Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 21 TN-A Bài 101-150: Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 16, 13-20: “Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 21-A101: CHÚA NHẬT 21 QUANH NĂM... 2
TN 21-A102: Đức Giêsu hỏi ta: Ngài là gì đối với ta?. 6
TN 21-A103: CHÚA NHẬT XXI - TN 2002. 10
TN 21-A104: Tôi cũng là người Công Giáo. 12
TN 21-A105: Đá Tảng Phêrô - Quyền bính vững chắc. 13
TN 21-A106: Đêm dài nhất của Phêrô – Thiên Phúc. 15
TN 21-A107: Hồng ân và trách nhiệm.. 18
TN 21-A108:Trụ cột của đức tin – Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện. 20
TN 21-A109: Lời tuyên tín giá trị - Huệ Minh. 23
TN 21-A110: Đức Yêsu là tất cả. 25
TN 21-A111: CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN.. 28
TN 21-A112: Giáo Hội xây trên tảng đá đức tin của Phêrô. 30
TN 21-A113: Thầy Đức Kitô, Con Thiên Chúa. 33
TN 21-A114: Tôi đang tìm kiếm gì? - Lm Jos. Tạ Duy Tuyền. 35
TN 21-A115: Đức Giêsu Kitô là ai?. 36
TN 21-A116: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 38
TN 21-A117: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 21 TN A.. 41
TN 21-A118: LỜI TUYÊN XƯNG VÀ TỐI THƯỢNG QUYỀN CỦA PHÊRÔ.. 44
TN 21-A119: CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN A.. 47
TN 21-A120: CHÚA NHẬT XXI TN A: 49
TN 21-A121: CHỦ NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN.. 51
TN 21-A122: Đức tin - Nền tảng của toà nhà Giáo Hội 61
TN 21-A123: Suy niệm của Noel Quession. 62
TN 21-A124: Chúa Nhật 21 thường niên năm A.. 66
TN 21-A125: CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN A.. 68
TN 21-A126: CHUYỆN TO – NHỎ.. 71
TN 21-A127: Đá tảng xây dựng Hội Thánh tại gia. 79
TN 21-A128: Trở nên “đá tảng” xây dựng Hội Thánh tại gia. 81
TN 21-A129: Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông. 83
TN 21-A130: Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 90
TN 21-A131: Người ta bảo Con Người là ai?. 93
TN 21-A132: Phêrô là Đá: Đá quy tụ, Đá hợp nhất 94
TN 21-A133: Yêu mến Hội Thánh. 97
TN 21-A134: Niềm Tin: Chúa là ai? - Lm. Louis M. Nhiên,CRM... 99
TN 21-A135: Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang. 101
TN 21-A136: Nhận lãnh trách nhiệm Chúa trao. 104
TN 21-A137: PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO.. 110
TN 21-A138: Kêpha, anh là tảng đá. 115
TN 21-A139: Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”. 118
TN 21-A140: Cầm buộc và tháo cởi 122
TN 21-A141: Giêsu – Thần tượng đời tôi 124
TN 21-A142: Hồng phúc được biết Chúa. 126
TN 21-A143: Ơn Chúa vượt trên sự yếu hèn con người 128
TN 21-A144: Thầy là Đấng Kitô. 130
TN 21-A145: THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG.. 133
TN 21-A146: Bờ vai 136
TN 21-A147: Chúa Nhật 21 Thường Niên. 138
TN 21-A148: ĐỨC KITÔ, ĐẤNG PHẢI ĐẾN ĐỔI MỚI MỌI SỰ.. 140
TN 21-A149: Chìa Khóa và Đá Tảng. 143
TN 21-A150: PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO.. 147
------------------------------------------
(Mát-thêu 16: 13-20)
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là mục đích chính của sách Tin Mừng. Sách Tin: TN 21-A101
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là mục đích chính của sách Tin Mừng. Sách Tin Mừng không trình bày một Chúa Giê-su đơn thuần của lịch sử, nhưng là một Chúa Giê-su theo lòng tin của các môn đệ Người. Trong những câu truyện Tin Mừng hai Chúa Nhật trước đây, ta đã suy niệm về việc tuyên xưng đức tin của các môn đệ Chúa và của người đàn bà Ca-na-an. Hôm nay, tại phần đất giáp với dân ngoại, câu truyện ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, không những mang chiều kích cộng đồng khi ông thay mặt các tông đồ khác, nhưng cũng mang chiều kích cá nhân nữa, để diễn tả đầy đủ ý nghĩa việc tuyên xưng đức tin ấy. Mọi Ki-tô hữu tham dự vào việc tuyên xưng đức tin không phải với tính cách thụ động và thừa hưởng đức tin của Giáo Hội, nhưng là tích cực và cá nhân để cùng với các phần tử khác sống và biểu lộ đức tin ấy.
a) Đặt lại vấn đề, hoặc xét lại
Có khi nào ta nghĩ Chúa Giê-su gặp nhiều thất bại hơn thành công không? Với những điều kể lại trong sách Tin Mừng, ta thấy rõ cuộc đời Chúa thất bại thì nhiều, còn thành công chỉ đếm được trên đầu ngón tay! Tuy nhiên quan trọng hơn cả vẫn là thành công khi kết thúc sứ mệnh, tức là chiến thắng cuối cùng của Người trên quyền lực ma quỷ, tội lỗi và cái chết. Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su kêu gọi người ta hãy sám hối, tin vào Người và sứ mệnh của Người. Nhưng các môn đệ thì mải mê theo đuổi giấc mộng “làm quan” ăn trên ngồi chốc. Còn dân chúng thì chỉ ồ ạt theo Người không phải để nhờ dấu lạ mà tin Người, nhưng để được ăn bánh no nê (Ga 6:26) hoặc để được chữa lành bệnh tật. Lòng dạ họ thay đổi như chong chóng. Hôm nay tung hô Người và muốn Người làm vua, rồi ngày mai sẵn sàng đả đảo và gào thét bắt ngoại bang phải đóng đinh Người. Vì thế sau một thời gian rao giảng khá dài, Chúa Giê-su thấy cần phải xét lại vấn đề đức tin của dân chúng và của các môn đệ Người. Với dân chúng, sự hời hợt đã rõ ràng. Nhưng với môn đệ, niềm tin phải dứt khoát. Đó chính là lý do Chúa Giê-su cần đưa các môn đệ tới một chỗ xa hẳn những đồn đại hoặc ý kiến của dân chúng về Người, để họ xét lại đức tin của họ, một đức tin cần phải tuyệt đối và nảy sinh từ cá nhân họ chứ không phải một đức tin vay mượn của người khác.
Đức tin là quan hệ sống động giữa Chúa với ta, cho nên nó cần phải trở nên mỗi ngày một toàn hảo hơn. Là quan hệ yêu thương, đức tin không thể chỉ được xây dựng trên những nền tảng tạm bợ như nhu cầu cá nhân hoặc cần cứu giúp khi gặp khốn khó. Do đó, đức tin phải được thanh tẩy dần dần để cho nền tảng chính yếu luôn luôn là tình yêu, từ đó phát sinh một lối sống mới lấy yêu thương làm động lực cho mọi hành động.
Nếu Chúa Ki-tô là đối tượng đức tin, thì việc nhận biết Người đích thực là Đấng nào phải là điều các môn đệ cần xét lại. Không biết rõ sứ mệnh của Người, các môn đệ làm sao có thể theo Người và sẵn sàng tiếp tục những gì Người đã khởi sự trong công tác Thiên Chúa Cha đã trao phó? Từ khi bắt đầu theo Chúa, không phải là họ không được nghe Chúa nói về sứ mệnh của Người, nhưng thực ra họ không muốn nghe, mà chỉ muốn bóp méo sứ mệnh ấy cho hợp với tham vọng cá nhân mà thôi. Do đó, Chúa Giê-su thấy đến lúc phải đặt lại vấn đề, một khúc quặt để Người chuẩn bị cho họ lãnh nhận mặc khải mới về sứ mệnh của Người: là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Người sẽ thi hành công việc Chúa Cha trao phó, tức là đi Giê-ru-sa-lem để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa (Mt 16:21).
b) Đức tin của Phê-rô
Câu truyện ông Phê-rô tuyên xưng đức tin không chỉ là xác nhận vai trò của Chúa Giê-su, nhưng còn là câu truyện xét lại đức tin của ông. Có lẽ ta nên đọc luôn cả đoạn Tin Mừng tiếp theo về việc Chúa tiên báo cuộc Thương Khó và Người quở trách ông Phê-rô vì ông can Người không nên đi Giê-ru-sa-lem, ta dễ thấy mạch văn câu truyện liên quan tới đức tin của ông.
Sau khi Chúa Giê-su nghe các môn đệ liệt kê những ý kiến khác nhau của dân chúng nói về Người, Người hỏi thẳng các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi ấy đã ngầm hiểu Chúa Giê-su biết tận trong thâm tâm các môn đệ, họ đã có một hình ảnh về Người dĩ nhiên còn cao đẹp hơn những gì dân chúng nghĩ về Người. Tuy nhiên, đó chưa phải là đức tin. Đức tin không khởi xuất từ nơi ta, nhưng từ Thiên Chúa. Chính thế giá, tình yêu, quyền năng... của Thiên Chúa mới đưa ta đến tin tưởng và phó thác vào Người, chứ không phải ta tự mình tin tưởng Thiên Chúa trước. Do đó, nguồn gốc của đức tin là Thiên Chúa và đức tin được gọi theo danh từ thần học là nhân đức đối thần. Trước hết, Chúa Giê-su đã minh định nguồn gốc đức tin của Phê-rô (và của mọi người) khi Người bảo ông: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Tiếp đến, Người cho ta thấy đức tin luôn song song với sứ mệnh. Ở đây, sứ mệnh của Phê-rô là làm Tảng Đá, tức là làm nền móng đức tin để trên đó Chúa Giê-su thiết lập Giáo Hội, đồng thời cũng thay mặt Người làm thủ lãnh Nước Trời trên trần gian. Những gì Phê-rô làm (dưới đất) thì Chúa Ki-tô (trên trời) cũng làm. Sứ mệnh của Chúa Giê-su là tháo cởi (giải phóng ta khỏi quyền lực ma quỷ) và cầm buộc (tiêu diệt quyền lực ma quỷ, x. Lc 11:22). Người truyền cho Giáo Hội phải tiếp tục sứ mệnh ấy dưới quyền thủ lãnh của Phê-rô và các đấng kế vị, để giải phóng và đưa mọi người trở về quê hương vĩnh cửu. Giáo Hội phải là một sức mạnh tiêu diệt sự dữ trên trần gian. Như thế, đức tin càng mạnh thì sứ mệnh càng được chu toàn dễ dàng và Nước Trời càng được phát triển nhanh chóng.
c) Xét lại đức tin của ta
Có lẽ nhiều người sẽ khó chịu khi nghe nói cần phải xét lại đức tin. Người ta cứ tưởng đức tin giống như tờ chứng chỉ rửa tội được cất trong hồ sơ, khỏi lo mất mát, hoặc giống như một thứ bửu bối không bao giờ mất công hiệu! Một đức tin vững chắc như “tảng đá” của Phê-rô, vậy mà ông vẫn cần phải có sự hỗ trợ của Chúa Giê-su khi Người hứa cầu nguyện đặc biệt cho ông. “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32).
Phê-rô đã phải xét lại đức tin của ông mỗi khi ông vấp ngã. Ngay sau câu truyện tuyên xưng đức tin này, ông đã vấp ngã khi can gián Chúa Giê-su. Thực vậy, mỗi lần Phê-rô vấp ngã, ông chỗi dậy, thống hối và tiếp tục bước theo sau Thầy (Mt 16:23). Sau mỗi lần vấp ngã, ông càng yêu mến Thầy nhiều hơn (Ga 21:15-19). Ông đã phát triển quan hệ yêu thương giữa ông với Chúa, vì đích thực đó là ý nghĩa của đức tin.
Như thế, câu truyện ông Phê-rô tuyên xưng đức tin và xét lại đức tin đã trở thành một gương mẫu để ta nhìn vào đức tin của ta mà tạ ơn Chúa đã ban đức tin ấy và cố gắng đáp lại lời gọi của Người.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Với tôi, Chúa Giê-su là Đấng nào? Là một hình ảnh mơ hồ hay thực sự là một cá nhân có quan hệ mật thiết với tôi?
Đức tin đi liền với sứ mệnh. Vậy sứ mệnh của tôi là gì? Tôi có thi hành sứ mệnh trong đức tin không? Nghĩa là có thi hành trong mối quan hệ với Đấng trao cho tôi sứ mệnh không?
Tôi cần phải xét lại đức tin của tôi trên những khía cạnh nào? Đâu là những quyết định cụ thể tôi phải thi hành để giúp phát triển đức tin?
Cầu nguyện
“Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu chua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giê-su
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 54)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
------------------------------------------
Chúa Nhật thứ 21 Thường Niên
(21-8-2005)
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is 22, 19-23: (22) Chìa khoá nhà Đavít, Ta sẽ đặt trên vai nó. (23) Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.
· Rm 11, 33-36: (33) Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được!
· TIN MỪNG: Mt 16, 13-20
Ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
(13) Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: «Người ta nói Con Người là ai?» (14) Các ông thưa: «Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ». (15) Đức Giêsu lại hỏi: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?»(16) Ông Simôn Phêrô thưa: «Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống». (17) Đức Giêsu nói với ông: «Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy». (20) Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Nếu Đức Giêsu hỏi bạn: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?», bạn sẽ trả lời thế nào? Theo kiểu trả bài những: TN 21-A102
1. Nếu Đức Giêsu hỏi bạn: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?», bạn sẽ trả lời thế nào? Theo kiểu trả bài những gì đã học được, hay theo thực tế đời sống của bạn? Nếu theo thực tế đời sống, bạn trả lời thế nào?
2. Đức Giêsu là gì đối với ta? Là nhân vật quí giá và cần thiết nhất đối với ta khiến ta luôn luôn gắn bó, hay chỉ như một ai đó chẳng thân thiết bằng cha mẹ, vợ con, bạn bè ta, chẳng quan trọng bằng của cải, sự nghiệp của ta?
3. Tại sao ta theo Đức Giêsu mấy chục năm, nhưng đời sống tâm linh ta chẳng mạnh mẽ bao nhiêu, đời sống ta vẫn chẳng hạnh phúc thật sự? Có phải vì trong thực tế Ngài chẳng là gì đối với ta cả?
Suy tư gợi ý:
1. Những gì mình nghe nói và những gì chính mình nhận định
Một bà mẹ nghe chị hàng xóm nói về con mình, chị khen nó đủ mọi mặt như một đứa trẻ thật gương mẫu. Bà mẹ nhận ra trong những lời khen ấy có những lời đúng, có những lời quá đáng, và có những lời hoàn toàn sai sự thật. Bà có nhận định riêng của mình về con bà. Cùng nhìn về một đứa trẻ, nhưng hai người có hai nhận định khác nhau. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ mình hai câu hỏi khác nhau về Ngài: «Người ta nói Con Người là ai?», và «Anh em bảo Thầy là ai?» Hai câu hỏi ấy là hai câu hỏi mà Ngài muốn mỗi người chúng ta trả lời.
Câu hỏi thứ nhất có thể diễn dịch lại cách mới mẻ cho phù hợp với các Kitô hữu thời nay như sau: «Anh chị đã học hỏi những gì về Thầy? Các linh mục hay các giáo lý viên đã dạy anh chị về Thầy thế nào?» Với những người đã học thần học ở trường lớp, câu hỏi có thể là: «Các tín điều trong Giáo Hội hay môn Kitô học đã xác định về Thầy thế nào?» Để trả lời câu hỏi này, ta có thể trả lời theo kiểu trả bài những gì ta đã học được về Ngài, một cách thật khách quan, không có ý kiến hay cảm nghĩ gì của ta cả. Câu trả lời này hoàn toàn lý thuyết, nó không trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của ta hoặc làm ta thay đổi bao nhiêu.
Câu hỏi thứ hai có thể diễn dịch lại cách mới mẻ cho ta như sau: «Anh chị nghĩ gì và quan niệm thế nào về Thầy? Thầy là gì của anh chị? Thầy có đóng một vai trò gì trong cuộc đời anh chị không? Vai trò đó thế nào? Đối với anh chị, Thầy là một nhân vật lịch sử trong quá khứ hay là một nhân vật đang sống trong hiện tại? Đối với anh chị, Thầy đang chủ yếu sống ở trên trời, trong nhà thờ, hay trong chính bản thân anh chị? Muốn gặp Thầy thì anh chị gặp ở đâu?» Để trả lời câu hỏi này, ta phải xét lại quan niệm thật sự của chính ta về Ngài, thái độ, cách sống và cách xử sự thực tế của ta đối với Ngài, chứ không thể trả lời cách lý thuyết được. Câu trả lời này ảnh hưởng mạnh mẽ và là phản ảnh chính xác đời sống tâm linh của ta.
2. Đức Giêsu là gì của ta?
Nếu Ngài chỉ là một nhân vật lịch sử, đã đến trong quá khứ của lịch sử nhân loại, cách đây 2000 năm, thì cho dù Ngài là ai, là con Thiên Chúa, là ân nhân vĩ đại nhất của nhân loại, v.v… Ngài cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta bao nhiêu. Cho dù ta có hiểu rõ từng chi tiết cuộc đời Ngài, từng quan niệm, từng tư tưởng của Ngài, thì Ngài vẫn là một người xa lạ đối với ta, sống khác thời với ta. Nếu Ngài chỉ là một người hiện vẫn đang sống, nhưng chỉ sống ở trên trời cùng với Thiên Chúa Cha, với các thiên thần và các thánh, thì quả thật ta không dễ gì mà gặp Ngài. Nếu Ngài chỉ hiện diện trong nhà tạm, trên bàn thờ, trong hình bánh rượu của phép Thánh Thể, thì ta có thể gặp Ngài mỗi khi ta đến nhà thờ để cầu nguyện, để dâng thánh lễ; và Ngài có thể ngự vào lòng ta trong chốc lát khi ta rước lễ; ngoài ra, Ngài vẫn là người ở bên ngoài ta.
Hay Ngài là một người rất thân thiết với ta, hơn cả những người thân yêu nhất của ta, hiện diện ngay trong bản thân ta, và là phần quan trọng nhất của bản thân ta? Ta có thể nói như thánh Âu Tinh: Ngài còn «thân thiết với tôi hơn cả chính tôi thân thiết với tôi nữa»? hay như thánh Phaolô: «Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20)?
Đức Giêsu là gì đối với ta, điều đó tùy thuộc một phần vào những gì ta nghe nói hay học hỏi về Ngài, và phần khác vào sự dấn thân của ta cho Ngài sau khi đã được nghe nói về Ngài. Chỉ sau khi dấn thân theo những lời mời gọi mà ta nghe được từ sâu thẳm lòng mình của Ngài, ta mới cảm nghiệm được Ngài thật sự sống động và ở ngay trong bản thân ta, làm nên phần bản thể cao quý nhất và thâm sâu nhất của ta. Ngài đã ở trong ta, và làm nên phần thiêng liêng cao quý nhất của ta trước khi ta nghe nói hay biết đến Ngài. Câu trả lời thứ hai này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tâm linh ta.
3. Đời sống tâm linh của ta tùy thuộc ta trả lời thế nào cho câu hỏi: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?»
Ta quyết định cho Ngài là gì đối với ta, điều đó tùy thuộc vào tự do của ta, thứ tự do mà Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng. Nhưng câu trả lời cho câu hỏi “Ngài là gì đối với ta?” quyết định tính chất đời sống tâm linh của ta. Nếu ta cho rằng Ngài là đối tượng cao quí nhất trên đời, hơn tất cả bất kỳ những gì còn lại – hơn cả cha mẹ, người yêu, tiền bạc, của cải, sự nghiệp, quyền lực – và ta sẵn sàng hy sinh tất cả để có được Ngài, để đạt được ngài, thì thái độ tự nhiên và tất yếu của ta sẽ là sẵn sàng hy sinh tất cả để có Ngài. Tương tự như người đi tìm ngọc quý, khi tìm được, anh về bán hết tất cả mọi thứ mình có để mua cho bằng được viên ngọc ấy (x. Mt 13,45-46), vì anh cho rằng viên ngọc ấy quý giá gấp bội gia tài anh đang có.
Vấn đề quan trọng là phải xác định tại sao Đức Giêsu lại quý giá đối với ta đến nỗi ta nên sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được Ngài? Đạt được Ngài thì ta được gì? – Ngài chính là phần cao quý nhất, thiêng liêng và thâm sâu nhất của chính bản thân ta. Ngài chính là món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa ban cho ta, là phần quan trọng làm nên yếu tính của ta, nhờ đó ta được «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4). Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong bản thân ta, là sức mạnh, là tình yêu, là sự sống của ta. Vì thế, khi ta «có» Ngài nhờ thái độ sẵn sàng hy sinh tất cả để được Ngài, thì ta trở nên «đồng hình đồng dạng» với Ngài (Rm 8,29; Pl 3,10), nghĩa là tràn đầy yêu thương, sức sống và sức mạnh. Nhờ đó ta được giải phóng khỏi cảnh nô lệ cho chính bản thân ta, cho tính ích kỷ, cũng là nô lệ cho tội lỗi, để sống vị tha (vì Thiên Chúa và vì tha nhân), để luôn yêu thương và luôn quan tâm đến hạnh phúc của mọi người.
Món quà quý báu mà Thiên Chúa ban cho ta – là Đức Giêsu hay sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong ta – vốn đã sẵn có trong bản chất của ta, nhưng ta không hề biết, hay chỉ biết một cách lý thuyết. Vì thế, ta không có sức mạnh và tình yêu đúng như ta phải có. Đức Giêsu ở trong ta dường như ở trong tình trạng ngủ say tương tự như khi Ngài ngủ trong thuyền của các môn đệ giữa cơn bão biển gầm thét, đe dọa (x. Mc 4,35-41). Có Ngài ở trong ta, nhưng Ngài chẳng tác động gì cả, chẳng khác gì Ngài vắng mặt. Tại sao? Vì đối với câu hỏi «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» ta chỉ biết trả lời cách máy móc những gì ta học được về Đức Giêsu từ Giáo Hội. Trong khi đó, cách sống thực tế của ta thì trả lời ngược lại: Ngài dường như chẳng là cái thá gì đối với ta cả, ta vẫn coi rất nhiều thứ khác trọng hơn Ngài và trọng hơn nhiều. Ta vẫn coi «cái tôi» của ta quan trọng hơn Ngài nhiều, coi ý muốn của ta quan trọng hơn ý muốn Ngài rất nhiều. Như vậy Ngài chẳng là gì đối với ta cả! Vì thế, Ngài ở trong ta mà vẫn như người ngủ quá say, ta vẫn yếu đuối, vẫn thấp hèn, chẳng hơn gì những kẻ không tin.
Ngài chỉ trở nên sống động và đem lại sức mạnh, tình yêu, bình an, hạnh phúc cho ta khi nào ta thật sự coi Ngài là Chúa tể của lòng ta, là lẽ sống của ta, là cái quí giá nhất ở trong ta. Ngài chỉ có thể tác động mạnh mẽ trong ta khi ta coi Ngài hơn tất cả mọi thứ trên đời, hơn chính bản thân ta, coi ý Ngài hơn ý ta, và toàn con người của ta bị Ngài thu hút thật sự. Chỉ khi ấy, ta mới nhận ra sức mạnh của Ngài ở trong ta thật mãnh liệt. Ta hãy thử sống như Ngài là tất cả của ta, là lẽ sống của ta xem, ta sẽ có kinh nghiệm về sức mạnh của Ngài ở trong ta. Và ta sẽ trở thành những viên đá thật sự cho tòa nhà Giáo Hội. Nếu không, dù ta có là người lãnh đạo cao nhất trong Giáo Hội, ta cũng chẳng phải là đá làm nền cho Giáo Hội đâu! Khi ấy, Giáo Hội mà được xây trên ta thì chỉ như xây trên cát thôi!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Giáo Hội của Đức Giêsu chỉ có thể được xây dựng vững chắc trên những tâm hồn chọn Ngài là lẽ sống cuộc đời mình, coi Ngài là «viên ngọc» quý giá hơn tất cả mọi thứ của trần gian, sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả bản thân, để đạt được «viên ngọc» ấy. Xin cho con trở thành một người như thế, và cho Giáo Hội càng ngày càng có nhiều người như thế, để nền tảng Giáo Hội vững chắc hơn, không một thế lực nào có thể lay chuyển được.
Joan Nguyễn Chính Kết
-------------------------------
(Nhân ngày lễ kính thánh Monica, Bổn Mạng các bà mẹ Công Giáo, tại Giáo Xứ Bảo Lộc, Giáo Phận Ðàlạt)
Các mẹ và anh chị em rất thân mến,
Buổi chiều hôm qua chúng ta nhờ Lời Chúa hiểu và nắm bắt được một khía cạnh trong niềm tin của: TN 21-A103
Buổi chiều hôm qua chúng ta nhờ Lời Chúa hiểu và nắm bắt được một khía cạnh trong niềm tin của Thánh Nữ Monica. Chiều nay, Lời Chúa dẫn chúng ta tới một nét khác gặp thấy nơi đức tin của Thánh Nữ người Phi Châu này: Ðức Tin dẫn đưa chúng ta đi theo một hành trình luôn bất ngờ và đầy cam go thử thách.
Trước hết, chúng ta thấy trong thời đại Isaia, một bất ngờ xảy ra khi Chúa chọn En-gia-kim con của thượng tế Khin-ki-gia-hu thay thế Sép-na vị tể tướng nhiều quyền lực và cũng đã có rất nhiều công lao. Sự bất ngờ theo tác giả thánh vịnh đáp ca là chỉ về phía suy nghĩ của con người phàm tục, "một sự thác loạn trong dục vọng của ta dẫn đến tìm kiếm thú vui, sắc đẹp, sự thật nơi các tạo vật hơn là nơi Ðấng sáng tạo chúng." còn Thiên Chúa "tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết."Thánh Phao-lô cũng trong cảm thức đức tin nhận ra rằng "Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào" khi nhìn vào sự kiện là dân Israel, dân của Lời Hứa, lại ngã quỵ, trong khi dân ngoại lại được hưởng ơn cứu độ.
Suy nghĩ và đường lối của Thiên Chúa là một huyền nhiệm, thậm chí ngay cả Ðức Giê-su trong thân phận một con người cũng đã phải luôn sẵn sàng tìm kiếm và vâng phục, như đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy. Thực vậy, nếu như Phê-rô hôm nay có thể tuyên xưng "Thầy là Ðức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống", thì không phải "phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy". Và như thế Thiên Chúa còn muốn đi xa hơn khi vén mở mầu nhiệm Nước Trời cho Phê-rô: Phê-rô được chọn để kế thừa sứ mạng của chính Ðức Giê-su: là đầu Hội Thánh. Và Ðức Giê-su đã "vâng theo ý Cha" để tuyên bố sứ vụ của Phê-rô. Ðứng trước diễm phúc của Phê-rô, cũng như của các môn đệ, cũng là diễm phúc của mọi Ki-tô hữu, Ðức Giê-su có lần phải thốt lên lời tôn vinh "Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin chúc tụng tôn vinh Cha, vì Cha đã mặc khải những điều ấy cho những người bé mọn".
Thánh Nữ Monica cũng đã phải trải qua biết bao lựa chọn đầy bí ẩn của Thiên Chúa trong đời sống: là con nhà đạo hạnh, Người đã từng muốn sống đời thánh hiến, nhưng Chúa lại cho bà một người chồng ngoại đạo, để rồi phải sống một đời làm dâu, làm vợ trong nghi kỵ và tăm tối. Là một người mẹ kiên vững trong lòng tin, nhưng Chúa lại cho bà người con trai đầu lòng mê chạy theo danh vọng, tình ái...luôn luôn mặc cảm về người mẹ gốc gác nghèo nàn và quê mùa. Dầu thế, Monica vẫn hoàn toàn tín thác vào sự lựa chọn của Chúa để rồi cuối cùng điều bà tin tưởng đã thành hiện thực "Chồng bà đã được ơn trở lại và chết trong đôi tay và niềm tin của bà", và trọn vẹn ý nghĩa thực sự của đời sống bà nhận ra là "Chỉ có một lý do, và chỉ một thôi, khiến mẹ sống một ít lâu nữa trong đời tại thế, đó là được thấy con trở thành 1 Kitô hữu giáo dân. Chúa đã nhận lời mẹ... thế thì mẹ còn gì để làm ở thế trần này nữa?"Một cuộc đời chỉ là để theo đuổi Ý Ðịnh của Chúa trong sự chờ đợi đầy tăm tối, và tràn đầy nước mắt. Ðó chẳng là lặp lại cuộc đời của chính Ðức Ki-tô đã theo đuổi Ý Cha dành cho người môn đệ Ngài yêu mến và tuyển chọn đó sao. Người môn đệ mà vừa đấy tuyên xưng lòng tin, thì cũng ngay lập tức lại chiều theo sự xui dục của Satan can ngăn Người đón nhận mầu nhiệm cuộc Tử Nạn. Chính vì người môn đệ còn phải trải qua những sâu xé giữa ánh sáng và tăm tối, mà mồ hôi, nước mắt, khổ nạn và thập giá, kể cả sự chết của Ðức Ki-tô là cần thiết để mặc khải trọn vẹn sự thành tín yêu thương của Cha, hầu hoàn thành sự hiến thánh người môn đệ cho Nước Trời.
Xem như thế, chúng ta cũng còn phải cầu nguyện rất nhiều, để chiều kích đức tin này cũng được thể hiện nơi mỗi người mẹ chúng ta.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
-------------------------------
Nếu như bây giờ thiên hạ hỏi chúng ta: Bạn có phải là người Công giáo hay không? Tôi nghĩ rằng một số TN 21-A104 CT
Nếu như bây giờ thiên hạ hỏi chúng ta: Bạn có phải là người Công giáo hay không? Tôi nghĩ rằng một số người trong chúng ta sẽ trả lời như thế này: Tôi cũng là người Công giáo. Hai tiếng “cũng là” biểu lộ một cái gì e dè, coi vấn đề tín ngưỡng cũng bình thường như mọi vấn đề khác. Và Kitô giáo cũng chỉ là một tổ chức nhằm thúc đẩy con người sống tốt lành hơn, bởi vì Kitô giáo có những nghi lễ trang trọng, đánh động trái tim con người mà đôi lúc chúng ta cần đến. Họ coi niềm tin chỉ là một vấn đề riêng tư cá nhân chúng ta với lương tâm và với Thiên Chúa mà thôi.
Nếu như vây giờ thiên hạ hỏi chúng ta: Bạn nghĩ gì về Đức Kitô? Tôi tin chắc rằng một số người trong chúng ta mặc dù đã biết Người là Con Thiên Chúa, nhưng vẫn ngập ngừng không dám tuyên xưng, bởi vì một khi tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, thì lời tuyên xưng này đòi buộc họ phải chấm dứt những ý tưởng và những hành vi mờ ám, đòi buộc họ phải lột xác, phải đổi đời. Và họ đã sợ hãi trước viễn ảnh một tương lai như thế.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một. Từ hơn 2000 năm qua Người vẫn không ngừng đặt lại câu hỏi cân não ấy, cho mỗi người chúng ta: Phần các con, các con bảo Thầy là ai? Hướng đi tương lai của cuộc đời chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào câu trả lời này.
Trải qua hơn 20 thế kỷ, Đức Kitô vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng nhất. Người ta bàn bạc, người ta tranh luận về Người. Người thì yêu mến Người, kẻ thì ghét bỏ Người. Điều quan trọng là chính thái độ, là chính câu trả lời của mỗi người chúng ta. Dĩ nhiên không phải là một câu trả lời thuộc lòng nằm sẵn trong sách giáo lý: Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng là một câu trả lời được gạn lọc ra từ cuộc sống như thánh Phêrô ngày xưa: Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống.
Khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, thì một trật chúng ta cũng tuyên xưng: Người là ánh sáng thế gian, là trung tâm của vũ trụ, là chìa khoá giải đáp cho mọi vấn đề được đặt ra. Bình thường thì lúc đau yếu chúng ta mới tìm bác sĩ; khi kiện tụng, chúng ta mới mời luật sư, nhưng Chúa Giêsu thì khác, Người chính là mục đích chúng ta hằng theo đuổi, Người chính là niềm hy vọng chúng ta hằng mơ ước, Người chính là tất cả cho cuộc đời chúng ta. Bởi đó trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta thử đặt lại vấn đề xem: Đức Kitô là ai và Người nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
-------------------------------
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Anh là Phêrô, là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18).
Một trong những điều mà Kinh thánh nói tới, thường dễ gây ra dị ứng, nhưng vẫn rất được quan tâm, TN 21-A105
Một trong những điều mà Kinh thánh nói tới, thường dễ gây ra dị ứng, nhưng vẫn rất được quan tâm, đó là quyền bính. Quyền bính quả là một thách đố, nhưng thách đố như thế nào? Theo truyền thống Thánh kinh, quyền bính được phú trao như một ân huệ nhưng không. Tuy nhiên, đề cập tới những con người kém cỏi được trao ban quyền bính, thậm chí có quyền sinh sát hoặc có thể khuynh đảo xã hội, thì rất họa hiếm, trong xã hội ngày xưa cũng như ngày nay. Vì vậy, một cách mặc nhiên phải hiểu là, những ai được trao phó quyền bính, ngay cả những quyền bính được ban trao một cách chính đáng, thì chính họ cũng như chúng ta, cần phải lắng nghe để hiểu rõ sự thật về chính nhân thân nơi con người của mình. Trong cựu ước, các ngôn sứ thường được trao phó để đảm nhận công việc khó khăn này. Thiên Chúa khích lệ và cổ vũ để họ dám nói, dám nhắc bảo những con người nắm trong tay quyền lực nhưng phạm nhiều sai trái, để họ biết trở về với con đường giao ước và những thánh chỉ của Giavê.
Trong cách thức đó, Isaia đã nói với Shebna, “chủ cung điện”, tức tể tướng dưới triều đại của hoàng đế Sennacherib, vua nước Assyria. Chúng ta sẽ biết nhiều về thời kỳ này, cùng những nhân vật liên quan, khi đọc lại sách Isaia 36-39, và sách các vua quyển thứ nhất 18-20. Isaia quả quyết với Shebna là ông ta sẽ bị tước quyền hành, để trao cho Eliakim, người sẽ làm chủ lâu đài. Hiện nay, Shebna đang là tể tướng triều đình. Shebna sẽ bị truất phế, theo lời Isaia, vì ông ta đã xây một lăng mộ kiên cố cho chính ông ta và đã bội nghĩa với chủ. Chúa nói qua miệng Isaia: “Ta sẽ tống khứ ngươi khỏi chức vụ, và sẽ đuổi ngươi ra khỏi địa vị.”
Đoạn văn trên mang chở ý nghĩa sâu xa, vừa trong văn mạch cổ xưa, vừa tương thích với lối cắt nghĩa hiện nay. Eliakim đã được trao ban quyền bính, thay cho Shebna, “để trở thành cha của dân cư tại Giêrusalem và của nhà Giuđa. Ta sẽ đặt trên vai nó chìa khóa nhà Đavit, nó sẽ mở và không ai đóng được. Nó sẽ đóng lại và không ai có thể mở ra. Nó sẽ thắt đai lưng và ngồi trên ngai an toàn cho tới khi Eliakim bị hạ bệ và ngã đổ.”
Đoạn văn này vẫn để lại âm vang và ám chỉ về quyền bính để lãnh đạo trong Giáo hội, Ekklesia, như được nói tới trong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Tại Cêsarê Philiphê, Đức Giêssu đã đặt tên cho Simon là Petros, nghĩa là Đá. Matthêu thuật lại, Đức Giêsu nói với Phêrô “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy, cửa hỏa ngục cũng không chống nổi. Ta sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời. Điều gì ở dưới đất con cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên trời sẽ tháo mở”. Nhiều học giả tranh luận về tính xác thực của bối cảnh toàn bộ câu truyện. Nhưng có một điều chắc chắn, tên của Simon được Đức Giêsu thay đổi và gọi là Petros, là chi tiết được cả 4 phúc âm thuật lại, không có gì phải bàn cãi.
Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì? Oscar Cullmann trong cuốn tự điển thần học tân ước đã viết: “ Vì Phêrô, đá tảng của Hội Thánh, đã được chính Đức Giêsu đặt định, nên Ngài trở thành “ chủ của ngôi nhà, là chìa khóa của Vương quốc Nước Trời ”(Is 22,22; Khải huyền 3,7). Ngài còn là người trung gian của mầu nhiệm Phục sinh, và có phận vụ tiếp nhận dân của Chúa vào trong Vương quốc Phục Sinh này. Chính Đức Giêsu đã ủy thác cho Phêrô năng quyền để mở cửa Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến, hoặc là sẽ đóng lại”. Shebna và Eliakim được phó trao quyền bính để phục vụ ông chủ của ngôi nhà là Hezekiah. Cũng vậy, Phêrô cũng được trao phó quyền bính để cai quản ngôi nhà của Đấng Messia.
Nhưng chúng ta phải nhớ rằng, quyền bính này không thuộc về người quản lý ngôi nhà. Nó hệ tại ở chính ngôi nhà đó, và sâu xa hơn, nó phát nguyên từ Thiên Chúa. Ngay sau khi Phêrô tuyên tín Đức Giêsu là Đấng Messia, ông đã bị Người khiển trách vì đã không quy thuận đường lối của Chúa. Đó là lý do tại sao ngay cả hôm nay, khi chúng ta chấp nhận vâng phục quyền bính đối với các vị lãnh đạo trong Giáo hội, thì chính các Ngài là những người được ủy thác, luôn được mời gọi phải hành xử quyền bính trong khiêm tốn để phục vụ, bởi lẽ quyền bính tối thượng trong Giáo hội khởi nguồn từ Thiên Chúa, và chính xác hơn, là chính Thiên Chúa.
-------------------------------
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Pholo II, (1978-1998) người TN 21-A106
Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Pholo II, (1978-1998) người ta đã thống kê được những con số chính xác sau đây. Ngài đã thực hiện:
- 84 chuyến công du và hành hương ngoại quốc.
- 134 chuyến viếng thăm mục vụ trong nước Ý.
- 3,078 bài nói chuyện và bài giảng.
- 700 chuyến đi thăm nhà tù, dòng tu. Chủng viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, giáo xứ.
Người đã viết:
- 13 thông điệp
- 36 Tông thư
- 15 Thư cho các nhân vật và các nhóm đặc biệt
- 9 Tông thư tổng kết sau Thượng Hội đồng.
Ngài đã đọc diễn văn cho:
- 600 chuyến “Đi Viếng Mộ Thánh Phêrô” của các giám mục.
Ngài đã công bố:
- Giáo luật mới và sách Giáo Lý Công giáo, (Giáo luật cũ đã công bố cách đây 400 năm)
Ngài đã tôn phong:
- 798 chân phước.
- 280 thánh mới (trong đó có 117 thánh tử đạ Việt nam 19-6-1988)
- Chưa kể 233 vị Thánh Tử Đạo tại Tây Ban Nha.
- Tổng cộng 145 buổi lễ phong thánh.
Ngài đã chọn:
- 2650 Giám mục trong số 4200 giám mục trong Hội thánh.
- 159 Tân Hồng Y.
- Thiết lập quan hệ ngoại giao với 64 nước, phục hồi quan hệ ngoại giao với 6 nước khác, nâng tổng số các quốc gia có liên hệ với Tòa Thánh là 168 nước.
*** **
Đó là những con số biết nói trong 20 năm phục vụ Chúa và Giáo hội của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II, vị Giáo hoàng thứ 264 kế vị thánh Phêrô tông đồ, giáo hoàng tiên khởi, đã được Chúa trao cho quyền tối thượng Tin Mừng hôm nay đã nhắc lại sự kiện quan trọng ấy.
Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ về thân thể của Người, lập tức Phêrô được Chúa cha mạc khải đã mạnh dạn thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Người liền khen ông là người có phsuc và trao cho ông quyền trên Giáo Hội: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (mt 16,18-19).
Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tân phong Phêrô làm thủ lãnh cuả Giáo Hội. Người đã đổi tên Simon của ông thành Phêrô, tiếng Aram là Kêpha nghĩa là Tảng Đá, tượng trưng cho sự vững chắc trường tồn mà Thánh Kinh chỉ dành cho một mình thiên chúa: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 71,3). Người đã xây Hội Thánh của người trên tảng đá Phêrô và hứa bảo vệ Hội Thánh khỏi mọi tấn công của tử thần. Người còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với tối thượng quyền này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.
Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh giáo Hội vì Phêrô đã mắn tuyên xưng Đức Tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Vì chỉ ít phút sau đó, Đức Giêsu đã phải nặng lời với ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy” (Mt 16,23).
Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm đầu Hội Thánh vì Phêrô quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,33). Vì ngày đêm hôm ấy, không ai bắt ông phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đầy tớ thượng tế gặng hỏi, ông đã thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi không biết người ấy” (Mt 26,74).
Thế là đã rõ, Đức Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội Thánh của Người, mà đã chọn một dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã, và … phản bội. Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Đức Giêsu đã nhìn thấy suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn thẳm sâu và một long sám hối chân thành.
Phêrô, một con người khiêm tốn:
Sau khi Đức Giêsu giảng bên bờ hồ Ghen-nê-xa-nét, Người bảo Simon: “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Simon đáp: “Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5, 4-6). Kinh nghiệm chài lưới ông đã quá rõ, đánh cá ban ngày chẳng hy vọng gì, nhưng ông không cãi, ông khiêm tốn vâng lời. Khi kéo lên một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi muốn rách lưới, ông không hả hê vui mừng, cũng chẳng kinh ngạc trước phép lạ cả thể, mà nghĩ ngay đến thân phận bất xứng của mình. Ông chạy đến sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Simon, Đức Giêsu không do dự, quyết định tuyển chọn ông: “Đừng sự, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta” (Lc 5,10).
Phêrô, một con người sám hối:
Sau khi nghe Đức Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn vầ cái chết của người, thì Phêrô liền nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 17,22). Nhưng Đức Giêsu đã mắng ông thậm tệ, còn gọi ông là Satan. Thực tình ông chưa hiểu sứ mạng thiên sai của Người, ông thưởng làm thế là thương Thầy, nhưng thật ra ra là ông đang nối giáo cho giặc. Ông chẳng hiểu gì cả, nhưng ông biết mình sai, ông im lặng, không cãi lại, âm thầm ăn năn.
Ông tưởng mình sẽ không bao giờ sai phạm nữa, chẳng bao giờ sa ngã nữa. Suốt ba năm theo Thầy, chắc ông sẽ mạnh mẽ hơn trong Đức Tin, sẽ trung kiên với Thầy cho đến cùng. Thế nên, khi nghe Đức Giêsu tâm sự trong bữa tiệc ly: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,21), thì Phêrô không thể nào tin được. Người còn nói đích danh Phêrô sẽ chối Thầy ba lần. Ông càng bực tức và quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối thầy” (Mt 26,35). Nhưng chuyện gì đã xảy ra đêm hôm ấy, chúng ta đều biết rõ. Thánh sử Luca ghi lại: “Ông Phêrô trả lời cho tên đầy tớ vị thượng tế: “Này anh, tôi không biết anh nói gì?” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn Phêrô..” (Lc 22,60). Hai ánh mắt gặp nhau. Chúa biết hết rồi. Phêrô xấu hổ qua đỗi, nước mắt tuôn trào, ông lầm lũi ra khỏi pháp đình, tan nát cõi lòng, bước chân nặng trĩu.
Đêm hôm đó, một đêm dài nhất trong đời, ông không thể nào ngủ được, ông gặm nhấm tội lỗi của mình, tại sao mình có thể phản bội Thầy được. Hóa ra mình cỉ là cát bụi chứ đâu là Tảng Đá, là tội nhân chứ đâu phải là thánh nhân. Ông khóc òa lên, khóc mãi, khóc mãi, cho đến khi ông nhớ lại lời của Thầy: “Thầy không bảo là (phải tha) đến 7 lần mà là 70 lần 7” (Mt 18,21). Và ông biết mình đã được thầy tha thứ, ông biết mình đã được than gay từ cái nhìn của Thầy trên dinh tượng tế.
Ông quên đi quá khứ tội lỗi để hướng đến tương lai của ơn thánh: Cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ. Sau này Phêrô đã khuyên bảo các tín hữu của mình: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19).
***
Lạy Chúa, Chúa đã tuyển chọn thánh Phêrô cả khi ngài thiếu sót, yếu đuối và sa ngã. Xin cho chúng con biết học nơi Thánh Phêrô lòng khiêm tốn thẳm sâu và lòng sám hối chân thành, để chúng con cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa và để chúng con trung kiên theo Chúa đến cùng. Amen.
-------------------------------
Thánh Têrêsa có câu nói rất hay: "Tất cả là hồng ân", câu nói tuy đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa. Thánh TN 21-A107
Thánh Têrêsa có câu nói rất hay: "Tất cả là hồng ân", câu nói tuy đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa. Thánh nhân cảm nhận được mọi sự trên đời là do Chúa ban, một ơn ban nhưng không, do tình yêu thương lạ lùng của Chúa chứ không do công lao hay con người xứng đáng được hưởng. Thật vậy, với cái nhìn đức tin ta biết rằng tất cả là hồng ân, mà hồng ân thì theo sau đó là trách nhiệm.
Chúng ta hãy hình dung vào bối cảnh bài Tin Mừng hôm nay, nơi Phêrô ta thấy được hồng ân và trách nhiệm mà ông nhận từ Chúa: "Này anh Simon, anh thật có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời". Qua lời tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa" thì Chúa Giêsu khen ngợi Phêrô rằng: ông là người có phúc. Có phúc vì đó là hồng ân, hồng ân đức tin. Chúa Giêsu khẳng định: không phải tự sức mình mà Pr hiểu được, cảm nhận được để rồi tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Nhưng là nhờ ơn Chúa ban, nhờ Chúa Cha mạc khải cho biết về Chúa Giêsu, về nguồn gốc thần linh của Ngài: rằng Ngài là Con Thiên Chúa; là Messia của Israel; là Vua Trời Đất mà Cựu Ước đã loan báo. Tuy nhiên đức tin của Phêrô còn phải được củng cố thêm lúc Chúa Giêsu biến hình và những lần Ngài hiện ra sau Phục Sinh nữa.
Với hồng ân đức tin được Chúa ban, Phêrô có trách nhiệm củng cố đức tin nơi anh em mình trong cộng đoàn các tông đồ, cộng đoàn các tín hữu sơ khai và Hội Thánh mà Chúa Giêsu thiết lập. Đồng thời phải bảo vệ, gìn giữ đức tin vẹn tuyền ấy. Pr còn thay mặt Chúa giảng dạy cho muôn dân, cắt nghĩa chính đáng đức tin Kitô giáo và chiếu toả đức tin ấy cho muôn người.
Hồng ân tiếp theo mà Phêrô nhận được là ông được đổi đời. Chúa Giêsu đổi tên cho ông, mặc cho ông một con người mới: "Anh là Phêrô nghĩa là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy". Việc đổi tên từ Simon thành Pr mang ý nghĩa mới cho cuộc đời ông, bước ngoặc cuộc đời ông được mở ra. Thay đổi tên là thay đổi cả số phận con người: thay đổi đời, thay đổi sứ mạng. Từ một ngư phủ đánh lưới cá trở thành ngư phủ đánh lưới người. Kể từ đây, Phêrô là đá tảng vững chắc, là nền móng kiên cố xây dựng Hội Thánh Chúa. Kiên cố và bền vững đến nỗi không một thế lực nào có thể phá huỷ được: "quyền lực Tử thần sẽ không thắng được".
Đây quả thật là một trách nhiệm nặng nề đối với một ngư phủ bình dân - chất phác - ít học như Phêrô: trách nhiệm bảo vệ, xd Hội Thánh Chúa ở trần gian; trách nhiệm qui tụ muôn dân nước về với Hội Thánh Chúa. Nhưng ông không làm việc một mình. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu hứa rằng: "Thầy sẽ không để các con mồ côi". Điều đó chứng tỏ rằng Chúa luôn ở cùng, đồng hành, và ban Chúa Thánh Thần để giúp đỡ Phêrô và các tông đồ trong việc xây dựng Hội Thánh Chúa và trong việc loan báo Tin Mừng cứu độ.
Ngoài ra Phêrô còn thay mặt Chúa cai quản và điều khiển Hội Thánh. Với chìa khóa Nước trời Chúa ban là quyền tháo cởi và cầm buộc:" Thầy sẽ ban cho anh chìa khoá Nước trời, dưới đất anh cầm buộc điều gì trên trời cũng cầm buộc; dưới đất anh tháo cởi điều gì trên trời cũng tháo cởi". Với tư cách là người đứng đầu Hội Thánh, là quản gia của Nước Trời, Phêrô đại diện Chúa ở trần gian ban phát ơn thánh, làm cho mọi người được nên thánh, phục vụ và cứu rỗi các linh hồn; mở cửa qui tụ muôn người về với Hội Thánh Chúa và làm cho nước Chúa được rạng sáng.
Hồng ân Chúa ban cho Phêrô quả là to lớn và trách nhiệm cũng nặng nề không kém. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lại đời sống mình với biết bao ơn lành Chúa ban và đã sử dụng những hồng ân đó như thế nào? Khi lãnh Bí tích Rửa Tội là ta được vinh dự làm con Chúa, được sống trong Hội Thánh, là người có đức tin và sống niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất; rồi ơn Chúa thánh hoá ta qua các Bí Tích. Đặc biệt Ngài trao ban chính mình Ngài cho ta nơi Bi tích Thánh Thể mà ta đón nhận hằng ngày,.v.v. Đây là hồng ân lớn lao đối với người kitô hữu chúng ta.
Với những ân huệ to lớn đó mà ta đón nhận hằng ngày từ Chúa. Vậy trách nhiệm của ta là hãy dâng lời tạ ơn Chúa mỗi ngày; phụng thờ Chúa; sống niềm tin-cậy-mến vào Chúa cách ý thức hơn với tư cách là một người con hiếu thảo: bằng những cử chỉ yêu thương giúp đỡ nhau cách cụ thể trong đời sống thường ngày. Can đảm tuyên xưng niềm tin và giới thiệu Chúa cho người khác.
Mặt khác nhìn vào đời sống gia đình, OBACE là cha là mẹ thì phải có bổn phận với nhau và với con cái: chu toàn bổn phận với nhau, nâng đỡ yêu thương nhau trong đời sống vợ chồng; cộng tác với nhà trường, với cha sở họ đạo để giáo dục con cái trong đời sống đức tin và tri thức như ý Chúa muốn. Đó là trách nhiệm mà mỗi người Kitô hữu chúng ta cần phải có đối với Chúa và với nhau.
Đời người là một chuỗi những hồng ân trải dài trong suốt đời sống mà ta đón nhận từng giờ từng phút trong cuộc đời. Ước mong OBACE luôn nhận ra mọi sự trên đời và những gì ta có đều là do hồng ân Chúa ban mà dâng lời cảm tạ. Đồng thời biết quý trọng và sử dụng những ơn ban ấy như là trách nhiệm cần phải có để sinh nhiều hoa trái tốùt đẹp cho cuộc sống. Qua đó ta cảm nhận được tình Chúa yêu thương và trong đức tin ta dám nói lên với Chúa rằng: "Tất cả là hồng ân Chúa ban". Amen.
-------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 16,13-20) nói với chúng ta những nội dung rất quan trọng liên quan đến TN 21-A108
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 16,13-20) nói với chúng ta những nội dung rất quan trọng liên quan đến đời sống của Hội Thánh.
Hôm ấy, Đức Giêsu đưa các môn đệ đến Xêdarê Philípphê, một thành phố do tiểu vương Hêrôđê Philipphê xây năm 2 tr.CN để kính nhớ hoàng đế Augustô “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (c.13). Người đã không hỏi các ông về ý kiến của đám đông dân chúng về bài giảng trên núi của Người chẳng hạn, hay về một hoạt động nào đó của Người, ví dụ như về phép lạ hóa bánh ra nhiều mới đây… Nhưng Người quan tâm đến ý kiến của đám đông và nhất là của các môn đệ về chính bản thân Người. Điều này cho thấy đây là một vấn đề quan trọng đối với Đức Giêsu.
Các môn đệ nhanh chóng nói cho Đức Giêsu biết đám đông dân chúng nghĩ gì về Người. “Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (c.14). Đám đông dân chúng đồng hóa Đức Giêsu với các nhân vật nổi tiếng trong Cựu Ước. Thậm chí có kẻ còn cho rằng Người chính là ông Gioan Tẩy Giả, vốn đã bị giết (x. 14,2), nay tái thế. Có kẻ nói Người là ông Êlia, vị ngôn sứ phải trở lại, theo sấm ngôn do Ml 3,23 và Hc 48,10 loan báo từ trước. Có người bảo Người là ông Giêrêmia, như đã từng xảy ra trong 2Mcb 15,13tt. Nói chung lại, đám đông dân chúng chỉ quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật, cho dù vĩ đại, cũng vẫn chỉ là sự tiếp nối quá khứ; đó là một nhân vật do Thiên Chúa sai đến như các nhân vật vĩ đại trong Cựu Ước mà thôi. Họ chưa nhận ra nơi Đức Giêsu những thực tại mới mẻ chứng tỏ tính cách độc nhất vô nhị của Người, càng không nhận ra nguồn gốc độc đáo và thần linh của Người. Họ không hiểu đúng về con người và sứ mạng của Người.
“Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?. Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (cc.15-16). Câu hỏi thứ hai này hướng trực tiếp về các môn độ. Đức Giêsu muốn biết lập trường và quan niệm của chính các ông về bản thân Người. Các ông đã đi theo Người một thời gian dài, đã chứng kiến những hoạt động của Người, đã được nghe những giáo huấn của Người. Thay mặt anh em, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu câu trả lời của các ông đối với vấn đề quan trọng này. Ông tuyên xưng lòng tin của chính ông và của các anh em ông trong cộng đoàn các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Câu trả lời của ông Phêrô rõ ràng là một lời tuyên xưng đức tin rất hoàn hảo. Trong Mc 8,29 câu trả lời chỉ đơn giản là “Thầy là Đấng Kitô”. Hình như tác giả Mt không hài lòng lắm với câu trả lời đó. Ông bổ túc rõ ràng: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh tư cách là Con Thiên Chúa của Đấng Mêsia (x. 3,17;17,5), không hoàn toàn trùng với quan niệm về Mêsia con vua Đavít như dân chúng nói chung đang mong chờ. Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” không chỉ theo nghĩa là do Thiên Chúa sinh ra, mà trước hết là do Người hành động trong tư cách là chính Thiên Chúa đang hành động. Nói cách khác, công thức “Con Thiên Chúa” ở đây là tương đương với công thức “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Thiên Chúa hằng sống (x. Is 37, 4.17; Hs 2,1; Đn 6,21) thì đối ngược, khác biệt và siêu vượt các ngẫu thần chết chóc: Ngài sống và làm cho sống. Là Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giêsu là Đấng sống và thông ban sự sống đích thực cho con người.
“Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (c.17). Đáp lại lời tuyên xưng của ông Phêrô, Đức Giêsu tuyên bố một mối phúc. Ngài khẳng định Phêrô có phúc vì được lãnh nhận một ơn huệ cao trọng và huyền nhiệm do chính Thiên Chúa ban. Chính Cha của Đức Giêsu, tức là vị Thiên Chúa hằng sống trong lời tuyên xưng của Phêrô, đã mặc khải cho Phêrô biết về căn tính đích thật của Đức Giêsu.
Trong 11,25-27, Đức Giêsu đã dâng lời tạ ơn Cha của Người: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”. Đọc câu 27 của bài Tin Mừng hôm nay trong liên hệ với lời ngợi khen đó, chúng ta biết rằng ông Phêrô đang được đón nhận ân huệ dành cho những người bé mọn, chứ không phải vì ông là kẻ khôn ngoan và thông thái theo kiểu các người Pharisêu và các kinh sư. Nói cách khác, ông Phêrô và các môn đệ anh em của ông không bị nhiễm men, tức là không bị ảnh hưởng, của giáo thuyết của các người Pharisêu và nhóm Xađốc (16,12). Đước chính Thiên Chúa mạc khải, ông Phêrô và các anh em được hiểu biết ý nghĩa sâu xa của những hoạt động và giáo huấn của Đức Giêsu.
“Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” cần được đọc song song với “Cha của chúng con, Đấng ngự trên trời” trong Mt 6,9. Những ai đón nhận từ Chúa Cha mặc khải liên quan đến Đức Giêsu thì đồng thời cũng nhận biết nơi Đức Giêsu dung mạo của chính Chúa Cha; và những ai đón nhận từ Đức Giêsu kinh nghiệm về chính Thiên Chúa là Cha thì sẽ có thể thưa với Thiên Chúa lời Abba thân tình. Chính trong ân huệ và trải nghiệm huyền nhiệm ấy mà ông Phêrô và toàn thể cộng đoàn các môn đệ tuyên xưng lòng tin của mình về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu tiếp tục nói với ông Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Tương ứng với lời tuyên xưng “Thầy là” của ông Phêrô là lời tuyên bố của Đức Giêsu “Anh là”. Đức Giêsu khẳng định ông Phêrô là “Tảng đá” (pêtra), tức là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi. Hội Thánh được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà ông Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa do chính Đức Giêsu xây dựng trên tảng đá Phêrô. Ông có nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn ấy sự chắc chắn, bền vững, không thay đổi, không lay chuyển, dựa trên ơn huệ là mạc khải của chính Thiên Chúa ban cho những con người bé mọn. Và sự bền vững ấy được bảo đảm bởi chính lời hứa của Đức Giêsu rằng “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
“Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Chúng ta thấy thấp thoáng ở đây nội dung của mối phúc cuối cùng trong 5,10t (“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”) và nội dung lời giáo huấn trong 10,28 (“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”). Quyền lực của tử thần, quyền lực của những kẻ bách hại Hội Thánh, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… sẽ không thể tiêu diệt Hội Thánh, vì Hội Thánh được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn thoe thánh ý Ngài.
Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn sự bền vững, ông Phêrô còn có nhiệm vụ quản lý các mầu nhiệm Nước Trời như một người tôi tớ được Chủ trao cho chìa khóa (x. Is 22,22): “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (c.19).
“Cầm buộc và tháo cởi” là ngôn ngữ của các trường phái rabbi, diễn tả nhiệm vụ cho phép hay ngăn cấm về những điểm còn tranh luận trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng quy về việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời.
Trao cho Phêrô những nhiệm vụ làm đá tảng, giữ chìa khóa và cầm buộc – tháo cởi, Đức Giêsu cho thấy Người không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu trong tình trạng mất hướng, nhưng ban cho cộng đoàn đó người lãnh đạo với những năng quyền và nhiệm vụ lớn lao.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng: ông Simon Phêrô, người thứ nhất và là đại diện cho anh em, tuyên xưng lòng tin vào Đức Giêsu với một công thức diễn đạt hoàn hảo con người và sứ mạng của Người, đã được Đức Giêsu đặt làm đá tảng cho Hội Thánh, làm người quản lý các mầu nhiệm Nước Trời và làm người có quyền bính thực sự trong việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời. Với ông, Đức Giêsu xây dựng cộng đồng nhân loại mới, cộng đồng những con người bé mọn tuyên xưng lòng tin vào Người là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Cộng đồng mới này là chính Hội Thánh, sẽ đứng vững trước những sức mạnh tấn công của quyền lực tử thần.
Ý thức về sự cao cả và sự nặng nề của những quyền bính và các nhiệm vụ mà Phêrô đã được trao phó, chúng ta được mời gọi cầu nguyện, vâng phục và hiệp thông sâu xa với Đấng kế vị Thánh Phêrô.
-------------------------------
Sau những ngày tháng rao giảng về Nước Trời cho dân chúng, Chúa Giêsu và các môn đệ dừng TN 21-A109
Sau những ngày tháng rao giảng về Nước Trời cho dân chúng, Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân tại miền Xêdarê Philliphê để kiểm điểm tình hình và lượng định kết quả. Là những người sống trà trộn với quần chúng, các môn đệ hẳn đã nghe ngóng nhiều hơn về Người. Chúa bắt đầu kiểm chứng: “Người ta nói Con Người là ai? " (Mt 16, 13)
Nghe hỏi như vậy thì ta thấy: "Kẻ thì nói là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, có người lại cho là Giêrêmia, hay một trong các vị ngôn sứ". Người ta có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng dường như họ đồng ý coi Chúa Giêsu thuộc hàng ngôn sứ. Lối sống và các lời dạy của Chúa Giêsu cho họ là giảng dạy với năng quyền của Thiên Chúa. Quả thực, họ ca ngợi Ngài! Nhưng Chúa Giêsu không để ý đến những điều người ta nói, và Ngài hỏi ngay các môn đệ. "Còn anh em, anh em nghĩ gì về Thầy?" Thánh Phêrô thưa: "Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Sau khi thánh Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền phán: “con thật có phúc”. Lời Chúa phán với Phêrô như là một xác tín rằng vì con đã tuyên xưng Thầy, nên con sẽ được Chúa Cha chúc phúc. Cũng vậy, mỗi khi chúng ta tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, chúng ta cũng sẽ được Thiên Chúa chúc phúc.
Với lời tuyên xưng, Simon được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết; sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4, 18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên.
Chúa Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng một tên mới và loan báo một nhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1, 42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là một sáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc một người có quyền thế có thể ban một tên mới cho một người đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (St 17, 5.15; Ds 13,16; 2 V 24, 17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với một nhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói một cuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông một tên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Khi tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thánh Phêrô đã bộc lộ một Ðức Tin cá vị, và từ đó, ngài đảm nhận từ nơi Chúa trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn. Ðây là một sự dấn thân vô điều kiện. Ðức Tin cá vị cũng đòi hỏi một sự dấn thân vô điều kiện.
Sau Phục Sinh, ta thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16, 7; Ga 20, 2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24, 34; 1 Cr 15, 5). Vai trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20, 3-10), ghi dấu sự nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh… Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc 22, 31t)
Những ai tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” cũng sẽ được phần thưởng dự tiệc thánh trong Nước Trời. Đó chính là phần thưởng dành cho những người vừa tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chuá hằng sống”. Mạc khải đã mở trí, mở lòng cho Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô con Chúa Trời hàng sống” cũng là mạc khải của chúng ta, khi phải đương đầu với các cửa hoả ngục. Trên những cửa đó, người ta viết: Yếm thế, khi tiếp xúc với tha nhân; Tuyệt vọng, khi đối phó với các khó khăn lớn: nghèo đói, chiến tranh; Ham muốn vô độ, khi thu tích tài sản, bất chấp lương tâm và quyền lợi người khác; Vô cảm, trước những quằn quại, đau thương của nhân loại;
Những người theo Chúa Kitô sẽ phải trả lời câu hỏi về đức tin của mình và truyền lại cho con cái và cho những người họ giảng dạy. Họ sẽ rao giảng cho những thính giả hỏi Chúa Giêsu là ai, và Ngài đã đem gì khác lạ đến cho đời sống của họ. Và bởi đó kinh Tin kính được thành hình, nhưng những lời giảng sẽ không có nghĩa gì nếu những người được nghe giảng hôm nay không tự trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu không hỏi chúng ta là con có đi lễ ngày chúa nhật không ? con có cho con cái đi học giáo lý không ? hay con có đọc kinh trước khi ăn không ? Trước hết Ngài mời chúng ta nhìn nhận tin vào Ngài, làm chứng cho thế giới về tình thương và cách sống của Ngài .
Ta là những Kitô hữu, chúng ta mang Chúa Kitô trong mình. Vì thế chúng ta phải tỏ ra cho người khác thấy được hình ảnh Chúa Kitô hiện diện trong mỗi người chúng ta. Khi chúng ta thể hiện được hình ảnh Chúa Kitô trong chúng ta tức là chúng ta đang tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn còn hỏi chúng ta như xưa Chúa đã hỏi các Tông đồ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Vẫn câu hỏi đó cho chúng ta, nhưng Chúa còn hỏi mỗi người Kitô hữu đã nói về Chúa trước mặt thiên hạ như thế nào. Câu trả lời mà Chúa đòi hỏi chúng ta không những bằng lời nói mà còn đòi hỏi chúng ta một câu trả lời bằng chính cuộc sống của chúng ta.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, Đức Yêsu hỏi các tông đồ: “người ta bảo Con Người là ai? TN 21-A110
Trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, Đức Yêsu hỏi các tông đồ: “người ta bảo Con Người là ai?”, và sau đó Ngài hỏi các tông đồ: “còn anh em, anh em nói thầy là ai?” Thánh Phêrô đã đại diện các tông đồ trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con của Thiên Chúa hằng sống.” Kitô-hữu trong dòng lịch sử đã diễn tả Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, là Con “đồng bản tính” của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Còn với bạn, hôm nay, Đức Yêsu là ai?
1. Đức Yêsu là người như tất cả chúng ta
Ngài được sinh bởi người cha người mẹ, tại một nơi và một thời điểm như ai khác. Ngài được nuôi dưỡng dạy dỗ như bao trẻ thời đó. Ngài sống bằng lao động tay chân, có tôn giáo là Do Thái giáo.
Ngài đã được cha mẹ dạy dỗ giáo dục. Ngài đã vâng lời cha mẹ là Đức Maria và thánh Yuse trong suốt thời gian thơ ấu, thiếu niên và thanh niên. Tuy vậy, cũng có lúc Ngài làm cha mẹ lo lắng buồn lòng, như biến cố Ngài ở lại đền thờ khi Ngài lên 12 tuổi mà cha mẹ Ngài không hay biết. Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, về danh, về quyền bính khi cầu nguyện một mình trong hoang địa.
Kinh Thánh không nhắc đến chuyện tình cảm của Ngài: vào tuổi thanh niên không biết Ngài có được cô nào thương đặc biệt không, và thái độ của Ngài thế nào. Tuy nhiên, có thể nhìn vào thái độ của Ngài đối với phụ nữ khi Ngài rao giảng, để biết thái độ của Ngài thế nào đối với phụ nữ thời Ngài thanh xuân: chắc có nhiều người thương Ngài. Về trí khôn, nếu không kể trường hợp thông minh đặc biệt ngồi giữa những người giỏi tại đền thờ lúc 12 tuổi, người ta còn thấy Ngài có trí khôn lanh lợi để thoát khỏi bẫy của những kẻ muốn giăng ra để hại Ngài như trường hợp họ hỏi có nên đóng thuế cho Cesar không, có ném đá chị phụ nữ ngoại tình không, tại sao môn đệ của Ngài lại không giữ luật tuốt lúa ăn vào ngày sabbat, v.v… Đức Yêsu là người như tất cả ai khác.
2. Đức Yêsu là Đấng Thiên Sai
Vào tuổi trưởng thành, Ngài ra đi rao giảng, thu nhận môn đệ. Ngài làm được nhiều điềm thiêng dấu lạ. Nhiều người kính phục Ngài, coi Ngài là một tiên tri. Tiên tri ở đây được hiểu như người của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sai gởi tới để nói với dân nhân danh Thiên Chúa.
Câu trả lời của Phêrô đại diện các tông đồ cho câu hỏi của Đức Yêsu, có gì khác biệt với câu trả lời của dân chúng? Trong câu “Thầy là Đức Kitô, Con của Thiên Chúa hằng sống,” người ta hiểu từ ngữ “Kitô,” nghĩa là “được xức dầu,” Đấng được Thiên Chúa sai đến. Theo quan niệm của người Do Thái, có ba hạng người được xức dầu, đó là vua, tư tế và tiên tri. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, người ta thấy tiên tri Samuel đã xức dầu cho vua Saul, cho vua David. Môsê đã xức dầu cho tư tế Aaron. Các tiên tri thường được hiểu là những người được Thánh Thần xức dầu: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi” (Is.61, 1tt). Trong câu trả lời của Phêrô và thái độ muốn giữ kín điều này, làm người ta hiểu “Kitô” mà Phêrô nói ở đây, được hiểu theo nghĩa “Kitô Vua” nhiều hơn. Giữa hoàn cảnh dân Do Thái đang bị người Roma đô hộ, mà nhắc đến vị Kitô (được xức dầu) Vua, thì không lợi lắm theo quan điểm chính trị. Và khi Đức Yêsu bị kết án, Ngài cũng bị kết án là muốn xưng vua! Dân chúng hiểu Đức Yêsu là tiên tri, người nói với dân nhân danh Thiên Chúa; còn các tông đồ hiểu Đức Yêsu là Kitô Vua, Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ.
Cụ thể Đức Yêsu không giải phóng dân Do Thái khỏi bị người Roma đô hộ. Ngài đã bị kết tội cách hợp pháp vì tội chính trị này, dù rằng Ngài không làm chính trị. Đức Yêsu quả là Đấng Thiên Sai, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, Đấng giải phóng không chỉ dân Do Thái mà tất cả con người khỏi nô lệ tội lỗi, nô lệ ma quỷ, nô lệ vật chất. Đức Yêsu là Đấng Kitô, để giải phóng con người khỏi mọi nô lệ, cho con người trở thành tự do với tất cả, trở thành con của Thiên Chúa.
3. Đức Yêsu là tình yêu Thiên Chúa cho con người
Đức Yêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa diễn tả tình yêu đối với con người, đặc biệt đối với Kitô-hữu. Đối với những người theo Hồi giáo, Mahomet là Đấng đại diện Thiên Chúa cho họ; với những người theo đạo Phật, Đức Phật là biểu tượng của tuyệt đối.
Với Kitô-hữu, Đức Yêsu không chỉ là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa đối với riêng Kitô-hữu, mà là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Qua Đức Yêsu, con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng vô tận; qua Đức Yêsu, Thiên Chúa ban tất cả cho con người. Sở dĩ vậy vì Kitô-hữu tin Đức Yêsu là tiên tri, người của Thiên Chúa, người nói nhân danh Thiên Chúa; là Kitô Vua, Đấng giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ; là Đấng Trung Gian, máng chuyển ơn duy nhất cho con người. Thiên Chúa nói qua Đức Yêsu, Thiên Chúa giải phóng qua Đức Yêsu, Thiên Chúa ban ơn qua Đức Yêsu. Dù một người biết hay không biết, tin hay không tin vào Đức Yêsu, thì họ vẫn được nói, được giải phóng, được ban ơn qua Đức Yêsu Kitô như trung gian duy nhất. Trung gian thứ hai, có thể là Đức Maria, Đức Phật, hay các vị được ơn sáng lập các tôn giáo khác.[1]
Đức Yêsu là một người rất đặc biệt, kết hiệp với Thiên Chúa cách rất đặc biệt, đến độ các thần học gia Kitô-hữu diễn tả Ngài bằng từ ngữ: Lời của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Đức Yêsu và Thiên Chúa vẫn là hai Đấng phân biệt (hai ngôi vị), nhưng liên hệ với nhau rất đặc biệt mà các nhà thần học diễn tả liên hệ này như liên hệ Cha Con, đến độ là một, một Thiên Chúa.
Đức Yêsu là Đấng nói với tôi về Thiên Chúa, cho tôi biết Thiên Chúa là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng yêu tôi vô cùng. Đức Yêsu là Đấng như tôi, mời gọi tôi hãy vươn lên như Ngài đã vươn lên trong cuộc sống này. Đức Yêsu là Đấng nâng tôi dậy, giúp tôi đứng lên dù đã bao lần vấp ngã trong cuộc đời. Đức Yêsu là tất cả cho tôi và với tôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Giữa bạn và Đức Yêsu, ai sống lâu hơn? ai giầu hơn? ai sống tiện nghi hơn? ai được biết nhiều hơn? ai khổ hơn? ai hạnh phúc hơn?
2. Bạn và Đức Yêsu, có những điểm nào giống nhau?
3. Với bạn, Đức Yêsu là ai?
-------------------------------
Đường lối của Thiên Chúa
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Is 22:19-23; Rm 11:33-36; Mt 16:13-20)
Để đi tới đích, chúng ta phải theo một con đường. Chúng ta ai cũng biết mục đích Thiên Chúa tạo dựng TN 21-A111
Để đi tới đích, chúng ta phải theo một con đường. Chúng ta ai cũng biết mục đích Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để ta được sống đời đời với Người trên thiên đàng. Giống như con đường dưới đất đưa chúng ta đi tới điểm hẹn, đường lối thiêng liêng cũng dẫn ta tới điểm hẹn vĩnh cửu là thiên đàng. Hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa trình bày cho chúng ta hiểu đường lối hành động của Thiên Chúa trong lịch sử Ít-ra-en dân Chúa, trong lịch sử Giáo Hội qua vai trò lãnh đạo của ông Phê-rô, và nhất là trong đời sống mỗi người chúng ta.
Trước hết chúng ta hãy nhìn vào một thời điểm trong lịch sử Ít-ra-en để xem Thiên Chúa can thiệp thế nào. Sau khi vua Sa-lô-môn băng hà vào năm 931 trước công nguyên, nước Ít-ra-en bị phân chia làm hai vương quốc, miền bắc là “vương quốc Ít-ra-en” tồn tại cho đến năm 721, và miền nam là “vương quốc Giu-đa”. Vương quốc miền bắc được hưởng một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi và tại đây xuất hiện những vị ngôn sứ lớn như Ê-li-a, Ê-li-sa và Hô-sê. Còn nước Giu-đa, vương quốc của con cháu vua Đa-vít, là nước nhỏ bé bị kẹt giữa hai nước lớn là Át-sua và Ai-cập nên bị lôi cuốn vào cuộc liên minh mới và không còn mấy tin tưởng vào Thiên Chúa, “Đấng chỉ huy các biến cố”. Khi bị vua Xan-khê-ríp của nước Át-sua đe dọa, vua Khít-ki-gia của nước Giu-đa và ngôn sứ I-sai-a đã cầu xin Thiên Chúa che chở dân Người. Nhậm lời cầu xin, Thiên Chúa đã sai thiên sứ “đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua”. Còn vua Xan-khê-ríp thì nhổ trại, rút về Ni-ni-vê và bị đâm chết đang khi sụp lạy thần Nít-rốc của ông. Sự can thiệp của Thiên Chúa cho thấy đường lối của Người là không dung thứ sự ngạo nghễ của những kẻ quyền thế, nhưng luôn bênh vực những kẻ nghèo hèn biết tin cậy vào tình yêu và lòng thương xót của Người.
Tiếp đến là sự can thiệp của Thiên Chúa vào việc thiết lập và dẫn đắt Giáo Hội. Chúa Ki-tô không “xây Giáo Hội” của Người theo lối người đời, khi Người tuyển chọn các tông đồ và đặt Phê-rô làm đá tảng cho nền móng. Vua chúa xây dựng vương quốc của họ trên sức mạnh quân đội, kinh tế với tài thao lược. Còn Chúa Giê-su xây dựng Giáo Hội tại thế của Người trên nền móng đức tin, đức tin đã được ông Phê-rô tuyên xưng thay mặt Nhóm Mười Hai: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thiên Chúa Cha đã mặc khải cho Phê-rô và các bạn biết Chúa Giê-su là Con Một của Người. Nếu Thiên Chúa đã đoái thương tỏ cho họ biết Chúa Giê-su là ai, thì Người cũng muốn họ đáp lại mặc khải yêu thương ấy bằng cách hoàn toàn tin vào Con Một Người. Thiên Chúa không tuyển chọn những người thông thái và đầy quyền lực làm những kẻ lãnh đạo trong Giáo Hội Người. Nhưng hầu hết những người được tuyển chọn thuộc tầng lớp bình dân, nếu không nói là ít học thức. Điều Thiên Chúa thấy nơi họ là một trái tim nồng nàn và lòng quảng đại sẵn sàng chấp nhận sứ mệnh Người trao, nói khác đi đó là một đức tin vững vàng. Để đức tin được vững vàng, họ cần thời gian phát huy mối tương quan với Chúa và nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Do đó, tạm thời Chúa Giê-su cấm các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô, cho đến khi đức tin của họ đủ trưởng thành. Sau khi Chúa Giê-su về trời, như chúng ta thấy, các môn đệ đã nhận lấy Thánh Thần và đức tin được củng cố, họ lên đường thi hành sứ mệnh và rao giảng Tin Mừng khắp nơi.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Vậy đường lối Thiên Chúa muốn chúng ta đi theo là gì? Trả lời câu hỏi này, thánh Phao-lô đã phải thốt lên: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được!” (bài đọc 2). Tông đồ Tô-ma cũng hỏi Chúa Giê-su: “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Chúa trả lời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gio-an 14:5-6). Như vậy là chúng ta biết đường lối của Thiên Chúa là gì rồi! Lối sống của Chúa Giê-su là đường lối Thiên Chúa muốn chúng ta đi theo. “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mát-thêu 11:29). Phải, Chúa Giê-su đang mời gọi chúng ta theo đường lối của Người!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
-------------------------------
Gần đây có một số người được xem là đạo đức, rất sốt sắng tham gia các hội đoàn cầu nguyện, họ đang TN 21-A112
Gần đây có một số người được xem là đạo đức, rất sốt sắng tham gia các hội đoàn cầu nguyện, họ đang chuyền tay nhau những tài liệu được coi như là chân lý mạc khải của Chúa và của Đức Mẹ. Những tập tài liệụ này được phổ biến nhanh chóng và rộng rãi kèm theo lời đe dọa: Không đọc sẽ hối tiếc, hoặc ai không loan truyền cho người khác sứ điệp này sẽ gặp những tai họa này tai họa khác. Nhiều người khi đã lỡ đọc rồi, thì hoang mang, sợ lời đe dọa ấy sẽ xảy ra cho mình nếu mình không truyền bá tài liệu đó. Nhưng vấn đề đáng lưu ý nơi những tài liệu này, là họ dựa vào những tâm tình đạo đức cá nhân, những suy diễn cá nhân để giải thích Lời Chúa. Nguy hiểm hơn, những tài liệu này đang muốn làm cho chúng ta hoang mang và nghi ngờ quyền lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng đương kim Phanxicô, những người này dựa vào một lời tiên đoán của những kẻ bảo thủ cực đoan và kết luận Đức Giáo Hoàng đương kim là ngụy giáo hoàng, là kẻ phá Giáo Hội. Họ không muốn thấy một vị giáo hoàng gần gũi với mọi người, họ muốn một giáo hoàng nghiêm nghị cứng rắn thay vì một giáo hoàng đơn sơ, bình dân như đức giáo hoàng Phanxicô.
Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu chính là mạc khải cuối cùng và trọn vẹn mà Thiên Chúa dành cho con người, vì thế không cần và không buộc phải tin bất cứ một mạc khải riêng tư nào khác nữa. Hơn nữa, mạc khải của Thiên Chúa qua Tin Mừng được trao cho Giáo Hội giữ gìn nguyên vẹn và có bổn phận giải thích và thông truyền cho mọi thế hệ, vì thế những ai nhân danh cá nhân để giải thích hoặc loan truyền những điều nghịch với sự hướng dẫn của Giáo Hội, đó là những kẻ dối trá.
Tin Mừng hôm nay đã cho thấy ý định của Chúa Giêsu khi chọn Phêrô, trao cho ông quyền cầm buộc và tháo cởi, đồng thời Chúa đã quyết định xây dựng Giáo Hội của Ngài trên đức tin của Phêrô. Thánh Mathew thuật lai: Khi Thầy trò đến vùng Cesare-Philipphê, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề với các tông đồ: Người ta bảo con người là ai? Chi tiết này cho thấy, sau một thời gian đi rao giảng Nước Trời và làm nhiều phép lạ, Chúa muốn biết dân chúng hiểu thế nào về Ngài và về sứ mạng của Ngài. Qua câu trả lời của các tông đồ cho thấy, dân chúng dường như chưa có một hiểu biết gì khác hơn về Ngài, họ chỉ mới nhìn nhận Ngài như một vị tiên tri giống như các tiên tri trong lịch sử của họ mà thôi.
Dường như điều Chúa Giêsu quan tâm hơn lại là chính các tông đồ, khi Ngài đặt câu hỏi trực tiếp với các ông: Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Simon Phêrô đã đại diện cho các anh em thưa với Chúa rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Câu trả lời thật chính xác và được Chúa khen, Chúa khẳng định đó chính là mặc khải mà Thiên Chúa Cha đã ban cho Phêrô. Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa Phêrô tuyên xưng Ngài là Đấng được xức dầu, là Đấng Mesia muôn dân đang mong đợi, là Đấng cứu thế, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống, có nghĩa là Phêrô và các tông đồ đã tin Ngài là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, Đấng mà tổ tiên tôn thờ từ trước đến nay, là Đấng Hằng Hữu.
Chúa Giêsu có quá vội vàng không, khi chỉ mới nghe một lời tuyên xưng như thế, mà Ngài đã quyết định ngay việc thiết lập Giáo hội trên nền tảng đức tin của Phêrô? Chúa Giêsu không hề vội vàng, cùng không hề sai lầm, mặc dù Ngài biết Simon là một con người bộc trực, yêu Chúa nhưng Simon cũng lại là một con người yếu đuối sẽ phản bội Chúa. Chúa không lấy sự khôn ngoan uyên bác làm nền tảng của Giáo Hội, Chúa cũng không lấy sự đạo đức của một người nào đó làm trụ cột cho Giáo Hội, nhưng Chúa đã lấy đức tin của Simon Phêrô và cả sự giới hạn của ông và trao cho ông Giáo Hội của Ngài: Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực ma quỷ sẽ không thắng nổi. Chúa đã không nại đến sự thánh thiện của Simon Phêrô và các tông đồ, Chúa cũng không chọn con người hoàn hảo và trung thành như Gioan để trao quyền thủ lãnh, nhưng Chúa lại chọn Phêrô cùng với sự yếu đuối của ông, để qua ông, mọi thành phần của Giáo Hội luôn khiêm tốn nhìn lại sự khiếm khuyết của mình để biết cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, đồng thời để dễ thông cảm với những người yếu đuối hơn: Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, dưới đất con ràng buộc điều gì, trên trời cũng ràng buộc; Dưới đất, con tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi. Chúa Giêsu đã quá liều lĩnh khi trao hoàn toàn Giáo Hội là gia nghiệp của mình cho Phêrô, và hoàn toàn đồng thuận với phán quyết của Phêrô và còn bảo đảm với Phêrô rằng: cho dù hỏa ngục có quậy phá cũng không thể thắng được Giáo Hội.
Con người thường hay đánh giá theo cái nhìn cảm tính cá nhân của mình, hoặc theo những tiêu chuẩn do chính mình tạo ra, nhưng đó lại không phải là cách của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn muốn dùng những cái nhỏ bé để làm nên những việc lớn lao, dùng những cái bất toàn để làm nên những giá trị vĩnh cửu, dùng những cái yếu đuối mỏng manh để bày tỏ quyền năng và sức mạnh của Ngài. Tiên tri Isaia đã cho thấy Thiên Chúa cũng đã từng thực hiện những việc như thế trong lịch sử, khi nói về việc Thiên Chúa sẽ chọn một con người và trao cho kẻ ấy vương quyền nhà Đavít: Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, đuổi ngươi khỏi địa vị… Ta sẽ gọi tôi tớ Ta, Ta lấy áo bào của ngươi mà mặc cho nó, lấy cân đai của ngươi mà thắt cho nó, lấy quyền bính của ngươi mà trao vào tay nó… Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đavít trên vai nó, nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột.
Thánh Phaolô trong thư Rôma cũng đã chia sẻ sự khâm phục của Ngài trước chương trình kỳ diệu của Thiên Chúa đã thực hiện trong Giáo hội và nơi từng tín hữu: Sự phong phú, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa không ai dò thấu được, đường lối của Người ai theo dõi được.? Ai đã biết tư tương của Chúa? Ai có thể làm cố vấn cho Người?
Thưa quý OBACE, việc Chúa chọn Simon Phêrô làm nền tảng cho Giáo Hội và trao cho ông quyền cầm buộc và tháo cởi, quả là một mầu nhiệm, và lời Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội kiên vững trước những sự chống đối của Satan quả là kỳ diệu hơn nữa. Điều đó cho chúng ta thêm vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa, và hết lòng yêu mến gắn bó với Giáo Hội là mẹ của chúng ta, đồng thời khiêm tốn vâng nghe theo lời giảng dạy của Phêrô và các Đấng kế vị Ngài.
Satan và thế gian không thích Giáo Hội, vì thế nó tìm đủ mọi cách hết sức tinh vi để tách lìa chúng ta khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội. Chúng ta xác tín rằng chỉ có một Giáo Hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền do Chúa Giêsu thiết lập, của Chúa Giêsu, và được trao cho Phêrô và các tông đồ. Vì thế hãy cảnh giác với những mưu mô của Satan, vì nó có thể dùng cả cái vỏ đạo đức, những người bên ngoài xem như đạo đức để gieo vào trong chúng ta sự nghi ngờ Phêrô và giáo Hội của Ngài, nó muốn tách chúng ta ra khỏi sự hiệp thông với ngai tòa Phêrô. Một khi từ chối sự hiệp thông với Phêrô và các Đấng kế vị là tự mình tách ra khỏi Giáo Hội của Chúa Kitô. Bên cạnh đó hãy cầu nguyện thật nhiều cho các vị chủ chăn của chúng ta, hãy làm hết sức mình để xây dựng sự hiệp thông hiệp nhất trong Giáo Hội, đừng vì bất cứ lý do gì mà chúng ta tách lìa khỏi Giáo Hội.
Không chỉ hiệp thông và xây dựng Giáo Hội phổ quát, chúng ta còn được mời gọi cầu nguyện, công tác để xây dựng Giáo hội địa phương là Giáo Phận là Giáo xứ, vì nơi Giáo Hội địa phương này, chúng ta được sinh ra trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng các bí tích, được chăm sóc mục vụ từ nơi các chủ chăn của chúng ta. Hãy gắn bó bằng lời cầu nguyện, bằng hiệp thông, cộng tác, đừng bao giờ biến mình trở thành kẻ đứng bên ngoài mà chỉ trích Giáo Hội, nhưng hãy đặt mình trong địa vị của những người con, cùng chung tay xây dựng Giáo phận, Giáo xứ mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Chúng ta cũng đừng quên giáo hội thu nhỏ là chính các gia đình, nơi đó cha mẹ là những vị chủ chăn, là những người chăm sóc nuôi dưỡng đời sống thể xác và đời sống thiêng liêng cho từng thành viên. Hãy biến gia đình thực sự trở thành giáo hội tại gia, thành đền thờ nơi Thiên Chúa hiện diện, bằng việc mỗi thành viên biết canh tân đổi mới đời sống của mình mỗi ngày, sống gắn bó trong tình yêu thương và tạo lập nên nếp sống đạo đức cho gia đình qua các giờ kinh, qua việc lắng nghe Lời Chúa, cùng nhau tham dự thánh lễ, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.
Sau cùng, hãy tự hào vì mình là thành viên của Giáo hội, là con cái của Giáo Hội có Chúa Kitô là đầu, là Thủ lãnh và luôn tin tưởng rằng Thánh Thần của Thiên Chúa luôn hoạt động và hướng dẫn Hội Thánh, đồng thời mỗi người hãy để Thánh Thần canh tân biến đổi bản thân và góp phần vào việc canh tân Hội Thánh bằng chính đời sống thánh thiện mỗi ngày. Amen.
-------------------------------
Chúa nhật XXI thường niên năm – A
(Mt 16,13 - 19)
Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"(Mt 16, 15) là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ Chúa để TN 21-A113
"Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"(Mt 16, 15) là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ Chúa để trắc nghiệm sự hiểu biết của họ về danh tính của chính Chúa Giêsu, trên hành trình từ thượng lưu Galilê đi xuống. Hẳn đã nhiều lần người ta đặt cho các môn đệ câu hỏi về Chúa Giêsu, nay chính Thầy Giêsu hỏi họ về Ngài, một câu hỏi rất cụ thể được Chúa đặt ra, và chờ họ trả lời. Và này, Simon Phêrô đã thay mặt cả nhóm thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Câu trả lời thật rõ ràng. Ở đây, Đức tin của Giáo Hội phản chiếu một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng thế, chúng ta được soi sáng cách đặc biệt do lời tuyên xưng của Phêrô.
Đáp lại lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu trả nói: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17).
Phêrô thật có phúc! Phúc của Phêrô phát xuất từ mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa Cha, chính Chúa Cha mạc khải cho ông. Đây là mạc khải chân lý nội tại, và đời sống của chính Thiên Chúa. Phêrô, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã trở thành chứng nhân tuyên xưng một chân lý siêu phàm. Lời tuyên xưng của ông là nền tảng đức tin của Giáo Hội Chúa: "Trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" (x. Mt 16, 18). Dựa vào đức tin và lòng trung thành của Phêrô, Giáo Hội của Chúa Kitô được thiết lập. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ý thức rõ điều ấy, như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết, khi Phêrô bị giam trong ngục. Hội Thánh khẩn thiết dâng lời khẩn nguyện lên cùng Chúa cho ông (x. Cv 12, 5), vì sự hiện diện của Phêrô vẫn cần thiết cho cộng đoàn trong những giai đoạn đầu của Hội Thánh: Chúa đã sai thiên thần của Người đến mà giải thoát họ khỏi tay những người bách hại (x.12, 7-11). Điều này đã được viết trong ý định của Thiên Chúa mà Phêrô, sau khi thừa nhận với anh em mình trong đức tin, đau khổ tử vì đạo ở Rôma, cùng với Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại, cũng thoát chết nhiều lần.
Hôm nay, lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, vào giai đoạn công khai sứ vụ cuối cùng, chuẩn bị bước vào cuộc thương khó dẫn tới cái chết đau thương và phục sinh của Chúa. Sau khi hóa bánh và cá ra nhiều, Chúa Giêsu đã quyết định cùng với các môn đệ tách khỏi dân chúng, sang bờ bên kiađể huấn luyện các ông.
Hai ngày Chúa nhật trước, chúng ta nghe nói về Phêrô xin Chúa cho đi trên mặt nước, đang đi thì ông chìm dần xuống, Chúa cứu ông lên kèm theo lời quở trách: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" (Mt 14,31 ). Hôm nay, Chúa khen ông: "Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc" (Mt 16,17). Phêrô có phúc là vì ông đã mở lòng mình ra để đón nhận mặc khải của Thiên Chúa và nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Câu hỏi: "Người ta bảo Con Người là ai? " (Mt 16, 13) được đặt ra trong dòng lịch sử cùng một câu hỏi: "Phần các con các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16, 15). Và một lúc nào đó chúng ta cũng phải trả lời những câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với tôi và tôi là ai đối với Chúa?
"Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), là câu trả lời của Phêrô sau khi được Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình về chính mình. Nếu ngày hôm nay Chúa Giêsu hỏi chúng ta: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? " Chúng ta có thể trả lời Chúa một cách rõ ràng và chính xác như Phêrô. Nhưng nếu Chúa hỏi: Thầy là ai đối với mỗi người chúng ta ? Mỗi người phải suy nghĩ, nhìn vào chính tâm hồn mình để trả lời câu Chúa hỏi. Câu trả lời này hết sức riêng tư, không ai giống ai. Đối với người này, Chúa là gia nghiệp, Chúa là bạn trăm năm, là sức mạnh mỗi khi gặp thử thách ; đối với người kia, Chúa là Đấng ai ủi khi buồn phiền,v.v…
Bây giờ chúng ta hãy hỏi ngược lại Chúa: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thấy con là ai ? Chúa xếp con vào loại người nào ?
Tin Mừng hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta hai câu hỏi quan trọng: Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta ? Và chúng ta là ai dưới cái nhìn của Chúa Giêsu ? Mỗi người chúng ta phải tự trả lời, không ai trả lời thay cho chúng ta được. Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Đấng sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
-------------------------------
Một trong những khao khát sâu thẳm của con người là được kéo dài sự sống đến trường sinh bất TN 21-A114
Một trong những khao khát sâu thẳm của con người là được kéo dài sự sống đến trường sinh bất tử. Con người dường như luôn bị dằn vặt, trăn trở khi phải đối diện với sự già nua, suy thoái của thân xác. Vì thế, họ tìm kiếm linh dược để kéo dài sự sống của mình. Khao khát này được thể hiện qua việc chăm lo cho thân xác luôn được khỏe mạnh, được cường tráng. Tuy nhiên, quy luật của tự nhiên là sinh bệnh lão tử khiến con người vẫn già, vẫn bệnh, vẫn trở về cát bụi... Con người đâu hiểu được rằng điều quan trọng không phải là sống thọ hay không thọ, mà là sống như thế nào? Sống với mục đích gì? Điều đó nó mới làm nên giá trị chất lượng cuộc sống và làm nên sự bất tử cho con người.
Thánh Phê-rô sau thời gian dài đi bên Chúa, nhìn và nghe thấy biết bao điều kỳ diệu Chúa đã làm, ông đã khám phá ra phương thuốc trường sinh là chính Đức Giê-su - Đấng hằng sống. Ông đã mạnh dạn tuyên xưng: “Thầy là Đức Ky-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Qua đây Chúa đã khen ngợi Phê-rô vì ông đã được Thiên Chúa Cha mạc khải điều bí nhiệm của Nước Trời. “Này anh Simon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy Đấng ngự trên trời”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy xây dựng nền móng cho cuộc đời dựa trên lời Chúa và giáo lý của Ngài. Lời Chúa là ngọn đèn dẫn dắt chúng ta đi trong chân thiện mỹ. Lời Chúa luôn xây dựng đời chúng ta trong tình yêu là giới răn cao cả mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thực thi. Khi con người được xây dựng trên tình yêu với Chúa và tha nhân sẽ giúp con người biết sống cho Chúa và tha nhân trong tinh thần khiêm tốn phục vụ. Khiêm tốn để tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Phục vụ để cho danh Chúa được cả sáng qua đời sống yêu thương của chúng ta. Hãy đặt cuộc đời ta trên lời hằng sống. Hãy chọn Chúa là gia nghiệp. Hãy sống gắn bó với Chúa như cành liền cây để được sống sự sống trường sinh của Chúa.
Chọn Chúa hay đặt nền tảng cuộc đời trên Lời Chúa là biết nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho con người để rồi luôn biết quy phục Chúa, và tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Nhờ niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng hằng sống mà con người sẽ sống dưới cái nhìn của Chúa và bước đi trong sự dẫn dắt của Ngài.
Nhưng đáng tiếc cho con người ngày nay thường quay lưng lại với Thiên Chúa. Khước từ Chúa con người cũng khước từ nhau. Con người sống trong bản năng vì tin vào ma quỷ hơn là tin vào Thiên Chúa. Ma quỷ luôn bảo với chúng ta không có Thiên Chúa, không có đời sau để lôi kéo chúng ta sống một cuộc sống buông thả theo tính xác thịt. Ma quỷ luôn bảo chúng ta xây dựng đời mình một cách hời hợt, nông cạn, sống theo bản năng hơn là theo ý chí và lý trí. Chính đời sống thiếu chiều sâu đã làm cho con người dễ lao vào hưởng thụ hay dễ thất vọng chán nản nếu gặp thất bại.
Thế nên, vẫn còn đó những người chỉ lo hưởng thụ vật chất mà xa rời cội nguồn sự sống đời đời. Vẫn còn đó những người tham danh vọng mà đấu đá loại trừ lẫn nhau gây nên những bể dâu cho cuộc sống. Vẫn còn đó những người đặt cuộc sống trên đồng tiền mà đánh mất lương tri con người, sống lỗi công bình bác ái với nhau...
Ước gì chúng ta đừng vì lười biếng mà xây dựng đời mình một cách cẩu thả, hời hợt và thiếu đầu tư cho những giá trị Nước Trời là tình thương, là công lý và hòa bình. Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình dựa trên lời Chúa để thánh hóa bản thân và biến đổi thế gian. Amen.
-------------------------------
Bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu rút về vùng Caesarea Philippi và hỏi các môn đệ: "Người ta bảo Con TN 21-A115
Bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu rút về vùng Caesarea Philippi và hỏi các môn đệ: "Người ta bảo Con Người là ai?". Nếu hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Có lẽ chúng ta sẽ trả lời: Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, là Ngôi thứ hai của Ba Ngôi Thiên Chúa, là Chúa Chiên Lành, là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống... Những câu trả lời này có thể là của suy luận Thần học và Thánh Kinh, là những câu trong sách giáo lý mà chúng ta học thuộc lòng từ nhỏ nhưng chắc hẳn đó chưa phải là câu trả lời phát xuất từ đáy tâm hồn ta!
Đức Giêsu là một nhân vật lịch sử. Ngài đã đến trần gian, chết và sống lại hơn 2000 năm qua. Ngài vẫn là câu hỏi lớn đối với nhân loại. Ngài trở thành một nhân vật nổi tiếng trong các tác phẩm nghệ thuật, văn chương, kịch nghệ, thi ca, phim ảnh,... Không kể biết bao nhiêu trang giấy, bút mực, tác phẩm diễn tả về Đức Giêsu. Tuy nhiên đó chưa phải là Đức Giêsu đích thực của lịch sử, càng không phải là Đức Giêsu của lòng tin, của Tin Mừng. Có thể các nghệ nhân, các tác giả chỉ mượn dung mạo Ngài để thể hiện một tâm tình nào đó của họ mà thôi. Vì thế, cũng không lạ gì khi chúng ta nghe Phúc âm kể việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình, Ngài hỏi họ: "Người ta bảo Con Người là ai?". Các ông trả lời cho Chúa Giêsu biết: có những người đánh giá rất cao, họ coi Ngài như một ngôn sứ có tầm cỡ, như Gioan Tẩy giả, hay Êlia, Giêrêmia hay như một ngôn sứ nổi danh trong lịch sử Do Thái: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là Eâlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Riêng đối với các môn đệ thân tín bên Chúa Giêsu chắc hẳn các ông đã biết rõ Ngài hơn. Chúa Giêsu muốn họ xác định nhận thức của họ về Ngài. Ngài hỏi thẳng các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" . Simon Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Ở đây, Chúa Giêsu khẳng định lời tuyên xưng này là hiệu quả của ơn mạc khải "do Chúa Cha của Ngài" càng cho chúng ta có quyền nghĩ rằng Phêrô đã thấy được một số nét đặc biệt siêu phàm nơi con người Thầy Giêsu này. Chúa Giêsu còn mạc khải thêm cho Phêrô một điều khác quan trọng đối với bản thân của ông: " Này con là Đá, trên Tảnh Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy...Thầy trao cho con chìa khoá Nước Trời". Tiêu chuẩn mà Phêrô được chọn lựa, tín nhiệm và trao ban trách nhiệm không phải là sự trỗi vượt về tài năng cá nhân nhưng là lòng tin. Không phải một Phêrô yếu đuối nhưng là một Phêrô Đá Tảng, người có lòng tin mạnh liệt vào Chúa Giêsu Kitô.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng từng nghe Chúa Giêsu đã hỏi: "các con, các con bảo Thầy là ai?". Câu hỏi đó Chúa không ngừng đặt ra cho chúng ta và yêu cầu chúng ta sống đúng với đức tin của mình. Ai trong chúng ta cũng phải trả lời được Chúa Giêsu là ai? Là Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến trần gian để dạy bảo Tin Mừng, để cứu chuộc chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta, qua cuộc sống của mình, chúng ta cũng luôn là câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm đến đâu, dù bé nhỏ vô danh đến đâu, sự hiện diện của chúng ta vẫn luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh.
Ngày nay, chịu ảnh hưởng trong nền kinh tế thị trường, sống giữa một xã hội đầy giành giật, đầy bon chen, lấy tiền bạc làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô sẽ vẫn là một câu hỏi, nếu chúng ta sống trong tinh thần khó nghèo, chấp nhận thua thiệt, mất mát hơn là bán đứng lương tâm để chạy theo điều phi pháp thì chúng ta trở nên bất nhân, bất tín, bất nghĩa, bất lương tâm. Có một số người lấy hận thù, ăn miếng trả miếng làm luật sống, người Kitô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn yêu thương với mọi người, sẵn sàng tha thứ và theo Chúa cho đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi, thất vọng, người Kitô vẫn mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu trong lịch sử con người. Giữa xã hội mà sự thành thật với nhau đã trở thành một thứ xa xỉ phẩm, xa lạ thì người Kitô sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sống thành thật, sống tử tế với mọi người, ngay cả đối với chính kẻ thù của mình... Sống như thế quả là không dễ dàng chút nào. Nó là một đòi hỏi cam go, cần ta can đảm, hy sinh,..nhưng Chúa đòi chúng ta phải cố gắng sống được như thế nếu chúng ta muốn là một Kitô hữu đúng danh, nếu chúng ta muốn làm chứng cho Chúa.
Sống giây phút hiện tại là chúng ta đang cố gắng sống đẹp lòng Chúa, làm sáng danh Chúa, hay nói cách khác chúng ta đang trả lời về nguồn gốc của chúng ta ở nơi Thiên Chúa, chúng ta trả lời Chúa Giêsu Kitô là ai. Vì thế việc sống đạo của chúng ta, những người tin theo Chúa Kitô là phải chứng tỏ rằng Chúa Giêsu Kitô thật là Chúa cuộc đời chúng ta, ngay trong chính cách sống Tin Mừng yêu thương, phục vụ của Chúa Giêsu. Và như thế là chúng ta đang trả lời cho thiên hạ, cho anh chị em chúng ta đang sống trong xã hội biết rằng: Đức Giêsu Kitô là con Thiên Chúa làm người đang sống ở giữa chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết làm sáng danh Chúa ngay giữa dòng đời mình đang sống bằng việc sống đạo tốt đẹp để người ta nhận ra Đức Giêsu Kitô là Chúa và đang yêu thương mọi người. Amen.
-------------------------------
Vì yêu thương, Đức Giêsu đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại. Để TN 21-A116
Vì yêu thương, Đức Giêsu đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại. Để thực hiện sứ mạng đó, Ngài đã ở thế gian 33 năm: 30 năm sống ẩn dật, 3 năm đời sống công khai.
Trong 3 năm ngắn ngủi của đời sống công khai, Ngài đã đi khắp đó đây rao giảng Tin mừng. Đồng thời, để chuẩn bị cho việc thiết lập Giáo hội, Ngài đã chọn và huấn luyện nhóm mười hai. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã đặt Thánh Phêrô làm đầu mười hai Tông đồ, cũng chính là làm đầu Giáo hội mà Ngài sẽ thiết lập.
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta biết, sau khi hỏi dư luận quần chúng suy nghĩ như thế nào về Ngài, Đức Giêsu quay sang hỏi các Tông đồ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”(Mt 16,15). Thánh Phêrô đại diện cho các Tông đồ trả lời rằng: “Thầy là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16). Đức Giêsu khen ngợi câu trả lời của Phêrô. Đồng thời, Ngài nói với ông rằng: “Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16,18-19).
Đá là một vật thể cứng, bền, chắc…Đức Giêsu gọi Phêrô là Đá, và trên “viên đá” đó, Đức Giêsu muốn xây Hội thánh của Ngài, chứng tỏ Đức Giêsu xây dựng Hội thánh trên nền tảng vững chắc, đúng như lời Ngài khẳng định: “Dầu cửa địa ngục sẽ không thắng được”.
Chìa khóa biểu tượng cho quyền lực. Ai được trao chìa khóa thì người đó có quyền đóng mở và bảo quản những gì có trong đó. Bài đọc I cho chúng biết, khi trao quyền lực cho En-gia-kim, Thiên Chúa trao cho ông chìa khóa: “Ta sẽ để chìa khoá nhà Ða-vít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được” (Is 22,22). Cũng vậy, Thánh Phêrô được trao chìa khóa nước trời, nghĩa là Thánh Phêrô có quyền lãnh đạo dân Chúa, có quyền đóng mở và bảo quản kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Lời Chúa, các Bí tích. Ngoài ra, Ngài còn có quyền “trói và cởi”. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: Quyền “trói và cởi” là quyền tha thứ các tội lỗi, công bố những phán đoán về giáo lý và đưa ra những quyết định có tính kỷ luật trong Giáo hội (x. số 553).
Nhìn lại lịch sử Giáo hội suốt 2000 năm qua, chúng ta thấy lời hứa của Đức Giêsu với Phêrô đã trở thành hiện thực. Dẫu Giáo hội trải qua nhiều sóng gió nhưng Giáo hội vẫn luôn luôn đứng vững trên nền tảng của Thánh Phêrô: Thánh Phêrô và các đấng kế vị luôn đóng trọn vai trò “Đá tảng”, luôn chu toàn chức vụ “cầm chìa khóa nước trời” để “trói và cởi”. Nhờ đó, nhân loại đón nhận biết bao ơn lành từ Thiên Chúa qua Giáo hội.
Chúng ta cám tạ Chúa đã lập nên Giáo hội. Giáo hội trở thành mẹ của chúng ta trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Vì thế, bổn phận của chúng ta đối với Giáo Hội cũng tương tự như bổn phận của con cái đối với Cha Mẹ. Đó là chúng ta phải biết ơn, vâng lời và xây dựng Giáo hội.
Thứ nhất, chúng ta biết ơn Giáo hội, vì Giáo hội đã sinh ra chúng ta trong đức tin, nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời Chúa và các Bí tích. Trong bài huấn dụ với 100.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 10/9/2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày đề tài giáo lý “Giáo hội là mẹ”. Ngài cho biết, trong các hình ảnh mà Công Đồng Chung Vatican II đã chọn để giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của Giáo hội nghĩa là bản chất là “mẹ”: Giáo hội là mẹ chúng ta trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Ngài nói: Giáo hội “đồng hành với sự trưởng thành của chúng ta, bằng cách thông truyền Lời Chúa cho chúng ta, là ánh sáng chỉ con đường cuộc sống kitô cho chúng ta, và ban phát các bí tích. Giáo hội nuôi dưỡng chúng ta bằng bí tích Thánh Thế, đem lại ơn tha thứ cho chúng ta qua bí tích Sám Hối, nâng đỡ chúng ta trong lúc đau yếu với bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Giáo hội đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc sống đức tin.” (Nguồn: vi.radiovaticana.va). Vì vậy, chúng ta cần thể hiện lòng biết ơn bằng cách tôn kính và yêu mến Giáo hội.
Thứ hai, chúng ta phải vâng lời Giáo hội. Vâng lời Giáo hội là vâng lời Đức Thánh Cha, các Đức Giám mục, các linh mục và những người đại diện của Chúa ở trần gian này. Vâng lời trở thành một nhân đức như khi các thành phần trong Giáo hội vâng lời Đức Giáo Hoàng. Vâng lời còn trở thành luật buộc như khi các Giám Mục vâng phục Đức Giáo Hoàng, các linh mục vâng phục Giám mục Giáo phận của mình, các tu sĩ vâng phục Bề trên hợp pháp của cộng đoàn. Có nhiều mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong Giáo hội, đáng chú ý là mẫu gương vâng phục của Đức Tổng Giám Mục Fénelon, nước Pháp sau đây: Giám Mục Fénelon là Tổng Giám Mục danh tiếng của giáo phận Cambrai nước Pháp vào đầu thế kỷ XVIII. Ngài được mọi người thán phục và kính nể vì ngài đạo đức và thông thái. Ngài sáng tác cuốn sách thiêng liêng rất hay, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.” Ngày kia, khi sắp lên tòa giảng để giảng một bài quan trọng trước một cử toạ đông người đang thán phục, ngài được tin Đức Giáo Hoàng Inôsentê XII đã lên án cuốn sách của ngài và cấm lưu hành. Đến giờ giảng, ngài vẫn bình tĩnh bước lên tòa giảng, nhưng không phải để giảng bài ngài dọn, mà để giảng một bài về sự tuân phục đối với Giáo-Hội. Ngài nói: “Đức Thánh Cha đã lên án cuốn sách của cha. Cha xin hoàn toàn tuân phục quyền bính Giáo Hội cho đến chết để làm gương cho anh em.” Và để tỏ lòng tuân phục công khai một cách khiêm nhượng, ngài cho khắc cảnh thiên thần đang dày đạp dưới đất những tác phẩm bị Giáo Hội lên án, trong đó có cuốn sách của ngài, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.” (Trích bài gợi ý của Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang).
Thứ ba, chúng ta phải có tinh thần xây dựng Giáo Hội cả về tinh thần lẫn vật chất. Thánh Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội đã cho biết: “Nhờ khả năng chuyên môn và uy tín của họ (Giáo dân), họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ của mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo hội… nhưng luôn với lòng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài” (Ibid., no. 37). Thật vậy, Giáo hội cần những lời góp ý chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến từ phía giáo dân đối với các đấng bậc trong Giáo hội, nhằm mục đích xây dựng và bảo vệ Giáo hội. Đừng bao giờ chỉ trích, lên án hay nói xấu Giáo hội. Còn về vật chất, điều răn Thứ Năm của Hội thánh nhắc nhở mọi tín hữu cần phải chu toàn nhiệm vụ đóng góp công của để xây dựng Giáo hội. Ngoài ra, các tín hữu cũng có thể đóng góp thêm tùy theo khả năng của mình để xây dựng Giáo xứ, Giáo phận, và Giáo hội ngày một thêm lớn mạnh và bền vững hơn.
Lạy Đức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã lập nên Giáo hội để sinh ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng con. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu mến, vâng lời và đóng góp tinh thần và vật chất để xây dựng Giáo hội. Amen.
------------------------------------------
CHÚA NHẬT XXI QUANH NĂM
Mt 16,13-20
"Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi."(Mt 16,18)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất đặc biệt trong Tin Mừng thánh Máthêo. Trong bài TN 21-A117
1. Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất đặc biệt trong Tin Mừng thánh Máthêo. Trong bài Tin Mừng này chúng ta được chứng kiến một việc hết sức quan trọng Chúa Giêsu đã làm cho mọi người đang sống trên mặt đất này.
Chúa làm gì chúng con?
- Thưa Chúa thiết lập Giáo Hội. Chúa xây dựng Giáo Hội của Chúa để Giáo Hội trở thành một toà nhà vững chắc, nơi Chúa chăm sóc, gìn giữ cũng như nuôi dưỡng chúng ta trên đường về quê trời.
Bằng những lời rất rõ ràng và vắn gọn, Chúa đã làm một việc không ai dám ngờ . Chúa long trọng nói với tông đồ Phêrô những lời quả quyết như thế này: "Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy (Mt 16, 18).
Chúa xây dựng Hội Thánh của Chúa trên đá tảng Phêrô. Xây trên đá có nghĩa là xây trên một nền tảng vững chắc, vững chắn đến mức độ sức mạnh của hoả ngục cũng không thắng nổi. "trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.(Mt 16,18)
Chúng con hãy nhìn lại một chút. Cha hỏi chúng con Giáo Hội của Chúa đã có từ bao nhiêu năm nay chúng con?
- Thưa cha: Hơn hai ngàn năm.
Hơn hai ngàn năm với biết bao nhiêu thăng trầm thay đổi. Vậy mà Giáo Hội ngày hôm nay vẫn vững vàng như lời Chúa hứa.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Cách đây không lâu lắm, vào hồi thế chiến lấn thứ hai. Chúng con biết thế chiến thứ hai xảy ra bắt đấu từ Âu châu, sau đó mới lan dần qua Á châu của chúng ta.
Hồi đó, Thủ tướng Bismark, một nhà độc tài của nước Đức, đã gây rất nhiều khó khăn cho Giáo hội Công giáo Đức vì Giáo hội này đã phản đối đường lối độc tài phát xít của ông ta. Ông thủ tướng này đã đe doạ tiêu điệt Giáo Hội.
Trong những tháng ngày đen tối ấy, giáo dân Đức đã có sáng kiến rất hay. Họ đã cho vẽ một bức tranh. Bức tranh vẽ một người khổng lồ đang hì hục toát mồ hôi để vần một tảng đá thật to xuống biển. Bên cạnh đó, quỷ Satan đang ngồi nhe răng nhìn và cười nham nhở nói:
- Tao đã vất vả suốt gần 20 thế kỷ nay mà vẫn chưa làm được, còn mày là ai mà dám cả gan làm chuyện đó.
Sau khi vẽ và cho in ra thành thật nhiều bản, những người Công giáo Đức đã cho treo lên trong tất cả các gia đình Công Giáo lúc đó.
Nhìn bức hoạ đó, Bismark biết là những người Công giáo muốn ám chỉ về mình nên ông ta vô cùng tức giận, nhưng không biết làm thế nào. Cuối cùng, sau cuộc đấu tranh văn hóa nhằm chống lại các tôn giáo của ông thất bại. Rồi chúng con biết những gì xãy ra sau đó không?
Bismark cũng đã phải chết như bất cứ một người nào khác còn Giáo Hội của Chúa tiếp tục tồn tại và vươn lên đúng như lời Chúa đã nói: quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.(Mt 16,18).
Chúng con hãy tin tưởng vào Chúa.
2. Điều kế tiếp cha muốn hỏi chúng con: Chúa muốn mỗi người chúng ta phải có thái độ nào khi chúng ta được ở trong Giáo Hội của Chúa? Có nhiều thái độ nhưng cha tưởng hai thái độ này là hay nhất: Yêu mến và xây dựng Giáo Hội.
a. Hãy yêu mến Giáo Hội.
Trong một bữa cơm thân mật có người hỏi Đức ông Pelgallo:
- Đức ông là người thân cận Đức Thánh Cha vậy có điều gì nơi Đức Thánh Cha đánh động đức ông hơn cả?
- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị giáo hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm tôi cảm kích hơn cả nơi Ngài là lòng hy sinh vì yêu Hội Thánh. Mỗi khi hòa mình với đám đông ở Roma, ở Manila chẳng hạn, hầu như Ngài quên tất cả, Ngài để cho mọi người lôi kéo. Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ Ngài, phải lắm phen cực nhọc... Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với Ngài:
- Thưa Đức Thánh cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá, với muôn nghìn lo âu, thức khuya dậy sớm. Lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi kéo như thế: chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh Cha gìn giữ sức khỏe cho”.
Nhưng mỗi lần như thế, Ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng: “tất cả vì Hội Thánh, vì Hội Thánh”. Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của Ngài, chúng tôi phải vươn lên theo Ngài, không thể bỏ Ngài, và càng cảm phục kính mến Ngài hơn nữa.
b. Xây dựng Hội thánh.
Chúng con xây dựng Hội thánh bắng cách nào?
Chúng con còn nhỏ. Chúng con chưa thể là được những việc như người lớn. Nhưng không phải vì thế mà chúng con không thể làm gì để xây dựng Hội thánh. Chúng con hãy nghe câu chuyện này: Hôm đó nhân ngày Đức Giám mục giáo phận đến cung cung hiến cho một nhà thờ mới được xâ cất xong, Ngài ngỏ lời cám ơn Cha quản xứ, và đích danh cám ơn những người đã góp công góp của vào công trình xây dựng này. Ngài vừa dứt lời thì một bé gái đứng gần đó đứng dậy:
- Thưa Đức Cha, con cũng có góp phần vào việc xây dựng nhà thờ này. Đức Giám mục nhìn về phía em và dịu dàng hỏi:
- Con đã làm gì?
- Thưa mỗi buổi trưa, con đem cơm đến cho ba con ăn để ba con xây nhà thờ.
Đức Giám mục và mọi người hiện diện vỗ tay hoan hô em. Mọi người nhìn nhận lòng đơn sơ và sự góp phần của em vào công việc chung, mặc dầu đó chỉ là phần nhỏ bé, nhưng rất xứng hợp với khả năng của em.
Đó chúng con thấy. Công việc có vẻ nhỏ nhưng mọi người đều cảm động. Em bé không thể làm được những công việc như những người lớn, nhưng em đã biết xây dựng Hội thánh bằng những việc hết sức cụ thể phù hợp với khả năng của em.
Chúng con hãy bắt chước em bé trong câu chuyện này.
Chẳng thiếu gì những việc chúng con có thể làm. Thí dụ như chúng con đi thờ đi lễ thật đúng giờ. Vào nhà thờ chúng con giữ thái độ thật nghiêm trang.
Đây là câu chuyện xảy ra trong cuộc đời. Một bà mẹ kia một hôm đến tâm sự với cha. Bà nói rằng:
- Con mừng quá cha ạ.
Cha hỏi bà có gì mà con mừng thế?
Bà trả lời:
- Chồng con đi lễ không ngồi ngoài nhà thờ nữa. Anh đã biết vào trong nhà thờ cha ạ. Cha có biết tại sao không? Tại vì anh ấy thấy hai đứa con của con đi tham dự thánh lễ rất nghiêm chỉnh và sốt sắng. Anh ấy cảm thấy mình không thể thua con của mình. Chính vì thế mà anh ấy đã phải thay đổi để cho các con của con khỏi mắc cờ vì bố nó.
Đó chúng con thấy một việc rất nhỏ thôi nhưng đó là những việc chúng con có thể làm để xây dựng Hội thánh Chúa.
Cha chúc chúng con làm được những việc như thế. Amen.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
------------------------------------------
Trích từ sách "Tìm hiểu Tin Mừng Matthêu"của Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Trong phần Nhập đề (1-2) Mt đã giới thiệu mầu nhiệm Đức Giêsu. - Trong phần I (3-16) Mt trình bày TN 21-A118
- Trong phần Nhập đề (1-2) Mt đã giới thiệu mầu nhiệm Đức Giêsu.
- Trong phần I (3-16) Mt trình bày Đức Giêsu công bố Nước Trời và chuẩn bị GH. Ở cuối phần I này (tổng thể 3: các chương 13,1-16,12) Mt đã nêu lên ý tưởng là phải chọn lựa dứt khoát có gia nhập Nước Trời hay là không, và cho thấy có một một nhóm người đã chọn gia nhập Nước Trời và Đức Giêsu đã từng bước huấn luyện đức tin cho nhóm người này.
- Qua phần II (các chương 17-28) Mt sẽ trình bày GH như là bước đầu thực hiện cụ thể Nước Trời ấy.
- Nhưng trước khi trình bày GH đó, Mt thuật một câu chuyện trong đó Đức Giêsu quyết định “xây GH” (16,18). Đó là câu chuyện chúng ta sẽ học trong bài “chuyển tiếp này”.
1. Giải thích bản văn
c 13 “Bấy giờ Người hỏi các môn đồ”: Đây là lần đầu tiên trong Mt Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân của Ngài, và như thế tạo dịp cho Phêrô long trọng tuyên xưng tư cách Messia của Ngài. Câu hỏi này chính là cái bản lề quan trọng đánh dấu một bước ngoặc trong cách trình bày của Mt: trước đó đối tượng chính là Nước Trời, còn từ đây đối tượng chính sẽ là bản thân của Đấng Messia phải chịu khổ, chịu đóng đinh và chịu chết.
c 14 Câu trả lời của các môn đệ cho thấy những cảm nghĩ khác nhau của quần chúng về bản thân Đức Giêsu:
- Gioan Tẩy Giả: Đây là cảm nghĩ của đám quần thần quanh Hêrôđê (x. 14,2).
- Êlia: Nhiều người khác nhớ lời ngôn sứ Malakhi (Ml 4,5) nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiền hô cho Đấng Messia sẽ đến.
- Gêrêmia: đây là điểm khác biệt giữa Mt với Mc và Lc là hai quyển Tin Mừng không nói tới tên Giêrêmia trong câu chuyện này (so sánh với Mc 8,28 và Lc 9,19). Hẳn khi ghi thêm tên vị ngôn sứ mang thân phận bị bắt bớ khổ đau, Mt một lần nữa nhấn mạnh Đức Giêsu là Người Tôi Tớ mà Is 42 đã tiên báo. Mt gợi ý rằng ngay trong quần chúng cũng có người đã nhận ra được điểm này. Tuy nhiên cả 3 nguồn dư luận trên đều chung nhau ở chỗ đều nghĩ Đức Giêsu là một ngôn sứ kiểu nào đó, nghĩa là dư luận chưa hiểu được đúng bản chất của Đức Giêsu. Ngài không phải là ngôn sứ theo nghĩa thông thường bởi vì ngôn sứ thì “từ dưới” (Ga 3,31) còn Ngài thì “từ trên” mà xuống; các ngôn sứ còn phải làm chững về Ngài (Cv 3,18). Trong quần chúng chẳng ai thấy được Ngài chính là Con Thiên Chúa hằng sống.
c 16 Điều mà quần chúng không thấy thì Phêrô thấy và tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng các nhà chú giải không nhất trí với nhau về ý nghĩa câu tuyên xưng này. Giả thuyết thứ nhất bảo Phêrô chỉ có ý tuyên xưng Đức Giêsu là Messia thế thôi. Giả thuyết thứ hai bảo Phêrô tuyên xưng chính thiên tính của Đức Giêsu. Giả thuyết nào cũng có nhiều lý do rất giá trị. Có lẽ ta nên theo giải thuyết thứ ba: Đối với Phêrô, ông cũng nghĩ Đức Giêsu là Messia, những cũng có một cái gì đó cao siêu hơn tuy ông chưa hiểu rõ nét cao siêu ấy là gì; về sau GH đã đọc lại câu tuyên xưng ấy và GH gán cho nó ý nghĩa trọn vẹn đầy đủ về thiên tính của Đức Giêsu.
c 17 Lời tuyên xưng của Phêrô rõ rang khác với các nguồn dư luận của quần chúng. Đức Giêsu cho rằng Phêrô tuyên xưng được như vậy là do mặc khải đặc biệt của Cha.
c 18 Lời tuyên xưng của Phêrô với tư cách đại diện cho các môn đệ đã khiến Đức Giêsu nhận định rằng nhóm 12 này chính là Phần Dư Tồn mà các ngôn sứ đã tiên báo. Do đó Ngài quyết định thành lập GH của mình trên cơ sở của phần Dư Tồn này.
- Con là Đá: Nguyên ngữ Aram là képha có nghĩa là đá tảng chứ không phải là một viên đá vừa nhỏ vừa rời rạc có thể khiến đi đây đi đó.
- Trong Thánh Kinh, đổi tên tức là tạo một liên hệ mới hẳn giữa người đổi tên và người được đổi tên (x. St 17,5.15 35,10; Ds 13,16; 2V 23,34 24,17)
- Ta sẽ xây: Thì vị lai hình như nói tới thời kỳ sau khi Đức Giêsu chết và sống lại xong.
- cửa âm ti: Âm ty tiếng hy lạp là Hades, tiếng hy bá lai là Sheol là nơi tạm giữnhững kẻ chết cho tới ngày sống lại chứ không thể giữ họ lại mãi mãi được (Is 38,10; G 38,17; Tv 9,14; Kn 16,13).
c 19 Câu này rất quan trọng, ta sẽ bàn riêng ở phần dưới.
c 20 Lý do Đức Giêsu không cho môn đệ nói cho ai biết Ngài là Kitô là Đức Giêsu sợ cơn sốt nhiệt tình của quần chúng sẽ làm hỏng kế hoạch của Ngài, theo đó Ngài sẽ chỉ “lên ngôi” Messia sau khi đã chết và sống lại.
3. Tối thượng quyền của Phêrô
- Các giáo hội không công giáo (Chính Thống, Tin Lành) vì không nhìn nhận tối thượng quyền của Phêrô (và qua sự kế vị, là của các Giáo Hoàng) nên luôn tìm cách giải thích câu 19 này theo nghĩa hẹp. Theo họ, quyền chìa khóa Đức Giêsu chỉ ban riêng cho cá nhân ông Phêrô thôi, sau khi Phêrô chết thì mọi Giám mục cũng đều ngang quyền nhau vì cũng đều là kế vị tông đồ như nhau thôi.
- Nhưng GH Công giáo giải thích khác hơn:
* Quyền chìa khóa này đành rằng được ban cho Phêrô, nhưng trong tương quan với GH mà Đức Giêsu sẽ lập (c 19 có tương quan với c 18)
* Quyền này sẽ không mai một đi, vì “Cửa âm ti” (cửa sự chết) không làm hại nó được, cũng như cửa thần chết chẳng làm hại được sự trường tồn của GH.
Vì những lý do đó, GH Công giáo tin rằng Tối thượng quyền của Phêrô cũng được truyền lại cho những Giáo Hoàng kế vị Phêrô.
4. Kết luận
Qua đại diện Phêrô, các môn đệ đã nhận ra Đức Giêsu là một Messia siêu việt mà các ngôn sứ Cựu Ước đã tiên báo. Nhận định này khiến các ông tách khỏi đám người do thái cứng long tin và khiến Đức Giêsu nhận ra rằng các ông chính là phần Dư tồn là cư tiên báo. Do đó Đức Giêsu quyết định thành lập GH của Ngài trên cơ sở phần Dư tồn này và Ngài trao Tối thượng quyền cho Phêrô với tư cách là người lãnh đạo của GH.
------------------------------------------
“Thầy là Đức Giêsu Kitô” (Mt. 13,16-19)
Lời tuyên tín của Thánh Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không thuộc phạm trù TN 21-A119
Lời tuyên tín của Thánh Phêrô “Thầy l
à Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không thuộc phạm trù “sự hiểu biết thuộc về con người”. Và vì thế, để hiểu được tất cả ý nhĩa của lời tuyên tín,một sự hiểu biết vượt qúa trí khôn và cảm nhận của con người ,qủa không đơn gỉan,“ vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.
1.Danh hiệu “Giêsu Kitô” của Chúa bao gồm cả ý niệm thiên tính lẫn thân phận con người của Ngài. “Ngài đi lên Giêrusalem,phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão,luật sĩ và thượng tế; và phải bị giết rồi ngày thứ ba thì sống lại”. Xem chừng như các môn đệ và cả Phêrô không thể hiểu thấu,“không thể nuốt nổi” tất cả ý niệm về chính nhân thân của Thầy Mình, mặc dầu trước đó ông đã mạnh dạn thay mặt anh em để tuyên tín. Với các ông, Thầy là người có đủ quyền lực trên các thần ô uế, là con người có thể làm bất cứ điều gì mà Thầy muốn, ngay cả làm cho kẻ chết sống lại.Thầy của các ông là người “đầy uy tín, uy quyền, là Con Thiên Chúa” chứ các ông không thể chấp nhận một hình ảnh, một ý niệm khác là:Thầy sẽ “bị đóng đinh, bị giết chết” hay mang thân phận “ của kẻ thua cuộc !”.
2.“Con Người sẽ phải qua đau khổ mới đến được vinh quang” Con đường thập gía, con đường “tự hủy đi” là con đường mà Thiên Chúa đã chọn để cứu chuộc con người.Con Thiên Chúa sẽ phải “chịu thua” trước thế lực của trần gian.Chính trong cái yếu đuối “phải bị giết”,chết một cách trần trụi trên thập gía như một tử tội; quyền năng chiến thắng tử thần của Ngài mới thực sự được tỏ hiện. Từ trong cái yếu hèn nhất, tầm thường và tuyệt vọng nhất,Thiên Chúa đã trở thành một “Giêsu Kitô” đúng nghĩa và vinh quang nhất. Con đường của thập gía không còn là con đường của ô nhục, thất bại, nhưng là con đường của sự sống, của chiến thắng: “Hạt lúa có thối đi thì mới sinh nhiều bông hạt”. Và đó là con đường độc đạo mà Con Thiên Chúa đã chọn lựa để cứu độ con người.
3.“Bạn nghĩ gì ?Và Ngài là ai đối với mỗi chúng ta ?” Câu hỏi được đặt ra không riêng cho các môn đệ ngày xưa, mà với từng người chúng ta hôm nay.Câu hỏi vẫn đang chờ đợi câu trả lời để nói lên niềm tin xác tín của tất cả chúng ta.Qủa thực,hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa thật khác xa với hiểu biết thuộc về con người.Cũng chính vì thế, để hiểu và sống theo Đức Kitô, chúng ta, mỗi người, cũng phải biết khép mình đi theo quỹ đạo, sự hiểu biết và cảm nhận của chính Ngài về sứ mạng cứu độ và sự dấn thân hòan tòan theo cách sống của Ngài.Muốn thuộc về Chúa, chúng ta phải đi lại con đường thập gía của Chúa và không chẳng còn cách nào khác cho tất cả chúng ta. Điều quan trọng đối với chúng ta là tự đưa ra câu trả lời của mình,một câu trả lời vừa có khả năng tuyên xưng niềm tin và nhưng đồng thời cũng tỏ ra cái giá trị cao quý và cần thiết của một niềm tin Kitô hữu. Sẽ chưa đủ nếu chúng ta chỉ biết lặp lại những lời tuyên tín của Phêrô,nhưng lời đáp trả tự mỗi người phải làm thành đức tin của chính mình. Một đức tin mua bằng một giá rẻ mãi mãi vẫn chỉ là một đức tin nghèo nàn.Thánh Gioan đã quả quyết “Căn cứ vào điều này mà chúng ta biết được mình ở trong Thiên Chúa là phải đi trên con đường Đức Kitô đã đi” (1,Ga 2,3-6).
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con tin thác vào Chúa như Phêrô và các môn đệ ngày xưa,mặc dầu sự tin tưởng của chúng con cũng chỉ là sự lập lại một cách máy móc câu tuyên tín của Thánh Phêrô ngày xưa. Xin Chúa giúp chúng con ngày càng tin tưởng và can đảm bước theo con đường thập gía mà Chúa đã đi, bởi đó là con “đường độc đạo” là con “đường thật” dẫn đến sự sống. Lạy Chúa, xin hãy củng cố niềm tin cho chúng con ,để mãi mãi chúng con thuộc về Chúa.Amen.
Lm. Gioan B.Phan kế Sự
------------------------------------------
GIÁO HỘI CỦA CHÚA KITÔ VÀ ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
Từ ngày được Chúa Giêsu thành lập đến nay, Giáo Hội không ngừng bị ma quỷ và thế gian tấn công. TN 21-A120
Từ ngày được Chúa Giêsu thành lập đến nay, Giáo Hội không ngừng bị ma quỷ và thế gian tấn công. Dường như những năm gần đây, sự tấn công của ma quỷ và thế gian nhắm vào Giáo Hội ngày càng nhiều hơn, mạnh hơn và thâm độc hơn. Nếu chỉ là một tổ chức giống như các tổ chức chính trị của trần gian, thì Giáo Hội đã tan vỡ trước sự tấn công đó, nhưng trải qua hơn hai ngàn năm, Giáo Hội vẫn đứng vững và còn trường tồn cho đến ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: Cho dù quyền lực của ma quỷ có dấy lên cũng không thắng được Giáo Hội.
Có thể nói, Lời Chúa Hôm nay cho thấy ý định từ muôn thuở của Thiên Chúa đã muốn thiết lập nên một dân mới và đặt một người làm thủ lãnh chăm lo cho đoàn dân. Đức Giêsu là Đấng đã thực hiện ý định này, đã thiết lập nên Giáo Hội và đặt Simon Phêrô làm nền tảng của Giáo Hội.
Tiên tri Isaia đã nhân danh Chúa để nói lên lời tiên báo: sẽ đến ngày Thiên Chúa thực hiện việc thay đổi kẻ lãnh đạo Israel, Ngài sẽ truất phế kẻ bất xứng và trao vương quyền vào tay kẻ xứng đáng hơn. Nhưng xa hơn trong lời tiên báo này, Thiên Chúa còn nói đến việc Thiên Chúa sẽ tuyển chọn từ nhà Duđa một thủ lãnh chăn nuôi Israel. Thiên Chúa sẽ trao quyền bính vào tay người ấy: Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đavít lên vai nó, nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở ra được. Ta sẽ làm cho nó trở nên vững chắc như đinh đóng cột. Đấng sẽ được Thiên Chúa tuyển chọn và đặt lên làm thủ lãnh Israel không chỉ là một vị vua cai trị, mà Ngài còn cư xử với Giuda và Giêsrusalem như người cha cư xử với con cái. Như thế, vị thủ lãnh mà Thiên Chúa muốn đặt lên thực sự là một người lãnh đạo đồng thời cũng là một người cha.
Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa sai đến để làm thủ lĩnh, là người dẫn dắt nhân loại đi theo đường lối của Thiên Chúa; Ngài yêu nhân loai bằng trái tim của một mục tử tốt lành, một người cha nhân hậu. Khởi đầu sứ mạng công khai, Chúa Giêsu đồng thời quy tụ một dân mới bắt đầu từ mười hai chàng trai sau này được gọi là các tông đồ. Những người này được mời gọi và họ đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự để bước theo thầy Giêsu, sống với Ngài, nghe Ngài giảng dạy, thấy những việc Ngài làm và họ được mời gọi phải sống và hành động giống như Chúa Giêsu. Họ cũng được huấn luyện, uốn nắn để trở nên những con người có trái tim chạnh thương, quảng đại, sẵn sàng phục vụ và yêu thương những người Chúa trao như yêu thương và phục vụ chính Chúa.
Sau một thời gian huấn luyện, hôm nay Chúa Giêsu và các tông đồ đến miền Cesarea Philipphê, nơi đây chỉ có thầy trò với nhau. Trong bầu khí riêng biệt này Chúa Giêsu công khai đặt vấn đề với các tông đồ về nhận thức và đức tin của các ông. Chúa Giêsu bắt đầu bằng mặt câu hỏi thăm dò: Dân chúng bảo Thầy là ai? Các câu trả lời cho thấy, dân chúng dường như chưa tin Chúa Giêsu, họ chỉ cho rằng Chúa Giêsu giống như một trong các ngôn sứ nổi tiếng trong Cựu Ước mà thôi. Điều Chúa quan tâm hơn, đó là thái độ và đức tin của các học trò của mình. Chúa hỏi các ông: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu chuyện cho thấy, vai trò là người anh cả trong anh em được nhấn mạnh nơi Simon Phêrô. Ông đã đại diện cho anh em để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Câu trả lời được Chúa Giêsu khen là chính xác và còn chúc phúc cho ông. Khi tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô, có nghĩa Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn và xức dầu, tức là Đấng cứu thế mà người Do Thái mong đợi và gọi là Đấng Mêsia. Phần tiếp theo của lời tuyên xưng của Phêrô: Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống. Khi tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống, tức là Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là chính Thiên Chúa, là Con Đấng mà dân Do Thái tôn thờ tên Ngài được mạc khai là Yavê, là Đức Chúa. Chúa biết rõ Phêrô, với khả năng giới hạn, chưa thể hiểu và chưa thể tuyên xưng chính xác như thế, nhưng do Thiên Chúa đã yêu thương mạc khải cho Phêrô biết như vậy.
Chúa Giêsu cũng biết nhiều giới hạn khác của Phêrô, nhiều lần với tính bộc trực, ông còn bị Chúa Giêsu khiển trách, nhưng Chúa cũng biết Phêrô có một thái độ khiêm tốn, chân thành và nhất là ông có một tình yêu đặc biệt dành cho Chúa. Vì thế, không đòi điều kiện gì khác hơn, Chúa Giêsu đã quyết định trao cho Phêrô một trọng trách, trở thành nền tảng và là thủ lãnh Giáo Hội của Chúa: Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất anh ràng buộc điều gì trên trời cũng sẽ ràng buộc; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi.
Theo cái nhìn của trần gian, đây quả là một quyết định hết sức “táo bạo” của Chúa Giêsu. Việc thiết lập Giáo Hội là một chương trình lớn lao của Thiên Chúa, là sự nghiệp của Chúa Giêsu, vậy mà giờ đây, Chúa đã trao tất cả sự nghiệp ấy cho Phêrô. Phêrô – một con người hết sức giới hạn tầm thường, không có khả năng gì đặc biệt, ngòai một một đức tin kiên vững và lòng yêu mến đặc biệt dành cho Chúa. Trao Giáo Hội cho một con người tầm thường như thế, để cho thấy rằng, việc thành bại, phát triển hay dừng lại không phải do khả năng của Phêrô nhưng hoàn toàn do ý muốn của Thiên Chúa.
Nếu nhìn theo cái nhìn của nhân loại, việc Chúa thiết lập Giáo Hội và trao cho Phêrô quyền cầm buộc và tháo cởi, quyền làm thủ lãnh, quả là có nhiều rủi ro cho Giáo hội, nhưng đó lại là chương trình và ý định của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế trong thư Roma: Sự giàu có, khôn ngoan thông suốt của Thiên Chúa thì vô cùng sâu thẳm. Quyết định của Chúa không ai dò thấu, đường lối của Người không ai theo dõi được.
Thưa quý OBACE, chúng ta tin vào lời hứa của Chúa Giêsu sẽ bảo vệ Giáo Hội trước sự tấn công của thế gian và ma quỷ, nhưng chúng ta vẫn phải cảnh giác trước những nguy cơ đang đe dọa Giáo hội bởi ma quỷ và thế gian này tạo nên. Các tổ chức xã hội trần gian đang tìm cách hạ uy tín của Giáo Hội, hoặc chính đời sống bê bối của nhiều thành phần trong Giáo Hội đang làm cho hình ảnh Giáo Hội bị méo mó, lem luốc. Lối sống dễ dãi chạy theo vật chất và quyền lực thế gian cũng đang là một cám dỗ và là một nguy cơ làm tổn thương sự Thánh Thiện của Giáo Hội. Các con cái trong Giáo hội do ảnh hưởng bởi sự tự do, dân chủ sai lạc theo kiểu người đời, đang làm tổn hại đến sự Hiệp Thông Duy Nhất của Giáo Hội, biến Giáo Hội trở thành như một tổ chức dân sự hoặc chính trị.
Sự chống phá Giáo Hội không chỉ đến từ bên ngoài, mà còn đến từ bên trong, từ chính con cái của Giáo Hội. Những người này từ chối quyền thủ lãnh của Phêrô và các Đấng kế vị, họ muốn tạo nên một thứ Giáo Hội của riêng mình hoặc là một Giáo Hội dưới quyền kiểm soát của các thế lực chính trị, chính quyền, không còn phải là Giáo Hội của Chúa Kitô được trao cho Phêrô nữa.
Là thành viên của Giáo Hội, Chúng ta tuyên xưng Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, xin cho mỗi chúng ta luôn biết yêu mến xây dựng Giáo Hội, hết lòng vâng phục các vị lãnh đạo Chúa đã chọn và góp phần xây dựng Giáo Hội bằng chính đời sống đức tin, tuân theo giáo huấn của Giáo Hội và góp phần một cách cụ thể vào việc xây dựng và bảo vệ Giáo Hội. Amen.
------------------------------------------
Thình thoảng chúng ta gặp những người có phản ứng thái quá, thậm chí khinh thường Lề luật mà TN 21-A121
Thình thoảng chúng ta gặp những người có phản ứng thái quá, thậm chí khinh thường Lề luật mà truyền thống để lại và thay vào đó một kiểu diễn tả tâm tình tôn giáo ngẩu hứng của mình. Tin mừng của Chúa Giê su Ki tô là một Hồng ân, đó là một món quà mà chúng ta là những người nhận lãnh. Thế nên chúng ta không thể sửa đổi cho hợp với ý của mình. Là người Ki tô hữu tức là chấp nhận những điểm qui chiếu do chính Đức Ki tô ấn định.
Sách Tiên tri Is 22, 19-23
Chúng ta đang ở cuối thế kỉ thứ 8 trước Công Nguyên. Một viên chức âm mưu lôi kéo toàn đất nước vào một cuộc chiến tranh chống lại Assiri. Tiên tri Isaia lên án những thủ đoạn đó vì nó cho thấy thiếu lòng tin vào Thiên Chúa.
Thánh Vịnh 137
Lời ca tụng Thiên Chúa đã ban cho tôi tớ của Người can đảm và sức mạnh. Người đã quan tâm đến những kẻ khiêm nhu và triệt hạ nhũng kẻ kiêu căng. Xin Người hãy tiếp tục phù trợ con cái Người.
Thư gửi Rm 11, 33-36
Sau khi đã cho thấy đâu là cuộc sống của người tín hữu đầy tràn Thánh Thần, thánh Phao lô đã suy niệm về số phận của dân Ít-ra-ên. Ngài tin tưởng rằng một ngày kia, dân của Ngài cuối cùng sẽ tìm được chỗ đứng trong Giáo Hội của Thiên Chúa. Rồi ngài kết thúc suy tư của mình bằng một lời ca tung Chúa. Ngài tiếp nhận với lòng biết ơn chương trình cứu độ của Người mà Ngài tỏ lòng bái phục.
Mt 16: 13-20
NGỮ CẢNH
Với đoạn nầy chúng ta đi vào phần trung tâm Tin mừng Mt. Lần đầu tiên Chúa Giê su hỏi ý kiến các môn đệ về bản thân Ngài (16,13-20) ; và cũng là lần đầu tiên Chúa Giê su loan báo cuộc thương khó Ngài sẽ phải chịu (16,21-23). Từ đây Chúa Giê su lìa bỏ miền Galilê để lên đường đi về Giêrusalem, và dành thời giờ chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận cuộc Khổ nạn của Ngài (16l, 24-28).
Có thể đọc bản văn theo bố cục sau đây:
1. Câu hỏi về chân tính Chúa Giê su và lời tuyên tín của Phê rô (16, 13-16)
2. Tuyên bố về tư cách Phê rô (16, 18-19)
3. Lệnh cấm nói về chân tính của Ngài (16, 20)
TÌM HIỂU
Các ông thưa: ‘Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Êlia: Câu trả lời của các môn đệ cho thấy có nhiều ý kiến khác nhau về Chúa Giê su, nhưng tất cả đều không tách rời lịch sử Israel: các câu trả lời cho thấy họ đều tin rằng Ngài rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa đến để hoàn tất những lần can thiệp của Người trong lịch sử
Thầy là ai: Chúa Giê su hỏi ý kiến các môn đệ về sứ mạng lịch sử của Ngài đối với Thiên Chúa và dân Ngài, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ khẳng định. Điều Ngài sẽ thực hiện ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại sẽ cho biết Ngài là ai.
Con Thiên Chúa hằng sống: Chỉ có Mt mới thêm chi tiết nầy vào câu trả lời của Phêrô và đã khiến cho người ta có nhiều ý kiến về nó. Một số người xem đây là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giê su: Chúa Giê su chính là Thiên Chúa. Một số khác thì nghĩ rằng kiểu nói ấy chỉ có nghĩa: “Ngài là đấng Messia” mà thôi. Mỗi ý kiến đều có đủ lý chứng hỗ trợ. Có lẽ lúc đầu kiểu nói ấy chỉ thuần tuý có ý nghĩa thiên sai (= đấng Messia); nhưng sau đó được đọc lại dưới ánh sáng phục sinh và mặc lấy đầy đủ ý nghĩa thần tính.
Không phải phàm nhân: dịch sát là “thịt và máu”. Đây là kiểu nói Hip pri để chỉ các yếu tố tiêu biểu hình thành con người.
Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thành của Thầy: Cách chơi chữ nầy cho thấy tính sáng tạo của Chúa Giê su. Trước Ngài, chúng ta không hề gặp một thí dụ tương tự nào như thế cả. Trong tiếng Aram, Kêphas là tảng đá. Biệt danh nầy sẽ mãi mãi gắn liền với Simon như tên riêng của ông. Cộng đoàn tiên khởi biết đến ông dưới cái tên Kêphas (1Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14). Đổi tên như thế là chuyện thường tình trong CƯ cho thấy mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và người được đổi tên, đồng thời còn mặc thêm một ý nghĩa mới nữa (Stk 17,5.15; 33,10; Ds 13,16; 2V 23,34; 24,17). Ở đây ý nghĩa thật rõ ràng: đức tin mà ông Simon vừa tuyên xưng sẽ là tảng đá nền móng, tảng đá bền vững trên đó Chúa Giê su sẽ xây Hội Thánh của Ngài. Thực ra, chính Chúa Giê su là nền móng vô hình của Giáo hội (1 Cr 3,10-11; 1Pr 2,6-8; Ep 2,20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau khi Ngài ra đi. Ta ‘sẽ xây’ qui chiếu đến tương lai sẽ đến sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giê su.
Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi: Qua câu nầy, hình như Chúa Giê su muốn nói đến quyền lực của âm phủ, tức là nơi tạm trú của những người chết chờ ngày sống lại sau hết, chứ không phải là hỏa ngục. Quyền lực ấy sẽ không thể kềm giữ những người sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai trong cõi chết (Is 38,10; G 38,17; Tv 14; Kn 16,13). Nếu Chúa Giê su đã muốn cho Giáo hội trường tồn, thì chắc chắn Ngài cũng muốn cho những gì mà Ngài ban cho Phêrô cũng được trường tồn. Do đó sự kế nhiệm vai trò ông Phêrô là điều hợp lý.
Chìa khoá Nước Trời: Is 22,22 nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong Kh 3,7, chính Chúa Giê su tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đa vít. Chìa khóa ở đây ám chỉ đến thẩm quyền trong Do thái giáo nhằm giải thích lề luật, ở đây chỉ thẩm quyền trên lời tuyên xưng Chúa Giê su là Con Thiên Chúa.
Cầm buộc tháo cởi: là quyền quyết định một hành vi hay thái độ có được Lề luật cho phép hay cấm đoán. Thẩm quyền của Phêrô có liên quan đến giáo huấn của Chúa Giê su.
Rồi Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki tô: có lẽ Chúa Giê su dè dặt, sợ rằng tiết lộ quá sớm phẩm chức thiên sai của Ngài sẽ khiến bùng lên cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Chỉ trong cái chết, Ngài mới hoàn toàn mạc khải phẩm chức thiên sai của Ngài.
SỨ ĐIỆP
Biến cố mà chúng ta nghe kể lại hôm nay nằm ngay trung tâm sách tin mừng Mát thêu. Sau một thời gian dài huấn luyện các môn đệ, Chúa Giêsu muốn biết họ nghĩ gì về Ngài. Ý kiến của những người chung quanh mà các ông nghe được thì rất khác nhau: “Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả; kẻ khác lại nói là Êlia; kẻ khác nữa là Giêrêmia hoặc một trong các tiên tri”. Các ông đã biết rõ tất cả những câu trả lời là không đúng. Một điều rõ ràng là càng ngày Chúa Giêsu càng bị nhiều người khước từ, nhưng các môn đệ không nói đến các ý kiến đó.
Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: Chúa Giê su muốn gợi ý các môn đệ nói lên niềm tin của mình để làm nền tảng giúp họ dấn thân thực sự: “Đối với tất cả anh em, Thầy là ai?” Chính Ngài đã chọn họ; Ngài đã kêu gọi họ đi theo Ngài. Ngài đã đặt trọn niềm tin nơi họ. Và hôm nay, Ngài cần biết họ đã đi đến đâu trên con đường đến với Ngài. Họ đã được mời gọi tuyên bố về điều mà họ nghĩ về Ngài và vị trí của Ngài trong cuộc đời của họ. Ngài muốn câu trả lời của họ là một lời tuyên xưng đức tin và nhất là lời tuyên xưng tình yêu.
Hôm nay, Chúa Giê su cũng đặt câu hỏi đó cho chúng ta: đối với chúng ta, Chúa Giê su là ai? Câu trả lời mà Chúa Giê su cần không phải là điều mà chúng ta học trong sách Giáo lí, nhưng phải phát xuất tự đáy lòng mình. Thỉnh thoảng chúng ta nghe những cặp tình nhân nói với nhau: “Đời của anh bắt đầu ngày mà anh gặp em”. Khi người ta thật sự gặp gỡ Đức Ki tô, thì cũng giống như thế nhưng chiều kích lớn lao hơn nhiều. Đối với những ai từng trải nghiệm thì đó là một sự khởi đầu mới, một giai đọan mới, một cuộc đời mới. Tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa lấp đầy cuộc sống của họ và thật tuyệt vời.
Và đó cũng là điều xảy ra cho Phê rô. Lời tuyên xưng của ông thật rõ ràng: “Ngài là Đấng Ki tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đối với những ai chỉ coi Ngài như là một vị tiên tri nào đó, thì lời tuyên xưng ấy thật quá sức tưởng tượng. Ngay cả các môn đệ lúc bấy giờ chắc chắn cũng hết sức kinh ngạc. Nhưng Chúa Giê su thì không, Ngài biết rõ mọi sự, nên Ngài khẳng định: “Không phải máu huyết đã mạc khải cho con điều ấy, mà là Cha Thầy đấng ngự trên trời”. Máu huyết chỉ những phương tiện và những gì thuộc về con người. Tất cả những điều đó không đủ để giúp người ta nhận biết Thiên Chúa. Cần phải có tác động của Chúa Thánh Thần.
Lời tuyên xưng đó sẽ là điểm khởi đầu sứ mạng mà Chúa Giêsu sẽ giao phó cho vị tông đồ của mình: “Anh là Phê rô, và trên tảng đá nầy, ta sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Lẽ ra Chúa Giêsu có thể chọn một con người có văn hóa hơn là người chài lưới đơn sơ ở hồ Tibêriát nầy. Nhưng Thiên Chúa không có cùng một cái nhìn giống chúng ta: Ngài xây dựng trên một con người như thế với những yếu đuối và khuyết điểm của họ. Và Ngài ban cho Simôn một tên gọi thần linh: Từ nay, anh sẽ được gọi là Phê rô, nghĩa là Tảng đá. Phải, ‘Tảng đá’ là một tên gọi thần linh. Khi nói với chúng ta về Thiên Chúa, Kinh Thánh muốn dạy chúng ta rằng Ngài là Tảng Đá cho chúng ta nương tựa.
Dù có những yếu đuối, Phê rô vẫn được Chúa Giêsu chọn để làm nền tảng xây dựng Giáo Hội. Và trong suốt bề dài lịch sử Giáo Hội, Thiên Chúa thường chọn những con người yếu đuối và bất toàn. Thậm chí một vài người là những tội nhân khét tiếng. Nhưng một khi họ đã gặp được Đức Ki tô, họ đã trở nên những chứng nhân lớn cho đức tin.
Tông đồ Phê rô do đó được chỉ định như là một tảng đá. Không như một tảng đá kiên cố nằm im một chỗ. Sứ mạng của ông sẽ là sứ mạng của một trận chiến. Chỉ cần đọc sách Công vụ để biết rằng ông phải đương đầu với những khủng hoảng khó khăn và đau đớn, khủng hoảng tăng trưởng, cùng với những bách hại đối với một cộng đoàn non trẻ. Chúa Giêsu sắp giao phó cho ông ‘chìa khóa Nước Trời’. Khi người ta giao phó chìa khóa cho ai, thì đó là dấu của một lòng tin tưởng hoàn toàn. Thiên Chúa tin tưởng nơi con người. Chúng ta phải tin tưởng dù có những yếu đuối và bất trung đối với Ngài.
Ngài muốn chúng ta trờ thành những người cộng tác. Nếu Chúa Giê su giao phó chìa khóa của vương quốc cho Giáo hội Ngài chính là để mở ra, để chúng ta mở rộng vòng tay và tiếp đón. Chúng ta sống trong một thế giới mà nhiều cánh cửa đã bị đóng chặt. Hãy nghĩ đến tất cả những người đau khổ vì thất nghiệp, bị lọai trừ, nạn nhân của bạo lực, tất cả những người mà cuộc sống không còn một ý nghĩa nào cả vì họ cảm thấy vô ích.
Ngày nay, chúng ta khám phá ra rằng Đức Ki tô giao phó cho Phê rô sứ mạng mở cửa, tiếp đón nhân danh Thiên Chúa. Ngài cũng mời gọi chúng ta trở thành những người cộng tác với Ngài, và Ngài luôn dấn thân bên cạnh chúng ta để không ngừng mời gọi chúng ta tiến lên trước. Đức tin và sự gắn bó của chúng ta với Đức Ki tô cho phép chúng ta trở thành những viên đá sống động phục vụ Nước Trời.
ĐÀO SÂU
QUYỀN TỐI THƯỢNG CỦA PHÊ-RÔ
Is 22,19-23 Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó
Tv 138,1 Lạy Thiên Chúa trung thành, xin hãy tiếp tục công trình yêu thương của Chúa
Rm 11,33-36 Mầu nhiệm cứu độ thật sâu thẳm khôn dò
Mt 16,13-20 Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời
1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?
THƯA: QUYỀN CHÌA KHÓA. Nắm giữ chìa khóa là có toàn quyền trên nhà Đa-vít sau Vua (Bđ1). Cũng như Phê-rô được trao chìa khóa Nước Trời là người dùng lời dạy dỗ và gương sáng của mình để dẫn mọi ngời đến với Đức Ki tô (BTM). Mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa thật sâu thẳm (Bđ2).
2. HỎI: Bối cảnh lịch sử bài đọc một (Is 22,19-23) như thế nào?
THƯA: Bối cảnh bài đọc một là triều đình Giê-ru-sa-lem dưới triều Vua Ê-giê-ki-a, nghĩa là vào khoảng năm 700 trước Công Nguyên. Ê-giê-ki-a là con Vua A-kha, là người mà tiên tri I-sai-a đã loan báo: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14).
3. HỎI: Ngữ cảnh bài đọc một như thế nào?
THƯA: Sách I-sai-a từ chương 13 đến 23 ghi lại những lời sấm của Thiên Chúa chống lại nhiều nước. Bài đọc một trích từ chương 22 trực tiếp hướng tới Giê-ru-sa-lem, thủ đô của Giu-đa. Trong đó viên Tể tướng triều đình là Sép-na bị Tiên tri phê phán nặng nề, và sẽ bị thay thế bởi En-gia-kim, một nhân vật sẽ nhắc mọi người nhớ đến vinh quang Vua Đa-vít.
4. HỎI: Tể tướng triều đình có quyền hạn gì?
THƯA: Tể tướng triều đình là một chức quan cao nhất trong triều đình có quyền hạn rất lớn chỉ đứng sau Vua. Ngoài ra, ông còn được trao cho quyền chìa khóa, nghĩa là nắm giữ mọi quyền hạn quyết định trong triều Vua: “Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được” (Is 22, 22).
5. HỎI: Chìa khóa Đa-vít có ý nghĩa gì?
THƯA: Chìa khóa là biểu tượng chỉ uy quyền hay quyền kiểm soát. Nắm trong tay chìa khóa Đa-vít có nghĩa là nắm uy quyền tối cao trong triều Vua Đa-vít.
6. HỎI: Tiên tri I-sai-a vạch ra những sai lầm nào của vị Tể tường nầy?
THƯA: Tiên tri vạch ra hai sai lầm: một là cố vấn Vua liên minh với Ai cập, một điều đi ngược lại với Giao Ước giữa dân Ít-ra-ên và Thiên Chúa. Hai là ông chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân mà không nghĩ gì đến Dân Chúa.
7. HỎI: Bài đọc một gửi đến sứ điệp nào?
THƯA: Bài đọc một gửi đến nhiều sứ điệp: một là Thiên Chúa hiện diện trong mọi ngóc ngách cuộc sống chúng ta, không có gì trong cuộc sống chúng ta là vô nghĩa đối với Người. Hai là các tiên tri luôn quan tâm đến những lợi ích đích thật của Dân Thiên Chúa. Ba là mối bận tâm duy nhất của Thiên Chúa cũng như của các tiên tri là phục vụ Dân Người.
8. HỎI: Bài đọc một liên kết với bài tin mừng như thế nào?
THƯA: En-gia-kim được trao chìa khoá nhà Đa-vít là hình ảnh báo trước Đức Ki tô. Là đấng phục sinh nên chỉ có Ngài mới có thể nắm quyền chìa khóa: “Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ”(Kh 1,18). Lòng thương xót của Ngài rộng mở cho tất cả mọi người được cứu độ.
9. HỎI: Bài đọc hai (Rm 11,33-36) có nội dung như thế nào?
THƯA: Ở đoạn cuối phần trình bày giáo lí, Thánh Phao-lô nhìn nhận chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của loài người. Vì thế Ngài lên tiếng ca tụng sự khôn ngoan đầy quyền năng của Thiên Chúa.
10. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Mt 16, 13-20) như thế nào?
THƯA: Đoạn Tin mừng (16,13-20) nằm ở trung tâm của tin mừng Mt. Đây là đoạn kết thúc và cũng là cao điểm của phần đầu tin mừng bàn về sứ vụ của Đức Giê-su tại Ga-li-lê, như là Đấng Thiên Sai được hứa ban (4,17-16,20). Chủ đề chính của đoạn nầy là căn tính của Đức Giê-su, và việc Ngài trao quyền thủ lãnh cho Phê-rô. Có ba ý chính, 1. Bối cảnh (c. 13a); 2. Ý kiến về căn tính của Đức Giê su (cc. 13b-17); 3. Trao quyền cho Phêrô (cc. 18-19) và kết luận (c. 20).
11. HỎI: Tại sao đoạn tin mừng nầy tạo khúc quanh mới trong cuộc đời Đức Giê-su?
THƯA: Vì sau đoạn tin mừng nầy, thánh Mát-thêu viết: “Kể từ lúc ấy”, Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem chịu nhiều đau khổ bởi các Kì mục, Thượng tế và Kinh sư gây ra” (Mt 16, 21). Kể từ đây Đức Giê-su bắt đầu đi vào giai đoạn mới hướng tới cuộc khổ nạn và phục sinh, bắt đầu giáo huấn về cuộc khổ nạn dành riêng cho các môn đệ, đặc biệt chuẩn bị các ông đối diện cái chết của Ngài.
12. HỎI: Tước hiệu ‘Con Người’ có nghĩa gì?
THƯA: Tước hiệu ‘Con Người’ bắt nguồn từ đoạn sấm ngôn tiên tri Đa-ni-ên 7, 13-14. Khi áp dụng cho mình tước hiệu ‘Con Người’ Đức Giê-su muốn tự mạc khải như là Đấng lãnh đạo Dân Thiên Chúa.
13. HỎI: Tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’ có nghĩa gì?
THƯA: Vào lúc bấy giờ, tước hiệu ‘Con Thiên Chúa’ đồng nghĩa với tước hiệu ‘Đấng Cứu độ là Vua’. Về sau, Hội Thánh được Chúa Thánh Thần soi sáng và dạy dỗ, đã tin rằng Đức Giê-su chính là Con Một của Thiên Chúa.
14. HỎI: Điểm mới trong lời tuyên xưng của Phê-rô là gì?
THƯA: Điểm mới nằm trong việc lời tuyên xưng Phê-rô nối kết hai tước hiệu lại làm một: Đức Giê-su chính là Đấng Cứu độ và là Con Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa mạc khải như tình yêu phó mình trong tay người đời.
15. HỎI: Liền sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin Đức Giê-su đã làm gì?
THƯA: Ngài đã trao cho ông sứ mạng làm tảng đá nền móng xây dựng Hội Thánh của Ngài.
16. HỎI: Ai xây dựng Hội Thánh?
THƯA: Chính Đức Giê-su: “Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Chúng ta không được giao phó nhiệm vụ xây dựng Hội Thánh, mà chi lắng nghe lời Thiên Chúa phán dạy. Chính Đức Ki tô phục sinh, Con Thiên Chúa hằng sống xây dựng Hội Thánh, nên chúng ta có thể chắc chắn rằng: “Quyền lực tử thần sẽ không thể thắng nổi” (Mt 16,18).
17. HỎI: Đâu là nền tảng của Giáo Hội Chúa Ki tô?
THƯA: Chính Đức Giê-su là Tảng đá trên đó Giáo hội được xây dựng, vì chính Ngài qui tụ, xây dựng và điều khiển Giáo hội.
18. HỎI: Vậy tại sao Đức Giê-su lại gọi Phê-rô là đá tảng trên đó Giáo Hội được xây dựng?
THƯA: Giáo Hội chỉ có một nền tảng là Chúa Ki tô. Còn Phê-rô được gọi là đá tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo hội được qui tụ và hoà hợp với nhau. Hơn nữa ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo hội trần thế đang trên đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn hảo cả đâu. Phêrô sẽ thi hành nhiệm vụ phân biệt, phê phán xem các phần tử của Giáo hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Ki tô không. Sứ mạng được uỷ thác cho Phêrô là như thế.
19. HỎI: Giáo Hội có cần thiết để gặp gỡ Đức Ki tô không?
THƯA: Vì chính Đức Ki tô đã thiết lập Giáo Hội, nên muốn đến với Đức Ki tô, phải qua Giáo Hội. Không ai có thể đi đến Đức Ky tô mà không ngang qua Giáo hội, một xã hội vừa nhân loại, vừa siêu nhiên. Không ai có thể một mình và trực tiếp tìm gặp Chúa Ki tô mà chẳng cần đến Giáo hội. Vì như thế là tự tạo ra một Đấng Cứu độ theo ý mình, là tưởng tượng ra một vì Chúa theo sở thích của mình, là từ chối chấp nhận Đức Giê-su như Ngài đã tự mạc khải cho ta.
20. HỎI: Vậy Giáo Hội là ơn cứu độ cho lòai người sao?
THƯA: Đúng vậy. Giáo hội là ơn cứu độ cho loài người: Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo hội nhiều khi có thể làm ta tức giận hay trở nên chướng kì, thì Giáo hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả những người vô tín, vốn từ chối Giáo hội hay lương dân không biết đến Giáo hội, cũng vẫn nhận được trong tâm hồn ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo hội.
21. HỎI: Sức mạnh của Giáo hội đến từ đâu?
THƯA: Đến từ Thiên Chúa, như lời hứa của Đức Ki tô: “Quyền cửa âm phủ không thể thắng nổi”. Thật vậy, Giáo hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo nàn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác trên trần gian, vì Giáo hội được qui tụ chung quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Nhưng Giáo hội cũng là một thực tại cao quí nhất, phong phú nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh hơn hết trong mọi thực tại dưới bầu trời nầy, vì Hài nhi sinh ra trong máng cỏ, Con người bị đóng đinh trên thập giá đã phục sinh và đang hiển trị.
22. HỎI: Ai là thù địch của Giáo Hội?
THƯA: Quyền lực của sự chết. “Quyền lực sự chết sẽ không thắng được Giáo hội của Thầy!” Lời khẳng định ấy của Đức Giê-su tỏ ra mong manh biết mấy trước tất cả những xấu xa mà kẻ thủ ma quỉ đã gieo vào lòng Giáo Hội! Sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta xem ra bất lực trước tất cả mãnh lực của sự chết không ngừng áp bức Giáo Hội. Trong trần gian, vóc dáng Giáo hội nhỏ xíu gần như vô nghĩa, bị xâu xé và tan nát bởi biết bao nhiêu mâu thuẩn nội bộ, bao nhiêu phản chứng, cũng như nhiều lời trách cứ và hăm doạ từ bên ngoài!
23. HỎI: Bổn phận của người tín hữu là gì?
THƯA: PHẢI LÀM CHỨNG: Phải dẹp bỏ nỗi sợ hãi và biết rằng lòng can đảm luôn luôn đòi hỏi sự kính trọng và lòng tin tưởng. Nhờ bí tích Rửa tội chúng ta là những nhà truyền giáo và Chúa giao cho chúng ta một vùng ảnh hưởng mà Ngài sẽ đòi hỏi chúng ta phải trả lời, vì một ngày nào đó Chúa sẽ đến để gặp chúng ta, để qua chúng ta gặp những người khác.
24. HỎI: Sống Lời Chúa như thế nào?
THƯA: 1. Khám phá và tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống không chỉ bằng lời mà còn bằng việc làm và cách sống nữa. Nói cách khác tất cả lời ăn, tiếng nói, cử chỉ, hành động của chúng ta phải là cách/lời tuyên xưng Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống! 2. Thiết lập một mối tương quan mật thiết, gắn bó và riêng tư với Chúa Giê-su Ki-tô, như trò với Thầy và như bạn với bạn. Càng sống gần gũi, thân mật với Chúa Giê-su, chúng ta càng biết Người là Ai.
GLCG 153 552 1814 1996 2606 Khi Thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giê-su tuyên bố với thánh nhân rằng: "Phàm nhân không tài nào mặc khải cho anh điều ấy được, nhưng chính là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời đã mặc khải"(Mt 16,17) ( x. Gl 1,15; Mt 11,25). Đức tin là hồng ân của Thiên Chúa, là nhân đức siêu nhiên do Người phú bẩm. Để có được đức tin nầy, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và có sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt tinh thần và ban cho "mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý" (DV 5). 424 638 552. Nhờ Thánh Thần tác động và nhờ Chúa Cha lôi kéo, chúng tôi tin và tuyên xưng về Đức Giê-su như sau: "Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt l6,l6). Chính trên tảng đá đức tin này như thánh Phê-rô tuyên xưng, Đức Ki-tô đã xây dựng Hội Thánh của Người (x.Mt l6,l8; T. Lê-ô cả, bài giảng 4,3; 5l,l; 62,2; 83,3). 440 552 550 443. Khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, Người chấp nhận và liền đó tiên báo cuộc khổ nạn của Con Người. (x. Mt. l6, l6-23). Người đã mặc khải vương quyền Đấng Mê-si-a của Người, một mặt hệ tại căn tính siêu việt của Con Người " từ trời xuống" (Ga 3,l3) (x. Ga 6,62; Đn 7,l3) và mặt khác trong sứ mệnh cứu chuộc như Người Tôi Tớ đau khổ: "Con Người đến, không phải để được kẻ hầu người hạ nhưng là để hầu hạ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28) (x. Is 53,l0-l2). Do đó ý nghĩa thật sự về vương quyền của Người chỉ được biểu lộ trên Thập Giá (x. Ga l9, ll-22; Lc 23,39-43). Chỉ sau khi sống lại, Vương Quyền Mê-si-a này mới được thánh Phê-rô công bố trước mặt dân Thiên Chúa: "Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô" (Cv 2,36).
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Khi nhà nước Hồi Giáo tự xưng IS xuất hiện, cả thế giới bàng hoàng , hồi hộp lo âu, bởi điều TN 21-A122
Khi nhà nước Hồi Giáo tự xưng IS xuất hiện, cả thế giới bàng hoàng , hồi hộp lo âu, bởi điều làm nên Nhà nước nầy là bạo lực, giết chóc, và hầu như con người đối với nhau chỉ là sự ức hiếp, man rợ. Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một phúc trình về tội ác của IS như sau: Tấn công trực tiếp vào các mục tiêu dân thường và cơ sở hạ tầng dân sự; Tử hình và giết hại thường dân; Bắt cóc, hãm hiếp cũng như phạm nhiều dạng của bạo lực thể chất và tình dục chống phụ nữ, trẻ em; Ép trẻ em làm lính; Phá hủy hoặc xâm phạm các công trình văn hóa hay tôn giáo, cướp phá của cải; Phủ nhận quyền tự do. Ngoài ra trẻ em bị IS bắt cóc bán làm nô lệ tình dục, bắt ép trở thành kẻ đánh bom liều chết. Nếu chúng không vâng lời sẽ bị phiến quân IS đóng đinh vào cơ thể hoặc chôn sống. Quả thật đây là nỗi khiếp sợi cho nhân loại.
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa thiết lập Giáo Hội, và điều cốt cán để Chúa dựng xây Giáo hội chính là Đức tin của các tông đồ. Quả thật Giáo Hội được hình thành không bởi bất cứ một thế thế lực trần thế nào ngoài đức. Và chính đức tin mang lại một sức mạnh đề Giáo hội luôn kiên vững vượt qua mọi giông bão của thế trần, ngay cả quyền lực của Satan cũng không thể vùi lấp Giáo Hội.
Bởi đâu đức tin mang lại sức mạnh như thế? Thưa, bởi khi tin vào Đức Kitô, tức là tin vào tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có sức mạnh lạ kỳ như thánh Gioan diễn tả: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người… thì được sống muôn đời”(Ga 3, 16); một tình yêu vượt ra khỏi mọi suy tưởng logic trần thế bởi vì yêu Thiên Chúa đã quay lại chống đối chính mình, nói như tiến tri Hosé: "Hỡi Ephraim, Ta từ chối ngươi sao nổi ! Hỡi Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành… Tim Ta quay lại chống chính Ta, sự thương cảm của Ta ray rứt Ta. Ta không muốn thẳng tay thực hiện cơn giận của Ta và một lần nữa tiêu diệt Ephraim. Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm, Đấng Thánh ở giữa ngươi (Hs 11,8-9). Vâng, Đức tin nền tảng làm nên Giáo hội vì Đức tin dẫn đưa kẻ tin đến gặp một Đấng là yêu thương, và chỉ có tình yêu mới đem đến sự sống, nguồn hạnh phúc đích thật.
Đã hơn 2000 năm nay, Giáo hội vẫn đứng vững qua dòng thời gian, cho dù Giáo hội phải đối diện với bao sóng gió, bão táp, bởi Giáo Hội là một cộng đoàn yêu thương, dấu chỉ của Nước Trời. Trong bài huấn dụ vào ngày 14.06.2017, Đức Phanxicô đã nói: một thế giới không có tình yêu và sự chú ý săn sóc của ocn người đối với nhau là một hoả ngục, chứ khôing phải là một thế giới nhân bản”
Cho nên khi dựng xây Giáo hội, Chúa Kitô không đòi hỏi gì hơn nơi các tông đồ là lời tuyên xưng về Người, Đấng là Thiên Chúa nhưng đã đến trần gian hiện diện giữa con người vì yêu thương, và muốn qui tụ mọi người lại trong tình yêu, để tất cả trở thành huynh đệ, anh chị em với nhau có cùng một Cha trên trời. Tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là đón nhận trọn vẹn giáo huấn của Người, Tin Mừng của Người, và xác tín rằng, Người chính là Lời Yêu Thương của Thiên Chúa, Lời được trao ban cho các Tông đồ, và các Tông đồ tiếp tục trao ban lại cho nhan loại. Cũng có nghĩa là tuyên xưng vào Đức Kitô tức là tiếp tục thực thi Tin mừng yêu thương của Người như Người đã yêu thương.
Lạy Chúa, xin cùng với Phêrô chúng con tuyên xưng rằng, Chúa chính là Con Thiên Chúa, xin cho chúng con sống lời tuyên xưng qua đời sống yêu thương như Chúa đã yêu thương, vì chỉ có tình yêu chúng con mới thực sự là những người đang cộng tác để làm cho mọi người nhận ra dung mạo hiền thê của Chúa: một Giáo Hội thánh thiện và dầy tràn bác ái. Amen.
------------------------------------------
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê… Đây là những vùng phụ cận của Tia TN 21-A123
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê… Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban... Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn toàn mới:
Xêsarê! Ngày nay, thành phố này không còn lạ gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ "tảng đá" dưới chân núi. Người hỏi các món đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một câu hỏi về "căn tính" của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ. Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì? Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Dư luận của dân chúng khác nhau trong khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người bình thường?... ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ. NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.
Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có một thái độ của bản thân.
Còn bạn, Huy Phương... Bạn, Duyên.... Bạn, Minh Hạnh... Bạn Hằng... Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu là ai?
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V Tuy nhiên, người ta không có quyền "làm giảm nhẹ" lời tuyên xưng đức tin" của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên Chúa", "ben Elohim". Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel (Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 - 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).
Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là "một ngôn sứ" nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến... nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con... và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ thuộc về một mình Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”
“Phàm nhân"... từ ngữ rất lâu đời này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói... một công thức đẹp được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ nói: "Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều đó!".
Để đạt đến những thực tại thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự "mạc khải".
Trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa ThiênChúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: "Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa.
Thần Khí sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra... Chúa là cùng đích của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào... Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?"
Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. "Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho" (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về "Thiên Chúa": "Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên" (Gl 1,15-16).
“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh vừa nói!" Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố "thật có phúc” (đây là một mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô, đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.
Thật vậy từ "Tảng Đá" (tiếng Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời hứa này:
1/ Tảng đá: tượng trưng cho sự vững chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa...
2/ Giáo Hội: có nghĩa là "cộng đoàn", được Thiên Chúa triệu tập.
3/ Những cánh cửa: tượng trưng cho sức mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại...
4/ Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền bính.
5/ ‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.
Những trích dẫn trong Kinh Thánh để khẳng định rằng Thiên Chúa là "Tảng Đá". Chúng ta, chỉ cần trích dẫn: "Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi" (Tv 71,3). Chúng ta đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng một cách vững chắc như thế!
Từ "Giáo Hội" dịch chữ "Qahal" trong tiếng Do Thái có nghĩa là "Cộng đoàn", điều Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một "Cộng đoàn” những người đàn ông và đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu "lẻ loi". Không thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.
Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi... Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình ảnh: "Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi". Nếu chúng ta hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết… nhưng còn có khả năng tấn công vào "ngục tù của sự chết" để lôi con người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự tính điều đó: Một "cộng đoàn" những người sống lại với Người?
Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.
Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.
Ngày nay, người ta thấy có nhiều người sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không...". Sau một thời kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những "cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành" mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan. Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.
------------------------------------------
Lời Chúa: Mt 16,13-20
Đạo Công giáo không là một số lý thuyết hay một số lề luật mà là một con người, và là một con người TN 21-A124
Đạo Công giáo không là một số lý thuyết hay một số lề luật mà là một con người, và là một con người đặc biệt, là Người-Chúa, Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa nhập thể. Chúng ta vừa nghe Chúa hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Câu trả lời không khó, vì thường ngày vẫn nghe người này người kia bàn tán về Thầy của mình. Người ta nói Thầy là một tiên tri nào đó hay là Gioan Tẩy Giả v.v. Họ không biết Thầy là ai, họ chỉ đoán mò thôi. Thầy vẫn còn là một nghi vấn đối với họ. Nhưng đối với các môn đệ, Chúa Giêsu muốn các ông xác định rõ, Ngài là ai đối với các ông.
Phêrô bộc phát trả lời thay cho anh em: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Một lời tuyên xưng đức tin rõ ràng, minh bạch, không do dự. Lời tuyên xưng đức tin đầu tiên của Giáo Hội, xuất phát từ quả tim chứ không chỉ từ bên ngoài. Đạo Công giáo bắt nguồn từ niềm tin sáng suốt đó, xuyên qua dáng vẻ bên ngoài của một con người bình thường, nhưng lại là Thiên Chúa. Dân Nadareth chỉ xem Ngài là con ông thợ mộc. Họ không thể vượt qua lớp vỏ bên ngoài để nhìn thấy bản chất thực sự của Ngài. Chúng ta có tin vững như thế không? Chúng ta có tin rằng Ngài là trung tâm của mọi sự, là ơn cứu độ được thể hiện qua một con người không? Tin không chỉ là chấp nhận một đề nghị nào đó thích hợp với ý nghĩ của chúng ta, mà tin là gắn bó sống chết với một người, và người đó là Con Thiên Chúa, là nguồn sống vĩnh cửu, là sự thật.
Sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô, Chúa Giêsu cho ông biết rằng không phải phàm nhân cho anh biết được điều đó, mà chính Cha trên trời mới cho anh biết. Đó là một điều hạnh phúc, là một hồng ân. Điều này cho thấy rằng, đức tin không phải là do cố gắng hay sự thông minh của con người, mà là một hồng ân nhưng không của Chúa Cha. Sau đó Chúa tuyên bố: “Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Phêrô thành tảng đá nhờ lòng tin. Chúa xây dựng Giáo Hội Chúa trên lòng tin của Phêrô. Sau này, thánh nhân cũng bảo chúng ta, những kẻ tin, phải trở nên những viên đá sống xây dựng Giáo Hội. Và chính niềm tin là đá vững chắc, thì dù Satan có làm gì cũng không lay chuyển được. Hiện nay trên khắp thế giới, Giáo Hội đang bị bách hại một cách tàn bạo, nhưng niềm tin của các tín hữu vẫn trung kiên qua mọi thử thách. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Giáo Hội là thân thể của Ngài. Nếu chúng ta không bị bách hại, hãy luôn củng cố đức tin bằng một sự trung thành càng ngày càng tinh tuyền hơn vì ma quỷ không bao giờ ngơi nghỉ và luôn dùng mọi cách để làm cho chúng ta nản lòng, làm cho đức tin chúng ta hao mòn. Bệnh hoạn, cơm áo gạo tiền, những tai nạn hay thất bại trong đời sống có thể bào mòn niềm tin. Đó cũng là những dụng cụ ma quỷ vẫn dùng để làm lưu lạc niềm tin của chúng ta. Hãy vững tin trong mọi hoàn cảnh. Thánh Phaolô luôn nhắc đi nhắc lại cho các tín hữu là hãy giữ vững niềm tin.
Cầu nguyện chính là khí giới hữu hiệu nhất. Đừng bao giờ xao lãng việc cầu nguyện, vì chúng ta yếu đuối và ma quỷ không mỏi mệt.
Sau khi đặt Phêrô làm Tảng Đá, Chúa lại trao cho ngài chìa khóa Nước Trời. Đây là quyền tối thượng của Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới tha thứ hay cầm tội. Thế nhưng Chúa vẫn trao quyền tuyệt đối này cho Phêrô. Lòng thương xót của Chúa thể hiện qua việc trao quyền tha thứ cho Phêrô. Nhờ ân huệ này, chúng ta được thanh luyện để trở nên những người con Chúa và được lãnh phần gia nghiệp mà Chúa đã chuộc lại cho chúng ta nhờ máu Ngài. Ơn tha thứ là dấu hiệu của tình yêu vô bờ của Chúa. Chúng ta được thứ tha, được giao hòa với Chúa nhờ máu Chúa Kitô vì chúng ta được yêu thương đến tận cùng. Hãy tạ ơn Chúa không ngừng vì ơn tha thứ mà chúng ta được hưởng nhờ. Hãy đáp trả tình yêu Chúa bằng cuộc sống trung thành không gian dối, bằng cố gắng không ngừng bước theo Chúa trên con đường trọn lành: “Hãy trọn lành như Cha anh em ở trên trời là Đấng trọn lành”.
Một khi được tha thứ, được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi, chúng ta lại được một hồng ân khác quí trọng hơn nữa, đó là được ăn lấy Mình Thánh Chúa Kitô. Nhờ của ăn thần linh này, chúng ta trở nên những viên đá sống xây dựng Giáo Hội. Ăn lấy Chúa, chúng ta không còn tách rời ra khỏi tình yêu của Ngài, và không có quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô. Đó là thiên đàng trên trần gian, nếu chúng ta tin.
Lm. Trầm Phúc
Gp. Mỹ Tho
------------------------------------------
Is 22,19-23; Rm 11,33-38; Mt 16,13-20
“Thầy Là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”
I. Dẫn vào Phụng Vụ Lời Chúa
Hôm nay, phụng vụ Lời Chúa muốn cộng đoàn nhìn vào công cuộc cứu độ đã sửa soạn hoàn tất trong TN 21-A125
Hôm nay, phụng vụ Lời Chúa muốn cộng đoàn nhìn vào công cuộc cứu độ đã sửa soạn hoàn tất trong cuộc đời trần gian của Đức Giêsu để chúng ta đón nhận mọi hồng ân được ban xuống cho chúng ta. Và để chúng ta cố gắng sống phù hợp với ơn cứu độ đã lãnh nhận được. Thế nên, bài đọc Tin Mừng trong Thánh lễ hôm nay, vừa nhắc lại mầu nhiệm Cứu Thế, vừa nói lên yêu sách của đời sống mới trong Chúa Kitô. Cộng đoàn chúng ta hãy mở lòng đón nhận Mặc Khải để được sức trung thành với ơn gọi Kitô hữu.
II. Nhận diện căn tính thần linh của Đức Giêsu
Vấn đề căn tính thần linh nơi Đức Giêsu trong lịch sử cứu độ luôn vang lên trong Cựu Ước và Tân Ước.
Đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu trong Thánh lễ hôm nay thường được mệnh danh là cuộc tuyên tín tại địa hạt Cêsarê Philipphê.
Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ, như phép lạ hóa bánh ra nhiều cho trên 5000 người ăn no nê thì danh tiếng của Người vang lẫy lừng khắp nơi. Dân chúng đã bắt đầu bàn tán về con người và sứ mệnh của Ngài. Người ta còn muốn tôn Ngài lên làm vua nữa. Ai ngờ hôm nay, Chúa lại tuyên bố những điều xem ra thật khó hiểu. Đó là con đường thập giá trong sứ mệnh của Ngài và trong đời sống của những môn đệ đi theo Ngài.
Thế là để đánh dấu khúc quanh lịch sử quan trọng này, sau một đêm cầu nguyện, như nhiều lần Đức Giêsu đã làm như thế trước những quyết định và biến cố quan trọng sắp xảy ra, Đức Giêsu đột xuất hỏi các Tông đồ: “Dân chúng nói Con Người là ai? Và các con bảo Thầy là ai?” Ngài muốn biết kết quả của ba năm truyền giáo. Ngài cũng muốn biết các môn đệ đã hiểu Ngài đến mức độ nào? Để trả lời, các tông đồ bắt đầu thuật lại những lời dư luận người ta đồn thổi về Ngài: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elia, người khác lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.”
Cuộc thăm dò dư luận này cho thấy mặc dù chưa có lời giải đáp đầy đủ, chính xác về căn tính đích thực, cũng như sứ mạng của Chúa Giêsu nhưng các đám đông đều đánh giá Đức Giêsu là một ngôn sứ cao cả, Người “phát ngôn” của Thiên Chúa, rồi đây sẽ làm thỏa mãn khát vọng kiểu trần thế của họ.
Nhưng đối với Chúa Giêsu dư luận của bàn dân thiên hạ không quan trọng bằng ý nghĩ chính xác của các môn đệ Ngài. Cho nên sau khi biết ý kiến của dân chúng, Chúa Giêsu quay sang các môn đệ và hỏi thẳng các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Được ơn soi sáng, ông Simon Phêrô thay lời các tông đồ quả quyết: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này thật là chính xác, là chính sự thật, vượt qua sự hiểu biết và suy tư của con người. Nói khác đi, niềm xác tín ấy không còn thuần túy là một suy diễn, một nhận định của lý lẽ, của tri thức, của hiểu biết bình thường mà là một Mặc Khải đến từ Thiên Chúa về Đấng Cứu Thế.(x.Mt 16,13-20)
Như vậy, Phêrô đã được Chúa Cha trên trời Mặc Khải đặc biệt. Chúa Cha đã tỏ ra đặc cách Phêrô, và vì thế mà Đức Giêsu không ngần ngại nói với Phêrô: “Anh thật là người có phúc” và đặt Phêrô là: “Tảng đá xây nền Hội Thánh”, và đá này sẽ được cũng cố để quyền lực của tử thần cũng không thắng nổi.
Sau đó, Chúa Giêsu trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời để Phêrô lãnh đạo Hội Thánh trong tinh thần phục vụ vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại.
III. Hành trình Đức tin của Kitô hữu trong lòng Giáo hội
Lời tuyên xưng của Phêrô, không phải tự sức của ông biết được, nhưng do Chúa Cha mặc khải. Sau đó Chúa Giêsu cho biết quyết định của Ngài về Phêrô, Chúa nói: “Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, dù quyền lực của hỏa ngục cũng không thể thắng được. Thầy sẽ trao cho anh Chìa Khóa Nước Trời”.
Như vậy, Thánh Phêrô và những người kế vị đã nhận được nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng của Đức Kitô để điều khiển Hội Thánh là dân mới của Chúa.
Hội Thánh do Chúa Giêsu lập ra chính là quà tặng quí giá nhất của Thiên Chúa ban cho nhân loại, Chúa Giêsu muốn cho Phêrô và những người kế vị trở thành lãnh đạo Hội Thánh. Bởi đó, chúng ta phải công nhận quyền uy của các Ngài. Bởi vì vâng lời các Ngài là vâng lời chính Đức Kitô: “Kẻ nào nghe lời các con là nghe lời Ta”. Đồng thời, chúng ta phải có lòng tin cậy không hề nhạt phai vào Giáo Hội của Chúa, không nên lo sợ trước sức tấn công của quyền lực ma quỉ và kẻ thù của Giáo Hội, như chính Chúa đã quả quyết: “Dù quyền lực của hỏa ngục cũng không thắng được”.
Là thành viên của Hội Thánh do bí tích rửa tội, chúng ta liên đới trong việc xây dựng Hội Thánh, như Thánh Phaolô đã viết: “Chúng ta phải trở nên những viên đá sống động, do Chúa chọn, để xây dựng nhà vĩnh cửu tràn ngập ánh vinh quang của Ngài”, bằng một đức tin sống động - một sự hợp tác chân thành trong việc Tông đồ và phục vụ cộng đoàn của Chúa Kitô.
Rồi đến lượt chúng ta, qua cuộc sống của mình, chúng ta luôn là câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta họ sẽ nhận ra chúng ta là Kitô hữu đích danh, là môn đệ của Chúa Kitô.
Trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, vị cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi một tín hữu trong thế giới của chúng ta là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên, quả thật người Kitô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản, cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người tín hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô.
Kết luận:
Xin Chúa cho chúng con biết hiệp thông với nhau trong đức tin, đức cậy và đức mến để chúng con tôn vinh Thiên Chúa và thắp sáng tin yêu giữa lòng Giáo Hội của Chúa Kitô.
Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
Gp. Mỹ Tho
------------------------------------------
Trong cuộc sống có nhiều thứ to – nhỏ, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Có những thứ to mà lại chỉ là nhỏ, TN 21-A126 Ephata
Trong cuộc sống có nhiều thứ to – nhỏ, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Có những thứ to mà lại chỉ là nhỏ, có những thứ nhỏ mà lại hóa to. Có những cái đầu to mà chứa những ý tưởng nhỏ, có những chiếc cặp nhỏ mà chứa những dự án to, có những dự án to mà hiệu quả lại nhỏ, có những ông nhỏ mà quyền lại to, mối nguy nhỏ mà mối hại to, lỗ rỉ nhỏ làm đắm thuyền to,... Cứ thế và cứ thế !
Là “người lớn” mà hòa đồng, khiêm nhường, coi mình là “người nhỏ”, thế mới là khéo sống và khôn ngoan, và đó mới đúng nghĩa “lớn” mà Chúa Giêsu đề cập. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” ( Mt 20, 26-27 ). Chính Ngài đã nêu gương phục vụ qua việc rửa chân các môn đệ, đặc biệt là Ngài vẫn rửa chân cho cả Giuđa mặc dù Ngài biết đó là kẻ sắp sửa “bán đứng” Ngài.
Thông thường, “thùng rỗng” vốn dĩ “kêu to”, càng rỗng càng kêu to. Bởi vì cái trống rỗng tuếch nên nó kêu to lắm; quả bong bóng cũng thế, nó càng to và càng rỗng thì càng nổ to !
Có những “người lớn” thực sự mà lại hóa “nhỏ bé”. Nếu không tự thu mình nhỏ lại thì Thiên Chúa không thể lớn lên trong chúng ta. Một trong những người gây “ấn tượng” mạnh mẽ là Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII ( 1881-1963 ), người được mệnh danh là “ông già tốt lành và nhân từ”.
Khi chưa làm Giáo Hoàng, trong ngày nhận chức Thượng Phụ Venezia năm 1953, Thánh Gioan XXIII đã bộc bạch: “Đời Giám Mục mà cứ phải ngồi bàn giấy và làm ngoại giao thì tội nghiệp quá. Tôi bắt đầu sứ vụ trực tiếp vào tuổi mà người khác kết thúc hoạt động của mình ( 72 tuổi ). Từ nay tôi nghèo hơn trước, một vị Hồng Y nghèo lo giúp người nghèo... Tôi thấy mình như một bà mẹ nghèo, phải nuôi một đoàn con đông đảo. Tôi xuất thân từ giới bình dân. Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê hương, cho tôi chung đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng khác nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ quan tâm đến những gì gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi tớ của Chúa”.
Không chỉ vậy, ngài còn đơn sơ tự bạch: “Sinh ra nghèo, do cha mẹ nghèo nhưng khả kính, tôi đặc biệt sung sướng khi được chết nghèo. Bất luận tôi đi đâu, nếu ban đêm có người nào lỡ đường trước cửa nhà tôi, họ sẽ thấy cửa sổ tôi luôn có ngọn đèn sáng. Xin đừng ngại, hãy cứ gõ cửa. Tôi sẽ không hỏi anh em là Công Giáo hay không, nhưng chỉ xin người anh em cứ vào, sẽ có đôi tay thân ái đón tiếp và tấm lòng thân thiện nồng hậu rộng mở”.
Gương sáng và lớn như thế mà không soi, lẽ nào lại muốn soi gương mờ và nhỏ ? Chuyện To và Nhỏ hẳn là có liên quan “chức quyền” – gồm chức tước và quyền hành. Chức vụ và chức danh nghe có vẻ giống nhau, nhưng có phần khác nhau quan trọng. Chức danh đề cập phẩm tước, còn chức vụ đề cập công việc, trách nhiệm và bổn phận về chức vụ – gọi là chức phận.
Theo đó, chức danh không cần có chuyên môn, nhưng chức vụ cần có chuyên môn. Danh từ “chức sắc” thường dùng trong tôn giáo, tức là nói về những người có chức vụ nào đó. Người có chức vụ mà không làm đúng chức năng thì chỉ là “hữu danh vô thực”, là “bù nhìn”, là hình nộm, chẳng khác gì manơcanh ( mannequin, người giả ở các tiệm trang phục ). Có “chức” thì tất nhiên có “vụ” kèm theo. Loại người “ham Chức, quên Vụ” thì chẳng làm nên trò trống gì, đôi khi còn phá bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta đây”. Chúa rất ghét loại người “ta đây” như thế !
Kinh Thánh Cựu Ước cho biết rằng, viên quan Sépna là tể tướng triều đình (tương tự thủ tướng ngày nay ), được người ta coi là “người hùng”, nhưng Đức Chúa tuyên phán thẳng thắn và rõ ràng: “Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Engiakim, con của Khinkigiahu. Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa khoá nhà Đavít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó” ( Is 22, 19-23 ). Quyền “tháo cởi” này trong Cựu Ước có liên quan quyền “tháo cởi” trong Tân Ước: Bí Tích Hòa Giải.
Chắc chắn Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, giàu lòng xót thương, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn và dứt khoát. Ngài đã cho chúng ta thời gian để sửa đổi, nếu không chịu chấn chỉnh, chúng ta sẽ bị Ngài tước hết. Có lần chính Chúa Giêsu đã minh định: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất” ( Mt 13, 12; Mt 25, 29; Mc 4, 25; Lc 8, 18; Lc 19, 26 ). Một lần khác, Ngài nói rõ: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời đã không trồng thì sẽ bị nhổ đi” ( Mt 15, 13 ). Thật là đáng sợ biết bao !
Nhưng trái lại, nếu người có lỗi biết sám hối và sửa sai, Chúa sẵn sàng tha thứ và phục hồi nguyên trạng: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” ( Tv 103, 12 ). Sau khi thành Épraim sám hối, Thiên Chúa nói về Épraim: “Mỗi lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn thức, Ta thương nó, thương nó thật nhiều” ( Gr 31, 20 ). Ôi, thật là trên cả tuyệt vời ! Và Thiên Chúa cũng luôn ưu ái với mỗi tội nhân chúng ta y như vậy. Hãy vững lòng tin, phải “tin” chứ đừng “tưởng”.
Hiền nhân Khổng Tử xác định: “Có lỗi mà không sửa mới thành ra có lỗi”. Tuy nhiên, Lời Chúa có lúc làm chúng ta vui mừng, rồi cũng có khi làm chúng ta đau điếng, nhưng tất cả vẫn là Hồng Ân, Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của mọi người. Thánh Vịnh gia đã thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự” ( Tv 138, 1-2 ).
Thánh nhân nào cũng có một quá khứ đen tối, và tội nhân nào cũng có một tương lai xán lạn. Và dù cho chúng ta có thế nào thì cũng vẫn cần tâm tình tạ ơn, một động thái rất cần thiết vì nhiều lý do, vừa minh nhiên vừa mặc nhiên: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao !” ( Tv 138, 3-5 ).
Và còn hơn thế nữa, Thiên Chúa làm cho chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, và chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi lòng thương xót bao la vô tận của Ngài: “Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” ( Tv 138, 6 và 8 ). Được thương xót nhiều hay ít là tùy vào niềm tin của mỗi người: “Ai tin thế nào thì được như vậy” ( Mt 8, 13; Mt 9, 29 ).
Vừa đặt vấn đề vừa giải thích, Thánh Phaolô minh định: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào ! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau ? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời ! Amen” ( Rm 11, 33-36 ). Những vấn đề như thế này cũng vẫn còn nóng bỏng và nhức nhối ở mọi thời đại. Đó cũng là những câu hỏi để mỗi chúng ta tự trắc nghiệm và tự cân-đo-đong-đếm mức độ tín thác của mình vào Thiên Chúa.
Có lẽ đây là dạng câu hỏi không xa lạ gì: “Tại sao tôi tin vào Thiên Chúa ? Ngài là ai mà tôi tin ?” Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần ( cụ thể là Kitô hữu ) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta cũng muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa”, nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí “trong suốt”, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – nói khôi hài theo ngôn ngữ thời @ là “bó-tay-chấm-com” ( BoTay.com ). Vâng, chắc là phải “bó tay chống cằm” mà suy tư và ngán ngẩm sự đời thôi !
Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì họ càng đi vào ngõ cụt, hoàn toàn bế tắc. Thật vậy, chính một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế, nhưng rồi cũng đành phải “bó tay”, chịu đầu hàng Thiên Chúa, để rồi trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh. Một sự đối lập rất “thuận chiều”, một dạng nghịch-lý-thuận.
Ngay trước thời điểm Chúa Giêsu công khai sứ vụ, Ngôn sứ Gioan phải chịu cảnh tù đày nên ông đã bảo đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” ( Mt 11, 4-6 ).
Rồi trong lúc xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng muốn thể hiện quyền bính mà hỏi: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không ?” ( Mt 26, 63; Mc 14, 61 ). Chúa Giêsu nói: “Chính ngài vừa nói” ( Mt 26, 64 ). Thánh Luca thuật lại chi tiết hơn về câu trả lời của Chúa Giêsu: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời” ( Lc 22, 67-68 ). Và rất có thể chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc tự hỏi về Thiên Chúa như vậy. Cũng có thể đức tin của chúng ta là “theo thói quen” chứ chưa thấm sâu, ở ngọn và ở cành chứ chưa hẳn tới gốc rễ.
Qua trình thuật Mt 16, 13-20, Thánh Mátthêu cho biết: Một hôm, khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Ngài hỏi các môn đệ xem người ta nói Ngài là ai. Hỏi để mà hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết rõ mười mươi rồi. Ngài hỏi là để người khác tự xác tín. Và rồi các ông cho Ngài biết: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Mỗi người mỗi ý, mỗi người mỗi cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi Ngài là một người “đặc biệt”, rất đặc biệt.
Ngay sau đó, Ngài hỏi chính các đệ tử của mình xem họ nhìn nhận Ngài như thế nào. Ông Simôn Phêrô thưa ngay: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” ( Mt 16, 16 ). Đức Giêsu vui mừng cho biết: “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên Trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” ( Mt 16, 17-19 ). Ý Chúa quan phòng và tiền định vô cùng kỳ diệu, chúng ta chẳng làm sao suy thấu. Nghe ông Phêrô nói vậy, Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô.
Và kể từ đó, Ngư phủ Phêrô đã trở thành Giáo hoàng tiên khởi với quyền tối thượng. Chiếc chìa khóa mà Sư phụ Giêsu trao cho đệ tử Phêrô là Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ, là chiếc Chìa Khóa đặc biệt có thể mở Cửa Nước Trời, để mở “lối vào” cho các hối nhân, chứ không là Chìa-Khóa-Nhà-Tù để giam hãm người khác. Có chức thì có quyền, nhưng cũng đầy bổn phận và trách nhiệm. Quyền cũng đi với Hành, gọi là quyền hành, thế nên đôi khi những người có quyền thì cũng dễ lạm dụng rồi khoái “hành” người khác. Việt ngữ thâm thúy thật !
Có một câu chuyện về một Tượng Chịu Nạn rất đặc biệt, liên quan Bàn Tay của Chúa. Chuyện kể rằng tại một Nguyện Đường của Tu Viện St. Ann & St. Joseph ở Cordoba, Tây Ban Nha, có một Thánh Giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng: Thánh Giá tha tội. Tượng này đặc biệt là có cánh tay phải rời khỏi Thập Giá và hạ thấp xuống.
Một hôm, có một tội nhân đến xưng tội với Linh Mục ngay dưới chân Thánh Giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một hối nhân mắc nhiều tội trọng, linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc, ra việc đền tội nặng và ngăm đe nhiều điều.
Không bao lâu, người đó sa ngã và lại đến xưng tội. Linh Mục đe dọa rằng đó là lần cuối cùng giải tội cho người đó. Sau một thời gian, anh ta lại đến xưng tội với Linh Mục cũng ở bên Thánh Giá này, nhưng Linh Mục kia dứt khoát nói: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa”.
Lạ thay, khi Linh Mục vừa khước từ hối nhân thì Chúa Giêsu liền rút tay phải ra khỏi Thánh Giá và ban phép lành cho hối nhân, rồi Chúa Giêsu thì thầm từ trên Thánh Giá: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi !” Rất đáng “giật mình” lắm, bởi vì “khí cụ” đã dám lộng hành vì lạm dụng “quyền” để “hành” người khác !
Chúa Giêsu trao quyền “tháo cởi” không phải là thích thì cởi, không thích thì thôi. Thế nhưng điều đó đã bị người ta hiểu sai và lạm dụng. Bài học “tha bảy mươi lần bảy” ( Mt 18, 21-22 ) và dụ ngôn “tên mắc nợ không biết thương xót” ( Mt 18, 23-25 ) vẫn còn đó, vẫn mới tinh và vẫn nóng hổi !
Bản tính con người rất dễ háo danh và hám lợi, vì có “cái danh” thì thường có kèm theo “cái lợi”. Chức danh càng cao, bổng lộc càng nhiều. Điều này xảy ra trong xã hội thì quá rõ ràng, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây đều có, nhưng ngay trong Giáo Hội cũng có những người không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của DANH và LỢI. Người ta chú trọng “cái danh” mà quên “cái phận”, trong khi “cái phận” cần thiết hơn “cái danh”. Thật vậy, Đức Kitô đã động viên người ta làm “ngược đời” chứ không theo lẽ thường: “Nhiệt tâm phục vụ, không mong hưởng thụ” ( x. Mt 20, 28 ). Hai động thái trái ngược mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.
Hẳn là nhiều người còn nhớ điều thú vị này: Thứ Sáu 1.8.2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô ( Tổng Giám Mục Jorge Mario Bergoglio ngày nào luôn gần gũi đám dân nghèo ) đã bất ngờ đến ăn trưa tại một tiệm ăn bình dân dành cho các công nhân áo xanh và những người lao công trong khu công nghiệp nhỏ ở Vatican. Ngài vẫn tự cầm khay và đứng xếp hàng chờ đến lượt mình nhận thức ăn nơi quầy thức ăn làm sẵn, giống như mọi người, không nhận quyền ưu tiên nào, đi đây đó thì tự xách cặp. Điều này chứng tỏ lời ngài là thật đối với câu nói của ngài đã phát biểu trước đám đông giới trẻ: “Tôi không muốn làm Giáo Hoàng đâu”.
Ai cũng biết rằng Giáo Hoàng là “người đứng đầu” của Công Giáo, tức là “ông lớn” thực sự, thế nhưng “ông lớn” lại thích làm “ông nhỏ”, tự phục vụ chứ không cần người khác phục vụ, còn nhiều “ông nhỏ xíu” lại muốn biến thành “ông lớn”, chẳng khác gì truyện thơ ngụ ngôn “Ếch Muốn Bằng Bò” ( La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que Le Bœuf ) của Jean de La Fontaine ( Pháp ). Vừa khôi hài, vừa đau điếng !
Cổ nhân nói: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên” ( Trong ba người cũng có một người làm thầy ). Tất nhiên là thế thôi ! Tự nhiên, chức vụ là để phục vụ chứ không để tự tôn hoặc lên mặt với người khác. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi hoạt động trong một lĩnh vực nào đó để cộng tác với Ngài mà hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai được phép “ngồi mát ăn bát vàng”, rung đùi hưởng nhàn. Người ta thích “nói hay” về sự phục vụ nhưng chưa chắc muốn phục vụ. Người ta cũng leo lẻo nói rằng “lao động là vinh quang”, nhưng rồi có mấy ai thích vinh quang mà chỉ ưa ung dung tự tại, chỉ tay năm ngón, và... hốt bạc tỷ. Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Thế là OK. Xong. Đời cũng thế mà đạo cũng vậy !
Nói được thì phải làm được, đừng nói trước rồi bước không qua, đó là “lẻo mép”, là ba hoa, là giả hình. Viết được thì cũng phải làm được, đừng viết lắm mà nắm không xong, đó là “lẻo bút”, là phét lác. Dạng “lẻo” nào cũng chết. Chết chắc ! Vì đó là người có “máu” Pharisêu, mang gien-đạo-đức-giả, đúng như Ngôn Sứ Isaia đã nói trước: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” ( Mt 15, 8-9 ). Dạng người như vậy “được” Chúa Giêsu gọi là “mồ mả tô vôi” ( Mt 23, 27 ). Một biệt hiệu ( nickname ) nghe rất “kêu”, nhưng lại cảm thấy “nhột gáy” quá chừng ! Thánh Phaolô cũng nói thẳng: “Lạ gì đâu ! Vì chính Satan cũng ĐỘI LỐT thiên thần sáng láng ! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó ĐỘI LỐT người phục vụ sự công chính” ( 2Cr 11, 14-15 ).
Thiết tưởng cần ghi nhớ rạch ròi để đừng ảo tưởng: Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng bình đẳng, chẳng ai hơn hoặc kém ai, và mọi người là con cái Chúa thì tất nhiên cũng là anh em với nhau ( x. Mt 23, 8 ). Chắc chắn Chúa không quan tâm cái CHỨC mà chỉ xét đến cái VỤ. Mười nén, năm nén, ba nén, … thậm chí là nửa nén cũng không thành vấn đề, quan trọng là SINH LỜI hay không. Vậy thôi ! Thế nhưng ở đời cũng “lắm chuyện”. Không nói thì người ta bảo hèn nhát, a dua, nịnh hót, theo đóm ăn tàn. Dám nói thẳng nói thật thì bị ghét bỏ, bị trù dập, bị xa lánh. Dốt nát thì bị KHINH, thông minh thì bị GHÉT. Chúa Giêsu cũng chỉ vì thẳng-thắn-thật-thà nên thiệt thòi, bị mỉa mai đủ thứ, và rồi còn bị giết chết thê thảm !
Rất cần can đảm, tức là “dám” nhìn vào sự thật và đối mặt với kẻ giả nhân giả nghĩa. Dù sao thì cũng PHẢI cứ là chính mình, không nịnh bợ, luồn cúi hoặc khép nép trước bất cứ ai – dù ông to hay bà nhỏ, nhưng cũng không hống hách hoặc khinh miệt bất cứ ai. Cứ bình thường!
Thánh Phaolô cho biết: “Kẻ trồng người tưới đều NHƯ NHAU, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình” ( 1Cr 3, 8 ). Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, mỗi người mỗi việc, tùy khả năng Chúa ban. Đó là Ngài chia sẻ công việc để chúng ta làm mà có thêm công trạng theo danh chính ngôn thuận, chứ Ngài đâu cần gì chúng ta góp một tay. Đức Giáo Hoàng danh dự Benedict XVI, khi còn đương nhiệm, đã nhận xét: “Kitô giáo không là triết lý mới hoặc luân lý mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Chỉ trong mối quan hệ riêng với Đức Kitô, Đấng phục sinh, chúng ta mới thực sự là Kitô hữu”.
Con người luôn khắc khoải về thân phận hoặc số phận, luôn thao thức về chính mình, một hạt bụi nhỏ nhoi mà đầy nỗi gian truân, nỗi đọa đày. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tự hỏi: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi ?” ( Cát Bụi ). Nhưng ông không thể giải đáp, nên ông tự nhủ và nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục tự vấn: “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng... Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng... Tôi là ai mà còn ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn trần gian thế ? Tôi là ai, là ai, là ai mà yêu quá đời này ?” ( Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng ). Cuộc đời như một chu kỳ lẩn quẩn. Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi lòng Thánh Augustinô cũng luôn như biển động: “Linh hồn con bồn chồn lo lắng mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”. Cuối cùng, tác giả Thánh Vịnh kết luận: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” ( Tv 62, 2 ).
Đó là một quá trình gian nan, chiến đấu với nhiều thứ và phải cố gắng vượt lên chính mình. Ước gì mỗi chúng ta khả dĩ xác định được như vậy, đồng thời có thể nói như Ngôn sứ Êlia: “Lòng nhiệt thành đối với Chúa nung nấu con” ( 1V 19, 14 ). Biết Chúa và biết mình, điều nào cũng khó, nhưng cần phải biết Chúa để có thể biết mình. Vâng, Thánh tiến sĩ Augustinô đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim me”. Chính Thánh Augustinô cũng đã tỏ ra hối tiếc mà thú nhận: “Con yêu Chúa quá muộn màng”. Biết Chúa và được yêu Chúa thì quả là đại phúc !
Cả đời Chúa Giêsu chỉ chạnh lòng thương người ta, chẳng chơi ép ai bao giờ, và Ngài còn là người-nghèo-chính-hiệu, thế nên Ngài rất yêu thương người nghèo, Ngài nghèo tột cùng: SINH nơi hang chiên, SỐNG ở ngoài đường, và CHẾT trần trụi trên đồi hoang. Thật vậy, từ ngàn xưa Thiên Chúa đã minh định: “Ta KHÔNG hề ở trong một NGÔI NHÀ, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một CÁI LỀU và trong một NHÀ TẠM” ( 2Sm 7, 6 ). Còn chúng ta, thế nào là Nhỏ và thế nào là To ? CHỨC ( tước ) sinh ra QUYỀN ( lực ), sinh ra HÀNH ( hạ ). Quả là TO thật !
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con chân nhận Ngài là Thánh Phụ, tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp con nhận biết chính mình để khả dĩ sống khiêm nhu đúng mức, chứ không ảo tưởng mà kiêu ngạo, giả hình, đồng thời cũng biết sống đúng bậc mình, quyết tâm sinh lời theo “số vốn” Ngài trao cho con. Xin cho những người có chức có quyền đừng “hành hạ” người khác, nhưng biết dùng quyền để yêu thương và dẫn đưa người khác đến với Chúa. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hai diễm phúc lớn của thánh Phêrô
Sau khi Phêrô tuyên xưng rằng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu nói TN 21-A127
Sau khi Phêrô tuyên xưng rằng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu nói với ông: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
Trích đoạn Tin mừng này cho ta thấy thánh Phêrô có hai diễm phúc lớn:
Một là được Chúa Cha mặc khải cho biết Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống; hai là được Chúa Giêsu đặt làm Tảng Đá kiên vững để xây dựng Hội thánh của Ngài.
Hai diễm phúc tương tự của người Kitô hữu
Tuy nhiên, không chỉ một mình thánh Phêrô mới được hưởng hồng phúc lớn lao đó mà bất cứ Kitô hữu nào cũng được thông phần vào hai hồng phúc quý báu này.
- Hồng phúc thứ nhất: Nhờ ơn Chúa ban, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng được hồng phúc nhận biết Chúa Giêsu như thánh Phêrô từng biết.
Đây là điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các nhà thông thái… chưa từng được nghe, chưa từng được biết, vậy mà chúng ta đã được biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống. Hơn thế nữa, chúng ta còn được nghe Ngài phán dạy qua những trang Tin mừng, qua giáo huấn của Hội thánh từ lâu nay.
Chính Chúa Giêsu cũng nhìn nhận đây là đại phúc:
“Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17).
Hồng ân này lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giêsu đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25).
- Hồng phúc thứ hai: Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô như thánh Phêrô, chúng ta còn được hồng phúc thứ hai là được Chúa chọn làm đá tảng xây hội thánh nhỏ của Chúa.
Thánh Phêrô dạy rằng Thiên Chúa muốn nhờ đến chúng ta như “những viên đá sống” để xây nên Đền thờ của Chúa. Ngài nói như sau: “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5).
Noi gương thánh Phêrô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia
Phêrô là Đá tảng được Chúa chọn làm nền móng để xây dựng Hội thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ. Thế là chúng ta trở thành những Phêrô khác, những “viên đá” khác trong Hội thánh tại gia. Hội thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phêrô thì Hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi Phêrô được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội thánh, ngài không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa, mở mang Hội thánh và đem lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Xin cho chúng con là những người được Chúa tuyển chọn làm những viên đá xây đền thờ Chúa, thì cũng biết noi gương thánh Phêrô mà tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng con trở nên một đại gia đình thánh thiện và chan hòa tình yêu thương.
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
“Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ."
Thế là cho đến lúc đó, chưa có ai trong dân Do-Thái nhận biết thiên tính của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su TN 21-A128
Thế là cho đến lúc đó, chưa có ai trong dân Do-Thái nhận biết thiên tính của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
Si-môn Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Một câu đáp gây kinh ngạc! Si-môn Phê-rô đã thấu được căn tính của Chúa Giê-su!
Cho đến lúc đó, chỉ có Si-môn Phê-rô là người duy nhất được đặc ân nầy. Vì thế, Chúa Giê-su ca ngợi và chúc mừng: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Cũng như thánh Phê-rô, chúng ta được diễm phúc nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa.
Hôm nay, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta hồng phúc không thua kém gì Phê-rô xưa.
Trong số 87 triệu người Việt Nam, có chừng bảy triệu người công giáo, chiếm 8%. Như thế, cứ một trăm người Việt mới có được tám người công giáo. Chúng ta may mắn được liệt vào con số ít ỏi nhưng đầy diễm phúc nầy.
Điều mà các vị đại ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các khoa học gia tên tuổi… chưa từng được nghe, chưa từng biết, thì Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta từ lúc mới có trí khôn. Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận đó là đại phúc:
"Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe”. (Mt 13, 16-17)
Sở dĩ đây là đại hồng phúc vì hiểu biết Thiên Chúa là đầu mối đưa đến ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời.
Hồng ân Chúa Cha ban cho chúng ta lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giê-su đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25)
Cũng như thánh Phê-rô xưa, chúng ta được chọn làm “viên đá” xây dựng Hội Thánh.
Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Si-môn Phê-rô còn được phúc thứ hai là được Chúa chọn làm Đá tảng xây Hội Thánh Chúa: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Từ ngày được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa cũng ưu ái trao ban hồng phúc đó cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng được liên kết với Chúa Giê-su là “viên đá đỉnh góc” (Mt 21,42), là “viên đá sống động” (I Pr 2,5) để cùng nhau xây lên Đền thờ Thiên Chúa, như lời thánh Phê-rô: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5)
Noi gương thánh Phê-rô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia.
Phê-rô là Đá Tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội Thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ chúng ta. Thế là trong cương vị người cha người mẹ, người anh chị em trong gia đình, chúng ta trở thành những Phê-rô khác, những “viên đá” khác trong hội thánh tại gia. Hội Thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phê-rô thì hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội Thánh, Phê-rô không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Được chọn làm đá tảng như Phê-rô, chúng ta hãy tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng ta trở nên một đại Gia Đình chuyên chăm phục vụ và chan hòa tình yêu thương.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã ban ơn giúp sức cho thánh Phê-rô làm tròn vai trò của người trong cương vị Đá tảng Hội Thánh thì xin Chúa cũng nâng đỡ và giúp sức để chúng con chu toàn vai trò của mình trong cương vị đá tảng của hội thánh tại gia.
------------------------------------------
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI năm A này có thể được gọi là lễ trao ban quyền TN 21-A129
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI năm A này có thể được gọi là lễ trao ban quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Is 22: 19-23
Bản văn I-sai-a gợi lên việc tấn phong một tổng giám quản hoàng cung của vương quốc Giu-đa, viên quan nầy sẽ thực hiện quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
Rm 11: 33-36
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma kết thúc phần đạo lý, thánh Phao-lô ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa.
Mt 16: 13-20
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)
Bài Đọc I nầy hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan nầy tước vị và quyền quản trị hoàng cung qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a thuật lại chắc chắn được định vị vào trước thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của quân đội Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa. Chính Thiên Chúa sẽ truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” đương nhiệm, mà trao cho ông Ê-li-a-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài. Câu chuyện nầy có hai nét đặc trưng: lễ tấn phong và hậu cảnh thiên sai.
1. Lễ tấn phong:
“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho y; cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y; quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay y”: Xem ra vị quyền cao chức trọng nầy mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định tước vị và quyền hành của ông: “Đối với dân cư Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa, y sẽ là một người cha”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”, chắc chắn, ở đây, tước hiệu này muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến tư lợi của mình. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày đăng quang của mình, chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền bính của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích Mê-si-a.
2. Hậu cảnh thiên sai:
Trong ánh sáng giải thích theo chiều hướng thiên sai, phần cuối bài thơ mặc lấy một chiều kích khác. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y: y mở ra thì không ai đóng được, y đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho y vững chắc như đinh đóng cột, và y sẽ làm cho gia tộc của mình được rạng rỡ vinh quang.” Những biểu thức nầy được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một tân vương. Nhưng phải chăng đây thật sự là một “tân vương thuộc dòng dõi vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích hậu duệ vua Đa-vít này theo nghĩa thiên sai. Quả thật, sách Khải Huyền thánh Gioan đã giải thích bản văn theo truyền thống nầy, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Theo sau thánh Gioan, các Giáo Phụ cũng đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh thiên sai nầy.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)
Bài thánh thi nầy tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo lý của thư gởi tín hữu Rô-ma.
1. Ơn Cứu Độ cho người Do thái:
Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định nầy đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: sự bất phục tùng của dân Ít-ra-en lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.
2. Niềm cảm tạ tri ân:
Từ đó, thánh Phao-lô cất cao lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi. Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh nhân diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình.
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a vang lên trong tâm trí của thánh nhân:
“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi?
Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?
Người đã thỉnh ý ai để giúp Người thông hiểu,
bảo cho Người biết lối công minh,
dạy cho Người mở mang kiến thức,
chỉ cho Người con đường trí tuệ?” (Is 40: 13).
Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Thiên Chúa:
“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
….
Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,
tính chung lại, ôi nhiều vô kể!” (Tv 139: 6, 17).
3. Lời chúc tụng:
Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca nầy với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men.” Lời tán tụng nầy, câu “Vinh Chúc” nầy với những đặc ngữ chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xuyết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca nầy cũng có thể được một kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi khơi nguồn cảm hứng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)
Vì người Biệt Phái và kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tỉnh để được sống riêng tư thân thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế, nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền của vua Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp, một nhà cai trị chừng mực và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp nầy đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gút-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố nầy được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp”. Trong lãnh địa nầy, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình nầy, Ngài bắt chuyện với các ông.
Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện nầy vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.
1. Thăm dò dư luận.
Trước khi đề cập đến cuộc chuyện trò cách chi tiết hơn, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện vừa mới xảy ra trước đây. Sự kiện thứ nhất chỉ một mình thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 67-69).
Sự kiện thứ hai kể ra việc Đức Giê-su thực hiện hai phép lạ cùng một lúc: đi trên mặt biển và dẹp yên bảo tố, hai phép lạ này đặc biệt dành riêng cho các môn đệ và chỉ cho các môn đệ mà thôi. Thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và là người duy nhất được Thầy cho phép đi trên biển dậy sóng để gặp Ngài. Sau cùng tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33). Đức tin trong những giây phút đầy cảm kích còn động lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi họ tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Vì thế, đây là giây phút thuận tiện để mà Đức Giê-su dò xét mức độ đức tin của họ vào Ngài.
Trước hết, Ngài hỏi các ông dư luận quần chúng về Ngài ngỏ hầu giúp các môn đệ hiểu biết hơn rằng đức tin của họ phải thoát khỏi thế kiềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào. Kẻ thì nói Ngài là ông Gioan Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc độc giả nhớ rằng tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su chính là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ngôn sứ Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin nầy dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ Ma-la-khi: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, tước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3: 23). Có người lại cho Ngài là ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện nầy (x. Mt 16: 14). Sách Ma-ca-bê quyển hai chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (2Mcb 15: 13-16; x. Xh 32: 11).
2. Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô.
Tuy nhiên, không phải dư luận quần chúng về Ngài mà Chúa Giê-su thực sự muốn biết khi hỏi các môn đệ của Ngài. Câu hỏi về dư luận quần chúng chỉ như khúc dạo đầu cho một câu hỏi khác, còn quan trọng hơn nhiều, mà Đức Giê-su muốn dò hỏi từ chính các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, thánh Phê-rô trả lời nhân danh họ: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là một tước hiệu được phiên âm từ tiếng Hy-lạp: “Christos” dịch sát từ tiếng Híp-ri: “Mê-si-a”, có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong các sấm ngôn Cựu Ước, tước hiệu này loan báo Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu độ dân Ngài. Còn trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là biểu thức tiêu biểu Cựu Ước. Biểu thức nầy nhắc nhớ rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng vô tri vô giác của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng nầy, thánh Phê-rô nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, nghĩa là Ngài không đơn giản chỉ là Đấng Ki-tô phàm nhân thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Ki-tô có nguồn gốc thần linh. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu hôm nay là đầy đủ nhất so với Tin Mừng Mác-cô: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8: 29) và Tin Mừng Lu-ca: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20).
Đó là lý do tại sao chỉ duy Tin Mừng Mát-thêu ghi lại cho chúng ta rằng Đức Giê-su tán dương lời tuyên xưng đức tin nầy và nhận ra mặc khải siêu nhiên mà thánh Phê-rô nhận được: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu đuối mõng dòn trái ngược với Thiên Chúa hằng sống. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải. Lời tuyên xưng này cũng đã được Đức Giê-su xác nhận và chứng thực khi chính Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài: “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Vài ngày sau đó, Đức Giê-su sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp.
3. Lễ tấn phong thánh Phê-rô:
Phần cuối của câu chuyện nầy, được gọi là lễ tấn phong Phê-rô cũng chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu, lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội.
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Kepha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Kepha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng, nhưng là một danh từ. Khi nâng danh từ “kepha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Kepha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên thánh nhân từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy để lãnh nhận một sứ mạng mới, như vậy, với một con người mới và một vận mệnh mới, thánh Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay trên đó Chúa Giê-su xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Đức Giê-su chọn hình ảnh: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” để khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”. Hình ảnh nầy chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng cung, ông có nhiệm vụ coi sóc và quản trị hoàng cung. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, vị tổng quản Giáo Hội, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và quản trị Giáo Hội của Đức Kitô.
“Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” để áp dụng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “ngăn cấm”, và “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.
4. Quyền Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô:
Để kết thúc buổi chia sẻ này, chúng ta nên đọc và hiểu bản văn Tin Mừng Mát-thêu này một cách tinh tế, đừng vội đồng hóa lời tuyên xưng của thánh Phê-rô với con người của thánh nhân, bởi vì ngay sau câu chuyện này, Đức Giê-su đã quở trách nặng lời với thánh nhân khi thánh nhân tìm cách ngăn cản Ngài thực hiện con đường cứu độ cho muôn người qua cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Vì thế, chính không phải con người của thánh nhân, nhưng lời tuyên xưng của thánh nhân mới là đá tảng vững chắc trên đó Đức Giê-su xây dựng Hội Thánh của Ngài mà ngay cả quyền lực tử thần cũng sẽ không thắng nổi.
Vì thế, không lạ gì trong các sách Tin Mừng, ngoài bản văn của thánh Mát-thêu, chúng ta còn gặp thấy hai bản văn khác nữa nói về quyền tối thượng của thánh Phê-rô. Trong Tin Mừng của thánh Lu-ca, vào buổi chiều Tiệc Ly, trước khi báo trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay thánh nhân sẽ chối thầy đến ba lần, Đức Giê-su nói với chỉ một thánh Phê-rô,: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22: 32). Theo truyền thống Tin Mừng Lu-ca, thánh Phê-rô được trao quyền lãnh đạo của Giáo Hội Ngài không phải vì thánh nhân có đức độ tài năng hơn các bạn đồng môn khác, nhưng chỉ vì thánh nhân có cảm nghiệm sâu xa hơn những môn đệ khác về sự mõng dòn yếu đuối của bản thân mình qua ba lần chối Thầy và sự tha thứ vô hạn của Thầy đối với mình. Chỉ như thế, thánh nhân mới có thể cảm thông những yếu đuối của anh em mình và nâng đỡ đức tin của anh em mình trong những gian nan thử thách.
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, vào sáng sớm sương mờ của biển hồ Ti-bê-ri-a, Đức Giê-su Phục Sinh gặp gỡ các môn đệ của Ngài. Sau khi đã cho các ông một mẽ lưới cá lạ lùng và đã dọn sẵn cho các ông một bữa ăn trên bờ hồ, xảy ra một cuộc đối thoại thật cảm động của Chúa Giê-su với chỉ một mình thánh Phê-rô. Trong cuộc đối thoại đó, Chúa Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Anh có mến Thầy không?”, và ba lần Chúa Giê-su trao quyền mục tử cho thánh nhân (Ga 21: 15-17). Như vậy, theo truyền thống Tin Mừng Gioan, quyền mà Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô không là cai trị, nhưng là ân cần chăm lo cho đoàn chiên của Ngài bằng trọn một tấm lòng yêu mến mà thánh nhân dành cho Thầy mình. Quả thật trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11), khác với kẻ chăn chiên thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10: 12). Kẻ chăn chiên thuê mà Chúa Giê-su đề cập đến ở đây chính là giới lãnh đạo tôn giáo của dân Ít-ra-en, họ cũng đã được Thiên Chúa chọn và trao ban quyền chăm lo cho dân của Ngài. Nhưng Chúa Giê-su trách cứ họ khi gọi họ là kẻ chăn chiên thuê vì họ chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình, không sống chết với đoàn chiên mà Thiên Chúa ủy thác cho họ.
Có hiểu như thế, chúng ta mới có thể nhìn thấy cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội Chúa Ki-tô thật đẹp biết bao. Cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội được chính Đức Giê-su thiết lập không phải để cai trị nhưng để yêu thương và phục vụ. Ngay chính Tin Mừng Mát-thêu, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta cuộc tấn phong thánh Phê-rô hôm nay, cũng ghi lại những lời tâm huyết mà Đức Giê-su muốn các môn đệ chân chính của Ngài phải khắc cốt ghi tâm: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 25-28). Chính thánh Phê-rô đã hiểu, nên sau này thánh nhân đã khuyên các bậc kỳ mục: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã trao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiểu không bao giờ hư nát” (1Pr 5: 2-4).
Cuối cùng, chúng ta đừng quên, chính đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã chọn bản văn Tin Mừng Gioan chứ không bản văn Tin Mừng Mát-thêu vào ngày lễ đăng quang của mình, để nhấn mạnh chức năng Mục Tử tối cao của ngài, chứ không vai trò thủ lãnh tối cao của Giáo Hội.
------------------------------------------
Niềm tin Kitô giáo không phải là một quyển sách hay một lý thuyết nào mà là một con người: đó TN 21-A130
Niềm tin Kitô giáo không phải là một quyển sách hay một lý thuyết nào mà là một con người: đó là Giêsu Na-da-rét, là Thiên Chúa thật và là người thật.
Chúng ta hãy cùng với thánh Phêrô, tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Hôm nay, Chúa Giêsu sẽ đến với chúng ta nơi bàn thờ nầy, không phải dưới khuôn mặt con người mà là một tấm bánh. Chúng ta có thể tin như Phêrô không?
Chắc chắn, nếu trong giây phút nầy, Ngài hiện ra với chúng ta như khi xưa ở miền đất Xê-da-rê-Phi-líp-phê, và Ngài cũng hỏi chúng ta như đã hỏi các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời sao?
Có lẽ chúng ta sẽ trả lời như Phêrô: “Thầy là Thiên Chúa”, “Thầy là Con Thiên Chúa vv...” Nhưng câu trả lời của chúng ta có giá trị như thế nào? Chúng ta sẽ trả lời đúng với lòng mình không?
Thực sự, hôm nay và mỗi ngày, Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta như thế: “Con nghĩ Thầy là ai đối với con?” Sự có mặt của Ngài trong Bí Tích Thánh Thể là một câu hỏi không lời. Chúng ta không thể tránh né câu hỏi đó, nếu không, đức tin của chúng ta sẽ vu vơ, không rõ nét. Mỗi người chúng ta phải giáp mặt với Chúa trong tận đáy lòng mình, và phải xác định thái độ và niềm tin của chúng ta.Chỉ có Chúa Giêsu mới nghe câu trả lời của chúng ta , và đó là chuyện của mỗi người chúng ta với Chúa.
Chúng ta hãy xem thái độ của những người đương thời với Ngài. Họ đã gặp Ngài, đối diện với Ngài, họ nghĩ sao về Ngài.
Những người hàng xóm, họ hàng: “Ông nầy là con ông Giuse”, “con bà Maria”... Đó là cái nhìn của những con người gần Ngài nhất. Họ không cần đặt vấn đề về những gì họ nghe thấy, và họ lại còn hiểu lệch lạc: “Làm sao ông ấy giỏi như thế, làm được những việc lạ lùng như thế?”
Những người ganh ghét như mấy ông Pha-ri-sêu lại cố gắng bóp méo những gì họ chứng kiến, xuyên tạc sự thật, không dám nhìn giá trị của người khác: “Ông nầy ăn uống với người tội lỗi!” “Ông ấy không giữ luật ngày sabbat.” Và đến một giai đoạn nào đó, họ xúc phạm: “Ông bị quỉ ám.”
Nhưng có những người thành tâm, với cái nhìn không méo mó, họ cũng nhận thấy được một cái gì khác thường nơi Ngài.
“Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền”.
“Ngài làm những dấu lạ… từ trước đến nay không ai làm được như Ngài”. Và họ tưởng rằng Ngài là một tiên tri, họ nghe lời Ngài và ngợi khen Thiên Chúa vì những việc Ngài làm.
Ông Ni-cô-đê-mô là người Pha-ri-sêu đã đến gặp Ngài ban đêm và công nhận: “Thầy là Đấng Thiên Chúa sai đến…” Người mù thành Giê-ri-khô đã gọi Ngài là “Con vua Đa-vít.
Một số người khác gặp Ngài và được Ngài tỏ cho họ biết Ngài là ai, trong số đó chúng ta nhận thấy người phụ nữ Samari: “Đấng Thiên Sai là ai vậy, thưaThầy?”
Chúa Giêsu trả lời và cho chị biết: “Chính là Ta, người đang nói chuyện với chị”. Chị nhận ngay và bỏ bình nước đó, chạy về làng báo cho mọi người biết. Dân làng nhờ đó nhận ra Ngài: “Chúng tôi đã biết Ngài và chúng tôi biết Ngài là Đấng Cứu Thế”.
Anh mù Bar-Ti-mê đã được chữa lành. Trước những ông Pha-ri-sêu sừng sỏ, anh đã tuyên xưng: “Ngài là một vị tiên tri”. Và trong cuộc chất vấn gay gắt đó, họ bảo anh: “Anh hãy làm sáng danh Chúa. Phần chúng tôi, chúng tôi thấy rằng tên đó là một người tội lỗi”. Anh mù trả lời một cách ngay thẳng: “Ông ấy là người tội lỗi, điều ấy tôi không được biết: tôi chỉ biết một điều là xưa tôi mù và bây giờ tôi được sáng mắt… Không có ai mở mắt cho người mù từ thuở mới sinh. Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì chẳng làm được như vậy”.
Câu chuyện cũng có một nét gì đó khôi hài và mỉa mai, nhưng chúng ta nhìn thấy lòng tin chất phát của anh mù. Vì thế, khi gặp lại anh, Chúa Giêsu cho anh biết rõ hơn: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh trả lời: “Người là ai, xin Thầy nói để tôi tin”. Chúa Giêsu nói với anh: “Ngươi đã thấy Người, chính Người đang nói với ngươi đây”. Anh đáp: “Thưa Thầy, tôi tin”. Và anh sụp lạy Ngài.
Chúng ta tin thế nào? Chúng ta có dám nói như Na-tha-na-en không: “Thầy là Con Thiên Chúa.” hay không?
Chúng ta hãy nhìn lại niềm tin của chúng ta. Hãy cùng với thánh Phêrô tuyên xưng một cách mạnh mẽ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Thánh Phao-lô, trên con đường Đamat, đã nhận biết Chúa và hoàn toàn sống cho Chúa, đến nỗi Ngài đã nói mà không sợ ai hiểu lầm: “Tôi sống, nhưng không là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. “Không ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô…”
Các thánh mà chúng ta được biết đã hoàn toàn sống “hết mình” cho Chúa. Họ đã biết họ tin vào ai. Còn chúng ta? Nếu thực sự chúng ta tin Ngài, tại sao chúng ta không sống thực sự cho Ngài? Mấy người trong chúng ta dám nói như Phao-lô: “Sự sống của tôi là Chúa Giêsu Kitô?”
Nơi bàn thờ nầy, Chúa Giêsu có mặt. Ngài cho chúng ta một hình thức kết hợp với Ngài sâu xa không thể tưởng được là ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ đáp lại tình yêu của Ngài như thế nào? Ngài đang đợi chờ nơi chúng ta một câu trả lời dứt khoát. Chúng ta sẽ nói sao?
--------------------------
(Suy niệm của Lm. Đức Khiêm, CRM)
Trong Kinh Thánh có chuyện ông Gióp là người trung thành và tín phục Thiên Chúa. Ông được TN 21-A131
Trong Kinh Thánh có chuyện ông Gióp là người trung thành và tín phục Thiên Chúa. Ông được Chúa yêu thương rất mực, khiến ma qủy ghen tức với ông. Có một lần bọn chúng đã kêu xin Chúa cho thử lòng ông. Chúa cho phép ma quỷ và phán rằng: "Ta cho phép ngươi được làm hại nó mọi cách để thử lòng nó có trung tín với Ta không, nhưng Ta cấm ngươi không được làm nó chết". Thế là ma qủy ra sức tấn công ông Gióp. Nó gây nhiều tai họa trên ông như cướp hết gia tài của ông, lại giết chết các con trai con gái của ông trong một ngày. Còn chính ông thì nó làm cho ra ghẻ lở, chốc lếch, khiến ông phải ngồi trên đống tro... Vậy mà ông cũng một lòng trung thành tạ ơn Chúa. Ba người bạn của ông là Eliphaz, Bildad và Xophar đến để tìm hiểu cái huyền bí đau khổ của ông, nhưng ông một mực thưa: "Chúa cất hết con tôi, tịch thu hết nhà cửa, của cải sản vật của tôi, lại biến tôi thành lở chốc như thế này, tôi xin cảm tạ Chúa. Chúa cất đi rồi Chúa cho lại mấy chốc".
Trong cơn đau khổ của ông, Chúa thân hiện ra chất vấn ông: "Lúc Ta đặt nền móng trái đất này thì ngươi có chưa? Ngươi có biết ai đã đặt kích thước cho vũ trụ và thế giới này không? Ai đã phủ mây quả địa cầu này như người mẹ che phủ quần áo cho con? Ai đã mở đường cho sấm chớp đổ xuống?" Ông thưa: "Ai có thể trả lời được những câu hỏi của Chúa, lạy Chúa, Chúa biết hết rồi".
Thánh Phaolô đã kêu lên: "Ôi thẳm sâu thay, sự thượng trí và thông biết của Chúa". Sự phán quyết của Chúa làm sao hiểu được, đường lối của Chúa làm sao mà dò, nó cao xa tựa ngàn mây thẳm. Thiên Chúa là Đấng hằng có đời đời, chẳng ai dựng nên Người, Người quyền phép vô cùng, thông biết mọi sự. Người là thượng đế, mọi loài đều phải suy phục, tôn thờ. Thánh Phêrô được Thánh Linh soi sáng đã thưa với Chúa Giêsu: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Nếu như thế thì chúng ta đừng bao giờ tự hỏi: Tại sao Chúa để tôi khổ thế này? Tại sao Chúa không cho tôi được thế này thế kia? Tại sao Chúa không giúp những chương trình, những dự định của tôi?
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết đường lối khôn ngoan Chúa đã định cho con, để con sống trong hạnh phúc và đẹp lòng Chúa luôn.
--------------------------
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)
Nếu ta nhìn vào Tivi cách đây hơn chục năm, hoặc xem băng hình ghi lại các chuyến đi của TN 21-A132
Nếu ta nhìn vào Tivi cách đây hơn chục năm, hoặc xem băng hình ghi lại các chuyến đi của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II trong những năm cuối đời của ngài, hẳn ta sẽ nhìn thấy cây gậy của Đức Giáo Hoàng trở thành hữu dụng. Ngài chống và tựa trên chiếc gậy đó. Gậy không còn là biểu tượng cho quyền chăn chiên, quyền dẫn dắt, như ta thấy các giám mục vẫn thường dùng. Vị Giám mục Roma Gioan Phaolô II dùng gậy để chống đỡ chính mình.
Hình ảnh ĐGH Gioan Phaolô II về già chống và tựa cả thân mình trên chiếc gậy đó có diễn tả được điều mà Tin Mừng hôm nay nói về Phêrô mà ĐGH là người kế vị không: Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy và cửa địa ngục không thể phá được.Nếu Phêrô là Đá Tảng, thì kẻ kế vị người, cũng là tảng đá. ĐGH là đá tảng.
Nếu tảng đá được ví như cái gì chắc chắn, cho người khác tựa nương vào, thì với hình ảnh ĐGH Gioan Phaolô khi vượt qua ngưỡng cửa bát tuần, đã bết bát về sức khoẻ thể lý, lúc nào cũng phải tựa nương vào chiếc gậy, có còn là hình ảnh của tảng đá cho người khác tựa nương hay không ? Hẳn là khó hình dung tưởng tượng.
Nhưng tảng đá, ngoài ý nghĩa vững chắc, tựa nương, thì tảng đá còn có một ý nghĩa khác không kém phần quan yếu. Đó là: Tảng đá là nơi qui tụ. Tảng đá là nơi hợp nhất.
1. Tảng đá qui tụ
Tảng đá như nền nhà, quy tụ gạch xi măng, cát, sắt… để làm thành căn nhà. Căn nhà trong mạch ý Tin Mừng hôm nay chính là Hội Thánh.
Nếu Đức Gioan Phaolô không diễn được hình ảnh tảng đá cho người ta tựa vào, thì hình ảnh cụ già Wojtyla trên 80 tuổi vẫn và có khi còn hơn thế nữa, càng trở nên rõ nét hình ảnh của tảng đá quy tụ. Bởi tâm lý chung, nhất là tâm lý người Việt, người ta quy tụ về nhà người bô lão, chứ không tụ họp nơi nhà đám trẻ (giống như Tết nhất tới, người ta qui tụ về nhà ông bà để chúc thọ). Người bô lão là yếu tố thuận lợi để tụ hội, hợp nhất.
Chẳng thế mà, tuy tuổi đã cao, rất cao, lại yếu ớt, nhưng Đức Gioan Phaolô đi đến đâu là qui tụ cả rừng người đến đó (ta không nhắc đến ĐGH đương kim vì tuy đã bát tuần, nhưng còn mạnh khoẻ chưa phải “chống” gậy !). Chục nghìn, trăm nghìn, nghìn nghìn. Triệu này triệu kia. Điều này thật đúng khi giới trẻ ùn ùn kéo tới với ngài trong các đại hội giới trẻ. Mehico, St Louis, Compostella, và đặc biệt tại Đại Hội giới trẻ tại Paris, Pháp 1997. Đặc biệt không phải vì con số, mà vì sức lôi cuốn không ngờ. Trước ngày Đại Hội ít lâu, một nhà báo vô thần đã nhận xét về bầu khí xuống dốc của người Công giáo ở Pháp, và đoan chắc rằng đại hội sẽ rất ít người. Và với con số may ra được khoảng 100.000 người đến dự, thì bõ bèn gì để một vị giáo chủ già nua phải lần mò chống gậy sang tận Paris cho tốn công tốn sức. Nhưng rồi chuyện kinh ngạc đã xảy ra: Trên một triệu người trẻ tuốn về qui tụ tại Paris để gặp gỡ ĐGH, tảng đá qui tụ. Đại Hội sau đó 2000, con số bạn trẻ tụ họp tại Roma vượt xa con số này, trở thành kỉ lục với hơn 3 triệu người tham dự thánh lễ bế mạc. Ấy là ta chỉ kể tảng đá Phêrô qui tụ bạn trẻ, còn cả người lớn nữa, thì con số hẳn là hơn nhiều. Cụ thể, cụ già Wojtyla (tức ĐGH Gioan Phaolô 2) về thăm quê hương Balan lần thứ 9, qui tụ cả rừng người: hơn 3 triêu người tham dự thánh lễ tại Krakovia, giáo phận cũ của ngài trước khi về làm giám mục Roma. Một ông già qui tụ được bạn trẻ, nhiều người đến như thế, nghĩa là gì, nếu ngài không phải là tảng đá qui tụ.
Phát ngôn viên Tòa Thánh lúc đó, tiến sĩ Navaro Valls đã nhận xét: “Sức khỏe của ngài xuống hẳn, nhưng cảm ơn Chúa, điều đó không cản trở công việc của ngài. Tay bị run (vì bệnh Parkinson) phát âm nhiều chữ không rõ, nhưng đây có khi lại giúp ngài nói được với dân chúng hùng hồn hơn ở chiều kích mới.” “Cảm tưởng của tôi,” lời giáo sư Navaro Valls, “là khi người ta thấy tay ngài run, thì mọi thành quách bên trong của họ bị sụp đổ hết. Cánh tay run, đôi chân không vững phải tựa vào gậy lại có tác dụng mạnh hơn thân hình cường tráng của ngài cách đây hơn 20 năm khi mới lên nhận nhiệm vụ kế vị Phêrô tảng đá.” Phêrô là tảng đá, tảng đá quy tụ. Hình như càng già càng có khả năng quy tụ ! Nói thế không có nghĩa vị giáo hoàng trẻ tuổi thì ít có khả năng quy tụ hơn, nhưng muốn nói: đã là giáo hoàng, đấng kế vị Phêrô Tảng Đá, thì cũng là tảng đá quy tụ muôn người.
2. Tảng Đá Hợp nhất.
Qui tụ và hợp nhất có nét giống nhau, nhưng ta tạm phân biệt như sau: qui tụ là từ nhiều nơi trên khắp mặt địa cầu này hội tụ về một chỗ. Hợp nhất là cho dẫu phân tán ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng vẫn hướng về một người, một đích để hợp nhất. Phêrô là đá tảng hợp nhất.
Khi gọi Phêrô là Đá, trên nền đá này “tập kết” (quy tụ) gạch cát ximăng xây nhà Giáo Hội, Chúa Giêsu còn nói thêm: “quyền lực hỏa ngục không thể phá được.”
Phân tích có vẻ chú giải Kinh Thánh một chút, ta thấy trong hỏa ngục có ma quỷ. Hỏa ngục không thể phá đổ được, tức ma quỷ không thể lật nhào Hội Thánh được. Mà ma quỷ tiếng Hilạp là Diabolos (dia: xuyên qua; bolein=bolo=ném), tức kẻ gây chia rẽ, kẻ gây rối.
Trong ý hướng tảng đá hợp nhất, ta sẽ diễn dịch lại lời Chúa Giêsu như sau: Con là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây một Giáo Hội duy nhất, Kẻ Phá Rối, kẻ gây Chia Rẽ không đời nào phá vỡ nổi sự hợp nhất ta xây dựng.
Thử điểm lại các tôn giáo trên thế giới, và cách riêng Kitô giáo thôi, ta thấy không có Hội thánh nào khác ngoài Hội Thánh Công Giáo Roma có sự hợp nhất hữu hình này.
Ví dụ Anh Giáo, với cơ cấu có 7 Bí Tích như công giáo (như về con số 7 chứ không phải như về tính thành sự), họ có 27 Giáo Hội khắp nơi. Nhưng họ đâu có một con người hữu hình, một điểm nhắm cụ thể để họ hướng về đâu. Anh Giáo tại Mỹ, đâu có lệ thuộc gì Anh Giáo tại Anh quốc là nơi phát sinh ra Anh Giáo. Anh Giáo tại Úc không liên hệ gì tới Mỹ, tới Anh. Họ toàn quyền tổ chức, họ phong chức giám mục cho cả người nữ nữa, điều mà Anh Giáo gốc tại Anh Quốc chưa dám (chỉ mới phong chức linh mục cho nữ thhôi).
Ví dụ như Chính Thống với 13 Lễ chế khác nhau, và ngay cả cùng một lễ chế, như lễ chế Byzantin mà ở 2 nước khác nhau thôi, thì Chính Thống Rumani chẳng cần hướng lòng mình về Chính Thống Nga. Chính Thống Nga chẳng cần ngó xem Chính Thống Constantinop (hiện ở Thổ Nhĩ Kì, nôi của Chính Thống Giáo) làm gì để noi theo. Mỗi nước có một giáo hội Chính Thống độc lập. Họ có liên kết với nhau cũng rất lỏng lẻo, và chỉ là liên kết trên phiên họp lâu lâu (mấy trăm năm…) một lần.
Còn Tin Lành thì càng khó thấy sự hợp nhất. Mấy trăm giáo phái khác nhau là mấy ngàn thế giới: nào là Lutheran, Presbyterian, Methodist, Baptist, Phục Lâm ngày thứ 7… Mỗi giáo phái là một thế giới, mà hơn thế nữa, mỗi giáo phái tại mỗi nước, lại không lệ thuộc gì, không hợp nhất gì với cùng một giáo phái đó, tại các nước khác. Ranh giới quôc gia phân chia luôn ranh giới đạo giáo. (Và còn nhỏ hơn, trong cùng một nước, mà tỉnh này khác tỉnh kia. Vd: Hội Thánh Tin Lành Vĩnh Phước và Hội Thánh Tin Lành Lê Thành Phương, đâu nhất thiết phải hợp nhất với nhau.)
Tóm lại các Hội Thánh kể trên chỉ có cấp quốc gia mà không có cấp hoàn vũ. Trong khi đó, Hội Thánh Công Giáo, dù ở chân trời góc biển nào, dù màu da khác nhau tương phản, đều qui về, đều hợp nhất dưới một con người hữu hình, mang danh hiệu đấng kế vị Phêrô, Tảng Đá hợp nhất. Đây là nét trổi vượt, tính hơn hẳn, là lợi thế của Hội Thánh Công Giáo Roma trên con đường hợp nhất Kitô hữu, đến nỗi có thành ngữ, đường nào cũng dẫn tới Roma.
Sách Giáo Lý Chung, số 882, nói về ĐGH như sau: “Đức thánh cha, giám mục của Roma, kẻ kế vị Phêrô, là nguồn mạch và nền tảng hữu hình và vĩnh cửu về sự hợp nhất giữa các giám mục và sự hợp nhất của toàn thể cộng đoàn tín hữu.”
Anh là Phêrô nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Ta đã diễn dịch lại rằng “Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây một Hội Thánh duy nhất, tên Phá Rối, tên Gây Chia Rẽ không đời nào phá vỡ nổi sự hợp nhất Thầy xây dựng.”
Trong Kinh Tạ ơn của bất cứ thánh lễ nào, cử hành bằng bất cứ ngôn ngữ nào: Tây Tàu Mỹ, Lào, Campuchia, K’hor, H’Mong… đều có một lời cầu cho ĐGH, Tảng Đa hợp nhất. Ta hãy đặc biệt hiệp lòng. Và ta hãy long trọng tuyên xưng rằng ta tin vào một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, mà trong đó nét trổi vượt chính là sự hợp nhất, do bởi có ĐGH là đá tảng hợp nhất, tảng đá qui tụ. Amen.
--------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều nói đến những chức vụ Thiên Chúa ban cho con người. TN 21-A133
1. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều nói đến những chức vụ Thiên Chúa ban cho con người. Thật vậy, các chức vụ được ban không phải do sáng kiến hay chọn lựa của con người, nhưng trên hết đều bắt nguồn từ Thiên Chúa cũng như sự tự do và uy quyền của Thiên Chúa ban cho những người mà Ngài đã tuyển chọn.
2. Bài đọc một chúng ta vừa nghe thuật lại việc Chúa chọn Êliaquim thay thế cho Sobna để nắm giữ chức vụ cai quản Đền thờ. Dù lúc bấy giờ Êliaquim đang phục vụ trong triều đình nhà vua, nhưng không vì thế mà ông được vua trao ban trách nhiệm, nhưng mà chính Thiên Chúa chọn và ban nhiệm vụ cho ông.
Khi chọn Êliaquim để cai quản Đền thờ, Thiên Chúa cũng ban cho ông những dấu chỉ bên ngoài như mang ý nghĩa là từ đây ông sẽ được Thiên Chúa nâng đỡ để hoàn thành phân vụ của mình. Dấu chỉ Chúa ban cho Êliaquim là áo choàng, đai lưng và chìa khóa, còn mang thêm ý nghĩa hợp pháp trong việc tuyển chọn, từ đây ông sẽ được mọi người nhìn nhận là người chính thức để cai quản Đền thờ cũng như có đầy đủ thẩm quyền để phục vụ và hành xử trong cương vị của mình. Vì Êliaquim là người chính thức được Thiên Chúa tuyển chọn nên ông sẽ được Thiên Chúa ở cùng để phù trợ và gìn giữ trong mọi hoàn cảnh.
3. Tiếp theo việc tuyển chọn Êliaquim, trang Tin Mừng lại cho chúng ta nghe việc Chúa Giêsu trao cho Thánh Phêrô “chìa khóa nước trời”, nghĩa là Phêrô được Chúa chọn để cai quản Hội Thánh Chúa sẽ thiết lập. Bởi vì trong số mười một Tông đồ còn lại thì chưa chắc Phêrô giỏi hơn, khôn khéo hơn, năng động hơn, đạo đức hơn, làm việc hiện quả hơn những vị này. Ngược lại, có những lúc vô tình hay cố ý, thì chính Phêrô cũng để lại những chuyện không hay cho Tông đồ đoàn của Chúa Kitô. Như Phêrô đã từng bỏ Chúa hấp hối trong vườn cây dầu, bởi vì ham mê giấc ngủ. Cũng có lần do sự nóng tính của mình, Phêrô đã dùng gươm chém đứt tai một đầy tớ của vị Thượng tế. Đặc biệt một biến cố tai hại đau thương của cá nhân Phêrô mà ngài không thể nào quên được, đó là Phêrô đã đành tâm chối Chúa ban lần. Đây là thời gian cay đắng nhất mà Phêrô đã gặp phải. Có lẽ khi biết những lầm lỗi của Phêrô thì chúng ta cũng đừng xem đó là chuyện lạ, bởi vì Phêrô cũng là một con người với những mỏng giòn yếu đuối giống như chúng ta mà thôi.
4. Có những trường hợp dựa trên bình diện tự nhiên, chúng ta khó có thể chấp nhận việc tuyển chọn theo đường lối của Thiên Chúa. Nhưng nói theo Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma của bài đọc hai, thì tất cả ơn gọi đều do mầu nhiệm và tình thương của Thiên Chúa. Con người chúng ta vì lý trí luôn bị giới hạn rất nhiều, nên chúng ta không thể nào hiểu thấu về sự “giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa. Vì quyết định của Ngài ai dò cho thấu! Đường lối của Ngài ai theo dõi được!” (Rm 11,33)
5. Khi suy nghĩ về “huyền nhiệm” ơn gọi, thì đó cũng là lúc chúng ta phải vận dụng đức tin để vâng phục Thánh ý kỳ diệu của Chúa. Vì trên thế gian này không phải ai cũng vô tội cả, tất cả đều là tội nhân trước mặt Chúa. Có như thế cúng ta mới hiểu đường lối diệu kỳ của Chúa là Ngài luôn kêu gọi người tội lỗi để đưa bước người có tội đến với Ngài, vì trong Hội thánh của Chúa toàn là những con người lầm lỗi yếu đuối, ngay cả phẩm trật trong Hội thánh cũng là những tội nhân bất xứng. Biết như thế, chúng ta hãy ra sức nâng đỡ Giáo hội. Trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn được Chúa kêu gọi phải đứng về Giáo hội để bênh vực Giáo hội. Hãy đề phòng trong mối tương quan: Đừng vì lời hứa, bổng lộc, lợi nhuận, chức tước, danh vọng để gây chia rẽ, đau khổ, bách hại trong Hội thánh… Vậy bao lâu chúng ta tìm mọi cách để bảo vệ và sống chết với Hội Thánh, thì hình ảnh người lính chiến của Chúa Kitô sẽ không bao giờ phai nhòa trong danh xưng Công giáo của mình. Ngược lại, nếu có ai, nếu có người mang danh là Công giáo vẫn luôn tìm cách phá hoại Hội Thánh, thì hành động của những người đó đươc coi là ngông cuồng và hoang tưởng, bởi vì những thành tích mà họ đang xây dựng trước thế lực của trần thế, lúc đó chỉ là công dã tràng se cát biển đông. Dù Hội thánh Chúa Kitô thiết lập đó đây vẫn mang bóng dáng của những con người mỏng dòn yếu đuối, nhưng bên trong Hội thánh vẫn còn có Chúa Kitô là nguồn trợ lực. Vì thế sẽ không có sức mạnh trần thế nào có thể làm hao mòn và giết chết Giáo hội. Lời Chúa hứa với Thánh Phêrô khi Chúa trao sứ mạng thủ lãnh cho ngài cách đây hơn hai ngàn năm, thì hôm nay, ngày mai và mãi mãi vẫn còn đó, vẫn luôn có hiệu lực. Lời hứa ấy chính là niềm an ủi ngọt ngào, nhưng đó cũng là sức mạnh tinh thần vô song để Hội thánh yên tâm phục vụ Tin Mừng sự sống của Chúa rên khắp Thế gian. “ Phêrô, con là Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16,18)
Lạy Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội, xin Mẹ gìn giữ và cầu cùng Chúa ban cho Giáo Hội được an bình. Amen.
--------------------------
Một trong những phương pháp giảng dạy được Chúa Giêsu ưa dùng đó là đặt câu hỏi. Có khoảng TN 21-A134
Một trong những phương pháp giảng dạy được Chúa Giêsu ưa dùng đó là đặt câu hỏi. Có khoảng hơn 100 câu Chúa hỏi trong 4 sách Tin Mừng. Với cha mẹ, Chúa hỏi: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Với người mù tại Giêricô: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Với những kinh sư và biệt phái trước khi chữa người bại tay, Chúa hỏi: “Tôi xin hỏi các ông: ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?”
Tuy nhiên, có lẽ không câu hỏi nào quan trọng bằng câu Chúa hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?”
Khi nêu lên câu hỏi này, có nhà chú giải thánh kinh bảo rằng, Chúa không quan tâm đến danh tiếng của Chúa cho bằng Chúa quan tâm đến niềm tin, sự hiểu biết của các môn đệ.
Chúa đến như là Đấng Cứu Chuộc, Đấng Thiên Sai và Chúa biết điều này. Không điều gì các môn đệ hay cả thế giới nói có thể thay đổi sự kiện này. Vai trò của Chúa ở giữa nhân loại không thể bị thay đổi bởi bất cứ cuộc thăm dò nào, hay lệ thuộc vào cuộc bỏ phiếu của các môn đệ hay bất cứ ai khác.Do đó, rõ ràng điều các môn đệ tin Chúa là ai thật quan trọng. Bởi vì những gì họ tin vào Chúa sẽ tạo nên sự khác biệt đối với họ và cả thế giới. Niềm tin của họ không thay đổi Chúa, nhưng đã có thể thay đổi họ.
Mỗi người chúng ta đều có một số niềm tin. Chúng ta không sinh ra với niềm tin đã được tạo sẵn trong mình, nhưng là tiến trình của cuộc sống. Nhận thức hay không nhận thức, cố tình hay vô tình, hôm nay chúng ta thu góp ở nơi này một niềm tin, ngày mai ở nơi kia một niềm tin khác, dần dần chúng ta tích lũy gom góp lại những niềm tin ảnh hưởng chi phối những quyết định của chúng ta.Niềm tin của chúng ta thật quan trọng, vì hầu hết những gì chúng ta tin sẽ hướng dẫn những chọn lựa, và kiểm soát những hành động của chúng ta. Dù có nhận thức về niềm tin của mình hay không, chúng ta hiểu rằng có một sự liên hệ sâu xa giữa những gì chúng ta tin và chúng ta hành động.Ví dụ, nếu chúng ta tin mình chỉ là những con vật, không tin có linh hồn, thì chúng ta sẽ có khuynh hướng mạnh hành động như con vật mà chúng ta tin chúng ta là. Nếu chúng ta tin người ta luôn tìm cách nói xấu, làm hại chúng ta thì chúng ta sẽ luôn để tâm phòng thủ canh chừng. Do đó, những gì chúng ta tin tưởng nơi Chúa sẽ có ảnh hưởng lớn lao trên cách thức cư xử của chúng ta.Chúng ta sẽ làm lộn xộn cuộc sống của mình trừ phi chúng ta chắc chắn niềm tin của mình có sự liên hệ với thực tại. Thỉnh thoảng có người nói:
“Chúng ta tin gì không thành vấn đề, bao lâu chúng ta chân thành.” Điều này không trúng. Bạn có thể tin một cách chân thành rằng uống thuốc độc chẳng hại gì, rồi bạn uống một cốc. Kết quả, nếu may mắn không chết, bạn sẽ thấy “niềm tin chân thành” của bạn thành vấn đề chứ không phải là không thành vấn đề.
Khi cách cư xử không hợp với những gì tốt, chúng ta gọi là cách cư xử xấu. Khi niềm tin không hợp với những gì chân thực, đó là tin sai lầm. Có cách cư xử xấu, và có niềm tin sai lầm. Do đó, vấn đề không phải là chỉ tin một vài điều gì đó, nhưng vấn đề là chúng ta tin gì.
Niềm tin có nghĩa vụ với chân thực. Nó có trách nhiệm ăn nhịp với thực tại. Nó cần hòa hợp với những gì là, những gì đã là, hay sẽ là. Chúng ta nghĩ gì khi có người nào đó cố chấp tin rằng hai với hai là năm? Bạn không thể tiến xa hơn trong toán học trừ phi bạn tin điều gì trúng, niềm tin của bạn trùng hợp với những gì thật.
Giữ hai cục đá ở tay phải và hai cục đá ở tay trái, rồi đặt chúng xuống bàn. Có tất cả bao nhiêu? Dù có đếm đi đếm lại, dù đếm chúng ở mùa đông hay mùa hè, ở Bắc Mỹ hay ở Phi Châu, hai cục đá với hai cục đá luôn luôn là 4 cục đá, và chúng ta không thể làm gì khác được. Do đó, nếu chúng ta muốn sống hòa hợp với vũ trụ vật chất này, có những điều chúng ta phải tin, và không có sự lựa chọn nào khác.
Bây giờ bước sang lãnh vực khác ngoài vũ trụ vật chất này, lãnh vực tâm linh, siêu nhiên. Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?” Kinh Thánh bảo rằng, Phêrô được ơn soi dẫn của trời cao đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và chỗ khác: “Thầy có những lời ban sự sống đời đời.” Thánh Phêrô cũng như các tông đồ được ơn soi dẫn của Chúa đã nhận thức, đã tin cậy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng trao ban sự sống đời đời, nên các ngài đã can đảm dấn thân hy sinh mạng sống theo Chúa đi trọn con đường. Phải chăng nhận thức và tin tưởng vào lời Chúa nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống,” các thánh tử đạo Việt Nam cha ông chúng ta cũng đã can đảm dám sống chết cho Thiên Chúa?“Này con, con bảo Thầy là ai?” Câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ hôm xưa, cũng là câu Ngài muốn hỏi mỗi người chúng ta hôm nay. Chúa không muốn chúng ta vay mượn câu trả lời của ai đó, nhưng Chúa muốn câu trả lời từ chính chúng ta. Phải chăng chúng ta nhận thức và tin nhận rằng Chúa là Chúa tình thương, đầy lòng thương xót để rồi dám sống chết cho Chúa và cho cuộc sống đời sau? Một người vô thần lần kia nói với một tín hữu: “Tội nghiệp anh, quả thật là anh bị lừa gạt nếu thiên đàng chỉ là một hoang tưởng.” Người tín hữu đáp lại: “Tội nghiệp cho anh là kẻ vô thần, nếu hỏa ngục không phải là một chuyện hoang đường, thì anh sẽ bị đày đọa biết chừng nào.”
Để kết thúc, xin mượn lời hình như là của một người Do Thái trên đường trốn bọn Quốc Xã đã viết trên tường nhà để củng cố niềm tin của chúng ta khi phải đối diện với những khó khăn thử thách khủng hoảng niềm tin trong cuộc sống, được biết luôn tin tưởng tín thác và nhận thức rõ ràng rằng Chúa luôn đồng hành và yêu thương: “Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc tôi không cảm thấy nó. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.”
Chúa Giêsu hỏi: “Con bảo Thầy là ai?” Điều chúng ta trả lời cho câu Chúa hỏi sẽ tạo nên sự khác biệt cho mình trong cuộc sống - thật ra hai cuộc sống: Cuộc sống hôm nay và cuộc sống vĩnh cửu đời sau.
--------------------------
CHÚA GIÊSU LÀ AI TRONG CUỘC SỐNG TÔI?
Một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại TN 21-A135
Một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi nhà lãnh đạo Trung Hoa rằng: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo?” Ông đáp: “Có ba lý do. Thứ nhất, Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai, Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống. Thứ ba, Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế là vị thẩm phán”. Đó là những lý do và cũng là lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế được lưu truyền trong suốt lịch sử Giáo hội, khởi đầu từ các Tông đồ.
Quả thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không hỏi các Tông đồ: “Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải, là quan trọng nhất trong đời? Nhưng Ngài hỏi: “Các con nói Thầy là ai?” Các Tông đồ đã nói cho Chúa biết dư luận của dân chúng rằng: Kẻ thì nói Chúa là ông Gioan Tẩy giả. Kẻ thì bảo là ông Êlia. Có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ. Vì sao người ta lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Gioan Tẩy giả sống lại? Vì Vua Hêrôđê sau khi nghe những việc Chúa Giêsu đã làm, ông đã xác định đó là Gioan bị Vua chém đầu đã sống lại, cho nên dân cũng nghe theo (Mt 14,1-2: Mc 6,14-16). Tại sao có người nghĩ Chúa Giêsu là ông Êlia? Bởi vì, thời đó, trong niềm mong đợi Đấng Mêsia, người ta luôn mong đợi ngôn sứ Êlia sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến (Ml 3, 23-24). Tại sao có người lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Giêrêmia hay là một trong các ngôn sứ? Vì đối với dân Do Thái, một vị ngôn sứ xuất hiện là dấu chỉ niềm hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung thành với giao ước. Ngài sắp đến viếng thăm cứu chuộc dân Ngài. Rõ ràng, tùy góc cạnh tiếp xúc, tùy trình độ hiểu biết, các người dân có những những câu trả lời khác nhau về Chúa Giêsu. Nhưng những câu trả lời ấy chưa chính xác cho nên Chúa Giêsu hỏi chính các Tông đồ: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Thánh Phêrô đã thay mặt toàn thể anh em khác thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
“Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”, lời tuyên xưng ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha (Mt 9, 1-8 ; Ga 5,17-23 ), vừa là người thật như ta (Pl 2,7; Dt 4,15 ). Ngài có hai bản tính, vừa bản tính Thiên Chúa, vừa bản tính loài người, trong cùng một ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa (Ga 1,14;20,24-29). Ngài cao trọng biết bao trong chức vụ của Ngài. Ngài còn cao trọng hơn tất cả những tước hiệu, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai yêu tố vững chắc đó là yêu tố tự nhiên và siêu nhiên. Trước hết, yêu tự nhiên: ông Phêrô, người là kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Nào những lần được thấy Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi trên mặt biển và trợ giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Còn yếu tố siêu nhiên của đức tin Phêrô là chính ngài được thêm ánh sáng Chúa Thánh Thần soi dẫn bên trong mà chính Chúa Giêsu đã nói rõ với ông hôm nay: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Đức tin Công giáo của chúng ta trước hết không phải là một vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều mà là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu trong đời sống chúng ta. Cho nên, hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho mỗi người chúng ta rằng: "Con bảo Thầy là ai?" Ngài nhắm thẳng vào mỗi người trong chúng ta, đòi chúng ta phải trả lời. Và câu trả lời của ta không phải là câu trả lời máy móc, không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ, phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm gặp gỡ và sống thân tình với Đức Giêsu. Vì vậy, câu trả lời đúng nhất cho câu hỏi của Chúa Giêsu là hãy sống tận căn thân phận của Chúa Giêsu, tức sống chân thật với Lời Chúa hằng ngày. Cụ thể, ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Chúa Giêsu loan báo con đường duy nhất dành cho người môn đệ đó là con đường Thập Giá mà Chúa đã đi qua. Chúa Giêsu đã sống phận con người với tất cả bấp bênh tăm tối, đã phải chịu đau khổ, chịu hành hạ và sỉ nhục, chịu vác thập giá và chịu chết. Tôi có dám sống chết với phận con người của tôi hay chính hoàn cảnh của tôi giờ này trong cuộc sống hiên tại với niềm vui, tin tưởng và phó thác không? Tôi có dám từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ngài để trọn tình nghĩa với ông, bà cha mẹ, vợ chồng hay con cái trong gia đình tôi chưa? Chúa Giêsu đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng sống của tôi vì Chúa và vì Tin Mừng của Chúa không? Chúa Giêsu đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó để phục vụ Chúa và tha nhân chân tình chưa?
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, một đức tin có thật bên trong, một đức tin mà ông sẵn sàng sống chết với nó, thì Đức Giêsu tuyên bố: «Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi». Chúng ta cũng vậy, trước khi chịu Phép Rửa Tội, linh mục hỏi người chịu rửa tội, anh chị em xin gì? Chúng ta thưa, xin đức tin. Linh mục hỏi tiếp, đức tin sinh ích cho con. Anh chị thưa: đức tin đem lại cho con sự sống đời đời. Như vậy, để đức tin của chúng ta sống và sinh ích thì chúng ta phải hành động và chứng tỏ đức tin ấy bằng chính cuộc sống người môn đệ của Chúa, bằng những lời ăn tiếng nói và hành động cụ thể phù hợp Chúa và với Lời Chúa vì chưng /, nhà thần học Arialdo Beni nói rằng: “Đức Tin không phải là kết quả của hoạt động con người, nhưng mà kết quả của hoạt động phối hợp với Thiên Chúa và con người.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn lấy Chúa làm gia nghiệp và Lời Chúa làm lẽ sống hằng ngày như thế chúng ta mới xứng đáng là những viên đá tảng của gia đình, của giáo xứ và Giáo Hội. Và đó gia đình chúng ta chan hoà yêu thương, giáo xứ chúng ta luôn hiệp nhất nên một trong Ba Ngôi Thiên Chúa và Giáo Hội được làn rộng khắp nơi. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Chúa nhật 21 hôm nay giúp chúng ta hướng lòng về Mầu nhiệm Hội thánh. Công đồng Vatican II gọi TN 21-A136
Chúa nhật 21 hôm nay giúp chúng ta hướng lòng về Mầu nhiệm Hội thánh. Công đồng Vatican II gọi “Hội thánh là Dân Thiên Chúa” , một dân có tổ chức hẳn hoi, một Hội có đầy đủ các đặc tính của nó. Hội thánh được coi như một gia đình, trong đó mỗi người đóng một vai trò hoặc lớn hoặc nhỏ nhưng mọi người đều có trách nhiệm phải bảo vệ vàø xây dựng gia đình đó.
Trong số các hồng ân Chúa ban cho loài người, Hột thánh chắc hẳn là hồng ân qúi giá nhất. Chính Hội thánh có nhiệm vụ tiếp tục công trình của Đức Kitô, và ban cho chúng ta những đặc ân Người mang đến. Chính Hội thánh làm cho Chúa Kitô hiện diện giữa chúng ta. Chúng ta hãy tìm hiểu Hội thánh để thêm lòng yêu mến và cố gắng làm tròn nhiệm vụ của chúng ta đối với Hội thánh.
Chúng ta là những thành viên trong Hội thánh. Đã là thành viên thì mỗi người đều có quyền lợi và bổn phận bởi vì quyền lợi và bổn phận phải đi liền với nhau. Chúng ta đã được lãnh nhận nhiều ơn Chúa qua Hội thánh thì chúng ta cũng phải có bổn phận bảo vệ và xây dựng Hội thánh. Tuy mỗi người chỉ là một thành phần nhỏ nhưng cũng quan trọng, bởi vì một ngôi nhà được xây dựng lên phải bao gồm nhiều yếu tố, nhiều chất liệu mà thiếu một yếu tố nào thì ngôi nhà ấy chưa được hòan hảo. Hội thánh là một ngôi nhà chung, mỗi ngườii phải có trách nhiệm góp vần vào việc xây dựng ngôi nhà đó.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 22, 19-23.
Lời tiên tri của Isaia hôm nay nói về việc truất phế một vị quan coi đền thờ là Sobna, dưới triều vua Ezechia, vì ông này có những hành vi nhũng lạm. Ông này không xứng đáng, nên chức vụ này được trao cho người khác là Éliakim, ông này sẽ lo quyền lợi chung và sẽ là người cha cho dân của ông.
Mặc dù Eliakim phục vụ cho vua Ezéchia, nhưng trách nhiệm của Eliakim không phải do vua trao, mà do chính Thiên Chúa. Ngài trao cho Eliakim “chìa khoá”, nghĩa là thẩm quyền để hành xử trong phạm vi trách nhiệm của mình. Ngài còn hứa sẽ che chở, trợ giúp để ông thi hành trách nhiệm được giao phó.
+ Bài đọc 2: Rm 11,33-36.
Trong thư gửi cho tín hữu Roma, thánh Phaolô ca tụng sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Đường lối của Ngài không ai hiểu thấu vì mọi vật đều do Ngài mà có, nhờ Ngài mà tồn tại. Chúng ta chỉ biết ca ngợi tình thương của Chúa đối với chúng ta và cố gắng sống theo đường lối và thánh ý của Ngài: Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.
+ Bài Tin mừng: Mt 16,13-20.
Sau khi các Tông đồ cho Chúa Giêsu biết dư luận của dân chúng về Ngài, thì Chúa Giêsu lại hỏi chính các ông xem các ông bảo Ngài là ai? Thánh Phêrô đã thay cho các ông khác mà tuyên xưng:”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu đã chấp nhận lời tuyên xưng ấy và để đáp lại, Ngài đã đặt Phêrôâ làm thủ lãnh Hội thánh, tượng trưng cho tước vị và quyền hạn này là việc trao chìa khóa.
Như vậy, thánh Phêrô và những người kế vị đã nhận được nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô điều khiển Hội thánh, là dân Thiên Chúa. Ngài còn hứa sẽ bảo trợ thánh Phêrô và các Đấng kế vị trong chức vụ mình, và bảo đảm với các vị là Hội thánh của Ngài luôn bền vững, không một quyền lực nào có thể phá nổi.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hội thánh của Chúa Kitô
I. HỘI THÁNH VÀ VIỆC TRAO QUYỀN BÍNH.
1. Xây dựng Hội thánh.
Sau khi Phêrô đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu:”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền thưởng cho ông:”Phêrô, con là Đá trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”.
Con là Đá: Đá ở đây vừa là tảng đá vừa là tên mới của Simon. Trong Kinh thánh, khi trao nhiệm vụ đặc biệt cho một nhân vật nào thì Thiên Chúa thường đổi tên người đó (St 17,5-15. 35,10. Tv 13,16. 2V 23,34). Việc đổi tên như vậy cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên. Quả vậy, khi đổi tên Simon là Phêrô (Đá), Chúa có ý chỉ Phêrô sẽ là Đá tảng vững chắc, trên đó Người sẽ xây Hội thánh của Người. Tất nhiên đây chỉ là tảng đá hữu hình của Hội thánh, còn đá vô hình là Chúa Giêsu (1Cr 3,10-11; 1Pr 2,6-8).
Qua đặc tính tự nhiên của đá, ta có thể hiểu về đặc tính của Hội thánh. Đá có đặc tính:
* Cứng: nói lên sức mạnh của Hội thánh.
* Bền: nói lên sự trường tồn của Hội thánh.
* Chắc: nói lên sự vững bền của Hội thánh.
Vì thế Phêrô quả là nền tảng của Hội thánh.
(Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng Chúa nhật, năm A, tr 257)
Hội thánh là chính Chúa Giêsu tiếp tục sống giữa chúng ta. Qua các thời đại, cũng có những người lớn tiếng hô hào rằng: Hội thánh đã đến ngày tận số! Nhưng Hội thánh vẫn còn tiếp tục qua 2000 năm nay và vẫn còn tiếp tục. Chúng ta hãy nghe một số phát biểu:
Năm 305, hoàng đế Dioclesianô ra lệnh đúc những kim tiền với dòng chữ: Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt.
Năm 1758, Voltaire nói tiên tri: hai mươi năm nữa đạo Công giáo sẽ hết đời.
Năm 1850, P. Proudhon quả quyết: các người đạo đức hãy lo giấy thông hành trước đi. Mười năm nữa sẽ không còn vị linh mục nào để xức dầu cho đâu.
Và năm 1904, Combes tuyên bố: ba tháng nữa bọn giáo sĩ phản động sẽ bị tiêu diệt.
Đời nào cũng có những người cao hứng muốn làm nhà tiên tri để phê phán về số mạng của Hội thánh. Nhưn bây giờ họ ở đâu? Họ đã chết. Hội thánh vẫn còn sống, sống mạnh, sống mãi.
Thánh Augustinô nói:”Họ nhìn thấy Hội thánh, họ nói: Hội thánh sẽ chết, giáo dân đã đến ngày tận số. Nhưng tôi thấy họ chết mỗi ngày mà Hội thánh vẫn tồn tại để rao giảng quyền lực của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau”.
2. Phêrô được trao quyền lãnh đạo.
Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố sẽ lập Hội thánh trên nền tảng là Phêrô, Chúa Giêsu liền ban quyền lãnh đạo cho ông:”Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời, dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, con tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 16,19).
Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tấn phong Phêrô làm thủ lãnh của Hội thánh. Ngài xây dựng Hội thánh của Ngài trên tảng đá Phêrô và hứa sẽ bảo vệ Hội thánh khỏi mọi tấn công của tử thần. Ngài còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với quyền tối thượng này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.
II. SỨ MẠNG LÃNH ĐẠO HỘI THÁNH.
Hội thánh được Công đồng Vatican II gọi là “Dân Thiên Chúa”. Đã là một dân thì phải có tổ chức hẳn hoi. Chúa Giêsu đã lập một hội giáo. Hội đó là một hội hoàn toàn, có người chỉ huy và có kẻ phục tùng, không phải cá mè một lứa, theo hình thức quân chủ theo nghĩa một người có trọn quyền chỉ huy. Hội đó có đủ các quyền hành của một hội hoàn toàn: có quyền cai trị, quyền giáo huấn và quyền thưởng phạt. Các quyền này nhận thẳng từ Đấng sáng lập không chịu quyền của trần gian.
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đã thiết lập Hội thánh không rõ từ lúc nào, các nhà thần học chưa đồng ý với nhau, nhưng biết chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã thiết lập và trao quyền lãnh đạo Hội thánh cho thánh Phêrô:”Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất con tháo cởi cái gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”.. Do đó, thánh Phêrô là vị Giáo hoàng tiên khởi, rồi các vị khác tiếp tục thay phiên nhau mà cai trị Hội thánh. Các ngài cũng chỉ là con người như mọi người, nhưng được Chúa Giêsu tuyển chọn để thay quyền Ngài mà cai trị Hội thánh. Các ngài là những vị đại diện của Chúa Kitô ở trần gian.
Truyện: ĐGH Gioan-Phaolô II
Một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về ĐGH Gioan-Phaolô II. Tờ báo cho biết, khi Đức Giáo hoàng còn là sinh viên du học tại Roma, một hôm đã cùng với các bạn đi thăm cha đáng kính Piô, một Linh mục được Chúa in 5 dấu thánh. Vừa gặp, Cha Piô ôm chầm lấy ngài và nói rằng một ngày kia Cha sẽ làm Giáo hoàng và sẽ chịu đau khổ, máu sẽ chảy. Wojtyla trả lời: “Điều ấy tôi không sợ vì tôi sẽ không bao giờ làm Giáo hoàng”. Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu! Wojtyla đã làm Giáo hoàng và máu đã chảy trong cuộc mưu sát ngày 13.10.1981 tại công trường thánh Phêrô. Gioan-Phaolô là vị Giáo hoàng thứ 264, từ ngày vị Giáo hoàng tiên khởi là thánh Phêrô được Chúa trao quyền tối thượng. (Lm Hồng Phúc, Suy niệm lời Chúa, năm A, tr 128)
Giáo hoàng là vị Cha chung
Cầm quyền thống trị với lòng yêu thương.
Chúa Giêsu xây dựng Hội thánh trên Tảng đá Phêrô. Đá là một vật cứng , nhưng người ta thường nói:”Nước chảy đá mòn” nên tảng đá Phêrô có thể bị sứt mẻ nhưng không bị vỡ tan. Điều đó nói lên sự yếu đuối của Phêrô. Mặc dù ông đã hứa với Chúa:”Dầu tất cả có vấp phạm vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,33). Và ngay đêm sau đó, không ai bắt ông phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đầy tớ gặng hỏi, ông đã thốt lên những điều độc địa và thề rằng:”Tôi không biết người ấy” (Mt 26,74).
Thế là đã rõ, Chúa Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội thánh của Ngài, mà đã chọn một dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã và... phản bội. Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Chúa Giêsu đã nhìn thấu suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn sâu thẳm và một lòng sám hối chân thành.
Thật vậy, trước đây trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã tâm sự với các môn đệ:”Đêm nay tất cả các con sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,21) thì Phêrô không thể nào tin được. Ông quả quyết với Chúa:”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Nhưng “ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô” (Lc 22,60). Ánh mắt của Chúa nhìn thấu tâm hồn ông làm cho ông đau nhói. Ông rút lui ra ngoài, tan nát cõi lòng, bước đi nặng trĩu.
Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết vì lầm lỗi của mình: tại sao mình lại phản bội Thầy? Lúc này Phêrô mới nhận thấy mình không còn là tảng đá vững chắc nữa, mà mình chỉ là cát bụi, mình yếu đuối dễ sa ngã, không còn cậy vào sức mình như trước nữa, mà phải hoàn toàn trông cậy vào sự nâng đỡ của Chúa. Gương sa ngã của thánh Phêrô làm cho chúng ta nhớ đến lời khuyên của thánh Phaolô: Ai đang đứng, ý tứ kẻo ngã. Cái cột trụ Hội thánh đã đổã thì những cột khác có đứng vững không?
Tuy thế, ông Phêrô cố quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai của ơn thánh: cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ. Với kinh nghiệm bản thân đã kinh qua, sau này thánh Phêrô đã khuyên bảo các tin hữu của mình:”Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19).
III. SỨ MẠNG XÂY DỰNG HỘI THÁNH.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chọn thánh Phêrô là Tảng đá để Ngài xây dựng Hội thánh trên đó. Hội thánh này phải vững chắc vì xây nhà trên nền đá thì phải vững chắc, không sợ mưa sa bão táp (x. Mt 7,24-27). Hội thánh được xây dựng trên đá tảng Phêrô là đúng rồi, nhưng câu hỏi được đặt ra là “Chúa còn xây dựng Hội thánh của Ngài trên tảng đá nào khác nữa không”? Thánh Phêrô đã trả lời cho chúng ta trong thư thứ nhất của ngài:”Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên đền thờ thiêng liêng”(1Pr 2,5). Như thế có nghĩa là thánh Phêrôâ trả lời cho chúng ta là “có”: vì mỗi Kitô hữu cũng là một viên đá để xây dựng Hội thánh.
Như thế, thánh Phêrô không dành độc quyền xây dựng Hội thánh mà chia quyền ấy cho mọi tín hữu. Công đồng Vatican II cũng không nói khác với Phêrô: mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh, mỗi người trong cương vị của mình, hoàn cảnh của mình và theo khả năng của mình mà xây dựng.
Hội thánh là gia bảo mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta qua các tông đồ và các Đấng kế vị. Trải qua 2000 năm Hội thánh đã phải chịu bao phen sóng gió, bao cuộc bách hại nhất là tại đế quốc Rôma trong 250 năm kể từ năm 64 đến năm 315, và tại Việt nam chúng ta trong suốt hơn 100 năm dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và nhóm Văn thân. Tuy thế Hội thánh vẫn luôn đứng vững vì Chúa đã hứa với Phêrô là không sức mạnh nào có thể phá nổi.
Nếu Hội thánh là di sản quí báu cha ông chúng ta đã để lại, chúng ta phải bảo vệ và xây dựng Hội thánh, đừng bao giờ để cha ông chúng ta phải than vì “Đời cha vo trò, đời con bóp méo”. Hội thánh là ai? Hội thánh là ta, là mỗi người chúng ta. Chúng ta phải làm sao cho Hội thánh luôn mặc một vẻ đẹp và hấp dẫn trước mặt luơng dân. Bảo vệ và xây dựng Hội thánh, đó là công tác của chúng ta. Hãy giữ lấy gia sản quí báu ấy như các em thiếu nhi thuờng hát trong các buổi sinh hoạt giáo lý:
Cái nhà là nhà của ta
Ông cố ông cha làm ra.
Cháu con hãy gìn giữ lấy
Muôn năm với nước non nhà.
Qua 2000 năn lịch sử của Hội thánh, chúng ta thấy Hội thánh luôn được phát triển trong những hoàn cảnh thật khó khăn, có biết bao thế lực chống phá, ngăn cản việc truyền giáo, nhiều nhà truyền giáo đã phải đổ máu ra để xây dựng Hội thánh vì “máu các thánh Tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertulien).
Truyện: Viên đá đầu tiên
Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị Linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu Linh mục. Vị Linh mục cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ.
- Xin cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một đền thờ tôi muốn xây ở đây.
Và sự thật viên đá đó là viên đá đầu tiên của đền thờ Mân côi được xây ở đó.
Nước Chúa trên mặt đất này là Hội thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ hèn, trong bạc đãi như vậy. Hội thánh vẫn phát triển trong âm thầm và đau khổ.
(Nguyễn hài Đồng, Tự điển câu truyện, 1969, tr 114).
Chúng ta luôn tin tưởng rằng Hội thánh của Chúa luôn vững bền, mặc dầu luôn gặp muôn vàn khó khăn vì Hội thánh là ngôi nhà được xây trên đá vững chắc. Vậy xây nhà trên đá là gì? Thưa là biết lắng nghe Lời Chúa và nhất là biết đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống hằng ngày. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, ai xây nhà trên đá là người khôn (Mt 7,24-27), còn ngược lại, kẻ nào không lắng nghe Lời Chúa và nhất là không thực hành Lời Chúa thì giống như người ngu xây nhà trên cát.
Còn đối với các Đấng bậc trong Hội thánh, Chúa Giêsu đã muốn cho thánh Phêrô và những người kế vị trở thành lãnh đạo Hội thánh mà Ngài đã lập ra, điều này không thể chối cãi được. Bởi đó, chúng ta phải công nhận quyền uy của các Ngài, phải vâng theo lời dạy của các Ngài và làm cho nhiệm vụ của các Ngài được dễ dàng. Vâng lời các Ngài là vâng lời chính Đức Kitô. Ngài đã phán:”Ai nghe lời các con là nghe Ta”.
Nếu người ta đang hô hào người dân phải bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vì đó là bổn phận của mỗi công dân, thì chúng ta, mỗi người la đều là công dân Nước Trời , làø thành viên trong Hội thánh, chúng ta cũng có nhiệm vụ phải yêu mến, bảo vệ và xây dựng Hội thánh, xây dựng giáo xứ, xây dựng xã hội và xây dựng gia đình. Việc xây dựng đầu tiên , làm nền tảng cho mọi cuộc xây dựng tiếp theo, chính là nỗ lực lắng nghe và sống Lời Chúa.
------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia":
Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy TN 21-A137
Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ", xin xem chú thích của BJ).
“Ta là ai ": Đừng mặc cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
"Con Thiên Chúa hằng sống": Câu thêm này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ nhất dựa trên các lý do như sau:
1/ Trong lúc các chỗ khác trong Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa" (Fils de Dieu) (4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc thần linh của Người.
2/ Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.
3/ Có một trường hợp duy nhất khác trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).
4/ Ta không hiểu được tại sao một mặc khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của Chúa Giêsu thôi (c.17).
5/ Người ta không bao giờ minh chứng thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không phải thần tính của Chúa Giêsu.
Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.
Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như sau:
1/ Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của Gioan.
2/ Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?
3/ Xem ra hơi táo bạo khi gán quá nhiều ý nghĩa cho mạo từ "Người" (Lc) trong thành ngữ "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.
4/ Cái mà vị thượng tế xem là phạm thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu Thiên Chúa với tư cách là "Chúa" của Tv 110, và với tư cách là nhân vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x. chú thích của BJ); v.v...
Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh), nhưng sau đấy "được đọc lại" dưới ánh sáng Phục sinh và được giải thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói ‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.
"Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta": Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).
Đổi tên như vậy là một chuyện thường xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds 13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.
Các thành ngữ tảng đá móng và xây, theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai "Ta sẽ xây" có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.
"Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi". Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục) sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai; đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G 38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)
Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28, 20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.
“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.
KẾT LUẬN
Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc" và “tháo cởi", nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chắc chắn Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô, vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.
2) Sau khi nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.
3) Giáo Hội không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
4) Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong khắp cả thế gian.
5) Giáo Hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.
6) Dù Giáo Hội còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)
Si-môn, anh là ai? Tôi không bén nhạy như anh môn đệ Chúa yêu, nhưng đôi khi tôi là người TN 21-A138
Si-môn, anh là ai?
Tôi không bén nhạy như anh môn đệ Chúa yêu,
nhưng đôi khi tôi là người đại diện để trả lời trước tiên
những câu hỏi quan trọng Thầy đặt ra cho anh em tôi.
“Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao?” (Ga 6,67).
“Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?” (Mt 16,15).
Tôi đã nói ngay điều mình tin: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa.
Thật ra anh em chúng tôi đã nghĩ Thầy là Con Thiên Chúa
từ lúc Thầy đi trên mặt hồ và dắt tôi vào thuyền (Mt 14,33).
Tôi tin Thầy là Con Thiên Chúa theo một nghĩa đặc biệt
vì Thầy có tương quan độc đáo với Chúa Cha.
Chỉ mình Thầy biết Chúa Cha trong tư cách Người Con (Mt 11,27).
Tôi không nghĩ mình đã biết rõ hay biết trọn vẹn con người Thầy.
Nhưng càng sống gần Thầy tôi càng nhận ra Thầy là ai (Mt 17,5).
Phải đợi đến sau khi Thầy trải qua cái chết và phục sinh,
tôi mới thật sự tin Thầy Là Đấng Emmanuel (Mt 1,23; 28,20).
Si-môn, anh là ai?
Tôi tên là Si-môn, tên do bố mẹ đặt cho.
Khi gặp Thầy Giêsu, Thầy đặt tên cho tôi là Kê-pha (Ga 1,42),
hay Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, là Thạch (Mt 16,18).
Việc Thầy cho tôi một tên mới không phải chuyện ngẫu nhiên.
Thầy muốn thiết lập một cộng đoàn mới mà Thầy gọi là Giáo Hội.
Giáo Hội này là đoàn Dân Chúa thuộc tứ phương thiên hạ,
vượt mọi bức tường văn hóa, chủng tộc, quốc gia.
Tất cả sống theo giáo huấn của Thầy được ban trên Núi Bát Phúc.
Suốt đời tôi không bao giờ hiểu được
tại sao Thầy chọn tôi làm nền móng cho tòa nhà Giáo Hội của Thầy.
Thầy dạy người ta, khi xây nhà, thì xây trên đá chứ đừng xây trên cát.
Vậy mà Thầy lại coi tôi là Đá, là nền kiên cố cho tòa nhà của Thầy.
Phần tôi, tôi biết sự yếu đuối của tôi, và tôi biết quyền năng của Thầy.
Tôi đã chìm xuống nước, dù biết Thầy đang ở trước mặt.
Tôi đã kêu cứu và Thầy đã nắm lấy tôi giữa sóng cả, gió to.
Tôi biết mình là kẻ kém lòng tin, hay hoài nghi và sợ sệt.
Nếu Xatan và tử thần không thể thắng được tôi,
thì đâu phải bởi tôi, mà do có Thầy đứng sau tôi.
Si-môn, anh là ai?
Tôi là một ngư phủ ít học, đã lập gia đình và có cuộc sống ổn định.
Tôi quen với sóng, gió, cá, thuyền và lưới.
Thầy đã gọi tôi theo Thầy, mời người ta hoán cải vì Nước Trời gần đến.
Được vào Nước Trời là ước mơ của mọi người và của tôi.
Vậy mà bây giờ Thầy lại muốn giao cho tôi chìa khóa của Nước đó.
Thầy cho tôi quyền đóng và mở cửa Nước Trời.
Tôi biết mình không phải là Vua của Nước Thiên Chúa,
Tôi chỉ là người quản gia, được trao chìa khóa Nước này,
một Nước viên mãn ở trên trời, nhưng đã bắt đầu lớn lên từ mặt đất.
Thầy cho tôi quyền trói buộc và tháo cởi, quyền quyết định bao điều
liên quan đến đức tin và luân lý của những thành viên trong Giáo Hội.
Tôi là người đã có lần chối Thầy, dù đã hứa sẽ không bỏ Thầy.
Nước mắt của tôi không đủ để làm tôi được sạch,
nhưng làm tôi khiêm tốn hơn và khoan dung hơn.
Qua bao thế kỷ, nhiều đấng đã kế vị tôi để làm nền cho Giáo Hội.
Họ là những mục tử đã tận tình chăm sóc chiên và hy sinh vì chiên.
Điều làm tôi vui sướng, đó là Thầy Giêsu đã giữ lời hứa.
Quyền lực của âm phủ không thắng được Giáo Hội.
Trời và đất vẫn ý hợp tâm đầu (Mt 16,19).
Khiếm khuyết của con người luôn được Thiên Chúa bù đắp
để ngôi nhà của Thiên Chúa vẫn đứng vững giữa cuồng phong.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu
tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình
để làm vị lãnh đạo đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội của Chúa
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, tương lai.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.)
Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường đi đến các làng xã vùng Cêsarê Philiphê, là miền TN 21-A139
Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường đi đến các làng xã vùng Cêsarê Philiphê, là miền dân ngoại ở phía bắc Galilê. Đó là một nơi xa khỏi vùng mà Đức Giê-su và các môn đệ của Người thường xuyên lui tới. Dọc đường, Đức Giê-su hỏi các môn đệ hai câu hỏi liên quan đến chính căn tính của mình: câu hỏi thứ nhất “Người ta nói Thầy là ai?” chuẩn bị cho câu hỏi thứ hai: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”.
Dường như để đặt cho nhau những câu hỏi thiết thân, nghĩa là tỏ bày cho nhau người này là ai đối với người kia, để đi đến quyết định có “đi theo” nhau hay “thuộc về” nhau suốt đời hay không, người ta cần phải giữ khoảng cách với thực tại hàng ngày, bằng cách đến một nơi xa lạ để sống thân tình với nhau.
1. “Người ta nói Thầy là ai?”
Trước hết Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?” Đúng là, để trả lời đích thân cho Chúa và đi vào tương quan thiết thân với Ngài, chúng ta phải vượt qua những gì “người ta” nói về Ngài, và cũng đúng là những gì người ta nói về Ngài vẫn chưa là điều Ngài thực sự là trong tương quan với Thiên Chúa và với con người. Nhưng, để giúp các môn đệ và giúp chúng ta hôm nay hiểu sâu xa hơn về mầu nhiệm Nhập Thể và nhất là về cách thức Ngài hoàn tất lịch sử cứu độ, những gì người ta nói về Ngài có một ý nghĩa thực sự quan trọng. Thật vậy, các môn đệ trả lời:
Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.
Như thế, Chúa Giê-su ứng xử giống như những người đi trước Ngài, mỗi người một chút: một chút của ngôn sứ Gioan, một chút của ngôn sứ Elia, một chút của ngôn sứ Giêrêmia; Ngài hòa nhập vào một truyền thống, hay đúng hơn, Ngài xuất phát từ một truyền thống, từ lịch sử, văn hóa, tôn giáo của dân tộc Ngài. Ngài không từ trên trời “nhảy xuống” cách ngoạn mục, để mọi người thán phục, như ma quỉ gợi ý. Nếu làm thế, chắc hẳn Ngài sẽ được nhìn nhận tức khắc là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa theo kiểu của ma quỉ. Ngài đến để hoàn tất, chứ không phải hủy bỏ.
Chúng ta có thể tự hỏi, Người đã hiện diện và ứng xử như thế nào để “người ta” không nói Người là Tư Tế, Luật Sĩ, Quân Vương hay một danh hiệu diễn tả điều ngoại thường? Nhưng ngược lại, Người đã ứng xử giống với nhiều người đi trước Ngài, và tất cả đều là ngôn sứ. Như chính Ngài đã nói về mình: “Không một ngôn sứ nào được đón nhận nơi quê của mình”. Số phận của các ngôn sứ loan báo số phận của Đức Giêsu, mà gần Ngài nhất là số phận của ngôn sứ Gioan. Theo mặc khải Cựu Ước, Người Tôi Tớ Đau Khổ là hình ảnh biểu tượng của tất các các ngôn sứ thuộc mọi thời đại. Đức Giêsu đến để hoàn tất cách trọn vẹn và duy nhất thân phận của Người Tôi Tớ đau khổ nơi chính cuộc đời của mình.
Thánh Phê-rô đã không hiểu ra điều này, mặc dù đã tuyên xưng đúng căn tính của Chúa. Bởi vì, điều khó vừa khó hiểu và vừa khó chấp nhận, đó là con đường Ngài chọn để bày tỏ căn tính Ki-tô và Con Thiên Chúa cho các môn đệ, cho loài người, cho từng người trong chúng ta. Chính vì thế, bao lâu mầu nhiệm Vượt Qua chưa được hoàn tất, Ngài “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô” (c. 20).
2. “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”
Sau câu hỏi thứ nhất “Người ta nói Thầy là ai?”, Ngài hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để lắng nghe câu hỏi này của Đức Giê-su, vì đây là câu hỏi không thể tránh né được, nhằm đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong hành trình đi theo Thầy Giê-su của các môn đệ, và vì đó cũng là câu hỏi Đức Giê-su hỏi đích thân mỗi người chúng ta. Thật vậy, trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta, trong đời sống gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, có một lúc nào đó, và có thể là lúc này, Ngài cũng đích thân hỏi chúng ta: “Còn con, con nói Thầy là ai?”.
Với câu hỏi thứ nhất, các môn đệ đã đồng thanh trả lời. Bởi lẽ, đó là nói lại điều người khác nói về Chúa, đó là những thông tin. Đức Giêsu đặt câu hỏi thứ hai, cũng cho tất cả các môn đệ, nhưng một mình thánh Phêrô trả lời, bởi lẽ câu hỏi này đòi hỏi mỗi người phải trả lời đích thân. Và sau khi người môn đệ tuyên bố Đức Giê-su là ai đối với mình, Ngài sẽ dẫn các ông đi xa hơn và sâu hơn vào cách thức Ngài hoàn tất lịch sử cứu độ và qua đó, Ngài bày tỏ ngôi vị thần linh và tương quan duy nhất của Ngài với Thiên Chúa:
Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
(c. 21)
Giống như hai người trẻ, sau một thời gian tìm hiểu, và nhất là đón nhận những ân huệ của nhau (quà tặng, thời gian, sự hiện diện và nhất là tình yêu), nhưng sẽ đến một lúc nào đó phải dừng lại, tìm một nơi thanh vắng, cách xa với môi trường sống quen thuộc, để tĩnh tâm, cầu nguyện và suy nghĩ về việc có nên trao ban cho nhau lòng tin hay không, nghĩa là đặt cuộc đời của mình vào tay người kia, và cùng nhau suy nghĩ về một lựa chọn dứt khoát: có nên thuộc về nhau suốt đời hay không? Mỗi người được mời gọi đưa ra quyết định: người kia là ai đối với mình suốt đời?
Cũng vậy, trong hành trình đi theo Chúa trong một ơn gọi, mỗi người được mời gọi đến một lúc nào đó, không nói theo người khác (cho dù là rất đúng, rất hay), không nói theo công thức có sẵn (cho dù đó là giáo lý, tín lý hay truyền thống), nhưng đích thân công bố Đức Giêsu là ai đối với mình; và khi công bố bằng lời Đức Giêsu là ai đối với mình, mỗi người được mời gọi cư ngụ trong câu trả lời của mình, dấn thân trong điều mình nói, đến độ mình và điều mình nói là một. Vậy sau bằng đó năm đi theo Chúa, với tư cách là Ki-tô hữu trong ơn gọi gia đình hay dâng hiến, mỗi người chúng ta đã nghe Chúa đặt câu hỏi này cho mình chưa: “còn con, con nói Thầy là ai?” Nếu có, chúng ta đã trả lời thực sự và dứt khoát cho Chúa chưa? Hay chúng ta chỉ nghe và trả lời giống như người ta nói về Chúa mà thôi, chứ chưa đích thân nghe được tiếng Chúa và đích thân trả lời cho Chúa như một người trưởng thành?
Hiển nhiên, trong truyền thống đức tin của Giáo Hội, chúng ta buộc phải tuyên xưng cùng với thánh Phêrô trong Thánh Lễ Chúa Nhật và vào những ngày Lễ Trọng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Nhưng lời tuyên xưng niềm tin nơi căn tính thần linh của Đức Giê-su có nghĩa gì đối với từng người chúng ta một cách đích thân? Đâu là cách thức hay con đường Ngài trở nên Đấng Kitô? Và tôi sẽ đi theo Ngài và dấn thân như thế nào để sống câu trả lời của tôi?
3. Mối phúc và sứ mạng
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Đây là lời tuyên xưng đức tin, qua đó thánh Phê-rô đại diện cho tất cả những người tin thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, nhìn nhận căn tính thần linh của con người Đức Giê-su Nazareth. Lời tuyên xưng đức tin này không có nguồn gốc con người, như Đức Giê-su xác nhận: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy”, nhưng đến từ mặc khải của Thiên Chúa, Cha của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ngự trên trời. Và niềm tin nơi Đức Ki-tô là một mối phúc:
Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.
Phúc của thánh Phê-rô đã tuyên xưng niềm tin nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, nhờ mặc khải của Thiên Chúa, và phúc của chúng ta hôm nay, vì cũng tuyên xưng và sống cùng một niềm tin. Xin cho chúng ta cảm nhận được mối phúc này mỗi ngày và suốt đời trong niềm vui, vì niềm tin chúng ta đặt để nơi Đức Ki-tô: đức tin của chúng ta thiết yếu không phải là một hệ thống tư tưởng hay nguyên tắc luân lí, nhưng là ngôi vị sống động và thần linh, là Đấng Cứu Độ, mang lại cho chúng ta tình yêu, lòng bao dung, ý nghĩa, đường đi, sự hiểu biết, sức sống và chính sự sống.
Nhưng thế nào là một mặc khải của Thiên Chúa về Đức Ki-tô? Chắc chắn đó không phải là một sự nhận biết bất chợt và một lần là xong; như chính Đức Ki-tô nói với thánh Phê-rô: “Điều Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13, 7). Đặt mối phúc của thánh Phê-rô trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của ngài, chúng ta nhận ra rằng, mặc khải về căn tính thần linh của Đức Ki-tô đến từ chính kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô, đi theo, ở lại, lắng nghe, hiểu biết, để cho Người rửa chân, trao ban và yêu thương đến cùng, mỗi ngày và suốt đời. Kinh nghiệm đức tin của hai Thánh Tông Đồ giúp chúng ta nhận ra điều này:
Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người.
(Pl 3, 7-9)
Đó là lời của thánh Phao-lô, nhưng thánh phê-rô cũng có cùng một kinh nghiệm sâu đậm về hiểu biết và lòng mến đến cùng dành cho Đức Ki-tô (x. Ga 21, 1-20). Chúa tin tưởng trao ban cho thánh Phê-rô, vừa với tư cách là “Đá Tảng” và vừa với tư cách là đại diện các tông đồ và các thừa tác viên (x. Ga 20, 23) một quyền rất lớn, đó là quyền tháo cởi hay cầm buộc. Chúng ta được mời gọi nhận ra sự tin tưởng trọn vẹn mà Đức Ki-tô đặt để nơi Giáo Hội, vì quyền ở trên trời, nhưng lại được trao hết cho con người mòng dòn ở dưới đất. Nhưng trong lịch sử, đã có lúc Giáo Hội mê quyền cầm giữ hơn quyền tha tội, đã tách biệt quyền bính với sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô. Không gắn bó với Đức Ki-tô, không hiểu Ngài cách sâu xa, nhất là mầu nhiệm Thập Giá, không nhớ lại kinh nghiệm được thương xót, không để cho Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta rất dễ sử dụng quyền bính Chúa ban không phải để giáo huấn, làm cho lớn lên và cứu sống, nhưng để lên án loại trừ và giết chết, theo năng động của Sự Dữ.
Giáo Hội được xây dựng trên đá tảng Phê-rô, nhưng đá tảng Phê-rô lại được nâng đỡ bởi lòng thương xót.
------------------------------
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Nói đến chìa khóa là người ta nghĩ đến việc mở hay đóng cửa. Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm TN 21-A140
Nói đến chìa khóa là người ta nghĩ đến việc mở hay đóng cửa. Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay trao cho ông Phêrô chìa khoá, nhưng Người lại nói đến việc cầm buộc và tháo cởi: “Thày sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Phêrô vừa thay mặt anh em để tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”. Sau lời tuyên xưng Đức tin của vị tông đồ, Chúa đã đổi tên cho ông từ Simon thành Phêrô, nghĩa là Đá Tảng và trao cho ông quyền cầm buộc và tháo cởi. Quyền này thật lớn lao, đến nỗi trên trời cũng sẽ dựa theo quyền này để quyết định tương lai của một con người, hoặc bị trừng phạt, hoặc được thưởng công. Hai ngàn năm đã qua, Giáo Hội tiếp nối Phêrô lãnh nhận và thực thi quyền này. Nhờ quyền ràng buộc và tháo cởi, Giáo Hội duy trì trật tự nội bộ, đóng góp phần mình xây dựng xã hội trần gian, đồng thời phản chiếu tình thương của Thiên Chúa cho con người của mọi thời đại, mở ra cho muôn dân con đường đến gặp gỡ Đức Kitô và đón nhận ơn cứu độ.
Ý tưởng cầm buộc và tháo cởi được Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa, cũng trong Tin Mừng thánh Mátthêu, ở chương 18, câu 18: “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”. Nếu ở Mt 16, 19, Chúa trao chìa khoá cho cá nhân Phêrô, thì ở đây, Chúa lại trao chìa khoá cho Cộng đoàn Giáo Hội, với danh nghĩa tập thể. Giáo Hội được ủy thác thay mặt Chúa để hướng dẫn con người đạt tới sự thánh thiện. Giáo Hội là một người mẹ, cưu mang, sinh hạ và chăm sóc các tín hữu. Ai nghe lời Giáo Hội là nghe lời Chúa. Ai hiệp thông với Giáo Hội là hiệp thông với Chúa. Giáo Hội không chỉ là cơ chế của loài người, nhưng trước hết là một tổ chức do Chúa Giêsu thiết lập, là trung gian thông chuyển ơn cứu độ đến cho hết mọi người. Chính Giáo Hội quản lý kho tàng Đức tin và có sứ mạng thông truyền Đức tin cho con người thuộc mọi thời đại và mọi nền văn hóa.
Hình ảnh chiếc chìa khoá cũng được nhắc đến trong Bài đọc I. Đây là chìa khoá Đavít, tượng trưng cho quyền lực của người lãnh đạo dân Israen. Vị tể tướng triều đình thời đó là Sép-na. Ông này vì bê bối và bất trung, nên Thiên Chúa loại bỏ. Qua ngôn sứ Isaia, Chúa phế bỏ Sép-na và thiết lập người thay thế là Engiakim. Người này sẽ được trao chìa khoá nhà Đavít và có quyền đóng cũng như mở. Sở dĩ đoạn Kinh Thánh Cựu ước này được đọc trong Phụng vụ, vì nhãn quan Kitô giáo nhận ra, Engiakim là hình ảnh của Đấng Thiên Sai. Người đến trần gian với quyền lực lãnh nhận từ Đấng Tối cao. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Người được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Người là Đấng được các vị kỳ lão trong sách Khải Huyền tung hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh 5,12). Người cũng là Đấng duy nhất có khả năng mở bảy ấn, vừa bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa, vừa ổn định trật tự trần gian (x. Kh, chương 6).
Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Tuy vậy, trải qua mọi thời đại, con người cũng như sứ mạng của Chúa bị nhiều người hiểu sai lạc, thậm chí có người cố ý xuyên tạc hay làm cho hình ảnh của Người bị biến dạng. Có nhiều người quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật huyền thoại, hoặc chỉ là một vĩ nhân như bao vĩ nhân khác của lịch sử. Một số khác lại coi Chúa như một chính trị gia, hay chỉ là một bậc thày về những tư tưởng đạo đức. Họ kính trọng Chúa, nhưng không công nhận Người là Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai. Điều này dễ hiểu. Bởi lẽ sứ mạng của Chúa được Chúa Cha trao phó. Con người không thể hiểu thế giới thần linh, vì “sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Ngài, ai suy cho thấu!” (Bài đọc II). Các môn đệ đã theo Chúa được vài năm, mà nay khi Người đặt câu hỏi về thân thế và sứ mạng của Người, các ông còn lúng túng: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, người khác thì cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Thì ra các môn đệ cũng chỉ dựa vào dư luận và những lời đồn. Chúa muốn mỗi người hãy suy tư và tự đưa ra quan điểm của mình: “Còn anh em, anh em nói Thày là ai?”. Tin vào Chúa không thể dựa trên những lời đồn thổi, nhưng là sự hiểu biết kèm theo niềm xác tín nơi Người. Phêrô đã thưa: “Thày là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Người tín hữu chân chính phải xác định rõ Chúa Giêsu là ai trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và Người là ai đối với đời sống của mình. Một Đức tin mờ nhạt mông lung không thể làm nền tảng cho cuộc đời của người tín hữu. Nó giống như ngôi nhà được xây trên cát, lúc bão tố mưa sa dễ dàng bị đổ sập. Một lối sống chỉ dựa vào dư luận của đám đông mà không dựa trên những tiêu chuẩn của giáo huấn Tin Mừng sẽ không chắc chắn vì luôn bị thay đổi cho hợp thời.
“Phần anh em, anh em nói Thày là ai?”. Chúa Giêsu vẫn đang đặt câu hỏi ấy đối với mỗi tín hữu chúng ta. Câu hỏi ấy được đặt ra trong cuộc sống đời thường, nhất là trong cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa, vào lúc sau hết của cuộc đời. Không thể vừa tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa của đời mình, vừa sống trái ngược với Tin Mừng Người rao giảng. Không thể vừa tuyên xưng Đức Giêsu là Sự thật, vừa sống trong sự dối trá với anh chị em mình.
Quyền cầm buộc và tháo cởi mà Chúa đã trao cho Phêrô và Giáo Hội, không chỉ được hiểu như những hình phạt chế tài, mà còn quảng diễn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Ngài không muốn cho con người phải trầm luân đời đời, nhưng được sống trong hạnh phúc đời này và đời sau. Mỗi người tín hữu hãy cảm nhận tình thương ấy, và là chứng nhân đem tình thương đến cho mọi người.
------------------------------
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Tại Việt Nam, thời gian gần đây, trong ngôn ngữ của giới trẻ, chúng ta thường thấy cụm từ nửa TN 21-A141
Tại Việt Nam, thời gian gần đây, trong ngôn ngữ của giới trẻ, chúng ta thường thấy cụm từ nửa tiếng Việt nửa tiếng Anh. Đó là “đu Idol”. “Đu” là tiếng Việt, “Idol” là tiếng Anh. “Đu” theo nghĩa này có nghĩa là chạy theo, hâm mộ đến mức cuồng tín mê man. “Idol” là thần tượng. Chủ thể của “Đu Idol” hầu hết là thanh niên nam nữ. “Idol” của họ là những người mẫu, ca sĩ, cầu thủ bóng đá, diễn viên điện ảnh. Trong một số trường hợp, “Idol” lại là những “giang hồ mạng”, là những kẻ vô học và những người có phát ngôn ngông cuồng, thiếu chuẩn mực đạo đức. Vậy mà vẫn có những người coi là “Idol – thần tượng” của mình. Việc chạy theo thần tượng là điều không có gì lạ. Việc hâm mộ và tôn vinh những tài năng là điều chẳng có gì đáng trách. Tuy vậy, về phương diện ngữ học cũng như về khía cạnh đức tin, chúng ta cũng cần tìm hiểu để sử dụng ngôn từ cho chính xác.
Trong truyền thống Cựu ước, “Idol” được dịch là thần tượng, ngẫu tượng, ngẫu thần, tà thần. Từ điển Công giáo Việt – Anh giải thích: “Theo nghĩa rộng, ngẫu thần là bất cứ điều gì được gán cho địa vị tối cao vốn chỉ dành cho một mình Thiên Chúa. Theo nghĩa hẹp, ngẫu thần là một đồ vật, thường mang dáng con thú hoặc hình ảnh biểu tượng chỉ thần, và được thờ thay cho Thiên Chúa đích thật”. Như thế, thờ ngẫu tượng là đặt một thụ tạo vào chỗ mà chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng. Các ngôn sứ của Cựu ước kịch liệt lên án các loại hình thờ ngẫu tượng, và các ông gọi đó là phản bội, là bất trung, giống như người vợ hay chồng ngoại tình. Chúa phán trong sách Lêvi: “Các ngươi không được hướng về các tà thần, không được đúc tượng thần mà thờ. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,4). Thánh Phao-lô cũng lên án thờ ngẫu tượng, khi ngài viết: “Anh em đừng trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng, như một số trong nhóm họ, theo lời đã chép: Dân đã ngồi xuống để ăn uống, rồi lại đứng lên chơi đùa” (1 Cr 10,7-8). Tác giả Thánh vịnh còn chế giễu: “Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành. Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe. Có hai tay, không sờ không mó, có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng. Tác giả còn chúc dữ: “Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy” (Tv 115,4-8).
Yêu mến người tài, yêu mến cái đẹp và tôn vinh những tài năng, đó là điều hoàn toàn chính đáng. Tuy vậy, suy tôn đến mức để cho những nhân vật và sự vật ấy thay thế vị trí của Thiên Chúa, thì đó là chọn nhầm lý tưởng, gọi là tội thờ ngẫu tượng.
Một ngày nọ, Chúa Giê-su đặt câu hỏi với các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?”. Sau khi nghe các ông trả lời theo dư luận quần chúng, Chúa Giê-su muốn các ông phải xác định rõ ràng hơn: “Còn các anh, các anh bảo Thầy là ai?”. Câu hỏi này cũng tương tự như câu hỏi: các anh chọn ai là “Idol” của mình? Tông đồ Phê-rô đã trả lời: “Thày là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời của Phê-rô là lời tuyên xưng Đức tin. Lời tuyên xưng này có ơn soi sáng của Chúa, như Chúa Giê-su đã nói khi Người khen ngợi ông Phê-rô: “Không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thày, Đấng ngự trên trời.” Sau này, tông đồ Phao-lô viết: “không ai có thể nói “Đức Giê-su là Chúa” mà lại không do Thánh Thần (1 Cr 12,3). Chúa Giê-su còn khẳng định điều này trong lời cầu nguyện với Chúa Cha: “Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25). Không có ơn soi sáng của Chúa, chúng ta không thể nhận biết và tin vào Người.
Nếu chúng ta có dịp đến hành hương tại Đền thờ Thánh Phê-rô ở Rôma, khi viếng mộ Thánh Phê-rô, ở khu bàn thờ chính của Đền thờ, chúng ta sẽ nhìn thấy một tấm biển bằng đồng, khắc chữ La-tinh hai câu nói của Thánh Phê-rô. Câu thứ nhất: “Thày là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16); câu thứ hai: “Lạy Thày, bỏ Thày thì chúng con biết theo ai?” (Ga, 6,68). Câu thứ nhất là lời tuyên xưng Đức tin; câu thứ hai là lời hứa trung thành. Hai câu nói này đã làm nên dung mạo của vị Tông đồ trưởng. Ông đã được Đức Giê-su đặt làm nền tảng Giáo Hội, đồng thời trao quyền cai quản và điều hành cộng đoàn tín hữu tin vào Chúa Giê-su trên toàn thế giới. Những ai đến viếng mộ Thánh Phê-rô, được mời gọi tuyên xưng Đức tin và tuyên hứa trung thành với Chúa. Xưa cũng như nay, ơn gọi luôn là một huyền nhiệm. Bài đọc I trích sách ngôn sứ I-sai-a ghi lại: Thiên Chúa đã chọn ông En-gia-kim làm vua và ban cho vương quốc hùng mạnh an bình. Chính Ngài củng cố quyền lực của vị vua này. Ngài trao chìa khoá nhà Đavít cho ông, và làm cho vương quyền của ông vững bền.
Thần tượng và lý tưởng của người Ki-tô hữu là chính Đức Giê-su. Ơn gọi Ki-tô hữu là nên giống Đức Giê-su trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Các tông đồ đã chọn Đức Giê-su làm lý tưởng. Họ đã chết để làm chứng rằng sự lựa chọn của họ là chính đáng và cao cả. Để được nên giống Chúa Giê-su là “Idol” của mình, chúng ta phải năng gặp Người. Cuộc gặp gỡ thân tình nhất, là gặp gỡ qua lời cầu nguyện, vì khi cầu nguyện là ta tâm sự với Chúa và lắng nghe Chúa nói với ta, thân thiết gần gũi như một người Bạn. Cầu nguyện để càng ngày càng nhận biết Đức Giê-su là Ai đối với bản thân mình.
“Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Chúa Giê-su đã đổi tên cho ông Si-mon và cho ông một tên mới là Phê-rô. Việc đổi tên đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc đời. Phê-rô là Tảng Đá. Giáo Hội của Đức Giê-su đặt nền trên chính Tảng Đá ấy. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn đứng vững đã hai ngàn năm, và sẽ còn vững vàng cho tới khi Chúa Giê-su đến trong vinh quang.
Khi lĩnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã chọn Chúa Giê-su là IDOL, là LÝ TƯỞNG cho đời mình. Xin cho chúng ta luôn trung thành với lựa chọn ấy.
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
“Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Ngài hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ."
Thế là cho đến bấy giờ, chưa có ai trong dân Do-thái nhận biết Chúa Giê-su là Đấng nào. Đức TN 21-A142
Thế là cho đến bấy giờ, chưa có ai trong dân Do-thái nhận biết Chúa Giê-su là Đấng nào.
Đức Giê-su quay sang hỏi các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?"
Si-môn Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Một câu đáp gây kinh ngạc! Si-môn Phê-rô đã thấu được căn tính của Chúa Giê-su!
Cho đến lúc đó, chỉ có Si-môn Phê-rô là người duy nhất được đặc ân nầy. Vì thế, Chúa Giê-su ca ngợi và chúc mừng:
“Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Đây quả là hồng phúc rất lớn lao.
Diễm phúc được nhận biết Chúa
Hôm nay, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta hồng phúc không thua kém gì thánh Phê-rô năm xưa.
Trong số 97 triệu người Việt Nam, chỉ có bảy triệu người công giáo. Chúng ta may mắn được liệt vào cộng đồng tuy ít ỏi nhưng đầy diễm phúc nầy.
Điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sai-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các khoa học gia tên tuổi… chưa từng được nghe, chưa được thấy, chưa từng biết, thì Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta từ lúc mới có trí khôn. Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận đây là đại phúc. Ngài nói:
"Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17).
Dù chúng ta có trí tuệ siêu phàm, nắm bắt hết mọi kiến thức khoa học, thông hiểu hết mọi ngôn ngữ loài người… nhưng nếu chúng ta chưa biết gì về Thiên Chúa, là chưa nắm được chìa khóa mở cửa thiên đàng.
Ngược lại, cho dù chúng ta chẳng có bằng cấp, không biết gì về khoa học nhưng được ơn hiểu biết và yêu mến Chúa, thì chúng ta có nhiều hy vọng được hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Vì thế, ơn được nhận biết Chúa quý báu hơn mọi điều khác trên thế gian.
Diễm phúc được chọn làm “viên đá” xây dựng Hội thánh
Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Si-môn Phê-rô còn được phúc thứ hai là được Chúa chọn làm Đá tảng xây Hội thánh như lời Chúa Giê-su nói với ngài: “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
Hôm nay Thiên Chúa cũng ưu ái trao ban hồng phúc này cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng được mời gọi làm “viên đá sống” để cùng nhau xây lên Đền thờ Thiên Chúa như lời thánh Phê-rô: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5).
Phê-rô là Đá tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng Hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ chúng ta.
Thế là trong cương vị người cha người mẹ, người anh chị em trong gia đình, chúng ta trở thành những Phê-rô khác, những “viên đá” khác trong Hội thánh tại gia. Hội thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phê-rô thì Hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội thánh, Phê-rô không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình để xây dựng Hội thánh Chúa và tích cực loan báo Tin mừng. Được chọn làm đá tảng như Phê-rô, chúng ta cũng phải hy sinh thời giờ, công sức để xây dựng gia đình và Giáo xứ chúng ta trở nên cộng đồng yêu thương, huynh đệ và lan tỏa tình Tin mừng.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã ban ơn giúp sức cho thánh Phê-rô làm tròn vai trò của ngài trong cương vị Đá tảng Hội thánh thì xin Chúa cũng nâng đỡ và giúp sức để chúng con chu toàn vai trò của mình trong cương vị đá tảng của Hội thánh tại gia.
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng vụ!
Từ lúc Thánh lễ chung cử hành trở lại, nhiều người rất vui vì được tham dự trực tiếp dù phải TN 21-A143
Từ lúc Thánh lễ chung cử hành trở lại, nhiều người rất vui vì được tham dự trực tiếp dù phải tuân thủ các quy định phòng bệnh dịch cô-vi; và cũng không ít người vẫn phải tham dự Thánh lễ trực tuyến hằng tuần. Dù sao chăng nữa, Chúa vẫn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta qua đời sống cầu nguyện, qua các biến cố cuộc sống hằng ngày, kể cả qua các gian nan vất vả cuộc đời.
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể thấy rõ một điều: sự yếu hèn của Thánh Phê-rô ngày trước cũng là sự yếu hèn của chúng ta hôm nay. Vừa ngay khi được ơn tuyên xưng đức tin tại xứ Xê-da-rê Phi-líp-phê, Thánh Phê-rô đã quay sang cản ngăn ân sủng của đức tin. Hai chi tiết đối nghịch nhau: “Si-mon Phê-rô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”” (x. Mt 16, 16) và ít phút sau đó, “Phê-rô kéo Người lại mà can gián rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”” (x. Mt 16, 22). Chỉ ngay lúc tuyên xưng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa hằng sống, thì Thánh Phê-rô lại quay sang ngăn cản sứ mệnh cứu độ của Thầy mình. Và ngay sau đón nhận chương trình của Thiên Chúa qua việc tuyên tín nhờ sự mặc khải, thì quay sang suy tính dự định, và kế hoạch theo cách của con người như Chúa Giê-su đã trách Phê-rô “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người” (x. Mt 16, 23). Trong đời sống hằng ngày, đặc biệt đời sống đức tin, lắm lúc chúng ta yếu hèn, lắm lúc chúng ta nghi ngờ Chúa ngay cả sau khi tuyên xưng đức tin của mình. Thậm chí, chúng ta vừa được lãnh nhận ơn hoà giải xong, thì trong tâm trí chúng ta lại tự hỏi: Chúa đã tha tội cho tôi chưa?, và lòng trở nên áy náy, muốn đi xưng tội với một cha khác. Nhiều lúc, trong giờ cầu nguyện, suy gẫm, đôi lần chúng ta không tín thác vào Chúa dù chỉ vụt qua tâm trí hoặc tư tưởng!
Thế nhưng, ơn Chúa lại cao trọng và vượt xa sự yếu đuối, hèn kém của chúng ta. Chúa biết rõ hơn ai hết, chúng ta là những con người mong manh, hay đổi thay, thất thường, dễ quy hướng về tội lỗi. Chính vì thấu hiểu chúng ta hơn cả bản thân chúng ta, nên mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thế và nhập thể được diễn ra kỳ diệu, nhắc nhớ mỗi người chúng ta rằng: Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm, đã hạ mình tột cùng, đã hoá mình ra không, đã chịu hết mọi đau đớn, gian truân của kiếp người, để rồi mang con người trở về với tình trạng ân sủng ban đầu khi được Thiên Chúa tạo dựng. Chúa Giê-su biết rõ con người yếu đuối, kém cỏi của Phê-rô, nhưng vẫn đặt để ngài làm rường cột Hội Thánh của Người “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được” (x. Mt 16, 18). Phê-rô chỉ là phiến đá nhỏ nhoi, hèn yếu, bất xứng, nhưng nhờ vào công trình xây dựng của Thầy Giê-su chí thánh - là phiến đá thợ xây loại bỏ trở nên tảng đá góc tường - mà Hội Thánh của Thiên Chúa được trường tồn! Hơn nữa, Chúa Giê-su còn giao chìa khoá Nước Trời, quyền phán quyết tối thượng cho Phê-rô như lời tiên tri I-sai-ah trong bài đọc I “Ta sẽ để chìa khoá nhà Đavít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được” (x. Is 22, 22); cụ thể hơn như lời Người phán: “Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16, 19).
Chính vì ơn sủng Chúa cao vời, vượt xa sự bất xứng, tính yếu hèn của con người chúng ta, nên cách thức Thiên Chúa hoạt động, thực hiện chương trình của Người cũng trổi vượt như lời tiên tri I-sai-ah tuyên sấm “trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (x. Is 55, 9). Con người chúng ta thường có những tiêu chí, tiêu chuẩn chọn nhân sự hay cộng tác viên làm việc với mình hoặc cho mình dựa trên trí tài đức. Tuy nhiên, cách thức Thiên Chúa trao sứ vụ cho một ai lại không dựa trên sự thành đạt, thành công, sự tài giỏi, tài năng, trí hiểu hay khôn ngoan thuần tuý của con người, mà hoàn toàn tuỳ thuộc vào yếu tố mà Thánh Phao-lô đã thốt lên trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma “ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được” (x. Rm 11, 33). Vì thế, mọi việc chúng ta sống - làm - đắc thủ đều “do Người, nhờ Người, và trong Người”, nói một cách rõ ràng hơn “muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người tồn tại và quy hướng về Người” (Rm 11, 36). Do đó, cả cuộc đời của chúng ta, cả những ngày sống của chúng ta chỉ duy nhất tóm gọn nơi hai chữ tuy giản đơn nhưng ý nghĩa sâu thẳm, đó là ‘tạ ơn’, và tâm tình này được diễn tả một cách đầy đủ nhất trong Thánh lễ - nơi chính Chúa Giê-su vừa là chủ tế, vừa là của lễ hiến tế, vừa là bàn thờ thánh hiến dâng lên Thiên Chúa Cha lời tạ ơn một cách trọn vẹn, hoàn hảo nhất!
Giờ đây, chúng ta cùng dành ít phút thinh lặng trước nhan Thánh Chúa chẳng phải để cầu xin, mà chỉ ước ao dâng lên Người tấm lòng chân thành của một người con thơ:
Dù con yếu hèn đổi thay
Ơn Ngài trợ giúp chuyển lay tâm hồn
Dù con xao xuyến bồn chồn
Tình Ngài nuôi dưỡng, ôn tồn dìu đưa
Chọn con từ thuở ngàn xưa
Tuôn tràn ân sủng như mưa dạt dào. Amen!
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Người ta bảo Con Người là ai?” Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi các môn đệ một câu lạ lùng như thế? TN 21-A144
“Người ta bảo Con Người là ai?” Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi các môn đệ một câu lạ lùng như thế? Ngài không biết người ta nói về Ngài như thế nào sao mà lại hỏi? Hơn nữa, Ngài dùng từ Con Người chứ không dùng tiếng Thầy thường nói với các môn đệ. Tức Ngài ngụ ý gì. Sau khi các môn đệ trả lời, Ngài tiếp tục hỏi một câu trực tiếp hơn: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” Có thể Ngài muốn cho các môn đệ ý thức hơn vì sống gần Thầy họ quen đi không còn biết Thầy là ai, sứ mệnh của Thầy là gì. Và trong số các môn đệ vẫn có một số người đeo đuổi những ước vọng trần thế của họ.
Chúng ta cũng thế, chúng ta dễ quen và dần dần mọi sự trở nên bình thường, những cử chỉ yêu thương lắm khi trở thành máy móc. Đó là định luật. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, Ngài muốn các môn đệ ý thức sứ mệnh của Ngài. Và đây là giai đoạn quan trọng vì sắp đến thời phải quyết liệt, cuộc tử nạn gần kề. Phải chuẩn bị để đến lúc nguy nan, họ sẽ vững lòng.
“Còn anh em bảo Thầy là ai?” Một câu hỏi trực tiếp. Người ta nói Thầy như thế nào, Thầy không cần biết, nhưng anh em, những người đã sống với Thầy một thời gian khá dài, anh em nghĩ Thầy là ai đối với anh em? Đang khi anh em khác đang suy nghĩ và do dự, Phêrô lên tiếng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và không có ai có ý kiến gì khác. Chúa Giêsu mới nói với Phêrô những câu nói mà chúng ta cần suy nghĩ: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”
Lời tuyên xưng đức tin thật rõ ràng. Chúa Giêsu đáp lại và cho thấy, con người không thể nào biết được một điều lạ lùng như thế. Phải là một ơn trên. “Chính Cha Thầy mạc khải cho”. Chúng ta tin. Đây là một ơn nhưng không của Chúa, chứ không do một cố gắng nào, cũng không do sự khôn ngoan của con người. Niềm tin đến với chúng ta, đôi khi cũng qua những trung gian như gia đình, bạn bè hay do một nguyên nhân nào, nhưng trước hết vẫn là một hồng ân. Hãy cảm tạ Chúa không ngừng vì hồng ân đức tin, một hồng ân quí báu mà không mấy người hiểu được giá trị. Chúa Giêsu nói với Phêrô là anh có phúc, vì đã được tin. Phải chăng đức tin là một hồng phúc? Chúng ta có cảm thấy như thế không? Xin cho niềm tin chúng ta luôn sống động để trở nên nguồn phúc cho chúng ta trong cuộc đời lắm gian nan này.
Sau khi chấp nhận lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Chúa Giêsu nói đến một vấn đề quan trọng, là trao cho Phêrô những trách vụ mới: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết,anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Khi gặp Phêrô lần đầu tiên theo Tin Mừng của Gioan, Chúa Giêsu đã đổi tên Simon thành Phêrô nghĩa là Tảng Đá. Đổi tên, theo tục lệ Do Thái là nhận người đó làm đệ tử ruột của mình. Hôm nay, Ngài long trọng nhắc lại tên mới đó và nói lên ý định của Ngài: “Trên Đá này thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Tảng Đá là gì? Là niềm tin chân thành của Phêrô. Chúa nhìn vào tương lai. Ngài biết công cuộc cứu chuộc của Ngài phải được tiếp tục đến tận thế. Ngài đã chọn Phêrô như nền tảng của Giáo hội tương lai. Nền tảng của Giáo hội là niềm tin vào Đấng Kitô. Vì “dưới gầm trời này không có một danh hiệu nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ danh đó mà được cứu độ”.
Chúa Giêsu cũng được Thánh vịnh gọi là Tảng đá bị thợ xây nhà loại bỏ, chính tảng đá ấy đã trở nên tảng đá góc tường. Hôm nay, Chúa Giêsu gọi Phêrô là tảng đá như Ngài. Chính Chúa cũng đã nói: “Người nghe lời Chúa và đem ra thi hành cũng như người xây nhà trên tảng đá. Giáo hội được xây trên nền Phêrô vì Phêrô, tuy chối Chúa, nhưng đã biết trở về và đã trở thành tảng đá được tuyển chọn để làm nền tảng cho Giáo hội sau này mà quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Từ hai mươi thế kỷ nay, Giáo hội phải đương đầu với biết bao nhiêu cuộc bách hại đẫm máu, và ngay hôm nay những cuộc bách hại vẫn tiếp diễn với một cường độ dã man chưa từng thấy ở rất nhiều nước nhất là ở Iraq. Nhưng Giáo hội vẫn tin vào Đấng đã chết và sống lại cho mình. Bao nhiêu giáo dân vẫn kiên trung trong cơn thử thách.
Sau khi tuyên bố chọn Phêrô, Chúa Giêsu còn trao cho ông quyền bính để xây dựng Giáo hội đó: “Chìa khóa Nước trời Thầy trao cho anh. Sự gì anh cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, sự gì anh tháo gở dưới đất trên trời cũng tháo gở cho”. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, Ngài nắm quyền trên trời dưới đất và Ngài đã trao quyền cho Phêrô. Chía khóa có nghĩa là quyền tối thượng, quyền tha bắt tuyệt đối.
Chúng ta cần được tha thứ, được tẩy rửa vì không ai trọn lành như Cha trên trời. Giáo hội thánh thiện, nhưng những con cái Giáo hội vẫn là những người tội lỗi. Vì thế Công Đồng Vatican II đã nhắc lại lời mời gọi mọi người phải nên thánh trong bậc sống của mình. Chúng ta được tha thứ vì Chúa Giêsu đã chết và sống lại cho chúng ta, và kho tàng ơn cứu độ đã được trao trong tay của Phêrô. Chìa khóa đã ban cho Phêrô sẽ là nguồn ơn tha thứ mà chúng ta cần đến. Quyền này là quyền bởi trời, vì tháo gở cho ai dưới đất trên trời cũng tháo gở cho. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến “dưới đất-trên trời”. Điều này cho chúng ta thấy quyền này không phải của Phêrô mà là một quyền được chuyển giao chứ không do công nghiệp gì của Phêrô. Đó là lòng thương xót vô bờ của Chúa được thi thố qua trung gian Giáo Hội. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì đã cứu chúng ta liên tục, dù chúng ta có chết vì tội lỗi chúng ta thì lòng thương xót của Chúa vẫn không thôi tha thứ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: “Thiên Chúa không mõi mệt tha thứ cho chúng ta”. Hãy năng hưởng dùng hồng ân vô giá này để càng ngày chúng ta nên trọn lành như Cha trên trời.
Chúng ta hãy trở về lại với câu hỏi của Chúa: “Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?”
Đó là câu hỏi mà hôm nay Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô đã trả lời: “Sống đối với tôi là Chúa Giêsu Kitô”. “Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Chúa Giêsu sống trong tôi”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chỉ biết một điều là yêu mến Chúa và làm mọi việc vì yêu Chúa mà thôi. Các thánh là những người đã xem Chúa như kho tàng duy nhất của mình, bỏ mọi sự để sống cho một mình Chúa. Còn chúng ta? Chúa Giêsu có thực sự là người chúng ta yêu quí nhất trên đời không? Chúng ta có thực tình sống cho Ngài không hay chỉ là lấy có lấy lệ? Chúng ta có cảm thấy cần Chúa như mảnh đất khô cần mưa không?
Chúa Giêsu vẫn rất gần mà chúng ta cứ tưởng Ngài rất xa. Ngài đến hằng ngày nơi bàn thánh, trở thành của ăn cho chúng ta. Ngài hiện diện im lặng, nhưng sự im lặng của Ngài vẫn là một câu hỏi không lời. Chúng ta hãy đến với Ngài, sống với Ngài với tất cả sự nhỏ hèn của chúng ta, nhưng cũng với tất cả tình yêu của con tim nhỏ bé của chúng ta, chúng ta mới thấy đời đáng sống và những khổ đau nhọc mệt hằng ngày sẽ trở thành tình yêu.
------------------------------
Chúa Nhật 21 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô: ”Thầy là Đấng Kitô TN 21-A145
Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô: ”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền khen thưởng thánh Phêrô: ”Phêrô, con là Đá trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”.
Con là Đá: Đá ở đây vừa là tảng đá vừa là tên mới của Simon. Trong Kinh Thánh, khi trao nhiệm vụ đặc biệt cho một nhân vật nào thì Thiên Chúa thường đổi tên cho người đó (St 17,5-15. 35,10 . Tv 13,16. 2V 23,34) . Quả vậy, khi đổi tên Simon là Phêrô, tức là Đá,
Chúa có ý chỉ Phêrô sẽ là Đá Tảng vững chắc, trên đó Người sẽ xây Hội thánh của Người và Chúa còn hứa với thánh Phêrô: quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi.
Như vậy Phêrô là một tảng đá, một tảng đá chắc chắn, bền vững và kiên cố.
Phi hành gia James Irwin, lái chiếc phi thuyền Apolo 15 sau khi đã đáp xuống mặt trăng, ông đào được một tạ đá đưa về trái đất, và ông đem đi khắp thế giới để nói về sự thành công vĩ đại của khoa học không gian ngày nay.
Ngày 8 tháng 3 năm 1973, James Irwin đã nói chuyện tại rạp Thống Nhất ở Sàigòn như sau:
Có ba loại đá tượng trưng cho ba lãnh vực:
1. Đá mê tín của những người bạc nhược, không tận dụng khả năng của mình, mà chỉ tin vào sức thần thiêng giải quyết trong mọi lãnh vực cuộc sống. Loại đá mê tín này khiến nhiều người lầm lẫn, vì tin rằng cứ rờ vào là khỏi bệnh tật, thoát hoạn nạn, hết rủi ro, được bình an!
2. Đá nguyệt cầu (đá lấy từ mặt trăng) tượng trưng cho tài khéo của khối óc và nỗ lực làm việc của con người cộng tác với ơn Chúa.
Sự thành công này, nhiều người đã quá cao vọng, đi đến chỗ cực đoan và kiêu ngạo, tưởng khoa học sẽ giải quyết thoả đáng mọi khát vọng của con người! Nhưng nếu có ai tài giỏi hơn tôi khi ngồi vào phi thuyền đi vào không gian, mới thấy con người quá nhỏ bé, so với quyền lực của vũ trụ, và số phận người ta quá mỏng manh như bong bóng xà phòng trong không khí! Do đó phải biết rằng khoa học không bao giờ làm ra được cái máy nói dối, chỉ những kẻ phủ nhận Thiên Chúa mới nói dối mà lại cho là khôn ngoan!
3. Đá Kitô. Ngồi vào phi thuyền mới thấy con người không thể cậy dựa hoàn toàn vào sức mạnh của phàm nhân. Hơn lúc nào hết, ngay lúc này chỉ còn trông cậy vào sự nâng đỡ của Thượng Đế cho con người một niềm tin, niềm phó thác và sự bình tĩnh, bởi vì
“Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan? Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con" (Tv 139/138, 7-10).
Do đó ơn Chúa phù trợ giúp cho chuyến bay của tôi được thành công rực rỡ là tôi tin vào Đức Kitô, vì nếu Ngài ngoảnh mặt đi trong chốc lát là tôi chết ngay (Tv 104/103,29)! Vậy ngồi ở trong phi thuyền nếu biết tin vào Đức Kitô để đi đến nơi an toàn, thì người ở trong Hội Thánh tin vào Đức Kitô, chắc chắn được Ngài trợ giúp, điều chỉnh cách sống Đạo, mới có thể bay về tới thiên cung, nơi mọi người tin Chúa đang mong chờ![1]
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hỏi: "Người ta bảo Thầy là ai?", Đây là câu hỏi thứ nhất, nhưng là câu hỏi phụ. Câu hỏi thứ hai quan trọng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ và cũng là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho mỗi người chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết.
Phải, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nếu chúng ta chỉ lặp lại lời của Phêrô thì quá dễ:
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.” Điều quan trọng là Đức Kitô Hằng Sống đó đối với chúng ta như thế nào.
Chúng ta hãy nhìn vào phi hành gia James Irwin diễn tả ra sao:
Khi bay vào không gian ông cảm thấy con người quá nhỏ bé, so với quyền lực của vũ trụ, và số phận người ta quá mỏng manh như bong bóng xà phòng trong không khí!
Do đó, ông chỉ biết trông cậy và phó thác nơi Chúa và ông đã mượn thánh vịnh 139 để nói lên tâm tình của mình:
“Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan? Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con" (Tv 139/138, 7-10).
Và nếu Ngài ngoảnh mặt đi là tôi biến tan ngay trong cuộc sống này (Tv 104/103,29)!
Niềm tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống là như thế đó.
Kính thưa anh chị em,
Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho xã hội hôm nay rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng Quyền Năng, Ngài đã làm người và đang ở giữa chúng ta. Amen
---------------
[1] Câu chuyện của Lm Giuse Đinh Quang Thịnh, truyện góp nhặt trg. 63-64
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Một người mẹ đố đứa con gái rằng: “Phần nào trong cơ thể quan trọng nhất?”. Em trả lời âm TN 21-A146
Một người mẹ đố đứa con gái rằng: “Phần nào trong cơ thể quan trọng nhất?”. Em trả lời âm thanh. Thế nhưng người mẹ lắc đầu bảo rằng: “Có rất nhiều người khiếm thính, họ không cần âm thanh”. Em trả lời tiếp: đôi mắt là phần quan trọng nhất. Người mẹ âu yếm nói với con: “Nhiều người khiếm thị họ không cần hình ảnh. Đôi mắt vẫn chưa phải là cần thiết nhất. Con hãy tiếp tục suy nghĩ. Một hôm ông nội của đứa trẻ qua đời. Người mẹ dẫn con lại chào ông nội lần cuối và nói rằng: “Con đã tìm ra câu trả lời chưa?”. Đứa con ngạc nhiên vì câu hỏi của mẹ trong lúc này, nó tưởng rằng đây chỉ là trò đùa giữa hai mẹ con, nhưng người mẹ trịnh trọng nói: “Phần quan trọng nhất trên cơ thể con người chính là bờ vai. Vì đó là nơi người thân có thể dựa vào khi họ yếu đuối, đau khổ, thất bại, buồn tủi hay mệt nhòa... Mỗi người đều cần có một đôi vai để nương tựa trong cuộc sống. Cho nên, người ta nói: Mẹ cha gánh vác hy sinh. Mẹ cha quên cả thân mình vì con. Cha một đời oằn vai gánh nặng. Mẹ một đời đôi dép lạc bàn chân”. Hay là: “Kia là bờ vai ai. Cho tôi mượn một chút. Trong một phút yếu lòng. Để tôi được bật khóc. Cho nước mắt tuôn rơi. Khi tình tôi cay đắng. Trong đêm trường hoang vắng. Lệ trào ướt hoen mi. Kia là bờ vai ai. Hãy cho tôi mượn một chút để tựa vào”. Người mẹ âu yếm nói với con: “Con ơi! Hôm nay gia đình chúng ta đã mất đi đôi vai của người cha, người ông. Một con người mà cả gia đình đã nương tựa nay đã không còn”.
Vâng, phần quan trọng nhất của con người không phải là phần để cho mình mà là để cho tha nhân. Vì thế, một con người quan trọng trong xã hội là một con người có ích cho người khác. Một người được yêu mến và quý trọng không phải vì địa vị hay chức quyền mà là vì sự đóng góp của họ với cộng đồng nhân loại.
Hôm nay, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô, Chúa đã đặt Phê-rô làm đá tảng của Giáo hội. Chúa không bảo Phê-rô trở thành một cục đá vô hồn mà là một viên đá sống động, một chỗ dựa cho các tông đồ và cho toàn thể Giáo hội. Phê-rô phải là một tảng đá có một đức tin vững chắc đến nỗi không có gì lay chuyển nổi mới có thể bảo vệ và gìn giữ Giáo hội cho đến hôm nay. Chúa biết con người Phê-rô còn đầy bất toàn, yếu đuối, nhưng Chúa nhận thấy Phê-rô có một tấm lòng nhiệt thành theo Chúa. Ông mến Chúa. Ông luôn mong muốn hoàn thiện đời mình. Ông đã từng vấp ngã, nhưng ông mau làm lại cuộc đời. Chúa chọn ông không vì tài năng đức độ, nhưng vì lòng chân thành của ông. Chúa dùng ông, một con người đã từng vấp ngã để có thể nâng đỡ đức tin còn yếu kém nơi anh em. Chính Chúa đã từng nói với Phê-rô: “khi nào con trở về, con hãy củng cố đức tin anh em con”.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy trở nên những viên đá sống động để xây dựng giá đình, xa hội và Giáo hội. Tuy nhiên, mỗi người một khả năng, mỗi người một hoàn cảnh, Chúa mời gọi chúng ta hãy biết tự xây dựng đời mình bằng những vật liệu mà chúng ta đang có để trở thành những viên đá hữu ích cho tha nhân, đặc biệt là cho gia đình chúng ta đang sống. Có nhiều người nghĩ rằng: mình phải làm ông này bà nọ mới có thể cống hiến cho tha nhân. Đó là chuyện của tương lai, nhưng ngay hôm nay, chúng ta hãy biết vận dụng những khả năng, hoàn cảnh Chúa ban để giúp đời, để cứu đời, để xoa dịu nỗi đau cho những người chung quanh, để trở nên điểm tựa cho anh chị em chúng ta. Vậy:
Nếu chúng ta là người chồng hay người vợ: hãy đưa vai gánh lấy cuộc đời nhau. Hãy là điểm tựa để nâng đỡ chia sẻ buồn vui và cùng dìu nhau qua những thăng trần của dòng đời khi thịnh vượng cung như lúc gian nan, khi ốm đau cung như lúc mạnh khỏe. Nếu chúng ta là người cha, người mẹ: hãy là điểm tựa cho con cái. Hãy sống vì gia đình, vì con cái mà quên đi những niềm vui riêng của mình. Hãy chu toàn bổn phận của mình để xứng đáng là núi thái sơn, là biển rộng bao la cho con cái hưởng nhờ sự ấm áp, sự chở che của tình cha nghĩa mẹ. Nếu chúng ta là con cái trong gia đình: hãy gánh vác trách nhiệm với gia đình. Hãy quan tâm tới gia đình, đừng vì sự lười biếng, cẩu thả của mình mà trở thành gánh nặng cho gia đình. Nếu chúng ta là thành viên trong cộng đoàn nhân loại: hãy chung vai góp sức xây dựng hoà bình, xấy dựng tình liên đoi, hiệp nhất và yêu thương. Hãy biết dùng cuộc đời nhỏ bé của mình để trở nên những viên gạch xây dựng thế giới này mỗi ngày hạnh phúc và an khang hơn. Đăc biệt là Kitô huu hay là bờ vai yêu thương cho nguoi mệt nhoài, khi lòng tê tái hay khi thất bại, những lúc sầu vương, cho nhung ai đoạn trường, người lạc hướng mang bao lụy phiền vì cuộc sống lầm than cơ cực bang an ui, sẻ chia, giúp đơ tinh thần cung như vật chất để họ tìm được bình an và hạnh phúc.
Trong cuộc sống không có việc gì là việc tầm thường đến nỗi không đáng cho chúng ta làm mà chỉ có những con người tầm thường khi thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Có thể công việc của chúng ta thật bé nhỏ, thật âm thầm nhưng nó lại thật cần thiết cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, muốn trở thành chỗ dựa cho tha nhân, chúng ta cần phải biết xây dựng đời mình trở nên những viên đá vững chắc, nghĩa là mỗi người cần biết rèn luyện đức hạnh đời mình trên nền móng Lời Chúa và phải được tôi luyện hằng ngày qua việc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa. Đó chính là người khôn ngoan. Vì kẻ khôn ngoan là người biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, cho dù có gặp thử thách, gian truân, tựa như nước lũ ngập tràn cũng không lay chuyển. Còn kẻ thiếu đức hạnh, thiếu nền tảng Lời Chúa, không chỉ làm hỏng đời mình mà còn gây tai hoạ cho biết bao người khác, vì “mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống lỗ”.
Xin Chúa giúp chúng ta biết uốn nắn đời mình trở thành những viên đá sống động và hữu ích cho gia đình và những người chung quanh. Amen.
------------------------------
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Xã hội ngày nay đang cần có những nhà lãnh đạo, những người hữu trách khôn ngoan, tài giỏi TN 21-A147
Xã hội ngày nay đang cần có những nhà lãnh đạo, những người hữu trách khôn ngoan, tài giỏi và lanh lợi, ngay cả trong kinh doanh làm ăn buôn bán cũng cần có những CEO-giám đốc điều hành giỏi. Có thể vì nhờ những con người này mà xã hội ngày càng thăng tiến, phát triển và thành công. Thế nhưng trong đời sống tâm linh, trên nền tảng đức tin, để trở nên “những người có phúc” thì cần có những con người khiêm tốn, luôn biết lắng nghe thánh ý Chúa và làm theo những gì mà Thánh Thần soi dẫn. Nhưng làm sao để có thể cân bằng trong cả hai đời sống xã hội và tâm linh? Tin mừng hôm nay đang soi đường chỉ lối cho chúng ta.
Khi được Chúa Giêsu hỏi “Phần các con, các con bảo Thầy là ai? Simon Phêrô thưa rằng: Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Qua cách trả lời của Phêrô cho thấy, ông rất nhạy bén, lanh lợi và hiểu biết rõ về vị Thầy Giêsu, Đấng mà ông đang tin theo. Đúng thế, Chúa đã khen và tuyên dương cách trả lời của Phêrô; “Con là người có phúc”. Không những thế, từ đây trên nền tảng lòng tin và lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa trao cho ông những năng quyền mà chỉ có Thiên Chúa, là Đấng ban phát thi ân: “tha thứ và ràng buộc”; năng quyền trên “nền đá tảng Phêrô” này, cũng sẽ được thông ban cho những đấng kế vị Phêrô, các Tông đồ và cho các thừa tác viên được tuyển chọn. Thiết tưởng giây phút này, thật là vinh hạnh và không có gì hạnh phúc cho bằng đối với Phêrô. Ơn ban này không phải do công trạng hay sức lực của Phêrô mà có, nhưng hoàn toàn là do ân sủng và tình yêu thương của Thiên Chúa Cha mạc khải cho ông. Thật vậy, bao lâu con người đóng cửa tâm hồn mình lại với thánh ý Chúa, mà làm theo ý riêng mình thì kết quả sẽ là những sự hẹp hòi ích kỷ và ngay cả tội lỗi là thuộc về con người.
Liền ngay sau đó, khi Chúa Giêsu loan báo về hành trình đi lên Giêrusalem, vào cuộc khổ nạn và chịu chết của Chúa thì Phêrô đã ngăn cản Chúa, không những thế, dường như ông không hài lòng và còn trách móc Chúa. “Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Đặt bản thân của chúng ta vào địa vị của Phêrô, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng sẽ cư xử và hành động như vậy thôi. Vì khi chúng ta dùng lý trí hữu hạn của con người để suy luận và biện phân: Tại sao Chúa phải chọn con đường hành động như vậy? Tại sao Chúa lại không chọn một cách thế nào khác hay hơn và tốt hơn chăng? Vì Ngài là Chúa, là con Thên Chúa quyền năng cao cả mà. Nếu như Phêrô, chúng ta cũng có thể đưa ra những ý tưởng và phương cách đơn giản, nhẹ nhàng hơn cho Chúa chăng, mà nếu có thì phương cách của chúng ta là gì? Vì xét theo sự suy nghĩ, khôn ngoan, hơn thiệt của con người, thì đúng thật, việc lựa chọn đi lên Giêrusalem để chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết như Chúa Giê su thì không hợp lý chút nào cả. Nếu nói nặng hơn, thì cách thức và hành động của Chúa Giêsu “quá khờ dại và điên khùng” theo con người. Và nói như Thánh Phaolô cách thức hành động mà Chúa chọn là “cớ vấp phạm cho người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại”.
Nhưng thưa ACE, Chúa đã chọn cách thức duy nhất đó, nên Ngài đã không đồng ý với Phêrô và đã quở trách Phêrô rất nặng “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. “Satan” ở đây không phải là con người của Phêrô có lòng dạ hay mưu đồ xấu, nhưng cách suy nghĩ và hành động của ông đang bị lôi kéo và xúi giục bởi satan, ma quỷ, xác thịt và thế gian. Điều thú vị trong lời quở trách của Chúa Giêsu “Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy”. Tại sao phải lui lại đằng sau? Vì lui lại ra đứng phía sau hay đi theo đằng sau, có nghĩa là phải vâng theo và hành động theo thánh ý của Thiên Chúa. Mặc dầu nhiều lúc chúng ta không thể hiểu và lý giải được tại sao lại phải như vậy, nhưng rồi vẫn cứ phải xin vâng và tuân theo thánh ý Chúa với lòng tin và thái độ khiêm tốn. Mà thánh ý Chúa là gì để chúng ta phải tin theo? Đó chính là từ bỏ mọi sự, vác thánh giá, hiến mạng sống để yêu thương, tha thứ và cứu độ nhân loại.
Đúng như trong bài đọc hai trong thư gởi tín hữu Roma, thánh Phaolo đã minh chứng cho biết, là con người, chúng ta không thể nào dò thấu và hiểu được thánh ý nhiệm mầu, sự khôn ngoan trong đường lối của Thiên Chúa. Chúng ta cũng không thể nào làm cố vấn cho Chúa hay đưa ra ý tưởng hành động nào cho Ngài cả. Chỉ có một điều duy nhất là chúng ta hãy khiêm tốn tìm kiếm thánh ý Chúa và cố gắng nỗ lực vì lòng mến mà làm mọi việc để tôn vinh danh thánh Ngài. “Mọi sự đều do Chúa và bởi Chúa” vậy chúng ta có còn tự do khi chúng ta là theo Thánh ý Chúa không? Chúa luôn tôn trọng sự tự do lựa chọn của con người, và sự tự do đích thực không phải làm những điều mình muốn và mình thích nhưng là vâng theo đường lối, thánh ý và huấn lệnh Chúa.
ACE rất thân mến, ai trong chúng ta cũng muốn lựa chọn cho mình con đường, cách sống và hành động để đạt được bình an và hạnh phúc đích thực. Mà hạnh phúc và bình an đích thực là gì nếu không phải là Thiên Chúa và thánh ý Ngài. Lạy Chúa, xin cho chúng con như Phêrô, dám can đảm để từ bỏ mọi sự để tin theo Chúa, tuyên xưng Chúa là Chúa của chúng con. Xin cho chúng con luôn sống trong tâm tình của người con thơ, luôn dõi theo và hành động dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần, hầu trong mọi sự, chúng con luôn được gọi là người được Chúa chúc phúc. Amen.
------------------------------
Chúa Nhật 21 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Lịch sử cứu độ ghi dấu ấn bằng những biến cố “thay ngôi đổi chủ”, nhằm chọn ra những quân vương TN 21-A148
Lịch sử cứu độ ghi dấu ấn bằng những biến cố “thay ngôi đổi chủ”, nhằm chọn ra những quân vương “có tâm, có tầm”, những mục tử tốt lành như lòng Chúa mong ước, phục vụ lợi ích tốt nhất cho đoàn chiên. Họ là những ngọn đèn được thắp lên giãi sáng cho một cộng đoàn, một nơi chốn cụ thể, trong một thời gian nhất định.
Mạc khải ghi nhận những khuôn mặt lẫy lừng định hình cho Israel, dân tộc được tuyển chọn của Chúa: Abraham, Mô-sê, Samuel, David, Salomon, Elia, Gioan Tiền Hô..., nhưng rồi, tất cả đã qua đi. Dân của lời hứa vẫn cứ luôn khát vọng đấng muôn dân mong đợi Đức Kitô, Đấng phải đến đổi mới mọi sự và triều đại Người tồn tại muôn đời.
Niềm hy vọng Israel không dừng lại nơi biến cố đang dần tới, nhưng trên tất cả, nhấn mạnh đến thái độ, đến chiều sâu tâm hồn: hòa giải và canh tân, trở nên xứng đáng gặp gỡ Đấng cứu thế trong ngày Người viếng thăm.
Thánh Gio-an Tiền Hô chỉ ra việc phải làm, dọn đường cho Chúa: bạt đồi cao, lấp hố sâu, nắn cho thẳng con đường cong queo. Chỉ những ai nuôi mình bằng tinh thần hoán cải thật, mới được ơn đổi mới, mới xứng đáng gặp Đức Kitô, Đấng đổi mới mọi sự.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay vẽ chân dung Đấng muôn dân trông đợi qua những nhân vật Chúa gởi đến trong lịch sử thay vào vị trí những người lãnh đạo cũ vì lý do tuổi tác hoặc vì không còn xứng đáng với nhiệm vụ đang đảm trách.
Đấng thiên hạ đợi trông hội đủ những đức tính của người mục tử nhân lành, trổi vượt tất cả, luôn đẹp lòng Thiên Chúa và được toàn dân mến mộ (cf. Lc 2, 52). Đức Giê-su thành Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần mà xức dầu tấn phong, Người đi khắp nơi công bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì, Thiên Chúa ở cùng Người.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, loan báo Chúa các đạo binh sẽ thực hiện một cuộc cải tổ lớn lao cho nhà Giu-đa. Người gởi đến cho họ một vị lãnh đạo tài đức vẹn toàn, một mục tử tốt lành để lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên trong sự công minh, chính trực. Những gì cũ kĩ, lỗi thời sẽ được thay thế bằng sự mới mẻ, tốt đẹp.
Bởi vậy, cư dân Jérusalem và nhà Giu-đa hãy nức lòng phấn khởi, quên hẳn quá khứ u sầu buồn bã, hướng về một tương lai tươi sáng, dẫy tràn hạnh phúc dưới triều đại của vị mục tử mới được gởi tới từ Thiên Chúa.
“Một chồi sẽ xuất từ gốc Giê-sê, từ rễ nó, lộc sẽ mọc lên. Trên Ngài, Thần khí Thiên Chúa sẽ đậu xuống: Thần khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần khí mưu lược và anh dũng, Thần khí hiểu biết và kính sợ Chúa. Người sẽ xét sử công minh cho người hèn yếu, phân định ngay chính cho kẻ nghèo hèn...” (Is 11, 1-2; 4). Vị mục tử hoàn hảo muôn dân mong đợi là Đức Kitô, Đấng phải đến đổi mới mọi sự.
Chắc hẳn, khi phác họa dung mạo Đấng phải đến, Isaia muốn độc giả ngược về cội nguồn, tham dự phiên tòa xét sử Adam. Bởi sự bội tín, Adam bị tước đoạt tất cả, để rồi trao tất cả cho Đức Giê-su, “Adam mới”, Đấng vâng phục trọn vẹn thánh ý Cha. Giêsu trở thành Người mang và thực hiện lời hứa cứu chuộc: “Ta sẽ đặt mối hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa giòng giống ngươi và dòng giống nó, dòng giống nó sẽ đạp nát đầu ngươi, còn ngươi thì rình cắn gót chân” (St 3, 15).
Như vậy, trình thuật ngôn sứ trong bài đọc I là phiên tòa chung cục, định hình cho một nhân loại hậu Adam đang được đổi mới nhờ Đức Kitô. Và do tầm quan trọng của lời sấm Isaia, phụng vụ Hội Thánh nhận lấy như một hình thức tuyên xưng đức tin chân chính và khẩn cầu Giê-su mau đến đổi mới mọi sự:
“Ôi Đấng là chìa khóa nhà David, và phương trượng của nhà Israel. Người mở cửa thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai có thể mở ra. Xin hãy đến giải thoát khỏi khám đường, tù nhân đang ngồi trong u tối và trong bóng tử thần” (cf. Phụng vụ Mùa Vọng, tuần cửu nhật mừng Chúa Giáng Sinh).
Trình thuật ngôn sứ tuyên đọc hôm nay được muôn phần cụ thể trong lời tuyên xưng đức tin của Phê-rô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Tước hiệu khẳng định nguồn gốc thần linh của Giê-su, Đấng được sai đến từ Cha, tuyệt nhiên không phải do “fan” hâm mộ gán ghép.
Giê-su nhận lời tuyên xưng của Phê-rô và tuyên bố ông là người có phúc,vì được Cha trên trời mạc khải mầu nhiệm Nước Trời.
Thật và rất thật, đức tin Phê-rô là căn bản, là thực tại đảm bảo mọi phúc lành thiêng liêng trên trời trong Đức Kitô. Phê-rô, bởi tin, đã gặp và tiếp nhận Giê-su, Đấng khơi nguồn sự sống và là chính Đấng phải đến đổi mọi sự. Ông thật là người có phúc, vì được Cha, Đấng ngự trên trời, mạc khải mầu nhiệm Nước Trời.
Ôi hạnh phúc biết bao, hồng ân đổi mới bắt đầu từ đây, từ ngày tin kính Giê-su trong đời!
Đối với Phao-lô, đức tin, hồng ân lớn lao nhất, tỏ bày sự giầu có, khôn ngoan và bí mật nhiệm mầu của Thiên Chúa, cất giấu từ muôn thế hệ, nay được mạc khải cho chúng ta trong Đức Kitô.
Gọi là bí mật nhiệm mầu vì đức tin, hồng ân sự sống, ban tặng cho “kẻ bé mọn” không theo sự khôn ngoan thế gian, nhưng đặt dưới sự khôn ngoan của thập giá. Sự khôn ngoan mà thế gian cho là điên rồ. Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta.
Vì thế, bài đọc II là lời ngợi khen đường lối khôn ngoan, nhiệm mầu của Cha, nhờ Con trong Thánh Thần đã thực hiện một lịch sử cứu độ vẹn toàn trong Đức Kitô, Đấng phải đến đổi mới mọi sự.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta những điểm cụ thể:
Một là: đức tin là hồng ân nhưng không Chúa ban, nên phải cầu xin ơn đức tin mỗi ngày. Nhờ đức tin, chúng ta được tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, được nuôi dưỡng bởi Lời và các bí tích cứu độ. Hãy xác tín mạnh mẽ và sống động, mình thật có phúc vì đã tin. Đừng ngại tuyên xưng đức tin và sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn chúng về niềm hy vọng đức tin, vì đức tin không bao giờ làm chúng ta thất vọng.
Hai là: để tâm nuôi dưỡng đức tin bằng đức cậy và đức mến. Một đức tin có việc làm là đức tin sống, có khả năng đơm hoa kết trái là các nhân đức. Chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình cách vui tươi cũng là cách trắc nghiệm đức tin cụ thể.
Xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, ban thêm đức tin để chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì thâm tín rằng: ai bền đỗ đến cùng trong đức tin, người ấy sẽ được cứu độ.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 16: 13-20: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Ðền thờ thiêng liêng.”
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa trao cho thánh Phêrô hai sứ vụ quan trọng là “Chìa Khóa” và là TN 21-A149
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa trao cho thánh Phêrô hai sứ vụ quan trọng là “Chìa Khóa” và là “Đá Tảng”: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời”; "Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”.
1. Chìa Khóa
Bài đọc 1, Thiên Chúa phán về ông Engiakim con của Khinkigiahu: “Chìa khóa nhà Đavit, Ta sẽ đặt lên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được” (Is 22,22). Chúa Giêsu không nói về chìa khóa nhà Đavit mà mà chìa khóa Nước Trời. Sau khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, ngài đã được Chúa trao “Chìa Khóa Nước Trời", đó là quyền lãnh đạo Dân Chúa, quyền đóng mở và bảo quản kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Lời Chúa, các Bí tích. Sau này khi Phục Sinh, bên bờ hồ Tibêria, Chúa trao quyền mục tử quản trị “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy” (Ga 21,17) .
Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Hội Thánh trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. “Trên trời và dưới đất”, “tháo cởi và cầm buộc”, Chúa Giêsu là dòng dõi Đavit, không phải để kế thừa vương quốc trần gian mà là vương quốc vĩnh cửu của Nước Trời. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” là hai hành động diễn tả việc giảng dạy và áp dụng Luật Môsê do các thầy dạy (Rapbi) của Itraen, điều đó cũng có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh.
Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà thờ.Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn Giáo phận là thuộc Đức Giám Mục Giáo Phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.
Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua ngài, qua Hội Thánh, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Quyền làm con Thiên Chúa chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích.
Nói đến chìa khóa là phải nghĩ đến ổ khóa. Ổ khóa là để thực thi chức năng bảo vệ những gì được xem là quý giá mà có thể bị mất vì kẻ trộm, kẻ cướp. Chúa Giêsu nói là trao chìa khóa cho Phêrô, thế thì Người trao cho ông khi nào ? Có thể khẳng định là Người đã trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô trong lần hiện ra tại bờ hồ Tibêria khi Người từ cõi chết sống lại. “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy…Hãy chăn dắt chiên của Thầy…”. Nhận lấy chìa khóa là nhận lấy trách vụ bảo vệ. Để có thể chu toàn trách vụ bảo vệ thì trước hết cần phải trân quý cái mình bảo vệ đồng thời nhận rõ các nguy cơ khiến có thể mất nó. Chúa đã trao cho Phêrô chìa khóa để bảo vệ đoàn chiên. Chúa cũng đã trao chìa khóa cho các giám mục để chăm sóc, bảo vệ đặc biệt đoàn chiên trong các Hội Thánh địa phương.
Chúa Giêsu đã trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô, nhưng ngài không cầm chìa khóa bằng sắt thép hay kỹ thuật số, mà chìa khóa ấy chính là bí tích hòa giải. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: Quyền “trói và cởi” là quyền tha thứ các tội lỗi, công bố những phán đoán về giáo lý và đưa ra những quyết định có tính kỷ luật trong Giáo hội (x. số 553).
2. Đá Tảng
Sau khi Phêrô và các môn đệ biết nguồn gốc lời tuyên xưng của Phêrô là do Cha trên trời mạc khải, Chúa Giêsu công bố và thiết lập Hội Thánh, cộng đoàn của Giao Ước Mới: “Thầy báo con biết: con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Chúa xây dựng Hội Thánh của Chúa trên đá tảng Phêrô. Xây trên đá có nghĩa là xây trên một nền tảng vững chắc, vững chắc đến mức độ sức mạnh của hoả ngục cũng không thắng nổi: "trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Cuối bài giảng trên núi, Chúa đã nói ví dụ xây nhà “xây nhà trên cát” thì sẽ bị nước cuốn đi, “xây nhà trên đá” thì “mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào nhà ấy cũng không sụp đỗ”. Bây giờ Chúa đã có được nền đá để xây ngôi nhà là Hội Thánh của Chúa. Việc Cha mạc khải cho Phêrô biết và tuyên xưng Chúa Giêsu là ai, là tín hiệu của Chúa Cha cho Chúa Giêsu thấy Tảng Đá tuyển chọn. Ở cái miền đất “đá nhiều hơn đất” này, núi đá trơ trọi và những tảng đá trơn trượt cao sừng sững, hay hốc đá…là những nơi an toàn. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự an toàn của những người theo đường chính trực : “Người như thế sẽ được ở trên núi cao, có đồn trên núi đá làm nơi trú ẩn. Bánh ăn sẽ được luôn cung cấp, nước uống chẳng lo thiếu bao giờ” (Is 33,16). Các Thánh Vịnh nhiều lần ví Thiên Chúa lá núi đá, là tảng đá. Thậm chí sách Xuất Hành đẩy đến cùng ý nghĩa cứu độ này, khi kể rằng lúc dân Itraen không có nước uống, họ kêu trách ông Môsê, ông Môsê kêu lên Đức Chúa thì Đức Chúa truyền: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục dân Itraen, cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đàng kia trước mặt mọi người, trên tảng đá núi Khorep. Ngươi sẽ đập vào tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17,1-7). Sách Dân số kể chuyện tương tự ở một giai đoạn sau, Thiên Chúa bảo ông Môsê cầm gậy, triệu tập cộng đồng Itraen trước tảng đá rồi “nói với tảng đá” và “từ tảng đá ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng uống”. Nhưng trong cơn tức giận vì sự cứng lòng của dân, ông Môsê đã cầm gậy “đập vào tảng đá hai lần”, “nước trào ra lai láng cho dân và súc vật uống” (Ds 20,1-11). Nhưng Đức Chúa thịnh nộ với ông Môsê vì đã không tôn vinh Danh Chúa khi trái lệnh: thay vì nói với tảng đá, ông lại đập và đập tới hai lần!
Quyền lực và thù nghịch của Thiên Chúa và loài người từ ban đầu là cái chết do Satan cầm đầu và đưa vào trần gian (x.Kn 1,13;2,24). Chúa đã thắng cả cái chết, nên ngôi nhà Hội Thánh Chúa xây lên thì quyền lực Tử Thần sẽ không làm gì được. Tất cả những kẻ đã làm tay chân cho tử thần để tìm cách tiêu diệt Hội Thánh của Chúa, từ bên ngoài cũng như từ bên trong Hội Thánh đều đã được tử thần đón về dinh để tưởng thưởng; còn Hội Thánh vẫn sống động và tiếp tục lan rộng đến tận cùng thế giới. “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Cái đêm đen tối nhất của lịch sử Hội Thánh đã xảy ra rồi: mười hai ông tông đồ Chúa đã chọn, thì ông thủ quỹ Giuđa bán Chúa; tảng đá Phêrô mới chỉ bị một con hầu giữ cổng “rờ gáy” đã chối Chúa nhanh hơn gà gáy, mười ông kia bỏ trốn ngay khi Chúa bị bắt, còn Chúa thì vào âm phủ, ngôi mộ bị niêm phong với lính gác. Đó chính là cái đêm Hội Thánh sinh ra (x.Ga 16, 20-22) (x.Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan SJ).
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn,quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh, thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa. Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử. Không chỉ những cuộc bách hại đẫm máu, mà còn có những chia rẽ, tranh chấp nội bộ, những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian. Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Nền Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Hội Thánh. Sức mạnh của Đấng Phục Sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi chúng ta sống trong Hội Thánh của Chúa.
Chìa Khoá mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.
Tảng Đá, tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho Phêrô. Trên Táng Đá này, Chúa xây Hội Thánh vững bền. Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phêrô đã chia sẻ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta?’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa Khóa Nước Trời”.
Lời hứa của Chúa Giêsu với Phêrô đã trở thành hiện thực khi nhìn lại lịch sử Hội Thánh hơn hai ngàn năm qua. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà. Dẫu Hội Thánh trải qua nhiều sóng gió nhưng vẫn luôn luôn đứng vững trên nền tảng của Thánh Phêrô. Vị Giáo hoàng tiên khởi và các đấng kế vị luôn đóng trọn vai trò “Đá Tảng”, luôn chu toàn chức vụ “cầm chìa khóa nước trời” để “trói và cởi”. Nhờ đó, nhân loại đón nhận biết bao ơn lành từ Thiên Chúa qua Hội Thánh.
Tạ ơn Chúa đã lập nên Hội Thánh. Hội Thánh trở thành mẹ của mỗi tín hữu trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Vì thế, bổn phận của chúng ta đối với Hội Thánh là biết ơn, vâng lời và xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Ðền thờ thiêng liêng.” (1 Pr 2,5)
------------------------------
78. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
Hãy so sánh với Mc 8,29 và Lc 9. 20 cùng ghi nhận các điểm đặc thù của Mt. 2. Lời tuyên tín của TN 21-A150
1. Hãy so sánh với Mc 8,29 và Lc 9. 20 cùng ghi nhận các điểm đặc thù của Mt.
2. Lời tuyên tín của Phêrô phải chăng là đề cập đến tử hệ thần linh theo nghĩa thần học hiện đại của hạn từ? Phêrô có xác quyết điều ấy như chúng ta xác quyết ngày nay không?
3. Làm sao đặt đoạn văn vào trong toàn bộ phần này (Ch. 14- 17)?
4. Đâu là những yếu tố chung của các tước hiệu khác nhau người ta gán cho Chúa Giêsu mà các môn đồ đã tường trình lại?
5. Tại sao người ta liên kết Chúa Giêsu với Giêrêmia hơn là với Isaia hoặc Edêkien chẳng hạn?
6. Phải chăng đây là lần đầu tiên, trong Tin Mừng Mt, Chúa Giêsu chất vấn cá c môn đồ về con người mình? Tại sao Người lại hỏi họ trong lúc này?
1. Với đoạn văn này, chúng ta đi đến đoạn mà từ lâu người ta vẫn xem như là trung tâm hoặc bản lề của Tin Mừng Mt. Cách nhìn đó không thiếu chỗ dựa trong bản văn: đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu chất vấn các môn đồ về con người mình và Phêrô minh nhiên tuyên xưng Người thật là Đấng Messia; đàng khác đây cũng là lần đầu tiên Người loan báo mình sẽ chịu nhiều đau khổ và sẽ phục sinh; cuối cùng, tiếp ngay sau đoạn văn này, ta thấy trình thuật tập trung vào chủ đề tử nạn: Chúa Giêsu tái loan báo các đau khổ của Người (17, 22- 23; 20, 17- 19) và “lên Giêrusalem” (20, 17). Rõ ràng là ở đây ta đi đến một khúc ngoặt trong trình thuật Ml. Xét về phương diện tư tưởng, chắc hẳn điểm bất ngờ nhất và quan trọng nhất là sự trùng phùng, chỉ cách nhau một vài câu (cc. 16. 21) của hai trình thuật: Phêrô tuyên xưng chức vị Messia và Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Từ đây, Chúa Giêsu dần dần rời
bỏ Galilê và trên đường tiến lên Giêrusalem, Người hầu như dành mọi thời giờ cho nhóm Mười hai. Hẳn nữa, trong lúc từ trước đến nay ý niệm Nước Trời chiếm một vị trí chủ yếu, thì bây giờ chính con người của Đấng Messia đau khổ và chịu sỉ nhục lại trở thành tâm điểm rao giảng của Chúa Giêsu. Và trong giáo huấn đó, thập giá sắp được trình bày như một sự cần thiết vừa đối với Đấng Messia vừa đối với những kẻ muốn theo Người. Ta biết điều ấy là vì Mt có chèn vào trong phần này hai đoạn văn liên hệ đến Giáo Hội (16, 17- 19; 18, 17- 20). Quả vậy, chính cho Giáo Hội mà việc mặc khải Con Thiên Chúa trong bản vị của Con Người bị đóng đinh đã được ban. Chính số phận của Giáo Hội, được liên kết với số phận của vị thủ lãnh mình, được mô tả suốt các chương này mà ta nên đọc như một lời chú giải câu nói ở 10, 25: môn đồ được như thầy và tôi tớ được như chủ là đủ rồi “.
2. Câu hỏi thứ nhất Chúa Giêsu đặt ra rõ ràng chỉ có mục đích dẫn vào câu hỏi thứ hai và làm xuất hiện điểm khác biệt cơ bản giữa điều thiên hạ tưởng nghĩ về Người và điều mà các môn đồ phải nghĩ và phải nói.
Theo Mt, Chúa Giêsu một lần nữa tự gọi mình bằng tước hiệu “Con người” (8, 20; 9, 6 v.v…). Chính sự kiện Người chất vấn các môn đồ về dư luận của kẻ đương thời cho thấy Người đã có dụng ý khi dùng thành ngữ mơ hồ ấy, một thành ngữ mượn ở sách Đanien và sách Khải huyền Do thái, có khi để nhấn mạnh sự khiêm nhường và tự hạ của Đấng Messia (8, 20 ; 17, 22), có khi để loan báo việc tái lâm vinh quang của Người (16, 28 ; 26, 63). Câu trả lời của các môn đồ cho ta biết dư luận công khai chung chung xem Chúa Giêsu như là một ngôn sứ. Giả thuyết cho rằng người là Gio-an Tẩy giả đầu thai đã có để thịnh hành trong giới thân cận của Hêrôdê (14, 2). Giả quyết xem Người như là Elia phát xuất từ sấm ngôn Ml 4, 5 và cho thấy thiên hạ coi Chúa Giêsu như là vị tiền hô của Đấng Messia. Còn việc đề cập đến Giêrêmia, riêng của Mt, có thể là phát xuất từ một truyền thuyết Do thái mà 2Mcb còn giữ lại dấu vết (2Mcb 2, 1- 8 ; 15, 13- 16) ; việc đồng hóa Chúa Giêsu với vị ngôn sứ bị bách hại cũng có thể cắt nghĩa được là vì cả hai cùng chung số phận “làm người đau khổ”. Tuy nhiên Chúa Giêsu không mấy quan tâm đến các dư luận, dù rất thuận lợi, mà thiên hạ có về Người. Khi xem Người như một ngôn sứ, thiên hạ tỏ ra không biết Người như ý Người mong; vì thực sự Người không phải là một ngôn sứ theo nghĩa thông thường; vì trong lúc ngôn sứ “bởi đất mà ra” (Ga 3, 31) thì Người trái lại “tự trời mà đến”. Người là Đấng mà mọi ngôn sứ đều làm chứng cho (Cv 3, 18), và các tư tưởng nhân loại về Chúa Giêsu không thể chọc thủng mầu nhiệm Con Người, cũng chẳng khám phá ra được là Người đồng hóa với Con Thiên Chúa hằng sống! Chính đó là điểm mới mẻ hoàn toàn khiến con người Chúa Giêsu được đặt trên một bình diện khác so với con người Gioan Tẩy giả, Elia hay Giêrêmia. Điểm mới mẻ này chỉ có kẻ được chính Thiên Chúa mặc khải cho mới thấu hiểu tường tận.
Vì thế câu trả lời của Phêrô hoàn toàn khác biệt với mọi dư luận về Chúa Giêsu, như câu phê bình tiếp đó của Người cho thấy. Phêrô tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Ông nhận ra, dưới nhân tính của Người, Đấng Messia của Israel, vua của Nước Trời mà Cựu ước đã loan báo.
Việc tuyên tín này cho phép Chúa Giêsu nhận ra một cách chắc chắn nhóm Mười hai là nhóm còn lại mà các ngôn sứ đã loan báo, và vì thế đương nhiên Người công bố thiết lập Giáo Hội, mà chính Phêrô sẽ là viên đá làm nền.
3. Ta biết rằng bản văn này (cc. 17- 19) đã bị một số nhà phê bình nghi ngờ không phải do Mt viết. Vì người ta thấy chẳng hạn như trên (khoảng năm 180) đã không có câu 18 trong cuốn Tin Mừng ông dùng; tuy vậy chỗ khuyết này không ngăn cản ông dựa trên toàn bộ Tin Mừng để xern việc kế nhiệm sứ đồ như là một thể chế do Chúa Kitô thiết lập, vì quả thực học thuyết về Giáo Hội của Mt không chỉ dựa trên câu đó mà thôi. Các nhà chú giải đều đồng ý câu đó có một âm điệu sêmita mà vài kẻ cho là bắt nguồn từ một câu nói bằng tiếng Aram của Chúa Giêsu. Nhưng nếu đây là một đoạn mới thêm vào trong Tin Mừng, thì nó được thêm trước hay sau thời của soạn giả Tin Mừng Mt? Vấn đề vẫn còn bỡ ngỡ vì các bằng chứng không quyết liệt chống lại xác thực tính của nó đến nay vẫn chưa tìm được. Dù vấn đề sẽ ngã ngũ thế nào, ta vẫn có thể hiểu rằng cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, khi nhờ Thánh Thần, soi sáng mà tự nhận biết mình là cộng đoàn tông truyền của Chúa Giêsu Kitô, đã khám phá thấy rằng câu nói đó thực sự diễn tả chủ ý Chúa Giêsu muốn thành lập Giáo Hội.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia": Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ", xin xem chú thích của BJ).
“Ta là ai ": Đừng mặc cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
"Con Thiên Chúa hằng sống": Câu thêm này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ nhất dựa trên các lý do như sau:
1/ Trong lúc các chỗ khác trong Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa" (Fils de Dieu) (4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc thần linh của Người.
2/ Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.
3/ Có một trường hợp duy nhất khác trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).
4/ Ta không hiểu được tại sao một mặc khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của Chúa Giêsu thôi (c.17).
5/ Người ta không bao giờ minh chứng thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không phải thần tính của Chúa Giêsu.
Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.
Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như sau:
1/ Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của Gioan.
2/ Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?
3/ Xem ra hơi táo bạo khi gán quá nhiều ý nghĩa cho mạo từ "Người" (Lc) trong thành ngữ "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.
4/ Cái mà vị thượng tế xem là phạm thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu Thiên Chúa với tư cách là "Chúa" của Tv 110, và với tư cách là nhân vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x. chú thích của BJ); v.v...
Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh), nhưng sau đấy "được đọc lại" dưới ánh sáng Phục sinh và được giải thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói ‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.
"Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta": Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).
Đổi tên như vậy là một chuyện thường xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds 13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.
Các thành ngữ tảng đá móng và xây, theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai "Ta sẽ xây" có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.
"Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi". Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục) sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai; đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G 38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)
Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28, 20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.
“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.
KẾT LUẬN
Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc" và “tháo cởi", nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chắc chắn Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô, vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.
2) Sau khi nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.
3) Giáo Hội không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
4) Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong khắp cả thế gian.
5) Giáo Hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.
6) Dù Giáo Hội còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.
----------------------------------