Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 20 TN–A bái 101-150: Này bà, bà có lòng mạnh tin

Thứ bảy - 19/08/2017 08:55
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 20 TN–A bái 101-150: Này bà, bà có lòng mạnh tin
Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 20 TN–A bái 101-150: Này bà, bà có lòng mạnh tin

Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 20 TN–A bái 101-150: Này bà, bà có lòng mạnh tin

------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 15, 21-28: “Này bà, bà có lòng mạnh tin”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”. Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 20-A101:  Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 2
TN 20-A102: Đức tin là một lộ trình. 4
TN 20-A103: Ai là người Israel – Lm. Vũ Đình Tường. 6
TN 20-A104: Kỳ thị – Lm. Vũ Đình Tường. 8
TN 20-A105: Tình Mẹ cao quý. 9
TN 20-A106:  TẤT CẢ VÌ YÊU.. 13
TN 20-A107: Ơn cứu độ được ban cho mọi người 15
TN 20-A108: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN A.. 18
TN 20-A109: Khi đời không mỉm cười – Thiên Phúc. 22
TN 20-A110: Kiên trì và vững tin. 24
TN 20-A111: Suy niệm Tin mừng Chúa nhật 20 Thường niên, năm A, 26
TN 20-A112: Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật XX TN, năm A, của Trầm Thiên Thu. 27
TN 20-A113:  ĐỨC TIN VỮNG MẠNH.. 32
TN 20-A114: Đức Tin Của Một Người Mẹ. 33
TN 20-A115: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN.. 36
TN 20-A116:  Này Bà Lòng Tin Của Bà Mạnh Thật! 37
TN 20-A117: DÂN NGOẠI CŨNG ĐƯỢC HƯỞNG ƠN CỨU ĐỘ.. 39
TN 20-A118: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN.. 41
TN 20-A118: LÒNG TIN KIÊN NHẪN CỦA MẸ ĐÃ CỨU CON.. 43
TN 20-A120: BÁM CHẮC VÀO CHÚA.. 45
TN 20-A121: CHO CON VỮNG TIN.. 46
TN 20-A122: NHẬN BIẾT MÌNH.. 48
TN 20-A123: SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN.. 49
TN 20-A124: CẢM THẤU NỖI ĐAU.. 50
TN 20-A125: MẢNH VỤN KHÔNG THỪA.. 52
TN 20-A126: KIÊN TRÌ VÀ VỮNG TIN.. 55
TN 20-A127: TÌNH MẸ ĐÃ CỨU CON.. 57
TN 20-A128: ĐỐI THOẠI VÀ NIỀM TIN.. 59
TN 20-A129: KIÊN TRÌ VÀ KIÊN TRÌ 62
TN 20-A130: SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU.. 63
TN 20-A131: LÒNG TIN.. 65
TN 20-A132: CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN_A.. 67
TN 20-A133: ĐỨC TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH.. 70
TN 20-A134: BÀ MUỐN SAO THÌ SẼ ĐƯỢC VẬY.. 74
TN 20-A135: ÂN SỦNG.. 76
TN 20-A136: VĂN HÓA ĐỨC TIN.. 77
TN 20-A137: SUY NIỆM CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN. NĂM A.. 78
TN 20-A138: “LỜI” THỬ ĐỨC TIN.. 81
TN 20-A139: NIỀM TIN SẮT ĐÁ CỦA MỘT DÂN NGOẠI 83
TN 20-A140: BÀ MUỐN SAO THÌ SẼ ĐƯỢC VẬY! 86
TN 20-A141: CHÓ CON CŨNG ĐƯỢC ĂN.. 89
TN 20-A142: MẪU HÌNH ĐỨC TIN.. 91
TN 20-A143: NHỜ CHÚA BAN HAY BỊ CHÚA GIAM... 94
TN 20-A144: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN_A.. 95
TN 20-A145: Những mảnh vụn. 98
TN 20-A146: Dân ngoại cũng là dân của Chúa. 100
TN 20-A147: Chúa muốn cứu rỗi mọi người 103
TN 20-A148: Ơn đức tin trong cơn hoạn nạn khốn khó. 110
TN 20-A149: Chúa Nhật 20 Thường Niên. 113
TN 20-A150: Thử thách dường như quá sức. 115

------------------------------------------



 

TN 20-A101:  Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 
 

Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi…  Lời cầu xin trên của người đàn bà Ca-na-an TN 20-A101


“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Lời cầu xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phê-rô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”

Quả thế, đoạn tin mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Ca-na-an thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà It-ra-en mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phê-rô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Ca-na-an này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.

Còn về phía người đàn bà Ca-na-an, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn - “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Ca-na-an hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!

Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Ma-ri-a tại thôn xóm Na-da-rét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.

Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Ma-ri-a. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Ma-ri-a, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Ma-ri-a Na-da-rét và Ma-ri-a Mác-đa-la bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.

-------------------------------
 
 

TN 20-A102: Đức tin là một lộ trình

 
 

Tháng 12 năm 1987 một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Armênia, đã cướp đi sinh mạng TN 20-A102


Tháng 12 năm 1987 một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Armênia, đã cướp đi sinh mạng hàng ngàn người, trong số những người bị chôn vùi trong đống đổ nát có mẹ con bà Suzanna may mắn nằm gọn trong một khoảng trống của những bức tường sụp đổ. Lương thực họ có được là một hủ mứt nhỏ, nhưng chẳng bao lâu hủ mứt hết sạch, đứa con nói với bà mẹ: "mẹ ơi con khát", bà mẹ không biết tìm đâu ra nước cho đứa con, nhưng tình mẫu tử đã thôi thúc bà nẩy ra một hành động táo bạo, bà đưa tay nhặt lấy miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay cho máu chảy ra rồi đưa lên miệng cho đứa con 4 tuổi mút, nhưng không lâu thì đứa con lại kêu lên nữa, bà cắt ngón thứ hai, rồi ngón thứ ba... nhưng may mắn lại đến với mẹ con bà là đội cứu hộ tìm đến và đưa hai mẹ con ra khỏi đống đổ nát an toàn, nhiều người đến chúc mừng và hỏi thăm động lực nào khiến bà làm chuyện đó? Bà chỉ trả lời "tôi muốn con tôi được sống". Báo chí đã nhiều ngày ca tụng tình mẫu tử và sự hy sinh của bà mẹ xứ Armênia này.

Hôm nay thánh Matthêu cũng giới thiệu cho chúng ta một người mẹ xứ Canaan chấp nhận và hy sinh mọi sự chỉ vì đứa con, nhưng Chúa Giêsu không khen ngợi tình mẫu tử, mà Ngài lại khen ngợi về đức tin. Tại sao một người ngoại giáo mà lại được Chúa Giêsu khen ngợi về đức tin?

Thật vậy, Đức Giêsu khen ba ta vì những nguyên nhân sau:

1. Đức tin đến từ việc nghe nói

Điều chắc chắn người phụ nữ Canaan này đã nghe nói về Con Người Giêsu, về những phép lạ Ngài làm, về những lời rao giảng của Ngài... vì danh tiếng của Người lan rộng ra khắp vùng (Mc 3,8). Người phụ nữ này với một tia hy vọng là gặp được ông Giêsu để xin một phép lạ cho con gái bà. Còn chúng ta có được đức tin là ngay từ nhỏ đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu từ trong gia đình, từ trong khu xóm, họ đạo... nhưng tôi có nói cho những người ngoại giáo dang sống chung quanh tôi biết về Chúa Giêsu không? Họ chính là những người Canaan thời đại ở quanh ta.

2. Đức tin có được là nhờ sự kiếm tìm

Người phụ nữ Canaan sau khi nghe về Chúa Giêsu, bà luôn luôn nghe ngóng về tin tức với hy vọng sẽ gặp để xin một phép lạ cho con gái bà. Khi Chúa Giêsu tới Tyr và Sidom thì bà vội vã ra khỏi Canaan mà đến để xin Người "Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương xót tôi..." danh hiệâu này bà biết được cũng là nhờ nghe nói. Trước lời kêu xin của người phụ nữ này, Chúa Giêsu không những lặng thinh mà con lên tiếng chối từ "Ta được sai đến với những con chiên lạc nhà Ísrael mà thôi". Sự thinh lặng và thái độ chối từ của Chúa Giêsu đã làm cho các tông đồ phải thắc mắc, vì thầy mình vừa dạy "Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho" thế mà hôm nay, trước lời kêu xin của người đàn bà này thì thầy mình lại chối từ. Còn thái độ của chúng ta thì sao? Hằng ngày tôi chạy đi tìm Chúa để xin hết ơn này đến ơn khác, nếu được nhận lời thì coi như là việc của Chúa phải làm, còn Chúa thinh lặng, hay chối từ thì ta buồn phiền, giận ghét, bỏ đạo hay chạy theo những thế lực trần gian, hay còn tệ hơn nữa là chạy theo tà thần. Riêng người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay thì vẫn khiêm tốn, không tuyệt vọng, không than phiền, không thắc mắc...bà không những kêu xin bằng miệng, mà bà còn kêu xin bằng cả con người. Trước sự khiêm tốn đó làm cho Chúa Giêsu không thể chối từ được, nên Ngài dẫn bà vào cuộc thử thách.

3. Đức tin cần được thử thách

Trước sự kiên trì của người phụ nữ, Chúa Giêsu lên tiếng "không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con", một thử thách dường như quá nặng, quá khó đối với người ngoại giáo này. Nếu người mẹ xứ Armênia chỉ hy sinh những giọt máu để cứu đưa con, thì bà mẹ Canaan lại hạ mình xuống ngang với "con cho" cũng vì đứa con. Nhưng chính lòng khiêm tốn của bà lại làm cho các tông đồ phải ngạc nhiên "Thưa Thầy đúng lắm, nhưng mà chó con cũng đáng được hưởng những mảnh vụn từ trên bàn của chủ nó rơi xuống". Trước câu trả lời đầy khiêm tốn này đã làm cho Chúa Giêsu "phải bó tay" mà thốt lên "Đức tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy".

Đứng trước những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có chấp nhận hay kêu ca? Phải chăng nhiều lần tôi có thái độ hoán hận Thiên Chúa vì những khó khăn tôi gặp phải. Lúc đó tôi không đủ khiêm tốn để nhận ra ý Chúa trong những thử thách, mà tôi muốn Chúa phải làm theo ý của tôi. Chúng ta đã nghe nói nhiều về Chúa, đã đi tìm Chúa trong suốt thời gian qua, nhưng tôi có hiểu được ý Chúa chưa? Trong đời sống, tôi có đủ khiêm tốn để chấp nhận cho Chúa thử thách không? Mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình và hãy tín thác đời mình cho Chúa. Chúng ta phải tin rằng: "Chúa không bao giờ chơi xấu" Ngài biết sức chịu đựng của ta. Vậy mỗi người hãy biết sống khiêm tốn như người phụ nữ Canaan và dùng lời kêu xin như một lời nguyện tắt để ta có thể kêu lên Chúa bất cứ lúc nào trong ngày: "Lạy Chúa, xin thương xót con", "Lạy Chúa, xin thương gia đình con", "Lạy Chúa, xin thương xót họ đạo con", "Lạy Chúa, xin thương xót Giáo Hội Việt Nam chúng con". Amen!
 
 -------------------------------

 

TN 20-A103: Ai là người Israel – Lm. Vũ Đình Tường

 
 

Nếu mỗi lần muốn sao được vậy có lẽ cuộc đời sẽ không lắm ưu phiền vì muốn thế nào thì được như TN 20-A103


Nếu mỗi lần muốn sao được vậy có lẽ cuộc đời sẽ không lắm ưu phiền vì muốn thế nào thì được như thế ấy. Suy nghĩ như thế có vẻ không ổn thoả chút nào vì điều ước muốn thì vô vàn, không bao giờ cùng. Những gì vô cùng thì không thể thoả mãn. Vì thế tư tưởng muốn sao được vậy có lẽ làm cho cuộc đời phiền toái nhiều hơn là làm cho cuộc đời đơn giản hơn. Cái nghịch lí thứ hai trong việc muốn sao được vậy là vấn đề ai đủ khả năng thoả mãn điều ước muốn. Ngoài Chúa ra, mọi người phàm đều có giới hạn nên điều ước muốn không thể thực hiện. Vừa lo thoả mãn ước muốn của mình vừa lo thoả mãn ước muốn của người quả là một việc làm ngoài khả năng.

Ước muốn vì thiếu thốn, khao khát, muốn có điều chưa có hay có nhưng chưa cảm thấy đủ. Ước muốn theo nghĩa đó nói lên cái nghèo nàn trong cuộc sống hay cái nghèo trong tâm hồn hoặc cả hai cùng. Nghèo từ trong ra ngoài. Một khi đầy đủ thoả mãn, đâu cần ước muốn. Trường hợp bà mẹ thành Canaan là trường hợp bà ước muốn điều cao thượng. Cao thượng vì bà không ước muốn cho chính mình nhưng vì tình thương mến cho người con. Lòng mến của bà mãnh liệt đến độ không nề hà, sẵn sàng van nài nơi công cộng. Bà dẹp bỏ tự ái, danh dự cá nhân vì hạnh phúc của người con. Phúc âm thuật lại bà van nài mãi mà Đức Kitô không đáp lại. Lời van nài khẩn thiết, dai dẳng đến độ các tông đồ không vì ngại ngùng cũng vì ngượng ngập, hoặc ngay cả muốn được yên thân. Cũng có thể các ngài nghe lời van xin cảm động chạnh lòng thương lên tiếng xin dùm bà ta.

Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.c.23

Đức Kitô giải thích lí do tại sao Ngài không đáp lại lời bà kêu cầu, van nài.

Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel.c.24

Câu trả lời khá mạch lạc, rõ ràng. Bà không phải là chiên lạc nhà Israel nên chưa đến lượt bà xin. Bà là dân ngoại. Ưu tiên một dành cho chiên lạc nhà Israel.

Nghe lời đó bà không nản lòng, chán nản, tiếp tục van xin. Từ van xin câu chuyện chuyển sang đối thoại. Sự việc diễn tiến có nhiều hy vọng hơn. Từ im lặng không đáp, chuyển sang đáp. Từ đáp chuyển sang đối thoại. Từ đối thoại chuyển sang giúp chỉ còn là một bước nhỏ.

Nơi đây chúng ta tìm gặp một tấm lòng chân thành, khiêm nhường hết mực. Bà đáp, Thưa Ngài đúng lắm. Ưu tiên một dành cho con cái trong nhà, chiên lạc nhà Israel. Mẹ con chúng tôi không dám xin chia phần dành riêng đó. Chúng tôi chỉ dám xin mảnh vụn, phần dư thừa, phần không dùng đến cũng chẳng để lại tích trữ. Phần đó xin dành cho mẹ con chúng tôi.

Điểm thứ hai, ngôn từ bà xử dụng cho biết bà có một tâm hồn trong sáng, kính trọng người khác hết lòng. Bà luôn đáp lại Đức Kitô bằng câu 'Thưa Ngài', 'Lậy Ngài'. Từ nói lên lòng kính trọng, tôn kính.

Điểm thứ ba, 'Lậy Ngài', xin cứu giúp tôi. Bà vừa bái, lậy, vừa xin cứu vừa xin giúp. Chỉ một câu ngắn gọn trên cho chúng ta hình dung ra một người đàn bà, trên đường phố, giữa đám đông người chân quì, tay chắp bái, lậy, miệng van xin điều muốn xin.

Thứ tư, đau đớn, bệnh tật, khổ sở của con bà được bà coi như của chính cá nhân mình. Bà không phải xin cứu giúp con bà nhưng xin cứu giúp tôi. Chữ tôi cho biết bà sẵn sàng mang lấy bệnh tật, khắc khoải của con bà.

Thứ năm, Đức Kitô nhìn bà với con người đức tin, người có lòng tin mãnh liệt, vững vàng trong cơn thử thách. Cơn thử thách đây lại đến từ chính Đức Kitô.
Bấy giờ Chúa trả lời cùng bà ấy. Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.c.28.

Bà là người ngoài, là dân ngoại không thuộc vào chiên lạc nhà Israel. Những người ngoài Israel không được Đức Kitô cứu chữa. Nhưng trường hợp của bà Đức Kitô cứu chữa. Như vậy câu hỏi đặt ra cho chúng ta. Ai là người Israel? Thưa dân Israel là dân Chúa chọn. Một dân Chúa mong muốn họ sống đời sống hết mực khiêm nhường, đầy yêu thương, giầu bác ái. Một dân đặt trọn niềm tin vào Chúa. Bà phụ nữ thành Canaan đang từ dân ngoại biến thành dân Israel, dân Chúa chọn, nên Ngài chữa bệnh cho con bà theo lời bà cầu xin.

Như thế dân Israel là bất cứ ai sống đời sống hết mực khiêm nhường, đầy yêu thương, giầu bác ái và có lòng tin vững mạnh đều là dân Chúa chọn. Những người đó khi kêu cầu Chúa sẽ nhận lời cầu xin. Chúng ta cầu xin sống trung thành điều Chúa mong muốn, mời gọi.

-------------------------------
 
 

TN 20-A104: Kỳ thị – Lm. Vũ Đình Tường

 
 

Dân Israel kì thị dân thờ ngẫu tượng, cho họ là những người tội lỗi và coi họ như kẻ thù. Câu chuyện TN 20-A104


Dân Israel kì thị dân thờ ngẫu tượng, cho họ là những người tội lỗi và coi họ như kẻ thù. Câu chuyện Đức Kitô chữa con gái bà goá thành Canaanite cho biết Đức Kitô không kì thị bất cứ ai. Trong quá khứ bà thờ ơ tôn thờ Thượng Đế nhưng tôn trọng thờ thần ngoại bang. Con gái bà bệnh không thuốc chữa bà van nài ngẫu thần đến mệt mỏi vẫn không được đáp trả. Cuối cùng không còn cách nào khác bà đến nài xin Đức Kitô chữa và Đức Kitô đáp lời bà nài van sau cuộc đối thoại giữa Ngài và bà.

Khởi đầu cuộc đối thoại người ta có cảm tưởng như Đức Kitô từ chối, xua đuổi bà. Nhận xét đó đến từ phán đoán cục bộ, nhìn từ bên ngoài. Người ta phải đợi đến cuối cuộc đàm thoại mới biết rõ. Kết quả cho thấy Đức Kitô đón nhận bà với tình yêu của một Thiên Chúa đầy yêu thương. Qua cuộc đối thoại Đức Kitô muốn cho mọi người tại hiện trường nhận biết sức mạnh của lòng tin. Những ai đặt trọn vẹn niềm tin nơi Đức Kitô sẽ không bao giờ phải thất vọng, dù họ phải trải qua thử thách nhưng thử thách làm cho đức tin phát triển, lớn mạnh trong Ngài. Bà nhận biết Đức Kitô thuộc dòng dõi vua Đavid và bà may mắn cũng đến từ dòng dõi vinh quang đó và là con dân của đức vua. Vì thế bà tin rằng con dân, dù hoang đàng, khi trở lại, thống hối, cũng đáng hưởng ân lộc vua ban.


Bà rất kiên nhẫn xin Đức Kitô cứu con bà. Kiên nhẫn nài van đến độ làm cho các môn đệ Đức Kitô phải lên tiếng. Có thể các ông cảm thấy phiền toái nhưng với Đức Kitô ơn kiên nhẫn trên lại là bằng chứng rõ ràng cho biết niềm tin trọn vẹn của bà. Bà thực sự từ bỏ ngẫu thần và đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa. Việc chữa lành cho con gái bà là khởi đầu việc giao hoà rạn nứt giữa người Israel and dân tôn thờ ngẫu tượng. Ngoài Đức Kitô ra không một ai khác có thể đong đầy hố ngăn cách lịch sử này. Bà goá tin một mình Đức Kitô có thể làm được việc đó và bà đặt trọn niềm tin vào Ngài. Việc dân Israel coi bà là người ngoài không làm bà chùn bước trong việc xin Đức Kitô chữa cho con bà; trái lại bà tin là những ai đặt niềm tin vào Đức Kitô đều là con cái Chúa và con cái thì nhận đuợc yêu thương từ cha mẹ.

Dân Israel là dân tuyển chọn nhưng chính dân này lại từ chối đón nhận Đức Kitô là Đấng Thiên sai và còn mong đợi một đấng khác sẽ đến; trong khi bà goá bị coi là người ngoại bang lại vui lòng đón nhận Đức Kitô là Đấng Thiên Sai và đặt trọn niềm tin vào Đấng đó. Có lẽ bà goá được nghe ít nhiều về phép lạ Đức Kitô hoá bánh ra nhiều. Điều này càng làm cho bà vững tin hơn con bà sẽ được Đức Kitô chữa lành bệnh.

Chia rẽ hoặc đòi đặc quyền, đặc lợi và kì thị xuất hiện khắp nơi nhưng điều này trở nên khủng khiếp khi nó xảy ra trong gia đình hay trong chủng tộc. Kì thị tôn giáo hiện đang hoành hành gây tai hại ở thời đại chúng ta sống. Mãnh liệt và kinh khủng nhất là nó đang xảy ra tại Iraq nơi nhiều ngàn người là nạn nhân của kì thị tôn giáo. Thật là tệ hại khi người ta nhân danh Thượng Đến giết chết những người tin theo Thượng Đế. Nhà thờ, nơi thờ phượng bị phá tan tành, ảnh tượng các thánh và ảnh Chúa bị chà đạp dưới gót giầy của kẻ có vũ khí trong tay. Trường học bị phá sập, nhà cửa bị đốt cháy thành tro bụi và đoàn người tay xách, nách mang kéo nhau chạy trốn trong vùng xa mạc ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương, không lương thực. Tai hoạ đến chỉ vì kì thị tôn giáo. Nó xảy ra khi một cá nhân hay một nhóm người tự nhận mình là công chính, còn kẻ không theo họ là bất chính và kẻ công chính thì tự cho quyền chà đạp kẻ cưỡng lại họ. Tự nhận mình công chính để hại người khác. Đức Kitô có lần cho biết trên cõi đời này không ai công chính trừ một mình Thiên Chúa. Mat 19,16. Tự nhận nhóm mình là công chính là một sai lầm và kẻ lầm đường, tương tự như người say, thường không bao giờ nhận mình lầm.

Đức Kitô đón nhận và tha cho bà goá khi bà tỏ lòng thống hối ăn năn, đón nhận bà vào gia đình Chúa. Điều này cho biết Chúa đến để thu tóm không phải chia rẽ.

------------------------------------------
 
 

TN 20-A105: Tình Mẹ cao quý


(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
 
 

Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình TN 20-A105


Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.

Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”

Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.

Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.

Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: "Mẹ ơi con khát quá". Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: "Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống".

Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.

Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là "đồ chó", bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.

Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn.Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.

Thương con,bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.

Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.

Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”

Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.

Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.

Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.

Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.

Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”

Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.

Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.

Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).

Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?.

Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.

Tình mẹ cha yêu thương với tất cả hy sinh chịu đựng luôn đóng ấn và trải dài suốt những năm tháng của cuộc đời con.

Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.

Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời. Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.

 ------------------------------
 
 

TN 20-A106:  TẤT CẢ VÌ YÊU


Tuần 20 TN-A. Mt 15, 21-28

(Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
 
 

Xã hội thời nào cũng có những người đáng nể phục: khởi đi từ khả năng hiểu biết, thành công trong TN 20-A106


Xã hội thời nào cũng có những người đáng nể phục: khởi đi từ khả năng hiểu biết, thành công trong lãnh vực kinh tế xã hội, vẻ vang trong ơn gọi gia đình hạnh phúc. Chẳng cần thống kê, đong đo mức độ hoạt động nhiều hay ít, mọi người dù không công khai thì cũng âm thầm đang mưu ích cho gia đình, người thân, đang góp công sức cho đất nước phồn vinh. Tốt danh hơn lành áo ; trẻ vui nhà, già vui chùa, dân gian từ xa xưa vẫn đề cao danh phận, không ai vô duyên vô dụng dù là trẻ thơ hay già lão. Thực ra, thời gian chính là cơ hội để từng người sống và chia sẻ “số vốn” mà ta đang có, với tấm lòng quảng đại phục vụ công ích, sẵn sàng bác ái vì tình yêu tha nhân.

 Tất cả vì yêu là tiếng chuông thức tỉnh những ai chưa đủ kiên nhẫn trong tư cách là nhà giáo dục, tất cả vì yêu cũng là lời an ủi vỗ về các bậc làm cha mẹ, hãy thật bình tĩnh. Đừng quên mình được sinh ra và lớn khôn trong tình yêu, đừng khi nào vì sĩ diện mà làm khổ mẹ cha, đừng vì giầu sang mà vô tâm vô tình với người anh chị em mình. Đừng quên rằng: đời này chỉ là cõi tạm mà thôi, giầu sang nghèo khó, chết rồi cũng như nhau. Nếu không phải vì yêu, chẳng ai phải cầu cạnh ai làm gì, không lẽ lại lì lợm đến độ bị xúc phạm, bị xua đuổi mà người phụ nữ Canaan không hay biết ? Tất cả vì yêu nên người mẹ dù có bị khinh thường, bị coi là “mặt dầy”, bị xếp ngang hàng với “chó ki”, người mẹ ấy không hề mất kiên nhẫn !

 Tình mẹ thương con, sửa dạy khi con sai sót, khích lệ khen thưởng khi thấy con ốm đau, cần chữa trị ; vì đó là yêu, là trách nhiệm, không phải hoàn toàn do “cố đấm ăn xôi”. Thiên Chúa yêu tất cả, Người lắng nghe kẻ thánh thiện, Người cũng không ngoảnh mặt làm ngơ trước kẻ tội lỗi sám hối, vì yêu thật và muốn con người được hạnh phúc thật, nên Thiên Chúa cần ta bày tỏ một tình yêu chân thật. Nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen, đúng là Đức Giêsu đã làm thinh, đã cho thấy có sự phân biệt Do-thái giáo và ngoại giáo, đã hất hủi tới mức: “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Nếu không phải vì yêu, Đức Giêsu sẽ không quan tâm đến lời kêu xin của người Canaan, không phải giằng co với chị ta làm chi. Nếu không vì yêu, người phụ nữ ngoại giáo kia đúng là chỉ kêu xin Thầy Giêsu trên môi miệng: “lạy Ngài là Con Vua Đavít xin thương xót tôi”.

 Xã hội luôn kêu cầu mọi người hãy tin: “lương y như từ mẫu”, Hải Thưởng Lãn Ông Lê Hữu Trác, ông tổ ngành y đã từng nói: “không có nghề nào nhân đạo bằng nghề cứu người, ...”. Đức Giêsu vì yêu, Ngài đến trần gian với chủ trương chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Tất cả vì yêu, vì phần rỗi các linh hồn, vì ơn cứu độ, vị trí của Ngài không chỉ dừng lại là “lương y”, người ngoại giáo còn biết gọi Ngài: “lạy Thầy Giêsu Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”. Vì là Con Vua Đavít Ngài đến kêu gọi người tội lỗi sám hối, chữa lành mọi thứ bệnh, Ngài không thể chọn lựa đối tượng để cứu chữa, Ngài cần mỗi người thể hiện niềm tin Ngài là Con Thiên Chúa bằng việc làm.

 Nếu chỉ lập lại một cách máy móc: lạy Thầy là Con Vua Đavít, lạy Thầy Giêsu xin thương xót con, xin thương xót gia đình Con, hẳn không khó tí nào, già trẻ, giầu nghèo, chúng ta đều kêu xin dễ dàng. Ở đời khi bị từ chối cho vay mượn đã là một xúc phạm, bị phủi tay làm ngơ, không được giúp đỡ chia sẻ sự mất mát, thất bại, với hoàn cảnh đáng thương của mình đã là khổ lắm rồi. Trong Đức Giêsu, tất cả vì yêu chính là câu hỏi và là câu trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. “Này bà, bà có lòng mạnh tin, bà muốn sao thì được vậy”. Khi công bố niềm tin mạnh mẽ của người phụ nữ Canan, hẳn cũng là lời nhắc nhớ biết bao người mắc bệnh nan y, họ từng gặp Thầy thuốc Giêsu, họ đang ở sát gần Đức Giêsu, họ đúng là con cháu Abraham, vì sao họ chưa kêu xin Thầy Gisêsu chữa trị ?

 Kinh nghiệm người xưa cho rằng: đừng bao giờ níu kéo một ai cả, đơn giản khi người ta muốn ở lại thì có đuổi thế nào cũng không đi ; nếu người ta muốn đi, có giữ thế nào họ cũng không ở lại. Người phụ nữ Canaan hôm xưa, phải chăng vì các lương y tài giỏi bó tay, hết thuốc chữa, hay vì phản ứng tự nhiên, có bệnh vái tứ phương ? Vâng, tất cả vì yêu, vì tin vào đức ái cao dầy của Thầy Giêsu, người phụ nữ đó không kêu xin Thầy thương xót cách máy móc, không lý sự để ăn thua đạo lý làm người với Đức Giêsu. Đúng, chị ta đã được thuyết phục bởi Thầy Giêsu khai mở niềm tin và chị biết hành động bằng đức khiêm tốn yêu thương.

 Vì yêu, Thầy Giêsu đã minh chứng cho các môn đệ, cho chúng ta hôm nay, cảm nghiệm rõ hơn thế nào là công bằng tình yêu thương, vì yêu, vì tin, tất cả đều trở nên Con Thiên Chúa. Đức Giêsu là Thầy thuốc quảng đại vô song, Ngài thương thật và không hề có ý thương hại, Ngài dẫn dắt người phụ nữ ngoại giáo từ “cái biết” lý thuyết đến với hành động của đức tin. Ngài biến đổi kiểu cách lý sự của người phụ nữ Canaan trở nên tâm phục khẩu phục, biết rõ và xác tín hơn Thiên Chúa không thiên vị ai, Ngài luôn rộng rãi thi ân với những ai biết sống niềm tin yêu. Phép lạ chữa trị thể xác tâm hồn sẽ không xảy ra, nếu mỗi người chúng ta không phải vì yêu, vì tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Amen.

------------------------------
 
 

TN 20-A107: Ơn cứu độ được ban cho mọi người


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

 

 Trong tập sách “Những mẩu bánh vụn” của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, đã TN 20-A107


Trong tập sách “Những mẩu bánh vụn” của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, đã kể lại một câu chuyện: Một người bạn tù với Ngài là người ngoại giáo, nhưng ông ta rất cảm mến Đức Hồng Y. Ông ta được ra tù trước và sau này kể lại: Nhà ông ở gần Trung tâm Lavang, vì thế mỗi ngày, ông đều đến với Đức Mẹ Lavang để cầu nguyện cho Đức Hồng Y Thuận. Khi được hỏi: Ông là người ngoại, ông cầu nguyện thế nào? Ông đáp: Tôi nói với Bà Ấy (Đức Mẹ) rằng: Thưa bà, tôi chưa biết Bà là ai, song tôi đến đây để cầu xin Bà thương đến một người bạn của tôi là ông Thuận còn ở trong tù, xin Bà thương cứu giúp ông ấy. Thế là không bao lâu sau, Đức Hồng Y Thuận cũng được ra tù và hai người gặp lại nhau trong sự xúc động.

Người ngoại có tin Chúa và có cầu nguyện không? Trong thực tế, có nhiều người được gọi là ‘bên lương”, là dân ngoại, song họ lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, mặc dù họ chưa thực sự theo Chúa. Đối với những người dân ngoại này, chỉ cần một lòng tin đơn sơ chân thành, thì Thiên Chúa vẫn ghi nhận sự chân thành ấy và ban ơn trợ giúp cho họ. Nếu có dịp đến Lavang, Tàpao, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thành tâm của những người ngoài Công Giáo. Họ đến đây với lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của Đức Mẹ. Họ thành tâm xin Chúa và Đức Mẹ che chở, chữa lành.

Có một suy nghĩ thường xảy ra nơi người Do Thái và nơi chúng ta hôm nay, đó là chúng ta thường đóng khung Thiên Chúa trong những người có đạo, cho mình là những người độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa và loại trừ người khác ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên Lời Chúa hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không hề giới hạn tình yêu của Ngài. Bất cứ ai, dù là là dân ngoại hay Do Thái, nếu tin tưởng vào Thiên Chúa, thì đều được Ngài ra tay cứu độ. Tiên tri Isai đã loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, không chỉ người Do Thái, mà người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa, phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cũng trở nên tôi tớ của Người. Những ai tuân giữ lề luật, thì cũng được lên núi thánh của Chúa… và Thiên Chúa sẽ ưng nhận lễ toàn thiêu của họ. Với lời này của Isai, quả thật đã phá đổ hoàn toàn suy nghĩ của người Do Thái, vì họ tự hào mình là dân riêng của Chúa, và ngược lại, Chúa là của riêng Israel mà thôi. Isai cho thấy, Thiên Chúa không hề bị giới hạn, hay nói đúng hơn, ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng không chỉ cho Israel, mà là cho tất cả nhân loại. Những ai tin và tuân giữ giới răn lề luật của Chúa thì trở thành dân của Chúa.

Câu chuyện Thánh Matthew thuật lại hôm nay khiến cho nhiều người thắc mắc: Chúa Giêsu đi về vùng Tia và Sidon, tức là vùng đất của dân ngoại, thì có một người đàn bà chạy đến và kêu lên: Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm. Với lời kêu cầu này, bà đã thể hiện lòng tin vào Đức Giêsu. Bà tin Đức Giêsu là Con vua Đavít, tức là Đấng cứu thế. Tuy nhiên Thánh Matthew cho thấy, Chúa Giêsu dường như dửng dưng trước lời kêu cầu này. Khi các môn đệ lên tiếng giùm bà, thì Chúa Giêsu còn trả lời: Thày chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel thôi. Đến khi bà ấy nài nỉ thì Chúa đã nói với bà: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.

Có nhiều nhà chú giải đã cố gắng giải thích những lời lẽ xem ra từ chối nặng nề này của Chúa Giêsu. Chúng ta không đi sâu và những giải thích này, nhưng chúng ta nhìn vào đức tin và sự kiên nhẫn của người phụ nữ trong khi cầu xin. Người đàn bà này đang gặp đau khổ, đó là con bà đau bệnh gần chết. Trong lúc tuyệt vọng, bà chỉ còn biết chạy đến với Thày Giêsu, mà có lẽ bà đã từng nghe biết về Ngài. Tuy nhiên khi đến với Chúa Giêsu, bà dường như lại gặp một thử thách khác, đó là sự im lặng làm ngơ của Thiên Chúa trước lời cầu xin của bà. Người phụ nữ này vẫn không thất vọng, dù có lúc bà như bị Thiên Chúa không chỉ im lặng mà còn từ chối thẳng thừng lời cầu xin của bà. Thế nhưng, bà vẫn kiên trì trước câu trả lời của Chúa, bà thưa lại với Chúa: Thưa Ngài đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Với câu trả lời này, bà đã thể hiện lòng tin của bà nơi Chúa Giêsu dù trước đó bà đã bị từ chối.

Người phụ nữ Canaan không hề tự ái trước lời từ chối của Chúa. Trái lại, bà càng khiêm tốn hơn để “lý lẽ” với Chúa như thế, vì tin rằng con của bà chỉ có thể được chữa lành nhờ quyền năng “dư thừa” của Thày Giêsu. Bà còn nhận mình không xứng đáng được đồng bàn hoặc được chia sẻ tấm bánh ân phúc của Chúa, mà chỉ dám nhận mình là đám chó con, chờ đợi và cầu xin một chút ân lộc dư thừa từ bàn ăn của chủ rơi xuống, chứ cũng không dám mong được ông chủ ném cho một miếng bánh. Chúa Giêsu hết sức ngạc nhiên trước lý lẽ và lòng tin của bà và ngài đã không thể không đáp ứng lời cầu xin của bà: Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Có thể nói, Chúa Giêsu đã phải xiêu lòng và chịu thua trước đức tin mạnh mẽ của một người phụ nữ như thế.

Thánh Phaolô đã nhận ra sự kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi dân ngoại được mời gọi chia sẻ niềm tin và thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho người Do Thái. Mặc dù dân Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn để thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời, thế nhưng dường như, họ đã coi thường ân phúc này. Họ đã từ chối ân huệ của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã dành ân huệ ấy cho dân ngoại và cho tất cả những ai có lòng tin. Phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Do Thái qua các tổ phụ, giờ đây lại được ban cho dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, những người Do Thái muốn được hưởng ân phúc này đòi phải có một điều kiện tiên quyết, đó là quay trở lại với thái độ vâng phục Thiên Chúa.

Thưa quý OBACE, cũng đã có một thời, vì tự mãn với ơn gọi làm con Thiên Chúa, được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Giáo Hội, chúng ta cũng rơi vào tình trạng cực đoan, loại trừ những người dân ngoại, khi tuyên bố rằng: Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi. Từ quan niệm này, nhiều người sống đạo không khác gì dân Do Thái, tức là giữ đạo thụ động, không cố gắng, không hoán cải. Nhiều người khác rơi vào tình trạng giữ đạo theo công thức, theo thói quen, thiếu chiều sâu của đức tin, không thực hành đạo, vì thế khi gặp khó khăn thử thách, họ thất vọng oán trách Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.

Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay: đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.

Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa: Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được… Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.

Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Amen.

 ------------------------------
 
 

TN 20-A108: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN A


 Thiếu nhi chúng con yêu quí.

 

 Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa làm phép lạ chữa cho một người con gái TN 20-A108 LX


Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa làm phép lạ chữa cho một người con gái của người đàn bà xứ Canaan bị quí ám.

 1. Chúng con đã có bao giờ nghe thấy người ta nói về quỉ bao giờ chưa?

 - Dạ thưa chưa.

 - Cha kể cho chúng con câu chuyện này: Câu chuyện có thật trong cuộc đời của cha Gioan Maria Viannney. Câu chuyện di chính cha Vianney kể lại:

 Một hôm, nhân dịp mở tuần đại phúc tại một xứ trong hạt, người ta đã mời cha Vianney cùng nhiều Linh mục khác đến giúp. Sau buổi cơm tối, cha Vianney nhẹ nhàng nói với anh em: "Thưa các cha, con hay bị ma quỷ quấy phá, nhất là áp những hôm con cứu được nhiều linh hồn tội lỗi nặng. Vì thế, để đề phòng, con xin trình các cha trước, nếu đêm nay ma quỷ có làm gì thì xin các cha cứ biết vậy và an tâm. Nó phá một lúc rồi sẽ hết!”, Cha Vianney vừa dứt lời, các cha khác đã cười rộ lên:

 - Lại chuyện ma quỷ! Sao mà cứ nghe cha nói toàn là những chuyện giật gân tào lao không à! Có thật không? Hay cha bị ám ảnh thế?

 - Đây là dịp tốt, cha khác bảo, mình cứ nghe hoài câu chuyện ma quỷ phá rối cha Vianney mà chẳng bao giờ chứng kiến được, may ra tối nay mình sẽ được một lần xem tận mắt! Cha Vianney cứ yên trí ngủ đi. Tụi này không sợ ma quỷ gì đâu, trái lại còn mong xem thấy tận mắt là khác!

 Cả nhà tắt đèn đi ngủ. Nửa đêm, giữa lúc mọi người đang say sưa giấc điệp thì nhà xứ rung động dữ dội, ghế bàn chạy đi chạy lại, đồ đạc thì lăn lóc rơi xuống vung vãi trên sàn nhà, cột nhà thì kêu răng rắc như muốn gãy đôi... Các cha hớt hơ hớt hải mang áo ngủ lùng thùng chạy ra sân, mình toát cả mồ hôi hột, miệng không ngớt kêu lên:

 - Dễ sợ quá! Chưa bao giờ thấy chuyện khủng khiếp như thế này! Cái gì thế? Động đất lớn à?
 - Thế còn ông Vianney đâu mất?
 - Chắc ông ở trên phòng! Đợi yên ta lên tìm xem. Các cha kéo nhau lên gác, gõ cửa:
 "Cốc, cốc”. Có tiếng guốc khua trên sàn nhà, cha Vianney mở cửa, các cha ái ngại hỏi:
 - Cha đang ngủ à?
 - Vâng, con đang ngủ!
 - Thế cha không nghe gì cả sao? Chúng tôi kinh khiếp quá!
 - Có, con có nghe. Thì.... hồi tối, ở nhà cơm, con có trình các cha rồi! Ma quỷ nó hay quấy phá con như thế lắm! Xin các cha cứ an tâm, có đêm nó làm con nhiều lần như thế, nhưng không sao cả! Vì nó thua to, nó cay cú thì nó quấy phá vậy thôi!

 Nói xong, ngài chào các cha và đi ngủ. Các cha cũng trở về lại phòng, nhưng suốt đêm không sao nhắm mắt được. Cơn ác mộng kinh hoàng vừa xảy ra cứ bám chặt vào tâm trí các cha như đỉa đói.

 Sáng hôm sau, vào giờ điểm tâm, các cha lại nhắc đến câu chuyện khiếp sợ hồi hôm và nói:

 - Cha Vianney, bây giờ chúng tôi tin thực đúng là “băng hoả ngục" nó quấy phá cha. Mấy lâu nay chúng tôi chế nhạo cha nhưng đêm vừa rồi chúng tôi phải một phen kinh hồn bạt vía và cảm thấy xấu hổ với cha quá! Xin cha thông cảm và tha thứ lỗi lầm cho anh em chúng tôi. Nhưng nay chúng tôi yêu cầu cha một điều: suốt tuần đại phúc này, chiều nào cha cũng phải về xứ Ars để ngủ rồi sáng mai lại chịu khó đến đây. Chứ nếu cha ngủ đây thì chúng tôi phải di tản hết. Khiếp quá chịu không thấu”.

 - Con xin vâng lời các cha. Khởi sự chiều nay, con sẽ về nhà ngủ

 Đó là câu chuyện do cha Gioan Maria Vianney kể.

 2. Bây giờ chúng ta trở lại với bài Tin Mừng.

 Hôm đó một người mẹ kia có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Ðức Giêsu là người Do thái. Vì là người Do Thái nên ít khi Chúa đến vùng đất quê hương của người dân ngoại.

 Chúng ta không rõ nhờ đâu mà bà biết được Ðức Giêsu.

 Khi thấy Chúa, bà tin rằng cơ may đã đến, con bà hoàn toàn có hy vọng được chữa khỏi. Và quả thực là như thế. Điều cha muốn nói với chúng con ở đây là lời khen của Chúa Giêsu đối với người đà bà ngoại giáo này. Chúa khen làm sao thì chúng con đã nghe. Chúa khen bà có đức tin mạnh.

 Đức tin mạnh là đức tin như thế nào chúng con?
 Đọc lại đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ thấy.
 Đức tin mạnh là đức tin biết kiên trì khi bị thử thách.

 Trước hết cha kể cho chúng con câu chuyện này: Có một người nông dân nọ có một con lừa già. Một hôm, con lừa bị rơi xuống một cái giếng hoang khô cạn và đau đớn kêu la thảm thiết.

 Sau khi bình tĩnh đánh giá lình hình, vì thương cho con lừa người nông dân đã quyết định nên nhanh chóng giúp nó kết thúc sự đau đớn của nó. Anh gọi thêm mấy người hàng xóm để giúp anh cùng lấp đất chôn con lừa tội nghiệp.

 Lúc đầu, con lừa hoảng loạn vì những gì người ta đang làm đối với nó. Nhưng khi từng tảng đất được hất xuống giếng liên tiếp theo nhau ập trên vai nó, một ý nghĩ chợt lóe lên: cứ trỗi lần một tảng đất rơi đè lên vai, nó lại lắc mình cho đất rơi xuống và đứng lên trên.  Cứ như thế! Cuối cùng, nó đã được cứu thoát.

 Người đàn bà hôm nay cũng vậy. Bà đã chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng lạnh lùng đến độ như vô cảm của Chúa.

 Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một người mẹ, đang đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Ðức Giêsu không đáp lại một lời.

 Phải chăng Chúa lạnh lùng trước nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được?

 Nhiều khi khi cầu nguyện chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế.

 Chúng ta khắc khoải tự hỏi: Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?

 Bị thất bại nhưng bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi.

 Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài, và nài xin Ngài cứu giúp.

 Kết quả lại là một lời từ chối không khoan nhượng, mặc dầu đã có thêm lời hỗ trợ của các môn đệ: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Is-ra-en mà thôi."(Mt 15,24)

 Vẫn chưa chịu thua, bà đến sụp lạy dước chân của Chúa để nài xin. Lần này không còn phải là một lời từ chối mà còn như một sự xỉ nhục: "Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con."

 Bà có bị sốc không khi Ðức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà, không đáng được hưởng phần bánh của con dân Ít-ra-en?

 Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời ví von này.

 Bà chấp nhận lối so sánh xem ra có vẻ khiêu khích của Ðức Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con, chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con.

 Quả đúng là bà kiên trì thật.

 Trong cuộc sống chúng ta hiếm gặp được một người biết kiên trì như thế. Và đây là yếu tố làm cho đức tin của bà nên mạnh, mạnh đến nỗi làm thay đổi được trái tim của Chúa.

 Cuối cùng chúng con thấy sao? Chúa đã để cho mình bị chinh phục và chấp nhận theo như lời người đàn bà kêu xin. Con bà đã được cứu  và câu chuyện đã được kết thúc có hậu. Kết quả đã hết sức tốt đẹp.

 Chúng ta hãy xin với Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta để chúng ta được can đảm theo Chúa và luôn được sống an bình. Amen.

LM. Giuse Đinh Tất Quý

-------------------------------
 
 

TN 20-A109: Khi đời không mỉm cười – Thiên Phúc


(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

 

 Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng TN 20-A109


Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.

Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:
- Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.
Em bé mỉm cười đáp:
- Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con.
Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao vậy?
Em bé dí dỏm trả lời:
- Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.

***

Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay lớn lao quyền phép của Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả, là con bà tức thì được chữa khỏi quỉ ám.

Đó chính là thái độ cần phải có khi cầu nguyện.

Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.

Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.

Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã chối từ lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel”, thậm chí Người còn nặng lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà Đức Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác, Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước các môn đệ.

Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu gương khi cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.

Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà cũng được nhận lời, thì chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà Người muốn ban ơn cho ai là tùy ý Người.

Có thể nói, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có đức tin, con người phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy trông một mình Người mà thôi.

***

Lạy Chúa, có ai khiêm tốn cầu xin mà Chúa chẳng nhận lời, có ai kiên trì phó thác mà chúa chẳng ban ơn. Xin thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con luôn tin tưởng cả khi Chúa xem ra như thinh lặng, để chúng con cậy trông cả khi cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Vì chúng con tin chắc rằng cuối cùng Chúa vẫn luôn chọn phần tốt nhất cho chúng con. Amen.

--------------------------------
 
 

TN 20-A110: Kiên trì và vững tin


(Bài giảng Chúa nhật XX thường niên A)

Thứ năm - 17/08/2017 12:02      Số lượt xem: 248

 

 Câu chuyện người đàn bà trong Tin Mừng hôm nay muốn dạy chúng ta về sự kiên trì trong lời cầu TN 20-A110 Thái Bình


Câu chuyện người đàn bà trong Tin Mừng hôm nay muốn dạy chúng ta về sự kiên trì trong lời cầu nguyện. Thiên Chúa không ngủ say. Ngài cũng không dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Trái lại, Ngài vẫn ra tay cứu giúp những ai cầu nguyện với tấm lòng chân thành và sự bền bỉ kiên trì.

“Con tưởng rằng con vững tin…”. Lời bài thánh ca quen thuộc muốn nói với chúng ta rằng, những lúc gặp thử thách gian nan, chúng ta mới giật mình ngộ ra rằng đức tin của mình còn non yếu và mờ nhạt. Như vậy, những gian nan thử thách cũng là dịp để chúng ta chứng minh đức tin vào Chúa và niềm tín thác nơi Ngài.
 
Trong thực tế, dường như Chúa ít khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Bởi thế, chúng ta thấy những gì chúng ta xin với Chúa không được Ngài nhận lời. Câu chuyện người đàn bà trong Tin Mừng hôm nay muốn dạy chúng ta về sự kiên trì trong lời cầu nguyện. Thiên Chúa không ngủ say. Ngài cũng không dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Trái lại, Ngài vẫn ra tay cứu giúp những ai cầu nguyện với tấm lòng chân thành và sự bền bỉ kiên trì. Cũng có thể Ngài cho chúng ta một ơn khác, mang lại điều tốt lành ơn cho chúng ta.
 
“Lạy Thày, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm!”. Lời cầu nguyện xuất phát từ tấm lòng người mẹ. Bà có thể hy sinh mọi sự cho con mình. Bà chấp nhận mọi điều phiền toái, thậm chí cả những điều xỉ nhục, miễn là con gái bà được chữa khỏi. Trước lời kêu van này, dường như Chúa Giêsu vẫn dửng dưng. Hơn nữa, Người còn sánh ví người đàn bà như một con chiên lạc, thậm chí như một chó con. Bà không buồn vì điều đó, lại khiêm tốn khẳng định mình chỉ xin làm một con chó con chờ đón những mụn bánh rơi xuống từ bàn ăn. Cách lý luận ấy ẩn chứa một đức tin vững vàng và một kỳ vọng chắc chắn nơi quyền năng của vị ngôn sứ mà bà kêu cầu với danh hiệu “Con vua Đavít”.  Sự bền bỉ kiên trì của bà đã sinh hoa trái: Chúa đã nhận lời cầu xin và con gái bà được chữa lành.
 
Nếu chúng ta cậy trông tin tưởng nơi Chúa, là vì chúng ta tin Ngài là Đấng nhân hậu và Cha của muôn dân tộc. Giáo huấn về Thiên Chúa là Cha của nhân loại được nhấn mạnh trong các tác phẩm ngôn sứ và văn chương Cựu ước. Tuy vậy, một số người Do Thái, nhất là những luật sĩ và biệt phái, thì lại chủ trương ngược lại với giáo huấn này. Chúa Giêsu muốn phá đổ những hàng rào ngăn cách do chủng tộc, địa vị xã hội và tôn giáo, hầu xây dựng một xã hội hợp nhất trong tương lai, như một chủ chiên và một đàn chiên. Nếu Thiên Chúa đã khẳng định qua ngôn sứ Isaia: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Bài đọc I), thì Giáo Hội hôm nay chính là Nhà Chúa, là điểm quy tụ muôn dân để thực thi công bình và xây dựng hiệp nhất yêu thương. Một số người công giáo vẫn còn giữ thói quen kỳ thị khinh miệt những người khác vì họ mắc ngăn trở, hoặc vị địa vị của họ hèn kém trong làng xã. Họ cũng giống như những người biệt phái xưa kia trong Tin Mừng, tự coi mình là hoàn hảo và loại trừ người khác. Cộng đoàn giáo xứ là hình ảnh của Giáo Hội  thu nhỏ. Mục đích và đường hướng hoạt động của cộng đoàn này phải luôn theo sát và phù hợp với định hướng chung của Giáo Hội hoàn vũ, tức là trở nên ánh sáng muôn dân, là điểm quy tụ mọi người trong tình hiệp thông và là phương tiện chuyên chở con người về với Chúa.
 
Câu chuyện người phụ nữ Canaan vừa dạy chúng ta bền chí trong lời cầu nguyện, vừa nhắc chúng ta quan tâm đến người khác, vì hết thảy đều là anh chị em con một nhà và đều được Thiên Chúa yêu thương. Chúa Giêsu đã khen đức tin của người phụ nữ này rất mạnh mẽ và kiên trì. Đức tin của chúng ta sẽ như thế nào, nếu như một ngày kia chúng ta phải đối diện với những thử thách cám dỗ, nhất là những lúc chúng ta cảm thấy dường như bị Thiên Chúa lãng quên?
 
“Nếu người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabát, không hề sai lỗi và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện” (Bài đọc I). Những lời ngọt ngào trên đây đã chứng minh Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc và hết thảy những ai kêu cầu Danh Ngài được được đón nhận.
 
Là người được trao phó sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Thánh Phaolô trân trọng và cần mẫn trong trách nhiệm. Đối với thánh nhân, việc dân ngoại nhận biết Chúa là niềm vui lớn lao, nên ngài sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao, tù đày và nhục nhã để sứ vụ này mang lại những kết quả (Bài đọc II). Chắc chắn còn những mâu thuẫn, phân bì, nhưng lòng đạo đức, tâm tình cầu nguyện và nghĩa cử bác ái của mọi thành phần Dân Chúa, sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng Giáo Hội của Chúa Kitô.
 
+Gm Giuse Vũ Văn Thiên

--------------------------------
 
 

TN 20-A111: Suy niệm Tin mừng Chúa nhật 20 Thường niên, năm A,


của Đỗ Công Minh

Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi
 
 

Trên các trang mạng Công Giáo những ngày vừa qua tràn ngập các bài viết, bản tin, Clip video trên TN 20-A111


Trên các trang mạng Công Giáo những ngày vừa qua tràn ngập các bài viết, bản tin, Clip video trên Facebook, các website tường thuật liên tiếp 3 ngày liền đại hội Thánh Mẫu La Vang lần thứ 31. Các bản tin cho biết có hàng chục ngàn người khắp nơi trên cả nước về dự với chủ đề: “Sống tinh thần Sứ điệp FATIMA”, nhân năm kỷ niệm lần thứ 100 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Các bản tin tường thuật cho thấy những người giáo dân ở miền Đông Nam bộ, miền Cửu Long vượt hàng trăm cây số ra dự. Đông đảo giáo dân ở miền Trung, ở miền Bắc xa xôi như Lạng Sơn, Phú Thọ, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Bình, Hà Nội. . . cũng vào. Nhiều người trong số đó là những người ngọai, chưa tin nhận Thiên Chúa, chưa hề biết về Giáo hội Công Giáo. Họ nghe biết về Đại hội La Vang, đã bỏ mọi công việc riêng để cùng hành hương với những người tín hữu, cầu nguyện với Mẹ Maria, xin những ơn cần thiết. Không ít người trong số họ đã được Mẹ chuyển cầu lên Chúa, họ đựoc Chúa nhận lời và được những ơn lạ. Phải chăng như lời Đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay nói với người phụ nữ Canaan: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy”.

      Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu tường thuật về việc Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng, Ngài lui về miền Tia và Xiđôn. Đây là miền mà những người cư ngụ hầu hết không theo đạo Do Thái, quen gọi là người ngọai. Người phụ nữ xứ Canaan, dù là người ngọai, nhưng hẳn bà đã nghe nói về Đức Giêsu và ít nhiều bà tôn nhận Chúa là một vị ngôn sứ, nên đã lớn tiếng kêu cầu: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm!”. Tiếng kêu thảm thiết của bà chắc lớn lắm, khiến các môn đệ cũng cảm thấy phiền hà. Các ông cho rằng Chúa không nên đến với người ngọai, nên các ông đã can ngăn Người: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”. Thái độ đó của các ông xem ra cũng bình thường, các ông không muốn Thầy mình bị quấy rầy về điều mà các ông cho rằng cũng hợp với ý Thầy. Nhưng để trả lời các ông, những người học trò “bảo thủ”, “cục bộ”; đồng thời còn là để thử thách niềm tin của người phụ nữ dân ngọai. Đức Giêsu đã lên tiếng: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Những tưởng nghe điều đó người phụ nữ sẽ im tiếng và bỏ đi, nhưng bà đã chạy đến trước mặt Người bái lạy và lớn tiếng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Thử thách bước vào cao trào khi Đức Giêsu tỏ ra vô tình: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Một sự xúc phạm chăng? Thực ra là Người muốn đối thọai với bà, thử xem bà kiên trì đến mức nào. Không ngờ lòng tin của bà mạnh tới mức nhận ra thân phận hèn kém của mình, nhưng vẫn tin rằng Chúa sẽ lắng nghe và chấp nhận cho lời van xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Một lời đối đáp chân thành, một lời tuyên xưng gây rúng động. Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Này bà! Lòng tin của bà mạnh thật…”.

       Trong cuộc sống hôm nay, biết bao lần con chứng kiến việc Chúa làm những việc lạ lùng, cho những người chưa nhận biết Chúa. Lẽ ra trong những tình huống ấy con phải nhìn lại đời sống đạo của mình, nhìn lại đức tin của mình. Thế nhưng nhiều khi con lại ngã lòng, thậm chí phiền trách Chúa là không ưu ái con, là con cái Chúa từ thuở lọt lòng mẹ. Mỗi khi cầu nguyện, con có tỏ ra khiêm tốn nhìn nhận mình là người tội lỗi, không xứng đáng trước mặt Chúa? hay tự hào kể công đã giữ đạo nhiều chục năm, hơn bao người khác. Làm biết bao việc đạo đức, góp công góp của vào giáo họ, giáo xứ, tham gia vào nhiều đoàn thể… hy sinh thời gian, công sức cho Chúa. Con có kiên trì như người phụ nữ Canaan xưa? Chúa thử thách lòng tin của con, liệu con có vững vàng biểu thị niềm tin ấy mãnh liệt nơi Chúa?

      Lạy Chúa,

      Xin cho con luôn biết nhìn lại mình, nhìn lại đời sống đạo của con. Với biết bao lầm lỗi, thiếu sót, lòng tin  của con thật sự còn non yếu. Nếu trong khi kêu cầu lên Chúa, con  biết khiêm tốn, kiên trì như người phụ nữ xứ Canaan, lắng nghe Lời Chúa, đạt niềm tín thác, cậy trông nơi Người. Con tin rằng, con sẽ được Chúa nhận lời, như Người đã nhận lời của biết bao người tin vào Chúa. AMEN.

Fx Đỗ Công Minh

--------------------------------
 
 

TN 20-A112: Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật XX TN, năm A, của Trầm Thiên Thu


KIÊN TÂM VỮNG CHÍ

 

 Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh TN 20-A112


Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Với lời khuyên ngắn gọn nhưng Ngài đề cập hai vấn đề: Cầu Nguyện và Kiên Nhẫn. Cầu nguyện giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, và làm cho chúng ta trở nên vĩ đại.

Kiên nhẫn là “loại cỏ” luôn phải đặt vào hành lý cuộc đời để đem theo mình, nó như “bùa hộ mệnh” cần thiết cho mọi người. Kiên tâm vững chí là tình trạng không dao động trước mọi hoàn cảnh hoặc bất cứ lời nói của ai. Cứ là chính mình, và cố gắng giữ vững như kiềng ba chân, chắc chắn điều tất yếu sẽ xảy ra: “Có chí thì nên”. Thật vậy, Saint Exupéry có lời khuyên hữu ích: “Đừng đánh mất kiên nhẫn, vì đó là chiếc chìa khóa cuối cùng mở được cửa”.

Sự kiên định và sự thận trọng có liên quan với nhau. Edward Bulwer Lytton (1803-1873, tiểu thuyết gia, thi sĩ, kịch tác gia và chính trị gia người Anh) cho biết: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững vàng sẽ tự nhiên dần dần trở thành bậc anh tài”. Người kiên định và thận trọng cũng là người có đủ can đảm để đương đầu với nghịch cảnh. Herbert Kaufman (1878-1947, văn sĩ và ký giả người Mỹ) nhận định:“Thất bại chỉ là thành công tạm thời bị trì hoãn, chừng nào lòng can đảm còn tôi luyện cho khát vọng. Thói quen kiên định chính là thói quen chiến thắng”.

Bất kỳ ai cũng cần kiên trì, và trong mọi tình huống hoặc công việc. Đối với cuộc sống đời thường đã vậy, đối với đời sống tâm linh càng cần lòng kiên nhẫn hơn bao giờ hết – đặc biệt là khi cầu nguyện, chứ không thể tùy hứng – vui thì cầu, chán thì thôi. Kiên tâm cầu nguyện không chỉ có giá trị đối với chính mình mà còn có hiệu quả đối với người khác. Gương Thánh Monica là tấm gương to lớn và sáng tỏ về việc cầu nguyện kiên định. Cách cầu nguyện của bà Rút thật tuyệt vời: “Xin Thiên Chúa giáng phúc cho người đã quan tâm đến con!” (Rút 2:19). Lời cầu đó như đóa hoa tươi nở, chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng. Cầu nguyện cũng không chỉ là xin (cho mình hoặc cho người khác) mà còn phải có tâm tình tạ ơn: “Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1 Tm 4:4).

Từ xa xưa, tiền nhân đã xác định: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Kinh nghiệm sống đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thật đúng như thế. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều hơn là anh hùng tạo thời thế, như cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Nếu anh cũng như tôi, tôi cũng như chị, chẳng có gì hơn nhau thì cũng chẳng có gì đáng nói. Không có bột mà gột nên hồ, thế mới là người đáng cho thiên hạ phải ngưỡng mộ và tâm phục khẩu phục.

Cách so sánh của Garrison Keillor thật thú vị: “Cuộc sống cũng giống như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nên yên lặng thì có nghĩa là bạn đang thua trận”. Thế đấy, cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, làm sao chúng ta có thể biết và nhận ra sức mạnh tuyệt vời vẫn đang tiềm ẩn trong chúng ta? Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ nhàm chán vì đơn điệu, rồi lại hóa điên rồ: “Nhàn cư vi bất thiện”. Chắc hẳn đã kinh nghiệm đường đời nên Toni Malliet mới nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách đó mới là điều đáng nói”.

Người ta thích chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, nhưng loại “bản lĩnh” đó lại thường là rởm, dạng ngày nay gọi là “chảnh”. Không ai sợ người nói nhiều, người ta chỉ sợ người im lặng. Đó mới là bản lĩnh đích thực. Họ biết mà không nói, vì chưa đến lúc cần nói. Nếu bạn tỏ ra yếu mềm trước thử thách thì bạn thật là “bé nhỏ”, và sức lực của bạn thật là yếu đuối. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta nên cố gắng “đi qua cửa hẹp” (Mt 7:13-14; Lc 13:24), tự tôi luyện trong gian khổ chứ không ung dung tự tại. Chắc chắn Ngài không “xúi dại”, và hẳn là mọi thử thách đều có giá trị cao, bởi vì chính những nỗi gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa – gọi là “thành nhân”.

Thuở xưa, Thiên Chúa đã truyền dạy: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56:1). Thời gian là của Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn. Do đó, sự tỉnh thức luôn cần thiết và cấp bách. Tỉnh thức là một dạng thử thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà khéo léo (khôn ngoan) “canh me” hoặc “liệu cơm gắp mắm”.

Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt đối công bình và chính trực, không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56:6-7). Đừng ảo tưởng! Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin,… không ai có thể viện cớ gì mà tự biện hộ: NẾU, TẠI, VÌ, BỞI, GIẢ SỬ, GIÁ MÀ, PHẢI CHI,… Không bao giờ có “chuyện ví dụ” chi ráo trọi!

Nếu cảm thấy mình thiếu thốn gì thì cứ xin – xin nghiêm túc chứ không “xin xỏ”. Khi thấy người khác xin thì chúng ta phải cho, nếu có thể (vì phải có mới cho được). Vả lại, đó là sự công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ ban phát”. Tất cả chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa, chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với nhau. Ý thức được như vậy, chúng ta mới khả dĩ ước vọng như Thánh Vịnh gia: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ở đây sử dụng đại danh từ số nhiều chứ không số ít.

Chúng ta là phàm nhân, mà phàm nhân thì bất trác và bất túc, thế nên luôn có rất nhiều mong ước về nhiều thứ – cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng ước mong về tâm linh mới là ước mong quan trọng nhất: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6). Công lý và công bình phải được tôn trọng thì con người mới được tôn trọng đúng mức: Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền.

Mỗi khi cầu chúc nhau điều gì thì phải thật lòng, không thể chỉ “xã giao”. Trong Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an”. Nghi thức là để tránh lộn xộn chứ đừng chỉ theo nghĩa đen của nghi thức. Tuy nhiên, một số người tỏ ra thụ động trong khi cúi chào để thể hiện việc chúc bình an cho nhau, có người chỉ “co cái cần cổ” chút xíu, nhìn vẻ rất miễn cưỡng, có người lại cứ đứng “ngay cu đơ”. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ sinh chả sơ múi gì! Trong tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta rất cần chân thành cầu chúc nhau: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).

Với lòng chân thành, “lão gia” Phaolô bộc bạch: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11:13-15). Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta “ganh tị” chứ không “ghen tị” hoặc “ghen ghét”, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, muốn cứu các linh hồn, chứ không ganh tị về những thứ trần tục.

Đúng như thế, Thánh Phaolô đã xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29). Ông cho biết thêm rằng “trước kia chúng ta đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32). Một triết lý đầy “chất” thần học và rất đậm “chất” của thức giả Phaolô.

Chúa Giêsu đã từng bị người ta ghen ghét vì cách nói của Ngài “chẳng giống ai” và luôn “gây sốc”. Một hôm, Đức Giêsu đang trên đường lui về miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà Ca-na-an kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15:22). Thế nhưng Ngài làm ngơ, không đáp lại chi cả. Thế nhưng rồi Ngài lại xác định: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15:24). Nghe nói mà “nóng gáy” ghê đi chứ!

Mặc dù bị từ chối thẳng thừng như vậy, người phụ nữ đáng thương ấy vẫn cố lấn đến để bái lạy Ngài và thưa: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Người gì mà lắm mồm, léo nhéo dai còn hơn đỉa đói! Thấy phụ nữ này coi bộ “ngon lành” dữ nghen, thế nên Ngài còn nói “sốc” hơn:“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15:26). Mèn ơi, chịu gì nổi chứ! Ấy vậy mà bà ấy vẫn thản nhiên phân bua: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy giờ Đức Giêsu nhìn bà ấy, vừa cười vừa âu yếm nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15:28). Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. [Cũng nên biết rằng chó là vật cưng, chứ chó không bị coi thường như ở Việt Nam. Văn hóa của họ không như văn hóa Việt Nam].

Và đó chỉ là cách Chúa Giêsu “thử thách” để phụ nữ kia chứng tỏ niềm tin của mình. Tuy nhiên, Ngài thử thách không phải là để “dò tìm” như chúng ta, vì Ngài đã biết rõ cõi lòng ai sâu hay rộng thế nào, trái tim người nào cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách vì Ngài là Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi sự (x. Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài muốn làm như vậy để cho mọi người biết chân giá trị của nỗi gian truân, của đức tin, và của lòng kiên nhẫn, đồng thời Ngài cũng tạo “công trạng” cho chính người chịu đựng sự thử thách.

Và như thế thì thử thách và đau khổ cũng là hồng ân, chứ không chỉ những gì “xuôi chèo mát mái” như chúng ta tưởng. Tất nhiên chúng ta cũng phải biết tạ ơn về loại hồng ân “khác người” như vậy. Vâng, “khác người” chứ không “chết người” đâu!

Lạy Thiên Chúa nhân lành và giàu lòng thương xót, con chỉ là một con chó nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất và nhơ nhớp nhất, xin thương xót dù con hoàn toàn bất xứng. Dẫu con là kẻ vô duyên và bất tài, nhưng con luôn khao khát nên giống Ngài, ngày đêm tín thác vào Ngài qua từng nhịp thở của đời con, xin cho con được hưởng những vụn-bánh-yêu-thương thừa rơi xuống từ Bàn Tiệc Thương Xót của Ngài. Con chân thành tha thiết cầu xin Cha, nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng nhân. Amen.

TRẦM THIÊN THU

--------------------------------
 
 

TN 20-A113:  ĐỨC TIN VỮNG MẠNH


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN, năm A

Mt 15, 21 – 28

 

  Người Do Thái luôn tự hào, tự cao, tự mãn vì mình là dân của Thiên Chúa, được Ngài tuyển chọn TN 20-A113 Dalat


Người Do Thái luôn tự hào, tự cao, tự mãn vì mình là dân của Thiên Chúa, được Ngài tuyển chọn, xứng đáng được Ngài cứu độ và đổ xuống muôn vàn ơn phúc, còn dân ngoại, dân Canaan thì không được bất cứ hồng ân nào của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong khung cảnh của Tin Mừng, của Lòng Thương Xót của Chúa, ơn huệ của Thiên Chúa được biểu lộ ra cách lạ lùng và phi thường.

Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên trong văn hóa Do Thái, Ngài hiểu rất rõ điều này, hiểu tường tận quan niệm của dân Do Thái. Thế nhưng, trong hoàn cảnh bi đát của hai mẹ con người Canaan,Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa không dừng lại  nơi quan niệm ích kỷ của Người Do Thái. Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến trân gian để cứu độ con người, cứu rỗi mọi người, chứ ơn cứu rỗi không dành riêng cho một dân tộc nào, một người nào vv…Bởi vì, “ Ơn cứu chuộc chứa chan nơi Đức Kitô “, ơn cứu độ trải rộng đến mọi người, miễn là con người biết mở rộng lòng để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã để lại một câu nói rất thời danh:” Thiên Chúa dựng nên con người không cần đến con người, nhưng cứu độ con người cần sự cộng tác của con người “. Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc con người, cứu độ loài người. Nên, trong cuộc sống, Ngài đã đến với mọi lớp người, Ngài đã đến với những người bệnh hoạn tật nguyền, đã đến với mọi những người nghèo khó, neo đơn, mồ côi, góa bụa.Ngài đã đến với những người tội lỗi, những kẻ thấp cổ bé họng vv…Chúa nhân từ với hết mọi người. Nhìn thấy lũ người đói khát, bơ vơ vất vưởng, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót, đã truyền lệnh cho các tông đồ: “ Hãy cho họ ăn “. Hôm nay, trước cảnh khốn khổ của hai mẹ con người Canaan, Chúa động lòng xót thương họ, Ngài hiểu họ, thương và quan tâm cứu vớt họ. Do đó, Chúa chạnh lòng xót thương hoàn cảnh bất hạnh, khổ sở của hai mẹ con, Ngài cứu vớt cô con gái của bà quê Canaan  bằng một phép lạ, chỉ bằng lời nói quyền uy của Ngài:” Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy “. Vâng , lời nói của Chúa Giêsu vừa diễn tả quyền năng tuyệt đối của Chúa, vừa khen ngợi niềm tin mạnh mẽ và sự khiêm nhường thâm sâu của người phụ nữ ngoại giáo.

Thật vậy, vì có niềm tin mạnh mẽ, đức tin thâm sâu, người phụ nữ Canaan mới vượt qua được sự soi mói, quan niệm ích kỷ của người Do Thái và câu nói của Đức Giêsu:” Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con “. Người Do Thái quan niệm người ngoại đều là chó má vv…Nhờ có đức tin tiềm ẩn sâu xa, nhờ có niềm tin son sắt, và lòng khiêm nhượng thẳm sâu, người phụ nữ Canaan mới vượt được tất cả để đến với Chúa Giêsu và kêu van Ngài giúp đỡ. Người phụ nữ ngoại giáo này tự nhận mình chỉ là “ chó con “ bơ vơ, yếu hèn, cần sự giúp đỡ, cứu chữa của Chúa Giêsu. Người phụ nữ Canaan đã rất khiêm nhường vì tin rằng Chúa Giêsu đầy uy quyền sẽ giải thoát và cứu vớt con của mình khỏi sự dữ, ma quỷ và bệnh hoạn.

Trước Thiên Chúa tối cao, đầy quyền phép uy nghi, con người phải hết sức khiêm tốn, hạ mình để xin ngài cứu vớt. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót luôn chạnh lòng trắc ẩn, yêu thương, cứu vớt mọi người. Con người luôn phải có đức tin và lòng khiêm nhượng.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban cho chúng con lòng khiêm nhường thâm sâu để chúng con luôn tín thác vào Ngài và tin tưởng tuyệt đối, phó thác vào sự quan phòng vô biên của Chúa. Amen. 

 GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

 1.Tại sao người phụ nữ Canaan không tự ái trước lời nói của Chúa Giêsu ?
2.Người Do Thái coi dân ngoại là người thế nào ?
3.Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến với ai ?
4.Ơn cứu độ là ơn nào ? và thuộc về ai ?
5.Đức tin có cần cho con người nhận ơn cứu độ không ?

--------------------------------
 
 

TN 20-A114: Đức Tin Của Một Người Mẹ


Chúa nhật XX thường niên năm – A

(Mt 15, 21-28)
 
 

Lời hát: “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào” của nhạc sĩ Y Vân cho chúng ta thấy tình cảm TN 20-A114


Lời hát: “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào” của nhạc sĩ Y Vân cho chúng ta thấy tình cảm bao la của mọi người mẹ nóichung dành cho con từ khi mang thai cho đến khi sinh con ra trên cõi đời này, rồi chăm sóc và nuôi dạy con với bao khó khăn, thử thách của cuộc đời, chỉ mong con lớn khôn thành người. Vì vậy  “Mẹ” là khởi hứng cho biết bao tác giả thơ, ca, chuyện tình tiểu thuyếtkhôn kể xiết. Khi viết về mẹ, Chế Lan Viên đã có câu: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ, đi suốt cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con”. Tình mẹ thương con vượt lên trên cả chính mình.

Hôm nay, chúng ta quan sát người một phụ nữ điển hình là ngườ

 mẹ trong Kinh Thánh, bà không thuộc về Do Thái Giáo màthuộc xứ Cannaan dân ngoại, đã vì muốn con gái đang ốm bệnh, và bị quỉ ám lâu năm được khỏi, nên khi nghe nói về Chúa Giêsu, bà đã lặn lội đến tìm gặp Chúa. Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là "bức tường hận thù" (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện "đừng có lải nhải như dân ngoại" (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mạ người nào trong dân Israel, thì hãy "đối xứ với họ như dân ngoại " (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.

Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, bản chất và tình thương của một người mẹ vượt qua cả thù hận để kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm" (Mt 15,22). Bà kể bệnh tình của con bà với Chúa, cầu xin Chúa thương xót, với hy vọng sẽ đượcChúa chữa lành.

Bà xin thì mặc bà xin, Chúa Giêsu vẫn như giả điếc làm ngơ. Tại sao vậy? Có thể vì Chúa đã ghi nhận đức tin của bà và muốnbà tin mạnh hơn. Bà sụp lạy xuống trước mặt Chúa. Đức tin mà bà thể hiện rất khiêm nhường, đến nỗi các môn đệ thấy cũng độnglòng xin hộ: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi" (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay cho bà. Được đà, bà tiếp tục kêu xin. Sự thinh lặng của Chúa Giêsu được giải thích rằn, Người chỉ được sai đến nhà Israël. Sứ mạng màsau khi sống lại, Chúa mới sai các môn đệ đi: "Anh em hãy đi khắp thế gian. Rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạ" (Mc 16,15).

Thật khó hiểu về sự im lặng của Chúa trong lúc này, im lặng đến ngỡ ngàng. Chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự Chúa khôngđáp lời lúc chúng ta cầu xin, và đôi khi than phiền về sự lặng im của Chúa? Người đàn bà xứ Canaan là một bằng chứng. Bà sấp mìnhxuống, quì lạy và van xin. Đây là cử chỉ tôn thờ Chúa. Ấy vậy mà Chúa Giêsu vẫn không đoái hoài, chẳng những thế mà lại trả lời bàmột cách cay nghiệt: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho

chó". Lời của Chúa không làm bà thất vọng, nhủn chí, sờn long. Bà đáp: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống" (Mt 15,26-27).

Bà thật can đảm. Bà không tự ái và tức giận nói lời lộng ngôn, bà đồng ý với Chúa Giêsu nên thưa:

"Vâng, lạy Ngài". Và khi thưanhư vậy bà đến bên cạnh Chúa Giêsu để thưa với Chúa: vâng, tôi là một con chó, nhưng con chó ấy được Thầy nuôi nấng dạy dỗ vàcho ăn. Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi: điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Ý ngay lành kèm theo lòng tin mạnh mẽ đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.

Chúng ta học được nhiều điều ở bà mẹ này. Thứ nhất, nhờ đức tin, Chúa cho chúng ta được đồng bàn tình thương của Chúa, được trở nên con cái Cha trên trời: "Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu"(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12).

Thứ hai, Thiên Chúa là Đấng luôn có lý. Vì thế, trước nhan thánh Chúa, chúng ta đừng bao giờ cho rằng ý chúng ta là chính đáng và bắt Chúa phải đáp ứng nhu cầu. Vậy, khi ta cầu xin bất cứ sự gì thì hãy kết thúc bằng lời sau đây: "Lạy Chúa, con tin và xin cho ý Cha được thể hiện".

Xin cho các bà mẹ ngày hôm nay chẳng những cưu mang, sinh hạ, dưỡng dục hồng ân Chúa ban là con cái, mà con thông truyềnđức tin cho con cái nữa. Amen.
 
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

--------------------------------
 
 

TN 20-A115: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN


Thiên Chúa quảng đại kêu gọi mọi người

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 56:1, 6-7;  Rm 11:13-15, 29-32;  Mt 15:21-28)
 
 

 Lúc còn nhỏ sống ở miền Bắc Việt Nam, nhiều người chúng ta sinh hoạt trong những “làng  TN 20-A115


Lúc còn nhỏ sống ở miền Bắc Việt Nam, nhiều người chúng ta sinh hoạt trong những “làng Công giáo” đóng kín và ít giao thiệp với người ngoài đạo.  Nhiều linh mục bấy giờ vẫn còn mang não trạng hẹp hòi, nên không mấy quan tâm giảng giải cho giáo dân về thái độ cởi mở và đón nhận những người không Công giáo.  Ngày nay có thể tình trạng kỳ thị ấy vẫn còn, nhưng không quá đáng như trước kia nữa.  Để giúp chúng ta hiểu và đón nhận thái độ cởi mở và thân thiện, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cơ hội để chiêm ngưỡng đôi tay mở rộng của Thiên Chúa “dẫn những người ngoại bang lên núi thánh của Người”, và để xác tín lòng quảng đại của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi hết mọi người đến với mình.  Lòng quảng đại ấy được biểu lộ sống động qua việc Chúa Giê-su chữa lành cho con gái của một phụ nữ Ca-na-an ngoại giáo.

          Trước hết qua ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa loan báo cho dân ngoại một tin vui:  Người ban ơn cứu độ không riêng cho dân Do-thái được tuyển chọn, mà còn cho bất cứ “người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh”. Như thế rõ ràng là ơn cứu độ phổ quát đã được loan báo rồi, chứ không cần phải đợi cho đến khi Chúa Giê-su sai các tông đồ “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mác-cô 15:15).  Thiên Chúa hứa sẽ dẫn những người ngoại bang lên núi thánh của Người, ở đó có “nhà” của Người, nhà được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.  Đúng vậy, nhà của Thiên Chúa phải được gọi là “nhà cầu nguyện của muôn dân”.  Đã là nhà thì trong đó có cha mẹ, con cái, anh chị em.  Tất cả chúng ta chẳng phải là con cái Thiên Chúa đã được Chúa Ki-tô quy tụ về chung quanh Đấng chúng ta gọi là Cha sao?  Rồi “cầu nguyện” là gì nếu không phải là sống mối tương quan với Chúa và với anh chị em.  Nhà của Thiên Chúa khác nào đôi cánh gà mẹ ấp ủ đàn con!

          Đối với thánh Phao-lô, sự kiện Thiên Chúa kêu gọi và cứu độ anh chị em gốc dân ngoại là vấn đề cốt lõi trong sứ mệnh của ngài. Vì thế, “với tư cách là Tông đồ các dân ngoại”, ngài không ngần ngại viết riêng cho các Ki-tô hữu gốc dân ngoại những lời thư đầy khích lệ.  Ngài hãnh diện về sứ vụ của ngài.  Ngài khẳng định với các tín hữu ấy rằng:  “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không đổi ý”.  Ban ơn và kêu gọi ở đây nghĩa là ban ơn cứu độ và kêu gọi người ta hãy đón nhận.  Mà Thiên Chúa đã ban và đã kêu gọi thì Người sẽ trước sau như một, không hề đổi ý, vì Người là Đấng luôn trung thành.  Nếu Người đã trung thành giữ những lời đã hứa với dân riêng Do-thái, Người cũng trung thành giữ lời hứa với người dân ngoại!

          Trước đây, ngôn sứ I-sai-a loan báo:  “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người…, đều được Người dẫn lên núi thánh”.  Thì đây, hôm nay trong bài Tin Mừng, người đàn bà Ca-na-an là người ngoại bang và ngoại giáo đã “gắn bó” cùng Chúa Giê-su.  Dù có bị Chúa thử thách, nếu không nói là bị khinh miệt, bà vẫn kiên trì gắn bó theo Chúa, lải nhải xin Chúa chữa lành con gái bà.  Bà biểu lộ đức tin phi thường khiến Chúa phải ngạc nhiên và thốt lời khen ngợi:  “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”  Trong câu chuyện này, Chúa Giê-su là hiện thân của một vì Thiên Chúa quảng đại, đón nhận cả những đứa con bị mang danh ngoại giáo.  Chúa Giê-su đã phá bỏ bức tường ngăn cách Do-thái với dân ngoại, để tất cả chúng ta thấy được dung nhan của một Thiên Chúa yêu thương và muốn ôm ấp hết mọi người trong vòng tay chí ái.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Có khi nào bạn nhìn người ngoài Công giáo với ánh mắt mang chút kỳ thị không?  Bạn không thấy thoải mái khi nói chuyện với họ.  Bạn không ưa họ vì nghĩ rằng niềm tin của họ khác với đức tin Công giáo của bạn.  Tệ hơn nữa, đôi khi bạn không giữ được bình tĩnh khi tranh luận với họ về những đề tài đức tin hoặc luân lý.  Còn nếu cuồng tín một chút, bạn cũng giống như mấy môn đệ Chúa khi họ tỏ thái độ với người đàn bà Ca-na-an:  “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”.  Bạn ơi, xin đừng như vậy.  Họ và chúng ta đều là con cái Chúa, đều được Người kêu gọi đến lãnh nhận ơn cứu độ.  Người đã đem chúng ta lên núi thánh, vào trong nhà của Người thì Người cũng sẽ đem những anh chị em ngoại giáo về với Người.  Người còn nhờ chúng ta đem họ về với Người nữa đấy!                    
 
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi     

 ------------------------------------------
 
 

TN 20-A116:  Này Bà Lòng Tin Của Bà Mạnh Thật!


Chúa nhật XX thường niên A

(Mt 15,21-28)

 

 Đọc Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu khen thì ít, mà chê thì nhiều. Tuy khen ít chê nhiều, nhưng lời khen TN 20-A116


Đọc Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu khen thì ít, mà chê thì nhiều. Tuy khen ít chê nhiều, nhưng lời khen chê của Chúa đều rất xác đáng.

Những người bị Chúa chê là giới chức đạo Dothái, các tông đồ, như tông đồ Phêrô chẳng hạn (x. Mt 14,31; 16,8).

Những người được Chúa khen duy nhất có mình ông Na-tha-na-en là người Israel (x. Ga 1,47), còn toàn là những người ngoại giáo, như viên sĩ quan Rôma (x. Mt 8,10) và người đàn bà xứ Ca-na-an trong Tin mừng hôm nay.

Người đàn bà Ca-na-an hôm nay đến xin Chúa trừ quỷ cho con mình: “Lạy con Vua Đavid, xin thương xót tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Nhưng Chúa làm thinh, chẳng đáp lời nào. Thấy thế bà càng năn nỉ kêu xin, năn nỉ đến nỗi làm cho các môn đệ phải thưa với Chúa rằng: “Xin Thày thương giúp bà ấy, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi!”

Chúa liền bảo: “Thày chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel mà thôi!”

Không ngã lòng, bỏ cuộc, người đàn bà vẫn kiên trì kêu xin: “Lạy Ngài, xin hãy đến cứu giúp tôi!”

Chẳng cần úp mở nữa, Chúa bèn nói một cách cửng cỏi, sỗ sàng:“Không thể lấy bánh của con cái mà ném cho chó!”

Không phật lòng, không tự ái trước lời nói của Chúa, người đàn bà nhã nhặn khiêm nhường đáp lại: “Đúng vậy, thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ.”

Thật độc đáo! Hiếm thấy người đàn bà nào như thế! Thái độ của bà khiến Chúa phải ngỡ ngàng và cất lên lời khen ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy!”

Không biết trong cộng đoàn chúng ta có người đàn ông đàn bà nào như người đàn bà Ca-na-an hôm nay hay không? Nếu có thì xin cho biết?

Người đàn bà ngoại giáo đã vượt qua được thử thách mà Chúa đưa ra, để bày tỏ lòng tin chân thành vào Chúa và được Người khen ngợi. Còn chúng ta thì sao? Trong mọi thử thách, đau thương của cuộc đời, chúng ta có vượt qua được không?

Chắc chắn nhiều lúc chúng ta đã ngã lòng và oán trách Chúa khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chứ không vững lòng tin tưởng như người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an.

Ý thức mình yếu đuối như vậy, chúng ta hãy cùng nhau xin Chúa tha thứ, cùng nhau tuyên xưng đức tin, để niềm tin của chúng ta được ngày thêm vững vàng và được Chúa khen ngợi như người đàn bà xứ Ca-na-an hôm nay.

Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu

------------------------------------------

 

TN 20-A117: DÂN NGOẠI CŨNG ĐƯỢC HƯỞNG ƠN CỨU ĐỘ


Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

 

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XX, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn TN 20-A117


Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XX, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Gia nghiệp Chúa hứa ban cho ta thì cao quý hơn những gì lòng ta dám ước mong. Do đó, chúng ta phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, hơn hết mọi loài. Không phải: chỉ có dân Dothái được hưởng gia nghiệp của Chúa, nhưng, dân ngoại cũng được thừa hưởng cùng một lời hứa, miễn là: họ yêu mến Chúa và tuân giữ những gì Người truyền dạy. Thật vậy, Thiên Chúa là muốn cho tất cả mọi người được hưởng cứu độ của Người (x.1Tm 2,3-4). Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Dothái, cùng làm một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”  (Eph 3,5-6).

Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia được mời gọi làm ngôn sứ để loan báo cho muôn dân biết: Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt Tuyệt Đối, cả mặt đất sẽ đầy tràn vinh quang Chúa, đồng thời, cũng cảnh báo Ítraen chỉ còn một số nhỏ sống sót mà thôi. Điều này được ngôn sứ nói rõ hơn trong bài đọc một của Thánh Lễ: dân ngoại sẽ gắn bó với Đức Chúa qua việc tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công chính, phụng sự Đức Chúa, yêu mến Thánh Danh, và dân ngoại sẽ được Đức Chúa dẫn lên Núi Thánh của Người.

Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Gioan Kim Khẩu khi chú giải câu Thánh Kinh “Chính anh em là muối cho đời, và ánh sáng cho trần gian”, thánh nhân nói: “Thầy không chỉ sai anh em đến với hai thành, mười thành, hay hai mươi thành, cũng không sai anh em đến với một dân tộc như sai các ngôn sứ xưa, nhưng Thầy sai anh em đi khắp cả địa cầu, biển khơi, đến với toàn thế giới đang bị ảnh hưởng xấu xa… Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”. Thánh nhân muốn cho thấy ơn cứu độ là phổ quát, là dành cho tất cả mọi người. Điều này cũng được thánh Phaolô, Tông Đồ của dân ngoại, khẳng quyết trong bài đọc hai của Thánh Lễ: ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban, thì không bao giờ Người rút lại, chỉ có điều, chúng ta có yêu mến, vâng phục Chúa để được hưởng ơn cứu độ của Người hay không mà thôi: kẻ bên trong, nhưng lại ở ngoài; kẻ bên ngoài, nhưng lại ở trong.

Bài Đáp Ca với Thánh Vịnh 66, vịnh gia đã kêu gọi “chư dân”, nghĩa là, dân ngoại hãy ca tụng Đức Chúa. Vịnh gia cũng ước mong cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Người.

Dân ngoại cũng được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong bài Tin Mừng hôm nay, mà người đàn bà Canaan là đại diện. Bà đã làm gì, để được hưởng điều cao quý hơn những gì mà lòng bà ước mong? Thưa, bà đã hoàn toàn tin tưởng, yêu mến, vâng phục Đức Giêsu, bằng chứng là, bà tự nhận mình là chó, tự đánh mất phẩm giá của một con người, để được nhận làm con Thiên Chúa, hưởng gia nghiệp, ơn cứu độ của Người.

Đức Kitô chính là Đấng Cứu Độ Duy Nhất, ngoài Người ra không ai có thể đem lại ơn cứu độ. Hội Thánh là nhiệm thể của Đức Kitô, ngoài Hội Thánh, không có ơn cứu độ, nhưng, Hội Thánh ở đây phải được hiểu là Hội Thánh phổ quát, là bí tích cứu độ phổ quát, nghĩa là, bao gồm tất cả những ai kết hiệp với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu. Do đó, ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, mọi nơi và mọi thời, bất luận, họ sống trong hay ngoài Hội Thánh hữu hình, trước hay sau Đức Giêsu lịch sử.

Chúng ta thuộc về Hội Thánh hữu hình, nhưng, coi chừng: kẻ ở trong nhà, thì lại là người ở ngoài, còn kẻ ở ngoài, thì lại là người ở trong. Chúng ta ở trong Hội Thánh hữu hình, nếu chúng ta không tin nhận Đức Kitô, chối từ ân sủng, thì chúng ta không thể được cứu rỗi. Quả thật, lỗi cố tình này nhiều khi được cho là tội phạm đến Chúa Thánh Thần: cố tình chối từ ơn thánh, và những phương tiện cần thiết để được cứu độ. Qua biến cố Đức Kitô, ơn cứu độ đã được thực hiện cách thành toàn. Ơn cứu độ Người thực hiện mang tính phổ quát, áp dụng cho mọi người, mọi nơi và mọi thời. Lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi lên trời đã chứng thực điều đó (x. Mc 16,15-16). Vì thế, Đức Kitô trở thành Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Nhờ Người, muôn vật được tạo thành, cũng nhờ người muôn loài được ơn cứu độ (x. Cv 4,12). Chính Người cũng ủy thác cho Hội Thánh phân phát các mầu nhiệm cứu độ cho muôn dân.

Chúng ta với tư cách là thành viên của Hội Thánh, chúng ta cũng phải loan truyền ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người bằng chính đời sống chứng tá của chúng ta, bằng những ưu tiên lựa chọn hằng ngày của cuộc sống: quyết chọn Đức Kitô và thuộc về Đức Kitô, cho dẫu, chúng ta phải bị trả giá: bị bách hại, bị khinh khi, bị thiệt thòi mất mát: mất danh dự, mất quyền lợi, hay mất cả mạng sống mình.

----------------------------------

 

TN 20-A118: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN


Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Đến với muôn dân” là tựa đề của một Sắc lệnh trong văn kiện của Công đồng Vatican II. Nội TN 20-A118


“Đến với muôn dân” là tựa đề của một Sắc lệnh trong văn kiện của Công đồng Vatican II. Nội dung Sắc lệnh này là lời mời gọi mọi thành phần Dân Chúa cộng tác vào sứ mạng truyền giáo, theo lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x. Mt 28,16-20).

Khi xác định “đến với muôn dân”, Giáo Hội không còn là một cơ chế hành chính khép kín, đóng khung trong một nền văn hoá riêng biệt hoặc một châu lục hay một quốc gia. Trái lại, Giáo Hội có sứ mạng đi đến với mọi dân tộc để giới thiệu Chúa, làm cho chất men Tin Mừng thấm nhập vào mọi nẻo đường của cuộc sống, xây dựng Nước Trời ở trần gian. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần mời gọi Giáo Hội hãy đi ra, hãy mở cửa, hãy đến vùng ngoại vi để loan báo Tin Mừng.

Một trong những chủ đề chính trong Lời Chúa hôm nay là lời khẳng định: Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Bất kể ai, nếu có Đức tin sẽ được chữa lành và cứu rỗi.

Cũng như lòng nhân hậu, tình mẫu tử, sự tha thứ luôn là chuẩn mực cho con người dù họ thuộc về bất kỳ nền văn hóa nào, khái niệm về Thiên Chúa diễn tả Đấng là nguyên lý của mọi loài và là cội nguồn của Chân Thiện Mỹ. Ngài là Cha của người da trắng cũng như da đen da vàng. Ngài dựng nên những người thánh thiện cũng như những người tội lỗi. Ngài đổ ơn mưa móc xuống cho người công chính cũng như cho kẻ bất lương. Như thế, bất cứ ai sống dưới gầm trời này mà cậy tin vào Chúa và kêu cầu Ngài thì đều được Chúa thương, vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Chúa sẽ dẫn họ lên núi thánh và ban cho họ tràn đầy niềm vui (Bài đọc I).

Thánh Matthêu kể lại: hôm đó Chúa Giêsu đi đến miền Tia và Siđôn. Hai địa danh này diễn tả miền đất của dân ngoại. Người đàn bà xứ Canaan cũng là một người ngoại. Bà đang đau buồn vì con gái bà bị quỷ ám. Chúng ta lưu ý đến hai lời cầu nguyện của người phụ nữ này. Đó cũng là hai lời cầu nguyện trong Phụng vụ, xưa cũng như nay: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Lời kinh trong phần sám hối mở đầu thánh lễ); “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Lời mở đầu giờ kinh Phụng vụ). Lời van xin của bà chứng minh một nhu cầu khẩn thiết và một niềm hy vọng sâu xa. Tuy vậy, lời van xin thống thiết này ban đầu đã bị Chúa Giêsu khước từ, kèm theo một lời nói xem ra rất “khó nghe”. Cuộc đối thoại giữa người phụ nữ này với Chúa được thánh sử Mátthêu trình bày như tiến trình của lời cầu nguyện nơi người tín hữu: có vẻ như lời cầu nguyện bị khước từ lúc ban đầu, nhưng sự kiên trì và phó thác sẽ làm thay đổi mọi sự. Không thể cầu nguyện trong sự nóng vội với một loạt những nhu cầu cấp bách và đòi Chúa phải chấp thuận ngay theo như ý mình. Bởi lẽ lời cầu nguyện không chỉ đơn giản là những lời xin, mà còn là tâm tình yêu mến tạ ơn, còn là sự diễn tả nỗi lòng của người con thảo đối với cha mẹ mình. Người phụ nữ xứ Canaan đã hiểu điều đó. Bà đã kiên trì và khiêm tốn, do đó lời cầu xin của bà đã được Chúa nhận lời. Ước vọng của bà đã được đáp ứng. Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta hãy kiên trì trong lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim chân thành và tình yêu mến thiết tha chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời. Có những khi chúng ta không đạt được ngay tức khắc những điều chúng ta xin, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Ngài muốn những điều thực sự là tốt và đem lại ích lợi lâu dài cho chúng ta.

Chúa Giêsu đã đến trần gian để quy tụ muôn người thành gia đình của Thiên Chúa. Người đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa người Do Thái với dân ngoại. Đối với Chúa, người Do Thái hay người ngoại không phải là điều kiện để Người thực hiện những phép lạ, mà điều quan trọng là lòng tin. Lòng tin đôi khi phải trải qua thử thách. “Này bà, bà có lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Lòng tin là điều kiện để con gái bà được khỏi quỷ ám. Lòng tin cũng giúp bà kiên trì trong lời van xin, mặc dầu cảm thấy mình bị chối từ. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần khen lòng tin vững vàng của những người ngoài Do Thái, như trong trường hợp vị sĩ quan đến xin Ngài chữa cho con trai mình: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10).

Tưởng cũng nên tìm hiểu đôi chút về khái niệm “chó con” được Chúa Giê-su dùng để chỉ về người phụ nữ dân ngoại. “Con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai. “Chó con” cho ta hình ảnh con vật nuôi trong nhà, mặc dù không được coi trọng như con người, nhưng cũng được quý mến chăm sóc và thương yêu. Lời tuyên bố của Chúa có thể hiểu như một sự thử thách lòng tin của bà. Lập luận của bà chứng tỏ sự kiên trì và cậy trông, chấp nhận chỉ là một con chó con chực chờ những mụn bánh nhỏ rơi xuống trong khi người thực khách đang dùng bữa trên bàn. Sự kiên trì đã đem lại phần thưởng cho bà.

Ngỏ lời với giáo dân Rôma, là những người nguồn gốc dân ngoại, Thánh Phaolô chứng minh cho họ thấy lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài không khước từ ai. Những ai kêu cầu Ngài đều được Ngài thương nhận lời. Chính vì lòng thương xót đối với muôn dân, mà Chúa đã dùng thánh nhân như một tông đồ của dân ngoại. Thánh Phaolô hiểu sứ mạng của mình và ngài đã đi đến mọi nơi, xây dựng các cộng đoàn đức tin và giúp họ nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa, được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu (Bài đọc II). Như thế, mỗi chúng ta cũng đã là những “người thuộc dân ngoại”, nhưng nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta trở thành “con cái trong nhà”, là những người “đồng thừa kế với Đức Giêsu”, nhờ tình thương của Thiên Chúa.

Qua người tín hữu, Đức Giêsu hôm nay vẫn đang đến với muôn dân. Người là Ánh sáng muôn dân, đem ơn Cứu độ cho đến tận cùng trái đất. Mỗi chúng ta như cánh tay nối dài của Người, để đem ánh sáng ấy chiếu soi cuộc đời. “Ở đâu có cộng đoàn Kitô hữu, ở đó có linh địa của lòng thương xót” (ĐTC Phanxicô). Thực thi lòng thương xót trong nội bộ cộng đoàn cũng như đối với anh chị em không cùng niềm tin, đó chính là lời loan báo Tin Mừng hiệu quả nhất.

----------------------------------

 

TN 20-A118: LÒNG TIN KIÊN NHẪN CỦA MẸ ĐÃ CỨU CON


 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

 

Tình mẹ đó là tình bao la và cao với nhất. Bởi vì mẹ chỉ biết cho mà không so đo tính toán, chỉ TN 20-A118


Tình mẹ đó là tình bao la và cao với nhất. Bởi vì mẹ chỉ biết cho mà không so đo tính toán, chỉ biết hy sinh mà không đòi đền đáp, nên cha ông ta mới nói rằng:  “Ôm con mẹ đếm sao trời. Đếm hoài không hết một đời long đong”. Chính tình yêu cao vời ấy mà con người mới học được bài học yêu thương, mới hiểu được tình yêu cần lòng hy sinh như trong ca dao đã nói:

Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.

Cuộc sống chúng ta có thể thiếu nhiều thứ nhưng tình mẹ nếu thiếu đi là một bất hạnh cho cuộc đời chúng ta. Vì chỉ cần có mẹ là ta có tất cả. Chỉ cần có mẹ thì mẹ sẽ lo cho ta mọi sự như ai đó đã nói: “Mẹ là người có thể thay thế tất cả những ai khác, nhưng không có ai có thể thay được vị trí của mẹ”.

Tình hiền mẫu ấy hôm nay đã được bà mẹ Canaan bộc lộ thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám. Bà đã can đảm vượt qua cái hố ngăn cách bất thân thiện, thậm chí thù hận giữa dân Chúa và dân ngoại, hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ  Chúa đoái thương cứu giúp.

Bà công khai tuyên xưng đức tin, khi xướng lên thánh danh Đấng Messia. Rồi kể sự tình, không phải cầu xin cho bà, mà thành tâm khẩn khoản xin cho con gái đáng thương: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

 Mặc dù Người tảng lờ, như không nghe, không biết, không hề đáp lại, bà vẫn khiêm nhường, nhẫn nhục, vẫn không hề chao đảo, nhụt chí trước thái độ ghẻ lạnh của các môn đệ: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15, 23)

 Vượt qua thái độ từ khước công khai của Đức Giêsu, bà mẹ kính cẩn khấu đầu, quỳ sụp xuống, van lạy tha thiết khẩn cầu, càng mạnh dạn hơn nữa bà mẹ hoàn toàn tin cậy vào lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu. Lời van xin đầy khiêm tốn của bà đến nỗi chỉ ao ước được tí bánh vụn của con cái vương vãi cũng đủ bà mãn nguyện.

   Cuối cùng trái tim thắm tình mẫu tử được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời giải thoát quỷ dữ khỏi con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)

 Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bà mẹ đã cạn kiệt nước mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta. Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A120: BÁM CHẮC VÀO CHÚA


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Người phụ nữ xứ Canaan bám chắc lấy Chúa để xin cứu chữa cho con gái bà. Giây phút  gặp Chúa TN 20-A120


Người phụ nữ xứ Canaan bám chắc lấy Chúa để xin cứu chữa cho con gái bà. Giây phút  gặp Chúa và bám chắc vào Chúa là một kinh nghiệm để chiến thắng quá khứ và sống niềm tin vào tương lai.

Chúng ta trải qua ba bài học liên tiếp, cỏ lùng giữa lúa, bánh ra nhiều và đi trên mặt biển đến với Chúa. Cả ba đều là những thách đố của thời đại: Về lòng kiên nhẫn làm việc lành giữa sự dữ. Về những gì nhỏ bé có hãy cố làm cho nó sinh hoa kết trái. Hãy bước trên những nghịch cảnh và đến với Chúa. Và Chúa nhật này lại như bà góa xứ Canaan bám lấy Chúa để cầu cứu.

Có thể đúc kết,  chiến thắng sự dữ chung quanh, những nghịch cảnh không lường trước luôn đòi hỏi việc kiên trì cầu nguyện, bám chắc vào Chúa.

Hết lần này đến lần khác, người đàn bà kêu cầu dường như Chúa vẫn chưa nhận lời. Phải chăng Chúa bỏ mặc lời kêu cầu? Chẳng phải vậy! Chúa như muốn các tông đồ kêu cùng Chúa cho bà góa này. Như Chúa bảo: “Ở đâu có hai ba người họp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 19). Lời kêu cầu của một người sẽ chẳng bao giờ lẻ loi trong cộng đoàn hiệp thông, dù họ có ở nhà nằm trên giường bệnh một mình, hay dù họ có ở một nơi hẻo lánh hay ở một nơi thanh vắng, họ vẫn cầu nguyện trong cộng đoàn hiệp thông. Vì bản chất lời cầu nguyện là một hiệp thông, hiệp thông cùng các thánh trên trời, hiệp thông cùng bao người khác cũng đang cầu nguyện.

Chúa củng cố niềm tin cho con người bằng cách đối thoại với Chúa. Trong đối thoại, con người nói lên ước mong của mình và không chỉ cho mình còn đối thoại liên quan đến người người mình đang quan tâm. Chúa muốn lắng nghe, Chúa muốn con người thổ lộ tâm can. Không phải vì Chúa không biết, nhưng đối thoại là muốn nghe, muốn chia sẻ để cảm thông, dành thời gian cho con người.

Có hai loại thời gian. Thời gian của những công việc, lịch trình, và một thời gian của tâm hồn. Thời gian tâm hồn dễ bị xao lãng bởi những công việc và theo đó công việc, lịch trình trở nên nặng nề, vất vả, nhiều chuyện mà chẳng nên cơm cháo gì. Thời gian tâm hồn không chỉ là thời gian dành ra cầu nguyện mỗi ngày mà còn là thời gian tràn ngập vào cả trong những lúc làm việc, bận rộn lao động. Có một câu hỏi trả lời thú vị rằng, trong lúc cầu nguyện không được làm việc, nhưng trong lúc làm việc vẫn có thể cầu nguyện. Chúa muốn lắng nghe chúng ta. Hãy thưa chuyện với Chúa cả những lúc nghỉ ngơi và làm việc.

Bám chắc vào Chúa là một kinh nghiệm sống mà Chúa đã dạy: “Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng”. Và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức: Hãy mang lấy ách của Ta vào mình, hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn. Vì chưng ách Ta thì êm ái, và gánh Ta lại nhẹ nhàng”. (Mt 11, 28 – 30).

----------------------------------

 

TN 20-A121: CHO CON VỮNG TIN


Bông hồng nhỏ

 

Trong hành trình bước theo chân Thầy, ta được chứng kiến bao cảnh đời bất hạnh, đã bao lần TN 20-A121


Trong hành trình bước theo chân Thầy, ta được chứng kiến bao cảnh đời bất hạnh, đã bao lần ta ngậm ngùi trước nỗi thống khổ của họ. Trái tim ta cũng biết chạnh lòng thương, biết bận tâm đến nỗi đau khổ của những người anh em. Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu, ta được cùng Người lui về miền Tia và Xiđôn. Này, có người đàn bà xứ Canaan cứ theo Người mà kêu xin mãi. Bà là một người dân ngoại nhưng đã làm cho ta cảm phục và ngưỡng mộ về một lòng tin mạnh mẽ, lòng cậy trông vững vàng.

 Khi một người phụ nữ đang yêu, nhất là khi họ yêu bằng trái tim của một người mẹ thì nghị lực yêu thương trong họ thật phi thường. Quả thế, đôi chân người mẹ xứ Canaan cứ mải miết bước theo chân Thầy Giêsu, mải miết kêu xin Người dù bà chỉ nhận lại một thái độ dường như là quá lạnh lùng. “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15, 22). Nhìn thấy dáng vẻ hao gầy của người mẹ đã một đời lo lắng cho đứa con bệnh tật ấy, nghe tiếng kêu xin thảm thiết của người mẹ khốn khổ ấy, ai mà không chạnh lòng thương. Vì đâu mà Thầy Giêsu- Đấng giàu lòng thương xót lại chỉ lặng thinh không đáp lời? Các môn đệ đến gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ đi theo sau chúng ta mà kêu xin mãi!” (Mt 15, 23). Chỉ đến khi các môn đệ lên tiếng, Thầy Giêsu mới đáp: “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Ítraen mà thôi (Mt 15, 24). Phải chăng, Thầy đang chờ đợi các môn đệ của mình lên tiếng? Hơn ai hết, Người nhìn thấy và cảm nhận được nỗi đau khổ của bà nhưng dường như người đang chờ đợi các môn đệ của mình lưu tâm đến người phụ nữ khốn khổ này. Người cũng muốn dành cho bà ấy một niềm hạnh phúc lớn lao, niềm hạnh phúc ấy được sinh ra từ những đau khổ và thử thách mà bà đã và đang trải qua; nó cũng là hoa trái của những cái rễ đắng cay từ những tủi nhục và đau khổ mà bà đã phải mang trên đôi vai nhỏ bé và nó cũng đã từng bao lần làm trái tim bà tổn thương.

Câu nói của Người không làm bà chùn bước, không làm bà mất hy vọng. Bà biết mình là người dân ngoại và bà lại càng cầu xin tha thiết hơn: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15, 25). Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Chỉ có dân Ítraen mới xứng đáng được lãnh nhận tình thương của Thiên Chúa hay sao? Chấp nhận thân phận bị khinh chê, bà vẫn kiên cường đáp lại trong thái độ nhẫn nhục: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Câu trả lời của bà khiến cho ta rất đỗi ngạc nhiên và cũng đầy cảm phục. Bấy giờ, câu trả lời của Thầy Giêsu như dòng nước trong lành và ngọt ngào chảy vào đôi tai bà, rung động tâm trí bà và tràn đến chữa lành trái tim bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi (Mt 15, 28).

Càng trải qua những đau khổ và thử thách, niềm tin trong bà càng mạnh mẽ và nó đã giúp bà lãnh nhận niềm hạnh phúc mà bà hằng khát mong. Đức tin của ta cũng sẽ phải được tôi luyện mỗi ngày. Chung chia niềm vui với bà mẹ xứ Canaan, ta cũng được tiếp thêm niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng xót thương những ai cậy trông và tin tưởng nơi Người. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1, 3-4) .

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con cần Chúa. Giữa những đau khổ và thử thách trong cuộc sống, xin cho con biết hướng nhìn lên Chúa, kiên trì bước theo đường lối Chúa mời gọi, để nhờ đặt trọn niềm tin và hy vọng nơi Chúa, con cũng được cùng Người hưởng phúc vinh quang. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A122: NHẬN BIẾT MÌNH


Anna Cỏ may

 

Khi các em nhỏ khi xin cha mẹ điều gì mà không được, các em sẽ khóc òa lên. Cha mẹ đi đâu TN 20-A122


Khi các em nhỏ khi xin cha mẹ điều gì mà không được, các em sẽ khóc òa lên. Cha mẹ đi đâu em theo đó cho đến khi em đạt được như ý muốn. Khi lớn lên, em xin cha mẹ mà không được, em tỏ ra thái độ tức giận và bỏ đi chỗ khác hay tìm cách để có được. Như thế, em đã không có được điều em mong muốn từ bố mẹ. Vì sao vậy?

Tin Mừng theo thánh sử Mátthêu thuật lại câu chuyện người đàn bà Canaan có đứa con bị quỷ ám, bà đã chạy đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa cho con mình. Bà vừa đi vừa kêu xin Đức Giêsu nhưng Người không đáp lại một lời. Các môn đệ lại gần xin Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15,21-28). Đức Giêsu đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi” (Mt 15,24). Dầu bà chỉ nhận được sự thinh lặng và câu nói lạnh lùng của Đức Giêsu, nhưng bà vẫn tiếp tục kêu xin. Bà nhận ra mình thật sự chẳng đáng phúc được nhận lòng thương xót của Đức Giêsu vì bà không thuộc đoàn chiên nhà Ítraen. Dầu thế, bà vẫn kiên trì kêu xin. Bà đặt niềm hy vọng, sự tin tưởng vào Đấng duy nhất sẽ cứu được con bà. Bà nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27). Nhờ thái độ vừa đi vừa kêu xin cùng sự tin tưởng vào lòng thương xót và quyền năng của Đức Giêsu, bà đã được như ý muốn: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15,28).

Đức Giêsu đã nói: “Tôi là mục tử nhân lành”(Ga 10,11); “Cha tôi, Đấng đã ban cho tôi, thì còn lớn hơn tất cả và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10,29). Vì vậy, đứng trước thử thách và gian nan của cuộc sống, chúng ta hãy kiên trì kêu xin Chúa, dù Ngài vẫn lặng thinh. Sự lặng thinh của Ngài có thể là đang lắng nghe lời chúng ta xin và xem ơn chúng ta xin có đem lại điều tốt nhất không? Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với một Tập sinh rằng: “Nếu ta cậy trông Chúa ban cho ta một ơn gì mà Ngài không định ban, thì Ngài rất quyền thế và giàu có, vì danh dự, Ngài chẳng để ta thất vọng, và Ngài sẽ ban cho” (Hoàng Trọng, Tinh thần, Đan viện Cát Minh Sài Gòn, chương II đoạn 6, 1970).). Vậy chúng ta hãy nhận biết mình là kẻ tội lỗi mà đặt niềm tin vào Ngài trong mỗi giây phút. Để rồi, chúng ta cũng được nghe ngài nói: “Con muốn thế nào, sẽ được như vậy” (x. Mt 15,28).

Lạy Chúa, Chúa biết rõ tình trạng, hoàn cảnh cùng nỗi âu lo hiện tại của con. Con chẳng xứng đáng với những điều con ước mong. Vậy, con xin dâng lên Chúa tất cả con người tội lỗi này. Nguyện xin lòng thương xót của Ngài bao bọc con suốt cả cuộc đời. Bởi vì Ngài đã dựng nên con và con đã là con của Ngài. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A123: SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN


Maria. Phạm Anh

 

Khi khởi sự làm bất cứ một công việc nào, chúng ta mong ước hoàn thành nó một cách tốt đẹp TN 20-A123


Khi khởi sự làm bất cứ một công việc nào, chúng ta mong ước hoàn thành nó một cách tốt đẹp. Người nông dân chăm chút cho cây trồng mong đến mùa bội thu. Những học viên ngày đêm miệt mài sách vở chờ đến lúc đỗ đạt. Những công nhân, bác sĩ, kỹ sư,…nỗ lực hành nghề, nghiên cứu để nâng cao tay nghề, kinh nghiệm,… Những mong ước, chờ đợi ấy không chỉ dừng lại trên những thành quả, nhưng ẩn chứa là một lòng tin, sâu xa hơn là lòng tin chúng ta sẽ được hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc thật sự chỉ có ở nơi Thiên Chúa. Hôm nay, người phụ nữ miền Canaan là người hạnh phúc nhất. Bà hạnh phúc không chỉ vì con gái bà được khỏi bệnh, nhưng bà đã gặp được Đấng Toàn Năng, và chứng kiến việc lạ Người làm mà bấy lâu nay bà mới chỉ nghe biết. Tất cả điều ấy xảy ra vì bà đã tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15, 28 ).

Hạnh phúc là một thực tại chúng ta chẳng dễ gì nắm bắt trong tay được. Thật vậy, trong cuộc sống trần gian với biết bao là khó khăn, thử thách, hay những đau khổ, bệnh tật, những nghịch lý, những trái ý,… làm sao chúng ta có thể cảm nhận được hạnh phúc? Lòng tin sẽ giúp chúng ta vượt qua những trở ngại ấy mà đến được những điều tốt đẹp, hạnh phúc theo kế hoạch mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Chúng ta thấy rõ điều này qua tấm gương người phụ nữ dân ngoại miền Canaan. Trước lời cầu khẩn của bà, Đức Giêsu đã lặng thinh, không những thế, dường như bà đang bị từ chối: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15, 26). Dù vậy, bà vẫn tin. Thật ngạc nhiên! Niềm tin của bà càng thêm mạnh mẽ và xác tín hơn, khi bà đáp: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rớt xuống” (Mt 15, 27). Bà tin vào chính Đấng bà đang cầu xin, dù bà chưa nhận biết Người, nhưng bà vẫn tin, Người sẽ đoái thương đến bà. Thật vậy, chẳng có gì ngăn cản được Thiên Chúa thương xót, ban ơn cho con người, dù người được nhận ơn là ai đi nữa: “ hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta” (Is 56, 6-7).

Tin là chúng ta trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa, Người sẽ thực hiện  những điều tốt đẹp trong cuộc đời chúng ta. Nhưng thật là nghịch lý, khi chúng ta nói chúng ta tin, nhưng chính chúng ta lại không làm gì, như dân gian có câu: há miệng chờ sung rụng. Chúng ta tin sẽ thu hoạch được một vụ mùa tốt, nhưng chúng ta lại chẳng đem hết tâm huyết để chăm bón cây trồng thì làm sao có được. Hay muốn trình độ nghiệp vụ được nâng cao nhưng lại không cất công học hỏi, nghiên cứu, thì cũng không có kết quả gì. Hoặc chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nhưng chúng ta lại làm ngơ trước những khó khăn, đau khổ của người khác. Dường như chúng ta chưa thể hiện được lòng tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đang trưng diễn sự kiêu ngạo của chúng ta để thách thức nhiều hơn là tin tưởng, phó thác nơi Chúa. Thật vậy, khi chúng ta tin, chúng ta sẽ đem hết cả tâm trí, con người để chúng ta thực hiện những điều ấy, trong niềm xác tín: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng luôn thực hiện những điều tốt nhất trong cuộc đời chúng ta. Như thế, chúng ta cảm thấy thật hạnh phúc.

Một khi lòng tin của chúng ta đơm bông kết trái, chúng ta cũng muốn cho người khác cũng được như vậy. Chúng ta đã cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc khi được làm con Chúa, được hưởng dư đầy những ân lộc Chúa ban, chúng ta muốn cho những người chưa nhận biết Chúa cũng nhận được hồng ân ấy. Chúng ta nên từ bỏ não trạng “loại trừ” khi những người khác không giống, không cùng tín ngưỡng với chúng ta. Thay vào đó, chúng ta phải có bổn phận khơi lên lòng tin nơi họ qua đời sống bác ái, yêu thương, chia sẻ. Nếu chúng ta không làm được những việc cao cả lớn lao, thì hãy bắt đầu với những hành động nhỏ bé. Như vậy, chúng ta làm cho người khác phải thắc mắc về chúng ta: đây là đạo yêu thương! Chẳng hạn, chúng ta đến nhà để thăm hỏi, trò chuyện, mời người khác đến tham dự Thánh lễ và dùng cơm trong các dịp lễ lớn, trao gửi những nụ cười thân thiện, nói những lời yêu thương,… Tất cả những việc ấy đều nằm trong khả năng của chúng ta. Khi làm như vậy, chúng ta đang sống niềm tin của chúng ta ngay trong cuộc sống hằng ngày.

Lạy Chúa, con tin, con tin Thiên Chúa luôn yêu thương, quan phòng và thực hiện những gì tốt đẹp nhất cho con. Xin cho con biết thể hiện niềm tin ấy qua việc không ngừng nỗ lực đem hết khả năng, nhiệt huyết mà cộng tác với ơn Chúa ban để sinh hoa trái trong đời sống đức tin thường ngày. Nhờ đó, con sẽ trở thành nhân chứng của Chúa cho tha nhân. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A124: CẢM THẤU NỖI ĐAU


Maria. Nguyễn Huệ

 

Qua những phương tiện truyền thông, hằng ngày, có hàng chục bài viết, những video clip nói TN 20-A124


Qua những phương tiện truyền thông, hằng ngày, có hàng chục bài viết, những video clip nói về tình trạng hỗn loạn, khó khăn, mất bình an của xã hội chúng ta đang trong thời gian dịch bệnh Covid hoành hành. Qua thông tin mỗi ngày, chúng ta biết Giáo hội của Chúa đang bị bách hại, bôi nhọ, xúc phạm. Bối cảnh ấy hiện lên biết bao nỗi đau, lo lắng, sợ hãi, bệnh tật của con người, đặc biệt là khát khao một cuộc sống bình thường, hạnh phúc. Ánh sáng Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối diện với nhu cầu của bản thân, tha nhân trong đức tin, qua thái độ khiêm tốn của người phụ nữ Canaan nài xin Chúa Giêsu cứu con gái của bà: “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khỏ sở lắm!” (Mt 15, 22).

Chúng ta thấy thái độ nài xin của bà thật khác lạ! Bà xin Chúa thương xót bà trong khi chính con gái của bà mới là người đau khổ đang bị quỷ ám. Trong trình thật khác của Tin Mừng, Mt 17,14-15  người cha đến cầu xin Chúa Giêsu chữa con trai mình và nói lên nỗi đau khổ của trai “ thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và bệnh tình nặng lắm”( Mt17,15)  . Vậy tại sao bà lại thưa lên với Đức Giêsu như vậy? Phải chăng là tình mẫu tử thiêng liêng và chính nỗi đau khổ của con bà đã trở thành nỗi đau khổ của bà. Bởi bà đã cảm được, đã thấu hiểu được nỗi đau ấy. Dù bà là dân ngoại nhưng đã thấm nhuần tinh thần đức ái của Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có rung cảm trước những nỗi đau khổ của những người đang sống quanh chúng ta, ngay cả với những người trong gia đình? Chúng ta có hiểu được áp lực về bổn phận, trách nhiệm của người chồng (người vợ) , hay những nỗi sợ hãi, lo lắng, đòi hỏi trong học hành của con cái? Dường như những điều ấy thật xa lạ trong cuộc sống của chúng ta! Khi về đến nhà, thường chúng ta chỉ quan tâm tới những vấn đề trên mạng xã hội facebook mà quên đi những người đang sống bên cạnh chúng ta: họ là ai, họ đang có những tâm tư, tình cảm gì, khó khăn gì… Với những người trong gia đình đã khó làm sao chúng ta có thể có thời gian quan tâm tới những người khác?

Qua sứ điệp Lời Chúa hôm nay, Chúa vẫn đang mời gọi  Chúng ta hãy quan tâm người khác qua những điều nhỏ nhặt nhất: chăm chút cho những bữa ăn chung của gia đình, cùng nhau trò chuyện về ngày sống đã qua, và cả những khó khăn đang gặp phải trong cuộc sống,… Đặc biệt, chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa những ưu tư, trăn trở trong cuộc sống và chúng ta cũng không quên  dâng lên Chúa những nỗi đau khổ của anh chị em  đang gặp phải vì bệnh tật, chiến tranh, nghèo đói, những khó khăn bất ổn trong đời sống,… Chúng ta hãy  tin tưởng, phó thác nơi Chúa tất cả thao thức cuả chúng ta. Bởi chúng ta đã, đang và sẽ cảm thấu những nỗi đau ấy. Và, chúng ta có thể giúp đỡ người khác trong khả năng về vật chất cũng như tinh thần. Như vậy, chúng ta đang ôm những nỗi đau của người khác và được chính Chúa Giêsu ôm trọn cả chúng ta và những anh chị em khác đến với Người.

Lạy Chúa, trên thế giới còn rất nhiều người đang chịu sự đau khổ. Chúng con tin rằng Chúa biết điều con cái của Ngài đang gánh chịu. Xin Chúa mau đến cứu giúp chúng con. Đồng thời, xin Chúa ban ơn can đảm để giúp chúng con biết sống tâm tình hoán cải và phó thác để đón nhận những khó khăn, thử thách và không ngừng nỗ lực cộng tác với ơn Chúa ban với niềm xác tin rằng: “Thiên Chúa có thể biến  những điều chưa tốt thành những điều lành”. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A125: MẢNH VỤN KHÔNG THỪA


Trầm Thiên Thu

 

Những thứ thừa thì chắc chắn dư, và là thứ bỏ đi, nhưng có những thứ dư mà lại không thừa, nghĩa TN 20-A125


Những thứ thừa thì chắc chắn dư, và là thứ bỏ đi, nhưng có những thứ dư mà lại không thừa, nghĩa là vẫn có ích. Rác rưởi có khắp nơi, nhưng chính những đống rác đó vẫn sinh ích bằng cách nuôi sống nhiều người khác…

Không ai đầy đủ đến mức không phải xin ai, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Thật vậy, đối với con người với nhau còn vậy huống chi phàm nhân đối với Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều là những kẻ ăn mày lòng thương xót của Thiên Chúa, cụ thể là những lúc đi xưng tội. Và mỗi ngày chúng ta cũng “ăn xin” Ngài nhiều lần, nhất là trong hoàn cảnh đại dịch corona hiện nay.

Thế giới có nhiều quốc gia, gọi là đất nước, phân định bằng biên giới, với khoảng trời và quốc kỳ riêng. Nhưng thế gian chỉ có hai lãnh thổ – miền sinh và cõi tử. Mọi người chung một dòng sông (nước) gọi là Thời Gian – khi sống, và chung một ngôi nhà gọi là Đất – khi chết. Cuộc sống nhiêu khê hơn chúng ta tưởng, như biển cả luôn động dù nhìn bề ngoài rất tĩnh. Tất nhiên luôn phải chiến đấu, trước tiên chiến đấu với chính mình. Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Tiền nhân đã xác định như vậy. Ngạn ngữ Phi châu nói: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba.” Thật vậy, thử thách càng cao thì cơ hội càng lớn. Thời thế tạo anh hùng nhiều hơn là anh hùng tạo thời thế. Chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940) đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Đau khổ và khó khăn là “bằng cấp sống” chứng minh một con người tài giỏi thực sự.

Thật tuyệt vời với cách so sánh của Garrison Keillor: “Cuộc sống cũng như cuộc chiến, nếu mọi thứ bỗng trở nên yên lặng thì có nghĩa là bạn đang thua trận.” Cuộc sống luôn đầy những thử thách, kinh nghiệm này ai cũng có thể tích lũy theo thời gian. Nếu không có thử thách, người ta không thể nhận ra sức mạnh kỳ lạ vẫn đang tiềm ẩn trong chính mình. Vả lại, cuộc sống bình lặng sẽ đơn điệu, gây nhàm chán. Toni Malliet nói: “Thử thách không là gì cả, nhưng cơ hội ẩn chứa đằng sau thử thách đó mới là điều đáng nói.” Chất liệu sống hơn hoặc kém là chất lượng của sự kiên trì, các thiên tài đều có chất này.

Đối mặt với thử thách, con người cảm thấy thật bé nhỏ và sức mạnh dường như trở thành yếu đuối. Vì thế mà cần can đảm. Chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta cố gắng “đi qua cửa hẹp,” (Mt 7:13-14; Lc 13:24) để tự tôi luyện trong gian khổ chứ không hèn nhát buông xuôi. Chắc chắn mọi thử thách đều có giá trị cao, vì chính những gian nan mới khiến người ta trưởng thành đúng nghĩa, thực sự thành nhân – nên người.

Chính Thiên Chúa truyền lệnh: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.” (Is 56:1) Thời gian là của Chúa, chúng ta chỉ là những người quản lý, không thể biết thời gian còn dài hay ngắn. Tất cả là quyền của Chúa: “Nếu Người muốn rút sinh khí lại và quy tụ hơi thở về mình, mọi sinh vật sẽ tắt thở cùng một lúc và phàm nhân sẽ trở về cát bụi.” (G 34:14-15) Do đó, ai cũng phải tỉnh thức, và đó là một dạng thử thách. Chính sự thử thách khiến chúng ta phải coi chừng để mà sống ngoan, xử khéo.

Thiên Chúa chí nhân nhưng cũng tuyệt đối công bình và chính trực, đặc biệt là không thiên vị bất kỳ ai: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.” (Is 56:6-7) Dù là ai, từ giáo hoàng tới giáo dân, từ bề trên tới người giúp việc, từ tổng thống tới người ăn xin, vô gia cư,… không ai có thể viện cớ gì mà nói: Nếu, Tại, Vì, Bởi, Giả Sử, Giá Mà, Phải Chi,… Những chữ “viết hoa” đáng quan ngại lắm!

Thực sự thiếu gì thì cứ xin. Thiên Chúa muốn được chúng ta quấy rầy, bất cứ lúc nào. “Xin–Cho” là luật công bằng. Ở đây là “xin–cho” trong tương quan yêu thương và bác ái, chứ không “xin–cho” theo kiểu “chế độ” ban phát, hống hách, đàn áp. Tất cả chúng ta đều là những “người làm công” trong Vườn Nho của Chúa, chẳng ai có quyền gì mà “chảnh” với người khác. Ý thức được như vậy để có thể ước mong như Thánh Vịnh gia: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.” (Tv 67:2-3) Tin để hiểu, hiểu để tin hơn. (Thánh Augustinô)

Cuộc sống con người bất trác và bất túc nên luôn có nhiều ước mơ về mọi thứ – tinh thần và vật chất. Nhưng ước mong về tâm linh mới thực sự quan trọng: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.” (Tv 67:5-6) Công lý và công bình phải có thì con người mới được tôn trọng đúng mức – về nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Đó là quyền sống do chính Thiên Chúa ban.

Những lời hay ý đẹp chúc nhau đôi khi chỉ là “xã giao” chứ chưa thật lòng. Trong Thánh Lễ có nghi thức “chúc bình an” nhưng một số người có vẻ vẫn thụ động khi cúi đầu chúc bình an, có người chỉ miễn cưỡng “co cái cổ” chút xíu. Ngay cả chủ tế cũng có người thụ động, gật đầu theo nghi thức, hai cậu lễ sinh hai bên chả sơ múi gì. Nghi thức để tránh lộn xộn, nhưng không nên câu nệ. Ước gì mọi người cùng chân thành với nhau: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8) Có những thứ nhỏ mà cần thiết, vụn vặt mà quan trọng. Chúc bình an cũng là cách thể hiện tình hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.

Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11:13-15) Ông cựu Biệt Phái Saolê muốn người ta ganh tị chứ không ghen tị hoặc ghen ghét, nhưng phải là ganh tị về điều thánh đức, cứu các linh hồn, chứ không ganh tị về những thứ trần tục, hình thức. Trọng hình thức là giả hình.

Thánh Phaolô xác quyết: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý.” (Rm 11:29) Thật vậy, ông nói rằng “trước kia chúng ta đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay chúng ta đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót chúng ta, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục để thương xót mọi người.” (Rm 11:30-32) Một triết lý đầy tính thần học với “chất Phaolô” rất đậm.

Từ xưa, người ta không ưa Chúa Giêsu vì Ngài có cách nói “khác người” và “gây sốc.” Khi Chúa Giêsu đang trên đường tới Tia và Xiđôn, có một người đàn bà Canaan kêu to: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15:22) Ngài vẫn làm ngơ, không nói nửa lời. Có lẽ các môn đệ nói gì đó nên Ngài xác định: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” (Mt 15:24) Bó tay!

Thế nhưng bà ấy vẫn kiên trì tin tưởng đến van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25) Nhưng Ngài thẳng thắn nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15:26) Ôi, nghe “sốc” quá chừng! Vậy mà bà ấy vẫn không tự ái, thản nhiên nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Chúa Giêsu trìu mến nhìn bà ấy, vừa cười vừa nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15:28) Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. Sự kiên trì có sức mạnh vô song. Đó không chỉ là “chất sống” mà còn là một nhân đức.

Thử thách thế thôi. Thử thách để người ta nhận ra chân giá trị của đức tin – càng kiên trì càng mạnh mẽ. Chúa Giêsu thử thách không phải là để “thăm dò” như chúng ta, vì Ngài đã biết lòng ai sâu hay rộng cỡ nào, tim ai cứng hay mềm, nghĩa là Ngài không cần thử thách. Ngài làm vậy để dạy chúng ta bài học vô giá của nỗi gian truân, đồng thời cũng tạo công trạng cho chính người chịu đựng thử thách. Thật tuyệt vời vì chúng ta bớt ngu muội nhờ kiên trì chứ không xơ cứng.

Rõ ràng thử thách và đau khổ là hồng ân. Chắc hẳn chúng ta cũng phải biết tạ ơn về loại hồng ân “dị biệt” như vậy. Thánh Phaolô khuyên: “Hãy tỉnh thức, hãy đứng vững trong đức tin, hãy sống cho đáng bậc nam nhi và ăn ở kiên cường.” (1 Cr 16:13) Một hệ lụy rất tuyệt vời là “đức tin phát triển thì đức ái cũng gia tăng.” (2 Tx 1:3) Cầu nguyện là điều cần thiết, có giá trị và hiệu quả, không chỉ cho mình mà cả những người mình cầu nguyện cho. Thật vậy, chính chúng ta cũng vẫn luôn phải xin Đức Mẹ và các thánh nguyện giúp cầu thay.

Lạy Thiên Chúa, con cũng chỉ là chó con yếu đuối và hôi hám, hoàn toàn bất xứng, cúi xin Ngài thương xót. Mặc dù vô duyên, bất tài, vô dụng, nhưng con luôn khao khát Ngài và tín thác nơi Ngài, xin cho con được hưởng những mảnh vụn bánh rơi xuống từ Bàn Tiệc Thương Xót để con được no thỏa ân tình Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A126: KIÊN TRÌ VÀ VỮNG TIN


Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 

Con tưởng rằng con vững tin…”. Lời bài thánh ca quen thuộc muốn nói với chúng ta rằng, những TN 20-A126


“Con tưởng rằng con vững tin…”. Lời bài thánh ca quen thuộc muốn nói với chúng ta rằng, những lúc gặp thử thách gian nan, chúng ta mới giật mình ngộ ra rằng đức tin của mình còn non yếu và mờ nhạt. Như vậy, những gian nan thử thách cũng là dịp để chúng ta chứng minh đức tin vào Chúa và niềm tín thác nơi Ngài.
 
Trong thực tế, dường như Chúa ít khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Bởi thế, chúng ta thấy những gì chúng ta xin với Chúa không được Ngài nhận lời. Câu chuyện người đàn bà trong Tin Mừng hôm nay muốn dạy chúng ta về sự kiên trì trong lời cầu nguyện. Thiên Chúa không ngủ say. Ngài cũng không dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Trái lại, Ngài vẫn ra tay cứu giúp những ai cầu nguyện với tấm lòng chân thành và sự bền bỉ kiên trì. Cũng có thể Ngài cho chúng ta một ơn khác, mang lại điều tốt lành ơn cho chúng ta.
 
“Lạy Thày, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm!”. Lời cầu nguyện xuất phát từ tấm lòng người mẹ. Bà có thể hy sinh mọi sự cho con mình. Bà chấp nhận mọi điều phiền toái, thậm chí cả những điều xỉ nhục, miễn là con gái bà được chữa khỏi. Trước lời kêu van này, dường như Chúa Giêsu vẫn dửng dưng. Hơn nữa, Người còn sánh ví người đàn bà như một con chiên lạc, thậm chí như một chó con. Bà không buồn vì điều đó, lại khiêm tốn khẳng định mình chỉ xin làm một con chó con chờ đón những mụn bánh rơi xuống từ bàn ăn. Cách lý luận ấy ẩn chứa một đức tin vững vàng và một kỳ vọng chắc chắn nơi quyền năng của vị ngôn sứ mà bà kêu cầu với danh hiệu “Con vua Đavít”.  Sự bền bỉ kiên trì của bà đã sinh hoa trái: Chúa đã nhận lời cầu xin và con gái bà được chữa lành.
 
Nếu chúng ta cậy trông tin tưởng nơi Chúa, là vì chúng ta tin Ngài là Đấng nhân hậu và Cha của muôn dân tộc. Giáo huấn về Thiên Chúa là Cha của nhân loại được nhấn mạnh trong các tác phẩm ngôn sứ và văn chương Cựu ước. Tuy vậy, một số người Do Thái, nhất là những luật sĩ và biệt phái, thì lại chủ trương ngược lại với giáo huấn này. Chúa Giêsu muốn phá đổ những hàng rào ngăn cách do chủng tộc, địa vị xã hội và tôn giáo, hầu xây dựng một xã hội hợp nhất trong tương lai, như một chủ chiên và một đàn chiên. Nếu Thiên Chúa đã khẳng định qua ngôn sứ Isaia: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Bài đọc I), thì Giáo Hội hôm nay chính là Nhà Chúa, là điểm quy tụ muôn dân để thực thi công bình và xây dựng hiệp nhất yêu thương. Một số người công giáo vẫn còn giữ thói quen kỳ thị khinh miệt những người khác vì họ mắc ngăn trở, hoặc vị địa vị của họ hèn kém trong làng xã. Họ cũng giống như những người biệt phái xưa kia trong Tin Mừng, tự coi mình là hoàn hảo và loại trừ người khác. Cộng đoàn giáo xứ là hình ảnh của Giáo Hội  thu nhỏ. Mục đích và đường hướng hoạt động của cộng đoàn này phải luôn theo sát và phù hợp với định hướng chung của Giáo Hội hoàn vũ, tức là trở nên ánh sáng muôn dân, là điểm quy tụ mọi người trong tình hiệp thông và là phương tiện chuyên chở con người về với Chúa.
 
Câu chuyện người phụ nữ Canaan vừa dạy chúng ta bền chí trong lời cầu nguyện, vừa nhắc chúng ta quan tâm đến người khác, vì hết thảy đều là anh chị em con một nhà và đều được Thiên Chúa yêu thương. Chúa Giêsu đã khen đức tin của người phụ nữ này rất mạnh mẽ và kiên trì. Đức tin của chúng ta sẽ như thế nào, nếu như một ngày kia chúng ta phải đối diện với những thử thách cám dỗ, nhất là những lúc chúng ta cảm thấy dường như bị Thiên Chúa lãng quên?
 
“Nếu người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabát, không hề sai lỗi và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện” (Bài đọc I). Những lời ngọt ngào trên đây đã chứng minh Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc và hết thảy những ai kêu cầu Danh Ngài được được đón nhận.
 
Là người được trao phó sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Thánh Phaolô trân trọng và cần mẫn trong trách nhiệm. Đối với thánh nhân, việc dân ngoại nhận biết Chúa là niềm vui lớn lao, nên ngài sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao, tù đày và nhục nhã để sứ vụ này mang lại những kết quả (Bài đọc II). Chắc chắn còn những mâu thuẫn, phân bì, nhưng lòng đạo đức, tâm tình cầu nguyện và nghĩa cử bác ái của mọi thành phần Dân Chúa, sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng Giáo Hội của Chúa Kitô.

----------------------------------

 

TN 20-A127: TÌNH MẸ ĐÃ CỨU CON


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Trong cuộc đời này, có ai lại không được lớn lên trong vòng tay của mẹ, không được nghe tiếng TN 20-A127


Trong cuộc đời này, có ai lại không được lớn lên trong vòng tay của mẹ, không được nghe tiếng ru hời ầu ơ ngọt ngào, có ai lại không được chìm vào giấc mơ trong gió mát tay mẹ quạt mỗi trưa hè oi ả. Và trong cuộc đời này, có ai yêu con bằng mẹ, có ai suốt đời vì con giống như mẹ, có ai sẵn sàng sẻ chia ngọt bùi cùng con như mẹ?

Thế nên, có ai đó nói rằng: “đi khắp thế gian cũng không ai tốt bằng mẹ”. Tình mẹ mãi ôm ấp che chở đầy tình bao dung cho từng đứa con.

Có một Cô gái mới có 18 tuổi, cô cũng giống như hầu hết các thiếu nữ ngày nay. Muốn tự lập. Sống tự do theo ý mình. Cô đã nói với mẹ:

– Con không muốn sống theo sự áp đặt của ba mẹ. Con sẽ ra riêng để sống tự do!

Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, cô bị ruồng bỏ vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ra làm thứ để mua bán, đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi và cô con gái đó ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.

Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy. Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

– Làm ơn cho tôi chưng tấm hình ở đây!

Đó là tấm hình một bà mẹ tóc muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: “Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”.

Rồi một ngày, cô gái đến toán cứu trợ nọ để nhận một bữa ăn cứu đói. Tình cờ mắt lơ đễnh nhìn những tấm hình và tự hỏi: “Có phải mẹ mình không nhỉ?”. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.

Lúc đó trời đã tối nhưng cô vẫn quyết định phải đi bộ về nhà. Về đến nhà trời đã sáng tỏ. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà. Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội lên buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên. Cô đánh thức mẹ mình dậy:

– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Không tin vào đôi mắt mình, bà mẹ lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô gái nói với mẹ:

– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!

Bà mẹ nhìn con âu yếm:

– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá. Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!

Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!

Quả là tình mẹ thật bao la, và to lớn như cha ông ta bảo rằng:

Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.

 Tình mẫu tử của bà mẹ Canaan hôm nay thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám, nên can đảm vượt qua cái hố ngăn cách chủng tộc, thậm chí thù hận giữa dân Israel và dân ngoại. Bà hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ  Chúa đoái thương cứu giúp.

 Bà vượt qua thử thách, khinh dể, rẻ rúng, giả điếc làm ngơ, bà mẹ Canaan vẫn kiên trì, vững tin vào lòng từ bi nhân ái của Đức Giêsu. Chẳng hề ngại ngùng quấy rầy Thầy Giê-su, bà cứ mãi lẽo đẽo bám theo, năn nỉ, van nài. Mặc dù bị từ chối phũ phàng và dứt khoát: “Không nên lấy bánh cho con cái mà ném cho lũ chó con!”. Bà vẫn nhẫn nhục, bà chẳng tự ái, chẳng giận hờn, hoặc thất vọng bỏ cuộc. Bà không ao ước được nguyên tấm bánh, mà chỉ dám mong chút vụn bánh rơi rớt dưới nền nhà. Sự khiêm tốn thắm tình mẫu tử ấy đã được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời chữa lành cho  con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)  

 Ước gì mỗi người chúng ta có một tình yêu với gia đình như người mẹ hôm nay, để nhờ lòng tin của chúng ta mà ơn Chúa được ban xuống cho gia đình. Ân sủng của Chúa sẽ tuôn đổ dạt dào trên gia đình và giải thoát gia đình khỏi hiểm nguy.

Xin cho chúng ta có một đức tin kiên nhẫn như người phụ nữ hôm nay để chạy đến trao vào tay Chúa những khó khăn của chính mình cũng như gia đình. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A128: ĐỐI THOẠI VÀ NIỀM TIN


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Để có một niềm tin, không phải là cứ cúi đầu chấp nhận, không cần tìm hiểu và đặt lại những câu TN 20-A128


Để có một niềm tin, không phải là cứ cúi đầu chấp nhận, không cần tìm hiểu và đặt lại những câu hỏi phản kháng. Trong mẫu đối thoại giữa Chúa Giê su và người đàn bà xứ Canaan cho thấy, Chúa chấp nhận sự phản kháng của bà để bà được điều bà xin. Như vậy, có thể thấy: Chúa Giê su tôn trọng tự do cá nhân – Sẵn sàng lắng nghe để mở ra một tương quan mới – và củng cố niềm tin sau những đối thoại.

Tôn trọng cá nhân.

Theo chú giải của bản dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Mat thêu ngụ ý: người đàn bà xứ Canaan này đã ra khỏi vùng đất dân ngoại và chỉ trong đất Israel Chúa mới thi ân. Đó là cách suy nghĩ của con người đến gặp Chúa. Thực ra, Chúa Giêsu cũng thuộc những người hay phản kháng, khi Chúa đặt giá trị yêu thương trên lề luật đã quy định: Chúa giao tiếp với người Samari, Chúa đụng chạm đến những người phong hủi, bệnh tật, bênh vực môn đệ bứt lúa trong ngày Sabath…

Chúa thích những người đặt câu hỏi và phản kháng: Đối thoại với ông Ni cô đê mô, với người thanh niên giàu có, với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Gia cóp, và ngay với các môn đệ… Đặt câu hỏi và phản kháng để chứng minh rằng, con người là một chủ thể rõ ràng, hiện diện trước mặt, như Descartes phát biểu: “Cogito ergo sum” – “Tôi suy tư, tôi hiện hữu”. Người đàn bà xứ Canan này cần được tôn trọng, không cần biết từ đâu đến, là dân ngoại hay là dân Israel, Chúa tôn trọng bà như một con người cần được lắng nghe.

Qua mẫu đối thoại này của người phụ nữ Canaan với Chúa, sao ta không thử bắt chuyện với Chúa về những ý kiến riêng tư của mình với Chúa, Chúa đang muốn nghe những đối thoại và sự phản kháng của ta với Chúa. Kể cả việc ta muốn từ bỏ Chúa ngay khi quá chán nản với sứ vụ đang theo đuổi điều công chính mà cứ gặp phải gian truân, như tiên tri Giêrêmia: “Có lần con tự nhủ: “Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20, 9). Hãy thưa truyện với Chúa, Chúa đang muốn nghe ta!

Sẵn sàng lắng nghe.

Chúa không đáp lại lời nào, có phải Chúa không muốn nghe lời đàn bà xứ Canaan nói. Không phải như thế, Chúa im lặng để xem phản ứng của các môn đệ đang đi theo Người. Trong câu truyện, các môn đệ cũng đã chuyển lời thỉnh cầu của bà đến Chúa. Chúa muốn mở một đối thoại thông qua cộng đoàn. Đức tin vừa là một hành vi cá nhân vừa là một hành vi cộng đoàn. Bà ngoại xứ Canaan được hỗ trợ bởi niềm tin của các môn đệ, đó là điều cần thiết.

Thế nên, một mình ta không thể nói với Chúa mà từ chối một cộng đoàn đang sống đức tin. Không thể nói đạo tại tâm mà không cần đến hiệp thông cộng đoàn phụng vụ… Chúa Giêsu muốn bà được công nhận vào một cộng đoàn mới, không chỉ là người Do Thái, không chỉ là những người coi mình là công chính… Chúa mời tất cả mọi người hiệp thông vào cộng đoàn đức tin mà các Thánh Tông Đồ tuyên xưng (Giáo hội tông truyền).

Trong khi cầu nguyện, Chúa còn dạy: “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 20). Hiệp nhất nhân Danh Chúa trong yêu thương, lời thỉnh cầu của người phụ nữ cũng là lời thỉnh cầu của các môn đệ. Yêu thương nhau là tiêu chuẩn để sống hiệp nhất. Chúa mời gọi ta, hãy mở lòng yêu thương, đón nhận, hy sinh, tha thứ và cầu nguyện cho nhau.

Muốn sao được vậy.

Niềm tin được củng cố sau những nỗ lực cá nhân đi tìm Chúa, đối thoại cá nhân, cầu nguyện với Chúa cùng với cộng đoàn hiệp thông. Đó là một tiến trình của việc Chúa muốn quy tụ một dân hiến thánh cho Thiên Chúa.

Sở dĩ khi diễn tả “chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rới xuống” (Mt 15, 27). Sự sánh vi này cũng giống như người Việt xưa trong lời kêu cứu thảm thiết: “Lạy ông! Con cắn cỏ xin ông..” Hạ mình thật thấp, đó là lời cầu nguyện cho kẻ khiêm cung, để nhận ra mình chỉ là “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.” (Lc 1, 48).

Bái lạy, quỳ gối. Trong nhiều trường hợp ngưới ta quỳ gối: Quỳ một chân của người đàn ông tỏ bày lời cầu hôn đến một cô gái, minh chứng sẽ giữ lời hứa chung thủy. Quỳ gối trước Đấng Toàn Năng. Quỳ gối khi đầu hàng để xin giữ mạng sống… Hành động của người phụ nữ Canaaan tỏ bày niềm tin yêu, tín thác vào tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, như người đàn bà xứ Canaan, xin cho chúng con biết đối thoại và tỏ bày cả những lúc phản kháng với Chúa, để thấy Chúa quyến rũ và chinh phục được chúng con. Cho chúng con luôn gắn kết với cộng đoàn trong yêu thương và thờ phượng Chúa. Xin luôn giúp chúng con học với Chúa lòng khiêm hạ để thi hành ý Chúa.

----------------------------------

 

TN 20-A129: KIÊN TRÌ VÀ KIÊN TRÌ


Anna Cỏ may

 

Hai mẹ con cùng đi chợ, cô bé réo lên: – Mẹ ơi, mẹ mua cho con cái đầm kia đi! Nó đẹp quá à! TN 20-A129



Hai mẹ con cùng đi chợ, cô bé réo lên:

– Mẹ ơi, mẹ mua cho con cái đầm kia đi! Nó đẹp quá à!
– Ùm đẹp thật, nhưng con có nhiều rồi, mặc chẳng tới mà.
– Không mẹ mua cho con đi mà! Nhiều bạn có đầm loại đó lắm.
– Được rồi, để lần sau mẹ mua cho. Bây giờ về thôi.
– Không, con không về đâu!

Cô bé mặt xị lên, nước mắt ngắn dài chảy ra. Hai chân thì dậm bành bạch khiến mọi người phải hướng về cô. Thấy thế, bà mẹ đành phải mua cho cô bé. Là người mẹ, ai cũng thương con và hằng cầu mong những điều tốt nhất đến với con. Đôi khi người mẹ biết làm như thế là không tốt cho con nhưng cũng không nỡ lòng nào để cho con phải khóc và đau. Mặt khác, sự nài nỉ cầu xin và sự kiên trì của người con khiến bà mẹ phải làm theo điều con muốn và cần. Tương tự như thế, chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh ấy qua người phụ nữ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay.

Bà Canaan có con gái bị quỷ ám. Bà biết mình là dân ngoại, dân thấp hèn so với người Do thái, nên bà kêu xin Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài là Con vua Đavít , xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sợ lắm!”(Mt 15, 22). Nhưng đáp lại lời xin này là một sự im lặng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đáp một lời, có thể vì sứ vụ của Ngài không phải dành cho dân ngoại như lời Ngài nói với các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi”(Mt 15, 24). Hay có thể là một cách Ngài thử lòng tin của bà mức độ nào. Bởi vì bà đã can đảm đến xin Ngài chữa bệnh. Đứng trước im lặng ấy, bà mặc kể, bà cứ nài nỉ, cứ kêu xin mãi và cứ sụp lạy dưới chân Chúa. Còn Ngài, Ngài không trả lời mà còn “dặm” thêm một câu thật khó nghe: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”(Mt 15, 26). Phải như nhiều người khác, nếu nghe như vậy chắc dám sửng sộ lắm, cho dù họ đang cần giúp đỡ. Bởi vì câu nói của Ngài có sự xúc phạm. Nhưng đó là thử thách cho những ai can đảm đón nhận, đón nhận để có được điều mình muốn. Bà đón nhận và bình tĩnh thưa lại rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Lời đáp trả của bà thật là hay, vừa hợp lý, vừa khiếm tốn, vừa vững lòng tin và đầy hy vọng. Nhờ đó, bà được Chúa đáp lời: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15, 28). Quả thực, sự kiên trì kêu xin như thế chẳng những làm cho bà không ở yên mà khiến cả Chúa cũng không thể không động lòng. Giống như quan tòa, dù bất chính cũng không thể không hành động trước lời lải nhải của bà góa (Lc 18, 2). Giống như người bạn đến xin bạn mình giữa đêm hôm khuya khoắt (Lc 11, 5-8). Và tất cả những thái độ này được xem như là một cách cầu nguyện.

Ngày hôm nay, chúng ta muốn ăn những món ăn nhẹ, nhanh gọn và nó cũng được áp dụng trong việc xin ơn hay trong giờ cầu nguyện với Chúa. Và khi xin ơn mà không được liền, chúng ta dễ bỏ cầu nguyện, đi tìm hướng giải quyết khác. Chúng ta bắt đầu xa rời Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại lời Thiên Chúa hứa: “Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời, chúng còn đang nói thì Ta đã nghe lời rồi” (Is 65, 24). Bên cạnh đó, chúng ta cần xem lại ơn xin của mình là gì? Mục đích gì? Nếu là về ơn cứu độ của người xin và ơn cứu độ này là phải ước muốn sâu xa của người xin, thì Thiên Chúa luôn nhận lời. Chúng ta có nghĩ rằng sự trì hoãn của Chúa là một sự giúp đỡ, Ngài muốn làm cho đức tin của chúng ta mạnh lên. Ngài còn muốn chúng ta biết suy nghĩ và xin ơn điều gì là tốt hơn. Với bà Canaan, nếu Chúa Giêsu nhận lời cầu xin đầu tiên của bà thì cũng được thôi, nhưng nếu được liền như vậy thì liệu đức tin của bà có vững mạnh không hay cũng như bao người khác, đâu hoàn đó. Ngược lại, khi Ngài thử thách bà, Ngài làm cho lòng tin khiêm hạ của bà lớn thêm. Con gái của bà được khỏi bệnh và ân sủng cao cả nhất là bà trở thành một trong những tín hữu đầu tiên thuộc dân ngoại.

Ngày nay, tại sao có nhiều người ngoại giáo lại đi tìm Chúa hay những vị thánh của chúng ta để xin ơn. Và khi trở về, họ được như ý muốn. Ngược lại, có những người trong chúng ta xin ơn thì lại không được. Đó là một câu hỏi để cho chúng ta suy nghĩ lại đức tin và thái độ của chúng ta với Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa luôn nghe và ban ơn cần thiết cho chúng con nhưng chúng con dường như không còn kiên trì trong lời xin. Chúng con dường như đang đi vào cuộc sống “mì ăn liền”, cái gì cũng muốn nhanh gọn. Bởi vậy, xin Chúa hãy đánh thức chúng con và giúp chúng con biết kiên trì, chậm lại và chờ đợi. Nhờ đó, chúng con được hưởng những diễm phúc như bà Cannaan. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A130: SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU


Bông hồng nhỏ

 

Bố ơi! Hôm nay, mình có đi học không bố? – Có chứ con. Con ăn nhanh lên rồi bố chở đi. TN 20-A130


– Bố ơi! Hôm nay, mình có đi học không bố?

– Có chứ con. Con ăn nhanh lên rồi bố chở đi.

– Dạ! Thích quá!

Suốt hơn một tuần nay, ông bố chở con gái đi học nhưng chỉ ngồi ở ngoài. Vì là dân nhập cư nên việc xin cho con vào học lớp một gặp khó khăn. Nhà trường không nhận học sinh từ huyện khác đến. Người bố cứ kiên trì chở con đi học, kiên nhẫn ngồi ở ngoài lớp học ngay cạnh cửa sổ đến khi nào được nhập học mới thôi. Bố nhìn bảng thấy cô giáo dạy chữ gì thì đọc chữ ấy cho con viết. Sau ba tuần kiên trì như thế, cuối cùng cô giáo thấy cảm động quá bèn xin ban Giám hiệu nhận cô bé vào học. Quả thật tình thương con của người bố thật đẹp. Sự kiên trì và nhẫn nhục của người bố cũng thật đáng khen.

Hôm nay, Tin Mừng theo thánh sử Mátthêu cũng cho ta nhìn ngắm một tình mẫu tử rất đẹp. Người mẹ xứ Canaan có đứa con gái bị quỷ ám khổ sở lắm. Có người mẹ nào không đau lòng khi thấy tình trạng của con như thế. Bà nghe danh Đức Giêsu đã lâu nhưng hôm nay mới có dịp để được gặp Ngài. Bà là dân ngoại nhưng cũng đánh liều đến xin Thầy chữa cho con gái mình.

Tuyên xưng đức tin

Bà tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy là con vua Đavit…”. Bà theo sau Thầy mà Thầy cũng chẳng để ý tới. Phải rồi, bà chỉ là dân ngoại nhưng tình thương con mãnh liệt hơn cả cái gia thế của bà. Bà biết rõ Thầy đã từng chữa bệnh cho bao nhiêu người mà không chịu cho người ta đền ơn. Một Rapbi như thế thì luôn có một trái tim nhân ái, chắc chắn sẽ động lòng thương mẹ con bà mà cứu chữa. Thế nhưng, dù bà van lơn hết lời mà Thầy Giêsu vẫn đi thẳng mà không hề ngoái lại để nhìn đến cái thân tội nghiệp của bà. Thân làm mẹ mà không chăm sóc tốt cho con, không lo cho nó khỏe mạnh được thì bà đau xót lắm. “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin rủ lòng thương tôi. Đứa con gái của tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15, 22). Cứ thế, bà theo sau chân Thầy mà “lải nhải” hầu mong được Thầy nhìn đến.

Đức tin bị thử thách

            Bà kêu xin mãi đến độ làm các môn đệ bực mình. Các ông la rầy bà, khó chịu quá đành phải đến xin Thầy: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt, 15, 23b). Thầy nói với các môn đệ cũng là để trả lời bà: “Thầy chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel mà thôi.” (Mt 15, 24). Bà vẫn kiên nhẫn, tiến lại gần hơn mà thưa rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (Mt 15, 25).

Đức Giêsu nhìn thẳng vào bà, điềm nhiên trả lời: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15, 26). Đứng trước nỗi khổ đau của người khác nếu ta không có một trái tim nhạy cảm, ta dễ khó chịu, bực bội vì họ cứ kêu xin mãi, cứ làm phiền đến ta. Bị các môn đệ la rầy, bị Thầy Giêsu từ chối thẳng thừng nhưng bà vẫn kiên nhẫn, cúi xuống mà thưa rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Thật ngạc nhiên và khâm phục thay tấm lòng của người mẹ. Tình thương con trong bà lớn hơn tất cả mọi cảm xúc khi đứng trước lời chỉ trích, khinh khi, miệt thị. Bà dẹp bỏ cái tôi của mình, hạ mình xuống, nhận mình chỉ là hàng “lũ chó con” để mong được “chút bánh vụn từ bàn chủ rơi xuống.” Bà vẫn tin vào quyền năng và tình thương của Thầy, chỉ cần  một chút tình thương của Thầy thôi, con bà sẽ được khỏi. Quả thật, nếu không có một tình yêu con mạnh mẽ, bà sẽ chẳng thể xóa mình đi như thế. Ta tự hỏi mình rằng: liệu ta có một tình yêu thật sự hay không? Tình yêu trong ta có mạnh mẽ đến độ tự nó có một sức mạnh thúc đẩy ta vượt lên trên cả hận thù, ghen ghét và dám đương đầu với thử thách không? Một người biết yêu nghĩa là phải biết hy sinh, xóa mình đi vì người khác, cũng không có nghĩa là đánh mất chính mình nhưng là biết mình, hiểu rằng tại sao ta lại làm như thế.

Đức tin sinh hoa trái

Lòng tin của bà đã chinh phục Thầy, khiến Thầy phải thốt lên: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” ( Mt 15, 28). Tình yêu con của bà đã được đền đáp. Ngay lúc này, không có một người mẹ nào hạnh phúc hơn bà. Thầy Giêsu thương bà từ lúc nghe tiếng bà kêu xin từ đằng xa. Có lẽ, Thầy đã trông thấy điệu bộ tất tả, đầy lo lắng và phiền muộn của bà ngay từ lúc bà vừa bước ra đầu ngõ. Thầy chạnh lòng thương bà, thương cả con gái bà nhưng Thầy cũng muốn dùng dịp này để dạy dỗ các môn đệ thái độ kiên trì trong thử thách, vững tin và yêu đến cùng, dám hy sinh bản thân vì người mình yêu. Thầy cũng muốn cho các môn đệ biết thương cảm và cảm thông trước nỗi đau khổ của người khác.

Lạy Thầy Giêsu nhân lành! Tình yêu có một sức mạnh phi thường giúp con có thể đương đầu với thử thách. Một đức tin vững mạnh sẽ giúp con luôn thấy sự hiện diện của Chúa, nhận ra tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho con luôn biết bám theo Chúa trong tin yêu và phó thác. Có khi nào con nản chỉ muốn bỏ cuộc, xin Thầy gửi đến con hình ảnh của người mẹ xứ Canaan này để nhắc nhớ con. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A131: LÒNG TIN


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

 

Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “giơ” với những người Biệt phái, Đức Giêsu lui về TN 20-A131


Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “giơ” với những người Biệt phái, Đức Giêsu lui về Tyrô và Sidon, ngày nay thuộc miền nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ Canaan đến gặp Chúa Giêsu. Người Do Thái và người Canaan có một mối thù truyền kiếp, hố sâu ngăn cách không thể vượt qua. Người Do Tháu coi thường, khinh khi những người dân ngoại như những người nhơ uế, như những con chó. Còn tệ hơn nữa bà thuộc dân tộc mà người Do Thái chính thống tránh xa hơn các dân tộc khác.

Tình mẫu tử, tình thương đối với người con bị quỷ ám, đau khổ. Khiến bà Canaan vượt qua mọi ngăn cách để đến với Đức Giêsu, để xin Ngài cứu chữa con mình: “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin dủ lòng thương con, đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm” (Mt 15, 22).

Đức Giêsu làm thinh trước lời van xin của bà. Bà xứ Canaan cứ theo sau nài nỉ van xin làm cho các tông đồ bực bội. Đức Giêsu nhắc lại sứ mạng của Người được sai đến với “Chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Đức Giêsu muốn nói với các tông đồ: Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể dân nước và lan rộng tới tận cùng thế giới. Nói cách khác, Ơn cứu độ bắt đầu là dân Israel.

Khiêm tốn, kiên trì, tin tưởng, người đàn bà Canaan một lần nữa sấp mình trước mặt Đức Giêsu và van xin: “Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp”. Bà chỉ muốn một điều là con mình được chữa lành.

Đức Giêsu bấy giờ nói rằng: Người không thể lấy bánh của con cái, là của dân Do Thái, dân của lời hứa – để ném cho con chó nhỏ. Người đàn bà Canaan không buồn trước câu nói có vẻ khinh miệt, nhục mạ, bà còn dùng chính lời nói đáp lại Chúa Giêsu một cách tinh tế và khôn ngoan:

“Đúng vậy. Thưa Ngài, nhưng con chó con cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”.

Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử Thánh được ưu tiên, họ là chủ, còn bà là dân ngoại, là con chó con, bà chỉ cần được những “miếng bánh vụn” từ bàn ăn rơi xuống.

Đức tinmãnh liệt của bà đã làm cho Đức Giêsu phải ngỡ ngàng, khâm phục, chấp nhận lời van xin của bà, chữa lành con bà. Chúa Giêsu kết luận: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã phá bỏ mọi loại trừ, mọi phân biệt đối xử, những hố sâu ngăn cách mọi người. Theo ý muốn cứu độ của Thiên Chúa, mọi người đều được kêu gọi đến với Chúa Giêsu để được cứu độ, được chữa lành, được hưởng hạnh phúc nước Trời, miễn là chúng ta tin vào Đức Giêsu như người đàn bà Canaan trong Tin mừng.

Đức tin kiên trung của người đàn bà Canaan đáng cho chúng ta khâm phục và bắt chước. Đức tin giúp ta vượt qua mọi hàng rào cản, thử thách, khó khăn để đến với Chúa. Đức tin có thể giúp ta làm được mọi sự, như lời Đức Giêsu đã nói: “Đức tin có thể chuyển núi rời non”. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Do Thái đã nói: “Không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa, và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Dt 11, 6).

Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta noi theo gương người đàn bà Canaan ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong cuộc sống đời thường khi gặp gian nan thử thách. Phải chọn lựa giữa giá trị của Tin mừng và lợi lộc trần gian. Tôi có dám đặt chân lý Tin mừng lên trên tất cả không? Thực vậy, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước đi trong niềm tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt đẹp cho cuộc đời!

----------------------------------

 

TN 20-A132: CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN_A


Lm. Giuse Đinh Tất Quý

  “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15,28)

 

Đọc câu chuyện hôm nay, tự nhiên tôi cảm thấy bị “cám dỗ” nhớ lại câu chuyện trong Bài Tin TN 20-A132


Đọc câu chuyện hôm nay, tự nhiên tôi cảm thấy bị “cám dỗ” nhớ lại câu chuyện trong Bài Tin Mừng Chúa nhật tuần vừa qua. Anh chị em còn nhớ: Trong câu chuyện bài Tin Mừng tuần vừa qua, Phêrô bị Chúa quở là “Kẻ yếu lòng tin”. Thật là lạ. Một người theo Chúa suốt mấy năm trời và sau này lại được Chúa đặt làm rường cột Giáo Hội vậy mà bị Chúa chê là yếu lòng tin, còn người đàn bà xứ Canaan, là một người ngoại, một người không có đạo, Chúa lại khen là có một đức tin mạnh. Vậy thì qua câu chuyện chúng ta vừa nghe, chúng ta thử xem xem đâu là những yếu tố làm cho Đức tin mạnh.

A. Khi nói tới Đức tin thì thường người ta không thể bỏ qua được khía cạnh phiêu lưu hay liều lĩnh của nó. Trong Đức tin thường bao giờ cũng có một chút phiêu lưu liều lĩnh nào đó.

  Đức Thánh Cha Gioan Phaolo I trong lá thư viết cho thi sĩ Trilussa có trích lại một câu chuyện của chính tác giả để cắt nghĩa cho ông này biết thế nào là Đức tin của người công giáo. Như chính ông  kể  thì một hôm ông bị lạc giữa một khu rừng ban đêm. Giữa lúc ông đang cố tìm đường để đi ra thì ông gặp một bà cụ già. Bà bị mù từ lâu. Bà sinh sống gần khu rừng này. Sau khi nghe người đàn ông kể về truyện đi lạc của ông, thì bà cụ già nói với ông:

  – Nếu ông không biết đường, tôi sẽ đưa ông đi vì tôi thuộc đường.

Ông ngạc nhiên đáp:

– Tôi lấy làm lạ, bà không thấy gì cả thì làm sao bà có thể dẫn đường cho tôi?

Bà lão ngắt lời, nắm lấy tay ông và ra lệnh:

– Tiến bước!.

  Và Ngài kết luận: “Đó là đức tin”. Ngài cắt nghĩa thêm: “Cuộc hành trình Đức tin là một cuộc hành trình đôi khi rất gian nan, nếu không nói là bi đát và bao giờ cũng mầu nhiệm”

  Trong câu chuyện mà Tin Mừng kể cho chúng ta, ta thấy người đàn bà xứ Canaan quả thật là một người đàn bà liều lĩnh.

  * Trước hết, bà không phải là người Do thái mà lại dám đến với những người Do thái. Chúng ta biết là người Do thái rất khinh bỉ những người ngoại giáo. Họ coi những người ngoại giáo như những con chó. Chính Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lúc đầu cũng muốn đứng trên cương vị của một người Do Thái để nói truyện với Bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà cho con chó”(Mt 15,26)

  * Tiếp theo là bà không phải chỉ gặp một mình Chúa Giêsu mà bên cạnh Chúa Giêsu còn cả một đoàn các tông đồ mà các tông đồ này thì bà dư biết là không có một chút cảm tình gì với bà.

  * Thứ ba là bà dám đặt một hy vọng thật lớn vào Chúa Giêsu. Vấn đề bà xin với Chúa không phải là vấn đề nằm trong phạm vi của con người. Nó đã chuyển sang một lãnh vực khác: lãnh vực của ma quỉ. Qua cung cách bà đối thoại với Chúa ta thấy bà không có một chút nghi ngờ gì về quyền năng của Chúa và quả thực Chúa đã không để cho bà phải thất vọng.

B. Thêm vào đó theo câu chuyện, chúng ta cũng còn thấy được một khía cạnh khác của một niềm tin mạnh. Đó là một đức tin có kinh qua thử thách. Châm ngôn Việt nam của chúng ta có một câu rất hay: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.

  * Người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay quả thực đã bị thử thách thật nặng nề. Nếu bà đã không kiên trì trong thử thách và can đảm chấp nhận cả những điều xem ra có vẻ xúc phạm tới phẩm giá cá nhân cũng như danh dự của cả dân tộc mình thì chắc là đã không có phép lạ.

  * Bình thường mà nói thì thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay thật là khó hiểu. Một Chúa Giêsu rất hiền lành và nhân từ mà lại quá lạnh nhạt với một người đàn bà đang ở trong một tình trạng thật đau thương như thế, xét theo cách cư xử thông thường của một con người thì quả là một việc thiếu tế nhị nếu không phải là một việc làm bất nhân.

  * Ở đây chúng ta phải đặt vào địa vị của Chúa. Chúa muốn dùng biến cố này để dạy cho các tông đồ của Chúa một bài học để sau này khi Chúa về trời  lúc các Ngài phải tiếp tục công việc Phúc âm hóa các dân tộc thì các Ngài cũng phải có một cái nhìn giống như Chúa đối với anh em lương dân. Bài học đó là: Cả những người mà người Do thái coi là lương dân và khinh thường họ như những loài “chó má” cũng được Chúa thi ân giáng phúc miễn là họ có lòng tin vào Chúa. Chính vì lý do đó mà Chúa đã thử thách người đàn bà này thật nặng để qua đó các ông thấy được Đức tin của Bà.

  – Lúc dầu khi mới đến với Chúa bà đã hết sức khiêm nhường. Phải nói là bà còn hết sức tế nhị nữa. Bằng chứng là bà đã phải học cách cư xử của người Do thái để khi đến gặp Chúa thì biết cách ăn nói với Chúa như một người Do thái. Vừa giáp mặt với Chúa, bà đã cúi đầu xin thưa: “Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin thương xót tôi”(Mt 15,22)

  – Và rồi sau đó thì chúng ta thấy. . . bà càng tha thiết bao nhiêu thì xem ra Chúa lại càng lạnh nhạt hững hờ bấy nhiêu. Thậm chí Chúa đã sử dụng cả đến những từ ngữ dường như muốn chọc tức lòng tự ái của Bà. Thế nhưng xem ra Chúa càng như cố ý chọc giận bà bao nhiêu thì bà lại càng khiêm nhường hơn bấy nhiêu. Và chính ở điểm này mà bà đã “thắng” Chúa. Chúa đã khen bà có một đức tin mạnh.

C. Chúa khen bà cũng phải bởi chính chúng ta khi đọc lại câu chuyện này chúng ta cũng cảm thấy bà xứng đáng được khen như thế. Ngoài ra chúng ta còn cảm thấy phải vui với bà vì bà đã thành công trên con đường đi tìm sự giải phóng cho người con gái của bà. Chính đức tin của Bà đã cứu chữa người con đó. Chúa đã xác nhận thật rõ điều đó, để rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm một điều gì đó cho anh em của chúng ta.

Vâng! Chúng ta cũng có thể làm nên những phép lạ bằng đời sống Đức tin của chúng ta.

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“ Điều các con làm cho
người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”.
Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A133: ĐỨC TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH


Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Lời tiên báo của tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5) TN 20-A133


Lời tiên báo của tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21), hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.   

Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.

Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.

Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại
Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.

Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.

Dân ở hai vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.

Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.

Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.

Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27)

Dù là bị khước từ, miệt thị, nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái với bà. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật” và hẳn nhiên là Chúa phán: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (x. Mt 15, 28).

Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng  khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.

Khám phá sứ điệp Lời Chúa
Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.

Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.

Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.

Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc… thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.

Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, hay nơi “sổ Rửa tội” mà thôi! Nếu quả như vậy, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.

Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong đau khổ, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.

Sống sứ điệp Lời Chúa
Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:

Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.

Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần túy, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.

Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá đáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.

Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.

Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.

Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.

Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy.  Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.

Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A134: BÀ MUỐN SAO THÌ SẼ ĐƯỢC VẬY


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 15, 21-28):

21 Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” 23 Nhưng Người không đáp lại một lời.

24 Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25 Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” 26 Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27 Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA

 

2.1 Có một đề tài khá thú vị cho những người muốn nghiên cứu Phúc Âm. Đó là đề tài những người TN 20-A134


2.1 Có một đề tài khá thú vị cho những người muốn nghiên cứu Phúc Âm. Đó là đề tài những người phụ nữ trong cuộc đời trần thế của Đức Giê-su. Ngoài Đức Ma-ri-a là thân mẫu của Người, còn có một số phụ nữ khác đã có mặt trên các nẻo đường của Đức Giê-su: Có những người đi theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, thậm chí đến tận đồi Sọ và giúp đỡ Người và các môn đệ về tài chánh. Có những người đã được Đức Giê-su chữa bệnh và trừ quỷ (như Ma-ri-a Mag-da-la và người bị bệnh băng huyết). Có những người Đức Giê-su gặp trên đường như người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4,1-42) và người phụ nữ Ca-na-an (Mt 15,21-28).

2.2 Khi đọc câu chuyện người phụ nữ Ca-na-an đến xin Đức Giê-su chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám của bà, nhiểu người đã bị sốc với những lời mà Đức Giê-su đã nói với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”  Nhưng khi nghe người phụ nữ Ca-na-an đáp lại Đức Giê-su thì độc giả vừa hài lòng, vừa ngưỡng mộ: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Những lời đó và thái độ của người phụ nữ Ca-na-an đã chinh phục được trái tìm của Đức Giê-su khiến Người phải thốt lên: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

2.3 “Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Con gái bà ấy đã được khỏi, nhờ lòng tin mạnh mẽ của người mẹ và quyền năng của Đức Giê-su. Quyền năng của Đức Giê-su (hay của Thiên Chúa) thì lúc nào cũng có sẳn đó, nhưng lòng tin của người đối tác thì không phải lúc nào cũng có đó. Mà không có lòng tin thì không có phép lạ, vì lòng tin là điều kiện cần thiết để phép lạ được thực hiện. Chính Phúc âm đã quả quyết như thế: “Người không làm nhiều phép lạ tại đò (Na-da-rét), vì họ không tin” (Mt 13,58). 

III. THỰC THI LỜI CHÚA

3.1 Trong cuộc sống hơn 70 năm tôi cũng đã từng chứng kiến phép lạ do Thiên Chúa thực hiện cho tôi và cho những người sống chung quanh tôi. Tôi đã chết hụt vài ba lần nhờ sự che chở của Thiên Chúa. Tôi đã không bị tù tội nhờ lòng thương của Thiên Chúa. Tôi không bị đói khổ và có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, việc phục vụ nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa,

3.2 Nhưng cũng có nhiều phép lạ đã không xẩy ra do tôi còn thiếu lòng tin và cầu xin chưa đủ. Có nhiều điều tôi xin cho gia đình, bạn bè, các học viên, giáo xứ, Giáo hội Việt Nam mà Chúa chưa ban, chỉ vì tôi chưa tin cho đủ, chưa tin cho mạnh.

IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, con hết sức ngưỡng mộ người phụ nữ Ca-na-an. Bà ấy tin mạnh thật. Con cũng muốn có lòng tin mạnh mẽ như thế nhưng con chưa được như bà ấy. Dù lòng tin của con còn yếu kém, con cũng đã được Chúa ban nhiều ơn phần hồn phấn xác. Con xin tạ ơn Chúa. Con tha thiết xin Chúa ban cho con một đức tin mạnh mẽ, một đức cậy vững vàng và một đức mến sắt son. Con cầu xin Chúa là Thiên Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A135: ÂN SỦNG


Lm. Trần Việt Hùng

 

Chúa ban ân sủng ngập tràn, Cho người tứ xứ, yên hàn an vui. Đàn bà xứ lạ tới lui, Con yêu lâm TN 20-A135


Chúa ban ân sủng ngập tràn,
Cho người tứ xứ, yên hàn an vui.
Đàn bà xứ lạ tới lui,
Con yêu lâm bệnh, chôn vùi nỗi đau.
Xin trừ quỉ ám qua mau,
Dủ lòng thương xót, trước sau tin Thầy.
Không rằng, chẳng nói, chẳng rầy,
Đức tin thử thách, đong đầy khiêm nhu.
Chúa rằng những bánh dự trù,
Dành nuôi con cái, trong khu chốn này.
Không nên lấy bánh trong tay,
Vứt cho con chó, không hay gọi mời.
Bà ta đáp lại đôi lời,
Chó con xứng được, bánh rơi từ bàn.
Động lòng thương xót trao ban,
Đức tin kiên vững, phá tan bóng mờ.
Chữa lành con gái mong chờ,
Quỷ ma trục xuất, nương nhờ xác thân.
Mạnh tin Chúa chữa ân cần,
Một lòng tin tưởng, tinh thần lạc an.

Khi Chúa Giêsu trên đường ra khỏi thành Tyrô và Siđon, một người phụ nữ ngọai giáo đến gặp Chúa và xin chữa bệnh cho con gái bị quỷ ám. Có lẽ bà này cũng đã chạy đi tứ phương cầu khẩn cho con gái mình, nhưng đều vô hiệu. Nghe về danh của Chúa Giêsu, bà không ngại ngùng chạy đến nài van Chúa chữa con gái mình. Bà xin và bà đã nhận được ơn của Chúa.

Con người có biết bao thứ bệnh tật khác nhau. Có bệnh về thể xác, có bệnh về tinh thần, có bệnh từ trong và có bệnh đến từ bên ngòai. Bệnh là một sự khiếm khuyết trong cơ thể con người. Với khả năng được phú ban, con người có thể giúp nhau trị liệu nhiều thứ bệnh, nhưng con người vẫn không đủ khả năng để chữa lành mọi bệnh tật.  

Bệnh của người con gái là thứ bệnh rất hiểm nghèo. Bệnh bị qủy ám. Bệnh thuộc loại tinh thần, nhưng lại dày vò thể xác. Một quyền lực sự dữ ám quấy con người. Em gái không còn làm chủ được mình, hoàn toàn sống lệ thuộc vào quyền kẻ dữ bên ngoài ám. 

Người đàn bà ngoại giáo đã nghe về Chúa Giêsu. Bà tin vào quyền năng của Chúa. Bà nài xin lòng thương xót của Chúa. Chúa thách thức niềm tin của bà. Bà chấp nhận thân phận ngoại lai và hèn yếu. Bà nghĩ dù sao bà cũng đáng được hưởng những phần dư còn lại của ân sủng. Chúa đã khen lòng tin của bà và bà được toại nguyện.

Cũng như người đàn bà Canaan này, chúng ta là chi mà đáng hưởng ân huệ của Chúa. Nếu chỉ cậy dựa vào công sức, việc lành và việc sống đạo của chúng ta, chúng ta không đáng được thừa hưởng ơn lành của Chúa đâu. Chúng ta hãy đặt lòng tin nơi Chúa và nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

----------------------------------

 

TN 20-A136: VĂN HÓA ĐỨC TIN


Lm Vũđình Tường

 

Văn hoá đức tin là văn hoá tiên tri Isaiah kêu gọi con người coi trọng lẽ công chính và đối xử TN 20-A136


Văn hoá đức tin là văn hoá tiên tri Isaiah kêu gọi con người coi trọng lẽ công chính và đối xử bình đẳng đối với mọi người, già trẻ, lớn bé đều được coi trọng và được đối xử như con người. Isaiah 56,1 kêu gọi như trên bởi có sự hiểu lầm từ dân Chúa chọn. Họ cho rằng chỉ những người thuộc dân Chúa chọn mới được hưởng đặc quyền, đặc lợi. Isaiah cho biết quan niệm sai lầm trên cầm mau mắn xoá bỏ, mau mắn chỉnh đốn cách đối xử với mọi người. Tất cả đều bình đẳng trước mắt Chúa. Dân Chúa chọn có nhiệm vụ loan truyền thánh í Chúa và những ai gia nhập trở thành dân riêng có chung một sứ mạng rao giảng tin mừng, sống công chính và đối xử bình đẳng với mọi người và điều này trở thành bản nhạc tình, thánh vịnh 67,6-7 ca mừng

Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ, chính là Thiên Chúa ngự trong thánh điện Người. Kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa, hạng tù đày Người trả lại tự do, hạnh phúc.

Dân riêng của Chúa trở thành cái loa của chính Chúa loan truyền tình yêu Chúa cho muôn dân, không phân biệt màu da, sắc tộc. Văn hoá đức tin không phải là văn hoá thống trị hay văn hoá du nhập từ ngoài mà chính là phát xuất từ tâm hồn con người. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa. Tình yêu Chúa dựng nên ta, nên sâu thẳm trong lòng con người luôn có tình yêu và điều này tạo nên văn hoá đức tin. Điều kiện xã hội tạo ra văn hoá ích kỉ, tham lam. Chúng cần được tẩy rửa, tắm gội trở thành văn hoá tôn trọng sự thật, đề cao công chính và đối xử bình đẳng với mọi người. Chối bỏ văn hoá đức tin là chối bỏ tình người, lòng mến và bác ái với tha nhân. Điều này trái nghịch với mục đích tạo dựng con người của Thiên Chúa. Nhóm đề cao văn hoá xã hội viện lí do đại đa số hỗ trợ nên í kiến đại đa số luôn đúng. Sự thật cho biết đại đa số thường bị giới lãnh đạo hướng dẫn theo í riêng của phe nhóm, nên í kiến của đại đa số rất ào ạt. Lịch sử Giáo Hội có danh sách dài những tiên tri kêu gọi đa số từ bỏ con đường bất chính, sống thù nghịch tình yêu Chúa, từ bỏ hưởng lạc để trở về con đường công chính. Cuộc chiến giữa sống trong tình yêu Chúa và chiều theo tính xác thịt là cuộc chiến dài. Hiện nay xã hội đang đương đầu với cuộc sống chiều theo xác thịt và được đại đa số hỗ trợ. Hậu quả sẽ gây nên đau khổ. Hố giầu nghèo sâu hơn, nghèo chịu cảnh sống bất công, bị đối xử bất chính và bị phán đoán thiếu công minh; kẻ quyền thế bị đè nén, tâm thần bất an vì người ta âm thầm hãm hại để tìm đường tiến thân. Văn hoá xã hội dường như đang thắng thế nhưng cuối cùng văn hoá đức tin sẽ toàn thắng bởi sự thật không bao giờ chết.

Văn hoá đức tin giúp nâng cao cuộc sống lên trên những ràng buộc xã hội để tiến đến văn hoá sự sống. Văn hoá đức tin giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu Chúa và dùng giáo huấn của Đức Kitô làm khuôn mẫu chung trên toàn thế giới. Sống văn hoá đức tin cuộc sống thay đổi, cách suy nghĩ thay đổi, cách đối xử thay đổi để tiến đến gần Đức Kitô hơn, nên giống Đức Kitô hơn.

Người phụ nữ thành Samarita kiên trì xin Đức Kitô cứu con bà khỏi bệnh. Đức Kitô không đáp lại nhưng các môn đệ cảm thấy bẽ bàng nên nói với Đức Kitô ban cho bà ơn bà xin. Khi làm bánh hoá nhiều nuôi năm ngàn người Phúc Âm ghi lại ‘Ngài biết rõ Ngài sẽ làm gì’ Gn 6,7. Có lẽ Đức Kitô cũng biết rõ Ngài sẽ làm gì với người phụ nữ nhưng trước khi ban cho bà ơn bà xin Đức Kitô muốn chính bà thổ lộ tâm tư thầm kính trong tâm hồn bà. Khi bà nói ra câu ơn Chúa không riêng cho dân tộc nào nhưng cho toàn thể nhân loại. Đức Kitô đã khen bà và ban cho điều bà xin.

----------------------------------

 

TN 20-A137: SUY NIỆM CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN. NĂM A


Lm. Anthony Trung Thành

 

Trong trận động đất xảy ra hồi tháng 3/2014 ở Nhật Bản, khi lực lượng cứu hộ bắt đầu tìm kiếm TN 20-A137


Trong trận động đất xảy ra hồi tháng 3/2014 ở Nhật Bản, khi lực lượng cứu hộ bắt đầu tìm kiếm người bị nạn, họ nhìn thấy thi thể của 1 người phụ nữ qua vết nứt của 1 ngôi nhà đã bị đổ nát. Tư thế của cô khá kỳ lạ: Có vẻ như cô đang quỳ gối cầu nguyện, hai tay đỡ lấy 1 thứ gì đó. Và cả ngôi nhà đang đè hết lên người cô. Mọi người nghĩ rằng cô đã chết rồi, không thể cứu được nữa, toan quay đi. Nhưng đội trưởng đội cứu hộ bỗng có 1 linh cảm kỳ diệu, nên anh lệnh cho cả đội ở lại.

Và điều kỳ diệu đã xảy ra khi anh đưa tay vô khe hẹp để tìm kiếm bên dưới xác chết người phụ nữ. Có một đứa bé! Và đứa bé ấy còn sống! Đứa bé khoảng 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa, nằm an toàn trong vòng tay ôm của người mẹ. Rõ ràng, khi ngôi nhà đổ xuống, cô đã lấy thân mình ra để bảo vệ đứa con. Trong tấm chăn đó có 1 chiếc điện thoại di động với 1 tin nhắn trên màn hình. Đoạn tin nhắn đó đã làm cho tất cả mọi người trong đội cứu hộ phải bật khóc. Tin nhắn viết rằng: “Nếu con có thể sống sót, hãy nhớ rằng, mẹ rất yêu con” (Nguồn: kenh14.vn).

Sự hy sinh cao cả của người mẹ trong câu chuyện trên đây phần nào giúp chúng hiểu hơn câu chuyện mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại. Theo Thánh Mathêu, người phụ nữ dân ngoại Canaan có đứa con gái bị quỷ ám khốn cực lắm. Thời gian qua bà đã tìm thầy chạy thuốc và làm hết cách để cứu chữa đứa con, nhưng tất cả các thầy thuốc đều bó tay. Chắc chắn bà đã nghe nói nhiều về Đức Giêsu, nhất là về những phép lạ Ngài làm, trong đó có phép lạ Người trừ quỷ (x. Mt 8, 28-34; 9,32-34). Nhưng bà là người dân ngoại Canaan. Đức Giêsu lại là người Do Thái. Hai dân tộc này không hề đội trời chung. Họ không hề liên hệ với nhau. Thế mà hôm nay, vì đứa con gái bị quỷ ám mà người đàn bà dân ngoại này đã mạnh dạn vượt qua các rào cản đó để đến với Đức Giêsu. Bà thưa rằng: “Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm.”(Mt 15,22).  Đây không chỉ là một lời cầu xin giữa con người với nhau mà là lời cầu xin giữa thụ tạo đối với Thiên Chúa. Bởi vì, trong lời cầu xin này, bà đã tuyên xưng danh hiệu của Đức Giêsu là “con Vua Đavít”. Điều đó cho chúng ta thấy, người đàn bà dân ngoại này coi Đức Giêsu không phải là một người bình thường nhưng là một vị Thiên Chúa. 

Bình thường, trước lời van xin của những người đau khổ, Đức Giêsu đều ra tay giúp đỡ ngay, như trường hợp Người chữa hai người mù (x. Mt 9, 27-31). Thậm chí, có những lúc người ta chưa hề kêu xin, nhưng Ngài vẫn ra tay cứu chữa họ, như trường hợp người đàn bà bị bệnh băng huyết 12 năm chỉ động đến gấu áo của Ngài thì đã được khỏi bệnh (x. Mt 9, 20-22). Vậy mà hôm nay trước lời kêu xin của người phụ nữ ngoại giáo, Ngài lại từ chối một cách thẳng thừng: Lần thứ nhất, Ngài im lặng không nói lời nào. Lần thứ hai, với lời đề nghị của các môn đệ, Ngài từ chối một cách thẳng thừng rằng: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi.” (Mt 15,24). Lần thứ ba, khi người đàn bà ngoại giáo tiếp tục van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”(Mt 15,25). Ngài vẫn không động lòng thương, không chấp nhận, trái lại còn từ chối bằng một câu nói hết sức tàn nhẫn rằng: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15,26). Trước thái độ và lời nói của Đức Giêsu, người ta không khỏi thắc mắc: Ngài có thử thách người đàn bà này quá mức chăng? 

Nhưng Đức Giêsu càng thử thách thì lại càng cho chúng ta thấy được sự kiên nhẫn, lòng khiêm nhường và lòng tin mạnh mẽ của người đàn bà dân ngoại. Trước câu nói được cho là quá tàn nhẫn của Đức Giêsu, bà vẫn không có một chút tự ái nào, bà thưa lại rằng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” (Mt 15,27). Thấy thái độ kiên nhẫn, khiêm tốn và mạnh tin của người đàn bà, Đức Giêsu không còn cách nào để từ chối lời van xin của bà. Ngài nói: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.” Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. (x. Mt 15,28).

Lời Chúa hôm nay gởi nhắc cho chúng ta suy niệm và thực hành những điều sau đây:

Thứ nhất, ơn cứu độ không dành riêng cho dân tộc Do Thái, mà còn cho các dân ngoại, không dành riêng cho một ai mà cho hết thảy mọi người. Bài đọc I, tiên tri Isaia cho chúng ta biết: “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Nhưng để được lãnh nhận ơn cứu độ cần phải “giữ luật và thực thi công bình”, cần phải “giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Thiên Chúa”, cần phải có niềm tin mạnh mẽ như người đàn bà Canaan. Mỗi người chúng ta hôm nay muốn được lãnh nhận ơn cứu độ, không chỉ tin mà còn phải thực hành những điều mình tin, đó là tuân giữ giáo huấn của Đức Giêsu và của Hội thánh được tóm lược trong mười điều răn của Chúa và sáu điều răn Hội thánh.

Thứ hai, biết kiên nhẫn trước những thử thách gian nan. Thiên Chúa có thể thử thách đức tin của chúng ta như Ngài đã thử thách lòng tin của người đàn bà dân ngoại, hay như trong thời Cựu Ước, Ngài đã thử thách ông Gióp, tổ phụ Abraham. Thiên Chúa thử thách con người không phải vì ghét bỏ con người cho bằng vì Ngài yêu thương con người.  Vì “lửa thử vàng gian nan thử sức.” Vì thế, trước những thử thách của Chúa, chúng ta hãy noi gương người đàn bà ngoại giáo Canaan luôn biết kiên nhẫn đợi chờ trong niềm tin tưởng.

Thứ ba, sống khiêm nhường trước mặt Chúa. Người đàn bà dân ngoại Canaan đã chấp nhận làm “chó con” để được “ăn những mụn bánh từ bàn rơi xuống”. Đó là một thái độ khiêm nhường thẳm sâu. Trước một vị Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng, chúng ta cũng luôn phải có thái độ khiêm nhường: Khiêm nhường như người đàn bà Canana; Khiêm nhường như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện; Khiêm nhường như Đức Maria. Nếu chúng ta có được thái độ khiêm nhường như thế, chắc chắn sẽ được Thiên Chúa yêu thương và sẵn sàng chấp nhận những lời cầu xin của chúng ta.

Thứ tư, biết quan tâm đến những người ốm đau bệnh tật. Như người đàn bà dân ngoại Canaan đã hy sinh tất cả vì đứa con gái bị quỷ ám. Bà hy sinh vì yêu con, Bà hy sinh vì muốn con mình được cứu chữa. Thái độ đó mời gọi chúng ta luôn biết quan tâm đến những người ốm đau bệnh tật. Đặc biệt, là những người thân trong gia đình của mình như: vợ chồng, ông bà, cha mẹ, con cái. 

Lạy Chúa Giêsu, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con có lòng khiêm nhường, kiên nhẫn đức tin mạnh trước những thử thách của Chúa. Và xin cho chúng con luôn biết quan tâm đến những người đau khổ bệnh tật. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A138: “LỜI” THỬ ĐỨC TIN


P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn ,

 

Lời Chúa, Chúa nhật 20 thường niên năm A hôm nay (Mt 15, 21 -28) cho chúng ta một sự tìm TN 20-A138


Lời Chúa, Chúa nhật 20 thường niên năm A hôm nay (Mt 15, 21 -28) cho chúng ta một sự tìm tòi lịch sử của Thánh Kinh. (trở về nguồn Cựu Ứơc).

Tai sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, vì :” câu trả lời của Chúa Giêsu” : “ Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi !”  (c 24).

Vâng, theo lịch sử Cựu Ứớc, thì miền đất Ca-na-an là miền đất “Hứa”, Thiên Chúa đã hứa với Tổ Phụ Ápraham sẽ dẫn dân tộc Israel về “Đất Hứa”. Thì , Ca-na-an chính là “miền đất hứa” của dân Dothai , vậy tại sao , người xứ Ca-na-an không được xem là dân Israel ?

Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ cho toàn thể nhân loại mà !?

 Căn cứ vào Bài đọc I hôm nay (Is 56, 1; 6-7), chúng ta biết được Thiên Chúa sẽ ban ơn Cứu Độ cho hết mọi dân tộc, vậy tại sao người xứ Ca-na-an không được xem là “con chiên lạc của nhà Israel” ? Nếu vậy, ngoài người Dothai ra không dân tộc tộc nào được Cứu Độ sao  !? Có phải vậy không thưa quý vị ? Thưa, chắc chắn là không phải rồi, vậy thì phải hiểu như thế nào Lời Chúa hôm nay ?

Rõ ràng , qua dân tộc Dothai, Ơn Cứu Độ mới đến được với các dân tộc trên thế giới. Như chúng ta biết, địa hạt Tia( hay còn gọi là Ty-rô),và Xi-đon là miền cực bắc của xứ Ca- na- an. Cũng có thể hiểu Ca-na-an như Sơn La, Tyro như Điện Biên còn Xi-đôn như Lai-Châu của Việt Nam vậy.

Như vậy, khi Chúa Giêsu lui về miền Tia và Xi-đon, cũng ví như Chúa Giêsu lui về miền Lai Châu và Điện Biên, thì gặp người phụ nữ xứ Ca-na-an, là Sơn –La  của Việt Nam vậy.

Nhưng, tại sao vùng đất xứ Ca-na-an là miền đất “Hứa” mà chính Thiên Chúa đã Hứa với Tổ Phụ Ápraham lại trở nên bị ”phân biệt” với người Israel. Thưa, vì xứ Ca-na-an là xứ coi như tội lỗi, ngoại tộc vì đã thờ thần Ba-an, là một xứ tội lỗi, dâm loàn và giết chóc. Dân xứ Ca-na-an đã phản bội Thiên Chúa , thờ thần Ba-an, thời ngẫu tượng, bò vàng. Sau đó, Thiên Chúa sai Tiên Tri Giô-suê, là môn đệ theo hầu Môisen trong 40, đã đi vào miền đất Ca-na-an do thám và đã rao giảng sự hồi tâm và trở lại của dân xứ Ca-na-an.( x, Chương 10 của sách St, va 2C, 34 của sách Ds).

Và,vì vậy, trong một xứ sở không tin thờ Thiên Chúa, lại xuất hiện một người phụ nữ tin vào Đức Kitô, có nghĩa là tin vào một Người có Tên là GIÊSU, Người ấy là Đấng Cứu Thế, vì rõ ràng bà đã xác tín và kêu lên như vậy. “ Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin dủ lòng thương xót tôi!” ( c 22 b)

Như vậy, chúng ta biết yếu tố đức tin nằm ở đây.

Ngoài tất cả những thứ mà bà ta đã tin và đã làm theo cho con gái của mình, thì tất cả đều vô vọng. Trong địa hạt mà bà đang sinh sống có truyền thống không tìn vào Thiên Chúa. vậy, mà giờ đây bà đã nghe về Đức Kitô đã xuất hiện và tin vào Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là Con Vua Đavit, là cụm từ chỉ về “Đấng Cứu Thế”. Sự kêu cầu tha thiết, van xin hết lòng, bất chấp những lời đàm tiếu, những sự xua đuổi, nhưng bà vẫn đến gần Chúa Giêsu để van xin Người cứu chữa con gái bà..

Vâng, Chúa Giêsu không phải không biết, Người không vô tâm như những vị “lương y” tầm thường.

Lần thứ hai , bà lại đến gần và thưa : “ Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” ( c 25), và Chúa dùng Lời để thứ thách bà. Người đáp : “Không nên lấy bánh của con cái trong nhà mà ném cho lũ chó con.” ( c 26). Nhưng bà đáp lại :” Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” ( c 27)

Vâng, chính Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên với niềm tin của bà, một lòng tin vượt quá ranh giới thành kiến, địa lý. Vâng, giữa lòng thương con của một người mẹ, và sự nhận thức của lòng tin, bà tin rằng : “Ông nầy” quả thật là Đấng Cứu Thế. Vì vậy, bà đã cố gắng và đã đạt được.

Theo đó, lòng tin của người phụ nữ xứ Ca-na-an, thoạt nghe thì dường như có mâu thuẫn, đầy nghịch lý với Bài Đọc I hôm nay ( Is 56 , 1. 6-7), nhưng ý nghĩa sâu sắc thì vô cùng logic, bởi vì, chính Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài luôn lôi kéo, như giữa không trung vẫn có luồng gió thánh thiện, chúng ta nhớ lại Dụ Ngôn “Người gieo giống”, người gieo cứ gieo, cứ vung vãi, Thần Khí Chúa cũng vậy, cứ tung, cứ gieo, cứ vãi khắp nơi, ai đón nhận thì đón. Như vậy, Lời Chúa cứ gieo vãi vào không trung, mảnh đất tâm hồn nào đó nhận, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa.

Bài đọc II hôm nay ( Rm 11, 13 -15 . 29 -32), thánh Phaolo nhắc nhở cho chúng ta biết : “Qủa thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không đổi ý ” ( c 29).

Vì vậy, Lời Chúa hôm nay cũng cho chúng ta biết, phải thận trọng trong việc ban phát ân sủng siêu nhiên, làm bác ái , hay sinh hoạt tôn giáo, hoặc đối đáp với chính quyền đều phải thận trong khôn ngoan, nhất là việc truyền giáo, rửa tội cho tân tong, cũng cần hết sức thận trọng và nhận ra đức tin chân thật của họ, chứ không phải lấy nước mà đổ ào ào..

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian là để cứu vớt tất cả những ai có lòng tin, dù lành hay dữ, tốt hoặc xấu, không phải cứ kêu “ Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời” , nhưng, phải có lòng tin chân thật như người phụ nữ xứ Ca-na-an hôm nay./. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A139: NIỀM TIN SẮT ĐÁ CỦA MỘT DÂN NGOẠI


JM. Lam Thy

 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XX TN/A – Mt 15, 21-28) trình thuật câu chuyện một người đàn bà TN 20-A139


Bài Tin Mừng hôm nay (CN XX TN/A – Mt 15, 21-28) trình thuật câu chuyện một người đàn bà từ Ca-na-an (miền Tia và Xi-đon) tới gặp Đức Ki-tô, xin Người chữa bệnh cho con mình. Miền đất quê của bà vốn được người Do-thái coi là dân ngoại. Lần thứ nhất bà cầu xin, nhưng Đức Ki-tô không trả lời. Với một niềm tin vững vàng, bà lại tiếp tục năn nỉ. Các môn đệ có vẻ không hài lòng về bà và xin Đức Ki-tô đuổi bà ấy đi, thì Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.”(Mt 15, 24). Câu nói này của Đức Ki-tô gián tiếp cho mọi người biết bà ấy là dân ngoại; và để thử lòng tin của bà, Người nói thẳng với bà ấy: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). 

Với câu trả lời này, nếu chỉ thoáng nghe và không suy nghĩ thì không thấy ăn nhập gì với chuyện chữa bệnh cho con của bà ta. Nhưng nếu suy nghĩ sâu hơn một chút, thì sẽ thấy Đức Ki-tô ví việc chữa bệnh như đem bánh cho người ta ăn và bánh đó không được cho lũ chó con. Bà bị coi như chó (dân ngoại) và nếu giả thử gặp cỡ các kinh sư hay Pha-ri-sêu chắc chắn sẽ phản ứng rất mạnh. Nhưng bà này vẫn không buồn rầu bỏ đi, mà nhất định ở lại cầu xin cho bằng được. Lời cầu xin quả thật khiêm tốn và tin tưởng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” (Mt 15, 28). Tuyệt vời!

Phải nói rằng bà này là típ người rất thông mình. Nếu không hiểu biết, bà sẽ thấy lời của Đức Ki-tô không dính dáng gì tới việc bà cầu xin, và sẽ xảy ra 2 trường hợp: Một là thấy người mình cầu xin không hiểu được ý mình. Đã không hiểu được mình, thì cầu xin cũng vô ích, bỏ đi cho rảnh. Trường hợp thứ hai, sẽ cho là Đức Ki-tô không nghe rõ lời cầu xin nên mới nói về bánh, và nếu còn tin tưởng, bà ta sẽ cứ một mực xin Người chữa bệnh cho con mình. Cả 2 trường hợp đều không đúng với bà, vì bà đã hiểu ngay Lời dạy của người mà bà tin tưởng. Không dám xin ăn bánh trực tiếp, mà chỉ khiêm tốn xin được ăn những mảnh vụn rơi vãi.

Thêm một đức tính đặc biệt của bà nổi bật lên: Dù có bị coi là chó, bà cũng xin vâng, vì bà nghĩ rằng Người mà bà đang cầu xin đích thị là Đấng Quyền Năng, là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa mà chấp nhận xuống phàm trần làm một con người bình thường như bao người khác, thì mình có bị coi là chó cũng xứng đáng thôi. Đức tình khiêm tốn tuyệt vời ấy chắc chắn không thể có được nơi những thượng tế, những kinh sư, luật sĩ, những Pha-ri-sêu, những con người vẫn luôn miệng nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” và tự coi mình mới là “hàng nội” chính tông, là con dòng cháu giống của Thiên Chúa; những con người luôn kiêu ngạo tự cho mình là đệ nhất thông minh và chỉ thích được “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” (Mt 23, 2) thiên hạ. Vậy đó! 

Thông minh nhưng khiêm tốn, người đàn bà Ca-na-an đã khiến Đức Giê-su Thiên Chúa chạnh lòng thương, buột miệng khen ngơi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”. Và thế là: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.” (Mt 15, 28). Quả thực, bài học rút ra được ở đây là đức tính khiêm nhường, đức tính đứng hàng đầu trong bảy đức tính căn bản của Ki-tô giáo. Phải luôn nghĩ rằng tất cả những gì con người có được nơi trần thế đều là ân sủng của Thiên Chúa ban tặng. Những ân sủng đó Thiên Chúa ban cho mỗi người mỗi khác là vì ich chung (1Cr 12, 7). Không tự kiêu, tự mãn khi mình có được sự thông minh hơn người, hoặc có được những đặc ân khác những người xung quanh; nhưng cũng không tự ti mặc cảm khi thấy mình không có được những ân sủng như những người khác. 

Tuy nhiên, bài học lớn nhất, bao trùm lên tất cả là đức tin của người đàn bà Ca-na-an. Bà thực sự tin tưởng Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ; và bà vững tin rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai, không phân biệt “nội hay ngoại”, nếu chân thành cầu xin với một niềm tin vững vàng, thì dù xin gì, Người cũng sẽ ban cho. Bà không chỉ tin ở trên môi miệng, mà chính là ở chỗ đối diện với thử thách nghiệt ngã (bị dân Do-thái coi là dân ngoại và chính Người mà bà tin tưởng mãnh liệt nhất lại coi bà và con gái bà là chó), vậy mà bà vẫn trung kiên với niềm tin của mình. 

Với một người chưa được coi là Ki-tô hữu, mà đã có một niềm tin sắt đá như vậy, thiển nghĩ cũng rất đáng xấu hổ cho những người đã được coi là Ki-tô hữu (đã nhận lãnh Phép Rửa) mà chỉ hơi chạm đến tự ái, hoặc chỉ mới phỏng đoán mình sẽ bị “thử lửa”, đã vội vàng chối bỏ Chúa của mình một cách ngon lành. Hoá cho nên, chính trong cuộc sống đời thường, trong gian truân thử thách, trong tất cả mọi nghịch cảnh, người Ki-tô hữu vẫn sống đức tin một cách chân thực, không màu mè sáo rỗng, như bà mẹ người Ca-na-an trong bài Tin Mừng, ấy mới thực sự xứng đáng với danh hiệu mà Đức Giê-su Ki-tô đã ban tặng: Ki-tô hữu (“Thầy không gọi anh em là tôi tớ, mà gọi anh em là bạn hữu” – Ga 15, 15).

Cho đến hôm nay, phần đông người Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được đời sống đức tin rất tốt, được cụ thể hóa qua việc tham dự Thánh Lễ cũng như lãnh nhận các bí tích. Tuy nhiên, đời sống đức tin ấy nhiều khi chỉ là những thói quen do ảnh hưởng của gia đình, xứ đạo hơn là một chọn lựa và dấn thân cá nhân. Một đức tin như thế sẽ khó lòng đứng vững trong khung cảnh đô thị hóa và xã hội hóa đang và sẽ diễn ra mỗi ngày một nhanh hơn. Vì thế, cần xây dựng một đức tin mang tính cá vị, hiểu như một chọn lựa tự do và ý thức trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Ấy cũng bởi vì “Đức tin là lời đáp trả của con người toàn diện trước tiếng gọi của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô). 

Con người toàn diện bao gồm cả lý trí, tình cảm, ước muốn và hành động. Vì thế, để sống đức tin, người Ki-tô hữu không chỉ ngừng lại ở những hiểu biết thuần lý, nhưng phải bước vào hành động – hành động và liên lỉ cầu nguyện – bởi vì “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vâng, nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ chính Đấng mà chúng ta tin. Và niềm tin đích thực được thể hiện qua đời sống hằng ngày là “chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.” Hệ quả tất yếu sẽ là “ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.” (1 Ga 2, 3.5). Ước được như vậy. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A140: BÀ MUỐN SAO THÌ SẼ ĐƯỢC VẬY!


Pio X Lê Hồng Bảo

 

Sự kiện trong đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong chuỗi những sự kiện mà Chúa Giêsu muốn dùng TN 20-A140


Sự kiện trong đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong chuỗi những sự kiện mà Chúa Giêsu muốn dùng để thanh luyện niềm tin cho các môn đệ. Trước tiên, Người hóa bánh ra nhiều để nuôi hàng chục ngàn người trước mặt các ông. Kế đến, Người đi trên mặt nước và làm cho Phêrô cũng đi được trên nước mà đến với Người. Thế mà, các môn đệ vẫn còn hoài nghi! Nỗi hoài nghi phát sinh từ sự sợ hãi. Trong đoạn này, Chúa Giêsu lại phải dùng một người phụ nữ dân ngoại để làm điển hình về Niềm Tin.

… Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra… (Mt. 15, 21-22) Miền đất dân ngoại nhưng đã từng được Chúa Giêsu đánh giá cao về niềm tin và lòng sám hối trước đó: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt. 11, 21)

Tuy vậy, để thử thách niềm tin của người phụ nữ này, trước tiên “Chúa Giêsu không đáp lại lời nào” (Mt. 15, 23). Sau đó, Người đã phải dùng những biện chứng xem chừng rất hợp lý: “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel” và “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”…

Bất quá tam, đến lần thứ ba mà người phụ nữ vẫn kiên trì, lì lợm với một lý lẽ kiểu “cối xay cùn”:  “Chó con cũng được hưởng những mẩu bánh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt. 15, 27). Đến nước này thì Chúa Giêsu đành… “bó tay”: “Bà muốn sao, thì được vậy!”

Một câu nói mang âm hưởng có vẻ buông xuôi nhưng nội dung lại là một “phán quyết” chắc nịch, bởi vì đây là câu nói phát ra từ Ngôi Lời của Thiên Chúa.

Tôi lại liên tưởng đến một “phán quyết” cũng chắc nịch như vậy nhưng ở trong một hoàn cảnh khác: Lúc Chúa Giêsu sắp trút linh hồn trên cây Thánh Giá; yếu ớt, cô đơn và hoàn toàn bất lực trước nghịch cảnh. Vậy mà, có kẻ lại đặt cược Niềm Tin vào Người: “Khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc. 23, 42). Tên trộm chỉ cần Chúa Giêsu “nhớ đến” thôi chứ không mơ ước gì hơn, vì anh đã khẳng định thân phận tội lỗi của mình với người bạn cùng chịu hình phạt với anh bên kia Thánh giá. Và anh ta được gì? “Ta bảo thật anh, ngay hôm nay, anh sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng.” (Lc. 23, 43).

Có vẻ như, Chúa Giêsu chỉ bị chinh phục vì Đức Tin! Và, cũng có vẻ như, Người luôn ban phát dư dật cho những ai tin vào Người.

Trong thực tế thì sao? Tôi cũng tin tưởng, kiên trì giữ đạo đàng hoàng mấy mươi năm nay, vậy mà, lắm khi tôi cầu xin có được gì đâu!

Tôi bị mất trộm, cầu xin Chúa cho Công an bắt được kẻ gian để lấy lại tài sản. Tôi làm tuần tam nhật rồi cửu nhật, vẫn bóng chim tăm cá! Trong khi ông hàng xóm bị mất mấy triệu, nhờ “bà thầy” coi dùm ngày trước, ngày sau đứa đầy tớ khóc thút thít đem trả…

Con gái tôi có dấu hiệu tâm thần, chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Chỉ xin Chúa cho nó gặp đúng thầy đúng thuốc, vợ chồng tôi không ngại tốn kém. Chẳng thấy kết quả gì! Ông sếp tôi có thằng con trai cũng bị tương tự, rước thầy về cúng có 1 tuần lại khỏi.
Con trai tôi lấy vợ, một “bà bóng” quen đã nói xa gần là chúng không “hạp tuổi”. Vợ chồng tôi đâu có tin! Vậy mà, y như rằng, cưới nhau về chúng nó gặp đủ thứ “tai ách”: Hết sẩy thai rồi đến tai nạn, lại bị mất việc nữa. Chúng tôi cũng xin lễ bình yên hoài hoài mà chẳng thấy bình yên đâu cả!

Những điều tôi cầu xin, thực ra chỉ là những điều “tôi muốn Chúa làm cho tôi, theo ý tôi, để phục vụ cho lợi ích của bản thân tôi”. Tôi cũng không quên ngó quanh để xem xét, để so sánh thiệt hơn… Tôi không dám “đặt cược” chỉ một cửa. Đó là chưa kể, nhiều khi tôi còn ngụy biện với chính bản thân mình:

Con bò nhà bị “giòi ăn”, tôi chỉ “chữa mẹo” bằng cách ra gò mối quất mấy roi rồi đọc mấy câu “vô thưởng vô phạt” thôi mà!
Tôi cũng thử “cầu cơ” để tìm của bị mất, biết đâu Chúa “mạc khải” cho mấy vong hồn về mách cho tôi?
Chồng tôi làm ăn với dân tộc miền núi bị “ếm”. “Nó ếm thì chỉ có nó gỡ”, nhiều người nói với tôi như vậy, chắc rồi! Ông thầy Chàm là lựa chọn của tôi trong trường hợp này.
Tôi cũng bắt chước mấy chị bạn hàng “đốt phong long” khi gặp xui xẻo. Chỉ tốn mấy tờ giấy thôi, chỉ là “xưa bày nay làm” chứ có phải cúng kiến gì đâu!
Gặp nhiều chuyện rủi ro, có người bày cho tôi cách xoay hướng cửa, sửa lối đi, kê lại bếp… Chỉ là “phong thủy” thôi, khoa học huyền bí phương Đông có nhiều thứ chưa lý giải được, tại sao tôi không nghe theo?
Tử vi, dịch lý cũng có tính “khoa học” đó chứ. Coi ngày tốt, xấu cho thuận tiện công việc làm ăn thì cũng đâu có gì phản lại Đức Tin? Tôi vẫn “giữ ngày Chúa Nhật” mà!

Tôi không xin được gì, chỉ bởi vì: Tôi chưa muốn điều Chúa muốn. 

Người phụ nữ Canaan đã muốn đúng điều Chúa muốn:
– Vinh danh Chúa qua phép lạ Người làm (Lạy Ngài, là con Vua Đavít).
– Khiêm tốn nhận mình chỉ là thân phận tôi đòi (chó con).
– Tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô một cách kiên trì, bền bỉ.

Chính vì thế, bà không “khiến” Chúa phải làm cho con bà khỏi bệnh. Chỉ một mực van nài: “Con gái tôi bị quỷ ám, khổ sở lắm!”, “Xin Ngài cứu giúp tôi!” và “Chó con cũng được hưởng bánh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bấy nhiêu đó đủ nói lên hàm ý: “Xin Chúa lo liệu cho tôi cách nào đó để con gái tôi bớt khổ vì quỷ ám. Rồi nó có tật nguyền hay thế nào cũng đành theo mọi sự Chúa sắp đặt!” Một lời cầu xin thể hiện mong ước hướng thượng của con người và tín thác vào Thánh Ý Thiên Chúa.

Người con trai hoang đàng cũng trở về với tâm trạng đó: “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người tôi tớ của cha vậy” (Lc. 15, 18-19) Ấy vậy mà: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc. 15, 22-24)   

Tôi chạnh nhớ chuyện vợ chồng nhà nọ: Anh chồng làm nghề thủ công, chị vợ ở nhà lo cơm nước và chăm sóc con cái… Thỉnh thoảng có vài chỗ nợ nần dây dưa, chị cũng le te đi hỏi nợ. Nhưng khổ nỗi, vốn chất phác hiền lành, chị rất ít khi đòi được nợ. Có lần, anh chồng cũng phải thở ra: “Trời ơi, chỉ có mỗi việc đi đòi nợ mà em cũng làm không xong!” Chị vợ rón rén lại bên chồng đưa ly nước: “Anh à, trong Kinh Lạy Cha có câu: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Nay, mình cũng đã cố đòi nhưng họ không trả, mình đành phải tha cho họ thôi. Chỉ mong mai sau, Chúa cũng đành tha nợ cho mình vì không đòi được gì là mừng rồi!”

Chị vợ trong câu chuyện trên cũng mang tâm tình của người phụ nữ Canaan, của người con hoang đàng và của cả tên trộm lành: Chỉ cần hưởng “bánh vụn”, chỉ cần là “tôi tớ trong nhà Cha”, chỉ cần được Chúa “nhớ đến”, chỉ cần Chúa “đành phải tha tội” là đủ rồi!

Lạy Chúa Giêsu, xin Người nhớ đến chúng con trong suốt hành trình trần thế này. Xin cho chúng con được nuôi dưỡng bằng bánh vụn của sự sống trường sinh. Chúng con chỉ xin được đối xử như tôi tớ Chúa ở trần gian, và mai ngày chúng con được Chúa tha nợ để trở thành con cái Chúa trên Thiên quốc. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A141: CHÓ CON CŨNG ĐƯỢC ĂN


Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ… Lời van xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác TN 20-A141


Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

Lời van xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác không nhỉ, so với lời kêu cứu của Phê-rô: “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giê-su coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14: 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giê-su đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”

Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương. Bà là người Ca-na-an thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giê-su, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Và trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giê-su lại càng tỏ ra lạnh nhạt: “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà It-ra-en mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu các người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phê-rô) có thể tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết để lãnh nhận được sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Ca-na-an này thực tế chỉ là một con số không, thâm chí còn dưới cả số không nữa. Thế nhưng, chính vì con số không này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó; lòng thương xót trở thành tất cả!

Còn về phía người đàn bà Ca-na-an, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại hình như bà còn muốn đề cao nó hơn nữa thì phải: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Và quả thật là như thế, nếu đã xứng đáng rối thì chẳng cần chi tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng có dịp tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật thật dễ hiểu! Ai kể mình là xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ cầu mong được áp dụng luật công bằng với tất cả cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giê-su hình như muốn cho thấy, nó thật chan hòa tới độ: chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, và thế là nó tuôn trào vô giới hạn: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc người đàn bà Ca-na-an khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà bà hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’! Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!

Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác đã khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Ma-ri-a tại thôn xóm Na-da-rét vô danh; trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố được nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được…, như nhân đức, thánh thiện, hay trở thành vô nhiễm nguyên tội, được làm Mẹ Thiên Chúa hay được hồn xác lên trời v.v. (như ngày nay chúng ta vẫn quen ca ngợi Mẹ), mà chính là vì người nhận biết mình được Thiên Chúa xót thương và cứu độ. ‘Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời’, Ma-ri-a đã nhận ra định luật vĩ đại đó!

Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Ki-tô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Ma-ri-a. Thường thì khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng rất ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Ma-ri-a, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó nhỉ? Ma-ri-a Na-da-rét và Ma-ri-a Mác-đa-la bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có những mảng đời rất khác biệt nhau này chính là: các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín lời tuyên xưng ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’, để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho hết thảy các con cái thấp hèn của Mẹ, cho đến mãi muôn thuở muôn đời. A-men.

----------------------------------

 

TN 20-A142: MẪU HÌNH ĐỨC TIN


Lm. GB. Trần Văn Hào

Hình mẫu đức tin nơi một thiếu phụ ngoại giáo

 

Ngạn ngữ phương Tây có viết : “Trên đời này, không có kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng TN 20-A142


Ngạn ngữ phương Tây có viết : “Trên đời này, không có kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Người đàn bà xứ Canaan trong câu truyện Tin Mừng hôm nay đã đến gặp Chúa Giêsu, mang theo mình một tình mẫu tử bao la và mãnh liệt. Tình yêu cao cả ấy đã rung lên những giai điệu bi thương trước căn bệnh hiểm nghèo của đứa con gái. Trái tim của một người mẹ đang đau khổ là khởi đầu của cuộc hành trình đức tin nơi bà, và cuối cùng phép lạ đã xảy ra. Trước khi bày tỏ quyền năng chữa lành, Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ :  “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn thế nào sẽ được như vậy”. (Mt 15,28).

Khởi từ ánh mắt thân thương của Chúa Giêsu.

Thánh Augustinô trong tác phẩm ‘Confessio’ đã kể lại một giai thoại gồm hai nhân vật : Ngài và người trộm lành. Ngài hỏi ông thánh ăn trộm : “Thưa ông, ông chưa từng được rửa tội, chưa từng đọc Kinh thánh, chưa lần nào đi vào các hội đường để cầu nguyện và cũng chưa bao giờ gặp Đức Giêsu. Vậy tại sao khi bị đóng đinh trên thập giá, ông nhận ra Đức Giêsu và tín thác vào Ngài ?”. Người trộm trả lời : “Đúng vậy, trước đây tôi chưa hề biết ông Giêsu là ai, càng không phải là môn đệ của Ngài. Qúa khứ của tôi đan kín tội ác vì tôi chỉ là một tay trộm cắp chuyên nghiệp và đã bị kết án như một tên tội phạm đốn mạt. Nhưng trên thập giá, tôi đã nhìn vào ánh mắt của Đức Giêsu. Từ đôi mắt ấy, tôi đã khám phá ra cả một bầu trời lồng lộng đầy ắp yêu thương và tôi hoàn toàn tín thác vào Chúa. Đó là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin nơi tôi”.

Tương tự như thế, người phụ nữ ngoại đạo xứ Canaan đã đến với Chúa Giêsu. Từ ánh mắt yêu thương của Chúa, bà cũng khám phá ra cả một bầu trời tình yêu sâu thẳm, khởi dẫn đến đức tin. Chắc chắn bà ta chưa từng được rửa tội, chưa bao giờ bước chân đến nhà thờ, cũng chẳng thuộc bất cứ một câu kinh nào. Nhưng người phụ nữ này đã có một đức tin rất mạnh mẽ khi biết trải lòng mình ra và tín thác tuyệt đối vào lòng thương xót của Chúa. Đức tin của bà được Chúa Giêsu khen gợi, trở thành chuẩn mẫu cho các tông đồ năm xưa cũng như cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.

Đức tin vượt qua thử thách

Đức tin là một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban. Đó không phải là kết quả của những suy tư triết học hay của những lý luận logic nơi đầu óc con người. Tuy nhiên, đức tin không phải chiếm được một lần là xong. Nó còn phải được mài dũa, được nuôi dưỡng, nhất là cần phải được kiện cường qua những thử thách. Điều này đã thể hiện rất rõ nét nơi lộ trình đức tin của người phụ nữ xứ Canaan.

Thử thách đầu tiên đến với bà là sự thinh lặng từ nơi Chúa Giêsu. ‘Người không đáp lại lời nào’ (c. 23). Sự thinh lặng của Chúa dường như rất khó hiểu. Trong cuốn sách ‘Lạy Chúa, tại sao Ngài thinh lặng’ Cha Giuse Đinh thanh Bình, SDB cũng diễn tả tâm trạng này khi Chúa gửi đến cho Ngài những thánh giá khá nặng nề trong cuộc sống. Suốt 2000 năm qua trên Thập giá, Chúa vẫn mãi im lặng, không nói một lời, không đáp lại một câu. Đầu Ngài vẫn cúi xuống, đôi mắt vẫn nhắm nghiền và đôi tay vẫn còn luôn giang rộng. Nhưng sự im lặng triền miên ấy là một loại hình ngôn ngữ rất phong phú diễn bày tình yêu của một con người đã dám hy sinh mạng sống cho người mình yêu, là chính chúng ta.

Thử thách thứ hai, là câu trả lời mà mới thoạt nghe, chúng ta cảm thấy khá phũ phàng : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel (c.24). Nếu được đáp trả như thế, có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ tự ái và bỏ về, nhưng người phụ nữ kia thì không. Bà đã can đảm và kiên trì vượt thắng tất cả. Bà đã dẹp được tính tự ái và vẫn kiên trì đeo bám Chúa Giêsu. Bà ta quả là rất ‘lỳ đòn’. Bị các tông đồ xua đuổi, bị Chúa Giêsu ‘làm lơ’ không ngó ngàng tới, và còn bị Chúa phán một câu như tạt một gáo nước lạnh vào mặt, người phụ nữ vẫn nhất quyết không bỏ cuộc.

Thử thách cuối cùng, Chúa Giêsu đã nói một cách thẳng thừng : “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Đây là đỉnh điểm của những thử thách mà bà đã trải qua. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng tại sao Chúa Giêsu lại nói một câu xem ra phi nhân bản đến như vậy. Dầu sao bà ta cũng là con người, chứ sao lại so sánh bà như một con chó. Chúng ta đừng vội nghĩ một cách thiển cận như thế, khi chưa đào sâu ý nghĩa thần học mà các trình thuật Tin Mừng muốn lột tả. Chúa kéo dài những thử thách để tôi luyện đức tin nơi một phụ nữ yếu ớt. Trong thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã giáo dục đức tin và huấn luyện dân Ngài qua những thử thách suốt 40 năm trường trong sa mạc. Cuộc lữ hành đức tin hôm nay của chúng ta cũng đầy những thử thách như vậy. Thánh Giacôbê đã viết : “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết, đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Anh em hãy chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo”. (Gc 1,2-4).

Mô hình đức tin.

Người phụ nữ Canaan đã trải qua 3 giai đoạn thử thách. Đáp lại, lộ trình đức tin của bà ngày càng được kiện cường qua 3 lần bày tỏ đức tin. Thoạt đầu, bà nhìn vào Đức Giêsu chỉ như một người bình thường nhưng có lòng nhân ái. Vì thế bà mở miệng kêu xin “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi”. Mọi người Israel đều là con, là cháu, là hậu duệ của vua Đavit. Người phụ nữ ban đầu chỉ nhìn vào Đức Giêsu một cách giản đơn như thế. Đến giai đoạn hai, khi bà bị các môn đệ xua đuổi và chính Chúa Giêsu trả lời thẳng thừng : “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel”, người phụ nữ đã tiến lại phủ phục trước Chúa Giêsu và tiếp tục khẩn nài lòng thương xót từ nơi Ngài. Theo truyền thống Do Thái, hành vi phủ phục chỉ dành để bày tỏ sự kính cẩn đối với các ngôn sứ, những vị sứ giả của Thiên Chúa. Lộ trình đức tin nơi người phụ nữ đã tăng triển. Đến giai đoạn cuối cùng, khi Chúa Giêsu nói một cách đanh thép là đừng nên lấy bánh của con cái mà vất cho chó, người phụ nữ đã hạ mình xuống thật sâu, tự sánh mình như lũ chó con cũng được hưởng ‘sái’ những mẩu bánh vụn còn dư thừa. Bà đã đi sâu vào sự khiêm tốn khi đối diện trước Đấng Toàn năng, và tôn nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Nếu cường độ của những thử thách ngày càng gia tăng, thì  đức tin nơi người phụ nữ Canaan cũng ngày càng tiến triển. Lộ trình đức tin đó là chuẩn mẫu cho mỗi người chúng ta.

Kết luận

Trong bài đọc 1, ngôn sứ Isaia đã viết : “Ta sẽ dẫn những người ngoại bang lên núi thánh của Ta”. Hình ảnh ‘người ngoại bang’ được lập lại nơi người phụ nữ Canaan mà thánh sử Matthêu trình thuật trong Tin Mừng hôm nay. Bà đã hiển thị đức tin, và tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Còn chúng ta là những tín hữu, những người nhà, những người đạo gốc và đã được rửa tội từ lâu, chúng ta đã hiển thị đức tin một cách cụ thể như thế nào?

----------------------------------

 

TN 20-A143: NHỜ CHÚA BAN HAY BỊ CHÚA GIAM


Lm. Bosco Dương Trung Tín

 “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong sự không vâng phục để thương xót mọi người” (Rm 11,32).

 

Câu này của thánh Phao-lô hơi khó hiểu và dễ bị hiểu lầm. Hiểu lầm vì người ta không vâng phục TN 20-A143


Câu này của thánh Phao-lô hơi khó hiểu và dễ bị hiểu lầm. Hiểu lầm vì người ta không vâng phục là tại vì Thiên Chúa giam hãm; Khó hiểu vì tại sao lại nói “Thiên Chúa gian hãm người ta trong sự không vâng phục”. Có vâng phục Thiên Chúa hay không là do con người quyết định chứ. Như A-đam và E-và không vâng phục Thiên Chúa. Đức Ma-ri-a và Đức Giê-su thì vâng phục Thiên Chúa.

Ai vâng phục Thiên Chúa, thì được Thiên Chúa yêu thương, quí mến; được Thiên Chúa xót thương, được Thiên Chúa ban ơn. Ai không vâng phục Thiên Chúa thì bị phạt, không được thương, không được xót, không được lãnh ơn. Vậy, tại sao thánh Phao-lô lại ghi một câu như thế? Đối với con người chúng ta với nhau thì ta có thể hiểu được; còn đối với Thiên Chúa làm sao mà hiểu được đây?

  Như nhờ sự không vâng phục của dân Ít-ra-en, mà dân ngoại được hưởng ơn cứu độ. Hoặc nhờ sự vâng phục của dân ngoại mà dân Ít-ra-en, có thể quay về với Chúa để lãnh ơn tha thứ và hưởng ơn cứu chuộc. Cũng như thời các Tông Đồ, vì dân Do thái không chịu nghe Tin Mừng, nên các ngài đã quay sang dân ngoại rao giảng Tin Mừng.

  Có thể nói Chúa đã “giam hãm” dân Do thái trong sự không vâng phục, để dân ngoại được lãnh ơn cứu độ. Như thế, ta phải hiểu sự “gian hãm” này như thế nào? Thực ra, sự “giam hãm” này như một sự “thử thách” thôi. Trong bài Phúc Âm hôm này, Đức Giê-su đã thử thách đức tin của bà dân ngoại Ca-na-an, khi nói: “Tôi chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi” và “Không được lấy bánh dành con cái mà ném cho lũ chó con”.

  Điều đó Chúa muốn nói rằng: dân Do thái là “con người”, còn dân ngoại là “con vật”; dân Do thái là người; dân ngoại là chó. Thế nhưng bà ta cũng không phải tay vừa, cũng chịu “cố đấm” để “ăn xôi”; bà đã hạ mình và nói: “Thưa Ngài đúng thế. Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.

Đức Giê-su đành bó tay và nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật ! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”. Như thế, dân ngoại cũng được ơn cứu độ.

  Chúa là Thiên Chúa, khoan dung, nhân hậu, từ bi, thương xót, nên Chúa luôn muốn ban mọi ơn lành cho mọi người, nhưng đôi khi Chúa cũng dùng biện pháp mạnh, để ban ơn cho con người. Có nghĩa là Chúa ban ơn cho con người qua hai cách. Đối với người nào vâng phục và vâng nghe Lời Chúa dạy thì Chúa ban ơn; điều này ta dễ hiểu. Nhưng đối với người bất tuân, cứng đầu, cứng cổ, thì Chúa dùng biện pháp mạnh, cũng chỉ để ban ơn mà thôi. Điều này ta phải hiểu thế nào?

Ví dụ như Chúa dùng những bệnh tật chẳng hạn; hay dùng những thiên tai; hoặc ngay cả sự gian ác của con người nữa. Qua bệnh tật, Chúa cho ta biết, mình là con người yếu đuối, phải cần đến ơn Chúa. Qua những thiên tai, Chúa cho ta thấy, con người chúng ta bé nhỏ lắm; mong manh lắm, phải bám vào Chúa mới được, đừng có bám vào tiền tài của cải. Qua việc người Mỹ bỏ hai trái bom nguyên tử xuống Na-ga-sa-ki và Hi-ro-shi-ma, Chúa cho mọi người nhất là người Nhật biết yêu chuộng hòa bình, vì sự man rợ và dã man của chiến tranh.

  Ta muốn Chúa ban ơn cho ta bằng cách nào đây?

  Nếu ta muốn được Chúa ban ơn, thì ta hãy tuân giữ Lời Chúa: “Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh”. Dù cho người đó có là người ngoại đi nữa, mà biết “gắn bó cũng Chúa; biết phụng sự Người và yêu mến thánh Danh; cùng trở nên tôi tớ của Người”, thì cũng sẽ nhận được ơn cứu độ Chúa ban. Nếu ta bất tuân, ta cứng đầu, cứng cổ, ta hãy coi chừng Chúa dùng biện pháp mạnh đó; để ta biết thức tỉnh; biết ăn năn sám hối mà quay về với Chúa mà lãnh ơn Chúa ban.

  Một đàng là ta được yêu, được thương mà lãnh ơn Chúa ban; một đàng là ta bị giam, bị hãm, bị đau, bị khổ để lãnh được ơn Chúa, ta chọn cách nào thì tùy ta. Nếu ta biết khôn mà theo gương Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a, luôn biết vâng phục theo thánh ý Chúa mà sống, ta sẽ luôn vui mừng và phấn khởi mà nhận lãnh ơn cứu độ của Chúa. Ta mà theo thói đời, theo sự khôn lanh của con người, thì coi chừng ta sẽ vừa khóc lóc, vừa rên rỉ mà lãnh nhận ơn Chúa đó. Nhờ Chúa ban hay bị Chúa giam là tùy ở ta. A-men.

----------------------------------

 

TN 20-A144: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN_A


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.

 

Một buổi sáng sớm khi tôi đang tưới vườn hoa bên cạnh, thình lình một chiếc xe chạy tới và TN 20-A144


Một buổi sáng sớm khi tôi đang tưới vườn hoa bên cạnh, thình lình một chiếc xe chạy tới và dừng lại.  Cửa xe mở ra và một người phụ nữ lạ, không phải giáo dân xuống xe với một khuôn mặt thật buồn và nói với tôi: “Thưa linh mục! Xin cứu gia đình con với.” Tôi mời chị vào văn phòng và đưa cho chị một chai nước. Đón lấy chai nước, chị vội vàng nói với giọng tha thiết: “Thưa linh mục, xin ngài cứu gia đình con với, xin cứu người chồng đáng thương của con. Anh ấy ngã bệnh đã hai năm nay, con đã cố gắng hết sức chữa trị. Nhưng cho đến nay, bệnh tình chẳng đỡ chút nào, còn gia đình con thì lại rơi vào cảnh thật khó khăn. Con không thể đi làm được vì phải săn sóc chồng và bận rộn với 2 đứa con nhỏ.” “Vậy chị muốn tôi giúp gì cho chị, chị cứ nói. Trong khả năng của tôi, tôi sẵn sàng giúp chị” Tôi nói với chị. Xúc động và trong tiếng nghẹn ngào chị thưa lại: “Thưa linh mục, gia đình con không có đạo, tuy chúng con không biết gì về Chúa, cũng chẳng quen biết linh mục, nhưng nhờ những người bạn Công giáo làm cùng tiệm giới thiệu, cho nên con mạnh dạn đến đây để nhờ linh mục cầu nguyện cho chồng con qua khỏi cơn nguy biến này.” Tôi hỏi chị: “Chị không có đạo vậy chị có tin vào lời cầu nguyện không?” Chị đáp: “Thưa linh mục, giờ con biết làm gì hơn ngoài điều này, vả lại có tin con mới đến đây để cậy nhờ linh mục.” “Thế thì chị hãy an tâm, tôi hứa sẽ cầu nguyện và chiều nay, tôi sẽ dâng Thánh lễ cầu nguyện cho chồng và gia đình của chị.” Cảm động chị cám ơn và lên xe về. Khoảng mấy tháng sau, người phụ nữ ấy trở lại với người chồng và con để cám ơn, và cũng từ đó bắt đầu cho hành trình niềm tin của hai vợ chồng và gia đình.

Ông bà anh chị em thân mến. Tôi nghĩ câu chuyện trên đây diễn tả phần nào ý nghĩa của bài Tin mừng hôm nay: niềm tin của người đàn bà xứ Ca-na-an ngoại đạo vào Chúa Giê-su, một người Do thái, và quyền năng của Người. Trong lúc tuyệt vọng vì đứa con gái bị quỉ ám khốn cực, người đàn bà đã tìm đến với Chúa Giêsu và tin rằng cơ may đã đến, con bà có hy vọng khỏi bệnh, vì vậy bà thành khẩn thưa với Chúa: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít. Xin thương xót tôi!” Dù chỉ nghe nói về Chúa qua những người chung quanh, nhưng bà đã có một niềm tin mạnh mẽ vào Chúa, và chúng ta thấy Chúa đã khen bà có lòng tin lớn lao. Khi nghe bài Tin mừng chúng ta biết rõ điều này.

Và cũng qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu mời chúng ta hãy có một lòng xác tín vào Người.  Hãy có một niềm tin to lớn và mạnh mẽ như người phụ nữ Ca-na-an.  Chúng ta tự hỏi: lòng xác tín hay một niềm tin mạnh mẽ và vững chắc giúp chúng ta điều gì?  Tôi xin chia sẻ 3 điều sau đây. 

Thứ nhất lòng xác tín vào Chúa giúp chúng ta kiên trì khi bị thử thách hay đối diện với gian nan, khó khăn.  Chúng ta thấy người đàn bà không ngã lòng, nản chí trước sự thinh lặng lạnh lùng đến độ như vô cảm của Chúa. Bà đến với Chúa với một niềm lo lắng của một người mẹ trước sự khốn cực của đứa con.  Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau khổ của một người mẹ, đang đau buồn vì nỗi đau của đứa con.  Nhưng Chúa Giê-su không đáp lại một lời.  Phải chăng Người lạnh lùng trước sự đau khổ, lãnh đạm trước điều Người có thể làm được?

Ông bà anh chị em thân mến. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế, và chúng ta tự hỏi: Chúa có nghe lời cầu nguyện của chúng ta không?  Chúa có thấy được nỗi đau khổ của chúng ta không? Bị thất bại nhưng chúng ta thấy người đàn bà cứ kêu hoài, kêu mãi rồi bà gặp mặt và nài xin Người, nhưng kết quả là một lời từ chối mặc dầu đã có thêm lời hỗ trợ của các môn đệ: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.”   Chúng ta thấy vẫn chưa chịu thua, bà đến sụp lạy trước chân Chúa để nài xin.  Lần này bà không những bị từ chối mà còn nhận sự sỉ nhục: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.”  Chúng ta hỏi: bà có bị sốc không?  Tự ái của bà có bị tổn thương không?  Nếu vào trường hợp của chúng ta chúng ta có thể chịu đựng, có thể kiên nhẫn được không?  Nhưng chúng ta thấy bà đã không bị sốc, không tự ái và cũng chẳng thất vọng trước lời từ chối và sỉ nhục này.

Điểm thứ hai mà tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em là lòng xác tín hay niềm tin mạnh mẽ và vững chắc là lòng tin khiêm tốn.  Chúng ta thấy người đàn bà chấp nhận sự so sánh xem ra có vẻ “khiêu khích và khinh thường” của Chúa Giê-su.  Bà chấp nhận mình chỉ là chó con trong nhà, chỉ trông chờ những miếng bánh vụn từ bàn rơi xuống.  Bà không dám mong được phần ăn của các con.  Chúng ta có thể nhận ra sức mạnh và kết quả của lòng tin phát xuất từ sự khiêm tốn.  Vì vậy chúng ta phải luôn ý thức khi cầu nguyện chúng ta không thể “bắt” Chúa phải làm theo ý của chúng ta, phải “thi hành” ngay lập tức ý chúng ta muốn.  Tin không phải là đòi hỏi.  Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón lấy như hồng ân nhưng không.

Điểm thứ ba mà tôi muốn chia sẻ là vì lòng tin mạnh mẽ, kiên trì và khiêm tốn, Chúa đã thay đổi sứ vụ của mình.  Chúa Giê-su từ chối giúp người đàn bà dân ngoại vì Người thấy rõ sứ vụ Chúa Cha trao phó cho Người, đó là chỉ được sai đến với người Israel, dân riêng thôi.  Nhưng qua lòng tin mạnh mẽ của người đàn bà, Chúa đã để cho trái tim của mình mở ra và bị chinh phục, chấp nhận thay đổi để nới rộng sứ vụ, ban phát hồng ân và tình yêu của mình cho muôn dân muôn người mọi thời đại.

Ước gì tất cả chúng ta có một niềm xác tín vào Chúa và quyền năng của Người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, nhất là những lúc chúng ta phải đối diện với những sự gian nan, khó khăn và thử thách.  Biết tìm đến Chúa với lòng tin của người đàn bà xứ Ca-na-an.  Xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta, nhất là biết vươn cánh tay, mở rộng con tim của chúng ta để chúng ta có lòng bác ái và quảng đại, chia sẻ hồng ân Chúa ban để làm sáng danh Chúa.

----------------------------------

 

TN 20-A145: Những mảnh vụn


--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

 

Người phụ nữ dân ngoại là mẫu mực của những ai cầu xin. Bà là một người mẹ có một cô con TN 20-A145


Người phụ nữ dân ngoại là mẫu mực của những ai cầu xin.
Bà là một người mẹ có một cô con gái bị quỷ ám.
Quỷ hành hạ cô này một cách khủng khiếp
khiến trái tim của người mẹ nhói đau, nhưng bất lực.
Chúng ta không rõ tại sao bà quen biết Đức Giêsu,
và tin Ngài là Đấng Mêsia, có quyền năng trừ quỷ.
Khi thấy Đức Giêsu, bà mừng quá, chỉ la thật to để Ngài chú ý.
“Xin thương xót tôi!”
Bà xin Ngài thương xót một người mẹ đang đau khổ vì con.
Đức Giêsu xem ra không màng đến tiếng kêu của bà.
Ngài thinh lặng, chẳng nói một lời đáp lại.
Nhưng còn hy vọng, bà cứ lẽo đẽo đi theo Đức Giêsu và các môn đệ,
vừa đi vừa kêu to, nài nẵng, kể lể, than van thống thiết.
Các môn đệ không thể chịu được tiếng kêu này,
nên xin Thầy mau đáp ứng yêu cầu của bà, để họ được yên.
Thầy Giêsu đã thẳng thắn từ chối.
Ngài cho biết hiện nay Chúa Cha chỉ sai Ngài đến với dân Ítraen thôi.
Bây giờ chưa phải là lúc để đến với dân ngoại.
Cần phải ưu tiên cho người Do-thái trước đã.
Chính Ngài đã từng nhắc nhở các môn đệ như vậy (Mt 10,5-6).
Câu trả lời của Thầy Giêsu như đặt một dấu chấm hết.
Các môn đệ hiểu là họ không thể làm Thầy đổi ý,
vì Thầy chỉ làm điều Thầy tin là ý muốn của Cha.
Nhưng người phụ nữ vẫn chưa mất niềm hy vọng.
Bà không đi phía sau mà kêu nữa,
nhưng đến ngay trước Đức Giêsu, và quỳ gối trước mặt Ngài.
Cuộc đối thoại thật sự bắt đầu khi bà có thể nhìn thẳng vào Ngài,
và nói với Ngài một câu ngắn gọn: “Lạy Ngài, xin giúp tôi!”
Câu trả lời của Thầy Giêsu như dập tắt mọi hy vọng còn lại.
Một câu từ chối lạnh lùng, dứt khoát, và có thể gây tổn thương:
“Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.”
Phúc lành dành cho Ítraen, Ngài không muốn chia sẻ cho dân ngoại.
Nghe câu này, người phụ nữ có thể nổi nóng và căm giận bỏ đi.
Nhưng lạ thay, bà lại thấy mở ra một lối thoát.
Bà khiêm tốn nhận mình chỉ là chó con, quanh quẩn dưới gầm bàn,
còn người Do-thái là con cái trong nhà, được ngồi nơi bàn của chủ.
Chó con đâu dám đòi ăn bánh của con cái,
nhưng ai cấm chó con được hưởng những vụn bánh rơi từ bàn?
Người phụ nữ khiêm tốn cũng chỉ dám xin vụn bánh thôi.
Bà chỉ cần chút vụn bánh cho cô con gái mình yêu quý.
Lòng Đức Giêsu tan chảy khi nghe câu nói của bà.
Ta có thể nói dường như Ngài chịu thua sự kiên trì của bà,
dù bao lần bị Ngài thẳng thừng từ chối.
Ngài nể phục sự khiêm tốn của bà, khi có vẻ bà bị coi khinh.
Ngài quý niềm hy vọng của bà, khi mọi sự dường như sụp đổ.
Ngài ngỡ ngàng trước lòng tin lớn của bà, khiến Ngài đổi ý,
vì qua đó Ngài nghe tiếng mời của Cha.
Cha vẫn nói với Con qua những biến cố đời thường,
qua môi miệng những người nghèo hèn bé nhỏ.
Đối với Con, tiếng của Cha vẫn luôn luôn mới mỗi ngày.
“Bà muốn sao thì được vậy. Từ giờ đó, con của bà được khỏi.”
Như thế Đức Giêsu đã nhận lời bà, đã thương xót và cứu giúp bà.
Ngài hiểu phía sau lòng tin khiêm hạ và kiên trì của bà
là cả một tình yêu bao la của tấm lòng người mẹ.
Chỉ ai yêu mới dám đi tới cùng.
Bây giờ bà đã được ăn bánh, không chỉ ăn vụn bánh thôi.
Bây giờ chúng ta là dân ngoại, đã được ngồi vào bàn tiệc thánh rồi.
Chỉ mong chúng ta được ngổi ăn trong bàn tiệc thiên quốc
vào ngày cánh chung, cùng với muôn người trong khắp cả thiên hạ.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa,
Xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô Hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ sát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.

---------------------------------

 

TN 20-A146: Dân ngoại cũng là dân của Chúa


--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

 

Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, cũng không chỉ là Thiên Chúa của các TN 20-A146


Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, cũng không chỉ là Thiên Chúa của các Kitô-hữu, nhưng Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người, dù họ có nhận biết Ngài hay không.

1. Dân ngoại sẽ được thờ phượng Thiên Chúa

Đối với người Do Thái, những người không thuộc chủng tộc Do Thái đều là dân ngoại. Với nhiều người Do Thái, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người Do Thái, nên Thiên Chúa không là Thiên Chúa của dân ngoại. Trong bài đọc sách tiên tri Isaya hôm nay Thiên Chúa đã đối xử với dân ngoại như dân của Ngài, nghĩa là, họ được vào đền thờ Thiên Chúa, được dâng lễ vật trên bàn thờ ở Yêrusalem. Đền thánh được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, chứ không còn chỉ riêng của người Do Thái nữa.

Người Việt Nam mới được nghe rao giảng Tin Mừng Đức Yêsu Kitô vào thế kỷ thứ 17 (1615) hoặc trước đó một chút, tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tổ tiên chúng ta trước đó. Hiện tại khoảng hai phần ba loài người không là Kitô-hữu, tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của những người đó. Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, của những người nhận biết Ngài, và của cả những kẻ chưa và không nhận biết Ngài nữa.

Như người cha người mẹ sinh ra con cái. Người cha người mẹ vẫn là cha là mẹ, dù người con có nhận biết, có chấp nhận người cha người mẹ hay không. Cũng tương tự vậy với Thiên Chúa. Thiên Chúa như người cha, cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ lành người dữ. Ngài yêu thương tất cả mọi người. “Như trời cao hơn đất, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi.” Tất cả những gì tốt đẹp con người làm được, là đều nhờ bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài giúp con người làm những điều thiện hảo, Ngài ban cho họ tìm được niềm vui và hạnh phúc trong Ngài khi làm những điều tốt lành.

2. Bài học khiêm tốn từ dân Do Thái

Dân Do Thái được Thiên Chúa thương yêu và tuyển chọn; Ngài đã dẫn dắt Abraham, đưa dân ra khỏi Aicập về đất hứa, dạy dỗ dân trong đường lối của Ngài qua các thẩm phán, qua các tiên tri. Thật sự Thiên Chúa đã yêu thương dân Do Thái cách đặc biệt, đặc biệt đến độ người Do Thái diễn tả như thể Thiên Chúa không yêu thương các dân tộc khác.

Ấy thế nhưng theo quan điểm của nhiều Kitô-hữu, khi người Do Thái từ chối không tin Đức Yêsu, thì tình yêu và ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa được chuyển cho người Kitô. Kitô-hữu là những người tin vào Đức Yêsu, và được trở nên con Thiên Chúa một cách đặc biệt. Thánh Phaolô là người Do Thái, rất xác tín tình yêu của Thiên Chúa đối với người Do Thái, cũng phải chấp nhận điều này.

Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục nói với con người. Con người, nhất là Kitô-hữu, cần có thái độ rộng mở để đón nhận Thánh Thần vẫn đang làm việc nơi con người trong thế giới này, qua trung gian Kitô-hữu và cả qua trung gian những người khác, ngay cả khi họ không là Kitô-hữu. Bài học của người Do Thái dạy Kitô-hữu rằng, không được đóng lòng trước mặc khải của Thiên Chúa, không được giới hạn tự do và ân sủng của Thiên Chúa, không được bắt Thiên Chúa làm theo ý mình hoặc chỉ theo những điều hiểu biết của mình. Thiên Chúa có tự do của Ngài. Gió muốn thổi đâu thì thổi, Thánh Thần muốn tác động nơi ai tùy Ngài. Không được đòi Thánh Thần phải làm theo trí ý giới hạn của mình. Thiên Chúa là Thiên Chúa, tư tưởng của Ngài vượt trên tư tưởng của con người, hãy lắng nghe Thiên Chúa nói qua những tác động của Ngài trên hoàn vũ này, dù qua bất cứ ai, bất cứ tôn giáo nào, bất cứ thể chế nào. Ngày xưa, vua dân ngoại Cyrus cũng là phương tiện Thiên Chúa dùng, trở thành Đấng Massiah của Thiên Chúa để dẫn đưa dân Do Thái từ đất lưu đày trở về, thì có gì cấm cản Thiên Chúa dùng những thể chế này thể chế nọ diễn tả ý định của Thiên Chúa. Bài học khiêm tốn mở lòng lắng nghe, cần cho Kitô-hữu học trong suốt đời mỗi người. Nếu không mở lòng lắng nghe, thì sẽ phản ứng giống người Do Thái trước Tin Mừng Đức Yêsu Kitô.

3. Đức Yêsu cũng đổi ý

Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay cho thấy Đức Yêsu đổi ý, hoặc cái nhìn của Đức Yêsu được mở ra, hoặc Đức Yêsu cũng lắng nghe tiếng Thiên Chúa qua những biến cố trong cuộc sống hằng ngày. Thoạt đầu Đức Yêsu không muốn chữa lành con gái người phụ nữ Canaan, vì Ngài cho rằng “Ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel,” cho dù ngay cả các tông đồ cũng muốn Đức Yêsu cho chị ta điều chị ta xin vì chị ta cứ theo làm phiền các ngài hoài.

Đức tin của chị phụ nữ vào Đức Yêsu “con chó cũng được ăn đồ rơi rãi từ bàn ăn của chủ,” làm Đức Yêsu phải đổi ý và đổi quan điểm cái nhìn. Đức tin của chị phụ nữ lớn thật, điều chị xin thì chị được. Lời nói diễn tả đức tin của chị phụ nữ có tính cách quyết định.

Một vài suy nghĩ xin được chia sẻ. Thứ nhất, chính Thiên Chúa đã tác động nơi chị phụ nữ, làm chị ta tin tuyệt đối vào Đức Yêsu. Nếu chị phụ nữ không tin vào Đức Yêsu, vào lòng tốt của Ngài, thì chắc chị ta đã không nài nỉ như vậy. Thứ hai, Đức Yêsu đã nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi chị phụ nữ; Ngài đã nhận ra ý định của Thiên Chúa Cha, và Ngài đã đổi ý. Thứ ba, giá trị con người không phải là “quân tử nhất ngôn” kiểu của vua Hêrôđê; khi lỡ hứa sẽ cho con gái của Hêrôđia điều cô xin, thì khi cô xin đầu Yoan Tẩy Giả, ông cũng làm. Dám làm theo điều mình thấy đúng lúc này, mới là con người có bản lãnh, mới là người tuyệt vời. Thứ tư, Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục nói với chúng ta qua những biến cố hằng ngày, qua người này người kia, qua cả những người đang làm phiền chúng ta hoặc không cùng quan điểm với chúng ta. Thứ năm, Ngôi Lời Thiên Chúa một khi đã làm người, thì Ngài chia sẻ thân phận con người của chúng ta mọi đàng, ngay cả những giới hạn về tri thức, Ngài cũng cần phải lắng nghe và học hỏi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Giữa một Kitô-hữu, một người ngoại, và Đức Mẹ Maria, Thiên Chúa yêu ai hơn? Xin bạn chia sẻ lập trường quan điểm của bạn.

2. Khi nói Đức Yêsu cũng cần lắng nghe và vâng theo ý Thiên Chúa Cha, có làm giảm giá trị của Đức Yêsu không? có sai thần học không? Tại sao?

3. Quan niệm nào chi phối đời sống của bạn nhất? Xin bạn chia sẻ quan niệm này, và cho biết tại sao.

----------------------------------

 

TN 20-A147: Chúa muốn cứu rỗi mọi người


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

 

Thiên Chúa không dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc nào, mà muốn dành cho mọi dân tộc TN 20-A147


Thiên Chúa không dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc nào, mà muốn dành cho mọi dân tộc không phân biệt mầu da, tiếng nói. Dân Do thái là dân được tuyển chọn, dân riêng của Chúa được chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ, đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu , nhưng họ đã từ chối, lại còn chống đối Ngài.

Người đàn bà Canaan là đại diện cho dân ngoại được đón nhận đức tin, được Chúa ban hồng ân theo lòng tin khiêm tốn và kiên trì của bà. Chính Chúa Giêsu đã phải bỡ ngỡ về lòng tin sắt đá của bà nên đã khen ngợi:”Lòng tin của bà mạnh thật”, và đáp lại lòng tin ấy Chúa Giêsu đã nói:”Bà muốn sao thì được như vậy”.

Chúng ta là những Kitô hữu , ai cũng đã có đức tin nhưng nhiều khi còn non yếu, có khi còn non yếu hơn cả người ngoại. Hãy củng cố đức tin ấy và sẵn sàng đón nhận những thử thách Chúa gửi cho để đức tin của chúng ta mỗi ngày một tăng trưởng dưới sứ hướng dẫn và che chở của Chúa.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 56,1.6-7.

Tiên tri Isaia đã viết đoạn sách này từ một thế kỷ sau cuộc lưu đầy ở Babylon. Dân Israel được trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ Giêrusalem, và đền thờ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt tôn giáo và xã hội. Isaia cho biết: Thiên Chúa không những chỉ dành ơn cứu độ cho dân riêng của Ngài là Israel, Ngài còn muốn mở rộng dân này bằng cách nhận tất cả những ai thừa nhận Ngài như là Đức Chúa chân thật và duy nhất, mà hiến thân phục vụ Ngài vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.

+ Bài đọc 2: Rm 11,13-15.29-32.

Trên bước đường truyền giáo, thánh Phaolô thấy dân Do thái đã được chuẩn bị đón Chúa lại khước từ không nhận Ngài. Tuy thế, Ngài không thất vọng, vì dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được Thiên Chúa xót thương, để cho dân Do thái, dân đã có đạo từ lâu, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.

Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh mẽ của dân ngoại, đánh thức lòng tin của dân Chúa để sẽ được Chúa xót thương.

+ Bài Tin mừng: Mt 15,21-28.

Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa không phải chỉ dành riêng cho dân Do thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân của Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do thái mà thôi, theo lời Ngài đã hứa với họ, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.

Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy? Vì bà đã có đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy nên bà ấy đã làm cho Chúa xiêu lòng: Ngài đã nhận lời cầu xin của bà và hứa cho con bà khỏi bị quỉ ám.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Lòng tin của bà mạnh thật

Lòng tin mạnh mẽ cần thiết, thế nên lòng tin ấy cần phát sinh tâm tình khiêm hạ, can đảm, kiên trì cũng như niềm hy vọng thật sự thì lòng tin ấy mới có hiệu lực và ích lợi. Người đàn bà Canaan ngày hôm nay, do lòng tin mạnh mẽ, nên bà đã khiêm hạ thực sự, nhìn nhận tất cả những thành kiến của người khác đối với mình, sự khiêm hạ này đã khiến Đức Kitô động lòng như thế nào?

Bà cũng đã can đảm nói lên ước muốn và kiên trì xin cho được một ân huệ, bất chấp sự thinh lặng hững hờ của Chúa Giêsu, và bà đã không thất vọng vì những câu trả lời của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Trái lại, qua những lời bà nghe thấy, bà nắm chắc được tia hy vọng lóe sáng ở đó: Ngài để cho vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống... nhờ niềm hy vọng mà lời cầu xin của bà ta có sức mạnh.

I. NÓI VỀ ĐỨC TIN.

1. Tin là gì?

Đức tin là hạt giống thiên ân. Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo” (ĐHY Nguyễn văn Thuận).

Phân tích chữ TIN.

Chữ TIN bởi chữ TÍN.

Theo Hán học, chữ TÍN gỗm chữ ‘nhân” và chữ “ngôn”, nghĩa là tin vào lời người khác nói.

Tiếng Pháp thì chữ CROIRE , nguyên ngữ của nó nghĩa là ‘dựa vào lời lẽ kẻ khác và chứng kẻ khác mà tin” vì họ không thể sai lầm và không thể đánh lừa ta.

Chữ TIN còn có nghĩa rộng là nhận làm chắc chắn những cái ngũ quan ta không thấy, chỉ nhờ lý luận của ta mà biết có thực. Ví dụ: Tôi thấy có vùng khói trước mặt tôi, tôi tin có lửa sau bức tường che mắt tôi.

Theo SPINOZA và những triết gia khác đã phân tách: tin là việc hoàn toàn tùy thuộc vào lý trí, chúng ta tin vì những lý chứng hiển nhiên đáng cho ta tin. Một ý tưởng hiển nhiên nó thúc bảo chúng ta phải tin, chúng ta không thể phủ nhận không tin được...

Ông J. Calvet nói:”Dĩ nhiên lòng tin phải dựa vào lý chứng bởi vì một phần nào nó cũng là kiến thức về chân lý, nhưng nó là một hành động tự do của ý chí cho chúng ta tin tưởng gieo mình vào cánh tay của Thiên Chúa, khi ta tới chỗ nào mà khoa học không còn gì cho ta biết nữa” (J. Calvet, Prends et lis dịch bởi Lê thành Trị, Tìm hiểu Duy linh, tr 91-92).

2. Thấy và hiểu mới tin ư?

Khó hiểu là một chuyện mà phi lý lại là một chuyện khác! Khó hiểu mà hợp với chân lý thì không sao. Chỉ sợ khó hiểu mà đi ngược với chân lý thôi.

Biết bao điều bí ẩn trong vũ trụ mà ta chưa hiểu hết được, hay nói một cách thông thường, chán chi những sự dễ dàng trước mắt mà ta không hiểu nổi và không hiểu hết.

Trí khôn con người chỉ hiểu biết một mức nào thôi, cũng ví như cậu học sinh không thể hiểu biết được ngang với trình độ giáo sư. Ví dụ: một em bé, học mới trình độ toán cộng, em làm một bài toán: 1+1+1 = 3. Nhưng tôi lại bảo rằng cũng phương pháp làm toán mà ba con số 1 bằng số 1: 1x1x1 = 1.

Em bé chưa hiểu quy tắc phép nhân nên không hiểu biết được. Vậy thì hỏi em bé này có tin phương pháp làm toán này không? Ví dụ trên cũng như trăm ngàn ví dụ khác đều chứng minh cho ta thấy rằng: chán chi sự việc trong đời rất tầm thường mà ta không thể hiểu hết được nhưng ta vẫn tin (Sđd, tr 88-89).

Truyện: Hiểu mới tin

Một vị trạng sư tự phụ rêu rao trước mặt đông người rằng: mình chỉ tin cái mình hiểu thôi. Trong đám đông có một thằng nhỏ đã được nghe cha xứ giảng, đứng lên hỏi:

- Thưa ông, nếu vậy ông không tin những gì ông không hiểu ư?
- Dĩ nhiên thế.
- Thưa ông, vậy xin ông cho cháu biết: tại sao ông cử động được ngón tay?
- Tại vì ta muốn, chỉ có thế thôi.
- Ông muốn, vậy sao ông không thể cử động được hai tai?

Vị trạng sư bí lối không biết trả lời thế nào, bèn mắng:

- Thằng nhỏ này mày muốn giảng cho ta phải không?

Nghe vậy mọi người đều cười.

(Trần công Hoán, Tìm hiểu ít thắc mắc, tr 50)

II. ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN.

Người đàn bà Canaan ngoại giáo này có một đức tin đặc biệt đã làm cho Chúa phải xiêu lòng mà ban cho bà được như ý sở nguyện:”Bà muốn thế nào sẽ được như vậy “(Mt 15,28). Như vậy, đức tin của người đàn bà này có nhiều đặc tính, chúng ta cùng tìm hiểu.

1. Đức tin mạnh mẽ.

Tại sao một số người co đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia:”Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài:”Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel”(Mt 8,10).

2. Tin và khiêm nhường.

Chữ “con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai. Dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” không. Chó con giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó hay chạy bậy nơi đường phố có ý nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” đã gợi cho bà này một lời thỉnh nguyện đầy khiêm nhường và tin tưởng.

Các Tông đồ đuổi bà đi mà không được, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời:”Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chực vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa:”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo nào lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.

3. Tin và yêu thương.

Người đàn bà Canaan này có đứa con gái bị qủi ám đau khổ lắm. Bà thương con vô cùng mà không biết làm cách nào để cứu chữa con, bà bất lực hoàn toàn trong cảnh huống này. Vì quá thương đứa con gái bị qủi ám nên đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị các Tông đồ xua đuổi nhiều lần, bị Chúa Giêsu có vẻ hững hờ và còn nói những lời khinh bỉ nữa. Bà vẫn kiên trì, lòng yêu thương con bà giúp bà chịu đựng tất cả. Bà đến với Chúa Giêsu là vì người khác chứ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng. Lòng yêu thương của bà đối với đứa con đã làm cho Chúa cảm động và nhận lời cầu khẩn của bà. Còn tình yêu nào cảm động cho bằng câu chuyện dưới đây:

Truyện: Người mẹ Arménia.

Câu truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 thuổi kêu lên:”Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng:”Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.

4.Tin và kiên nhẫn.

Người đàn bà này gặp cản trở vì không phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là ngoại giáo, nhưng từ lâu còn là thù địch của dân được Chúa tuyển chọn. Thế mà bà đã cứ kêu to nài xin Chúa Giêsu cứu chữa con của bà bị qủi ám.

Bà mẹ người Canaan này là người dân ngoại. Bà biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết phép lạ của Chúa Giêsu, bà kêu lớn tiếng:”Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.

Các môn đệ cứ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng:”Lạy Ngài, xin giúp tôi”… Người đàn bà này đến với Chúa không phải chỉ vì Ngài có thể giúp đỡ, nhưng Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của bà. Bà đến với niềm hy vọng tha thiết với nhu cầu thúc bách, với quyết tâm không chịu nản lòng. Người đàn bà này có một đức tính tối cần để cho lời cầu nguyện được hữu hiệu, đó là bà có lòng kiên nhẫn và thiết tha vô cùng. Cầu nguyện đối với bà không phải là một nghi thức nhưng là dốc đổ ước vọng nung nấu linh hồn bà, khiến bà cảm biết mình không thể bị từ chối.

III. ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO?

Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước người ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong khi cầu nguyện.

Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị hay được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giêsu đối với người đàn bà Canaan là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách tới một mức độ nào đó rất là cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lĩnh của ta tới mức độ nào.

Kinh thánh nói:”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thử thách rất quan trọng cho con người trong cả đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhất là trong đời sống thiêng liêng. Tổ phụ Abraham được gọi là “Pater credentium” (cha của những kẻ tin) vì ông đã chịu một thử thách quá sức tưởng tượng mà ông đã thắng.

Khi nghe tiếng Thiên Chúa phán, Abraham kể ra có nhiều cớ để từ chối đề nghị của Thiên Chúa. Người ta thường dễ phiêu lưu, mạo hiểm khi con trẻ tuổi, chưa bị gắn buộc bởi nghĩa vụ gia đình, hoặc chưa gây được sự nghiệp: nhưng Abraham đã cao niên, tuổi quá thất tuần (St 12,4), lại đã lập gia thất (St 11,29), còn cơ nghiệp thì dư dật, bộ hạ đông đúc, lục súc không ít, lời Thiên Chúa mời gọi xem như chẳng đem thêm gì đến cho Tổ phụ.

Người ta lại cũng dễ thay đổi môi trường sinh hoạt khi có môi trường phong phú hơn đem đến cho mình cơ hội sống an toàn, sung mãn, với đủ tiện nghi: nhưng khi ấy Abraham đang sống tại Harân, một thị xã miềm Mêsopotamia mà lịch sử công nhận là văn minh, phồn thịnh. Bỏ Harân đã chắc gì tìm thấy một vị trí khá hơn? Nơi Thiên Chúa ấn định là nơi xa lạ, chẳng hiểu đến rồi làm ăn có nổi chăng? Đành rằng Chúa cũng hứa nơi ấy sau này sẽ phì nhiêu cho con cháu của ông Abraham (St 12,2-3): nhưng tổ phụ làm gì có con cái để mà hy vọng cho hậu thế (St 18,11-12)?

Vậy mà lời Chúa vang lên, Abraham đáp liền, rời cảnh an ninh, nếp sống nhàn hạ, lên đường để khởi xuớng một giai đoạn lang thang, long đong, chật vật, hết nếm mùi đói kém lại chịu cơn khói lửa của chiến tranh (St 12,10 và 14,13-14). Abraham đã gỡ mọi dây liên ái để gia nhập đất khách quê người: mà tổ phụ đã làm như thế CHỈ VÌ THIÊN CHÚA ĐÃ GỌI, CHỈ VÌ ABBRAHAM ĐÃ TIN.

Đức tin bao giờ cũng là một cuộc VĨNH BIỆT, CHIA LY: vĩnh biệt cái lòng tự phụ làm mình đinh ninh là có thể giải quyết mọi vấn đề, đối phó với các trở ngại bởi duy sức riêng mình, chẳng cần nhờ đến sự can thiệp bên ngoài, bên trên. Vĩnh biệt để chấp nhận một trật tự khác: trật tự siêu nhiên của Thiên Chúa

(Nguyễn huy Lịch, báo Nhà Chúa, số 3, 1968, tr 6-7).

Trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng dờ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Con mắt Ngài hằng theo dõi chúng ta như người mẹ hiền đang tập cho con bước đi. Đứa con cứ tin tưởng bước đi trong vòng tay của mẹ, nếu có ngã thì vòng tay của mẹ đã ôm vào lòng.

Truyện: Chính ba tôi cầm tay lái.

Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một câu truyện như sau:

Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mông lung. Phía chân trời xa, một chòm mây xám chờn vờn nổi lên. Bầu trời quang đãng không mấy chốc đã bị phủ kín đen đặc. Rồi cơn giống tố ầm ầm phát nổ. Sấm chớp kinh hoàng. Và càng lâu mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách hoảng hồn mất vía kêu la thất thanh, hỗn loạn. Duy có một đứa trẻ cứ ngồi chơi trên cầu tầu, bình tĩnh ngồi nhìn con tầu chòng chành nghiêng ngửa, giữa muôn con sóng dữ tợn gầm gừ đang lao mình tới, như không có việc gì xẩy ra.

Lạ lùng! Một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi:

- Em không sợ chết sao?

- Sao lại sợ? Chính ba tôi cầm tay lái con tầu này kia mà.

Chớ chi ta cũng trả lời được như vậy trước mỗi một cơn thử thách, mỗi một bước gập gềnh trên biển dương thế đầy giao động vì chính Cha chúng ta đang cầm lái con tầu trần gian!

Chớ chi ta biết áp dụng vào đời sống lời Chúa đã nói lên trước ngày Thương khó:

“Tôi phải đâu một mình đơn côi?

“Tôi có Người Cha vạn năng ở bên cạnh”

(Ga 16,32)

Xin Chúa cho mọi người chúng con cũng có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa như người đàn bà Canaan nọ, và từ niềm tin đó chúng con cũng biết khiêm hạ, trước nhan Chúa, nhưng không khiếp sợ; trái lại, can đảm kiên trì bầy tỏ tất cả những ước muốn chất chứa trong cõi lòng chúng con với niềm hy vọng sâu xa vào sự giúp đỡ của Chúa. Có như thế đời sống của chúng con sẽ đầy tràn sự thỏa mãn và hạnh phúc.

----------------------------------

 

TN 20-A148: Ơn đức tin trong cơn hoạn nạn khốn khó


—Lm JB. Lê Ngọc Dũng

 

Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay kêu xin Chúa Giêsu: "Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin TN 20-A148


Bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay kêu xin Chúa Giêsu: "Lạy Ngài là con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm" (Mt 15,22). Bà đã rất đau lòng với nỗi "khổ sở" của con gái mình. Mỗi ngày bà thấy đứa con gái mình bị ma quỹ dằn vặt, bà rất đau đớn. Bà cảm thấy đau đớn, khổ sở như là con gái mình đau đớn khổ sở. Vì vậy, nghe nói về Chúa Giêsu có thể cứu chữa, bà vội vã tìm đến Ngài.

Câu chuyện chữa lành này lại không giống như những câu chuyện chữa lành khác trong Kinh Thánh. Người cầu xin chữa lành đã bị chối từ. Chúa Giêsu đã im lặng, trước lời van xin của bà. Ngài còn nói: "Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel mà thôi" (Mt 15,24). Chắc hẳn khi bị chối từ, bà ấy cảm thấy đau lòng, và như bị xúc phạm. Chúa Giêsu lại có vẻ coi thường bà ta khi nói: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (Mt 15,26). Tuy nhiên vì yêu thương con gái mình bị khổ sở bà cũng chấp nhận mình như những con chó, mong được mẫu bánh vụn trên bàn rơi xuống. Cuối cùng, Chúa Giêsu đáp lời bà ta: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy" (Mt 15,28). Thánh sử Matthêu ghi lại: "Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh" (Mt 15,28).

Người đàn bà xứ Canaan, là một người ngoại giáo, nhưng được có đức tin trong sự đau khổ, khốn khó. Một hoàn cảnh đau khổ khốn khó lại là một cơ hội để bà đi tới đức tin.

Trận đại dịch Covid đã và đang gây ra biết bao là đau khổ, khốn khó. Nó có thể là dịp để người ta đi tới đức tin không; là dịp chúng ta tìm đến hay trở về với Chúa không?

Có sự kiện vừa mới xảy ra là, bác sĩ Julian người Ý, 38 tuổi, từ một bác sĩ vô thần đã trở về với Chúa, đã cầu nguyện mỗi ngày và vui vẻ dấn thân phục vụ bệnh nhân.

Trước những ca nhiễm bệnh mỗi ngày mỗi nhiều, số người chết mỗi ngày một gia tăng, bác sĩ Julian đã bị áp lực nặng nề. Anh đã trãi qua cơn ác mộng nhất của đời mình. Anh nói: "Ngay cả trong những cơn ác mộng nhất của đời mình, tôi cũng không bao giờ tưởng tượng rằng, tôi sẽ phải chứng kiến và trải qua những gì đang diễn ở Ý, ngay cả ở trong bệnh viện của chúng tôi trong ba tuần qua".

Anh vô cùng choáng ngợp và bất lực trước những gì xảy ra trước mắt anh mỗi ngày. Quá nhiều bệnh nhân chết trong đau đớn; bệnh viện thiếu những trang thiết bị cho họ sử dụng. Các bác sĩ phải chủ động đánh giá khả năng sống sót của mỗi bệnh nhân, để đặt nội khí quản cho họ hay tiếp tục chữa trị.

Trong nước mắt và tuyệt vọng Julian bất chợt nhớ đến Chúa, một vị mà anh chưa bao giờ tin rằng tồn tại. Sau đó anh bắt đầu cầu nguyện: "Xin Chúa thương xót cho chúng con. Chúng con đã đạt đến giới hạn của mình. Chúng con không thể làm gì hơn. Số người chết tăng lên mỗi ngày. Chúng con hoàn toàn kiệt sức rồi!".

Sau lời cầu nguyện tha thiết, Julian cảm thấy mọi áp lực ban đầu của mình như nguôi ngoai phần nào. Julian tâm sự: "Bất chợt chúng tôi nhận ra rằng trong thời khắc gian nan này, hãy thành tâm cầu nguyện, để xin Chúa chỉ dẫn vượt qua giai đoạn khó khăn". "Khi rảnh rỗi chúng tôi dành ra vài phút cúi đầu cầu nguyện. Tôi còn nhớ, đến tận hai tuần trước, tôi và những bạn đồng nghiệp vẫn còn là những người vô thần. Chúng tôi đã được nhồi nhét rất nhiều kiến thức khoa học mang hệ tư tưởng chủ nghĩa duy vật, luôn tin tưởng rằng Thiên Chúa không hề tồn tại. Tôi cười nhạo khi bố mẹ tôi đi đến nhà thờ. Bây giờ, chúng tôi cầu nguyện mỗi ngày, xin Chúa ban cho bình an và sức mạnh để giúp chúng tôi có niềm tin, kiên trì chăm sóc tốt cho bệnh nhân của mình".

Anh cũng bày tỏ sự biết ơn của mình đối với Chúa. "Tôi biết mình chỉ là hạt bụi nhỏ bé trong thế giới bao la, rộng lớn này. Nhưng tôi muốn sử dụng hơi thở cuối cùng của mình để giúp những người khác. Trong lúc bế tắc nhất, đau khổ chứng kiến cái chết của những người dân nước mình, tôi hạnh phúc vì giờ đây tôi được trở về với Chúa."

Cả hai người, người đàn bà xứ Canaan ngày xưa và bác sĩ người Ý Julian ngày nay, đều rơi vào hoàn cảnh gian nan khốn khó, một hoàn cảnh dễ đi tới khủng hoảng và tuyệt vọng. Sau đó cả hai người được có đức tin mạnh mẽ và tìm được niềm vui trong Chúa.

Điều đáng suy gẫm ở đây là lòng yêu thương và sự khiêm tốn. Nơi người đàn bà xứ Canaan, ít ra, là tình yêu thương mạnh mẽ đối với đứa con gái bị quỷ ám và nhận mình như là thân phận như con chó dưới gầm bàn. Nơi bác sĩ Julian, ít ra, là tình yêu thương đối với những bệnh nhân Covid và thấy mình rất là giới hạn, như là hạt bụi bé nhỏ trong thế giới rộng lớn. Cả hai đều thấy mình hèn mọn và bất lực và chạy đến kêu xin Chúa. Họ đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa để Ngài cứu giúp.

Thực tế, cho chúng ta thấy, không phải tất cả mọi người trong hoàn cảnh gian nan khốn khó, hay phải chịu những đau khổ những mất mát, cụ thể như do trận đại dịch, đều có thể lãnh nhận được ơn đức tin. Chỉ có những người khiêm tốn và lòng bác ái yêu thương mới có thể đón nhận ơn đức tin và niềm vui an bình trong Chúa.

----------------------------------

 

TN 20-A149: Chúa Nhật 20 Thường Niên


--Lm Gioan Phan Tiến Dũng

 

Những nỗi đau-thống khổ, lời khẩn thiết kêu van của con người có chạm đến Tình yêu-Lòng thương TN 20-A149


Những nỗi đau-thống khổ, lời khẩn thiết kêu van của con người có chạm đến Tình yêu-Lòng thương xót của Thiên Chúa chăng? Nhân loại khi bước vào năm 2020 với biết bao đau thương, khó khăn và thử thách đặc biệt là đại dịch bệnh Covid. Mấy ngày qua khi phải tuân thủ giãn cách xã hội và không thể cử hành thánh lễ quy tụ nhiều tín hữu. Với tâm tư của một người mục tử, tôi có nhiều cảm xúc, cảm thấy buồn-đau và chắc hẳn nhiều người trong ACE cũng vậy. Có thể chúng ta đang tự hỏi: Thiên Chúa là Đấng yêu thương, quan phòng và giàu lòng thương xót; nhưng tại sao giờ đây con cái của Ngài đang gặp quá nhiều đau khổ và dường như khó để tìm ra lối thoát. Khi đối diện với hoàn cảnh thế này, tôi và anh chị em sẽ phải làm gì đây?

Tin mừng hôm nay soi sáng cho chúng ta bắt gặp một hoàn cảnh quá đáng thương của một bà mẹ, chắc hẳn khi một người mẹ có người con nào của bà bệnh tật, đau khổ, thì lòng người mẹ lại càng đau hơn gấp bội nỗi đau mà người con mình đang phải gánh chịu. Vì thương con, vì muốn cứu con, vì muốn con được bình phục và hạnh phúc, bà đã hy sinh tất cả, hy sinh ngay cả danh dự để miễn sao con mình được Chúa đoái thương cứu chữa. Bà đã đi theo để van xin Chúa “Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”. Chắc rằng Chúa nghe những lời van xin của bà, nhưng Tin mừng lại tường thuật “Chúa không đáp lại một lời nào” Phải chăng Chúa không quan tâm đến những điều mà bà mẹ này kêu xin? Ngay cả những môn đệ họ cũng thấy phiền hà khó chịu khi bà mẹ này kêu xin hoài mà tại sao Chúa không làm gì cho bà ta cả. Nên các ông đến gần Người mà xin nhưng với cung cách không hài lòng và như trách Chúa: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”.

Lời đáp lại của Chúa Giêsu thoạt nghe chúng ta cảm thấy phủ phàng và nhói trong lòng, vì Ngài “chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” hay “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Để hiểu đúng ý nghĩa những gì Chúa nói, chúng ta cần phải hiểu trong hoàn cảnh mà Tin mừng theo Thánh Mattheu được viết ra là dành cho người Kitô hữu gốc Do Thái. Thật vậy, Chúa đến với dân Israel, Chúa ban ơn cứu độ cho Israel là dân được tuyển chọn cách đặc biệt. Nhưng vì cứng lòng, vì ngoan cố họ đã không chấp nhận Chúa Giêsu, là Đấng Thánh đến từ Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa. Họ đã loại Chúa ra khỏi đời sống của họ, nhưng họ lại tự phụ và cho rằng: duy chỉ mình họ là dân thánh, còn các dân tộc khác thì không thể trở nên con cái Thiên Chúa và không đáng được Chúa thương cứu giúp.

Điều thú vị mà Tin mừng minh chứng cho chúng ta là: người đàn bà ngoại giáo này không phải là dân Israel nhưng lại có một lòng tin mạnh mẽ vào Chúa. Không những thế bà lại có tình thương bao la dành cho người con của mình. Chính hai điều này đã chạm đến lòng thương xót của Chúa Giêsu. Quả thật, nhờ vậy mà Chúa đã cứu con bà được bình phục. Hay chúng ta cũng có thể nói, người mẹ này đã cộng tác với Chúa bằng cả niềm tin và tình thương để cứu con mình. Chúa chữa lành người con của bà vì Chúa chạnh lòng thương đến những con người đau khổ, không những thế, Chúa cứu chữa con bà và ban ơn vì Chúa thấy lòng tin vững mạnh nhưng rất khiêm tốn, đơn sơ của một người mẹ vì con mà hy sinh tất cả. Chúa đã chạnh lòng thương và thán phục “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Với tình thương và lòng tin, phép lạ của ân sủng đã xảy ra “ngay lúc đó, con gái bà đã được lành”.

Thưa ACE, vì lòng thương xót của Thiên Chúa, nhiều phép lạ vẫn đang xảy ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Chắc hẳn ai trong chúng ta giờ này cũng muốn kêu xin Chúa hãy làm phép lạ gì cho cơn đại dịch này, hay phép lạ nào đó cho những khó khăn đau khổ của chúng ta biến mất đi. Nhưng để phép lạ xảy ra chúng ta cũng phải cần cộng tác với ơn Chúa và cộng tác bằng cách nào. Chúng ta biết rằng phép lạ xảy ra là do ơn ban của Thiên Chúa cách nhưng không, do đó chúng ta phải cầu nguyện khẩn thiết van xin với lòng tin vững vàng và thái độ khiêm tốn. Đồng thời cũng là sự nỗ lực-cố gắng của chúng ta qua những hy sinh của cầu nguyện và bác ái.

Năm 2010 lúc tôi làm mục vụ bên Nhật, có gia đình của ông bà Takenaka rất đạo đức với năm đứa con. Tuần nào cả gia đình cũng đi lễ và hoạt động truyền giáo hăng say, nhưng cô con gái thứ 2 là Nozomi thì không bao giờ đi lễ cùng với gia đình. Sau một thời gian, tôi thấy làm lạ và hỏi tại sao, thì người mẹ nói, “nó rất chán khi đến nhà thờ, vì không thấy niềm vui gì cả, ở nhà nó cũng chẳng đọc kinh”. Cuối năm đó, Nozomi thi đậu vào đại học phải xa nhà, Bà Takenaka rất lo lắng, vì với một đứa con cứng đầu và khô đạo như vậy thì làm sao đây khi phải sống xa gia đình? Trước khi tiễn con đi xa, Bà chở nó lên gặp tôi để xin tôi cầu nguyện chúc lành cho nó. Khi đến nhà thờ Nozomi cứ ngồi lì trên xe không chịu xuống; nhưng vì người mẹ, tôi ra tận xe mở cửa rồi đọc kinh chúc lành cho nó. Sau khi đọc kinh, chúc lành, tôi tặng nó một tràng chuổi mân côi nhỏ và nói: “Cha cầu nguyện nhiều cho con, xin Chúa chúc lành cho con”. Tôi cũng nói với bà mẹ “từ hôm nay tôi mời gọi chị hãy cùng tôi làm tuần cửu nhật để cầu nguyện cho Nozomi”. Tuần thứ 3 của Mùa Vọng năm 2010, tôi nghe chuông, ra mở cửa thì thấy bà Takenaka với khuôn mặt vui tươi, bà hạnh phúc báo tin cho tôi biết, “Nozomi từ Tokyo gọi về hỏi con, mẹ chỉ cho con nhà thờ nào gần chỗ con ở, để con có thể đi xưng tội, đi lễ và rước lễ trong Mùa Giáng Sinh”. Bà khóc trong vui sướng nói với tôi “Thưa Cha, Chúa đã nghe lời cầu xin và sự hy sinh của con và Cha. Con tin Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái Ngài”.

ACE rất thân mến, dẫu chúng ta đang đau khổ, khó khăn vì đại dịch, đau khổ hơn vì chúng ta không thể đến nhà thờ để tham dự Thánh lễ trực tiếp trong những ngày này. Nhưng chúng ta hãy bắt chước gương mẫu của bà mẹ trong tin mừng, vì tình thương dành những người thân yêu của mình và đặc biệt hơn là dành cho những anh chị em đang gặp đau khổ; chúng ta hãy chạy đến với Chúa với lòng tin kiên vững, hãy kêu xin Chúa với tâm hồn khiêm tốn-mở rộng, hãy làm mọi việc lành, hy sinh đạo đức, để qua đó, lòng nhân từ và khoan dung của Chúa chạm đến những nỗi khổ đau này của anh chị em mình và thương cứu chữa lành. Amen.

----------------------------------

 

TN 20-A150: Thử thách dường như quá sức


--Lm. Xuân Hy Vọng

 

Trong đời sống hằng ngày, một cách nào đó thách đố luôn diễn ra. Đặc biệt, tại những giai đoạn TN 20-A150


Trong đời sống hằng ngày, một cách nào đó thách đố luôn diễn ra. Đặc biệt, tại những giai đoạn cột mốc, bước ngoặt cuộc đời, luôn có mặt của thách thức. Nó khiến chúng ta mạnh mẽ, quyết đoán, trưởng thành hơn; và ngược lại, nó cũng khiến chúng ta chùn bước, thất vọng với bản thân, có khi tự trách mình!

Đời sống đức tin cũng không nằm ngoài việc luôn có thử thách song hành. Nhiều người lớn tự mình muốn học đạo và theo đạo thường nghĩ: khi trở thành người Công giáo rồi, sẽ không có, hoặc ít đau khổ, gian nan hơn! Tuy nhiên trên thực tế, đôi lúc, họ lại gặp quá nhiều thử thách kể cả sầu khổ sau khi được gia nhập đạo. Một câu nói đâu đó khiến chúng ta cần suy nghĩ, và thật sự đánh động “con không xin Chúa cất hết khổ đau, thử thách, nhưng xin ban cho con sức mạnh vượt thắng”. Nếu là những người không có đức tin, họ sẽ không biết bám víu vào ai mỗi khi gặp khốn khó, có lẽ họ chạy đến ông thần này, bà bụt kia, vái lạy tứ phương tám hướng. Nhưng chúng ta tin thờ Chúa, thì chúng ta đã biết trông cậy vào ai và chạy đến với ai lúc gặp nguy nan, thử thách.

Trong Tin Mừng, hầu hết đức tin của những người không phải Do thái được Đức Giê-su khen ngợi, và một trưng dẫn điển hình được sử dụng như một lời tuyên xưng đức tin trước khi rước lễ, đó là lời tuyên tín của viên đại đội trưởng Rô-ma: “Lạy Thầy, con chẳng đáng rước Thầy vào nhà con, nhưng xin Thầy phán một lời thì tôi tớ tôi được lành mạnh” (x. Lc 7, 6-7). Đoạn Tin Mừng hôm nay vẫn nói tới đức tin của một người ngoại từ miền Ca-na-an (nghĩa là không phải người Do thái), tuy nhiên, thử thách cho bà dường như quá lớn. Lẽ nào Đức Giê-su thử thách quá sức chịu đựng của bà, với câu chữ đanh thép “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15, 24), và có vẻ nặng nề “không nên lấy bánh dành cho con cái mà vứt cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Ở đay, dân Do thái được ưu tuyển và được gọi là “con cái”, còn bà miền Ca-na-an, vốn là người không được ưu tiên như người Do thái, lại được ví như “lũ chó con” hoặc “cún con”. Nếu chúng ta thử đặt mình vào vị thế của bà ấy, có lẽ chúng ta khó lòng nào chấp nhận lời nói đầy ẩn ý thách thức của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta sẽ bỏ cuộc, ra về với lời cầu xin chẳng được thành sự! Tuy nhiên, như đã tường thuật, bà ta không dễ dàng nản lòng nhục trí khi nghe lời có vẻ khó nghe của Đức Giê-su, bà đủ bình tĩnh, nhẫn nại và kiên định với lòng van xin Người ngay từ đầu. Sự kiên nhẫn này đã giúp bà đáp lời một cách khôn ngoan sáng suốt và không kém phần đơn sơ, khiêm hạ, tin tưởng “thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Nói một cách rõ ràng hơn, lời bà ấy có thể được diễn giải chi tiết như: với thân phận không được ưu tuyển như người con, mà cũng chẳng phải tôi tớ của ông chủ, đơn thuần chỉ là chú chó con thôi, thì dĩ nhiên sẽ không được ăn bánh nguyên phần dành cho con cái, nhưng chó con cũng được lượm lặt, ăn những mảnh vụn rơi từ bàn ông chủ một cách vô tình hay chủ ý”. Lời thưa của bà tuy ngắn ngủi, nhưng thiết nghĩ là một bài học lớn lao cho chúng ta - những người có đức tin và đang sống đức tin.

Thật vậy, nếu đức tin chỉ tựa bằng hạt cải với kích cỡ nhỏ nhất trong các loại hạt, cũng trở nên cây cao lớn sum suê rậm rạp, muôn chim đến làm tổ trú ngụ; nếu đức tin chỉ tựa bằng một đấu bột cũng làm dậy cả khối men. Vì lẽ, đức tin khiến chuyển núi dời non; đức tin chữa lành, làm cho người chết sống lại, trừ quỷ; đức tin sinh ra lòng kiên nhẫn, kiên định, hy sinh; đức tin đón nhận thử thách vui tươi, không hờn trách, đổ lỗi hay buông trôi cho dòng đời xô đẩy; đức tin chịu đựng, vượt thắng và cư xử khôn ngoan ngay cả khi cơ hàn, khốn khó.

Chúng ta có lẽ đôi lần thốt lên: thử thách dường như quá nặng, quá sức. Thánh giá của bản thân quá cỡ, quá lớn, quá mức chịu đựng…! Tuy nhiên, sự thật về những thử thách trong đời sống đạo của chúng ta không phải thế, mà được sáng tỏ hơn qua lời quả quyết của Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô: “không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người”; Ngài nói tiếp “Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (x. 1Cr 10, 13).

Nói như vậy, không có nghĩa Thiên Chúa là tác nhân của rủi ro, gian nan, đau khổ con người như chúng ta quen nói và tự hỏi: “sao Chúa trao thánh giá cho tôi, cho gia đình tôi, cho vợ chồng tôi…nặng thế!” Làm sao như vậy được? Vì lẽ thường tình, chẳng ông bố bà mẹ nào lại muốn con cái mình vất vả, gian nan, huống chi trao khổ đau cho chúng! Còn đây, Thiên Chúa không những yêu thương chúng ta mà còn thương yêu chúng ta hơn cả tình yêu cha mẹ dành cho con cái và vượt trên hẳn hành vi yêu thương chính bản thân của chúng ta nữa.

Theo thánh ý trọn hảo (perfect will) của Thiên Chúa, mọi điều, mọi sự, mọi việc mà Người ban cho chúng ta đều tốt lành, nhưng Người vẫn cho phép (permissive will) sự vật, sự thể xảy ra theo nguyên lý của nó vì Người đã đặt để chúng từ thuở ban đầu. Hơn nữa, Người hằng tôn trọng những gì đã trao ban cho con người (như: tự do, ý chí, nhân vị, tình yêu, lòng khao khát liên lỉ….) và cho cả tạo vật (như: định luật xoay vần, nguyên lý chuyển động,…). Người cho phép chúng diễn ra vì lợi ích cho chúng ta “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (x. Rm 8, 28) và “vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người  không hề hối tiếc” (Rm 11, 29).

Như vậy, thử thách cần thiết cho đời sống đức tin chúng ta không? hoặc mục đích của các thử thách trong đời sống đạo là gì? Lời giải đáp rõ ràng và đầy thuyết phục được tìm thấy trong thư thứ nhất của Thánh Phê-rô tông đồ: “những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội - vàng là của phù vân hay hư mất chóng quá mà còn phải chịu thử lửa…” (x. 1Pr 7). Vàng thật hay giả còn cần đến lửa, huống chi đức tin chúng ta quý giá hơn mọi châu báu, kim cương, vàng bạc phù hoa, chắc hẳn cần đến lửa thử thách tinh luyện.

Sau cùng, không gì xác đáng hơn lời Thánh Gia-cô-bê nhắn nhủ chúng ta: “đức tin có vượt thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo (thực thi bác ái, tha thứ, trông cậy, hy sinh…), để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (x. Gc 1, 3) và “phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách (đặc biệt trong đời sống đức tin, đời sống đạo), vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa an cho những ai yêu mến Người” (x. Gc 1, 12).

Chúa mời con nên Ki-tô hữu
Chẳng muốn con sống khác Ki-tô.
Muôn vàn ân sủng Ngài không tiếc
Nhưng cần thử luyện với lửa thiêng
Cho con một lòng luôn kiên định
Vượt qua thử thách với đức tin. Amen!

----------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây