống dễ dãi, Phêrô không muốn thập giá. Hơn nữa, vì không muốn theo ý Chúa nên Phêrô muốn Chúa theo ý mình, đáp ứng cho mình. Thấy được tư tưởng của Phêrô như thế, Chúa đã không ngần ngại gọi ông là satan, là kẻ cản đường. Lời trách mắng này muốn Phêrô tỉnh ngộ và trở về đúng với vị trí của mình là môn đệ của Chúa: Hãy lui ra đàng sau Thầy. Vì ông không thể cho mình là người dẫn đường cho Chúa, mà trái lại, Chúa mới là người dẫn đường, là người đi trước và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Chúa, thì phải đi sau Ngài và đi theo con đường ấy.
Con đường mà Chúa Giêsu muốn là con đường: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Đấy chính là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn theo Chúa. Chúa luôn để mở cho sự tự do của con người: Ai muốn theo tôi thì hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo. Khi đã muốn, đã quyết định, thì phải chấp nhận hai bước quan trọng, đó là từ bỏ chính mình và kế đó là vác thập giá của mình và bước theo. Chúa không ép buộc bất cứ ai, Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do và chọn lựa của con người, ai muốn thì chọn và khi đã chọn thì chấp nhận tất cả những điều kiện kèm theo. Chúa cũng cho thấy những thử thách mà người theo Chúa gặp phải, đó là chịu thiệt thòi, mất mát ở đời này thì sẽ được hạnh phúc đầy tràn đời sau. Trái lại, nếu chỉ lo tìm kiếm vật chất đời này, tìm kiếm lợi lộc trần gian, thì sẽ đánh mất hạnh phúc Nước Trời.
Từ bỏ chính mình là từ bỏ những gì? Thưa, đó là từ bỏ bản thân, là cái tôi ích kỷ nhỏ nhen, là những dục vọng ham muốn, là những tham lam lợi lộc, là những bon chen thiệt hơn, là sự tự ái, tự cao…. Kinh nghiệm cho thấy, có những người có thể làm được nhiều việc to lớn, nổi danh nổi tiếng, nhưng lại không thể vượt qua được bản thân mình, không thể làm chủ được con người của mình, hay đúng hơn không từ bỏ được chính bản thân. Cái tôi hay còn gọi là bản thân mình là thứ virus ở sâu trong mỗi con người. Nó như một thứ nội thù nằm bên trong mỗi người. Một khi chúng ta không thắng nó, không từ bỏ được nó thì sẽ bị nó làm chủ và biến chúng ta thành nô lệ, và chúng ta không thể nhẹ nhàng để bước theo Chúa Giêsu được.
Vác thập giá mình hằng ngày là vác những gì? Chúa không đòi chúng ta phải vác thập giá của Chúa. Chúa cũng không buộc chúng ta phải vác thập giá cho anh em, nhưng Chúa muốn chúng ta vác thập giá của chính mình. Thập giá của ai, vừa vai người ấy. Thập giá của chính mình chính là những bổn phận thường ngày của mỗi người, là sự khiếm khuyết cùng với sự bất toàn, bất túc của con người. Thập giá của mình là những hoàn cảnh hiện tại của bản thân, của gia đình. Đó có thể là cái khổ của sự sung túc, bệnh tật, nghèo khó, hoặc là những trách nhiệm làm ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu cùng với khó khăn vất vả, mồ hôi nước mắt. Khi chúng ta đón nhận thập giá ấy với lòng yêu mến và vui vẻ bước theo Đức Kitô thì chúng ta mới có thể trở thành môn đệ của Ngài.
Thưa quý OBACE, theo Đức Kitô luôn là một đòi hỏi và là một thách thức. Là đòi hỏi vì con đường này chắc chắn sẽ là con đường hẹp, đòi hỏi phải hy sinh, phải từ bỏ, chứ không phải là con đường dễ dãi, thoải mái. Theo Chúa là phải dám chấp nhận bước vào con đường của Chúa, không thể đi đường ngang hay đi tắt đón đầu, mà là một hành trình cố gắng bước đi từng ngày, theo sát Đức Kitô từng bước, nên giống Đức Kitô, sau cùng là chịu đóng đinh cùng với Đức Kitô. Theo Chúa luôn là một thách thức, vì không phải bất cứ ai cũng có thể bước theo, mà phải là những người được Chúa tuyển chọn, những người đặt niềm tin vào Chúa, cùng với sự cố gắng, quyết tâm vượt lên chính mình, làm chủ bản thân cùng những dục vọng trong con người của mình. Là một thách thức, vì khi theo Chúa, có nghĩa là bước vào một cuộc chiến đấu liên tục, đương đầu với ma quỷ dục vọng, thế gian là những kẻ thù khi ẩn khi hiện, là kẻ thù giấu mặt nguy hiểm.
Là những người được chọn để trở nên môn đệ Chúa Kitô, chúng ta không tìm kiếm lợi lộc của thế gian này làm gia nghiệp, mà là tìm Đức Kitô làm gia nghiệp, là hạnh phúc đời đời. Vì thế, chúng ta không thể tránh né thập giá, cũng không thể từ chối con đường của Đức Kitô. Chúa đang muốn các linh mục tu sĩ vác thập giá của bản thân và đi qua con đường tu trì tận hiến, tuân giữ những lời khuyên Phúc âm để bước theo Chúa. Chúa đang muốn các tín hữu khác đi qua con đường gia đình, tuân giữ giới răn lề luật của Chúa, bước theo Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đừng chần chừ, cũng đừng đứng đắn đo, mà hãy vui vẻ đón nhận hoàn cảnh và cuộc sống hiện tại của mình, chu toàn thật tốt đẹp nhiệm vụ là linh mục tu sĩ, là cha mẹ vợ chồng, con cháu, cùng nhau bước theo lời mời gọi của Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được niềm vui, và hạnh phúc cùng với sự sống đời đời Chúa ban tặng cho những ai đi trọn con đường Chúa muốn. Amen.
------------------------------------------
Xatan lui lại đàng sau Thầy !” Đó là những lời nói mạnh mẻ. Phêrô đã làm gì đáng bị lời: TN 22-A53
“Xatan lui lại đàng sau Thầy !” Đó là những lời nói mạnh mẻ. Phêrô đã làm gì đáng bị lời quở trách nghiêm khắc ấy ?
Nelson Man dela kể lại rằng khi ông đấu tranh để sinh cơ lập nghiệp như một luật sư trẻ ở Johannesburg, ông đã quen biết với một thương nhân có tên Hans Muller, một người nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu. Một ngày nọ Muller chỉ ra ngoài cửa sổ và nói : “Ông Nelson hãy nhìn ra cửa sổ xem. Ông có thấy những người đàn ông và đàn bà đang hối hả đi lên, đi xuống trên đường phố không ? Họ đang theo đuổi điều gì ? Điều gì khiến họ làm việc như trong cơn sốt ? Tôi sẽ nói với ông : tất cả những người ấy, không có ngoại lệ, đều chạy theo sự giàu sang và tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho điều đó : tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn sẽ không muốn cái gì khác trên đời”.
Lời khữuyên ấy có ý tốt. Nhưng vì thế mà nó càng nguy hiểm. Mandela là một người thông minh. Nếu ông làm theo lời khữuyên của Muller, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn thay cho Nam Phi, ông đã không làm. Thay vì ông lo cho bản thân, Mandela đã quyết định cống hiến đời mình cho việc phục vụ đất nước.
Biến cố này giúp chúng ta hiểu Tin Mừng hôm nay. Mới trước đây Phêrô đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Bấy giờ theo sự mong đi của quần chúng. Đấng Mêsia phải là một nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại – một Vua David khác thường khôi phục Israel với sự vĩ đại quân sự trước đây. Không còn nghi ngờ gì cả, Phêrô có trong đầu mình kiểu suy nghĩ ấy.
Nhưng đó không phải là ý tưởng của Đức Giêsu về Đấng Mêsia. Người nói với các Tông đồ rằng Đấng Mêsia phải chịu đau khổ và bị giết chết. Đó là điều mà Thiên Chúa muốn. Không phải Thiên Chúa muốn Con của Người phải chịu đau khổ nhưng Người muốn bày tỏ cùng chúng ta chiều sâu của tình yêu Người ban cho chúng ta qua sự thành tín và lòng yêu thương của Chúa Con, lòng thành tín và yêu thương này đưc trả giá bằng chính mạng sống của Người.
Đối với Phêrô, quan niệm về Đấng Mêsia đau khổ hoàn toàn xa lạ và không thể chấp nhận đưc. Do đó không liên quan đến Đức Giêsu, ông đã cố gắng ngăn cản Người lại. Nhưng chắc chắn ông cũng nghĩ đến bản thân mình. Làm môn đệ của một Đấng Mêsia đau khổ không phải là một vai trò thích thữú gì.
Vì thế Phêrô đã trở thành tảng đá làm vấp ngã đối với Đức Giêsu. Và dù Phêrô có một vai trò quan trọng phải thực hiện trong kế hoạch của Người , Đức Giêsu cũng sẵn sàng bỏ rơi tình bạn hữu hơn là cho phép ông làm Người đi lệch hướng khỏi số phận của Người.
Thực vậy đó là một cuộc đấu tranh mà mọi kinh nghiệm của chúng ta đưc hình thành từ đó. Có những điều mà chúng ta không thích làm, nhưng chúng ta biết rằng chúng ta phải làm, nếu chúng ta muốn trung tín với trách nhiệm và bổn phận của mình. Hy sinh không phải là một con đường dễ dàng. Nhưng chính trong con đường này mà cái tôi tốt lành đưc hình thành. Người ta trở nên một con người có chí khí và chính trực bằng cách đó. Và cũng rất nghịch lý, đó cũng là con đường dn đến hạnh phúc. Hạnh phúc không ở trong việc riêng của chúng ta, hoặc công việc mà chúng ta cảm thấy thích làm, nhưng là làm công việc chúng ta phải làm.
Điều duy nhất làm cho sự hy sinh đưc dễ dàng là tình yêu. Tình yêu có khả năng làm cho thập giá, tảng đá gây vấp ngã thành tảng đá vưt qua. Mọi việc Đức Kitô làm đều biểu lộ tình yêu của Người đối với chúng ta và đối với Chúa Cha trên trời.
Con đường đến Giêrusalem đưa Đức Giêsu tới nơi Canvê. Nhưng nó đã không chấm dứt ở đó. Nó dn tới sự Phục Sinh. Đức Giêsu nâng đỡ những người đi theo Người vào con đường hẹp của hy sinh, và chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Người cho họ.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Năm 1923, bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn của một nhà hàng tại một TN 22-A54
Năm 1923, bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn của một nhà hàng tại một thành phố ở miền tây nước Mỹ. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh, và dường như họ nói đến một câu châm ngôn: "Có tiền mua tiên cũng được". Nhưng 20 năm sau, điều gì đã xảy đến cho bảy nhà kinh doanh giàu có này? Người thứ nhất là giám đốc một trong bảy công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong những năm cuối đời, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay của người khác. Người thứ hai là giám đốc một công ty chuyên sản xuất vật dụng trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương cầu thực. Người thứ ba là giám đốc một hãng gas lớn, cũng đã bị phá sản và trở thành một nhân viên quèn. Người thứ tư là giám đốc hãng xuất nhập cảng, cũng chết ở nước ngoài, không một đồng xu dính túi. Người thứ năm là giám đốc một phòng hối đoái lớn tại Niu-Gioóc, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Người thứ sáu là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tù trong một vụ dính líu về tội phạm tham nhũng mang tai tiếng. Người cuối cùng trong danh sách bảy nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ trong thập niên hai mươi, cũng tự kết liễu cuộc sống của mình.
Bức tranh trên đây không hẳn là số phận tất yếu cho sự giàu có nhất. Có biết bao người giàu có đã có một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Tiền bạc, của cải tự nó không là gì cả. Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền bạc để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Sự túng thiếu, bần cùng là một sự dữ mà Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn, trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như một cứu cánh cho cuộc đời, nghĩa là chúng ta tôn thờ nó như thần tượng mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, một lúc nào đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần là điều tất yếu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở: "Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?", hoặc "Được tất cả mọi sự mà mất linh hồn thì ích gì?". Qua những lời trên, Chúa muốn kéo chúng ta cho cuộc sống mai hậu, hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống vĩnh cửu, hãy hướng tất cả mọi sự vào nước trời mai sau. Tóm lại, hãy dùng tiền của và cư xử thế nào để không những ích lợi cho đời sống hiện tại mà cho cả linh hồn và cuộc sống mai sau nữa.
Đối với sự vật, người ta có thể nhìn bằng hai cách khác nhau: người giàu có thường tham lam, muốn thu tích cho thật nhiều tiền của, vì lòng tham của họ không bao giờ được thỏa mãn. Thu tích cho nhiều mà lòng vẫn không toại nguyện, bởi vì họ không còn khả năng nhận thức giá trị đích thực của đồng tiền, của sự vật nữa. Trái lại, người nghèo mà có tâm hồn thanh thoát, không ham hố tiền của, sẽ nhìn thấy giá trị đích thực của mọi sự trên đời. Dưới mắt họ, tất cả đều có giá trị, nhưng chỉ là một giá trị tương đối. Tất cả phải đặt vào một trật tự hợp lý trong tương quan với con người.
Tiền của là để phục vụ con người, để giúp con người sống và chu toàn sứ mệnh được trao phó trong hoàn cảnh mà Thiên Chúa đặt họ vào. Nhưng một khi tôn sùng tiền của, con người sẽ phá hủy giá trị và ý nghĩa của chúng, đồng thời đánh mất giá trị của chính bản thân và ý nghĩa cuộc đời mình. Thực vậy, vì tiền bạc, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác; vì tiền bạc, người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Vì thế, chúng ta cần sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị của tiền của trong cuộc sống. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm tiền bạc, của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Chúng ta cần quảng đại để biết mở rộng cõi lòng và đôi tay mà chia sớt, san sẻ cho những người anh em túng nghèo khốn khổ hơn.
"Được lợi cả thế giới mà thiệt mất linh hồn thì ích gì?". Chúng ta phải luôn nhắc nhở mình điều đó: không bao giờ được quên mối tương quan giữa của cải vật chất và đời sống tinh thần, không bao giờ được quên mới tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau: sẵn sàng hy sinh của cải vật chất để bảo đảm linh hồn chứ không bao giờ hành động ngược lại: sẵn sàng hy sinh đời này chứ không bao giờ để mất đời sau. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn đến đâu, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cữu. Chúa không cấm chúng ta làm giàu, không cấm chúng ta có nhiều tiền bạc, của cải. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng chỉ lo làm giàu trước mặt người đời mà thôi nhưng còn phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa nữa, bằng một cuộc sống siêu thoát và thánh thiện, bằng một cuộc sống quảng đại, rộng tay chia sẻ và phục vụ. Đó là cách đầu tư bảo đảm cho gia nghiệp đời mình mai sau.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Mãi mãi thập giá vẫn là một chướng ngại khó vượt qua. Ngay đến cả Đức Kitô, Con Thiên Chúa TN 22-A55
Mãi mãi thập giá vẫn là một chướng ngại khó vượt qua. Ngay đến cả Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã vất vả ướt đẩm mồ hôi pha lẫn máu mới can đảm đón nhận thập giá, cho dù trước đó không dưới ba lần chính Người đã tiên báo, nghĩa là đã tiên liệu và đã có sự chuẩn bị. Thế mà lời khẳng định của Người, một lời khẳng định không thể làm giảm khinh bằng bất cứ lối giải thích nào, đó là: “Ai muốn đi theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,-,24).
“Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc”. Giáo lý Hội Thánh Công giáo mở đầu bằng chân lý này và cũng là câu trả lời cho vấn nạn muôn thưở rằng ta sống ở đời này để làm gì. Kitô hữu vốn nằm lòng câu giáo lý của một thời: Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời đời. Như thế hạnh phúc đời đời hay sự sống vĩnh phúc chính là mục đích tối hậu của đời người. Khi sinh thời, để trả lời cho một chàng thanh niên đạo hạnh vốn đã giữ các giới răn từ thưở bé, muốn có sự sống đời đời, thì Chúa Giêsu nói rằng hãy về bán tất cả của cải, phân phát cho kẻ khó, rồi đến mà theo Người. (x. Mt 19,16-22). Thế thì ta có thể khẳng định rằng theo Chúa Kitô là cách thế để có hạnh phúc vĩnh cửu. Hay nói ngược lại, muốn có hạnh phúc vĩnh cửu là phải theo Chúa Kitô. Và muốn theo Chúa Kitô là phải vác thập giá mình.
Theo Chúa Kitô là theo Con Đường Sự Thật, Sự Sống, và Tình Yêu. Nguyên chỉ với những thiện hảo chóng qua đời này cũng đòi hỏi phải trả giá. Tomas Edison, ông tổ phát minh bóng đèn điện đã khẳng định một tất yếu của cuộc sống: một lần thành công là kết quả của chín mươi chín lần thất bại. Để trung thành với sự thật và công bố sự thật, ngôn sứ Giêrêmia đã phải hứng chịu bao truân chuyên, khốn khó, và có khi, tưởng như sẽ bị mạng vong. Số phận các sứ ngôn khác và những người công chính cũng chẳng hơn gì (x. Mt 23,29-32). Để làm phát triển sự sống với hoa trái tốt xinh thì trước đó hạt giống phải chịu cảnh thối rửa đi (x.Ga 12,24). Để thực sự là yêu trong sự phục vụ người mình yêu đến cùng thì tất yếu phải bỏ mình, hiến dâng mạng sống mình vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Những gì phải trả ở trên, đó chính là thập giá mà Chúa Kitô muốn đề cập.
Tuy nhiên, chúng ta cần ý thức rằng thập giá không phải là đối tượng ta muốn cách trực tiếp. Đã nói đến thập giá là nói đến một sự dữ. Không ai được quyền và được phép tự mình trực tiếp tìm kiếm sự dữ. Thế thì chúng ta phải hiểu sao đây về việc phải vác thập giá? Không lẽ Chúa Kitô lại muốn chúng ta phải chịu khổ? Dĩ nhiên không ai dám to gan khẳng định điều này. Thập giá là một mầu nhiệm mà ta chỉ có thể hiểu được phần nào khi quy chiếu về thập giá của Chúa Kitô.
Lật giở các trang Tin Mừng, chúng ta cần chân nhận sự thật này: Chúa Kitô không bao giờ trực tiếp kiếm tìm thập giá. Điều mà Người luôn kiếm tìm đó là thánh ý Chúa Cha. Ngay phút giây nhập thể vào đời, tác giả thư Do Thái đã cảm nhận tâm ý của Ngôi Lời: “Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,5). Lễ vật hy sinh thì Chúa Cha không muốn và Chúa Cha cũng chẳng thích gì khi Con mình phải đổ máu. Điều Chúa Cha muốn là Chúa Con nhập thể, tìm cách bày tỏ cho nhân loại thấy tình yêu bao la vô bờ và hoàn toàn nhưng không của Người.
Thập giá chính là đối tượng trực tiếp mà giới lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ kiếm tìm để đặt trên vai người mà họ cho là “phản động”, xách động quần chúng đi ngược với tập truyền tiên tổ, dám phạm thượng, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa duy nhất… “Chẳng thà một người chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 11,50), và bên cạnh đó, vị thế và quyền lợi của những bậc vị vọng như tư tế, biệt phái, luật sĩ cũng khỏi bị lung lay và sứt mẻ.
Thế mà Chúa Kitô vẫn không ngần ngại lên Giêrusalem để đón nhận khổ hình thập giá, không phải vì chính thập giá nhưng là để vâng phục Chúa Cha tìm cách bày tỏ cho nhân gian thấy tình yêu cua Thiên Chúa, một tình yêu vô điều kiện và đến cùng. Cho dù các ngươi có đặt thập giá trên vai ta, cho dù các ngươi có đâm thủng trái tim ta, cho dù các ngươi có giết chết ta cách nhục nhã, thì ta vẫn không hề bỏ các ngươi mà còn đứng về phái các ngươi để cầu bàu cho các ngươi (x.Lc 23,34). Chúa Kitô đón nhận thập giá không phải vì thập giá mà là để mình chứng rằng không có gì có thể ngăn cản được việc Người yêu thương chúng ta (x.Rm 8,38-39).
Như thế thập giá không phải là đích đến, mà chỉ là một cái giá cần phải trả, một thách đó cần vượt qua của hành trình yêu thương. Khi ngăn cản Chúa Giêsu đừng lên Giêrusalem, thực ra Phêrô có ý tốt với Thầy. Thế nhưng, ông đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Tưởng rằng Phêrô bị quở trách nhưng không phải ông mà chính là Satan bị quở trách. Satan lợi dụng ý tốt của Phêrô để cám dổ Chúa Giêsu. Ma quỷ thật lắm tinh ranh. Chúng sử dụng cả những điều thiện hảo thường tình để cám dổ ta đứng lại và không đạt đến sự thiện hảo cuối cùng.
Dẫu biết rằng chẳng có một sự thiện hảo nào mà không đòi phải trả giá nghĩa là đòi phải có sự nỗ lực, gắng công. Thế nhưng thập giá vẫn mãi còn đó sự thách đố cho người tự nguyện sống đạo yêu thương, cho người can đảm làm chứng cho sự thật, cho người tích cực gìn giữ và làm phát triển sự sống. Nếu cứ chăm chăm dán mắt hay quy lòng vào sự khó khăn đầy nghiệt ngã của thập giá thì e rằng nhiều khi chân ta sẽ chùn bước. Ước gì Kitô hữu chúng ta trên đường theo Chúa Kitô biết ngước nhìn đến chân trời tươi sáng, nơi mà tình yêu, sự thật và sự sống hiển trị, thì sẽ có cơ may vượt qua các trở ngại cần phải vượt qua là thập giá, cho dù khó khăn, vất vả, đau thương vẫn có đó. Hiểu được sự thật này thì chúng ta không chỉ biết lắng nghe lời nhận định của Franklin: “Đường đến thành công không hề có bước chân của người ngại khó, sợ khổ”, mà cần phải xác tín rằng “đường đến Nước Trời sẽ chẳng hề có bước chân của người không quyết tìm hạnh phúc đích thực cho chính mình và tha nhân”.
-------------------------------
(Bài giảng cho Thiếu Nhi)
Các con thương,
Ở tuổi thiếu niên ai trong các con cũng từng nghe những bài hát Con đường đến trường: “Một chiều TN 22-A56
Ở tuổi thiếu niên ai trong các con cũng từng nghe những bài hát Con đường đến trường: “Một chiều đi trên con đường này, hoa điệp vàng trải dưới chân tôi, ngập ngừng trong tôi như thầm hỏi, đường về trường ôi sao lạ quá…”
Ngoài con đường đến trường, mỗi ngày các con còn đi trên nhiều con đường khác nữa: đường đến nhà thờ, đường đi chơi, đường đến siêu thị… rồi mỗi đường có những đặc điểm khác nhau: đường nhựa, đường đá sỏi, đường rộng, đường hẹp, có đường sình lầy nếu đi không cẩn thận sẽ xuống ao!…
Tâm lý bình thường ai cũng muốn đi đường nhựa rộng rãi, thích đi trên những con đường bằng phẳng thoải mái. Còn những con đường chật hẹp sình lầy ai cũng ngán và sợ hãi. Vừa qua Cha và một số cha đi đến vùng sâu vùng xa, trên những con đường vừa chật hẹp vừa sình lầy trơn trợt, tí nữa là cả người lẫn xe xuống kinh uống nước chết rồi…
Các con thương, con đường ở trần gian là như thế, còn con đường về nước trời thì thế nào? Có phải thênh thang rộng mở nhiều người muốn đi, và con đường xuống hoả ngục thì chật hẹp ít người muốn đến? Lời Chúa hôm nay muốn các con đi con đường nào?
Trong bài đọc 1, các con nghe lời than van của ông Giêrêmia: vì làm tiên tri cho Chúa, ông phải chịu biết bao nhiêu gian nan khốn khổ, nào là bị người khác chế nhạo, nào là bị phản đối, bị khinh chê thậm chí ông bị mưu sát nữa.. Và đã nhiều lần ông không muốn đi theo Chúa làm tiên tri nữa, ông không muốn làm theo ý Chúa nữa… nhưng ông đã không thể bỏ sứ mạng đó được vì Chúa đã lôi cuốn ông…
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiên báo mình sẽ phải chịu khổ hình, chịu người khác bắt bớ thế nào “Người sẽ đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ… sẽ bị giết chết và ngày thứ ba thì sống lại. Và Ngài còn mời gọi con người theo Ngài, đi với Ngài trên con đường thập giá với điều kiện: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”
Các con thương,
Con đường của Chúa Giêsu là con đường thập giá, con đường hy sinh và đau khổ. Chúa Giêsu đã đi đường này ngay khi Ngài xuống thế: chấp nhận sinh làm người phàm; đi trên con đường sang Ai Cập tránh sự truy sát của bạo chúa Hêrôđê, con đường rao giảng rày đây mai đó, Ngài đi trên đường tới Giêrusalem, con đường thập giá tiến về núi Sọ- con đường cứu độ. Tất cả chuẩn bị cho con đường về trời ngự bên hữu Chúa Cha.
Con đường đó các tông đồ và các thánh cũng đã theo, Giáo hội ngày hôm nay đang tiếp bước theo chân Chúa. Chúa Giêsu hôm nay vẫn mời gọi các con hãy đi theo Ngài. Chúa cho thấy rõ điều kiện của những ai muốn theo Chúa: “từ bỏ mình và vác thập giá mình”. Từ bỏ con người cũ của mình để mặc lấy con người mới, con người theo hình ảnh của Thiên Chúa dựng nên từ ban đầu. Chấp nhận bỏ mình đi đồng nghĩa với việc thay da đổi thịt, thay con người của ích kỷ nhỏ nhen, con người tội lỗi, của tính tự ái, kiêu căng tự phụ… từ bỏ hết để nhận thập giá của mình mà theo Chúa với lòng yêu mến.
Có một vị thánh đã tưởng tượng chuyện như sau: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế!”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.
Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.
Xin Chúa giúp các con đón nhận những hy sinh hằng ngày, chấp nhận đi trên con đường thập giá là những khó khăn, những mệt nhọc trong việc học tập và rèn luyện những nhân đức.
Xin giúp con ghi nhớ rằng công khó của học tập và rèn luyện hôm nay, chính là hoa trái của niềm vui và hạnh phúc mai sau.
Xin giúp chúng con trung thành theo đạo Chúa, giữ đạo Chúa cho đến cùng.
Xin giúp chúng con biết tiếp bước con đường thập giá của Chúa mỗi ngày với lòng quảng đại vì yêu mến Chúa.
-------------------------------
(Suy niệm của Hoàng Cát Minh, O.Carm)
Lời tuyên xưng "Thầy là con Thiên Chúa Hằng sống" của Phê rô mới chỉ là chìa khóa đức tin TN 22-A57
Lời tuyên xưng "Thầy là con Thiên Chúa Hằng sống" của Phê rô mới chỉ là chìa khóa đức tin, là đá tảng của đời sống Ky tô hữu. Là nền tảng đức tin của người Ky tô hữu vì nó là sự mạc khải từ Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, để sống với lời tuyên xưng đó là cả một thách đố cho cuộc sống Ky tô hữu và cả Giáo Hội khi xây dựng ngôi nhà đức tin đó. Sống đức tin là một cam kết vĩnh cửa với Đấng mà mình tin: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy." Theo con đường của đức Ky tô chính là theo con đường thập tự cho những ai cam kết sống trọn vẹn với lời tuyên xưng của mình để cùng sống, cùng chết và cùng sống lại với Ngài. Chính Chúa Giêsu đã đi tiên phong trên con đường tiến về Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ phải vác thập giá, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Con đường của Đức Giê su đi là con đường mang thân phận kiếp người nhưng do Thần Khí hướng dẫn. Cũng Thần Khí đó hiện diện tại sông Gio đan khi Ngài chịu phép rửa, dẫn Ngài vào hoang địa trong 40 ngày đêm chịu thử thách và dẫn Ngài vào con đường rao giảng Nước Trời.
Con đường thập tự là con đường đau khổ, bị nghi nghờ, bị lăng nhục, bị nhục hình và bị tử hình. Thập tự chính là biểu tượng nhục hình và tử hình để trừng phạt những kẻ nổi loạn chống lại đế quốc Roma, những tên trộm cướp giết người cướp của. Nhưng đó cũng là một cảm hứng cho người môn đệ bước đi theo chân đấng Cứu độ, là tự hủy mình đi cho người mình yêu. Cảm hứng đó không phải do con người, nhưng từ sự dẫn dắt của Thần Khí Thiên Chúa. Một khi đã được Thần Khí chúa dẫn dắt thì không ai có thể cưỡng lại được. Ngôn sứ Giê rê mi a đã cảm nghiệm và thốt lên: "Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi." Dẫu cho Giê rê mi a suốt ngày bị trở nên trò cười, và bị mọi người đều chế nhạo; dẫu cho ngôn sứ phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho ông bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Ông cố quên đi vị Thiên Chúa đã dẫn dắt ông, sẽ không nhân danh Ngài mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng ông lại hừng hực nóng bỏng như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt, khiến ông kiệt sức, khiên ông không thể chịu nổi nữa, để làm theo ý định của Thiên Chúa.
Thánh Vịnh gia cũng cảm nghiệm tự đáy lòng mình sự hấp dẫn của Thiên Chúa: "Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước!" Những ai làm nghề nông có thể cảm giác được nỗi khao khát cơn mưa trong những mùa nắng hạn, ruộng đồng khô nứt.
Thánh Phao lô là người cảm nghiệm sâu xa nhất về con đường thập tự của Đức Ky tô khi người sống hoàn toàn lệ thuộc vào sự dẫn dắt của Thần Khí của Đức Ky tô. Thánh Phao lô cảm nghiệm được những đau khổ nơi trần gian mà người Ky tô hữu hứng chịu không thể nào sánh kịp với sự đau khổ Đức Ky tô đã gánh chịu cũng như vinh quang của Ngài tỏ hiện nơi những môn đệ tín trung. Thánh Paho lô được mệnh danh là môn đệ của Đức Ky tô bị đóng đinh vì người cảm nhận sự đau khổ mà Đức Ky tô tỏ hiện nơi người và những gì người đã can qua. Cảm nghiệm được vinh quang của Thiên Chúa, thánh nhân đã khích lệ cộng đoàn tín hữu Rôma của mình: "hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa." Đó là lời khíc lệ cho những Ky tô hữu tiên khởi ở Rôma một khi phải đối diện với thử thách và phải chọn lựa: tuyên xưng đức tin vào Đức Ky tô là con Thiên Chúa để rồi phải chịu nhục hình và tử hình hoặc tôn vinh Cesa là chúa để lãnh quyền tự do và trở thành công nhân hạng nhất thời bấy giờ.
Một khi được Thần Khí Thiên Chúa thúc đẩy, không ai trong chúng ta có thể cưỡng lại được. Người giáo lý viên có thể từ bỏ chút thời giờ riêng tư, nghỉ ngơi để đi dạy giáo lý; người thanh niên có thể từ bỏ gia đình để theo tiếng gọi làm linh mục, tu sĩ hay nữ tu; nhà truyền giáo có thể từ bỏ nơi ấm cúng của mình để đến một nơi xa vắng, nghèo nàn phục vụ những người nghèo; những người đấu tranh cho công lý và hòa bình phải chịu nhiều cảnh đau thương; những người giám nói lên tiếng nói ngôn sứ cho công lý dễ bị mất mạng; v.v...
Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương và sáng tạo thế giới qua Thần Khí của Ngài để đem vạn vật tiến về tương lai tốt đẹp, tràn trề sự sống và đầy những ngạc nhiên. Chống lại công trình sáng tạo và tình yêu Thiên Chúa chính là chống lại Thần Khí, là "chọc gậy bánh xe" vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa đối với con người và tạo vật. Với suy nghĩ và hành động của mình, Phê rô đã "chọc gậy" vào bánh xe tình yêu của Thiên Chúa một cách ngây thơ như thể để cản lại bước đường nguy hiểm mà Đức Giê su sẽ đến. Nhưng ông có ngờ rằng, hành động đó chỉ là những suy tư hợp lý của thế gian đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa. Kẻ luôn đi ngược lại ý định và đường lối của Thiên Chúa luôn là hành động thúc đẩy của Satan. Satan là kẻ đã thử thách Thiên Chúa trong sa mạc về: quyền lực, vật chất và vinh quang thế gian. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Satan vẫn là kẻ luôn "chọc gậy bánh xe" tình yêu của Ngài qua việc xúi dục con người nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Anh chị em hãy tự nghĩ mình là ai? Là kẻ trợ lực hay trở lực đối với Thần Khí Thiên Chúa?
-------------------------------
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Lời tiên báo đầu tiên về Thương Khó được trực tiếp nối kết với “cuộc thẩm vấn” Xêdarê Philipphê TN 22-A58
Lời tiên báo đầu tiên về Thương Khó được trực tiếp nối kết với “cuộc thẩm vấn” Xêdarê Philipphê (cc.13-16.20), nhất là với câu trả lời của các môn đệ. Tâm trí của các ông hình như đang hướng về một lý tưởng thiên sai trần thế và có tính quốc gia. Lúc đầu Đức Giêsu đã yêu cầu các ông phải giữ kín (c. 20), còn bây giờ Người bắt đầu vén mở cho các ông thấy số phận bi đát đang chờ đợi Người. Cứ cho đi là cuối cùng cũng đi đến mục tiêu mà họ đang hết sức khao khát (x. 17,4; 20,20-28), nhưng con đường đưa tới đó lại hoàn toàn đi ngược lại mọi cách nhìn và mọi sự chờ đợi của các ông. Công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu …” được tác giả dùng hai lần để đánh dấu hai phần lớn của tác phẩm (4,17; 16,21): ở đây, công thức ấy cho thấy một khúc quanh trong cuộc đời hoặc trong sinh hoạt của Đức Giêsu.
Trong phép rửa của Đức Giêsu, Chúa Cha đã cho thấy Người là tôi tớ (3,17 dựa theo Is 42,2). Trong các cám dỗ, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người đi theo hướng làm Mêsia khiêm nhường (4,1-11). Khi giảng Bài Giảng trên núi, Người đã chúc phúc cho những người nghèo (5,2). Khi trả lời cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả, Người đã ám chỉ Người là Đấng Mêsia của người nghèo (11,5), của những người đau khổ phiền sầu (11,28-30). Thất bại của sứ vụ Galilê không tiên báo một tương lai màu hồng. Nhưng các tông đồ không để ý đến các hoàn cảnh đó, cũng như không quan tâm đến những ám chỉ hoặc những tuyên bố rõ ràng của Đức Giêsu. Các ông chờ đợi mọi sự, trừ những gì phải xảy ra thật sự. Các câu trả lời ở Xêdarê Philípphê cho thấy tâm trí các ông vẫn còn đang hướng về các lý tưởng vinh quang và uy hùng trần thế.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần:
1) Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó (16,21):
a) Khúc quanh quan trọng (c. 21a),
b) Mô tả chi tiết tương lai đang chờ Người tại Giêrusalem (c. 21b);
2) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (16,22-23):
a) Phêrô ngăn cản Đức Giêsu (c. 22),
b) Đức Giêsu xác định vị trí của Phêrô (c. 23).
3) Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (16,24-27):
a) Quy luật tổng quát của đời môn đệ (c. 24),
b) Nghịch lý “cứu – mất” (c. 25),
c) Một suy tư mục vụ: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 26),
d) Một biến cố tương lai, “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang”: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 27).
3.- Vài điểm chú giải
- Từ lúc đó (21): Công thức này đánh dấu hai phần lớn của Tin Mừng Mt: phần một là 4,17–16,20 được dành để nói về Nước Trời; phần hai là 16,21–28,20 được dành cho Con Người trên đường đi tới Thương Khó và Phục Sinh. Công thức “Từ lúc đó, Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết” cho thấy tất cả mức hệ trọng của quyết định Đức Giêsu đã lấy và mối nguy hiểm mà Người đang đi vào.
- tỏ cho biết (21): Tác giả không dùng động từ “giảng dạy” (didaskô; x. Mc 8,31), vì ngài coi động từ này ưu tiên diễn tả giáo huấn luân lý.
- Người phải đi (21): Động từ “phải” (hy lạp dei = cần thiết) có ý nói đây là một điểm thuộc ý muốn, hoặc chương trình của Chúa Cha.
- đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (21): Đức Giêsu mô tả chi tiết chương trình Người đang đi vào. Điều này cho thấy Người biết trước và Người làm chủ tình hình. Bị giết chết (apoktanthênai, aor. inf. pass. apokteinô) và … sống lại (egerthênai, aor. inf. pass. egeirô): Đây là những động từ ở thái bị động cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa.
- ngày thứ ba (21): có nghĩa là một thời gian ngắn.
- Phêrô liền kéo riêng … bắt đầu trách … (22): Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của sự khôn ngoan loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Vị tông đồ muốn có sự thoả hiệp, sự thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của tính ích kỷ hoặc của quyền lực. Mới đây còn là gương mẫu của người tin (16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như Tên Cám Dỗ đã đề nghị (4,1-11).
- Anh cản lối Thầy (23): dịch sát “Anh đang trở thành tảng đá làm cho Thầy vấp”. Mới đây là “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Thật ra, tảng đá xây Hội Thánh không phải là bản thân bác thuyền chài Simôn, mà là niềm tin của ông đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin này, tất cả công việc của ông đều sụp đổ.
- từ bỏ chính mình (24): có nghĩa là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác. Tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình.
- đi (bước) theo (24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. 11,29). Động từ này không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ.
- việc họ làm (27): Praxis có nghĩa là “lối sống, lối cư xử”, hàm ý là có các kinh nghiệm nữa. Tác giả Mt chọn từ này rất có thể bởi vì ngữ cảnh không ưu tiên nói về các “hành vi” (erga) hiện tại của người môn đệ, nhưng nói về sự đau khổ tích cực của họ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh (21)
Sau lệnh im lặng ở c. 20, làm cho các môn đệ trở thành những người ở bên trong, có sự hiểu biết đặc biệt mà dân chúng không có, Đức Giêsu loan báo cho họ những dau khổ và sự phục sinh của Người. Bây giờ Người đào sâu sự hiểu biết đặc biệt của các môn đệ.
Với công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu”, chúng ta hiểu rằng lời tiên báo Thương Khó-Phục Sinh này không phải là một lời sấm biệt lập, nhưng là một chương mới mà Đấng Cứu thế đang mở ra trước mắt các môn đệ, chứ không riêng Phêrô. Các ông vẫn đang mơ những hào nhoáng thế gian, một cung cách cứu thế vinh quang trần tục, nên không dễ gì mà đưa các ông đến chỗ quan niệm ngược lại. Tuy nhiên, Đức Giêsu cương quyết đi vào đề tài mới. Người trình bày chi tiết: (“tỏ cho biết”, deiknyein) nơi sẽ xảy ra biến cố, bản án tử hình phải chịu, những người sẽ xét xử, và cuộc Phục Sinh ngay sau đó. Đây là điều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Các động từ ở thái bị động (apoktanthênai và egerthênai) cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài tường thuật cuộc Thương Khó sẽ cho thấy Đức Giêsu cũng chủ động. Người đi theo con đường được chỉ định trong tư cách là Con vâng phục của Thiên Chúa.
Qua phản ứng của các môn đệ mà đại diện là Phêrô, tác giả cho thấy sự vấp phạm của cọng đoàn tín hữu sơ khai khi đứng trước chướng kỳ thập giá (x. 1 Cr 1,17-25; Rm 1,16).
* Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (22-23)
Phản ứng của Phêrô giúp hiểu sự kháng cự của trí khôn loài người khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Mới trước đó, với lời tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô (= Đấng Mêsia)”, được Thầy khen là đã phát biểu dưới ánh sáng mạc khải của Chúa Cha, Phêrô nghĩ rằng lời nói này hẳn cũng có giá trị như thế! Ông không ngờ bây giờ ông đã trở thành hiện thân của Satan đang tìm cách cản bước Đức Giêsu đi theo kế hoạch của Chúa Cha. Tảng đá xây dựng Hội Thánh thật mong manh nếu không tin tưởng cạy dựa vào Đức Giêsu.
Ở đây, còn có thể hiểu thêm một tầng ý nghĩa nữa: Phêrôi là người phát ngôn thay cho nhóm môn đệ, giống như ông đã tuyên xưng đức tin ở c. 16 với những lời lẽ của các môn đệ và lời tuyên xưng của Giáo Hội. vậy hẳn là Phêrô không chỉ phản đối nhằm phi bác đau khổ của Đức Giêsu, mà còn phi bác đau khổ của người môn đệ và của Giáo Hội. Trong tư cách là môn đệ, ông sống tình trạng nhị giá giữa tin tưởng và hoài nghi, giữa tuyên xưng và sợ hãi hậu quả của lời tuyên xưng ấy, giữa phản bội và hối hận (x. 26,69-75). Phêrô chẳng xấu hơn các môn đệ vì ông đã phản bội Thầy chẳng hạn, cũng như ông không tốt hơn các bạn vì ông đã tuyên xưng Thầy ở 16,16-19.
Đức Giêsu đã phản ứng rất mạnh lại với lời can gián của Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy (Hypage… Satana)” (c. 23). Lời này nhắc lại chước cám dỗ cuối cùng ở 4,10, khi Đức Giêsu loại bỏ việc thống trị thế giới theo đề nghị của quỷ. “Anh cản lối Thầy”, anh là tảng đá vấp (skandalon) cho Thầy. Skandalon là một từ mạnh để diễn tả dịp tội. Hình ảnh này đối lập lại với “tảng đá” là chính Phêrô ở 16,18. Các câu 17-18 và c. 23 cho thấy rõ sự đối lập căn bản giữa Thiên Chúa và loài người: do ân huệ Thiên Chúa ban, Phêrô là một “tảng đá (xay dựng Hội Thánh)”; do chính suy nghĩ của ông, ông là một “tảng đá vấp”. “Lui lại đàng sau Thầy” (opisô mou) nhắc lại 4,19 và chuẩn bị cho 16,24, xác định vị trí duy nhất được dành cho Phêrô.
* Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (24-27)
Quy luật sống của người môn đệ được tổng hợp trong ba điểm: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình và bước theo. “Từ bỏ chính mình” là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của kẻ khác; tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. “Vác thập giá mình” là chấp nhận bản án thập giá; tức là từ bỏ những tiện nghi thoải mái và cả mạng sống mình vì muốn trung thành với Đức Giêsu và với sứ mạng của Người. “Bước theo” không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ. Đau khổ của Đức Giêsu và đời môn đệ với các đau khổ thuộc về nhau. Ta chỉ có thể thực sự hiểu Đức Giêsu bằng cách bước theo Người trong đau khổ. Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.
Chương trình trên đây không dễ; nó đòi hỏi rất nhiều ý chí và can đảm. Người môn đệ sẽ bị cám dỗ trốn chạy để cứu lấy mạng sống mình khỏi những đau khổ và một cái chết tàn bạo, nhưng đó là một ảo tưởng. Rõ ràng là đau khổ không phải chỉ là chấp nhận thụ động, nhưng là một hình thái sống tích cực: “Nếu ai muốn… (ei tis thelei…)”. Qua nghịch lý “cứu – mất”, tác giả giúp hiểu rằng nếu kiên trì trong đời môn đệ, người tín hữu có thể phải chết sớm nhưng sau đó sẽ được sống muôn đời; trái lại, nếu người ấy chối từ Đức Giêsu, cuộc sống trần thế của người ấy có thể được kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng sau đó sẽ kết thúc bằng một cái chết thật sự.
Một suy tư mục vụ (c. 26) bổ túc câu nói về “mất” và “cứu” mạng sống. Viễn tượng được mở rộng ra nữa: Người ta có thể đạt được tối đa thành tích trần thế trong cuộc đời này, tới mức chinh phục được cả thế giới, nhưng nếu phải mất tình nghĩa, sự hiệp thông với Thiên Chúa, là nguồn sự sống chân thật, thì tất cả những lợi lộc có đó sẽ vô ích, bởi vì với các của cải trần thế đã tích lũy lại đó, người ta vẫn không thể vớt lại được những gì đã mất và không thể chinh phục những gì họ không có.
Thế rồi, Đức Giêsu quay về Con Người, Đấng sẽ đến với các thiên thần để xét xử thế gian. Đây là việc xét xử về lối sống (praxis) của loài người mà tác giả sẽ mô tả chi tiết ở 25,31-46. Lời nói về cuộc quang lâm của Đức Giêsu “Con Người” cũng nhắc nhở người ta biết chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên, Đức Giêsu, là “Con người” và là “Thẩm phán thế gian”, cũng là Đấng đang ở cùng các môn đệ, để dạy dỗ họ, đi trước họ vào trong đau khổ và phục sinh, gọi họ là “có phúc”, vẫn kêu gọi họ “bước theo Người” khi họ sa sút, và ở cùng họ như là Đấng được tôn vinh “cho đến tận thế” (28,20). Sự phán xét mất tính cách đáng kinh hãi, bởi vì Con Người đang được chờ đợi không là ai khác ngoài Đức Giêsu, Đấng mà Hội Thánh biết và Đấng xuyên qua dòng lịch sử đã đi trên nẻo đường họ sẽ đi. Ngoài ra vị Thiên Chúa mà Người Con sẽ cho thấy vinh quang lại không là ai khác ngoài Cha của Đức Giêsu “Con Người”, Đấng nghe các lời cầu nguyện của Hội Thánh.
+ Kết luận
Lời phản đối của Phêrô được dùng như một điển hình. Khi phải đối đầu với đau khổ, ông suy nghĩ như “loài người”, tức là duy lý, ích kỷ, đi từ một tình yêu loài người. Đức Giêsu trả lời bằng một kiểu đối lập sắc bén. Các tiêu chuẩn này của loài người không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Các môn đệ phải chấp nhận công việc của Đức Giêsu và phản ánh lối sống và sự đau khổ của Người. Vậy, sống và chịu đau khổ như Đức Kitô chính là nét tiêu biểu của đời môn đệ, của Hội Thánh.
Về phương diện Kitô học, tác giả đã diễn tả mầu nhiệm Đức Đức Kitô bằng cách đóng khung lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” bằng một phân đoạn nói về Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.”Con Người”. Nếu với lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” nhắm giới thiệu tính duy nhất của Đức Giêsu, mà chỉ Chúa Cha mới có thể mạc khải cho biết, thì với lời tuyên xưng về “Con người”, mục đích là giới thiệu con đường mà vị Thầm phán thế gian với các môn đệ phải đi xuyên qua sự khiêm nhường, sự thù nghịch, đau khổ, và sự sống lại; các môn đệ thông phần vào tất cả các tình trạng này. Đối với tác giả Mt, điều đã rõ là không một văn phòng huấn quyền nào hay một phân khoa thần học nào có thể là thẩm phán xét đoán tính đúng đắn trong lời tuyên xưng về Con Thiên Chúa, nhưng chỉ có Con Người mới có thể xét đoán praxis của các môn đệ đang tuyên xưng người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Làm tín hữu là “bước theo Đức Giêsu”. Vừa chào đời, mạng sống của Người đã bị đe dọa; sau đó Người đã làm nghề thợ mộc ở Nadarét trong một thời gian dài. Khi bắt đầu cuộc đời trần thế, Người đã bắt đầu đi dưới bóng cái chết: cái chết càng lúc càng tỏ hiện rõ ràng hơn. Các môn đệ của Đức Giêsu cần ý thức rằng họ đang đi theo một vị Thầy đã chấp nhận một cuộc sống hiểm nghèo, thì mới đưa lại hạnh phúc cho người khác.
2. Cuộc Khổ Nạn nằm trong chương trình cứu độ: đây là điều “cần thiết”, tức thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa nhằm cứu độ loài người. Đây là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn Đức Giêsu và của sứ mạng Người. Nhưng đây cũng là lý do từ bao đời vẫn gây nên cớ vấp phạm: mầu nhiệm này vừa là cớ vấp phạm đối với thế giới Do Thái, và cũng là đề tài gây thắc mắc cho Giáo Hội tiên khởi cũng như cho Giáo Hội ngày hôm nay và ngày mai nữa. Đấy đã là vấn đề của sách Gióp: sau thời Lưu đày, Israel đã tự hỏi về ý nghĩa của “đức công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, làm dân được tuyển chọn, dân của Thiên Chúa, làm đối tượng của tình yêu Người, nghĩa là gì? Nhờ mạc khải của Đức Giêsu, chúng ta thấy điều mà sách Gióp còn coi như một ngoại lệ (= đau khổ của người công chính), đã trở thành tiêu chuẩn: tình yêu của Thiên Chúa đi qua Thập giá.
3. Kinh nghiệm của Phêrô rất quý cho chúng ta. Chúng ta rất mong manh, hay thay đổi, mà lại dễ ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa, không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, phải biết ngờ vực chính mình, đồng thời không thất vọng về những mâu thuẫn nhận ra nơi bản thân.
4. Nên đề phòng một cách hiểu méo mó về thần học thập giá: đau khổ trở thành mục tiêu, một giá trị tự nó thay vì chỉ là một phương tiện, một con đường đưa tới giải thoát. Người ta hiểu Tin Mừng chỉ nói về hy sinh, từ bỏ, hãm mình, chứ không nói đến niềm vui sướng hân hoan, sự vui thỏa (coi đây là những điều xấu!). Thật ra, đau khổ không bao giờ được nâng lên hàng “sự thiẹn Kitô giáo” cả. Bổn phận của người Kitô hữu không phải là dạy chịu đau khổ, nhưng là dạy sống; không phải là dạy tích lũy các thiếu thốn, từ bỏ, hy sinh, nhưng là loại trừ chính những nguyên nhân gây ra những điều đó. Mục tiêu của con người là hạnh phúc, ơn gọi của con người là thực hiện một thiên đàng trên trái đất trước khi đạt tới thiên đàng trên trời. Đau khổ, hy sinh, đau đớn là cái giá phải trả để có niềm vui mà người Kitô hữu được mời gọi chinh phục cho được. Điểm nhắm của ngươi Kitô hữu thì ở trên cao, nhưng để đến được đó, phải chấp nhận vượt qua một con đường dốc gian khổ. Phải hy sinh một cái gì đó để không đánh mất điều chính yếu. Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải đau khổ, nhưng Ngài có thể yêu cầu họ chấp nhận đau khổ, nếu đó là nguồn làm phát sinh niềm vui cho kẻ khác.
--------------------------------
LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Chúa sẽ có đâu như thế!": Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: "Các ngươi chẳng chết TN 22-A59
"Chúa sẽ có đâu như thế!": Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: "Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu, nhưng sẽ trở nên như các thần" (Mt 3,4-5), chính nó lại đối diện với Chúa Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: "Nếu Ngài là Con Thiên Chúa...", “các thiên thần sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ" (Mt 4, 5). Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa "Nếu Ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô - điều đó không thể nào xảy ra được". Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.
"Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta”: Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu dùng để trả lời Phêrô; dĩ nhiên Matthêu không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ sài, chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc cho nó một sự nặng nề đặc biệt. Vừa mới được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan; lúc ấy ‘Ngươi là đá’, bây giờ ‘Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta’ (cách dịch của BJ: ‘Ngươi cản ngăn Ta’ rõ ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn: Từ địa vị Tảng đá nền móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18, 6-9), ta mới lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc: "Xéo đi, Satan" (4, 10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.
"Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa": Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa Giêsu đã nói ở câu l7: "Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời ". Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông không thể phù hợp với mặc khải của Chúa Cha. "Quả thế, ý nghĩa của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).
"Nếu ai muốn đi sau Ta": Dù trực tiếp ngỏ với các môn đồ chỉ thị này vẫn không coi như một lời khuyên sống trọn lành dành cho một nhóm Kitô hữu ưu tú: ‘bất cứ ai’ (Hy ngữ tis) muốn theo Chúa Giêsu, thì phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc sống Kitô hữu cơ bản. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng là một sự dấn thân tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.
"Vì kẻ muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được ": Câu này là câu kế tiếp dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước tiên chỉ con người cụ thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng thời cũng chỉ sự sống vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải ra như sau: kẻ nào muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ tìm được sự sống vĩnh cửu.
Câu 26 cũng phải được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước, nghĩa là phải mặc cho chữ sự sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý Chúa Giêsu nói lên sẽ thành một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế gian, con người cũng không thể hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong thời gian của mình, tức là chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt mất sự sống vĩnh cửu.
"Hay người ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?": Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con người quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự sống vĩnh cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu? Câu trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.
Câu 27 đưa ra lý do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ: đó là Con người một ngày kia sẽ đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét này sẽ định đoạt số phận tương lai của họ.
KẾT LUẬN
Cuộc Khổ nạn là một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất "cần thiết". Đó là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, "mới mẻ" nhất của tâm hồn và sứ mệnh Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là lý do trường cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy, Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự "công chính" của Thiên Chúa. Nói cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được làm đối tượng của tình yêu Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa Giêsu, điều mà trong sách Gióp xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người công chính) thì nay thành luật chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài học cho Giáo Hội và cho mọi kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu bình thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn. Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình, tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ ra chẳng được xảy đến. Nhưng Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha: Người biết hòn đá bị loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên đá đỉnh góc.
2) Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người.
Vì thiếu đức tin nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Người, lúc mà quân canh rình chực Người để bắt lấy. "Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại". Mầu nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Vâng, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Nhưng khốn nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình yêu.
-------------------------------
CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Con đường của Con Người…
Đáp lại câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ "trong miền Xêrarê Philip" trước khi lên đường TN 22-A60.
Đáp lại câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ "trong miền Xêrarê Philip" trước khi lên đường đi lên Giêrusalem: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tiếp liền theo Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tượng trưng cho sứ vụ mà Chúa trao cho: "Con là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.
Đến đây Matthêu lấy lại công thức mà ông đã giới thiệu mục vụ ở Galilê, đã thuật tiếp: "Từ thời gian này..." đó là một cách nói báo trước một bước ngoặt quyết định trong hành trình của Đức Giêsu Kitô.
2. Thông báo lần đầu về khổ nạn
Những kẻ theo Chúa cho đến lúc đó, và đã tuyên xưng qua miệng lưỡi của Phêrô căn tính đích thực của Người, còn cần phải khám phá xem Người phải thực thi sứ vụ của Người bằng con đường bất ngờ và khó đoán nào. Đức Giêsu từ nay bắt đầu vào việc: "Bắt đầu từ lúc này, Matthêu viết, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại."
Thông báo lần đầu trong ba lần về cuộc khổ nạn phân chia cuộc hành trình lên Giêrusalem (xem 17,22-23 và 20,17-19). Mỗi lần đó đều gặp phải sự không hiểu từ phía các môn đệ. Mỗi lần đó đều quả quyết rằng không có con đường nào khác cho các môn đệ ngoài con đường mà sư phụ đã đi. Lời can ngăn hăng hái mạnh mẽ của Phêrô. Phêrô không thể giữ thinh lặng mà không nói lên lời phiền trách trước cái viễn tượng đen tối, mà ông và các bạn ông đã không thể tin được, nên ông "kéo Đức Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Dù ông đã tuyên xưng sứ vụ cứu thế của Thầy mình, nhưng quan niệm về một Đấng Kitô phải chịu nhục mạ, chịu khổ hình và chịu chết là điều ông không thể chịu nổi. Ông lấy danh Đức Kitô vinh thắng để chối bỏ Đấng Cứu Thế đau khổ. Lời khiển trách nghiêm ngặt của Đức Giêsu vào lúc đương đầu với cuộc khổ nạn và cái chết, Đức Giêsu trải qua cơn thử thách cô đơn. Không những đám đông dân chúng từ bỏ Người, mà cả đến các bạn hữu cũng không hiểu Người. Kẻ mà Người vừa chọn làm ‘đá tảng, đá nền để xây Hội Thánh của Người trên đó’, giờ đây bỗng biến thành viên đá cản đường, hòng làm Người té nhào trên đường. Ông gợi ý cho Người một con đường "cứu thế" theo ý loài người, chứ không theo con đường của Thiên Chúa. Việc Phêrô không muốn chấp nhận, theo J.Potid giải thích, làm sống lại cơn thử thách vĩ đại mà Chúa đã phải trải qua vào lúc đầu thi hành sứ vụ. Con đường của Người không phải là đường vinh quang mà những người Do Thái mơ ước cho Đấng Cứu Thế của họ, con đường trải đầy những việc phi thường, những chiến thắng, những cuộc biểu dương vinh hiển. Đức Giêsu đã phải loại bỏ những điều đó, bởi vì Thiên Chúa không thể thiết lập vương quốc bằng vũ lực. Và giờ đây Phêrô làm sống lại trước mắt Người sự hiện diện của Satan, mà Người đã thắng (trong "Jesus, l'histore vraie" Centurion 1994, trang 334-335)
"Satan, lùi lại đàng sau Thầy". Đức Giêsu đã đáp lại ông cách hết sức gay gắt. Nghĩa là: anh hãy giữ địa vị môn đệ, đàng sau Thầy. Lời quở trách này, Cl. Tasin quảng giải, vẽ nên nét tương phản với lời chúc phúc mà Chúa đã nói với Phêrô ở câu 16,7. Ông đã biết tuyên xưng đức tin, nhưng ông lại không biết từ bỏ ý mình mà chấp nhận ý Thiên Chúa. Sự phản kháng của ông không những phát xuất từ tính ích kỷ của "ý tưởng loài người", mà còn phục vụ Satan. Cả một thế giới thù nghịch với sứ mạng của Đức Kitô ("L'evangile de Matthieu" (Centurion 1991, trang 181).
3. Đường của các môn đệ
Và để cất đi mọi ngộ nhận, Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ không có con đường nào khác con đường mà sư phụ đã đi trước: đó là đường thập gia. "Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ba câu tiếp theo đều xây dựng trên từ "mạng sống" sẽ soi sáng tư tưởng lựa chọn này: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ai tự đặt mình làm trung tâm lẽ sống, người ấy đi vào cõi diệt vong; nhưng ai xem bề ngoài thất bại để uổng mất mạng sống mình vì Đức Kitô; thực tế tiến tới thành công. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Mạng sống con người không đồng hoá với của cải họ có, cho dầu họ chiếm được cả thế giới. "Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?: nào ai trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa, thánh vịnh 49,8 đã nói. Chỉ cần môn đệ - đầy tớ giống như sư phụ – đã là đủ rồi (10,24-25), Jean Rachemakers kết luận, từ bỏ chính mình, mang thập giá lên vai và theo Chúa, là những thành phần làm nên cuộc sống người môn đệ. Điều mà Thầy đòi hỏi nơi Phêrô thì Người cũng đòi hỏi nơi mọi môn đệ là: chấp nhận ý định cứu thế của Thiên Chúa theo cách thế được tỏ ra nơi đời sống Đức Kitô, bởi đó, chấp nhận rằng Chúa Cha khác hẳn với điều mà "xác thịt và máu huyết" có thể nghĩ ra, hình dung được.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Theo Đức Giêsu (Mgr. Daloz trong cuốn "Le Règlle des cieux s'est approehé" desclée de Brouwer, trang 242-243). Nếu ta chăm chú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ hãy sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì, nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của "sở hữu” nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính "người được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. "Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình". Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người, trái tim con người được tạo nên để mở ra, để yêu thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. "Yêu là cho tất cả là trao ban chính bản thân mình", thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự về bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân: mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người. Thật là một nghịch lý cho con người, anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc đầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình; những người thành tựu cuộc sống đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực lòng tận tụy để phục vụ tha nhân... cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp cho con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, người còn mạc khải ý nghĩa đầy đủ. Người đã đi con đường mà Người muốn cho những ai theo Người phải đi: Ai muốn theo tôi... Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao? Còn đường thập giá, người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ xuống đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ: đó là sự phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe doạ đâu, mà là một lời hứa. "Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng: "Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban.
2. Biểu trưng của thập giá (D.Ponnau, Giám đốc trường Louvre, trong tạp chí "Le Monde de la Bibbe" số 97, trang 5)
Biểu tượng của Thập giá đi trước và vượt quá biên giới của thế giới Kitô giáo. Tuy vậy nó là dấu chỉ quen dùng nhất có tính đặc trưng và tính phổ quát của Kitô giáo. Từ thời trước Đức Kitô và từ thời Đức Kitô, thập giá là một biểu tượng có tính toàn cầu phổ biến nhất và được nói đến nhiều nhất, ở ngoài những miền đã tin theo Phúc Âm. Nó liên kết hết mọi người "phương Đông" ở mặt đất, ở trên trời và trong không gian. Lâu đời trước thời Đức Kitô, thập giá đã là dụng cụ khổ hình ghê sợ và ô nhục, chỉ dành cho những cặn bã của xã hội, những tên nô lệ phản động. Nhưng Đức Kitô đã làm nó trở nên biểu tượng của Đức Kitô và của các môn đệ của Đức Kitô. “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do Thái, là điên dại đối với dân ngoại, còn đối với những kẻ được gọi, cả Do Thái và Hy Lạp, Người là Đấng Kitô, quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô đã nói như thế và chính Đức Giêsu cùng đã nói: "Ai không vác lấy thập giá và không theo Ta, thì không xứng đáng với Ta”. Đấng là Ngôi Lời hằng hữu, nói theo các môn đệ tự trao ban ngay từ khởi thuỷ, như Đấng bị đóng đinh và Đấng kêu gọi người ta chết đi đóng đinh vào thập giá. Người trao ban bản thân với tư cách đó trong lời Người và trong lời của những kẻ mà Người linh hứng. Không phải trong ảnh tượng của Người. Phải chờ đến thế kỷ IV thì ảnh tượng thập giá của Chúa mới được trưng bày cho người ta chiêm ngường. Thánh nữ Helena đã phát minh ra ở Giêrusalem và rồi sau đó xuất hiện vinh quang ở thành thánh. Từ đó thập giá được làm bằng kim loại quý và được cẩn đá quí. Rồi nhiều thế kỷ sau đó mới thấy xuất hiện tượng thánh giá có mang Đấng chịu khổ hình. Nghịch lý thay một biểu tượng có tính toàn cầu lại là một biểu tượng ô nhục. Nghịch lý thay sự vinh quang được tung hô bằng lời nói, lại không thể chịu được bằng mắt nhìn. Người ta đã có thể gây vấp phạm là trương lên tên gọi của thập giá và của Đức Giêsu bị đóng đinh. Nhưng phải đợi rất lâu sau người ta mới có thể trưng bày thập giá cho mắt thấy, và đợi một thời gian nữa, mới thấy trưng bày Đấng mà họ đã đóng đinh vào thập giá. Dấu ấn của thập giá đã trở nên dấu ấn tối ưu của Kitô hữu trên thế giới. Trên đó người Kitô hữu chiêm ngắm vị Thiên Chúa đã chọn vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Đức Kitô và Kitô hữu đã không sáng chế ra biểu tượng có dạng thập giá được tôn vinh từ Đông sang Tây và khổ hình độc ác nhất. Họ chỉ tạo cho nó thành địa điểm để Thiên Chúa siêu vời thấm nhập vào mầu nhiệm cô đơn của con người. Đức Giêsu bị đóng đinh trên đó đã mời gọi một cách độc đáo những kẻ từ nay có thể nhìn ngắm Người - Người từ đỉnh núi thánh gọi những kẻ đang ở đáy vực cuộc sống - nhìn ngắm Người, hoặc như gương mẫu tuyệt hảo của tận hiến và yêu thương, hoặc như dấu chỉ của tận hiến và yêu thương.
-------------------------------
Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”Trang Tin Mừng hôm TN 22-A61
Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được "mạc khải" ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!
Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?
Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.
Từ lúc đó...
Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc "tuyên xưng đức tin" tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? "Từ lúc đó", Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.
Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.
Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã "chạy trốn" ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem "thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.
Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!
Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!
Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.
Từ ngữ "Người phải" luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng "mình phải", chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.
Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem "các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư...", mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy..."
Phêrô bị kết án là "kẻ cám dỗ" đối với Đức Giêsu "Xatan hư hại!"
Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: "Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.
“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội... Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.
Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.
Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua "quan điểm con người" để chấp nhận "quan điểm của Thiên Chúa".
Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ "giản lược" cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.
Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.
Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo..."
Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.
Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: "Tôi muốn sống đời sống của tôi! ".
Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: "phải từ bỏ chính mình". Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.
Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ "phải nộp thân mình và đổ máu mình". Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?
Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải "mất" để “được".
Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.
Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: "Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa".
Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.
Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.
------------------------------
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Đọc báo chí hay coi tin tức truyền hình hằng ngày, ta thấy đầy dẫy những câu chuyện tang thương TN 22-A62
Đọc báo chí hay coi tin tức truyền hình hằng ngày, ta thấy đầy dẫy những câu chuyện tang thương, những cảnh khổ đau, buồn tủi của loài người. Mặc dầu loài người cố thoát khỏi đau khổ, đau khổ vẫn đến với loài người.
Phúc âm hôm nay, cũng như Phúc âm Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B theo thánh Marcô, và Phúc âm Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C theo thánh Luca có nội dung và lời lẽ giống nhau hầu như đồng nhất. Trong cả ba Phúc âm nhất lãm, Đức Giêsu bầy tỏ cho thánh Phêrô và các tông đồ thấy điều nghịch lý của Kitô giáo. Chúa đến làm đảo ngược những giá trị của loài người. Phúc Âm mang ý nghĩa đối nghịch với những ai muốn biến đạo Kitô giáo thành chủ nghĩa nhân bản. Kitô giáo không phải là đạo sống theo sở thích cá nhân và tìm thoả mãn tính ích kỷ. Để nhấn mạnh và bàn sâu rộng về mỗi ý tưởng của lời Chúa, vào Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B, ta sẽ suy niệm về ý nghĩa lời Chúa: Con Người phải chịu đau khổ nhiều (Mc 8:31). Sang Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C, ta sẽ suy niệm về lời Chúa: Ai liều mạng sống vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống mình (Lc 9:24).
Hôm nay ta cùng suy niệm về lời Ngài: Ai muốn đi theo Thày, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16:24). Từ bỏ chính mình, vác thập giá là điều kiện để làm môn đệ Chúa. Ta không thể theo Chúa mà không từ bỏ. Vậy từ bỏ chính mình có nghĩa là gì? Đứng trước những lựa chọn, ta không thể chọn hết. Chọn vật này thì phải bỏ vật kia. Từ bỏ chính mình là từ bỏ ý riêng, từ bỏ những xu hướng cá nhân và từ bỏ cái tôi. Từ bỏ cái tôi để Chúa có thể vào nhà mình. Khi cái tôi lớn quá thì không còn chỗ cho Chúa vào. Từ bỏ mình để Chúa được tăng trưởng như thánh Gioan tiền hô đã đề xướng: Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi (Ga 3:30).
Từ bỏ mình để có thể vác thập giá. Nếu không từ bỏ thì không thể vác thập giá. Vậy vác thập giá mình có nghĩa là gì? Vác thập giá là chấp nhận những đau khổ, khó khăn trong cuộc sống vì yêu mến Chúa. Nói chung, vác thập giá là chấp nhận những giới hạn và hoàn cảnh mình đang sống. Có một câu hỏi mà người chịu khổ thường thắc mắc là câu hỏi tại sao? Tại sao Chúa để tôi chịu đau khổ? Tại sao Chúa gửi thánh giá đến cho tôi và gia đình tôi? Đa số lòai người, trừ trẻ nhỏ, phải mang những thánh giá của bệnh tật, đau khổ phần xác hay phần hồn, thánh giá của cảnh lo âu, sợ hãi, cô đơn, tẩy chay, thất vọng, thánh giá của cảnh gia đình đổ vỡ, chia ly, phân tán. Có những người phải mang thánh giá kéo dài suốt cả cuộc sống. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia cho thấy vị ngôn sứ phải rơi lệ khi thành Giêrusalem thất thủ, và dân chúng phải rơi vào cảnh lưu đầy. Mặc dầu bị dân chúng tẩy chay và chống đối vì thái độ chủ bại, vị ngôn sứ vẫn trung thành với sứ mạng..
Đức tin vào Chúa không bảo đảm cho ta một đời sống miễn trừ khỏi bệnh tật, đau khổ và thánh giá hay khỏi những khủng hoảng và trắc trở của cuộc sống. Như vậy thì người có đức tin hay không có đức tin cũng có thể phải mang bệnh tật và đau khổ như nhau. Điều khác biệt ở đây là: người có đức tin không chịu khổ vì khổ như một đường cùng không lối thoát. Họ có Chúa là bạn đồng hành trên đường đau khổ thánh giá. Người có đức tin chịu đau khổ, vác thánh giá vì lòng yêu mến Chúa để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúa không bảo ta đi tìm đau khổ và thánh giá. Chúa chỉ bảo ta vác thập giá mình. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi người ta tự chuốc lấy đau khổ và thánh giá cho mình. Ta phải mang bệnh tật đau khổ vì nghiện ngập, hút sách, không biết giữ gìn sức khoẻ hay không biết kiêng cữ. Ta phải chịu cảnh tù đày vì không tôn trọng luật pháp. Ta phải chịu đau khổ về tâm linh, về tình cảm vì tạo ra những mối tình ngang trái, tạm bợ. Và khi phải cắt đứt những mối tình tạm bợ và ngang trái, ta sẽ bị héo hắt tâm can.
Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Ta không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ và thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp bệnh hoạn tật nguyền, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị loài người cách trực tiếp mà không cần bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi gặp đau khổ và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để chia sẻ vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ơn ích thiêng liêng. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.
Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về nỗi khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân, và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).
Lời nguyện xin cho được biết tử bỏ mình, vác thập giá:
Lạy Chúa, con xin cảm tạ đội ơn Chúa
đã đến chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người.
Xin tha thứ những lần con phàn nàn kêu trách Chúa
vì những đau khổ thánh giá con phải mang vác.
Xin ban ơn nhẫn nại để con biết từ bỏ mình, vác thánh giá.
Xin Chúa là sức mạnh và là niềm an ủi
khi con phải mang vác thánh giá của cuộc sống.
Xin dạy con thánh giá là dụng cụ biến đổi ở đời này
và là dụng cụ cứu rỗi đời sau. Amen.
------------------------------
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn TN 22-A63
Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn lên, hồng ân và hạnh phúc đó phải được triển nở không ngừng trong tương qua với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, để hoàn thiện, cần phải có những chọn lựa khôn ngoan.
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ theo mình để được hạnh phúc trọn vẹn. Con đường mà Ngài mời gọi lại không phải là con đường dễ dãi, thênh thang, mà là con đường hẹp. Con đường đó là "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).
Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là ý định cứu độ của Thiên Chúa muốn Đức Giêsu thi hành. Quả thật, Đức Giêsu đã đón nhận cũng như thi hành cách trung thành và trọn vẹn trên con đường ấy. Đến lượt chúng ta, phần vì muốn được cứu độ; phần vì muốn cộng góp với Đức Giêsu trên hành trình cứu độ nhân loại, hẳn chúng ta không còn con đường nào khác là con đường: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”(Lc 16,24).
1. Từ bỏ mình, có mất tự do không?
Tin Mừng kể lại: sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài là phải chết để cứu chuộc con người. Song song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).
Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Vì tại sao Đức Giêsu lại muốn các môn đệ đánh mất sự tự do, từ bỏ cái tôi, tức là hủy mình ra không!!! Điều đáng nói là chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người tự do, và Ngài chấp nhận con người dùng tự do theo ý hướng của họ. Vậy thì đòi hỏi này của Đức Giêsu có nghịch lý chăng?
Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh.
Theo lối hiểu của Kinh Thánh và ý muốn của Đức Giêsu thì sự đòi hỏi này mang tính tích cực cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc.
Khởi đi từ câu hỏi rất thân tình: “Ai muốn theo Thầy?”. Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng.
Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn đệ tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ..., để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc của kẻ khác.
Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai... Con đường đó là con đường của từ bỏ: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24). Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
2. “Từ bỏ mình vác thập giá mà theo” có ý nghĩa gì?
"... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24), tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường khó khăn, thiệt thòi, con đường của hy sinh, tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.
Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do: ai sinh ra trên trần gian này cũng đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi.
Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ra. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Thật vậy: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3).
Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.
Từ bỏ chính mình là một cách minh nhiên cho thấy ta sẽ ưu tiên cho việc đi theo Chúa hơn là công việc của Chúa.
Nếu không từ bỏ chính mình, thì hẳn ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ không thể hướng tha, mà chỉ là quy về mình và sống trong sự ích kỷ, vụ lợi mà thôi.
Nếu theo Chúa mà cồng kềnh thì khó lòng vượt qua những khó khăn thử thách, và cái tôi của mình là một rào cản lớn có tầm ảnh hướng đến việc được hay mất.
Đức Giêsu không muốn các môn đệ đi theo mình với những nỗi niềm chờ mong sai lạc, nhưng Đức Giêsu muốn họ vui chọn cuộc sống thiếu thốn và cực khổ vì hạnh phúc của kẻ khác, biết từ bỏ cái tôi xác thịt, ham muốn hưởng thụ riêng mình mà chọn lấy niềm vui khi chia sẻ với người khác.
3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi.
Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh như: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.
Mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.
Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài.
Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn cách trung thành, ngõ hầu chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa và như Chúa.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, thì Người bắt đầu TN 22-A64
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, thì Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người sắp đi lên Giê-ru-sa-lem để qua đau khổ thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh. Ông Phêrô lên tiếng khuyên can nhưng đã bị Người nặng lời quở trách, vì ông đã suy nghĩ theo kiểu loài người. Rồi Đức Giêsu dạy môn đệ phải làm theo thánh ý Thiên Chúa là từ bỏ bản thân, vác thập giá mình mà đi theo Người.
CHÚ THÍCH:
- C 21: + Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…: Đức Giêsu mặc khải việc Người sắp trải qua cuộc khổ nạn thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh tại núi thánh Xi-on của Thiên Chúa, tức là thành thánh Giê-ru-sa-lem, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã tiên báo (x. Tv 2,6). Đức Giêsu lần lượt loan báo 3 lần về cuộc thương khó Người sắp trải qua để đánh dấu từng chặng đường tiến về thành Giê-ru-sa-lem, và cũng để chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ khỏi bị bất ngờ khi thấy sự việc xảy ra.
- C 22-23: + Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!: Phêrô không muốn Thầy phải bị thua kẻ thù, để mặc chúng bắt bớ giết hại cách nhục nhã trên cây thập tự rồi mới phục sinh vinh quang! Tại sao Thầy không dùng quyền năng để chiến thắng kẻ thù ngay lập tức? + Xa tan, lui lại đàng sau Thầy!: Xa-tan theo nguyên nghĩa là “Tên cám dỗ” hay “Kẻ cản trở”. Lời can ngăn của Phêrô gợi lại cơn cám dỗ của Xa-tan với nguyên tổ A-đam E-và khi xưa (x. St 3,4-5). Câu này tương tự như câu Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ cám dỗ sau khi Người ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4,10). Ở đây Đức Giêsu chỉ buộc Phêrô lui lại vị trí người môn đệ, nghĩa là phải đi phía sau Thầy (x. Mt 16,24; Ga 21,22b). + Anh cản lối Thầy: hoặc “anh làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Cớ vấp phạm hay là một cái bẫy (x. Tv 124,7), một hòn đá cản đường khiến người ta bị vấp ngã (x. Is 8,14-15; Rm 9,32-33). Vì suy nghĩ theo tình cảm tự nhiên và vì lòng mến Thầy, Phêrô đã vô tình cản lối Người đi khi ông yêu cầu Người bỏ con đường cứu độ đã được Chúa Cha đặt định là “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26). Trước đó, Phêrô vừa được khen là có phúc vì đã tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng giờ đây ông lại bị Thầy trách là tên cám dỗ, và là viên đá gây vấp ngã cho Thầy! + Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người: tương tự như lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).
- C 24-25: + Ai muốn theo Thầy: Ai tự nguyện làm môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng cộng tác vào công việc xây dựng Nước Trời với Người. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu luôn tôn trọng tự do của con người.
+ Từ bỏ chính mình: Điều kiện để làm môn đệ Đức Giêsu là phải loại bỏ những trở ngại bên ngoài như tình thân gia đình và cản trở bên trong như các thói hư tội lỗi và cách suy nghĩ theo tính xác thịt của mình.
+ Vác thập giá mình mà theo: Họ cũng phải chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng, phải chịu đựng những nỗi vất vả và các cơn bách hại do thế gian và các thế lực thù địch với Thiên Chúa gây ra. + Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất: Lời tuyên bố có tính nghịch lý theo kiểu Do thái, dựa trên lòng tin vào một đời sống mới vĩnh hằng sau khi chết. Ai muốn cứu mạng sống thể xác bằng cách bỏ đạo để khỏi bị giết hại thi sẽ bị mất luôn sự sống thiêng liêng ở đời sau. + Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Người khôn là người biết chọn sống cuộc đời tạm này thế nào, để sau khi chết sẽ được sống lại và được sống đời đời. Đức Giêsu đưa ra con đường dẫn tới sự sống đời đời là phải sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh thiệt thòi, ngay cả mất mạng sống của mình. Ngoài con đường này không còn con đường nào khác để đón nhận được ơn cứu độ.
- C 26-27: + Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì?: Câu này lặp lại tư tưởng của câu trên. + Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người: Giá trị của cuộc sống thực sự chỉ tỏ hiện trong cuộc chung thẩm vào ngày tận thế. + Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm: Sự thưởng phạt công minh là động cơ khiến người ta sẵn sàng chấp nhận đi con đường hẹp là bỏ mình và vác thập giá đi theo Chúa ngay đời này. Đức Giêsu quả quyết chính Người sẽ ngự đến vào ngày tận thế để xét xử mọi người tùy theo các việc tốt họ đã làm hay không làm khi còn sống.
CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giêsu phải cho các môn đệ biết về các biến cố Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem? Người tiên báo phải chịu khổ nạn thập giá rồi mới vào vinh quang Phục Sinh ba lần nhằm mục đích gì? 2) Tại sao tông đồ Phêrô lên tiếng can gián Thầy và ông đã bị Thầy quở trách như thế nào? 3) Bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày đối với mỗi tín hữu hôm nay cụ thể là bỏ và làm những gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh của cây Thánh Giá
Một người đàn bà đạo đức kia phát hiện mình có khối u ở ngực nhưng lại không dám đến bệnh viện mổ vì sợ mình không thể chịu nổi cơn đau khi mổ. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà đâm hoảng mới chấp nhận mổ, hy vọng sống thêm được một thời gian. Bà có một cậu con trai trong tuổi thanh niên. Khác hẳn bà mẹ, anh con trai này tỏ ra khô khan các việc đạo đức và đã bỏ đến nhà thờ từ khá lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà mẹ yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được đứng bên giúp bà thêm sức chịu đựng cơn đau lúc đang mổ và yêu cầu của bà đã được bác sĩ chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua cơn đau khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con!”. Trườc cảnh tượng mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai đã thốt ra những lời phàn nàn trách móc Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt và nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn nâng đã an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê, làm dịu đi cơn đau khủng khiếp mà bà đã và đang phải chịu đựng.
Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho con trai và dặn rằng: “Con ơi! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong cuộc đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông ơn Chúa giúp mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.
2) Thánh giá Chúa ban hợp với khả năng mỗi người:
Cây thánh giá mà chúng ta phải chấp nhận mang vác trong cuộc sống đều hợp với khả năng của mỗi người chúng ta. Câu chuyện ngụ ngôn sau đây nói lên điều này:
Có một người đàn ông kia tuy có đức tin vào Chúa nhưng lại hay than trách Chúa để mặc mình phải mang cây thánh giá quá sức chịu đựng là bà vợ luôn “lắm điều nhiều lời” của ông. Lúc nào bà vợ này cũng càm ràm chê trách ông chồng đủ điều. Vào một đêm kia, ông ta nằm mơ gặp một thiên thần hiện ra phán bảo: “Ta thấy con hay than thân trách phận vì phải mang vác thánh giá nặng nề vượt quá sức con. Vậy hôm nay con hãy theo ta vào trong nghĩa trang, nơi mà những người chết được chôn cất đều để lại cây thánh giá đời họ ngay trên phần mộ. Con hãy chọn một cây thánh giá khác phù hợp thay cho cây con đang phải mang”.
Ông ta liền vui vẻ mang theo cây thánh giá theo thiên thần vào nghĩa trang cách chỗ ở không xa, hy vọng sẽ kiếm ra cây thánh giá khác nhẹ hơn. Đến nơi, ông ta lần lượt đi đến các phần mộ người chết để thử hết cây này đến cây khác nhưng mãi vẫn không tìm ra cây thánh giá ưng ý. Vì cây nào nhẹ thì lại dài quá khổ; cây vừa vặn thì lại xù xì gớm ghiếc; còn cây trơn tru láng đẹp thì lại quá nặng nề… Cuối cùng ông đành thưa với thiên thần: “Thưa ngài. Con tìm mãi mà chẳng thấy cây thánh giá nào hợp với con cả. Con xin chọn lại cây thánh giá con đã mang từ nhà ra đây”.
Trên đường về nhà thiên thần đã nói với ông rằng: “Thiên Chúa luôn trao thánh giá cho mỗi người phù hợp với sức của họ và Người luôn ban ơn giúp họ vác thánh giá cuộc đời đến cùng”. Có điều lạ là từ ngày chấp nhận vác cây thánh giá là chịu đựng các thói hư của vợ, ông lại thấy bà không còn xấu tính khó ưa như trước. Nhờ đó cuộc sống chung giữa hai người hòa hợp hạnh phúc trở lại như hồi mới cưới.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Mát-thêu đã ghi lại con đường Người sắp trải qua như sau: “Con người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phêrô, một người vừa được Đức Giêsu khen có phúc vì đã tuyên xưng đức tin, đã lên tiếng can Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Nhưng ông đã bị Đức Giêsu nặng lời quở trách: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giêsu đã có phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai lạc của Phêrô khi xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ cám dỗ. Về sau Phêrô đã dần dần hiểu được thánh ý Thiên Chúa, và đã sẵn sàng chấp nhận đi con đường thánh giá để được cùng chết và cùng sống lại với Thầy. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng cho biết điều kiện để trở thành môn đệ của Người như sau:“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
1) Từ bỏ chính mình:
Muốn theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình, nghĩa là bỏ các trở lực bên ngoài như người thân, nghề nghiệp, nhà cửa, ruộng nương... và cả những trở lực bên trong như các thói hư, tội lỗi, lòng ham mê địa vị quyền hành, lòng tham lam của cải bất chính, thói xấu ích kỷ, thích phô trương thành tích để tìm tiếng khen nơi người đời... Đức thánh Cha Phao-lô VI trong buổi triều yết chung ngày 11.03.1970 đã nói:”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được ưa thích nhất trong đời sống công giáo là sự từ bỏ chính mình”. Từ bỏ chính mình nghĩa là phải loại bỏ ý riêng để vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua ý của cha mẹ trong gia đình, thầy cô giáo ở nhà trường, luật pháp trong xã hội, đặc biệt là gương sáng và lời dạy của Chúa Giêsu do các mục tử trong Hội thánh rao giảng.
Quan sát các nhà điêu khắc, ta thấy đàu tiên họ lựa ra một phiến đá cẩm thạch ưng ý rồi chọn kiểu mẫu và sơ phác trên phiến đá. Sau đó họ kiên nhẫn đục đẽo, mài dũa cho tới khi hoàn thành một bức tượng mỹ thuật. Cũng thế, trong việc từ bỏ bản thân, chúng ta cần phải loại trừ lòng tham lam ích kỷ, thanh luyện thói hư và những gì rườm rà để tập trung lo việc nhà Chúa như lời Thánh kinh: ”Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69,10).
2) Vác thập giá mình mà theo Chúa:
Đây là khía cạnh tích cực của việc đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu. Ngoài việc từ bỏ chính mình, chúng ta còn phải chấp nhận chịu đau khổ là vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Có hai loại đau khổ cần phải mang vác là thập giá và thánh giá:
Thập giá là khổ hình người Roma dùng để trừng trị nô lệ hay lê dân phạm trọng tội chống lại đế quốc. Đức Giêsu đã bị quan Tổng trấn Rô-ma là Pông-xi-ô Phi-la-tô lên án tử hình thập giá do bị áp lực của người Do thái. Đức Giêsu đã biến khổ hình thập giá trở nên thánh giá để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Người mời gọi các tín hữu chúng ta hãy vác cây thập giá của mình hằng ngày mà theo Người để được hưởng ơn cứu độ như lời thánh Phao-lô đã dạy: “Nếu chúng ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sông với Người” (2 Tm 2, 11).
Ai trong chúng ta cũng đều phải vác thánh giá là các đau khổ gặp phải trong cuộc sống. Giáo lý Công Giáo dạy đau khổ là hậu quả của tội lỗi, bắt đầu là tội Tổ tông và các tội riêng của loài người. Chẳng hạn: Uống rượu nhiều sẽ gây ra ung thư gan… Chúng ta có thể bị chấn thương sọ não trong tai nạn giao thông do tài xế ngủ gục đâm xe vào giải phân cách… Hoặc do chiến tranh đi đường bị trúng bom đạn hoặc do thiên tai như lũ lụt, lở đất, sóng thần… Tuy nhiên vấn đề nói đây là thái độ chúng ta phải có khi gặp đau khổ: Ta sẽ can đảm chịu đựng phấn đấu vượt qua cơn đau hay chỉ biết than thân trách phận?
3) Vững lòng cậy trông phó thác khi gặp đau khổ:
Các tín hữu thực sự tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau, thì sẽ sẵn sàng chấp nhận thua thiệt mất mát và ngay cả mất mạng sống ở đời này, vì tin rằng Chúa sẽ đoái thương bù đắp gấp bội là hạnh phúc Nước Trời đời sau. Một bạn trẻ muốn lên đại học, nhưng lại thi rớt, cũng đừng nản lòng thất vọng. Hãy chấp nhận thập giá là sự thất bại nhất thời và hy vọng Người sẽ ban một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Một người muốn có một gia đình hòa hợp hạnh phúc và làm ăn tấn tới, nhưng chẳng may gia đình luôn bất hòa và công việc làm ăn không mấy suông sẻ… thì cũng đừng nản lòng, vì Thiên Chúa cha giàu lòng từ bi thương xót có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Người luôn ban ban cho chúng ta những điều tốt lành như lời Chúa Giêsu: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).
Thiên Chúa để cho chúng ta phải chịu các đau khổ trong cuộc sống là để thử thách đức tin của chúng ta. Người muốn chúng ta vui vẻ đón nhận những điều trái ý cực lòng để chúng ta học tập nơi Đức Giêsu: Luôn vâng theo ý Cha như Người đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Thánh Phao-lô tông đồ cũng chia sẻ kinh nghiệm chịu đau khổ như sau: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái “dằm” đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh. Vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuôi, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10).
4. THẢO LUẬN: 1) Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu người ta phải hy sinh từ bỏ. Vậy cụ thể bạn cần từ bỏ những gì ngay từ hôm nay? 2) Thập giá hằng ngày ta phải vác theo chân Chúa là những gì? 3) Gặp một người đau khổ tuyệt vọng vì bị thất bại tán gia bại sản không còn thiết sống, bạn sẽ động viên họ thế nào để vui sống trở lại?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa luôn có thái độ bình thản trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến. Chúa đã vui lòng chấp nhận thua thiệt để nêu gương can trường cho chúng con. Hiện nay, vẫn đang có nhiều tu sĩ nam nữ tận hiến phục vụ những người bệnh tật, đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi.
- Lạy Chúa Giêsu. Khi nhìn lại bản thân, chúng con cảm thấy xấu hổ khi thấy mình quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân và bịt tai nhắm mắt trước những cuộc đời bất hạnh gần bên. Xin Chúa giúp chúng con biết luôn “bỏ mình”: nghĩa là bỏ đi cái tôi ích kỷ tự mãn, để khiêm tốn phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ. Xin cho chúng con chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải trong cuộc sống, và bước theo chân Chúa lên Núi Sọ, để cùng chịu chết, cùng được an táng với Chúa và ngày thứ ba sẽ được cùng sống lại với Chúa trong vinh quang.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
-------------------------------
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng thánh Mathêô thuật lại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay TN 22-A65
Chúng ta vừa nghe một đoạn Tin Mừng thánh Mathêô thuật lại.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa dạy chúng ta nhiều điều mà điều nào cũng có ích cho chúng ta.
1. Lời Chúa dạy thứ nhất Chúa bảo “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”. Chúa không ép chúng ta theo Ngài, Chúa không buộc chúng ta bỏ mình và vác thập giá. Ngài chỉ mời chúng ta và cho chúng ta tự do. Nếu chúng ta muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi.
Sau đó Chúa cũng cho biết những sự lợi hại của việc theo Chúa: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”(Mt 16,25)
Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này: Một hôm, Chúa Giêsu dẫn hai người trong số các môn đệ đến đầu đường, trao cho mỗi người một cây thánh giá giống nhau và bảo:
Mỗi người chúng con vác thập giá của mình đi đến cuối đường trước mặt kia. Thầy đợi các con ở đó.
Hai môn đệ vâng lời, vác thập giá mình đi. Người thứ nhất vác cách dễ dàng, chân nhanh bước, dường như thập giá không cản trở hay gây phiền hà gì cho anh. Chẳng bao lâu anh đã đến cuối đường, gặp Chúa đang đợi ở đó. Và Thầy trò vui mừng hớn hở.
Còn người thứ hai vác đi nặng nề, dường như anh vác không nổi, kéo lê thập giá đến chỗ Chúa Giê su chỉ định, và anh đã kiệt sức. Vừa thấy Chúa, anh đã phàn nàn:
Chúa bất công quá! Chúa trao cho con cây thánh giá quá nặng; còn trao cho anh kia cây thánh giá nhẹ hơn, nên anh đã đi đến trước con.
Chúa buồn đáp:
Con ơi! Thầy không đối xử bất công với con đâu. Cả hai thập giá đều giống nhau và nặng bằng nhau, không cây nào nặng cây nào nhẹ. Sở dĩ con cảm thấy nó quá nặng đối với con, vì con không sẵn sàng chấp nhận. Suốt trên đường đi, con luôn than phiền trách móc nó nặng, càng than trách thì thập giá càng trở nên nặng cho con. Bạn con đã vác đến trước vì tâm hồn tràn đầy yêu thương. Tình yêu làm cho thập giá trở nên nhẹ nhàng.
Vui lòng vác thánh giá, thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Càng kéo lê thánh giá, thánh giá càng trở nên nặng nề hơn.
2. Lời dạy thứ hai “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16:25).
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest của nước Hung-ga-ri để trấn áp một cuộc bạo động, có một viên sĩ quan trẻ hung hăng trong tư thế một kẻ chiến thắng, đã tìm đến nhà một vị mục sư.
Bước vào phòng, đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây Thánh Giá treo trên tường và bảo ông mục sư:
- Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá, mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu có thể kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông và tôi, ông hãy thú nhận là không hề tin cái ông Giêsu nào đó là Con của Thiên Chúa...”
Vị mục sư điềm tĩnh nhỏ nhẹ trả lời:
- Không thể được, tôi thật sự tin vào Người!
Viên sĩ quan rút súng ra và bảo:
- Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không nói điều đó là sự dối trá, tôi sẽ nổ súng giết ông ngay!”
Vị mục sư đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:
- Tôi không thể nói khác được. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa!
Thật không ngờ, nghe đến đây, tay viên sĩ quan run lên, khẩu súng rớt xuống nền nhà, ông chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư, vừa khóc vừa nói:
- Xin lỗi ông, tôi chỉ muốn thử xem ông có trung thực hay không! Đúng thế, tôi cũng đã âm thầm lặng lẽ tin trong suốt nhiều năm qua như ông đã tin! Nhưng giờ đây, tôi đã khám phá ra rằng: có ít nhất một người dám chết cho Đức Tin của mình, chính ông, ông đã củng cố Đức Tin cho tôi!
“Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”(Mt 16,25)
3. Lời dạy thứ ba: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” (Mt 16:26)
Hãy nghe một câu chuyện nữa: Thomas Morus (1478-1453) thủ tướng nước Anh, dưới thời Henry VIII, bị tống ngục vì không chịu chối đạo. Sau đó ông bị kết án tử hình. Vợ liền tới thăm và hỏi chồng :
- Tại sao mình không lo cứu sống ?
- Này em theo em nghĩ thi anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa ?
- Sức khỏe anh hứa hẹn ít nhất được 20 năm nữa.
- Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại: để sống 20 năm mà phải hy sinh cả cuộc sống đời đời sao!
“Người nào được lời lãi cả thiên hạ mà thiệt phần tinh hồn hỏi có ích chi ?
Lấy gì đổi được tinh hồn mình ?” (Mt 16:26)
Chúng con yêu quí,
Chúng ta đừng quên rằng, sẽ đến một ngày nào đó Thiên Chúa đòi chúng ta phải tính sổ với Chúa. Không phải là sổ ghi chép của cải vật chất mà chúng ta gắn bó, nhưng chính là sổ cuộc sống trần gian mà chúng ta đã sống, cũng như những ơn lành Thiên Chúa đã ban phát để giúp ta sống cách xứng đáng.
Vì thế, vấn đề rất quan trọng mà mỗi người chúng ta phải quan tâm là sự sống của linh hồn và đời sống vĩnh cửu của chúng ta. Chúng ta hãy suy nghĩ câu nói này: Sẽ có ngày bạn phải đi về thế giới bên kia mà bạn không biết khi nào ngày ấy sẽ đến ? Khi ấy, bạn sẽ không mang theo những gì bạn có, mà chỉ mang theo những gì bạn đã làm.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con một tâm hồn nghèo khó, chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa. Xin ban cho con một tâm hồn luôn hướng về tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ. Xin ban cho con một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa và chỉ kín múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa mà thôi. Amen
Lm Giuse Dinh Tất Quý
-------------------------------
Lịch sử thế giới và riêng Lịch sử Giáo Hội cho thấy, có những thời người ta chịu khó học giáo TN 22-A66
Lịch sử thế giới và riêng Lịch sử Giáo Hội cho thấy, có những thời người ta chịu khó học giáo lý cho lấy có, rồi thành Kitô hữu với dụng ý mượn danh đạo tạo danh đời. Kitô Giáo là một quyền lực mềm quan trọng trên thế giới với gần hai tỉ thành viên hôm nay, nên có thể bao che giúp đỡ nhiều mặt cho ai biết lợi dụng để tiến thân mong cầu danh lợi thú?
Nhưng căn tính của Đạo Chúa thì lại khác. Chính Chúa Giêsu giáng trần sống như một thường dân nghèo khó, đã công bố “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” trong Phụng Vụ Lời Chúa, Chúa Nhật 22 Thường Niên A, ngày 30/08/2020 nầy. Xin chịu khó đọc kỷ cả ba bài Thánh Kinh bên dưới coi Chúa răn dạy thêm mình những gì?
Bài Đọc I. Sách Ngôn Sứ Gêrêmia 20:7-9.
Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi: suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi. Mỗi lần tôi nói, tôi phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Tôi đã nói rằng: “Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa”.
Bài Đọc II. Thư Thánh Phaolô gởi người Do Thái 12: 1-2.
Anh em thân mến, tôi nài xin anh em vì lượng từ bi Thiên Chúa, hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm. Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo.
Phúc Âm thánh Mathêu 16:21-27
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. Phúc Âm thánh Mathêu 16:21-27
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm”.
------------------------
Vài ghi nhận và tâm tình.
Sách Ngôn Sứ Gêrêmia 20:7-9 cho biết rõ số phận của những người được Chúa chọn riêng cho đại cuộc của Chúa là phải gặp gian nguy. Ơn gọi nầy nguy hiểm quá chừng, Theo thói đời, đa phần người trong cuộc, giới phụ huynh thời trước và hôm nay nữa, đâu có muốn chính mình và con em mình bị như vậy, mà hầu như chỉ mong cầu lên hàng khanh tướng theo nghĩa đen.
Trong bài Tin Mừng cũng cho thấy Phêrô đại diện tông đồ tuyên xưng lòng tin. Nhưng khi Chúa Giêsu cho biết Người phải theo ý Cha đi con đường đau thương, thì Ông lại khuyên can ngược cho Thầy. Nhưng Ông bị Chúa Giê-su quở trách. Rồi Chúa cũng nhân tiện đề ra lộ đồ cho môn đệ là bỏ đi ý riêng để theo ý Thiên Chúa, và phải vác thập giá mình hằng ngày mà theo Người.
Chúa Giêsu đã đuổi Satan xéo đi, đi chổ khác, khi cám dỗ Chúa thất bại, Mt 4:10. Nhưng ở đây Chúa chỉ ra lệnh cho Phêrô lui lại phía sau để từ bỏ tư tưởng của Satan và con người, mà học tư tưởng của Thiên Chúa Is. 55: 6-9, là qua đau thương để vào vinh quang Lc 24:25. Con đường ngược dòng chật hẹp để nên hoàn thiện. Con có sợ con đường khó khăn nầy không?
Ráng từ bỏ chính mình, như có thể tránh vài việc ích kỷ tham lam hại người hại vật, mà có thể chấp nhận tri túc tiện túc đúng lưong tâm trong sáng. An bần lạc đạo.
Thí dụ như bạn tôi kể lại, một lần về thăm quê nhà tại xứ Trà Vinh. Anh thấy một bà trung niên ráng mở miệng con gà mà nhét gạo và dùng ống chít bôm nước vào, cho năng hơn trước khi bán cân kí. Trước cảnh tượng đó, anh liền cho ý kiến: bà làm vậy, con vật đau khổ và người mua cũng đủ khôn để trừ bì nhiều hơn, hạ giá mua hơn, Nhưng bà chủ gà xừng xộ lớn tiếng: “sống như chú làm sao bằng người được”! Một sự kiện khác, tránh bôm nước vào bụng con vật, heo, trâu bò … trưóc khi làm thịt. Không chít nước hay rau câu, rong biển, cho đinh vào thịt thú để gạt người mua vô tư. Tránh bán thuốc giả trị bệnh thật. Không xịt thuốc diệt côn trùng trên trái cây, rau cải rồi đem bán ngay vì thị tường có giá …
Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Ai liều mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Trong Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô Khó Khăn cũng có nhiều dòng nói ngược của Do Thái, đưa tới nghĩa xuôi, dựa trên lòng tin vào cuộc sống mai sau, do Chúa là vị Thẩm Phám công minh, cân đo bù trừ chính xác, có khi ngay bậy giờ, hoặc sau cái chết và ngày Tận Thế. Do đó có những người được chọn riêng, đã giác ngộ Lời trên, nên dám liều mình xông pha nguy hiểm khó khăn, có khi cả mất mạng sống khi đi truyền giáo, vì danh Chúa Giêsu. Con có dám vì Chúa mà coi thường mạng mình chút nào chưa?
Vác thập giá mình mà theo Chúa. Ở đây Chúa tiên báo Người sẽ chết cách nào, đồng thời cũng giúp chúng con tinh luyện chính mình và tiến hóa, nhờ chấp nhận những bách hại, tai ương, vất vả, bất lợi, không như ý mỗi ngày, do thế gian và các thế lực thù địch phản nghịch với Thiên Chúa, có khi cụng tự chính mình gây ra nữa.
Riêng Cha Piô Ngô Phúc Hậu tác giả của Nhật Ký Truyền Giáo có ghi nhận đáng chú ý nầy. Hình như Thiên Chúa thương yêu ai nhiều thì lại để cho kẻ ấy phải nhiều thương đau. Bằng chứng là Cha thương Con vô cùng, nhưng khổ đau của Ngôi Con thì không ai so sánh nổi. Như vậy, con có sợ được Chúa thương riêng không?
Tóm lại. “Lạy Chúa, cứ sự thường, thiên hạ thích sống theo thời, muốn sướng xác, khỏe thân, ưa thích thời trang, vinh vang trên nhung lụa …” Chặn thứ 10, kinh Chặn Đàng Thánh Giá do Đức Cố Giám Mục Nguyễn Văn Thiện (1906-1912) lúc còn làm Linh Mục Bổn Sở Họ Chính Tòa kiêm Tổng Đại Diện, biên soạn cho Giáo Phận Cần Thơ vào những năm 1958-1960. Và cả đám học trò nhỏ Tiểu Học Tây Đô của Họ Đạo thường vào nhà thờ gẫm Đàng Thánh Giá với bản kinh mới nầy mỗi chiều thứ sáu.
Con không muốn mà cũng rất ngán thánh giá các loại nặng nhẹ Chúa ơi, dù Chúa đã vác phần nặng cho con rồi.
Xin giúp con biết sống siêu nhiên, vượt lên chính mình ít nhiều từng bước, như trong kinh nguyện:
“A rất thánh giá, chúng con kính thờ nẻo thần vững vàng. Chúng con trông cậy một thánh giá vô cùng phép tắc. Lòng chúng con yêu mến tín thành, đều nhờ sự khốn khó Chúa con. Lòng cung kính sắp mình khẩn nguyện, người nhơn đức ban ơn thên sức, kẻ tội khiên cãi dữ về lành…”
-------------------------------
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mt 16,21-27
(21) Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng đế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. (22) Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !” (23) Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. (24) Rồi Đức Giê-su nói với môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. (25) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. (26) Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ? (27) Vì con người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Ý CHÍNH: TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN THỨ NHẤT
Sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, Đức Giê-su bắt đầu cho các môn đệ biết Người sắp vâng thánh TN 22-A67
Sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, Đức Giê-su bắt đầu cho các môn đệ biết Người sắp vâng thánh ý Chúa Cha để đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Phê-rô lên tiếng khuyên can, nhưng ông đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách. Rồi Người tiếp tục đề ra điều kiện để đi theo làm môn đệ của Người là: bỏ đi ý riêng để vâng theo ý Thiên Chúa, là phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Ngoài ra, không còn đường nào khác đưa người ta lên trời.
CHÚ THÍCH:
– C 21: + Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…: Đức Giê-su mặc khải việc Người sắp trải qua cuộc khổ nạn thập giá để vào vinh quang phục sinh tại núi thánh Xi-on của Thiên Chúa là thành Giê-ru-sa-lem, như Thánh kinh đã tiên báo (x. Tv 2,6). Việc loan báo 3 lần về cuộc thương khó nhằm đánh dấu từng chặng đường tiến về Giê-ru-sa-lem, và cũng để chuẩn bị cho môn đệ khỏi ngỡ ngàng khi sự việc xảy ra.
– C 22-23: + Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !: Theo Phê-rô nghĩ thì sao Thầy phải chịu thua trước kẻ thù, để chúng bắt bớ giết hại cách nhục nhã rồi mới chiến thắng bằng cuộc phục sinh vinh quang ? Tại sao Thầy không lập tức dùng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù ? + Xa tan, lui lại đàng sau Thầy !: Xa-tan theo nguyên nghĩa là “Tên cám dỗ” hay “Kẻ cản trở”. Lời can ngăn của Phê-rô nói đây gợi lại cơn cám dỗ của Xa-tan với nguyên tổ A-đam E-và xưa (x. St 3,4-5). Cũng là cơn cám dỗ ma quỷ đã làm trong hoang địa với Đức Giê-su và đã bị Người xua đuổi: “Xa-tan kia, xéo đi !” (Mt 4,10). Ở đây Đức Giê-su chỉ buộc Phê-rô lui lại vị trí môn đệ, nghĩa là phải chấp nhận đi theo sau Thầy (x. Mt 16,24; Ga 21,22b). + Anh cản lối Thầy: hoặc “anh làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Cớ vấp phạm hay là một cái bẫy (x. Tv 124,7), một hòn đá cản đường khiến người ta bị vấp ngã (x. Is 8,14-15; Rm 9,32-33). Vì suy nghĩ theo tình cảm tự nhiên và vì yêu mến Thầy, Phê-rô đã vô tình cản lối khi yêu cầu Người đừng theo con đường cứu độ đã được Chúa Cha định liệu là “Phải qua đau khổ để vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26). Trước đó, Phê-rô vừa được khen là có phúc vì đã tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng giờ đây ông lại bị thầy quở trách là tên cám dỗ, và là viên đá gây sự vấp ngã cho Thầy ! + Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người: tương tự như lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).
– C 24-25: + Ai muốn theo Thầy: Ai nói đây tức là người tự nguyện trở thành môn đệ của Đức Giê-su, sẵn sàng cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời với Người. Câu này cho thấy Đức Giê-su luôn tôn trọng tự do của con người. + Từ bỏ chính mình: Điều kiện để làm môn đệ Đức Giê-su là phải loại bỏ những trở ngại bên ngoài như tình thân gia đình và sự cản trở bên trong như các thói hư tội lỗi và cách suy nghĩ theo tính xác thịt của mình. + Vác thập giá mình mà theo: Cuối cùng còn phải chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng, chịu đựng những vất vả tai ương bách hại do thế gian và các thế lực thù địch với Thiên Chúa gây ra. + Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất: Lời tuyên bố có tính nghịch lý theo kiểu Do thái, dựa trên lòng tin vào một đời sống mới vĩnh hằng sau khi chết. Ai muốn cứu mạng sống thể xác bằng cách bỏ đạo để khỏi bị giết hại thì sẽ bị mất cả sự sống thiêng liêng ở đời sau. + Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Người khôn là người biết chọn cách sống đời tạm này như thế nào, để sau khi chết được sống lại và được sống vĩnh hằng. Đức Giê-su đưa ra một con đường đưa tới sự sống đời đời là phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh thiệt thòi, sẵn sàng bị mất mạng sống ở đời này. Ngoài ra, không còn con đường nào khác để được ơn cứu độ.
– C 26-27: + Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì ?: Câu này lặp lại tư tưởng của câu trên. + Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người: Giá trị của cuộc sống thực sự chỉ tỏ hiện trong cuộc chung thẩm vào ngày tận thế. + Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm: Sự thưởng phạt công minh là động cơ khiến người ta sẵn sàng chấp nhận đi con đường hẹp là bỏ mình mà vác thập giá đi theo Chúa ngay ở đời này. Đức Giê-su quả quyết chính Người sẽ ngự đến vào ngày tận thế để làm thẩm phán xét xử mọi người tùy theo các việc bác ái họ đã làm hay bỏ qua không làm khi còn sống.
CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giê-su phải cho các môn đệ biết về các biến cố Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem là phải chịu khổ nạn thập giá rồi mới vào vinh quang Phục Sinh ? Người tiên báo ba lần nhằm mục đích gì ? 2) Tại sao Phê-rô lại can trách Thầy và đã bị Thầy quở mắng thế nào ? Tại sao ? 3) Bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày cụ thể là bỏ những gì và làm những gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
CÂU CHUYỆN:
1) AI CŨNG ĐƯỢC TRAO CÂY THÁNH GIÁ HỢP VỚI KHẢ NĂNG CỦA MÌNH :
Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó : có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo :
– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để lại đó và hãy lựa một cây thánh gía nặng vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng tại nghĩa địa và bắt đầu chọn một cây khác nhẹ hơn. Nhưng ông tìm mãi mà không tìm được cây như ý: cây thì quá dài, cây lại quá ngắn, cây thì nhẹ nhưng lại bị sù sì khó vác, cây thì tuy trơn tru nhưng lại quá nặng… Sau cùng ông nói với thiên thần :
– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác nó và đừng than van gì nữa.
2) SỨC MẠNH TINH THẦN CỦA CÂY THÁNH GIÁ :
Một người đàn bà đạo đức kia bị bệnh ung thư ngực rất đau đớn nhưng lại không dám mổ khối u vì sợ phải chịu đau đớn. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà mới chịu đi mổ, hy vọng sẽ kéo dài tuổi thọ thêm được một thời gian nữa. Bà có một cậu con trai tuổi thanh niên. Anh này trái với bà mẹ: khô khan việc đạo, đã bỏ dự lễ nhà thờ từ lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được chứng kiến cảnh bà chịu giải phẫu và yêu cầu này đã được chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua những cơn đau đớn khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng cơn đau. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to rằng: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con !”. Trườc cảnh mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai liền thốt ra lời phàn nàn xúc phạm đến Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay ! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không ? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn động viên an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê đã làm dịu đi cơn đau đớn khủng khiếp mà bà đang phải chịu đựng.
Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho anh con trai và dặn rằng: “Con ơi ! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các cơn sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.
3) THÁNH GIÁ NẶNG NHẸ LÀ DO SUY NGHĨ CHỦ QUAN CỦA MÌNH:
Một hôm, Chúa Giê-su dẫn hai người trong số các môn đệ đến đầu đường, trao cho mỗi người một cây thập giá giống nhau và bảo:
– Mỗi người chúng con vác thập giá của mình đi đến cuối đường trước mặt kia. Thầy đợi các con ở đó.
Hai môn đệ vâng lời, vác thập giá mình đi. Người thứ nhất vác đi cách dễ dàng, chân nhanh bước, dường như thập giá không cản trở hay gây phiền hà gì cho anh cả. Chẳng bao lâu sau anh đã đến cuối đường, gặp Chúa đợi ở đó. Và Thầy trò vui mừng hớn hở.
Còn người thứ hai vác đi nặng nề, dường như anh vác không nổi, kéo lê thập giá đến chỗ Chúa Giê su chỉ định, và bị kiệt sức. Vừa thấy Chúa, anh đã phàn nàn than trách:
– Chúa thật bất công! Chúa đã trao cho con cây thập giá quá nặng, còn trao cho anh kia cây thập giá nhẹ nhàng, nên anh ta đã dễ dàng vác nó đến với Chúa trước con.
Chúa buồn rầu đáp:
– Con ơi! Thầy không đối xử bất công với con đâu. Cả hai thập giá đều giống nhau và nặng bằng nhau, không cây nào nặng hơn cây nào. Sở dĩ con cảm thấy nó quá nặng, vì con đã không chấp nhận nó. Suốt trên đường đi, con luôn than phiền cho rằng nó quá nặng. Rồi càng than trách thì thập giá lại càng trở nên nặng hơn cho con. Sở dĩ bạn con đã vác thập giá đến với Thầy trước con, vì tâm hồn nó tràn đầy yêu thương. Tình yêu làm cho thập giá dù có nặng đến đâu cũng trở nên nhẹ nhàng.
Vui lòng vác thập giá thì thập giá sẽ nên nhẹ. Trái lại, càng kéo lê thập giá thì thập giá sẽ lại càng nên nặng hơn.
4) GIÁ TRỊ THANH LUYỆN CỦA ĐAU KHỔ THẬP GIÁ :
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau : trong một khu rừng có một con hổ lớn dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không kiếm ra cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ biết ngồi chịu trận. Thấy thế, lũ khỉ thích chí lại càng ném hăng hơn. Nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều, làm cho cái hố dần đầy lên, đến nỗi cuối cùng con hổ đã có thể nhảy được ra ngoài hố.
Qua đó cho thấy : Đau khổ cũng có giá trị tích cực. Đau khổ làm người ta trưởng thành về đức tin hơn, giúp họ thanh luyện mình khỏi những đam mê tội lỗi. Người ta nên thánh nhờ chấp nhận đau khổ. Đây cũng là phương thế Đức Giê-su dùng để ban ơn cứu độ khi chọn con đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang » theo thánh ý Chúa Cha, như Người đã cầu nguyện : « Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha » (Mt 26.39).
SUY NIỆM :
1) ĐỨC GIÊ-SU CHẤP NHẬN ĐI CON ĐƯỜNG “QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG”:
Theo Tin Mừng Mát-thêu, khi Đức Giê-su hé mở con đường cứu thế của Người : “Con Người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phê-rô, môn đệ mới được khen có phúc vì đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su, đã lên tiếng can Người rằng : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !”. Ông đã bị Đức Giê-su quỏ mắng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giê-su đã phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai trái của Phê-rô bằng việc xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ khi chúng cám dỗ Người. Sau này Phê-rô đã dần dần hiểu được thánh ý Thiên Chúa, và đã chấp nhận đi con đường thập giá để cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Người.
2) HAI ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
Đức Giê-su nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Qua đó, ta thấy điều kiện để đi theo làm môn đệ Chúa là phải bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người. Người không ép buộc, nhưng mời gọi. Người cũng không bảo chúng ta tìm kiếm thập giá nào khác, nhưng là vui lòng vác chính cây thập giá đời mình. Mỗi người đều phải vác thập giá mình mà theo làm môn đệ của Chúa. Vậy để trở thành môn đệ Chúa Giê-su chúng ta phải làm gì?
– MỘT LÀ TỪ BỎ CHÍNH MÌNH : Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói: ”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và ít được thiện cảm nhất là sự từ bỏ. Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mà chấp nhận thánh ý Chúa. Muốn từ bỏ mình đòi người ta phải bỏ đi ý riêng để vâng theo ý của Chúa”.
– HAI LÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY MÀ ĐI THEO CHÚA : Thập giá của mình phải vác đi theo Chúa Giê-su, chính là những tai nạn rủi ro, những điều phiền toái trong cuộc sống như: bệnh tật, các sự khó do tai nạn gặp phải, những thất bại thua lỗ trong công việc làm ăn, những người thân trái tính khó nết đang sống chung trong một mái nhà … Nếu chúng ta kiên nhẫn chịu đựng những sự khó chịu và trái ý cực lòng này, thì chúng ta mới trở thành môn đệ của Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Người.
3) CÁI KẾT BI THẢM CỦA KẺ KHÔNG CHẤP NHẬN THẬP GIÁ:
Một văn sĩ Công giáo người Anh tên là Gilbert Chesterten, đã thuật lại câu chuyện bi thảm về một kẻ thù ghét thập giá như sau :
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, đối nghịch với niềm vui và cuộc sống.
Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy cây thập giá trên tháp và liệng xuống dưới.
Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành sự điên loạn. Vào một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy cây thập giá. Rồi trước mặt và sau lung ông, nơi nào cũng đều có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn ra hình thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đã phải dùng đến ngọn lửa, mới mau tiêu diệt được rừng cây thập giá kia. Rồi ngọn lửa bốc lên đã làm thiêu rụi cả căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương nằm chết bên cạnh dòng sông gần nhà ông”.
Cuối cùng nhà văn đã kết luận như sau: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới mà trong đó bạn đang sống này”.
4) CHẤP NHẬN THẬP GIÁ ĐỂ SỐNG TIN YÊU PHÓ THÁC VÀO CHÚA:
Thánh Gióp thời xưa đã nêu gương kiên vững niềm tin vào Đức Chúa khi sẵn sàng chấp nhận chịu ma quỷ thử thách: Ông lần lượt bị lấy mất mọi sự: từ của cải, đoàn vật đến con cái và ngay bản thân cũng bị cùi… Cuối cùng ông đã được Chúa thương ban lại tất cả. Các thánh tử đạo cũng sẵn sàng từ bỏ mọi vinh hoa, giàu sang… chấp nhận mọi cực hình kể cả cái chết, để làm chứng cho Chúa, nên các ngài đã được Chúa ban thưởng hạnh phúc đời đời, như lời kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
TRONG THỰC HÀNH: Nếu bạn mơ ước lên đại học, nhưng lại thi rớt, thì cũng đừng nản lòng. Hãy chấp nhận vác thập giá thất bại đó để theo Đức Giê-su. Vì qua thất bại đó, bạn tin rằng Chúa sẽ dẫn bạn đến một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Một người cao niên mơ ước làm giàu và có một gia đình hạnh phúc, nhưng lại luôn gặp thất bại, thì cũng đừng nản lòng. Vì Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Thiên Chúa là Cha yêu thương, chỉ muốn ban những điều tốt lành cho con cái, như lời Chúa Giê-su: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời. Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).
THẢO LUẬN:
1) Thập giá chúng ta phải vác đi hôm nay là những gì ? 2) Gặp một người bị thất bại đang đau khổ và chán sống, bạn sẽ an ủi động viên họ thế nào?
NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa luôn bình tĩnh chấp nhận đau khổ thập giá, sẵn sàng nhận phần thua thiệt để ban ơn cứu độ loài người chúng con. Nhìn lại mình, chúng con thật xấu hổ khi chỉ biết nghĩ đến mình và bịt tai nhắm mắt trước những bất hạnh của tha nhân chung quanh. Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết “bỏ mình” theo lời Chúa dạy: bỏ đi những lo toan ích kỷ, để phục vụ Chúa trong mọi người. Xin cho chúng con biết can đảm vượt qua những đau khổ do bệnh tật tai nạn, và sẵn sàng vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
-------------------------------
(Mt 16, 21- 27)
CÂU HỎI GỢI Ý
Tại sao Chúa Giêsu loan báo “từ bấy giờ" (c.21) cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người? 2. Làm sao TN 22-A68
1. Tại sao Chúa Giêsu loan báo “từ bấy giờ" (c.21) cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người?
2. Làm sao Phêrô vừa là phát ngôn viên một mặc khải của Thiên Chúa (16, 17) vừa là khí cụ của Satan (16, 23)?
3. Các môn đồ phản ứng thế nào khi nghe loan báo ba lần cuộc Khổ nạn (16, 22- 23; 17, 23b; 20, 20- 23)? Có sự tiến triển trong ba cuộc loan báo đó không? Phải chăng Chúa Giêsu luôn đề cập đến sự Phục sinh của Người?
4. Đâu là ý nghĩa của các lời loan báo Khổ nạn này so với chính cuộc Khổ nạn? Phải chăng chúng chỉ là những sấm ngôn miêu tả một biến cố tương lai?
5. Đâu là chủ ý thần học của Mt trong việc móc nối chặt chẽ lời Chúa Giêsu khen Phêrô (cc. 17-19) và lời Người khiển trách ông liền sau đó (cc.22- 23)?
1. Trong Tin Mừng Mt, ta thấy có ba lời loan báo về cuộc Thương Khó (16, 21; 17, 22- 23a; 20, 17- 19) tạo nên ba cao điểm của một phần kéo dài cho tới trình thuật Khổ nạn. Sau mỗi lời loan báo đều có một nhận xét ghi lại sự u mê của các môn đồ (16, 22- 23; 17, 23b; 20, 20- 23). Đó là những nhận xét đơn sơ thuộc về ký sự, nhưng lại mang nặng một ý nghĩa thần học đối với cả Tin Mừng. Sau cùng, cứ mỗi lần như thế, Chúa Giêsu lại quảng diễn cho các môn đồ hiểu thêm ý nghĩa của sứ mệnh Người (16, 24- 28; 18, 1- 4; 20, 24- 28). Thành thử đây là một trình thuật được khai triển theo nhịp điệu tam phân.
Cũng nên ghi nhận có một sự tiệm tiến trong lời mặc khải của Chúa Giêsu và trong phản ứng của các môn đồ. Sau cùng phải lưu ý rằng Chúa Giêsu không ngừng nhắc đến cuộc Phục sinh. Người không chỉ nói tới Thập giá, nhưng bao giờ cũng là Thập giá và Phục sinh, là sự chết và sự sống, dù về chính bản thân hay về các môn đồ.
Tất cả điều đó thật đầu ý nghĩa. Ba lời loan báo như muốn dẫn vào trình thuật về cuộc Khổ nạn để chuẩn bị và giải thích nó một cách thần học. Cuộc Khổ nạn chẳng phải là một biến cố từ ngoài in vào định mệnh của Chúa Kitô, như kiểu một tai nạn phải chấp nhận. Không! Nó là thành tố và là cao điểm của định mệnh Người. Là đường đưa đến Phục sinh, mầu nhiệm này gồm hai phương diện, mà một có tính cách chung quyết: sự sống, niềm vui. Đàng khác, môn đồ và Sư phụ không thể tách rời nhau. Cả hai đều liên kết trong cùng một số phận.
2. Ghi chú thời gian “từ bấy giờ", mà Mt rất nhấn mạnh, nhắm cho thấy đã đến giờ đề cập đến điều mới mẻ. Người ta đi từ mặc khải về Chúa Giêsu tới mặc khải về Con Người đau khổ. Song song bên đó, người ta cũng thấy phải đối đầu với một loại u mê cứng lòng tin mới, vốn không còn là của đám đông, song là của các môn đồ: họ nhận ra Đấng Messia, nhưng đồng thời từ chối việc Người phải chịu đau khổ. Tương ứng với việc đào sâu viễn ảnh thiên sai là việc nới rộng nhãn giới đức tin vậy.
Theo Mc và Mt (chứ không phải lẽ), Chúa Giêsu "bắt đầu” nói đến cuộc Khổ nạn của người. Viết như thế, hai ông muốn nhấn mạnh sự kiện có tiến triển trong lời mặc khải thiên sai. Dĩ nhiên, đấy chẳng phải là một tiến triển tâm lý trong tâm thức Chúa Giêsu (một viễn tượng ở ngoài đường hướng của các Tin Mừng), song là một tiến triển trong việc biểu lộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đồng thời đó cũng là khả định rằng “từ bấy giờ", chủ đề Khổ nạn trở thành trọng tâm thường xuyên.
3. Bây giờ ta hãy xem tính cách “mới mẻ" của mặc khải thiên sai hệ tại ở chỗ nào. Nó không giản lược vào viễn tượng cuộc bắt bớ, mà Chúa Giêsu đã phần nào ám chỉ (10, 24 tt). Đúng hơn tính cách mới mẻ đó phát xuất từ chữ “phải" nghĩa là hệ tại sự kiện: đau khổ là thành phần của chương trình cứu chuộc.
Hạn từ dei ấy (phải), mà các nguồn liệu đều ghi lại cho ta, không chỉ diễn tả một xác tín thuộc bình diện lịch sử và tâm lý dựa trên các nhận xét Chúa Giêsu rút từ môi trường và hoàn cảnh của Người, nhưng còn biểu hiệu cái ý thức rõ ràng của Người về một sự cần thiết thuộc bình diện thần học.
Trong Kinh thánh, (đặc biệt trong Tân ước), động từ dei không còn chỉ một sự bắt buộc của định mệnh, nhưng được dùng để chỉ thánh ý của Thiên Chúa; đúng hơn, trong Tân ước, hạn từ này mang một giá trị cánh chung: nó diễn tả một sự tất yếu bắt nguồn từ chính bản tính Thiên Chúa và quy hương về việc thực hiện chương trình của Ngài trong các biến cố cánh chung. Từ đó, bản văn chúng ta không những muốn nói Chúa Giêsu loan báo về cánh chung, nhưng sâu xa hơn, còn khẳng định rằng chính số phận của Chúa Kitô, tức là cuộc tử nạn của Người, thuộc về cánh chung. Tóm lại, khổ nạn không phải là một sự kiện "ngoại lệ", cũng chẳng có gì là một biến cố bất ngờ xảy đến trong sứ mệnh Chúa Giêsu, nhưng là nòng cốt của sứ mệnh Người. Điều mới mẻ là ở chỗ đó vậy.
4. Tuy nhiên phải đi xa hơn nữa. Bản văn không chỉ quả quyết là cuộc Khổ nạn nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhưng còn khẳng định rằng Chúa Giêsu đã ý thức về điều đó. Thật không đủ tí nào khi bảo rằng việc Người quyết định lên Giêrusalem - cái quyết định tạo nên khúc quanh quan trọng của đời người - chỉ có mục đích duy nhất là đặt dân chúng đối diện với sứ điệp về Nước Thiên Chúa, vốn phải đến đó trong thành thánh, để mời gọi họ quyết định trong giờ tối hậu này. Đúng thế, nhưng còn hơn nữa. Chúa Giêsu đã đi đến cái chết "cách tự nguyện". Người đã không tiên đoán cái chết hoàn toàn như người đời, như những ai đã thấy Người lên Giêrusalem (x. Mc 10, 32; Ga 11, 16). Không! Người đã nhìn nó rời ánh sáng chương trình của Thiên Chúa như là một việc phục vụ.
5. Mc dùng động từ "giảng dạy" (8, 31). Mt lại thích động từ "tỏ cho hay" (deiknuein). Một lần nữa, đây không chỉ là tiên báo tiên đoán cuộc Khổ nạn để rồi chuẩn bị các sứ đồ sống biến cố đó, nhưng là tỏ cho họ thấy nó ăn khớp với chương trình của Thiên Chúa, nó thật là tối cần. Phải chứng minh là nó cần thiết, vì nó không hiển nhiên, không là một biến cố mà người ta thay là bắt buộc. Chứng minh thế nào? Lc bảo phải đi từ Kinh thánh (24, 26- 27.46; coi Mc 5, 12).
Mt không nói rõ gì về vấn đề này. Nhưng trong thực tế, động từ dei bao giờ cũng hàm án một sự quy chiếu về Thánh Kinh để diễn tả việc hoàn tất Kinh Thánh (vd. Mt 26, 54). Vì chính trong Thánh Kinh mà người ta nhận ra chương trình của Thiên Chúa. Ở đây sẽ không ai phủ nhận rằng nền tảng Thánh Kinh phải tìm trong Is 53. Vả lại các sấm ngôn về cuộc Khổ nạn không xuất hiện như những bản văn lẻ loi - kiểu những phiêu nham - dọc dọc theo Tin Mừng. Chúng chèn vào trong đó như những biểu hiệu sáng tỏ ít nhiều của một tư tưởng bàng bạc và bao giờ cũng quy chiếu, nhiều lúc cách minh thiên về sấm ngôn người tôi tớ của Thiên Chúa.
6. Trước viễn ảnh cuộc Khổ nạn, Phêrô làm một cử chỉ thụt lùi và Chúa Giêsu phải nghiêm khắc sửa trị ông, dù người vừa mới ca tụng niềm tin của ông. Không phải vô tình mà Mt tường thuật kế cận nhau lời Chúa Giêsu ca tụng và khiển trách môn đồ mình. Tất cả mọi tác giả Tin mừng đều đặt tương phản sự yếu đuối của Phêrô với cái tên képha (tảng đá) của ông. Chính họ đã cố tình nhấn mạnh sự đối nghịch đó để cho thấy chính nhờ ân sủng, nhờ Thiên Chúa lựa chọn, chứ không phải nhờ các đức tính tự nhiên, mà ông là Tảng đá trên ấy Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người. Một cách tổng quát hơn và đi xa hơn trường hợp Phêrô, chính chủ đề đối nghịch giữa trình diện bản tính tự nhiên và bình diện ân sủng, xuất hiện ở đây. Chủ đề này - yếu đuối và ân sủng - thường có trong Thánh Kinh, được đặt nổi bật ở c.17, được ám chỉ ở c. 18 nếu đọc trong nhãn giới Is 28, 16), và lại được đề cập ở c. 22-23.
7. Trước khi nghiên cứu các khẳng định khác nhau của Chúa Giêsu ở cc. 21- 27 (được nhập lại nơi đây, nhưng có lẽ được công bố trong nhiều dịp khác biệt), nên nêu ra cái điểm chính liên kết chúng thành một: đó là sự quy chiếu về Chúa Giêsu. Nói cách khác, chẳng có sự từ bỏ nào được đòi hỏi vì chính nó, nhưng vì Chúa Giêsu. Do đấy câu 24 thực sự là câu căn bản. Dưới một quan điểm khác, ta có thể bảo rằng rốt cuộc phải liên kết các lời nói ấy vào cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô, là cái giải thích lý do nỗi đau khổ và từ bỏ của môn đồ, là cái làm cho ra thông thường sự từ bỏ và khổ đau ấy. Hơn nữa, mối liên hệ này còn cho thấy sự đau khổ của môn đồ là nơi mà số phận của Thầy lại được trở thành hiện tại.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Chứ sẽ có đâu như thế !": Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: "Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu, nhưng sẽ trở nên như các thần" (Mt 3, 4-5), chính nó lại đối diện với Chúa Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: "Nếu Ngài là Con Thiên Chúa... ", các thiên thần) sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ" (Mt 4, 5). Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa "Nếu ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô - điều đó không thể nào xảy ra được". Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.
"Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vây phạm cho Ta”: Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu dùng để trả lời Phêrô ; dĩ nhiên Mt không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ sài, chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc chóng một sự nặng nề đặc biệt. Vừa mới được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan ; lúc ấy Ngươi là đá, bây giờ Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta (cách dịch của BJ : Ngươi cản ngăn Ta rõ ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn : Từ địa vị Tảng đá nền móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18, 6- 9), ta mới lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc : "Xéo đi, Satan" (4, 10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.
"Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa" : Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa Giêsu đã nói ở câu l7 : "Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời". Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông không thể phù hợp với mặc khải của Chúa Cha. "Quả thế, ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).
"Nếu ai muốn đi sau Ta" : Dù trực tiếp ngỏ với các môn đồ chỉ thị này vẫn không nếp coi như một lời khuyên sống trọn lành dành cho một nhóm Kitô hữu ưu tú : bất cứ ai (Hy ngữ tis) muốn theo Chúa Giêsu, thì phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc sống kitô hữu cơ bản. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng là một sự dấn thân tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.
"Vì kẻ muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất ; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được" : Câu này là câu kế tiếp dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước tiên chỉ con người cụ thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng thời cũng chỉ sự sống vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải ra như sau : kẻ nào muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ tìm được sự sống vĩnh cửu.
Câu 26 cũng phải được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước, nghĩa là phải mặc cho chữ sự sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý Chúa Giêsu nói lên sẽ thành một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế gian, con người cũng không thể hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong thời gian của mình, tức là chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt mất sự sống vĩnh cửu.
"Hay người ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?": Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con người quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự sống vĩnh cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu? Câu trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.
Câu 27 đưa ra lý do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ: đó là Con người một ngày kia sẽ đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét này sẽ định đoạt số phận tương lai của họ.
KẾT LUẬN
Cuộc Khổ nạn là một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất "cần thiết". Đó là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, "mới mẻ" nhất của tâm hồn và sứ mệnh Chúa Giê-su. Nhưng đó cũng là lý do trường cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy, Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự "công chính" của Thiên Chúa. Nói cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được làm đối tượng của tình yêu Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa Giêsu, điều mà trong sách Gióp xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người công chính) thì nay thành luật chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài học cho giáo Hội và cho mọi kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Giêsu bình thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn. Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình, tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ ra chẳng được xảy đến. Nhưng Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha: Người biết hòn đá bị loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên đá đỉnh góc.
2. Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người.
Vì thiếu đức tin nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Người, lúc mà quân canh rình chực Người để bắt lấy. "Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại". Mầu nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Vâng, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Nhưng khốn nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình yêu.
Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt
-------------------------------
(Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16,21-27)
Thập giá là một dụng cụ hành hình dành cho những người bị lên án tử trong xã hội thời cổ xưa TN 22-A69
Thập giá là một dụng cụ hành hình dành cho những người bị lên án tử trong xã hội thời cổ xưa. Trong sách Đệ nhị luật, ông Môisen đã nói rằng những ai bị lên án tử và bị treo trên cây gỗ là đồ bị chúc dữ (x. Dnl 21,22-23). Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta về án tử của Chúa Giêsu và cái chết của Người trên thập giá. Khi Chúa bị đóng đinh trên cây gỗ, một số kỳ mục Do Thái và dân thành Giêrusalem không ngớt lời nhục mạ và thách thức Người. Chúa hiền lành và im lặng như con chiên bị đem đi giết. Kể từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cây thập giá đã mang một ý nghĩa mới. Từ một dụng cụ hành hình, nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu và hy vọng. Từ một hình ảnh gợi lên sự chết chóc ghê rợn, nó đã trở thành một hình ảnh mang lại nghị lực và niềm tin.
Trong ngôn ngữ đời thường, mỗi khi gặp gian nan đau khổ, chúng ta thường nói: “Chúa gửi thập giá đến cho tôi”. Quan niệm này xem ra không phù hợp, vì bản tính của Chúa là Đấng tốt lành và là Cha giàu lòng thương xót. Bởi lẽ chẳng có người cha nào lại tạo ra đau khổ để bắt con cái mình phải chịu. Hơn nữa, trong Phúc Âm, các tác giả nói với chúng ta, chính con người đóng cây thập giá bằng gỗ rồi đặt trên vai Chúa và bắt Chúa vác đi. Cây thập giá gỗ ấy quá nặng, nên Chúa Giêsu bị ngã ba lần. Người cũng không thể vác cây gỗ này tới nơi chịu khổ hình, và quân lính đã bắt ông Simon người thành Cyrênê vác đỡ Chúa. Như vậy, hình khổ thập giá là do con người gây nên cho Chúa, và Chúa Giêsu sẵn lòng chấp nhận vì yêu mến con người. Và thế là, trong suốt cuộc sống con người, ở đâu cũng vậy, người ta đang tiếp tục tạo ra những cây thập giá đủ loại và bắt người khác phải vác đi. Cũng có những trường hợp người ta tự tạo thánh giá cho mình, rồi lại hằn học kêu trách Chúa, lại “đổ thừa” cho Chúa và trút hết trách nhiệm cho Ngài. Một người đi xe ngoài đường thiếu cẩn trọng hoặc uống bia rượu rồi gây tai nạn làm chết người, không thể đổ cho Chúa định hoặc bảo rằng đó là Chúa “gửi thập giá”; một người cha suốt ngày cờ bạc rượu chè không quan tâm đến gia đình, làm cho vợ con lâm cảnh đói khổ, không thể chép miệng nói rằng “do Chúa định”.
Chúa Giêsu đã vác thập giá lên đồi Canvê và chịu đóng đinh trên cây thập giá đó. Con đường thập giá Chúa đã đi qua là con đường của sự nhẫn nhục, hy sinh vì tình yêu nhân loại. Con Thiên Chúa không dùng một phương tiện khác nhẹ nhàng hơn để cứu độ con người, mà lại dùng thập giá với những nhục hình đau khổ, và như thế, những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải đi trên con đường ấy, nhờ đó mà bản thân họ được tinh luyện, đồng thời họ góp phần nâng đỡ anh chị em. Chúa có thập giá của Chúa và mỗi người chúng ta có thập giá của mình. Con người không chào đời bằng nụ cười, nhưng bằng tiếng khóc, và rồi suốt cuộc đời họ là những trăn trở triền miên, những lo toan cuộc sống. Họ luôn phải đối diện với bao khó khăn trong đời. Hành trình của người môn đệ là hành trình thập giá: “Ai muốn theo Thày, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Chúa nhấn mạnh đến “thập giá mình”, có nghĩa là gánh nặng và trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta, là điều không ai tránh khỏi trong kiếp người.
Thập giá là “định mệnh” chung cho những ai muốn dấn thân phục vụ cho vinh quang của Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Ngôn sứ Giêrêmia vì trung thành truyền đạt giáo huấn của Chúa mà bị những người đương thời ghen ghét và hành hạ vu khống. Ông đã trở nên trò cười cho thiên hạ. Có những lúc ông chán nản định bỏ công việc Chúa trao, nhưng mỗi khi ông định từ bỏ sứ vụ, thì ông lại thấy đau khổ vô cùng. Nhiệm vụ ngôn sứ như một duyên nợ với ông, rất khó khăn nhưng không dễ chối từ. Gặp nhiều đau khổ và chống đối, ông vẫn say mê Chúa. Dầu có những lúc chán nản, ông vẫn trung thành với Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia là hình ảnh Đức Giêsu chịu đau khổ (Bài đọc I).
Tuy nhiên, trong quan niệm chung của con người, thật không dễ dàng chấp nhận thập giá. Thánh Phêrô không thể hiểu và chấp nhận thập giá. Ông đã phản ứng trước lời tiên báo của Chúa về cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu. Trước đó, ông vừa tuyên xưng Đức tin vào sứ mạng thiên sai của Chúa và lời tuyên xưng này được Chúa khen ngợi. Ấy vậy mà khi nghe Chúa nói về khổ hình, ông vội can: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy!”. Suy nghĩ của thánh Phêrô cũng là lối suy nghĩ của khá nhiều người tín hữu chúng ta. Họ chỉ thích tin và theo Chúa để được những điều may mắn. Họ chọn lựa những điều luật mà họ cho là phù hợp và không liên lụy đến quyền lợi cá nhân mình. Khi gặp phải những gian nan, họ “rửa tay” để không dính dáng đến mình. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Bài đọc II). Quả vậy, không có sự thờ phượng nào tốt đẹp cho bằng một cuộc sống thánh thiện, thể hiện qua đức mến Chúa yêu người.
Có nhiều người thời nay đề nghị không trưng bày Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá trong gia đình cũng như trong nhà thờ. Họ cho rằng hình ảnh này gợi lại sự hận thù và bạo lực. Tuy vậy, Giáo Hội trưng bày hình ảnh Đức Giêsu chịu khổ hình để giúp các tín hữu hiểu về tình thương bao là của Thiên Chúa thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu. Qua thập giá, chúng ta học được bài học của lịch sử. Hơn nữa, hình ảnh Đức Giêsu trên thập giá là lời mời gọi hãy loại trừ bạo lực và hãy tôn trọng phẩm giá của con người. Bởi lẽ thập giá và Chúa Giêsu đau khổ vẫn đang hiện diện nơi những người nghèo đói, nơi những trẻ em bất hạnh, những nạn nhân của kỳ thị và áp bức chiến tranh. Cùng chung tay xóa bớt sự nghèo đói, thất học, cùng bênh đỡ những người bị xúc phạm nhân phẩm, là vác thập giá cuộc đời để đi theo Đức Giêsu. Khi nhìn lên thập giá, mỗi chúng ta được mời gọi hãy cố gắng để đừng tạo ra thập giá cho những người đang sống xung quanh mình. Ý thức và thực hiện được những điều này, cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao!
Sau cùng, đừng quên rằng thập giá chỉ mang tính nhất thời, vì sau thập giá là sự phục sinh. Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại vinh quang. Thập giá không tồn tại mãi mãi. Nếu biết đón nhận thập giá với tâm tình yêu mến và hy sinh của Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ được tôi luyện và nên thánh.
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
-------------------------------
Lần đầu tiên khi Chúa Giêsu dạy cho tông đồ Phêrô biết Ngài sẽ phải lên Giêrusalem và bị TN 22-A70
Lần đầu tiên khi Chúa Giêsu dạy cho tông đồ Phêrô biết Ngài sẽ phải lên Giêrusalem và bị nộp vào tay những kẻ muốn giết Ngài. Phêrô thực sự không thể chấp nhận tình trạng sẽ xẩy ra như vậy. Phêrô rất khó chịu về việc Thầy mình phải chết như thế. Rồi Phêrô dám can ngăn Chúa: “Chúng con không muốn như vậy. Thầy là Đấng Me-si-a. Chính Thầy là người uy lực nhất. Chúng con yêu mến Thầy và không được phép để Thầy phải như vậy. Nếu Thầy làm như vậy thì người ta sẽ nghĩ thế nào về Thầy? Xin Thầy nghĩ cả đến chúng con nữa! Thiên hạ sẽ nói gì với chúng con? Có thể họ nói: Đấng Me-si-a của tụi mày thế à? Ngài không có khả năng tự vệ: thế thì Ngài làm sao có thể bảo vệ được dân tộc Israel chúng ta? Thầy chỉ cần nói một tiếng thôi là Thiên Chúa sẽ làm cho các kẻ thù của Thầy ngã lăn quay ra hết”.
Nghe vậy, Chúa Giêsu bực mình và nói với Phêrô: “Này anh Phêrô, anh nói như quỷ. Thay vì cầm đèn chạy trước ôtô và ngăn cản Thầy đừng làm như vậy, tốt hơn hết là anh hãy theo sau Thầy và chỉ có con đường đó mới xứng đáng cho Đấng Me-si-a đích thực”.
Bài học Chúa dạy như vậy bó buộc các tông đồ phải tiến hành một cuộc trở về đích thực để có một tư tưởng đúng đắn về vai trò của Đấng Me-si-a. Chỉ có một Đấng Me-si-a đau khổ tự nguyện hiến dâng mạng sống, tha thứ cho các đao phủ của Ngài, mới có thể cho các ông một tư tưởng chính xác về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa trước hết không phải là Thiên Chúa toàn năng như các tông đồ vẫn mường tưởng, nhưng là Thiên Chúa toàn yêu. Vì thế Ngài cũng là Thiên Chúa yếu đuối, Thiên Chúa bị tước đoạt vũ khí, Thiên Chúa bị tổn thương. Thập giá Chúa Kitô không phải là một sự nhục nhã cho Thiên Chúa, nhưng là dấu chỉ tuyệt vời về lòng quảng đại vô biên của Ngài.
Cha Paul Debains nói: “Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi Ngôi vị Thiên Chúa đều vui mừng sống một sự trần trụi vô hạn, vì chỉ sống cho các Ngôi vị khác mà thôi. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mặc khải cho chúng ta sự trần trụi muôn thuở và tuyệt đối của Con Thiên Chúa trong lòng Ba Ngôi”.
Thập giá Chúa Giêsu là đỉnh cao thể hiện bản tính Thiên Chúa một cách tốt nhất. Thiên Chúa vĩ đại nhất khi Ngài thực hiện một sự hạ mình tuyệt đối. Vì thế, Thánh Phaolô rất tự hào vì được là người rao giảng một Thiên Chúa bị đóng đinh: “Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hilạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ”.
Đối với chúng ta, chúng ta hình dung thế nào về Chúa Kitô và về Thiên Chúa?
- Phải chăng chúng ta muốn một Đấng Me-si-a hữu hình thỉnh thoảng làm phép lạ ấn tượng để những ai khinh dể Chúa phải câm họng?
- Phải chăng chúng ta muốn một Đấng Me-si-a luôn bảo vệ những kitô hữu yêu mến Ngài và nghiêm khắc đối với những người khác?
- Phải chăng muốn một Đấng Me-si-a chữa bệnh cho biết bao bệnh nhân đang cầu khẩn Ngài?
- Tại sao Đấng Me-si-a lại không chứng tỏ Ngài có quyền một cách tích cực hơn? Nếu Ngài làm như vậy, có thể nhiều người sẽ hiểu biết và tin theo Ngài?
Nhưng nếu chúng ta tin như thế, liệu có phải vì lợi nhuận hay là vì yêu Ngài?
Trên cây thập giá cũng vậy, người ta đã ước mơ Ngài chứng tỏ có khả năng xuống khỏi cây Thập giá. Tuy nhiên để trả lời cho ước mơ ấy, Ngài vẫn cứ ở trên Thập giá để chịu đóng đinh. Ngài không có thể làm gì khác, vì Ngài muốn cho chúng ta biết bản chất đích thực của Chúa Cha, Đấng là tình Yêu, không bạo lực, tôn trọng tự do và không gia trưởng.
Đó là ý tưởng đúng đắn về một Đấng Me-s-ia đích thực. Tuy nhiên người môn đệ đích thực có một ý tưởng đúng đắn thôi chưa đủ, mà còn phải trả lời cho điều mà Đấng Me-si-a chờ đợi nơi mình, đó là “Hãy đến và theo Tôi”. Theo Tôi có nghĩa là đi theo những bước chân của Chúa, bắt chước cách Chúa sống, theo Chúa trên con đường của thế giới mà Chúa phải loan báo tin mừng. Theo tôi cũng có nghĩa là theo Chúa trên độ dốc cam go của đồi Canvê.
Đối với Phêrô và các tông đồ, họ sẵn sàng theo Chúa, nhưng chỉ theo khi Chúa được vẻ vang. Khi được đặt vào những chỗ ưu tiên, họ đóng vai trò vệ sỹ cho thân xác Chúa Giêsu: họ dồn đám đông về một hướng và loại trừ những người họ không thích, và cả những đứa trẻ đến quấy rầy Chúa. Chắc hẳn họ yêu mến Ngài và trong những lúc cao hứng, họ khẳng định mạnh mẽ rằng sẽ sẵn sàng chết vì Thầy. Đối với họ, lúc nào cũng phải gươm cầm sẵn trong tay!
Tông đồ đích thực phải là người như Thầy mình chấp nhận một Thiên Chúa bị đóng đinh. Thánh Phaolo hiểu rõ điều này: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô bị đóng đinh vào Thập giá”.
Tông đồ đích thực là người phải chấp nhận làm việc vì một người Thầy bị loại trừ, âm thầm và bị quên lãng. Sự yên lặng của Thiên Chúa giúp con người càng tìm kiếm Ngài. Người tông đồ đích thực cũng phải là người vác thập giá riêng của mình để theo Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai nói rằng mình ở trong Thiên Chúa thì phải bước đi vào con đường mà chính Chúa Giêsu đã bước”. Marthe Robin cảm nhận: “Chúa Giêsu nhận ra những bạn bè đích thực của Ngài trên thập giá”. Người tông đồ đích thực phải là người chấp nhận mất mạng sống vì Chúa Kitô.
Bài Tin Mừng hôm nay đặt ra cho chúng ta những câu hỏi:
- Chúng ta có thờ lạy một Thiên Chúa đích thực, một Đấng Me-si-a đích thực trong Chúa Kitô bị đóng đinh không?
- Chúng ta có là những môn đệ đích thực của Chúa Kitô bị đóng đinh đó không?
Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo có mục đích sắp xếp có các thành viên của mình trong những ghế sang trọng, cũng không phải là có mục đích sản xuất ra những nơi an nghĩ vĩnh viễn.
Nếu vậy tôn giáo mà Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay là một thứ tôn giáo cho những người thích đau khổ sao?
Không phải vậy! Thiên Chúa làm người đến trần gian để làm cho chúng ta được sống, chứ không phải để chúng ta phải chết: “Ai đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sống, một cuộc sống hạnh phúc vĩnh viễn. Một thứ hạnh phúc của kitô giáo chỉ được khám phá ra khi chúng ta tin tưởng trèo lên đỉnh núi Everest của sự trao ban với đôi mắt được soi chiếu nhờ ánh sáng của đồi Canvê.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
-------------------------------
Chúa Nhật 22 Thường Niên A
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu 16,21-27
Từ khi ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, thì Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?
"Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
SUY NIỆM
Mặc dầu Hội Thánh là Nhiệm thể của Chúa Giêsu. Mặc dầu Hội Thánh được gọi là thánh và thực TN 22-A71
Mặc dầu Hội Thánh là Nhiệm thể của Chúa Giêsu.
Mặc dầu Hội Thánh được gọi là thánh và thực sự là thánh.
Nhưng để Hội Thánh được thánh, từng thành phần Hội Thánh phải thánh.
Chính Chúa Giêsu là đầu Hội Thánh cũng phải tự thánh hóa mình. Mà công trình thánh hóa là:
Thanh tẩy, tinh luyện và kết hợp nên một với Thiên Chúa Cha, Đấng vô cùng thánh thiện và là sức thánh hóa những ai muốn làm con cái của Ngài.
Về thiên tính, Chúa Giêsu là Đấng thánh vô cùng thánh thiện. Nhưng nhân tính của Chúa mặc dù không phải thanh tẩy vì Ngài là chiên con vô tội của Thiên Chúa cũng đã được tinh luyện qua cuộc khổ nạn của Chúa.
Phương thế Chúa Giêsu dùng để tinh luyện mình là: Ăn chay và cầu nguyện, là roi vọt, là thánh giá, là đanh sắt, lưỡi đòng.
Chúng ta chỉ được thuộc về Chúa, nên giống Chúa nếu chúng ta chấp nhận để Chúa thanh tẩy và tinh luyện ta.
Để thanh tẩy tâm hồn, lý trí ta, Chúa dạy: Hãy học theo Ta: khiêm nhường và hiền lành.
Vì kiêu ngạo, Satan phải loại ra khỏi Thiên đàng. Vì thiếu hiền lành, nhân loại cấu xé nhau, hành hạ và tàn sát nhau, và vì đã không yêu thương nhau thì không được Thiên Chúa yêu thương.
Nhưng nếu theo gương Chúa Giêsu, chúng ta được Thiên Chúa Cha yêu thương, và như nước chảy xuôi về trũng, ơn huệ Thiên Chúa cũng đổ tràn đầy xuống những ai khiêm nhường.
Vì khiêm nhường chúng ta sẽ thấy cần phải cầu nguyện, mà cầu nguyện là chìa khóa mở kho tàng Thiên Chúa.
Vì khiêm nhường chúng ta dễ nhịn nhục, dễ nhường nhịn tha nhân và đó là bí quyết của đức ái. Ở đâu có đức ái, ở đó có Đức Chúa Trời.
Hễ khiêm nhường và hiền lành, thì sẽ dễ dàng thực thi các đức tính khác như yêu người, nghèo khó, trong sạch, hiếu hòa, quảng đại và dĩ nhiên là dễ dàng đáp tình Chúa yêu.
CẦU NGUYỆN
1. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã gọi con: Muốn theo Chúa thì phải vác khổ giá mình mà theo. Xin cho con vững tin rằng khổ giá chính là bậc thang vinh quang Chúa dành cho con.
* Hát: Đức Kitô nguồn hy vọng vinh quang, niềm tin tưởng hân hoan. Chúa chuộc chúng con bằng bửu huyết của Người.
2. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa gọi con vác khổ giá theo Chúa, nhưng con biết rằng khi con vui lòng chấp nhận khổ giá thì chính Chúa vác giúp con. Xin cho con ơn được luôn luôn chấp nhận mọi khổ giá Chúa gửi cho con.
* Hát: Đức Kitô nguồn hy vọng vinh quang, niềm tin tưởng hân hoan. Chúa chuộc chúng con bằng bửu huyết của Người.
3. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khổ giá là bài học khiêm nhường và hiền lành. Xin vì khổ giá Chúa đã vác vì chúng con, cho chúng con biết sống khiêm nhường và hiền lành.
* Hát: Đức Kitô nguồn hy vọng vinh quang, niềm tin tưởng hân hoan. Chúa chuộc chúng con bằng bửu huyết của Người.
4. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chính Chúa trên đường Emau đã cho các môn đệ Chúa hiểu không có khổ giá thì không có vinh quang. Xin cho con được quý trọng khổ giá là mọi thử thách Chúa cho con gặp trong đời thường.
* Hát: Đức Kitô nguồn hy vọng vinh quang, niềm tin tưởng hân hoan. Chúa chuộc chúng con bằng bửu huyết của Người.
Lm. Phêrô Nguyễn Châu Hải,SSS
-------------------------------
Phàm là con người thân thiết với nhau, ai cũng muốn bênh đỡ, muốn điều tốt cho người thân mình TN 22-A72
Phàm là con người thân thiết với nhau, ai cũng muốn bênh đỡ, muốn điều tốt cho người thân mình. Đối với Đức Giêsu thì các tông đồ với Người, còn hơn thế nữa. Từng gắn bó với nhau mấy năm trời, thầy trò thân thiết với nhau là dường nào. Những lúc dong ruổi trên đường rao giảng, khi đói ăn, lúc khát uống; lúc nghỉ ngơi bên nhau, lúc cơ cực có nhau. Phêrô khi nghe Thầy chí Thánh là Đức Giêsu thố lộ việc Người sẽ phải trải qua: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” thì thật kinh hòang, lo sợ cho Thầy. Một nỗi lo chính đáng giữa người với người. Làm sao có thể để Thầy đi đến chỗ cơ cực và cuối cùng nhận cái chết. Làm sao có thể tin được rằng Thầy sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi nhắm mắt lìa đời. Can ngăn Thầy quả là hợp lí, là trọn nghĩa tình Thầy trò, là thể hiện người biết nhìn xa trông rộng, hơn bạn bè chỉ biết thụ động, bất lực. Chịu đựng chuyện gì đến sẽ đến thôi ư! Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”. Tưởng rằng sẽ được Thầy nghĩ lại, hay ít ra nhận được một lời khen “anh nói cũng phải”, nhưng không ngờ lại gặp phải phản ứng quá mãnh liệt của Thầy: “Sa tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của lòai người”.
Lạy Chúa,
Trong cuộc sống trần gian hôm nay, cũng như Phêrô, con luôn tìm cho mình một con đường thông thóang, bằng phẳng, dễ đi. Khi gặp phải sự khó, con vẫn chạy đến cùng Chúa, nhưng thay vì nhìn nhận sự việc, tìm nguyên nhân, tìm phương thế giải quyết thì con lại xin cho con tránh sự khó, đạt điều may. Con lý sự theo cách Phêrô “xin Chúa thương để con đừng gặp chuyện ấy”. Con luôn nghĩ Chúa như một vị Thần tài, như trong truyện Aladin và cây đèn thần, Chúa sẽ sẵn sàng giúp con giải quyết mọi khó khăn theo ý con. Con muốn Chúa thỏa mãn những ý định của con, cho con được may mắn, ăn nên làm ra, phát tài phát lộc; chẳng bao giờ gặp trở ngại trên công việc làm ăn, chẳng bao giờ phải lâm bệnh trầm trọng. Hoặc nếu có thì chỉ nhức đầu sổ mũi mau qua, để con có sức mà kinh doanh, buôn bán làm giàu, hầu làm… phúc cho người khác. Khi không được như thế, con phàn nàn than trách Chúa không thương con, không nhận lời con mà đi nhận lời người khác. Rồi ganh tỵ: họ không hơn gì con, thậm chí còn bê bối tội lỗi hơn con. Vậy mà họ vẫn nhà cao cửa rộng, vợ con đề huề, ăn sung mặc sướng . Còn con…
Phải chăng đó là những cám dỗ trong cuộc đời khiến con mất lòng tin nơi Chúa? Con chỉ muốn suy bụng mình ra bụng Chúa, muốn ý con là ý Chúa.
Xin cho con biết đón nhận Lời Chúa hôm nay: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Lạy Chúa! Xin tha thứ những lầm lỗi của con, xin cho biết từ bỏ chính mình, vác thập giá mỗi ngày theo Chúa. AMEN.
Fx Đỗ Công Minh
-------------------------------
để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau
Hôm ấy, dân chúng tụ tập đông đảo tại quảng trường để lắng nghe hai diễn giả lừng danh diễn thuyết TN 22-A73
Hôm ấy, dân chúng tụ tập đông đảo tại quảng trường để lắng nghe hai diễn giả lừng danh diễn thuyết.
Mở đầu chương trình, Chúa Giê-su bước lên diễn đàn và được đám đông chào đón bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Phần đông trong họ đã từng nghe danh Chúa Giê-su nhưng chưa từng được diện kiến.
Sau khi giới thiệu cho mọi người về Nước Thiên Chúa, về điều răn trọng nhất… Chúa Giê-su cất tiếng mời gọi: “Có ai trong các con muốn theo Thầy không?”
Vì biết rằng Chúa Giê-su là Đấng cứu độ đầy quyền năng, ai theo Ngài sẽ được nhiều hồng phúc, nên mọi người đều hớn hở vui mừng, giơ tay cao và đứng lên hô lớn: “Con, con, con xin theo…”
Thế rồi, Chúa Giê-su lại nói tiếp: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi…”
Nghe nói đến việc “từ bỏ mình”, nhiều người cụt hứng, hạ tay xuống.
Để giải thích lý do tại sao phải từ bỏ mình, Chúa Giê-su nói: “Vì ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.”
Nghe nói đến “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, mọi người hụt hẫng…
Rồi Ngài thuyết phục: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
Lời này khiến nhiều người suy nghĩ và phân vân, nhưng vẫn còn do dự, chưa quyết.
Chương trình được tiếp nối với bài nói chuyện của Thần Tài. Vừa thấy Thần Tài xuất hiện, đám đông hò reo tưng bừng và vỗ tay cuồng nhiệt.
Sau khi đề cao sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vinh quang của quyền lực, sự cuốn hút của lạc thú đời này… Thần Tài lên tiếng mời gọi: “Ai theo tôi sẽ được giàu có, quyền lực, hạnh phúc, lạc thú… ở đời này, chỉ ở đời này mà thôi!”
Thế là có đông người vỗ tay tán thưởng Thần Tài và hăm hở đi theo ông ta.
Còn chúng ta thì sao?
Nếu chúng ta may mắn có mặt trong cuộc diễn thuyết hôm ấy, chúng ta sẽ theo ai?
Và hôm nay, khi nghe lời mời gọi của Chúa Giê-su vọng lại qua trang Tin mừng này, chúng ta sẽ quyết định thế nào?
- Một là say mê theo đuổi danh vọng, giàu sang, lạc thú đời này bất chấp sự sống đời sau;
- Hai là liều mất mạng sống vì Chúa Giê-su để được tận hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Danh vọng, giàu sang, phú quý đời này có sức cuốn hút mạnh mẽ. Nếu không phải là người có bản lãnh cao, nếu không phải là người khôn ngoan sáng suốt, thì khó thoát khỏi sự lôi cuốn của chúng.
Nghĩ cho cùng, nếu đời sống con người chỉ vỏn vẹn 100 năm trên dương thế này mà thôi, chẳng có đời sau, thì chọn theo Thần Tài, đua tranh tìm kiếm giàu sang, lạc thú đời này là điều chính đáng.
Tuy nhiên, so với đời sau thì cuộc đời này chỉ kéo dài trong gang tấc, còn cuộc sống đời sau là thiên thu vạn đại. Vì thế, mải mê tìm kiếm hạnh phúc thoáng qua đời này mà đánh mất hạnh phúc vĩnh cửu mai sau thì thật là vô cùng đáng tiếc.
Nếu cuộc sống đời này có giá bằng một đồng tiền vàng thì giá trị cuộc sống đời sau phải tỷ lần cao hơn. Vì thế, ham muốn chiếm lấy một đồng trước mắt mà đánh mất tỷ đồng trong tương lai là sai lầm hết sức tai hại.
Như thế, lời dạy của Chúa Giê-su: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì?” là một bài học khôn ngoan cần ghi tâm khắc cốt và phải là châm ngôn, là ánh sáng soi đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
“Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”
Hôm xưa, Phan-xi-cô Xa-vi-e vốn là người ham mê tìm kiếm danh vọng đời này, nhờ được nghe lời dạy này của Chúa qua miệng thánh I-nha-xi-ô, nên đã từ bỏ vinh hoa phú quý, rời xa kinh thành Paris hoa lệ, vượt đại dương loan báo Tin mừng cho dân tộc Ấn-độ, Sri-lanca, Malaysia, Nhật Bản… nhờ đó, ngài đã đem ơn cứu độ cho muôn vạn người Châu Á và được toàn thể Hội thánh Chúa ca ngợi, tôn vinh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời vàng Chúa dạy, sẵn sàng hiến thân phục vụ Chúa và mọi người, chấp nhận từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
-------------------------------
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay có chung một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường TN 22-A74
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay có chung một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người; vì thế, những người Ki-tô hữu phải có thái độ dứt khoát không chạy theo thời, không rập khuôn theo thói đời.
Gr 20: 7-9
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trung thành loan báo sứ điệp Thiên Chúa, dù phải đi ngược lại với bản tính của ông và những ước muốn của những người đương thời với ông.
Rm 12: 1-2
Thánh Phao-lô cảnh giác cộng đoàn tín hữu Rô-ma, sống giữa môi trường dân ngoại, “đừng có rập theo đời nầy”.
Mt 16: 21-27
Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô phản ứng như một phàm nhân, phẩn nộ trước ý định Thiên Chúa dẫn Đấng Mê-si-a bước đi trên con đường đau khổ.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)
Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất. Vốn hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy, ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với bản tính của mình và những kỳ vọng của những người đương thời với ông, vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị chống đối.
1.Bối cảnh lịch sử:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa những năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị phá hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai chú ý đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe: trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam, thật sự là một bi kịch diễn ra trong tận đáy lòng của vị ngôn sứ.
2.Bi kịch nội tâm:
Đoạn văn được trích dẫn hôm nay là một trong những đoạn văn thống thiết nhất mà vị Ngôn Sứ đã viết. Qua lối nói phóng dụ và những hình ảnh mạnh mẽ, đoạn trích nầy nói lên tất cả bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: đón nhận ơn đặc sủng mà không thể nào cưỡng kháng lại được, ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với tất cả những ước muốn của phàm nhân, đấu tranh không hề mỏi mệt với sự dữ và dối trá mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thân thưa với Thiên Chúa về sức mạnh của Ngài trên sứ mạng ngôn sứ của ông:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng”.
Ông phàn nàn với Chúa về những thử thách nặng nề mà ông phải chịu khi trung thành thi hành sứ vụ Thiên Chúa đã giao phó. Người đương thời chẳng những không đón nhận, mà còn lăng nhục ông, vì sứ điệp của Thiên Chúa trái với những kỳ vọng của con người.
“Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.
Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’.
Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt này” (20: 7c-8).
Vì thế, ông mong muốn được thoái thác sứ vụ của mình:
“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’” (20: 9a).
Dù đã ra sức cố dồn nén lại trong lòng, không công bố lời Chúa nữa, nhưng ông không thể:
“Nhưng lời Ngài như một ngọn lửa cháy bừng trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nín chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (20: 9b)
Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc siêu nhiên của nó, và đồng thời, quyền năng của nó ở tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.
BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)
Với chương 12, khởi sự phần luân lý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu: Do thái hay dân ngoại). Thánh nhân vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế ngài khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên của thánh nhân: phụng thờ đích thật và đổi mới con người.
1.Phụng thờ đích thật (12: 1):
“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”: “Của lễ sống động” là trọn một cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa, đối nghịch với tế vật của những súc vật chết được hiến dâng trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một cuộc đời phụng tự. Đó mới thật là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, khi ám chỉ đến việc mình bị kết án tử, có lẽ sắp đến gần, thánh nhân thấy “máu của mình phải đổ ra hợp làm một với hy lễ” (Pl 2: 17).
Hiến dâng chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Ở đây, thánh nhân phân biệt sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình. Tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình là cách thức phụng sự Thiên Chúa xứng hợp nhất.
2.Đổi mới con người (12: 2):
Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới con người. Việc đổi mới nầy đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: “Đừng rập theo đời nầy”, nhưng “hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”.
Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến, tức vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách rập khuôn theo thói đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Ki-tô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma.
Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.
TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)
Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước.
1.Loan báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó và Phục Sinh:
Sau khi đã nghe thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào trong mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Ngài loan báo cho họ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài liên kết những viễn cảnh của cuộc Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.
“Người phải…”: Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây không là tất yếu của một định mệnh; nhưng là tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh đến để đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về ơn cứu độ).
2.Phản ứng của thánh Phê-rô:
Chúng ta hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Ông quan niệm Đấng Mê-si-a vinh quang và chiến thắng. Trong tư tưởng của ông, những viễn tượng về Đấng Mê-si-a trần thế chắc chắn vẫn còn hiện diện.
Rất tế nhị, thánh Phao-lô kéo riêng Ngài ra khỏi tầm nhìn của các môn đệ và trách cứ Ngài: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”: Chắc chắn thánh nhân lầm khi lôi kéo Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của ông không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ.
Đức Giê-su phản ứng dữ dội. Vào lúc nầy, những cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa hiện ra trong tâm trí Ngài giữa “Đấng Mê-si-a quyền năng” mà dân Ít-ra-en mong đợi và “Người Tôi Tớ đau khổ” mà Kinh Thánh loan báo. Trước đây, Đức Giê-su đã xua đuổi chước cám dỗ của Xa-tan bởi lời quyền năng: “Xa-tan kia, xéo đi!” (4: 10), nay Ngài phản kháng thánh Phê-rô cũng một cách tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy!”. “Xa-tan” có nghĩa “kẻ cản lối” làm người ta vấp ngã.
Khi truyền lệnh cho Phê-rô: “Lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi ông, nhưng mời gọi ông “hãy đi theo sau Ngài” để khỏi cản lối đi của Ngài. Ngài muốn Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, việc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân vào trong cùng một vận mệnh của Ngài vì đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: “Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
3.Những điều kiện để trở nên môn đệ của Đức Giê-su:
Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Đức Giê-su cũng nói với các ông một cách như thế khi liên kết các môn đệ vào với vận mệnh của Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”: Hình ảnh “thập giá” vào thời đó không xa lạ gì với những người đương thời của Đức Giê-su. Chính quyền Rô-ma đã áp dụng hình phạt thập giá cho những ai dám chống lại quyền cai trị của họ. Đã có những cuộc hành hình tập thể như thế xảy ra rồi ở Giê-ru-sa-lem. Ở nơi hình ảnh “thập giá” Đức Giê-su chất chứa những gian khổ mà những ai muốn trở nên môn đệ của Ngài phải trải qua. Trước đây, trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su đã gợi lên hình phạt thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Thánh Lu-ca, trong một đoạn văn song song (Lc 9: 23), đã thêm chữ “hằng ngày” làm cho “vác thập giá” mang nghĩa biểu tượng: “vác thập giá hằng ngày” nghĩa là chấp nhận mọi khốn khó của cuộc đời.
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”: Lời nầy của Đức Giê-su được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ý nghĩa của chúng và ghi khắc chúng vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Trong viễn cảnh của những lần tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10: 18). Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những ngày bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là bảo đảm cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Thiên Chúa.
“Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”: Ở đây, Đức Giê-su đối lập giữa sở hữu của cải vật chất được gói trọn ở nơi “người ta được cả thế gian” và “thiệt mất mạng sống” được hiểu theo nghĩa mạnh: “tổn hại sự sống đời đời”, “đánh mất ơn cứu độ”.
Để kết thúc tư tưởng của mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ biết chọn lựa cách khôn ngoan giữa cuộc sống đời này với cuộc sống vĩnh cửu mai sau khi đặt cho các ông một câu hỏi: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”. Cuối cùng, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày quang lâm của Ngài: “Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Vì thế, để được sở hữu “sự sống đích thật”, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ và sau họ, cho tất cả các Ki-tô hữu: noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời nghiêm trang, không hoa mỹ, nhưng trào dâng một niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.
-------------------------------
Nguyễn Quang Ngọc
Thưa quý vị, thưa các bạn ,
Lời Chúa , chúa nhật 21 thường niên vừa qua (Mt 16, 13 -20) trình thuật cho chúng ta biết, Chúa TN 22-A75
Lời Chúa , chúa nhật 21 thường niên vừa qua (Mt 16, 13 -20) trình thuật cho chúng ta biết, Chúa Giêsu khen ngợi và đặt để Phê-rô làm đầu Hội Thánh. Nhưng, sự khen tặng nầy nói rất rõ là : Không do bởi phàm nhân nào tỏ cho ngài biết, mà là chính Chúa Cha, Đấng ngự trên Trời, như vậy, rõ ràng không có “mâu thuẫn” với lời quở trách hôm nay. Tại sao vậy, thưa quý vị ?Thưa, không phải nay khen , mai chê, mà là như chúng ta biết, chính Chúa Giêsu nói : “ … Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa” ( c 23). Rõ ràng, tư tưởng của Phê-rô là tư tưởng của phàm nhân, như vậy, “Đấng Kitô “ phải là Đấng chịu tử nạn, chứ không phải Đấng đến để “cai trị”. Bởi vì, “KITÔ “ là Đấng được xức dầu tấn phong để Cứu Độ nhân loại, là Đấng Cứu Thế, tức Đấng phải chịu khổ hình sinh ơn Cứu Độ, chứ không phải là Đấng “làm vua” như kiểu trần thế.
Chúng ta nhớ lại lời Chúa trong “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi.Đường lối Ta không phải đường lối các ngươi…”
Như vậy, rõ ràng , tư tưởng của Thiên Chúa là tư tưởng của Trời cao, là tư tưởng Tạo thành và Cứu chuộc. Chứ không phải là tư tưởng của phàm nhân.
Chúng ta thấy, tình cảm của Phê-rô là tình cảm của nhân thế, chúng ta thấy, Chúa Giêsu quở trách Phê-rô thật đúng, nhưng Người lại “yêu thương “ Phê-rô hết lòng. Chúng ta đừng nghĩ Chúa Giêsu” yêu thương “ thánh Gioan Tông Đồ hơn Phê-rô, không phải vậy đâu, vì, chúng ta thấy thánh Gioan “tựa đầu” vào Thánh Tâm Chúa, chúng ta tưởng lầm rằng : Thánh Gioan được Chúa yêu thương nhất, vì thánh Gioan trẻ nhất, trong trắng nhất, vì ngài chưa có gia đình.
Bằng chứng hiển nhiên là Chúa “sửa dạy” ai nhiều nhất là Chúa thương người đó nhất, bởi vì “ Thương cho roi , cho vọt…”.
Vâng, thưa quý vị. Chúa Giêsu quở trách Phê-rô , vì ông ngăn cản Chúa theo tình cảm nhân tính, nhưng, ông yêu mến Thầy cách chân thật, nhưng, tính người phàm thế không thể hiểu được chân lý của Trời cao. Theo đó, hành trình Cứu Độ không do bởi phàm nhân, mà do bởi Ý định yêu thương từ Thiên Chúa.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu được, Thiên Đàng không phải là miền đất “Hứa” suông mà thôi, mà là một “ hành trình cứu chuộc “ tiến về Nước Trời, nơi có Thiên Chúa hằng hữu, mặc nhiên có đau khổ, có thánh thiện, có vui buồn, có bất toàn, có hạnh phúc. Để khẳng định rằng : Thế gian không phải không có Thiên Chúa hằng hữu. người ta vẫn tin rằng “Thiên Đàng tại thế”. Thiên đàng tại thế không phải là tư tưởng tục hóa, mà là minh định có Thiên Chúa hiện hữu tại thế gian. Vì, nếu thế gian không có Thiên Chúa, thì làm gì có Thiên Chúa ở trên trời, nơi mà chúng ta không thấy được.
Nhưng, nếu nói có Thiên Chúa hiện hữu tại thế gian, thì tại sao, Thiên Chúa không “ ngăn chặn” sự dữ ? Điều nầy, khiến cho người đời có “ác cảm “ với thế gian. Thế gian không phải là “quê hương “ vĩnh cửu, nhưng, chắc chắn không phải là nơi không có Thiên Chúa. Nếu, không tin thế gian vẫn là nơi có Thiên Chúa hiện hữu, thì không thể nào tin có Nước Trời.
Tại sao, tin thế gian có Thiên Chúa hiện hữu mà người đời vẫn gặp đau khổ, bất hạnh, ? Thưa, đó là : “hành trình Thập giá” như đã nói ở trên, hành trình Cứu Chuộc, hay “hành trình tiến về” quê Trời” trong đó “ hành trình Thập giá”, để cùng với Đức Kitô tham dự vào Mầu Nhiệm Cứu Độ bởi Thiên Chúa. Vì vậy, sự đau khổ, sự dữ, sự chết( thân xác ) của phàm nhân là hệ lụy tất yếu nơi trần gian, nhưng, không phải không có Thiên Chúa hiện hữu. Thiên Chúa không dấu mặt nơi trần thế, nhưng, Thiên Chúa cực Thánh, siêu nhiên không thể “lộ diện “ theo ý của phàm nhân, vì vậy, người đời không thể “nhìn thấy “ Thiên Chúa như ý họ muốn. Theo đó, Thiên Đàng là hành trình, kế hoạch tiệm tiến của ơn “Cứu Chuộc” bởi Thiên Chúa ngay tại trần thế, chứ không phải Thiên đàng là Nước Trời, là nơi hạnh phúc viên mãn. Bởi vì, Nước Trời là chính Thiên Chúa, là sự viên mãn đích thật cho con người.
Theo đó, ơn Cứu Chuộc, tức Mầu Nhiệm Thập giá là “sự đau khổ” nơi loài người, mà Đấng Cứu Thế gánh lấy cho họ . Mặc nhiên, vì vậy, hôm nay, qua Đoạn Tin Mừng ( Mt , 16, 21 -27) mà Chúa Giêsu đã quở trách Phê-rô, vì ông đã “cản trở” ơn Cứu Chuộc bởi Thiên Chúa. Vì, “Tư tưởng của phàm nhân, không phải là tư tưởng bởi Thiên Chúa”.
Lạy Chúa Giêsu, Phê-rô vì “yêu mến “ Thầy, nên ông đã “ngăn cản” Thầy lên đường chịu Tử Nạn . xin cho chúng con biết nhận ra sự sửa dạy thánh Phê-rô của Chúa để nhận ra chân lý đích thật là “tình Chúa” cao vời hơn tất cả, đến độ Chúa sẵn lòng Tử Nạn để trở nên “Gía Chuộc “ muôn người./. Amen
P.Trần Đình Phan Tiến
-------------------------------
Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Ngài sẽ: TN 22-A76
Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết và Ngài sẽ sống lại. Phêrô, lúc ấy vì chưa hiểu rõ chương trình của Thiên Chúa, nên đã can ngăn Chúa. Phêrô căn ngăn vì lòng yêu thương Thầy mình, vì không ai muốn người mình yêu bị đau khổ. Phêrô đã có một tấm lòng như thế. Nhưng Chúa đã nói : “Xatan, lui lại đàng sau Thầy”. Nói điều đó không phải Chúa lên án Phêrô là Xatan đâu, nhưng ám chỉ Xatan mưn Phêrô để cám dỗ Chúa, cũng như xưa kia nơi vườn địa đàng, Xatan đã từng mưn con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ. Hoặc là Chúa khiển trách Phêrô, vì ông còn nuôi những hi vọng phàm tục do ma quỉ xúi bẩy.
Sau khi đã báo trước về cái chết và sự phục sinh của Ngài, Chúa mời gọi mọi người hãy bước theo Ngài : “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Nghĩa là Chúa muốn nói : muốn đi theo Chúa thì phải chấp nhận điều kiện của Chúa. Điều kiện đó là “vác thập giá mình”. Thập giá đây là những đau khổ của cuộc đời. Vác thập giá là chấp nhận những hi sinh gian khổ trong đời sống thường ngày để noi gương Chúa. Rồi Chúa còn nói : “Nếu đưc cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có li gì ?”, nghĩa là ích gì cho con người nếu đưc tất cả mọi sự mà bị mất sự sống vĩnh cửu. Người ta phải sẵn sàng hi sinh tất cả để đưc sự sống đời đời, chứ không vì bất cứ cái gì, dù to lớn hay quí giá đến đâu, cũng không thể đánh đổi sự sống đời đời đưc.
Đó là ý nghĩa đoạn Tin Mừng. Sau đây chúng ta tìm hiểu và ghi nhớ một điều thôi, đó là câu “Ai muốn đi theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo”. Thập giá đây không phải là hai thanh gỗ đóng chồng lên nhau theo hình ch thập, nhưng là những đau khổ của cuộc đời. Như thế, ai cũng phải vác thập giá mình, vì ai cũng có đau khổ : sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Đời là bể khổ, đời là thữung lũng mước mắt. Vì sao vậy ? Đây là một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và vn còn là một bí ẩn đối với con người thữuộc mọi thời đại. Xưa nay các nhà hiền triết đã suy nghĩ nát óc mà vn chưa tìm ra đưc câu trả lời thỏa đáng.
Chỉ có Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài mới đem lại cho con người một câu trả lời thỏa đáng. Thực vậy, nguyên do của đau khổ chính là tội lỗi, nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đồng thời con người cũng bắt đầu phải đau khổ và đau khổ nhất đó là sự chết. Chúa Giêsu đến trần gian. Ngài gánh lấy tội lỗi con người. Nhờ sự chết và sự sống lại, Ngài đã cứu con người khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là đau khổ. Hơn na, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chữuộc chúng ta, nghĩa là Ngài đã chịu đau khổ để đển tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ của con người.
Từ đây chúng ta hiểu rằng : đau khổ, tự nó là một điều xấu. Không ai ham, không ai muốn. Vì thế, tự nó đau khổ chẳng có giá trị gì cả. Nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc, chính là thái độ của người đau khổ. Nói rò hơn, đứng trước đau khổ, điều quan trọng là cách thức chúng ta đáp lại chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng.
Cụ thể đối với các bạn trẻ, các bạn cũng có những đau khổ của riêng mình. Ngoài những đau khổ bình thường của cuộc sống, còn có những đau khổ như tình yêu đầu đời tan vỡ, dang dở hay tình duyên trắc trở, hoặc thất bại trong công việc làm ăn hay bất cứ sự thất bại nào chăng na, thì các bạn cũng đừng bao giờ chán nản, buông xuôi, bất cần đời, rồi ăn nhậu, chơi bời, muốn đến đâu thì đến. Những cách đó chỉ làm cho các bạn tiếp tục đối diện với nỗi cô đơn, sự trống vắng và thế giới màu đen tuyệt vọng của mình. Không, cuộc đời không chỉ có thế, bởi vì còn rất nhiều thực tại, còn rất nhiều lý tưởng cao đẹp khác khiến cho đời đáng sống và đáng cho các bạn tận hiến đời mình cho các lý tưởng ấy.
Trên bình diện siêu nhiên, không có sự đau khổ hay thất bại nào phát xuất từ bất cứ đâu mà lại không chất chứa một sứ điệp. Chúng có thể là những tiếng còi báo động thức tỉnh chúng ta về những nguy hiểm gần kề, và rất thường khi chúng là một lời mời gọi, mời gọi chúng ta bước ra khỏi nỗi khổ đau và thất bại của mình, để có một cái nhìn mới, bởi vì đau khổ có thể biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, nhiệt tình hơn, khiên tốn hơn, biết từ tâm hơn và biết thông hiểu người khác hơn. Hoặc đau khổ có thể củng cố thêm đức tin và lòng cậy trông phó thác của chúng ta vào Thiên Chúa hơn. Tóm lại, chúng ta phải nhìn đau khổ bằng cái nhìn của Tin Mừng, mỗi biến cố xảy đến đều mang một sứ điệp nào đó mà Chúa muốn dạy bảo hay nhắc nhở chúng ta.
------------------------------
Nếu ta chăm chữú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống: TN 22-A77
Nếu ta chăm chữú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ sống phong phữú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thữúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình gi đưc sự sống. Thữu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không thể đưc cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của sở hữu, nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính “người” đưc lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. “Nếu người ta đưc cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có li gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người. Trái tim con người đưc tạo nên để mở ra, để thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. :Yêu là cho tất cả và trao ban chính bản thân mình”, thánh Têrêsa Hài Đồng đã nói : Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự vào bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân : mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người.
Thật là mo nghịch lý cho con người. Anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc dầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình : những người thành tựu, cuộc sống tốt đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực, lòng tận tụy để phục vụ tha nhân…cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp chỉ con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, Người còn mặc khải ý nghĩa đầy đủ : Ai muốn theo tôi…Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao ? Con đường thập giá, Người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ quãng đường dn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ : đó là phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe dọa đâu, mà là một lời hứa. “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”. Không có gì phải s khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng. “Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại đưc nó”. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban.
------------------------------
Các môn đệ hẳn là khó nuốt trôi lời đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Tấn thảm: TN 22-A78
Các môn đệ hẳn là khó nuốt trôi lời đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Tấn thảm kịch trong lời tiên báo ấy là điều các ông không mảy may chờ đi. Họ muốn một điều gì khác hơn: một Đấng Messia vinh quang và họ sẽ có một tương lai rực rỡ chứ không phải hình ảnh con người bị lăng nhữục, hạ bệ và tử nạn - vì thế họ đã phản ứng ...
1. ĐÂU THỂ NHƯ THẾ ĐƯC
Phêrô là người đầu tiên lên tiếng: Thiên Chúa thương chứ đâu có như thế ! (Mt 16.22)
Đó vn là quan điểm khá đơn giản về cách yêu thương của Thiên Chúa. Nếu Ngài thương thì không có điều bất hạnh nào xảy đến cả mà chỉ có giàu sang, an khang, thịnh vưng, bình an ... Tóm lại, là tất cả những điều dễ chịu. Đó là những gì con người cầu chữúc cho nhau và tìm kiếm cho mình, dù có phải đạp lên kẻ khác để đạt tới điều đó , họ cũng không cho là quá đáng. Và cứ thế, loài người cứ chạy theo những điều đưc coi là cửa ngõ của hạnh phúc và họ cũng chờ đi (hay là đòi) Thiên Chúa phải thực hiện để tỏ lộ tình Ngài yêu thương họ. Các tông đồ cũng chẳng mong gì khác hơn, nên khi chạm phải một thực tại khác hẳn thì họ đã khựng lại. Còn Phêrô, ông như muốn "chỉnh" lại hướng chiều "bi quan" ấy của Đức Giêsu "Thiên Chúa thương chứ sẽ có đâu như thế"
2. ĐẤY LÀ MẦU NHIỆM
Không dễ gì chấp nhận sự đổ vỡ của những ước mơ chính đáng. Thật là khó để nói cho một chữủng sinh biết họ không có ơn gọi của đời tu trì vì anh ta chỉ muốn tu và đời tu là ơn gọi cao quý mà anh đã bao năm thiết tha gắn bó ... Một chứng bệnh nan y ở lứa tuổi thanh xuân, một cuộc hôn nhân không thành sau nhiều năm đeo đuổi, một tai nạn đột ngột xảy đến chỗ một người đạo đức. Làm thế nào để cắt nghĩa đưc tất cả những điều ấy.
Thật là khó tìm đưc một lời giải thích cho những tình hữuống bất hạnh và trách nhiệm cuối cùng vn qui về cho Thiên Chúa. Thực sự thì ta có thể hiểu đưc gì đàng sau những bí ẩn của khổ đau? Đã có rất nhiều lời giải thích, nhưng chẳng bao giờ có lời giải nào thỏa đáng cho tất cả mọi tình hữuống và sau cùng ta vn đứng trước một điều khó hiểu, một mầu nhiệm (ta vn tự hỏi là tại sao mà Đức Giêsu lại phải chịu đau khổ điều ấy có cần thiết thật không?.)
Chắc chắn đây không phải là một cuộc chạy trốn đứng trước một vấn đề khó. Chỉ cần gán cho nó ch "mầu nhiệm" là có quyền khép lại mọi thắc mắc gây bối rối. Đây cũng không phải là cách nói để né trách sự bất lực của trí tuệ trước một bí ẩn lớn lao nhưng ta phải nhận rằng những ai đã sẵn sàng đi vào trong đau khổ thì có đưc câu trả lời cho chính mình. Lời đáp sẽ ở bên kia những gì ta có thể dùng lý trí để hiểu. Ta có thể gặp đưc một cảm nhận lạ lùng, là mình đang sống chiều kích sâu thẳm của thân phận nhân loại.
3. CÒN CÓ MỘT TÌNH YÊU NHƯ THẾ
Đức Giêsu đã nói về khổ nạn cho các môn đệ như một điều phải đến, khiến cho nhiều người có cảm tưởng đó là định mệnh nghiệt ngã mà Đức Giêsu đã linh cảm thấy đưc, là một số phận bi thương không thể đảo ngưc mà Ngài phải gánh lấy:
“Người phải đi Giênsaem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thưng tế và kinh sư gây ra rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Đức Giêsu không chỉ nói đến điều phải đến, mà cho thấy đó là một sứ mạng đến từ Thiên Chúa. Nếu lời loan báo chỉ đưc tỏ ra sau khi Phêrô đưc Thiên Chúa mặc khải mà tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống - thì quả thật chính Cha đã sai đức Kitô đến trong trần gian, để tỏ cho thế gian biết Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến như thế, là ban chính Người Con chịu đau khổ và chịu chết để nêu cao tình yêu lạ kỳ đến khó hiểu.
Thiên Chúa muốn nói lời tình yêu của Ngài, muốn bày tỏ lòng yêu thương đến tận cùng với nhân loại. Ngài đã dùng ngôn ng của khổ đau, của thập giá để nói lên lời ấy- lời mà ngôn ng thông thường không thể diễn tả hết đưc. Bằng con đường đau khổ của Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn nói hết, nói cạn lời yêu thương và chỉ trong khổ đau của thân phận nhân loại nơi Con Ngài, tình yêu mới bộc tỏ đưc chiều kích sâu thẳm và kín nhiệm nhất. Tình yêu đi đến tận cùng: tình yêu không còn ranh giới rào cản, không dè gi luyến tiếc, tình yêu trao ban đến cùng nỗi khổ đau và cái chết bi thương của Con Ngài, nói với thế gian những gì Ngài muốn nói.
Chỉ có những tâm hồn ưu tuyển mới đưc mời gọi bước vào con đường mầu nhiệm của khổ đau thập giá. Vì vậy Đúc Giêsu chờ đi cho đến lúc Phêrô đưc mặc knải về chân tính của Ngài, mới bộc tỏ cho các môn đệ về con đường đau khổ dn đến cứu độ. Điều bí ẩn này chỉ có thể tỏ ra cho những ai sẵn sàng đón nhận Đức Kitô để Ngài dn lối chỉ đường, và nhất là bằng lòng theo Ngài đi đến tận cùng của mầu nhiệm tình yêu dù rằng ngay khi đau khổ xảy đến họ chưa hiểu đưc hay chưa hội ra đưc chiều kích sâu xa và lạ lùng của mầu nhiệm này.
4. ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU
Khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về cuộc khổ nạn sắp đến các ông dường như chẳng hiểu gì và Phêrô lại còn tìm cách làm lệch đi hướng chữuyển động của tình yêu đến nỗi Chúa Giêsu phải mạnh mẽ trách mắng ông vì lối nhìn hoàn toàn phàm tục. Ngài dã coi ông lúc đó như công cụ của satan đang tìm cách ngăn trở đức Giêsu thi hành sứ mạng. Con người này vừa đón nhận mặc khải đã trở lại với chất người hèn yếu. Đó cũng là cái thế giằng co nội tâm bên trong mỗi con người chúng ta mà chỉ có thể thoát ra đưc bằng cách mở ra cho một lời đáp trả mà Đức Giêsu đã gi ý bằng lời mời gọi:
"Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mìmh mà theo" (Mt 16,24)
Đó là cách yêu con người vừa học đưc từ Thiên Chúa, Ngài đã yêu thương và đã bộc lộ tình yêu trong khổ đau cùng tận thì đến lưt con người, họ cũng có thể đi vào con đường đó. Con đường mà thế gian coi là điên rồ, dại dột. Con đường mà nhân loại cứ run rẩy khi đối diện và tìm cách tránh né hoặc trốn chạy. Bằng cách mang lấy thập giá đời mình, con người có thể đáp lại lời yêu thương cùng tận bởi dám mất đi cả mạng sống để nên lời đáp trả thắm thiết nhất làm đẹp lòng Thiên Chúa. Lời đáp trả tình yêu là con đường thập giá theo chân Đức Giêsu cho đến vinh quang Phục Sinh.
------------------------------
Bạn quan niệm về đau khổ và chết chóc như thế nào? Đó là những thực tại xấu ác cần xa: TN 22-A79
Câu hỏi gi ý:
1. Bạn quan niệm về đau khổ và chết chóc như thế nào? Đó là những thực tại xấu ác cần xa tránh? Bạn có quan niệm nào khác cao hơn không?
2. Có ai đã chết để bạn đưc sống, hay đã đau khổ để bạn đưc hạnh phúc bao giờ chưa? Bạn có sẵn sàng đau khổ để những người thân yêu mình đưc hạnh phúc, hay sẵn sàng chết để họ đưc sống không? Hy sinh như thế có ích li gì không?
3. Tại sao Chúa lại đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải chấp nhận hy sinh và đau khổ? Nếu đó không phải là điều cần thiết, Ngài có đòi hỏi như thế không?
Suy tư gi ý:
1. Ai cũng s đau khổ, nhưng đau khổ rất ích li và cần thiết
Đau khổ và chết thường đưc coi là những gì xấu ác, cần phải xa tránh cho chính mình và người khác. Đó là một suy nghĩ rất phổ thông và thường đưc coi là khôn ngoan. Nhưng có những người suy nghĩ cao hơn, họ thấy đưc giá trị, li ích, thậm chí sự cần thiết của đau khổ và sự chết. Vì thế, đối với họ, đau khổ và sự chết không phải là kẻ thữù, là một cái gì đáng s, mà là bạn, là một cái gì thân thiết mà họ sẵn sàng vui vẻ đón nhận. Thật vậy, đau khổ và sự chết cần thiết cho sự sống và hạnh phúc. Muốn hạnh phúc thì nhiều khi phải chấp nhận đau khổ. Muốn cứu mình hay người khác, nhiều khi phải sẵn sàng chấp nhận cái chết. Nói khác đi, sự sống nhiều khi phải mua bằng cái chết, và hạnh phúc phải mua bằng đau khổ. Và sự sống hay đau khổ phải trả giá ấy sẽ biến thành sự sống hay hạnh phúc, cho mình hoặc cho người khác.
Suy nghĩ như thế thường bị coi là bất bình thường, là điên rồ, nhưng thực ra đó là một suy nghĩ rất minh triết, rất khôn ngoan, phữù hp với qui luật tất yếu của vũ trụ. Thiết tưởng người Ki-tô hữu cần nắm vng cách suy nghĩ này. Chính Thiên Chúa đã suy nghĩ theo cách này, và Ngài đã dùng đau khổ không chỉ để cứu chữuộc nhân loại, mà còn để hữuấn luyện và thánh hóa con người. Những con người bản lãnh đều là những con người đưc trui rèn trong đau khổ: «Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn» (Dt 2,10).
Khi nghe Đức Giê-su loan báo về đau khổ và cái chết của Ngài, phản ứng của Phê-rô là ngăn cản Ngài như ngăn cản khỏi một tai họa, một sự d, một điều xấu xa. Phê-rô đã suy nghĩ theo cách thường tình của mọi người. Còn Đức Giê-su, Ngài trách ông hơi nặng lời, gọi ông là Xa-tan, vì Ngài không ngờ ông theo Ngài đã lâu mà vn không suy nghĩ cao hơn người thường đưc: «Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người».
2. Đau khổ phát sinh hạnh phúc
Sống trên đời, ai cũng đều có kinh nghiệm rằng đau khổ tự nguyện có thể biến thành hạnh phúc. Một người cha làm việc vất vả và cực khổ ở xưởng th là để đem lại cơm no áo ấm cho đàn con. Đau khổ tự nguyện của ông biến thành hạnh phúc của con cái. Một học sinh chịu khó học hành vất vả trong hiện tại để đổi thành vinh quang và thăng tiến trong tương lai.
Ngưc lại hạnh phúc lại có thể biến thành đau khổ. Những người cha tìm hạnh phúc cho riêng mình trong những quán rưu thì rồi sẽ chữuốc lấy đau khổ và nhữục nhã cho v con. Một học sinh ham chơi, ham coi phim để vui hưởng nhàn nhã trong hiện tại, cuối cùng sẽ phải chấp nhận thất bại ê chề trong tương lai.
Cái chết tự nguyện có thể biến thành sự sống: biết bao chiến sĩ ngã gục và chết thê thảm ở chiến trường để người khác ở hậu phương đưc sống yên ổn. Và cái sống có thể biến thành cái chết: sự hèn nhát và đi tìm cái sống cho bản thân của những người lãnh đạo xã hội hay Giáo Hội có thể biến thành cái chết và đau khổ cho biết bao người dân vô tội.
Đức Giê-su ý thức quy luật này hơn ai hết, và Ngài đã chấp nhận chết để nhân loại đưc sống, chấp nhận đau khổ để con người đưc hạnh phúc: «Người đã mang tội lỗi chúng ta vào thân thể mà đưa lên thập giá để chúng ta đưc sống đời công chính. Người đã mang lấy vết thương của chúng ta để chúng ta đưc cha lành» (Pr 2,24). Chấp nhận chết để người khác đưc sống, chấp nhận đau khổ để người mình yêu đưc hạnh phúc, đó là hành động của những người thật sự yêu thương. Vì thế, cái chết và đau khổ trở thành phương cách để biểu lộ tình yêu: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13).
3. Những người theo Chúa cần biết chấp nhận đau khổ
Đức Giê-su là Thầy và là gương mu của chúng ta, nếu Ngài đã quan niệm như thế, đã sống và hành động như thế, chẳng lẽ chúng ta, những người theo Ngài, lại không muốn quan niệm và hành động như Ngài sao? Đó chính là lý do khiến Ngài đòi hỏi những người theo Ngài «phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo». Nghĩa là Ngài đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thậm chí cả cái chết.
Là những người theo Chúa, chúng ta không nên quá s hãi đau khổ và sự chết. Trái lại, hãy chấp nhận đau khổ và sự chết một cách bình thản. Đức tin thật sự giúp chúng ta làm đưc điều ấy! «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao đưc với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Chúng ta vn hát vào dịp lễ Phục sinh: «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (Rm 6,8). Chúng ta tuyên xưng mạnh mẽ như vậy, nhưng chúng ta có tin thật như vậy không? Hay chúng ta tuyên xưng như vậy một cách giả dối? Vì nếu thật sự tin, tại sao chúng ta lại quá s đau khổ và cái chết, nhất là không đau khổ và chết vì Ngài và cho Ngài?
Biết bao tội lỗi, xấu xa, bỉ ổi, hèn nhát… đã xảy ra chỉ vì người ta ham sống s chết, ham sướng s khổ. Ngày xưa, những người quân tử Trung Hoa, tức những người theo đạo của Khổng Phữu Tử, đã từng chữủ trương «coi cái chết nhẹ tựa lông hồng», chấp nhận đau khổ tận cùng để tận trung với vua với nước, để trọn tình trọn nghĩa với cha mẹ, với v/chồng, với bạn bè… Lẽ nào chúng ta, những người theo Đức Giê-su, tức theo tôn giáo mà chúng ta luôn tuyên xưng là tốt nhất thế giới, lại chịu thữua những người quân tử đạo Khổng kia? Nếu chấp nhận thữua thì chúng ta hãy khoan tự hào rằng tôn giáo mình là cao hơn, tốt hơn tôn giáo của họ! Liệu tôn giáo của chúng ta, với những phương tiện hữu hiệu là các bí tích, có ban cho chúng ta – nhất là những người cử hành hoặc lãnh nhận bí tích hằng ngày – đủ sức mạnh và lòng can đảm hơn những tín đồ tôn giáo khác không? Chúng ta cần nghiêm chỉnh đặt lại vấn đề và tìm hiểu.
Biết bao Ki-tô hữu đã chấp nhận im tiếng trước bất công, chấp nhận đồng lõa với điều ác, sẵn sàng để mặc kẻ ác tự do hành động, cho dù mình có khả năng can thiệp. Tại sao? Có phải vì mình muốn đưc an toàn cho bản thân, gi đưc tình trạng an nhàn, sung sướng mình đang có? Làm như thế quả là khôn ngoan đấy, nhưng đó là khôn ngoan kiểu thế gian, của những người ích kỷ, không phải là khôn ngoan của kẻ có tình yêu đích thực. Và đó không phải là thứ khôn ngoan của những người theo Đức Giê-su. Nhiều người ấy, nếu có mang danh theo Ngài thì cũng chỉ là theo một cách «hữu danh vô thực» mà thôi! Một người mẹ làm sao có thể ngồi im khi con cái mình bị bách hại, bị đàn áp bất công? Bà sẽ gào thét, sẽ xông tới cứu con mình, bất chấp nguy hiểm, đau khổ hay cái chết. Nếu không hành động như thế, bà có dám tự hào là bà yêu thương con mình thật sự không?
4. Kết quả cuối cùng: «Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất»
Điều khiến cho sự khôn ngoan thế gian – hay thứ khôn ngoan của những người ích kỷ, chỉ biết sống vì mình, cho mình – cuối cùng trở thành điên dại (x. 1Cr 1,20), chính vì mọi sự đều có một kết quả chữung cuộc. Chính vì có một kết quả chữung cuộc vĩnh cửu mà những kẻ khôn ngoan kiểu thế gian muốn tìm hạnh phúc cho mình lại không tìm đưc, muốn tránh đau khổ cho mình lại không tránh đưc. Còn những kẻ mà thế gian cho là ngu dại – sẵn sàng chấp nhận đau khổ để người khác hạnh phúc, chấp nhận cái chết để người khác đưc sống – thì lại đưc sống vĩnh cửu trong hạnh phúc vô biên. Khi đối diện với kết quả chữung cuộc ấy, người ta mới thấy câu của Đức Giê-su trở thành hiện thực: «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm đưc mạng sống ấy». Lúc ấy những người khôn ngoan kiểu thế gian mới nhận ra rằng: «Nếu người ta đưc cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có li gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?»
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: «Biết bao người chấp nhận cực nhọc, hy sinh, đau khổ để đạt đưc một cái mề đay, một thứ vinh quang hão hữuyền chóng qua. Biết bao người sẵn sàng chết cho một hôn quân bạo Chúa. Tại sao con lại không dám hy sinh, chấp nhận đau khổ vì Cha, vì tha nhân, mặc dù điều đó làm cho con đưc hạnh phúc đời đời? Con không có đức tin sao?»
------------------------------
-Lm. Augustine, SJ.
Hôm đó kỹ sư Lê có chương trình đi coi các xưởng máy của xí nghiệp anh làm để báo cáo.: TN 22-A80
Hôm đó kỹ sư Lê có chương trình đi coi các xưởng máy của xí nghiệp anh làm để báo cáo. Chương trình ấy bị chậm trễ chỉ vì người lái xe của anh say rưu. Hãy nghe anh Lê kể lại cho biết thảm cảnh nào đã xảy ra cho người tài xế của anh và anh đã đối xử ra sao.
"Tôi nói với Định, người tài xế của tôi: "Giờ này xe phải bon bon trên đường rồi mới phải! Tại sao có sự chậm trễ như vậy?"
Định chẳng nói gì để đáp lại vì anh say rưu. Đến sở để làm việc mà bê tha như vậy quả là một lỗi trắng trn! Nhưng hình như Định có ý biện minh: "Thưa kỹ sư, đã xảy ra sự việc trầm trọng cho gia đình tôi!"
Tôi dn Định vào tiệm ăn sáng để nghe cắt nghĩa rõ hơn. Định mếu máo nói khiến khách ở tiệm ăn trố mắt nhìn: "Đêm qua v tôi bỏ tôi!"
Cho dầu người tài xế của tôi cắt nghĩa thế nào đi na anh cũng không thể nào biện minh đưc hành vi say rưu của anh. Nhưng tôi thầm nghĩ tôi cần tỏ ra thông cảm đối với người tài xế đang trải qua một thảm cảnh lớn trong đời anh. Vậy tôi đã cho anh một việc nơi văn phòng thay vì lái xe, để tôi có thể theo dõi và hy vọng giúp đỡ anh.
Những ngày kế tiếp cho thấy Định không đạt đưc tiến bộ như mọi nhân viên trong sở đều thấy rõ. Tuy là một người tốt bụng, Định đã không làm chữủ đưc mình. V anh bỏ anh cùng với đứa con cũng chỉ vì anh thiếu trưởng thành. Có khi v anh chỉ có ý để anh nghĩ lại mà đảm nhận lấy trách nhiệm. Nhưng những ngày qua đã không thấy có hiệu quả tích cực.
Tháng đó tôi cùng với các bạn trong nhóm chia sẻ Lời Chúa tâm đắc về Lời Chúa dạy là: "…Nếu hai ba người hiệp nhất để cầu xin điều gì thì Cha trên trời sẽ ban cho điều đó." Tôi đã yêu cầu các bạn cùng tôi xin Chúa cho gia đình của Định đưc sum họp trở lại. Khi tôi đọc lại Lời Chúa thì đưc thôi thữúc để biết yêu thương nồng nhiệt hơn hầu tham dự vào tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Khi ấy tôi thấy việc tôi lắng nghe và khữuyên bảo Định chưa đủ. Tôi đã mạnh bạo và nhiệt thành đến thẳng cửa tiệm nơi người v của anh đang làm việc. Nàng đỏ mặt khi nghe tôi tự giới thiệu và tôi cũng lấy làm ngại ngùng. Nàng ngỡ ngàng thấy tôi chiếu cố hỏi han và thật không ngờ về mối quan tâm của tôi đối với vấn đề đang là gánh nặng trên vai nàng. Nàng nói trắng ra rằng nàng vn còn yêu chồng nhưng muốn chồng đảm nhiệm lấy trách nhiệm gia trưởng. Điều đó cho thấy nàng đã phải khổ tâm suy nghĩ nhiều trước khi quyết định bỏ chồng. Tôi tiếp tục lắng nghe và để ý về điều nàng tiết lộ khi nói "dĩ nhiên có người bảo tôi là đã vấp phải một sai lầm lớn khi bỏ chồng" và nàng còn nói "nếu cần tôi sẽ trở về với anh ấy."
Vậy tôi lấy làm mừng khi nghe nàng nói điều đó. Đó chưa phải là kết quả đạt đưc nhưng đã có ánh sáng hy vọng về một cuộc hòa giải. Tôi đã làm điều tôi phải làm. Hai v chồng Định có sum họp trở lại hay không là việc Chúa làm với sự cộng tác của hai đương sự. Riêng về phần tôi, tôi đưc hiểu hơn về Lời Chúa dạy rằng "Nếu hai ba người hiệp nhất để cầu xin điều gì, Cha trên trời sẽ ban cho điều đó." Tôi đưc hạnh phúc vì đưc dự phần vào tình yêu đang đưa mọi người hiệp nhất lại ở nơi Thiên Chúa thay vì chỉ cầu xin trên môi miệng mà thôi.
Bước theo Đức Giêsu
Câu chuyện vừa kể có thể gi ý để giúp hiểu thứ thập giá mà người thời nay phải vác. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay không chỉ khữuyến cáo ta chịu khó vác thập giá mình. Điều Đức Giêsu yêu cầu là ta phải muốn theo Người trước đã. Điều kiện Người nêu là phải biết từ bỏ chính mình rồi phải vác thập giá mình. Không phải chỉ theo Chúa vác thập giá, nhưng chính mình phải vác thập giá mình mà theo Chúa. Cũng không phải là tìm vác một cây thập giá nặng ký đề có thể hiên ngang về sự hào hữùng của mình: như vậy là chưa từ bỏ chính mình! Phải nhận lấy cây thập giá Chúa giao với lòng yêu mến như chính Chúa Giêsu đã tự nguyện nhận lấy cây thập giá Chúa Cha giao cho Người vác.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm lần loan báo đầu tiên về cuộc thương khó Đức Giêsu sẽ chịu tại Giêrusalem. Nó gắn liền với đoạn Tin Mừng Mt 16,13-20 cho thấy Đức Giêsu là ai và Phêrô là ai trong tương quan với Người. Đức Giêsu là vị Cứu Tinh, tức Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống (Mt 16,16). Còn Phêrô là nền trên đó chính Người xây dựng Giáo Hội Người (c.18). Người là Con Thiên Chúa Hằng Sống đưc xức dầu với sứ mạng cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21). Giáo Hội gồm những tội nhân đưc Đức Giêsu cứu khỏi tội. Người cứu họ bằng cách tự nguyện vác lấy thập giá Chúa Cha giao cho Người vác, với hết tình con thảo. Mọi tội nhân để thữuộc về Giáo Hội, cũng đều phải tự nguyện bước theo Đức Giêsu là đón nhận lấy cây thập giá đưc giao trong hoàn cảnh sống của mình. Phêrô là người đầu tiên sẽ nhận lấy thập giá Chúa giao cho ông vác, trong nước mắt. Ông sẽ khóc thảm thiết (Mt 26,75) khi nhận lấy thân phận yếu hèn của mình vì đã chối Thầy mình ba lần. Ông sẽ khóc để từ bỏ chính mình, tức là từ bỏ cái tôi tội lỗi, để mặc lấy con người mới là bước theo Đức Giêsu, Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Nhưng Phêrô còn đưc giao chìa khóa Nước Trời liên quan đến việc cầm buộc và tháo cởi nhằm việc hiệp thông với Giáo Hội mà Đức Kitô sẽ thiết lập trên Phêrô. Phêrô sẽ có kinh nghiệm thâm sâu về hiệp thông và trung tín với Đức Giêsu, Đấng thiết lập nên Giáo Hội và luôn đứng đầu để điều khiển Giáo Hội qua trung gian Phêrô và những người kế vị Phêrô. Ong sẽ sám hối để từ bỏ chính mình (x. Mt 26,75) nhờ đó ông sẽ biết đường giúp các tội nhân đau đớn trong lòng về các tội của họ: "Anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để đưc tha tội." (Cv 2,38), và ta biết "hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo" (Cv 2,41).
Như vậy là khá rõ thế nào là trở nên môn đệ của Đức Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay loại bỏ mọi lệch lạc về Đức Giêsu với tư cách là vị Cứu Tinh Mêsia. Câu 21 tuyên bố một cách rõ nét rằng cuộc sống trần thế của Đức Giêsu sẽ gặp phải đau khổ và tử hình theo kế hoạch của Cha ("Người phải đi Giêrusalem"). Nội dung của lời tiên báo về cuộc thương khósẽ đưc ứng nghiệm và đưc mô tả trong Tin Mừng Mt 26-28. Phêrô mặc dầu đã đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng Đức Giêsu là vị Cứu Tinh nhưng ở câu 22 ông từ khước đau khổ và chết chóc gắn liền với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà Đức Kitô đến để thực hiện. Phêrô đưc đưa trở về đàng sau Đức Giêsu là vị trí của người môn đệ, thay vì ở vị trí của Satan là kẻ cám dỗ thường lấy tư tưởng của loài người thay thế tư tưởng của Thiên Chúa (c.23).
Chính ở vị trí đàng sau Đức Giêsu mà người môn đệ học biết từ bỏ chính mình hầu vác thập giá mình mà theo Người (c.24). Câu 25-26 yêu cầu người môn đệ Đức Giêsu trở về với kinh nghiệm thiêng liêng của mình. Chỉ khi nào người môn đệ biết buông mình để Thiên Chúa dn đưa vào kế hoạch yêu thương do Đức Giêsu lãnh đạo, khi ấy người đó mới đưc tự do, bình an và hạnh phúc.
Con đường đưa tới Tự do, Bình an, Hạnh phúc
Câu chuyện gi ý ở trên cho thấy con đường đưa các nhân vật liên hệ tới tự do, bình an và hạnh phúc. Mọi người trong câu chuyện đều phải từ bỏ chính mình để bước theo Đức Giêsu. Anh Lê, kỹ sư đã từ bỏ mình để kiên nhn đối thoại với người tài xế của anh. Anh cũng từ bỏ mình để đến tiếp xúc với v của người tài xế hầu khơi dậy nơi nàng lòng ước ao trở về với chồng. Nàng nêu điều kiện chính đáng là chồng phải lãnh lấy trách nhiệm trong gia đình, phải làm cho gia đình nên tổ ấm để con cái lớn lên trong đó. Như vậy là nàng đã sẵn sàng từ bỏ mình, vác lấy thập giá đưc giao cho nàng. Chỉ còn chờ Định là người tài xế của anh Lê, tỏ thiện chí hầu đạt đưc tự do, bình an và hạnh phúc, theo con đường từ bỏ chính Đức Giêsu đã đi.
Một số câu hỏi gi ý
1. Bạn tâm đắc gì về câu chuyện gi ý sau bài Tin Mừng hôm nay: Anh kỹ sư Lê tỏ ra kiên nhn với người tài xế? Anh thật đáng khen vì biết tìm cách khữuyến khích nàng trở về với chồng? Bạn có ý kiến khác?
2. Bạn hiểu thế nào khi nghe nói: "Môn đệ là người không chỉ theo Chúa vác thập giá, nhưng vác thập giá mình mà theo Chúa>"? "Phải nhận lấy thập giá Chúa giao thay vì tạo nên thập giá riêng cho mình"? "Chính vì Phêrô đã sám hối nên ông biết cách giúp ba ngàn người sám hối và chịu phép Rửa ngày lễ Ngũ Tuần"? Bạn có ý kiến khác?
------------------------------
Bài đọc 1: Jer 20, 7-9
Bài đọc 2: Rm 12, 1-2
Tin mừng: Mt 16, 22-27
Có lẽ không mấy ai trong chúng ta thích nói đến thập giá, và nếu có nói đến thì cũng là để than thở: -A81
Có lẽ không mấy ai trong chúng ta thích nói đến thập giá, và nếu có nói đến thì cũng là để than thở: “Sao mà thập giá của tôi nặng nề thế!”. Vâng, thập giá quả là đáng sợ. Hình phạt thập giá là một khổ hình nặng nề và ô nhục nhất dành cho các phạm nhân thời Chúa Giêsu. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corinthô cũng đã nói, thập giá chính là: “cớ vấp phạm cho người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại” (1 Cr 1, 23), nhưng thánh nhân cũng đã xác tín: “Lời giảng Thập giá, đối với những kẻ đang hư đi, là một sự điên rồ; còn đối với chúng ta, những người đang ở trên đường cứu thoát, lại là quyền năng của Thiên Chúa.” (1 Cr 1, 18). Và hôm nay, Đức Giêsu lại khẳng định: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Điều đó, cho thấy, nếu muốn trở thành người môn đệ đích thực của Đức Giêsu, chúng ta không thể đi con đường nào khác hơn con đường thập giá, con đường mà Đức Giêsu, vị Thầy của chúng ta đã đi.
Do đó, trong giờ chia sẻ hôm nay, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em tìm hiểu đôi nét về con đường thập giá của Đức Kitô.
1. CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ CỦA ĐỨC GIÊSU :
Ngay sau lời tuyên tín của thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” mà chúng ta vừa nghe trong tuần vừa qua. Hôm nay, Tin mừng tiếp tục thuật lại lời Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn sắp tới của Ngài. Khi loan báo điều này, Đức Giêsu muốn đánh tan ảo tưởng cũng như những suy nghĩ sai lạc của các tông đồ về sứ mạng của Ngài. Ngài đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, chứ không là một Messia Quân Vương giải thoát dân Israel về mặt chính trị.
Và để làm điều đó, Ngài phải đi con đường thập giá. Đó là con đường của sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha cho dù phải chịu đau khổ, sỉ nhục. Ngài nhắc nhở Phêrô: “Con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. Tuy nhiên, thập giá không là cùng đích của Chúa Giêsu, nghĩa là Đức Giêsu không tìm đến cái chết, nhưng là ngang qua cái chết để đạt đến một sự sống mới trong Thiên Chúa như lời Ngài quả quyết: “ngày thứ ba thì sống lại”. Chính nhờ tình yêu mến nồng nàn, lòng vâng phục tuyệt đối, cùng với sự khiêm hạ thẳm sâu, Đức Giêsu đã biến thập giá, một công cụ của hình phạt trở thành Thánh giá, một biểu tượng của ơn cứu độ.
Như thế, con đường thập giá, một con đường xem ra thất bại trước mắt người đời, nhưng lại là con đường đưa tới sự sống vĩnh cửu. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta cùng đi vào con đường này để nhận được sự sống đó.
2. LỜI MỜI GỌI ĐI CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ CỦA CHÚA GIÊSU :
Sau khi đã cho Phêrô thấy rõ ý tưởng của ông chẳng phải là ý tưởng của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã lên tiếng mời gọi chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Mời gọi chúng ta theo Ngài, Đức Giêsu đã không hứa cho chúng ta giàu sang phú quý, hay danh vọng, nhưng là mời gọi “vác thập giá mà theo Thầy”. Một lời mời gọi xem ra chẳng thích hợp chút nào với con người thực dụng hôm nay, nhưng lại là một chân lý vĩnh cửu.
Thật vậy, con đường thập giá là con đường ô nhục, khờ dại trước mắt người đời. Hay nói theo cách nói của con người hôm nay, đó là con đường của những người không “cù lần”, thì cũng “man man”. Bước đi theo con đường thập giá là chấp nhận việc đi ngược với mọi lề thói suy nghĩ của mọi người. Vì thế, người môn đệ của Chúa đôi khi cảm thấy thật lẻ loi, cô đơn. Ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc một đã cảm nghiệm thật sâu sắc điều này khi ông nói: “Suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi... Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày.”. Dưới áp lực của cuộc sống, và sức nặng của thập giá, người môn đệ cũng có lúc chao đảo như muốn buông xuôi tất cả. Trong đời sống của mình, chắc cũng có lần chúng ta có cùng tâm sự với ngôn sứ Giêrêmia: “Tôi đã nói rằng: “Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa”.
Quả thật, với sức riêng mình, chúng ta không thể vác nổi thập giá. Thế nhưng, với ơn Chúa, chúng ta sẽ có thể đi trọn con đường thập giá như lời tạ ơn của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: “Chúa đã ra tay trợ phù tôi, để tôi được hoan hỷ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn tôi bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người tôi” (Tv 62, 8-9).
Ngày hôm nay, có lẽ không ai trong chúng ta phải đưa vai ra vác một khúc gỗ thập giá, nhưng Thập giá của chúng ta hôm nay, chính là việc bổn phận hàng ngày. Khi chúng ta chấp nhận người khác làm phiền, làm mất giờ của chúng ta, những khi chúng ta bị hiểu lầm, chống đối…Thập giá đó còn là gánh nặng trong đời sống gia đình: thập giá có thể là một người chồng say sưa, là một người vợ lắm điều, là đứa con khó dạy. Thập giá cũng còn là công việc làm ăn thất bại thua lỗ. Thập giá đó còn là việc rớt một kỳ thi, là trắc trở trong đường tình duyên… và còn nhiều, nhiều nữa. Nhưng trong hết mọi sự, chúng ta hãy kiên trì phó thác cho Chúa, bởi vì Ngài đã hứa: “Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm” (Mt 16, 27). Đồng thời, chúng ta cũng hãy vác đỡ thập giá cho nhau bằng sự cảm thông, nâng đỡ trong cuộc sống hàng ngày.
Đức Giêsu đã đi con đường thập giá và đã trở nên hiến tế đẹp lòng Chúa Cha, đồng thời đem lại ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Do đó, khi đi con đường thập giá của mình chính là lúc chúng ta theo chân Đức Kitô, hiến thân mình làm của lễ dâng lên Thiên Chúa như lời thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12, 1a). Không những thế, thánh nhân còn khẳng định: “Đó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm.”(Rm 12, 1b).
KẾT :
“Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo theo Thầy”
Kính thưa quý OBACE. lời mời gọi này của Chúa Giêsu không chỉ được gởi đến cho các tông đồ cách đây hơn 2000 năm, nhưng còn là một lời mời gọi được gởi đến cho từng người chúng ta, đang hiện diện nơi đây. Hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi từng người chúng ta vác thập giá mình mà theo Chúa. Ý thức sự giới hạn và yếu đuối của mình, giờ đây hướng về Thánh Thể, chúng ta xin Chúa ban ơn trợ lực để chúng ta có đủ can đảm gánh lấy thập giá đời mình, bằng cách chu toàn những việc bổn phận hàng ngày. Ngõ hầu, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta cũng được sống lại vinh quang với Chúa trong Nước của Ngài. Amen.
Lm Trần Thanh Sơn
------------------------------
- Lm Nguyễn Bình An
Mt 16,21-27
Ráng tu đi cháu, ở đời khổ lắm là lời khữuyên bình dân, vô thưởng vô phạt và nhạt nhẽo của:TN 22-A82
Ráng tu đi cháu, ở đời khổ lắm là lời khữuyên bình dân, vô thưởng vô phạt và nhạt nhẽo của những người không hiểu và không sống đời tu. Theo nghĩa tổng hp, thì tất cả mọi tín hữu đang cùng tiến về trời, đang tu thân luyện đức, đang từ bỏ đam mê và tật xấu. Nghĩa là tất cả đang cùng tu thân tích đức theo học thữuyết của Chúa Kitô. Nhưng theo nghĩa đặc thữù, thì tu là từ giã gia đình, bỏ vinh hoa phúc quí, xa lánh chốn phồn hoa, đàng điếm và sa đoạ. Nhất là lấy kinh nguyện, hãm mình, hy sinh, chiêm niệm và tường cao cổng kín làm phương tiện để hướng thưng, diệt dục và chữuẩn bị cho sứ mệnh hiến dâng. Sau thời gian khổ luyện và đắc đạo, giáo sĩ và tu sĩ đưc sai vào đời. Bước chân khiêm tốn nhưng vng mạnh. Tâm lòng bỡ ngỡ, nhưng tín thác. Với mọi người họ trở thành anh chị em. Trong cộng đồng tín hữu, họ là tôi tớ, những kẻ đến để phục vụ, chứ không phải để đưc phục vụ. Gia dân Chúa, họ nêu cao niềm tin và nhân đức. Cùng dân Chúa, họ không ngừng tung gieo tin mừng cứu độ. Là chữủ chiên, họ khữuyên bảo, sửa sai, uốn nắn, bảo vệ, ban phát và phục vụ.Khi đưc hỏi ý kiến và bình phm về đời tu tổng hp và đặc thữù nói trên, tiền nhân đã kết luận thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu ch, thứ ba tu chữùa. Tiền nhân đã xếp đời tu đặc thữù vào hạng chót của nấc thang giá trị. Tu ch do hoàn cảnh kinh tế tạo nên. Tu chữùa do truyền thống tôn giáo hình thành. Tu tại gia là do ý định muôn đời của Thiên Chúa. Bởi vậy, tuy không nắm vai trò lãnh đạo, nhưng tu tại gia là nguyên nhân và cùng đích của sự hưng suy vật chất và thiêng liêng. Đời con người bắt đầu và kết thữúc trong khữuôn viên gia đình. Gia đình tạo nên những vĩ nhân, cung cấp các lãnh tụ, hỗ tr các chương trình truyền giáo và hoàn thành những công trình kiến thiết và xây cất. Sự hy sinh cao cả, trường kỳ và vô vị li này đã không đưc đáp đền đúng mức, đôi khi còn bị bạc đãi và bị cướp công.Truyện kể rằng một vị giáo hoàng qua đời, bước đến cửa thiên đàng. Thánh Phêrô nói: Xin chờ một chữút. Một giám mục mũ gậy tiến vào, cũng nhận đưc dấu xin chờ. Một n tu xinh đẹp, vui vẻ hoạt bát bị chận lại với dấu xin chờ đó. Bỗng một cụ già mặc cảm, lom khom tiến đến, thánh Phêrô mỉm cười vào đi con, Chúa đang chờ trong đó! Ba vị đến trước thắc mắc, thì thánh Phêrô đáp trên đời, các con có tiếng từ bỏ, nhưng lại đưc ưu đãi, kính trọng và chiều chữuộng. Các con có chương trình xây cất thánh đường nguy nga, trường ốc đồ sộ, nhưng cũng là công của người khác. Đêm các con ngủ thẳng giấc. Ngày các con ăn trắng mặc trơn. Tay các con không chai, lưng các con không còm, mặt các không hằn vết đau, tuy có tiếng hy sinh nhưng chưa thực tế. Còn cụ già đó, cả đời hy sinh nhn nhữục, sinh dưỡng và giáo dục con cháu. Rộng rãi thi ân với người nghèo. Đưa vai gánh vác, hỗ tr các chương trình trong Giáo hội. Đêm bị con cháu phiền phức. Ngày bị bạn đời dằn vặt day diết. Đời không thưởng công cân xứng cho cụ. Bây giờ cụ ưu tiên vào thiên quốc, vì gia sản cụ tích tồn rất to lớn trong nhà trời.Tước hiệu tông đồ vì thế phải trả bằng một giá rất cao. Phải trầy da, sứt thịt và đau lòng tột độ. Dù tổng hp hay đặc thữù, tất cả đều phải gieo trong lệ sầu, vừa gieo vừa khóc. Giêrêmia cảm nghiệm cái đau, cái bất hạnh và cái ý muốn bỏ cuộc, phá ngang đã nhem nhữúm trong lòng. Nhưng tình Chúa nung nấu và thôi thữúc hồn ông. Ông không thể phế mặc và trốn chạy thiên mệnh. Ông dài cổ và bỏng họng truyền rao Lời Chúa, dù tận đáy lòng ông thất vọng, vì không ai chịu nghe. Chúa Kitô qua dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-8) và tá điều (Mt 12,1-2) đã mô tả tâm tình hờ hng, lạnh nhạt và bất lương của nhân loại trước vấn đề sống chết. Đồng thời Chúa khích lệ các tín hữu hãy chấp nhận thập giá và sẵn sàng hy sinh, chữuẩn bị cho ơn cứu độ và vinh phúc Chúa thương ban.Chúng ta nghĩ sao khi nhữngn đứa con trời đánh thánh vật từng đưc nâng niu, bồng bế, chiều chữuộng, nay quên cảnh gieo trong nước mắt để đến khi nó lớn, nó quyện nhau đi. Thánh giá như những sao quả tạ bổ xuống đầu phữụ mu. Khiến tò vò ngồi khóc ỉ i, nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đuờng nào? Thánh giá này thật quá lớn. Từ bỏ này thật không tưởng nổi. Nhưng đây là thực cảnh của đời tu tại gia. Đừng s, cũng đừng thất vọng. Tín hữu cứ trổng, cứ tưới, cứ hy sinh, cứ vác thập tự. Đúng thời điểm Chúa sẽ cho cây mọc lên và sinh hoa trái thơm ngon. Ngày ấy chúng ta sẽ miệng vui ca, với những bông vàng nặng chĩu và thơm hồng.
Lm Nguyễn Bình An
--------------------------------------
- Lm Augustine S.J.
Trước một cử toạ đông người làm nên dân thành phố của Đức Maria, hai anh chị Phước: TN 22-A83
Trước một cử toạ đông người làm nên dân thành phố của Đức Maria, hai anh chị Phước và Nhường thành thật chia sẻ với mọi người về kinh nghiệm sống Tin Mừng. Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình (Mt 16,24) Chị Nhường (Nunzia) bắt đầu: Qua nhiều năm, v chồng chúng tôi đã cố gắng sống lý tưởng yêu thương và hiệp nhất gia nhau. Quả thật, chúng tôi đã trải qua nhiều cuộc đụng chạm đòi phải chết đi cho những ước ao riêng tư, nên cũng có nhiều nước mắt tuôn trào. Ngưc lại, chúng tôi cũng đưc Chúa ban nhiều quà tặng và ân sủng. Năm 1986 hoàn cảnh kinh tế chính trị tại Phi Luật Tân tồi tệ, buộc chúng tôi phải di cư sang Úc. Tại Úc, gia đình chúng tôi chân ướt chân ráo hết sức cực khổ. Riêng tôi đã phải đi làm ngay sau khi gởi cháu Giang (Giorgio) mới 2 tuổi, nơi nhà gi trẻ. Kế đến tôi có bầu nên phải nghỉ việc. Bé Nghinh (Gerry) sinh vào tháng 12, 1987. Khi bé đưc 6 tháng, tôi đã phải sớm gởi bé nơi nhà gi trẻ cùng với anh nó là Giang để tôi có thể đi làm trọn thời gian. V chồng chúng tôi hoàn toàn tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho gia đình chúng tôi. Chúa bày tỏ tình yêu của Người qua nhiều cách. Người luôn an bài mọi sự. Anh Phước (Fred) tiếp lời: Thời gian đó cháu gái Ngát (Gemma) của chúng tôi học trung học; ba đứa kế tiếp là Phaolô, Thữuỳ (Gracey) và Bình (Gabby) học ở tiểu học; còn hai đứa nhỏ nhất là Giang và Nghinh đưc gởi ở trung tâm gi trẻ. Mọi người trong gia đình đều bình an, hạnh phúc. Tháng ba năm 1989, chúng tôi bắt đầu ký quĩ để mua nhà mới mà chúng tôi sẽ đến ở tháng năm sau đó. Ai nấy trong gia đình đều háo hức chờ đi ngày các cháu nghỉ học để dọn sang nhà mới. Vào ngày 27 tháng tư năm ấy, đứa con thứ tư của chúng tôi là Giang (Giorgio), 5 tuổi, bắt đầu sốt rét và đi chảy. Chúng tôi cho cháu uống thuốc như thường lệ vì kể đó là chuyện chẳng trầm trọng. Nhưng sau vài ngày, thấy cháu không khá hơn, nên chúng tôi đưa cháu đi bác sĩ để coi tình trạng viêm dạ dày và đường ruột của cháu. Cháu tiếp tục uống thuốc. Tới 30 tháng tư là Chúa Nhật, bệnh tình cháu Giang ngày một xấu đi, nên cuối cùng chúng tôi quyết định đưa cháu tới Bệnh Viện Nhi Đồng Hoàng Gia. Ở đây trong vòng nửa giờ, một số bác sĩ lần lưt khám bệnh cháu Giang, kế đó họ họp lại ở góc phòng nói nhỏ với nhau điều gì đó. Chuyện các bác sĩ họp nhau lại báo hiệu về điều gì đó đang manh nha, chắc hẳn phải là điều trầm trọng. Nhưng các bác sĩ vn chưa cho chúng tôi biết vấn đề. Chừng 11 giờ tối, một trong các bác sĩ tự giới thiệu là chữuyên viên về máu, xin nói chuyện riêng với tôi là bố cháu Giang. Đó là lúc tôi hoảng s. Một cách điềm đạm và có phương pháp, bác sĩ cắt nghĩa cho tôi cuộc chẩn đoán khởi sự cho thấy cháu Giang có bệnh tăng bạch hữuyết cầu. Phải vác thập giá mình (Mt 16,24) Tôi bị choáng váng không làm sao lãnh hội đưc tin đó. Cháu Giang là một đứa bé sinh động và bén nhạy. Cháu không hề cho thấy có khả năng bị bệnh đó. Phải mất chữút thời gian để tôi lấy lại sực và can đảm gọi điện thoại về cho nhà tôi. Chúng tôi chỉ còn cách duy nhất là cầu nguyện, nhưng đó lại là việc làm khó khăn biết bao! Ngày hôm sau là ngày dài nhất: chúng tôi chờ kết quả của cuộc khám nghiệm trong lo âu. Nhưng chúng tôi cũng nhận ra đó là cơ hội tốt để đổi mới và củng cố tình hiệp nhất gia chúng tôi. Chúng tôi cố an ủi nhau và hứa sẽ nhận lấy kết quả của cuộc khám nghiệm như ý Chúa dành cho cháu Giang và cho chúng tôi, đồng thời nhận đó là dấu chỉ của tình yêu Chúa dành cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi cũng lập lại quyết tâm thực thi ý Chúa trong giây phữút hiện tại. Bác sĩ nhận thấy thái độ bình an của chúng tôi nên ông đã cho chúng tôi thấy rõ sự thật về bệnh tình cháu Giang. Ông cho biết cháu bị bệnh tăng bạch hữuyết cầu nghiêm trọng. Nhưng ông nói loại bệnh này vn có khả năng khỏi 100% nhưng qua quá trình khó khăn, có khi qua nhiều năm trước khi cháu đưc hoàn toàn khỏi bệnh. Ông nói thêm rằng cháu hiện giờ bị đau nặng vì căn bệnh đã phá vỡ phần lớn khả năng đề kháng của cơ thể và rất có thể cháu không sống nổi. Kế đó bác sĩ đã để chúng tôi một mình trong phòng. Bệnh của cháu Giang bắt đầu xuất hiện trên các báo Y Khoa ở Úc với những phức tạp mà các bệnh viện nhi đồng tốt nhất trên thế giới cũng đều gặp khó khăn để đối phó. Trong vòng ba tháng kế tiếp, cháu đã trải qua bốn cuộc giải phữu mà ba trong số đó, nguy hiểm tới tính mạng. Tại bệnh viện ai cũng thán phục sự kiên trì và lòng can đảm của cậu bé mới bốn tuổi. Thật là điều lạ lùng khi thấy ở tuổi nhỏ như vậy, bệnh nhân đã biết dâng lên Chúa Giêsu những đau khổ, nhọc nhằn mình chịu trên giường bệnh. Tại bệnh viện Nhi Đồng Hoàng Gia gương anh hữùng của cháu Giang vn còn truyền tụng qua hàng trăm giai thoại nho nhỏ. Hiện cháu thoát khỏi sự nguy hiểm của căn bệnh và đang cùng các bạn đuổi bắt mấy con cá nhỏ ở đập nước ngoài kia. Đó quả là cách Chúa biểu lộ tình yêu của Người cho chúng tôi. Chúng tôi tạ ơn Chúa vì nhiều năm sống trong Phong Trào Focolare đã giúp chúng tôi tin vào tình yêu Thiên Chúa. Cả các cháu nhỏ như cháu Giang, cũng học để dâng những đau khổ mình chịu cho Chúa Giêsu." Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ tìm đưc mạng sống ấy (Mt 16,25) Quả thật, lời chia sẻ của anh chị Phước và Nhường cho thấy trong cụ thể việc vác thập giá theo chân Chúa Giêsu (Mt 16,21) có thể đưc áp dụng như thế nào. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh việc Chúa Giêsu quyết định lên Giêrusalem theo kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Ý nghĩa của việc đó gắn liền với danh xưng Giêsu, có nghĩa là Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21). Người cứu họ không ngang qua khoảng cách nhưng bằng con đường tình yêu là con đường "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1,23) Vậy Đức Giêsu đã từ miền Galilê đến sống Giođan để xin ông Gioan Tẩy Già làm phép rửa cho mình (Mt 3,13). Khi ông Gioan lưỡng lự trước lời yêu cầu của Đức Giêsu, phản ứng của Người là "chúng ta nên làm như vậy để gi trọn đức công chính" (Mt 3,15). Quả thật việc Đức Giêsu chịu phép rửa cũng khó hiểu và khó chấp nhận như mầu nhiệm thập giá áp dụng với Người. Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới cắt nghĩa nổi và mới làm nên sự công chính. Đức Giêsu tuyên bố Người phải lên Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết. Những kẻ khiến Người chịu nhiều đau khổ và cuối cùng bị giết chết chính là các kỳ mục, các thưng tế và các kinh sư. Đó là những kẻ không chấp nhận cách Đức Giêsu hoà đồng với mọi người, nhận mọi người là anh em, bất kể họ là tội nhân hay thánh nhân, Do Thái hay ngoại bang, nam hay n, bệnh tật hay khỏe mạnh; mặc dầu giới lãnh đạo có thể tố cáo Đức Giêsu chữủ trương phá hữủy đền thờ rồi xây lại, hoặc tự xưng là Con Thiên Chúa (Mt 27,40). Về phần anh chị Phước - Nhường và gia đình, việc vác thập giá theo chân Chúa, chính là đảm nhận lấy thực tại như Chúa cho phép xảy ra. Quả thật, thực tại ấy đã bị đầu độc do hậu quả của tội. Riêng hoàn cảnh kinh tế chính trị Phi Luật Tân đã trở nên tồi tệ tới mức gia đình anh chị phải bồng bế con sang Úc kiếm việc làm, điều đó cho thấy phần nào sự trầm trọng của những bất công xã hội mà anh chị là nạn nhân. Nhưng anh chị luôn tin vào Tình Yêu Thiên Chúa, luôn quyết tâm thực thi ý Chúa trong giây phữút hiện tại, đồng thời giúp con cái, như trường hp cháu Giang, học để dâng những đau khổ mình chịu cho Chúa Giêsu. Đó quả là tấm gương sáng về việc vác thập giá theo chân Chúa Giêsu vậy. Một số câu hỏi gi ý 1. Bạn nghĩ gì về hoàn cảnh gia đình anh chị Phước phải di cư sang Úc kiếm việc làm mà vn: tin vào tình yêu Thiên Chúa? Quyết tâm thực thi ý Chúa trong giây phữút hiện tại? Canh tân sự hiệp nhất gia v chồng? 2. Bạn nghĩ Chúa Giêsu có ý nói gì khi tuyên bố Người phải lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ và bị giết chết? Ý định đó của Chúa có liên quan gì tới định mạng của bạn chăng?
Lm Augustine S.J.
--------------------------------------
(Mt 16, 13 - 20)
Thưa qúi vị,
Trong bài đọc hai của các tuần lễ trước, trích thơ thánh Phaolo gởi tín hữu thành Rôma, chúng ta: TN 22-A84
Trong bài đọc hai của các tuần lễ trước, trích thơ thánh Phaolo gởi tín hữu thành Rôma, chúng ta thấy thánh nhân rất lạc quan về ơn trở lại của dân tộc mình với Chúa Kitô. Thí dụ tuần vừa qua ông viết: “Quả thế khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì người không hề đổi ý”. Nghĩa là Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi dân tộc thánh nhân thì nhất định sẽ có ngày dân tộc ông trở lại nhận biết Chúa Kitô. Lòng tin này xưa nay Hội thánh vẫn trân trọng và cầu nguyện cho mau chóng thành hiện thực. Những linh hồn đạo đức trên khắp thế giới hằng cảm thấy thôi thúc hiệp ý với Hội thánh. Sẽ có ngày chúng ta hoan hỷ được chiêm ngắm Giáo hội viên mãn của Thiên Chúa trong Đức Kitô gồm dân ngoại, do thái, cùng hết thảy loài người, dâng lời ngợi khen Thiên Chúa. Hai câu đầu bài đọc 2 bày tỏ tinh thần hớn hở đó: “ Thưa anh em, sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào, quyết định của Ngài ai dò cho thấu! Đường lối của Ngài ai dõi cho được !” Các câu sau là câu hỏi, thánh nhân trích từ nguồn Thánh kinh khác, nhưng có thể đặt thành câu tán thán: “Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Thiên Chúa !” Vậy toàn bài có thể là câu hô hoán, thán phục. Vậy tại sao thánh nhân lại bị kích động mãnh liệt như vậy, khi giãi bày tâm tư của mình cho tín hữu thành Rôma?
Lần nữa chúng ta phải nhờ đến văn mạch của lá thơ. Từ những chương 9 đến 11, thánh nhân đang vật lộn với ý tưởng dân tộc Israel từ chối Chúa Giê-su. Họ đã tẩy chay giáo lý của Chúa, bắt bớ, hành hạ và cuối cùng giết chết Ngài. Rõ ràng dân Do thái đã từ chối ơn Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Trong khi dân ngoại lại chấp nhận nhờ lời giảng của Phaolô và các tông đồ? Thánh nhân đi đến kết luận Thiên Chúa đã dùng sự chối từ của dân Do thái làm cái cớ cho dân ngoại trở lại, để rồi cuối cùng Israel cũng trở lại. Đó là lý do thánh nhân hớn hở viết những dòng chữ trên, vì tin tưởng ơn trở lại của dân ngoại sẽ là nguyên do thúc đẩy dân tộc ông (11, 25). Câu hỏi là thánh Phaolô có lầm không? Xin thưa là không lầm được, bởi lẽ lòng thương xót của Thiên Chúa sẵn sàng cho dân ngoại thì cũng đầy dư cho người Do thái. Ngài không thiên vị ai, cho nên thánh nhân kết luận: Thiên Chúa có thể sử dụng những trái tim nổi loạn để đưa đến kết thúc tốt lành, tức đồng bào ông cuối cùng sẽ nhận biết Chúa Kitô. Suy nghĩ đến đây lòng trí thánh nhân tràn đầy hy vọng và vì thế tâm thần bị kích động mạnh: “Quyết định của Người ai dò cho thấu; đường lối Người ai theo dõi được!” Chúng ta hãy hiệp lòng hy vọng với thánh nhân và cầu nguyện xin ơn trở lại cho dân tộc Do thái, những người anh cả trong niềm tin vào Thiên Chúa. Họ từ chối không phải Thiên Chúa, nhưng Đức Kitô Đấng cứu thế (Messia) mà họ hàng mong đợi. Đối với thánh Phaolô sự khước từ đó không phải vĩnh viễn. Nó là cơ hội Thiên Chúa với tới dân ngoại, sau dân ngoại đến lượt người Do thái, bởi lẽ Ngài vẫn tiếp tục trung tín với giao ươc, ôm ấp Israel trong vòng tay thương xót của mình: “ Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là một phần dân Israel đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ, như vậy toàn thể Israel sẽ được cứu độ, như có lời chép rằng: “ Từ núi Sion, vị cứu tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ những điều vô đạo khỏi nhà Giacop. Đó là giao ước của Ta với chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng” (11, 25-26). Thánh Phaolô hô lớn ngợi kken Thiên Chúa vì ngộ ra rằng Thiên Chúa có khả năng biến đổi sự bất tuân phục của dân Do thái thành cơ hội của ơn thánh. Nhiều tác giả đạo đức trích dẫn đoạn thánh kinh này để khích lệ tín hữu kiên nhẫn với chính mình và tha nhân, tức không nên ngã lòng về một ai, dầu tội lỗi đến đâu. Bất cứ người tín hữu nào cũng từng được chứng kiến nhiều trường hợp ăn năn thống hối sau thời gian dài bỏ Chúa. Có những tội nhân suốt đời xa lánh Chúa, nhưng cuối cùng vẫn được Chúa dẫn đưa về với Ngài. Thánh Phaolô tuyên bố: “Ở đâu càng nhiều tội lỗi thì ở đó càng nhiều ơn thánh.” Quả thực sự kiên trì của ơn thánh Chúa vượt xa sự ương ngạnh của các linh hồn bất hạnh. Chúng ta luôn luôn có hy vọng cho mỗi tội nhân, ngay cả cho chính mình. Vậy đừng nên tuyệt vọng về ai cả.
Chứng kiến tinh thần lạc quan của thánh Phaolô về dân tộc mình, chúng ta không có quyền hoặc lý do nào gán cho hoàn cảnh của ai là tuyệt vọng. Trái đất, ngay cả Giáo hội là hỗn hợp của ơn thánh và tội lỗi, sức mạnh và yếu đuối, hy vọng và thất vọng, nhiệt tâm và lạnh nhạt, dấn thân và ích kỷ. Không thể tách rời, chọn một bên và bỏ bên kia. Thánh Phaolô viết thơ gởi giáo đoàn Roma gồm người Do thái và dân ngoại, khi nghe đọc thơ, họ nhận ra bản thân là điểm đến của ơn Đức Chúa Trời, bất kể tình trạng, nguồn gốc, sắc tộc là thế nào! Như vậy không nhóm nào, cá nhân nào có ưu tiên hơn ai! Không ai được quyền đóng cửa trời đối với người khác. Mà nếu có liều gan đóng cửa thì Đức Chúa Trời vẫn mở ra để ban ơn cứu độ cho muôn dân. Nơi khác cũng trong lá thơ này, thánh nhân tuyên bố: “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỉ lực, hiện tại hay tương lai, bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loại thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta.” (8, 39). Đó là lý do thánh nhân có tinh thần hớn hở trong bài đọc 2 của Chúa Nhật hôm nay. Thánh nhân còn thẳng thắn xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý” (11, 29). Liệu chúng ta có đức tin vững mạnh như ông mà xác nhận ơn thánh Chúa ban, ngõ hầu sống đúng nội dung của ơn thánh đó? Chẳng ai can đảm nhận mình thiếu xót, nhưng tôi xin đơn cử trường hợp chung của Giáo hội trước Công đồng Vaticanô II. Thời ấy chúng ta ít được đọc Thánh kính và trẻ con như chúng tôi lại càng không cần thuộc lòng những câu căn bản, có chăng chỉ một hai câu gọi là lấy lệ thí dụ: Phêrô con là đá…, Phêrô con có yêu mến Thầy không? Cũng dễ hiểu, là bởi vì thời ấy, Giáo hội đang trong tình trạng “tự vệ” chống lại anh em Tin lành lạc giáo, thuyết tân thời khoa học…Chúng ta cần học những câu có tính chất bảo vệ Hội thánh, bảo vệ ơn vô ngộ, tính đứng đầu của Ngai toà Phêrô ở Rôma. Đáng tiếc thái độ loại trừ ấy của phần đông giáo sĩ, giáo dân. Nhưng tạ ơn Chúa thời ấy đã qua. Chúng ta cầu nguyện để phong trào đại kết của Vatican II được ngày thêm rộng mở, không bị thu hẹp lại mặc dầu một số người vẫn mơ ước trở về thới xưa cũ.
Xin chuyển sang bài đọc 3 với lời xác nhận Chúa Giê-su ban cho Phêrô: “Con là đá tảng, trên tảng đá này Thày sẽ xây dựng hội thánh của thầy”. Thánh Mattheo viết bài Phúc Âm này phỏng gần 30 năm sau cái chết của Chúa Giê-su trên Thập giá. Người ta còn giả thiết cả sau khi Thánh Phêrô tử đạo vì đức tin. Chẳng có bằng cớ nào chứng minh thời gian chính xác. Một điều chắc chắn là thánh Mattheo đặt Phêrô làm phát ngôn viên cho các tín hữu tiên khởi: “Thầy là Đức Kitô con Chúa Trời hằng sống”. Và thánh nhân đã đổ máu ra làm chứng cho lời tuyên tín của mình! Theo văn mạch Phúc âm thì các tông đồ và Chúa Giê-su đang trên hành trình đi lên Giêrusalem. Dọc đường họ để lộ hết chân tướng “nhân loại” của mình: Nóng giận, tranh nhau địa vị, ham hố chức quyền. Riêng thánh Phêrô ở giai đoạn này chưa sẵn sàng chết vì thày, ông còn hăng hái lắm. Các ông chỉ sẵn lòng chịu thương khó khi kinh nghiệm Chúa sống lại. Lời tuyên xưng của Phêrô, như vậy, là một bước nhẩy vọt trước khi ông và các tín hữu tiên khởi gặp Chúa sống lại. Ở giai đoạn này, ông mới khởi sự theo Chúa thì quả là một điều lạ. Tuy nhiên, sự lạ vẫn có thể xẩy ra, cho nên để trả lời câu hỏi của Chúa: “Người ta bảo Thầy là ai?” Phêrô cần nguồn ơn soi sáng cực kỳ mạnh mẽ! Nguồn ơn ấy đến từ đâu và như thế nào? Câu hỏi là căn bản cho đời sống thiêng liêng các tín hữu, nhất là các tu sĩ nam nữ, ngõ hầu họ ăn ở xứng hợp với đức tin của mình. Chắc chắn Phêrô không trả lời theo suy nghĩ tự nhiên. Các bạn ông đã làm việc ấy: “ kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Elia, người khác lại cho là Gieremia hay một trong những vị ngôn sứ.” Họ không thể đi xa hơn nhận thức nhân loại. Cho nên Chúa Giê-su tuyên bố đức tin của Phêrô là ơn bởi trời, có nguồn gốc từ Thiên Chúa, một mặc khải vĩ đại cho loài người. Nó sẽ là nền tảng vững chắc để Chúa xây dựng Hội thánh. Phêrô tuyên xưng thay cho nhân loại tin vào Đức Kitô Phục sinh! Đức tin ấy ngày nay vẫn tồn tại trong Giáo hội và mỗi linh hồn tín hữu. Chúng ta tuyên tín theo như lòng tin của Phêrô, một ơn soi sáng bởi trời. Xin đừng coi thường lòng tin này mà chỉ đọc ngoài môi miệng, thuộc lòng theo công thức mà không chút xác tín trong thâm tâm, ấy là chưa kể phải sống theo niềm tin.
Thánh Mattheo xác định rõ vị trí của biến cố hôm nay là Caesarea Philiphe, trước kia là Paneas, có chiếc hang động linh thiêng kính thần Pan. Theo Phêrô, Chúa Giê-su thay thế các thần dân ngoại. Chính trong miền đất ngoại giáo mà Chúa Giê-su hỏi các tông đồ về căn cước của mình, chứ không phải ở những nơi tràn ngập bầu khí tôn nghiêm. Điều này nhắc nhở chúng ta bổn phận tuyên xưng danh Chúa trong những môi trường thù nghịch hay ngoại giáo. Sự đáp trả của chúng ta không chỉ bằng lời nói, công thức, tín điều hay học thuyết mà còn bằng chính cuộc đời mình. Nghĩa là chúng ta sống chết bằng niềm tin vào Chúa Giê-su. Niềm tin của Phêrô ban cho ông sức mạnh kiên trì theo Chúa đến cùng. Truyện kể ông cũng bị đóng đanh như Chúa nhưng xin đóng đanh ngược, bởi không xứng đáng giống hệt như Đức Kitô, Chúa và Thầy của mình.
Tuy nhiên điểm quan trọng hơn là ông đã hoàn toàn sống theo gương Chúa trong cuộc đời hằng ngày, chết cho chính mình để có thể làm môn đệ Chúa đến cùng. Chúng ta không hồ nghi sự kiện, bởi nó là nếp sống chung của các tông đồ sau khi đã chứng kiến Chúa Phục sinh. Chính trong đức tin của nếp sống này mà Chúa Kitô thiết lập Hội thánh Ngài. Chúng ta nên coi lại mình sống làm sao trước tôn nhan Thiên Chúa? Có đúng xứng đáng để Chúa Giê-su xây dựng Giáo hội cho thế hệ hiện tại?
Ở giai đoạn này của câu truyện, các tông đồ đang được Chúa huấn luyện. Họ chưa thực sự “ra trường” nhưng còn đang được đào tạo, chưa đầy đủ tư cách làm môn đệ Chúa. Chỉ sau khi Chúa sống lại, được Thánh Thần biến đổi họ mới trở nến “xứng đáng” theo Thầy. Chúng ta gặp được nhiều lần trong Phúc âm họ bày tỏ những yếu kém của mình. Họ chẳng hiểu lời Thày nói, bối rối hay cứng lòng. Tuần tới chúng tôi sẽ khai triển rộng hơn về vấn đề này. Còn hiện thời chúng ta tập trung vào Phêrô. Ông thẳng thắn phát ngôn thay cho các bạn, nhiên hậu, cho toàn thể loài người. Khi Chúa Giê-su nói với các tông đồ Ngài phải đi Gierusalem và bị giết ở đó (16, 21) thì Phêrô phản ứng liền: “Xin Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”. Ông đã bày tỏ não trạng nhân loại của mình, tức mặt trái của ý tưởng theo Chúa. Ông không hiểu chi hết về chương trình Thiên Chúa, mà chỉ theo chủ chương loài người, cho nên Chúa Giê-su khiển trách không tiếc lời: “ Quỉ sứ, lui lại đằng sau Thày, anh cản lối Thày.” Câu này chẳng ai dám cho trẻ con học thuộc lòng trong các lớp giáo lý! Sự thực thì chúng ta cùng với cộng đoàn tiên khởi và thánh Phêrô vui mừng cử hành nội dung “xác thịt và máu huyết” không cho biết được mà Cha Thày Đấng ngự trên Trời mạc khải”: Thày là Đức Kitô con Chúa Trời hàng sống, chúng ta nên suy nghĩ đức tin trong câu nói này và áp dụng vào cuộc sống mình, chống lại thế giới dung dưỡng xác thịt, thói xấu và cá nhân chủ nghĩa. Họ đang lập thành lực lượng hoả ngục kháng cự Hội thánh của Thiên Chúa.
Mạc khải đã mở trí, mở lòng cho Phêrô tuyên xưng “ Thày là Đức Kitô con Chúa Trời hàng sống” cũng là mạc khải của chúng ta, khi phải đương đầu với các cửa hoả ngục. Trên những cửa đó, người ta viết: Yếm thế, khi tiếp xúc với tha nhân; Tuyệt vọng, khi đối phó với các khó khăn lớn: nghèo đói, chiến tranh; Ham muốn vô độ, khi thu tích tài sản, bất chấp lương tâm và quyền lợi người khác; Vô cảm, trước những quằn quại, đau thương của nhân loại; Hèn nhát, khi đức tin gặp thử thách gian nan; A dua đồng thuận, khi cần đến tiếng nói ngôn sứ, chống lại lạm dụng và băng hoại luân lý; Nguội lạnh, phá hoại các sinh hoạt tôn giáo. Độc tài chuyên chính, áp bức bóc lột và vô số dòng chữ tương tự. Một đức tin vững như bàn thạch đã được ban tặng cho các tín hữu và lòng tín thác vào Đấng đã dạy bảo Phêrô: “Thày là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, cho phép chúng ta tin chắc dù cửa hoả ngục với tất cả các tàng hình của nó sẽ không thể nào đánh bại Giáo hội và những tâm hồn lành thánh. Amen.
Lm Jude Siciliano, OP
--------------------------------------
- Lm D. Nguyễn Ngọc Long
Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16, 21-27
Đó đây đâu ta cũng nhìn thấy dấu vết của người hay của đoàn vật, , của thiên nhiên còn để: TN 22-A85
Đó đây đâu ta cũng nhìn thấy dấu vết của người hay của đoàn vật, của thiên nhiên còn để lại. Sau những trận cuồng phong tàn phá của thiên tai, của chiến tranh, cũng để lại những dấu vết kinh hoàng. Đời sống của mỗi người dù già hay trẻ, nam hay n giới, có cuộc sống may mắn hay kém may mắn, có địa vị lớn hay nhỏ, họ đều để lại những dấu vết...Theo dấu vết để lại, người ta tìm ra nguyên nhân, tìm ra cội nguồn, và từ đó lần tìm ra ý nghĩa, tìm ra phương hướng dn đường chỉ lối.Tin theo Chúa, chúng ta không nhìn thấy Chúa, nhưng nhìn thấy những dấu vết của Ngài còn để lại. Dấu vết Ngài ẩn hiện trong thiên nhiên, nơi mỗi con người, và trong Kinh Thánh. Tin theo gắn bó với Ngài, chúng ta muốn lần theo chân dấu vết của Ngài. Kinh Thánh thữuật lại đời sống và lời giảng dạy của Chúa Giêsu khi Ngài còn sống trên trần gian. Những dấu vết đó đều quy tụ trong giới luật yêu thương. Yêu thương là gắn bó, là cho đi.Ai cũng biết cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc đời hy sinh vì hạnh phúc, vì phần tâm linh cho con người. Hình ảnh lòng hy sinh tận tụy cao cả của Cha Mẹ cho con cái phản chiếu lòng hy sinh đó.Chúa Giêsu kêu gọi những người đi theo dấu chân Ngài sống hy sinh vác thánh giá. Nói đến hy sinh như cuộc sống của Chúa Giêsu, hầu như ai cũng s và hỏi: Hy sinh là cái gì? Tại sao lại phải sống hy sinh và hy sinh mang lại điều gì?Câu trả lời gắn liền với cuộc sống cụ thể của mỗi người và tùy theo mỗi hoàn cảnh sống. Mỗi người đều đã có kinh nghiệm bản thân trong đời sống gia đình hay đi tu, trong đời sống làm việc, học hành để đạt kết quả mong muốn hay điều phải đạt tới. Cây truyện ngụ ngôn dưới đây nói lên phần nào ý nghĩa của sự hy sinh. Tôi xin mời các Bạn cùng đọc và cùng suy niệm:"Vào một buổi trưa hè oi ả, đức Vua thanh thản dạo quanh khữu vườn thưng uyển. Trong khữu vườn có muôn ngàn hoa thơm cỏ lạ tuyệt đẹp... Nhưng đức Vua bổng để ý tới một cây tre cao lớn, ẩn khữuất trong góc vườn. Qua bao năm dầm mưa giãi nắng, tre đã già và cật tre cũng đã dẻo dai. Đưc đức Vua chiếu cố, tre bỗng thấy lòng mình hạnh phúc lạ thường.Nhưng vào một ngày nọ, ngày trọng đại nhất trong đời cây tre - thực ra tre sống trên đời là để chờ ngày đó - Đức Vua tiến lại gần tre, ngẩng lên, giọng thành khẩn nói với tre: "Tre ơi! ta cần ngươi!". Hớn hở tre thưa lại: "Tâu Đức Vua, xin cứ việc dùng con theo ý Ngài.!" Giọng thữuơng cảm, Đức Vua cắt nghĩa: "nhưng để xài đưc ngươi, buộc lòng ta phải chặt ngươi xuống!" Tre hoảng hồn kinh s: "Sao ngài có thể nhn tâm như thế đưc! Chính Ngài đã trồng con mà. Chính bàn tay Ngài ngày ngày đã vun xới con, để con thành thân cây cao nhất trong vườn. Con van Ngài, xin Ngài cứ việc dùng con, miễn đừng chặt con xuống!" Đức Vua phân trần: "Nhưng tre ơi! nếu không chặt ngươi xuống, làm sao ta có thể xử dụng ngươi đưc?"Nghe thế, cả khữu vườn yên lặng, gió cũng ngừng thổi. Sau giây phữút yên lặng nặng nề, tre cúi đầu thưa: "Nếu thế, xin Ngài cứ việc chặt con xuống!" Nhưng Đức Vua nói tiếp: "Trước khi chặt ngươi xuống, buộc lòng ta phải róc bớt cành lá của ngươi đi!" Tre rùng mình than thở: "Trời ơi, sao Ngài lại tàn phá dung nhan của con như vậy. Xin Ngài vui lòng gi nguyên cành lá lại cho con!" Nhưng Đức Vua phân trần: "Nếu không róc cành lá của ngươi, làm sao ta có thể sử dụng ngươi đưc?"Nghe thế, mặt trời tối sầm lại, các loài ong bướm trong vườn cũng hoảng hốt bay đi. Còn lại một mình tre đơn độc, giọng run rẩy tre thân thưa: "Nếu thế, xin Ngài cứ việc róc hết cành lá của con theo ý Ngài!" Đức Vua lại nói tiếp: "Nhưng để xài đưc ngươi, buộc lòng ta phải chẻ đôi ngươi ra và khoét tim óc của ngươi đi. Rất tiếc, nếu không làm thế, ta không sử dụng ngươi đưc!"Lần này tre ngất xỉu. Nhưng khi tỉnh lại, tre đã lấy hết chữút can đảm còn sót lại mà thì thào: "Thưa Ngài, Ngài đã dựng nên con, xin Ngài cứ việc dùng con như ý Ngài. Đầu con đây, tim óc con đây, chân tay con đây!"Thế là Đức Vua bắt tay ngay vào việc: phát bớt cành lá, chặt tre xuống, róc sạch, chẻ đôi, khoét hết tim óc bên trong và biến thân tre thành ống máng dn nước. Làm xong, Ngài đem ống máng đó đến gần một giòng suối trong xanh, khơi cho nước suối chẩy vào máng, dn nước tới một miếng đất hoang vu, khô chồi duy nhất còn sót lại trong khữu vườn thưng uyển.Sau đó ít lâu, người ta thấy có muôn ngàn hoa thơm cỏ lạ mọc lên trên miếng đất ấy. Như thế nhờ tre biết hiến mình hy sinh mà từ đó khữu vườn thưng uyển của Đức Vua mới nên tuyệt hảo, chẳng còn khữu đất nào là hoang vu như trước na." (Geschichte vom Bambus).
Lm D. Nguyễn Ngọc Long
--------------------------------------
- Sr Margareta Maria Hiền
Gr 20, 7-9, Rm 12, 1-2; Mt 16, 21-27
Cha Maurice Bertain sinh năm 1869, vốn là con trai một gia đình giầu có tại thữủ đô Paris: TN 22-A86
Cha Maurice Bertain sinh năm 1869, vốn là con trai một gia đình giầu có tại thữủ đô Paris nước Pháp. Sau khi tốt nghiệp trường Bách khoa, chàng trai hăng hái gia nhập binh chữủng hải quân, đi thực tập trên một chiếc tầu chiến với quân hàm trung úy. Khi cập bến Nagazaki của Nhật bản, anh tò mò tìm đường vào viếng thăm một ngôi nhà thờ của Dòng Phanxicô, trong đó có lưu gi một số hài cốt của các thánh tử đạo Dòng Phanxicô khi sang truyền giáo tại Nhật. Tâm hồn nhậy cảm của chàng trai đã bị đánh động, từ đó chàng cứ suy tư nghĩ ngi về đời sống của các nhà truyền giáo.Sau đó khi quay trở về Pháp, mãn hạn nghĩa vụ, thay vì xin tiếp tục theo binh nghiệp, chàng lại xin xuất ngũ và đi tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện Dòng Phanxicô ngay tại Paris. Cứ thế, thầy Maurice Bertain đã vưt qua giai đoạn Nhà Tập, khấn Dòng và theo đuổi các môn Thần học. Sau khi chịu chức linh mục, cha lập tức xin Bề trên cho đi phục vụ nhiều nơi như Canada, Nhật bản, Maroc...Thế rồi, vào năm 1929, cha đã đưc cử sang Việt Nam để thành lập Dòng Phanxicô khi vừa tròn 60 tuổi. Mặc dù gặp biết bao khó khăn do chiến tranh và tình trạng nghèo nàn lạc hậu, cha đã tận tụy đi khắp nơi trên đất nước Việt nam để gây dựng, để hình thành các gia đình Anh Em Hèn Mọn. Cha là một nhà tu hành thánh thiện, đồng thời còn là một kiến trúc sư tài ba, một nhà hoạt động xã hội xuất sắc. Các công trình vật chất cũng như tinh thần của cha ở Vinh, Thanh Hóa, Nha trang lần lưt đưc gây dựng trong suốt 30 năm dấn thân phục vụ không nghỉ ngơi đang lúc tuổi cha ngày một cao, sức tàn lực kiệt.Cha đã tạ thế ngày 8.7.1968 tại tu viện Phanxicô Nha Trang, hưởng thọ 99 tuổi, sau 71 năm khấn Dòng, trong đó đã có đến 39 năm phục vụ và hy sinh tại Việt Nam, quê hương yêu quý thứ hai của cha.Cha Maurice đã bỏ tất cả để lên đường theo tiếng gọi của Thiên Chúa và cha đã hội đủ điều kiện phải có để theo Đức Giêsu như Ngài đã nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo... còn ai liều mất mạng sống mình vì thầy, thì sẽ tìm đưc mạng sống ấy..." Phục vụ là luôn sẵn sàng ra đi không phân biệt nơi chốn, không tìm tiện nghi, không chọn dân tộc nào nhưng chỉ nhìn vào nhữu cầu, sự cần thiết để lên đường dù biết điều đó có thể nguy hại đến tính mạng, phải trải qua nhiều gian nguy. Nhưng con người tông đồ không lùi bước để đạt tới lý tưởng, để thực thi ý Chúa, để bước theo dấu chân của Thầy mình. Vì Lời Thầy chí thánh luôn văng vẳng bên tai, luôn thữúc giục trong tâm hồn.Phêrô xưa đã ngăn cản Chúa vì ông s sự nguy hiểm, s mất sự sống nhưng Chúa đã cảnh cáo ông với những lời mạnh mẽ: "Xatan lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người."Thế nào là tư tưởng của Thiên Chúa và đâu là tư tưởng của con người. Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy rõ sự khác biệt đó nếu chúng ta biết lắng nghe lời Ngài để hiểu, để cảm nghiệm đưc và nhờ đó sẽ tìm ra ý Thiên Chúa và quyết tâm thi hành. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết đón nhận lời cảnh giác của Chúa nơi thánh Phêrô như là lời Ngài nói với chính mỗi người để chúng ta luôn hăng say ra đi phục vụ và làm cho tình yêu của Thiên Chúa đưc lan tỏa khắp nơi.
NS Dân Chúa Âu Châu
--------------------------------
Mt 16, 21-28
Theo Chúa Giêsu, các môn đệ cứ tưởng họ sẽ được nhiều lợi lộc, nhiều đặc quyền đặc lợi. Do: TN 22-A87
Theo Chúa Giêsu, các môn đệ cứ tưởng họ sẽ được nhiều lợi lộc, nhiều đặc quyền đặc lợi. Do đó, đã có cuộc tranh luận gay gắt giữa các môn đệ về việc xem ai làm lớn, xem ai làm bé trong nội các của Chúa Giêsu. Cái trớ trêu của các môn đệ xem ra vẫn luẩn quẩn ở những việc thuộc về trần gian hơn là những việc thuộc Nước Trời. Phêrô đã nhanh nhảu tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống trong miền Xêsarê Philíp trước khi lên đường đi Giêrusalem. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã đặt cho Phêrô một tên mới, tượng trưng cho sứ mạng quan trọng Chúa trao cho Ông:” Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Tuy nhiên, trước lời loan báo của Chúa Giêsu về cuộc thống khổ của Người phải chịu. Phêrô và các môn đệ không hiểu gì về ý định của Thiên Chúa. Ông đã cản ngăn Chúa. Phêrô chưa biết con đường thập giá sẽ đưa Ông và nhân loại tới sự sống vĩnh cửu…
MỘT CON ĐƯỜNG. MỘT SỨ MẠNG : Chúa Giêsu đã bất ngờ nói với các môn đệ về ý định của Thiên Chúa Cha sau khi Ngài khen Phêrô đã tuyên xưng đức tin:” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Kitô đã xác quyết với Phêrô:” Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”( Mt 16, 17 ). Phêrô đáng được Chúa khen. Tuy nhiên đứng trước lời loan báo về cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu phải chịu theo ý của Thiên Chúa Cha. Phêrô và các môn đệ chưa làm sao hiểu nổi, chưa có thể chấp nhận, chưa cảm nghiệm được. Do đó, Phêrô cương quyết cản ngăn Chúa bằng lời dân dã, tự phát:” Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy phải chuyện ấy ! “( Mt 16, 22 ). Phêrô và các môn đệ nào có hiểu thế nào là con đường Thầy mình phải đi. Con đường ấy là con đường dẫn tới đồi Canvê, con đường thập giá:” Chúa phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.Đây là sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu: một sứ mạng tình yêu, sứ mạng cứu độ thế gian mà Chúa Cha trao phó cho Ngài. Chúa Giêsu phải thực hiện sứ mạng ấy ngang qua thập giá. Chỉ nơi thập giá mới có ơn cứu rỗi, chỉ nơi thập giá Chúa mới qui tụ toàn thể nhân loại lại với Ngài. Chúa vạch ra con đường. Chúa thực hiện một sứ mạng cao cả nhất của Thiên Chúa Cha. Chúa chỉ thực hiện được sứ mạng ấy qua thập giá. Chúa mời gọi Phêrô và các môn đệ cũng hãy vác thập giá để đi theo Người…
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ MỌI NGƯỜI ĐI THEO NGƯỜI: Phêrô can ngăn Chúa, Phêrô trách cứ Chúa. Đối lại Chúa nghiêm khắc khiển trách Phêrô. Sở dĩ Chúa Giêsu có thái độ nghiêm nghị, cương quyết như thế đối với Phêrô vì Phêrô bỗng trở thành người cản đường Chúa. Phêrô gợi ý cho Chúa một con đường theo ý của Ông, theo ý người đời, chứ không phải theo ý Thiên Chúa. Việc Phêrô cản đường Chúa làm chúng ta liên tưởng đến một Đấng cứu thế như kiểu người Do Thái mong đợi. Họ mong một Đấng cứu thế bách chiến bách thắng, đánh Đông dẹp Bắc, một Đấng Messia làm toàn những chuyện phi thường, những cuộc phô trương lực lượng.
Chúa Giêsu lại là một con người hoàn toàn khác với người ta tưởng, một vị Vua khiêm nhượng, hiền từ cưỡi trên mình lừa.Giờ đây Phêrô làm sống lại điều những người Do Thái mong chờ, Phêrô làm sống lại sự hiện diện của Satan, nhưng Chúa đã hoàn toàn thắng Satan như Chúa đã thắng sự cô đơn ở vườn cây dầu giữa lúc các môn đệ trung tín đều ngủ và đám đông đều lánh xa Người. Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả và thập giá là cái giá Chúa Giêsu phải trả để cứu độ nhân loại. Do đó, tất cả những ai muốn làm môn đệ của Chúa đều phải vác thập giá mà theo Người. Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại một mẫu mực. Người không cắt nghĩa về cội nguồn của khổ đau, nhưng Người đã đón nhận khổ đau và biến đau khổ thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá đã được Chúa biến thành biểu tượng của tình yêu. Đi theo Chúa là phải từ bỏ, vác thập giá của mình mà theo Người. Điều Chúa đòi hỏi Phêrô:” Chúa cũng đòi hỏi các môn đệ và nhân loại phải làm như vậy “. Chúa Giêsu quả quyết với các môn đệ và mọi người rằng:” Không có con đường nào khác để nhận ơn cứu độ ngoài thập giá của Người “ và ” cũng không có con đường nào dẫn tới sự sống ngoài con đường thập giá của Đức Kitô “.
Xin cho lời Chúa và sức sống của Chúa giúp chúng ta can đảm vượt thắng mọi sự mà theo chân Chúa Giêsu.
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
--------------------------------
Có câu chuyện kể như sau : Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm: TN 22-A88
Có câu chuyện kể như sau :
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.
Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.
Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
--------------------------------
Mt 16,21-27
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại. Nghe thế Phêrô: TN 22-A89
Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại. Nghe thế Phêrô vì đã ngăn cản Ngài. Sau khi quở trách Phêrô, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường Thập giá mà Ngài sắp đi cũng là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo : “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”
Khi giải thích ý nghĩa con đường thập giá ấy, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý : “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”.
B.... nẩy mầm.
1. “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo” : Chúa không ép tôi theo Ngài, Chúa không buộc tôi bỏ mình và vác thập giá. Ngài chỉ mời tôi thôi và cho tôi tự do. Nếu tôi muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi.
Nhưng vì thương tôi, nên Ngài cho biết những sự lợi hại : “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì ?”
2. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống (…) Đau khổ không là một đày đoạ mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn ("Mỗi ngày một tin vui")
3. Nơi nào có thập giá, nơi đó có Thiên Chúa.
4. Hai cách đi theo Chúa :
Chính Thánh Don Bosco đã tưởng tượng chuyện sau đây : Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi ; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan : “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế !”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.
Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô : “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã làm theo ý Chúa. (Chờ đợi Chúa)
5. “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy.” (Mt 16,25)
Thượng úy Tô Đức Thắng, người mới được đài truyền hình Vtv1 ca ngợi về lòng can đảm, hy sinh quên mình vì những người hàng xóm. Vừa thấy tên cướp có súng vượt rào vào nhà bà hàng xóm, anh đuổi theo không chút sợ hãi, đồng thời báo cho những công an khác. Anh đã bị thương vì trúng đạn. Anh đã quên đi sự an bình của mình để lo an bình cho người khác. Ngay lúc ấy, anh đã thể hiện trọn vẹn con người và phẩm chất của mình. Phẩm chất ấy, ai cũng phải trân trọng.
Chính lúc hủy mình ra không, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thế đó, là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã hủy mình vì Tình yêu, tình yêu với Cha và tình yêu với con người.
Lạy Chúa, xin dạy con hiểu được : Chính lúc quên mình là lúc con gặp lại được bản thân, vì khi cho đi là lúc con nhận lãnh. (Hosanna)
6. “Thánh giá là một dấu chỉ, một lời mời gọi và một mặc khải :
- Dấu chỉ rằng Chúa yêu thương ta
- Lời mời gọi ta hãy yêu thương như Chúa
- Và mặc khải rằng đã yêu thì nhất thiết phải chịu khổ” (Góp nhặt)
7. Mầm khác :
--------------------------------
Chúng ta vừa nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng: “ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình: TN 22-A90
Chúng ta vừa nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng: “ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy.” Rõ ràng: điều kiện để theo Chúa, để trở nên giống Chúa là phải vui lòng vác Thập giá, vui lòng chịu đau khổ vì Chúa.
Đang lúc Thánh Tôma Dụ (tử đạo ngày 26-11-1839, 56 tuổi) bị giam, bà mẹ của ông Giuse Hiền giả làm hành khất vào trong ngục thăm cha. Khi thấy Cha tiều tụy vì những cuộc tra tấn, bà nức nở khóc. Cha nói với bà: “Sức khỏe tôi tuy giảm sút, nhưng tôi còn có thể chịu đựng hơn nữa. Chúa chúng ta đã chịu bao cực hình để cứu chuộc nhân loại, tôi cũng sẵn lòng chịu những khốn khổ này để nên giống Chúa kitô phần nào.”
Ngày 20-5-1839, Cha Tôma Dụ vừa dâng Thánh lễ song ở nhà bà Inê Thu, được tin quan quân đã vây kín làng, biết không kịp đến nơi trú ẩn cách đó hơi xa, Cha bèn cải trang người làm vườn, sang nhà bên cạnh lúi húi ngồi nhổ cỏ. Lính đi ngang qua không biết, nhưng người chỉ điểm nhận ra được, hắn nói: “Đạo trưởng đấy”. Thế là Cha bị bắt và dẫn đến quan tổng đốc đang ngồi ở đình làng. Quan hỏi: “Ông là ai? Làm gì trong làng này?” Cha Tôma Dụ đáp: “Tôi là Linh mục đạo Công giáo, có nhiệm vụ coi sóc giáo dân ở đây.” Khi quan hỏi Cha Vọng ở đâu, thì Cha không nói, nên Cha truyền đánh 20 roi. Quan cho lục soát khắp người xem có tiền bạc giấy tờ gì không. Nhưng chỉ thấy có một chuỗi tràng hạt Mân Côi.
Các quan ở đấy tiếp tục tra vấn nhiều lần, khuyên dụ Cha đạp lên Thánh giá. Nhưng mặc hco những lời dụ dỗ hay dọa nạt, Cha Dụ vẫn cương quyết không xúc phạm đến Thập giá, và không cung khai điều gì hại đấn các tín hữu. Cha bị đánh đập tàn nhẫn nhiều lần, lần thứ nhất 90 roi, lần thứ hai 30 roi, lần klhác 20 roi và phải nghe những lời mắng nhiếc chế giễu của dân chúng tò mò đến xem.
Sau những vụ tra tấn, Cha Dụ bị tống giam, ban ngày mang gông xiềng, ban đêm bị cùm chân, thêm vào đó là chịu đói khát, nóng nực hôi tanh. Vị Tông đồ của Chúa chẳng những tỏ ra nhẫn nhục, mà còn vui vẻ coi đó là những cơ hội tốt, để bước theo chân h kitô tử nạn. Chứng nhân Giuse Hiền thuật lại chuyện mẹ của ông, giả làm hành khất vào tận ngục thăm Cha. Khi thấy Cha tiều tụy vì những cuộc tra tấn, bà nức nở khóc. Cha nói với bà: “Sức khỏe tôi tuy giảm sút, nhưng tôi còn có thể chịu đựng hơn nữa. Chúa chúng ta đã chịu bao cực hình để cứu chuộc nhân loại, tôi cũng sẵn lòng chịu những khốn khổ này để nên giống Chúa Kitô phần nào.”
Lần thứ hai bà vào thăm, Cha Dụ cho biết những khổ hình sau này Cha cảm thấy không đau như trước. Dường như Chúa đã giảm bớt sự đau khổ cho ta. Khi bà chào từ biệt Cha nói: “Tôi không biết ngày nào sẽ được hiến dâng mạng sống vì Chúa, có thể anh chị em không còn gặp tôi nữa. Bà hãy cầu nguyện nhiều, xin Chúa ban cho tôi ơn nhẫn nại chịu đựng tất cả những điều người ta gây cho tôi, để danh Chúa được cả sáng.”
Ngày 18 tháng 8 năm 1839, lính dẫn Cha Đaminh Xuyên tới trại giam chung với Cha Tôma Dụ (Coi Thánh Đaminh Xuyên).
Ngày 12-11-1839 hai bản án từ triều đình ra tới Nam định. Và ngày 26 là ngày hai Cha được dẫn đi xử, giữa hàng rào binh sĩ võ trang cùng voi ngựa. hai đấng tử đạo mang gông, đi bộ, dáng điệu thanh thản vui tươi, khiến đám đông hiếu kỳ đi theo phải bỡ ngỡ. Hai Cha vừa đi vừa cầu nguyện, không để ý tới những người vây chung quanh. Chỉ khi quan hỏi lần sau hết có muốn xuất giáo để được tha, thì hai Cha trả lời rằng: “Không” Rồi cứ tiếp tục cầu nguyện cho đến nơi xử gọi là Bảy Mẫu. Cha dụ bị trói vào cọc và bị xử chém đầu. Xác Thánh được chôn ngay nơi xử, và Thánh 1-1841, đưa rước về Lục Thủy (Nam Định).
Cha Tạ Đức Thịnh (tử đạo ngày 8-11-1840, 80 tuổi) Cha Nghi, Cha Ngân, ông Thọ và ông Cỏn bị bắt và bị giam chung. Suốt tháng đầu, Cha Thịnh cùng bốn chứng nhân ngày mang gông xiềng, tối bị cùm chân. Quan như bỏ quên không nói gì đến họ. Đầu tháng 7 quan gọi cả năm chứng nhân ra công đường, bắt bước qua Thập Tự, các Cha và hai ông đều can đảm tuyên xưng Danh Chúa. Cha Thịnh lên tiếng: “Tôi đã bằng này tuổi đầu mà còn sợ chết nữa sao? Tôi không thể làm theo lời quan được.” Khi quan hỏi về tên và nơi ở của các thừa sai, Cha chỉ nói không biết. Quan tức giận truyền trói năm vị bắt quỳ phơi nắng suốt ngày không cho ăn uống.
Ba ngày sau, tức ngày mùng 6 tháng 7, tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi năm tù nhân và nói: “Nếu các ông không đạp lên Thập Tự, các ông sẽ phải chết.”
Cha Nghi trả lời: “Bẩm quan nếu quan thương, chúng tôi nhờ, nếu không thương, chúng tôi cũng xanh rì nấm mộ, còn bước qua ảnh Thánh, chúng tôi không dám.”
Quan liền cho đánh mỗi người 50 roi. thấy không được việc, ông dạy đánh Cha già Thịnh thêm 10 roi nữa, ông thầm nghĩ tuổi già sức yếu, vị Linh mục này sẽ phải khuất phục. Nhưng ông đã lầm, Cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đòn như các đồng bạn. Quan tức giận, bắt ba vị Linh mục phơi nắng thêm một ngày nữa.
Ngày 30-5-1840 theo tin báo, tổng đốc Nam Định đem 1000 quân đến vây làng Kẻ Báng. Quan cho phát loa kêu gọi dân tập ở đình làng để điểm danh. Tất cả đàn ông thanh niên trên 15 tuổi đều bị trói lại và tập trung ở một chỗ,quân lính canh gác cẩn thận. Tất cả ngồi phơi nắng phơi sương suốt hai ngày đêm, chị em phụ nữ lo cơm nước tiếp tế cho lính và thân nhân. Đồng thời quan sai lính đi lục soát tất cả hang cùng ngõ hẻm. Ngày đầu tiên không tìm thấy Linh mục nào, ông nản lòng định rút quân, nhưng người tố giác cứ nhất quyết, lấy đầu ra thề, nên ông cho lục soát tiếp sang ngày thứ hai.
Ngày thứ ba, quan ra lệnh phá các vách dầy trong làng,thì quả nhiên bắt được Cha Giuse Nghi đang ẩn giữa hai lớp vách nhà bà Duyên. Quan cho gọi bà ra bước qua Thánh giá; nhưng may mắn lính nghe lộn ra bà Doãn, bà này ngoại giáo nên đã bước qua, nhờ đó bà Duyên thoát nạn. Khoảng giữa trưa thì lính bắt được Cha Phaolô Ngân đang ẩn trong nhà ông Thọ và cũng bị trói, điệu ra chỗ giam Cha Nghi ở đình làng.
Trong khi Cha mactinô Thịnh, thì giả điếc nắm trên võng nhà ông Chiền là cháu ông Cỏn, lính ngang qua thấy cụ già nhà quê bệnh hoạn, cho nên không nghi gnờ, và nếu có hỏi, thì cô Thanh, một nữ tu họ Kẻ Trình đi theo giúp đỡ Cha, sẽ khai là: “Bố tôi đấy, ông đau nặng nên không ra điểm danh được.” Nhưng khi nghe hai Cha Nghi và Ngân đã bị bắt, Cha thịnh không muốn im lặng nữa. Nhân một cai đội đến hỏi: “ông có phải là đạo trưởng không?” Cha Thịnh liền đáp: “Phải, tôi đây.” Thế là Cha Thịnh bị bắt với hai đồng bạn. Lợi dụng cơ hội, quân lính kéo vào làng cướp tiền bạc, thóc lúa, trân bò… Họ vừa đập phá, vừa reo hò chiến thắng vang dậy cả làng. Sau đó quan cho đóng gông và áp giải ba Linh mục, ông Thọ, ông Cỏn và 20 tín hữu Kẻ Báng về Đề lao Nam Định.
Ngày 8-11-1840, cả năm chứng nhân được đoàn lính 500 người điệu ra pháp trường Bảy Mẫu. Đến nơi tất cả quỳ xuống cầu nguyện, rồi ra hiệu đã sẵn sàng. Theo lệnh quan, lý hình chém rơi đầu năm anh hùng đức tin, thi thể hai Cha Nghi, Ngân và hai ông Thọ, Cỏn được đưa về Kẻ Báng. Cha Thịnh được mai táng ở Giáo xứ Vũ Điện (Hà Nam), sau dời về quê hương Kẻ Sát.
--------------------------------
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
VietCatholic News (01/02/2005)
TIN MỪNG: Mt 16, 21 - 27:
Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thày gặp phải chuyện ấy !" Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: "Xa-tan, lui lại đằng sau Thày ! Anh cản lối Thày, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ:"Ai muốn theo Thày phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thày, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì. Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình. Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm".
SUY NIỆM:
CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ
1. CON ĐƯỜNG LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ LÀ CON ĐƯỜNG VÔ CÙNG KHÓ KHĂN:
Trong thần học và mục vụ Ki-tô giáo ngày nay, "tính cách môn đệ" hay "môn đệ tính": TN 22-A91
Trong thần học và mục vụ Ki-tô giáo ngày nay, "tính cách môn đệ" hay "môn đệ tính" ( discipleship ) được Giáo Hội xem là tính cách quan trọng nhất của người Ki-tô hữu. Bất cứ ai: giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được mời gọi trở thành môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô. Và để trở thành môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô, người ta không có con đường nào khác ngoài con đường hẹp, Con Đường Thập Giá, bỏ mình vì Thày, bỏ mình theo Thày. Bỏ mình càng nhiều chúng ta càng trở thành môn đệ của Thày.
Bài học Thập Giá mà Chúa Giê-su đưa ra không dễ hiểu, dễ nuốt chút nào. Tông Đồ Trưởng Phê-rô vừa mới hôm trước nhận được mặc khải từ Thiên Chúa mà tuyên xưng một cách long trọng: "Thày là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống" thì hôm sau đã bị Chúa Giê-su quở trách nặng nề khi ra sức cản ngăn Người đi vào thập gía mà Người đã chọn: "Xa-tan, lui lại đằng sau Thày ! Anh cản lối Thày, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Mà không chỉ có một mình Phê-rô mà toàn bộ Nhóm Mười Hai đều không muốn chấp nhận Con Đường Thập Giá là con đường từ bỏ ! Chúng ta đọc kỹ các trang Phúc Âm tường thuật ba lần giáo huấn về con đường thập giá và tường thuật về chuyến lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su và các môn đệ lần cuối cùng thì thấy ngay điều ấy. Hơn nữa, Con Đường Thập Giá, chẳng những Chúa Giê-su đã chọn cho riêng mình, mà Người đã chọn cho tất cả những ai muốn theo Người: "Nếu ai muốn theo tôi, thì..."
Kinh nghiệm tâm linh của mỗi người cũng cho chúng ta thấy rằng con đường hy sinh, từ bỏ là con đường vô cùng khó khăn. Thông thường, chúng ta muốn được hơn là muốn mất; thậm chí nhiều lúc chúng ta chỉ muốn được mà không muốn mất !
2. TẠI SAO CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ LẠI ĐẶT ĐIỀU KIỆN KHÓ KHĂN NHƯ VẬY ?
Chắc có nhiều lý do giải thích tại sao Chúa Giê-su lại đặt điều kiện khó khăn như vậy cho những người muốn theo Người, muốn làm môn đệ Người. Trong giới hạn của bài viết này chúng ta hãy suy nghĩ về hai lý do, một có tính nhân bản, một có tính thần học và tu đức Ki-tô giáo:
Lý do có tính nhân bản: Con người chỉ có thể phát triển và trưởng thành qua rèn luyện, tu dưỡng, tập tành. Nếu không chịu khó đi học và học bài, không ai trong chúng ta có thể trở thành một người có học thức, văn hóa. Nếu không chịu khó tập luyện gian khổ, không một cầu thủ bóng đá nào có thể trở thành một cầu thủ có đẳng cấp trong làng bóng đá. Chúng ta có thể áp dụng quy luật ấy cho mọi lãnh vực của cuộc sống con người.
Chỉ có hy sinh, từ bỏ, rèn luyện, tu dưỡng con người chúng ta mới phát huy những khả năng tiềm ẩn trong mình và mới loại bỏ được những tính xấu có sẵn trong người. Vì thế việc Đức Giê-su đòi các môn đệ phải hy sinh từ bỏ, đi vào con đường hẹp của thập gía, của khổ chế là một đòi hỏi lành mạnh, đầy tính nhân bản. Cha ông ta thường dạy: "Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi" : Có khổ luyện thì con người mới thành người !
Lý do có tính thần học và tư đức Ki-tô giáo: Ngoài lý do có tính nhân bản trên, còn có lý do có tính thần học và tu đức Ki-tô giáo nữa. Lý do này quan trọng hơn lý do trước gấp triệu triệu lần. Chỉ có con đường khổ luyện mới là con đường giúp chúng ta trưởng thành về mặt tâm linh. Trong chúng ta có nhiều khuynh hướng xấu cần phải thay đổi. Lý do sâu xa nhất là khi chúng ta đi vào con đường thập gía là chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su Ki-tô. "Hai người yêu nhau thì nên giống nhau"
Đó là qui luật tự nhiên và cũng là qui luật siêu nhiên. Trong lãnh vực thiêng liêng, nên giống Chúa Giê-su Ki-tô là chúng ta đạt tới sự thánh thiện Ki-tô giáo. Trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy một số vị thánh ( như cha Pi-ô mới được phong thánh, như thánh Phan-xi-cô At-xi-di ) được in năm dấu thánh trên ngực và trên hai bàn tay hai bàn chân y như những vết thương của Chúa Giê-su khi Người bị đóng đinh và bị lưỡi đòng thâm lủng ngực trên thập gía xưa. Đó là dấu chứng của một Tình Yêu tuyệt đỉnh của Chúa Giê-su Ki-tô dành cho các vị ấy !
3. ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Để hiểu và can đảm chấp nhận Con Đường Thập Giá mà Chúa Giê-su Ki-tô mời gọi, chúng ta phải thực hiện một số việc sau đây:
Trước hết chúng ta phải xác tín rằng chỉ có con đường hy sinh, từ bỏ mới đưa chúng ta đến cuộc sống tốt đẹp thực sự và trường tồn.
Thứ đến là chúng ta phải ra sức rèn luyện, một cách kiên trì và liên tục. Không ai mới bước vào nghề mà đã thành thợ giỏi. Chúng ta cũng chỉ có thể đi vào con đường thập giá nếu mỗi ngày chúng ta bước một hai bước vào con đường ấy, bằng những hy sinh, từ bỏ tự nguyện.
Sau cùng là chúng ta phải cậy dựa vào sức mạnh của Chúa vì không có Ơn Chúa chúng ta sẽ không làm được gì và nếu có Ơn Chúa chúng ta sẽ làm được những việc vĩ đại, như chính Chúa Giê-su đã nói trong Phúc Âm. Muốn có Ơn Chúa thì mỗi ngày chúng ta phải nài xin Người. Xin Ơn gì thì không biết chúng ta có được Chúa ban hay không, chứ nếu chúng ta xin Ơn thấu hiểu ý nghĩa Thập Giá và Ơn đi vào con đường ấy, thì chắc chắn Chúa sẽ ban cho chúng ta. Vì xin Ơn như thế là chúng ta xin Ơn nên giống Chúa mà cha mẹ nào mà lại không muốn con cái nên giống mình.
Lạy Chúa Giê-su, đọc Tin Mừng Mc 10, 46 - 52, chúng con thấy anh mù Bác-ti-mê ở Giê-ri-khô, sau khi được Chúa cho sáng mắt, đã đi theo Chúa trên con đường Chúa đi, tức đã đi theo Chúa trên con đường Chúa tiến về Giê-ru-sa-lem để bị bắt, bị tra tấn, bị kết án và bị giết trên thập giá. Xin Chúa ban cho chúng con Ơn Sáng Mắt, Sáng Lòng, Sáng Trí và Ơn Sức Mạnh để chúng con hiểu được bài học mà Chúa dạy chúng con hôm nay, để chúng con bước đi theo Chúa, trở thành môn đệ và chứng nhân của Chúa trong gia đình và Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Amen !
--------------------------------
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng biết truyền thuyết chiếc nỏ thần vô địch của An Dương Vương: TN 22-A92
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng biết truyền thuyết chiếc nỏ thần vô địch của An Dương Vương. Trọng Thủy lợi dụng tình yêu của công chúa Mỵ Châu đánh cắp cái lẫy nỏ thần đó đem về cho Cha là Triệu Đà. Mất nỏ thần, bộ tộc Âu Lạc không địch lại cuộc tấn công của quân Triệu Đà nên hai cha con An Dương Vương và Mỵ Châu phải lên ngựa chạy trốn. Trên đường trốn chạy, thần Kim Qui hiện ra cho biết: giặc đang ở sau lưng. Quay lại, An Dương Vương không thấy ai, chỉ thấy công chúa Mỵ Châu đang bứt lông ngỗng trên áo rải đường cho quân thù đuổi theo. Tức giận và đau đớn, ông rút gươm chém Mỵ Châu rơi đầu.
An Dương Vương không ngờ giặc chính là con gái mình, Mỵ Châu không ngờ giặc chính là chồng mình. Vâng, kẻ thù ở ngay trong nhà mình mới là kẻ thù nguy hiểm nhất, kẻ thù chính là người thân của mình mới là kẻ thù khó đối phó nhất.
Kính thưa quý ông bà anh chị em, Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người, Người cũng đã từng bị cám dỗ: bị cám dỗ bởi ma quỷ trong hoang mạc trước khi Người thực hiện sứ vụ công khai, bị cám dỗ bởi dân chúng đòi xem phép lạ từ trời, bị cám dỗ bởi đám đông thách thức Người xuống khỏi thập giá chiều nao trên đồi Canvê,… Trong những cám dỗ Chúa Giêsu đã chịu, có lẽ cám dỗ hôm nay là nguy hiểm nhất, khó chống trả nhất, vì lẽ kẻ cám dỗ chính là Phêrô, người thân tín, tâm phúc với Chúa, người mà Chúa vừa mới tin tưởng đặt lên làm nền tảng Hội Thánh.
Trở lại câu chuyện của bài Tin Mừng tuần trước, sau khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tương trưng sứ vụ Người trao cho ông: “Phêrô, con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Biến cố này đánh dấu bước ngoặt mới trong sứ vụ trần thế của Đức Giêsu. Thật vậy, thánh sử Matthêu cho biết: “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Các môn đệ Chúa không chấp nhận hình ảnh Đấng Kitô bị lăng nhục, chịu đau khổ và chịu chết. Nhất là Phêrô, ông không thể thinh lặng trước viễn tượng đen tối mà ông và các bạn ông vừa nghe, thế nên ông “kéo Đức Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách người: ‘Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !’ Ông đã can ngăn Chúa Giêsu một cách rất chân thành. Vì yêu mến Thầy, vì muốn tốt cho Thầy (dĩ nhiên vì danh lợi của ông nữa) nên ông mới can ngăn… Chính vì thế, cơn cám dỗ này lại càng trở nên nguy hiểm.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thà rằng cám dỗ đến từ kẻ thù hay từ một người xa lạ, ít quen biết, chúng ta sẽ mạnh mẽ chống trả, hay dễ dàng khước từ. Đằng này, với mối liên hệ chằng chịt, với tình cảm dùng dằng… người ta khó lòng thẳng thừng từ chối, sợ làm buồn lòng những người thân yêu.
Thật vậy, như báo chí đã đăng tải, đằng sau tội tham ô của không ít các vị quan chức tai to mặt lớn phải vào nhà đá thì có phần tác động không nhỏ của các bà vợ tay ấp gối kề. Các bà nhỏ to trách móc, dai dẳng năn nỉ ỉ ôi khiến các ông từ chỗ không ưng đến nhắm mắt làm liều, nay một chút mai một chút… và rồi trượt dài trên con đường bất chính lúc nào không hay…
Cám dỗ đó cũng là cám dỗ thuở xưa trong câu chuyện Ađam-Eva trong vườn Địa Đàng. Thiên Chúa ban cho Ađam Eva làm người trợ tá. Thế nhưng chính trợ tá Eva lại mời Ađam ghé răng cắn vào trái táo tai họa.
Đứng trước cơn cám dỗ ngọt ngào này, Chúa Giêsu đã phản ứng ra sao? Người phản ứng một cách thật dễ sợ, quyết liệt và gay gắt, Người mắng Phêrô: “Xatan, lui lại đằng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Chúa Giêsu rất yêu quý các môn đệ, có lần Người đã chân tình thốt lên: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15,15).
Xem họ là bạn hữu, nhưng Chúa Giêsu sẵn sàng cắt đứt tình bạn nếu tình bạn đó dẫn Người xa lìa thánh ý Thiên Chúa. Cắt đứt một cách quyết liệt và dứt khoát như Người đã từng dạy: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt 5, 29-30). Chúa Giêsu đặt thánh ý Thiên Chúa lên trên tất cả.
Phần chúng ta, những quan hệ cha mẹ, vợ chồng, bà con, bạn bè, người yêu, hàng xóm… là những quan hệ tốt đẹp nâng đỡ nhau, có bao giờ những mối quan hệ đó có nguy cơ dẫn chúng ta xa lìa Thiên Chúa hay không? Chúng ta đã phản ứng thế nào trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đó? Chúng ta có dám mạnh dạn cắt đứt những mối quan hệ bất chính tội lỗi để làm theo thánh ý Thiên Chúa hay không? Về phía chúng ta, có bao giờ chúng ta trở thành cớ vấp phạm cho những người thân yêu của mình hay không?
Xin Chúa thêm sức cho chúng ta, cho chúng ta có can đảm thắng vượt những cơn cám dỗ ngọt ngào đến từ những người thân yêu, để chỉ chọn thánh ý Thiên Chúa, quảng đại đáp lại lời mời gọi : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” Amen.
LM Nguyễn Quốc Hưng
--------------------------------
I. DẪN NHẬP
Thế làm sao mà gia đình anh sống ?” Đó là câu hỏi mà nhiều Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân, thậm: TN 22-A93
“Thế làm sao mà gia đình anh sống ?” Đó là câu hỏi mà nhiều Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân, thậm chí cả một vài Giám Mục, đặt ra cho tôi sau khi nghe tôi nói rằng: “Con chẳng làm một việc gì khác ngoài việc dạy Giáo Lý, Thánh Kinh, Công Đồng, huấn luyện Giáo Dân, soạn bài Sống Lời Chúa gửi các nơi v.v...“ Thật vậy, từ 1997 trở về trước thì tôi dành một phần thời gian cho hoạt động tông đồ. Còn từ 1997 đến nay tôi đã dành trọn thời gian cho các việc tông đồ kể trên. Thế mà gia đình tôi vẫn “hằng ngày dùng đủ“ mặc dầu bà xã tôi chỉ là nhân viên của một cơ quan văn hóa của thành phố ( đã về hưu cuối tháng 6.2004 ) và hai con chúng tôi thì chỉ có cháu lớn mới ra trường đi làm được vài năm nay và gia đình chúng tôi chẳng có của chìm của nổi gì cả, cũng chẳng biết buôn bán làm ăn gì hết. Bí quyết là bài học DÁM LIỀU mà Chúa Giê-su đã thúc đẩy và hỗ trợ chúng tôi thực hiện, để sống điều mà Người đã dạy trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 22 Mùa Thường Niên A hôm nay.
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI TIN MỪNG
1. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta khám phá Chúa Giê-su là Ai ?
Trước hết bài Tin Mừng Mát-thêu hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a đau khổ, là Vị Tôi Trung của Thiên Chúa mà các Ngôn Sứ đã loan báo trong Cựu Ước: Người cứu độ thế gian không phải bằng cách dùng quyền lực hay sức mạnh võ khí mà bằng con đường tự hạ + tự hiến + tự hủy: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết”.
Kế tiếp, bài Tin Mừng Mát-thêu hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giê-su rất cương quyết với chọn lựa của mình. Người không nhượng bộ hay thỏa hiệp với bất cứ ai, với bất cứ cản trở hay cám dỗ nào: “Xa-tan lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Thái độ cương quyết qua lời quở trách gay gắt nặng nề dành cho Tông Đồ Trưởng Phê-rô ( vừa được Người khen trước đó không lâu ) là một minh chứng hùng hồn về nhận định trên. – Tại sao vậy ? – Thưa: Tại vì bằng con đường thập giá hay con đường tự hạ + tự hiến + tự hủy, Đức Giê-su có thể thể hiện cách tuyệt vời nhất lòng hiếu thảo tuyệt đối của Người đối với Thiên Chúa Cha và lòng yêu thương tột cùng của Người đối với loài người là con cái của Cha và là anh em của Người.
Sau cùng, bài Tin Mừng Mát-thêu hôm nay còn cho chúng ta biết Đức Giê-su là Đấng chỉ đường vạch lối cho những ai muốn đi theo Người, muốn làm môn đệ Người, muốn có sự sống thật. Ngài đúng là vị Tôn Sư, là bậc Thầy của mọi Ki-tô hữu. Con đường Người đi và mời gọi các môn đồ đi theo Người là con đường hy sinh, từ bỏ chính mình và vác thập giá mình. Đó cũng là con đường dám liều để sống theo Chúa, sống vì Chúa, sống vì Tin Mừng và tha nhân.
2. Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta điều gì ?
Lời Chúa hôm nay dậy chúng ta biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô hay là Đấng Mê-si-a đau khổ, là Vị Tôi Trung của Thiên Chúa. Và còn dạy chúng ta biết Chúa Giê-su hết sức cương quyết trong việc đi vào con đường Người đã chọn và trong việc thực hiện sứ mạng Người đã được giao.
Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta biết con đường theo chân Chúa Giê-su, con đường dẫn tới sự sống thật là con đường hy sinh, từ bỏ chính mình và vác thập giá mình. Đó cũng là con đường hoàn toàn cậy trông phó thác và tin tưởng vào Chúa mà dám liều vì Người và vì Phúc Am của Người cũng như vì tha nhân là hiện thân của Chúa Giê-su Ki-tô.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Đức Giê-su đã chọn con đường của Đấng Mê-si-a đau khổ để thể hiện lòng yêu thương tột cùng đối với tôi và để cứu độ tôi. Tôi có tâm tình, thái độ và hành động nào để đáp lại tấm lòng và sự hy sinh của Người ? Cụ thể hơn: Tôi có ngưỡng mộ Chúa không ? Tôi có cảm phục Chúa không ? Tôi có biết ơn Chúa không ? Tôi có muốn bắt chước noi theo Chúa không ? Tôi sẽ làm gì cụ thể để thể hiện lòng ngưỡng mộ, cảm phục, biết ơn và noi theo của tôi ?
Đức Giê-su đã dạy cho tôi biết con đường đi theo Người, con đường dẫn tới sự sống là con đường từ bỏ chính mình và vác thập giá mình, là con đường dám liều với Chúa, vì Chúa. Tôi có tâm tình, thái độ và hành động nào để thực hiện sự chỉ dậy của Người ? Cụ thể hơn: Tôi có tán thành giáo huấn của Chúa không ? Tôi có cảm phục sự dạy dỗ chỉ bảo của Chúa không ? Tôi có biết ơn đối với lòng yêu thương và sự dạy dỗ của Chúa không ? Tôi có dám liều với vì Chúa và vì tha nhân không ? Trong tuần lễ này tôi chọn những việc làm cụ thể nào để chứng tỏ tôi dám liều với Chúa và vì Chúa, vì tha nhân và cho tha nhân ?
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa xin dạy con biết dịu ngọt trước mọi biến cố của cuộc đời: trước những nỗi thất vọng, trước sự vô tâm của người khác, trước sự dối trá của những người con tín nhiệm, trước sự phản bội của con người. Xin cho con biết quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của tha nhân, biết che giấu những nỗi khổ và niềm đau nhỏ bé của chính mình để chỉ mình con phải chịu đựng chúng mà thôi.
Xin dạy con biết lợi dụng những đau khổ gặp phải trên đường đời để chúng làm con nên mềm ngọt chứ không thành chai đá hay cay đắng, để chúng làm con nên nhẫn nại chứ không thành tức tối, để chúng làm con nên rộng lượng thứ tha chứ không thành hẹp hòi, kiêu căng hay ngã lòng. Từ sự chia trí nọ đến nỗi bận tâm kia trong cuộc sống hằng ngày, xin cho con biết thầm nói với Chúa một lời yêu thương.
Xin giúp con biết sống siêu nhiên, đầy dũng lực để hành thiện và mạnh mẽ ý chí để nên thánh. Amen.
Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
--------------------------------
Tin mừng : Mt 16, 21-27.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại lời quả quyết của Chúa Giêsu về việc ai: TN 22-A94
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại lời quả quyết của Chúa Giêsu về việc ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo Ngài, tôi có hai cảm nghiệm này muốn chia sẻ với anh chị em :
1. Phải từ bỏ chính mình.
Con người ta không ai muốn từ bỏ mình, vì từ bỏ mình có nghĩa là không còn là mình nữa, không còn là cái tôi căn tính của mình nữa, cho nên sẽ là khó chịu và cảm thấy bất an khi có người khuyên bảo nên từ bỏ chính mình.
Tôi muốn ăn ngon mặc đẹp đó là cái tôi của tôi, bây giờ lại có người khuyên tôi nên hy sinh ăn gì cũng được mặc gì cũng được thì dứt khoát là tôi không chịu và cảm thấy khó chịu khi có người soi mói đời tư của tôi; tôi là người có khiếu về âm nhạc nên tôi muốn được nổi danh, tôi sáng tác nhiều bài hát để hy vọng được mọi người biết đến, nhưng có người nói rằng nhạc tôi quá dở không có tâm tình, thế là cái tôi tự ái nổi lên, cái tôi giận hờn, cái tôi ghét ghen, cái tôi buồn bực ập đến làm cho tôi cảm thấy như bị xúc phạm…
Cái tôi là cái chính mình mà Chúa Giêsu muốn chúng ta từ bỏ để đi theo làm môn đệ của Ngài, bởi vì cái tôi thì luôn phản kháng lại chương trình cứu độ bằng hy sinh của Thiên Chúa trên chính mỗi con người của chúng ta.
2. Lời can ngăn
Mỗi người, trong cuộc sống của mình ít nhất cũng là một lần được nghe lời căn ngăn của người khác, và cũng là ít nhất một lần nói lời can ngăn người khác.
Thánh Phêrô đã thành thật căn ngăn Chúa Giêsu đừng có dại mà lên Giêrusalem để chịu chết khi mà Ngài biết rõ ai là kẻ giết mình. Lời can ngăn của thánh Phêrô rất là chí lý nhưng lại bị Chúa Giêsu quở trách vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, nhưng là của loài người. (Mt 16, 23)
Có những lời can ngăn tích cực để chặn đứng một hành động xấu sắp xảy ra và có hại cho mọi người, nhưng cũng có những lời can ngăn tiêu cực không vì mọi người nhưng là vì tư lợi cá nhân, đó là lời can ngăn “có lý” khi thấy anh em làm việc trổi vượt hơn mình như : đừng làm nổi quá kẻo người khác để ý, nào là đừng hăng say quá mà hao sức khỏe, nào là phải để ý đến bản thân mình.v.v… tất cả những lời can ngăn này của người có tâm hồn ích kỷ đều là một tảng đá chặn đường tiến của người khác.
Anh chị em thân mến,
Từ bỏ chính mình phải đi đôi với lòng thành thật, bởi vì có người “bỏ con tép để câu con…cá ngừ”, tức là họ chỉ làm bộ hy sinh một vài cái nhỏ mọn không nhằm nhò gì, để mưu cầu cái lợi ích lớn hơn nhiều cho mình, mà cái lợi ích lớn ấy là làm thỏa mãn cái tôi của mình, tức là để cái tôi càng ngày càng lớn lên theo hướng ích kỷ của mình.
Gợi ý suy tư :
- Tôi có từ bỏ mình theo hướng tích cực không ? Hướng tích cực là thấy cái tôi của mình luôn hướng về hưởng thụ thỏa mãn nhu cầu của thân xác.
- Có khi nào tôi vì ích kỷ, vì sợ người khác trổi vượt hơn mình mà tìm lý do chính đáng để ngăn cản họ không ?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 22 thường niên tại nhà thờ Thánh Tâm-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
--------------------------------
(Mt 16, 21-27)
Thưa quí vị,
Liệu Thiên Chúa có bao giờ thất hứa? Liệu Ngài có giống người buôn bán xe hoi cũ, khi xe hỏng: TN 22-A95
Liệu Thiên Chúa có bao giờ thất hứa? Liệu Ngài có giống người buôn bán xe hoi cũ, khi xe hỏng chẳng thấy bóng dáng hắn đâu? Liệu Thiên Chúa thay đổi ý kiến và rồi không cho chúng ta hay điều ấy? Tôi không thể không nghi đến các câu hỏi đó khi nghe tiên tri Giêrêmia phàn nàn: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ! Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng!” Người không quen Kinh thánh thì nghe như lời than vãn từ trận đấu võ. Nhưng đây là lời ngôn sứ Giêrêmia thấp hèn chống lại Thiên Chúa vĩ đại. Bạn có thể tưởng tượng vị ngôn sứ v?i đôi tay đập vào trán, cằn nhằn: “Tại sao tôi lại khờ dại đến độ chấp nhận làm tiên tri của Thiên Chúa để hứng lấy muôn vàn khổ đau?” Hoàn cảnh này là khởi đầu sứ vụ của ông. Ông ương ngạnh từ chối, lấy cớ còn non dại, chưa có kinh nghiệm: “A, a, a lạy Đức Chúa con không biết nói, con chỉ là đứa con nít” (1, 4). Câu văn thực sự đã làm tôi suy nghĩ nhiều năm. Tôi dựa vào nó mà an ủi mình khi gặp những khó khăn trong nhiệm vụ rao giảng. Có những lúc tôi không biết phải làm thế nào chu toàn bổn phận trao phó cho mình. Tôi chưa có kinh nghiệm và vấn đề thì lại quá nhiêu khê. Nhưng hoàn cảnh của Giêrêmia khích lệ tôi cố gắng vắt kiệt sức mình như Chúa phán: “Đừng nói ngươi quá trẻ…đừng sợ vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi…” Đức Chúa phán:”Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi” (1,5). Và tôi được an ủi, vì an tâm tin tưởng vào sức mạnh Thiên Chúa. Thực ra, trong cuộc đời sứ vụ, chúng ta sống bằng những lời hứa hơn là giải thích, trong đêm tối mịt mù chúng ta mới có thể nhìn thấy những ngôi sao! Tuy nhiên bài đọc hôm nay ở chương 20, bao nhiêu sự kiện đã xẩy ra cho vị tiên tri. Những đau khổ vì chống đối đã chồng chất lên vai vị ngôn sứ. Và chúng ta cũng chẳng thể né tránh số phận tương tự, khi chấp nhận nghe tiếng Chúa kêu gọi. Bài đọc hôm nay bộc bạch rõ ràng tâm tư vị tiên tri. Ông đã cay đắng nhận ra vai trò của mình quả là một gánh nặng. Ông là vị ngôn sứ Thiên Chúa chỉ định để rao giảng tai hoạ và tàn phá, đầy ải và phát lưu. Thử hỏi làm sao tránh khỏi thù hận, ghen ghét? Thực tế công việc của ông là đối đầu với vua chúa, quan quyền, thế lực đền thờ. Cảnh cáo họ về những lạm dụng họ thực hiện trên những số phận nghèo đói, cô thân, những người không có địa vị. Đây là sứ vụ tự nhiên chẳng ai dại mà gánh lấy. Tính mạnh bạo liều lĩnh của vị ngôn sứ đưa ông đến đòn vọt và xiềng xích. Tư tế Pat-khua đã cho bắt ông, đánh đòn và cùm ông tại cửa Bengiamin. Sáng hôm sau ông đổi tên tư tế Pat-khua thành “kinh hoàng tứ phía” và tiếp tục chịu khủng bố. Lúc này vị ngôn sứ xem ra hoài nghi về tương lai: “Những điều mô tả trong công việc mà tôi đã chấp nhận bây giờ ở đâu? Tuy nhiên vẫn can trường trung thành với ơn gọi và chịu đựng các hậu quả, tuy cảm thấy như bị Chúa bắt nạt “Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng”.
Ở giai đoạn thốt ra những lời trên, Giêrêmia không còn là người trẻ nữa. Ông đã tin tưởng nếu Thiên Chúa kêu gọi ông, Ngài phải bảo vệ ông an toàn cho đến kết thúc, không hề bị bầm dập. Nhưng bây giờ thì ông rõ sự thật, sứ mệnh không bảo đảm như vậy. Phần chúng ta cũng tương tự, Chúa kêu gọi phục vụ Lời Ngài. Liệu có phải là ơn phúc không? Tôi dám trả lời tích cực và được thể hiện trong nhiều đường lối bất ngờ. Nhưng cũng xin cảnh cáo quí vị, nó không phải là con đường thênh thang, mà là chật hẹp, nhiều chông gai. Có những ngày, những hoàn cảnh chúng ta phải thốt nên lời của Giêrêmia: “Chúa đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng! Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ để họ nhạo báng con!” Chẳng linh hồn ngay chính nào mà không gặp những khó khăn trong nhiệm vụ của mình: Phe nhóm chính trị trong Giáo hội, phân cực ý kiến, gương xấu, cường điệu, chuyên chính…Thêm vào đó là cảm giác bất lực trước những đau khổ của giáo dân, trầm cảm, nghèo nàn, vô vọng đến độ nhiều lần phải tự hỏi: “Tại sao mình dính giáng vào chuyện này? Trách nhiệm về ai? Làm sao thoát ra được? Liệu mình còn đủ năng lực chịu đựng? Có đúng đã nghe tiếng Chúa gọi hay chỉ tưởng tượng”. Cảm ơn vị ngôn sứ của “ tư bề kinh hoàng”. Ông đã thả lỏng miệng lưỡi, nói lên những thất vọng của lòng mình cho Thiên Chúa nghe. Ông chẳng cần kìm hãm những căng thẳng khi thi hành sứ vụ. Ông không than sầu rên rỉ mà tố khổ cay đắng lên Thượng Đế, doạ dẫm thôi việc: “Có lần con tự nhủ: Tôi sẽ không nghĩ đến Ngài, cũng chẳng nhân danh Ngài mà nói nữa”. Nhưng bổn phận làm ngôn sứ thúc giục ông: “Nhưng Lời Ngài cứ như ngọn lửa, bùng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt, con nén chịu đến hao mòn, nhưng làm sao con nén được?” Lời Chúa trong thâm tâm ông có sức mạnh vô song, ông không thể kìm hãm hay giập tắt. Nó thôi thúc ông đêm ngày, ép buộc ông phải trung thành rao giảng, bất chấp những khó khăn. Giêrêmia khám phá ra rằng ơn kêu gọi của mình sẽ phải trả giá bằng cái chết. Nhưng Lời Chúa trong ông là lời sống động và nóng cháy, nó sẽ nâng đỡ ông cho đến cùng. Nó không tàn lụi hoặc rời bỏ ông. Ngược lại nâng đỡ ông để gặp nhiều cay đắng hơn nữa, đến cả phải thiệt thân. Thực tế này ngày nay vẫn là số phận những ngôn sứ chính danh trong Giáo hội. Họ không thể nhượng bộ dù bị bịt miệng, bởi sự thật không chết, dù bị giết. Người ta đã cố gắng giết chết nó. Nhưng bao giờ nó cũng sống lại.
Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta cùng một chân lý. Ơn gọi của Đức Chúa Trời là ơn gọi ban sự sống. Chúng ta không tự thân làm cho cuộc đời mình giầu có hay nghèo nàn. Mọi sự đến từ Thiên Chúa. Giêrêmia là thí dụ cổ điển, mặc dù những khó khăn gian nan ông phải chịu suốt đời mình. Thiên Chúa không bỏ rơi ông. Trong mỗi hoàn cảnh Thiên Chúa liên tục nói lời đổi mới và nâng đỡ. Bài Tin mừng chia làm hai phần: một câu truyện và ba lời gom nhặt. Mở đầu thánh Phêrô và các tông đồ được Chúa Giê-su mạc khải về số phận của Ngài tại Giêrusalem, bị các thượng tế và luật sĩ ghét bỏ, bắt bớ, hành hạ và giết chết, giống số phận của ngôn sứ Giêrêmia. Số phận đó cũng xẩy đến cho các ông khi rao giảng Nước Trời. Tuần vừa qua Phêrô đã tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Thày. Thày cũng không tiếc lời biểu dương Phêrô: “Anh là đá tảng, trên đá này Thày sẽ xây dựng Hội thánh của Thày”. Từ ấy cho đến nay sự việc đã thay đổi nhanh chóng. Chúa Giê-su nói trước cho các ông số phận của mình: Thày sẽ lên Gierusalem và chịu nhiều đau khổ. Phêrô phản kháng liền: “Xin Thiên Chúa thương đừng để cho Thày gặp phải chuyện ấy!” Chúng ta không thể trách cứ ông. Bởi lẽ ông vừa được Ngài tuyên dương hết lời! Ông cố gắng thay đổi ý nghĩ của Chúa và lập tức nhận ra mình đối lập với chương trình của Thiên Chúa, trước mắt là Thày thân yêu. Thành thử ngay sau lời chúc phúc: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thực là người có phúc”. Phêrô nhận được lời nguyền rủa “Quỉ sứ, lui ra đằng sau Ta”. Sự kiện làm chúng ta chóang váng. Đá tảng để Chúa xây dựng Giáo hội nay trở thành đá vấp phạm, cản lối Chúa. Đây là vấn đề cần suy nghĩ và tìm ra câu giải đáp. Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta liên hệ chặt chẽ với cái nhìn này: Xin nhớ lại khởi đầu Phúc âm, thánh Mattheo đã để Chúa Giê-su đi vào sa mạc và bị cám dỗ bởi quỉ sứ. Một trong ba cơn cám dỗ là thách thức Giê-su gieo mình từ trên nóc đền thờ xuống đất (4, 6). Bởi lẽ Thiên Chúa sẽ sai thiên thần nâng đỡ Ngài kẻo Ngài vấp chân vào đá. Nó làm cho người ta tin tưởng rằng về phe với Thiên Chúa, thì được bảo vệ khỏi mọi đau khổ ở thế gian: “Nếu ông đích thực là con Thiên Chúa”. Quỉ sứ đã nói với Chúa Giê-su như vậy trong sa mạc, thì ngày nay vẫn còn cám dỗ chúng ta với nội dung tương tự. Chúng ta hy vọng thoát khỏi mọi khổ cực ở thế gian. Đó là cái bẫy cực kỳ nguy hiểm. Những tín hữu, tu sĩ, giáo sĩ tin vào mưu chước, chắc chắn là kẻ phản bội Đức Chúa Trời. Phêrô vừa tuyên xưng Chúa Giê-su là con Đức Chúa Trời hằng sống, nhưng liền sau đó ông cám dỗ Chúa Giê-su đừng chấp nhận chương trình của Thiên Chúa. Ông đã đóng vai quỉ sứ lật đổ sứ vụ của Ngài. Ông muốn Ngài loại bỏ tất cả những đau khổ, yếu đuối, tổn thương ra khỏi chức vụ cứu thế. Vậy thì còn chi là thân phận con người trong sứ mệnh của Ngài? Liệu chúng ta có cùng não trạng với Phêrô trong vai trò quỉ sứ? Tước bỏ tất cả những khổ chế, hy sinh ra khỏi tôn giáo và đời sống cá nhân! Chúng ta muốn một tôn giáo hoành tráng, đầy quyền lực huy hoàng cho người có đạo và kẻ bàng quang nhìn vào. Ôi, một sai lầm dễ sợ, nhưng lại rất phổ thông. Làm sao một tôn giáo như vậy có thể thấm vào lòng người như nước thấm vào đất khô? Chúng ta ước ao một nền phụng vụ gọn gàng, tôn nghiêm với những cộng đồng tín hữu ăn vận chỉnh tề, sạch sẽ, gấp nếp, ai vào chỗ nấy, thứ tự nếp nang, nhịp nhàng. Hoàn cảnh ấy giúp cầu nguyện sốt sáng hơn. Nhưng tôi không nên dùng làm tiêu chuẩn để lượng định, bắt ép mọi người đáp trả tiếng Chúa mời gọi vào Nước Trời! Suốt kỳ hè vừa qua, trong các dụ ngôn, chúng ta được Chúa Giê-su nhắc nhớ Nước Thiên Chúa không phải trại lính, ngăn nắp, sạch sẽ mà là một thực thể đầy ngạc nhiên, không đoán trước được, và ngay cả luộm thuộm (mẻ cá, cỏ lùng, đám tiệc). Tin mừng hôm nay với nhân vật Phêrô chúng ta lại được chứng kiến một vở kịch ngoại mục khác: Phêrô vừa là đá tảng vừa là quỉ sứ, vừa xây dựng vừa phá hoại, cản lối Chúa Giê-su. Khốn khổ cho ông (và cho chúng ta nữa). Ông không có gì đáng trách, chẳng làm chi nên tội, nhưng chỉ vì tính bộc trực, nhiệt thành và ngây thơ loài người. Nếu chúng ta mắc vào những khuyết điểm này, thì gương của ông soi sáng mình. Chúng ta sẽ cảm thấy khôn ngoan, sùng mộ hơn là Phêrô “dại dột”. Mặt khác nó lại hạ giá lời Chúa Giê-su khen ngợi ông: “Simon, anh thật có phúc”. Vậy thì chúng ta nên tinh tường: Chúa Giê-su công nhận đức tin và ơn mạc khải bởi trời của ông, nhưng ông còn nhiền thiếu xót trong con người mình, ông không nhận thức đầy đủ vai trò và sứ điệp của Chúa Giê-su. Cũng vậy, chúng ta nên học bài học của ông, nhận rõ Chúa Giê-su là ai, công việc của Ngài làm sao, vai trò của từng người trên thế gian? Chúng ta nên học hỏi, cầu nguyện, chiêm niệm suốt đời. Sống ào ào không thể nào nắm bắt được. Ngoài ra còn cần ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và Phêrô hôm nay cống hiến nhiều giáo huấn. Chúng ta được nhắc nhớ con đường theo Chúa không phải thênh thang mà nhiều cay đắng. Sự sống của chúng ta chỉ có thể đạt tới qua hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa. Ba lời góp nhặt sau câu truyện, minh hoạ cho nội dung đó: 1. vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa (câu 24), Đây là cuộc từ bỏ cụ thể và căn bản, tuy nhiên so với Thập giá Chúa Giê-su thì quá nhỏ bé. Vậy mà nhiều linh hồn không kham nổi, nhất là trong các tu viện tân thời. 2. liều mạng sống mình vì lợi ích Phúc âm ( câu 25-26), sự sống vĩnh cửu là trên hết. Trước giá trị này mọi sự đều phù vân. Không hiểu Chúa Giê-su rao giảng nội dung này ở đâu và khi nào? Nhưng thánh Mattheo đã đặt ở mạch văn này theo sau lời loan báo Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu khổ hình, ngõ hầu chúng ta noi gương Ngài. 3. sự phán xét cuối cùng (câu 27) sẽ được thực hiện khi “Con người” ngự toà vinh quang. Thiên Chúa sẽ thưởng công xứng đáng cho những ai bền lòng theo Chúa Giê-su.
Như vậy việc theo Chúa gồm hai khía cạnh: Món quà ban tặng và trách nhiệm kèm theo. Giống như Phêrô, chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc vì lòng tin của mình. Nhờ lòng tin chúng ta đón nhận Chúa Kitô như nguồn sống mới và tuyên xưng như Phêrô: Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Tiếp theo là trách nhiệm thể hiện lòng tin, không những công khai mà còn trong lời nói, hành động hàng ngày. Xin đừng miệng lưỡi suông, nhưng phải dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa để Ngài thực hiện những mục tiêu của Chúa Giê-su. Tự dâng hiến đòi hỏi phục vụ tha nhân hết khả năng, dù nhiều khi cảm thấy thất bại, không đưa đến kết quả cụ thể tương xứng với công sức bỏ ra. Chán chường khi phải từ bỏ các chương trình, các ước muốn cá nhân vì lợi ích cao hơn. Bồn chồn lo lắng vì công việc quá nặng nề, đòi hỏi tiêu hao nhiều nghị lực, nhiều thời gian. Quả thực Tin mừng hôm nay nặng chĩu những thánh giá như Đức Kitô trên đường lên Giêrusalem. Nó liên tục nhắc nhớ tín hữu bổn phận theo Chúa của mình. Tuy nhiên mỗi khi ra vào thánh đường, chúng ta đều chấm tay vào nước thánh và làm dấu thánh giá trên mình. Việc này nói lên chúng ta đã quyết chí theo Chúa qua bí tích rửa tội và bổn phận làm môn đệ Chúa. Nước đó vẫn sôi sục trong trái tim mỗi người, ban khả năng tuyên xưng Thày là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống, đồng thời sẵn sàng nói “vâng” cho mỗi cây thập giá Chúa gởi đến. Amen.
Lm Jude Siciliano, OP
--------------------------------
Dẫn nhập đầu lễ :
Kính thưa ông bà anh chị em,
Nếu Chúa Nhật tuần trước, sứ điệp phụng vụ muốn chúng ta thể hiện niềm tin bằng một lời đáp trả là: TN 22-A96
Nếu Chúa Nhật tuần trước, sứ điệp phụng vụ muốn chúng ta thể hiện niềm tin bằng một lời đáp trả là sự qui chiếu cả cuộc đời để thuộc về Đấng mà Thánh Cả Phêrô đã long trọng tuyên tín : “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”; thì hôm nay, sứ điệp phụng vụ lại đòi hỏi chúng ta tiếp tục thể hiện niềm tin bằng một cuộc tiến bước lên đường để dấn thân trên nẽo đường mà Đức Kitô đã đi qua : “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Lựa chọn con đường của Đức Kitô và can đảm dấn thân tiến bước trên con đường ấy, mãi mãi là một thách đố dữ dắn, một đòi hỏi gắt gao mà nếu không có sự trợ giúp của ơn thánh, không ai trong chúng ta có thể tự mình thực hiện.
Giờ đây, để xứng đáng cử hành thánh lễ và đón nhận hồng ân Thánh Thần hầu tiếp tục dấn thân trên con đường Thập giá của Đức Kitô, chúng ta cùng thú nhận tội lỗi.
Giảng Lời Chúa :
Vào buổi đầu cuộc sống công khai, Satan đã từng cám dỗ Chúa Giêsu lựa chọn con đường cứu thế dễ dàng, thoải mái bằng những hành vi khéo tay lạ mắt, bằng phép lạ oai phong để dễ dàng chinh phục chớp nhoáng và thành công đám dân đang ngong ngóng một Đấng Cứu Thế mang dáng đứng chính trị trần tục :
Sau đó quỷ đem Người đến thành thánh, đặt người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người : “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn,va thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”.
Và Đức Kitô đã cự tuyệt : Ngài đáp : “Nhưng cũng đã có lời chép rằng : Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
Trong câu chuyện Tin Mừng thuật lại hôm nay, hình như cơn cám dỗ trên lại trở về với Đức Kitô qua thái độ của Phêrô khi Tông đồ nầy ra tay ngăn cản Chúa khi Ngài loan báo cuộc hành trình về Giêrusalem để dấn thân vào cuộc khổ nạn :
Ông Phêrô kéo riêng Người ra và bắt đầu trách người : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”. (Và trong lần cám dỗ nầy, Chúa Giêsu gần như đã nổi nóng) Chúa Giêsu quay lại bảo Phêrô : “Satan lui lại đằng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa…”
Như vậy một cách nào đó, chúng ta có thể nói được rằng : đức tin đó chính là cuộc “hành trình về Giêrusalem”, cuộc hành trình theo chân Đức Kitô mà cốt lỏi chính là biết thường xuyên “đặt cuộc đời mình trong ý định của Thiên Chúa”, là đặt bước chân mình trên những lối đi của Thiên Chúa.
1. Sống đức tin : đặt cuộc đời trong thánh ý Thiên Chúa, đặt bước chân trên lối bước của Thiên Chúa
Thế mà qua qua mặc khải của Thiên Chúa, chúng ta lại khám phá ra rằng : ý định của Thiên Chúa, lối bước của Thiên Chúa lại khác xa với ý định và lối bước của loài người, như lời trách cứ của Chúa Giêsu dành cho Phêrô : “vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người” (TM). Như chúng ta đã từng thấy :
- Thay vì theo một con đường thẳng ngắn nhất, đỡ tốn công tốn sức,Thiên Chúa lại muốn đưa dân ít-ra-en đi theo con đường vòng thật xa để tiến về Đất Hứa (Xh 13, 17-18)
- Thay vì dạy cho họ chiến thuật, chiến lược tác chiến và những phương cách chính trị để thiết định một vương quốc hùng mạnh thì Thiên Chúa lại ban cho họ một thứ “Hiến pháp tinh thần” chỉ để điều hợp cuộc sống và lương tâm sao cho tốt lành, thánh thiện là “Mười Điều Răn”.
- Thay vì cho họ mọi phương tiện để canh tác hoặc chiếm hữu những cánh đồng bát ngát phì nhiêu, những dòng sông nước tuôn ngập tràn phù sa tươi tốt…thì Thiên Chúa lại chỉ ban cho họ mỗi ngày một thứ Manna nhàm chán, đơn điệu, một mạch nước nhỏ nhoi chảy ra từ vách đá.
- Và thay vì thíết lập một “Dân riêng” với lãnh địa bao la mịt mùng, với quân binh thiết bị hùng cường bá chủ, với chủ quyền trên khắp các lục địa, biển khơi…thì Thiên Chúa lại thiết lập một Ít-ra-en nhỏ bé bên bờ Địa Trung Hải, mà lịch sử hầu hết đếm bằng những tủi nhục thương đau, đọa đầy chia cắt, nô lệ lưu đầy…
Và khi tới lúc “thời gian viên mãn”, nào chúng ta đã thấy gì : Có phải một Đấng Mêsia xuất thân từ cung đình tráng lệ, với phủ việt và vương trượng uy hùng, với triều thần tiền hô hậu ủng, với vó ngựa, giáp sắt, gươm dài…Không, một em bé khóc oa oa nằm chung với bầy súc vật mà ngày sinh nhật của em, cha mẹ không tìm được quán trọ tầm thường để trú ngụ qua đêm. Vâng Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa đã đến từ Na-da-rét, một nơi mà tông đồ Nathanael đã từng dè bĩu; “Từ Na-da-rét, nào có cái gì hay đâu ?”, đã xuất thân từ xưởng thợ mộc mà dân do Thái đã từng bĩu môi : “Ông ta há không phải là con bác thợ mộc đấy sao ?”. Và Vị tiên tri “áo vải chân trần” đó khi xuất hiện công khai, cho dù có thể với 5 chiếc bánh và hai con cá có thể nuôi mấy ngàn người lại phải chấp nhận đói khát và ngửa tay xin nước của một phụ nữ Samari trắc nết : “Xin chị cho tôi uống nước với”. Một Vì Thầy quyền năng, có thể một tiếng phán ra cuồng phong bảo táp phải im hơi lặng tiếng, một lời réo gọi đã cho người chết thối tha trong mồ có thể bật dậy bước ra, có thể đuổi cả phung cùi bệnh tật, đuôi mù câm điếc, có thể trục xuất tà thần và bước đi băng băng trên mặt biển…thì cũng chính Đấng Quyền năng ấy lại chấp nhận bị bắt, bì kết án, bị tát vào mặt, bị lột áo quần trần truồng để chịu sĩ nhục tận cùng rồi phải vác thập giá lên đồi Sọ mà chịu đóng đinh giữa hai tên trôm cướp….Vâng, đó chính thánh ý của Thiên Chúa, đó chính là con đường của Thiên Chúa đã chọn và đã đi.
Nào chẳng phải Đức Kitô đã từng tuyên bố : “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Đường đó là Đường Thập Giá, Sự Thật đố là Sự Thật Khổ nạn và Sự Sống đó là Sự Sông phục sinh bắt nguồn từ Cuộc Vượt Qua đẩm máu trên đồi Sọ.
Chúng ta đừng ảo tưởng sẽ có một con đường cứu độ khác đẹp hơn, dễ thở hơn, nhẹ nhàng hơn, vinh quang hơn…Khước từ con đường của Đức Kitô, né tránh sự lựa chọn của Đức Kitô chính là “cản ngăn ý định của Thiên Chúa, là thỏa hiệp với Sa Tan”. Đức Kitô đã hét lên với Phêrô : “Satan hãy lui sau Thầy !”.
2. Cuộc hành trình “lên Giêrusalem hôm nay” :
Đã hai ngàn năm rồi, Hội Thánh không ngừng học mãi bài học hôm nay : bài học “đi lên Giêrusalem” của Thầy Chí Thánh; và tuy có đôi lúc, đôi nơi, Hội Thánh quên đi bài học đó để dừng lại chạy theo những “ông thầy” của thế gian, thì Hội Thánh lại được Chúa Thánh Thần lên tiếng cảnh báo, nhắc thầm, qua bao nhiêu dấu chỉ, con người, huấn dụ… Đặc biệt với những hình tượng sống động là dòng chảy không ngừng của các Thánh nhân với đông đảo chứng nhân anh hùng tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đồng trinh, các người cha, người mẹ thánh thiện, các thanh niên thiếu nữ quảng đại, những thiếu nhi trong sạch, can đảm…Vâng kể từ Vị tử Đạo đầu tiên Stêphanô bị ném đá chết trên chính quê hương của Đấng Cứu Thế, rồi đến lượt “Người Ngư Phủ” Phêrô bị đóng đinh ngược đầu trên đồi Vatican, Dân Chúa tiếp tục chọn lựa con đường của Đức Kitô, Con đường Thập Giá mà những Agata, Lucia, Lorensô…của những thế kỷ đầu tiên, cho đến Phanxicô Assisi, Anrê Phú yên, Tôma Thiện, Anê Thành, Gioan Vianey, Maria Goretti, Têrêxa hài Đồng, Maximiliannô Kolbê, Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta, Giám mục Rômêrô…đã không ngừng noi gương đi trước.
Chính vì thế, sống đức tin hôm nay đó chính là :
- Dám nói “không” trước những mời mọc của sự giàu có thế gian mà tiền bạc của cải là tích góp bởi những đầu tư bất chính để sẵn sàng vươn lên bằng lao động chân chính với nước mắt mồ hôi.
- Dám can đảm nói “không” trước những mời mọc của xác thịt đam mê, của ngoại tình ly dỵ… để bảo vệ cương thường luân lý của đời sống hôn nhân gia đình mà Bí Tích Hôn Phối đã mang lại.
- Dám nói “không” trước những dối trá lọc lừa, mánh mung bất chính, cho dù phải chấp nhận thua lỗ hoặc bị trù dập, chụp mũ…
- Dám nói không trước những ươn lười hưởng thụ ích kỷ, tìm kiếm an nhàn, né tránh bận bịu vất vả nhọc mệt, để được dấn thân phục vụ trong tăm tối, ẩn khuất và đôi khi nguy hiểm thương đau.
- Là sắn sàng nói “Có”, là biết không ngừng “Xin Vâng” khi gặp phải đắng cay bệnh hoạn, thất bại, tũi buồn…
- Là sẵn sàng nói có bằng đôi tay nhiệt thành phục vụ công ích, bằng ánh mắt vui tươi để sẻ chia và cảm thông, bằng trái tim bao dung để thứ tha và chấp nhận.
- Là như lời kinh hòa bình của Thánh Phanxicô Khó khăn : tìm an ủi người hơn được người ủi an, hiểu biết người hơn được người hiểu biết, yêu mên người hơn được người mến yêu…
Phải chăng đó chính là điều mà Thánh Phaolô trong trích đoạn thư Rôma hôm nay đã nhắc khéo chúng ta bằng những lời thâm thúy : “hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa…Anh em đừng có rập theo đời nầy nhưng hãy cải biến con người…hầu nhận ra thánh ý Thiên Chúa…”
Và cho dù chúng ta thoáng thấy ở cuối “cuộc hành trình lên Giêrusalem” đó chính là thập giá, là khổ nạn, thì cũng vẫn sắt son trung thành và tin tưởng để thân thưa với Chúa bằng tất cả trái tim nồng nàn tin yêu như ngôn sứ Giêrimia đã phát biểu trong Bài đọc 1 hôm nay : “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con và con đã để Ngài quyến rũ…Lời Ngài như ngọn lửa bừng cháy trong tim con…”
Và con đường “lên Giêrusalem” lại phải bắt đầu ngay hôm nay, giờ nầy, trong Nhiệm tích Thánh thể nầy như lời của ĐTC Bênêdictô nới với giới trẻ trong bài giảng bế mạc Ngày Thế Giới giới trẻ vừa qua tại Cologne :
Một lần nữa, cha phải trở về với đề tài Thánh Thể. Thánh Phaolô nói: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Điều này có nghĩa là: bởi vì chúng ta đón nhận cùng một Chúa và Người quy tụ chúng ta lại với nhau và lôi kéo chúng ta vào trong Người, chúng ta chỉ là một. Điều này phải biểu lộ trong đời sống chúng ta. Phải được thấy rõ trong chúng ta khả năng tha thứ. Phải được thấy rõ trong chúng ta sự nhạy cảm đối với nhu cầu của kẻ khác. Phải được thấy rõ trong chúng ta ước muốn chia sẻ. Phải được thấy rõ trong chúng ta sự dấn thân cho người thân cận, cả những người ở gần lẫn những người xa cách theo thể lý, mà chúng ta phải xem là gần. Ngày hôm nay có nhiều hình thức trợ giúp tự nguyện, những mô hình của sự phục vụ lẫn nhau, mà xã hội chúng ta đang cần đến. Chẳng hạn, chúng ta không thể bỏ rơi các người già cả, chúng ta không thể tránh qua một bên những ai đang đau khổ. Nếu chúng ta nghĩ và sống trong sự hiệp thông với Đức Kitô, con mắt chúng ta sẽ mở rộng. Khi ấy chúng ta không còn bằng lòng sống một cuộc đời cho chính mình, nhưng chúng ta sẽ thấy nơi nào và làm sao chúng ta đang được cần đến. Sống và hành động như thế, chúng ta sẽ sớm nhận ra rằng sống hữu dụng và sẵn sàng với người khác thì tốt hơn là chỉ quan tâm tới những tiện nghi đang mời mọc chúng ta. Cha biết rằng các con, những người trẻ, có những khát vọng lớn lao, các con muốn dấn thân xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Hãy tỏ bày điều đó cho con người, hãy tỏ bày điều đó cho thế gian, bởi vì chính đó là chứng tá mà thế gian chờ đợi nơi các môn đệ của Đức Giêsu Kitô; theo cách thức ấy, và nhất là qua tình yêu của các con, thế gian sẽ có khả năng khám phá ngôi sao mà chúng ta đang đi theo trong tư cách là những kẻ tin.
Chúng ta hãy tiến lên với Đức Kitô và sống đời sống chúng ta như những người thờ phượng đích thực Thiên Chúa! Amen.
LM. Giuse Trương Đình Hiền
--------------------------------
Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô:TN 22-A97
Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được "mạc khải" ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!
Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?
Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.
Từ lúc đó...
Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc "tuyên xưng đức tin" tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? "Từ lúc đó", Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.
Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.
Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã "chạy trốn" ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem "thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.
Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!
Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!
Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.
Từ ngữ "Người phải" luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng "mình phải", chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.
Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem "các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư...", mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy..."
Phêrô bị kết án là "kẻ cám dỗ" đối với Đức Giêsu "Xatan hư hại!"
Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: "Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.
“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội ... Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.
Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.
Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua "quan điểm con người" để chấp nhận "quan điểm của Thiên Chúa".
Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ "giản lược" cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.
Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.
Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo..."
Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.
Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: "Tôi muốn sống đời sống của tôi! " .
Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: "phải từ bỏ chính mình". Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.
Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ "phải nộp thân mình và đổ máu mình". Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?
Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải "mất" để “được".
Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.
Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: "Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa".
Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.
Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.
--------------------------------
Người xưa có nói: “Danh chính thì ngôn thuận.” Trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung hay của: TN 22-A98
Người xưa có nói: “Danh chính thì ngôn thuận.” Trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung hay của tác giả nào đó, các nhân vật thường hay tìm kiếm danh vọng và lợi thế cho mình bằng nhiều kiểu cách khác nhau. Có kẻ bạt kiếm thành danh, kẻ khác thì sáng tác những chiêu thức võ công diệu kỳ để gây tiếng vang trong giới giang hồ, nhưng cũng không ít những kẻ dùng mưu đồ chính trị bỉ ổi để tạo danh tiếng cho riêng mình. Để tìm kiếm một chính danh quân tử lý tưởng như Đức Khổng Tử quả thật là khó.
Trong thời đại Đế Quốc Rôma, hoàng đế Cesar tự xưng mình là chúa, trong khi đó, những người tuyên xưng mình là Ki tô Hữu đều bị bắt, bị hành hạ và xử tử. Đối diện với hoàng đế Cesar, nếu người Ky tô hữu tuyên bố từ bỏ tôn giáo của mình và tuyên bố Cesar là chúa thì người đó sẽ được tha về và còn được cấp bằng citizenship - bằng công dân hạng nhất thời bấy giờ. Nếu đi ngược lại, người đó sẽ bị tù đày hoặc bị xử tử.
Đây là một thử thách lớn đối với niềm tin của những Ky tô hữu tiên khởi. Bởi vì danh thánh Chúa Giê su Ky tô thách thức quyền lực tuyệt đối của thế gian như trong thư gởi cộng đoàn Philiphê, thánh Phao lo đề cập: Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ,muôn vật phải bái quỳ và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". Bài đọc hai đề cập muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê su đã chất vấn niềm tin nơi các môn đệ của mình: “Phần anh em, anh em gọi Thầy là ai?” Anh em là những người đã đi theo Thầy, nghe Thầy rao giảng, được chứng kiến những phép lạ Thầy làm và được Thầy sai đi công bố Tin Mừng vể Nước Trời, anh gọi thầy là ai? Trong số 12 vị tông đồ và 72 môn đệ, chỉ có Phê rô tuyên xưng: “Thầy là Đức Ky tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.” Đây là mấu chốt căn bản nhất, là chìa khóa đức tin của người Ky tô hữu, vì đó là sự mạc khải của Chúa Cha nơi Phê rô, là chính danh của Con Thiên Chúa làm người. Đó là lý do thánh Phê rô là người cầm giữ chìa khóa nước Trời, và cũng là chìa khóa vào nước Trời cho bất cứ ai chân nhận và tuyên xưng Đức Giê su Ky tô Con Thiên Chúa. Vì khi chúng ta chân thật chấp nhận và tuyên xưng Đức Giê su là Con Thiên Chúa, chúng ta phải trọn đời cam kết, sống trọn vẹn với lời tuyên xưng đó. Và cũng chính vì lời tuyên xưng đức tin đó mà biết bao người đã phải lao đao, khốn khổ, mất mạng: cha con chống đối nhau, vợ chồng đánh nhau, huynh đệ tương tàn, nước này chống đối nước kia, khủng bố bách hại Ky tô hữu, và vì thế chúng ta có các Thánh Tử Đạo. Đó là lý do tại sao: “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Ky tô hữu,” vì các ngài đám giám nói và giám làm và giám sống một cách trung tín với Đức Giê su cho đến giây phút cuối cuộc đời.” Và tôi nghĩ, đó cũng là lý do ông bà anh chị em tụ họp nơi đây để tuyên xưng đức tin của mình, để sống mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người qua việc cử hành thánh lễ này.
Tuy nhiên, việc tuyên xưng đức tin đó được Giáo Hội thực hành hơn hai ngàn năm nay, trước hết qua Bí tích Thanh Tẩy, bởi vì qua Bí Tích Thanh Tẩy, người tín hữu trở thành Ky tô hữu thật sự, được trở thành con cái Thiên Chúa, và được dự phần vào việc cử hành Bí Tích Thánh Thể của Giáo Hội. Vì Thánh Thể là nghi thức tưởng niệm sự chết và sống lại của Đức Giê su Ky tô. Trong Thánh lễ, Giáo hội dâng lời ngợi khen và chúc tụng lên Thiên Chúa Cha, Đấng đã ban cho nhân loại người con duy nhất của Ngài để cứu độ cho thế gian.
Phần mình mỗi người chúng ta gọi Đức Giê su là ai? Dù cho người ta nói Ngài là ngôn sứ, là Super Star, là thế này hay thế nọ, hoặc là ai đi nữa không cần thiết chi cho bằng chính bản thân mỗi người chúng ta tuyên xưng Ngài là ai. Vì chính khi chúng ta tuyên xưng đức tin qua lời nói, hành động và cuộc sống, sự tuyên xưng đó nuôi dưỡng đức tin chúng ta, tạo cho chúng ta ý thức làm người Ky tô hữu và ý thức một cách khiêm tốn mình là ai trước mặt Chúa. Chúng ta chẳng là gì cả trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa, thưa ông bà và anh chị em. Con người chúng ta quá nhỏ bé, mỏng dòn trong một thế giới quá lớn lao, trong một vũ trụ quá bao la. Vì thế mỗi người chúng ta phải tự vấn lương tâm mình về Đức Giê su Ky tô là ai trong cuộc sống của chúng ta? Ngài là con Thiên Chúa Hằng Sống hay tiền bạc, quyền lực thế gian là chúa của chúng ta? Chúng ta đến với giáo xứ, với thánh lễ để tuyên xưng đức tin của mình, để cử hành mầu nhiệm chết và phục sinh của Con Thiên Chúa hay tự tìm cho mình một chỗ đứng, một cái danh hay là củng cố quyền lực thế gian của mình?
Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta đón nhận Mình Thánh Chúa Ky tô, chúng ta cam kết cùng sống, cùng chết, cùng sống lại với Ngài và tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian này. Chúng ta hãy tự vấn bản thân mỗi người qua lời nói và hành động của mình có là một Ky tô hữu thực sự, có danh chính ngôn thuận hay không khi cử hành Mầu nhiệm Thánh này?
Hoàng Cát Minh, O.Carm
--------------------------------
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình: TN 22-A99
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm". (Mt 16, 21-27).
Có phải cuộc sống trần gian xưa hay nay cũng vẫn cứ như thế thôi! Cuộc đời của mỗi người thì cứ như giòng sông nước cứ mãi luôn cuốn trôi. Khi thì rất lặng lờ êm ả!? Khi thì như nước xoáy cuốn chẳng ngừng nghỉ ngơi!? Cuộc đời trần gian thì có phải là của những tham, sân, si; Của những tham danh, lợi, thú trần; Là ao ước mong sao cho có được quyền thế lực để muốn được thiên hạ phục vụ và để luôn được hưởng thụ. Có ai trên đời lại thích phải vất vả!? Lại thích được hay làm dưới quyền của ai!? Lại thích phải đi làm việc dù là đến nơi để chỉ ngón tay, để la, để hét, để làm cho mọi người lên máu, để làm cho thần kinh của mọi người bị căng thẳng, và làm cho mọi người đều thù ghét mình. Cả một đời người thì hình như ai ai cũng quay mòng mòng như cái chong chóng, hết ngày rồi lại hết tháng năm, chỉ để hy vọng được hưởng thụ những thứ trên!?. Những thứ mà không đem lại cho ta hạnh phúc trường tồn. Những thứ mà chỉ đem lại cho ta mọi phiền phức. Những thứ mà chỉ làm hại cho thân xác yếu hèn và hay chết của chúng ta. Nếu thân xác hay chết này của chúng ta có chết đi thì cũng trở về với đất vì chúng ta thuộc về đất. Nhưng còn linh hồn của chúng ta thì đi đâu khi thân xác của ta đã rữa tan chỉ còn lại đống xương tàn theo năm tháng trong lòng của đất lạnh?
Có mấy ai có được thời giờ thảnh thơi mà dành cho mình giây phút để nghĩ suy xem cuộc đời của ta có giống như là cơn gió thoảng. Có giống như là một khắc của giây qua đi như tiếng kêu của chiếc đồng hồ tíc tóc tíc tóc? Từng tiếng tíc tóc là thời gian trôi qua không được ai nhắc nhở? Có mấy ai có thời giờ để nghĩ được có chắc gì sáng ngày mai đây ta còn sống thêm được một ngày nữa hay không!? Nếu trong anh chị em của chúng ta có được một phút giây nào đó khi mà tinh thần hoàn toàn được tĩnh lặng, bình tâm, thoải mái, và nghỉ ngơi thì họa chăng ta mới thực sự cảm nhận được rằng cuộc đời này tất cả sẽ qua đi như hoa sớm nở tối tàn. Hoặc cảm nhận được rõ ràng như những người anh chị em của chúng ta đang sống dở chết dở, nằm trên giường bệnh, và đếm thời gian trôi qua ngay trước mắt, từng giờ một, từng phút và từng giây một. Có người thì rất e ngại thay, vì ông thần chết đến gõ cửa không biết ở vào giờ phút nào!?. Phải chăng khi ta có được sự bình an của Chúa là khi anh chị em này đã chuẩn bị sẵn cho mình một hành trang để qua bên kia của một thế giới khác hơn, khá hơn, tốt lành hơn, sáng láng vui vẻ hơn, thì ngay ở giờ phút mà anh chị em này, được mọi người tiễn chân mình ra đi là giờ phút vui mừng nhất, vì là được trở về với Chúa? Có ai được đi đoàn tụ mà không tỏ lộ vẻ vui mừng, khấp khởi hân hoan, trong một tâm tình trông đợi người thân của mình bao giờ không!? Gặp được người thân thiết đang chờ đợi chúng ta!? Và nhất là trông đợi giây phút được diện kiến Thiên Nhan của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cả Thiên Quốc cũng đang chuẩn bị để chào đón chúng ta trở về, y như hình ảnh của anh chị em tại hội trường Olympic trông đợi đoàn người của anh chị em mình trở về được tới đích; Nhưng đối với nước Trời thì dù là chúng ta có về được nhất, nhì, ba, hay cùng nối đuôi theo sau nhau, đều được dự phần Yến Tiệc mà Thiên Chúa đã dọn sẵn và đang trông đợi ở chúng ta.
Có phải ở đời thường của con người và tâm tánh của chúng ta thì không một ai muốn từ bỏ một thứ hay điều gì mà ta đang có, nhất là cái có đó có thể bán có tiền. Người ta hay nói cái câu: "Có tiền thì đẻ ra tiền". Không có cái gì mà ta muốn vất bỏ đi cả! Cái áo hay nhất là cái quần jean đã cũ kỹ sờn rách nhưng nếu là tên hiệu thì cũng bán có tiền được, vì cũng có rất nhiều người chịu và muốn mua. Cái gì có tên hiệu cũng bán được cả! Đôi khi lại không rẻ lắm đâu, vì có nhiều người cũng tranh nhau mua cho được. Con người khi mà sống bề ngoài nhiều thì hầu như ta cũng không thể nào hiểu và giải thích cho được những điều mà những anh chị em này suy nghĩ. Có phải khi ta có tiền thì làm cho ta trở thành không được bình thường không? Đó là điều mà tôi và rất nhiều người cũng không hiểu được. Còn như tôi thì chắc cũng không khác gì lắm so với những anh chị em khác của tôi là tôi cũng rất khó mà bỏ đi một thứ gì tôi đã sắm. Thứ nhất vì tôi nghèo nên sắm đồ rất kỹ và rất lâu. Thứ hai vì không có tiền để thay đổi những gì tôi đang có, tuy dù nó cũng đã sờn rách và phai mầu đi nhiều rồi!. Thứ ba là tôi xài đồ rất kỹ như câu ông bà mình xưa hay nói là: "Của bền thì tại người". Cho nên tôi thành thật mà nói, khi mà bảo tôi bỏ một vật gì hay thứ gì là tôi và ông xã của tôi hay xung khắc và luôn cãi vả nhau về vấn đề này.
Nhưng có phải những điều tôi nêu ở trên, cũng chỉ là ý thật nhỏ, so với Ý của Chúa không? Tôi thiết nghĩ Ý của Chúa sâu sắc hơn ý của con người chúng ta nhiều khi Ngài nói với các môn đệ của Ngài rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm".
Theo tôi hiểu ý Chúa muốn nói với chúng ta là hãy từ bỏ những gì mà có thể làm cản trở con đường để ta trở về Quê Trời. Mà những điều và những gì có thể cản trở chúng ta quay về Quê Trời??? Thưa dễ để biết lắm anh chị em ạ! Thưa có thể hằng ngày thường là những lời nói làm đau đớn anh chị em của mình? Tôi thấy miệng lưỡi dân gian tuy không xương nhưng lại là những con dao sắc bén có thể cắt từng thớ thịt của anh chị em mình được, vì có phải một lời nói độc ác mà đã làm uất ức và giết chết anh chị em của mình được hay không!?. Đây là liều thuốc độc mà bất cứ ai cũng có thể giết người được, mà chẳng cần dùng đến thuốc độc, gươm, dao, súng, hay những gì mà pháp luật có thể buộc tội ở một người.
Tôi nghĩ Chúa chẳng có bắt mình làm hay bỏ những gì mà quá đáng ta không làm được đâu! Chỉ cần ta nhịn bớt để chia sẻ với anh chị em có nhu cầu đang cần đến sự giúp đỡ của mình!? Chỉ cần ta không làm ngơ trước những nhu cầu mà anh chị em ta cần là được. Ta có thể bỏ ống thay vì dùng tiền để mua máy chơi game mà giúp cho anh chị em mình được chứ!? Ta có thể thỉnh thoảng nhịn một ly cafe để mua cho anh chị em mình một bữa ăn. Hay câu thành ngữ mà tôi ưa thích nhất, được nghe từ khi tôi còn nhỏ là: "Con ăn thì hết, nhưng người ăn thì còn". Thuở còn nhỏ tôi chẳng hiểu được ý của câu này, nhưng khi lớn khôn và có con cái tôi đã hiểu vì sao cho con ăn thì lại hết mà người ăn thì lại còn hoài? Có phải chăng con cái thì chẳng bao giờ ta để chúng đói mà lại còn bắt chúng ăn cho đến ngán và ứ hự, trong khi người anh chị em của chúng ta thì kiếm cho ra một miếng ăn cũng không có, thì nhịn một món ăn chơi cho các con của mình mà nhường cho anh chị em khốn khổ thì họ sẽ nhớ đến mình mãi, vì cuộc đời mà. ... ai có biết được ngày mai ra sao!? Hôm nay ta còn nhà còn cửa, còn chồng vợ, còn con cái, còn họ hàng, còn tất cả! Nhưng ngày mai đây khi ta hai bàn tay trắng, ai sẽ còn nhớ đến ta? Có phải là những người anh chị em mà xưa khi họ khát ta cho họ uống? Khi họ đói ta cho họ ăn, và khi họ rách rưới ta cho họ mặc không?
Quả thật có phải quả đất thì rất tròn? Có phải cuộc sống là những gì bất ngờ ta không bao giờ lường trước cho được. Bao nhiêu cuộc đổi đời Chúa đã dậy cho chúng ta thấy, cuộc đời chẳng cho ta hứa hẹn, trừ Tình Yêu mến ta dành cho Ba Ngôi Thiên Chúa và cho tất cả anh chị em của chúng ta. Vì có phải Chúa hứa với tất cả anh chị em chúng ta là Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc chúng ta đã, đang, và sẽ làm hay không!?.
Lậy Chúa! Sức yếu hèn và hay chết của chúng con thì luôn yếu đuối, phạm tội, mê đắm những của chóng qua hay teng sét của trần gian này. Nguyện xin Thiên Chúa thêm cho chúng con sức mạnh, ơn bền đỗ, để vượt qua tất cả những cạm bẫy của Satan luôn phơi bầy và giăng trước mắt, dụ dỗ, che mắt, đánh lạc hướng đường về Quê Trời của chúng con. Với ơn của Chúa ban, dù rất nhỏ nhưng cũng đủ để chúng con chiến đấu với kẻ thù không đội trời chung của chúng con. Ơn của Chúa giúp chúng con nhận ra con đường rẽ trái hay rẽ phải để tìm gặp Nhà của Thiên Chúa. Đương nhiên sự chiến thắng đó chúng con hiểu không phải dễ dàng có được nếu chúng con không cố gắng. Để chiến thắng thế gian, có phải chúng con cứ con đường mà Chúa chỉ dậy là con đường dẫn đến Thập Tự Giá, là con đường chúng con phải tập chết đi mỗi ngày, trong nguyện cầu, trong Lời Hằng Sống của Chúa, và trong mọi khổ đau của chúng con phải vượt qua là tập từ bỏ chính mình mà đi theo Chúa. Hay chúng con có được đức tin giống như Thánh Phêrô, muốn được đi đến với Chúa Giêsu trên biển hồ năm nào!? Phải chăng là từng bước một, từng bước một. ...??? Bởi có phải đối với Thiên Chúa thì tất cả mọi sự đều có thể được, ngay cả việc Chúa ban cho đi trên mặt nước của biển hồ, chỉ cần chúng con có đức tin bằng hạt cải!?? Amen.
Tuyết Mai
------------------------------------------
Tuần trước chúng ta chứng kiến cảnh Chúa Giêsu khen Thánh Phêrô vì lời tuyên xưng đức tin của: TN 22-A100
Tuần trước chúng ta chứng kiến cảnh Chúa Giêsu khen Thánh Phêrô vì lời tuyên xưng đức tin của ngài, và hứa đặt ngài làm nền tảng mà trên đó Người sẽ xây Hội Thánh Người, cùng trao cho ngài chìa khoá Nước Trời. Tuần này Chúa Giêsu mắng Thánh Phêrô cách nặng lời vì ngài đã suy nghĩ theo thế gian mà không suy nghĩ theo Thiên Chúa. Mặc dù Thánh Phêrô được Chúa Cha soi sáng cho biết rằng Chúa Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, nhưng quan niệm của ngài và các môn đệ khác về Đấng Kitô vẫn là quan niệm của người Do Thái hồi đó: một Đấng Kitô sẽ phục hồi nước Israel. Ngay cả sau khi Chúa sống lại, các môn đệ vẫn hỏi Người, “Thưa Thầy, có phải Thầy sẽ khôi phục vương quốc Israel lúc này không?” (Cv 1:6). Để cho các môn đệ khỏi bị cám dỗ vì bã vinh hoa, Chúa Giêsu tiên báo cho các ngài về cuộc khổ nạn của Người, đồng thời nói trước cho các ngài rằng ai muốn theo Người đến vinh quang thì phải chấp nhận đau khổ trước, nghĩa là “phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người” (x. Mt 16:24).
Mt 16:21 - Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại.
Trước kia Chúa Giêsu chỉ nói bóng gió (Mt 12:40), nhưng bây giờ Người nói tỏ tường và chi tiết cho các môn đệ về cái chết của Người (xem Mk 8:31-32; Lk 9:22). Thánh Marcô còn thêm là Người nói cách công khai. Chúa nói rõ về cái chết của Người vì nó sẽ xảy ra trong lần lên Giêrusalem này. Nhưng Người cũng cho biết rằng sau ba ngày Người sẽ sống lại. Như thế đau khổ và cái chết của Chúa không phải là hết mà là một tiến trình đi tới Phục Sinh. Cũng thế, những đau khổ chúng ta chịu trên đời này vì yêu mến Chúa cũng sẽ dẫn đến phục sinh, nếu không thì cuộc đời hoàn toàn vô nghĩa.
Có một điều trớ trêu là những người làm khổ Chúa lại là các kỳ lão, thượng tế và luật sĩ, là những người lãnh đạo dân Thiên Chúa. Ngay từ đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, những người Pharisêu, nhóm Hêrôđê, cùng các tư tế và luật sĩ đã cùng nhau bày mưu hại Người. Vì việc Người trừ quỷ, chữa bệnh trong ngày sabath, thân mật với người thu thuế và tội lỗi…, mà nhiều kẻ nghi Người bị quỉ ám. Họ tố cáo Người là phạm thượng, ngôn sứ giả, tay chân của Satan, chống lại Lề Luật, Ðền Thờ và niềm tin vào Một Thiên Chúa. Nhưng không phải đa số dân Do Thái, mà chỉ có các nhà lãnh đạo tôn giáo tại Giêrusalem đã coi nhiều lời nói và và việc làm của Người là "dấu hiệu chống đối" (x. GLCG 574-576).
Ngày nay Chúa cũng đang đau khổ vì một số người lãnh đạo trong Dân Mới của Chúa là Hội Thánh. Có biết bao người đang nắm các chức vụ trong các cộng đồng, các giáo xứ, không phải để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân mà để tìm hư danh. Chính vì thế mà trong nhiều giáo xứ có những tranh chấp giữa giáo dân với giáo dân và giữa giáo dân với các linh mục. Có nhiều linh mục coi tác vụ của mình như là một nghề nghiệp chứ không phải ơn kêu gọi, nên mới có những linh mục hống hách, thiếu đạo đức, mê tiền, nhiều khi cả sắc dục, lạm dụng tính dục trẻ em, bất phục tùng bề trên…. Có nhiều thần học gia ở các trường Đại Học Công Giáo nổi tiếng công khai chống lại giáo huấn của Hội Thánh…. Họ là những kỳ lão, thượng tế và luật sĩ của thời đại chúng ta. Nhiều môn đện chân chính của Chúa cũng đang bị khinh ghét và tẩy chay bởi những người này khắp nơi.
Mt 16:22 - Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu".
Lạy Thầy, không thể được là dịch câu ιλεως σοι κυριε. Dịch sát nghĩa là Lạy Chúa, xin thương xót chính Mình. Thánh Phêrô đã biết rằng Người là Ðức Kitô nên nghĩ rằng Người có quyền năng để bảo vệ chính mình Người khỏi mọi mưu mô thâm độc của người Do Thái. Ở đây Thánh Phêrô khuyên Người dùng quyền đó để tự cứu mình như Người đã làm ở Nadareth, hay đã làm cho dân chúng. Có sách dịch là “Xin Thiên Chúa thương” cũng đúng nhưng không rõ nghĩa, vì Ðức Kitô cũng là Thiên Chúa. Thánh Phêrô nói thế vì ngài vẫn hiểu về vai trò của Ðức Kitô như những người Do Thái khác hiểu. Ngài không thể tưởng tượng được là Thiên Chúa có thể để cho người phàm làm hại mình.
Mt 16:23 - Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Phản ứng của Thánh Phêrô không có gì là sai lầm cả. Đó chỉ là phản ứng của một môn đệ nhiệt thành yêu Thầy, và không muốn Thầy phải đau khổ và chết như thế. Ðức Cha GB Bùi Tuần cho rằng Thánh Phêrô muốn xây dựng và bảo vệ uy tín của Thầy mình (Nói với Giáo Dân, tr,.43). Chính vì lý do đó mà ngài đã vô tình cản trở sứ vụ cứu độ của Thầy mình là làm theo Ý Ðức Chúa Cha. Chúa Giêsu trách mắng ngài bằng cách gọi ngài là “Satan” nghe ra có vẻ quá đáng. Có lẽ Chúa không mắng Thánh Phêrô, nhưng vì Người thấy “Satan” đang nấp sau lời nói vô tội của Thánh Phêrô mà cám dỗ Người, để Người không tuân phục Thánh Ý Chúa Cha, tìm cách tránh Thánh Giá này, nên Người đã thẳng tay xua đuổi nó. Mục đích của Chúa Giêsu xuống trần là để làm theo Thánh Ý Đức Chúa Cha. Người nhất quyết vâng phục Chúa Cha cho đến chết, dù phải chết trên thập giá. Satan đã một lần cám dỗ Người dùng quyền phép của Mình mà làm sai chương trình của Chúa Cha (x. Mt 4:1-11). Hôm nay nó lợi dụng sự hiểu biết nông cạn của Thánh Phêrô mà cản bước Người. Việc này cho chúng ta thấy rằng ma quỷ có thể dùng cả những lời nói vô tình của những người thân yêu nhất của chúng ta mà cám dỗ chúng ta phạm tội. Thái độ của Chúa dạy chúng ta rằng khi bị ma quỷ cám dỗ hãy thẳng tay xua đuổi chúng mà không do dự gì cả.
Đôi khi vì quá hăng say mà chính chúng ta cũng hành động như Thánh Phêrô, cản trở công việc của Thiên Chúa và làm cớ cho người khác vấp phạm. Có khi vì muốn giúp đỡ Hội Thánh mà chúng ta đem hết khả năng ra phục vụ. Vì tin vào khả năng của mình và sợ hỏng việc nên chúng ta ôm đồm đủ thứ mà không dám trao việc cho người khác. Vì cho rằng mình tài giỏi nên chúng ta chỉ làm việc theo sáng kiến của mình mà không hỏi ý kiến những người kinh nghiệm hơn mình. Đôi khi vì tự ái chúng ta cảm thấy bị xúc phạm khi những người khác đưa ra ý kiến, dù là ý kiến xây dựng. Chúng ta vô tình đã biến lòng nhiệt thành của mình thành một tảng đá ngăn cản những chương trình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu hôm nay cũng bảo chúng ta “hãy lui lại đàng sau Thầy” như Người đã bảo Thánh Phêrô. Nghĩa là hãy để Chúa dẫn chúng ta theo đường lối của Người, chứ đừng đi trước Người. Sở dĩ chúng ta làm như thế vì chúng ta chỉ biết suy nghĩ và hiểu biết theo cách của loài người, chứ không theo cách của Thiên Chúa. Muốn theo cách của Thiên Chúa thì cần phải kết hợp mật thiết với Ngài. Mà muốn kết hợp mật thiết với Ngài thì cần cầu nguyện, cầu nguyện liên lỉ. Từ đó, Đức Kitô và Chúa Thánh Thần sẽ ngự trong chúng ta để rồi chúng ta sống mà không còn chúng ta sống, nhưng Đức Kitô sống trong chúng ta (x. Gal 2:20).
Mt 16:24 - Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy.
Muốn hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa thì chúng ta phải trở thành những môn đệ chân chính của Đức Kitô. Chúa muốn môn đệ của Người phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người (x. Mk 15:21; Lk 9:23). Thánh Luca còn thêm chữ hằng ngày. Từ bỏ chính mình là phải quên mình đi, quên quyền lợi, danh dự, và cả mạng sống mình vì Chúa. Ai theo Chúa mà còn có cái tôi, còn tự ái, thì không phải là môn đệ thật của Chúa.
Thập Giá hay “Thánh Giá là hy tế duy nhất của Ðức Kitô, ‘Ðấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người"’ (1Tm 2:5). Nhưng, vì khi nhập thể, Con Thiên Chúa "’đã kết hợp với tất cả mọi người’ (Gaudium et Spes 22,2), nên đã ‘ban cho mọi người khả năng được thông phần vào mầu nhiệm Vượt Qua cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi"’ (Gaudium et Spes 22,5). Người mời gọi môn đệ ‘vác thập giá mình mà theo Người’ (Mt 16:24), vì "’Người đã chịu đau khổ vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người’ (1 Pr 2:21). Thật vậy, Người muốn cho những kẻ đầu tiên được hưởng nhờ hy tế đó, cùng thông phần vào hy tế cứu độ của Người (x. Mc 10,:39; Ga 21:18-19; Cl 1:24). Ðiều ấy được thể hiện tột bực nơi Thân Mẫu của Người, Ðấng đã thông phần vào mầu nhiệm đau thương cứu độ của Người mật thiết hơn ai khác (x. Lc 2:35): ‘Ngoài thập giá, không có chiếc thang nào khác để lên trời’ (T. Rôsa thành Lima)” (GLCG 618).
Ngày nay, thập giá của chúng ta có thể là những việc đáng lẽ chúng ta phải làm mà chúng và không muốn làm vì thấy nặng nhọc. Cũng có thể là những hy sinh lớn lao như mạng sống của mình. Nhưng thông thường thì thập giá là chính bổn phận của chúng ta, cùng với những khó khăn, bệnh tật, đau khổ, hiểu lầm, thù ghịch, ghen ghét và khó chịu… mà chúng ta gặp hằng ngày.
Vác thập giá là vui lòng chấp nhận tất cả để chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa. Một môn đệ thật là người khi theo Chúa trong nghèo khổ thì không cảm thấy túng thiếu; khi theo Chúa trong dư dật thì không thấy kiêu căng; khi theo Chúa trong đau khổ, thì không thấy nhục nhã; khi theo Chúa trong vinh quang thì không thấy hãnh diện; nhưng luôn an bình và vui mừng vì được theo Chúa.
Nhờ quyền năng của Thánh Thần, chúng ta có thể làm được những viêc tốt lành. Ðấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ giúp chúng ta trổ sinh "hoa quả của Chúa Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, quảng đại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ" (Gl 5:22-23). Chúa Thánh Thần là sự sống của chúng ta; chúng ta càng từ bỏ ý riêng (x. Mt 16:24-26) thì "Chúa Thánh Thần càng hướng dẫn đời chúng ta"(Gl 5:25) (x. GLCG 736).
Mt 16:25 - Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.
Người muốn cứu mạng sống mình là người ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình. Chúa nói rõ là không ai giữ được mạng sống mình cả. Nhưng ai liều thân vì Chúa, làm mọi sự theo Thánh Ý Chúa, thì sẽ được sống, vì chính Chúa là sự sống (x. Ga 1:4; 11:25), và Người có quyền ban sự sống cho ai tuỳ theo ý Người (x. Ga 5:21). Sự sống mà Chúa nói ở đây là sự sống đời đời.
Mt 16:26 - Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?
Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Câu này dịch theo cách dịch của các học giả Kinh Thánh hiện đại nên tối nghĩa. Sự sống ở đây không có nghĩa là sự sống thể xác mà là sự sống linh hồn. Đáng lẽ phải dịch là: Nếu ai được lợi cả thế gian, mà mất linh hồn mình, thì được ích gì?
“Thánh Kinh thường dùng thuật ngữ linh hồn để chỉ sự sống con người ( x. Mt 16:25-26; Ga 15:13) hoặc toàn diện con người (Cv 2:41). Nhưng cũng dùng để chỉ cái thâm sâu nhất (Mt 10:26-38), giá trị nhất nơi con người ( x. Mt 10:28; 2Mca 6:30), nhờ đó con người là hình ảnh Thiên Chúa cách đặc biệt: "linh hồn" là nguyên lý thuần linh nơi con người” (GLCG 363).
Ðây là một lời cảnh cáo rất quan trọng của Chúa. Nhiều dịch giả Kinh Thánh ngày nay dịch chữ ψυχη là sự sống thay vì linh hồn ở câu này vì họ quá chú trọng đến Phương Pháp Phân Tích Bản Văn mà không để ý đến Truyền Thống Hội Thánh. Thực ra chữ ψυχη có nghĩa là hơi thở, sự sống, đời sống, linh hồn. Như thế phải theo mạch văn và truyền thống mà dịch. Theo mạch văn, dịch là đời sống thì quá tối nghĩa, mà dịch là linh hồn thì sáng sủa hơn, vì đời sống thiêng liêng chính là linh hồn, nhưng nếu không nói rõ thì người đọc có thể hiểu lầm là sinh mạng. Người ta đổi mạng của nhau là thường, nhưng không ai đổi được linh hồn. Các giáo phụ La Tinh như Thánh Giêrônimô, Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô, và Thánh Thôma Aquinô đều dịch là anima – linh hồn trong câu này. Các giáo phụ Hy Lạp không có trở ngại gì vì các ngài dùng tiếng Hy Lạp.
Mục đích chính của chúng ta khi sống trên đời này là làm mọi sự để được rỗi linh hồn. Làm ăn, ngủ nghỉ, dựng vợ, gả chồng,... tất cả là làm theo Thánh Ý Thiên Chúa. Nếu chúng ta đạt được tất cả mọi sự ở đời mà mất linh hồn thì thật khốn nạn cho chúng ta!
Mt 16:27 - Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm".
Ðức Kitô lên trời với cả nhân tính, thông phần vào quyền năng của Thiên Chúa. Người là Chúa và cũng là Ðầu Hội Thánh, nên Người vẫn lưu lại trần thế trong Hội Thánh. Từ khi Ðức Kitô lên trời, ý định của Thiên Chúa bước vào giai đoạn hoàn thành. Tuy đã hiện diện trong Hội Thánh, nhưng triều đại của Người chưa hoàn tất "một cách đầy quyền năng và vinh hiển". Triều đại này còn bị các thế lực sự dữ tấn công dù cơ bản chúng đã bị Người đánh bại. Vì vậy, các tín hữu cầu xin Ðức Kitô mau trở lại. Theo Ðức Kitô, thời hiện tại là thời của Thánh Thần và của chứng nhân, cũng là thời Hội Thánh gặp nhiều thử thách và chiến đấu. Ðây là thời gian chờ đợi và canh thức. Từ khi Người lên trời, ngày trở lại vinh quang của Người luôn gần kề, dù ta không biết rõ thời giờ. Ngày trở lại của Người tùy thuộc vào việc "toàn thể Israel" nhận biết Người, sau khi các dân ngoại gia nhập đông đủ. Trước khi Ðức Kitô trở lại, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng, rồi mới được bước vào vinh quang (x. GLCG 668-677)
Với tư cách là Ðấng Cứu Thế, Ðức Kitô có toàn quyền xét xử hành vi và tư tưởng của con người. Khi đến phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày tận thế, Người sẽ phơi bày mọi tâm tư thầm kín, và thưởng phạt mỗi người theo việc họ làm, tùy họ đón nhận hay từ chối ân sủng của Người. (x. GLCG 678-679).
Lạy Chúa, nhiều lần con đã theo ý mình mà trở thành cớ làm cho nhiều người vấp phạm và cản trở công việc của Chúa. Xin Chúa giúp con biết “từ bỏ mình hằng ngày, vác Thập Giá mình” mà theo Chúa với một lòng đầy phó thác như Mẹ Chí Thánh của Chúa, và với một lòng nhiệt thành như Thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại của chúng con. Amen.
Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận
1. Trong câu 21 Chúa Giêsu báo cho các môn đệ điều gì? Tại sao?
2. Thánh Phêrô có ý tốt hay xấu trong câu 22? Nếu bạn thật sự yêu mến và lo lắng cho Chúa, bạn có làm như Thánh Phêrô ở câu này không?
3. Tại sao Chúa Giêsu trả lời Thánh Phêrô như thế? Có phải Chúa gọi Thánh Phêrô là Satan không? Nếu không thì Người gọi ai?
4. Trong tất cả các suy nghĩ của chúng ta, bao nhiêu phần trăm là suy nghĩ theo Thiên Chúa và bao nhiêu phần trăm là theo loài người?
5. Những hoạt động và thái độ nào là trọng tâm của một môn đệ của Ðức Kitô? Làm sao để từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Chúa?
6. Một Kitô hữu làm gì để mất mạng sống mình vì Ðức Kitô? Ðiều gì có thể làm cho người ta mất linh hồn? Thường người ta đổi linh hồn mình để lấy cái gì?
7. Lời Chúa trong câu 26 ảnh hưởng gì đến việc xắp đặt những ưu tiên của đời bạn?
8. Câu 27 có chứng tỏ cho bạn thấy rằng tin Chúa mà thôi thì chưa đủ để rỗi linh hồn không?
Phaolô Phạm Xuân Khôi
------------------------------------------