Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 20 TN–A bài 51-100: Này bà, bà có lòng mạnh tin
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 15, 21-28: “Này bà, bà có lòng mạnh tin”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”. Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 20-A51: Hỡi người đàn bà kia, đức tin của ngươi rất mạnh! 2
TN 20-A52: Nỗi lòng người mẹ. 4
TN 20-A53: Một đức tin mới mẻ và mãnh liệt – Achille Degeest. 5
TN 20-A54: Này bà, bà có lòng mạnh tin". 7
TN 20-A55: Suy niệm của Lm Đinh Minh Tiên. 9
TN 20-A56: Chú giải của Noel Quesson. 11
TN 20-A57: Chú giải của Lm Vũ Phan Long. 15
TN 20-A58: Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt. 20
TN 20-A59: Ơn Cứu Độ. 23
TN 20-A60: Củng cố đức tin. 24
TN 20-A61: Lời nguyện chân thành. 25
TN 20-A62: Chó con cũng được ăn…... 27
TN 20-A63: Sống niềm tin – Radio Veritas Asia. 29
TN 20-A64: Tâm hồn khiêm tốn – Radio Veritas Asia. 30
TN 20-A65: Một con chó biết ơn. 32
TN 20-A66: Lòng tin của bà lớn thật. 33
TN 20-A67: Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 36
TN 20-A68: Ơn Cứu Độ phổ quát. 39
TN 20-A69: BÀI HỌC VỀ ĐỨC TIN.. 41
TN 20-A70: LÒNG THƯƠNG XÓT.. 43
TN 20-A71: BƯỚC ĐỘT PHÁ CỦA LÒNG TIN.. 45
TN 20-A72: CHÚA CẦN MỘT TẤM LÒNG.. 46
TN 20-A73: CHÚA NHẬT HAI MƯƠI MÙA THƯỜNG NIÊN.. 47
TN 20-A74: VỤN BÁNH RƠI 51
TN 20-A75: TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI 52
TN 20-A76: CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ.. 55
TN 20-A77: LÒNG TIN CỦA NGƯỜI NGOẠI GIÁO.. 57
TN 20-A78: “DÂN NGOẠI” CÓ LÒNG TIN MẠNH HƠN “GIUDÊU”! 59
TN 20-A79: CẦU NGUYỆN THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC CHÚA CHẤP NHẬN.. 62
TN 20-A80: CHÚA GIÊSU ĐÃ THUA MỘT ĐỨC TIN TUYỆT VỜI 64
TN 20-A81: CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN A.. 67
TN 20-A82: ĐỨC TIN CẦN ĐƯỢC TÔI LUYỆN QUA THỬ THÁCH.. 72
TN 20-A83: Tình Yêu Trong Đức Tin. 76
TN 20-A84: LÒNG TIN VỮNG MẠNH CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ NGOẠI GIÁO.. 77
TN 20-A85: Thiên Chúa Không Kỳ Thị Hạng Người Nào. 79
TN 20-A86: Một lòng tin mạnh mẽ. 85
TN 20-A87: Lòng Tin Của Bà Lớn Thật 86
TN 20-A88: GIÁO HỘI PHỔ QUÁT.. 90
TN 20-A89: Chúa Nhật 20 mùa Thường niên, A.. 93
TN 20-A90: Đức tin tạo nên sức mạnh tinh thần để thành công trong đời sống tâm linh và trần thế. 96
TN 20-A91: CHÚA NHẬT 20 QUANH NĂM... 101
TN 20-A92: CHÚA NHẬT 20 QUANH NĂM... 104
TN 20-A93: CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – 2002. 106
TN 20-A94: CHÚA NHẬT XX QUANH NĂM, NĂM A.. 108
TN 20-A95: Niềm tin. 110
TN 20-A96: Mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin. 111
TN 20-A97: Tình mẹ thật bao la. 114
TN 20-A98: Lòng tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 116
TN 20-A99: Mọi người đều “thuộc về”. 118
TN 20-A100: Bà muốn sao thì được vậy. 120
------------------------------------------
Người đàn bà xứ Canan là một người mẹ. Chúa Giêsu nhìn thấy mẹ Maria đàng sau mỗi người: TN 20-A51
Người đàn bà xứ Canan là một người mẹ. Chúa Giêsu nhìn thấy mẹ Maria đàng sau mỗi người mẹ. Ngài không quở mắng bao nhiêu mẹ của Giacôbê và của Gioan khi bà xin cho họ làm bộ trưởng (Mt 20, 20). Ngài âu yếm chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô. Ngài bối rối do bà goá thành Naim vừa mất đứa con trai của mình. Tôi nghĩ rằng điều này làm ta hiểu rõ hơn điều sắp xảy ra giữa Chúa Giêsu và người mẹ xứ Canan.
Ngài là người Do thái đứng trước người phụ nữ ngoại đạo, Ngài không muốn có chuyện rắc rối với bà. Thật là khổ sở, nhất là đối với những người trẻ không chịu đựng nổi những câu chuyện giữa các chủng tộc và những tôn giáo khác nhau: Thiên Chúa có được dành cho tất cả mọi người hay không?
Sự phổ quát của Chúa, rất cảm động, vẫn có nguy cơ chỉ là lý thuyết. Chúng ta không thể dễ dàng lấn sang những khác biệt đến thế. Phải thoả hiệp dần dần. Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi thứ của thân phận con người, kể cả những giới hạn, và việc tìm kiếm ý của Chúa Cha đôi khi rất là khó.
Chúng ta xét đoán Thiên Chúa rất nhanh: Tại sao lại có một dân tộc được chọn? Tại sao Chúa Giêsu muốn bỏ rơi người đàn bà Canan? Bởi vì, là người Do thái, Chúa Giêsu đi vào trong chương trình cứu độ như Ngài biết chương trình đó qua Thánh Kinh của dân tộc Ngài, và chương trình cứu độ bao gồm hai dữ kiện rất rõ ràng:
1/ Thiên Chúa muốn cứu chuộc tất cả mọi người;
2/ Qua dân Do thái. Vào lúc này đây, Chúa Giêsu chỉ nghĩ Ngài được phái đến “vì các con chiên lạc nhà Israel” mà thôi.
Tuy nhiên có người mẹ này đây. Một số người đã nghĩ rằng Ngài tỏ ra dửng dưng (“thậm chí Ngài không trả lời”) để làm cho đức tin của người đàn bà Canan này tăng lên! Nói như thế là chối bỏ mầu nhiệm Nhập thể. Chúa Giêsu là một con người và đơn giản là Ngài bối rối giống như một con người. Xua đuổi bà ta sao? Thoả mãn bà ấy để cho bà ấy về như các môn đệ gợi ý hay sao? Các môn đệ khó chịu và khinh khi hơn là quan tâm đến các chương trình của Thiên Chúa.
Đây là một bà mẹ, Chúa Giêsu bắt đầu khuất phục và ít ra là cho bà ấy điều mà Ngài có thể cho: sự tử tế của một cuộc đối thoại. Trước tiên hãy để cho con cái ăn no nê đã. Đừng quá vội vàng mang ơn cứu độ đến cho những người không được chuẩn bị, những con chó con.
Người đàn bà Canan hoàn toàn nắm được nét thân hữu trong những lời của Chúa Giêsu: người ta rất yêu quí những con chó nhỏ nuôi trong nhà. Bà thật sắc sảo, bà là mẹ, bà quyết tâm đến với người có thể cứu con gái của bà: “Những con chó nhỏ cũng được ăn những mảnh vụn”.
Lời nói tin tưởng này mở lòng Chúa Giêsu. Người đàn bà Canan vừa xoá bỏ một lằn ranh nơi Ngài. Với một đức tin khiêm hạ và sâu sắc đến nỗi bà không nói với Ngài: “Thầy hãy làm trái lại”. Bà đã hiểu. Bà cùng Ngài đi vào trong những dự định của Chúa Cha: “Phải, lạy Chúa, xin Ngài trước tiên hãy nghĩ đến con cái, nhưng xin đừng chậm trễ nghĩ đến những con chó con có thể còn tin tưởng nơi Chúa nhiều hơn nữa”.
Thế là Chúa Giêsu làm một cử chỉ đánh dấu tính hoàn toàn ưu việt của đức tin. Điều xảy ra với người đàn bà Canan chứng tỏ rằng từ nay tất cả đều tùy thuộc vào đức tin. Người Do thái có sự ưu tiên, người đàn bà Canan là một người mẹ làm xáo trộn tất cả, nhưng đã có một điều duy nhất đáng kể, từ nay sẽ có một điều đáng kể mà thôi: “Hỡi đàn bà kia, đức tin của bà rất mạnh”
------------------------------------------
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ về tình thương của một người mẹ. Người đàn: TN 20-A52
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ về tình thương của một người mẹ.
Người đàn bà xứ Canaan hẳn đã đau khổ rất nhiều, khi đứa con của mình bị quỉ ám. Nghe đồn về Chúa Giêsu, ngày hôm nay bà đã tìm đến gặp Ngài để xin Ngài cứu chữa đứa con yêu dấu của bà. Bà nói:
- Lạy Ngài là con vua Đavid, xin thương xót tôi bởi vì đứa con gái của tôi bị quỉ ám khốn cực lắm.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã yên lặng, khiến cho các môn đệ cũng phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà lại kêu cầu:
- Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp tôi.
Thái độ của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta cũng phải sững sờ ngạc nhiên. Ngài bảo:
- Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.
Nếu như chúng ta, rất có thể chúng ta đã bực bội tức tối vì cho rằng lời nói đó có tính cách mỉa mai và hạ nhục. Nhưng người phụ nữ ngoại giáo này, chắc hẳn lúc bấy giờ đã nghĩ tới nỗi khốn cùng của đứa con, nên bà vẫn kiên trì kêu xin. Bà thưa cùng Chúa Giêsu:
- Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.
Tới lúc này chúng ta có thể nói:
- Niềm tin cậy trông và tình thương của một người mẹ đã thắng, bởi vì Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ca ngợi bà và làm phép lạ như lòng bà mong ước. Ngài phán:
- Này bà, bà có một lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn sao thì được như vậy.
Và đoạn Tin Mừng đã kết luận: Ngay lúc đó, con gái bà đã được chữa lành. Chắc hẳn lúc bấy giờ bà đã vui mừng hớn hở, bà đã quì xuống cảm tạ Chúa rồi vội vã trở về với đứa con của mình đã được chữa khỏi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nghĩ đến người mẹ của mình. Người mẹ ấy cũng đã phải vất vả vì chúng ta, suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta cho tới ngày hôm nay. Người mẹ ấy đã phải lo lắng mỗi khi chúng ta đau yếu. Và không chừng người mẹ ấy cũng đã khổ đau mỗi khi chúng ta ngỗ nghịch ương bướng.
Từng ngày và từng đêm, người mẹ ấy luôn cầu xin Chúa nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta để chúng ta có được một tương lai tươi sáng. Trên đời này không có gì quí giá cho bằng tình thương của người mẹ.
Chính vì thế mà nhạc sĩ Y Vân đã có lý khi ca tụng tình thương ấy:
- Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào.
Phải, lòng mẹ chính là nơi trú ẩn an toàn nhất cho mỗi đứa con. Tác phẩm tuyệt vời nhất của Thượng đế là trái tim của người mẹ. Bởi đó, chúng ta hãy biết ơn và trọng kính người mẹ của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta làm được trong suốt cả cuộc đời cũng không đủ để báo đáp công ơn của người mẹ hiền.
Một ngày kia, khi người mẹ không còn nữa, chúng ta mới cảm nghiệm được rằng mình đã mất đi một kho tàng quí giá. Lúc bấy giờ nếu chúng ta có hối hận về cách cư xử tệ bạc của mình thì đã quá muộn.
Bởi đó, để kết luận tôi xin nhắc lại nơi đây câu ca dao của người Việt Nam chúng ta:
Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
------------------------------------------
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Miền Tyrô và Siđôn nói chung là phần đất cuối cùng ở miền tây bắc xứ Palestina. Đa số dân: TN 20-A53
Miền Tyrô và Siđôn nói chung là phần đất cuối cùng ở miền tây bắc xứ Palestina. Đa số dân chúng ở đây là người Do thái sinh sống tại vùng này, vì thế dân ngoại cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều về phương diện hiểu biết lề luật của Chúa nên chúng ta không ngạc nhiên mấy nếu một vài người ngoại đạo lại biết vài đoạn Kinh Thánh nho nhỏ. Điều này giải thích danh từ ‘con vua Đavít’ mà người phụ nữ Canaan đã dùng để thưa với Chúa. Tại sao Chúa Giêsu lại đi lên tới vùng này? Có lẽ là để đi xa xứ Galilêa một ít vì nơi đây tính cách đại chúng của Người có thể lam cho nhiều tâm hồn nghĩ lầm về một Đấng Cứu Thế trần gian. Cũng có lẽ Người lên đây là để đào tạo các môn đệ cách thong thả hơn. Nhất là qua cách Người cư xử với người phụ nữ Canaan Người muốn dậy các môn đệ một bài học thường thức. Họ sẽ nhớ lại khi đặt vấn đề người ngoại giáo gia nhập Giáo Hội, gia nhập Nước Trời và họ sẽ biết là không thể nào từ chối không cho người ngoại giáo gia nhập được. Nói chung thì đoạn Tin Mừng này tuy bề ngoài có vẻ cứng cỏi, nhưng cho thấy rõ là Chúa Giêsu quan tâm đến người ngoại giáo cách sâu xa và Người hằng yêu mến họ. Nó cũng chứng tỏ người ngoại giáo có một khả năng mới mẻ và mãnh liệt để đón nhận đức tin. Đức tin của người phụ nữ Canaan đánh động chúng ta ở những điểm nào?
1) Đây là một đức tin khiêm tốn. Người phụ nữ bất hạnh có người con gái bị ốm, đau khổ đến nỗi kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà ta không có vẻ hiếu thắng. Bà ta không ý thức là đang nêu ra một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là tình thế muốn Ngài hoạt động ở Israel chứ không phải nơi người ngoại giáo, bà ta đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ của lời cầu xin. Bà ta cầu xin và bà đặt mình ngang hàng với đàn chó con sống bằng những mụn bánh dư thừa từ bàn ăn rơi xuống. Người phụ nữ Canaan đã gắn bó cho đức tin cái tính chất khiêm nhượng, khiến Chúa phải xiêu lòng. Đức tin vẫn là một tiếng kêu hồn nhiên. Nếu phải phân tích ta sẽ thấy trong đó dấu hiệu của một sự đau khổ lớn lao, một sự choáng váng vì trông cậy đột ngột và kẻ đó là một sự an tâm đầy tin tưởng. Hình như người phụ nữ Canaan khi được Chúa trả lời và như thế là được Người quan tâm đến, đã nắm chắc phần thắng. Một cách chắc chắn, bà ta cảm thấy là Chúa sẽ chữa lành cô con gái của bà.
2) Đây là một đức tin nài nỉ. Đức tin dừng lại cách mạnh mẽ ở một điểm rõ ràng: Chúa Giêsu có thể chữa lành đứa bé đang bị ốm. Trước mặt Chúa, người phụ nữ Canaan đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà ta bị xua đuổi một cách cứng rắn, nhưng bà ta vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố, cái ngoan cố đặc biệt của bà mẹ. Trên bình diện tâm lý đức tin này có tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh nghiệm đau khổ và từ hy vọng sẽ được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng sâu xa, người ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn người phụ nữ Canaan một ơn riêng (một ơn huệ) để bà bám chắc lấy Chúa và tin tưởng vào Người.
3) Đây là một đức tin mới mẻ và vươn xa. Đức tin không vướng mắc bởi các vấn đề, những vấn đề từ nơi khác tới. Từ các tông đồ khi các Ngài cho rằng cách làm của người phụ nữ Canaan chỉ nỗi quấy rầy và từ nơi Chúa Giêsu khi Người nêu ra vấn đề quyền ưu tiên của dân Israel. Đức tin của người phụ nữ Canaan lật đổ các vấn đề để đi thẳng tới đối tượng, điều này làm chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, từ lâu chúng ta thường được nuôi dưỡng bằng rất nhiều ơn huệ của Chúa trong vụ trụ đức tin. Tuy thế đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự khiêm tốn mà nó phải giữ hay không? Phải chăng chúng ta bị vướng mắc bởi những vấn đề thường làm suy yếu đức tin của chúng ta?
------------------------------------------
(Suy niệm của Lương Văn Liêm – Don Bosco)
Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người Do thái muốn nên công: TN 20-A54
Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người Do thái muốn nên công chính, nhưng không thực hiện được bởi họ tìm cách nên công chính nhờ luật, những người ngoại họ nên công chính được là vì họ tin” hoặc “Đức tin là bằng chứng cho những gì anh em không thấy, là bảo chứng cho những gì anh em trông đợi”
Quả thật nhờ lòng tin, người đàn bà xứ Canaan cứu được người con gái bà bị quỷ ám đã nhiều năm phải sống trong tình trạng rất khổ sở, đức tin của bà đã được chính Đức Giêsu khen “Bà có lòng tin mạnh thật”. Nhưng lòng tin mạnh mẽ của bà do đâu và vì đâu? Với những suy nghĩ hạn hẹp mình viết lên đôi dòng cảm nghĩ do đâu và vì đâu, mong được sự đóng góp của tất cả các bạn trẻ.
Đức tin mạnh nhờ lắng nghe và đi tìm.
Xứ Canaan là nơi mà người Do thái xưa kia cho là dân ngoại, không hề biết đến Thiên Chúa, nếu có biết thì cũng chỉ thoảng qua. Người đàn bà xứ Canaan chắc chắn không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu và cũng không thể nào biết Đức Giêsu có một quyền năng siêu phàm cải tử hoàn sinh, là thần y chữa bá bệnh để rồi tự tìm đến với Chúa, có phải chăng bà đã nghe những người Do thái truyền miệng cho nhau về Đức Giêsu, từ lắng nghe, bà cất bước đi tìm để rồi những cố gắng của bà đã được toại nguyện. những diều đó đều khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài đã gieo vào lòng con người từ khai thiên lập địa, khi con người biết lắng nghe và cất bước đi tìm Ngài sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Ngài qua mọi sự việc, biến cố.
Đức tin mạnh khởi đi từ tình yêu.
Vào thời cựu ước ông Áp-ra-ham đã yêu mến Đức Chúa hết lòng và khởi đi từ tình yêu đó mà ông đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và trở thành Cha già các dân tộc tin vào Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng một lòng yêu mến Thiên Chúa một cách tuyệt đối, cũng chính tình yêu đó, Mẹ Maria đã tin tuyệt đối vào lời mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa điều này đã được chính Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Mẹ “Em thật có phúc vì đã tin những gì Thiên Chúa thực hiện nơi em”
Nói về người đàn bà xứ Ca-na-an trong Tin Mừng hôm nay, cũng khởi đi từ tình yêu nhưng không phải tình yêu của bà dành cho Thiên Chúa vì bà có biết Đức Giêsu là Chúa đâu, bà yêu người con gái của mình, đó là giọt máu của bà, là niềm vui của bà trong cuộc sống “con đau mẹ cũng đau”, chính cái đồng cảm trong tình yêu mẫu tử, bà đã mạnh dạn đến để xin cùng Đức Giêsu chữa cho con bà và chính tình yêu đó thúc đẩy bà tin Chúa sẽ thực hiện điều bà mong ước là cho con gái được khỏe mạnh. Từ tình yêu dành cho con dẫn đến lòng tin, bà đã được Chúa đáp trả.
Đức tin mạnh khởi đi từ sự khiêm nhường.
Bắt nguồn từ sự lắng nghe, đi tìm, đồng thời kết hợp với tình yêu dành cho người con thúc đẩy, người dàn bà xứ Canaan đã đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Ngoài những điều đó bà còn tỏ ra rất khiêm nhường, khiêm nhường lắng nghe những lời miệt thị của người Do thái, khiêm nhường khi chính Đức Giêsu lặng im với lời van xin, khiêm nhường chịu đựng khi các tông đồ nói bà nhiều lời và khiêm nhường chấp nhận mình chỉ là con chó con dưới bàn ăn của chủ. Chính nhờ lòng tin trong sự khiêm nhường đó mà bà đã được thỏa lòng mong ước.
Đức tin mạnh khởi đi từ lòng kiên nhẫn
Thánh Mátthêu đã trình thuật một cách tỉ mỉ về sự kiên nhân của người đàn bà xứ Ca-na-an: Lần đầu bà van xin, Chúa như vờ không nghe thấy. Lần hai chính các môn đệ thưa với Chúa nhưng chúa đáp lại với các môn đệ một cách như vô tình “Thầy chỉ được sai lạc nhà Israel mà thôi”. Lần ba bà lại van xin một cách tha thiết nhưng chính Đức Giêsu đáp lại
“Không thể lấy bánh của con mà ném cho chó” với lòng kiên nhẫn bà đã đáp lại “Nhưng thưa Ngài! Chó con cũng được thừa hưởng những miếng bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống”. Quả thật điều bà xin với Chúa rất chính đáng và đó cũng là những lời giáo huấn của Đức Giêsu, bà không xin cho chính bà, bà xin cho người con đang rất cần tình yêu liên đới của mọi người và cũng từ nơi Chúa. nếu không có sự kiên nhẫn liệu bà ta có được những điều mình mong ước ngay lúc hiện tại và tương lai? Chính do lòng kiên nhẫn bà đã thành công một cách mỹ mãn đem lại cho chính bà niềm vui, đem lại cho con gái bà một sức sống mới và đem lại vinh quang cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ vì Chúa đã ban nhưng không Đức tin cho chúng con, nhưng vì thiếu lắng nghe, đi tìm, thiếu tình yêu, thiếu sự kiên nhẫn mà đức tin của chúng con không đủ mạnh vì thế mà lời cầu nguyện của chúng con chưa thấu đến tai Chúa, giữa cuộc sống đầy những cám dỗ, sóng gió tứ bề luôn phủ lấp cuộc đời chúng con.
Xin cho chúng con có được sự lắng nghe qua lời của Chúa, qua lời mời gọi, giáo huấn của các bậc bề trên, biết đi tìm Chúa mọi lúc, mọi nơi, luôn có một tình yêu như Chúa đã yêu chúng con và cuối cùng xin cho chúng con có lòng kiên nhẫn, chờ đợi Chúa trong đời sống cầu nguyện. Nhờ đó mà chúng con có được sự bình an, niềm vui của Chúa và giúp chúng con luôn làm sáng danh Chúa trong đời sống thường ngày. Amen.
------------------------------------------
"Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra: TN 20-A55
1/ Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: "Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Người đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:
(1) Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.
(2) Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: "Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!" Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi."
(3) So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:
- Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!"
- Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con."
- Bà ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống."
2/ Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng "lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.
Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.
- Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.
------------------------------------------
RA KHỎI ĐÓ, ĐỨC GIÊSU LUI VỀ
Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu "rút lui", "lánh mặt" ở vùng: TN 20-A56
Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu "rút lui", "lánh mặt" ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.
Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng...
Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là "người đàn bà Canaan" để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên...
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn "phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi" dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là: "Kyrie éléisòn mé". Về chữ "Con vua Đa-vít" đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt 7,7).
Nhưng Người không đáp lại một lời.
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài "cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?
Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.
Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những "dấu chỉ". Nhưng mọi “dấu chỉ" đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24)... còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.
Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.
Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi". Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.
Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác... đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).
Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ "nhỏ bé" giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu!
Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?
Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi... nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết "nâng cấp" mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?
Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống".
Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.
Đức Giêsu đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy". Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn "bánh của con cái Thiên Chúa"? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa chọn "một số người", chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế"... cho những người khác (Xh 19,5-6).
------------------------------
NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN
1.- Ngữ cảnh
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả: TN 20-A57
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân giữ.
Trong bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người Pharisêu về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là một trong những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay về với một thái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh này mà ta đọc được truyện "Người phụ nữ Canaan". Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm một phép lạ theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và sự chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn giáo, phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại?
2.- Bố cục
Bản văn được bố trí thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới một cao điểm:
* Mở: Hoàn cảnh (15,21);
1) Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);
2) Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);
3) Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);
4) Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi = đồng ý (15,27-28).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ "Tia và Xiđôn" thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina; nơi này cũng còn được gọi là Phênikia. Dân Phênikia tự gọi mình là "dân Canaan", và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.
- ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như BJ (1998) rằng "ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel", hay như Bd CGKPV (2004): "Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và chỉ trong đất Ít-ra-en bà mới được Chúa thi ân" dường như có phần ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel để đi vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân tộc giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ "đi ra" (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến xuất xứ ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch là "... thì này có một người đàn bà Canaan của vùng ấy...". Dịch như thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB (1994) dịch là "này đây một người đàn bà Canaan đến từ đó...".
- Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó, không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia. Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
- Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi (24): "Chỉ được sai đến" là một thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với...). Đức Giêsu nhắc lại một bài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một ngày Yhwh đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt cho Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có vai trò tái lập Israel thành một đoàn chiên duy nhất, trung thành với Yhwh. Khi dân Israel đã được quy tụ lại rồi, khi họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân trên thế giới mới có thể được quy tụ lại quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai đoạn hai này của chương trình cứu độ không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của Người là Mêsia. Về chú giải, "những con chiên lạc nhà Israel" (ta probata... oikou Israêl) cũng có thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là "những con chiên lạc là nhà Israel".
- Chó con (26): Từ Hy Lạp kynarion ("chó con") là dạng giảm nhẹ của từ kyôn ("chó"). Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là "chó" (Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ "chó"? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê (bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với "chó con". Do đó, hẳn là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ' (chó) để gọi Dân ngoại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta rằng đấy không phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp nhận làm phép lạ sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực chẳng đã. Chúng ta tìm hiểu bản văn.
Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi" (c. 22). Khi nói" Xin rủ lòng thương tôi", bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ các Thánh vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn ngữ quen thuộc với Hội Thánh. "Ngài/Chúa, kyrie", là danh hiệu các môn đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là "Con vua Đavít", cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay về với Đấng Mêsia của Israel, Đấng đã chữa lành nhiều người đau ốm trong dân. Như vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con cái Israel; độc giả thấy được đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu Người.
Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi" (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng tin. Điều này, chính Người đã một lần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. "Các con chiên lạc của nhà Israel" không phải chỉ là "các con chiên đen" tại Israel, nhưng có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một lần nữa, bà gọi Người là "Ngài/Chúa, kyrie", và một lần nữa, bày nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (c. 26). Người muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho "con cái", tức là dân tộc Do Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được ý này, khi bà trả lời: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống" (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi mình là "chó" không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục, là "lòng/đức tin" (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c. 28).
Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành một lời gián tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà Canaan, bà đã đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa trong tư thế chờ đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc. Bà đã tỏ ra như là một người hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu xin, cứ hy vọng ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn Lc (Lc 18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt 11,12). Lời bà cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà. Đức Giêsu thấy "lòng tin của bà mạnh thật" (c. 28), bởi vì lòng tin của bà là trọn vẹn, nó cho thấy một con tim không chia sẻ đang chờ đợi được no lòng thỏa dạ từ sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời, chính đức tin này càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối với Đức Giêsu thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, trong khi "con chó" ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là "Con vua Đavít" (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc truyện bà Canaan để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu lắng nghe, tác giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin của bà thì luôn luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải bao giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Bản văn hôm nay cho hiểu rằng tư cách của chúng ta là người đã được rửa tội không phải là một quyền để chúng ta có thể phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này thật ra là một ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề bị ràng buộc vào bất cứ cấu trúc tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con người cả. Ngài vẫn đang thấy có "lòng tin mạnh thật" nơi những người mà chúng ta coi thường. Ngài vẫn có thể làm dấy lên một dân mới cho Ngài.
2. Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
3. Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy là bà biết là bà có thể cậy dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
4. Dường như tôi dễ buông xuôi trước một khó khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ đứng, mất sự tín nhiệm... Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa rồi. Người phụ nữ Canaan này, một người ngoại, cho tôi thấy rằng kiên trì là một nhân đức, bởi vì nó lay chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày tỏ nguyện vọng tốt lành, nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện xấu để phải cả nể, để phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.
5. Hội Thánh sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.
------------------------------
CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ CANAAN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui đến miền Tyrô và Siđôn”. Đừng tìm cách xác định lộ trình của Chúa: TN 20-A58
"Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui đến miền Tyrô và Siđôn”. Đừng tìm cách xác định lộ trình của Chúa Giêsu từ chỗ ra khỏi đó, một thành ngữ rất mơ hồ, đến miền Tyrô và Siđôn. Đúng hơn việc định vị này có một ý nghĩa thần học: Matthêu muốn nói Chúa Giêsu tiếp xúc với lương dân sống trong các miền ấy, nơi cũng có rất nhiều người Do thái ở. Thành ngữ Tyrô và Siđôn, theo cựu truyền, chỉ vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc-đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia. Dân Phênixia tự gọi mình là người Canaan, và Cựu ước lẫn Tân ước cũng kêu họ như vậy.
"Một phụ nữ Canaan...": Thành ra bà này không phải là một người Do thái sống trong vùng ngoại đạo nhưng, như phần tiếp trình thuật cho thấy, là một người ngoại đạo biết rõ hoạt động của Chúa Giêsu và có lẽ cũng nhiễm ít nhiều niềm tin Do thái. Đừng quá ngạc nhiên khi thấy bà ta gọi Chúa Giêsu là con Đavít: theo Mc 3, 8 danh tiếng Người đã vang nhanh đến các vùng này. Thành thử khi gán tước hiệu đó cho Chúa Giêsu, không chắc bà tin Người là Đấng Messia; có lẽ đúng hơn bà chỉ lặp lại điều đã nghe dân Do thái trong vùng nói về Người; vì thế, niềm tin mà Chúa Giêsu thán phục ở c. 28 đúng ra là chính niềm tin được biểu lộ trong câu đáp đầy khiêm tốn ở c.27, nơi người đàn bà Canaan minh nhiên công nhận, dù là ngoại giáo, quyền ưu tiên được cứu rỗi của Israel.
"Ra khỏi vùng đó... ": BJ dịch ra như thế các chữ Hy lạp apo ton horion ekeinon exelthousa và còn ghi chú thêm: "ân huệ mà cuối cùng Chúa Giêsu đã ban cho bà ngoại giáo ấy cũng chỉ được ban trong đất Israel". Nhưng hình như c.21 cho thấy là Chúa Giêsu ra khỏi lãnh thổ Israel để đến các vùng ngoại đạo mà? Kỳ thực, ranh giới địa dư, chính trị và chủng tộc giữa Galilê, Syria và Phênixia không có gì rõ ràng. Đàng khác động từ Hy lạp ra khỏi (exelthousa) với giới từ apo cũng có thể chỉ muốn nói bà này có xuất xứ ngoại đạo. Thành ra có thể dịch phần đầu của c.22 như sau: "Và này môt người đàn bà Canaan ở vùng đó...". Cách dịch này ăn khớp hẳn với câu trước vậy (c. 21).
“Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi". Một câu trả lời nặng óc địa phương như thế hẳn là chướng tai đối với Giáo Hội, vì ngay từ trước thời Phaolô, Giáo Hội đã bắt đầu hoạt động truyền giáo giữa lương dân (Cv 10, 44-48). Thật ra Chúa Giêsu nhắc tời một ủy nhiệm lãnh từ Thiên Chúa động từ ở thể thụ động, không túc từ động tác, là một cách nói bóng gió về Thiên Chúa mà không nêu danh Ngài). Và ủy nhiệm này hoàn toàn phù hợp với các sấm ngôn tiên báo sẽ có ngày giao đuổi các mục tử giả nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23). Chúa Giêsu loan báo giờ đó đã đến. Vai trò của Người là tái lập Israel thành một đàn chiên duy nhất, trung tín với Giavê. Khi dân Israel lại được quy tụ và đi theo Thiên Chúa, mục tử chân chính của nó, thì bấy giờ các dân tộc trên thế giới mới được quy tụ quanh Thiên Chúa thật. Nhưng giai đoạn thứ hai này của chương trình cứu rỗi không trực tiếp liên hệ đến sứ mệnh của Người, xét như là Đấng Messia. Người chỉ chuẩn bị giai đoạn đó thôi.
"Chó con": Hy ngữ kunarion (chó con) là hình thức yếu nghĩa (diminutit) của chữ khôn (chó). Đa số các nhà chú giải xem việc dùng yếu nghĩa từ này là cách làm dịu bớt sự khinh miệt trong lời nói của Chúa Giêsu (người Do thái gọi dân ngoại là “chó" chứ không phải chó con). Nhưng về ý kiến này, ta có hai nhận xét:
1/ Không chắc hình thức yếu nghĩa trong Hy ngữ bình dân có giá trị như một cách làm dịu bớt;
2/ Ngôn ngữ Aram không có yếu nghĩa từ tương ứng với “chó con"; chữ Chúa Giêsu nói hẳn là chữ quen dùng để chỉ người lương dân kaloba (chó) hơn là gurâ (con thú nhỏ).
"Lòng tin của bà lớn thật": người đàn bà Canaan đã hiểu rằng Chúa Giêsu không phải là một nhà thần thông nào đó hoạt động một cách cá nhân nhưng là thừa tác viên thi hành một kế hoạch của Thiên Chúa, mà trước tiên liên hệ đến tuyển dân; và bà đã khiêm tốn nhìn nhận tuyển dân này được ưu tiên trong chương trình cứu rỗi đó. Chính việc nhìn nhận như vậy làm nên đức tin của bà.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu giúp bà này chẳng phải vì bà là kẻ ngoại giáo, song vì bà có một đức tin lớn lao. Trật tự cứu rỗi được tôn trọng, các giới hạn của sứ mệnh ủy thác cho Chúa Giêsu được xác định rõ ràng. Nhưng một niềm hy vọng vĩ đại đã bừng dậy. Trong niềm hy vọng đó ta thấy hiện ra một dân Israel mới được xây trên một lòng tin cũng thật lớn lao. Trường hợp viên sĩ quan trước đó cũng thế (8, 10. 13). Vì như Thiên Chúa hoàn toàn đủ sức biến các "viên đá" thành con cái cho Abraham, thì ngày kia Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới lừ những kẻ có lòng tin như vậy. Ơn cứu rỗi chưa đến với lương dân; Chúa Giêsu còn trở về Israel (c. 29) để bẻ bánh cho con cái dân Người. Nhưng rải rác đó đây, trong nhiều trường hợp xác định, người ta thoáng thấy một thực tại mới, một tương lai mới trong đó Thiên Chúa sẽ hoàn tất trật tự cứu rỗi đã thiết lập ngay từ đầu. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Vì được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo, vì có niềm tin, nên đôi khi ta tưởng các con "chó " ở ngoài, nghĩa là lương dân quanh ta, không có cùng quyền lợi được cứu rỗi như ta. Giai thoại người đàn bà Canaan nhắc ta nhớ Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi các cơ cấu tôn giáo. Cũng như Chúa Giêsu đã gặp “một lòng tin lớn" ngoài Israel trong khi chính Israel lại cứng lòng tin, thì ngày nay Người cũng có thể gặp một lòng tin lớn lao như thế, nghĩa là một lòng đói khát Thiên Chúa thực sự, ở ngoài Giáo Hội. Vì thiếu mặc khải minh nhiên và thiếu ánh sáng soi dẫn, nên lòng đói khát này là một nỗi mong chờ được nuôi dưỡng bằng những vụn bánh rơi tư bàn ăn của Thiên Chúa. Những người đói khát như vậy có lẽ có, dầu họ không biết, một đức tin tinh tuyền hơn lòng tin của ta, nếu ta khinh chê lương dân thì có khác gì những người Do thái tự mãn đã không chịu khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu, viện cớ mình là "con cái Abraham"!.
2) Thiên Chúa thường bắt đầu tỏ ra giả điếc làm ngơ trước lời cầu xin của ta, như Chúa Giêsu đối với người đàn bà xứ Canaan, nhưng là để sau đó nhậm lời nếu ta biết khiêm tốn kiên trì van vái. Chính đó là cách Ngài giáo dục ta cho có một lòng tin chân thật vậy.
3) Lời cầu xin thực sự làm đẹp lòng Thiên Chúa là lời cầu xin không ỷ lại vào một quyền lợi nào, mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào lòng tốt của Thiên Chúa như chó con đón lấy các mảnh vụn rơi từ bàn ăn gia đình.
------------------------------
Ý tưởng chính của phần phụng vụ sáng hôm nay đó là Thiên Chúa mong muốn cho mọi người: TN 20-A59
Ý tưởng chính của phần phụng vụ sáng hôm nay đó là Thiên Chúa mong muốn cho mọi người được cứu độ, không phân biệt chủng tộc, màu da và tiếng nói. Thực vậy, trong một thị kiến, tiên tri Isaia đã mở rộng cửa đền thờ cho tất cả những tâm hồn thiện chí. Ngay đến những người xa lạ cũng được mời gọi. Kể từ nay sẽ không còn rào chắn, sẽ không còn vách ngăn bởi vì mọi cánh cửa đã được rộng mở, để đón nhận những kẻ tìm kiếm Chúa.
Rồi trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy người đàn bà ngoại giáo có đứa con bị quỷ ám, đã tin tưởng vào Chúa Giêsu. Bà gọi Ngài là con vua Đavít. Bà đã sụp lạy Ngài và xin Ngài giúp đỡ. Tuy nhiên thái độ của Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta sững sờ và ngạc nhiên. Dường như Ngài muốn dành ưu tiên cho dân Do Thái và dường như muốn thử thách lòng tin của bà. Lần thứ nhất Ngài đã yên lặng. Lần thứ hai Người đáp: Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi. Lần thứ ba, Ngài lại bảo: Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó. Thế nhưng bà vẫn một niềm cậy trông. Bà sẽ không ra về bao lâu đứa con gái của bà chưa được chữa lành. Bà đã chấp nhận lời nói có vẻ sỉ nhục của Chúa, nhưng rồi lợi dụng nó để đem lại lợi ích cho mình bà nói: Nếu thế thì những con chó cũng sẽ được hưởng những mẩu vụn từ bàn rơi xuống. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và làm phép lạ cứu chữa đứa con gái của bà. Là một người ngoại đạo bà đã làm gương cho các môn đệ về một niềm tin khiêm nhường và kiên vững.
Cũng trong chiều hướng ấy, thánh Phaolô đã gióng lên một tiếng chuông và Ngài cho chúng ta được biết: có một mối liên hệ mật thiết giữa người Do Thái và dân ngoại. Dân ngoại đã không vâng lệnh Chúa và cuộc đời họ thì chồng chất tội lỗi, thế nhưng người Do Thái cũng không hơn gì. Bởi thế Ngài đã tỏ lòng nhân từ cho cả hai. Ngài đã không bỏ rơi dân Do Thái, dân mà Ngài đã đổ xuống biết bao nhiêu ơn lành quý giá. Thế nhưng tội lỗi đã làm cho họ thực sự xa cách Chúa và làm cho Ngài nổi giận. Dầu vậy lòng thương xót của Ngài vẫn không hề thay đổi. Đối với dân ngoại cũng vậy, Ngài luôn sẵn sàng giơ tay nâng đỡ họ, bởi vì ơn cứu độ chính là một hành động nhân từ và thương xót mà Ngài đã thực hiện cho chúng ta.
Bởi đó chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương của Chúa và hãy kiên tâm bền chí cho đến cùng vì ai kiên tâm bền chí cho đến cùng thì người ấy sẽ được cứu chuộc.
------------------------------
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người: TN 20-A60
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan. Còn đức tin của chúng ta lúc này thì sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin của chúng ta lúc này đang yếu kém, thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay không?
Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Trong tác phẩm “Anh em nhà Karamaốp”, Dostoevski, kể lại rằng: Một bà già bị khủng hoảng về đức tin, đến hỏi ý kiến một vị linh mục. Cuối cùng vị linh mục đã đưa ra một phương cách để giúp bà củng cố niềm tin của mình, đó là bằng tình yêu. Vị linh mục nói: Hãy cố gắng yêu thương láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống mai hậu sau khi chết. Càng yêu thương, đức tin của bà càng lớn lên và những nỗi ngờ vực sẽ bị tiêu tan.
Từ lời khuyên này, chúng ta nhận thấy đức tin và đức mến luôn đi đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên kết với nhau mật thiết như xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa hay không? Nếu muốn, thì chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời buổi đầy ngờ vực này, thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm những điều ấy cho Ngài.
Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như thể Ngài là một người vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ Canaan của đoạn Tin Mừng hôm nay. Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với Chúa vì tình yêu, với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối với đứa con của mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.
Trong phạm vi đức tin, có những ngày tươi sáng và hứng khởi, nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như lúc này đức tin chúng ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng ta hãy thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta.
Sau thế chiến thứ II ít lâu, người ta thu dọn những đổ vỡ và người ta thấy trên một bức tường nhỏ, có hàng chữ sau đây của một người Do Thái đang trên đường trốn tránh bọn Đức quốc xã. Người Do Thái ấy đã viết như thế này: Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc nó vắng bóng. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.
------------------------------------------
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát nói về tâm trạng xem ra mâu thuẫn của một người ngoại đạo như sau: "Lạy Chúa, con là: TN 20-A61
Có một bài hát nói về tâm trạng xem ra mâu thuẫn của một người ngoại đạo như sau: "Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ở trên cao". Lời hát thật đơn sơ nhưng nói lên niềm tin chân thật của một người ngoại đạo. Anh công nhận mình ngoại đạo. Nhưng anh cũng không chối cãi niềm tin vẫn có trong lòng mình. Anh công nhận mình vẫn ở ngoài đạo nhưng anh lại gắn bó mật thiết với Chúa. Bằng chứng là anh đã cầu nguyện với Chúa. Anh nói với Chúa về sự thật của anh, một người ngoại đạo. Anh nói với Chúa về niềm xác tín của anh, anh tin có Chúa ở trên cao. Anh giải bày với Chúa những khúc mắc trong cuộc đời anh. Anh đang trình bày với Chúa về nhu cầu của mình. Anh cần Chúa cho anh niềm tin để anh không còn nghi ngại một điều gì nữa! Anh đang cần có một đức tin đủ để tin vào sự hiện diện của Chúa.
Lời Chúa hôm nay cũng tường thuật về cách thức biểu lộ niềm tin chân thành của một người đàn bà ngoại đạo miền Canaan. Bà là người ngoại đạo nhưng bà lại kêu cầu Chúa là Con Vua Đavit, nghĩa là bà đã tin Chúa Giêsu là Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng đối với Chúa niềm tin chân thành thôi chưa đủ để nhận ơn lành từ Chúa, mà còn phải kiên nhẫn, phải khiêm tốn, và nhất là phải có một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đấng mà mình kêu xin.
Người đàn bà này đã trải qua những giai đoạn đó:
Trước tiên bà kiên nhẫn kêu xin. Xin lần thứ nhất chưa được, bà liền xin lần thứ hai và mãi cho tới lần thứ ba bà mới được toại nguyện.
Niềm tin của bà thật cảm động, vì bà quá khiêm tốn trước mặt Chúa. Bà chỉ ao ước nhặt từng mảnh vụn ơn thánh rơi rớt của những người con Chúa. Bà biết mình không xứng đáng được ơn. Bà không dám nghĩ mình được tắm trong biển cả yêu thương của Chúa, nhưng chỉ cần một giọt thánh ân trong biển lòng thương xót của Chúa có thể cứu sống con của bà.
Niềm tin của bà còn đạt tới niềm tin tưởng tuyệt đối, không có gì lay chuyển nổi! Cho dù trước thái độ xua đuổi khéo léo của các môn đệ và sự lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà không bỏ cuộc. Bà vẫn một lòng cậy trông vào Chúa đến mức độ mà Chúa phải ca tụng bà: "đức tin của bà thật lớn lao. Bà muốn sao được vậy". Và phép lạ đã diễn ra bởi lòng tin của một người mẹ hết mình vì con.
Vâng, lòng tin thường là điều kiện cần thiết để Chúa thi thố tình thương của Ngài dành cho chúng ta. Lòng tin càng lớn thì ân ban càng nhiều. Lòng tin càng được tôi luyện trong gian nan thử thách thì càng thấy rõ hơn tình thương của Chúa khi được Ngài giải thoát khỏi mọi hiểm nguy. Lòng tin cần phải kiên nhẫn mới có thể thấy sự bất lực của con người trước sự dữ và quyền năng cao vời của Thiên Chúa luôn sẵn lòng bảo vệ con người khỏi mọi sự dữ.
Lòng tin này đã được thánh nữ Monica thực hiện suốt 18 năm ròng rã. Thánh nữ Monica luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustino. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Người đời nhìn bà là một người phụ nữ bất hạnh vì chồng khô khan, và con truỵ lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay. Bà muốn bỏ cuộc, nhưng thánh Ambrosio đã nói với thánh nữ: "Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất". Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi phận số của người con. Thánh Augustino đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống đời thánh thiện. Thánh nhân đã bỏ con đường con công danh để tận hiến cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã không tìm kiếm thú vui thể xác nhưng tìm kiếm hạnh phúc Nước trời.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người đã cạn kiệt nước mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta. Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Amen.
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài: TN 20-A62
Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Canaan ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”
Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Canaan thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phêrô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Canaan này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.
Còn về phía người đàn bà Canaan, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn - “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Canaan hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!
Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Maria tại thôn xóm Nadarét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.
Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Maria. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Maria, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Maria Nadarét và Maria Mácđala bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. A-men
------------------------------------------
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã: TN 20-A63
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
------------------------------------------
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần: TN 20-A64
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Đấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho". Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: "Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: "Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương xót con". Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó". Đây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa,
Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
------------------------------------------
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên: TN 20-A65
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trênbàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)
Thái độ của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này không được đáng mền. Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mátthêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” Có óc kinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
------------------------------------------
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa, tại Tia và Xiđon, vùng đất của: TN 20-A66
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa, tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại. Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm. Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan. Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít. Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia. Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
***
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin: “Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.” Người mẹ đau vì con của mình đau. Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái. Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy. Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to. Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội. Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu. “Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.” Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần. Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu. Người phụ nữ vẫn là người độc thoại. Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà. Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.” Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát. Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ. Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích. Chị không phải là chiên của nhà Israel. Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi, vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
***
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ. Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng, và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu. Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế. Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu. Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin: “Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25); khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22). Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà. Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ. Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con, vì tình yêu nối kết cả hai nên một. Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu. Người đưa ra lời từ chối thứ hai quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng: “Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.” Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành. Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà. Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng. Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái. Họ tự hào về tính ưu việt của mình trong tư cách là Dân riêng của Chúa. Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
***
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi. Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa: “Thưa Ngài đúng thế. Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.” Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà, không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn. Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái, bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống. Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng. Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
***
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà. Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.” Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11). Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con. Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, hiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối. Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng. Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu, và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người. Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
***
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…” Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm. Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt: “Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
***
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó. Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ. Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,” để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
***
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám. Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa. hiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau. Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại, tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
***
Lời nguyện:
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín. Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
***
Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ. Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian à khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
***
Xin cho con đức tin vui tươi,hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống. * Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.
------------------------------------------
TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ: TN 20-A67
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.
Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?
2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?
3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?
------------------------------
Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện cho: TN 20-A68
Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường vào rừng, tìm đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận lời ông và độ trì cho dân chúng.
Khi nhà đạo sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người kế tục. Họ tìm được một người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ trước kia thường đến cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.
Người này nói với Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng con tin chắc rằng Chúa không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thiên Chúa đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi khi đến nhờ ông cầu nguyện.
Khi người này qua đời, thì dân làng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Họ tìm được một người. Người này thuộc lời cầu nguyện, nhưng lại không biết chỗ cầu nguyện trong rừng.
Ông bèn thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, con biết không màng đến nơi chốn. Nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa. Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.
Thiên Chúa cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin ông cầu nguyện.
Thế nhưng đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân chúng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết chỗ trong rừng lại cũng chẳng thuộc lời cầu nguyện.
Ông đã thưa Chúa:
- Lạy Chúa, con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh mà chỉ lắng nghe nỗi thống khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thế là một lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân chúng trong làng. Nhưng sau khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết chọn ai thay thế nữa. Cuối cùng họ phải nài nỉ một người mà họ biết là không đạo đức chút nào. Ông ta chỉ biết có tiền bạc. Ông càu nhàu với Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa là ai mà cứ bắt con cầu nguyện rồi mới ra tay cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu cứu đây tôi xin giao cho Chúa tất cả. Tuy Chúa muốn làm gì thì làm.
Nói xong ông quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu giúp.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng tượng được. Lời kinh, nơi chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải những gì cốt yếu để Thiên Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài. Điều cốt yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn vẹn.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa còn nghe lời kêu xin của một phụ nữ ngoại đạo ở Canaan, vì nhận thấy lòng kêu xin của bà thật là vững mạnh. Đức tin quả lấp đầy cái hố xem ra ngăn cách hồng ân Thiên Chúa với các dân ngoại. Bà đã kêu cầu với Chúa Giêsu bằng danh hiệu “Con Vua Đavit”. Bà có lòng trông cậy đặc biệt vào quyền năng cao cả của Ngài. Nhưng vì người ngoại đạo nên bà không phải là người mà Đưc Giêsu phải đến thực hiện lời hứa dành cho người Do Thái. Chúa làm thinh. Các môn đệ đã mau mắn can thiệp: “Bà đã làm cho chúng tôi điếc tai mất, xin Thầy bảo bà ta yên cho chúng con nhờ!”. Câu trả lời của Đức Giêsu “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”xem ra ăn khớp với yêu cầu của các môn đệ. Nhưng cũng cho thấy rằng, các con chiên lạc của nhà Israel có thể đôi khi lại ít gắn bó với Đức Giêsu hơn là những con chiên xa lạ trong dân ngoại. Quả thực, Đấng chăn chiên tốt lành đã không từ chối người này hay người kia.
Nghe câu trả lời có vẻ dứt khoát, người đàn bà không ngã lòng và cứ nài nẵng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Đến đây câu trả lời của Chúa lại có vẻ khinh bỉ hơn: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Ai cũng thấy rằng không nên so sánh như vậy, nhưng chắc cũng đoán ra rằng có lẽ là một thử thách lòng tin. Người đàn bà ngoại giáo Canaan cũng có thái độ như thế, bà đã chịu chơi không kém. Bà không phản đối mà còn tự nhận mình là “chó con”trong nhà để đòi được ăn những mảnh vụn rơi xuống đất, nghĩa là đòi cho con mình được khỏi bệnh. Đức Giêsu đọc rõ lòng tin tưởng của bà, Ngài như lấy làm ngạc nhiên về lòng tin của bà và đã nhận lời cùng với lời ca ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa thấu suốt tận đáy lòng con người và Ngài muốn tìm ở đấy trước hết là lòng tin. Với lòng tin chân thật thì bất cứ ai, dù là người ngoại đạo, cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Ngài là ơn phổ quát, cho mọi dân tộc. Ngày nay Chúa dùng Giáo Hội của Đức Kitô để cứu độ nhân loại qui tụ mọi dân tộc lại cho Ngài. Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ chung và duy nhất của cả nhân loại. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay cũng đã cho thấy: Thiên Chúa đầy lòng thương xót và muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Vì thế, Thánh Phaolo đã quyết định đi tới dân ngoại để đem lại cho Tin Mừng cứu độ. Rồi đây Do Thái và dân ngoại sẽ gặp nhau trong Giáo Hội của Đức Giêsu như một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chủ Chiên.
Thánh lễ tái diễn mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nhớ đến tình thương và ơn huệ lớn lao Ngài đã ban cho chúng ta qua Đức Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cùng với Ngài mở rộng cõi lòng yêu thương đến với hết mọi người, để ơn cứu độ phổ quát của Chúa có thể đến được với mọi dân tộc trên thế giới.
------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Đã đành đức tin là một ân ban, một tặng phẩm mà Chúa trao cho con người một cách nhưng không.: TN 20-A69
Đã đành đức tin là một ân ban, một tặng phẩm mà Chúa trao cho con người một cách nhưng không. Nhưng đức tin ấy có lớn mạnh và vững vàng hay không là tùy thuộc chính yếu vào con người. Hạt giống đức tin mà Chúa gieo trong tâm hồn chúng ta thì cũng rất cần sự cộng tác của ta trong việc làm cho nó lớn lên và trổ sinh hoa trái. Cũng như vàng cần được lửa thử luyện để đạt tới độ tinh khiết của vàng ròng, thì đức tin của con người cũng cần được thanh luyện qua những thử thách và gian nan trong cuộc đời này để có được đức tin chân thật và trưởng thành. Ta hãy nhớ lại hành trình đức tin của các tổ phụ chúng ta để rút ra bài học cho mình.
Câu chuyện người đàn bà Canaan ngoại giáo trong Tin mừng hôm nay để lại cho chúng ta nhiều bài học thâm thúy về một đức tin trưởng thành, mạnh mẽ và chân thật.
1. Lòng tin lớn lao và chân thật là biết kiên trì khi Chúa im lặng.
Ta không biết được nhờ đâu mà người đàn bà dân ngoại có đứa con gái bị quỷ ám biết được Đức Giêsu. Tin mừng không nói đến điều đó, nhưng có lẽ bà đã biết được Danh Đức Giêsu nhờ những lời truyền khẩu về Ngài qua những phép lạ Ngài làm. Bởi lẽ, Bà là người Canaan , thuộc Dân ngoại. Còn Đức Giêsu là người Do thái, nên ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Nhưng khi thấy Đức Giêsu, bà tin rằng cơ may đã đến với bà. Con gái bà hoàn toàn có hy vọng được khỏi bệnh.
Với tất cả tấm lòng thành, bà đến với Đức Giêsu để xin Ngài nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ. Bà đau vì nỗi đau của đứa con mà bà đã cưu mang và sinh hạ. Tấm lòng mẫu tử thôi thúc bà vượt qua bao nhiêu rào cản để đến với Đức Giêsu, để đặt hy vọng vào Ngài. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp lại một lời. Một thử thách quá lớn đối với một người mới có đức tin. Rất nhiều người trong chúng ta thắc mắc: “Tại sao Chúa lại hành động như vậy? Đâu rồi hình ảnh một Thiên Chúa tình thương mà biết bao người đã ca tụng như thế?” Phải chăng Chúa Giêsu vô cảm và lạnh lùng trước nỗi đau của người khác? Phải chăng Ngài vô tâm và lãnh đạm trước những việc Ngài có thể làm được? Và chắc chắn còn rất nhiều những câu hỏi rất hợp lý được đặt ra trước thái độ im lặng của Đức Giêsu trước lời kêu xin của người đàn bà ngoại giáo này. Lắm khi, chúng ta cũng gặp sự thinh lặng nặng nề như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: “Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?” Nhưng đức tin chân thật là biết kiên trì khi Chúa im lặng. Không kiên trì sẽ mất đức tin, mất tất cả.
2. Lòng tin lớn lao là biết kiên trì khi bị từ chối.
Người đàn bà ngoại giáo này không nản lòng trước thái độ im lặng của Chúa Giêsu. Bà đã vượt qua được một giai đoạn quan trọng để làm cho hạt giống đức tin của bà lớn lên. Dù Chúa Giêsu im lặng, người đàn bà cứ đi theo sau Ngài mà kêu xin. Bà kêu xin hoài, kêu mãi khiến các môn đệ Chúa Giêsu cảm thấy bực bội: “xin Thầy bảo bà ấy về đi”. Chắc bà cũng nghe được những lời bực bội ấy của các môn đệ, nhưng bà không nản lòng và không chịu thua. Bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin Ngài cứu giúp. Nhưng kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng, nếu không muốn nói là làm xúc phạm đến người xin: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con”. Bà có sốc không khi Chúa Giêsu ví Dân ngoại, ví bà với chó con nuôi trong nhà, không đáng được hưởng phần ăn của con dân Israel ? Điều đáng khen và đáng mừng là bà đã không thất vọng trước lời từ chối này. Bà đã vượt qua được một giai đoạn cực kỳ quan trọng trong hành trình đức tin. Đây là một giai đoạn khó khăn vô cùng. Đã có rất nhiều người không thể vượt qua được giai đoạn này nên bỏ cuộc. Còn chúng ta thì sao? Nếu chúng ta để cho cái tôi của mình quá lớn, chúng ta sẽ có nguy cơ mất đức tin. Thực tế là đã có nhiều người bỏ đạo vì cha sở, cha phó hay ông thầy nói những lời làm họ tự ái. . .
3. Lòng tin lớn lao là biết khiêm tốn, khiêm hạ:
Bà mẹ này đã chấp nhận lối so sánh của Chúa Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con và chỉ dám trông chờ những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ. Bà không dám mong được ăn phần ăn của các con cái trong nhà. Sự khiêm hạ của bà đã giúp bà về đích cách thành công. Trong cuộc hành trình đức tin, sức mạnh của lòng tin nằm ở sự khiêm tốn. Với sự khiêm tốn của người đàn bà dân ngoại này, Chúa Giêsu đã ngạc nhiên về bà và khen bà là người có đức tin lớn lao. Lòng tin lớn lao của bà khiến bà: “muốn sao thì sẽ được như vậy” Xin chúc mừng bà. Bà là người đã giành được “vòng nguyệt quế” chiến thắng.
Qua hành trình đức tin gian khó của người đàn bà ngoại giáo này, chúng ta thấy được rằng: tin thật sự không phải là đòi hỏi Chúa làm điều này điều nọ cho chúng ta, nhưng là chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón nhận tất cả như quà tặng tình yêu của Chúa. Tất cả là hồng ân, là tình thương của Chúa.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là làm theo ý của Chúa Cha. “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Nhưng Chúa Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin rằng: Cha vẫn ở với Ngài và nói với Ngài qua những hoàn cảnh khác nhau, nên Ngài đã để cho trái tim của Ngài được tự do vươn rộng ra. Ngài tin rằng điều Ngài sắp làm cho người đàn bà có lòng tin mạnh mẽ là hợp với thánh ý của Chúa Cha. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa tình yêu, đã rất trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được thánh ý của Chúa Cha vừa hé lộ cho Ngài.
Ước gì chúng ta luôn có được lòng tin sắt đá vào Thiên Chúa qua từng ngày sống của chúng ta. Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho chúng ta biết để Chúa Cha dẫn chúng ta đi từng ngày và mở lòng chúng ta ra với những chân trời mới của lòng tin yêu và phó thác.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Người (Lc 1,50). Thiên: TN 20-A70
Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Người (Lc 1,50). Thiên Chúa của chúng ta giàu lòng thương xót. Ngài tỏ lòng xót thương nhân loại cũng như từng cá nhân. Ngài đã đến trần gian để cứu độ chúng ta cũng vì thương xót chúng ta.
Lòng thương xót của Chúa được ghi lại nhiều đoạn trong Kinh thánh. Đoạn Phúc âm hôm nay cũng cho thấy điều đó. Người đàn bà ngoại giáo đến kêu xin Chúa Giêsu và bà tin tưởng vào Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vua Nhân ái và giàu lòng thương xót. Vì tin tưởng như thế nên bà không nản lòng, cứ bền tâm kêu xin dù Chúa Giêsu không đáp lại một lời nào. Với lòng tin và kiên tâm của bà, cuối cùng Chúa đã ban cho như ý bà xin. Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa. Những khi chúng ta cầu xin, Chúa có thể đối xử bằng lòng nhân từ kèm với thử thách lòng tin. Chúa sẵn sàng ban ơn nhưng với điều kiện là chúng ta phải ở trong tâm thế sẵn sàng đón nhận và ước mong lãnh nhận. Chúa có quyền ban cho và cất đi nếu Chúa thấy điều đó tốt cho chúng ta trong một giai đoạn nào đó. Nhiều lúc chúng ta kêu xin Chúa nhưng Ngài chưa trả lời ngay dù Người đã nghe thấy rồi. Chúng ta hãy cứ tiếp tục kêu cầu thì Người sẽ ban cho vì Ngài rất yêu thương chúng ta.
Nếu Chúa chưa ban cho chúng ta ơn chúng ta cầu khẩn cũng là vì Chúa thương chúng ta. Suy nghĩ của Chúa cao hơn suy nghĩ của chúng ta nên chúng ta không thể lý giải hết tất cả. Tuy nhiên, lời cầu xin của chúng ta nhiều lúc chưa đúng đắn hoặc chưa thật lòng, chưa đáng được Chúa nhậm lời. Ví dụ: một người xin Chúa cho thi đậu tú tài nhưng cứ lười học bài, … thì Chúa không làm bài thay được. Chúng ta tin vào lòng thương xót Chúa và hành động thì mới có được kết quả mỹ mãn.
Có lẽ vì con người thiếu lòng tin vào lòng thương xót Chúa nên Chúa đã phải tỏ mình qua nữ tu Faustine Kowalska. Chúa vẫn thương và tiếp tục yêu thương nhân loại dù có nhiều người tội lỗi và muốn phớt lờ chân lý Chúa dạy. Thiên Chúa vẫn thương xót không phải vì con người dễ thương nhưng vì Chúa là Cha nhân hậu vẫn trông ngóng những đứa con không tìm đường về, có khi không muốn nghe ai nhắc về vấn đề tôn giáo với họ! Nữ tu Faustine đã được Chúa Giêsu chọn để gởi đến nhân loại sứ điệp Chúa giàu lòng thương xót: Ta không muốn trừng phạt nhân loại đang đau khổ, nhưng ta muốn chữa trị nhân loại bằng cách ôm trọn nhân loại trong trái tim nhân từ của Ta. Qua sứ điệp này, tôi càng tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa đối với tôi là con người tội lỗi và an tâm sống đạo, trông cậy Chúa sẽ ban phần thưởng đời sau. Tôi biết những cố gắng sống đạo của tôi sẽ không uổng phí. Cho dù có những lúc tôi thiếu lòng mến Chúa, thiếu cầu nguyện và làm phiền lòng Chúa nhưng Chúa không muốn chấp tội tôi. Ngài luôn là một người Cha hay thương xót, đang trông ngóng những đứa con lầm đường trở về để tha thứ, để ban ơn và để giao cho mỗi người trông coi một công việc nhà Người. Khi tôi được cộng tác trong Giáo hội Chúa, tôi cảm thấy phấn chấn vì có dịp lập công, mai sau không hổ thẹn khi lãnh một phần thưởng quá lớn lao từ Thiên Chúa Ba Ngôi là hạnh phúc Thiên đàng vĩnh cửu.
Có nhiều người như muốn hỏi Chúa: Chúa có nghe lời con kêu xin chăng, sao Ngài vẫn im lặng! Chắc chắn rằng Chúa không bỏ rơi chúng ta, Ngài sẽ ban ơn cho nếu điều chúng ta xin phù hợp cho phần rỗi và ích lợi cho chúng ta. Hẳn là con người bất xứng, không đáng cho Chúa nhậm lời, nhưng vì lòng thương xót, Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin dủ lòng thương chúng con là những kẻ tộI lỗI, yếu đuốI tư bề. Chúng con biết Chúa yêu thương chúng con lắm nên mớI hạ thế mà giảng dạy và cứu chuộc chúng con. Hàng ngày chúng con gẫm suy về lòng thương xót Chúa và cầu xin thống thiết cho nhân loại đang chìm vào u mê của những hưởng thụ và vô tín. Dẫu rằng con người có hai phần xác hồn nhưng nhiều người bỏ quên hồn và chỉ chăm chút phần xác hay đúng hơn là chỉ chăm chút cho đời này mà bỏ quên đời sau. Tất cả mọi người đều cần ở lòng thương xót Chúa, ở sự trợ giúp yêu thương của những người xung quanh. Xin cho chúng con thực sự trở thành những chứng nhân cho Chúa giữa trần gian để loan truyền tình thương Chúa cho mọi người.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Người ta thường nói “có gan mới làm giàu”. Đúng vậy, trong đời sống khi muốn tốt hơn thì lắm: TN 20-A71
Người ta thường nói “có gan mới làm giàu”. Đúng vậy, trong đời sống khi muốn tốt hơn thì lắm lúc ta cần phải có sự liều lĩnh. Liều lĩnh để vượt qua những khó khăn thử thách. Liều lĩnh để có thể vượt qua những rào cản của dư luận … Dĩ nhiên, sự liều lĩnh ấy cần được đặt trên một tiêu chuẩn nào đó. Một trong những tiêu chuẩn cần thiết là lòng tin. Khi có lòng tin người ta mới dám thực hiện bước đột phá.
Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho ta chiêm ngắm một bước đột phá của người đàn bà xứ Canaan . Như ta biết, thời Chúa Giêsu người Do thái và người ngoại giáo có một sự ngăn cách rất lớn. Họ rất ngại tiếp xúc với nhau. Thế nhưng người đàn bà này dường như không cần chú ý đến điều ấy. Bà ta đến thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”. Sau một hồi thinh lặng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.”. Bà ta vẫn tiếp tục nài xin “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!". Như một gáo nước lạnh Chúa Giêsu tiếp tục nói với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Nếu như với người khác, có thể họ đã bỏ ra về. Nhưng bà không ngần ngại trả lời:“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." . Với câu trả lời này có thể nói được là Chúa Giêsu phải “tâm phục khẩu phục” nên đã nói:“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
Như thế, ta thấy nếu không có lòng tin mạnh vào Chúa thì người đàn bà này đã không thể nào thực hiện được bước đột phá này. Nhờ đó, con của bà đã được chữa khỏi.
Những ngày gần đây, ở miền Bắc nước ta xảy ra nhiều thiên tai do bão và lũ gây ra. Thông thường những cây nào sau những trận mưa bão mà còn trụ lại được thì những cây đó mới thực sự có giá trị. Thánh Giacôbê đã nói: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều.Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1, 2 – 3).
Có thể nhiều lúc trong đời sống đức tin ta thấy dường như Chúa hoàn toàn thinh lặng thậm chí không ngó ngàng gì tới mình. Hãy tin là những lúc ấy chính là những cơ hội Chúa đang chờ ta thực hiện những bước đột phá như người đàn bà này. Chắc chắn Chúa sẽ không quên ta trong những lúc ấy.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Trình thuật Chúa Giêsu chữa khỏi quỷ ám cho con gái người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Chúa: TN 20-A72
Trình thuật Chúa Giêsu chữa khỏi quỷ ám cho con gái người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay bao hàm hai ý nghĩa: một đàng Chúa Giêsu xác nhận Dân Israel chính là dân được tuyển chọn, dân của Lời hứa (x. Mt 15,24); đàng khác, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, dành cho tất cả những ai có lòng tin vào Người (x. Mt 15,28).
Là Đấng Thiên sai, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử duy nhất được Chúa Cha sai đến để chăn dắt Israel (x. Ez 34,23). Nhưng thái độ của Dân Do Thái làm cho Chúa thất vọng. Họ tự phụ vào truyền thống là dân riêng, dân được chọn của Chúa, nên thường không tin Ngài.
Chúng ta cũng thường tự hào mình là người Công giáo, những người nắm giữ đức tin chân thật. Lý lịch công giáo của chúng ta được xác nhận qua Sổ Rửa Tội, Thêm sức, Hôn phối. Chúng ta thuộc về một cộng đoàn Họ đạo. Chúng ta giữ Lễ Chúa Nhật hàng tuần…rồi thôi. Chúng ta cho rằng mình chỉ cần giữ một số Luật quy định thì đã xong bổn phận giữ đạo của mình rồi. Ngoài ra thì cuộc sống của chúng ta chẳng thể hiện một đức tin tích cực nào cả: thiếu một tấm lòng với Chúa và với anh em. Tóm lại, chúng ta là người Công giáo theo sổ sách, nhưng không phải trong đời sống.
Chúa cần nơi mỗi người chúng ta một tấm lòng: “yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình”. Chỉ có tấm lòng mới thể hiện đích xác chúng ta là con cái Thiên Chúa. Bởi vì tin Chúa, có nghĩa là gắn bó toàn vẹn con người chúng ta vào Chúa, sống theo và cho Chúa.
Người đàn bà Canaan được Chúa ban phép lạ theo lời khẩn cầu, vì bà đã tin. Biết bao anh em lương dân chung quanh chúng ta, chưa nhận biết Chúa, nhưng đời sống luân lý của họ nhiều khi tốt hơn chúng ta. Họ ăn ngay, ở lành, thờ Trời và được bình an. Đời sống trong sáng của họ nên như nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta. Cánh cửa ơn cứu độ của Chúa vẫn dành cho họ. Trách nhiệm của chúng ta là phải sống xứng đáng, vì là con cái Thiên Chúa, và đem Tin Mừng Chúa đến cho những ai chưa được diễm phúc biết Người.
Xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình. Amen
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
John Nguyễn
1. Thái độ đạo sư của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này
Để hiểu thái độ của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư: TN 20-A73
Để hiểu thái độ của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư Đông phương chứ không phải của một người thông thường. Các đạo sư Đông phương nhiều khi có những cách hành xử khác thường, với mục đích giáo dục (cho một bài học) hoặc thử thách (gây khó khăn) người đệ tử. Đó không phải là những hành động Ngài muốn làm gương để mọi người bắt chước. Chẳng hạn thiền sư Đơn Hà chẻ tượng Phật trong chùa ra làm củi để sưởi vì đệ tử kiếm củi không ra. Mục đích của ông không phải để các đệ tử từ nay cứ thế mà bắt chước ông, mà để dạy cho họ biết Phật không phải là những bức tượng bằng vật chất, mà là một thực thể sinh động và thiêng liêng ở ngay trong tâm hồn của mỗi người: «Tức Tâm tức Phật». Ông làm thế vì thấy các đệ tử quá chú trọng vào những nghi thức bề ngoài trước tượng Phật, mà quên bổn phận quan trọng hơn rất nhiều là phải ý thức tâm mình mới là Phật đích thực, và phải tu tâm, tức tập sống cho xứng với phẩm giá cao quí đó.
2. Giải thích tình huống trong bài Tin Mừng
Đức Giê-su và và môn đệ lúc này đang ở miền Tia và Xi-đôn, không thuộc vùng đất của Do Thái. Đây là một dịp tốt khiến Ngài ý thức lại sứ mạng loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và cứu độ họ. Còn Ca-na-an là một trong những tên cũ của Pa-lét-tin, vốn là một dân tộc thù nghịch với Dân Do Thái từ thời các tổ phụ. Ban đầu, Thiên Chúa hứa cho A-bra-ham vùng đất của dân Ca-na-an (x. St 12,6-7; 15,18), và dân Do Thái đã phải chiến đấu rất cam go - khi thắng khi bại - với họ để chiếm lấy đất ấy (x. Xh 23,23-24; Gs 3,10; Tl 1,9-10). Thái độ cố hữu của người Do Thái là tỏ ra không ưa người Ca-na-an, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các tông đồ đối với người phụ nữ Ca-na-an là một điển hình: xem ra các ông chẳng có cảm tình với bà. Trong bài Tin Mừng này, người phụ nữ Ca-na-an đại diện cho dân ngoại.
Tâm tình của Đức Giê-su đối với bà này không phải giống như các tông đồ hay người Do Thái, vì Ngài cũng có sứ mạng đối với dân ngoại, nên Ngài cũng rất yêu thương họ. Nhưng Ngài lại tỏ thái độ xem ra không thân thiện lắm đối với bà này vì Ngài có dụng ý của Ngài. Thái độ của Ngài là một sứ điệp chủ yếu cho các tông đồ và người Do Thái hơn là cho bà ấy. Ngài chỉ muốn thử thách bà ấy một chút thôi.
3. Thái độ và chủ ý của Đức Giê-su
Người phụ nữ Ca-na-an này có đứa con gái bị quỷ ám, đương nhiên là đáng thương. Bà xin Ngài chữa cho con bà. Nhưng Ngài lại nói với các môn đệ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thực ra Tin Mừng và ơn cứu độ là dành cho mọi người, mọi dân tộc, nhưng trước tiên là dành cho dân Do Thái, sau mới tới các dân tộc khác. Tuy nhiên, mỗi sự mỗi việc đều có thời điểm của nó. Vào thời điểm Đức Giê-su nói câu này, Tin Mừng và ơn cứu độ đang ở giai đoạn dành cho người Do Thái. Chính Ngài đã từng ra lệnh cho các môn đệ: «Tốt hơn, anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en» (Mt 10,6). Nhưng sẽ tới thời điểm Đức Giê-su ra lệnh cho các ông: «Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ » (Mt 28,19).
Đối với các môn đệ, Đức Giê-su muốn chuẩn bị báo trước cho các ông sơ đồ sự việc sẽ xảy ra: Tin Mừng và ơn cứu độ được Ngài rao giảng ưu tiên cho người Do Thái, và sau đó người Do Thái có nhiệm vụ đem Tin Mừng và ơn cứu độ ấy đến với muôn dân. Nhưng sơ đồ ấy đã không xảy ra, vì chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy. Dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), và dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) nói lên sự từ chối ấy. Vì thế, Tin Mừng và ơn cứu độ được đem ra rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều ấy trong thư Rôma 9,25-33. Đức Giê-su đến với người Do Thái, nhưng nói chung họ đã không tin Ngài, thậm chí đã giết Ngài. Trái lại, chính dân ngoại lại tin vào Ngài, và vì thế họ được cứu độ. Điều quan trọng để được cứu là họ phải tin vào Ngài, điều này được chứng tỏ trong việc Ngài cứu con gái người phụ nữ Ca-na-an có niềm tin rất đáng trân trọng này.
Đức Giê-su, với tư cách một đạo sư, đã thử thách lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an. Vả lại, qua việc biểu lộ niềm tin của bà ta, Ngài cũng muốn cho các môn đệ thấy rằng: ai tin vào Ngài, dù là dân ngoại, đều được Ngài xót thương và cứu độ. Chính vì thế, Ngài đã nói với bà những lời mà khi nghe ta cũng phải chạm tự ái thay cho bà, và có thể ta thầm trách Đức Giê-su đã quá tàn nhẫn, hoặc đã quá coi thường dân ngoại. Vì ví dân Do Thái như con cái trong nhà (=con người), còn dân ngoại như chó (=thú vật) chỉ đáng ăn đồ thừa của con cái, thì quả thật là quá đáng! Nhưng Ngài cố ý nói như thế để thử thách niềm tin của bà chứ không phải Ngài khinh bỉ bà như thế. Vả lại, Đức Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta biểu lộ niềm tin. Ngài không thể làm phép lạ cho họ khi họ không tin (x. Mt 13,58). Người phụ nữ Ca-na-an này đã tỏ ra niềm tin, lòng khiêm nhường và sự kiên nhẫn rất đáng khen, chính vì thế, bà đã được toại nguyện.
4. Thiên Chúa thử thách để củng cố và thánh hóa ta
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị/được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh Thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giê-su đối với người phụ nữ Ca-na-an là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách trong một mức độ nào đó là rất cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện nên vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lãnh của ta tới mức độ nào. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn thử thách con người, nhất là những người yêu mến Ngài và được Ngài yêu mến, những người Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi, mục đích là để họ thăng tiến và xứng đáng hưởng vinh quang (x. Rm 8,30). Đến nỗi thánh Tê-rê-xa A-vi-la khi bị thử thách quá độ đã phải kêu lên: «Chúa đối xử với bạn thân của Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn thân là phải!». Vì thế, ta hãy tạ ơn Chúa khi được Ngài thử thách. Thử thách xong mà lại được toại nguyện như người phụ nữ Ca-na-an thì thử thách đó cũng đáng mong ước!
5. Hãy rút kinh nghiệm bài học lịch sử
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các tông đồ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thiên Chúa và Đức Giê-su đã dành cơ hội ưu tiên cho người Do Thái trong việc tiếp nhận Tin Mừng và ơn cứu độ. Nhưng lịch sử cho thấy chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy: thậm chí hiện nay đa số người Do Thái trên thế giới vẫn còn giữ đạo của Mô-sê, hay đạo của Cựu ước. Vì thế, các tông đồ đã quay sang rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, tức những người ngoài Do Thái thời đó. Và «dân ngoại» đã tiếp nhận Tin Mừng của Đức Giê-su, đã trở thành Ki-tô hữu, và hiện nay đã chiếm tới 1/3 thế giới, tức khoảng 1 tỷ người, trong đó có chúng ta.
Hiện nay, các Ki-tô hữu - chiếm 1/3 thế giới - đã thay thế dân Do Thái trong việc làm cầu nối giữa Thiên Chúa với thế giới, và có nhiệm vụ đem Tin Mừng đến cho 2/3 thế giới còn lại. Bài học lịch sử từ sự kiện dân Do Thái từ chối ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho họ khiến chúng ta phải coi chừng kẻo chính chúng ta, Giáo Hội Công giáo hiện nay, lại đi vào chính vết xe đã đổ ấy. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống ba «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23), là ba điểm cốt yếu về thực hành trong Do Thái giáo hay Ki-tô giáo. Nhưng rất có thể là chính người Ki-tô hữu lại coi thường những điều cốt yếu ấy để quan trọng hóa những điều phụ thuộc như các lễ nghi, những hình thức bề ngoài
không khác gì các Pha-ri-siêu thời trước (Mt 23,13-32; Mc 12,40; Lc 11,39-48; 20,47). Đang khi ấy, rất có thể người ngoài Ki-tô giáo lại sống những điều quan trọng ấy hơn chúng ta. Thật thế, nhiều tín đồ các tôn giáo khác sống tốt hơn chúng ta về những điều ấy. Vì thế, một cách nào đó, chúng ta không đáp ứng được điều Thiên Chúa chờ mong nơi chúng ta, là trở thành cầu nối giữa Ngài và tôn giáo, mà còn lại từ chối sự ưu tiên trong việc lãnh nhận ơn cứu độ vì cách sống thiếu tình thương của mình. Hãy cẩn thận để tránh vết xe đi trước đã đổ.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con học được những bài học mà Đức Giê-su đã muốn cho con học qua cách hành xử của Ngài đối với người phụ nữ Ca-na-an. Xin cho con nhận ra tình thương của Cha trong những cơn thử thách, những khi gặp khó khăn đau khổ, vì mục đích của Cha khi thử thách là muốn con thăng tiến hơn trên con đường hoàn thiện. Xin cho con trở thành cầu nối vừa giới thiệu vừa đem Cha đến với những người sống chung quanh con. Amen.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Sr Mai An Linh, OP
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt 3 bài đọc Chúa Nhật XX năm A hôm nay, đó là “qua dân tộc Do Thái, ơn cứu: TN 20-A74
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt 3 bài đọc Chúa Nhật XX năm A hôm nay, đó là “qua dân tộc Do Thái, ơn cứu độ đã đến với dân ngọai”. Qủa thế, ngay bài sách tiên tri Is.56,1.6-7 Ngôn Sứ đã nói đến viễn cảnh lương dân nhập đòan cùng con cái Abraham, đến bài đọc II thư gửi tín hữu Rm.11,13-15.29-32 Thánh Phaolô cũng xác định rằng Ngài được tuyển chọn là để cho dân ngọai. Và bài Tin mừng Chúa Giêsu nói tới việc Ngài được sai đến cho con cháu nhà Israel nhưng vì họ cứng lòng mà dân ngọai được mời gọi.
Chúa Giêsu đến là để tìm những con chiên lạc nhà Israel, nhưng ở đây Chúa Giêsu chữa bệnh cho con người phụ nữ Canaan. Thật ra, Ngài chỉ làm phép lạ này sau cuộc chối từ dai dẳng, như thế Ngài chỉ làm vì bất đắc dĩ mà thôi. Trước khi làm Ngài còn muốn xác quyết mạnh mẽ việc tuyển chọn Israel trước mặt các môn đệ và ngay chính dân Do Thái cứng lòng tin nhất “ Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel mà thôi”, phải phân phát bánh, nghĩa là Tin mừng cho “con cái” nghĩa là cho kẻ thừa tự lời hứa trước đã. Vì thế, Đức Giêsu chỉ nhượng bộ trước lời cầu xin của người đàn bà sau khi bà đã nhận ra sự chia cách do Thiên Chúa muốn giữa dân Ngài và mọi dân khác. Sự chia cách ấy bao giờ cũng linh thánh. Như vậy, Thiên Chúa lựa chọn dân Do Thái là vì dân tộc khác.
Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái là để cho các dân tộc, cho nên ơn cứu độ có tính phổ quát. Chúa Giêsu nói với bà như là sự từ chối “ Không nên lấy bánh của con cái mà cho lòai chó”. Ngài nói như thế để cảnh cáo cho người Do Thái biết rằng: Thiên Chúa đã ưu tiên cho họ mà họ từ chối, nên ơn cứu độ sẽ được ban cho các dân tộc. Trong kế đồ cứu độ, có nhiều giau đọan, Đức Giêsu đến đào tạo một nhóm người rồi sau đó là giai đọan của Thần Linh, Tin mừng được rao giảng cho mọi dân tộc vì mọi người đều là con cái của Abraham nếu có lòng tin vào Đức Giêsu (x.Rm11,13…).
Đó là Israel của lòng tin, Israel qui tụ những kẻ tin và trong đó chúng ta thấy có viên quan bách quản Rôma, một người phụ nữ Samari, một đám đông không kể xiết tòan những người tội lỗi, nên Chúa Giêsu không muốn lọai trừ người phụ nữ Canaan này, Chúa chỉ thách thức bà đi đến đức tin chân chính để bà có thể đến với ngài. Và chính bà cũng hiểu điều này và diễn tả niềm tin mới bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm tốn “ những chó con cũng được ăn những vụn bánh rơi từ bàn rớt xuống”.
Bà kiên trì nài nỉ với Chúa Giêsu không hề nao núng, dù bị các môn đệ từ chối. Nhưng bà tin là Chúa Giêsu, Đấng tốt lành nên không nản chí và bà còn kêu to lên “ Lạy Ngài là con vua David xin thương tôi”, tước hiệu “ con Đavid” có ý nói Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đến để thực hiện lời hứa với nhà Đavit. Điều này chính ra người Do Thái phải là người loan báo cho dân ngọai, thì giờ đây người dân ngọai lại rao giảng cho người Do Thái.
Nhìn vào thái độ của người phụ nữ chúng ta hãy nhìn lại mình, chúng ta có hay than phiền về Thiên Chúa khi chúng ta gặp thử thách không ? Đức tin của chúng ta lớn bao nhiêu ? Chúng ta đòi Chúa giải quyết những công việc mà bản thân chúng ta không giải quyết được, chúng ta đòi Thiên Chúa phải ban cho chúng ta điều này điều kia mà chúng ta không xin Ngài giải thóat chúng ta khỏi sự dữ.
Người phụ nữ Canaan đã hiểu rằng không gì ngòai lòng tốt và sự thánh thiện của một ngôn sứ có thể giải phóng được bà, bà kiên trì cầu xin cả trong lúc bà không được niềm nở đón tiếp.Lạy Chúa, Chúa đã đón nhận đức tin người phụ nữ ngọai giáo để nói lên tính cách phổ quát của ơn cứu độ. Xin cho chúng con lòng nhiệt thành, hăng say loan báo Tin mừng đến cho muôn người, để Thánh Ý Chúa được thể hiện mau chóng.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Lm Trần Thanh Sơn
Đọc lại lịch sử Giáo Hội và lịch sử thế giới, chắc nhiều người trong chúng ta đều biết đến cuộc: TN 20-A75
Đọc lại lịch sử Giáo Hội và lịch sử thế giới, chắc nhiều người trong chúng ta đều biết đến cuộc Thập Tự chinh đẫm máu chống lại người Hồi Giáo vào những năm 1095-1291, bước sang thế kỷ 16 là cuộc chiến giữa người Tin lành và Công giáo tại Âu Châu, rồi cuộc đối đầu giữa những người quá khích Ấn giáo với những người theo các tôn giáo khác tại Ấn Độ…
Và Mahamat Ganhdi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Ganhdi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Những câu chuyện trên đây muốn nói lên một trong những thảm trạng đau thương của lịch sử nhân loại hiện nay. Đó là sự xâu xé do sự bất khoan dung tôn giáo gây nên. Thế đó, con người luôn bị cám dỗ nhân danh niềm tin, nhân danh Thượng Đế của mình để bách hại và loại trừ người khác.
Thời Chúa Giêsu, những người Biệt phái cũng có thái độ tương tự. Nhân danh lề luật, nhân danh Thiên Chúa, họ đã kết án và loại trừ nhiều người, nhất là những kẻ bé mọn, những người dân ngoại, những người mà họ cho là tội lỗi.
Thế nhưng khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do Thái. Chúa cũng đã đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn quy tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Điều này được thể hiện rõ trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.
1. Ơn cứu độ được ban cho mọi người
Để thấy rõ điều này, chúng ta cùng đọc lại các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Trước hết, bài đọc một được trích đọc hôm nay, thuộc phần thứ ba trong sách của ngôn sứ Isaia (56, 6-7). Đoạn này được viết trong bối cảnh dân Do Thái vừa từ nơi lưu đày trở về. Tại Đất Hứa, và ngay chung quanh thành Thánh Giêrusalem đã có rất nhiều người dân ngoại sinh sống. Do đó, vấn đề đặt ra là họ phải đối xử với những dân tộc này như thế nào. Hơn nữa, những người ngoại bang này có được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hay không? Đứng trước những vấn nạn đó, vị ngôn sứ được mạc khải của Thiên Chúa đã đưa ra cho họ một câu trả lời thật rõ ràng: “Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Như thế, ngay từ trong Cựu ước, mạc khải về tính phổ quát của ơn cứu độ đã bắt đầu được hé mở.
Tính phổ quát này của ơn cứu độ đã trở nên hiện thực với việc xuất hiện của Chúa Giêsu. Ngay từ khi Giáng Sinh thì một trong những người đầu tiên đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chính là những đạo sĩ người dân ngoại đến từ Đông Phương (x. Mt 2, 1-12). Rồi hôm nay đây, trong lúc những người đồng hương Nazareth với Chúa Giêsu đã không tin Ngài (x. Mt 13, 53-57); các Luật sĩ và Biệt phái thì dựa vào các lệ truyền của tiền nhân để huỷ bỏ chính Lời Thiên Chúa (x. Mt 15, 1-9). Họ đang tranh luận với Ngài về luật “sạch” và “dơ” (x. Mt 15, 10-20). Họ tự hào là công chính vì có lề luật, để loại bỏ những người mà họ cho là dân ngoại, là “dơ”, thì ngay lúc đó, một người phụ nữ người Canaan, một thứ “dân ngoại” chính gốc đã hết lòng tin tưởng và nhận được ân ban của Đức Giêsu (x. Mt 15, 21-28). Đây là khúc mở đầu, sau khi Phục Sinh, trước khi về trời, thì di chúc cuối cùng của Đức Kitô cho các tông đồ là ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân (x. Mt 28, 19-20).
Vâng lời Thiên Chúa, các tông đồ đã lên đường rao giảng cho hết mọi dân tộc. Chính thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma chúng ta vừa nghe, cũng khẳng định: “Tôi là Tông đồ các Dân ngoại”. Và ngài còn cho thấy, lẽ ra Tin mừng phải được loan báo cho dân Israel là dân được Chúa chọn trước, nhưng vì họ đã cứng lòng, không tin, nên giờ đây, vị tông đồ đã quay sang loan báo cho anh em dân ngoại để họ được cứu rỗi “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót”. Dù vậy, thánh nhân cũng hy vọng chính khi thấy dân ngoại tin nhận Đức Kitô và được ơn cứu độ, thì lúc đó dân Israel cũng sẽ quay lại để được ơn cứu độ “cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót”.
Như vậy, ơn cứu độ không thể bị giới hạn bởi bất cứ một dân tộc nào, cho dù đó là dân Chúa chọn; hay bởi bất cứ miền đất nào, dù đó là Đất Hứa. Tuy nhiên, mặc dù là ơn của Thiên Chúa, nhưng để lãnh nhận được ơn cứu độ này, mỗi người chúng ta cũng cần thể hiện một thiện chí nào đó của mình.
2. Điều kiện để nhận lãnh được ơn cứu độ
Trước hết, chúng ta phải xác tín lại với nhau rằng ơn cứu độ là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô: “Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. (Rm 15, 29).
Kế đến, ơn cứu độ cũng đòi chúng ta một sự mở rộng cõi lòng, sẵn sàng đón nhận và hết lòng tin tưởng trong tinh thần khiêm hạ. Chúng ta có thể nhận ra được điều này trong lời cầu xin của người phụ nữ Canaan, khi bà xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Bà không hề nhân danh một điều gì khác ngoài lòng thương xót của Đức Giêsu: “Lạy Ngài, con Vua Đavít, xin thương xót tôi” Đây là một lòng tin trong sự phó thác hoàn toàn nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không hề dựa vào bất cứ điều gì của bản thân mình. Khi Chúa nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” thì bà đã đáp lại một cách tuyệt vời: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng đựơc ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Trước lòng tin mạnh mẽ đó, Đức Giêsu đã làm cho bà những gì bà muốn: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Có lẽ đây là một trong những lần hiếm hoi, mà Chúa Giêsu đã “thua” trong các cuộc tranh luận. Ngài đã thua trước lòng tin và sự khiêm hạ của người phụ nữ Canaan.
3. Chúng ta hôm nay
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải tự nhìn lại chính mình. Có khi chúng ta đang đi vào vết xe cũ của những người Biệt phái xưa kia. Chúng ta tự hào mình là một kitô hữu, được rửa tội từ bé, mình là “đạo dòng, đạo gốc” rồi loại bỏ những người khác. Đây quả thật là một điều nguy hiểm, vì nếu chúng ta không có được một đức tin, lòng khiêm hạ và sự kiên nhẫn như người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng, thì nguồn gốc đó không thể cứu được chúng ta. Điều thứ hai chúng ta rút ra được từ lời Chúa hôm nay đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài không loại trừ ai. Vì thế, để được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy biết tha thứ và sống bao dung với người khác, đón nhận người khác không phân biệt lương giáo, kể cả những người không cùng ý kiến với chúng ta như lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn đọc hàng ngày: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”.
Đối với các em thiếu nhi, các con cần tập sống lòng bao dung đó ngay từ bây giờ, cụ thể là không cãi nhau, đánh nhau, và sẵn sàng chơi với hết mọi bạn, nhất là những bạn không có ai chơi cùng. Các con hãy luôn giữ nụ cười trên môi đối với hết mọi người.
Nếu tất cả cộng đoàn chúng ta sống đức tin cách cụ thể như vậy, nghĩa là, luôn mở rộng vòng tay đón nhận người khác đến với chúng ta. Lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng nhận được lời hứa của Chúa: “Này con, con có lòng mạnh tin. Con muốn sao thì được vậy”. Amen.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ngôn sứ Isaia đã từng khiển trách người Do Thái:” Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì: TN 20-A76
Ngôn sứ Isaia đã từng khiển trách người Do Thái:” Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta “. Thời Chúa Giêsu đã có biết bao người ở ngoài, nghĩa là những người bị coi sống ngoài lề xã hội, sống xa Đền Thờ, chưa hề thuộc bất cứ một lề luật nào của Môsê nhưng họ lại có lòng sám hối, ăn năn và tin tưởng sâu xa hơn những người được coi là ở trong, những người có đạo, những người Do Thái. Chúa Giêsu đã từng nói:” Không phải những kẻ thưa lạy Cha, lạy Cha ngoài môi miệng là được rỗi đâu “…
Nếu xét cách thường tình, người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Mt 15, 21 - 28 là một người bị người Do Thái khinh bỉ, miệt thị. Bà chỉ là một người vô đạo không hơn không kém. Nói theo ngôn ngữ của người Do Thái, bà là người ở ngoài, người không biết Chúa, người không hề biết một tí gì về lề luật của Môsê. Tuy nhiên, bà đã sống niềm tin mãnh liệt, niềm tin mà Chúa Giêsu đã có lần khen viên bách quản ( Mt 8, 10.13 ). Lòng tin của bà được biểu lộ rõ nét khi bà hoàn toàn phó thác vào quyền năng của Chúa, bà trao tuyệt đối sinh mạng con bà cho Chúa. Bà đã sống trong sự quan phòng của Chúa, dù rằng bà không hiểu thế nào là sự quan phòng, thế nào là sự phó thác: sợi tóc trên đầu rơi xuống, hoa huệ ngoài đồng, con chim trên trời vv…Xem ra bà mù tịt về những điều ấy và bà đang rơi vào chỗ tuyệt vọng. Càng tuyệt vọng, bà càng chạy tới Chúa Giêsu…Bà đã quên đi ánh mắt khinh bỉ của người Do Thái, quên đi bà là người ngoại. Bà van nài, kêu van Chúa. Sự nài nỉ, cầu cứu của bà đối với Chúa nói lên sự kiên trì và lòng tin sâu xa của bà. Người Do Thái sẽ im lặng trước lời van xin khẩn thiết của bà. Các môn đệ tôn trọng truyền thống, nhưng trước sự nài nỉ khó chịu của bà, họ cũng chẳng thích gì, nên họ gợi ý với Chúa:” Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”( Mt 15, 23 ). Quả thực, các môn đệ chỉ muốn được an thân. Còn Chúa Giêsu, Người sẽ không làm thinh, không nín lặng trước lời khẩn cầu tha thiết đầy lòng tin của bà. Chúa bằng một lời đã phá đổ bức tường nhỏ nhen do người Do Thái ích kỷ dựng nên. Người đã gây sửng sốt cho mọi người có mặt lúc đó, kể cả các môn đệ của Người nữa. Chúa nói với bà:” Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được như vậy”( Mt 15, 25 ). Đây là cuộc gặp gỡ quan phòng của Chúa.
Người có niềm tin hay không có niềm tin, không hệ trọng ở chỗ mang danh hiệu Kitô hữu hay người có đạo, người bên trong mà hệ tại ở lòng tin. Sống bề ngoài hời hợt, sống bên ngoài cho có lệ, giữ chi li lề luật cách máy móc như người Biệt phái, tất cả những hình thức ấy là giả hình. Chúa chán ghét và lên án những kiểu cách giữ đạo như thế. Sống đức tin là tin vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, tin vào tình yêu không biên giới, vô vị lợi của Chúa, tin vào tình người, tin vào lẽ sống và ý nghĩa của cuộc sống. Tất cả những sắc thái đó biểu lộ con người có đức tin và đức tin sẽ dẫn con người tới gặp gỡ Chúa.
Giữa sa mạc của cuộc đời, người Kitô hữu được mời gọi thắp sáng ngọn đuốc đức tin để tiến bước. Giữa một thế giới sống hận thù, ghen ghét và chiến tranh, người có đức tin được mời gọi sống quảng đại, yêu thương và hòa bình. Giữa một thế giới thất vọng và tuyệt vọng, người Kitô hữu được mời gọi sống hy vọng và sống niềm tin. Sống như thế, người Kitô hữu mới thực sự sống niềm tin của mình và họ mới thực sự được gọi là môn đệ Chúa.
Chúa luôn mời gọi nhân loại sống yêu thương. Con người nhiều khi vẫn có khuynh hướng tự mãn cho ta là hơn người. Người đàn bà Canaan bị người Do Thái khinh bỉ và các môn đệ sợ bị liên lụy, bị quấy rầy thì Chúa lại ca ngợi, tôn vinh bà. Người ở trong hay người ở ngoài không phải là vấn đề mấu chốt nhưng chỉ khi con người biết sống niềm tin sâu xa, chân thật mới quan trọng. Thánh Phaolô đã chẳng nói:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết đó sao? ”. Không ai là trung tâm của vũ trụ và không ai là một hòn đảo cả. Chúa kêu mời môn đệ của Người hãy sống:” Hiền lành và Khiêm nhượng “. Thập giá là cây ác nghiệt do con người nghĩ ra, nhưng chính cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu lại qui tụ mọi người dưới chân Người, xung quanh Người và bên Người để lãnh nhận ơn cứu độ của Người.
Xin Chúa ban cho chúng con lòng tin sắt đá để chúng con luôn tin vào Chúa là Chúa của Tình yêu.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, con người không khỏi nửa cười nửa khóc, hoặc ngạc nhiên đến lạ: TN 20-A77
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, con người không khỏi nửa cười nửa khóc, hoặc ngạc nhiên đến lạ lùng trước thái độ của Chúa Giêsu. Có lúc Chúa tỏ ra rất nghiêm khắc nhưng có lúc Ngài cũng mềm lòng trước tâm tình dễ thương của con người, trước thái độ kiên trì, lời khẩn khoản thật khiêm tốn của con người. Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 21-38 hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người đàn bà ngọai giáo xứ Canaan nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn” những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống “. Đây là thái độ hết sức khiêm tốn của người đàn bà ngoại giáo này. Thái độ của một người cầu nguyện với hết tâm hồn, với hết đức tin của mình.
Bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu chữa đứa con gái của người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan bị quỉ ám. Ngưới đàn bà này bị dân Do Thái coi như ở ngoài, nghĩa là không thuộc về phe họ, do đó, đối với dân Do Thái bà là đồ bị chúc dữ và bị kinh bỉ.
Đức Kitô thương yêu mọi người, Ngài không loại trừ ai, không bỏ rơi ai, miễn là họ biết mở lòng ra, biết khẩn cầu Ngài và thật lòng muốn được Ngài cứu chữa. Con gái của người đàn bà Canaan bị quỉ ám, đang ở vào tình trạng hết sức tuyệt vọng: các thầy thuốc giỏi, danh tiếng đều bó tay, vô phương cứu chữa. Bà đã hoàn toàn tuyệt vọng theo mặt tự nhiên. Chính đức tin diễn tả ra nơi bà qua lời khẩn khoản nài van, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và đã chữa lành con của bà được khỏi ngay lúc đó. Đức tin mạnh mẽ của bà cũng như đức tin của Viên Bách Quản khiến Chúa thay đổi ý định của Ngài. Bởi vì, Chúa Giêsu chỉ được Chúa Cha sai tới với con cái Israen, một dân tộc tự kiêu, tự hào vì là dân riêng của Chúa. Họ hãnh diện về đức tin của cha ông và của chính họ. Tuy nhiên, trước lòng tin mạnh mẽ và thái độ khiêm tốn cầu nguyện của người đàn bà, Chúa đã làm phép lạ để cứu chữa một người bị quỉ ám, không phải là dân Do Thái, là dân ngoại bị dân Do thái khinh chê và coi là đồ chó. Bà đã kêu xin Chúa thương xót cứu chữa con gái của bà. Rồi bà quỳ mọp xuống đất trước mặt Chúa Giêsu xin Ngài thương cứu giúp con bà, và với một thái độ hết sức khiêm tốn chấp nhận lời so sánh hết sức tủi nhục, so sánh mình với đồ chó. Bà đã có một đức tin rất mạnh mẽ như Viên Bách Quản, một đức tin son sắt thúc đẩy bà khẩn cầu hết lời, hạ mình chấp nhận những hất hủi, những tủi nhục, những khinh miệt có thể gọi được là tột độ đến thế. Bà đã có một đức tin sâu sắc để có thể chấp nhận những thử thách của Chúa Giêsu ban đầu. Bà không bực tức, không chán nản, không thất vọng, bà luôn chứng tỏ niềm tin mạnh mẽ và kiên trì.
Lời khẩn cầu của người đàn bà xứ Canaan thật khiêm tốn nhưng đầy tin tưởng và mạnh mẽ,kiên trì, phó thác. Do đó, Chúa Giêsu không nỡ từ chối. Đức Kitô đã ban cho người đàn bà Canaan được thỏa lòng mong ước, đồng thời công khai khen ngợi lòng tin của bà trước mặt các môn đệ. Chúa Giêsu muốn dạy con người về mẫu gương cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Mẫu gương về lời cầu nguyện và đức tin của người đàn bà ngoại giáo này gợi cho chúng ta xét lại thái độ cầu nguyện của chúng ta và đức tin của chúng ta ra sao mỗi lần chúng ta gặp những bất trắc, những thử thách nơi trần gian này. Liệu đức tin của chúng ta có mạnh mẽ hay thua kém nhiều người ngoại giáo và nhiều người lương ? Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng cho con người. Tuy nhiên để diễn tả đức tin và để chứng tỏ đức tin, chúng ta:” Phải quỳ gối cầu xin ”( Pascal ). Trong mọi trạng huống của cuộc đời, dù cầu xin chưa được, chúng ta vẫn cứ kiên trì để cầu xin và khiêm tốn, van nài, tin tưởng và phó thác như người đàn bà Canaan. Chắc chắn Chúa sẽ nhậm lời chúng ta:” Cứ xin thì được. Cứ gõ thì mở. Cứ tìm thì gặp “. Chúng ta thực sự tin tưởng vào tình thương vô biên của Chúa.
Người đàn bà Canaan đã hoàn toàn tin vào sức mạnh quyền năng của Chúa. Bà tin, bà nhận được hồng ân cao quí của Chúa. Chúa đã chữa con bà ngay lúc bà tin khẩn khoan nài van. Và đây là một kinh nghiệm trong đời sống đức tin. Chúng ta đã có kinh nghiệm về đức tin như người đàn bà Canaan chưa ? Khi gặp khó khăn trong cuộc sống thường ngày, chúng ta có đủ sáng suốt, can đảm, tin tưởng, phó thác xin Chúa cứu giúp không ? Chúng ta có coi Chúa là tất cả khi chúng ta cầu xin không ?
Lạy Chúa xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa. Amen.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Anmai, CSsR
Tất cả những người “bén duyên” với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho: TN 20-A78
Tất cả những người “bén duyên” với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho những “người ngoại” ắt hẳn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm tuyệt vời từ những “người ngoại” tìm đến Chúa. Với xã hội phát triển vượt bậc về kinh tế như ngày nay tưởng chừng con số gia nhập Kitô giáo sẽ chựng lại hay chỉ vài người nhưng thật may mắn khi còn nhiều và còn nhiều người “ngoại” bỗng nhiên cảm mến Chúa, cảm mến Đạo để tìm đến các lớp Dự Tòng của các giáo xứ để học giáo lý. Trong những người đấy thật sự là có những người học vì phải theo đạo vợ đạo chồng nhưng cũng trong những số ấy, không ít người “ngoại” xuất phát từ niềm tin thật trong lòng của họ.
Một học trò cũ đã bộc bạch với tôi: “Thưa Cha ! Thoạt đầu, vì anh ấy con đi học giáo lý để tìm hiểu về Chúa nhưng rồi sau khi đi học con thấy con tin Chúa nhiều lắm ! Nhất là sau khi rửa tội, con thấy con bình an hơn, cuộc sống của con thanh thản hơn trước. Con đã bớt đi tính tranh giành, hơn thua, ghen ghét. Hiện giờ thì anh ấy không quen con nữa nhưng con cảm ơn anh ấy vì chính anh ấy là người dẫn con đến với Chúa và Mẹ. Con nghĩ rằng anh là người dẫn đường cho con. Vẫn biết rằng chia tay với anh ấy con rất buồn nhưng con thấy con được rửa tội để theo đạo là con hạnh phúc rồi. Những tối khó ngủ, con đeo chuỗi Mân Côi mà đứa bạn tặng con trong ngày rửa tội (13.07.2008 tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) con thấy con ngủ ngon !”. Tôi không nghĩ ra và không ngờ học trò đã nói rất thật, thật tự đáy lòng và lương tâm của mình. Phải chăng đây là lòng tin kiên vững của một “dân ngoại” thời hiện đại.
Nếu có dịp, ai muốn “tai nghe mắt thấy” thì có thể đến với các lớp giáo lý dự tòng trong đó có lớp giáo lý ở Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải Dòng Chúa Cứu Thế dạy hay hay nổi tiếng nhưng Ban giảng huấn ở đây đã thu thập tất cả các chứng từ, các cảm nghiệm thật đơn sơ, thật chân thành tự đáy lòng của những “dân ngoại” khi họ tìm đến Chúa. Những lời chứng ấy, những niềm xác tín đấy hiện đang còn lưu giữ như lời chứng hùng hồn niềm tin vào Chúa giữa một thế giới mà dường như người ta muốn đẩy Thiên Chúa ra bên lề đời họ.
Với Cha Trương Bửu Diệp, Ngài khá nổi tiếng vì sự tử đạo của mình nhưng nổi tiếng hơn khi Ngài đã làm nhiều và nhiều dấu lạ cho mọi người. Khi đặt chân đến viếng Ngài ở Tắc Sậy, những người mà tôi được tiếp xúc, hỏi thăm đều cho biết: “Cha Bửu Diệp mắc cười lắm ! Ngài hay làm dấu lạ cho nhiều người nhưng đặc biệt Cha làm dấu lạ cho những người “lương” (“ngoại giáo”) không à ! Còn những người Công Giáo được ơn của Cha rất ít”. Đúng như lời những người ở đây nói khi tôi đi tham quan một vòng nhà thờ cũng như phần mộ của Cha. Hàng ngàn cái ghế đá dâng kính Ngài trong khuôn viên nhà thờ như nói lên lòng biết ơn Cha Bửu Diệp được đề tên nhưng đa số là của “người ngoại” vì có tên người dân nhưng không có tên Thánh như những con nhà “có đạo” mà ta thường thấy.
Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Cha Bửu Diệp đã ban ơn cho “dân ngoại” nhiều hơn con nhà “có đạo”. Nhiều người hàm hồ bảo rằng Thiên Chúa bất công, thiên vị, cho người ngoài chứ không cho con cái trong nhà !
Ở vùng đất Cần Giờ nhỏ bé nghèo nàn cũng thế ! Vị linh mục đặc trách đã, đang bị “ném đá” vì ngài đã cứu đói người ngoại nhiều hơn là con cái trong nhà ! Lẽ ra con cái trong nhà phải hiểu cho tấm lòng của vị mục tử khi quan tâm, chia sẻ cho “người ngoại” đàng này chia bè chia phái làm vơi đi cái lòng mến cha – con thuở ban đầu. Giờ này đây linh mục đặc trách khá đau đớn trước cách phân chia của mình. Ngài làm theo cách của Chúa Giêsu làm trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại.
Chúa Giêsu, thoạt đầu cũng nói thẳng với bà: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Phải nói rằng Chúa Giêsu ví von nghe sao mà sốc quá ! Người ta đến với mình, hạ mình xuống để xin mình chữa cho con của họ mà họ là phụ nữ nữa chứ ! Cho không cho thì thôi, còn ví von này nọ, còn đem hình ảnh của những miếng bánh cho chó ! Chúa Giêsu kỳ quá ! Không ! Chúa Giêsu không kỳ, Ngài dùng lời lẽ đó để thử lòng tinh của người phụ nữ “ngoại giáo” này ! Thử thì thử nhưng lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này đã phá vỡ được sự “cứng cỏi” của Chúa Giêsu. Ta có thể nói rằng trong ván cờ này Chúa Giêsu thua 1-0. Thua 1-0 nhưng thật ra là thắng ! Thắng vì lẽ Chúa Giêsu đã thu lợi được một con người, một lòng tin từ người “ngoại” này vào Thiên Chúa. Thua như thế cũng đáng thua chứ cũng chẳng mất mát gì. Không chỉ thua mà Chúa Giêsu còn minh chứng, còn công bố cho những người gặp gỡ Chúa hôm ấy rằng: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này được Chúa bù đắp một cách mỹ mãn.
Như trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe: Đây Thiên Chúa phán: "Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. "Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".
Đức Chúa hứa với những người ngoại bang sẽ trở thành tôi tớ Chúa vì họ trung thành với giao ước và được Đức Chúa dẫn lên núi thánh. Còn chúng ta, chúng ta được gọi là “con nhà có đạo”, là quân “Giudêu”. Có đạo chục năm, vài chục năm, thậm chí bảy tám chục năm nhưng rồi lòng tin của chúng ta đang ở mức độ nào ? Nó còn nồng thắm như cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy” khi mới theo Chúa hay không ?
Phải nói rằng như người ta vẫn nói: “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Nhiều khi cứ đi lễ đi nhà thờ như một thói quen chứ niềm tin thì cứ nhạt dần nhạt dần. Người ta có thể cân đo đong đếm thóc lúa tiền nong chứ làm sao mà đo được lòng tin. Thế nhưng, dẫu không đo được lòng tin cao bao nhiêu ? sâu baon nhiêu ? rộng bao nhiêu ? không cân được lòng tin của anh, của chị, của chúng ta được bao nhiêu ký nhưng qua lối sống, qua hành vi, tương quan của mỗi kitô hữu với những người xung quanh có thể biết được người ấy tin Chúa ở mức nào, sống kết hợp với Chúa như thế nào ?
Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được ?
Chẳng nói đâu xa, trong giới “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của “luật sĩ và biệt phái” đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính “luật sĩ và biệt phái” không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.
Hình ảnh người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không ? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng.
Chúng ta - quân “Giudêu” - có dám tin vào Chúa như người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay không ? Nếu chúng ta tin thật vào Chúa như “người ngoại” thì bảo đảm Chúa cũng phải mềm lòng với những kẻ cứng đầu cứng cổ, chầy cối van xin Chúa như người ngoại đạo hôm nay trong Tin mừng.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
LM. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Một người đàn bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”… “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi !” (Mt 15, 22a.25b). Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28a).
2. CÂU CHUYỆN: TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI NHAU:
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski): TN 20-A79
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là DỐT-SI-MA (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không ? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu ? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không ?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy ?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.
3. SUY NIỆM:
Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giê-su để xin Người chữa cho con gái bà lành bệnh. Nhờ có đức tin mạnh mà bà đã được Người ban cho như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải cầu nguyện với lòng tin như thế nào?
- CẦN CÓ MỘT ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giê-su thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” Nhưng Đức Giê-su im lặng không đáp lại một lời ! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà mạnh yếu thế nào ? Nếu bà không kêu xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là tin vụ lợi: “Tin Chúa để được Người ban ơn như ý !” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”. Nhiều khi chúng ta cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, chúng ta có hồ nghi sự hiện hữu của Chúa và tự hỏi: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không ? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của tôi không ? Có nhìn thấy những khó khăn của tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp không ?”.
- CẦN CÓ MỘT ĐỨC CẬY VỮNG VÀNG: Người đàn bà này đã không ngã lòng trông cậy dù bị Đức Giê-su giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì kêu xin Người cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời, thì liền chán nản ngã lòng trông cậy, không cầu nguyện nữa và bắt đầu “hữu sự vái tứ phương” là chạy đến với thầy bói, thầy ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác….
- MỘT ĐỨC TIN KHIÊM TỐN VÀ PHÓ THÁC: Nghe Đức Giê-su trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà sằn sàng chịu đựng những lời miệt thị của người Do Thái, vì họ coi dân ngoại như loài chó. Chính sự khiêm tốn ấy khiến bà được Chúa yêu mến. Như vậy, tin không phải là cầu xin để đòi Chúa ban theo ý mình, nhưng là kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.
4. THẢO LUẬN:
1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giê-su hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ ?
2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su dạy có những đặc điểm nào ?
3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA CHA NHÂN ÁI. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao hồn xác.
- LẠY CHA. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi đời đời của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng của Cha như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khí gặp phải những sự trái ý cực lòng... Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
------------------------------------------
Mt 15, 21 – 28
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ: TN 20-A80
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa ! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi !" (Mt 15, 22) Bà coi Chúa Giêsu là Đấng Messia.
Sự thinh lặng của Chúa Giêsu
Bà xin Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin Chúa phải trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel" (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israël, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.
Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là "bức tường hận thù" (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện "đừng có lải nhải như dân ngoại" (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mà người nào trong dân Israel, thì hãy "đối xứ với họ như dân ngoại " (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.
Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít" (Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi" (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, "không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó" (Mt 15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, "vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống" (Mt 15, 27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.
Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi: điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.
Giao ước và đức tin
Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, "vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc" (Is 56, 7 ) ; để "hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài" (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó: "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót" (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11, 13-15. 29-32)
Bài học cho chúng ta
Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Nhờ đức tin của bà, Chúa Giêsu hoàn thành phép lạ cứu con gái bà. Người ban cho bà được đồng bàn tình thương của Thiên Chúa như con cái Cha trên Trời. Được trở nên con cái Thiên Chúa là ơn gọi của chúng ta! Chúng ta không bị tách rời khỏi Giao ước ban đầu. Chúa Giêsu đến để kiện toàn, vì: "Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu"(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12). Cả chúng ta nữa, chúng ta được Thiên Chúa Cha mời gọi vào dự tiệc cưới Con Chiên.
Bánh vẫn luôn luôn là nội dung của câu chuyện. Bánh được ban cho dân chúng ăn no nê, thỏa mãn sự thèm muốn. Bánh đã được ban tặng cho 12 chi tộc Israel, bánh ấy đã không được chấp nhận, nay Bánh ấy được ban cho dân ngoại. Chúa Giêsu là Bánh của con cái Thiên Chúa. Phẩm vị của những người làm con Thiên Chúa mới đẹp làm sao.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, như: người bạn đến quấy rầy xin bánh, bà góa yêu cầu vị thẩm phán bất lương xử kiện, cụ thể người đàn bà xứ Canaan đã chiến đấu và đã chiến thắng. Thiên Chúa vui mừng vì đã có cơ hội để chịu thua một đức tin tuyệt vời. Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng phải chiến đấu một trận chiến, ai có đức tin tuyệt vời sẽ là người chiến thắng. Amen.
Nguồn vietcatholic.org
------------------------------------------
Is 56,1.6-7; Rm 11,13-15.19-32; Mt 15,21-28
CẦU NGUYỆN THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC CHẤP NHẬN ?
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 15,21-28
(21) Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đon. (22) thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !”. (23) Nhưng Người không đáp lại một lời. Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !”. (24) Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi”. (25) Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (26) người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. (27) Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. (28) Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU CHỮA CON GÁI NGỪƠI ĐÀN BÀ XỨ CA-NA-AN:
Khi nghe người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con gái của bà đang bị quỷ ám, Đức: TN 20-A81
Khi nghe người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con gái của bà đang bị quỷ ám, Đức Giê-su im lặng và khi môn đệ cầu bầu thì Người giải thích lý do “chỉ được sai đến với chiên lạc nhà It-ra-en mà thôi”. Tuy nhiên các lời bà đối đáp đã chứng tỏ bà có một đức tin mạnh mẽ, nên cuối cùng bà đã được Đức Giê-su khen ngợi có đức tin mạnh và đã ban cho bà được thỏa mãn.
3. CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đon: Tia va Xi-đon là hai thành phố của dân ngoại. Khi âm thầm lui về miền đất ngoại giáo này (x. Mc 7,24), có lẽ Đức Giê-su muốn tránh sự dòm ngó của nhóm Pha-ri-sêu, cũng như tránh sự nồng nhiệt của quần chúng muốn tôn Người lên làm vua sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,15). Ngoài ra, điều này còn tiên báo: Vì dân Do thái đã từ chối ơn cứu độ ưu tiên cho họ, nên dân ngoại sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ ấy. + “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”: Sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết và tuyên xưng Đức Giê-su bằng danh hiệu Con Vua Đa-vít là do bà đã ra khỏi miền đất dân ngoại và được nghe nhiều người Do Thái truyền đạt đức tin về Đức Giê-su (x. Mc 3,8).
- C 23-24: + Nhưng Người không đáp lại một lời: Khi không nghe lời cầu xin của người đàn bà này, Đức Giê-su muốn thử thách để biết tình trạng đức tin của bà, để gia tăng lòng tin cho bà. + Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !: Các môn đệ muốn Đức Giê-su thỏa mãn lời cầu xin để khỏi tiếp tục bị quấy rầy. Còn Đức Giê-su lại muốn chứng tỏ Người ban ơn cho ai là tùy lòng tin yêu của họ. Ở đây không những Người ban cho con gái bà khỏi bị quỷ ám, mà còn ban cho chính bà đức tin vào Người là điều kiện để được hưởng ơn cứu độ. + Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi:Sinh thời, Đức Giê-su chỉ rao giảng cho người Do Thái, là những người được thừa kế các lời hứa cho họ là con cái Thiên Chúa (x Rm 9,5; 15,8). Do đó, khi sai các môn đệ đi giảng đạo, Đức Giê-su cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ dân Ít-ra-en (x. Mt 10,5-6). Nhưng rồi thực tế cho thấy: dân Do Thái đã từ chối ơn ấy, nên cuối cùng họ đã bị mất quyền ưu tiên gia nhập Nước Trời (x. Cv 18,17).
- C 25-26: + “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”: Người đàn bà tỏ ra kiên trì trong lời cầu xin: xin một lần chưa được, bà xin hai, rồi ba lần. Khi cầu xin mà chưa được nhận lời, bà vẫn bền đỗ chứ không nản lòng bỏ cuộc (x Lc 18,1). + “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”: Không nên lấy Nước Trời được hứa ban cho con cái trong nhà là dân It-ra-en, để đem cho người ngoài là dân ngoại bị khinh dể như loài vật. Từ chó con ở đây là để làm dịu bớt sự khinh miệt theo quan điểm của dân Do thái.
- C 27-28: + Chó con: là con vật nuôi trong nhà và được mọi người cưng chiều. + Cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống: Câu nói của người đàn bà cho thấy bà có lòng khiêm tốn. Bà công nhận dân Do thái có quyền ưu tiên hơn dân ngoại trong chương trình cứu độ. Điều này cho thấy đức tin của bà thật vững mạnh. + Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy: Khi thấy người đàn bà tỏ lòng khiêm hạ và vững lòng phó thác cậy trông, Đức Giê-su đã khen ngợi đức tin của bà và đã ban cho con gái bà khỏi bệnh như ý bà xin.
4. CÂU HỎI:
1) Người đàn bà ngoại giáo kêu xin Đức Giê-su bằng danh hiệu nào ? Tại sao bà ta biết được danh hiệu ấy ? 2) Tại sao Đức Giê-su làm như không biết không nghe thấy lời kêu xin khẩn thiết của người đàn bà này ? 3) Các môn đệ yêu cầu Đức Giê-su thuận theo ý người đàn bà nhằm mục đích gì ? 4) Đức Giê-su cho môn đệ biết sứ mệnh của Người là gì ? 5) Tại sao Đức Giê-su khen đức tin của người đàn bà ngoại giáo và cuối cùng đã ban theo ý bà xin ?
HỎI: TẠI SAO CHÚA IM LẶNG TRƯỚC LỜI CẦU XIN CỦA CHÚNG TA ?
ĐÁP: Khi ta cầu xin mà Chúa vẫn im lặng không nhậm lời thường do mấy nguyên nhân chính như sau:
+ Có thể Chúa đang thử thách để xem đức tin của ta mạnh hay yếu ? Trưởng thành hay ấu trĩ ? Ta cần noi gương người đàn bà ngoại giáo trong Tin Mừng:kiên trì cầu nguyện và không ngã lòng cậy trông. Xin một lần chưa được, hãy xin thêm nhiều lần. Phải xin với sự xác tín Chúa sẽ ban điều tốt lành cho ta, như Đức Giê-su phán: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
+ Có thể lời cầu xin của ta mới chỉ mang tính cá nhân. Ta hãy xin cộng đoàn hợp ý cầu nguyện như lời Đức Giê-su dạy: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18,19). Ta cũng nên xin các thánh và các linh hồn trong luyện ngục cầu bầu cùng Chúa cho ta dựa theo tín điều "Các Thánh Cùng Thông Công".
+ Có thể lời cầu xin của ta chưa khiêm tốn đủ: Do ta phô trương lòng đạo đức để tìm tiếng khen nơi người đời (x. Mt 6,5-6). Có thể do ta đòi Chúa phải ban theo ý riêng của ta, thay vì phải xin vâng theo thánh ý Thiên chúa như lời Đức Giê-su cầu xin trước khi bị bắt: “Ba ơi ! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Có thể lời cầu xin của ta còn thiếu sự hy sinh: ta hãy cầu xin, kèm theo những việc đạo đức như xưng tội rước lễ, và các việc hy sinh hãm mình, kèm theo sự tha thứ làm hòa như Đức Giê-su dạy: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
+ Có thể ta xin những điều có hại cho phần rỗi của ta mà ta không biết: Đừng đòi Chúa phải ban theo ý mình, nhưng hãy tin cậy vào lòng từ bi của Chúa, Đấng hằng muốn ban ơn cứu độ cho ta như Đức Giê-su đã dạy: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người” (Mt 7,7-11; Lc 11,13).
+ Có thể do ta cầu nguyện với lòng ích kỷ hại nhân: Xin những gì có lợi cho mình mà hại cho người khác như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã nhờ mẹ mình đến xin Đức Giê-su cho được ngồi hai bên tả hữu Người trong Nước mà Người sắp thiết lập (x. Mt 20-21), hoặc xin Chúa làm điều trái nghịch với lòng từ bi nhân hậu của Chúa như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin Thầy sai lửa trời xuống thiêu hủy làng Sa-ma-ri vì đã dám từ chối đón tiếp Thầy trò ở trọ (x. Lc 9,53-54)… nên những lời cầu xin ấy không đựơc Chúa chấp nhận (x. Mt 20,23; Lc 9,55). Ta nên chú trọng xin những ơn tinh thần như trong kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-14), vì sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn là xin các ơn vật chất phần xác, vì liên quan đến luật tự nhiên do Chúa đã an bài khi sáng tạo vũ trụ vạn vật.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Một người đàn bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”… “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi !” (Mt 15, 22a.25b). Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28a).
2. CÂU CHUYỆN: TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI NHAU:
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là DỐT-SI-MA (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không ? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu ? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không ?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy ?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.
3. SUY NIỆM:
Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giê-su để xin Người chữa cho con gái bà lành bệnh. Nhờ có đức tin mạnh mà bà đã được Người ban cho như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải cầu nguyện với lòng tin như thế nào?
- CẦN CÓ MỘT ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giê-su thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” Nhưng Đức Giê-su im lặng không đáp lại một lời ! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà mạnh yếu thế nào ? Nếu bà không kêu xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là tin vụ lợi: “Tin Chúa để được Người ban ơn như ý !” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”.Nhiều khi chúng ta cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, chúng ta có hồ nghi sự hiện hữu của Chúa và tự hỏi: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không ? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của tôi không ? Có nhìn thấy những khó khăn của tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp không ?”.
- CẦN CÓ MỘT ĐỨC CẬY VỮNG VÀNG: Người đàn bà này đã không ngã lòng trông cậy dù bị Đức Giê-su giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì kêu xin Người cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời, thì liền chán nản ngã lòng trông cậy, không cầu nguyện nữa và bắt đầu “hữu sự vái tứ phương” là chạy đến với thầy bói, thầy ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác….
- MỘT ĐỨC TIN KHIÊM TỐN VÀ PHÓ THÁC: Nghe Đức Giê-su trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà sằn sàng chịu đựng những lời miệt thị của người Do Thái, vì họ coi dân ngoại như loài chó. Chính sự khiêm tốn ấy khiến bà được Chúa yêu mến. Như vậy, tin không phải là cầu xin để đòi Chúa ban theo ý mình, nhưng là kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.
4. THẢO LUẬN:
1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giê-su hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ ? 2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su dạy có những đặc điểm nào ? 3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA CHA NHÂN ÁI. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao hồn xác.
- LẠY CHA. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi đời đời của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng của Cha như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khí gặp phải những sự trái ý cực lòng... Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
------------------------------------------
(CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN, A)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Lời tiên báo về tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5): TN 20-A82
Lời tiên báo về tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21) hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.
1. Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại
Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.
Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.
Tưởng cũng nên nhắc lại, theo truyền thống thì đây là vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc - đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia.
Vì thế, dân ở vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi, trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.
Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.
Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.
Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: "Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống" (Mt 15, 27)
Dù là bị khước từ, miệt thị , nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật" và hẳn nhiên là Chúa phán "Bà muốn sao thì sẽ được vậy" (x. Mt 15, 28).
Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
2. Khám phá sứ điệp Lời Chúa
Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.
Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.
Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.
Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc... thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.
Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, nơi “sổ rửa tội” mà thôi. Như thế, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.
Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong thử thách, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:
Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần lý, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.
Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá dáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.
Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.
Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.
Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.
Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.
------------------------------------------
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 15:21-28)
Đối với Do-thái, người đàn bà Ca-na-an trong bài Tin Mừng hôm nay là người ngoài cuộc, hoặc: TN 20-A83
Đối với Do-thái, người đàn bà Ca-na-an trong bài Tin Mừng hôm nay là người ngoài cuộc, hoặc ngoại giáo. Nhưng cách Chúa Giê-su đối xử với người ngoại giáo có giống như chúng ta đối xử với họ không? Ngôn sứ I-sai-a chuyển lời của Thiên Chúa đến chúng ta: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa… đều được Ta dẫn lên núi thánh” (bài đọc I). Còn thánh Phao-lô thì quả quyết với các tín hữu gốc dân ngoại rằng: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý” (bài đọc II). Câu chuyện Tin Mừng về người đàn bà Ca-na-an và hai bài đọc trên đều nhắm đến điểm chính là tình yêu đối với đức tin. Thiên Chúa yêu nhân loại nên kêu gọi cả dân Do-thái lẫn dân ngoại tin vào ơn cứu độ. Còn người đàn bà Ca-na-an yêu con gái mình nên không quản ngại chấp nhận thân phận “chó má” để tin Chúa Giê-su và khẩn cầu Người giải thoát con bà khỏi quỷ ám.
Dĩ nhiên vì yêu thương con cái mình là người đàn bà Ca-na-an, nên Thiên Chúa kêu gọi bà hãy tin vào Người. Chắc chắn bà biết ít nhiều về Thiên Chúa mà người Do-thái thờ phượng. Rồi qua tin đồn hoặc mắt thấy tai nghe, bà cũng biết Chúa Giê-su là một người đặc biệt. Danh hiệu “Con vua Đa-vít” đối với bà là danh hiệu diễn tả phẩm giá cao quý nhất có thể gán cho một người Do-thái, cho nên bà dùng danh hiệu ấy để kêu van Chúa Giê-su giúp đỡ bà. Vậy chúng ta hãy xem bà biểu lộ lòng tin đối với Chúa Giê-su như thế nào.
Trước hết bà đến với Chúa do động lực thúc đẩy là tình yêu bà yêu thương đứa con gái bị quỷ ám. Bà bộc bạch với Chúa: “Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”. Tình mẫu tử còn giúp bà sẵn sàng chấp nhận bất cứ khó khăn nào, miễn là con gái bà được khỏi. Chắc chắn Chúa Giê-su biết rõ điều này, nhưng Người tạo cơ hội để bà biểu lộ ba đức tính đan kết với nhau: tình yêu, lòng khiêm nhường và đức tin. Tình yêu thúc đẩy bà kiên trì và không bỏ cuộc, dù có bị khinh miệt mắng mỏ là “lũ chó con”. Cũng vậy, lòng khiêm nhường giúp bà bình tĩnh chấp nhận thân phận người dân ngoại của bà và cả sự “khinh miệt” giả đò của Chúa Giê-su. Khiêm nhường và tin luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Mức độ khiêm nhường càng thấp thì mức độ đức tin càng cao. Cho nên chúng ta không lạ gì khi thấy Chúa Giê-su tuyên dương đức tin của người đàn bà Ca-na-an nay: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” Bởi vì bà quá khiêm nhường và vì Chúa đã nhận thấy tất cả tấm lòng khiêm nhường của bà trước những thử thách Người tạo ra.
Câu chuyện Tin Mừng đòi chúng ta đặt lại vấn đề tình yêu trong đức tin. Khiêm nhường là thước đo đức tin. Nhưng tình yêu mới là sức sống của đức tin nếu chúng ta hiểu đức tin là mối tương quan sống động giữa ta với Chúa. Không biết thì không yêu mến. Khi đã biết và tin Chúa thì lòng mến phải là yếu tố đưa Chúa từ trí óc xuống trái tim chúng ta, vì đức tin không nằm trong đầu óc, nhưng trong tâm hồn! Vì thế, tin Chúa không phải là luôn miệng kêu “lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng là tuân giữ tất cả những điều Người truyền dạy, nhất là thực thi đức ái.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta có nghĩ là Chúa Giê-su cố tình tạo điều kiện cho người đàn bà Ca-na-an tuyên xưng đức tin mạnh mẽ của bà không? Có chứ. Nhưng có lẽ Chúa Giê-su muốn làm như thế, để các môn đệ Người có cơ hội nhìn lại đức tin của họ. Họ là những người theo Chúa, vậy mà ngay cả đến ông Phê-rô cũng bị Chúa chê là “kẻ kém lòng tin”! Dấu hiệu và lý do kém lòng tin là vì các môn đệ chưa có một mối tương quan mật thiết với Chúa Giê-su. Có lẽ họ vẫn theo Chúa chỉ vì ngưỡng mộ một “người làm phép lạ”, hoặc vì lý do cá nhân như tham vọng thăng tiến chẳng hạn, chứ chưa phải vì yêu mến Người. Đây cũng là điểm để chúng ta xét lại đức tin của mình!
Tuy nhiên, theo ngôn sứ I-sai-a và thánh Phao-lô, tình yêu là động lực khiến Chúa kêu gọi chúng ta đến và tin vào Người. Lời kêu gọi hãy tin cũng là lời kêu gọi hãy yêu mến. Vì yêu, Chúa kêu gọi chúng ta đón nhận ơn cứu độ. Đáp lại tình yêu, hoặc muốn được cứu độ, chúng ta cũng phải lấy tình yêu mà đáp lại. Cứu độ không phải là hành động một chiều và độc đoán của Chúa, nhưng cũng là hành động hồi đáp của chúng ta trước tình yêu của Người. Cho nên yêu mến để vững tin và được cứu độ là điều Chúa mong đợi nơi ta.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN, năm A
Mt 15, 21-28
Đức tin là một hồng ân cao vời, nhưng không của Thiên Chúa trao ban cho con người. Có thể nói: TN 20-A84
Đức tin là một hồng ân cao vời, nhưng không của Thiên Chúa trao ban cho con người. Có thể nói được không có đức tin, con người không thể nhận biết Thiên Chúa, con người không thể tìm và đạt được Nước Trời. Người đàn bà ngoại xứ Canaan, hết lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, do đó, con bà được Ngài chữa khỏi quỷ ám…
Đức tin cần được biểu lộ ra bề ngoài bằng lời cầu nguyện. Thánh Phaolô đã viết:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “. Đức tin có sức mạnh đảo ngược tất cả. Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy, lòng tin của viên sĩ quan. Viên bách quản này có thuộc hạ dưới tay, Ông truyền cho thuộc hạ làm cái này thì nó làm, truyền cho người kia đi là họ đi. Nhưng Ông đã hoàn toàn khiêm nhượng, tin tưởng vào Chúa, Ông đã không dám mời Chúa tới nhà của Ông vì Ông cho rằng Ông không xứng đáng. Ông đã thưa với Chúa: “ Lạy Ngài tôi không xứng để Ngài tới nhà của tôi. Nhưng xin Ngài chỉ phán một lời thôi, tôi tin thầy nhỏ của tôi sẽ bình phục “. Người đàn bà Canaan trong Tin Mừng hôm nay, đã được Chúa Giêsu đáp ứng lời nguyện xin bởi vì bà đã khiêm nhượng, hết lòng tin vào Chúa. Chính vì thế bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy Chúa đã từ chối lời xin của bà:” Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israen “ ( Mt 15, 24 ). Chúa còn hết sức nặng lời với bà:” Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con “ ( Mt 15, 26 ). Cuối cùng, lòng tin tuyệt vời của bà đã chinh phục được lòng yêu mến và quảng đại của Chúa: “ Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được như vậy “ ( Mt 15, 28 ). Người phụ nữ Canaan quả thực khiêm tốn, kiên trì và phó thác nơi quyền năng tuyệt đối của Chúa, nên Ngài đã không nỡ từ chối lời bà khẩn xin, nguyện ước. Chúa Giêsu đã ban cho người đàn bà xứ Canaan điều khẩn khoản mong ước của bà nhưng Ngài còn đề cao và khen ngợi vì lòng tin mạnh mẽ, kiên vững của bà.
Tin Mừng hôm nay và ý lực Chúa nhật XX thường niên năm A, minh chứng người có lòng tin và người không có lòng hệ tại ở lòng tin, đức tin của họ, chứ không chỉ là danh hiệu bề ngoài.Người tin là người tín thác vào bàn tay uy quyền và quyền năng vô biên của Chúa. Tin là phó thác vào Chúa, vào tình yêu nhưng không, cao vời, tuyệt mỹ của Ngài. Tin là tin vào sự có mặt của Chúa trong lịch sử, trong đời người và như thế, con người tin cuộc đời này thật có ý nghĩa, tình người quả thực cao siêu và như thế, con người gặp gỡ được chính Chúa.
Vâng, đức tin của viên bách quản, lòng tin của người đàn bà ngoại giáo Canaan là tấm gương cho mọi người noi theo. Trong cuộc hành trình đức tin trần thế, người Kitô hữu không phải lúc nào cũng gặp may mắn nhưng con thuyền Giáo Hội và con thuyền dòng đời của mỗi người sẽ gặp sóng gió, sẽ gặp thử thách khó khăn, chúng ta được mời gọi nâng cao đức tin, như Phêrô chúng ta mau mắn thưa với Chúa:” Xin Thầy cứu vớt con “. Giữa một thế giới mà niềm tin nhiều khi bị lu mờ, người Kitô hữu được kêu mời sống yêu thương và thắp sáng tin yêu. Giữa một thế giới hầu như đang thất vọng, nếu không nói được là tuyệt vọng, chúng ta được mời gọi thắp lên niềm hy vọng.
Cầu nguyện đòi hỏi phải kiên trì. Hãy cầu nguyện với kinh Lạy Cha. Cầu nguyện một lần chưa đủ, cầu nguyện nữa, cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng. Lời cầu nguyện miệt mài với lòng tin thẳm sâu, chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời. Thánh Anphong Rodriguez viết:” Khi tôi cảm thấy một nỗi đắng cay, tôi đặt nó giữa Chúa và tôi, và tôi cầu nguyện ch tới khi Chúa đổi nó thành dịu ngọt “.
Lạy Chúa xin gia tăng đức tin cho chúng con để chúng con không bao giờ nản chán, không bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn biết khiêm tốn phó thác vào bàn tay uy quyền và quyền năng tuyêt đối của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ai được coi là cha đẻ của lòng tin ?
2.Tiếng chó con Chúa Giêsu nói ở đây có ý gì ?
3.Tại sao dân Do Thái lại tự hào với đức tin của mình ?
4.Lòng tin của người đàn bà Canaan như thế nào ?
5.Chúa nói gì về người đàn bà xứ Canaan ?
6.Lòng tin của Ông, Bà, Anh, Chị, Em ra sao ?
------------------------------------------
Chúa Nhật 20 Thường Niên Năm A
(Ys 56,1.6-7; Rm 11,13-15.29.32; Mt 15,21-28)
Phúc Âm: Mt 15, 21-28
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm". Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống". Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Suy Niệm:
Chúa Nhật XX Thường Niên A
Ys 56,1.6-7; Rm 11,13-15.29.32; Mt 15,21-28
Thái độ và lời nói của Ðức Yêsu Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay có thể khiến chúng ta thoạt đọc: TN 20-A85
Thái độ và lời nói của Ðức Yêsu Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay có thể khiến chúng ta thoạt đọc và thoạt nghe thấy không ngon cho lắm. Nhưng đó lại chính là cớ thúc giục chúng ta tìm hiểu Lời Chúa cho rõ ràng và sâu xa hơn nữa, để xem những cảm giác đầu tiên có xứng đáng không? Ðể làm công việc này có thể chúng ta cứ theo phương pháp giáo dục và sư phạm thông thường của Kinh Thánh, tức là hiểu rõ bài Cựu Ước, chúng ta sẽ dễ tiếp thu được những chiều kích phong phú của Tân Ước. Bài sách Isaia hôm nay sẽ giúp chúng ta đi vào bài Tin Mừng. Và bài Thánh Thư đến sau đó sẽ như là một hậu quả tự nhiên.
A. Thiên Chúa Không Kỳ Thị Hạng Người Nào
Ðoạn Cựu Ước hôm nay là những lời đầu tiên trong phần thứ III của sách Isaia. Nói đúng hơn đó là những lời trước hết của một cuốn sách khác, sánh với hai phần trên của sách Isaia. Sách này đúng ra là của ba tác giả, ở ba thời khác nhau, bàn về ba vấn đề khác nhau; nên ba phần của sách thật ra là ba sách khác nhau. Ðoạn trích hôm nay thuộc về cuốn thứ ba, viết vào thời sau lưu đày và để soi sáng Dân Chúa trong thời hậu Lưu đày này. Thế mà vấn đề đầu tiên đến với Dân Chúa lúc bấy giờ chính là tương quan giữa đám dân hồi hương và những kẻ xa lạ đã đến ở trong Thánh địa đang khi Lưu đày. Loại người ngoại bang (hay tha bang) này có được thâu nhập vào Dân Chúa không? Bởi vì lịch sử Dân Chúa đâu đã kết thúc. Việc ra khỏi Lưu đày để trở về quê hương tuy đã thực hiện một số Lời Hứa mà các Ngôn sứ đã tuyên sấm. Nhưng phần lớn các Lời Hứa từ Abraham, qua Môsê và qua các Tiên tri vẫn đang còn phải chờ mong. Thời đại Ðấng Cứu thế vẫn chưa đến. Dân Chúa đang sống trong đợi chờ. Hồng ân của thời Cứu độ ấy có được ban cho ngoại bang không? Sau này họ có kết nạp với con cái Israel làm thành một dân không, hay là họ vẫn là kẻ xa lạ với ơn cứu độ chỉ dành cho những kẻ đã cắt bì?
Ðó không phải là những thắc mắc lý thuyết. Trong thực tế tương quan giữa Dothái và ngoại bang cần được giải đáp sáng sủa. Bởi vì ngoại bang không phải chỉ là ngoại kiều. Ngoại kiều có cư trú hẳn hoi ở giữa Dân Chúa. Luật pháp cho họ những quyền lợi và đòi họ những nghĩa vụ. Còn ngoại bang là những dân ngoại không có cư trú và cũng chẳng muốn có cư trú. Họ muốn được hưởng dùng mọi thuận lợi trong Dân Chúa nhưng chẳng muốn bị gò bó vào một nghĩa vụ công dân nào. Thế nên họ bị ghét và có khuynh hướng bị gạt ra khỏi Dân.
Chúa đối với hạng ngoại bang này thế nào? Người có chương trình gì cho họ không? Hôm nay Ngôn sứ của Chúa tuyên bố không úp mở?
Trước hết, Chúa phán dạy Ơn cứu độ của Người đã gần đến nơi và đức nghĩa của Người sắp rạng rỏ. Người ta phải mau mau đón tiếp. Hãy giữ công minh và thi hành đức nghĩa. Ðặc biệt hãy giữ ngày Sabbat (Hưu lễ) vì đó là dấu có lòng tin sợ Chúa. Phúc cho người nào biết thi hành như vậy, vì bất luận họ là ai mà nắm chặt những điều ấy cũng đều nhận được Ơn Chúa cứu độ. Không có luật trừ nào, kể cả đối với người ngoại bang. Nếu họ muốn phụng sự và mộ mến Yavê, nếu họ giữ ngày Hưu lễ và thi hành công chính, thì Thiên Chúa sẽ dẫn họ lên Núi Thánh của Người và Nhà của Người sẽ là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.
Lời Chúa thật rõ ràng và vô cùng mới mẻ đối với người ở thời sách Isaia. Trong tương lai, vào thời Ðấng Cứu thế, sẽ không còn phân biệt cắt bì hay không cắt bì, Dothái hay dân ngoại, con cái Israel hay ngoại bang. Thiên Chúa sẽ lập một Dân Mới cho mọi hạng người và cho mọi dân tộc, miễn là họ giữ công minh và thi hành đức nghĩa, giữ ngày Hưu lễ và không vi phạm Giao ước. Tất cả sẽ được ở trong Nhà Chúa là Nhà chung cho hết mọi dân tộc.
Giáo lý phổ quát này dễ hiểu đối với chúng ta, nhưng thật khó chấp nhận cho loài người ở thời có tầm mắt hạn hẹp. Người ta không quen thấy gì ở ngoài hàng rào các thứ biên giới. Ngay ở thời Chúa Yêsu và ngay sau Chúa Yêsu, giáo lý về phổ quát tính của Ơn cứu độ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chống đối. Ðó là điều chúng ta có thể nhìn thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta hãy thử xem vấn đề đã được giải quyết như thế nào?
B. Hội Thánh Thâu Nhận Lương Dân
Chúng ta không thể đọc bài Tin Mừng hôm nay mà không để ý đến bối cảnh khi nó được viết ra. Ðành rằng đây là một câu truyện đã xảy ra ở thời Chúa Yêsu, lúc Người còn tại thế. Và phân tích kỹ, chúng ta vẫn có thể thấy nhiều chiều kích phong phú của câu truyện này. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải nhớ, câu truyện được kể lại cho chúng ta dưới hình thức hiện nay không khỏi mang theo nhiều sắc thái của thời đại hình thành ra nó trong sách Tin Mừng theo thánh Matthêô. Ðó là thời sau Chúa Yêsu, thời Hội Thánh bắt đầu lan rộng, thời các Tông đồ đang lúng túng về thái độ phải có đối với lương dân. Soạn giả của bài Tin Mừng hôm nay vừa viết lại một câu truyện trong cuộc đời của Chúa Yêsu, vừa muốn dùng câu truyện này để soi sáng và hướng dẫn Hội Thánh.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Yêsu bấy giờ lui đến miền Tyrô và Siđôn là những nơi dân Dothái giáp giới với dân ngoại. Ðó cũng là sự kiện có thể gợi lên việc Hội Thánh lúc này phải giáp mặt với lương dân. Chúa Yêsu có vẻ như không muốn rời khỏi biên giới đất Dothái để sang truyền giáo cho dân ngoại. Nhưng một người phụ nữ từ bên kia biên giới đã chạy sang kêu cầu Người cứu chữa. Chúng ta hãy chú ý đến lời xin của bà. Ðó là giọng văn hoàn toàn phụng vụ: "Xin thương xót tôi". Và là những lời công nhận ơn cứu độ từ nơi dân Dothái, vì bà ta xưng hô Người là Con vua Ðavít. Như vậy, dù là lương dân nhưng bà đã có đức tin và biết tôn thờ như người Dothái. Lẽ ra Chúa phải ban ơn ngay cho bà. Nhưng Người lại yên lặng, không đáp lại một lời. Ðể cho người ta suy nghĩ; để cho môn đệ bày tỏ cảm nghĩ của mình.
Các ông thưa: "Xin để cho bà ấy về, vì bà cứ kêu gào đàng sau chúng tôi". Các ông muốn rảnh mình chứ không xét đến quyền lợi của người khác. Chúa Yêsu không thể đồng ý như vậy. Người kích thích mọi người phải suy nghĩ sâu xa hơn. Người bảo: "Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi". Các môn đệ hẳn thấy bế tắc, nhưng chắc chắn họ đang mong có một giải pháp kẻo như thế này họ cứ bị làm rầy mãi và không được yên. Còn người phụ nữ kia, với lương dân ở nơi bà, cũng chẳng biết làm gì hơn là nài nẵng thêm: "Lạy Ngài xin cứu giúp tôi". Chính lúc ấy, Chúa Yêsu đem giải pháp đến cho mọi người. Người nói một câu có vẻ khó nghe, nhưng thật sự chứa đầy hy vọng. Ơn Chúa vẫn thường đến trong thử thách. Thiên Chúa ban ơn cứu độ qua mầu nhiệm thập giá. Chúa Yêsu nói để mọi người nghe thấy: "Không nên lấy bánh của lũ con mà quăng cho đàn chó". Nhưng ai lại không thấy trong gia đình trẻ con hay chơi với chó mèo và hay bẹo bánh cho chúng ăn. Lời của Chúa có thể gợi lên hình ảnh rất thân mật. Nhất là Chúa rất tâm lý. Người biết người Dothái vẫn coi lương dân là chó. Nhưng ở đây Người thấy các môn đệ đang có cảm tình với người lương dân này. Người dùng lại từ ngữ "chó" trong hoàn cảnh đặc biệt này để xóa bỏ hiềm thù và kỳ thị cố hữu giữa hai bên.
Dù sao, câu nói của Người đã mở ra một lối thoát. Bà kia vội nắm lấy và thưa ngay: "Vâng! Nhưng đàn chó cũng được ăn những mảnh vụn rơi xuống tự bàn của chủ chúng nó". Chúng ta bảo bà nhanh trí ư? Ở đây tác giả muốn nói lương dân rất ý thức địa vị của mình trong Lịch sử cứu độ. Họ vừa đầy lòng tin, vừa rất khiêm cung. Họ rất xứng đáng được ơn Chúa. Thế nên hết mọi người đều được thỏa mãn khi nghe Chúa Yêsu nói với bà kia: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!".
Và chúng ta đọc lại câu truyện như thế đã thấy đầy chất sư phạm trong bài tường thuật trên. Người ta muốn được học với Chúa về thái độ phải có đối với lương dân. Hội Thánh bấy giờ đang bị dằn vặt về vấn đề không biết có nên thâu nhận dân ngoại vào sản nghiệp Nước Trời hay không, và nếu có thì phải làm thế nào? Lời giải đáp trong câu truyện hôm nay có vẻ dè dặt nhưng rất cương nghị. Dè dặt vì phải ban bài họ cho những con người còn hẹp hòi - và loài người chúng ta thì vẫn vậy! - Nhưng cương nghị vì cuối cùng ai cũng phải chấp nhận cần phải chia sẻ ơn cứu độ cho lương dân. Những người này chỉ cần phải có đức tin, một đức tin vững vàng, một đức tin đúng với truyền thống mạc khải.
Như vậy bài Tin Mừng hôm nay lại gợi đến bao câu truyện mà chúng ta đã nghe nói về thời các Tông đồ. Ðặc biệt nhất là bầu khí căng thẳng ở thời bấy giờ giữa hai khuynh hướng rộng và ngặt trong vấn đề thâu nhận lương dân vào Hội Thánh. Ở đây giáo lý của tác giả sách Tin Mừng Matthêô, tác phẩm được soạn thảo cho giới Kitô hữu gốc Dothái, đâu có khác gì với giáo lý của thánh Phaolô, vị Tông đồ của dân ngoại? Ở đâu chân lý cũng là một, và ở đâu tình bác ái cũng vẫn thắng. Cho dù loài người có hẹp hòi, tình yêu bao la của Thiên Chúa vẫn mạnh mẽ và làm nổ tung mọi giới hạn mà loài người đặt ra. Ngay từ đầu Người đã muốn cho cả nhân loại được hạnh phúc và muôn dân được cứu độ trong Lời Hứa với Abraham. Ðến thời Isaia, Người lại khẳng định như chúng ta nghe đọc trong bài Cựu Ước hôm nay. Và nhìn thấy cách cư xử sư phạm của Chúa Yêsu Kitô, Hội Thánh thâu nhận mọi dân tộc vào Nước Trời miễn là người ta có đức tin vững vàng đúng với truyền thống mạc khải. Tính cách phổ quát của ơn Cứu Ðộ như thế đã được xác định.
Ðiều kiện được nhận vào Dân Chúa cũng đã rõ ràng. Tuy nhiên thử hỏi ngày nay đã thật hết thái độ hẹp hòi chưa? Hay vẫn còn có những người muốn lấy các tiêu chuẩn của loài người để như phủ nhận một hạng người nào đó được hưởng ơn Cứu độ?
C. Một Thắc Mắc Sâu Xa
Thánh Phaolô hôm nay trong bài thư không có não trạng hẹp hòi như thế. Ngược lại người muốn hết thảy mọi dân tộc được cứu độ. Nhưng chính vì vậy người có một thắc mắc day dứt, một nỗi buồn sâu xa vô tận. Người thấy Cửa Nước Trời đã rộng mở để đón các dân ngoại vào lãnh nhận ơn cứu độ dành cho muôn dân. Còn chính Dân cũ của người và đồng bào huyết nhục của người là Dân Dothái, thì cớ sao lại cứ khép kín đối với ơn cứu độ? Ðành rằng có một số con cái Israel đã tòng giáo; nhưng xét về cơ cấu và tổ chức, Dân cũ vẫn như muốn phủ nhận hoài sự nghiệp của Ðức Yêsu Kitô. Phaolô đầy tinh thần tông đồ, xông pha mọi nơi để rao giảng Tin Mừng cứu độ, chẳng quản gian nan thử thách. Người đã đưa các dân ngoại vào Nước Trời... đang khi ấy đồng bào huyết nhục với người lại khư khư từ chối ơn cứu độ trong Ðức Yêsu Kitô. Phaolô yêu Chúa và yêu đồng bào. Người đau khổ trước sự thật phủ phàng này. Người thắc mắc không hiểu tại đâu lại như vậy. Giá như người có thể cứu rỗi được một ít người trong số đồng bào kia!
Người tưởng khi nhiệt thành phục vụ dân ngoại, làm cho nhiều người được vào Nước Trời, người có thể khiến đồng bào của người phát ghen lên để họ cũng được cứu rỗi. Ghen đây không phải là ghen với dân ngoại, nhưng là khi thấy dân ngoại thừa hưởng được Lời Hứa của Tổ phụ mình, con cái Israel sẽ hồi tâm nhận ra giá trị của kho tàng mình đang nắm giữ. Ðược như vậy cũng quý lắm. Nhưng dường như sự việc không diễn tiến như thế. Mặc cho Phaolô nhiệt tình rao giảng cho dân ngoại, đồng bào của người không ghen mà chỉ tức, đến nỗi luôn mong có ngày làm cho người không hoạt động truyền giáo được nữa.
Như vậy họ sẽ không bao giờ được cứu độ sao? Còn đâu tính cách phổ cập của lòng Chúa xót thương? Chắc chắn việc Israel thay đổi lòng dạ để đón nhận ơn cứu độ sẽ như là một việc cải tử hoàn sinh và giống như việc sống lại từ cõi chết. Nhưng có thể hy vọng một việc như vậy không?
Phaolô tin vào tình yêu lớn lao của Thiên Chúa. Người đưa ra một lý luận để an ủi mình. Người nghĩ: trước đây dân ngoại bất tuân Thiên Chúa thế mà nhân vì Israel phủ nhận Tin Mừng mà Tình yêu của Thiên Chúa đã tràn sang dân ngoại; thì rồi đây Israel cũng sẽ nhận được tình yêu này cho dù bây giờ họ bất tuân, để chứng tỏ rằng cả dân ngoại cả Israel đều được Tình yêu cứu độ nhưng không của Thiên Chúa. Ðó là mầu nhiệm, và là mầu nhiệm chứng tỏ tình yêu bao la của Thiên Chúa, cũng như tỏ hiện kế hoạch khôn ngoan thâm sâu của Người. Như vậy, cho dù không hiểu rõ, Phaolô vẫn đầy lòng tin, tín nhiệm nơi Thiên Chúa tình yêu muốn cứu độ hết mọi dân tộc.
Phụng vụ hôm nay qua các bài Kinh Thánh cũng muốn chúng ta tin yêu vững vàng như thế. Thiên Chúa khẳng định ý muốn của Người muốn cứu độ mọi người và mọi nước. Người đã chia sẻ ơn cứu độ cho cả dân ngoại. Người không muốn chúng ta có thái độ hẹp hòi kỳ thị một ai. Người muốn Nhà của Người là Hội Thánh phải trở thành Nhà cầu nguyện của hết mọi dân tộc.
Chúng ta có nghĩa vụ đón mời hết mọi người vào. Chúng ta không được gây cản trở cho một ai đến với Hội Thánh. Và nếu gặp nơi người nào như có một thái độ cố chấp phủ nhận nào đó, phải chăng chúng ta không nên đọc lại bài thư Phaolô hôm nay để vẫn tin tưởng và tín nhiệm vào cách làm việc mầu nhiệm nhưng kỳ diệu của Thiên Chúa? Chúng ta phải bắt chước Phaolô mà ca tụng: Ôi thâm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Người muốn cứu độ mọi người và không phủ nhận một ai. Nguyên xem việc Con Một Người xả thân cứu thế trong mầu nhiệm cử hành nơi bàn thờ bây giờ cũng đủ rõ!
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
------------------------------------------
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 15:21-28)
Trong bài Tin Mừng tuần trước, chúng ta có dịp thấy một Phê-rô là “kẻ kém lòng tin” (Mát-thêu 14:31): TN 20-A86
Trong bài Tin Mừng tuần trước, chúng ta có dịp thấy một Phê-rô là “kẻ kém lòng tin” (Mát-thêu 14:31). Hôm nay, chúng ta gặp người đàn bà Ca-na-an là người được Chúa Giê-su khen ngợi “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” Thực là mỉa mai phải không?
Có lẽ trước hết chúng ta hãy so sánh hành vi của ông Phê-rô với hành vi của người đàn bà Ca-na-an. Ông Phê-rô đã ở và sống với Chúa thời gian dài mấy năm. Còn người đàn bà Ca-na-an là dân ngoại và chỉ nghe biết về Chúa. Vậy mà sau khi Chúa bảo “Chính là Ta”, ông Phê-rô vẫn còn nghi ngờ: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì…” Trái lại người đàn bà Ca-na-an khi gặp Chúa, bà đã tuyên xưng: “Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi”. Như thế, một lòng tin mạnh mẽ là một lòng tin không chút nghi ngờ, nhưng đặt trọn sự tin tưởng vào Đấng mình tin. Khi ông Phê-rô thưa với Chúa “Nếu quả là Ngài”, ông vẫn chưa dứt khoát được ý nghĩ Chúa là “ma”. Còn người phụ nữ Ca-na-an tuy không phải là người Do-thái, nhưng lại cung kính thưa với Chúa “Lạy Ngài là Con vua Đa-vít”, một tước hiệu của Đấng Cứu độ.
Bây giờ qua câu chuyện Tin Mừng, chúng ta hãy xem lòng tin của người đàn bà Ca-na-an mạnh mẽ ở điểm nào. Lòng kiên nhẫn và khiêm nhượng đã chứng minh đức tin của bà là mạnh mẽ. Trước tiên lời xưng hô của bà không phải là lời tâng bốc nịnh nọt để xin một ân huệ. Thực sự bà đã nhận ra sự cao trọng của Chúa khi bà gọi Người bằng một danh hiệu tuy bà không hiểu hết ý nghĩa, nhưng nó nói lên địa vị cao trọng nhất của một người Do-thái: Con vua Đa-vít. Bà khẩn cầu Chúa Giê-su cứu chữa con gái bà, nhưng Người không thèm đáp lại một lời. Bị từ chối lần thứ nhất, bà không bỏ cuộc, nhưng vẫn “cứ theo sau mà kêu mãi”. Tiếp đến, Chúa Giê-su lại “đuổi khéo” bà bằng cách khẳng định Người “chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi”. Càng bị dồn vào tuyệt vọng, bà càng tỏ ra kiên trì và khiêm nhượng hơn. Lần này, thay vì chỉ “theo sau” Chúa, bà đã đến trước mặt Chúa, “bái lạy” Người mà nài van. Lần thứ ba, chẳng những Chúa Giê-su từ chối, mà còn tỏ ra khinh miệt bà, coi phẩm giá của bà không bằng con chó! Vậy mà bà vẫn không giận dữ phản ứng, trái lại còn kiên nhẫn đồng ý với nhận xét khắc nghiệt của Chúa và chỉ xin được làm con chó con để ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Cách hành xử của Chúa Giê-su rõ ràng cho thấy Người cố ý tạo ra những thử thách lòng tin của bà để cho các môn đệ và những người chung quanh có cơ hội chứng kiến thế nào là một lòng tin mạnh mẽ. Trước mặt Chúa Giê-su khi bà bằng lòng nhìn nhận thận phận của bà không bằng con chó con thì cũng chính là lúc Người tuyên dương lòng tin của bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta muốn Chúa Giê-su nói với chúng ta như Người đã trách ông Phê-rô hay như Người đã khen ngợi người đàn bà Ca-na-an? Chắc chắn là chúng ta muốn có đức tin mạnh mẽ giống như đức tin của người đàn bà Ca-na-an rồi! Vậy chúng ta thử nhìn lại đức tin của chúng ta xem có đủ những yếu tố của một đức tin mạnh mẽ không. Trước hết là một đức tin trọn vẹn. Có lẽ ngoài Chúa ra, chúng ta còn những niềm tin khác, như tin vào những gì thế gian và cuộc sống này quyến rũ. Chúng ta chưa nhìn nhận thế giá và quyền năng tuyệt đối của Chúa, nên thay vì nương tựa vào những gì là vĩnh cửu thì chúng ta dựa dẫm vào những gì là chóng qua, tạm bợ đời này. Chúng ta chưa hoàn toàn đón nhận tình yêu vô điều kiện và trung thành của Chúa mà lại yêu mến gắn bó với những thứ tình yêu không chính đáng của thế gian. Tiếp đến là một đức tin trung kiên và đầy khiêm tốn. Tin không phải là sống theo cảm tính, nhưng theo xác tín. Tin theo cảm tính là vui, hạnh phúc, bình yên thì tin Chúa, còn gặp khó khăn thử thách thì kêu trách Chúa chứ chưa nói là bỏ Người. Trái lại, nếu chúng ta càng khiêm nhượng trước mặt Chúa, hay nói khác đi, chúng ta càng nhỏ bé thì Chúa càng lớn lao. Đức tin được đo lường bằng đức khiêm nhượng là vậy. Mong chúng ta có được đức tin mạnh mẽ!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------------
Chúa Nhật XX Thường Niên A
Mt 15:21-28: 21Ra khỏi đó, Ðức Yêsu lui đến miền Tyrô và Siddôn. 22 Và này, một phụ nữ Canaan ra khỏi vùng đó và kêu lớn tiếng rằng: "Xin thương xót tôi! Lạy Ngài, là Con Ðavít! Con gái tôi bị quỉ ám khốn khổ!" 23 Nhưng Ngài không đáp lại một lời. Môn đồ tiến lên xin Ngài rằng: "Xin để cho bà ấy về, vì bà cứ kêu gào đằng sau chúng tôi". 24 Ðáp lại, Ngài nói: "Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi". 25 Bà ấy đến bái lại Ngài mà rằng: "Lạy Ngài xin cứu giúp tôi!" 26 Ngài trả lời: "Không nên lấy bánh của lũ con mà quăng cho đàn chó". 27 Bà ấy lại rằng: "Vâng, lạy Ngài, vì đàn chó cũng được ăn những mảnh vụn rơi xuống tự bàn của chúng nó". 28 Bấy giờ đáp lại, Ðức Yêsu nói với bà ấy: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" Và con gái bà đã được khỏi từ giờ ấy.
Ngay sau những tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và các Pharisêô về truyền thống của tiền nhân: TN 20-A87
Ngay sau những tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và các Pharisêô về truyền thống của tiền nhân của người do thái, mà các môn đệ của Chúa Giêsu đã không tuân giữ (15:1-20), Matthêô đưa vào đây trình thuật về người phụ nữ Canaan (15:21-28). Trong trình thuật nầy Matthêô cho thấy Chúa Giêsu đi ra ngoài biên giới do thái, và Ngài ca ngợi lòng tin của một phụ nữ dân ngoại; điều nầy hoàn toàn khác với việc Ngài phê bình cách các vị lãnh đạo tôn giáo do thái thờ phượng Thiên Chúa (15:7-9).
Chủ đề chính của đoạn nầy là nói về đức tin mạnh mẽ của người phụ nữ Canaan. Các từ vựng trong đoạn nầy có thể phân làm hai nhóm tương phản nhau. Một bên là thuộc về do thái, như: “Con vua Đavít” (c. 22), “Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel” (c. 24), “bánh của con cái” (c. 26). Bên kia là nhóm thuộc về dân ngoại: “Tyrô và Siđôn” (c. 21), “phụ nữ Canaan” (c. 22), “đàn chó”(c. 26). Tuy nhiên, “đức tin lớn” lại thuộc về người phụ nữ Canaan (c. 28). Hạn từ Iēsous(cc. 21 và 28) đóng khung đoạn nầy. Đoạn nầy có thể phân chia thành ba phần: - Bối cảnh trình thuật (cc. 21-22a), - Cuộc đối thoại (cc. 22b-27), - Kết luận (c. 28).
Bối cảnh trình thuật (cc. 21-22a)
Khung cảnh thay đổi ngay từ đầu trình thuật. Chúa Giêsu đã rời “nơi đó”, ekeithen, có thể là Gennesareth hay một nơi không xác định trước, và đi đến vùng Tirô và Siđôn (c. 21). Ngài không còn đứng trước các Pharisêô và kinh sư để tranh luận, mà là người phụ nữ Canaan. Matthêô không đề cập đến “cái nhà” Chúa Giêsu vào trong đó, và người phụ nữ nầy tìm đến như trong Marcô (x. Mc 7:24), vì người ta sẽ nghĩ đó là nhà của dân ngoại. Nếu làm như thế, Chúa Giêsu sẽ xúc phạm đến tâm thức của người do thái (x. Cv 10:28). Bởi đó, Matthêô chỉ thuật lại là Chúa Giêsu vào vùng ấy và người phụ nữ tìm đến Ngài (c. 22). Tyrô và Siđôn là hai thành dân ngoại được Chúa Giêsu đề cập một lần khác trong 11:21 khi nói về sự hoán cải. Nơi đây đã không được Chúa Giêsu thực hiện nhiều phép lạ. “Tyrô và Siđôn” và người phụ nữ Canaan gắn liền với nhau.
Cuộc đối thoại (cc. 22b-27)
Phần chính của trình thuật nầy là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ và đặc biệt là với người phụ nữ Canaan (cc. 22b-27). Cứ sau mỗi lời ngỏ với Chúa Giêsu là một lời đáp lại của Ngài: Người phụ nữ nài xin (c.22b) - Chúa Giêsu đáp lại (c. 23a), ho de apokrinomai; - Các môn đệ cầu xin (c.23b) - Chúa Giêsu đáp lại (c. 24) ho de apokrinomai; - Người phụ nữ cầu xin (c. 25) - Chúa Giêsu đáp lại (c. 26), ho de apokrinomai; Người phụ nữ cầu xin (c. 27) - Chúa Giêsu đáp lại (c. 28), ho de apokrinomai.
Trước tiên bà nài xin “Xin thương xót tôi, lạy Chúa, con vua Đavít” (c. 22b). Câu nầy không có trong trình thuật song song nơi Marcô. Tước hiệu “Con vua Đavít” là một tước hiệu thiên sai (1:1). Chúa Giêsu nhiều lần chữa bệnh với tước hiệu “Con vua Đavít” (9:27; 12:23; 15:22; 20:30-1). Ngay từ câu nài xin đầu tiên nầy, người phụ nữ gọi Ngài là “Chúa”, kyrie. Bà nhận biết sự cao cả của Ngài. Bà kiên tâm với cách gọi nầy cho đến cùng (cc. 25.27), mặc dù Chúa Giêsu tỏ vẻ từ chối điều bà nài xin bằng ba mệnh đề phủ định (cc. 23.24.26).
Chúa Giêsu không đáp lại (c. 23). Ngài làm như thể không có gì liên hệ với người dân ngoại nầy (x. Lc 10:31tt). Thái độ của Ngài lúc nầy khác hẳn với cách Ngài đối xử với dân chúng đang đói trong trình thuật trước. Chính Ngài có sáng kiến và tự tay làm nên bánh cho dân chúng ăn, mà không đợi họ kêu xin. Về phía các môn đệ, họ luôn nghĩ đến điều thực tiễn. Họ muốn Ngài “giải tán”, apoluō, bà nầy đi cho khỏi bị quấy rầy (c. 23), như họ đã đề nghị với Chúa Giêsu về dân chúng trong trình thuật trước (14:15). Matthêô vẫn dùng động từ “bà kêu lớn tiếng”, krazō + phân từ của động từ legō, như trong các trình thuật phép lạ khác (9:27; 14:26.30; 15:22tt; 20:30tt). Lần nào người kêu cứu cũng được nghe, và chỉ lần nầy là Chúa “không đáp lại”. Hơn nữa, các môn đệ nói với Chúa Giêsu (c. 23) là ekrasen opisthen hymōn, “bà kêu lớn tiếng sau (lưng) chúng ta” (x. 9:20; Kh 1:10); opisthen ở đây được dùng như giới từ sở hữu cách (DBF § 215:1). Như thế không phải Chúa Giêsu không nghe tiếng kêu của người phụ nữ nầy.
Đáp lại lời nài xin của các môn đệ, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ và người phụ nữ nầy biết sứ mạng của Ngài là chỉ trong vòng các chiên lạc nhà Israel (c. 24). Cách diễn tả apostellō + eis, “sai đến trong”, chỉ vòng giới hạn. Ở đây là giữa “chiên lạc nhà Israel”. Chúa Giêsu đã nói điều nầy với các môn đệ (10:5-6). “Các chiên lạc nhà Israel” là những người cần một mục tử tốt lành (9:36) để họ khỏi bị phân tán và thất lạc (x. 18:12; 26:31).
Tiếp đến, người phụ nữ nầy không còn nài xin từ đằng sau nữa, mà đến quỳ trước mặt Chúa Giêsu (c. 25). Bà quỳ gối trước mặt Ngài và gọi Ngài là “Chúa” (2:11; 14:33; 28:9) vì bà vẫn tin vào quyền năng của Ngài (8:2; 9:18). Lời nài xin lần nầy, dùng động từ boētheō, “đến cứu giúp”, nhắc lại lời nài xin ở c. 22b, và có tâm tình của những lời cầu xin tìm thấy trong Sách Thánh, nhất là các thánh vịnh (Tv 40:3, 43:27, 85:17, 93:17, 18, 108:26; Is 50:9).
Bà càng nài nỉ, Chúa Giêsu càng tỏ ra từ chối cách dứt khoát. Ngài nói: “Không nên lấy bánh của con nhỏ mà quăng cho chó con” (c. 26). Với câu đáp nầy, Chúa Giêsu muốn khẳng định thêm lần nữa cách gián tiếp là Ngài chỉ được sai đến để ban bánh cho con cái trong nhà mà thôi (x. 14:13-21; Rm 15:8-9). Ngài dùng cách nói của người do thái phân biệt mình với người khác niềm tin, “chó”, chứ không có ý miệt thị người dân ngoại. Chữ kynariōn được dùng ở đây là “chó con”, “chó nhà”, khác với kyōn “chó ngoài đường” (7:6).
Người phụ nữ nầy vẫn kiên trì nài xin: “Vâng, lạy Chúa, chó con cũng được ăn những mảnh vụn rơi xuống từ bàn chủ chúng rơi xuống” (c. 27). Lần nầy bà không nài xin thương đến sự thống khổ của bà, mà là tuyên xưng lòng tin vào Ngài. Bà tuyên xưng Ngài là “Chúa”, và bà diễn giải đức tin của bà vào Ngài. Một đàng bà nhận biết sứ mạng của Chúa Giêsu lúc nầy là dành ưu tiên cho dân Israel: “bánh cho con cái” (c. 26). Đàng khác, bà mạnh dạn khẳng định là dân ngoại cũng có một chỗ đứng trong sứ mạng của Ngài: “chó con ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Từ kyriōn, “chủ”, số nhiều, tương ứng với teknōn, “con cái” (c. 27), chỉ dânIsrael. Chỗ đứng của dân ngoại tuy là thứ yếu, nhưng họ được ở chung, “chó con dưới bàn”, trong nhà của dân Israel, và được ăn bánh đồng thời với dân Israel. Động từesthiō, “ăn” ở thì hiện tại, và phân động từ piptō, “rơi xuống” cũng ở thì hiện tại chỉ sự kiện đang diễn ra đồng thời với hành động chính là “ăn”. Vậy người phụ nữ nầy đã tin vào sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu
Lời Ca Ngợi của Chúa Giêsu (c. 28)
Chúa Giêsu thán phục lòng tin của bà: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (c. 28). Ō gynai, “Này bà!” diễn tả sự kinh ngạc. Ngài ca ngợi bà có “lòng tin lớn”, megalē + pistis; tương phản với lòng tin của các môn đệ (8:23), của Phêrô (14:31). Bởi lòng tin của bà, con gái bà được chữa lành, như câu chuyện chữa lành người tôi tớ của viên bách quản (8:10). Cả hai đều được ca ngợi về lòng tin. Vậy vì bà tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai không chỉ của dân Israel (c. 22) mà cả dân ngoại, bà được ca ngợi có lòng tin lớn lao.
Đi tìm sự chữa lành cho con gái, người phụ nữ Canaan nầy đã gặp được Đấng Thiên Sai. Bà đã tin vào Ngài và sứ mạng của Ngài, và chính con gái bà nhận được phúc lành bởi lòng tin lớn lao của bà. Bất cứ ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, đều được cứu độ.
(Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
------------------------------------------
Chúa Nhật 20 A Thường Niên
Khuynh hướng “ăn cây nào rào cây ấy” đã ăn quá sâu vào phong tục và con người. Không dễ mở tung: TN 20-A88
Khuynh hướng “ăn cây nào rào cây ấy” đã ăn quá sâu vào phong tục và con người. Không dễ mở tung những giới hạn đang vây chặt lòng người. Tin Mừng chính là sức mạnh phá tung mọi giới hạn và mở ra một chân trời mới cho nhân loại.
THỬ THÁCH
Chiếu kích phổ quát luôn đặt Giáo hội trước một thách đố lớn. Quả thực, ngay từ đầu Đức Giêsu đã nêu vấn đề phức tạp đó. Đức Giêsu không bao giờ chấp nhận sự kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo giữa con người. Nhưng trước khi tỏ cho mọi người biết lòng thương xót vô bờ bến, Người đã hướng dẫn người phụ nữ Canaan qua ba cơn thử thách, những thử thách do chính Chúa đưa đến.
Trước hết, lời van xin thống thiết của bà chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Bà chỉ đón nhận được thái độ hoàn toàn im lặng của Đức Giêsu. Đó là một sự im lặng ghê sợ ! Các môn đệ tưởng có thể phá đổ bức tường im lặng đó. Nhưng thực tế, cơn thử thách thứ hai còn dữ dội hơn. Người cho bà biết chỉ con cái Israel mới là dân đặc tuyển. Hình như Người cũng bị cám dỗ vướng vào đầu óc cục bộ khi muốn dành mọi ưu tiên cho đồng hương (xc Mt 15:24). Bà là dân ngoại, không có quyền chia sẻ một chút đặc quyền nào. Như thế chẳng khác gì Người giơ chân đạp bà ra khỏi phòng tiệc, tiệc cưới giữa Thiên Chúa và Dân Người, tiệc cưới của Con Chiên. Bà vẫn không khiếp sợ trước thái độ hắt hủi đó. Bà càng kêu gào lớn tiếng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (Mt 15:25) Tình yêu đã đồng hóa bà với chính người con đau khổ ! Đến nỗi này, bà vẫn chưa lay động nổi lòng thương xót của Chúa. Trái lại, Chúa còn đạp bà xuống tận bùn đen, với một thái độ khinh bỉ ra mặt: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” (Mt 15:26) Như thế bà đã biết mình là ai chưa ? Quả thật với niềm tin mãnh liệt và một thái độ khiêm nhường sâu thẳm, bà đã biết mình là ai: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụ trên bàn chủ rơi xuống.” (Mt 15:27) Đến đây, chính Chúa bị đo ván, chứ không phải bà !
Bà đã thắng cả ba cơn thử thách đó như Đức Giêsu. Bà đã làm cho Người đầu hàng: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật.” (Mt 15:28) Thế là lòng tin của bà đã lớn lên. Nếu hoàn toàn tự ái, chắc chắn bà không thể chịu đựng nổi ngay từ đầu khi Đức Giêsu “phớt lờ” trước tiếng kêu gào thảm thiết của bà. Niềm tin đã được thể hiện rõ nét trong thái độ thật khiêm cung khi bà sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách một cách vô điều kiện (xc Mt 15:27). Bà kiên nhẫn và khiêm cung biết chừng nào !!! Thực tế cũng cho thấy tình yêu Chúa không hề bị đóng khung trong giới hạn nào. Chính vì thế, bà mới được vui sướng khi nghe Chúa mạc khải tất cả tấm lòng nhân hậu và quyền năng vô biên: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15:28)
Khiêm cung chính là nét đẹp nhất của lòng tin. Chính nhờ tấm lòng khiêm cung đó, bà đã nhận lãnh tất cả. Thái độ khiêm cung cũng thật cần thiết cho tính phổ quát của Giáo hội. Nhìn vào thực tế, đầu óc cục bộ bao giờ cũng đi kèm với thái độ kiêu ngạo. Bởi đó, không khiêm nhường, không thể giữ được tính phổ quát và duy nhất của Giáo hội.
Thái độ cuối cùng của Đức Giêsu đã mạc khải cho mọi người thấy thực sự óc cục bộ không thể khống chế được Người. Nếu như dân Do thái chiếm ưu tiên trong danh sách cứu độ, làm sao cuối cùng Đức Giêsu lại chữa con bà khỏi bệnh ? Thế nên ơn cứu độ thực sự mang tính phổ quát, không thiên vị bất cứ dân tộc nào. Không hề có kỳ thị trong cách Thiên Chúa đối xử với nhân loại. Thiên Chúa là Cha mọi dân tộc. Thực vậy, Chúa phán: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa, đều được Ta dẫn lên núi thánh, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 6.7). Trong nhà Thiên Chúa mỗi dân tộc đều có phần riêng, nhưng cùng chia sẻ một hạnh phúc là tình yêu Thiên Chúa.
Nhưng theo Thánh Phaolô, sở dĩ dân ngoại có thể chiếm được địa vị ưu đãi trong lòng thương xót của Thiên Chúa, vì dân Do thái đã “không vâng phục Thiên Chúa.” (Rm 11:30) Thật là trớ trêu, kẻ bên ngoài lại trở thành người trong nhà. Còn người nhà lại bị tống ra ngoài. Mục đích Thiên Chúa chỉ muốn chứng tỏ lòng thương xót chia đều cho hết mọi người. Người Do thái cũng cần Thiên Chúa xót thương. Họ không thể “lên mặt” với dân ngoại, vì tưởng mình chẳng cần lòng thương xót hay mình là những “cục cưng” của Thiên Chúa. Thực tế, mọi người đều bình đẳng trước lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trước cao trào muôn dân trở về với Thiên Chúa, thánh Phaolô rất hãnh diện về dân ngoại. Lý do vì họ cũng được hưởng trọn vẹn lòng thương xót. Chắc chắn thái độ thánh nhân sẽ khiến đồng bào tức tối (xc Rm 11:15). Nhưng như thế là đạt mục đích. Thánh nhân ở thế “đánh đu” giữa quyền lợi đồng bào và dân ngoại. Tất cả chỉ vì ơn cứu độ cho muôn dân ! Ơn cứu độ là nội dung sâu xa nhất và cùng đích của lòng thương xót. Nghĩa là cả Do thái lẫn Hy lạp đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa, vì tất cả đều cần đến ơn cứu độ !
THỰC TẾ NIỀM TIN
Vào đầu thập niên ‘80, một bà Phật giáo đến gặp tôi tại tu viện Đa Minh Gò vấp, Việt Nam, nơi tôi đã sống quãng chừng mười lăm năm. Bà tâm sự: “Thưa cha, cha biết không, Đài Đức Mẹ ở ngoài nhà thờ rất linh thiêng. Con khấn xin gì, Đức Mẹ cũng nhận lời.” Tôi liền hỏi: “Bà đã được Đức Mẹ thương như thế nào ?” Bà ta trả lời ngay: “Cha biết đấy, bây giờ làm ăn rất khó khăn. Làm cái gì cũng phải ‘chui’, mới sống được. Mỗi lần con làm xong một mặt hàng, con đều đến khấn xin Đức Mẹ che mắt công an, cho con được làm ăn trót lọt. Lần nào Đức Mẹ cũng nghe lời. Sau mỗi lần như thế, con đều mua hoa tạ ơn Đức Mẹ.” Tôi rất vui vì thấy bà có niềm tin chẳng khác phụ nữ Canaan. Tôi nghĩ với niềm tin đơn sơ và thành khẩn như thế, chắc chắn tương lai không xa, bà sẽ trở lại đạo mà thôi. Như thế là tôi cứu được một linh hồn và cả gia đình họ. Nhưng trong lúc niềm vui chưa tắt, tôi phải kiểm tra một lần nữa cho chắc ăn. Tôi tò mò hỏi bà: “Thế, bà làm nghề gì ?” Bà trả lời ngay: “Con làm nghề chế biến và bán thuốc Tây giả.”
Trời ! Tôi ngây người như trời trồng. Bao nhiêu hi vọng tiêu tan. Niềm vui tắt ngúm. Vì hạnh phúc gia đình, bà đã giết hại bao sinh mạng ? Chẳng lẽ Đức Mẹ cũng hỗ trợ một người ích kỷ hại nhân như vậy à ? Thật khác với phụ nữ Canaan, bà không có một đức tin trong sáng và chân thành. Tình yêu cũng rất khác biệt. Bà yêu con cái mình, bất chấp mọi nguy hiểm cho tha nhân. Tóm lại, bà chẳng có đức tin. Chắc chắn tình yêu vị kỷ đó không dẫn bà tới Chúa. “Ơn lạ Đức Mẹ” chỉ là con đẻ của trí tưởng tượng nơi bà.
Hai phụ nữ ngoại đạo đã để lại hai bài học cho chúng ta. Niềm tin hôm nay dạy chúng ta biết phải sống theo gương của bà nào. Niềm tin là sức mạnh, nhưng phải là niềm tin chân chính. Cuộc sống hôm nay đang cần đến sức mạnh đó. Có thế, chúng ta mới đủ kiên nhẫn và khiêm cung chịu đựng và thắng vượt bao thử thách muôn mặt. Không có niềm tin chân chính đó, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ cuộc trước những khó khăn cuộc sống hàng ngày. Chúng ta dễ dàng tự ái và nổi loạn. Đó là lý do tại sao bao nhiêu đại cuộc bị dở dang.
Kiên nhẫn và khiêm cung cũng vô cùng cần thiết cho cuộc đối thoại đại kết hôm nay. Cuộc đối thoại kỳ thú giữa Đức Giêsu và phụ nữ Canaan mở ra một chân trời mới cho những ai muốn hòa giải giữa các đối lực tôn giáo, chính trị, xã hội hôm nay. Chính niềm tin sẽ dẫn con người tìm đến Thiên Chúa và đến nhau. Cuộc gặp gỡ vô cùng lý thú và cần thiết cho nền hòa bình và hạnh phúc nhân loại hôm nay và ngày mai.
Lm. Đỗ Vân Lực, OP
------------------------------------------
Trong đề tài về Nước Trời, thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma trong Phụng vụ Lời Chúa bắt: TN 20-A89
Trong đề tài về Nước Trời, thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma trong Phụng vụ Lời Chúa bắt đầu từ tuần trước đã đề cập tới tính cách phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là vì người Do-thái không đón nhận Chúa Ki-tô và Tin Mửng, nên việc rao giảng đã được chuyển hướng về phía Dân ngoại. Lời Chúa hôm nay đặc biệt trình bày khía cạnh phổ quát ấy, nhất là bài Tin Mừng kể lại việc Chúa nhìn nhận lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an.
1. Thiên Chúa mở rộng tay đón nhận mọi người tại núi thánh ơn cứu độ của Người (bài đọc Cựu Ước – Is 56:1.6-7)
Si-on là núi thánh Thiên Chúa chọn làm dấu chỉ Người ở với dân Ít-ra-en. Tại đấy có Giê-ru-sa-lem, trung tâm thờ phượng Thiên Chúa. Dân Do-thái dù ở bất cứ nơi đâu đều hướng lòng về thánh đô và ít nhất mỗi năm một lần họ cố gắng tới viếng thăm Đền thờ, tham dự những ngày đại lễ. Tuy Dân ngoại bốn phương cũng có thể tới Đền thờ, nhưng họ chỉ được bước chân vào tiền đình dân ngoại dành riêng cho họ mà thôi. Cách phân biệt Dân ngoại với Do-thái như thế muốn nói lên rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho dân Chúa. Giờ đây tình huống đã thay đổi. Thay vì giới hạn ân sủng cho dân riêng, Thiên Chúa đã mở rộng ơn cứu độ cho mọi người không trừ ai. Qua ngôn sứ I-sai-a, Chúa phán: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa… đều được Ta dẫn lên núi thánh”.
Nhưng thế nào là những kẻ “gắn bó cùng Đức Chúa”? Đó là những ai “tuân giữ điều chính trực và thực hành điều công minh”. Những điều này bao hàm trong luân lý tự nhiên của con người. Do đó, thực hành điều chính trực và công minh nằm trên bình diện con người nói chung, không kể gì là Do-thái hay Dân ngoại. Đây chính là điểm cốt yếu của ơn cứu độ, vì Chúa Giê-su xuống thế làm người là để cứu độ toàn thể nhân loại. Khi Người cùng chia sẻ bản chất nhân loại với tất cả mọi người chứ không riêng người Do-thái, thì Người cũng chia sẻ ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đã là con người, dù Do-thái hay Dân ngoại, hễ ta tuân giữ điều chính trực và thực hành điều công minh là ta được Thiên Chúa mời gọi đón nhận ơn cứu độ qua Chúa Ki-tô. Nếu ta thực tâm mở lòng đáp lại lời gọi cứu độ của Thiên Chúa, ta sẽ được Người “dẫn lên núi thánh” tức là đồi Can-vê để lãnh nhận ơn công chính hóa nhờ cái chết đổ máu của Chúa Giê-su, và ta sẽ được “hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Chúa” nghĩa là được vui sống trong Giáo Hội là Đền thờ Giê-ru-sa-lem Mới.
Giáo Hội có mặt ở khắp nơi, làm “núi thánh” của Thiên Chúa để mọi người có thể tới, không còn phải đứng ở ngoại vi Đền thờ như Dân ngoại ngày xưa, nhưng là được tháp nhập làm chi thể của Thân Thể Mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Nhờ Chúa Ki-tô và Giáo Hội, ta được “gắn bó cùng Thiên Chúa”, nhận lấy sự sống thiêng liêng như cành nho được sống nhờ thân nho vậy.
2. Động lực khiến Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ta là do lòng thương xót (bài đọc Tân Ước – Rm 11:13-15.29-32)
Thiên Chúa đã “đổi ý” khi Người không còn giới hạn ơn cứu độ dành riêng cho dân Ít-ra-en, nhưng cho hết những ai muốn “gắn bó với Người”. Động lực “đổi ý” chính là do lòng thương xót, vì Người là Thiên Chúa “đầy lòng xót thương”. Lòng thương xót đích thực không lựa chọn đối tượng đặc biệt, nhưng được biểu lộ cho mọi người. Toàn thể nhân loại là đối tượng của lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thương xót ta vì Người muốn ta được hạnh phúc vĩnh cửu sau cuộc đời gian khổ này. Tuy ta không vâng phục Người, nhưng Người vẫn không chấp tội ta và vẫn tìm đủ cách để kéo ta trở lại với Người. Thánh Phao-lô nêu lên một thí dụ cụ thể: cả Dân ngoại lẫn Do-thái đều được Thiên Chúa xót thương. “Trước kia anh em (Dân ngoại) đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót; họ (Ít-ra-en) cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót”. Như thế cả Dân ngoại lẫn Do-thái đều có những điểm chung, là “tội không vâng phục Thiên Chúa”, nhưng vẫn “được Thiên Chúa thương xót”. Chỉ có điều khác nhau là thời gian: trước kia và nay. Nhưng điều khác nhau này lại cho ta thấy đặc tính lòng thương xót của Thiên Chúa là “muôn năm vững bền” (Tv 135).
Lòng thương xót của Thiên Chúa đã biến đổi thân phận con người. Trước hết thánh Phao-lô gọi sự biến đổi này là “từ cõi chết bước vào cõi sống”. “Không vâng phục” gợi lại cho ta sự kiện nguyên tổ A-đam đã không vâng phục Thiên Chúa mà phạm tội, cho nên tội lỗi đã đi vào trần gian và “tiền công của tội lỗi là sự chết”. Kể từ đấy, nhân loại sống trong cõi chết. Nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua Chúa Ki-tô đã chiến thắng thần chết và đem lại sự sống cho tất cả những ai đón nhận ơn cứu độ nơi Chúa Ki-tô. Nói khác đi, lòng thương xót của Thiên Chúa đưa nhân loại “từ cõi chết bước vào cõi sống”. Để kết luận về lòng thương xót của Thiên Chúa, thánh Phao-lô đưa ra một nhận định thật dí dỏm và cũng vô cùng sâu sắc. Ngài nói: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”. Ai dám nói mắc tội tổ tông là sự mất mát hay thiệt thòi to lớn? Không phải vậy đâu, vì nếu ta không bị “giam hãm trong tội không vâng phục”, tức là không mắc tội tổ tông, thì làm sao ta biết được Thiên Chúa thương xót nhân loại dường ấy. “Ôi! Tội A-đam quả là cần thiết, tội được xóa bỏ nhờ cái chết của Đức Ki-tô. Ôi! Tội đã hóa thành hồng phúc, nhờ tội, chúng con mới có được Đấng Cứu Tinh cao cả dường này!” (Công bố Tin Mừng Phục Sinh, đêm Canh thức Vượt Qua).
3. Chúa Giê-su thể hiện lời hứa mở rộng ơn cứu độ cho muôn dân (bài Tin Mừng – Mt 15:21-28)
Chúa Giê-su đến để hoàn tất những điều các ngôn sứ đã loan báo. Người rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thực hiện những phép lạ để biểu tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa, ưu tiên cho dân Ít-ra-en, nhưng đặc biệt lần này gặp gỡ người đàn bà Ca-na-an, Người sẽ thực hiện lời tiên báo của ngôn sứ I-sai-a. Người không loại bỏ Dân ngoại, trái lại, Người luôn tiếp đón những ai đến với Người, thí dụ viên đại đội trưởng người Rô-ma (Mt 8:5-10.13; Lc 7:1-10; Ga 4:46-54), người cùi trong đám mười người được chữa lành (Lc 17:11-19). Chẳng những tiếp đón họ, đôi khi Chúa Giê-su còn lui tới miền đất của Dân ngoại. Nếu như Người thực sự muốn loại bỏ Dân ngoại, thì việc gì Người phải lui tới như vậy. Chẳng lẽ trong đất Ít-ra-en không có chỗ cho Người nghỉ chân hay sao. Thực vậy, Chúa Giê-su lui tới đất Dân ngoại để chờ đợi, như Người đã chờ và gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri. Hôm nay, Người “lui về miền Tia và Xi-đôn” cũng là để nghỉ ngơi và chờ đợi. Người đàn bà Ca-na-an đến gặp Chúa Giê-su, mang theo nỗi khổ đau của người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám hành hạ.
Dĩ nhiên đây là câu truyện phép lạ chữa lành, được mô tả với những chi tiết khiến ta có thể quá chú ý tới cách cư xử của Chúa Giê-su hoặc của người đàn bà Ca-na-an mà coi nhẹ mục đích chính của câu truyện là Chúa tán dương đức tin của một người Dân ngoại. Trước hết là lời xưng hô của người đàn bà Ca-na-an: Lạy Ngài là con vua Đa-vít. Xưng hô như thế, người đàn bà đã xác tín sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su. Làm sao một người Ca-na-an lại có thể tôn trọng và xưng tụng một người Do-thái như thế nếu bà không thực tâm nhìn nhận thế giá của Chúa Giê-su? Chúa biết lòng tin của bà, nhưng Người cũng muốn cho những người chung quanh biết lòng tin ấy. Do đó, Người chủ ý tạo cơ hội để bà nói lên tất cả lòng tin kính đối với Người, cũng là cách để giúp những kẻ khác thêm lòng tin vào Người. Những lời thân thưa của bà còn cho ta thấy những yếu tố căn bản của đức tin. Về phía Chúa, uy thế của Chúa cần phải được nhận biết; về phía ta, sự khiêm tốn là nền tảng để ta nhìn nhận uy quyền của Chúa. Cho nên ta càng hết lòng khiêm tốn thì đức tin càng mạnh, chứ không phải vì ta hiểu biết. Lòng tin của người đàn bà Ca-na-an mạnh là vì bà nhìn nhận quyền năng dấu ẩn của Chúa, mặc dù theo văn hóa và tôn giáo người Ca-na-an họ không thể nhìn nhận quyền năng ấy. Lòng tin mạnh mẽ của bà biểu lộ rõ rệt theo mức độ khiêm tốn của bà, từ việc bà van xin mà Chúa cứ làm lơ như không thèm tiếp cho đến lúc bà chấp nhận mình ngang hàng với chó má. Chúa quả thực là Đấng quyền uy, nên ta có là thân chó thì càng làm tăng thêm thế giá của Người và càng đáng cho Người xót thương. Lời cầu “xin dủ lòng thương tôi!” là lời cầu phát xuất từ đáy con tim khiêm tốn và chứng tỏ lòng tin lớn lao của bà. Chúa cho bà cơ hội tuyên xưng lòng tin và Người nhìn nhận lòng tin của bà. Người không chỉ nói với riêng bà, nhưng nói với tất cả đám đông chung quanh: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” Bà đã tuyên xưng lòng tin Chúa trước mặt mọi người thì Chúa cũng tuyên dương lòng tin của bà trước mặt mọi người.
4. Sống Lời Chúa
Tính phổ quát của ơn cứu độ phải là điều đặc biệt cho ta suy nghĩ, xác tín và cảm tạ Thiên Chúa. Nếu Chúa không “dủ lòng thương ta” thì ta sẽ mãi mãi ngồi trong bóng tối sự chết và bị tội lỗi thống trị. Qua ngôn sứ I-sai-a và nhất là qua Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã xác nhận rõ ràng tính phổ quát của ơn cứu độ Người ban cho nhân loại vì lòng xót thương. Cùng với thánh Phao-lô, ta tin chắc rằng: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý”. Người ban ơn và kêu gọi ta qua Chúa Ki-tô Con Một Người. Nhưng ơn cứu độ ấy có được ta đón nhận hay không thì còn do quyết định của ta. Chúa khởi sự, ta đáp lại và cộng tác. Nếu ta cứ tiếp tục đáp lại, ân sủng Người sẽ giúp ta hoàn tất.
Suy nghĩ: Nhiều lần tôi cầu xin Chúa điều này điều nọ, “nhưng Người không đáp lại một lời”. Vậy lòng tin mạnh mẽ của người đàn bà Ca-na-an dạy tôi điều gì trong những trường hợp như thế?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa dành muôn ân huệ thiêng liêng cho những người mến Chúa, xin đổ tràn tình yêu nồng nhiệt xuống tâm hồn chúng con, giúp chúng con một niềm mến Chúa trong mọi sự và hơn mọi loài, hầu được hưởng gia nghiệp Chúa hứa, là gia nghiệp cao quý hơn những gì lòng người dám ước mong. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 20 mùa Thường niên)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
------------------------------------------
Chúa Nhật thứ 20 Thường Niên
(14-8-2005)
ĐỌC LỜI CHÚA
Is 56,1.6-7: (6) Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh (7) đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta.
Rm 11,13-15.29-32: (13) Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, (14) tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó.
TIN MỪNG: Mt 15,21-28
Đức Giêsu chữa con gái người đàn bà Canaan
(21) Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn, (22) thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: «Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!» (23) Nhưng Người không đáp lại một lời.
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: «Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!» (24) Người đáp: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi». (25) Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: «Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!» (26) Người đáp: «Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con». (27) Bà ấy nói: «Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống». (28) Bấy giờ Đức Giêsu đáp: «Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy». Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao Đức Giêsu đối xử với người phụ nữ Canaan có vẻ như thiếu tình người và cũng mang tính phân: TN 20-A90
1. Tại sao Đức Giêsu đối xử với người phụ nữ Canaan có vẻ như thiếu tình người và cũng mang tính phân biệt chủng tộc chẳng khác gì những người Pharisêu đối xử với bà?
2. Đức Giêsu không làm được nhiều phép lạ cho những người Do Thái ở Nadarét (x. Mt 13,58), thế mà Ngài lại làm được phép lạ cho người phụ nữ ngoại giáo này. Tại sao? Việc biểu lộ quyền năng của Ngài cho họ hệ tại điều gì?
3. Trên đời, có những người tinh thần rất mạnh mẽ, làm được nhiều việc tốt đẹp, to tát, và làm việc gì cũng dễ thành công. Nhưng cũng có những người tinh thần rất yếu đuối, dễ nản chí, làm việc gì cũng dễ thất bại. Họ khác nhau chủ yếu ở điểm nào? Nguyên nhân chủ yếu là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Bối cảnh bài Tin Mừng
Miền Tia và Siđôn – nơi Đức Giêsu và các môn đệ Ngài đến trong bối cảnh bài Tin Mừng này – cũng như miền Cana, là những miền đất của dân ngoại nằm trong lãnh thổ Do Thái. Tương tự như Chợ Lớn là vùng dân cư người Hoa, Phan Rang là vùng của người Chàm tại Việt Nam. Người Do Thái, đặc biệt người Pharisêu, coi dân ngoại bang hay ngoại giáo là những người tội lỗi, bị ô uế về mặt tâm linh, nên họ khinh bỉ ra mặt. Thái độ này tương tự như của người Bàlamôn ở Ấn Độ đối với tiện dân Paria: ngay cả bóng do mặt trời của những người này ngả trên người họ cũng khiến họ phải về nhà tẩy uế. Người phụ nữ đến với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng là người Cana, là người ngoại bang và cũng là ngoại giáo. Vì thế, khi đến với Đức Giêsu là người Do Thái, bà đã mường tượng trước thái độ kém thân thiện có thể có của Đức Giêsu đối với bà. Do đó sau khi yêu cầu Ngài chữa bệnh cho con gái bà, bà không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu im lặng không đáp, và các môn đệ Ngài tỏ thái độ không muốn bà làm phiền Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu, nếu không hiểu, ta có thể kết luận rằng Ngài thiếu tình người vì Ngài đã tỏ ra không sẵn sàng giúp bà chỉ vì bà là dân ngoại: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi», thậm chí còn ví dân ngoại như bà là chó nữa: «Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con». Thật ra, Ngài muốn thử thách niềm tin của bà vào Ngài, bằng cách thử làm cho bà nản lòng xem thái độ bà thế nào. Vì điều kiện để Ngài có thể chữa lành con gái của bà theo như ý bà xin là bà phải có đức tin mạnh mẽ. Nếu bà không có đức tin, Ngài không thể giúp bà được gì cả. Thật vậy, khi Ngài về quê hương của mình là Nadarét, Tin Mừng cho biết: «Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin» (Mt 13,58). Vì thế, việc thử thách đức tin của bà là chuyện cần thiết. Và Ngài đã thử bà bằng cách tỏ ra coi thường bà giống như những người Do Thái khác vẫn đối xử với bà. Nhưng bà đã vượt qua thử thách ấy, bà đã thắng được lòng tự ái dân tộc của bà và không nản lòng. Điều ấy chứng tỏ bà tin vào quyền năng và tình thương của Ngài. Vì thế, Ngài đã cho bà được toại nguyện. Ngài nói: «Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy». Và con gái bà đã được khỏi ngay lúc ấy.
2. Điều quan trọng là phải có đức tin
Để một phép lạ hay lời cầu xin được thành tựu, cần hai yếu tố: quyền năng Thiên Chúa và niềm tin của con người. Yếu tố đầu không còn là vấn đề, vì Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban ơn cứu giúp con người vì tình thương vô biên của Ngài. Vì thế, yếu tố quyết định thành tựu hay không nằm ở phía con người: con người có đủ niềm tin hay không. Thật vậy, mỗi lần Ngài chữa bệnh thành công cho một người nào, Ngài không nói «Ta đã cứu chữa con» cho dù nói như vậy rất đúng, mà nói «Lòng tin của con đã cứu chữa con» (Mt 9,22; Lc 17,19). Thiếu đức tin về phía con người, dù Ngài có muốn cứu giúp, Ngài cũng không làm được, như trường hợp Ngài về Nadarét, Ngài đã không biểu lộ quyền năng của Ngài được vì dân chúng thiếu đức tin, cho dù dân ở đây đều là người cùng tôn giáo với Ngài (x. Mt 13,58). Khi con người có đức tin, cho dù là người ngoại giáo, Ngài vẫn thực hiện được những phép lạ. Đây là một điều đáng cho ta suy nghĩ về khả năng nhận được ơn cứu độ: người theo tôn giáo chân chính mà thiếu đức tin và tình yêu có thể không được ưu tiên nhận ơn cứu độ cho bằng người ngoại giáo nhưng có đức tin và tình yêu, biết sống theo tinh thần của Đức Giêsu.
Khi có đức tin mạnh mẽ, thì điều ta mong muốn sẽ thành tựu: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Gương của Phêrô khi ông đi trên mặt nước (x. Mt 14,28-31) cho ta thấy: sở dĩ ông làm được chuyện ấy vì ông tin vững chắc rằng ông sẽ làm được với sự trợ giúp của Chúa. Nhưng đang đi trên mặt nước ngon lành, bỗng thấy gió thổi, ông liền nghi ngờ, thế là ông bị chìm xuống ngay lập tức trước mặt Đức Giêsu. Điều ấy cho thấy rõ ràng ông đi được trên nước là vì ông tin vững mạnh, và ông bị chìm xuống là vì lúc ấy ông thiếu đức tin. Như vậy có thể nói: không phải ông đi trên nước mà đi trên đức tin của mình. Đức tin của ta chính là mặt đất để ta bước đi trong đời sống tâm linh của mình.
3. Tại sao những ước nguyện của ta lại không thành tựu?
Sở dĩ ta ước nguyện, quyết tâm mà không thành tựu, chính vì ta thiếu niềm tin, tin không đủ mạnh. Vì đức tin của ta nhiều khi chỉ là thứ đức tin được chấp nhận một cách lý thuyết hay chỉ được tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng thôi. Đó là thứ đức tin bằng lời nói chứ không phải đức tin bằng hành động. Nếu có đức tin thật sự và vững vàng, ta sẽ có một sức mạnh tinh thần rất đáng kể, và đời sống của ta chắc chắn sẽ thay đổi theo chiều hướng lạc quan. Về tinh thần, người mạnh mẽ và người yếu đuối khác nhau ở chỗ: người mạnh mẽ là người dám tự tin vào mình, tin mình có sức mạnh và khả năng thực hiện nhiều việc, còn người yếu đuối không dám tự tin vào mình. Sự tự tin vào bản thân mình của người Kitô hữu được xây dựng trên niềm tin vững chắc vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa.
Người có đức tin mạnh mẽ không chỉ tin bằng lời nói, mà tin bằng hành động thực tế. Họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ vì bản chất Ngài là tình yêu (x.1Ga 4,8.16), Ngài không thể không yêu thương, không thể lãnh đạm với những nhu cầu khẩn thiết của họ. Và tình yêu của Ngài là thứ tình yêu đầy quyền năng, không sự gì là không làm được (x. Lc 1,37). Vì thế, khi họ kết hiệp với Ngài bằng đức tin và tình yêu, thì tình yêu của họ cũng sẽ trở thành một thứ tình yêu quyền năng, có khả năng làm được mọi việc. Họ sẽ có kinh nghiệm y như Phaolô: «Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Tuy nhiên, để có được kinh nghiệm về sức mạnh như Phaolô, điều kiện tiên quyết là họ phải từ bỏ chính mình, coi nhẹ «cái tôi» của mình, đồng thời ý thức sự hư vô và bất năng của mình đã. Ý thức sự bất năng của mình là nhận thức rằng nếu không nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa, họ sẽ không làm được gì cả: «Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5). Vì thế, không bao giờ họ hãnh diện hay lên mặt với ai khi mà tất cả những gì họ làm được đều nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa. Nhờ đó, lời cầu nguyện của họ trước Thiên Chúa rất đắt giá vì tâm hồn họ tràn đầy tình yêu, không mang tính vị kỷ, và cũng tràn đầy tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Ngài. Họ sẽ được Thiên Chúa đối xử với họ như đã đối xử với Abraham: «Ta sẽ chúc phúc những ai chúc phúc ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc» (St 12,3).
Đương nhiên, không phải những người tin vững vàng vào Thiên Chúa thì sẽ không gặp khó khăn, thử thách, nghịch cảnh hay đau thương. Những thứ này luôn luôn là những dụng cụ Thiên Chúa dùng để thánh hóa những người Ngài yêu thương, kể cả Đức Giêsu, Con của Ngài. Họ càng vững mạnh trong đức tin thì họ càng được Thiên Chúa thử thách, để khi vượt thắng những thử thách ấy, đức tin của họ vào Ngài sẽ vững mạnh hơn, và họ được Ngài chúc phúc hơn. Bí quyết để họ vượt qua thử thách chính là đặt niềm tin vào Thiên Chúa nhiều hơn nữa. Nếu họ không vượt qua được thử thách vì chưa mạnh tin đủ thì đức tin của họ sẽ bị suy giảm. Mỗi lần được thử thách là một dịp để họ chiến thắng nếu họ dám tin vào Chúa, để sau đó đức tin họ vững mạnh hơn. Nhưng thử thách cũng sẽ là dịp để họ thất bại nếu họ không đặt đủ niềm tin vào Ngài, và đức tin của họ sẽ ngày càng bị suy yếu, sự tự tin nơi bản thân và sức mạnh tinh thần của họ cũng sẽ giảm đi. Vì thế, điều quan trọng là ta phải củng cố đức tin của mình mỗi ngày, và kiên trì với đức tin khi bị thử thách.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, người phụ nữ Canaan là người ngoại giáo, nhưng lại tin tưởng vững chắc vào tình yêu quyền năng của Đức Giêsu, nên bà đã đạt được ý nguyện của bà. Còn những người cùng quê hương, cùng tôn giáo với Ngài ở Nadarét lại không đạt được điều ấy. Xin cho con ý thức sự quan trọng của đức tin và tình yêu đối với Cha, với Đức Giêsu và với con người, trong đời sống tâm linh của con. Đừng để con quá cậy vào tôn giáo chân chính của mình mà quên đi điều cần thiết hơn rất nhiều là đức tin và tình yêu của con. Thiếu nó, đời sống tâm linh của con sẽ bị hụt hẫng, không phát triển được, và đời sống của con sẽ không có giá trị trước mặt Cha.
Joan Nguyễn Chính Kết
------------------------------------------
(Mát-thêu 15: 21-28)
Tin Mừng Nước Trời đã được rao giảng, bắt đầu từ Ít-ra-en và ưu tiên cho dân Ít-ra-en. Chính: TN 20-A91
Tin Mừng Nước Trời đã được rao giảng, bắt đầu từ Ít-ra-en và ưu tiên cho dân Ít-ra-en. Chính Chúa Giê-su trong huấn thị cho các môn đệ đã dạy các ông: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10:5-6). Nhưng bài Tin Mừng hôm nay đem lại cho ta một bất ngờ: “Chúa Giê-su lui về miền Ti-a và Xi-đon” là miền ngoại giáo. Tại sao Chúa lại phá lệ như vậy? Lý do nào thúc đẩy Người tìm một hướng mới cho công cuộc truyền giáo? Có thể Người muốn tránh sự dòm ngó của nhóm Pha-ri-sêu hoặc tránh đám quần chúng quá nồng nhiệt
với Người sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhưng thực ra, lý do chính vẫn là ơn cứu độ phải mang tính cách phổ quát và được ban cho muôn dân. Ít-ra-en chỉ là khởi điểm, để rồi từ đó Tin Mừng sẽ được loan truyền cho toàn cõi địa cầu. Câu truyện Chúa Giê-su chữa con gái người đàn bà Ca-na-an là một cơ hội để ta suy niệm về tính cách phổ quát của ơn cứu độ.
a) Gặp gỡ Đấng Cứu Độ
Gặp gỡ luôn diễn tả một chuyển động, có thể từ hai phía hoặc cũng có thể chỉ từ một phía thôi. Ta đến thăm một người bạn tại nhà họ. Được tin ta tới, người bạn ấy bước ra cửa chào đón ta và đưa ta vào trong nhà. Ta đến thăm một người thân trong bệnh viện. Tuy không thể bước xuống khỏi giường bệnh để tiếp đón ta, nhưng người ấy có thể giơ tay, mỉm cười và ánh mắt rực lên niềm vui. Cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Ma-ri-a với bà thánh Ê-li-sa-bét là cuộc gặp gỡ của ân sủng Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người trải dài qua lịch sử Cựu Ước và lên tới cao điểm qua Chúa Giê-su Ki-tô. Câu truyện Tin Mừng hôm nay là một trong những câu truyện cảm động kể lại cuộc gặp gỡ giữa Đấng Cứu Độ và con người.
Trước hết, có một hành trình để đưa tới gặp gỡ. Việc Chúa Giê-su lui về miền đất dân ngoại có mục đích cũng giống như khi Chúa đi ngang qua trạm thu thuế của ông Mát-thêu. Mục đích là để gặp một người đặc biệt đối với Chúa: người đàn bà Ca-na-an. Chúa Giê-su đang được nổi tiếng sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhưng Người đã bỏ lại tất cả thuận lợi để ra đi tìm con chiên lạc. Đó là lý do Người lui về miền Ti-a và Xi-đon, nơi ấy có một người đàn bà đang mong chờ ơn cứu độ. Thánh Mát-thêu viết tiếp: “Thì này, có một người đàn bà Ca-na-an ở miền ấy đi ra”. Cũng như bao người khác, hẳn người đàn bà này đã nghe biết về Chúa Giê-su. Tuy nhiên, nghe biết là một chuyện, còn có đến gặp gỡ Người hay không lại là chuyện khác. Có biết bao người nghe biết, nhưng họ không đáp lại ơn cứu độ. Trái lại, người đàn bà này đã dám “đi ra” khỏi môi trường sống của mình, bất chấp những phê bình chỉ trích hay kỳ thị của những người đồng hương Ca-na-an khác, miễn là bà gặp được Đấng Cứu Độ. Cuộc gặp gỡ nào cũng đòi hỏi ta phải hy sinh và can đảm.
b) Tôn vinh Đấng Cứu Độ
Bước kế tiếp của cuộc gặp gỡ là tôn vinh. “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” chắc chắn không phải là một lời xu nịnh để cầu cạnh, nhưng là tiếng kêu chân thành phát xuất tự đáy lòng một con người nhận thức mình hoàn toàn lệ thuộc vào sự quyết định của một người khác. Lời tôn vinh đó cũng giống như lời viên sĩ quan Rô-ma đã nhận biết Chúa Giê-su là Đấng nào: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8:8). Nhận biết sứ mệnh của Chúa Giê-su và nhìn nhận thân phận bất xứng của mình, đó là cách thức tôn vinh Đấng Cứu Độ. Viên sĩ quan thấy mình không đáng lãnh nhận vinh dự được Chúa đến tận nhà, còn người đàn bà Ca-na-an thì không xấu hổ ví thân phận mình như “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Ở câu truyện hôm nay, ta gặp lại cùng một cử chỉ bái lạy Chúa Giê-su như các môn đệ trong thuyền đã làm để tôn vinh Đấng Cứu Độ đã đưa họ qua cơn sóng gió. Lớn tiếng tuyên xưng Chúa Giê-su là “con vua Đa-vít” chưa đủ, người đàn bà ấy còn đến bái lạy Người như bái lạy Thiên Chúa của bà. Thật là giây phút cảm động. Đức tin đích thực không bao giờ dừng lại, nhưng luôn đi tới biểu lộ bằng lời nói, cử chỉ, để nhìn nhận chân tính của Đấng mình tin tưởng.
c) Đức tin vào Đấng Cứu Độ
Đây là đích điểm của gặp gỡ. Gặp gỡ Đấng Cứu Độ đưa ta đến lòng tin và là khởi điểm cho một cuộc sống mới. Gặp gỡ không chỉ cho ta một cái nhìn mới về Đấng mình gặp, nhưng hơn thế nữa, là một cái nhìn mới về chính ta. Từ nay ta thấy cuộc sống có một điểm tựa chắc chắn chứ không phiêu lưu và vô định hướng nữa. Không còn cô đơn bước đi mà không biết đi về đâu. Nhưng là đến với Đấng tự xưng là Em-ma-nu-en, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23), và Đấng đã long trọng hứa với các môn đệ trước khi về trời: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Ơn cứu độ không bị giới hạn dành riêng cho dân Ít-ra-en, nhưng qua dân Ít-ra-en để được chuyển đạt tới muôn dân muôn nước. Nhưng để được cứu độ, nhân loại cần phải đáp lại, mở lòng đón nhận. Thiên Chúa không ép buộc ta. Người chỉ tiền định một kế hoạch để cứu độ ta và để ta hoàn toàn được tự do muốn đáp lại lời mời gọi của Người hay không tùy ý. Vậy đáp lại lời gọi cứu độ của Chúa chính là ý nghĩa của đức tin. Sống đức tin nghĩa là ta đến gặp gỡ Chúa Ki-tô vì Người đã được Thiên Chúa Cha sai đến với ta, ta tôn vinh Chúa Ki-tô vì chỉ có Người mới đưa ta ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, cho ta được trở về làm con cái đích thực của Thiên Chúa và dẫn ta tới quê hương vĩnh cửu là nhà Cha trên trời. Đức tin ấy là đức tin chung của Giáo Hội và mọi thành phần trong Giáo Hội cùng chia sẻ, như thánh Phao-lô đã tuyên xưng: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người” (Ep 4:5-6). Thánh tông đồ đã cho ta một lộ trình thật rõ ràng: để đến với Thiên Chúa Cha, ta chỉ có một con đường là Chúa Ki-tô, một lý tưởng là niềm tin và một lối sống hối cải là phép rửa. Trên lộ trình ấy Giáo Hội đang tiếp tục dẫn dắt ta, các anh chị em Ki-tô hữu khắp nơi đồng hành với ta, tất cả cùng bước đi dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần và sự chăm sóc của vị Mục Tử nhân lành.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Để gặp gỡ Chúa Giê-su, tôi có dám “đi ra” khỏi những gì ràng buộc hoặc ngăn cản tôi không? Những ràng buộc và ngăn cản ấy là gì?
Có nhiều khi tôi không tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc sống? Tại sao? Làm sao tìm lại được hướng đi để tôi tiếp tục sống như con cái Chúa?
Tôi có cảm nghiệm mình được nâng đỡ do đức tin của toàn thể Giáo Hội không? Tôi có ý thức mình đang chia sẻ đời sống của Giáo Hội qua việc sống và biểu lộ đức tin vào Chúa Ki-tô và bước đi theo lối sống Ki-tô không? Tôi sẽ làm gì để sống thực sự như một chi thể của Nhiệm Thể Chúa Ki-tô?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 30)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
9-8-2005
------------------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Rô-ma 11: 13-15,29-32
Dựa trên một số thực tại, thánh Phao-lô muốn chúng ta suy niệm về những đặc nét của tình yêu Thiên Chúa: TN 20-A92
Dựa trên một số thực tại, thánh Phao-lô muốn chúng ta suy niệm về những đặc nét của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu trung thành và bền vững biểu lộ qua Ðức Ki-tô và trong kế hoạch cứu độ của Người. Thiên Chúa yêu thương những ai Người kêu gọi ngay giữa những đau khổ khó khăn của cuộc đời và bất chấp mọi sự (Chúa Nhật 18). Thiên Chúa yêu thương Ít-ra-en, mặc dù một số người không tiếp nhận kế hoạch yêu thương của Người (CN 19). Trong đoạn thư Chúa Nhật hôm nay, thánh Phao-lô dẫn chúng ta tới một thực tại rộng lớn hơn cả để minh chứng Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta: Mặc dù hết thảy mọi người, cả Do-thái lẫn Dân ngoại, đều đã là những người bất tuân phục Thiên Chúa, thế mà chính Thiên Chúa lại dùng ngay thái độ bất tuân ấy để tỏ cho hết mọi người thấy lòng nhân từ thương xót của Người.
a) Phải nhìn sự kiện Ít-ra-en bất tuân phục Thiên Chúa như thế nào?
Ðứng trước sự kiện Ít-ra-en bất tuân phục Thiên Chúa, thánh Phao-lô đã bày tỏ quan điểm cá nhân của ngài: tuy cảm thấy ưu phiền, nhưng ngài vẫn lạc quan, tin tưởng họ sẽ được cứu độ (xem bài đọc Chúa Nhật 19). Giờ đây, ngài muốn cảnh giác những Ki-tô hữu gốc ngoại giáo đừng nhìn sự kiện những người Do-thái không tin với thái độ cao ngạo, nhưng phải nhận ra ý nghĩa đích thực của sự kiện ấy.
Vậy ý nghĩa sự kiện ấy như thế nào? Phao-lô trả lời trong đoạn 11:25-29: việc Ít-ra-en không tin là dịp để ánh sáng đức tin đến với dân ngoại, chứ không phải là cơ hội để dân ngoại có thái độ vênh vang và kết án Ít-ra-en. Ý của Phao-lô là chúng ta hãy nhìn vào sự kiện ấy để nhận ra tình yêu Thiên Chúa như một mầu nhiệm: Thiên Chúa "gạt dân Ít-ra-en ra một bên" để hòa giải thế giới với Người, rồi Thiên Chúa sẽ "thâu nhận họ lại", đó là công việc của tình yêu Thiên Chúa. Cho nên, hết thảy mọi người, Do-thái cũng như dân ngoại, phải hoàn toàn lệ thuộc vào ân sủng của Thiên Chúa. Như dân ngoại được đem ra khỏi đời sống của bóng tối tội lỗi để bước vào đời sống ánh sáng, thì cũng thế, những người Do-thái từ bỏ thái độ ngoan cố được thâu nhận lại sẽ giống như "từ cõi chết bước vào cõi sống" vậy. Qua những thực tại ấy, điều cần thiết là chúng ta có nhận ra được tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa hay không. Vậy Phao-lô đi tới kết luận thứ nhất: "Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không đổi ý" (c. 29).
b) Thấy người lại nghĩ đến ta!
Suy nghĩ về trường hợp của Ít-ra-en, Phao-lô đã rút ra được một kết luận nói lên đặc nét thứ nhất của tình yêu Thiên Chúa là trung thành. Thiên Chúa trước sau như một, không hề đổi ý. Tiếp theo, thánh Tông đồ mời gọi Ki-tô hữu gốc dân ngoại suy nghĩ về chính thân phận của họ để nhờ đó cảm thông với Ít-ra-en. Trước khi được thâu nhận vào Hội Thánh, Ki-tô hữu gốc dân ngoại đã là những kẻ "không vâng phục Thiên Chúa." Thế mà Thiên Chúa vẫn thương xót họ, cho họ được đón nhận Tin Mừng. Ðược xót thương và được đón nhận Tin Mừng không phải vì họ xứng đáng, nhưng là ân sủng của tình yêu Thiên Chúa. Lời văn của Phao-lô khiến chúng ta có cảm tưởng vì dân ngoại không vâng phục Thiên Chúa nên Người đã thương xót họ. Thực ra, ngài muốn nói với Ki-tô hữu gốc dân ngoại như thế này: Trước kia anh em không vâng phục Thiên Chúa, nên Người xót thương anh em; nay anh em Do-thái không vâng phục Thiên Chúa, thì cũng là để cho họ được Người xót thương. Nói khác đi, tín hữu gốc dân ngoại cũng như anh em Do-thái, chẳng ai hơn ai, tất cả đều tùy thuộc vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Vậy Phao-lô đi tới kết luận thứ hai: "Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người" (c. 32). Và đây là đặc nét thứ hai của tình yêu Thiên Chúa: thương xót mọi người, không phân biệt chủng tộc ngôn ngữ, Do-thái hay dân ngoại.
c) Tôi sẽ ca ngợi lòng thương xót của Chúa tới muôn đời
Ðiệp khúc này được lập đi lập lại trong nhiều Thánh Vịnh. Hẳn tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức được những đặc nét của tình yêu Thiên Chúa và không ngớt lời chúc tụng. Thánh Phao-lô đã nhận ra tình yêu ấy đặc biệt biểu lộ trong kế hoạch cứu độ. Chỉ có tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa mới phác họa một kế hoạch trí óc con người không thể hiểu nổi. Tại sao Người phác họa một kế hoạch không thể hiểu được như vậy? Chúng ta không có câu trả lời, vì con tim có những lý lẽ riêng của nó, nhất là khi con tim ấy lại là con tim của Thiên Chúa, thì quả thực đó là một mầu nhiệm. Tôi sẽ ca ngợi lòng thương xót của Chúa tới muôn đời, và giờ đây tôi ca ngợi bằng cách đáp trả tình yêu ấy qua lối sống yêu thương như Chúa yêu thương tôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Ðối với những người xấu trong cộng đoàn, sở làm..., tôi có dễ dàng lên án họ không? Tôi hy vọng họ sẽ được Chúa xót thương hay tôi khinh miệt họ? Tôi làm thế nào để tập nhìn theo cái nhìn của Phao-lô?
Tôi có luôn nghĩ tới thân phận bất xứng của mình để cảm tạ tình thương của Chúa không? Ý thức thân phận ấy giúp gì cho tôi trong đời sống đức tin?
Câu 32 được coi là một câu đẹp nhất trong Kinh Thánh. Tại sao? Nó nói lên tình trạng ngỗ nghịch của tôi và tình yêu của Chúa như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài ca ngợi tình yêu vững bền của Chúa.
Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi
--------------------------------
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay đặt ra một vấn đề rất gần với những suy nghĩ và nếp: TN 20-A93
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay đặt ra một vấn đề rất gần với những suy nghĩ và nếp sống của con người: vấn đề phân biệt đối xử. Ngày nay có phân biệt chủng tộc, có phân biệt phái tính, có phân biệt giai cấp, có phân biệt Bắc-Nam, phân biệt đảng phái... và phân biệt giàu-nghèo. Trong Lời Chúa có đề cập đến phân biệt tôn giáo: Dân ngoại với Dân Chúa. Trong thực tế còn nhiều thứ phân biệt không nói thành lời !
Vào thời của Isaia, dân Chúa đang đứng trước thảm họa bị dân ngoại giày xéo. Vào thời của Phaolô có xu hướng dường như dân ngoại bị coi là không thể được tiếp nhận vào Hội Thánh. Ðó là hậu qủa của một truyền thống thâm căn cố đế trong Israel, mà có thể hình dung điều ấy qua kiểu nói dân gian mà Ðức Giê-su đã mượn để trả lời cho lời kêu cầu của người đàn bà xứ Canaan:"không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó".
Mọi sự phân biệt đều rõ ràng nhằm tiêu diệt phẩm giá và cả sự sống của một thành phân nhân loại. Và điều ấy chẳng bao giờ có thể phù hợp với Thiên Chúa, và cách riêng với Ðức Giê-su. Khẳng định có thể rút ra từ Lời Chúa hôm nay.
Trước hết, ngay Isaia cũng đã loan báo mỗi một con người không thể bị đánh giá chỉ dựa vào danh xưng, vào nghi thức, vào giai cấp, vào sự phân loại của xã hội. Ðối với Thiên Chúa, con người phãi được nhìn theo chính sự thể hiện trong cuộc sống của họ. Những ai có cuộc sống thể hiện điều chính trực, thi hành điều công minh, gắn bó với Thánh Danh, họ đều là Dân Người, dù họ là người ngoại kiều, là dân ngoại theo danh xưng, nghi thức hay giai cấp. Isaia còn loan báo tính phổ quát của Nhà Thiên Chúa, nơi quy tụ mọi dân tộc, mọi tiếng nói, mọi mầu da.
Thánh Phao-lô cho rằng tính phổ quát của ơn Cứu Ðộ không những không mâu thuẫn với ơn đặc tuyển của Israel, mà còn làm cho ơn gọi của Israel thêm phong phú và vinh dự: khi Thiên Chúa xót thương và cứu độ dân ngoại, vì như thế Israel có cơ hội thấy hồng ân Chúa gọi họ, chọn họ thật lớn lao, bởi vì họ khám phá ra rằng "Suốt ngày Ta dang tay kêu gọi một dân không vâng lời và ngỗ nghịch".. Những số sót của Israel trong đó có Phao-lô chứng tỏ Thiên Chúa không bỏ rơi dân Chúa chọn, nhưng khi Israel tin nhận ra và trở về với hồng ân Chúa, thì tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy: sự tốt đẹp như "từ cõi chết bước vào cõi sống".
Về phần Ðức Giê-su, thái độ bước đầu đối với người phụ nữ Canaan chỉ là một sự thử thách lòng tin và sám hối của bà, khi cho bà thấy bà là ai dưới con mắt một người do thái. Cho dù xem ra thái độ do thái này là qúa đáng, nhưng nó cũng nói lên tình trạng khốn quân của dân ngoại. Một khi nhận thức được không ai có thể giải thoát mình khỏi tình trạng khốn cùng ấy ngoài Ðức Giê-su, bà không ngần ngại để khiêm tốn tuyên xưng lòng tin. Và Thiên Chúa, Ðấng trung tín, chẳng bao giờ bỏ rơi những kẻ tin cậy Ngài. Ðức Giê-su đến để loan báo tình yêu trung tín của Chúa, Người là sự hoàn thành mọi lời hứa và hy vọng dành cho kẻ tiqu1 Ðức Giê-su khi nhận lời kêu cầu, và lòng tin của người phụ nữ ngoại kiều này, Người đích thật là NHÀ CẦU NGUYỆN cho mọi dân tộc.
Trong Tin Mừng, cũng như trong thư của Phao-lô, còn có một chi tiết mà người Kitô hữu không thể không đón nhận: Họ phải là "số sót còn lại của Israel" giữa mọi dân tộc. Họ phải trở thành chứng từ, trở thành người cầu thay nguyện giúp cho dân ngoại khám phá ra và được hưởng lòng thương xót của Chúa. Ðó là sứ vụ phải được chính họ quý trọng và cần mẫn, như Phao-lô và các môn đệ Ðức Giê-su. Thánh Phao-lô khi nói về số sót ấy, đã xác định cuộc sống căn bản của họ là chấp nhận được tháp vào gốc sự sống, Ðức Giê-su Ki-tô, bằng tin giữ Lời Người. Và như vậy họ cũng ý thức được việc loan báo Lời là sứ vụ của lòng Tin. Hơn thế, còn là vinh dự của kẻ tin.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
--------------------------------
Ngày 18/8
Mt 15, 21- 28
Viết về lòng tin của một người, bạn cũng như tôi vẫn tỏ ra dè dặt , nếu không nói được là lúng túng: TN 20-A94
Viết về lòng tin của một người, bạn cũng như tôi vẫn tỏ ra dè dặt , nếu không nói được là lúng túng. Câu chuyện hôm nay xẩy ra khi Chúa Giêsu đi ngang qua ranh giới giữa dân Do Thái và dân ngoại giáo. Cái trớ trêu của câu chuyện là người tự cho mình ở trong,lại bị đẩy ra ngoài,còn người bị dân có đạo cho là ở ngoài lại ở trong .Bối cảnh Tin Mừng Matthêu đoạn 15,21-28 gợi lên hôm nay sau sự thành công của phép lạ Chúa Giêsu làm cho 5 chiếc bánh và 2 con cá hóa nên nhiều, dư dật và còn dư thừa khi 5.000người không kể đàn bà,con nít đã ăn no nê.Dân chúng và các môn đệ đã lợi dụng cơ hội này để tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua.Chúa không màng gì đến danh vọng,quyền cao, địa vị .Chúa đã ra lệnh cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia,còn Ngài đi lên núi cầu nguyện. Sóng to,gió lớn nổi dậy .Chúa lại tới nhập cuộc với họ và cứu thoát họ khỏi hiểm nguy.
Chúa Giêsu vẫn chứng tỏ Ngài có toàn quyền trên vũ trụ,vạn vật và trên con người Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các người biệt phái,ký lục về sự sạch, dơ .Theo quan niệm của lớp người này, sự thanh sạch nằm ở nơi con người thực hành lề luật,giữ lề thói, tập tục của tổ tiên. Họ chê trách các môn đệ của Chúa Giêsu phá đổ những tập tục của tiền nhân . Ðối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ lề luật bề ngoài mà trong lòng không ngay chính vẫn kể là không,vì con người cần phải có trái tim, có lòng ngay chính,có nội tâm thật sâu xa .Con người phải phản ánh trái tim hiến tế của Chúa Giêsu ."Sự thực sẽ giải thoát."( Ga 8, 32 ).Bối cảnh mà thánh Matthêu trưng ra ở đây còn cho ta thấy người đàn bà Canaan,thuộc dân ngoại. Dân tộc mà người Do thái chính thống tránh xa hơn mọi dân khác vì từ xa xưa cha ông họ đã có mối thù truyền kiếp ,không đợi trời chung. Cái nghịch lý ở đây là người đàn bà Canaan tuy hiểu rằng giữa dân tộc bà và dân tộc Do Thái đang còn có mối thù hằn truyền kiếp, nhưng bà vẫn liều,vẫn tới để tìm gặp Chúa Giêsu dù bà biết bà không được phép làm như vậy.
VẪN LÀ ÐỨC TIN CỦA CON ÐÃ CỨU CON: Người đàn bà Canaan đã bất chấp luật lệ và nói cho cùng bà đâu có biết tí gì về luật Môsê, luật của các tiên tri, bà nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua ranh giới dân tộc bà, bà nhất quyết tới tìm gặp Chúa Giêsu.Bệnh hoạn đã làm bà đau khổ rất nhiều năm. Bà đã tốn không biết bao nhiêu cơ man tiền bạc,của cải mà không thể nào bệnh của bà thuyên giảm . Mình Chúa Giêsu mới có uy quyền . Bà đã thống thiết van xin Chúa Giêsu. Lời van xin khẩn khoản của bà:" Lạy Chúa,xin thương xót tôi ". Lời này làm Ta nhớ tới anh mù Bactimê khi nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua đó. Chúa Giêsu đã nói trắng với bà:" Không thể lấy bánh của con cái-tức dân Do Thái -để ném cho chó nhỏ ".Người phụ nữ tuy có ngạc nhiên nhưng không hề phật lòng trước câu nói của Chúa Giêsu vì bà hiểu rằng dân Do Thái, dân của lời hứa phải được ưu tiên,còn bà là dân ngoại , bà chỉ cầu được miếng bánh vụn trong tình thương vô biên của Thiên Chúa.Ðức tin mãnh liệt nơi người đàn bà Canaan đã làm Chúa ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Chính đức tin mạnh mẽ của bà đã giúp bà gặp được Chúa và phép lạ đã xẩy ra khi bà tuyên xưng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa.
ÐỨC TIN LOAN BÁO TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI: Chúa mời gọi mọi người hưởng nếm hạnh phúc nước trời.Với phép lạ Chúa làm cho bà ngoại giáo Canaan,Chúa muốn nói với mọi người chỉ có một việc quan trọng là tin nhận Ðức Kitô.Từ nay, không còn người ở ngoài và người ở trong,nhưng Giáo Hội là chung cho những người tin.Chúa muốn qua phép lạ chữa lành cho người đàn bà Canaan, mời gọi dân Chúa đừng đóng khung,đừng rào cản con người muốn tới với Chúa.Chỉ có một điều kiện và điều kiện này lại là duy nhất và tối cần để gặp được Chúa là tin nhận và đặt tất cả niềm cậy trông nơi Chúa Giêsu. Phép lạ đòi hỏi sự cộng tác của con người.Lãnh nhận ơn nhưng không từ Chúa, ta đừng có tinh thần pháo đài,rào cản và không muốn người khác gặp Chúa.Hội Thánh luôn mời gọi mọi người vui tươi chung hưởng bàn tiệc thánh và mai sau đạt được nước trời .
Gợi ý:
1.Ðức tin của ta ra sao ?
2.Ta có tinh thần rào cản đối với những người muốn tìm gặp Chúa hay không ?
3.Ta có tự cao tự đại cho ta là trên hết,là biết hết mọi sự và không mau mắn để cho Chúa hướng dẫn ta không ?
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
--------------------------------
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau tìm hiểu về đức tin của người đàn bà xứ Canaan, TN 20-A95 Luong
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau tìm hiểu về đức tin của người đàn bà xứ Canaan, một đức tin đã từng làm cho Chúa Giêsu xúc động và chiếm được tình thương của Ngài. Vậy thì đức tin ấy như thế nào?
Trước hết đức tin ấy là một đức tin khiêm tốn
Thực vậy, người phụ nữ bất hạnh có đứa con gái đau yếu, và bà đã kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà không có vẻ hiếu thắng. Bà không ý thức là mình đang nêu lên một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là Người chỉ muốn hoạt động ở Israel chứ không muốn hoạt động nơi người ngoại giáo, thì bà đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ khiêm nhường của lời cầu xin. Bà cầu xin và đặt mình ngang hàng với đàn chó con, sống bằng những mẩu bánh vụn từ bàn rơi xuống. Bà đã gắn cho đức tin cái tính chất khiêm nhường khiến cho Chúa Giêsu cũng phải cảm động và xiêu lòng.
Tiếp đến đức tin ấy là một đức tin van xin
Thực vậy, trước mặt Chúa, bà đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà bị xua đuổi một cách cứng rắn, nhưng bà vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố. Cái ngoan cố đặc biệt của một bà mẹ. Trên bình diện tâm lý thì đức tin này mang tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh nghiệm đau khổ và từ hy vọng được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn bà một ơn riêng để bà bám chắc và tin tưởng mãnh liệt vào Chúa.
Sau cùng đức tin ấy là một đức tin mới mẻ và vươn xa
Với các tông đồ thì hành động của bà chỉ là một sự quấy rầy, còn với Chúa Giêsu thì Người đã dành quyền ưu tiên cho dân Israel, thế nhưng người đàn bà xứ Canaan đã lật đổ các vấn đề đó để đi thẳng tới đối tượng. Chính điều này đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, đã từ lâu chúng ta được nuôi dưỡng bằng biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa, thế nhưng đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự khiêm nhường mà nó phải có hay không?
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Thiên Chúa muôn đời vẫn là một “ẩn số” mà nhân loại cứ phải khao khát kiếm tìm trong khắc khoải TN 20-A96
Thiên Chúa muôn đời vẫn là một “ẩn số” mà nhân loại cứ phải khao khát kiếm tìm trong khắc khoải khôn nguôi, như Thánh Augustinô đã từng thốt lên: “Chúa đã dựng nên con, nên lòng con mãi khắc khoải kiếm tìm cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”. Một thái độ tự hào, tự mãn, cho rằng mình đã chiếm được Thiên Chúa, đã nắm bắt chân lý, để rồi không còn biết vươn mình lên đi tới hay khiêm hạ khát khao kiếm tìm lại chính là một thái độ phản lại niềm tin, hay một niềm tin, nếu có, đã trở nên nghèo nàn và rỗng tuếch.
Nhưng nếu đức tin là một cuộc lên đường tìm kiếm, thì, tiên vàn đó lại là cuộc kiếm tìm của chính Thiên Chúa.
Nếu khởi đầu lịch sử, khi Thiên Chúa đến kiếm tìm và gặp gỡ nhân loại “trong cơn gió nhẹ ban chiều” ở nơi vườn diệu quang (St 3,8) để hàn huyên tâm sự lại đã gặp một A-đam, E-va trần truồng đang núp trốn, thì Ngài đã không thất vọng nản lòng để quay mặt đi xa; nhưng rồi sau đó đã tiếp tục lên đường không mệt mõi, kêu gọi, ước giao, hẹn thề hết Áp-ra-ham, đến Gia-cóp, hết I-sa-ac đến Giuse…sau đó là Mô-sê với bao chịu đựng nhọc nhằn của 40 năm trường hành về Đất Hứa, cũng chỉ để hình thành một Dân Tộc của niềm tin, một Dân của Giao ước. Mà đâu chỉ có dân ít-ra-en; cho dù trong phương án cứu độ, đó chính là Dân ưu tuyển. Thiên Chúa kiếm tìm tất cả mọi người, mở lối đưa đường cho tất cả những ai thành tâm thiện chí khát khao Ngài, kiếm tìm Ngài và chân chất sống theo những chỉ dạy của Ngài khắc ghi trong đáy thẳm tâm hồn, như lời sứ ngôn I-sa-i-a trong BĐ 1 hôm nay: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người…”
Và cuộc kiếm tìm của Thiên Chúa đã đến đỉnh điểm khi “Ngài ban Con Một, để ai tin vào Người con đó sẽ không phải chết nhưng được sống vĩnh hằng” (Ga 3,16).
Quả thật, trong cuộc hành trình rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Kitô Con Một Thiên Chúa đã từ Bắc xuống Nam, từ Đông lên Tây, dọc ngang khắp vùng Palestina để “kiếm tìm” những con chiên lạc mà đưa về cho Thiên Chúa một đàn chiên và một chủ chiên.
Ngoài những con chiên lạc “con giòng cháu giống thuộc dân ưu tuyển Ít-ra-en, Chúa Giêsu lại bôn ba sang các miền ngoại giáo lân cận để tìm kiếm nơi cộng đồng dân ngoại những tâm hồn khao khát chân lý cứu độ để dẫn họ về trong chân lý và tình thương.
Tin mừng Matthêu hôm nay đã tường thuật những bước chân tiến về vùng ngoại giáo Tyrô và Siđon của Chúa Giêsu; và chính nơi vùng ngoại đạo nầy, Ngài đã gặp được một người đàn bà ngoại giáo Canaan nhưng “mạnh tin”.
Bà mạnh tin khi bà nhận ra chàng thợ mộc đến từ Na-da-rét kia chính là “Con Vua Đa-vít”, một danh xưng mà vào thời điểm đó, chỉ có những tấm lòng khát mong và đầy tràn niềm hy vọng vào một Đấng Thiên Sai đang đến mới sử dụng.
Bà mạnh tin khi bà xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có đủ quyền năng chữa con bà khỏi quỷ ám, một quyền năng chỉ dành cho Thiên Chúa.
Bà mạnh tin khi vững vàng trông cậy vào tình yêu vô biên của chính Chúa Giêsu bất chấp những thử thách nặng nề là sự làm ngơ, chối từ và cả khinh miệt.
Chính ở nơi tâm hồn cương nghị và đầy khiêm hạ của người phụ nữ ngoại giáo Canaan nầy, Chúa Giêsu đã tìm được niềm an ủi trong công cuộc “đi bủa lưới giăng câu” các linh hồn trên những nẻo đường đất lạ.
Và khởi đi từ đó, Ngài đã truyền cho các Tông Đồ hãy mạnh dạn “đưa thuyền ra chỗ nước sâu”, “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng Tin Mừng.”
Thế nhưng, chúng ta cũng đừng quên, Chúa Giêsu đã không ít lần đã thất bại thảm thương; mà cuộc thất bại cay đắng nhất trên con đường rao giảng Tin Mừng lại xảy ra trên chính quê hương Na-da-rét của Ngài. Chính tại nơi đây, Ngài đã “không làm được phép lạ nào” chỉ với lý do: “Vì họ cứng lòng tin”.
Nếu ở tại đất ngoại giáo có được một tâm hồn phụ nữ Canaan sẵn sàng đánh đổi niềm tin vào Ngài bằng mọi giá, thì tại Giê-ru-sa-lem, đã có hàng trăm người đã sẵn sàng chối từ Ngài để chọn Ba-ra-ba, vì họ không thể đánh cược niềm tin vào một con người rách nát thảm thương sắp bị Philato tuyên án tử.
Họa hằn lắm mới có một Lê-vi giã từ bàn đếm tiền của người thu thuế để bỏ lại đằng sau tất cả sự giàu có trần tục mà lên đường làm môn đệ của Ngài; hay một Gia-kê lùn tịt về thân xác và cả nhân phẩm hay đức độ, sẵn sàng cho đi tất cả của cải trần gian để sống cho những giá trị của cái nghèo Nước Trời.
Vâng, những người ở Na-da-rét hay Giê-ru-sa-lem đó cùng với các tư tế và biệt phái, hay những người quyền cao chức trọng lúc bấy giờ họ tin rằng họ đã có sắn một đức tin chân truyền đúng mực, họ không cần phải mở lòng ra để đón nhận hay khát mong một “tin mừng” huyển hoặc nào nữa, nhất là một “Tin Mừng” gần như đối nghịch hẳn với tâm thức và sự kiếm tìm của họ mà ông Giêsu kia đã loan báo như “khó nghèo, hiền lành, trong sạch, yêu thương kẻ thù, tha thứ luôn luôn, chọn đường thập giá…”
Đặc biệt, “giải pháp thập giá” quả là một thử thách quá lớn mà họ không dễ gì vượt qua hay chọn lựa, bởi họ đã quen chọn cho mình con đường dễ dàng, nhung lụa, vinh quang…
Tuy nhiên, cũng giống như người đàn bà Canaan khi đối diện với những thử thách nghiệt ngã, người trộm bên hữu đã mở lòng để tin vào một con người chỉ còn tấm thân tàn ma dại: “Lạy Thầy, khi nào Thầy về Vương Quốc của Thầy, xin nhớ đến tôi”.
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay gần như truy vấn tất cả mọi người chúng ta về hành trình đức tin của chính mình.
Chúng ta gần như sống và thực hành đức tin như một chuyện “đã rồi”, một “chọn lựa dễ dàng và không hề thử thách”.
Vẫn còn đó nhiều người trong chúng ta sẵn sàng quay lưng lại với Giáo Hội với nhà thờ, chỉ vì một tự ái không đâu trước một lời quỡ trách.
Vẫn còn đó nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh chã còn thiết tha cầu nguyện và trung thành đến với Chúa chỉ vì Chúa chưa đáp ứng những khát vọng và lời nguyện xin.
Vẫn còn đó những người mang tâm trạng oán trách và cả hận Chúa vì phải đương đầu với những khổ đau, thất bại, bệnh tật hay đói nghèo…
Và chung chung, chúng ta muốn giữ “nguyên trạng đức tin” mà không cần phải đặt lại, kiếm tìm hay hoán cải…
Trên những nẻo đường thế giới hôm nay Chúa vẫn sục sạo đi tìm. Nhưng con đường Chúa đề nghị để theo Ngài không bao giờ tầm thường và dễ giải.
Câu trả lời của người phụ nữ ngoại đạo Canaan hôm nay và thái độ đức tin đầy khiêm nhu tín thác của bà mãi mãi là một điểm quy chiếu cho mọi cuộc lên đường tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa. Vâng, đó là một mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Amen.
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lời kêu cứu của người mẹ có con mắc bệnh hiểm nghèo, được chia sẻ rất nhanh trên mạng. TN 20-A97
Có một lời kêu cứu của người mẹ có con mắc bệnh hiểm nghèo, được chia sẻ rất nhanh trên mạng. Riêng trên Facebook Jack Mummy, có tới 16.000 lượt chia sẻ. Đằng sau lời kêu cứu này, là câu chuyện số phận buồn của người phụ nữ khát khao làm mẹ đã 2 lần mất con.
Đó là chuyện đau lòng của Chị Hà Thị Quỳnh Nga (Đông Anh, Hà Nội) hạ sinh người con thứ 3 vào lúc 14g30 ngày 3/6 tại bệnh viện Bạch Mai. Nhưng niềm hạnh phúc mong manh bỗng nhiên sụp đổ khi sáng ngày hôm sau, bác sĩ chuẩn đoán bé trai Nguyễn Hà Hải Đăng bị nhiễm độc do nhóm máu hiếm ORh-.
Cùng ngày hôm đó, bác sĩ huy động người nhà truyền máu cho Hải Đăng, nhưng không ai thuộc nhóm máu này. Gượng dậy sau nỗi đau mới mổ khi sinh, chị Nga vội vã lên mạng nhắn tin cho người em với những dòng vội vàng, nhờ chia sẻ lên Facebook: “Mình mới sinh con được một ngày, con thuộc nhóm Rh-, cần được truyền máu. Mình đang ở Bệnh viện Nhi Hà Nội, cầu xin mọi người giúp mẹ con mình. Mình mới mất 2 cháu rồi, đây là cơ hội làm mẹ còn lại duy nhất của mình. Xin mọi người giúp mẹ còn mình với, mọi người liên hệ số điện thoại….”. Chị gửi tin và hi vọng, cuộc sống luôn có phép nhiệm màu.
Nhờ thông tin lan nhanh trên mạng, một số người có cùng nhóm máu đã nhanh chóng đến viện hỗ trợ máu cho bé Hải Đăng. Hiện tại, nhờ sự giúp đỡ của cộng đồng Facebook, cháu Hải Đăng đã thay máu 3 lần, qua được cơn nguy kịch.
Quả là tình mẫu tử đã khiến chị Nga đầy khôn ngoan và kiên trì để cầu cứu cho đứa con. Dù mong manh. Dù tỉ lệ rất thấp, nhưng nếu cứu được con, chị sẵn lòng làm tất cả. Chị đã biết sử dụng thông tin hiện đại để viết lên lời kêu cứu của mình. Chị đã được toại nguyện. Tình mẫu tử cao sâu đã cứu con chị khỏi lưới hái tử thần.
Đó cũng là hình ảnh kiên cường của người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay. Bà đã mang con đi vái tứ phương, nhưng vô vọng. Bệnh tật vẫn bám chặt đời con bà. Sự sống như đang dần trôi qua với con bà. Bà vẫn quyết chí dành giựt lại sự sống cho con bà. Bà đã khiêm tốn đến với Chúa, dù rằng bà là người ngoại đạo. Bà đã van xin Chúa, dù rằng lời van xin tưởng chừng như Chúa bỏ ngoài tai. Bà vẫn không ngã lòng. Bà vẫn níu kéo Chúa bằng những mẩu đối thoại thật khiêm tốn và kiên trì. Bà chỉ nhận mình là một thân phận thấp hèn, nhưng vẫn ao ước được đón nhận hồng ân từ Chúa.
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước niềm tin không thay đổi của bà. Chúa đã thấy sự chân thành của bà. Chúa cũng thấy một tình mẫu tử thật cao cả của bà đã dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin và sự can trường của bà đã được Chúa đền đáp bằng phép lạ tình thương của Ngài.
Con người chúng ta khi đứng trước khó khăn, vẫn mong cầu phép lạ. Phép lạ là điều ai cũng mong đến với mình. Nhưng không mấy ai hiểu rằng: phép lạ chỉ đến sau những nỗ lực của con người. Phép lạ không bổng dưng đến với chúng ta như kiểu “ngồi chờ sung rụng”. Phép lạ đòi hỏi niềm tin bằng hành động của con người được biểu lộ một cách chân thành và khiêm tốn. Đó là điều tối cần thiết để Thiên Chúa có thể thi ân cho con người.
Thế mà vẫn còn đó, những người mong được phép lạ chữa lành bệnh tật mà lại chẳng bao giờ bày tỏ lòng thành qua những giờ kinh, qua thánh lễ hay cầu nguyện riêng với Chúa hay Đức Mẹ. Vẫn còn đó, những người muốn được phép lạ có cuộc sống sung túc, thế mà chẳng bao giờ chú tâm vào công việc. Vẫn còn đó, những người muốn Chúa giúp vượt qua hoạn nạn, nhưng chẳng bao giờ nỗ lực đứng lên để Chúa dìu bước.
Quyền năng Chúa vẫn bao trùm trên con người. Phép lạ của Chúa vẫn tiếp diễn trong cuộc sống hôm nay. Nhưng để đón nhận phép lạ của Chúa, đòi hỏi con người nỗ lực vươn lên và bày tỏ lòng tín thác nơi Chúa. Như người phụ nữ trong Tin Mừng, bà chỉ có thể đón nhận phép lạ của Chúa sau bao nhiêu những nỗ lực phấn đấu, cùng với niềm tin trung kiên.
Cuộc sống luôn có những khó khăn, xin cho chúng ta biết chạy đến với Chúa trong niềm tin phó thác. Ước gì chúng ta không bao giờ bỏ cuộc trước gian nguy, nhưng luôn tin tưởng vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua. Amen.
--------------------------------
Lời rao giảng của các tiên tri trong thời Cựu Ước được dành cho người Do-thái trước tiên. Họ là Dân TN 20-A98
Lời rao giảng của các tiên tri trong thời Cựu Ước được dành cho người Do-thái trước tiên. Họ là Dân đã được Thiên Chúa chọn để cưu mang ơn cứu độ cho nhân loại. Dân Do-thái là một dân tộc văn minh có lề luật hướng dẫn và có cơ cấu tổ chức chu đáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn lại hơn hai ngàn năm về trước, cuộc sống của dân làng rất đơn sơ mộc mạc. Ngày đó, họ chưa có các phương tiện văn minh kỹ thuật về các phương diện khoa học trong đời sống. Nhất là về vấn đề thông tin, in ấn và truyền thông. Các tiên tri đã nỗ lực rao giảng và luôn nhắc nhở con dân quay về với Thiên Chúa: Đây Thiên Chúa phán: Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện (Is 56, 1). Sự rao giảng bằng cách truyền đạt rỉ tai và âm thầm loan truyền sứ điệp một cách rất chậm rãi qua các thế hệ. Lời rao giảng được ghi chép bằng tay cuộn thành từng cuốn sách được cất giữ và lưu truyền.
Lịch sử ơn cứu độ đi vào hành trình cuộc sống cụ thể của xã hội. Dân bị ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng của các dân tộc lân bang tôn thờ các tượng thần gỗ đá vô cảm. Các vị Thần này do con người làm nên, tặng ban và phong thần để có thể đáp ứng thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Nhiều người đã ưa thích chạy theo thói đời dễ dãi, buông thả và thụ hưởng. Các Vị Thần như các bình phong để con người tự điều khiển theo ý muốn của mình. Các nhà cầm quyền dựa vào uy tín của thần minh để thống trị và cai quản dân chúng. Các tôn giáo ngoại bang chủ trương thờ cúng các thần minh theo nhu cầu của cuộc sống, tạo nên các thần mưa, gió, bão, núi, sông, mặt trời, mặt trăng, thần bò vàng, thần cây cối… và các thần vô danh. Gọi chung là Đa Thần Giáo. Các nghi lễ cúng bái thờ lạy các Thần chỉ là những hình thức bề ngoài trống rỗng. Các Thần chỉ là gỗ đá, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và chỉ trơ trọi như một xác không hồn.
Trong bài phúc âm kể câu truyện người đàn bà quê ở Canaan, vùng đất của dân ngoại, đến kêu van Chúa Giêsu trừ quỷ cho con gái của bà. Con người thường bị ma quỷ quấy phá và ám ảnh. Tự sức con người đành bó tay. Các Thần Minh cũng chẳng có quyền hành gì trên ma quỷ. Người đàn bà đã chạy đến với Chúa xin cứu giúp: Bà kia đến lạy Người mà nói: Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi (Mt 15, 25). Chúa đã thử thách bà về lòng tin. Bà tỏ ra có đủ sự khiêm nhượng để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa. Bà không ngại nhận mình chỉ là ‘chó con’, cũng được thừa hưởng ân lộc của Thiên Chúa: Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc ấy, con gái bà đã được lành (Mt 15, 28). Tuy sống chung đụng giữa những người dân ngoại, nhưng không phải mọi người đều lệ thuộc hay tỏ lòng thờ kính những vị Thần vô tri vô giác. Nhiều người vẫn muốn đi tìm sự thật và nguyên nhân cùng đích của cuộc đời. Trên thực tế, có biết bao nhiêu người bị hướng dẫn lầm lạc trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Họ tôn thờ những vị thần mà họ không biết. Thật đáng thương!
Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa mạc khải và hướng dẫn sống trong lề luật và huấn lệnh. Chúng ta biết rằng sống trong khuôn khổ của các giới răn cũng không phải là dễ dàng. Vì tâm lòng con người mong muốn được cuộc sống tự do không bị ràng buộc. Trải qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện biết bao sự lạ lùng và ưu đãi dân hết mực, vậy mà dân chúng cứ chứng nào tật đó. Sự cám dỗ của cuộc sống vô thần hay đa thần giáo luôn kéo lôi con người trở lại sự vô tri. Vì nhiều người tin vào Đa Thần sẽ tự tìm thỏa mãn mọi khát vọng thấp hèn của bản năng, mà không bị lương tâm cắn rứt. Nhưng dân Do-thái được hướng dẫn để đặt niềm tin vào Thiên Chúa độc thần. Một Thiên Chúa có uy quyền và yêu thương con dân của Người. Thiên Chúa nhân từ, công bằng và thưởng phạt công minh.
Qua hơn hai ngàn năm, Tin mừng tiếp tục được rao truyền khắp nơi. Số người tin Chúa có gia tăng nhưng so với dân số thế giới, số tín hữu không tăng thêm. Giáo Hội có nhiều phát triển không đồng đều như những sóng triều khi thịnh khi suy tùy thuộc vào mỗi địa phương, văn hóa, chủng tộc và ngôn ngữ. Khi chúng ta nhìn chung chung qua những sinh họat của Giáo Hội Công Giáo tại Giáo Đô, tại các Nước thứ ba và trong các Nước đang phát triển, chúng ta thấy có tia hy vọng và lạc quan. Các cuộc tổ chức Đại hội, đại lễ và các cuộc hành hương rất hoành tráng, qui tụ đông người và long trọng. Các nhà thờ tiếp tục được xây dựng mới và sửa chữa tu bổ rất khang trang. Số giáo dân vẫn sinh hoạt sầm uất và mỗi năm có thêm nhiều các tân tòng. Có nhiều ơn gọi dâng mình cho Chúa trong các Dòng tu đạo đời.
Tuy nhiên, thực tế tại các nước văn minh, nhất là Âu Châu, niềm tin tôn giáo đã dần bị phai mờ. Ngay tại nơi Chúa Giêsu giáng trần, con số Kitô hữu rất khiêm nhượng. Tại Belem, Giêrusalem và Nazarét, những nơi thánh trở thành các di tích làm chỗ cho khách hành hương kính viếng. Các đền thờ, nhà thờ và hội đường ít người lui tới. Giáo dân thưa thớt và bị chia năm sẻ bảy, mỗi nhóm tôn giáo sở hữu một khu vực. Đa số các tín hữu bị ảnh hưởng bởi các trào lưu trong xã hội. Nhiều người đang chạy theo cuộc sống thực tế mong tìm cái ăn, cái uống, hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi. Không còn quan tâm nhiều đối với đời sống tâm linh và sự sống ngày sau.
Đôi khi chúng ta cảm thấy hơi bi quan vì nhiều người Kitô hữu không còn muốn thực hành đạo. Các nhà thờ bị trống vắng nhiều. Con số tín hữu tham dự lễ Chúa Nhật giảm sút đáng kể. Thờ ơ với các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Hôn Phối. Ơn gọi dâng hiến phục vụ thiếu hụt. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa vì thiếu tài chánh nâng đỡ. Tin đạo, nhưng không muốn sống và thực hành các giới răn của Chúa hay huấn quyền. Rất nhiều tín hữu cấp tiến đồng ý chấp nhận những điều nghịch với giáo huấn của Giáo Hội về đạo đức luân lý như vấn đề công bằng xã hội, quyền sự sống, quyền lao động, về hôn phối của các cặp đồng tính, ngừa thai, phò phá thai, trợ tử và tử hình... Có nhiều tín hữu không chống đối hay từ bỏ niềm tin, họ vẫn mang danh Kitô hữu, nhưng sống theo chủ nghĩa tương đối. Quan niệm sống đạo một cách cởi mở và dễ dàng. Đây là vấn đề nhức nhối trong mục vụ. Một số các thành viên vẫn tham dự đầy đủ các sinh họat tôn giáo, nhưng không muốn thay đổi cuộc sống nội tâm. Nhất là sự liên hệ trong đời sống gia đình như ly dị, tái hôn và sống chung bất hợp pháp. Đời sống luân lý bị tụt dốc gây rất nhiều những khó khăn trong vấn đề giáo dục con cái và xây dựng gia đình, cộng đoàn.
Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để thể hiện ơn cứu độ. Chúa tiếp tục ban ơn: Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc (Rm 11, 29). Dân Do-thái vẫn được Thiên Chúa chúc phúc qua các thế hệ. Người Do-thái có một sức mạnh phi thường. Họ phải đối đầu với cả khối Ả-Rập ở Trung Đông, nhưng vì sống còn, họ vẫn hiên ngang chiến đấu. Họ là những người đi tiên phong trong các lãnh vực về chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học. Dân Do-thái là dân tộc thông minh và mạnh mẽ. Nguồn gốc của Đạo Công Giáo do chính người Do-thái dựng xây. Chúng ta có Đức Maria, Phêrô, các Tông đồ, môn đệ và các Giáo đoàn tiên khởi đều là người Do-thái. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho họ, vì đôi khi: Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người (Rm 11, 32). Thánh Phaolô đã có những suy tư rất chân thật và hoàn toàn đặt niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con. Giữa cơn phong ba bão tố của niềm tin, cậy và mến, xin cho chúng con biết chạy đến với Chúa xin ơn phù trợ. Chúa có lời ban sự sống đời đời.
--------------------------------
(John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Hãy đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đi theo và quấy rầy chúng ta” (Mt 15,23)
Có nhiều người không thuộc về ai, cũng chẳng thuộc về một tổ chức nào hay một đoàn thể nào. Họ TN 20-A99
Có nhiều người không thuộc về ai, cũng chẳng thuộc về một tổ chức nào hay một đoàn thể nào. Họ thình lình xuất hiện, có thể chỉ để phá đám, hoặc gây rối. Họ không giống ai, có chăng chỉ là thứ người ương ương, dở dở. Thiết tưởng rằng, bạn có thể suy đoán tôi đang nói tới loại người nào. Quả đúng như vậy, rất có thể trong loại người đó có bạn, và có cả chính tôi nữa. Giáo hội ngày nay đa phần gồm những con người chẳng đáp ứng đúng theo quy chuẩn mà các môn đệ đã đề ra, khi các Ngài nhìn vào người phụ nữ Canaan đã đến xin Chúa chữa lành cho con gái bà bị quỷ ám. Các môn đệ nói với Chúa hãy “quát bảo để đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đeo bám chúng ta mãi”. Tuy nhiên Chúa đã không xua đuổi, và Ngài nói với người phụ nữ: “ Ta chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel”.
Tại sao bà ta không “ thuộc về”? Chúng ta khởi đầu với 3 lý do: hoặc bà ta chỉ là một phụ nữ, hoặc bà ta là một người Canaan- gốc dân ngoại, hoặc bà ta chỉ đến để nhũng nhiễu và gây rối, vì bà cứ đeo bám một cách dai dẳng . Ấy vậy mà, một nửa trong chúng ta lại là phụ nữ, đa phần chúng ta cũng là gốc dân ngoại, và nói một cách công tâm, tất cả chúng ta đều đã từng nhũng nhiễu và gây bao phiền toái cho người khác. Đức Giêsu tuyên bố Ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel, không có dân ngoại trong đó. Ngài còn so chiếu người phụ nữ Canaan với một con chó, có vẻ như thật khinh suốt, nếu đúng ngôn từ đó ám chỉ đến một con vật quen thuộc mà người ta vẫn thường nuôi trong nhà. Rõ ràng, người phụ nữ này không “thuộc về”, nhưng tại sao một kiều cư gốc dân ngoại lại không được Đức Giêsu quan tâm đến, khi Ngài thực thi sứ vụ chữa lành và rao giảng.
Đức Giêsu đã đến “miền Tyre và Sidon”, một vùng đất dân ngoại. Chắc chắn Ngài sẽ gặp những kiều dân ở đó. Điều này đánh đố chúng ta khi nêu vấn nạn tại sao Đức Giêsu lại tuyên bố “ Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel” , cũng như Ngài đã từng chỉ thị cho các môn đệ giống như vậy khi sai các ông đi truyền giáo ( Mt 10,6). Tuy nhiên, chúng ta phải qui chiếu một cách hài hòa những lời tuyên bố trên với sứ vụ rộng khắp, mà Đức Giêsu đã chuyển giao cho các môn đệ trước khi về trời “ Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Điều này gợi mở cho chúng ta hai thực tại song chiếu trong lịch sử cứu độ. Một là dòng dõi Abraham, tức dân Israel-một dân tộc ưu tuyển, được lựa chọn cách riêng để thực hiện giao ước thân tình với Thiên Chúa, và mặt khác, giao ước này trong tương lai sẽ được dàn trải đến khắp muôn dân.
Ngôn sứ Isaia đã nêu lên khía cạnh thứ hai này theo truyền thống cựu ước. Vị ngôn sứ tiên báo rằng “Những dân ngoại giữ ngày sabat mà không vi phạm, và những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỉ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” ( Is 56,6-7). Isaia và nhiều tiên tri khác cũng nói rằng sẽ tới lúc mọi dân tộc sẽ được đón nhận giao ước. Điều đó xảy ra bao giờ và như thế nào, chúng ta phải nhìn xuyên suốt trong lăng kính của lịch sử ơn cứu độ mới có thể lãnh hội được. Trong sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu và của cả Giáo hội, chúng ta sẽ thấy lời tiên báo của Isaia đang trở thành hiện thực.
Có thể, thái độ và lời nói của Đức Giêsu đã chạm đến lòng tự ái của người phụ nữ Canaan. Nhưng các học trò của Ngài trong khoảnh khắc lạ kỳ đó của lịch sử cứu độ, đã khơi dậy lòng tin của bà đặt để nơi Thiên Chúa, là Chúa của người Israel. Thoạt đầu, Đức Giêsu đã im lặng, không đáp trả trước lời cầu ngỏ của người thiếu phụ. Kế đến Ngài tuyên bố là Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel, với người nhà mà thôi. Và cuối cùng Ngài còn nói một cách mạnh mẽ thẳng thừng “ Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó.” Trong cơn thử thách, người phụ nữ gan lì này đã không tuyệt vọng, nhưng vẫn tin. Bà ta vẫn tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể ra tay hành động để cứu chữa con gái bà.
Đức tin của bà không bị lung lay và chẳng suy chuyển chút nào.
------------------------------------------
Đoạn Phúc Âm nầy được viết khi trong Giáo Hội đã có bắt đầu với những người Kitô giáo Do thái TN 20-A100
Đoạn Phúc Âm nầy được viết khi trong Giáo Hội đã có bắt đầu với những người Kitô giáo Do thái của Đấng Messia, con vua Đavít và rất đông người Kitô giáo Hy Lạp (ngoại giáo) của Đức Kitô. Vì số người Do thái Kitô giáo ít còn Hy Lạp thì đông nên Đức Giêsu trong Phúc Âm và Giáo Hội là Đức Kitô.
Điểm của đoạn Phúc Âm là "lòng tin". Không phải do thái hay dân ngoại. Lòng tin làm phép lạ. Chúa nhậm lời vì thấy lòng tin. Có lòng tin là tín hữu, là môn đệ, là được Chúa quan tâm, là được nhậm lời. Nhưng đức tin phải tự chứng minh qua nhiêu thử thách. "Thiên Chúa thử thách Abraham đủ cách để coi ông có thật lòng thờ Chúa hay không".
CHÚ GIẢI
- Có một người đàn bà Canaan: bà ngoại đạo, không phải Israel.
- Kêu lên rằng: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi: Kêu theo kiểu Israel. Bắt chứoc người Israel, họ đang mong đợi một Đấng Messia, con vua Đavít..
- Nhưng Người không đáp lại một lời: kêu chưa đúng. Messia là của Do thái. Bà nầy không phải Do thái. Giáo Hội không kêu vậy mà kêu "Đức Kitô" của mọi người không phân biệt Israel hay Hy Lạp (khi viết Phúc Âm thì các Kitô hữu đầu tiên là Israel rồi Hy Lạp đông dần lên).
- Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc của nhà Israel: Con vua Đavít là của Israel, là danh xưng quen thuộc của ngưòi Israel với niềm hy vọng Người sẽ tái lập nhà Đavít và một triều đại thịnh vượng cho Israel.
- Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi: Lời cầu xin mà mọi tín hữu thường dùng không phân biệt Israel hay dân ngoại. Đúng rồi.
- Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó ăn: Thử thách cuối cùng làm phát sinh đức tin. Thiên Chúa thử thách vì muốn ban ơn chứ không vì sở thích. Không có lòng tin thì không thể có gì. Thử thách có bài bản chứ không lung tung không biết đâu mà rờ. Ngưòi chỉ lập lại cái cách mà người Do thái coi dân ngoại là chó, heo. Ngưòi không như vậy. Bà nầy biết nên không tự ái. Thử thách là để cho thấy đức tin. Thấy đức tin mới cho.
- Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con cũng được hưởng những mảnh vụng từ bàn ăn chủ rơi xuống: Chó con sẽ chết. Một cách trả lời thản nhiên, chấp nhận. Ơn cứu độ bắt đầu từ ngưòi Do thái, nhưng không chỉ cho thiểu số Do thái mà phải lan rộng đến mọi người.
- Lòng tin của bà mạnh thật: Bà hiểu vấn đề và Lời Chúa và đã áp dụng đúng. Vấn đề trước hết là hiểu bản văn Lời Chúa để áp dụng đúng như Chúa muốn. Đó là tin.
- Bà muốn sao thì được vậy: Tin sao thì được vậy. Tin không đúng thì không được. Hãy để ý điều nầy. Phải hiểu đúng để tin đúng. Không phải cứ tin mà phải tin cho đúng.
Cách đọc Lời Chúa đơn giản nhất và hiệu quả nhất là nghiên cứu chuyên môn để hiểu đúng bản văn rồi áp dụng dúng thì chắc chắn hiệu quả vì là Chúa muốn vậy. Nhưng không dể. Các công trình nghiên cứu cho tới nay chỉ tham vọng tìm được nghĩa gần nhất với ý tác giả Phúc Âm.
Đoạn Phúc Âm nầy không khó. Điểm cốt yếu dể nhận ra. Đó là: Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao được vậy. Thiên Chúa muốn ban ơn, sẳn sàng ban ơn. Nhưng điềư kiện rất rõ ràng là lòng tin. Là điều kiện tất yếu, không thể thiếu. Là điều kiện đủ không cần gì thêm. Phải biết đúng diều Chúa muốn để tin cho đúng và làm cho đúng. Phải nhờ những nhà chuyên môn hướng dẫn. Nhưng ngừơi ta lại sợ học Phúc Âm. Tự đọc làm sao hiểu. Tại sao có hiện tượng "tôn giáo cực đoan"? Vì hoặc không đọc hoặc tự đọc không hiểu đúng ý Chúa. Biết đúng ý Chúa thì tin rất dễ.
Phêrô sợ và chìm. Theo suy nghĩ riêng thì sợ. Thầy đây đừng sợ. Suy nghĩ theo ý Chúa thì không chìm. Người Do thái coi ngưòi ngoại là chó, heo. Nhưng Thiên Chúa thì không. Hiểu mới tin. Fides clamat intellectum. Intellegas ut credas (Augustin). Nguời ta không tin vì không hiểu vì con ngưòi có trí khôn để hiểu. Hiểu mới có xác tín. Phải chịu khó nghiên cứu. Phải làm hết sức để hiểu Lời Chúa. Còn lại Thánh Thần sẽ bổ khuyết cho. Không thể chỉ xin "ban cho con một đức tin anh dũng" mà có.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chịu khó nghiên cứu và suy niệm để hiểu Lời Chúa vì như thế mới có được lòng tin mạnh thật và được như ý.
------------------------------------------