Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 21 TN-A Bài 51-100: Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 16, 13-20: “Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 21-A51: Một ngôi nhà xây trên đá cứng. 2
TN 21-A52: Các bạn nói Chúa Giêsu là ai?. 4
TN 21-A53: Ủng hộ Giáo hoàng và chống Giáo hoàng. 5
TN 21-A54: Khúc rẽ quyết định. 7
TN 21-A55: PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO.. 9
TN 21-A56: Suy niệm của Noel Quession. 13
TN 21-A57: Người ta bảo Thầy là ai?. 18
TN 21-A58: CHÌA KHOÁ.. 21
TN 21-A59: CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN NĂM A (21.08.2011) 26
TN 21-A60: Nhận ra Đức Kitô. 30
TN 21-A61: ĐỨC GIÊSU VÀ PHÊRÔ.. 31
TN 21-A62: TÔI ĐANG GIỮ CHIẾC CHÌA KHÓA…... 36
TN 21-A63: ĐỨC KITÔ LÀ THIÊN CHÚA.. 39
TN 21-A64: “CÒN GẶP NHAU THÌ HÃY CỨ THƯƠNG…”. 41
TN 21-A65: Hội Thánh của Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 45
TN 21-A66: Đối Với Bạn, Đức Giêsu Kitô Là Ai?. 47
TN 21-A67: Phêrô tuyên tín – R. Veritas. 49
TN 21-A68: Suy niệm của JKN.. 51
TN 21-A69: Phần quan trọng của cơ thể – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền. 54
TN 21-A70: Đức Kitô, Ngài Là Ai?. 57
TN 21-A71: Ngài là Đức Kitô! 60
TN 21-A72: Trụ cột của đức tin – Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện. 63
TN 21-A73: Hội Thánh của Chúa – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 67
TN 21-A74: PHÊRÔ MÔN ÐỆ BỊ MẮNG.. 68
TN 21-A75: Tuyên tín: Giêsu là Đấng Kitô…... 73
TN 21-A76: Xây dựng cuộc đời trên Lời Chúa. 75
TN 21-A77: Trở nên “đá tảng” xây dựng Hội Thánh tại gia. 77
TN 21-A78: Trở nên Tảng Đá sống động. 79
TN 21-A79: NGỌC TRONG ĐÁ.. 81
TN 21-A80: ĐỐI VỚI TÔI, ĐỨC GIÊSU LÀ AI?. 83
TN 21-A81: TUYÊN XƯNG.. 85
TN 21-A82: CÁI NHÌN ĐÚNG ĐẮN VỀ THẦY GIÊSU.. 86
TN 21-A83: THẦY LÀ ĐỨC KITÔ,CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG.. 87
TN 21-A84: HÃY XÂY DỰNG GIÁO HỘI 89
TN 21-A85: PHÊRÔ TUYÊN TÍN và NHẬN QUYỀN LÃNH ĐẠO.. 93
TN 21-A86: NHIỆM VỤ CỦA TÔI LÀ GÌ?. 95
TN 21-A87: PHÊRÔ, NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐƯỢC CẤT NHẮC ĐỂ LÀM ĐẦU HỘI THÁNH.. 96
TN 21-A88: ĐỨC KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT VÀ PHỔ QUÁT CỦA NHÂN LOẠI 98
TN 21-A89: PHÊRÔ, ĐẤNG LÀM ĐẦU GIÁO HỘI 100
TN 21-A90: THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG.. 102
TN 21-A91: TIN VÀO ĐỨC KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG.. 104
TN 21-A92: PHÊRÔ, ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH.. 107
TN 21-A93: CHÚA GIÊSU LÀ AI ?. 111
TN 21-A94: PHÊ-RÔ: ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH.. 113
TN 21-A95: Khám phá con người và sứ mệnh của Đức Giê-su. 120
TN 21-A96: Mầu Nhiệm Hội Thánh. 121
TN 21-A97: Đức tin là nền móng Giáo Hội 127
TN 21-A98: GIỮA LUỒNG DƯ LUẬN.. 129
TN 21-A99: Chúa Nhật 21 mùa Thường niên, A.. 131
TN 21-A100: CHÚA NHẬT 21 QUANH NĂM... 134
------------------------------------------
Một vị tiểu quân vương là Philipphê, chư hầu của La Mã đã cho xây cất một thành phố nhỏ:TN 21-A51
Một vị tiểu quân vương là Philipphê, chư hầu của La Mã đã cho xây cất một thành phố nhỏ với cái tên là Césarea, nhân danh hoàng đế Césaré-Augustô. Do đó có cái tên là thành Césarea của quân vương Philipphê. Nó không cách xa nguồn của sông Hòa Giang là bao, chỉ độ 40 cây số về phía bắc hồ Tibêriát. Vùng này đa số là ngoại giáo nhưng cũng hiếu khách. Chúa Giêsu dừng chân tại đây để tránh những lời phản đối của người Do Thái và Người cũng lưu tâm đến việc huấn luyện các tông đồ về chiều sâu. Người đi đến chỗ đặt cái câu hỏi đầy tin tưởng: “Đối với chúng con, Thầy là ai?”. Trước hết Chúa Giêsu hỏi xem người ta nghĩ gì về con người của Người. Dân chúng có thói quen suy nghĩ theo những mẫu mực mà tập quán đã đặt sẵn vào trong trí óc. Do đó có những ý kiến liên quan đến những quan niệm đang được truyền tụng. Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại hay Êlia, hay Giêrêmia, hay là một trong các tiên tri. Chúa Giêsu muốn mở mắt cho các môn đệ thấy sự mới lạ chưa hề được tiết lộ về bản thể và con người của Ngài. Ngài biết rằng lời giảng dạy bên ngoài của Ngài nối liền với tác động bên trong của Chúa Cha trong tâm hồn. Biết chắc là có sự đồng quy ấy nên Ngài long trọng nêu ra một câu hỏi to tát, đồng thời cũng là trung tâm của Tin Mừng theo thánh Matthêu: Đối với chúng con, Thầy là ai? Chính Simon-Phêrô đã trả lời và tự đặt mình làm phát ngôn viên của mọi người: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Nên lưu ý là Matthêu đã ghi: Simon-Phêrô, Simon là cái tên riêng cho phép nhận ra danh tánh của con người, còn Phêrô là tên chính thức gán ghép cho con người một chức vụ. Simon-Phêrô có ý chỉ con người của Phêrô với tư cách là người đứng đầu Hội Thánh. Không để đi lạc vào trong những điều bàn cãi của khoa chú giải Kinh Thánh, ở đây chúng tôi muốn gán cho câu trả lời của Phêrô cái ý nghĩa minh bạch do đức tin gợi ra. Cần minh định một vài điểm:
1) Phêrô được tuyên bố là nền tảng của Giáo Hội.
Thực ra nền tảng căn bản của Giáo Hội là Chúa Kitô, nhưng Phêrô làm thành cái nền tảng bên ngoài, có thể xem thấy được của Giáo Hội. Chính bản thân Ngài là nền tảng và với tư cách là người được ký thác đức tin. Hơn thế nữa, Giáo Hội, các dân tộc tụ họp theo ý muốn của Thiên Chúa, xét về thời gian, còn đi xa hơn cuộc sống của con người Phêrô. Giáo Hội cũng dựa trên các Đấng kế vị Phêrô. Đức tin của chúng ta ngày nay nhìn thấy trong lời nói của Chúa sự khai mào của một trong những tổ chức căn bản của ‘xã hội’ Giáo Hội, các xã hội xét về mặt huyền nhiệm, là cộng đoàn của các tín hữu mà thánh Phaolô gọi là thân thể của Chúa Kitô.
2) Danh từ ‘cửa hỏa ngục’ có ý nghĩa gì?
Bên Đông phương người ta có thói quen triệu tập các thân hào nhân sĩ ở các đô thị ngay nơi các cửa thành, khi họ thảo luận với nhau về vấn đề trị an hay phân xử dân chúng. Kết quả là danh từ ‘cửa thành’ mang ý nghĩa quyền hành pháp hay uy quyền. ‘Cửa hỏa ngục’ có ý nghĩa là những quyền lực tối tăm ở bên kia thế giới vật chất. Những quyền lực này sẽ tấn công Giáo Hội nhưng không bao giờ thắng nổi.
3) Ta sẽ giao cho con chìa khóa Nước Trời.
Chìa khóa tượng trưng cho quyền hành và trách nhiệm cai quản. Trao chìa khóa theo ngôn ngữ Kinh Thánh tượng trưng cho sự ủy thác trách nhiệm quản gia của nhà vua hay của vị thủ tướng. Trong trường hợp hiện thời, Chúa Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm cai quản Hội Thánh trên bình diện đức tin, trong sự tham gia vào các bí tích và trong luật sống của cộng đoàn. Những danh từ ‘buộc tội’, ‘tha tội’, liên quan đến quyền hạn của Phêrô, có thể được hiểu theo nghĩa là ‘cấm đoán’ hay ‘tha phép’ hiểu theo nghĩa mạnh. Điều này có nghĩa là hễ ai cấm đoán hay cho phép đều đã được trao quyền và chính cái quyền hành đó cưỡng bách chúng ta.
------------------------------------------
Khi vị tổng thống Hoa Kỳ làm một cuộc họp báo, các phóng viên sẽ đưa ra một số lớn câu hỏi:TN 21-A52
Khi vị tổng thống Hoa Kỳ làm một cuộc họp báo, các phóng viên sẽ đưa ra một số lớn câu hỏi. Hầu như mọi điều do Tổng thống nói đều là những tin tức đáng giá không phải vì lời của Tổng thống sâu xa hay sẽ thay đổi các biến cố trên thế giới nhưng đơn giản chỉ vì ông ta là Tổng thống. Ngay sau khi ông xuống khỏi chức vụ, ông sẽ chẳng còn hấp dẫn mấy với những phương tiện truyền thông đại chúng nữa.
Một con người là ai sẽ làm cho mọi chuyện ra khác lắm. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đặt câu hỏi về chính mình khi Người hỏi các môn đệ, phần các con bảo Thầy là ai? Phêrô hành động như một vị phát ngôn cho tất cả các tông đồ, ông không mắc phải sai lầm như những người khác nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri nào khác đã trở lại trái đất này. Phêrô đã tuyên bố cách trang trọng: “Thầy là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Tuyên bố của thánh Phêrô có hai phần: trước hết, ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Câu trả lời này là sự xác tín của các môn đệ. Niềm hy vọng một Đấng Mêsia đã trở nên nồng cháy và rõ ràng trong suốt thời cai trị của vua Đavít, đặc biệt là qua tiên tri Nathan vào thế kỷ thứ X trước công nguyên. Niềm hy vọng này đã lớn lên cách mạnh mẽ vào thời Chúa Giêsu, một số người đã trông đợi Đấng Mêsia xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Bây giờ các tông đồ đặt trọng tâm niềm hy vọng của mình vào Chúa Giêsu.
Nhưng phần hai lời tuyên bố của thánh Phêrô đã làm kinh ngạc mọi người có mặt ở đấy. Thánh Phêrô tuyên bố rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không phải bằng cảm giác mà người ta có thể xác định được đức tin của một người nào, nhưng chỉ có một cách duy nhất người ta có thể áp dụng vào một mình Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhấn mạnh không phải do con người đã tỏ lộ cho Phêrô biết điều này, nhưng Người không bằng lòng với cách nói đơn giản: “Thiên Chúa đã mạc khải điều đó”. Người tuyên bố cách rõ ràng: “Chính Cha Thầy ở trên trời đã mạc khải điều này”.
Kiểu ngôn ngữ này làm cho các tông đồ kinh ngạc, Chúa Giêsu đặt nền tảng cho sự thật đáng sợ Thiên Chúa là Cha của Người, rằng Người thật sự là Con Thiên Chúa, không thể mơ hồ hay phân tích cách nào khác nhưng chỉ có một ý nghĩa được chuyển trao cho trí hiểu của cả nhân loại.
Trong việc đáp lại sự diễn tả đức tin của Phêrô, Chúa Giêsu đã nói những lời nổi tiếng này: “Con là Đá trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Sự nối kết giữa chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và Giáo hội được đặt nền tảng trên đá thì không có gì làm thay đổi được. Đúng hơn nó trở thành một sứ vụ chắc chắn của Giáo hội để làm rõ ràng, để dạy dỗ và sống theo chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Ý nghĩa này đã được các công đồng sơ khai của Giáo hội (mà Công đồng Vaticano II là Công đồng thứ 21) đã xác định cách rõ ràng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua những thế kỷ, Giáo hội vẫn tiếp tục giảng dạy cho mỗi thế hệ người công giáo mới, để làm cho lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô trở nên chính họ, như chúng ta cũng phải làm cho lời tuyên xưng ấy trở nên chính chúng ta vậy. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia đại diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu thật sự là Người Con duy nhất của Thiên Chúa, ngang với Đức Chúa Cha trong mọi sự. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu là những gì làm cho những lời của Người trở nên quý giá cho chúng ta và những hành động của Người thì vô giá. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu cũng là những gì làm cho mọi sự Người đã làm, làm đẹp lòng Cha người và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Mọi sự nơi Chúa Giêsu tuôn trào từ sự đồng nhất thật sự này. Ôi, sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa sâu xa biết bao, đã mạc khải cho chúng ta sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Đây là chân lý được củng cố trên thế gian và còn tiếp tục trên thiên đàng cho đến đời đời.
------------------------------------------
Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu tinh. Và Phêrô là “đá”. Là đá tức:TN 21-A53
Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu tinh. Và Phêrô là “đá”. Là đá tức là rất vĩ đại, nhưng không chỉ có vậy mà thôi. Chúng ta có thể ngưỡng mộ những vị Giáo hoàng vĩ đại mà Chúa Thánh Thần đã cho chúng ta vào những thời kỳ gần đây; Piô XI, Piô XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô II, nhưng không xem các ngài là những vị cứu tinh của thế giới. Các ngài không kế vị Chúa Kitô, các ngài phục vụ Giáo hội, mà Giáo hội theo một nghĩa nào đó là sự kế tục của Chúa Kitô, có ngài hiện diện và được Thánh Thần hướng dẫn. Sự việc dường như khá rõ ràng, tuy nhiên các Kitô hữu luôn luôn có vấn đề với việc ủng hộ Giáo hoàng hoặc chống Giáo hoàng.
Đã có một điểm soi sáng cho chúng ta. Trong cách trịnh trọng chúc phúc Phêrô và nâng cao giá trị của ông (“ Con có phúc!”) Chúa Giêsu trả lại cho ông tên tuổi đầy đủ: Simon, con Giona. Và Ngài cũng tuyên bố quan hệ riêng của Ngài: “Cha Ta Đấng ngự trên trời”. Không thể có một sự so sánh nào cả.
Chính trên sự phân biệt vững chắc này mà Chúa Giêsu có thể xây dựng sự vĩ đại của Phêrô, và một điểm khác vừa củng cố tầm quan trọng của sự vĩ đại này vừa củng cố ý nghĩa chính xác của nó: “Thầy sẽ xây dựng tất cả trên ngươi, nhưng cái mà Thầy sắp xây dựng sẽ là Giáo Hội của Ta”. Không có Giáo Hội của Phêrô, hoặc của Luther, hoặc của Athenagoras, mà là Giáo Hội của Chúa Giêsu.
Nhưng được xây dựng trên Phêrô! Chúng ta có thể thảo luận nhiều về điểm này, và suy nghĩ chẳng hạn rằng việc Rôma tập trung quyền hành chắc chắn không đi ra ngoài việc “trên ngươi, Ta sẽ xây dựng Giáo Hội của Ta”. Điều này tạo ra một tinh thần mềm dẻo và an bình đối với sự tiến triển có thể có của Giáo Hội. Hiện nay, một đàng Giáo hội được thế giới hoá; và đàng khác, bị phân chia thành các Giáo hội Công giáo “địa phương” (cách nói không vui vẻ lắm nhưng nói rõ sự khó khăn) và thành những Giáo Hội lớn hiện đang ly khai. Chúng ta có quyền mơ ước một sự hiệp nhất trong đức tin sáp nhập tất cả các tôn giáo tin vào Chúa Giêsu mà không ngược đãi hoặc ưu tiên gì cả.
Tin Mừng hướng chúng ta về sự gần như độc quyền dành cho đức tin: Chúa Giêsu nói với Phêrô “ Các con bị sàng sẩy, nhưng Thầy đã cầu nguyện để đức tin của con khỏi tàn lụi. Và con, con sẽ làm cho anh em con được vững chí” (Lc 22,31-32). Rõ ràng là đối với Chúa Giêsu và các tác giả Tin Mừng, những người được Ngài tâm tình những ý đồ sâu kín, Giáo hội được xây dựng trên đức tin, và với tư cách là người kế vị Phêrô, Giám mục Roma sẽ luôn luôn là nền tảng của đức tin. Chúng ta có thể bị đụng chạm do sự không khoan nhượng của Ngài, nhưng nêú chúng ta muốn tranh luận (với sự khiêm tốn cũng như với nhiệt tình tham gia), đồng thời phải lượng định tầm quan trọng của một trách nhiệm về mặt giáo lý như thế. Không có thần học gia nào, không có người hoạt náo các đám đông nào hoặc nhà đại thần bí nào có một gánh nặng như thế đè trên vai. Khó mà nghĩ rằng trách nhiệm đối với đức tin như thế mà lại không cần phải có một tổ chức, những qui định và những thẩm tra.
Trong khi viết những dòng này tôi nghĩ đến gương mặt hạnh phúc của Đức Gioan-Phaolô II trong những ngày đầu triều đại Giáo hoàng của ngài: “Hỡi Phêrô, con thật hạnh phúc, con có may mắn, sứ mạng tuyệt vời biết bao!” Và tôi thấy gương mặt ngài nhăn nhó vì đau đớn lúc bị mưu sát trên quảng trường thánh Phêrô. Tôi nghĩ đến nụ cười của Đức Gioan XXIII, nghĩ đến những lo lắng của Đức Phaolô VI. Và trong tai tôi cũng văng vẳng những vấn nạn của các anh em ly khai khi nói về Giáo Hoàng. Chỉ có trước mặt Chúa Giêsu và trong đức tin, chúng ta mới có thể đặt vấn đề ủng hộ hoặc chống Giáo hoàng mà thôi.
-------------------------------
Xa khỏi mọi người, dưới chân núi Hermon, một mình trong thanh vắng bên sông Giođan, Đức:TN 21-A54
Xa khỏi mọi người, dưới chân núi Hermon, một mình trong thanh vắng bên sông Giođan, Đức Kitô nêu lên cho các môn đệ một vấn nạn quan trọng: “Các con nói thầy là ai? Nói chung những người khác không nhận biết Ngài, và bây giờ, các môn đệ phải phát biểu ý kiến về Ngài.
1) Vấn nạn
Đức Kitô không hỏi: Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải? Nhưng Ngài hỏi cách trực tiếp: “Các con nói Thầy là ai?” Đức tin Công giáo trước hết không phải là một vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều. Đối tượng của đức tin Công giáo là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu. Con người chỉ có thể có một thái độ duy nhất là nhận biết hay không nhận biết Ngài. Lập trường đối với Chúa Giêsu là yếu tố quyết định để phân biệt ai là Công giáo, ai là lương dân. Vậy luân lý không phải là yếu tố cốt yếu nhưng chính là đức tin. Nếu có người nhờ đức tin hiểu được Chúa Giêsu là ai, tự nhiên họ sẽ lãnh nhận lời Ngài, và nhất thiết đáp ứng những đòi hỏi của Ngài. Đức tin vào Đức Giêsu Kitô là tất cả! Kitô giáo là thái độ chấp nhận Đức Kitô.
2) Lời đáp trả
“Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cao trọng biết bao trong chức vụ của Ngài. Ngài là tiên tri được Chúa thánh hiến. Ngài là vua, là chánh tế. Ngài còn hơn tất cả những tước hiệu ấy, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai lý do vững chắc. Trước hết, nhờ suy tư và tác động đức tin của Phêrô: Người là kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Tất cả những gì xẩy ra trước kia nay đều đem lại hậu quả mong muốn nơi Ngài: Nào những lần được thấy Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi trên mặt biển và trở giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Phêrô đã hiểu các dấu hiệu, rồi từ đó đạt tới tác nhân của các dấu hiệu. Ngoài ra để tuyên xưng Đức Kitô là con Thiên Chúa hằng sống, người còn được thêm ánh sáng Chúa Thánh Thần soi dẫn bên trong “Không phải huyết nhục cho con biết điều ấy, nhưng chính Cha ta ở trên trời đã tỏ lộ cho con! Đức tin quả thật đã hợp nhất hai yếu tố tự nhiên và siêu nhiên.
3) Kết quả
Câu trả lời này đã hình thành một thái độ chọn lựa quyết liệt, đưa tới một khúc rẽ lớn lao trong toàn thể lịch sử: đó là bước tiến từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Do Thái xác thịt sang Do Thái thiêng liêng, từ giảng đường đến Giáo Hội, từ việc tuyển chọn một dân tộc đến tiếng gọi gửi đến muôn dân. Vì thế, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Kitô hứa xây dựng Giáo Hội. Đây là sự chọn lựa vĩnh viễn. Không gì có thể chiến thắng Giáo Hội kể cả quyền lực ma quỷ. Còn một lối chú giải khác về câu “Cửa hoả ngục không thể nổi lên chống lại”, theo lối chú giải đó, thì câu này có nghĩa là Giáo Hội có quyền mở cả cửa Thiên đàng và hoả ngục, cả hai lối chú giải trên đều làm sáng tỏ một ý nghĩa sâu xa, nhằm mô tả tính chất vĩ đại siêu nhiên và thần linh của Giáo Hội.
Tính chất vĩ đại ấy dựa trên hai cột trụ: tinh thần và định chế. Tinh thần chính là đức tin vì nhờ đức tin Phêrô được khen ngợi là diễm phúc. Do đó, chỉ có ai tin mới thuộc về Giáo Hội này. Đức tin là nền tảng và là cội rễ. Cột trụ thứ hai là định chế. Vị tông đồ đầu tiên khi tuyên xưng đức tin, đã được Đức Kitô trao cho chức vụ thủ lãnh: “Ta trao cho con chìa khóa nước trời, và tất cả những gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc, những gì con tha dưới đất, trên trời cũng sẽ tha”. Simon con Giona được nâng lên cao khỏi chính bản thân hèn yếu của mình, được Con Thiên Chúa trao phó sứ mệnh, lãnh nhận quyền cai trị tối cao, tượng trưng bằng chìa khóa rồi nhờ danh Chúa, Người thực hiện quyền cầm buộc và tha thứ.
Một Giáo Hội hoàn toàn thiêng liêng không phải là Giáo Hội Đức Kitô, Giáo Hội Chúa cũng không phải là hoàn toàn định chế. Giáo Hội Đức Kitô chỉ hiện diện trong sự hoà hợp thâm sâu giữa tinh thần và định chế, giữa đức tin và uy quyền.
Tất cả đoạn văn thánh này đã toát ra niềm hân hoan của Chúa Giêsu. Từ nay, những lời giảng và phép lạ của Ngài đã làm chứng. Như thế, đoạn văn này vừa cho thấy một tính chất khởi thuỷ, lại vừa biểu lộ một trạng thái đạt đích: đoạn văn có phác hoạ một khúc rẽ trung thực, một thái độ đoạn tuyệt và chấp nhận: được lời Chúa khai mào, các phép lạ hỗ trợ, con người đi tới chỗ lãnh nhận đức tin. Vậy chính ngôn ngữ và hành động thần linh đã đặt nền móng Giáo Hội.
-------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia": Trong câu trả lời của các môn đồ:TN 21-A55
"Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia": Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ", xin xem chú thích của BJ).
“Ta là ai ": Đừng mặc cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
"Con Thiên Chúa hằng sống": Câu thêm này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ nhất dựa trên các lý do như sau:
1/ Trong lúc các chỗ khác trong Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa" (Fils de Dieu) (4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc thần linh của Người.
2/ Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.
3/ Có một trường hợp duy nhất khác trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).
4/ Ta không hiểu được tại sao một mặc khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của Chúa Giêsu thôi (c.17).
5/ Người ta không bao giờ minh chứng thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không phải thần tính của Chúa Giêsu.
Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.
Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như sau:
1/ Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của Gioan.
2/ Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?
3/ Xem ra hơi táo bạo khi gán quá nhiều ý nghĩa cho mạo từ "Người" (Lc) trong thành ngữ "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.
4/ Cái mà vị thượng tế xem là phạm thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu Thiên Chúa với tư cách là "Chúa" của Tv 110, và với tư cách là nhân vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x. chú thích của BJ); v.v...
Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh), nhưng sau đấy "được đọc lại" dưới ánh sáng Phục sinh và được giải thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói ‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.
"Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta": Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).
Đổi tên như vậy là một chuyện thường xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds 13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.
Các thành ngữ tảng đá móng và xây, theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai "Ta sẽ xây" có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.
"Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi". Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục) sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai; đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G 38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)
Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28, 20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.
“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.
KẾT LUẬN
Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc" và “tháo cởi", nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chắc chắn Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô, vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.
2) Sau khi nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.
3) Giáo Hội không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
4) Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong khắp cả thế gian.
5) Giáo Hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.
6) Dù Giáo Hội còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.
-------------------------------
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê…
Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban... Matthêu dẫn Đức Giêsu:TN 21-A56
Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban... Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn toàn mới: Xêsarê!
Ngày nay, thành phố này không còn lạ gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ "tảng đá" dưới chân núi.
Người hỏi các món đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?"
Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một câu hỏi về "căn tính" của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ.
Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì?
Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.
Dư luận của dân chúng khác nhau trong khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người bình thường?... ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ.
NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.
Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có một thái độ của bản thân.
Còn bạn, Huy Phương... Bạn, Duyên.... Bạn, Minh Hạnh... Bạn Hằng... Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu là ai?
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V Tuy nhiên, người ta không có quyền "làm giảm nhẹ" lời tuyên xưng đức tin" của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên Chúa", "ben Elohim". Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel (Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 - 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).
Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là "một ngôn sứ" nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến... nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con... và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ thuộc về một mình Đức Giêsu.
Đức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”
“Phàm nhân"... từ ngữ rất lâu đời này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói... một công thức đẹp được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ nói: "Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều đó!".
Để đạt đến những thực tại thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự "mạc khải".
Trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: "Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa. Thần Khí sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra... Chúa là cùng đích của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào... Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?"
Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. "Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho" (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về "Thiên Chúa": "Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên" (Gl 1,15-16).
“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh vừa nói!" Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố "thật có phúc” (đây là một mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy"
Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô, đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.
Thật vậy từ "Tảng Đá" (tiếng Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời hứa này:
1/ Tảng đá: tượng trưng cho sự vững chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa...
2/ Giáo Hội: có nghĩa là "cộng đoàn", được Thiên Chúa triệu tập.
3/ Những cánh cửa: tượng trưng cho sức mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại...
4/ Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền bính.
5/ ‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.
Những trích dẫn trong Kinh Thánh để khẳng định rằng Thiên Chúa là "Tảng Đá". Chúng ta, chỉ cần trích dẫn: "Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi" (Tv 71,3). Chúng ta đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng một cách vững chắc như thế!
Từ "Giáo Hội" dịch chữ "Qahal" trong tiếng Do Thái có nghĩa là "Cộng đoàn", điều Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một "Cộng đoàn” những người đàn ông và đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu "lẻ loi". Không thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.
Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi...
Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình ảnh: "Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi". Nếu chúng ta hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết… nhưng còn có khả năng tấn công vào "ngục tù của sự chết" để lôi con người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự tính điều đó: Một "cộng đoàn" những người sống lại với Người?
Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.
Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.
Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.
Ngày nay, người ta thấy có nhiều người sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không...". Sau một thời kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những "cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành" mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan. Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.
-------------------------------
VietCatholic News (Chúa Nhật 24/08/2008 08:14)
Bài Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật 21 Thường Niên, ngày 24 tháng 8, của Cha Raniero Cantalamessa, OFM Cap.
Roma, ngày 22/8/2008 (Zenit.org). –
Trong nền văn hóa và xã hội ngày nay có một thói quen có thể giúp chúng ta hiểu Tin Mừng Chúa: TN 21-A57
Trong nền văn hóa và xã hội ngày nay có một thói quen có thể giúp chúng ta hiểu Tin Mừng Chúa Nhật này: các cuộc thăm dò dư luận.
Chúng được dùng ở khắp nơi, nhưng đặc biệt là trong các lãnh vực chính trị và thương mại. Một hôm Chúa Giêsu cũng muốn làm một cuộc thăm dò dư luận, nhưng với mục đích khác – như chúng ta sẽ thấy. Người không làm vì lý do chính trị mà vì lý do giáo dục.
Khi đến vùng Xêdarê Philliphê, là vùng cực bắc của Israel, trong lúc Người nghỉ xả hơi một mình với các tông đồ, Chúa Giêsu hỏi các ông một cách thẳng thừng: “Người ta bảo Con Người là ai?”
Dường như các tông đồ nghĩ rằng Người không hỏi gì hơn là muốn các ông tường trình về những điều mà dân chúng nói về Người. Các ông trả đã lời: “Người thì nói là Gioan Tẩy Giả, người khác thì nói là Êlida, lại có người nói là Giêrêmia hay một trong các ngôn sứ.”
Nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến việc đo lường danh tiếng của Người hay dân chúng tôn trọng Người đến mức độ nào. Mục đích của Người hoàn toàn khác. Cho nên tiếp theo câu hỏi thứ nhất, Người hỏi ngay câu thứ hai: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”
Câu hỏi thứ hai thật bất ngờ làm cho các ông hoàn toàn bối rối. Im lặng các ông đứng đó nhìn nhau. Trong tiếng Hy Lạp, rõ ràng là tất cả các tông đồ đồng thanh trả lời câu hỏi thứ nhất, và chỉ có một người, Simon-Phêrô, đã trả lời câu hỏi thứ hai: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!”
Giữa hai câu trả lời có một bước nhảy vọt không lường được, “một sự hoán cải”. Để trả lời câu hỏi thứ nhất người ta chỉ cần nhìn chung quanh, trong khi lắng nghe ý kiến của dân chúng. Nhưng để trả lời câu hỏi thứ hai, thì cần phải nhìn vào mình, lắng nghe một tiếng nói hoàn toàn khác, một tiếng nói không đến từ xác thịt hay máu huyết, nhưng từ Chúa Cha trên Trời. Thánh Phêrô đã được soi sáng “từ trên cao”.
Đây là một lời công nhận rõ ràng đầu tiên về căn tính của Chúa Giêsu Thành Nadareth trong các Tin Mừng. Một hành động công khai tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô lần đầu tiên trong lịch sử! Hãy nghĩ đến những làn sóng do một con tàu lớn tạo ra trên mặt biển. Làn sóng này lan rộng lúc chiếc tầu di chuyển cho đến khi mất dạng ở chân trời. Nhưng nó bắt đầu từ một điểm duy nhất, là chính con tàu. Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô cũng giống như thế. Nó là một làn sóng được lan rộng khi di chuyển qua dòng lịch sử, cho đến “tận cùng trái đất”. Nhưng được bắt đầu ở một điểm duy nhất. Và điểm ấy là hành động tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!”
Chúa Giêsu dùng một hình ảnh khác, ám chỉ sự bền vững hơn là di động. Một hình ảnh theo chiều dọc thay vì theo chiều ngang. Đó là hình ảnh của một tảng đá: “Con là Phêrô (Đá) và trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy.”
Chúa Giêsu đã đổi tên -- như thường xảy ra trong Thánh Kinh khi một người lãnh nhận một sứ vụ quan trọng -- từ Simon ra Kêpha, Phêrô - - “đá.”. Tảng đá thật, “tảng đá góc tường” vẫn là Chúa Giêsu. Nhưng một khi Người đã sống lại và lên trời, thì “tảng đá góc tường” này, mặc dù hiện diện và hoạt động, lại vô hình. Cần phải có một dấu hiệu để đại diện Người, một dấu hiệu làm cho Đức Kitô, Đấng là “nền tảng không thể lay chuyển” thành hữu hình và có hiệu quả trong lịch sử. Và dấu hiệu đó chính là Phêrô, và sau ngài, là người thay thế ngài, Đức Giáo Hoàng, người kế vị Thánh Phêrô, như thủ lãnh của tông đồ đoàn.
Nhưng chúng ta hãy trở lại với tư tưởng về thăm dò dư luận. Cuộc thăm dò dư luận về Chúa Giêsu, như chúng ta đã thấy, xảy ra trong hai gia đoạn, và có hai câu hỏi khác biệt: thứ nhất, “Người ta bảo Thầy là ai?”, và thứ hai: “Phần các con, các con nói Thầy là ai?”
Chúa Giêsu dường như không coi những điều người ta nghĩ về Người là quan trọng mấy. Người muốn biết các môn đệ nghĩ gì về Người. Người lập tức đòi các ông phải nói cho mình. Người không cho các ông nấp sau những ý kiến của người khác. Người muốn các ông nói ra ý kiến của chính các ông.
Hầu như trường hợp hoàn toàn giống như trường hợp này cũng được lập lại hôm nay. Ngày nay, “người ta”, dư luận quần chúng, cũng có những ý tưởng về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hợp thời trang. Hãy nhìn những gì đang xảy ra trong thế giới văn chương và giải trí. Không một năm nào mà không xuất hiện những tiểu thuyết hay phim ảnh với cái nhìn méo mó và phạm thánh về Chúa Giêsu. “Da Vinci Code” của Dan Brown là trường hợp nổi tiếng nhất và đã làm cho rất nhiều người bắt chước.
Rồi lại có những người nửa chừng giống như những người trong thời Chúa Giêsu coi Người là "một trong các ngôn sứ". Người được coi là một nhân vật hấp dẫn, có thể được đặt ngang hàng với Socrates, Gandhi, Tolstoi. Tôi chắc chắn rằng Chúa Giêsu không coi thường những câu trả lởi này, bởi vì Thánh Kinh nói về Người là “cây sậy bị dập, Người cũng không bẻ gẫy, tim đèn còn bốc khói, Người cũng không dập tắt”, có nghiã rằng Người biết thưởng thức mọi cố gắng chân thành của loài người.
Nhưng, khi nói lên sự thật thì những quan niệm này về Chúa Giêsu dường như không chỉnh lắm ngay cả theo quan điểm của loài người. Gandhi hay Tolstoi chưa bao giờ nói: “Ta là đường, là chân lý và là sự sống,” hoặc “ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không đáng làm môn đệ Thầy.”
Đối với Chúa Giêsu, chúng ta không được ở giữa đường: hoặc Người là Đấng như Người đã nói, hoặc Người không phải là một vĩ nhân, nhưng là tên khùng vĩ đại được đề cao trong lịch sử. Không có chuyên nửa chừng. Có những biệt thự và những cấu trúc làm bằng kim khí -- tôi tin là Tháp Eiffel ở Paris là một -- được xây dựng một cách mà nếu bạn chạm đến một điểm nào đó, hay lấy ra một phần tử nào đó, thì tất cả sẽ xụp đổ. Công trình của Đức Tin Công Giáo cũng thế, và điểm nóng này là thiên tính của Đức Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng chúng ta hãy để những câu trả lời của dân chúng sang một bên, và hãy nhìn đến chúng ta là các tín hữu. Tin vào thiên tính của Đức Kitô chưa đủ, mà còn phải làm nhân chứng cho đức tin ấy. Ai biết Người mà không làm chứng cho đức tin này, lại còn cho che giấu nó, thì phải chịu trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa nhiều hơn những người không có đức tin này.
Trong một cảnh của bi kịch “Người Cha bị Nhục,” của Paul Claudel, một đứa trẻ Do Thái, rất đẹp nhưng bị mù, khi ám chỉ hai ý nghĩa khác nhau của ánh sáng, hỏi một người bạn Kitô giáo: “Bạn là người thấy được, bạn đã dùng ánh sáng để làm gì?” Đó cũng là câu hỏi được đặt ra cho tất cả chúng ta, những người tự nhận là tín hữu.
Phaolô Phạm Xuân Khôi
(chuyển ngữ từ Tiếng Anh với nhuận chính từ bản Tiếng Pháp)
Cha Raniero Cantalamessa, OFM Cap
-------------------------------
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa: TN 21-A58
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, Thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu "trao chìa khóa Nước Trời", tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa. Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavit ( Is 22, 20 – 22 ), hoặc quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết ( Kh 1, 17 – 18 ).
Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền, và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho Thánh Phêrô. Chúa đã tin tưởng thánh Phêrô, trao cho Ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.” Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng. ( NJBC, 659 ).
Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh Kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “chìa khóa Nước Trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình. ( Harper’s Dict 524-525 ).
Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Ngôn Sứ Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah ( 716 – 687 ) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai Cập cầu cứu. Ngôn Sứ Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia. ( Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings ( A ) 309-314 ).
Trước lễ cung hiến Nhà Thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà Thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà Thờ. Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà Thờ trên toàn Giáo Phận là thuộc Đức Giám Mục Giáo Phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, để thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các Bí Tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà Thờ này.
Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành, và trách nhiệm thì không chỉ riêng Thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua Ngài, qua Giáo Hội, hết thảy mọi người chúng ta cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Đức tin dạy rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ.
“Với Chúa, mọi sự đều có thể”; “ơn được làm con Thiên Chúa” đó là chìa khóa Nước Trời Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu.
Có câu chuyện chìa khoá và ổ khoá Thiên Đàng thật ý nghĩa.
Một hôm nọ, khoá cửa Thiên Đàng bị hư, Thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khoá xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên.
- Chào anh, tôi có cái ổ khoá bị hư, anh làm ơn sửa giùm.
- Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khoá to và quý thế này ?
- Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ.
- Ừ ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ "chôm" cái vật quý bằng vàng ròng này ở đâu vậy ?
Thánh Phêrô tần ngần trả lời:
- Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô.
Anh thợ vồn vã:
- À ! Thế thì lại khác, chỉ một giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng.
Thánh Phêrô giật mình:
- Đắt thế à ? Tôi chỉ có 1.000 thôi.
- Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm ?
- Anh hiểu lầm rồi ! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nadaret. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng.
Anh thợ mỉm cười lắc đầu:
- Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây.
Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm: Anh thợ này sửa được nhiều thứ khoá, chỉ trừ khoá của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư ?
Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.
Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng.
- Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khoá vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong Nhà Thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả.
Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi:
- Tôi có cái khoá cửa Thiên Đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp
- Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái khoá thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc.
- Tốt lắm, anh cứ nói.
- Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên các Thánh hay các thiên thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khoá thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khoá cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không.
Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khoá khi nghe nói Thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào.
- Lạy Thánh Phêrô, Ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với.
- Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khoá chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế ? Phải có hàng có lối chứ.
- Gặp Thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xinê, hay đi mua thịt mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội.
- Chúng mày biết gì ? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có "Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế" à ? Phải trật tự chứ !
- Chúa ơi ! Chết con rồi...
Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải "gửi" đi đâu nữa, họ đang ở Hoả Ngục rồi còn gì. Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để "tranh" Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi Thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã "hối lộ" được người giữ cửa đầy quyền uy.
Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy Thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng.
Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn "xấn xổ" vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, gấu ó nhau đến vậy hay sao ? Ôi ! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây, "những người con của sấm sét" chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này...
- Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó.
Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước, đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái.
- Cám ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng.
Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khoá trên tay Thánh Phêrô.
- Ổ khoá này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào.
- Khoá cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi ?
- Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi.
- Thật không ?
- Thật chứ !Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à ?
Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, Thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ khoá lẫn chìa cho cậu bé.
- Cẩn thận kẻo rơi nhé.
Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khoá cho Phêrô.
- Cụ giữ lấy chìa khoá này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì…Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khoá đánh "tõm" xuống giữa lòng suối sâu.
Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng:
- Ôi Chúa ơi ! Cậu làm gì vậy ?
Cậu bé mỉm cười trả lời:
- Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự "đóng hay mở" của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ." Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở ". Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao ?
Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại:
- Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để họ làm ngược lại đây, cậu bé ?
- Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa. Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không ?
Thánh Phêrô sốt sắng:
- Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ ?
Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô:
- Đi Bêlem, rồi lên Núi Sọ.
Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.
Lm. NGUYỄN HỮU AN, Giáo Phận Phan Thiết
-------------------------------
[Is 22,19-23; Rm 11,33-36; Mt 16,13-30]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giê-su đã hỏi các môn đệ hai câu. Câu thứ nhất là "Người: TN 21-A59
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giê-su đã hỏi các môn đệ hai câu. Câu thứ nhất là "Người ta nói Con Người là ai?" và câu thứ hai là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi thứ nhất dẫn tới câu hỏi thứ hai là câu hỏi quan trọng hơn và là câu hỏi quyết định. Đức Giê-su chờ câu trả lời chính xác của các môn đệ. Ông Phê-rô, được ơn mạc khải từ Thiên Chúa Cha, đã trả lời chính xác: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!"
Đức Giê-su cũng đặt câu hỏi trên với mỗi Ki-tô hữu chúng ta và Người cũng chờ đợi câu trả lời của riêng mỗi người chúng ta. Vậy đối với riêng bạn, thì Chúa Giê-su là ai? Người có vai trò gì trong đời sống của bạn? Người làm thay đổi cuộc đời bạn như thế nào? Bạn sống hằng ngày với Người như thế nào?
Mong bạn có câu trả lời chính xác và đẹp lòng Thầy Chí Thánh!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 22,19-23): Chìa khóa Nhà Đa-vít Ta sẽ đặt trên vai nó.
19 Đức Chúa phán những lời này với ông Sép-na, tể tướng triều đình:
"Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ,
Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.
20 Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta
là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu.
21 Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó,
cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó,
quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó,
nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem
và với nhà Giu-đa.
22 Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó.
Nó mở ra thì không ai đóng được,
nó đóng lại thì không ai mở được.
23 Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột,
nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó."
2.2 Trong Bài đọc 2 (Rm 11,33-36): Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.
33 Thưa anh em, sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! 34 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? 35 Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? 36 Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 16,13-20): Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.
13 Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" 14 Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ." 15 Đức Giê-su lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống." 17 Đức Giê-su nói với ông: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." 20 Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Đấng Thiên Chúa sẽ loại tể tướng Sép-na ra khỏi chức vụ và quyền hành (vì kiêu căng và ham mê tiệc tùng) và chọn En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu làm người thay thế, và ban quyền hành và chức vụ cao trọng cho ông vì ông khiêm tốn, chính trực.
- Là Chúa Giê-su, Đấng được tông đồ Phê-rô tuyên xưng là Đấng Ki-tô [tức là Đấng được xức dầu tấn phong làm ngôn sứ, tư tế, vương giả của Thiên Chúa], là Con Thiên Chúa hằng sống. Chính Chúa Giê-su là Đấng đã thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Phê-rô hay đúng hơn trên nền tảng lời tuyên tín của Phê-rô nhìn nhận Người là Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống!
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ qua từng bước tuyển chọn những người tôi trung trong dân Ít-ra-en để chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế. Chúa Thánh Thần cũng là Đấng tác động để Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa hằng sống và Người cũng hiện diện trong lời công bố thiết lập Giáo Hội trên tảng đá Phê-rô của Chúa Giê-su.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai phần
Một là khám phá và tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống. Hẳn nhiên tuyên xưng không chỉ bằng lời mà còn bằng việc làm và cách sống nữa. Nói cách khác tất cả lời ăn, tiếng nói, cử chỉ, hành động của chúng ta phải là cách/lời tuyên xưng Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!
Hai là thiết lập một mối tương quan mật thiết, gắn bó và riêng tư với Chúa Giê-su Ki-tô, như trò với Thầy và như bạn với bạn. Càng sống gần gũi, thân mật với Chúa Giê-su, chúng ta càng biết Người là Ai.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay bằng cách tìm tòi, học hỏi và khám phá (nhất là trong Thánh Kinh) dung mạo, căn tính của Đức Giê-su và xác tín rằng Người là Đấng Mê-si-a, là Con Thiên Chúa hằng sống. Từ khám phá và xác tín cá nhân ấy sẽ có mối tương quan thắm thiết và gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người đang sống trên mặt địa cầu này, để họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Độ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi » Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô - nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để các Ki-tô hữu vững tin vào Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa do Chúa Ki-tô thiết lập, canh tân đổi mới và bảo vệ qua mọi triều đại Giáo Hoàng là những người kế vị Thánh Phê-rô.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta để mọi người có được một cảm nghiệm sâu sắc và riêng tư về Chúa Giê-su và có mối tương quan mật thiết gắn bó với Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Đức Chúa phán những lời này với ông Sép-na, tể tướng triều đình: «Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đang nắm giữ quyền bính trong các quốc gia, để họ nhận thức rằng: quyền hành họ đang có là do Thiên Chúa giao cho họ để họ phục vụ lợi ích của mọi người trong xã hội, theo Thánh Ý Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
-------------------------------
Khi nhìn vào hiện tình của thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi đau lòng mà nhận ra rằng: TN 21-A60
Khi nhìn vào hiện tình của thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi đau lòng mà nhận ra rằng: con số những người chưa nhận biết Đức Kitô dường như càng ngày càng gia tăng. Vì thế Giáo Hội cần phải cấp bách đổi mới lòng nhiệt thành và hoạt động truyền giáo của mình. Tuy nhiên, muốn làm chứng về Chúa, muốn rao giảng Ngài một cách hiệu quả, thì chúng ta cần phải nhìn lại chính mình: Đối với tôi, Đức Kitô là ai?
Câu hỏi nòng cốt này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm toàn diện niềm tin và cách sống của mình. Có thật chúng ta tin nhận Ngài là Đức Kitô, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và vạch cho chúng ta con đường sống hay không? Nếu tin nhận như thế, thì cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội của chúng ta phải chuyển biến phù hợp và kịp thời chưa? Hay là chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, làm như niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Đức Giám mục Josef Cordes trong buổi nói chuyện với 17.000 đại biểu của phong trào Canh Tân, đã nói: Trong viễn tượng năm 2000, sẽ có nhiều thách đố mới đặt ra cho Giáo Hội. Trong Giáo Hội nhiều triệu người công giáo vẫn chưa sống mối quan hệ cá vị với Đức Kitô. Nhiều triệu người khác vẫn không sống theo Đức Kitô và không vâng phục Ngài... Cho dù họ vẫn tự xưng mình là người công giáo và vẫn tham dự vào phụng vụ của Giáo Hội.
Có thể nói được rằng, đối với một số không nhỏ trong chúng ta thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung và mờ nhạt. Vì thế, trả lời được cho câu hỏi: Đức Kitô là ai đối với tôi? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở lặp lại những gì được nghe trong các lớp giáo lý hay trong các bài giảng, mà còn là câu chuyện của chính cuộc sống, của sự chọn lựa cá nhân cũng như của sự dấn thân.
Hơn bao gờ hết xã hội thời mở cửa, đón nhận những trào lưu tư tưởng mới, càng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải chuẩn bị cho mình một tư thế sẵn sàng để trả lời cho câu hỏi ngàn đời nêu trên. Bằng việc đem hết khả năng của mình để đóng góp vào việc thăng tiến con người, lành mạnh hoá xã hội và làm cho quê hương thêm giàu mạnh, người công giáo Việt Nam trả lời thoả đáng cho câu hỏi: Đức Kitô là ai?
Niềm tin Kitô giáo mặc dầu bắt nguồn từ một cuộc gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô nhưng lại có một âm vang rộng lớn trên toàn bộ đời sống xã hội và văn hoá của những người có lòng tin.
-------------------------------
(Mátthêu 16,13-20 – CN XXI - A)
1.- Ngữ cảnh
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn: TN 21-A61
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân Người và Phêrô đã minh nhiên tuyên xưng tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Câu trả lời vang lên như một điểm tới và như hoa quả của hoạt động trước đây của Đức Giêsu. Đồng thời câu trả lời cũng là tiền đề cho nhiệm vụ mà Người sẽ ký thác cho Phêrô. Toàn bản văn là chứng từ duy nhất về lập trường lạ lùng và về uy quyền của Đức Giêsu.
Đây cũng là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo các đau khổ và sự sống lại của Người. Cuối cùng, ngay sau đoạn văn này, bài tường thuật tập trung vào đề tài cuộc Khổ Nạn (x. 17,22-23; 20,17-19).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (16,13-16):
a) Ý kiến của dân chúng (cc. 13c-14),
b) Ý của của các môn đệ (đại diện là Simôn Phêrô) (cc. 15-16);
2) Tuyên bố về tư cách của Phêrô (16,17-19);
3) Kết: Lệnh cấm (16,20).
Bản văn này có một chức năng quan trọng trong toàn tác phẩm. Không những nó nhắc lại các ký ức ở 14,2.5 (c. 14), 14,33 (c. 16) và 13,16-17 (c. 17), mà còn đặc biệt gợi tới bản văn căn bản nói về mạc khải của Con Người, 11,25-27. Bản văn này mở đầu không những cho 18,18 (c. 19b.c) và cho 23,13 (c. 19a), nhưng đặc biệt cảnh mạc khải trước Thượng Hội Đồng ở 26,61-64).
Bản văn này cũng liên kết chặt chẽ với đoạn 16,21-28, để tạo thành một cấu trúc chuyển hoán:
a) cc. 13-15;
b) cc. 16-19
c) c. 20
c’) cc. 21-22
b’) cc. 22-23
a’) cc. 24-28
3.- Vài điểm chú giải
- Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (16): Khi so với câu tuyên xưng ngắn ngủi trong Mc (8,29), các nhà chú giải có nhiều ý kiến về bản văn Mt: (a) Mt đã tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu (Benoit); (b) Mt chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà thôi; (c) Mt đã nối dài lời tuyên xưng là để tránh những âm vang quân sự chính trị của danh hiệu Mêsia (Viviano). Cũng khó mà chọn hẳn ý kiến nào, bởi vì cũng rất có thể lời tuyên xưng lúc đầu chỉ nói về Đấng Mêsia (như Mc 9,29 và Lc 9,20), đã được “đọc lại” dưới ánh sáng cuộc Phục Sinh và diễn giải theo chiều hướng một lời công bố về thần tính của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, chúng ta hoàn toàn có thể và phải hiểu theo nghĩa này.
- không phải phàm nhân (17): dịch sát là “thịt và máu”. Đây là một kiểu nói Híp-ri để chỉ các tài nguyên của con người tự nhiên, các sức lực riêng của con người
- Phêrô, nghĩa là Tảng Đá (18): Ta hiểu được kiểu chơi chữ này do biết từ A-ram gốc là kepha ở nam tính.
- Hội Thánh (18): Từ ngữ Hy Lạp ekklêsia chưa có tất cả ý nghĩa định chế như từ ngữ “Hội Thánh” sau này. Do đó, từ Hội Thánh dù được dùng để dịch từ ekklêsia, không cung cấp ý nghĩa nguyên thủy cho từ ekklêsia. Hầu chắc ekklêsia dịch từ cụm từ Híp-ri qahal Yhwh, mà bản LXX diễn ra là ekklêsia tou theou (x. Cv 7,38). Cộng đoàn Kitô hữu là Israel chân chính đã nên hiện thực (x. 10,1.5), là cuộc quy tụ dân tuyển chọn của thời cuối cùng.
- chìa khóa Nước Trời (19): Ta nhớ đến Is 22,22 trong đó nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong sách Kh (3,7), chính Đức Giêsu tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đavít. “Nước Trời” là một công thức Mt song song với ekklêsia của câu trước. Đây vẫn là một thực tại duy nhất nhưng nhìn theo những trương độ khác. Nước Trời vượt quá các biên cương (lịch sử) của ekklêsia; đây không phải là một định chế mà là sự thể hiện ơn cứu độ.
- ràng buộc và tháo cởi (19): Đây là ngôn ngữ của các trường phái kinh sư. “Ràng buộc hoặc tháo cởi” có nghĩa là đảm nhận một nhiệm vụ ngăn cấm hoặc cho phép về những điểm còn gây tranh cãi trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng có nghĩa là tuyên bố một giáo thuyết là đúng hay sai lạc, một kiểu thực hành luân lý là hợp pháp hay không hợp pháp. Họa hoằn lắm công thức này mới có nghĩa là loại trừ khỏi cộng đoàn hoặc nhận vào lại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (13-16)
Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu không xin các môn đệ cho ý kiến về Bài Giảng trên núi hoặc về phần nào đó của công trình Người; Người hỏi họ là họ nghĩ gì về bản thân Người. Câu hỏi đã cho thấy rằng đối với Đức Giêsu, điểm này có tầm quan trọng quyết liệt. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết rõ ràng về Người và một lời tuyên xưng đức tin không mập mờ vào Người. Tất cả ý nghĩa củasự hiểu biết này tuỳ thuộc Người là ai. Ở tại trung tâm, ta không thấy lời loan báo về Người, nhưng có bản thân Người.
Ngay dân chúng cũng có một ý kiến cao trọng về Người, nhưng không nhận ra vị trí đặc biệt của Người. Nếu Người chỉ là một ngôn sứ, thì Người là một ngôn sứ giữa biết bao vị khác: trước Người, đã có nhiều vị đến rồi, và sau Người sẽ có thể có nhiều vị khác đến nữa. Ngược lại, Phêrô nhận biết tư cách của Đấng hoàn toàn đặc biệt đối với loài người và tương quan của Đấng hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa. Trong tư cách Mêsia, Đức Giêsu là Vị Vua và Mục Tử duy nhất, cuối cùng và vĩnh viễn của dân Israel, đã được Thiên Chúa cử đến để ban cho dân này và toàn thể nhân loại sự sống dồi dào. Trong tư cách là Con, Người sống với Thiên Chúa một tương quan duy nhất, với đặc điểm là sự hiểu biết hỗ tương và sự bình đẳng với nhau (x. 11,27). Vị Thiên Chúa ấy là vị Thiên Chúa hằng sống, vị Thiên Chúa duy nhất chân thật và thực hữu, là sự sống nơi chính mình, đã tạo thành mọi sự sống và đã chiến thắng sự chết bằng quyền lực của Ngài. Là Đức Vua và Mục Tử, Thiên Chúa phải dấn thân phục vụ sự sống của dân Ngài. Phêrô nhận biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia có liên hệ mật thiết với chính quyền lực sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.
* Tuyên bố về tư cách của Phêrô (17-19)
Do lời tuyên xưng ấy, Simôn được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết ấy (“mạc khải”, apekalypsen. Xem 11,27; 17,5); sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4,18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên.
Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng một tên mới và loan báo một nhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1,42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là một sáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc một người có quyền thế có thể ban một tên mới cho một người đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (x. St 17,5.15; Ds 13,16; 2 V 24,17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với một nhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói một cuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông một tên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Nhiệm vụ này được mô tả với ba hình ảnh. (1) Phêrô là tảng đá, trên đó Đức Giêsu sẽ xây dựng Hội Thánh Người (c. 18). Hội Thánh, cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu, diễn tả cùng một lời tuyên xưng như Phêrô, ở đây được ví với một tòa nhà. Đức Giêsu sẽ dựng lên tòa nhà, nhằm quy tụ các tín hữu Người. Nền móng của tòa nhà này là đích thân Phêrô, như một con người sống, đã được Thiên Chúa ban cho lời tuyên xưng chân thật. Ông phải cung cấp sự chắc chắn và bền bỉ cho cộng đoàn các tín hữu. Với cộng đoàn này, Đức Giêsu hứa ban cho sự bền bỉ trường tồn: quyền lực sự chết và sự tàn tạ sẽ không chạm tới cộng đoàn này được.
Với hình ảnh (2) các chìa khóa (c. 19), Đức Giêsu không muốn nói rằng Phêrô được giao cho nhiệm vụ giữ cửa trời, nhưng được đặt như là người quản lý thay mặt chủ nhà và hành động theo sự ủy quyền của ông chủ (x. Is 22,22). Trong cộng đoàn các tín hữu, ông phải hành động thay cho Đức Chúa; (3) ông phải ràng buộc và tháo cởi (c. 19b); thậm chí ông có quyền và có nhiệm vụ tuyên bố điều gì bị cấm và điều gì được phép đón vào trong cộng đoàn Hội Thánh. Trong Bài Giảng trên núi và trong các giáo huấn khác, Đức Giêsu chỉ bận tâm tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa và trình bày cho thấy những cách sống cần thiết để được vào Nước Trời (x. 5,20; 7,21). Phêrô phải tiếp tục nhiệm vụ này. Giáo huấn của ông đòi hỏi đến mức có thể loại trừ khỏi cộng đoàn những ai không theo và có thể đưa trở lại cộng đoàn những ai hối lỗi. Đức Giêsu không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu, nhưng ban cho cộng đoàn này một người lãnh đạo có uy quyền lớn lao.
* Kết: Lệnh cấm (20)
Niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Nhất là trong Mc (“Thầy là Đức Kitô”) và trong Lc (“Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”) niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào một quan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Do đó đến cuối Đức Giêsu đã buộc các ông phải im lặng, không được nhắc đến các khẳng định ấy (Mc 8,30; Lc 9,21). TM Mt cũng có lệnh cấm tương tự, bởi vì một lời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho một đức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo Thương Khó (x. 16,22).
+ Kết luận
Do sự kiện là qua trung gian Phêrô, các tông đồ khám phá ra ý nghĩa của danh xưng huyền bí “Con Người” và nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia siêu việt, các ông đã tách ra khỏi những người Do-thái không tin, các ông đã trở thành phần “Dư tồn” từng được các ngôn sứ loan báo và hứa sẽ được nhận ơn cứu độ. Từ đó, Đức Giêsu có thể giao phó cho Phêrô quyền “ràng buộc” và “tháo cởi”. Do một sự hạ cố đầy ưu ái của Thiên Chúa, quyền chìa khóa này dựa trên đức tin của Phêrô, vừa là người có tội vừa là người có đức tin.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hội Thánh, cộng đoàn các tín hữu, vẫn thuộc về Đức Kitô; chính Người quy tụ, xây dựng, điều khiển, còn Phêrô là tảng đá trên đó các yếu tố khác nhau của Hội Thánh được thu gom lại và kết cấu hài hòa. Nhưng chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng. Trong Hội Thánh trần thế, là con đường đưa tới Nước Trời, không phải mọi sự đều tinh trong hoặc đã hoàn tất. Phêrô có vai trò phục vụ sự biện phân. Chính ông phê phán là các thành viên Hội Thánh đang sống phù hợp với dự định của Đức Kitô hay không.
2. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô không cần qua Hội Thánh; bảo rằng mình có thể trực tiếp tự mình gặp Đức Giêsu không cần nhờ đến Giáo Hội, là liều lĩnh. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải ra cho chúng ta.
3. Quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, trở thành môn đệ của Người, chứ không phải là quyền sinh sát trên đoàn chiên. Quyền này được trao ban để phục vụ sự sống, chứ không phải để ép buộc đoàn chiên phải đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của riêng mình. Quyền bính là phương tiện phục vụ sự tăng trưởng (auctoritas, do động từ augere có nghĩa là “làm lớn lên”).
4. Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì con trẻ sinh ra trong máng cỏ, con người chịu đóng đinh trên đồi Sọ, đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
------------------------------------------
Những người đi theo Chúa Giêsu, được nghe rao giảng Tin Mừng, được ăn bánh, được chữa lành: TN 21-A62
Những người đi theo Chúa Giêsu, được nghe rao giảng Tin Mừng, được ăn bánh, được chữa lành bệnh tật… vẫn chưa biết rõ về Chúa Giêsu: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” ( Mt 16, 14 ).
Không trách được thiên hạ, bởi muốn biết rõ về Chúa Giêsu, cần có ơn mạc khải của Thiên Chúa. Người đầu tiên được ơn mạc khải về căn tính của Chúa Giêsu là Thánh Phêrô: "Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 16, 17 ).
Vâng, không phải do học thức, lý trí, hay khả năng siêu việt, nhưng do chính Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm huyền bí cho Thánh Phêrô con người tầm thường bé mọn, khi ông thốt lên: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” ( Mt 16, 16 ).
Câu trả lời đúng với căn tính của con người mang tên Giêsu được gọi là Kitô: Người được xức dầu hiến thánh do Thánh Thần với hình chim bồ câu đậu trên đầu, Người được Thiên Chúa Cha sai đến với lời tuyên bố: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta”, Người sẽ phải chịu đau khổ và chiến thắng đau khổ để thống trị vũ trụ này. Như vậy, câu tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, đã toát hết mầu nhiệm về Chúa Giêsu: Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, Đấng muôn dân mong đợi, Đấng Thiên Sai, Đấng Được xức dầu, Đấng Cứu Độ, và là Vua Thống Trị muôn loài.
Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Đức Tin mà Phêrô đã tuyên xưng do ơn mạc khải, như đã được kêu gọi, được chỉ định từ Thánh Thần Thiên Chúa, từ Thiên Chúa Cha. Ngài chọn Thánh Phêrô làm đầu Giáo Hội, và trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô. Cả ba việc: thiết lập Giáo Hội, tấn phong, và trao quyền đều gồm tóm trong câu: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” ( Mt 16, 18 – 19 )
Quả đúng như Lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Tin vào Chúa Kitô, viên đá góc tường vững chắc, đã trải qua bao thăng trầm, bao thử thách gian nan, bao cơn bức bách bạo tàn, nhưng mãi bền vững để đem ơn cứu độ cho muôn người.
Giáo Hội đang mở mọi cánh cửa để đón nhận những ai thành tâm theo con đường của Chúa Giêsu Kitô, để được ơn cứu độ. Và khi được gia nhập Giáo Hội Chúa Kitô qua Bí Tích Thánh Tẩy, là được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô và mặc lấy cả sứ vụ của Chúa Kitô nữa: Vương Đế, Tư Tế và Ngôn Sứ.
Chúa Giêsu đã trao cho Thánh Phêrô, trao cho Giáo Hội “chiếc chìa khóa Nước Trời” với nghĩa chịu trách nhiệm mở cửa Nước Trời cho muôn tấm lòng thành tín, và đóng cửa hay nói khác đi là chưa mở cửa Nước trời cho những thế lực gian tà chưa có lòng thành tâm sám hối.
Mỗi thành phần trong Giáo Hội, thiết tưởng, cũng được tham dự vào việc mở cửa Nước Trời cho chính mình và cho muôn dân bằng đời sống chứng tá của mình, trong gia đình, trong xã hội, khi kết hiệp với Chúa Kitô phát huy hữu hiệu ân sủng Tư Tế, Vương Đế và Ngôn Sứ.
Trong một Đại Hội Gia Trưởng, đến phút chia sẻ kinh nghiệm, có một gia trưởng trước khi chia sẻ đã dõng dạc tuyên bố: “Thưa quí cha và anh em, chiếc chìa khóa của Phêrô, hiện nay con đang giữ”.
Các cha cau mày khó chịu. Cả hội trường điên tiết lên, ông này láo thật. Nghe cử tọa xôn xao bên dưới, ông ta nói:
“Có lẽ quí cha và anh em khó chịu, nhưng con không nói dối. Đây là ý thức của con. Chiếc chìa khóa mở cửa Nước Trời của Thánh Phêrô, hiện con đang giữ, con dùng để…
… mở cuốn Kinh Thánh, cuốn Tin Mừng cho cả nhà cùng đọc, suy gẫm và thực thi,
… mở cuốn sách Kinh Nguyện ra, cho cả nhà sớm tối cùng thân thưa chuyện trò với Chúa,
… mở máy vi tính, vào mạng ra cho cả nhà biết được những trang tin tức, sinh hoạt Giáo Phận, Giáo Hội, những trang sống đạo với tình bác ái,
… mở cửa tâm hồn mỗi thành viên đón nhận tình yêu Chúa và tình yêu thương nhau…
… mở cửa Nước Trời cho vợ chồng, con cái và cháu chắt của con.
Con cũng đang giữ chiếc chìa khóa ấy để…
… khóa chặt các cánh cửa nhà mình lại trước sự tấn công của những trào lưu chống phá Giáo Hội như bôi nhọ thanh danh các mục tử, như “Jesus-Yes, The Church-No”,
… khóa chặt cánh cửa trước những lời mời gọi cộng tác với ma quỷ, tham gia việc bất chính, ủng hộ điều vô nhân đạo,
… khóa chặt cánh cửa nhà mình trước mưu mô tiêm nhiễm sự gian tà luôn phủ nhận Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý của Chúa, chống lại công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu…
Mọi người thật sự ngỡ ngàng khi nghe chia sẻ của vị gia trưởng mà người ta cho là điên khùng kia. Nhưng thiết tưởng, suy đi nghĩ lại thật thấm thía và đáng kinh ngạc cho một lòng mộ đạo trưởng thành và có căn gốc. Ân sủng Chúa ban qua Bí Tích Thánh Tẩy, Bí Tích Hôn Nhân đã làm dồi dào đời sống Đức Tin các tín hữu. Không nhiều thì ít, gia trưởng nào cũng có ý thức về việc tạo dựng gia đình thành một Hội Thánh, một Giáo Hội thu nhỏ, và qua đó vai trò người gia trưởng cũng là vai trò của người giữ chìa khóa Nước Trời, có trách nhiệm và luôn phải bận tâm đến cuộc sống Đức Tin của con cái ở đời này, phần phúc sum họp trên Nước Trời mai sau, ngay từ trong gia đình mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ mỗi người về ơn gọi cao quí là Hồng Ân Đức Tin vào Chúa Giêsu Kitô qua Bí Tích Thánh Tẩy là Kitô Hữu Công Giáo, trong Giáo Hội Công Giáo duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Từ đó, cần hiểu rõ về Chúa Giêsu Kitô nhờ việc học hỏi Lời Chúa và Giáo Lý của Giáo Hội về Ngài, để có một tương quan cá vị cần thiết với Chúa Giêsu Kitô qua việc kết hiệp với Ngài trong sứ vụ Tư Tế, Vương Đế và Ngôn Sứ.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì được tháp nhập vào Con Người Giêsu Kitô qua bí tích Rửa tội, và được sống trong Giáo Hội Thánh thiện của Ngài. Xin cho chúng con biết trân quí ơn cao trọng này, sống xứng đáng là con cái Chúa, con cái Giáo Hội, trở nên chứng nhân cho nhiều người tìm đến Giáo Hội với lòng thành tâm xin được vào Nước Trời.
PM. CAO HUY HOÀNG, Sàigòn 18.8.2011
------------------------------------------
Nhân loại có hai cách hiểu về Đức Giêsu, có người tin nhận Ngài là Thiên Chúa, số còn lại: TN 21-A63
Nhân loại có hai cách hiểu về Đức Giêsu, có người tin nhận Ngài là Thiên Chúa, số còn lại không tin. Thế nhưng, không kể đến yếu tố niềm tin, con người không thể loại trừ khía cạnh lịch sử. Chẳng phải lịch sử Do Thái đã ghi nhận Ngài là con bà Maria và ông Giuse thợ mộc, thuộc dòng tộc Đavít đó sao ?
Có lẽ không một cư dân Do Thái nào có thể phủ nhận thân thế và nguồn gốc lịch sử của Đức Giêsu. Vụ tử nạn đẫm máu hơn 2.000 năm vẫn như mới hôm qua đang còn mới nguyên trong dòng lịch sử. Không một ai dám phủ nhận cái chết lịch sử của Ngài. Thế nhưng việc nhận biết và tôn thờ Ngài là Ai lại còn nguyên dấu hỏi.
Ngay khi Đức Giêsu còn cận kề hiện diện, chung vai sát cánh với các môn đệ mà các ông còn chưa nhận biết sự thật về thân thế Ngài. Khi đặt dấu hỏi: “Người ta nói con người là ai ?” ( Mt 16, 13 ), đáp án vẫn là một sự mông lung, mơ hồ. Trong tiềm thức nhân loại, Đức Giêsu vẫn chỉ là một tiên tri, là người loan báo về Thiên Chúa chứ không là Thiên Chúa. Chỉ riêng Phêrô khẳng định: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” ( Mt 16, 16 ).
Chẳng phải nhờ trí khôn nhân loại, mà Phêrô có thể tuyên xưng mầu nhiệm về Con Thiên Chúa, nhưng hơn cả vẫn là ơn ban của Cha. Cuộc sống nhân loại cũng thế, nhiều khi con người lầm tưởng vào khả năng, cậy dựa vào tài cán của mình để khinh khi hay xem thường kẻ khác. Tự coi mình thủ đắc hết tri thức nhân loại để rồi không nhìn nhận ơn ban của Đấng làm nên mình.
Nếu không do Thiên Chúa mạc khải, tự sức mình con người khó có thể hiểu thấu mầu nhiệm Nước Trời. Một khi đã tiếp xúc với mầu nhiệm, con người chỉ còn biết lấy Đức Tin mà qui phục. Do vậy mà ngày nay, khi cuộc sống vật chất quá văn minh đầy đủ, con người đã không còn nghĩ đến việc cần phải tìm hiểu xem Thiên Chúa là ai ? Thiên Chúa là Đấng nào, và Đấng ấy có vị trí, ý nghĩa như thế nào trong cuộc đời mình.
Biết Thiên Chúa là ai thì dễ, nhưng có tin Ngài là Chúa đời mình không mới là quan trọng. Biết Thiên Chúa, có lẽ mọi người đã từng biết, nhưng hiểu, yêu mến và tin, hiếm kẻ tin. Thực sự là vấn nạn không nhỏ. Nhận biết cần phải có niềm tin và lòng yêu mến. Biết chỉ để mà biết chưa đủ, tin để mà tin cũng chưa đủ, nhưng cần phải sống.
Giả như nhân loại mỗi người tự hỏi, Đức Kitô là ai với tôi, trong cuộc đời tôi, cuộc sống có lẽ sẽ khác, bớt đau khổ, giảm tội lỗi… Bởi chưng, khi nhận biết Đấng tác tạo nên tôi, yêu thương tôi, sống cho tôi và chết cũng vì tôi, người ta sẽ biết sống tốt hơn, cố gắng sống tốt hơn.
Một sự thật không kém buồn, đó là tình trạng niềm tin không đúng nghĩa. Người ta khua chiêng đánh trống vỗ ngực xưng tên nhằm diễn tả niềm tin vào Thiên Chúa, nhưng thực ra chỉ để mua danh bán tước !
Lạy Chúa, nếu như con biết dùng thời gian thinh lặng để tự hỏi lòng: Đức Kitô là ai trong cuộc đời mình, có lẽ con sẽ tìm được câu trả lời xác đáng nhất. Thật ra, ở tận đáy lòng, có bao giờ Thiên Chúa thôi đứng vị trí quan trọng trong cuộc đời con đâu. Nhưng cách sống thể hiện niềm tin ấy không đơn thuần, nó bao hàm trong mọi hoạt động đến mức tinh tế nhất, đôi khi tưởng chừng con loại bỏ Ngài xuống hàng thứ yếu.
Sự thật con nào dám quên Thiên Chúa là ai, nhưng đứng trước phong ba, bão táp… Thiên Chúa vẫn thinh lặng, bản thân Đức Tin yếu kém, non nớt, con không thể không hoài nghi, hoang mang, ngờ vực. Thủ đắc sự hiểu biết về Ngài chưa đủ, mà cần phải sống trải nghiệm niềm tin ấy nữa kìa.
Con thuyền đời con đang lênh đênh trên biển đời với những câu hỏi thách đố vây bủa. Xin giúp con biết sống niềm tin mà con đã tuyên xưng, với tôi, Đức Kitô là Thiên Chúa !
M. HOÀNG THị THÙY TRANG
------------------------------------------
“Còn gặp nhau thì hãy cứ thương,
tình người muôn thuở vẫn còn vương.”
( dẫn từ thơ Tôn Nữ Hỷ Khương )
Nước chảy hoa trôi, chuyện ở đời. Vui ngày gặp lại, chuyện đời ta. Chuyện của đời ta hay của dân: TN 21-A64
Nước chảy hoa trôi, chuyện ở đời. Vui ngày gặp lại, chuyện đời ta. Chuyện của đời ta hay của dân con nhà Đạo, vẫn là trình thuật mà Thánh Mátthêu nay đã ghi.
Trình thuật theo Thánh Mátthêu, nay ghi một chuyện đời có lai lịch tự sự, về Hội Thánh mà người người đều đã nghe nhiều lần, rất tường tận về vai trò, chức vụ và quyền uy của Thánh Phêrô, đấng Đầy-Tớ-Chúa trong Hội Thánh.
“Anh là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, và trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, vẫn là lời vàng ghi trên cao nơi bàn thờ ở Vương Cung Thánh Đường ở Rôma. Lời vàng, nay mang ý nghĩa gì ?
Dĩ nhiên, đây không là tuyên bố chính thức, một thứ “luật bất thành văn” như nhiều người nghĩ tưởng hoặc cho như thế. Đây chỉ là tên gọi riêng, thông thường được tặng gán cho Thánh Phêrô, vào thời đó. Tên Do Thái của thánh nhân là Shimôn. Tên tục, mà Chúa vẫn gọi bằng tiếng Aram là “Kêpha”. Tiếng Hy Lạp là “Petros”, nghĩa là “Đá Tảng”. Tên như thế là hiểu theo biểu tượng và ý nghĩa “Đá Tảng” mà Chúa dùng để nói về Thánh nhân thôi.
Ta lại bảo: Chúa đã làm cho Thánh nhân trở thành “Tảng Đá”, hoặc nền tảng rất cứng như đá, trên đó Ngài dựng xây cộng đoàn mới mẻ, là Hội Thánh của Ngài. Hình ảnh về đá tảng có cạnh góc làm nền cho dinh thự, nhà cửa là điều được người Do Thái vẫn thừa biết. Do Thái, là nước được xây trên đá tảng rất nền tảng của Sion, tức đền thánh Giêrusalem, mọi người đều biết, đặc biệt người Hồi Giáo nay còn sùng kính “Đá Tảng Vòm Cung” trên đó nữa.
Người xưa nghĩ: vũ trụ này chắc cũng được xây trên đá tảng nào đó, giống như thế. Ngày nay, khi nói về nền tài chánh, có người còn hình-tượng-hoá hệ thống kinh tài của nhiều nước như đá tảng vững chắc. Đá tảng, còn là tên mà người Do Thái dâng lên Giavê Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Bình An. Là, Nền Tảng của mọi sự. Ý tưởng này, thấy nhiều ở Thánh Vịnh lời ca trong Cựu Ước vẫn coi “đá tảng”, là nơi an toàn ta tìm đến mà trú ẩn, không sợ hãi. Cũng thế, ta quan niệm Thánh Phêrô là biểu tượng của an toàn trong Hội Thánh. Từ nền tảng an toàn này, nhiều Đức Giáo Tông cũng nghĩ về vai trò của mình, y như thế.
Không rõ đó có là ý tưởng của Thánh Mátthêu khi viết trình thuật này không ? Có thể, khi viết thế, ngài liên tưởng đến truyện về Môsê được kể ở sách Dân Số ( x. Ds 20, 11 ). Với Mátthêu, Đức Giêsu chính là Môsê Mới. Bởi thế nên, khi ông được Giavê dạy bảo: “Hãy lấy gậy mà đập vào đá tảng, nước sẽ chảy ra cho dân con uống”. Lúc đầu Môsê còn do dự. Gõ mãi chẳng thấy gì. Gõ lần nhì, tức thì nước từ đá tảng chảy ra. Chảy đến độ nhiều người coi đó như “đá nhỏ lệ”, hoặc “lệ đá xanh”. Có điều ai cũng rõ, đó là: mọi người đều cần đến nước. Nước là sự sống phát xuất từ đá tảng từng chảy nước mắt khóc ròng có nguồn gốc là thế. Và khóc là động thái mang lại sự sống cho kẻ khác. Cho người khác như trẻ bé lúc chào đời cũng giống thế.
Trình thuật hôm nay cho thấy: Đức Giêsu nghĩ về “đá tảng” xưa khi Ngài tỏ bày với ông Simôn, như đã nói: “Ông là đá tảng chảy nước mắt giữa dân con Thầy” ( x. Mt 16, 18a ). Tức ông sẽ chảy nước mắt, khóc ròng với lòng xót thương mọi người. Và đó là chức năng chính mà Chúa muốn Thánh Phêrô thực hiện trong Hội Thánh. Đó cũng là cung cách mà ngài cùng các lãnh đạo Hội Thánh được ủy thác để rồi chính mình lại ban thứ “nước” sống động ấy cho mọi quan viên trong Hội Thánh. Thật khó mà tưởng tượng chuyện các Thánh có địa vị như Phêrô đem “nước sống động” ấy cho Hội Thánh, mà lại không khóc ròng vì Hội Thánh vào mọi lúc.
Đây còn là ý tưởng chủ lực về vai trò, quyền uy của Đức Giáo Tông và đấng bậc vị vọng trong Hội Thánh ở mọi cấp. Bởi đã là thành viên Hội Thánh, thì cả các đấng bậc lẫn Đức Giáo Tông, đều phải vững như đá, đến độ không gì có thể mua chuộc hoặc làm suy xuyển lòng dạ sắt đá của các ngài. Và, câu hỏi đặt ra là: ai trong hàng ngũ các ngài, lại có thể chảy nước mắt cho Hội Thánh và với Hội Thánh không ? Ai có thể làm cho mọi tình huống trong Hội Thánh bớt gay go và tạo được khả năng thực hiện những gì ta nghĩ là không thể hiện thực được ?
Câu trả lời sẽ là: nếu Đức Giáo Tông và các bậc vị vọng trong Hội Thánh trả lời được câu hỏi ở trên, thì chỉ khi ấy các ngài mới thấy được “Nước Sự Sống” rất đích thực Chúa dành cho mọi người. Chỉ khi ấy mọi người mới hưởng được ơn huệ sống động từ đá tảng “Hội Thánh” chảy ra cho mình. Mới thấy phát sinh sự sống thực, có được từ nỗi chết. Có thế, ta mới đạt một loại hình rất khác biệt về bí nhiệm “Vượt Qua”.
Bằng vào ý tưởng trên, Thánh Phêrô là biểu tượng của lòng đại độ xót thương đối với các bản vị trong Hội Thánh, với những ai đang chân thành đến với Hội Thánh, hoặc đang có mối liên hệ với Hội Thánh. Bởi Hội Thánh thực sự không chỉ – và không là – biểu tượng của an ninh, an toàn, cho một tổ chức nào hoặc một nhóm nào đó, mà cho tất cả mọi người. Và cho tất cả mọi nhóm hội, đoàn thể. Chỉ khi ấy, Thánh Phêrô, Vị-Đầy-Tớ-Chúa, mới không bị tách biệt khỏi Hội Thánh.
Bởi Thánh nhân được gìn giữ khỏi mọi tai ương, bất lợi. Bởi Thánh nhân ở trên và ở ngoài mọi bi hài kịch đời người, là Hội Thánh. Ngài là “đá tảng” từng chảy nước mắt, khóc ròng vì dân con của mình. Thánh nhân chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện để cho thành viên của mình ở bên trong đá tảng. Ở giữa những cam go, khó khăn, gay gắt. Ngài là đấng bậc biết cảm thông với mọi thành viện trong Hội Thánh, mọi hoàn cảnh. Đó là vai trò của Simôn, rất Phêrô.
Chính vì thế, nên Chúa mới nói: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi anh.” ( Mt 16, 18b ). Nghe câu này, lâu nay ta cứ tưởng như hiện có hai thứ quyền lực đối chọi nhau, tranh chấp nhau. Và, chỉ một quyền lực chính đáng là Hội Thánh khả dĩ chiến thắng được quyền bính tà vạy là “thế gian”. Nghĩ thế, tức đã chấp nhận chiến tranh, đối chọi, và, tranh chấp rồi.
Về ý tưởng đá tảng chảy nước mắt khóc ròng, ở đây nữa, Hội Thánh không thể “chiến thắng” quyền uy đối chọi và đối lập bằng cách đứng trụ như đá tảng mà không đầu hàng, không nhân nhượng. Hội Thánh cũng không thể thắng quyền lực đối chọi bằng quyền uy dũng mãnh đơn độc của mình được. Mà Hội Thánh phải vượt trên và vượt qua mọi giai tầng quyền uy, sức mạnh.
Hội Thánh không thể chiến đấu chống quyền uy thế trần bằng cách tự tăng cho mình thêm nhiều quyền. Mọi quyền uy vững chắc như “đá tảng”, cùng thế lực ở-môi-miệng sẽ không thể thắng quyền lực “tử thần” được. Bởi nếu không, Hội Thánh cũng sẽ phải sống cuộc sống rất tử thần, rất ngục thất. Và “quyền môn âm phủ” sẽ chẳng bao giờ lướt thắng được bí nhiệm của hiện tượng “chảy nước mắt khóc ròng” ngang qua đớn đau của ai khác, hoặc nỗi thống khổ của đối phương. Đó là điều Chúa muốn nói khi Ngài hứa với Thánh Phêrô, là thánh nhân sẽ khóc ròng, bất kể chuyện gì sẽ xảy đến.
Sau đó, Chúa còn thêm: “Thầy trao cho anh chìa khoá Nước Trời” ( Mt 16, 19a ), tức Lời Chúa hứa đây, tức những gì ông ràng buộc hoặc tháo gỡ ở Hội Thánh, sẽ được cột hoặc tháo ở Nước Trời. Cột buộc là đặt dưới quyền uy sức mạnh nào trói cột mình với những gì ma quái, không thoát được. Tháo gỡ, cởi bỏ, là tháo và cởi khỏi sức mạnh nào đó đang dính cứng vào vai trò của ông. Nói rõ hơn, Thánh Phêrô sẽ đứng vững và không ai tháo gỡ nổi uy quyền dũng mãnh của mình dù là ma vương quỷ quái. Và chỉ mỗi việc “chảy nước mắt khóc ròng”, mới thật sự là “chiến thắng” lạ kỳ đối với những gì được coi như “không thể chuyển đổi” được. Chảy nước mắt khóc ròng, còn là giải thoát, cởi bỏ để con người đến với tự do.
Đọc kỹ trình thuật, ta sẽ hiểu được tâm trạng của Thánh Phêrô đến mức độ nào còn tuỳ thuộc ta có hiểu được điều Chúa nói hay không mà thôi. Rõ ràng là, thánh Phêrô đang học cách “khóc ròng” cho Hội Thánh, vì Hội Thánh. Thế nên, ta nghĩ và thực hiện Lời Chúa thế nào cũng sẽ tuỳ vào cung cách Thánh Phêrô và các vị kế tục, tức các lãnh đạo tôn giáo trong Hội Thánh đang hành xử quyền uy vậy.
Thánh Phêrô đã phải mất một thời gian dài mới học được cách trở nên “Đá Tảng” biết khóc ròng, xót thương mọi người, biết vượt trên quyền uy các cấp, để chứng minh cuộc thương khó của Đức Giêsu là bài học quý giá đầu tiên của Thánh Phêrô, rất “Đá Tảng”. Thánh nhân đã có lúc muốn chối bỏ sự việc đang xảy đến với chính mình. Và ngài từng tách rời khỏi Thầy mình, cho đến lúc Chúa quay lại nhìn, ngài mới ra đi,“chảy nước mắt khóc ròng”. Khi ấy ngài đã học được cung cách khóc cho Hội Thánh. Và chính vào giờ phút đó, ngài mới đích thực là “Đá Tảng” của Giáo Hội rất Thánh.
Các đấng bậc kế tục Phêrô, trong vai trò “chảy nước mắt khóc ròng” giống như Phêrô, hiển nhiên cũng sẽ như thế. Và các đấng bậc vị vọng từ Giám Mục chủ quản cho chí Linh Mục, tức những vị có vai trò lãnh đạo Hội Thánh, cũng nên học cung cách ấy, cung cách “khóc ròng” vì mọi người. Và chỉ có thế, thì các ngài mới có thể truyền đạt tự do cho con cái Chúa. Và chỉ có thế thì tự do con cái Chúa sẽ không chỉ là danh từ bâng quơ nhưng sẽ là tên gọi đích thực của Nước Trời ?
Trong tinh thần hiểu biết rất như thế, tưởng cũng nên ngâm tiếp câu thơ hát ở trên, rằng:
“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui,
chuyện đời như nước chảy hoa trôi,
Lợi danh như bóng mây chìm nổi,
chỉ có tình thương để lại đời.”
( Tôn Nữ Hỷ Khương – Còn Gặp Nhau )
Nước chảy hoa trôi là tình đời. Gặp nhau hãy vui với tình người. Tình của những người từng chảy nước mắt khóc ròng, giống như “lệ đá xanh”, rất Phêrô, mọi thời, ở mọi nơi, ngay đây.
Lm. NGUYỄN ĐỨC VINH SANH, bản dịch của Mai Tá
------------------------------------------
Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời: TN 21-A65
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.
------------------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đức Giêsu, một nhân vật lịch sử đã chết và sống lại gần 2000 năm rồi. Thế mà nhân loại ngày: TN 21-A66
Đức Giêsu, một nhân vật lịch sử đã chết và sống lại gần 2000 năm rồi. Thế mà nhân loại ngày nay, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba, vẫn còn đặt lại câu hỏi đã được đặt từ lúc Đức Giêsu giáng sinh: “Đức Giêsu Kitô là ai?”
Ngài đã trở thành “siêu sao” (Jesus, Super Star) trong các tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng như trên màn ảnh, cả đối với các tác giả không chia sẻ niềm tin vào Đức Giêsu nữa. Nhà văn Aimatov trong tác phẩm “Đoạn đầu đài” đã nói lên những cảm nghĩ và trăn trở của mình về Đức Giêsu và về cây thập tự của Ngài. Dumbatze trong tác phẩm “Quy luật muôn đời” hay Abuladze trong phim “Sám hối”và Nikos Kazantzakis trong tác phẩm “Chúa lại bị đóng đinh”hay trong “Cám dỗ cuối cùng của Chúa”, cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo. Tất cả đều đặt vấn đề về Đức Giêsu.
Tuy nhiên, những Đức Giêsu mang tính thời sự đó, dẫu có hay và lôi cuốn, vẫn chưa phải là Đức Giêsu đích thực của lịch sử, cũng không phải là đức Giêsu của lòng tin, Đức Giêsu của Tin Mừng. Chẳng qua các tác giả đó chỉ mượn dung mạo của Đức Giêsu để ký thác một điều gì trong thâm tâm mình. Cùng lắm, đối với họ, Đức Giêsu cũng chỉ là một bậc thầy rất có thế giá của quá khứ, hay một con người đáng nguyền rủa, nhục mạ của hiện tại.
Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Người ta bảo Thầy là ai?” các ông cho biết: có những người đánh giá rất cao, họ coi Ngài như một Ngôn sứ có tầm cỡ, như Êlia hay Giêrêmia là những ngôn sứ nổi danh bậc nhất trong lịch sử Do Thái. Trái lại, có những đối thủ lại coi Ngài như một người Samari lạc đạo, như một người bị quỷ nhập, như một tên phỉnh gạt hay một tay xách động dân chúng… Riêng đối với các môn đệ thân tín bên Chúa Giêsu, chắc hẳn các ông đã biết rõ Ngài hơn. Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ xác định nhận thức của họ về Ngài. Dân chúng thì nghĩ về Thầy như thế, “còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô đã nói lên nhận xét của các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Lời tuyên xưng đức tin này chúng ta đã gặp trong giai thoại của Chúa Giêsu cứu Phêrô khỏi chết chìm và khiến sóng gió im lặng. Khi Ngài bước lên thuyền, những người ở trong thuyền, tức là các môn đệ, sấp mình dưới chân Ngài mà nói: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”. Ở đây, Chúa Giêsu khẳng định lời tuyên xưng này là hiệu quả của ơn mạc khải “do Thiên Chúa Cha của Ngài trên trời”, càng cho chúng ta có quyền nghĩ rằng Phêrô đã thấy được một số nét đặc biệt siêu phàm trong con người của Thầy mình. Chúa Giêsu còn mạc khải thêm cho Phêrô một điều khác cũng quan trọng đặc biệt không kém đối với bản thân ông: “Này, anh tên là Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy, và các quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu còn trao cho Phêrô trách nhiệm giữ “chìa khóa Nước Trời”, trách nhiệm “cầm buộc hay tháo gỡ”được cả trên trời dưới đất đều chấp hành.
Trao chìa khóa nhà mình cho ai, có nghĩa là tín nhiệm và nhờ cậy người ấy coi sóc nhà mình. Người được trao chìa khóa có quyền đóng mở, ra vào, mà không bị coi là kẻ trộm, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm nặng nề canh chừng kẻ xấu, người gian. Chọn lựa, trao gởi trách nhiệm vẫn làđường lối của Chúa đối với Giáo Hội, đối với chúng ta. Tiêu chuẩn để được chọn lựa, tín nhiệm trao gởi trách nhiệm không phải là sự trổi trang về tài năng hay đức độ, mà là lòng tin. Không phải là một Phêrô yếu đuối tầm thường nữa, nhưng là một Phêrô Đá Tảng, người có lòng tin, có sức nâng đỡ cả Giáo Hội của Chúa Kitô. Phêrô đã tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, không chỉ một lần bằng lời tuyên xưng ấy mà thôi, mà bằng cả một cuộc đời không ngừng tuyên xưng lòng tin cho đến lúc tuyên xưng quyết liệt cuối cùng bằng cái chết đóng đinh thập giá như Thầy mình.
“Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ không ngừng vang dội suốt 20 thế kỷ nay đến chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết. Phải, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Phản ứng đầu tiên là im lặng, suy nghĩ, có khi với niềm vui, có khi có một sự ngại ngùng vì câu hỏi mang nặng hậu quả. Câu hỏi chạm đến tận cõi thâm sâu của cuộc đời tôi. Nó buộc tôi phải chọn, một chọn lựa kéo theo nhiều việc khác nữa. Nhưng vì là câu hỏi hệ trọng nhất, nên tôi không thể lẫn tránh được. Chúng ta không thể chỉ tuyên xưng bằng hành động, bằng việc làm cụ thể. Lắm khi sự tuyên xưng chân chính còn đòi buộc chúng ta phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phải, một khi chúng ta đã thực sự tin Đức Giêsu rồi, thì đời ta sẽ phải gắn chặt vào Ngài cho đến chết thôi. Và chết cũng chưa hết, còn cả cuộc sống đời đời nữa.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới thực nghiệm và duy vật chất. Lời nói trên lý thuyết có hay ho cao siêu đến mấy, nếu không được chứng minh bằng đời sống cụ thể, thì thiên hạ sẽ chẳng ai tin chúng ta. Đức Giêsu Kitô là ai? Chúng ta có giảng giải cặn kẽ về nguồn gốc và thân thế của Ngài, người ta có lắng nghe, có theo dõi, nhưng điều người ta theo dõi nhất là coi những người tin theo Đức Giêsu sống ra sao, ăn ở như thế nào, có thái độ thế nào với những công việc mưu cầu lợi ích chung, hạnh phúc chung của mọi người. Và từ đó, người ta sẽ suy nghĩ coi Chúa Giêsu của chúng ta là ai. Việc sống đạo của chúng ta, những người tin Chúa Giêsu, là phải chứng tỏ rằng, Chúa Giêsu thật là Chúa cuộc đời chúng ta, ngay trong chính cách chúng ta sống Tin Mừng yêu thương, phục vụ của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu Kitô là ai?
Thưa anh chị em, Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho cả xã hội ngày nay rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người đang sống ở giữa chúng ta.
------------------------------------------
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong: TN 21-A67
Câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này dường như Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng người, trước hết là câu: "Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần tục của con người thì họ nghĩ Thầy là ai?".
Chúa Giêsu Kitô là một thực tại, một con người lịch sử đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestina cách đây hơn 2.000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những kẻ sống đồng thời với Ngài, họ cũng nhìn thấy những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần Linh của Chúa là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên tri, một E?lia, một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa, nhưng chưa phải là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm trần tục không được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu Kitô là ai? Và các Tông Đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân chúng xung quanh. Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận ra Chúa, điều đó cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người mang tên là người đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.
Câu hỏi thứ nhất: "Người ta nghĩ Thầy là ai?", chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề để gợi ý thức nơi các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?". Mỗi người phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của mình đối với Chúa. Điều Chúa muốn không phải là một câu trả lời suông, ngoài môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo trong lớp: "Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân". Câu trả lời suông ngoài môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương đối dễ, nhưng điều Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật như là hồng ân từ Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa Cha: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Chúa Giêsu xác nhận không phải xác thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính thái độ xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ xác tín đức tin đó là hồng ân của Chúa Cha ban cho: "Không ai đến được với Thầy, nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến" (Jn 6,43.45). Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ mạng Kitô. Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: "Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Phêrô đã nhận được sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và mạnh mẽ tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa".
Mỗi người chúng ta đều cần có niềm xác tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa trao phó cho, là làm chứng cho Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã khó nhưng niềm tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng có thể nói là có hai con người, một con người trần tục và một con người mới. Con người mới này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có những thói hư tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương trình của Thiên Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, khó mà trung thành với đức tin tuyên xưng này.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được kinh nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: "Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không muốn". Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm cho ngài đôi khi mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo". Chính vì thế hơn ai hết, thánh Phaolô Tông Đồ đã trình bày cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng cộng tác với ân sủng Chúa để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên xưng đức tin, để trung thành với đức tin.
Trở lại với bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dầu Phaolô đã có đôi lần sống theo con người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương trình, Ngài đã chọn Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi". Ơn Chúa luôn luôn ban xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua mỗi người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa. Chúa muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người "khi nào con trở lại hãy nâng đỡ củng cố anh em con". Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm nâng đỡ cho anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.
Thêm một bài học nữa cho mỗi người chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và nâng đỡ những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin và trung thành với Tin Mừng: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
------------------------------------------
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC GIÊSU LÀ CON THIÊN CHÚA
Câu hỏi gợi ý:
Khi Phêrô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, ông có thật sự tin ở bên trong, hay chỉ tuyên xưng TN 21-A68
1) Khi Phêrô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, ông có thật sự tin ở bên trong, hay chỉ tuyên xưng ngoài miệng mà thôi? Xét lại những tuyên xưng của chúng ta, chúng ta có xác tín đích thực bên trong rồi mới tuyên xưng ra bên ngoài? hay chỉ là tuyên xưng ngoài miệng mà thôi?
2) Câu Đức Giêsu nói với Phêrô cần được hiểu thế nào? Đó có thể là một lời mời gọi mọi Kitô hữu ý thức hãy trở nên đá tảng làm nền móng Giáo Hội không?
Suy tư gợi ý:
1) Phêrô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu
Phêrô là một trong ba môn đệ được Đức Giêsu yêu quí nhất -hai người kia là Gioan và Giacôbê- vì ông là một con người thuần thành, chân thật và nhiệt tình, mặc dù có chút ít sốp nổi, bốc đồng. Điều đáng quí nhất là tư tưởng, lời nói và hành động của ông là một, không bất nhất, không mâu thuẫn nhau.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, thì đích thực ông nghĩ như vậy, ông sống như vậy, và ông hành động đúng như vậy. Vì thế, ông đã tuyên bố những điều phát xuất từ trái tim ông như: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã (…) Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,33.35). Tuy nhiên, ông không ngờ được sự yếu đuối, hèn nhát vẫn là mẫu số chung của con người, trong đó có ông. Khi nói những điều ấy, ông không ngờ được là có ngày ông bị Đức Giêsu trách: “Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao?” (Mc 14,37), hoặc ông không ngờ lời báo trước của Đức Giêsu lại có thể ứng nghiệm được đối với ông: “Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần” (Mc 14,72).
2) Việc tuyên xưng của chúng ta thì sao?
Phêrô cả đời chỉ tuyên xưng và sống hết mình với niềm tin đó, và ông cũng chết vì niềm tin đó. Ông không kết án những ai không tuyên xưng hoặc tuyên xưng khác với mình. Còn chúng ta thì sao?
Có lẽ có nhiều người trong chúng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh, rất lớn tiếng, trong những nghi thức rất long trọng, trước mặt rất nhiều người. Và chúng ta sẵn sàng kết án hoặc tỏ ra khó chịu với những ai không tuyên xưng như chúng ta, hoặc tuyên xưng khác với chúng ta. Nhưng cuộc sống của chúng ta thì lại xem ra khá độc lập với việc tuyên xưng ấy. Chúng ta tuyên xưng một đằng, nhưng sống và hành động một đằng khác. Tại sao thế?
- Vì nhờ tuyên xưng mà chúng ta được lên chức, được gia nhập một cộng đoàn, một tổ chức, một hội nào đấy, rất có thể có lợi cho cuộc sống hay sự thăng tiến của chúng ta. Mà tuyên xưng thì rất dễ, chẳng mất một giọt mồ hôi nào, cho dù có tuyên xưng mạnh mẽ, lớn tiếng hay trọng thể đến đâu. Còn sống theo lời tuyên xưng ấy là cả một vấn đề gay go, phải «đổ mồ hôi, xót con mắt», hoặc phải «trầy da tróc vẩy», phải đau đớn, thậm chí phải chết. Vì thế, rất nhiều người tuyên xưng mà không sống lời tuyên xưng ấy.
- Vì tự bản chất của vấn đề, việc suy nghĩ trong thâm tâm và việc tuyên xưng ra bên ngoài có thể độc lập với nhau hoặc mâu thuẫn nhau, nhất là nơi những người thiếu thành thật. Câu «khẩu Phật, tâm xà» nói lên sự mâu thuẫn ấy có thể xảy ra. Còn việc suy nghĩ và việc hành động lại thường đi đôi với nhau, người ta suy nghĩ thế nào thì họ hành động như vậy: tư tưởng hướng dẫn hành động. Chỉ với những người thành thật và có sức mạnh nội tâm, thì việc suy nghĩ bên trong, tuyên xưng bên ngoài, và hành động hay cách xử sự luôn luôn nhất quán, trùng hợp nhau. Tuy nhiên, với những người ý chí yếu đuối, dù rất thành thật, thì hành động đôi khi đi ngược lại với suy nghĩ và lời nói, vì «lực bất tòng tâm», như trường hợp Phêrô chối Chúa chẳng hạn.
3) Linh đạo «tuyên xưng» và linh đạo «sống»
Trong đời sống Giáo Hội, việc tuyên xưng ra ngoài miệng đóng vai trò quan trọng. Một số bí tích quan trọng đòi buộc phải có hành vi tuyên xưng như một điều kiện quan trọng không thể thiếu, như rửa tội, truyền chức và hôn phối. Một số nghi thức tôn giáo để gia nhập một cộng đoàn nào đó cũng vậy: khấn dòng, tuyên hứa hay cam kết để gia nhập hội đoàn. Trong thánh lễ, ta tuyên xưng đức tin trong kinh tin kính, trong lời tung hô sau truyền phép. Việc tuyên xưng ấy rất cần thiết, nhưng rất có thể vẫn có nhiều trường hợp người ta tuyên xưng một đằng, mà nghĩ, hành động, hay sống lại một đằng khác. Vì người Kitô hữu chúng ta rất thường xuyên tuyên xưng điều này điều kia, nên đôi khi chúng ta tuyên xưng một cách vô ý thức, rất máy móc, và quên không cố gắng sống cho phù hợp với những tuyên xưng ấy. Vô tình hay hữu ý chúng ta có thể trở thành những kẻ «ngôn hành bất nhất», trái với mệnh lệnh của Đức Giêsu: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37). Muốn biết chúng ta có phải là loại người như thế hay không, hãy thử xét xem ta sống có khác với những người không tuyên xưng như ta hay không, nếu khác thì khác như thế nào, và ở mức độ nào. Lẽ ra người tuyên xưng và kẻ không tuyên xưng phải sống khác xa nhau lắm!
Đối với con người - vốn không đọc được những suy nghĩ bên trong người khác - thì việc tuyên xưng ra bên ngoài là quan trọng. Nhưng đối với Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn người ta, thì việc ta sống đúng theo suy nghĩ hay quyết tâm của ta mới là quan trọng. Vì thế, người sống đạo nội tâm không nên đặt quá nặng việc tuyên xưng. Có những người tự hứa hay tự khấn với Thiên Chúa điều gì, chỉ mình và Thiên Chúa biết với nhau, và họ cố gắng giữ thật trọn vẹn lời khấn hứa ấy. Những người này có giá trị rất lớn lao trước mặt Thiên Chúa, hơn rất nhiều những người tuyên khấn thật trọng thể - trước vô số người tham dự, trong đó có cả những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội nghe và nhận lời tuyên khấn ấy - nhưng lại không giữ lời tuyên khấn ấy. Thế nhưng lắm người coi việc làm cho thật trọng thể lời tuyên khấn còn quan trọng hơn cả việc sống trung thực lời tuyên khấn ấy. Họ tuyên khấn thật trọng thể chỉ để khuyên người khác giữ, còn chính họ không thèm giữ!
Thiết tưởng thái độ nội tâm khi tuyên xưng mới là quan trọng, người Kitô hữu cần nhấn mạnh đến thái độ đó hơn cả chính việc tuyên xưng ra ngoài! Sự xác tín ở bên trong phải có trước đã, còn việc tuyên xưng tuy cần thiết về mặt xã hội hoặc Giáo Hội, nhưng chỉ là phụ thuộc! Xác tín bên trong không có, mà lại tuyên xưng bên ngoài thì thật là giả dối!
4) Những người xác tín thật sự bên trong rồi mới tuyên xưng ra bên ngoài là những viên đá nền tảng của Giáo Hội
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, một đức tin có thật bên trong, một đức tin mà ông sẵn sàng sống chết với nó, thì Đức Giêsu tuyên bố: «Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi». Điều đó cho thấy những ai có đức tin mãnh liệt thật sự, và chứng tỏ đức tin ấy bằng cuộc sống, bằng những hành động phù hợp, thì Đức Giêsu muốn những người ấy là đá tảng của Giáo Hội. Quả thật Giáo Hội rất cần những Kitô hữu như thế, cho dù họ là giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân! Chức vụ hay phẩm trật của họ trong Giáo Hội không phải là chuyện quan trọng cho bằng phẩm chất Kitô hữu của họ! Càng thiếu phẩm chất Kitô hữu mà càng giữ những chức vụ cao trong Giáo Hội, thì càng làm hại Giáo Hội, càng làm Giáo Hội suy yếu, chứ chẳng phải là làm nền tảng cho Giáo Hội đâu! Thật vậy, Giáo Hội đã phải nhiều phen điêu đứng và bị lung lay vì những ông giáo hoàng hay giám mục kém phẩm chất! Những vị này chỉ tuyên xưng đức tin ra bên ngoài để được phong chức, mà không có niềm xác tín đích thực bên trong! Những vị ấy dù có là giáo hoàng cũng không thể là đá tảng của Giáo Hội được!
Qua việc tuyên xưng đức tin của Phêrô và lời tuyên bố tín nhiệm của Đức Giêsu, ta thấy mọi Kitô hữu - không trừ ai - đều được kêu gọi trở nên đá tảng của Giáo Hội bằng một đức tin có thật, sâu xa, mãnh liệt, và được tuyên xưng ra bên ngoài không chỉ bằng lời nói, mà chủ yếu bằng hành động, bằng chính đời sống dấn thân của mình. Giáo Hội mà thiếu những Kitô hữu như thế - dù họ chỉ là giáo dân - thì đã bị đào thải và sụp đổ từ lâu rồi. Giáo Hội mà có thật nhiều Kitô hữu như thế thì «quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi», và sẽ là một nhịp cầu chắc chắn nối liền thế giới với Thiên Chúa. Một Giáo Hội như thế sẽ là một hồng phúc cho cả nhân loại.
Cầu nguyện
Lạy Cha, từ trước đến nay, lời Đức Giêsu nói với thánh Phêrô con cứ nghĩ là Ngài chỉ nói với những vị mà Ngài chọn làm giáo hoàng mà thôi. Nhưng nghĩ sâu xa và phổ quát hơn, con nhận ra Ngài nói với tất cả mọi Kitô hữu, Ngài mời gọi họ trở nên đá tảng của Giáo Hội, bằng cách bắt chước Phêrô: thật sự xác tín về Thiên Chúa và Đức Giêsu ở bên trong, rồi sau đó tuyên xưng ra bên ngoài bằng chính đời sống của mình. Xin giúp con biết quảng đại đáp lại lời mời gọi ấy. Amen.
------------------------------------------
Có một người mẹ trẻ thường hay đố đứa con gái rằng: "Phần nào trong cơ thể quan trọng nhất?". Em: TN 21-A69
Có một người mẹ trẻ thường hay đố đứa con gái rằng: "Phần nào trong cơ thể quan trọng nhất?". Em trả lời rằng âm thanh là quan trọng nhất nên đôi tai là bộ phận quan trọng nhất trong cơ thể. Thế nhưng người mẹ lắc đầu bảo rằng: "Có rất nhiều người điếc, họ không cần âm thanh". Một thời gian sau, người mẹ lại hỏi và lúc này đứa bé đã lớn hơn một chút nên nó nhận xét: hình ảnh là quan trọng nhất trong cuộc sống nên đôi mắt là phần quan trọng nhất. Người mẹ âu yếm nói với con: "Nhiều người mù họ không cần hình ảnh. Đôi mắt vẫn chưa phải là cần thiết nhất. Con hãy tiếp tục suy nghĩ".
Sự kiện được tiếp tục nhiều năm tháng trôi qua, cho tới hôm ông nội của đứa trẻ hấp hối qua đời. Người mẹ dẫn con lại chào ông nội lần cuối và nói rằng: "Con đã tìm ra câu trả lời chưa?". Đứa con ngạc nhiên vì câu hỏi của mẹ trong lúc này, nó tưởng rằng đây chỉ là trò đùa giữa hai mẹ con, nhưng người mẹ trịnh trọng nói: "Phần quan trọng nhất trên cơ thể con người chính là đôi vai. Vì đó là nơi người thân có thể dựa vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một đôi vai để nương tựa trong cuộc sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều tình thương để mỗi khi con khóc lại có một cái vai để con có thể ngả đầu vào. Hôm nay gia đình chúng ta đã mất đi đôi vai của người cha, người ông. Một con người mà cả gia đình đã nương tựa nay đã không còn".
Vâng, phần quan trọng nhất của con người không phải là phần để cho mình mà là để cho tha nhân. Vì thế, một con người quan trọng trong xã hội là một con người có ích cho người khác. Một người được yêu mến và quý trọng không phải vì địa vị hay chức quyền mà là vì sự đóng góp của họ với cộng đồng nhân loại.
Hôm nay, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô, Chúa đã đặt Phêrô làm đá tảng của Giáo hội. Chúa không bảo Phêrô trở thành một cục đá vô hồn mà là một viên đá sống động, một chỗ dựa cho các tông đồ và cho toàn thể giáo hội. Phêrô phải là một tảng đá có một đức tin vững chắc đến nỗi không có gì lay chuyển nổi mới có thể bảo vệ và gìn giữ Giáo hội. Chúa cũng biết con người Phêrô còn đầy bất toàn, yếu đuối, nhưng Chúa cũng nhận thấy Phêrô có một tấm lòng nhiệt thành theo Chúa. Ông mến Chúa. Ông luôn mong muốn hoàn thiện đời mình. Ông đã từng vấp ngã, nhưng ông mau làm lại cuộc đời. Chúa chọn ông không vì tài năng đức độ, nhưng vì lòng chân thành của ông. Chúa dùng ông, một con người đã từng vấp ngã để có thể nâng đỡ đức tin còn yếu kém nơi anh em. Chính Chúa đã từng nói với Phêrô: "Khi nào con trở về, con hãy củng cố đức tin anh em con".
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy trở nên những viên đá sống động để xây dựng Giáo hội. Tuy nhiên, mỗi người một khả năng, mỗi người một hoàn cảnh, Chúa mời gọi chúng ta hãy biết tự xây dựng đời mình bằng những vật liệu mà chúng ta đang có để trở thành những viên đá hữu ích cho tha nhân. Đặc biệt là cho gia đình chúng ta đang sống. Có nhiều người nghĩ rằng: mình phải làm ông này bà nọ mới có thể cống hiến cho tha nhân. Đó là chuyện của tương lai, nhưng ngay hôm nay, chúng ta hãy biết vận dụng những khả năng, hoàn cảnh Chúa ban để giúp đời, để cứu đời, để xoa dịu nỗi đau cho những người chung quanh, để trở nên điểm tựa cho anh chị em chúng ta.
Nếu chúng ta là người chồng hay người vợ: hãy đưa vai gánh lấy cuộc đời nhau. Hãy là điểm tựa để nâng đỡ chia sẻ buồn vui và cùng dìu nhau qua những thăng trần của dòng đời.
Nếu chúng ta là người cha, người mẹ: hãy là điểm tựa cho con cái. Hãy sống vì gia đình, vì con cái mà quên đi những niềm vui riêng của mình. Hãy chu toàn bổn phận của mình để xứng đáng là núi thái sơn, là biển rộng bao la cho con cái hưởng nhờ sự ấm áp, sự chở che của tình cha nghĩa mẹ.
Nếu chúng ta là con cái trong gia đình: hãy gánh vác trách nhiệm với gia đình. Hãy quan tâm tới gia đình, đừng vì sự lười biếng, cẩu thả của mình mà trở thành gánh nặng cho gia đình.
Nếu chúng ta là thành viên trong cộng đoàn nhân loại: hãy chung vai góp sức xây dựng hoà bình. Hãy hỏi với lòng mình: "Tôi đã làm gì cho thế giới này được tốt đẹp hơn?". Hãy biết dùng cuộc đời nhỏ bé của mình để trở nên những viên gạch xây dựng thế giới này mỗi ngày hạnh phúc và an khang hơn.
Trong cuộc sống không có việc gì là việc tầm thường đến nỗi không đáng cho chúng ta làm mà chỉ có những con người tầm thường khi thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Có thể công việc của chúng ta thật bé nhỏ, thật âm thầm nhưng nó lại thật cần thiết cho gia đình và xã hội. Tựa như viên đá góc tường nhỏ bé nhưng không thể thiếu khi muốn xây dựng ngôi nhà cao rộng hơn.
Tuy nhiên, muốn trở thành chỗ dựa cho tha nhân, chúng ta cần phải biết xây dựng đời mình trở nên những viên đá vững chắc, nghĩa là mỗi người cần biết rèn luyện đức hạnh đời mình trên nền móng Lời Chúa và phải được tôi luyện hằng ngày qua việc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa. Đó chính là người khôn ngoan. Vì kẻ khôn ngoan là người biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, cho dù có gặp thử thách, gian truân, tựa như nước lũ ngập tràn cũng không lay chuyển. Còn kẻ thiếu đức hạnh, thiếu nền tảng Lời Chúa, không chỉ làm hỏng đời mình mà còn gây tai hoạ cho biết bao người khác, vì "mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống lỗ".
Xin Chúa giúp chúng ta biết uốn nắn đời mình trở thành những viên đá sống động và hữu ích cho gia đình và những người chung quanh. Amen.
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Trung Tây - www.nguyentrungtay.com)
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa: TN 21-A70
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô, chữ Việt Nam hay kristós trong tiếng cổ Hy Lạp, hay mýh, mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng có thể được gọi là kitô và mêsia, bởi họ đã từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9,26-27; 10,1; 16,12-13). Cho nên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng Mêsia, người tín hữu đang tuyên xưng tôi tin Đức Giêsu chính là Vua [được Xức Dầu]. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi được đặt ra trong bài tiểu luận này, "Đức Kitô, Ngài là ai?"
Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên nằm dưới ách thống trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ đợi Giavê Thiên Chúa sẽ can thiệp, gửi tới Đấng Thiên Sai, hay Đấng Kitô, hay Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai sẽ lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi đất của sữa và mật ong - tương tự như thời Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã xức dầu phong vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, cả hai đã đánh đuổi người Philistine ra khỏi đất hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất, xây dựng Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.
Vào một ngày kia, trong vùng đất dân ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn đệ một câu hỏi bất ngờ,
- Người ta nói Thầy là ai?
Các môn đệ tranh nhau nhắc lại tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước,
- Người ta nói Thầy là Êlia.
- Có người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,
- Có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.
Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh nhau tường thuật lại những điều người dân đương thời đồn đại về căn tính của mình, Đức Giêsu một lần nữa lại cất tiếng hỏi,
- Vậy [riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?
Phêrô khẳng khái trả lời,
- Thầy là Đức Kitô (Lc 9,20), Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16,13-20).
Qua câu nói này, Phêrô tuyên xưng hai điều,
(1). Ông tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức Dầu bởi Thiên Chúa, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã, giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang;
(2). Điều này khá mới lạ, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là Con của Thiên Chúa.
Không giống như các dân tộc lân bang thờ phượng đa thần, người Do Thái chỉ thờ phượng một Giavê Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, “Hỡi Israel, Giavê là Thiên Chúa của chúng ta, Thiên Chúa duy nhất” (Đệ Nhị Luật 6,4). Nhưng từ cửa miệng của Phêrô, một tư tưởng thần học mới đã hé nụ, đó là, Đức Giêsu Kitô chính là Con Thiên Chúa.
Phêrô là một trong những Kitô hữu đầu tiên, theo như thánh Matthêu, đã tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là, Giavê Thiên Chúa có ba bản thể (essence): Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Linh. Tín điều này loài người không bao giờ hiểu được, nên được gọi là một Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu đã cất tiếng khen ngợi người thủ lãnh của nhóm Mười Hai là ông đã được Thiên Chúa chúc lành, bởi chính Thiên Chúa đã mạc khải cho Phêrô biết mầu nhiệm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Sau đó, Đức Giêsu đổi tên Simon sang Phêrô, Kêphas, nghĩa là đá. Bắt đầu từ giây phút đó, Phêrô trở thành nền đá vững chắc trường tồn của Giáo Hội Kitô. Sau cùng, người ngư phủ Biển Hồ cũng được trao ban chìa khóa Nước Trời. Điều gì Phêrô cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì Phêrô tháo cởi, trên trời cũng sẽ tháo cởi (Mt 16,19). [Thánh Phêrô được minh họa trong tay đang cầm hai chìa khóa. Một vài người thắc mắc là tại sao Phêrô lại cầm tới hai chiếc chìa khóa trong tay? Nguyên văn trong bản tiếng Koiné, thánh sử Mátthêu sử dụng chữ klêdas, có nghĩa là những chiếc chìa khóa. Như vậy, vào ngày hôm đó, Đức Kitô đã trao cho Phêrô không phải chỉ là một chiếc chìa khóa. Bao nhiêu chìa khóa? Rất tiếc, thánh Mátthêu không nhắc đến. Nhưng, có lẽ, dựa vào chi tiết của câu nói tiếp theo sau đó, “... dưới đất con cầm buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm buộc, dưới đất con tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi... (Mt 16,19), người họa sĩ vẽ hình Phêrô nghĩ rằng Đức Kitô đã trao cho vị Giáo Hoàng tiên khởi hai chiếc chìa khóa, một chiếc chìa khóa để cầm buộc, một chiếc chìa khóa để tháo cởi.]
Một vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo chơi trên những con đường tấp nập người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam. Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,
- Ông vẫn tin vào Thượng Đế?
Vị tu sĩ đáp,
- Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên Chúa.
Tới phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,
- Còn ông thì sao, ông tin vào ai?
Người bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè, cười đáp,
- Tôi, tôi tin vào tấm hình này...
Suy Niệm
Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang hỏi chúng ta,
- Con nghĩ Thầy là ai?
Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời,
- Hình như… Hình như Thầy không còn là nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng là tiền, như người bạn của vị tu sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định. Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, iPod nhẹ tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện hữu của Thầy trong đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã được con hạ bệ.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?” Xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con một niềm tin quyết liệt để con không còn phải lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay, ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang đứng trước mặt Chúa.
------------------------------
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 16,13-20 nằm ở trung tâm của tin mừng Matthêô. Đây là đoạn kết thúc và cũng là cao điểm của phần: TN 21-A71
Đoạn 16,13-20 nằm ở trung tâm của tin mừng Matthêô. Đây là đoạn kết thúc và cũng là cao điểm của phần đầu của tin mừng bàn về sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilêa, như là Đấng Thiên Sai được hứa ban (4,17-16,20). Chủ đề chính của đoạn nầy là nói đến căn tính của Chúa Giêsu, và việc Chúa Giêsu trao quyền thủ lãnh cvà điều hành cho Phêrô. Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: - Bối cảnh (c. 13a); - Ý kiến về căn tính của Chúa Giêsu (cc. 13b-17); Trao quyền cho Phêrô (cc. 18-19); Kết luận (c. 20).
Bối cảnh (c. 13a)
Bối cảnh của trình thuật nầy là một chỉ dẫn về không gian: Chúa Giêsu “Đến vùng Caisaria của Philip” (c. 13a). “Caesarea của Philip là một nơi rất đẹp dưới chân núi Hermon, trên nguồn nước chính của sông Giorđan. Thần Baal được sùng bái ở đây trong thời Cựu ước; sau đó người Hy lạp thay thế thần Pan vào, và vùng nầy mang tên Paneas, đền thờ của thần gọi là Panion… Vua Hêrôđê Cả xây một đền thờ cẩm thạch cho Augustus Caesar, người đã hiến cho ông vùng nầy; và Philip, vị tổng trấn sau đó đặt lại tên cho thành là Caesarea để tôn kính hoàng đế. Tên “Philippi” nghĩa là “của Philip” được thêm vào để phân biệt vùng nầy với bờ biển *Caesarea (x. Cv 8,40)…” (D.F.P., Caesarea Philippi, in Wood, D. R. W.; Marshall, I. Howard: New Bible Dictionary. 3rd ed. Leicester, England, 1996, p. 153). Chính giữa khung cảnh vùng “linh thánh” nầy, dâng kính cho các thần từ thời xa xưa đến giờ, Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi liên quan đến bản thân Ngài: “Người ta nói Con Người là ai?” Và Phêrô trả lời “Thầy là Đấng Kitô” (Mt 16,13-20; Mc 8,27-30; x. Lc 9,18-22).
Ý kiến về căn tính của Chúa Giêsu (cc. 13b-17)
Phần nầy thuộc dạng tường thuật, kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ; vì thế các động từ ở ngôi thứ ba. Đoạn nầy mở đầu với câu hỏi “Người ta nói Con Người là ai?” (c. 13b) và đóng lại bằng câu trả lời của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). Như thế, “Con Người” được đồng hóa với “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng Sống”. Câu hỏi trên Chúa Giêsu đặt ra hai lần: một là để biết ý kiến của “người ta” (c. 13b), hai là ý kiến của các môn đệ (c. 15).
Về ý kiến của người ta, có nhiều phát biểu khác nhau. Điểm chung giữa các phát biểu nầy là họ xem Chúa Giêsu như là một ngôn sứ. Ý kiến về Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả đã thấy trong lời của Hêrôđê: “Ấy Yoan Tẩy Giả đó, ông ấy đã sống lại khỏi cõi chết, và vì thế những phép lạ mới phát hiện nơi Ngài" (14,2). Người khác cho rằng Chúa Giêsu là Êlia, vì Êlia “đến để tu chỉnh mọi sự” (17,11), và họ thấy điều nầy nơi lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Vào gần cuối tin mừng Matthêô sẽ nói là đông đảo dân chúng cho rằng Ngài là một ngôn sứ xuất thân từ Nazaréth niền Galilêa (21,11.46).
Có một ý kiến khác không phải từ giữa dân chúng, mà cũng không từ giữa nhóm môn đệ của Chúa Giêsu, đó là của Gioan Tẩy Giả. Ông đã đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: “Có phải Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi người khác? (11,3). Và Gioan Tẩy Giả chỉ nhận được câu trả lời là hãy nghe những điều Ngài rao giảng và xem những hành động Ngài làm thì sẽ biết Ngài là ai (x. 11,4).
Với các môn đệ trước đây họ cũng thắc mắc Chúa Giêsu là ai (8,27). Hôm nay họ có câu trả lời từ miệng Simon Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). So với các bản văn song song, lời tuyên xưng trong Matthêô dài hơn, thêm câu “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mc 8,29; Lc 9,20; Ga 6,69). Đối với Matthêô, việc thêm nầy giúp xác định rõ hơn “Đức Kitô”, ho Christus. Ngay đầu tin mừng, “Đức Giêsu Kitô” được viết là “con Đavít, con Abraham” (1,1), nghĩa là Ngài được biết đến là thuộc dòng họ vua Đavít (1,17) và dân Israel thuộc mọi tầng lớp khác nhau đều xem Ngài là “Con vua Đavít” (9,27; 12,23; 15,22; 20,30tt; 21,9.15; 22,42). Tuy nhiên, không chỉ như thế. Ngài còn là “Con của Thiên Chúa hằng sống”. Chú ý là từ Christòs và hyios đều có mạo từ xác định, nghĩa là xác định rằng “Đấng Kitô nầy chính là Con của Thiên Chúa hằng sống”. Cách nói nầy chỉ được lập lại một lần nữa trong lời thẩm vấn của vị thượng tế (26,63; x. 27,40.43), và trong câu trả lời, chính Chúa Giêsu đã làm chứng về mình (26,64). Động tính từ zòvtos, “hằng sống” bổ nghĩa thêm cho “Thiên Chúa”. Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp… Thiên Chúa của kẻ sống” (22,32; 26,63), cũng có nghĩa là Thiên Chúa của dân Israel. Vậy Đức Giêsu Kitô, chính là Con của Thiên Chúa của tổ phụ dân Israel và Ngài được Thiên Chúa nầy sai đến, chứ Ngài không phải là một ngôn sứ (x. 14,33).
Lời tuyên xưng nầy không bởi “nghe và thấy” thuộc về kinh nghiệm con người, mà bởi mạc khải của Cha trên trời, như lời xác định của Chúa Giêsu (c. 17). Cụm từ “xác và máu” không thấy nơi khác trong các tin mừng. “Xác và máu” là thuộc về thân xác con nguời, và cũng là những gì của con người (19,5). Nó chỉ sự yếu đuối và hạn chế của con người so với tinh thần và Thiên Chúa (26,41; x. Ga 6,65; 1 Co 15,50). Bởi đó, Simon Phêrô không thể bởi kinh nghiệm và sự hiểu biết thuộc về con người mà có thể tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô. “Phúc cho”, makarios, chỉ phúc lành của Thiên Chúa ban cho ông. Cái phúc của Phêrô là được Chúa Cha mạc khải cho biết Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa hằng sống. Vậy lời tuyên xưng của Phêrô là câu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra “Con Người là ai?”.
Trao quyền cho Phêrô (cc. 18-19)
Phần nầy chỉ có trong Matthêô. Nó gồm các câu nói trực tiếp, động từ ở ngôi thứ nhất và thứ hai, và các đại danh cũng thế. Hai câu 18 và 19 có cấu trúc tương tự là một lời trực tiếp Chúa Giêsu nói với Phêrô + hai khẳng định tương phản nhau khai triển từ khẳng định trước: - Câu 18: “Tôi nói với anh: anh là Đá - “trên đá nầy Thầy sẽ xây dựng hội thánh của Thầy” - “cửa hoả ngục không thể phá được”; - Câu 19: “Tôi trao cho anh: chìa khóa Nước Trời” - “Sự gì anh cầm buộc…” - “Sự gì anh tháo gỡ…”.
“Anh là Đá” (c. 18) rất khớp với câu khẳng định của Chúa Giêsu “Thầy là Đấng Kitô”. Cả hai đều dùng “Thầy là /anh là…”. Phêrô đã cho biết Chúa Giêsu là ai, và Chúa Giêsu cũng cho biết Simon là Petros, nghĩa là Đá. Tên Petros không phải lần đầu tiên được nhắc đến ở đây, mà đã thấy ở các đoạn trước (4,18; 8,14; 10,2; 14,28). Tuy nhiên những bản văn ấy không cho biết khi nào và tại sao có tên nầy được dùng, và nó mang ý nghĩa gì. Tên nầy đã được dùng mà không được giải thích. Chỉ trong đoạn 16,18-19 nầy, chúng ta mới thấy nguồn gốc và ý nghĩa trọn vẹn của nó. Đặt tên mới là trao ban một ơn gọi. Abram được Thiên Chúa gọi là Abraham, vì Ngài sẽ đặt ông làm cha nhiều dân tộc, các dân và con cháu ông sẽ được Thiên Chúa chúc phúc bởi ông, và Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của họ (Kn 17,1-8). Cũng thế Simon được gọi là Phêrô vì Chúa Giêsu sẽ đặt ông làm thủ lãnh trên Hội Thánh của Ngài sẽ thành lập, và Ngài sẽ trao quyền hành nắm giữ và tháo gỡ cho ông.
“Trên đá nầy Thầy sẽ xây hội thánh của thầy”. Trong 7,24 Matthêô dùng hình ảnh “nhà xây trên đá” để diễn tả nền tảng vững chắc của những người nghe lời Chúa và đem ra thực hành trước những thử thách. Phêrô đã được Chúa Giêsu khen ngợi về lời tuyên xưng, và được Ngài đặt tên là Đá, và làm nền móng cho hội thánh Ngài. Vì thế, “xây trên đá nầy” nghĩa là xây trên lời tuyên xưng đức tin nền tảng của Phêrô “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. 1P 2,5). Chỉ trên nền móng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” nầy thì cửa hỏa ngục mới không thể phá hủy được; ngược lại chúng còn bị tiêu diệt (x. 8,16. 29.33).
Hành động tiếp theo Chúa Giêsu làm cho Phêrô sau lời tuyên xưng của ông là “Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời” (c. 19). Sách Khải huyền cho biết chỉ mình Chúa Giêsu Kitô có chìa khóa nầy, nói là khi Ngài đã mở thì không ai có thể đóng lại, và khi Ngài đóng lại thì không ai có thể mở (Kh 3,7). Khi trao cho Phêrô “chìa khóa Nước Trời” là Chúa Giêsu trao cho ông quyền nắm giữ chìa khóa và hành động thay mặt Ngài.
“Chìa khóa Nước Trời” là chìa khóa dùng mở ra để đi vào trong Nước Trời. Xét trong bối cảnh của bản văn, sau khi lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu đã làm cho Phêrô hai điều: một là đặt ông làm Đá như là nền móng để xây dựng hội thánh Ngài trên đó; hai là trao cho ông “chìa khóa Nước Trời”. Cả hai điều nầy chỉ có thể hiểu được trong tương quan với Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Bởi đó “chìa khóa Nước Trời” là chìa khóa để hiểu và tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Thật vậy, Chúa Giêsu chính là “Nước Trời” đến trong thế gian (3,2; 4,17). Không phải ai cũng hiểu Ngài và nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Điều nầy đã thấy trong dư luận của dân Israel (cc. 13b-17; 11,16-19; 12,24; 13,54-56). Ngài chính là “các mầu nhiệm Nước Trời” mà chỉ các môn đệ được ban ơn để hiểu (x. 13,11). Phêrô được phúc bởi Chúa Cha mạc khải cho về căn tính của Chúa Giêsu; các môn đệ cũng có phúc vì “mắt được thấy và tai được nghe” (13,16). Bởi đó, “chìa khóa Nước Trời” mà Phêrô nhận lãnh từ Chúa Giêsu chính là những mầu nhiệm liên quan đến bản thân Ngài, và quyền cầm buộc và tháo cởi là quyền tối cao về giảng dạy liên quan đến “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Quyền của Phêrô là quyền giảng dạy các mầu nhiệm Nước Trời, và quyền tuyên bố giáo thuyết nào là đúng hoặc sai (x. 23,13).
Kết luận (c. 20)
Vậy Chúa Giêsu được tuyên xưng là Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến. Từ ho Kristos đóng khung lại câu chuyện (cc.16 và 20). Tuy nhiên Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ giữ thinh lặng về căn tính thiên sai của mình (8,4). Lý do việc giữ kín nầy là vì “Đức Kitô” nầy không phải là một vị thiên sai như dân chúng nghĩ. Phêrô sẽ để lộ ý nghĩ mình về một vị thiên sai trần thế trong trình thuật tiếp theo sau (16,22).
Lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” là cốt lõi của nìềm tin Kitô giáo. Lời rao giảng và hành động của Ngài là gì đối với chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta tin Ngài là ai. Nếu tin Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống, thì việc lắng nghe và thực hành lời Ngài, cũng như sống theo cách hành động của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ.
------------------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 16,13-20) nói với chúng ta những nội dung rất quan trọng liên quan đến đời sống của Hội Thánh.
Hôm ấy, Đức Giêsu đưa các môn đệ đến Xêdarê Philípphê, một thành phố do tiểu vương Hêrôđê: TN 21-A72
Hôm ấy, Đức Giêsu đưa các môn đệ đến Xêdarê Philípphê, một thành phố do tiểu vương Hêrôđê Philipphê xây năm 2 tr.CN để kính nhớ hoàng đế Augustô “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (c.13). Người đã không hỏi các ông về ý kiến của đám đông dân chúng về bài giảng trên núi của Người chẳng hạn, hay về một hoạt động nào đó của Người, ví dụ như về phép lạ hóa bánh ra nhiều mới đây… Nhưng Người quan tâm đến ý kiến của đám đông và nhất là của các môn đệ về chính bản thân Người. Điều này cho thấy đây là một vấn đề quan trọng đối với Đức Giêsu.
Các môn đệ nhanh chóng nói cho Đức Giêsu biết đám đông dân chúng nghĩ gì về Người. “Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (c.14). Đám đông dân chúng đồng hóa Đức Giêsu với các nhân vật nổi tiếng trong Cựu Ước. Thậm chí có kẻ còn cho rằng Người chính là ông Gioan Tẩy Giả, vốn đã bị giết (x. 14,2), nay tái thế. Có kẻ nói Người là ông Êlia, vị ngôn sứ phải trở lại, theo sấm ngôn do Ml 3,23 và Hc 48,10 loan báo từ trước. Có người bảo Người là ông Giêrêmia, như đã từng xảy ra trong 2Mcb 15,13tt. Nói chung lại, đám đông dân chúng chỉ quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật, cho dù vĩ đại, cũng vẫn chỉ là sự tiếp nối quá khứ; đó là một nhân vật do Thiên Chúa sai đến như các nhân vật vĩ đại trong Cựu Ước mà thôi. Họ chưa nhận ra nơi Đức Giêsu những thực tại mới mẻ chứng tỏ tính cách độc nhất vô nhị của Người, càng không nhận ra nguồn gốc độc đáo và thần linh của Người. Họ không hiểu đúng về con người và sứ mạng của Người.
“Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?. Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (cc.15-16). Câu hỏi thứ hai này hướng trực tiếp về các môn độ. Đức Giêsu muốn biết lập trường và quan niệm của chính các ông về bản thân Người. Các ông đã đi theo Người một thời gian dài, đã chứng kiến những hoạt động của Người, đã được nghe những giáo huấn của Người. Thay mặt anh em, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu câu trả lời của các ông đối với vấn đề quan trọng này. Ông tuyên xưng lòng tin của chính ông và của các anh em ông trong cộng đoàn các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Câu trả lời của ông Phêrô rõ ràng là một lời tuyên xưng đức tin rất hoàn hảo. Trong Mc 8,29 câu trả lời chỉ đơn giản là “Thầy là Đấng Kitô”. Hình như tác giả Mt không hài lòng lắm với câu trả lời đó. Ông bổ túc rõ ràng: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh tư cách là Con Thiên Chúa của Đấng Mêsia (x. 3,17;17,5), không hoàn toàn trùng với quan niệm về Mêsia con vua Đavít như dân chúng nói chung đang mong chờ. Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” không chỉ theo nghĩa là do Thiên Chúa sinh ra, mà trước hết là do Người hành động trong tư cách là chính Thiên Chúa đang hành động. Nói cách khác, công thức “Con Thiên Chúa” ở đây là tương đương với công thức “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Thiên Chúa hằng sống (x. Is 37, 4.17; Hs 2,1; Đn 6,21) thì đối ngược, khác biệt và siêu vượt các ngẫu thần chết chóc: Ngài sống và làm cho sống. Là Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giêsu là Đấng sống và thông ban sự sống đích thực cho con người.
“Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (c.17). Đáp lại lời tuyên xưng của ông Phêrô, Đức Giêsu tuyên bố một mối phúc. Ngài khẳng định Phêrô có phúc vì được lãnh nhận một ơn huệ cao trọng và huyền nhiệm do chính Thiên Chúa ban. Chính Cha của Đức Giêsu, tức là vị Thiên Chúa hằng sống trong lời tuyên xưng của Phêrô, đã mặc khải cho Phêrô biết về căn tính đích thật của Đức Giêsu.
Trong 11,25-27, Đức Giêsu đã dâng lời tạ ơn Cha của Người: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”. Đọc câu 27 của bài Tin Mừng hôm nay trong liên hệ với lời ngợi khen đó, chúng ta biết rằng ông Phêrô đang được đón nhận ân huệ dành cho những người bé mọn, chứ không phải vì ông là kẻ khôn ngoan và thông thái theo kiểu các người Pharisêu và các kinh sư. Nói cách khác, ông Phêrô và các môn đệ anh em của ông không bị nhiễm men, tức là không bị ảnh hưởng, của giáo thuyết của các người Pharisêu và nhóm Xađốc (16,12). Đước chính Thiên Chúa mạc khải, ông Phêrô và các anh em được hiểu biết ý nghĩa sâu xa của những hoạt động và giáo huấn của Đức Giêsu.
“Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” cần được đọc song song với “Cha của chúng con, Đấng ngự trên trời” trong Mt 6,9. Những ai đón nhận từ Chúa Cha mặc khải liên quan đến Đức Giêsu thì đồng thời cũng nhận biết nơi Đức Giêsu dung mạo của chính Chúa Cha; và những ai đón nhận từ Đức Giêsu kinh nghiệm về chính Thiên Chúa là Cha thì sẽ có thể thưa với Thiên Chúa lời Abba thân tình. Chính trong ân huệ và trải nghiệm huyền nhiệm ấy mà ông Phêrô và toàn thể cộng đoàn các môn đệ tuyên xưng lòng tin của mình về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu tiếp tục nói với ông Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Tương ứng với lời tuyên xưng “Thầy là” của ông Phêrô là lời tuyên bố của Đức Giêsu “Anh là”. Đức Giêsu khẳng định ông Phêrô là “Tảng đá” (pêtra), tức là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi. Hội Thánh được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà ông Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa do chính Đức Giêsu xây dựng trên tảng đá Phêrô. Ông có nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn ấy sự chắc chắn, bền vững, không thay đổi, không lay chuyển, dựa trên ơn huệ là mạc khải của chính Thiên Chúa ban cho những con người bé mọn. Và sự bền vững ấy được bảo đảm bởi chính lời hứa của Đức Giêsu rằng “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
“Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Chúng ta thấy thấp thoáng ở đây nội dung của mối phúc cuối cùng trong 5,10t (“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”) và nội dung lời giáo huấn trong 10,28 (“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”). Quyền lực của tử thần, quyền lực của những kẻ bách hại Hội Thánh, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… sẽ không thể tiêu diệt Hội Thánh, vì Hội Thánh được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn thoe thánh ý Ngài.
Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn sự bền vững, ông Phêrô còn có nhiệm vụ quản lý các mầu nhiệm Nước Trời như một người tôi tớ được Chủ trao cho chìa khóa (x. Is 22,22): “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (c.19).
“Cầm buộc và tháo cởi” là ngôn ngữ của các trường phái rabbi, diễn tả nhiệm vụ cho phép hay ngăn cấm về những điểm còn tranh luận trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng quy về việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời.
Trao cho Phêrô những nhiệm vụ làm đá tảng, giữ chìa khóa và cầm buộc – tháo cởi, Đức Giêsu cho thấy Người không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu trong tình trạng mất hướng, nhưng ban cho cộng đoàn đó người lãnh đạo với những năng quyền và nhiệm vụ lớn lao.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng: ông Simon Phêrô, người thứ nhất và là đại diện cho anh em, tuyên xưng lòng tin vào Đức Giêsu với một công thức diễn đạt hoàn hảo con người và sứ mạng của Người, đã được Đức Giêsu đặt làm đá tảng cho Hội Thánh, làm người quản lý các mầu nhiệm Nước Trời và làm người có quyền bính thực sự trong việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời. Với ông, Đức Giêsu xây dựng cộng đồng nhân loại mới, cộng đồng những con người bé mọn tuyên xưng lòng tin vào Người là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Cộng đồng mới này là chính Hội Thánh, sẽ đứng vững trước những sức mạnh tấn công của quyền lực tử thần.
Ý thức về sự cao cả và sự nặng nề của những quyền bính và các nhiệm vụ mà Phêrô đã được trao phó, chúng ta được mời gọi cầu nguyện, vâng phục và hiệp thông sâu xa với Đấng kế vị Thánh Phêrô.
------------------------------------------
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều: TN 21-A73
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.
------------------------------------------
Gom nhặt những đoạn Phúc Âm nói về phêrô, ta thấy một mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: TN 21-A74
Gom nhặt những đoạn Phúc Âm nói về phêrô, ta thấy một mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.
Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin! (Mt 14:31). Lần thứ hai: Ngu tối! (Mt 15:16). Lần thứ ba: Satan! (Mc 8:33).
Không biết sau khi Phêrô được Chúa gọi ở biển hồ (Mt 4:18) bao lâu, mấy tuần, mấy tháng thì chuyện xảy ra. Chuyện đầu tiên được Phúc Âm ghi nhận là Phêrô bị mắng.
Mắng lần thứ nhất:
Ðêm đó, Chúa hiện đến, đi trên biển. Chưa ai đi trên biển bao giờ. Các môn đệ hoảng hốt la lớn: "Ma! Ma!" Chúa bảo không phải ma, là Chúa. Nghe thì biết vậy chứ làm sao tin được? Các môn đệ bán tín bán nghi, không biết Chúa thật hay ma. Phêrô là kẻ thách đố bóng người đi trên biển ấy:
- Nếu là Chúa thật, truyền cho tôi đi trên mặt nước xem sao!
Bóng người ấy truyền cho Phêrô:
- Hãy đến!
Phêrô liền bước xuống biển, đi. Giả sử không phải Chúa, ma đánh lừa thì cái gì xảy đến cho ông? Chắc chắn ông bị chìm xuống biển ngay. Theo thói thường của kẻ cân nhắc trước sau, ông không nên làm thế. Nên xin một dấu lạ nào khác không nguy hiểm đến mình có phải là khôn ngoan hơn không.
Nghe bóng người ấy nói: "Hãy đến!" Sao ông không dè dặt đặt vấn đề: "Chúa thật hay ma?" Giơ chân đạp thử xem nước cứng không đã. Chả biết lúc đó ông nghĩ thế nào, ông nhảy xuống nước ngay. Theo Tin Mừng thuật, ông đã đi được trên biển. Ði được rồi, lúc ấy ông phải xác quyết đây không phải là ma, là Thầy chứ. Sự thật đã rõ, ông phải chắc ăn chứ. Nhưng chung cuộc cho thấy ông đã chìm. Cách hành xử ấy cho ta cảm tưởng ông hành động ào ào, không suy nghĩ là bao. Thấy mình đang lênh đênh trên nước ông mới giật mình kinh hoàng. Và rất rõ, Chúa mắng: Quân yếu tin.
Sau khi bỏ chài lưới theo Chúa, hình ảnh đầu tiên ghi nhận được mối liên hệ giữa Chúa và Phêrô là trận mắng trên đây. Trận mắng thứ nhất vừa xảy ra, hình ảnh thứ hai lại một trận mắng khác: Ngu tối!
Mắng lần thứ hai:
Thầy trò đang đi thì gặp nhóm Pharisiêu. Hai bên tranh luận với nhau. Pharisiêu trách sao các môn đệ không rửa tay theo tập tục truyền thống trước khi ăn. Pharisiêu đã nhiều lần dựa vào lề luật tìm cách bắt bẻ các môn đệ. Họ lấy cớ trọng lề luật chứ lòng họ có một ý đồ khác. Chúa không chấp nhận lối giả dối đó. Ngài nói: "Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế" (Mt 15:11). Chúa ám chỉ tâm địa trong lòng xác định tốt xấu chứ không phải hình thức tập tục ăn uống bên ngoài. Các môn đệ hiểu ý Chúa muốn nói gì nên mới nói với Chúa:
- Thưa Thầy, Thầy có biết, Thầy nói vậy làm những người Pharisiêu khó chịu lắm đó.
Các môn đệ hiểu Chúa có ý ám chỉ gì nên mới nói với Chúa như vậy. Nhưng trong nhóm có người hỏi:
- Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn kia cho chúng con!
Không hiểu, mới xin như vậy chứ. Và Chúa đã mắng:
- Ðến bây giờ rồi anh em còn ngu tối vậy sao! (Mt 15:15-16). Người bị mắng đó là Phêrô! Một chi tiết trong lời mắng này, Chúa mắng "đến bây giờ rồi mà còn ngu tối vậy sao." Cụm từ "đến bây giờ rồi" cho ta cảm tưởng là đã hoài công dạy dỗ mà vẫn không khá. Nghĩa là chậm hiểu lắm, cho đến bây giờ rồi mà vẫn còn chậm như thế.
Mắng lần thứ ba:
Về đức tin, lần thứ nhất Chúa mắng quân yếu tin! Lần thứ hai bị mắng trí khôn chậm hiểu. Cả hai lần mắng đều xảy ra công khai. Chúa mắng Phêrô trước mặt mọi người. Bây giờ Chúa mắng tiếp lần thứ ba. Lần này mắng một cách thê thảm. Chúa bảo Phêrô là Satan!
Lần mắng thứ ba này xảy ra trên đường về Jêrusalem. Xét theo thời gian, lúc này vào năm thứ ba, khoảng cuối đời rao giảng của Chúa. Như vậy là Phêrô theo Chúa đã được ba năm. Theo ba năm rồi mà chưa thấy khấm khá gì.
Cuộc đời rao giảng Nước Trời của Chúa rất khác quan niệm người đương thời. Chúa không mua đất lập đền thờ. Không tổ chức bầu ban chấp hành trong cộng đoàn tông đồ. Các môn đệ không có huy hiệu. Họ không có áo đồng phục. Không thấy gì là dấu hiệu sắp có vương quốc.
Theo Chúa gần ba năm rồi, ghe thuyền đã bán, đất đai bỏ lại sau lưng. Ai mà không sốt ruột băn khoăn. Các môn đệ đôi khi cũng nghĩ tới giấc mơ ngày Thầy mình lập vương quốc. Nhưng bao giờ? Theo mãi thế này ư? Có đám đông đã bỏ. Băn khoăn trong giấc mơ ấy, các ông hỏi nhau:
- Ai là người lớn nhất trong vương quốc này?
Bằng chứng là Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến xin Chúa một ghế bên tả, một ghế bên hữu (Mc 10:37). Như vậy họ đã để ý đến các chức tước. Họ hy vọng bổng lộc quyền thế. Theo ngôn ngữ hôm nay thì ai chủ tịch? Ai phó chủ tịch?
Có điều ta thấy, họ chỉ nói riêng với nhau. Không ai dám đến hỏi Chúa. Riêng Phêrô, ông nhìn lại đã theo ba năm rồi mà chưa thấy gì. Ông là người duy nhất dám trực tiếp chất vấn Chúa:
- Thưa Thầy, chúng tôi bỏ mọi sự mà theo Thầy thì được cái gì? (Mt 19:27).
Ðức Kitô trả lời:
- Phàm ai bỏ cha mẹ anh em, vì danh Ta thì được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp" (Mt 19:29).
Câu trả lời thật rõ. Thế là Phêrô chắc ăn! Sẽ được gấp bội! Nói cách khác, câu trả lời ấy như lời khuyến khích đừng nản, cứ theo đi!
Vừa trả lời thế được ít bữa, bất ngờ một hôm trên đường chiều, Tin Mừng Máccô tường thuật bằng ngôn ngữ chính xác, lần này Chúa "nói rõ" điều đó. Chúa không dùng dụ ngôn, nhưng nói rõ cho dễ hiểu. Máccô viết: "Rồi Ngài dạy cho các ông biết về Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Ngài nói rõ điều đó không úp mở" (Mc 8:31-32).
Ơ hay! Thầy vừa mới hứa ai theo Thầy sẽ được gấp trăm ngay đời này cơ mà! Sao bây giờ lại có chuyện Thầy bị chết là làm sao? Như vậy chúng tôi mất hết à? Phêrô không thể hiểu. Lần này không thắc mắc, không hỏi Chúa nữa, ông "kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Người" (Mc 8:32).
Máccô tường thuật chính xác trong ngôn ngữ rất ý nghĩa là Phêrô "kéo" Chúa ra và "trách" Chúa! Ta hãy tìm ý nghĩa trong hai động từ "kéo" và "trách" này. Kéo là hành động bắt người khác về phía mình. Trách là hành vi diễn tả người khác sai, mình đúng. Mạnh hơn nữa, động từ trách diễn tả một uy quyền. Ðộng từ kéo diễn tả một thái độ không cho người đối diện tự do chọn lựa. Hai động từ ấy phiên dịch thái độ của Phêrô là ý của ông đúng. Chúa hãy làm theo ý ông.
Trong vai chủ động đó, Phêrô cho rằng suy nghĩ của ông là đúng. Chúa không nên suy nghĩ kiểu đó. Như thế, Phêrô đã đổi hướng con đường Ðức Kitô phải đi sang một hướng khác. Cái ý nghĩa sâu xa của hành động kéo và trách nằm ở chỗ này. Nằm ở chỗ là thay đổi lý tưởng, thay đổi đường đi của Ðức Kitô.
Hành động của Phêrô không phải là lời cám dỗ mà là nhảy vào cuộc một cách tàn bạo. Nó không nhẹ như lúc ma quỷ cám dỗ Chúa trong sa mạc. Lúc đó ma quỷ chỉ cám dỗ chứ không dàm cản ngăn. Phêrô không cám dỗ mà Phêrô cản ngăn. Vì thế, lời mắng của Ðức Kitô là một lời kháng cự rất mạnh: Satan!
Ðọc Phúc Âm đến đây, ta thấy càng ngày Chúa càng mắng Phêrô nặng hơn. Ðến cuối đời còn mắng thêm một lần nữa.
Chuyện xảy ra, lúc các thượng tế, binh lính cùng gậy gộc đến bắt Chúa trong vườn Cây Dầu, Phêrô đã rút gươm. Nhưng Chúa trả lời hành động ấy:
- Hãy xỏ gươm vào vỏ, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay ngươi tưởng Ta không thể cầu cứu với Cha Ta cấp cho Ta ngay mười hai cơ binh thiên thần sao? (Mt 26:52).
Nhìn lại đời Phêrô, Chúa mắng nhiều hơn khen. Dường như chẳng khen lần nào. Có lần Chúa hỏi các môn đệ nghĩ Chúa là ai. Ngày đó Phêrô tuyên tín rất hay: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Nhưng ngay sau đó Chúa nói: "Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời" (Mt 16:16-17). Như vậy là Thần Khí Chúa nói, nếu không do Thần Khí mà để tự mình Phêrô thì không biết ông sẽ nói Chúa là ai!
Cũng có lần ông nói lung tung. Lần Chúa biến hình trên núi Tabor. Thấy quyền uy sáng láng, ông vội nói với Chúa:
- Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Môisê một cái, và ông Êlia một cái.
Ngay sau câu nói ấy, Máccô viết tiếp, cũng bằng một ngôn ngữ chính xác rất ý nghĩa. Ngài tường thuật chi tiết như sau: "Thực ra ông không biết phải nói gì vì ông kinh hoàng" (Mc 9:6). Như thế, chỉ vì kinh hoàng mà nói, chứ chẳng biết mình nói gì! Nước không có, gạo củi cũng không, tự dưng dựng ba cái lều trên đỉnh núi, lấy gì ăn!
Kẻ theo Ðức Kitô bị mắng nhiều hơn khen. Lần nào Chúa cũng mắng Phêrô trước đám đông. Có hai điều đáng lưu tâm về những lời Kinh Thánh tường thuật con người Phêrô qua một đời bị mắng này:
- Thứ nhất, Phêrô kém như thế tại sao Chúa không sa thải?
- Thứ hai, bị mắng nhiều như thế, tại sao Phêrô không giận mà bỏ Ðức Kitô?
LM Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong “Cô Đơn và Sự Tự Do”
------------------------------------------
Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”, câu tuyên xưng này của Phêrô hẳn phải có một tầm: TN 21-A75
“Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”, câu tuyên xưng này của Phêrô hẳn phải có một tầm quang trọng lớn lắm, căn cứ vào phản ứng trang trọng của Đức Giêsu khi tuyên bố: “Này anh Simôn con ông Giona, anh thật có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Ngược lại, chính vì là tín hữu (hơn nữa tu sĩ và linh mục) mà thường khi nhiều người trong chúng ta lại có cảm tưởng là lời tuyên xưng trên cũng tầm thường thôi, chẳng có chi mới lạ; chắc hẳn vì ta đã quá quen thuộc với công thức tuyên tín thuộc lòng này.
Gần đây, khi theo dõi chương trình Frontline series có tựa đề From Jesus to Christ: The First Christians, một chương trình hội thảo 02 ngày (two-day symposium) tại Đại Học Harvard (Hoa Kỳ) qui tụ nhiều học giả thuộc các lãnh vực khảo cổ, lịch sử, nhân văn, thánh kinh, thần học… trao đổi nghiên cứu để tìm hiểu cách hết sức khoa học đề tài: ‘làm sao đế quốc Rôma đã từng đóng đinh tên Giêsu vào thập giá, trong vòng 300 năm sau lại quay ra tiếp nhận Kitô giáo?’ nói cách khác, làm sao một Giêsu Nazareth lại có thể trở thành Giêsu Kitô?, tôi mới nhận ra câu tuyên xưng của Phêrô - một ngư phủ bình dị, quả là một bước nhảy vọt ghê gớm. Phêrô đáng được gọi là Kitô hữu tiên khởi vì là môn đệ đầu tiên đã mạnh dạn tuyên tín: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”
Tên gọi Giêsu (Ya-su/ Gio-su-ah) trong tiếng Aramaic tự nó đã mang một ý nghĩa rất độc đáo: ‘Thiên Chúa cứu vớt’. Tuy nhiên tên này trở thành khá phổ thông giữa các người Do Thái, vì nó hàm ý, căn cứ vào trình thuật của sách Xuất Hành, chỉ dân riêng mới được Đức Chúa giải thoát khỏi mọi ách thống trị. Còn danh xưng ‘đấng Kitô’ (Christos tiếng Hy-lạp/ Mashiah tiếng Do Thái), được hiểu là người được Thiên Chúa ‘sức dầu tấn phong’, thì trong suốt Cựu Ước được dành cho nhân vật đặc biệt nào đó, như vua Saolê, Đavít, các quan án hay tiên tri… mang nơi mình hai chức năng giải thoát và lãnh đạo, kể từ khi được sức dầu. Càng về sau, danh xưng này càng giới hạn dần vào một lãnh tụ tối cao được Đức Chúa hứa gởi đến trong ngày sau hết để vĩnh viễn giải thoát dân khỏi mọi ách thống trị.
Tới thời Đức Giêsu, vì danh xưng này đã bị nhiễm nặng mầu sắc xã hội chính trị nên chính Người đã chủ động né tránh cách tế nhị (xem Mt 16, 20; Lc 22, 67); điều này càng rõ ràng hơn trong Phúc Âm Máccô (Cf. Théo 610a). Chính trong bối cảnh này mà câu tuyên xưng của Phêrô trong Phúc Âm Mátthêu được coi là rất đặc biệt, đặc biệt tới độ nhiều tác giả cho là nó được thêm vào chỉ sau này khi các tín hữu nhìn lại cả quãng thời gian hơn ba thế kỷ lịch sử đã qua. Cho dầu thế nào đi nữa thì đối với các tín hữu gốc Do Thái, đây chắc hẳn phải là lời tuyên xưng căn bản nhất: Giêsu chính là Đấng được Thiên Chúa sức dầu tấn phong (Kitô) hằng được mong đợi, là Đấng giải thoát tối hậu và trọn vẹn, không những dân riêng mà toàn thể nhân loại. Chúng ta biết rằng cho tới ngày nay Do Thái giáo và Hồi giáo, cho dầu chia sẻ với Kitô giáo rất nhiều điều trong niềm tin nhưng vẫn nhất mực từ chối chấp nhận điều căn bản này.
Chắc hẳn Phêrô và các môn đệ khác đều hiểu rõ, đối với các ngài nói riêng và đối với toàn dân Do Thái nói chung, Giêsu chính là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng giải thoát tối hậu và vĩnh viễn. Trong một khoảng khắc siêu đẳng của niềm tin, vì “không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, đấng ngự trên trời”, Phêrô đã đạt được điều mà, dưới khía cạnh nghiên cứu, các học giả cho thấy phải mất gần ba thế kỷ xã hội La mã mới đạt được.
Và toàn bộ sứ mệnh của Hội Thánh được đặt trên lời tuyên tín này của Phêrô, căn cứ vào khảng định của chính Đức Giêsu. Ai nhận Giêsu là Kitô - đấng giải thoát cứu độ tối hậu và duy nhất - sẽ có chìa khóa để được giải thoát và cứu độ, còn ai không tin nhận cũng có nghĩa là không có chìa khóa mở, và do đó sẽ vĩnh viễn bị cầm buộc: “Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời…” Trước đây, trong câu chuyện trao đổi với Nicôđêmô về việc sinh lại, Đức Giêsu cũng đã từng khảng định cùng một nội dung đó rồi, “Ai tin vào con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi” (xem Ga 3, 18).
Qua mọi thế hệ, Hội thánh được xây dựng trên nền đá tảng Phêrô sẽ không ngừng tuyên xưng Giêsu là đấng Kitô duy nhất và tối hậu; đồng thời các phần tử của Hội Thánh - mọi Kitô hữu, nhờ tác động của Thần Khí và trong đức tin đối thần chân chính, cũng phải tự mình và trong sâu thẳm nhất của cõi lòng mình, mở miệng tuyên xưng: Giêsu chính là Đấng cứu độ duy nhất của tôi, và là Đấng tối hậu giải thoát tôi khỏi mọi tội lỗi.
Mỗi người chúng ta củng cần tự vấn: riêng tôi, tôi đã làm điều đó cách thâm tín tới đâu rồi? Hãy nhớ rằng chìa khóa mở Nước Trời cho tôi, và cho mọi tín hữu mà tôi có bổn phận dẫn dắt, hệ tại duy nhất ở điều này, nếu không thì cũng chính chìa khóa đó sẽ vĩnh viễn đóng chặt cửa cứu rỗi ngay trước mặt tôi đấy!
Lạy Chúa, xin cho con hiểu hết ý nghĩa danh xưng Kitô hữu con được hạnh phúc mang nơi mình. Thường khi con vẫn hay hời hợt coi đây chỉ là một công thức đức tin, một danh xưng trống rỗng. Từ nay xin cho con, trong mọi hoàn cảnh sống, biết cùng Phêrô tuyên xưng ‘Thầy quả là đấng K-tô, Con Thiên Chúa hằng sống’. Và con mong rằng không chỉ khi sống nhưng nhất là trong giờ chết, con vẫn có thể tiếp tục tuyên xưng như thế, để có được chìa khóa mở tung ra cho con cánh cửa Nước Trời. Amen
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB
------------------------------------------
Thảm họa ngày nay chính là sự sụp đổ của hôn nhân gia đình. Tỷ lệ các gia đình sụp đỗ mỗi ngày: TN 21-A76
Thảm họa ngày nay chính là sự sụp đổ của hôn nhân gia đình. Tỷ lệ các gia đình sụp đỗ mỗi ngày một cao. Cuộc sống gia đình luôn bấp bênh, khó bền vững. Vợ chồng ít hy sinh cho nhau và chỉ tìm cách bảo vệ hạnh phúc cho riêng mình mà bỏ quên người bạn trăm năm.
Vào tháng 11 năm 1994, một câu chuyện làm rung động cả Nước Mỹ đó là chuyện cô Susan Smith, một bà mẹ trẻ sống ở thành phố Union, tiểu bang South Carolina, đã giết hai đứa con nhỏ để không mất tình nhân. Trước một thảm cảnh gia đình quá đau thương như thế, nhiều người chỉ biết lắc đầu hỏi: Tại sao một người mẹ có thể giết chết con của mình một cách tàn nhẫn như thế!
Nhìn lại cuộc đời của cô Susan Smith, người ta thấy rằng cô đã bước vào hôn nhân một cách vội vàng, khi chính cô cũng như người chồng trẻ đều chưa sẵn sàng. Hôn nhân của hai người không được xây dựng trên một nền tảng vững chắc nên đã sụp đổ mau chóng. Không những thế, khi ngã vào tình yêu lần thứ hai, cô Susan Smith cũng không biết rõ những yếu tố cần thiết để xây dựng một hôn nhân vững bền nên cô đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì cô nghĩ là cần phải làm để nắm giữ tình yêu đó. Kết quả là, khi thấy người yêu tỏ vẻ không thích trẻ con, cô Susan Smith đã giả vờ bị tai nạn để hai đứa con nhỏ chết chìm dưới sông.
Vâng, sự sụp đổ nơi các gia đình chính là họ kết hôn nhưng không dựa trên nền tảng tình yêu. Tình yêu của họ thật hời hợt với nhau. Tình yêu của họ thiếu chân thành với nhau, có khi còn lừa dối làm hại nhau. Một cuộc hôn nhân thiếu nền tảng tình yêu sẽ chẳng bao giờ bền vững. Gặp chăng hay chớ. Vui thì ở, buồn thì đi!
Bên cạnh sự sụp đổ về gia đình còn có biết bao sự sụp đổ bởi xây dựng thiếu nền móng vững chắc là tình yêu, là tính chân thật. Không có tình yêu thì ở bất cứ ngành nghề nào hay lãnh vực nào cũng chỉ là phá hoại. Không có tính chân thật thì chỉ có gian dối lọc lừa để làm lời cho bản thân. Điều này chúng ta thấy rất rõ trong nhiều ngành nghề như dạy học chỉ vì tiền. Làm bác sĩ chỉ vì lợi nhuận mà bất chấp tính mạng của bệnh nhân. Làm quan chức thì vun quén làm giầu cho mình và đương nhiên làm nghèo cho đất nước . . .
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy xây dựng nền móng cho cuộc đời dựa trên Lời Chúa và giáo lý của Ngài. Lời Chúa là ngọn đèn dẫn dắt chúng ta đi trong chân thiện mỹ. Lời Chúa luôn xây dựng đời chúng ta trong tình yêu là giới răn cao cả mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thực thi. Khi con người được xây dựng trên tình yêu với Chúa và tha nhân sẽ giúp con người biết sống cho Chúa và tha nhân trong tinh thần khiêm tốn phục vụ. Khiêm tốn để tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Phục vụ để cho danh Chúa được cả sáng qua đời sống yêu thương của chúng ta.
Có thể nói nếu con người biết nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể muôn loài thì con người sẽ quy phục Thiên Chúa, và nhờ tin vào Chúa họ sẽ sống yêu thương tha nhân hơn. Chính nhờ tin vào Thiên Chúa mà con người sẽ sống dưới cái nhìn của Chúa và bước đi trong sự dẫn dắt của Ngài.
Nhưng đáng tiếc cho con người ngày nay thường quay lưng lại với Thiên Chúa. Khước từ Chúa con người cũng khước từ nhau. Con người sống trong bản năng vì tin vào ma quỷ hơn là tin vào Thiên Chúa. Ma quỷ luôn bảo với chúng ta không có Thiên Chúa, không có đời sau để lôi kéo chúng ta sống một cuộc sống buông thả theo tính xác thịt. Ma quỷ luôn bảo chúng ta xây dựng đời mình một cách hợi hợt, nông cạn, sống theo bản năng hơn là theo ý chí và lý trí. Chính đời sống thiếu chiều sâu đã làm cho con người dễ lao vào hưởng thụ hay dễ thất vọng chán nản nếu gặp thất bại.
Nếu cuộc sống chúng ta được xây dựng dựa trên Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Sự tự do tự tại không bị tính xác thịt thống trị. Sự tự do để chúng ta không bị những đam mê lôi cuốn vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền mà xa rời Thiên Chúa.
Ước gì chúng ta đừng bao giờ lười biếng để rồi xây dựng đời mình một cách cẩu thả, hời hợt và thiếu đầu tư cho những giá trị Nước Trời là tình thương, là công lý và hòa bình. Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình dựa trên lời Chúa để thánh hóa bản thân và biến đổi thế gian. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
------------------------------------------
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta: TN 21-A77
“Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai ?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ." Thế là cho đến lúc đó, chưa có ai trong dân Do-Thái nhận biết thiên tính của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?"
Simon Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Một câu đáp gây kinh ngạc! Simon Phêrô đã thấu được căn tính của Chúa Giêsu!
Cho đến lúc đó, chỉ có Simon Phêrô là người duy nhất được đặc ân nầy. Vì thế, Chúa Giêsu ca ngợi và chúc mừng: "Này anh Simon con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Cũng như thánh Phêrô, chúng ta được diễm phúc nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Hôm nay, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta hồng phúc không thua kém gì Phêrô xưa. Trong số 90 triệu người Việt Nam, có chừng sáu triệu người công giáo, chiếm 7% dân số. Như thế, cứ một trăm người Việt mới có được bảy người công giáo. Chúng ta may mắn được liệt vào con số ít ỏi nhưng đầy diễm phúc nầy.
Điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Êlia, Isaia, Môsê… và ngay cả các nhà hiền triết, các khoa học gia tên tuổi… chưa từng được nghe, chưa từng biết, thì Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta từ lúc mới có trí khôn. Chính Chúa Giêsu cũng nhìn nhận đó là đại phúc: "Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.” (Mt 13, 16-17)
Sở dĩ đây là đại hồng phúc vì hiểu biết Thiên Chúa là chìa khoá đưa đến ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời. Hồng ân Chúa Cha ban cho chúng ta lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giêsu đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25)
Cũng như thánh Phêrô xưa, chúng ta được chọn làm “viên đá” xây dựng Hội Thánh.
Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Simon Phêrô còn được phúc thứ hai là được Chúa chọn làm Đá tảng xây Hội Thánh Chúa: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Từ ngày được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa cũng ưu ái trao ban hồng phúc đó cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng được liên kết với Chúa Giêsu là “viên đá đỉnh góc” (Mt 21,42), là “viên đá sống động” (I Pr 2,5) để cùng nhau xây lên Đền thờ Thiên Chúa, như lời thánh Phêrô: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5)
Noi gương thánh Phêrô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia.
Phêrô là Đá Tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội Thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ chúng ta. Thế là trong cương vị người cha người mẹ, người anh chị em trong gia đình, chúng ta trở thành những Phêrô khác, những “viên đá” khác trong hội thánh tại gia. Hội Thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phêrô thì hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội Thánh, Phêrô không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Được chọn làm đá tảng như Phêrô, chúng ta hãy tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng ta trở nên một đại gia đình chuyên chăm phục vụ và chan hòa tình yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban ơn giúp sức cho thánh Phêrô làm tròn vai trò của người trong cương vị Đá tảng Hội Thánh thì xin Chúa cũng nâng đỡ và giúp sức để chúng con chu toàn vai trò của mình trong cương vị đá tảng của hội thánh tại gia.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
------------------------------------------
Người Chăm xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống, trong đó: TN 21-A78
Người Chăm xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống, trong đó có chứa một ít cát khoảng 10%, nhúng nước rồi xát và ép chặt vào nhau để kết dính, tạo nên một lớp vữa “giả tạo”. Thành ra cách xây này không vữa mà như là có vữa, rồi nung toàn khối.
--------------------------------------
Phần đỉnh tháp luôn luôn được xây nhỏ hơn phần đế và thân tháp để trọng tâm khó đổ ra ngoài. Vì vậy người Chăm xưa phải xây tường tháp rất dày từ 1m đến gần 2m. Cùng với việc xây từng đoạn xong để trong một ít thời gian cho gạch se cứng lại thì những yếu tố này góp phần làm giảm tải trọng bản thân của tháp lên các viên gạch. Xây tháp tới đâu thì đổ đầy đất ở trong lẫn ngoài lên tới đó, ngang với mặt tường đang xây, ém đất thật chặt để giữ tháp cho vững đồng thời để người thợ làm việc dễ dàng trong lúc xây và chạm khắc. (Hồ Thế Vinh, TC KT VN)
Tin Mừng Thánh Matthêu Chúa nhật hôm nay thuật lại Đức Giêsu gọi ông Simon là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Người sẽ xây Hội Thánh của Người, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Tảng đá rất hữu dụng trong xây dựng, vì cứng, bền đẹp và phổ thông.
Tảng Đá nền móng
Với tính năng chịu lực nén cao, bền bỉ, vững chãi và hoa văn đẹp, đá tảng hữu dụng trong xây dựng từ ngàn xưa đến nay. Có lẽ vì thế, mà theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ, thâu nhận ông Simon làm môn đệ chân truyền, Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá. Trên Tảng Đá này, Người sẽ xây Hội Thánh bền vững mãi. Hẳn ai cũng cho là điên rồ, dại dột, khi thấy Người quyết định trao sứ vụ quan trọng và nặng nề lên đôi vai ông ngư phủ vai u thịt bắp, xoàng xĩnh và yếu đuối tinh thần.
Với con mắt thế gian, với sự khôn ngoan, sáng suốt của phàm nhân thì chẳng ai có thể hiểu nối Thánh Ý Chúa, luôn trái nghịch với đời: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh.” (1 Cr 1, 27)
Tảng Đá Phêrô dù đã được Đức Giêsu chọn làm thủ lãnh các môn đệ cũng đầy khiếm khuyết, như yếu nhân đức tin, suýt chết đuối khi đi trên mặt nước, như khuyên Chúa tránh cuộc tử nạn tàn khốc: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 17, 22), như bạo lực chém đứt tai thủ hạ của quân dữ, như chối Chúa đến ba lần trước khi gà gáy.
Nhưng Tảng Đá Phêrô đã trung kiên lại ngay sau khi cái nhìn trìu mến thương yêu tha thứ của Đức Giêsu đang chịu nạn. Phêrô đã khóc lóc thảm thiết, sám hối, ăn năn tội bất nghĩa, bất tín, bất trung.
Sau lễ Ngũ Tuần, tràn đầy ân sủng Đức Chúa Thánh Thần, Tảng Đá Phêrô đã can đảm công khai loan báo Tin Mừng, đã gặt hái được kết quả đầu mùa, khoảng ba ngàn người theo đạo. Đến nay, dù trải qua bao cơn sóng gió, mưa bão vùi dập suốt hơn hai nghìn năm, Hội Thánh Chúa vẫn vững bền, tồn tại và phát triển trên Tảng Đá Phêrô và quý Đức Giám Mục Roma kế vị.
Tảng Đá sống động
Các tảng đá xây dựng cũng phải được đẽo gọt sao cho phẳng phiu, ăn khớp với nhau. Chính sự cọ xát viên gạch và đẽo gọt tảng đá mới có thể kiến thiết, xây dựng hoàn chỉnh bức tường, dựng nên tòa tháp, ngôi thánh đường, đền thờ.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình” (Mt 16,24). Tảng Đá Phêrô đã chịu cọ xát, đẽo gọt, ăn năn, sám hối, thanh tẩy, thánh hóa, từ bỏ ý riêng, quyết sống tích cực theo Đức Tin đã được tuyên xưng hùng hồn: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa." (Ga, 6, 70)
Với Đức Mến, Tảng Đá sống động Phêrô phó thác cuộc đời trong tay Chúa, để trở nên Đền Thờ tôn kính Thiên Chúa: "Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Ðền thờ thiêng liêng." (1 Pr 2,5)
Với Đức Cậy, Tảng Đá Phêrô luôn trông cậy vào Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa yêu thương và tha thứ: ”Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19)
Vậy trở nên Tảng Đá sống động là nghe, hiểu và thực hành Lời Chúa, tức là kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn với Tảng Đá Góc Tường, là Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa lựa chọn và coi là quý giá, ( 1Pr 2, 4) để xây dựng Đền Thờ cá nhân thánh thiện, cũng như Giáo Hội viên mãn. Bởi vì “Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. (Mt 7, 24-25)
Đừng ngạc nhiên khi người ta phá Hội Thánh, vì đó là nhiệm thể Chúa Kitô; họ tiếp tục giết Chúa Kitô; không giết được Chúa Kitô được nữa, người ta phá Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, số 251)
Lạy Chúa Giêsu, xin biến cải chúng con trở nên những tảng đá sống động, biết lắng nghe, tìm hiểu Lời Chúa và đem ứng dụng trong cuộc đời, để chúng con chung sức gìn giữ, phát huy, xây dựng Hội Thánh từ ngay tâm hồn, đến gia đình và xã hội.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết ăn năn, hoán cải, sám hối những tội lỗi vấp phạm, đã làm sứt mẻ Tảng Đá sống động, để luôn tha thiết gắn bó kiến thiết Đền Thờ Thiên Chúa. Amen.
AM Trần Bình An
------------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Không một quyền bính nào được thiết lập mà không bởi Thiên Chúa. Quyền bính đích thực không: TN 21-A79
Không một quyền bính nào được thiết lập mà không bởi Thiên Chúa. Quyền bính đích thực không phải là để cai trị nhưng là để phục vụ.
Trong bài đọc một được trích từ sách tiên tri Isaia, ta thấy được rằng Thiên Chúa Giavê đã kết án Shebna, một tướng lãnh hùng mạnh và giàu có, người đang cố công xây dựng những thành quách và mộ phần thượng cấp cho mình. Chúa phán sẽ truất phế hắn và hất hắn ra khỏi cương vị của hắn. Thay vào đó, Chúa sẽ đặt Êliakin, con của Hikias vào vị trí đó và sẽ củng cố quyền bính cho ông.
Tin Mừng hôm nay làm nổi bậc lên hình ảnh của Phêrô, người mà Đức Giêsu chọn làm Đá Tảng để xây dựng Hội thánh của Ngài trên đó. Vinh dự đó có phải là vì Phêrô là người xứng đáng hơn những tông đồ khác không, có phải vì Phêrô tài giỏi và đạo đức hơn các người khác không? Chắc chắn, nếu nhìn theo kiểu thế gian thì không phải thế, nhưng Chúa hành động theo cách của Chúa, theo đường lối của Chúa. Chúng ta tin chắc rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn chúng ta. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều đó nên ngài đã viết trong thư gởi tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc 2 rằng: "Sự giàu có, khôn ngoan và thông hiểu của Thiên Chúa sâu thẳm là dường nào! Ai biết được tư tưởng của Chúa… vì mọI sự đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng về Người. Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm hồn mỗi người chứ không nhìn xem vẻ bên ngoài theo cách thế của con người nên Chúa Giêsu đã chọn Phêrô làm đầu Hội thánh ở trần gian để tiếp tục sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Ngài. Phêrô không phải là người thay thế Đức Giêsu nhưng là tôi tớ của Ngài, được Ngài cắt đặt lên để làm công việc được trao phó là chăn dắt đoàn chiên của Chúa.
Cuộc đời của Phêrô được đan kết bởi một chuỗi những tranh sáng và tranh tối. Có những lúc Phêrô tỏ ra can đảm lạ lùng; nhưng cũng có lúc Phêrô yếu nhược vô cùng. Chúng ta hãy nhớ lại xem, chính Phêrô đã nói rõ ràng rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" và ông cũng đã lớn tiếng thề thốt rằng: "con sẽ liều mạng sống vì Thầy", nhưng rồi sau đó, chắc cũng không lâu lắm, chính ông đã thề độc là " tôi không biết con người đó". Có phải chăng là đã có 2 Phêrô: một Phêrô thật và một Phêrô giả chăng? Không phải thế. Vẫn là một con người Phêrô ấy, chỉ có một Phêrô đã nói lên những điều rất trái ngược ấy. Điều đó muốn nói gì với chúng ta? Thưa có sự phân chia trong con người của Phêrô cũng như trong con người của mỗi chúng ta. Điều mà thánh Phaolô đã cảm nghiệm rõ ràng: " Điều tốt tôi muốn làm thì tôi lại không làm, còn điều xấu tôi không muốn làm thì tôi lại làm". Hay cũng như thánh Phaolô đã nói là trong ta có con ngườI sống xác thịt và con người sống theo Thần khí. Do đó, Phêrô có những lúc nhiệt tâm và can đảm thật sự, nhưng cũng có lúc ông nhát đảm và yếu đuối. Và bản thân mỗi người chúng ta cũng thế. Có những lúc chúng ta sốt sắng nên thề hứa với Chúa đủ điều. Không phải là thề hứa giả dối nhưng là thề hứa thật; rồi có những lúc cảm thấy chán nản, thất vọng và muốn buông xuôi tất cả. Không phải chỉ có chúng ta mà thôi nhưng biết bao vị thánh lừng danh cũng ở trong tình trạng đó, tình trạng mà các ngài gọi là " đêm tối đức tin". Những giây phút yếu nhược không quan trọng, không có gì đáng sợ, nhưng điều quan trọng là ta không được phép để cho những khoảnh khắc ấy đè bẹp chúng ta. Hãy nhớ đến Chúa đang ở bên ta. Chúa đang mỉm cười với ta lúc ta cao hứng nhưng Ngài sẽ đỡ nâng và thêm sức cho ta khi ta yếu nhược: "Ơn Ta đủ cho con”.
Việc ý thức mình có những lúc mạnh và có những lúc yếu như thế giúp ta có một cuộc sống quân bình và biết cảm thông, tha thứ đối với người khác. Thông thường, chúng ta thấy dễ dàng phê bình người khác nhưng lại khó chấp nhận những khiếm khuyết của mình; hay ta thấy phấn khởi khi được khen tặng nhưng khó mở lời để khích lệ ai, và điều này đã làm cản trở biết bao những cơ hội tốt trong cuộc đời này.
Phêrô đã phạm nhiều sai lỗi. Điều đó là rõ ràng, ai cũng nhìn thấy được. Những Phêrô cũng có rầt nhiều điểm mạnh như lòng quãng đại, sự nhiệt tâm, tinh thần lãnh đạo…và Chúa Giêsu đã nhận ra những điều đó nơi ông và Ngài đã tin tưởng và tín nhiệm Phêrô.
Cầu nguyện: Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta tập và cố gắng nhìn thấy và khám phá ra những điều tốt nơi ngườI khác để luôn biết nói tốt, nghĩ tốt và làm tốt cho họ. Và chính khi làm những điều ấy thì không những bản thân những người ấy được vui tươi hạnh phúc mà bản thân mình cũng được hưởng. Nhờ những thành quả tốt đẹp ấy. Đó là những viên ngọc mà chúng ta đã tìm thấy được nơi những hòn đá cứng cỏi.
------------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Chúa Giêsu vì yêu chúng ta đã giáng thế trong thân phận con người. Ngôi Hai đã tự nguyện trở nên: TN 21-A80
Chúa Giêsu vì yêu chúng ta đã giáng thế trong thân phận con người. Ngôi Hai đã tự nguyện trở nên một phàm nhân, chịu giới hạn như người trần thế, Ngài đã chịu đón lấy những cách đối xử bất công của loài người…Đó là điều thiệt thòi cho Chúa. Ngôi Hai Thiên Chúa chấp nhận những thiệt thòi chỉ vì muốn cho loài người được hạnh phúc, cho tôi được nhận biết Ngài mà được cứu độ.
Nếu ai hỏi tôi về Đức Giêsu, tôi bảo Ngài là Chúa của tôi, tôi tin vào Ngài. Thế nhưng, tôi cứ vấp phạm hoài giới răn của Ngài, chưa thực hành lời Ngài dạy cho đúng mức. Từ đó, tôi biết mình hay nói suông mà chưa biết yêu mến Chúa! Chúa phải nhiều lần nhắc nhở tôi qua những bài giảng giải Kinh thánh, qua những người xung quanh... Ngài hỏi tôi: con đặt Ta ở vị trí nào trong lòng con? Đối với con, Ta là ai ?
Sau một thời gian giáo hoá các môn đệ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ xác định lập trường của mình về Thầy Giêsu, về cách nhìn, sự hiểu biết và sự tiến bộ của họ. Ngài hỏi các Tông đồ: người ta bảo Con Người là ai? Dư luận bên ngoài thì rất mơ hồ, họ chỉ biết Chúa Giêsu là tiên tri, chưa biết chương trình của Thiên Chúa nơi Ngài. Chính Phêrô đã thay mặt các Tông đồ nói lên quan điểm và sự hiểu biết của mình: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Phêrô dường như hiểu được sứ mạng của Thầy mình. Vì thế, Chúa Giêsu khen Phêrô có phúc đã được Chúa Cha thương soi sáng cho ông. Chính trên niềm tin và lập trường đúng đắn, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm tảng đá xây dựng Hội thánh và quyền lực Ác Thần sẽ không thắng được. Sau này, Chúa Giêsu còn trao cho Phêrô quyền thay mặt Chúa để tháo hay buộc ở trần gian.
Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng niềm tin và được giao cho một nhiệm vụ quan trọng: lãnh đạo Giáo hội, những người đồng tuyên xưng cũng được Chúa sai đi làm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Còn đối với tôi, Đức Giêsu là ai, tôi có tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa của tôi, là Đấng yêu thương tôi không? Đức Giêsu là sức sống và hy vọng của tôi, không có Ngài tôi không có hy vọng, tôi không có khả năng làm việc gì. Ai sẽ cứu chuộc tôi và cho tôi làm con Chúa nếu Đức Giêsu Kitô không đến cứu chuộc tôi. Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy phó thác vào tình yêu và sức mạnh của Ngài.
Khi tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, tôi phải cố hết sức giữ điều răn Chúa, thực hành lời Người dạy, biết kính mến Chúa hết lòng qua việc giữ ngày Chúa Nhựt, đọc kinh cầu nguyện, dâng mọi việc làm trong ngày cho Chúa với lòng tin tưởng và phó thác. Hiện nay, tôi có yêu thương anh em, sống bổn phận bác ái, tương trợ, loan truyền Tin Mừng mà tôi đã nhận lãnh cho mọi người chưa! Chúa Giêsu nói: lòng tràn thì miệng mới nói ra. Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi sẽ biểu hiện lòng kính mến của tôi ra bên ngoài, nhưng rõ ràng là hiện giờ tôi chưa hăng hái, chưa nhiệt tình với việc truyền giáo. Nếu tôi có lòng biết ơn Chúa, tin tưởng nơi Chúa thì lòng tôi hân hoan vui sướng khi nói về Chúa, loan báo niềm vui Chúa Phục Sinh cho mọi người cùng hưởng.
Nhiều lúc tôi tưởng mình có đức tin mạnh, nhưng
không ngờ sau một biến cố khó khăn, tôi biểu lộ sự kém đức tin của mình, tôi trở nên yếu đuối, nghi ngờ vào tình yêu của Chúa đối với tôi. Tôi cho rằng nếu Chúa thương và quan phòng thì phải để tôi luôn được sung sướng. Tôi đi lễ thường xuyên, không làm phiền ai, không ngỗ nghịch với Chúa… nhưng tôi thiếu lòng tin tưởng vào bàn tay dẫn dắt tài tình của Chúa, đúng ra là tôi muốn sống nhàn hạ theo ý mình chứ không phải tôi muốn theo ý Chúa. Hơn nữa, tôi muốn Chúa phải theo ý tôi, nên khi Chúa để xảy ra những khó khăn là tôi cảm thấy khó ở… qua những biến cố cuộc đời, tôi cảm thấy mình còn kém đức tin, yếu đuối, cần phải cầu xin Chúa thiết tha hơn, quyết tâm yêu Chúa mạnh mẽ hơn, bám chặt vào Chúa hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết nhận ra và chấp nhận ý Chúa. Tôi cần trưởng thành hơn trong đời sống thiêng liêng, trong sự liên kết thâm sâu với Chúa và bác ái với anh em.
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương chúng con mà Chúa đã phải chịu bao nhiêu sự đối xử bất công của nhân loại và sự tệ bạc của một số người trong chúng con nữa! Xin Chúa thứ tha những sai lỗi của chúng con và ban cho chúng con niềm tin mến Chúa. Mỗi người chúng con sẽ tuyên xưng danh Chúa mạnh mẽ trước mặt thế gian như thánh Phêrô hôm nay để mọi người nhìn vào chúng con đều cảm mến Chúa và được ơn cứu độ.
------------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Đức Giêsu không chỉ là một tôn sư khởi xướng một trào lưu tâm linh; Người không phải một ngôn: TN 21-A81
Đức Giêsu không chỉ là một tôn sư khởi xướng một trào lưu tâm linh; Người không phải một ngôn sứ được sai đến để cảnh tỉnh hoặc kêu gọi người ta trưởng thành với giao ước. Sự nhận biết Đức Giêsu vượt quá điều đó. Với những kẻ Chúa gọi và đã đi theo Người, Chúa đặt câu hỏi: Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai? Trong cuộc sống, hàng ngày Người vẫn đang hỏi chúng ta câu đó. Người muốn chúng ta phải mạnh dan tuyên xưng về Người. Có rất nhiều người trong chung ta đã nói đúng về Người nhưng hành động của chúng ta lại khác với lời tuyên xưng đó nên nững gì chúng ta nói chính là lời sáo ngữ. Chắc chắn những lời tuyên xưng bằng môi mép như thế Đức Giêsu không muốn chút nào, Ngài muốn lời đó phải được phát xuất từ con tim và hành động.
Xã hội ngày một tiến bộ hơn, con người càng muốn khám phá những điều bí ẩn hơn. Như ta đã thấy đó, trong bài Tin Mừng hôm nay dân chúngï dùng rất nhiều khái niệm để nói về Đức Giêsu, nh7ng không có khái niệm nào có thể nói đúng Ngài là ai. Vì muốn định nghĩa đúng, thì phải có ơn Chúa ban cho “Không ai có thể biết Chúa Con chỉ trừ Chúa Cha” (11,27). Bởi vậy Đức Giêsu nói cho Phêrô biết do đâu ông có sức lực nhận biết và tuyên xưng đức tin của ông: “Simon con Giona, phúc cho con, vì không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con điều đó, nhưng là chính Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Nhờ ơn Chúa mà lời tuyên xưng của ông đã trở thành tiêu chuẩn cho các môn đệ Chúa qua mọi thời đại. Nhưng lời tuyên xưng đó đã không tránh cho ông chối Chúa 3 lần. Ông vẫn còn là con người phàm tục - còn mang tính người với những ưu và khuyết điểm của con người. Tuy nhiên ông được chọn để đáp câu hỏi của Đức Giêsu . Nhờ ông mà người tín hữu có thể vượt xa ngoài tầm vóc những lời người ta dư luận. Đức tin của ông nâng đỡ đức tin của chúng ta.
Nhờ lời tuyên Phêrô đã đươc nên viên đá tảng, trên đó Đức Giêsu xây “Hội Thánh của Người” bởi vì Hội Thánh đó là cộng đoàn những kẻ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ông nhận được tên mới: Kêpha, Đá - Quyền lực của tử thần (dịch theo chữ: quyền lực hoả ngục), nghĩa là mọi thế lực nhằm chống lại sự thiết lập vương quốc, không có sức phá đổ Hội Thánh đó. Mà ngược lại, Đức Giêsu sẽ ban cho Hội Thánh của Người quyền và thế mà Ngài thi hành ở trong tay Người. Thiên Chúa công nhận Hội Thánh của Con của Người chính thức là dụng cụ đặc trưng để điều hành vương quốc của Người giữa loài người. Những phán quyết và nghị định của Hội Lời tuyên bố với Phêrô xem ra diễn tả cách Hội Thánh sơ khai hiểu về chính mình: Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Simon Phêrô đã là phát ngôn viên của lời tuyên xưng. Lời tuyên bố cũng có liên hệ với việc đổi tên Simon ra Kêpha: Đá. Trong tiếng Aramê, Đá không phải là một tên riêng. Tên mới này chỉ tính cách vững bền của đá tảng mà người ta có thể xây an tâm trên đó... Phêrô là đá tảng mà Đức Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người. Do đó Người sẽ trao ông địa vị ưu tiên trên nhóm Mười Hai. Ông được Hội Thánh nhìn nhận dưới cái tên mới và coi như quên hẳn cái tên cũ kia”.
Nếu không có nền tảng thì vững chắc thì khi gặp mưa to gió lớn chắc chắn con thuyền Giáo Hội sẽ xụp đổ, nhưng những nền tảng đó có được là do chính Chúa đã lựa và chọn. Vì vậy, hành động tích cực của mỗi người là phải biết cộng tác với ơn Chúa, giúp đỡ cha sở họ đạo cộng tác cùng nhau xây dựng một họ đạo là những con thuyền nhỏ mà cha sở chính là nền tảng.
Lạy Chúa, xin cho con can đảm tuyên xưng về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen
------------------------------------------1
Mt 16, 13 – 20
Người ta thường nói: “Chín người mười ý”. Do đó, đứng trước bất kỳ một con người nào, người: TN 21-A82
Người ta thường nói: “Chín người mười ý”. Do đó, đứng trước bất kỳ một con người nào, người ta sẽ có nhiều cái nhìn khác nhau. Có những cái nhìn khách quan bên cạnh những cái nhìn chủ quan, có những cái nhìn đóng góp, xây dựng song song với những cái nhìn xoi mói, có những cái nhìn thán phục và cũng có những cái nhìn ganh ghét…Cho nên, rất khó để ta có thể có cái nhìn đúng về một người nào đó. Vậy đối với Thầy Giêsu làm thế nào ta có cái nhìn đúng đắn về Người.
Ngày nọ, Thầy Giêsu muốn biết người ta nhìn về mình như thế nào nên hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”. Họ đáp: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ." Đó là những cái nhìn của những người bên ngoài. Giờ đây, Thầy Giêsu cũng muốn biết chính những người thân tín của mình:“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Dầu vậy, cho đến bấy giờ các môn đệ cũng chưa thể hiểu hết về Thầy mình đâu. Nhờ những lời Thầy tự mạc khải về mình và nhất là sau biến cố Phục sinh các ông mới thấu hiểu “Thầy là Đấng Kitô” nghĩa là gì.
Chúng ta còn nhớ khi Thầy Giêsu vào hội đường Nagiaret, Người đã đọc đoạn Kinh thánh của Tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18 – 19). Đọc xong đoạn Kinh Thánh ấy, Người đã không ngần ngại nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4, 21). Nghĩa là những gì họ vừa nghe đọc sẽ được chính Người thực hiện. Bởi vì, Thầy Giêsu chính là Đấng Kitô tôi tớ. Sứ mạng của Người nhận từ nơi Chúa Cha là: “phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10, 45b).
Tất cả chỉ vì thương con người nên Thầy Giêsu đón nhận sứ mạng Kitô tôi tớ. Chúng ta có cảm nghiệm được tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho mình qua Thầy Chí Thánh Giêsu chưa. Hay là chúng ta còn mong một Đấng Kitô nào khác. Hãy xin Thầy Giêsu cho ta có được cái nhìn đúng đắn về Người. Để rồi cách sống đạo của mình sẽ thay đổi cho thích hợp.
------------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1857), làm quan dưới thời vua Tự Đức, chức Thái Bộc, hàng tam: TN 21-A83
Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1857), làm quan dưới thời vua Tự Đức, chức Thái Bộc, hàng tam phẩm, lo việc dệt vải lụa cho cả nước. Ông là quan thanh liêm, rất có uy tín. Năm 1856, quân Pháp đánh phá cảng Đà Nẵng, ông bị bắt, bị kết án tử hình. Ông bị điệu qua các đường phố Huế trong ba ngày. Lính vừa đánh đập vừa rao lên: "Hồ Đình Hy, tên tả đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình, vì thế sẽ bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? Tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"
Thời Pháp thuộc, đạo công giáo bị coi là tả đạo, nghĩa là không phải đạo thật. Ngày nay người cộng sản và cả người không tin, họ coi đạo công giáo là thứ thuốc phiện, ru ngủ dân chúng, một thứ không cần thiết, lại còn có hại cho dân chúng nữa. Dĩ nhiên, Chúa Kitô cũng bị coi là hạng không ra gì, là hạng lường gạt dân chúng. Vậy mà các thánh tử đạo lại tuyên xưng. Qua bài Tin mừng, Phêrô còn tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Ta phải hiểu làm sao? Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Chúng ta thử tìm hiểu vài câu chính yếu:
Người đương thời nói sao về Chú a? – Các môn đệ thưa: là tiên tri Êlia, Giêrêmia, hay một tiên tri nào đó. Mọi người xung quanh thực ra không biết về Chúa. Họ nghĩ Chúa bất quá là một tiên tri có tầm cỡ như Êlia, Giêrêmia…vì Chúa làm nhiều phép lạ. Họ không nghĩ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, hay ngang hàng với Thiên Chúa. Rào cản là l0 điều răn và việc mạc khải tiệm tiến đã không cho họ hiểu rõ về mầu nhiệm Ngôi Hai này…
Phêrô thay cho các tông đồ tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô,Con Thiên Chúa hằng sống. Lời tuyên xưng này là niềm tin rất xác đáng. Có thể Phêrô cũng không hiểu rõ câu nói này, và cũng không hiểu rõ hơn chúng ta ngày hôm nay, vì như lời Chúa Giêsu nói, đó không phải lời người trần mạc khải cho Phêrô biết đâu.
b/. Suy niệm: Câu chuyện Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ xác định rõ họ tin vào ai, vào Đấng nào. Đấng mà họ tin phải là Con Thiên Chúa, chứ không chỉ là một con người, dù là người Chúa gởi đến. Hơn nữa, Đấng là Con Thiên Chúa đó, lại vui lòng nên giống anh em mình, kể cả đau khổ, chết chóc, để đưa họ lên hàng con cái Thiên Chúa, cùng hưởng hạnh phúc đời này và đời sau.
Lời Chúa hôm nay cũng muốn nói với chúng ta như thế. Người muốn nhắn gởi mọi người trên thế giới: Người chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế. Người đến trần gian không phải đi du lịch, mà là dạy chúng ta yêu thương như Chúa, dạy ta dùng tình thương thay cho hận thù, đem chân lý vào nơi tối tăm; vì Thiên Chúa chính là tình yêu. Người yêu thương hết mọi người không loại trừ ai, và muốn mọi người hạnh phúc như Chúa.
Đức Tổng giám mục Oscar Romero, giám mục tổng giáo phận El Salvador, Nam Mỹ, đã bị bắn chết đang lúc dâng thánh lễ, vì đấu tranh chống lại sự dữ, chống lại tội ác. Khi còn sống, một lần ngài đã phát biểu cách hùng hồn rằng: “Kitô giáo không phải là một bộ sưu tập những sự thật để tin, những luật lệ phải tuân giữ…Kitô giáo là một con người…Kitô giáo là Chúa Kitô.” Chính vì tin và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa; đồng thời nhìn nhận cái cốt lõi của kitô giáo là Đức Kitô, không phải cái gì khác, mà Đức TGM Romero phải chết như thế. Ước gì mỗi kitô hữu chúng ta hiểu đuợc điều nay khi tin vào Chúa Kitô.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Để biết Chúa Giêsu là Thiên Chúa, thánh Phêrô cần được ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha. Để hiểu về đạo, sống đạo, ta cần học hỏi giáo lý, cần ơn Chúa. Để hiểu tha nhân cho chính xác, ta cần có nhiều dữ kiện, cần thời gian…và cả cầu nguyện nữa. Bao lâu nay ta có ý thức điều đó chưa, hay chỉ hời hợt theo trực giác bên ngoài mà thôi.
------------------------------------------
BẰNG NHỮNG VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG
Mt 16, 13 – 20
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Giáo Hội là mầu nhiệm”;“Giáo Hội là dân Thiên Chúa”. Những khái niệm trên cho thấy Giáo: TN 21-A84
“Giáo Hội là mầu nhiệm”;“Giáo Hội là dân Thiên Chúa”. Những khái niệm trên cho thấy Giáo Hội vừa mang tính hữu hình vừa mang tính vô hình. Hữu hình: Giáo Hội là một tổ chức như mọi tổ chức trần gian. Có người lãnh đạo và có những cộng sự khác. Vô hình: vì có Thiên Chúa Ba Ngôi là chủ. Mọi thành phần trong Giáo Hội đều có sự liên đới với nhau, ta gọi đó là: “Mầu nhiệm hiệp thông”.
Như vậy, khi thiết lập Giáo Hội, Đức Giêsu muốn thông qua tổ chức hữu hình để Ngài ban ân sủng siêu nhiên nhằm cứu độ con người. Thế nên, trước khi về trời, Đức Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục công trình cứu độ của Ngài cho đến tận thế. Vì lẽ đó, Đức Giêsu đã đặt Phêrô là người thay mặt Ngài ở trần gian để điều hành Giáo Hội. Tuy nhiên, việc trao ban quyền lãnh đạo cho Phêrô, Đức Giêsu muốn Phêrô phải tuyên xưng và xác tín niềm tin của ông nơi Ngài trước khi nhận lãnh sứ vụ. Đồng thời phải có tâm tình khiêm tốn, chân thành của kẻ bé mọn trong việc xây dựng Nước Trời trên trần gian.
1. Phêrô tuyên xưng đức tin
"Người ta bảo Con Người là ai?" (Mt 16, 13).
Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?
Thưa vì những lý do sau:
Thứ nhất, Đức Giêsu và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê. Đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias: thần thiên nhiên.
Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống của các tiên tri thời Cựu Ước mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu! Vì thế, không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ" (Mt 16, 14). Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó. Mặt khác, nhân đây, Ngài muốn mặc khải cho các ông về con người và vai trò Thiên Sai của mình. Vì thế, Ngài đã hỏi trực tiếp các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 15-16).
Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.
Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế“Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.
Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các ông vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin, kiêu ngạo, tự phụ và không hiểu biết gì về mình.
2. Phêrô đón nhận sứ vụ
Ngay sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Ðức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời” (Mt 16, 17). Qua câu nói đó của Đức Giêsu, và lúc khác kết hợp với lời tạ ơn của chính Ngài: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25), cho chúng ta thấy rất rõ rằng: sứ vụ mà Phêrô sắp được lãnh nhận ở đây không phải là của người khôn ngoan, trí thức, quyền quý, theo kiểu người đời vẫn hiểu, mà là dành cho những người bé mọn theo ý Chúa. Lời tuyên tín của Thánh Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không thuộc phạm trù “sự hiểu biết thuộc về con người”, nhưng thuộc về “thế giới siêu nghiệm”,và vì thế, để hiểu được tất cả ý nhĩa của lời tuyên tín trên thì cần phải được mặc khải từ Thiên Chúa, và người đón nhận phải đơn sơ, chân thành.
Thật vậy, sứ vụ mà Phêrô sắp lãnh nhận là trở thành chủ chăn, là người lãnh đạo, nhưng khi thi hành thì phải mang trong mình tâm tình khiêm nhường và phục vụ chứ không được dùng quyền để đàn áp, thống lãnh và ăn trên ngồi trước như người đời... Biết can đảm, trung thành trước mọi thử thách và cuối cùng là biết phó thác nơi Thiên Chúa như những người bé mọn.
Vì thế, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”. Nhắc đến đá, ta nhớ ngay những đặc tính của nó như: cứng; bền; chắc. Và khi Đức Giêsu ví Giáo Hội được xây trên nền đá, Ngài cũng muốn nhấn mạnh đến những đặc tính siêu nhiên.
Cứng: nói lên sức mạnh của Giáo Hội.
Bền: nói lên sự trường tồn của Giáo Hội.
Chắc: nói lên sự vững mạnh của Giáo Hội.
Khi đổi tên như thế, Ngài đã biến ông từ một kẻ nhát đảm, kém tin, bồng bột trở thành biểu tượng của sức mạnh, trường tồn và bền vững: “Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Không những thế, Đức Giêsu còn trao cho Phêrô quyền tuyệt đối khi nói: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16, 19).
Theo quan niệm của người Do thái vào thời đó, "quyền lực của tử thần" là “khả năng giam giữ các kẻ chết". Câu này có ý nói đến uy quyền của ma quỷ, chúng dùng sự dữ để đưa người ta vào con đường tội lỗi, và giam giữ họ trong sự chết đời đời.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rộng hơn nữa về thứ quyền lực của thế gian nơi những kẻ bách hại Giáo Hội, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… Nhưng cũng như quyền lực của ma quỷ, chúng sẽ không thể tiêu diệt được Giáo Hội, vì Giáo Hội được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn theo thánh ý Ngài.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Khi Giáo Hội được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa nhà do chính Đức Giêsu xây dựng trên“tảng đá” Phêrô và mỗi chúng ta: “... như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Ðền Thờ thiêng liêng” ấy (x. 1Pr 2,5). Khi nói đến viên đá sống động, hẳn chúng ta không thể hiểu theo ngôn ngữ chết, mà phải hiểu trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em chúng ta.
Câu hỏi của Đức Giêsu với các môn đệ: "Người ta bảo Con Người là ai?" cũng là câu hỏi dành cho mỗi người chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải trả lời cho được câu hỏi đó. Nếu trả lời như Phêrô khi xưa: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Thì hẳn chúng ta phải biểu lộ niềm tin của mình vào Đấng đã cứu chuộc mình cách đúng nghĩa.
Thật vậy, muốn thuộc về Đức Giêsu, chúng ta phải đi lại con đường thập giá của Ngài đã đi và sống nguyên lý của mầu nhiệm tự hủy, khiêm tốn, can đảm, trung thành và phó thác.
Nếu không, đức tin của chúng ta chỉ là thứ đức tin “ấu trĩ” được mua bằng một “giá rẻ”. Nếu quả là vậy, thì mãi mãi vẫn chỉ là một đức tin “nghèo nàn” và thiếu đi “cốt lõi” của niềm tin.
Thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17), và thánh Gioan đã quả quyết:“Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người [...]. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Ðức Giêsu đã đi” (1,Ga 2,3-6).
Như vậy, tin Đức Giêsu thì cũng hành động như Ngài và tuân theo lời dạy yêu thương của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34) và như thế, niềm tin của chúng ta sẽ được lan truyền sang cho mọi người như lời Đức Giêsu đã nói: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 17).
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con ngày càng theo sát Chúa trên con đường thập giá là con “đường độc đạo” con “đường thật” dẫn đến “sự sống”. Xin cũng ban cho chúng con luôn yêu mến, vâng phục đấng thay mặt Chúa, kế vị các tông đồ và sẵn sàng dấn thân xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian. Amen.
--------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, ta vẫn thấy có sự xuyên suốt từ đầu chí cuối. Có những chuyện: TN 21-A85
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, ta vẫn thấy có sự xuyên suốt từ đầu chí cuối. Có những chuyện xem ra dí dỏm, có những chuyện nực cười và có những chuyện thương tâm chảy nước mắt. Một Phêrô tuyên tín ra vẻ oanh liệt, nhưng lại một Phêrô yếu mềm, chối Chúa. Tuy nhiên, Phêrô dạn dĩ, Phêrô yếu đuối, Chúa vẫn thương Phêrô vì Ông thành thật, dân dã, biết ăn năn sám hối. Phêrô quả thực đã được Chúa chọn làm đầu Giáo Hội tiên khởi…
Các môn đệ đã theo chân Chúa Giêsu, đã học hỏi nơi Đức Kitô, đã tìm hiểu Người. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn biết các đệ tử của Người nghĩ gì về Người. Bởi vì, có rất nhiều dư luận bàn tán xôn xao về Chúa Giêsu.
Kẻ cho Người là Élia, người cho là Giêrêmia hay một ngôn sứ nào khác…Nếu các môn đệ cũng chỉ nghĩ như dư luận đã nói về Người thì thật uổng công Chúa Giêsu đã dậy, đã huấn luyện các môn đệ. Chúa Giêsu nhấn mạnh:” Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? ” ( Mt 16, 15 ).
Vẫn là con người bộc trực, nhanh nhảu và nông dân, Phêrô thay mặt các bạn thưa với Chúa Giêsu:” Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.(Mt 16, 16 ).
Phêrô đã trả lời hoàn toàn khác với các dư luận đã nghĩ về Người. Phêrô nhận ra dưới nhân tính của Chúa Giêsu, Đấng Messia của Israen, Vua của Nước Trời mà Cựu Ước đã loan báo. Việc tuyên tín của Phêrô khiến Chúa Giêsu nhận ra ngay 12 môn đệ là nhóm còn lại mà các ngôn sứ đã loan báo và như thế, Người thiết lập Giáo Hội tiên khởi mà chính Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, cai quản Hội Thánh hoàn vũ. Giáo Hội sơ khai, với tác động của Chúa Thánh Thần quả thực đã nhận ra rằng họ thuộc về Giáo Hội tông truyền của Đức Kitô, họ khám phá ra chủ đích thâm sâu của Đức Kitô và qua câu tuyên xưng của Phêrô Chúa muốn thiết lập Giáo Hội.
Khi tuyên xưng công khai với đầy lòng tin, với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, Phêrô nhận được ơn huệ của Chúa. Lời tuyên tín của Phêrô do Chúa Cha mạc khải chứ không phải phàm nhân:” Này anh Phêrô con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 16, 17 ). Chúa xây dựng Giáo Hội của Người trên nền tảng Phêrô và các môn đệ khác. Giáo Hội do đó không phải thuộc về Phêrô mà là thuộc về Đức Kitô vì chính Người đã qui tụ, điều khiển, xây dựng Giáo Hội. Tuy nhiên, Phêrô là nền đá tảng và Chúa ban cho Phêrô quyền cầm buộc. Trong cuộc lữ hành trần thế, Hội Thánh gồm những vị thánh, nhưng cũng có những con người tội lỗi. Chính Phêrô được Chúa ủy thác sứ vụ phân biệt kẻ lành người dữ…
Chúa Giêsu đã chẳng nói với Phêrô:” Thầy sẽ trao cho Anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, Anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, Anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” ( Mt 16, 19 ). Rõ ràng, con người không thể tự mình tới với Đức Kitô mà không qua Giáo Hội vì Giáo Hội vừa là một tổ chức xã hội, vừa siêu nhiên. Chính vì thế, họ phải ngang qua Hội Thánh. Bởi vì nếu đơn độc, trực tiếp đến với Chúa, con người dễ vẽ ra một Chúa theo kiểu của mình, dễ tưởng tượng ra một Chúa hoàn toàn theo trí loài người chứ không phải Đức Kitô đã tự mac khải chính mình. Giáo Hội được Chúa Giêsu xây dựng là để giúp con người khám phá ra bộ mặt thật của Đức Kitô mạc khải, phát hiện ra những hành động, những việc làm của chính Đức Kitô trong ta và trong thế giới con người. Giáo Hội dù có lúc đan xen bóng tối và ánh sáng, nhưng Giáo Hội vẫn là Giáo Hội công giáo, thánh thiện, duy nhất và tông truyền. Giáo Hội sẽ luôn vững mạnh vì luôn có Chúa ở cùng. Do đó, Giáo Hội sẽ là con đường giúp đưa con người đạt tới Nước Trời.
Chúa Giêsu đã loan báo cái chết và phục sinh của Ngài. Chúa mời gọi các môn đệ hãy vác thập giá của mình mà theo Ngài. Theo Chúa Giêsu là lời mời gọi khẩn thiết của Hội Thánh. Người Kitô hữu chỉ có thể được hạnh phúc, được tồn tại khi họ bám chặt vào Đức Kitô, Người là Tin Mừng duy nhất của con người, Người là nguồn mạch sự sống của con người. Thập giá luôn là thách đố cho con người. Người ta muôn thời đã vẽ ra những mẫu thập giá theo ý của họ, nhưng chỉ có một thập giá: thập giá của Đức Kitô nghĩa là cái chết và phục sinh của Đấng đã hoàn toàn tự nguyện theo ý Chúa Cha để cứu rỗi con người.” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, thánh Phaolô đã nói như vậy, và Ngài đã sống như vậy. Thánh Phaolô cũng đã từng viết:” Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô”. Thánh Phaolô và thánh Phêrô đã sống trọn vẹn ý nghĩa của cuộc nạn ấy. Các Ngài cũng đang mời gọi chúng ta sống sự sống, cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô.
Xin Chúa ban cho chúng ta kiên vững để luôn tuyên xưng lòng tin của chúng ta bất cứ trong trạng huống nào.
--------------------------------
Mt 16, 13 - 20
Sr Mai An Linh, OP
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay: Qua bài đọc I, Thiên Chúa trao nhiệm vụ cai quản đền thờ: TN 21-A86
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay: Qua bài đọc I, Thiên Chúa trao nhiệm vụ cai quản đền thờ cho Eliakim(Is.22,19-23). Bài Tin mừng, Chúa Giêsu trao nhiệm vụ lãnh đạo Hội Thánh cho Phêrô “Thầy sẽ trao chìa khóa Nước Trời cho con…”(Mt.16,13-23). Xét về khả năng thì những người được Thiên Chúa chọn phần lớn là những người tầm thường, nhiều khi còn tội lỗi, nhưng Thiên Chúa lại chọn để làm nổi lên sức mạnh của Thiên Chúa. Chính vì thế mà qua bài đọc II, Thánh Phaolô đã kêu lên “ Ôi thẳm sâu thay sự thượng trí và thông biết của Thiên Chúa, phán quyết của Người làm sao hiểu được, đường lối của Người sao dò được…”( Rm.11,33-36 ). Vậy trong kế họach của Thiên Chúa thì nhiệm vụ của tôi là gì?
Đã là con người sống trong xã hội thì ai cũng có nhiệm vụ, quả thế trong đất nước có chính quyền, trong Hội Thánh có giáo quyền, trong Giáo Xứ có cha xứ và mọi người có nhiệm vụ xây dựng Giáo Xứ. Cũng như trong gia đình cha mẹ, con cái…người nào cũng có trách nhiệm riêng. Như thế, không ai được quyền chỉ lo cho mình hoặc chờ người khác lo cho mình, ai cũng có nhiệm vụ “Mọi người vì mình và mình vì mọi người”.
Chúng ta hãy nhìn qua việc Chúa Giêsu trao quyền cho Phêrô mà chúng ta vừa nghe: Trước khi trao nhiệm vụ cho Phêrô Chúa Giêsu muốn ông phải nhìn nhận người trao quyền cho mình là ai nên Ngài hỏi “ phần các con, các con bảo Thầy là ai?” và Đức Giêsu chỉ trao nhiệm vụ cho Phêrô khi ông tuyên xưng niềm tin vào Chúa, hay đúng hơn là lúc Chúa Cha tỏ cho Phêrô biết rõ Chúa Giêsu là ai, vì Cha đã mạc khải cho Phêrô theo ý Cha.
Chúa Giêsu trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho Phêrô, với quyền này Phêrô tha nhận hay lọai trừ một ai đó khỏi Nước Trời hay hơn nữa đó là quyết định những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đòan Thiên Sai đòi hỏi. Y như trong sách Daniel, các thánh của Đấng tối cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này do Thiên Chúa thông ban dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Tuy nhiên khi Thiên Chúa trao nhiệm vụ cho ai thì Ngài cũng ban cho người đó ơn trợ giúp cần thiết để chu tòan nhiệm vụ, chúng ta vẫn thường nói đó là ơn ban theo bậc. Như bài đọc I khi Thiên Chúa trao cho Eliakim “áo chòang, đai lưng” một thứ y phục mà khi nhìn vào ai cũng phải nhìn nhận đấy là dấu hiệu của người lãnh đạo, và cũng trao cho Eliakim “chìa khóa” là thẩm quyền để hành xử, một sự trợ giúp để ông thi hành trách nhiệm.
Cũng vậy Đức Giêsu trao “ chìa khóa Nước Trời” cho Phêrô, nghĩa là ông được quyền cai trị Hội Thánh mà Ngài sẽ thành lập, Ngài sẽ hỗ trợ ông bằng cách “ Điều gì con cầm buộc dưới đất trên trời cũng cầm buộc, điều gì con tháo cởi dưới đất trên trời cũng tháo cởi”. Nhưng chúng ta đừng lầm tưởng người lãnh đạo thì luôn luôn phải là người hòan hảo xứng đáng. Thật ra đã là con người thì vẫn có những thiếu sót, những yếu đuối như chúng ta thấy Phêrô vừa được trao nhiệm vụ cao cả thì ông lại can gián Chúa Giêsu chịu tử nạn, nên ông đã bị Ngài quở “Satan hãy lui ra đằng sau Thầy”(c.23).
Nơi Phêrô người được chọn làm đá tảng để xây dựng Hội Thánh và mỗi người chúng ta những người Kitô hữu cũng là những viên đá sống động để xây nhựng Hội Thánh(x.1Pr.2,5). Phêrô không dành độc quyền ấy mà thông chia cho các Kitô hữu. Vì thế, mỗi người chúng ta đều có nhiệm vụ xây dựng Hội Thánh, xây dựng xã hội và gia đình. Tuy nhiên, việc xây dựng này phải đặt nền trên sự lắng nghe và sống Lời Chúa. Trong khi cùng nhau làm việc không thể không có những bất đồng, nhưng mỗi người hãy nghĩ tới nỗi khổ của người khác khi phải chịu đựng mình, để thông cảm, tha thứ. Có như thế mới san sẻ gánh nặng cho nhau, người này trở thành chỗ dựa cho người khác.
Lạy Chúa, chúng con mỗi người đều có trách nhiệm Chúa trao phó, nhưng chúng con chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, nên thường hay sao lãng bổn phận, đôi khi còn trốn tránh. Xin cho chúng con tinh thần phục vụ của Chúa để chúng con làm tròn bổn phận một người con, một người cha, một người mẹ, một ngừơi Kitô hữu và một người công dân.
--------------------------------------
Mt 16, 13 - 20
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đọc lại lịch sử cuộc đời của thánh Phêrô, chúng ta không khỏi vừa buồn cười, vừa khâm phục, vừa: TN 21-A87
Đọc lại lịch sử cuộc đời của thánh Phêrô, chúng ta không khỏi vừa buồn cười, vừa khâm phục, vừa cảm thông với người môn đệ Chúa Giêsu:”có lúc xem ra ông cương quyết, nhất định theo Chúa tới cùng, nhưng có lúc ông lại tỏ ra yếu ớt, nhát đảm và tỏ ra sợ sệt ”. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cảm thấy như có một cái gì đó thật lạ lùng, thật dễ thương nơi con người của Phêrô. Do đó, thay vì Chúa truất phế Phêrô, Ngài lại chọn Phêrô làm đầu Giáo Hội của Chúa ở trần gian này. Đi vào cuộc đời của Phêrô, chúng ta sẽ hiểu con người thật lạ lùng của Ông.
Phải đọc đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 16,13-20 cách thật thong thả,chăm chú và suy nghĩ chúng ta mới nghiệm ra được cốt lõi đời của thánh Phêrô. Thật vậy, các môn đệ là những người được Chúa kêu mời, tuyển chọn giữa nhiều thành phần Do Thái lúc đó. Các Ngài đã được chính Chúa Giêsu uốn nắn, dậy dỗ, hun đúc để trở thành những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, để biến họ trở nên những ngư phủ bắt người. Sau một thời gian ở với Chúa Giêsu tương đối đã khá lâu, Chúa muốn trắc nghiệm về sự hiểu biết của các môn đệ thân tín nghĩ sao về mình, trong khi đó dư luận của quần chúng có người cho Ngài là Gioan Tẩy Giả, có người nói Ngài là Êlia, là Giêrêmia hay một ngôn sứ nào khác. Điều ấy mới chỉ nói lên một khía cạnh rất nhỏ bé của con người Chúa Giêsu mà thôi. Phêrô vẫn là một con người bộc trực nhưng rất đỗi dễ thương, đã được Chúa Cha mạc khải, Phêrô mạnh dạn thay mặt các môn đệ khác, thưa với Chúa Giêsu:”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “ ( Mt 16, 16 ). Một câu nói Chúa Giêsu đã chờ đợi từ lâu nơi các môn đệ của Ngài. Phêrô tuyên xưng:” Thầy là Đức Kitô “. Như thế, Phêrô đã tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Tin nhận Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống là đã diễn tả được cả sứ mạng lẫn con người của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Thiên Chúa sai tới trần gian để cứu chuộc nhân loại, cứu độ con người. Chúa Giêsu trở thành trung tâm để Chúa Cha quy hồi vạn vật:” Nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành. Mọi vật, mọi người đều quy hướng về Ngài “. Liền sau câu tuyên tín của Phêrô, Chúa Giêsu khen ông là người có phúc và cất nhắc Phêrô, trao cho ông quyền bính trên Giáo Hội:” Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy, dưới đất anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy “ ( Mt 16, 18-19 ).Rõ ràng, Chúa đã chọn, đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh. Ngài đổi tên Simon tên cha mẹ đặt thành Phêrô do chữ Kêpha tiếng Aram là Tảng Đá. Chúa đã xây dựng Hội Thánh của Người trên Đá Tảng Phêrô và hứa bao bọc, chở che Hội Thánh khỏi các cuộc tấn công của ma quỷ, của sự dữ, của satan. Chúa trao cho Phêrô chìa khóa tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với quyền bính ấy, Phêrô cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh trong phục vụ yêu thương, sẵn sàng hy sinh để chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).
Rõ ràng không phải Chúa chọn Phêrô vì Phêrô trí thức, giỏi giang hay hoàn toàn thánh thiện, nhưng Chúa chọn Phêrô là một con người bộc trực, nóng nảy, ít học, là một dân chài lành nghề, một con người đầy khuyết điểm và phản bội. Chúng ta thử xem con người của Phêrô, Ông tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa đấy, được Chúa khen ngợi nhưng liền sau đó Ông cản Chúa, đã bị Chúa mắng cho một cách thậm tệ:” Satan, lui lại đằng sau Thầy ! anh cản lối Thầy “( Mt 16, 23 ). Phêrô nhát đảm, sợ như thỏ đế dù trước đó Ông đã xác quyết với Thầy:” Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã “ ( Mt 26, 33 ). Tuy nhiên Ông đã nhát đảm ngay trước mặt một cô đầy tớ của vị thượng tế: “ Tôi không biết người ấy là ai “ ( Mt 26, 74 ). Phêrô đã phản bội, chối Chúa tới 3 lần. Con người của Phêrô là vậy nhưng Chúa hiểu thấu tâm can của Phêrô: Ông luôn có tâm tình, thái độ khiêm tốn sâu thẳm và lòng sám hối thật chân thành, Phêrô đã khóc lóc, đấm ngực vì con người yếu đuối, tội lỗi của mình. Ông nhận ra Chúa đã tha thứ cho Ông như Chúa đã dậy:” Thầy không bảo là phải tha đến 7 lần mà là 70 lần 7 “( Mt 18, 21 ). Phêrô quả thực đã cảm nghiệm sâu xa lòng thương xót vô bờ của Chúa. Nên, Ngài đã sống cái cảm nghiệm tha thứ của Chúa khi Ngài lãnh đạo Giáo Hội. Ngài đã luôn nhiệt thành chăn dắt chiên con, chiên mẹ mà Chúa đã trao phó cho Ngài.
Theo Chúa Giêsu, người môn đệ Chúa dầu nhiều hay ít cũng cảm nghiệm được lòng chạnh thương của Chúa. Chúa yêu thương con người, xót thương đoàn lũ dân chúng đi theo Người:” Chúa chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền. Chúa làm cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân chúng “. Chúa yêu thương từng con chiên:” Bỏ chín mươi chín con chiên mà đi tìm một con chiên lạc “. Người môn đệ Chúa đều tin Chúa là Con Thiên Chúa. Nhưng liệu người môn đệ Chúa có luôn trung thành với Chúa hay đã có rất nhiều lần hồ nghi tình thương của Chúa và đã không dám tuyên xưng đức tin trước mặt người khác ? Người môn đệ Chúa tin Chúa trên đầu môi chóp lưỡi, hay đã dám sống cho Chúa bằng cả cuộc đời của mình.
--------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
LM Phêrô Nguyễn Hương
Nếu chúng ta còn nhớ cách đây không lâu ở Mỹ này, nhà văn Dan Brown viết cuốn sách Da Vinci: TN 21-A88
Nếu chúng ta còn nhớ cách đây không lâu ở Mỹ này, nhà văn Dan Brown viết cuốn sách Da Vinci code, nó trở thành cuốn sách bestseller, được đóng thành phim, và được phổ biến khắp thế giới, trở thành «hiện tượng Da Vinci code» và làm nhiều người công giáo bị sốc. Bởi vì trong đó Dan Brown giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn khác biệt với Đức Giêsu ở trong kinh thánh. Ngài là một người bình thường như mọi người, đã có gia đình, có vợ có con và giòng giống của ngài vẫn tồn tại cho đến hôm nay. Và Giáo hội chỉ là một tổ chức chính trị và quyền lực hoàn toàn nhân loại. Nhiều người công giáo bị sốc và lung lay đức tin và có người đã nói rằng: mấy chục năm theo đạo, tôi đã bị lừa... bây giờ người ta find out ra thì mới biết Chúa Giêsu chỉ là một người đàn ông bình thường... vvv.
Tôi nhắc lại sự kiện đó để chúng ta thấy rằng: Câu hỏi của Chúa Giêsu với các tông đồ hôm nay vẫn còn mang tính thời sự: Người ta bảo Thầy là ai ? Thời Chúa Giêsu dư luận dân chúng cũng biết mù mờ về Ngài: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêremia hay một tiên tri nào đó”. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: Người ta bảo thầy là ai? Nhiều người mang danh là kitô hữu nhưng biết rất mơ hồ về Ngài. Chúng ta thưa: Dạ thưa Chúa: kẻ thì nói Chúa là một nhà sáng lập tôn giáo, một nhà cách mạng tinh thần... còn Ông Dan Brown bảo Chúa lấy bà Mađalêna và có quan hệ với bà nên có vợ con đề huề....
Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong một thế giới bùng nổ thông tin và của thị trường tự do. Tất cả mọi thứ người ta có thể rao bán và quảng cáo. Về mặt tư tưởng cũng thế, tôn giáo và các hệ tư tưởng cũng bị biến thành thị trường cạnh tranh mua bán, và người ta cứ việc mua thứ tôn giáo nào hợp với sở thích của mình. Đức Kitô cũng nhào nặn, được make up theo sở thích và lợi nhuận của họ để rao bán khắp nơi. Nói như Cha Cantalamessa, ngày xưa Chúa bị bán bởi Giuđa, còn hôm nay Chúa cũng bị bán bởi các nhà viết sách và làm phim, mà lợi nhuận không phải ba mươi đồng bạc nhưng là cả triệu dollar!
Nhưng chúng ta phải tĩnh thức, vì đó không phải là Đức Kitô của Kinh Thánh, của niềm tin Giáo hội, mà là Đức Kitô của «người ta»: một Đức Kitô của tưởng tượng và sự hiếu kỳ của họ. Chúng ta không cần phải hoang mang và lo sợ gì!
Niềm tin của chúng ta vào đức Kitô được gói ghém trong câu hỏi thứ hai của Chúa Giêsu “Còn các con bảo Thầy là ai?” Anh chỉ Em và tôi bảo Đức Giêsu là ai? Câu này mới là quan trọng. Nhân danh tất cả Phêrô trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là mạc khải và là trung tâm điểm niềm tin chúng ta vào Đức Kitô và kể từ năm 325 (Công Đồng Nicée) trở thành định tín kitô học của Giáo hội mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh tin Kính: «Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng. Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Cha, nhờ người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thể... ». Nghĩa là Đức Kitô đó là Thiên Chúa thật và người thật, vrai Dieu et vrai homme. Ngài cũng biết khóc biết cười, ngài cũng có nhu cầu ăn uống và nghĩ ngơi, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi thôi. Nhưng Ngài là “Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, nghĩa là ngài là chính Thiên Chúa. Ngài nhập thể để cứu độ chúng ta nên Giáo hội tuyên xưng Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Và nói như thánh Gioan: Ai tin vào con của người thì cứu độ (x. Ga 3,14). Chỉ nhờ Ngài mà chúng ta được cứu độ. Chỉ qua Ngài chúng ta tới Thiên Chúa.
Đức tin đó không phải là một sự hiểu biết suông, nhưng là một sự gắn bó đời mình với Đức Kitô. Người kitô hữu là người xây dựng cuộc đời và những dự phóng đời mình trên Đức Kitô, lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm của cuộc sống. Bởi vì nơi Ngài chúng ta tìm được tất cả những giải đáp cho những thắc mắc, những khát vọng sâu thẳm nhất về ý nghĩa cuộc đời. Đó là một đức tin trưởng thành, mang tính cá vị và không bị lung lay trước thử thách.
Một lần nữa, cùng với Phêrô và các tông đồ: Chúng ta tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống qua kinh tin kính.
--------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Trong ba năm đi rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã tuyển chọn một số môn đệ đi theo Ngài: TN 21-A89
Trong ba năm đi rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã tuyển chọn một số môn đệ đi theo Ngài. Chúa Giêsu đã dạy dỗ dân chúng, đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền cho dân, đã làm nhiều phép lạ. Tiếng tăm và danh thơm tiếng tốt của Ngài đã lan tỏa khắp nơi. Nhiều tiếng đồn đoán về lai lịch, sự nghiệp của Ngài. Có người cho Ngài là Gioan Tẩy Giả, có người nói Ngài là Isaia, Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào đó. Thực tế, Chúa rất muốn biết suy nghĩ của các môn đệ về Ngài…
Chúa Giêsu tin tưởng các môn đệ và muốn biết quan điểm của các môn đệ về Ngài khi đã có rất nhiều đồn đoán của dân chúng về lai lịch của Ngài, Phêrô được Thiên Chúa Cha mạc khải, đã nhanh nhảu thay các môn đệ khác, thưa với Chúa Giêsu: ” Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “ ( Mt 16, 16 ). Chúa Giêsu đã công khai khen Phêrô là người có phúc và trao trao cho Ông quyền trên Giáo Hội: ” Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy “ ( Mt 16, 18-19 ).
Chúa đã tuyển chọn và đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội của Ngài dưới trần gian này. Và Ngài đã đổi tên Simon thành Phêrô, tiếng Aram Phêrô, Kêpha nghĩa là Đá Tảng. Chúa đã xây Giáo Hội của Ngài trên Tảng Đá Phêrô vững chắc, trường tồn và Ngài hứa bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi cuộc tấn công của ma quỷ. Chúa Giêsu lại trao cho Phêrô chìa khóa tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với quyền Chúa trao ban, Phêrô cai quản, điều khiển, giáo huấn và thánh hóa Giáo Hội của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên được Chúa trao phó.
Phêrô được Chúa thương đó, được Chúa cắt nhắc làm đầu Giáo Hội nhưng chỉ ít phút sau đó, Đức Kitô đã phải nặng lời với Ông: ” Satan, lui lại đằng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người “ ( Mt 16, 23 ). Phêrô yêu mến Chúa nhưng Phêrô lại rất bộc trực, nóng nảy. Chúa Giêsu biết rõ Phêrô, đã chọn Ông là một dân chài, nóng nảy, bộc trực, ít học, hay sa ngã và cả phản bội nữa. Tuy nhiên, Chúa đã nhìn tận tâm can của Phêrô, thấu suốt con người của Phêrô. Phêrô yếu đuối, sa ngã đó, nhưng Phêrô lại có tâm tình khiêm tốn tột cùng và có lòng sám hối chân thành.
Chúa Giêsu hiện ra trên bờ hồ Ghennêxarét khi Phêrô và các môn đệ suốt một đêm thả lưới, mệt nhoài, vất vả nhưng không hề bắt được một con cá nào, dù rằng Phêrô và các bạn là những dân chài chuyên nghiệp: họ biết chỗ nào cá hay ăn, chỗ nào nông, chỗ nào sâu, tuy nhiên, nghe lời Chúa bảo các Ông chèo thuyền ra xa bờ và bỏ lưới bên mạn phải thuyền. Phêrô và các bạn kéo lưới lên, một mẻ quá lớn đến nỗi lưới muốn rách và các môn đệ đã bắt được 163 con cá lớn. Phêrô không mừng, Phêrô cũng chẳng hồ hởi vì phép lạ vừa xẩy đến với Ông, với các bạn đồng môn. Phêrô nghĩ ngay tới thân phận bất xứng, tội lỗi của mình. Phêrô liền tới sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà thưa: ” Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi “ ( Lc 5, 8 ). Và trước sự khiêm tốn thẩm sâu của Phêrô, Chúa Giêsu đã không ngần ngại tuyển chọn Phêrô: ” Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người chài lưới người ta “ ( Lc 5, 10 ).
Phêrô là một con người biết ăn năn hối cải, biết quay trở về với Thiên Chúa. Khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc thống khổ của Ngài, Phêrô không hiểu gì về cái chết của Chúa. Ông cứ tưởng Chúa Giêsu thiết lập Vương Quốc và khôi phục dân Israen. Phêrô không thể nào tưởng tượng được Thầy mình sẽ phải đau khổ, phải chết. Nên, Phêrô đã cản ngăn ý định cứu thế của Chúa. Chúa đã mắng Phêrô thậm tệ. Phêrô không dám cãi lại vì yêu Thầy, biết mình sai, Phêrô im lặng, âm thầm ăn năn sám hối. Trong cuộc thương khó của Chúa, trước đó Phêrô rất hăng, thưa với Chúa: ” Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã “. Phêrô quả thực là con người thật mau mắn, rất chân thực, tuy nhiên ngay sau đó Ông đã phản bội Chúa, chối Chúa tới ba lần. Phêrô đã khóc khi Chúa nhìn Ông và Ông đã thật lòng sám hối ăn năn. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, nên trong chức vị làm đầu Giáo Hội, Phêrô đã luôn củng cố đức tin của các tín hữu và rao giảng về lòng tha thứ của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết cảm nghiệm sâu xa lời khuyên bảo của Thánh Phêrô, Vị Tông Đồ Trưởng lãnh đạo Giáo Hội của Chúa: ” Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em “ ( Cv 3, 19 ).
--------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sau khi đã qui tụ, huấn luyện các môn đệ một thời gian tương đối dài, Chúa Giêsu muốn biết người ta: TN 21-A90
Sau khi đã qui tụ, huấn luyện các môn đệ một thời gian tương đối dài, Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì và các môn đệ nghĩ gì về Chúa. Đồng thời,đã đến lúc Chúa phải nói rõ cho các môn đệ biết mình là ai. Do đó, Chúa Giêsu đưa riêng các ông ra một nơi thanh vắng, rồi qua lời lẽ của thánh Phêrô, cho nhân loại biết ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, và chính Đấng ấy lại chịu đau khổ, chịu chết, phục sinh…
Vâng, Chúa Giêsu đã kết nạp 12 môn đệ, dạy dỗ, huấn luyện các ông để các ông sẽ tiếp nối sứ mạng của Ngài sau này. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ về lòng mến, về kỷ luật, về sạch, về dơ và cả những mưu mô của ma quỉ chống đối. Sau một thời gian dài khi Chúa Giêsu đã có danh tiếng trong xã hội, Ngài đã nghe nhiều người xì xào về Ngài: người thì cho Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, người cho Ngài là một Ngôn sứ nào đó.Tất cả những danh hiệu đó mới chỉ nói lên một phần nào sứ vụ của Ngài mà thôi. Hôm nay, Chúa Giêsu đưa các ông lên một miền thật xa, một nơi hoang vắng, tĩnh lặng để giúp các ông nhận rõ hơn niềm tin của các ông và cũng cho các ông thấy rõ Ngài hơn và sứ vụ của Ngài. Chúng ta có thể coi đây là một cuộc tĩnh tâm giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Và đây mở màn cho những tiết lộ. mặc khải bi quan về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, về điều kiện để theo Chúa, về cuộc biến hình trên núi vv…
Trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 16,13-23, Chúa Giêsu đã dùng từ ‘ Con Người ‘ để ám chỉ về mình. Ngài muốn nói mình vừa là Con Thiên Chúa, vừa là người. Êlia và Giêrêmia là hai vị ngôn sứ lớn đã sống vào thế kỷ 9 và 7 trước Công nguyên. Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.Cụm từ này thật rõ ràng vì ở nhiều nơi dùng từ “Con Thiên Chúa“, còn ở đây dùng‘ Người Con của Thiên Chúa ‘, nên được nối tiếp các câu sau. Lời tuyên xưng của Phêrô là do Thiên Chúa Cha mặc khải, còn tự ý Phêrô không thể nào nói được. Chính vì niềm tin của Phêrô mà tên của Phêrô được đổi ( tên này cũng có nghĩa trọng trách, sứ mạng của Ông ), đồng thời chính Phêrô là nền tảng cho một công trình lớn, công trình vĩ đại sau này.Phêrô có môt niềm tin cứng như đá tảng, nên không một sức mạnh, một quyền lực, kẻ thù nào có thể phá được.
Khi đã ca ngợi Phêrô và các môn đệ về niềm tin vững chắc, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về tương lai của mình, Con Thiên Chúa mà phải chấp nhận cái chết tang thương theo ý của Chúa Cha để cứu độ nhân loại, cứu chuộc con người. Thánh Phêrô can ngăn Chúa vừa nói lên tấm lòng yêu mến Chúa, vừa nói lên ý nghĩ trần gian thì khác với ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi quay lại cuộc hành trình của Phêrô, chúng ta hết sức ngạc nhiên vì con người này. Cả đêm thả lưới không được con cá nào.Nhưng nghe lời của Chúa, Phêrô đã vâng lời thả lưới, Ông và các bạn đã bắt được mẻ cá lớn 153 con. Phêrô quá ngạc nhiên vì mẻ cá này, Ông vội nghĩ đến con người yếu kém, bất xứng, tội lỗi của mình, Ông sấp mình dưới chân Chúa mà thưa “ Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi “ ( Lc 5, 8 ).Trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Phêrô, Chúa đã tuyển lựa Ông:” Đừng sợ, từ nay Anh sẽ là người chài lưới người “ ( Lc 5, 10 ). Sau này, Phêrô lại chối Chúa, nhưng con người của Phêrô luôn biết ăn năn, sám hối, do đó Chúa luôn yêu thương Ngài, cắt nhắc Ngài:” Hãy chăn dắt chiên Mẹ, chiên Con của Thầy “.
Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ rằng tin Ngài là Con Thiên Chúa, chứ không chỉ tin một con người được Chúa gửi đến. Đấng Con Thiên Chúa lại hóa kiếp làm người, hòa đồng với con người ngoại trừ tội lỗi, chịu đau khổ, chịu chết để đưa con người lên hàng Con Cái Thiên Chúa để con người cùng hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Lời Chúa cũng nói với chúng ta hôm nay: tin vào Thiên Chúa không phải như bất cứ một con người nào hay bất cứ Đạo nào. Đạo của Thiên Chúa phát xuất từ trời cao, có sức mạnh, sức cuốn hút làm cho mọi người được hạnh phúc.
Xin mượn lời của Jean-Yves Garneau để kết luận bài chia sẻ hôm nay:” Tác giả Tin Mừng làm nổi bật nhân vật Phêrô.Chính Ông và chỉ có mình Ông, tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa Hằng Sống.Chính Ông, và chỉ có mình Ông, được Chúa Giêsu ban cho một cái tên mới ( Người là Phêrô, Kepha-Tảng Đá ). Chính Ông, và chỉ có mình Ông, được Người giao chìa khóa Nước Trời. Những chìa khóa ấy dành cho việc cầm buộc và tháo cởi, nghĩa là nó trao cho Ông Phêrô cái quyền bắt buộc phải có để đem một người gia nhập cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, hay loại người ấy ra khỏi đó.Còn có nghĩa là nó cho ông được phép quyết định điều gì là tương hợp hay không tương hợp với giáo huấn của Đức Kitô.Ở những điểm cơ bản, đức tin của toàn thể Hội Thánh luôn luôn phải lấy đức tin của Ông Phêrô làm điểu qui chiếu “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lòng thương tha thứ của Chúa để chúng con noi gương bắt chước Phêrô khiêm nhường thẳm sâu nhận ra tình thương thứ tha của Chúa và quyết tâm bước theo Chúa tới cùng.Amen.
--------------------------------------
Mt 16, 13 - 20
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phêrô là người lãnh nhận lời hứa từ Chúa Giêsu quyền chăm sóc anh em. Trước đó ít lâu, ông là người: TN 21-A91
Phêrô là người lãnh nhận lời hứa từ Chúa Giêsu quyền chăm sóc anh em. Trước đó ít lâu, ông là người đã đi trên mặt nước, bị Chúa Giêsu quở trách là "người hèn tin" (Mt 14, 31). Trong thực tế, có lẽ Chúa Giêsu đã can thiệp và thách thức ông kêu cầu, đòi hỏi ông phải lớn lên trong đức tin, ông có thể xấu hổ trước mặt đồng nghiệp của mình, cũng như các môn đệ khác, vì "hèn tin", nhưng ông vẫn tự tin, lời tuyên xưng đức tin địa hạt thành Xêsarêa Philipphê của Phêrô là một bằng chứng. Ông đã được Chúa Cha ban cho hồng ân đức tin, nhờ ánh sáng Thần Linh mạc khải, ông biết được căn tính đích thực của Chúa Giêsu; ông tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), nhờ đó ông có thể làm cho anh em khác vững tin.
Hành trình đức tin của Phêrô
Đối với Phêrô, đức tin là một hành động lớn dần. Như bào người trẻ Do thái, ông đã nghe nói về Đấng Mêssia, dùng thánh vịnh của Đavid để cầu nguyện, nghe các thầy Do thái tại Capharnaum hát về niềm hy vọng của dân Israel. Hạt giống rơi vào đất tốt, hôm nay, bén rễ nhờ Lời Chúa Giêsu.
Hành trình ấy khởi đi từ lần đầu tiên gặp gỡ Chúa Giêsu qua Anrê, em ông, cũng là môn đệ của Gioan Baotixita làm trung gian bên bờ sông Giorđan. Anrê là người tìm Chúa: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia" (Ga 1, 41). Không phải Phêrô là người được gọi trước, nhưng là Anrê. Điều này không cản trở ông thành người lãnh nhận trách nhiệm củng cố đức tin cho anh em mình.
Thứ đến, tại tiệc cưới Canna, chính Phêrô là người chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu và "các môn đệ đã tin vào Người" (Ga 2, 11).
Sau một đêm trắng lưới, Phêrô và em ông là Anrê được gọi: "Hãy theo Thày và Thầy sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ lưới người" (Mt 4, 19). Ngày hôm đó, họ để lại tất cả mọi thứ, gia đình và nghề nghiệp để đi theo Chúa.
Và trên một ngọn núi cao, Phêrô đã được Chúa Giêsu cho thấy vinh quang Thiên Chúa (x. Mt 17, 1-9). Ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu của bộ ba, những người sẽ trực tiếp chứng kiến sự phục sinh một cô gái nhỏ (x. Mc 5, 37). Một sự kiện đánh dấu bước tiến đức tin của Phêrô !
Phêrô uyên xưng đức tin
Được cứu khỏi chết đuối trong một cơn bão khi đi trên mặt nước, lần đầu tiên Phêrô tuyên xưng đức tin: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 33).
Thời gian sau, trên đường từ địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?" (Mt 16, 15). Nhân danh các môn đệ kia, Phêrô trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Đức tin của Phêrô cũng là của các môn đệ kia, ông thừa nhận và khẳng định lời đầu tiên của Anrê (x. Ga 1, 41), khi nhận lãnh trách nhiệm trong Giáo hội.
Điều này không can ngăn được Chúa Giêsu từ chối đi lên Giêrusalem chịu chết (Mt 16, 22). Chính vì là Con Thiên Chúa, nên thập giá và cái chết của Chúa Giêsu là thử thách nặng nề đối với đức tin của Phêrô. Chúa Giêsu bảo Phêrô: "Con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người" (Mt 16,19).
Đức tin đòi hỏi người ta gắn chặt với thánh ý Thiên Chúa, cho dù có điều gì xảy ra đi chăng nữa. Biến cố biến hình trước Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ là sự bảo đảm: "Đây là Con Ta yêu dấu " (Mt 17, 5).
Lời tuyên xưng thật sâu xa
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn còn hỏi: "Người ta bảo Con Người là ai ? (Mt 16, 13) "Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?" (Mt 16, 15) Đây không phải là một cuộc thăm dò ý kiến để biết lòng dân, nhưng là câu hỏi về vị trí của Thầy trong các môn đẹ. Đối với ông, Chúa Giêsu là ai ?
Khởi đầu sứ mạng công khai, trước các phép lạ và lời giảng có uy quyền của người thợ mộc thành Nazareth, một câu hỏi hiện lên trong đầu các môn đệ: "Người này là ai? " (Mt 8, 27).
Chúa Kitô không yêu cầu các môn đệ phản ánh ý kiến của người khác, Người hỏi dồn và đợi câu trả lời cá nhân của các ông. Và Phêrô đã trả lời Chúa Giêsu mà không liệt kê lại ý kiến của dân chúng như: Ê-li, Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri. Ông đi thẳng vào vấn đề. Lời tuyên xưng này còn đi xa hơn trước bởi được long trọng tuyên xưng: "Vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17).
Với Thiên Chúa, hành động đức tin không đến từ sự suy tư nhân loại theo kiểu lý trí, triết học, hay tìm kiếm sự hợp lý, những cần phải có ơn "mạc khải từ Thiên Chúa" để tôn thờ bản tính Thiên Chúa nơi con người Đức Giêsu. Người đã nói với họ: "Không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấn mạc khải ra cho " (Mt 11, 27).
Chính lúc Simon đã trả lời đúng về sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng là lúc ông được tiết lộ một ơn gọi đặc biệt. Simon trở thành "Kepha" nghĩa là "tảng đá", "đá". Simon, con người bằng xương bằng thịt, mỏng giòn, dao động như bao nhiêu người khác, nhờ ân sủng đã vượt qua đượcgiới hạn của chính mình. Nếu ông là "đá", là vì Chúa Kitô là đá tảng. Đức tin của ông chỉ lớn lên, khi đặt nền tảng trên Chúa. Thử thách trong cuộc Khổ Nạn của Thầy đụng chạm tới cùng sự mỏng giòn của Phêrô, lúc ấy, ông phải dựa vào sức mạnh của Chúa, xây dựng đời mình trên Chúa.
Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Người sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.
--------------------------------------
Mt 16, 13 – 20
Lm. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MẨU CHUYỆN VỀ THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:
Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II như sau: TN 21-A92
Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II như sau: Khi còn là sinh viên Ba-lan đi du học tại Rô-ma, một hôm khi cùng các bạn sinh viên đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô được tiếng là rất đạo đức thánh thiện, đã từng được Chúa Giê-su hiện ra ban năm dấu thánh trên mình giống như Người. Vừa gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa”. Bấy giờ cậu sinh viên trả lời: “Con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng được !”. Nhưng thánh ý Chúa quả thật nhiệm mầu: Hồng y Vốt-ti-la người Ba-lan sau này đã được bầu làm Giáo hoàng, nhận danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ Nhị. Về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng trường thánh Phê-rô. Hơn 20 năm sau, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin: Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng viết một bức thư (trước đó chưa được công bố), cho M. Ag-ca, kẻ đã bắn ngài trọng thương vào năm 1981. Linh mục S Dziwisz thư ký riêng của Đức thánh Giáo hoàng đã xác nhận sự tồn tại của lá thư trên và cho biết nó đã không được gửi đến người nhận. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát. Trong thư, Đức Gio-an Phao-lô II đã hỏi Ag-ca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại muốn giết ngài, trong khi cả hai cùng tôn thờ Chúa ? Theo tờ Rzeczpospolita, lúc đầu vị thánh Giáo hoàng đã định gửi bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại thôi không gửi đi nữa, và thay vào đó, đến năm 1983 ngài đã đền gặp trực tiếp kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại một nhà tù ở Ý, và đã sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Ag-ca đã bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý. Đức Gio-an Phao-lô II là vị Giáo hoàng thứ 264 kể từ Tông đồ Phê-rô là Giáo hoàng đầu tiên. Hiện nay Đức Phan-xi-cô lên thay thế Đức Bê-nê-đích-tô 16 và là vị Giáo Hòang thứ 266 kể từ thánh Phê-rô Tông đồ. Ngoài ra vào ngày 27/04/2014 vừa qua, Đức cố Giáo hòang Gio-an Phao-lô II đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô phong Thánh chung với thánh Giáo hoàng Gio-an 23 tại đền thánh Phê-rô ở Rô-ma vào ngày Chúa Nhật II PS là lễ kính Lòng Chúa Thương Xót.
2) HỘI THÁNH XÂY TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN CỦA PHÊ-RÔ LUÔN TRƯỜNG TỒN:
Qua nhiều thế kỷ từ ngày thành lầp đến nay, Hội thánh do Chúa Giê-su thiết lập đã trải qua nhiều nguy cơ có thể sụp đổ, nhưng Hội thánh vẫn trường tồn nhờ được xây trên nền đá vững chắc là đức tin của Phê-rô vào Chúa Giê-su như sau:
Dưới thời Hoàng đế Di-o-cle-si-a-nô, Đế quốc Rô-ma quyết tâm tiêu diệt Hội thánh của Chúa Ki-tô. Năm 305, Di-o-cle-si-a-nô đã ra lệnh đúc những đồng tiền bằng kim loại trên đó có dòng chữ: “Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt”. Nhưng rồi sau đó Hội Thánh đã vượt qua cơn bách hại của đế quốc và không ngừng phát triển đi khắp thế gian.
Đến thời kỳ Trung cổ tại Âu châu, nhiều nhà trí thức vô thần đã hè nhau đánh đổ đức tin của các tín hữu. Năm 1758, Vol-tai-re đã dám tuyên bố: “Chỉ hai mươi năm nữa thôi là đạo Công giáo sẽ hết thời”. Rồi năm 1850, P. Prou-dhon lại lên tiếng thách thức: “Lũ tín hữu mê tín các ngươi hãy mau lo giấy thông hành ngay đi. Vì chỉ mươi năm nữa thôi, sẽ không còn một linh mục nào còn sống sót để xức dầu cho các người !” Đến năm 1904, Com-bes cũng tuyên bố: “Chỉ ba tháng nữa là bọn giáo sĩ phản động sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt !”.
Quả thật, thời nào cũng có những người thù ghét đạo công giáo và tiên báo về ngày tàn của Hội thánh này. Nhưng đến nay không ai trong bọn họ còn sống sót, đang khi Hội thánh vẫn trường tốn và ngày một phát triển. Thánh Au-gus-ti-nô có lần đã phát biểu: ”Những kẻ thù ghét đạo Chúa nhìn Hội thánh và nói: Hội thánh sắp chết, bọn giáo dân đã đến ngày tận số ! Nhưng tôi thấy bọn người đó đều chết đi mỗi ngày, trong khi Hội thánh vẫn luôn tồn tại để rao giảng quyền năng của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau mãi”.
3. SUY NIỆM:
Các Đức Giáo hoàng là những đấng kế vị thánh Phê-rô Tông đồ, để thay Chúa Giê-su chăn dắt đoàn chiên Hội thánh. Các ngài cũng được Chúa Giê-su trao quyền tối thượng là không thể sai lầm khi chính thức công bố điều gì về đức tin và luân lý, như Chúa Giê-su đã hứa ban cho Tông đồ Phê-rô: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
1) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: TẢNG ĐÁ ĐỨC TIN.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng nghĩ gì về Người, các ông đã trả lời: Họ cho Người là ngôn sứ Ê-li-a, Giê-rê-mi-a hay là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại... Riêng ông Si-mon Phê-rô khi được Thầy hỏi lập trường đức tin, đã đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng như sau: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Giê-su đã khen ông thật có phúc vì đã được Chúa Cha mặc khải điều ấy (x. Mt 16,17). Người đã đổi tên Si-mon thành ra Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá đức tin này, Người sẽ xây dựng Hội Thánh của Người. Người hứa sẽ làm cho Hội thánh ấy luôn vững bền (x. Mt 16,18). Cuối cùng Người còn ban quyền tối thượng qua việc trao chìa khoá Nước Trời, để Phê-rô có quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19).
Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là Tảng Đá sống động và là nền móng xây dựng Hội Thánh (x. 1 Pr 2,4-5). Cũng như chỉ mình Người mới nắm giữ “chìa khóa vua Đa-vít” (x. Kh 3,7). Nhưng tông đồ Phê-rô nhờ đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê-su nên đã trở thành tảng đá Đức Tin của Hội Thánh. Ông còn được Chúa Giê-su trao cho chìa khóa Nước Trời để thay Người cầm buộc và tháo cởi ở trần gian.
2) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: MỤC TỬ TỐT LÀNH NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU.
Phê-rô không những tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Mt 16,16), mà ông còn ba lần tuyên xưng lòng mến Thầy: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Chính nhờ lòng tin yêu ấy, mà Phê-rô đã được Đức Giê-su đặt làm đầu Hội Thánh và được chia sẻ quyền chăn chiên với Người. Đức Giê-su cũng cầu nguyện để Phê-rô khỏi bị mất đức tin hầu chu toàn sứ vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô còn chứng tỏ là một mục tử tốt lành khi sẵn sàng thí mạng vì đàn chiên noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su (x. Ga 10,11). Thực vậy, khi Phê-rô đang cai quản giáo đoàn Rô-ma, cơn bách hại các tín hữu do hoàng đế Nê-rông nổ ra, tông đồ Phê-rô đã phải cải trang và trốn thoát được ra ngoài thành. Nhưng bất ngờ ông nhìn thấy Chúa Phục Sinh đang đi ngược chiều vào thành. Khi Phê-rô hỏi: “Thầy đi đâu ?” thì được nghe Thầy trả lời: “Thầy đi vào trong thành để chịu đóng đinh một lần nữa” rồi Người biến mất. Phê-rô đã hiểu ý Chúa Giê-su nên ông lập tức quay vào thành Rô-ma rồi bị bắt và chịu đóng đinh thập giá chung với các tín hữu, để củng cố đức tin cho anh em trong cơn bách hại. Phê-rô đã yêu cầu được chịu đóng đanh ngược đầu xuống đất để theo Thầy “đến nơi ông không muốn đến” đúng như Chúa Phục Sinh đã từng tiên báo (x. Ga 21,18-19).
3) BỔN PHẬN CỦA CÁC TÍN HỮU ĐỐI VỚI CÁC MỤC TỬ TRONG HỘI THÁNH.
Công đồng Vatican II đã khẳng định: Mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh. Mỗi người phải tùy theo hoàn cảnh và khả năng mà xây dựng Hội Thánh. Cần xác tín rằng Hội thánh được xây trên nền đá đức tin của tông đồ Phê-rô nên luôn vững bền, cho dù gặp phải muôn vàn trở lực. Mỗi tín hữu chúng ta cũng là những viên đá sống động xây nên ngôi nhà Hội thánh, nên cũng có nhiệm vụ phải yêu mến và bảo vệ Hội thánh. Cụ thể là xây dựng Hội thánh cụ thể là gia đình mình, giáo xứ và môi trường xã hội mình đang sông ngày một an toàn sạch đẹp và hạnh phúc hơn.
Ngày nay Hội Thánh vẫn gặp không ít những khó khăn do các thế lực thù địch bên ngoài, và ngay cả trong lòng Hội thánh: Nhiều tín hữu tại các nước Âu châu đã bỏ dự lễ Chúa Nhật ở nhà thờ; Một số khá đông các tín hữu các nước Nam Mỹ đã rời bỏ Hội thánh Công giáo để chạy theo các lạc giáo; Số tu sĩ chủng sinh giảm sút ở nhiều nơi; Nhiều vị mục tử bị báo chí công kích về tội ấu dâm; Ngay Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô cũng bị giới truyền thông chỉ trích vì cho rằng ngài đã bao che cho tội lỗi của một số giáo sĩ; Nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng như đòi phong chức linh mục cho phụ nữ…
Ước gì mỗi tín hữu chúng ta hôm nay biết cảm thông với những khó khăn của các vị mục tử. Hãy năng cầu nguyện xin Chúa biến đổi các linh mục trở thành những mục tử tốt lành đúng theo ý Chúa muốn, để các ngài thi hành sứ vụ chăn dắt đoàn chiên với tấm lòng bao dung nhân hậu như Mục Tử nhân lành Giê-su. Mỗi người chúng ta cũng hãy luôn trung thành với việc thực hành đức tin qua các giờ kinh tối gia đình hằng ngày, tích cực học sống Lời Chúa hằng tuần và năng xưng tội rước lễ. Hãy liên kết thành những cộng đoàn nhóm nhỏ để sống tình huynh đệ là dấu chỉ môn đệ đích thực của Đức Giê-su, cùng nhau phục vụ những người bất hạnh và bị bỏ rơi noi gương cộng đoàn Hội thánh sơ khai. Luôn kết hiệp với Đức Ma-ri-a cầu xin Thánh Thần đến thánh hóa các tín hữu, biến đổi các gia đình, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận… và môi trường mình đang sống ngày một xanh sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn và an bình hạnh phúc hơn.
4. THẢO LUẬN:
1) Theo ý bạn, Hội Thánh hôm nay, trong đó có các tín hữu chúng ta, có những khuyết điểm nào cần phải phải cấp thời sưả đổi canh tân ?
2) Muốn cho việc canh tân bản thân, gia đình và xã hội hữu hiệu, chúng ta cần áp dụng các phương cách nào ?
3) Bạn có yêu mến và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha chưa? Bạn quyết tâm trong những ngày sắp tới sẽ làm gì cụ thể để cảm thông với những nỗi lo của Hội Thánh ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con không hiểu tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học, nhiều khuyết điểm và đã có gia đình làm Tông đồ và ban cho ông trở thành Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh. Chúng con biết rằng Chúa muốn xây dựng Hội thánh trên Tảng Đá đức tin của tông đồ Phê-rô, một người tuy yếu hèn nhưng lại có lòng mến Chúa hơn các anh em.
- LẠY CHÚA. Hôm nay Chúa cũng kêu gọi mỗi tín hữu chúng con đi theo làm môn đệ của Chúa. Xin cho chúng con một chút can đảm của thánh Phê-rô, để chúng con sẵn sàng đến với anh em lương dân rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho họ. Xin cho chúng con quyết tâm loại bỏ những mặc cảm tội lỗi trong quá khứ, hồi tâm sám hối và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa để hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân như thánh Phê-rô và các tông đồ.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Nguồn vietcatholic.org
--------------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN, năm A
Is 22,19-23 Rm 11,33-36 Mt 16,13-20
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hay:” Các môn đệ sau khi đã đi theo Chúa Giêsu một thời gian, đã học TN 21-A93
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hay:” Các môn đệ sau khi đã đi theo Chúa Giêsu một thời gian, đã học hỏi nơi Chúa nhiều điều, đặc biệt các ngài đã được Chúa Giêsu dạy bảo, uốn nắn, làm phép lạ trước mặt các ngài. Hôm nay khi nghe dân chúng bàn tán về Chúa với nhiều tước hiệu, với nhiều danh xưng khác nhau. Chúa Giêsu muốn biết các môn đệ nghĩ sao, hiểu thế nào về Ngài ?
Thực tế, khi được kêu mời đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn mù mờ về Thầy của mình, đặc biệt về con đường cứu độ, về ý định của Thiên Chúa đối với Thầy Giêsu, do đó, Chúa Giêsu muốn biết các môn đệ hiểu làm sao về Ngài trong khi có nhiều người dân cho Ngài là Gioan Tẩy Giả, có người nói Ngài là Êlia, là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó ! Tất cả sự hiểu biết của những người đó và những danh hiệu mà họ gán cho Chúa Giêsu, không phải là không đúng, nhưng chỉ đúng một khía cạnh nào đó mà thôi, chưa nói đúng được điều Chúa muốn biết. Nên, nhân đến thành kế cận thành Xê-da Phi-lip-phê, Chúa Giêsu đã được nghe các môn đệ thuật lại việc quần chúng nghĩ về Chúa như chúng ta vừa nghe. Bây giờ, Ngài muốn biết các môn đệ gọi Thầy mình là ai ? Simon Phêrô vẫn là người nhanh n,hảu nhất, đã đại diện các môn đệ, thưa với Chúa Giêsu rằng:” Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống “. Lập tức, Chúa Giêsu đã nói với Phêrô rằng Phêrô là người có phúc và đó là chính mặc khải Thiên Chúa Cha vén mở cho Ngài. Do đó, Chúa đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội. Chúa đổi tên Simon thành Phêrô nghĩa là Tảng Đá, trên Đá Tảng vững chắc, Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh của Ngài sự dữ và kẻ dữ sẽ không làm gì được. Thật lạ lùng, thật kỳ diệu! Bởi vì đây là lời mặc khải của Thiên Chúa, Cha của Chúa Giêsu. Đây là câu trả lời Chúa Giêsu muốn biết. Chúa đã chọn Phêrô làm tông đồ trưởng và sau này, dù Phêrô chối Chúa ba lần như lời Chúa báo trước. Phêrô đã thành thực ăn năn, sám hối, Chúa vẫn thương và tha thứ tội lỗi cho Phêrô. Do đó, khi hỏi về lòng yêu mến của Phêrô, cả ba lần Phêrô đều trả lời:” Vâng, Thầy biết con yêu mến Thầy “ và Chúa nói với Phêrô:” Hãy chăn dắt chiên của Ta “ “ Hãy củng cố đức tin của anh em con “. Chúa luôn yêu, tin tưởng Phêrô và các tông đồ của Ngài. Chính vì thế, khi về Trời, Chúa luôn tưởng vào các tông đồ và một nhóm các tín hữu, các người phụ nữ đạo đức, thánh thiện. Ngài trao phó cho họ tiếp tục sứ mạng cứu thế của Ngài ở dưới trần gian này.
Lời tuyên tín của thánh Phêrô cũng là lời tuyên xưng của các tông đồ, của Matta và của toàn thể Giáo Hội. Chúa tin tưởng Giáo Hội vì Giáo Hội thay mặt Ngài tiếp tục sứ mạng cứu rỗi của Ngài và Ngài luôn hiện diện với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế! Lúc nào Chúa cũng hiện diện với Giáo Hội, trong Giáo Hội và với Giáo Hội. Do đó, giờ đây nếu Chúa hiện ra với chúng ta và hỏi như Chúa đã hỏi các môn đệ xưa, chắc chắn mỗi người chúng ta sẽ mau mắn, can đảm và hãnh diện tuyên xưng:” Thấy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian “ , Và như thế chúng ta thực là có phúc vì quả thật chúng ta không thấy Chúa bằng xương bằng thịt như các môn đệ, các tông đồ và nhiều người xưa nhưng:” Phúc cho chúng ta vì chúng ta đã không thấy mà tin “ như chính lời Chúa đã phán xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn tin Chúa, luôn phó thác vào Chúa và luôn cậy trông vào Đức Mẹ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai ?
2.Các môn để bảo Chúa Giêsu là ai ?
3.Ai đã bảo cho Phêrô biết về Chúa Giêsu ?
4.Chúng ta hiểu sao về Chúa Giêsu ?
--------------------------------------
CHÚA NHẬT 21 TN A
Is 22,19-23 ; Rm 11,33-36 ; Mt 16,13-20
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 16,13-20
(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai ?” (14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ” (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na. Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (20) Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
2. Ý CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN CỦA SI-MON:
Để trả lời cho câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai ?”, Các môn đệ lần lượt kể lại dư luận về vai trò và: TN 21-A94
Để trả lời cho câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai ?”, Các môn đệ lần lượt kể lại dư luận về vai trò và sứ mạng của Đức Giê-su. Riêng ông Si-mon đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Ông đã được Đức Giê-su khen là có phúc và được Người đổi tên thành Phê-rô, nghĩa là “Tảng đá”. Người hứa sẽ xây Hội Thánh trên tảng đá đức tin của ông, và cho ông khả năng chiến thắng ma quỷ. Người cũng trao quyền tối thượng để ông cầm buộc hay tháo cởi về đức tin và luân lý ở trần gian.
3. CHÚ THÍCH VÀ HỎI ĐÁP:
HÒI 1: Tên Phê-rô nghĩa là gì và việc đổi tên mang ý nghĩa thế nào ? Tại sao Đức Giê-su lại xây Hội Thánh của Người trên con người yếu đuối bất toàn Phê-rô, đang khi chỉ Người mới chính là Tảng Đá đích thực (x. 1 Pr 2,4) ?
ĐÁP:
- Phê-rô hay Kê-pha nghĩa là Tảng Đá và có hai nghĩa: Một là viên đá lớn, hai là tên riêng của vị Tông đồ Cả do Đức Giê-su đặt thay thế tên cũ là Si-mon. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa thường thay đổi tên kẻ Người muốn trao phó sứ vụ đặc biệt. Chẳng hạn: tổ phụ Áp-ram được Chúa đổi tên thành Áp-ra-ham nghĩa là “Cha của vô số người” (x. St 17,5) để trao cho ông sứ vụ làm “Tổ phụ nhiều dân tộc” (x. Rm 4,17).
- Phê-rô tuy yếu đuối và đã từng sa ngã phạm tội chối Thầy ba lần (x. Mt 26,69-74), nhưng ông đã được Đức Giê-su thức tỉnh qua tiếng gà gáy và cái nhìn yêu thương khiến ông lập tức hồi tâm sám hối (x. Lc 22,61-62). Về sau ông cũng tuyên xưng lòng mến Thầy ba lần, nên đã được Người tha tội ba lần chối Thầy. Chính lòng mến của ông Phê-rô khiến ông xứng đáng được ơn tha thứ như có lần Người đã nói về ơn tha tội cho người phụ nữ tội lỗi đặt trọn niềm tin yêu nơi Người: “Tội của chị ta rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị ta đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (x. Lc 7,47).
- Đức Giê-su hứa sẽ xây dựng Hội Thánh trên Tảng Đá vững chắc. Vậy Tảng Đá vững chắc nói đây là con người bất toàn Phê-rô hay là đức tin vào Đức Ki-tô của ông ? Về vấn đề này thánh Phê-rô đã viết như sau: “Anh em hãy lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng... Còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa” (1 Pr 2,4-7). Còn thánh Phao-lô cũng khẳng định như sau: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô” (1 Cr 3,11). Như vậy Tảng Đá góc tường của tòa nhà Hội Thánh chính là Đức Giê-su, và các tín hữu chúng ta cũng là những viên đá sống động của tòa nhà Hội Thánh này.
Riêng đối với ông Si-mon, nhờ lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, ông đã được Người khen là có phúc và đổi tên từ Si-mon thành Phê-rô nghĩa là Tảng Đá. Trên nền móng Đá “Đức Tin Vào Đức Giê-su” này, mà Hội Thánh đã được xây dựng. Đức Giê-su còn trao cho Phê-rô chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi. Người cũng hứa sẽ cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và sau khi trở lại ông có trách nhiệm củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt chiên con chiên mẹ của Người nhờ có lòng tin yêu mạnh hơn các anh em khác (x. Ga 21,15-17).
HỎI 2: Phải chăng Đức Giê-su chỉ trao quyền cầm buộc tháo cởi riêng cho Tông Đồ Phê-rô, chứ không trao cho các Đức Giáo Hoàng là những đấng kế vị sau này ?
ĐÁP:
Nếu hiểu theo sát nghĩa đen thì câu trao chìa khóa với quyền cầm buộc và tháo cởi chỉ được ban riêng cho Tông đồ Phê-rô. Nhưng Chúa cũng ngầm nói đến Hội Thánh mà Phê-rô là người đứng đầu. Thực vậy, Đức Giê-su đã hứa Hội Thánh được xây trên nền đá đức tin của Phê-rô sẽ trường tồn bất diệt, nên Người cũng muốn quyền được ban cho Phê-rô phải tiếp tục được lưu truyền cho các đấng kế vị sau này là các Đức Giáo hòang kế vị Phê-rô. Chính vì thế, Giáo hội đã khẳng định rằng: Đức Giáo hoàng khi đứng trên tòa thánh Phê-rô mà công bố điều gì về đức tin và luân lý, đều được Chúa Thánh Thần ban ơn vô ngộ, nghĩa là không thể sai lầm được. Vì cũng như Phê-rô xưa, tuy các Đức Giáo hoàng có thể sai lầm trong những lãnh vực khác như chính trị, kinh tế…, thậm chí có vị còn sa ngã phạm tội nặng nề như Giáo hoàng Alexander VI… Nhưng như Phê-rô đã được ơn kiên vững đức tin thế nào, thì các Đức Giáo hoàng cũng được Đức Giê-su luôn cầu nguyện để khỏi bị mất đức tin, hầu có thể chu toàn nhiệm vụ “củng cố đức tin cho các anh em” (x. Lc 22,31-32).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MẨU CHUYỆN VỀ THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:
Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II như sau: Khi còn là sinh viên Ba-lan đi du học tại Rô-ma, một hôm khi cùng các bạn sinh viên đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô được tiếng là rất đạo đức thánh thiện, đã từng được Chúa Giê-su hiện ra ban năm dấu thánh trên mình giống như Người. Vừa gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa”. Bấy giờ cậu sinh viên trả lời: “Con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng được !”. Nhưng thánh ý Chúa quả thật nhiệm mầu: Hồng y Vốt-ti-la người Ba-lan sau này đã được bầu làm Giáo hoàng, nhận danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ Nhị. Về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng trường thánh Phê-rô. Hơn 20 năm sau, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin: Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng viết một bức thư (trước đó chưa được công bố), cho M. Ag-ca, kẻ đã bắn ngài trọng thương vào năm 1981. Linh mục S Dziwisz thư ký riêng của Đức thánh Giáo hoàng đã xác nhận sự tồn tại của lá thư trên và cho biết nó đã không được gửi đến người nhận. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát. Trong thư, Đức Gio-an Phao-lô II đã hỏi Ag-ca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại muốn giết ngài, trong khi cả hai cùng tôn thờ Chúa ? Theo tờ Rzeczpospolita, lúc đầu vị thánh Giáo hoàng đã định gửi bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại thôi không gửi đi nữa, và thay vào đó, đến năm 1983 ngài đã đền gặp trực tiếp kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại một nhà tù ở Ý, và đã sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Ag-ca đã bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý. Đức Gio-an Phao-lô II là vị Giáo hoàng thứ 264 kể từ Tông đồ Phê-rô là Giáo hoàng đầu tiên. Hiện nay Đức Phan-xi-cô lên thay thế Đức Bê-nê-đích-tô 16 và là vị Giáo Hòang thứ 266 kể từ thánh Phê-rô Tông đồ. Ngoài ra vào ngày 27/04/2014 vừa qua, Đức cố Giáo hòang Gio-an Phao-lô II đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô phong Thánh chung với thánh Giáo hoàng Gio-an 23 tại đền thánh Phê-rô ở Rô-ma vào ngày Chúa Nhật II PS là lễ kính Lòng Chúa Thương Xót.
2) HỘI THÁNH XÂY TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN CỦA PHÊ-RÔ LUÔN TRƯỜNG TỒN:
Qua nhiều thế kỷ từ ngày thành lầp đến nay, Hội thánh do Chúa Giê-su thiết lập đã trải qua nhiều nguy cơ có thể sụp đổ, nhưng Hội thánh vẫn trường tồn nhờ được xây trên nền đá vững chắc là đức tin của Phê-rô vào Chúa Giê-su như sau:
Dưới thời Hoàng đế Di-o-cle-si-a-nô, Đế quốc Rô-ma quyết tâm tiêu diệt Hội thánh của Chúa Ki-tô. Năm 305, Di-o-cle-si-a-nô đã ra lệnh đúc những đồng tiền bằng kim loại trên đó có dòng chữ: “Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt”. Nhưng rồi sau đó Hội Thánh đã vượt qua cơn bách hại của đế quốc và không ngừng phát triển đi khắp thế gian.
Đến thời kỳ Trung cổ tại Âu châu, nhiều nhà trí thức vô thần đã hè nhau đánh đổ đức tin của các tín hữu. Năm 1758, Vol-tai-re đã dám tuyên bố: “Chỉ hai mươi năm nữa thôi là đạo Công giáo sẽ hết thời”. Rồi năm 1850, P. Prou-dhon lại lên tiếng thách thức: “Lũ tín hữu mê tín các ngươi hãy mau lo giấy thông hành ngay đi. Vì chỉ mươi năm nữa thôi, sẽ không còn một linh mục nào còn sống sót để xức dầu cho các người !” Đến năm 1904, Com-bes cũng tuyên bố: “Chỉ ba tháng nữa là bọn giáo sĩ phản động sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt !”.
Quả thật, thời nào cũng có những người thù ghét đạo công giáo và tiên báo về ngày tàn của Hội thánh này. Nhưng đến nay không ai trong bọn họ còn sống sót, đang khi Hội thánh vẫn trường tốn và ngày một phát triển. Thánh Au-gus-ti-nô có lần đã phát biểu: ”Những kẻ thù ghét đạo Chúa nhìn Hội thánh và nói: Hội thánh sắp chết, bọn giáo dân đã đến ngày tận số ! Nhưng tôi thấy bọn người đó đều chết đi mỗi ngày, trong khi Hội thánh vẫn luôn tồn tại để rao giảng quyền năng của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau mãi”.
3. SUY NIỆM:
Các Đức Giáo hoàng là những đấng kế vị thánh Phê-rô Tông đồ, để thay Chúa Giê-su chăn dắt đoàn chiên Hội thánh. Các ngài cũng được Chúa Giê-su trao quyền tối thượng là không thể sai lầm khi chính thức công bố điều gì về đức tin và luân lý, như Chúa Giê-su đã hứa ban cho Tông đồ Phê-rô: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
1) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: TẢNG ĐÁ ĐỨC TIN.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng nghĩ gì về Người, các ông đã trả lời: Họ cho Người là ngôn sứ Ê-li-a, Giê-rê-mi-a hay là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại... Riêng ông Si-mon Phê-rô khi được Thầy hỏi lập trường đức tin, đã đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng như sau: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Giê-su đã khen ông thật có phúc vì đã được Chúa Cha mặc khải điều ấy (x. Mt 16,17). Người đã đổi tên Si-mon thành ra Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá đức tin này, Người sẽ xây dựng Hội Thánh của Người. Người hứa sẽ làm cho Hội thánh ấy luôn vững bền (x. Mt 16,18). Cuối cùng Người còn ban quyền tối thượng qua việc trao chìa khoá Nước Trời, để Phê-rô có quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19).
Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là Tảng Đá sống động và là nền móng xây dựng Hội Thánh (x. 1 Pr 2,4-5). Cũng như chỉ mình Người mới nắm giữ “chìa khóa vua Đa-vít” (x. Kh 3,7). Nhưng tông đồ Phê-rô nhờ đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê-su nên đã trở thành tảng đá Đức Tin của Hội Thánh. Ông còn được Chúa Giê-su trao cho chìa khóa Nước Trời để thay Người cầm buộc và tháo cởi ở trần gian.
2) TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ: MỤC TỬ TỐT LÀNH NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU.
Phê-rô không những tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Mt 16,16), mà ông còn ba lần tuyên xưng lòng mến Thầy: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Chính nhờ lòng tin yêu ấy, mà Phê-rô đã được Đức Giê-su đặt làm đầu Hội Thánh và được chia sẻ quyền chăn chiên với Người. Đức Giê-su cũng cầu nguyện để Phê-rô khỏi bị mất đức tin hầu chu toàn sứ vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô còn chứng tỏ là một mục tử tốt lành khi sẵn sàng thí mạng vì đàn chiên noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su (x. Ga 10,11). Thực vậy, khi Phê-rô đang cai quản giáo đoàn Rô-ma, cơn bách hại các tín hữu do hoàng đế Nê-rông nổ ra, tông đồ Phê-rô đã phải cải trang và trốn thoát được ra ngoài thành. Nhưng bất ngờ ông nhìn thấy Chúa Phục Sinh đang đi ngược chiều vào thành. Khi Phê-rô hỏi: “Thầy đi đâu ?” thì được nghe Thầy trả lời: “Thầy đi vào trong thành để chịu đóng đinh một lần nữa” rồi Người biến mất. Phê-rô đã hiểu ý Chúa Giê-su nên ông lập tức quay vào thành Rô-ma rồi bị bắt và chịu đóng đinh thập giá chung với các tín hữu, để củng cố đức tin cho anh em trong cơn bách hại. Phê-rô đã yêu cầu được chịu đóng đanh ngược đầu xuống đất để theo Thầy “đến nơi ông không muốn đến” đúng như Chúa Phục Sinh đã từng tiên báo (x. Ga 21,18-19).
3) BỔN PHẬN CỦA CÁC TÍN HỮU ĐỐI VỚI CÁC MỤC TỬ TRONG HỘI THÁNH.
Công đồng Vatican II đã khẳng định: Mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh. Mỗi người phải tùy theo hoàn cảnh và khả năng mà xây dựng Hội Thánh. Cần xác tín rằng Hội thánh được xây trên nền đá đức tin của tông đồ Phê-rô nên luôn vững bền, cho dù gặp phải muôn vàn trở lực. Mỗi tín hữu chúng ta cũng là những viên đá sống động xây nên ngôi nhà Hội thánh, nên cũng có nhiệm vụ phải yêu mến và bảo vệ Hội thánh. Cụ thể là xây dựng Hội thánh cụ thể là gia đình mình, giáo xứ và môi trường xã hội mình đang sông ngày một an toàn sạch đẹp và hạnh phúc hơn.
Ngày nay Hội Thánh vẫn gặp không ít những khó khăn do các thế lực thù địch bên ngoài, và ngay cả trong lòng Hội thánh: Nhiều tín hữu tại các nước Âu châu đã bỏ dự lễ Chúa Nhật ở nhà thờ; Một số khá đông các tín hữu các nước Nam Mỹ đã rời bỏ Hội thánh Công giáo để chạy theo các lạc giáo; Số tu sĩ chủng sinh giảm sút ở nhiều nơi; Nhiều vị mục tử bị báo chí công kích về tội ấu dâm; Ngay Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô cũng bị giới truyền thông chỉ trích vì cho rằng ngài đã bao che cho tội lỗi của một số giáo sĩ; Nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng như đòi phong chức linh mục cho phụ nữ…
Ước gì mỗi tín hữu chúng ta hôm nay biết cảm thông với những khó khăn của các vị mục tử. Hãy năng cầu nguyện xin Chúa biến đổi các linh mục trở thành những mục tử tốt lành đúng theo ý Chúa muốn, để các ngài thi hành sứ vụ chăn dắt đoàn chiên với tấm lòng bao dung nhân hậu như Mục Tử nhân lành Giê-su. Mỗi người chúng ta cũng hãy luôn trung thành với việc thực hành đức tin qua các giờ kinh tối gia đình hằng ngày, tích cực học sống Lời Chúa hằng tuần và năng xưng tội rước lễ.Hãy liên kết thành những cộng đoàn nhóm nhỏ để sống tình huynh đệ là dấu chỉ môn đệ đích thực của Đức Giê-su, cùng nhau phục vụ những người bất hạnh và bị bỏ rơi noi gương cộng đoàn Hội thánh sơ khai. Luôn kết hiệp với Đức Ma-ri-a cầu xin Thánh Thần đến thánh hóa các tín hữu, biến đổi các gia đình, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận… và môi trường mình đang sống ngày một xanh sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn và an bình hạnh phúc hơn.
4. THẢO LUẬN:
1) Theo ý bạn, Hội Thánh hôm nay, trong đó có các tín hữu chúng ta, có những khuyết điểm nào cần phải phải cấp thời sưả đổi canh tân ? 2) Muốn cho việc canh tân bản thân, gia đình và xã hội hữu hiệu, chúng ta cần áp dụng các phương cách nào ? 3) Bạn có yêu mến và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha chưa? Bạn quyết tâm trong những ngày sắp tới sẽ làm gì cụ thể để cảm thông với những nỗi lo của Hội Thánh ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con không hiểu tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học, nhiều khuyết điểm và đã có gia đình làm Tông đồ và ban cho ông trở thành Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh. Chúng con biết rằng Chúa muốn xây dựng Hội thánh trên Tảng Đá đức tin của tông đồ Phê-rô, một người tuy yếu hèn nhưng lại có lòng mến Chúa hơn các anh em.
- LẠY CHÚA. Hôm nay Chúa cũng kêu gọi mỗi tín hữu chúng con đi theo làm môn đệ của Chúa. Xin cho chúng con một chút can đảm của thánh Phê-rô, để chúng con sẵn sàng đến với anh em lương dân rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho họ. Xin cho chúng con quyết tâm loại bỏ những mặc cảm tội lỗi trong quá khứ, hồi tâm sám hối và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa để hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân như thánh Phê-rô và các tông đồ.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
------------------------------------------
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 16:13-20)
Sống với nhau cả mấy chục năm trời, nhưng nhiều khi vợ chồng vẫn than phiền người này không hiểu người kia: TN 21-A95
Sống với nhau cả mấy chục năm trời, nhưng nhiều khi vợ chồng vẫn than phiền người này không hiểu người kia. Các tông đồ đi theo Chúa Giê-su cũng gần ba năm trời rồi mà các ông vẫn chưa thực sự biết Người là ai. Các ông chỉ căn cứ vào những nhận xét của người ngoài, như dân chúng, lời đồn thổi, hoặc căn cứ vào những tham vọng của chính mình để đi tới kết luận Người là ai. Trong biến cố tại Xê-da-rê Phi-líp-phê hôm nay, Thiên Chúa Cha đã trực tiếp can thiệp, hé lộ cho Phê-rô và các bạn ông biết chân tính của Con Một Người. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là khởi đầu cho một cuộc khám phá mới, không phải qua những thông tin này nọ, mà là qua mối tương quan tình yêu mật thiết giữa các ông và Chúa Giê-su.
Câu chuyện mặc khải cho Phê-rô xảy ra tại vùng sâu vùng xa, ở đó chỉ có Chúa và các tông đồ, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Trong khung cảnh “riêng tư” ấy, các môn đệ Chúa dễ thành thực trải lòng và niềm tin không còn bị ảnh hưởng nào chi phối. Chúa Giê-su nhìn thẳng vào các tông đồ. Người không quan tâm đến những trả lời cho câu hỏi “Người ta nói Con Người là ai?”, nhưng đến câu trả lời của những bạn hữu đã đi theo Người: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” Giữa anh em và Thầy, từ nay phải có một tương quan tình yêu đích thực. Tương quan này cần thiết để bắt đầu một hành trình khám phá mới về chân tính của Con Người. Tình yêu là yếu tố cần thiết để giúp cho cả Chúa Giê-su lẫn các môn đệ chấp nhận được sứ mệnh cứu độ Thiên Chúa Cha trao ban cho Người. Sứ mệnh của Đấng Ki-tô là sẽ phải chịu đau khổ, chết và sống lại. Sứ mệnh này đến chính bản thân Chúa Giê-su cũng khó chấp nhận, huống chi là các môn đệ. Nhưng với tình yêu tuyệt đối dành cho Chúa Cha và cho nhân loại, Chúa Giê-su đã tùng phục thánh ý Chúa Cha, trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân phận người phàm và nô lệ. Cũng thế, với tình yêu tha thiết đối với Thầy, các môn đệ phải từ bỏ mọi tham vọng trần tục của mình để “vâng nghe” Thầy và cùng chia sẻ vào sứ mệnh của Thầy.
Niềm tin của Chúa Giê-su vào tình yêu và thánh ý Chúa Cha đã biến Chúa Giê-su thành “đá góc tường bị thợ xây loại bỏ”, trên đó Thiên Chúa bắt đầu một cuộc tạo dựng mới. Để tuyên xưng niềm tin này, Chúa Giê-su đã từ bỏ mọi sự và cuối cùng là chính mạng sống mình, chết trên thập giá. Hôm nay, trong biến cố tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, ông Phê-rô chỉ mới bắt đầu cuộc tuyên xưng đức tin và khám phá chân tính của Đấng Ki-tô. Thế mà ông đã được Chúa Giê-su chấp nhận niềm tin ấy và đặt ông làm “tảng đá” để Người bắt đầu xây dựng Hội Thánh của Người! Nhưng hành trình khám phá của ông mới bắt đầu thôi, vì Chúa Cha chỉ “mặc khải” cho ông biết danh hiệu của Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô. Còn sứ mệnh của Đấng Ki-tô như thế nào thì chính Chúa Giê-su sẽ từ từ giải thích cho các môn đệ hiểu.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu được thế nào là hành trình đức tin khám phá con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Nó bắt đầu từ “mặc khải” của Thiên Chúa Cha, không dựa trên ý kiến hoặc thông tin của dư luận, nhưng là một tương quan cá nhân và mật thiết với chính Chúa Giê-su, để khởi đi từ lòng yêu mến này, chúng ta vững vàng nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Đấng đã “hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thánh Phao-lô gọi mặc khải của Chúa Cha về danh hiệu Đấng Ki-tô là “sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa” (Rô-ma 11:L33). Cũng như thánh Phê-rô, Phao-lô đã suốt đời tiếp tục hành trình khám phá con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Cả hai vị đã kết thúc hành trình ấy bằng cái chết tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa. Cả hai vị đều là “tảng đá” của tòa nhà Giáo Hội, tảng đá của tình yêu trung thành và tảng đá của nền thần học về Chúa Ki-tô.
Cũng thế, mỗi hành trình đức tin khám phá của chúng ta về Chúa Ki-tô phải giúp chúng ta trở thành “một viên đá sống động” xây dựng Giáo Hội hôm nay. Sứ mệnh ấy đòi hỏi chúng ta phải luôn nhìn lại đức tin và lòng mến của mình đối với Chúa Giê-su, để chúng ta có thể chân thành trả lời câu hỏi của Chúa: “Còn con, con nói Thầy là ai?”
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------------
Chúa Nhật 21 Thường Niên Năm A
(Ys 22,19-23; Rm 11,33-36; Mt 16,13-20)
Phúc Âm: Mt 16, 13-20
"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXI Thường Niên A
Ys 22,19-23; Rm 11,33-36; Mt 16,13-20
Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đã được nghe đọc trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô: TN 21-A96
Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đã được nghe đọc trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Nó có hai phần rõ rệt: những câu đầu tuyên xưng Ðức Yêsu là Kitô; còn những câu sau tuyên bố Phêrô được đặt làm nền tảng xây lên Hội Thánh. Hai phần có thể tách rời nhau, vì quả thật Marcô và Luca đã không đính phần sau vào phần trước. Nhưng Matthêô đã có ý gom hai phần lại để nhấn mạnh sự liên hệ giữa việc Phêrô tuyên xưng đức tin và việc ông được chọn để xây lên Hội Thánh, cũng như giữa Ðức Kitô và con người được chọn để thay quyền Người dưới đất. Chúng ta hôm nay còn đọc lại cả bài Tin Mừng này cùng với hai bài đọc trên để hiểu rõ Hội Thánh và cảm tạ Thiên Chúa về Hội Thánh nhiều hơn.
A. Hội Thánh Là Mầu Nhiệm Ðã Ðược Tiền Ðịnh Từ Ðời Ðời
Bài sách Isaia đã thuật lại một câu truyện trong lịch sử Dân Chúa. Nhưng đó lại là câu truyện có tính cách tiên tri, loan báo kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Và vì thế rất có hệ đến chúng ta.
Vua Israel bấy giờ dùng một vị đại thần hầu như là Nhiếp chính, mặc dầu cấp bậc chính thức chỉ là giám hộ hay chủ hộ. Mọi việc trong triều đều do ông ta định đoạt. Nhưng ông lại là kẻ thuộc hạng "mới làm ăn lên", tài cán không biết thế nào, nhưng chắc chắn rất tham lam và ích kỷ. Chúa sai Isaia đến nói cho ông biết, Người sẽ truất phế và cất chức ông. Và sau đó, Người sẽ đặt Êlyaqim lên thế vị.
Ðiều đáng để ý trong câu truyện này là những lời sấm về Êlyaqim. Ðó là những lời tiên tri rất long trọng, kể ngay từ những chữ đầu tiên. Chúa phán: "Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Êlyaqim". Vì hễ lần nào muốn tuyên sấm về một biến cố trọng đại trong tương lai, Người cũng bắt đầu bằng hai chữ: "Ngày ấy". Nên những gì sẽ xảy ra trong ngày ấy cũng đều có ý nghĩa tiên tri, tức là nằm trong kế hoạch cứu chuộc mầu nhiệm của Chúa. Ở đây Chúa lại còn gọi Êlyaqim là tôi tớ, danh xưng mà Người chỉ dành cho những kẻ được chọn một cách đặc biệt như Abraham, Môsê và Ðavít, trước khi áp dụng một cách tuyệt đối và vĩnh viễn cho Ðấng Cứu Thế.
Chúng ta thật phải lấy làm lạ vì thấy Chúa săn sóc đến Êlyaqim một cách khác thường. Chính tay Người sẽ mặc áo dài cho ông, thắt lưng cho ông và đặt quyền bính vào tay ông. Chúa ban áo dài cho ai là muốn người đó được lãnh chức tư tế; và khi Người thắt lưng cho họ là muốn cho quyền bính của người đó được chặt chẽ và vững vàng. Người còn đặt chìa khóa nhà Ðavít trên vai Êlyaqim. Cử chỉ này chúng ta chỉ hiểu được khi nhớ tới thời phong kiến và xa xưa hơn nữa. Mọi thị trấn và thành phố đều có tường thành kiên cố vây quanh và các cửa ra vào đều hết sức quan trọng. Các cánh cửa thành do đó đều chắc chắn, nặng nề và khóa bằng các then gỗ lớn, không thể cầm bằng tay mà phải vác trên vai. Và vì thế khi đã đóng mở rồi thì chẳng ai ra vào trái lệnh được nữa.
Sau cùng Chúa còn hứa cắm Êlyaqim xuống như một cái đanh nơi đất cứng, để giống như một lều vải đã được cột chặt vào đất, không ai nhổ lên được nữa... Triều đại của Êlyaqim không những sẽ vững bền mà còn vẻ vang và được lòng dân (câu 21 và 23).
Nhưng lịch sử cho thấy sự thật không được như vậy. Êlyaqim được lên chức giám hộ thật: nhưng rồi cái đanh ấy cũng đã bị nhổ đi. Dân Chúa suy nghĩ lại về những lời sấm long trọng kia. Người ta nhận ra rằng Êlyaqim chỉ là hình ảnh và là cớ để Chúa mạc khải kế hoạch cứu độ sâu xa của Người. Ðấng mà Người nhắm kêu gọi và tuyển chọn sẽ không là ai khác ngoài chính Ðức Yêsu Kitô; và cũng không phải chỉ là Ðức Kitô lịch sử sinh sống ở Dothái mà là Chúa Yêsu Kitô viên mãn hằng ở cùng Hội Thánh.
Do đó bài sách Isaia hôm nay nói về Ðức Yêsu và là Ðức Yêsu đang cai trị Hội Thánh. Bài sách ấy nói về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và về Hội Thánh trong kế hoạch ấy. Chúng ta hãy xem Hội Thánh đã được xây lên như thế nào để đáp ứng lời tiên tri trên.
B. Phêrô Là Ðá Xây Lên Hội Thánh
Hôm ấy Ðức Yêsu đi cùng môn đệ đến địa hạt Caisaria. Chi tiết nơi chốn này cũng đáng để ý hầu chúng ta thấy rằng Hội Thánh của Chúa sẽ vượt ra khỏi ranh giới Dothái ngày xưa và bao gồm tất cả dân ngoại.
Ðức Yêsu hỏi môn đồ: dư luận người ta nghĩ Người là ai? Người muốn biết tâm tư của mọi người sau một thời gian giảng đạo để chuyển sang một giai đoạn mới.
Môn đồ trả lời: kẻ bảo là Yoan Tẩy giả; kẻ bảo là Êlya; kẻ khác lại nghĩ là Yêrêmya hay một tiên tri nào khác. Thực ra môn đồ đã bắt đầu nói đến ý kiến của Hêrôđê vì ông này có mặc cảm đã giết Yoan Tẩy giả nên thấy Ðức Yêsu dường như là hiện thân của vị tiền hô. Rồi họ đã kể đến dư luận chung hơn, nghĩ Ðấng Thiên sai sẽ là Êlya trở lại. Một mình Matthêô đưa ra ý kiến Ðức Yêsu là Yêrêmya vì có dư luận cho rằng Ðấng Thiên sai cũng sẽ là nhà tiên tri bị bắt bớ. Nhưng nếu chẳng ý kiến nào trên đây được ưu thế, thì đây là ý kiến chắc không thể sai được: Ðức Yêsu là một trong các vị tiên tri thời danh kia. Ðó là dư luận chính thức của Dothái giáo thời bấy giờ. Giới tư tế cho rằng thời tiên tri đã mãn. Vậy nếu Ðấng Thiên sai sẽ đến là tiên tri, thì Người chỉ có thể là một trong các tiên tri "lớn" trước đây trở lại.
Dù sao cách trả lời của môn đồ cũng cho thấy mọi người đã công nhận uy thế của Ðức Yêsu. Người ta chưa biết đúng Người là ai, nhưng họ đã tin Người là Ðấng được Thiên Chúa tuyển chọn để làm một công việc rất lớn lao nào đây. Nếu dùng lại danh xưng trong bài đọc 1 nói về Êlyaqim, ta có thể bảo thiên hạ bấy giờ đều coi Ðức Yêsu là "người tôi tớ của Thiên Chúa" rồi.
Còn tâm tư của chính các môn đồ thì sao?
Phêrô "lên tiếng", tức là đã nói thay cho cả đoàn rằng: "Thầy là Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Có thật Phêrô đã nói như thế không? Vì trong Marcô và Luca, ông chỉ thưa: Thầy là Kitô. Còn những chữ "Con Thiên Chúa hằng sống" là của riêng sách Tin Mừng Matthêô và dường như là thành ngữ tuyên xưng đức tin của Hội Thánh sau ngày Ðức Yêsu hiển vinh. Nếu thực sự như vậy thì càng chứng tỏ trong đoạn Tin Mừng này, Phêrô được coi như gắn liền với Hội Thánh. Lời tuyên xưng của ông trở thành đức tin đã được ban cho Hội Thánh. Hội Thánh đang nằm ở trong con người ông. Nói đúng hơn, Hội Thánh đang được xây lên từ ông.
Quả vậy, ông vừa dứt lời thì Ðức Yêsu đã mừng rỡ tuyên bố như đứng trước một mạc khải mới: "Con có phúc, hỡi Simon con Yôna, vì không phải thịt máu mạc khải cho con biết điều ấy, nhưng là Cha Ta Ðấng ngự trên trời". Nếu không phải "những yếu tố" loài người nói lên điều tuyên xưng kia, thì Simon đã trở thành dụng cụ của Cha trên trời rồi.
Chúa Cha muốn dùng Simon vào việc nào đây? Ðức Yêsu sắp ra đi chịu chết cứu chuộc nhân loại , thì hẳn Simon được thiên định hợp tác trong công cuộc này, một công cuộc còn phải nối dài trong mọi thế hệ. Và như vậy lời tiên tri về Êlyaqim, như đã nói trên, cũng phải được thực hiện nơi Simon qua Ðức Yêsu.
Thế nên Ðức Yêsu đã phán tiếp: Simon, từ nay con sẽ gọi là Phêrô, là Thạch, là Ðá; con sẽ có một định mệnh mới là trở nên Ðá kiên cố để Ta xây Hội Thánh của Ta trên Ðá này. Cửa hỏa ngục, tức là sức mạnh của tử thần và tà thần muốn công phá cũng không làm gì được. Vì như trên đã nói "Cửa thành" là nơi tung sức trong thành ra và cũng là ngõ để kẻ thù tấn công vào. Nói cho đúng, Phêrô không phải là cửa thành vì chính Ðức Yêsu mới là cửa vào đàn chiên; nhưng Hội Thánh xây trên Ðá Phêrô sẽ phải chịu sức tấn công của cửa hỏa ngục. Và khi nói như vậy, chúng ta không được hình dung Hội Thánh luôn luôn ở thế thủ. Chúa không nói Hội Thánh chịu tấn công. Người khẳng định: cửa hỏa ngục không làm gì được Hội Thánh. Vì khi làm việc rao giảng Phúc Âm và làm các Bí tích, Hội Thánh đâu có ở thế thủ. Nhưng hỏa ngục vẫn không làm gì được. Người ta vẫn tin theo lời giảng dạy của Hội Thánh và đi vào Nước Trời.
Như vậy Hội Thánh đã thực hiện lời tiên tri về Êlyaqim: đó là cái đanh Chúa đã cắm xuống đất cứng không thể nhổ lên được nữa. Và như Êlyaqim đã được trao chìa khóa thành, thì Phêrô đã được trao chìa khóa Nước Trời. Mà chìa khóa ở đây như trên kia đã nói không nhỏ bé nhẹ nhàng đâu, nhưng là then gỗ thật lớn phải vác; và khi đã đóng mở thì chẳng ai làm ngược lại được nữa. Ở đây Ðức Yêsu còn đi xa hơn, coi công việc của Phêrô là chính công việc của Thiên Chúa; Phêrô và Hội Thánh làm thế nào ở dưới đất, trên trời cũng quyết định như vậy.
Thật ra để chỉ công việc của Phêrô, Ðức Yêsu không nói là đóng mở, mà là trói mở. Nhưng trói mở là cột lại và tháo ra, là cho vào và cấm vào; và như vậy cũng là đóng mở cửa Nước Trời. Và nếu phải xác định rõ hơn công việc này, có lẽ chúng ta có thể dừng lại ý tưởng của Ðức Kitô khi nói về Biệt phái. Người trách họ đã không để cho ngưòi ta vào Nước Trời, vì "giáo lý" của họ. Như vậy, quyền đóng mở cửa Nước Trời của Phêrô trước tiên nên được hiểu là quyền giáo huấn, dạy dỗ đức tin để người ta được sống đời đời.
Do đó, chúng ta thấy lời tiên tri về Êlyaqim trở nên lu mờ trước Lời Chúa phán với Phêrô, chứng tỏ Cựu Ước chỉ là hình ảnh báo trước thực tại Tân Ước; và khi thực tại đến, hình ảnh không còn giá trị như trước nữa. Vậy nếu Dân Chúa đã mừng rỡ hân hoan đón nhận lời tiên tri về Êlyaqim như là lời cứu độ, thì chúng ta ngày nay càng phải hân hoan mừng rỡ hơn nữa khi đọc Lời Hứa về Phêrô và Hội Thánh. Ðó là tâm tình mà bài Thánh thư hôm nay muốn gợi lên.
C. Tạ Ơn Thiên Chúa Về Mầu Nhiệm Hội Thánh
Phaolô muốn kết thúc những chương suy nghĩ về số phận dân ngoại và nhất là số phận Israel. Người thấy đó là kế hoạch Thiên Chúa đã trù liệu cho Hội Thánh. Cả dân ngoại, cả Israel đã lầm lạc và lầm than trong tội bất vâng phục, để làm nổi bật tình thương nhưng không và vô biên chan chứa trong Hội Thánh. Thế nên Thánh nhân kêu lên: "Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên Chúa".
Ðó là tiếng nói của tâm hồn dạt dào tình cảm mến, nhưng cũng là những tư tưởng thật đắn đo. Lịch sử dân ngoại và lịch sử Israel là gì nếu chẳng phải là lịch sử cứu độ, lịch sử Chúa trải tình thương vô biên quảng đại trên loài người tội lỗi? Dĩ nhiên ơn cứu độ của Người nằm trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhưng mầu nhiệm này không phải là một sự kiện xảy ra trong một lúc. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi như thế. Mầu nhiệm Chúa Kitô đã chan chứa suốt thời Cựu Ước chi phối cả lời tiên tri về Êlyaqim; mầu nhiệm ấy đang lan rộng trong Hội Thánh cho đến ngày nào đạt tới tầm mức tuyệt vời của Thân thể Ðức Kitô.
Ðó là kế hoạch sâu thẳm chỉ Thánh Thần mới dò được. Mọi sự giàu có phong phú đang chảy ra trong kế hoạch này. Thật là kế hoạch khôn ngoan mà thượng trí Thiên Chúa đã nghĩ ra để chúng ta được mọi ơn thiêng trong Ðức Kitô và nơi Hội Thánh. Và tất cả như vậy là vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đã tự ý ban Ðức Kitô cho chúng ta, đã chọn Phêrô một cách nhưng không để xây nên Hội Thánh. Mọi sự đều do Người, nhờ Người và vì Người.
Do đó chúng ta phải tạ ơn Người. Và biết ơn cụ thể nhất là đi vào trong kế hoạch thâm sâu của Người, tức là vào sống trong mầu nhiệm Ðức Kitô và mầu nhiệm Hội Thánh.
Chính những mầu nhiệm ấy sắp được cử hành trên bàn thờ bây giờ để khi tham dự, chúng ta được kết hợp với Ðức Kitô là người tôi tớ mà Thiên Chúa đã sủng mộ và tuyển chọn một cách đặc biệt để đưa chúng ta, tức là cả dân ngoại và Israel vào Hội Thánh xây trên Ðá Phêrô.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
------------------------------------------
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 16:13-30)
Qua các bài Tin Mừng hai Chúa Nhật trước, chúng ta đã biết thế nào là một đức tin yếu ớt, thế nào là: TN 21-A97
Qua các bài Tin Mừng hai Chúa Nhật trước, chúng ta đã biết thế nào là một đức tin yếu ớt, thế nào là một đức tin mạnh mẽ. Hôm nay bài Tin Mừng muốn chúng ta trở lại với Tông Đồ Phê-rô để khám phá một vai trò nữa của đức tin: Đức tin là tảng đá, là nền móng Giáo Hội.
Khi tuyển chọn các Tông Đồ, Chúa Giê-su đã có chủ ý đặt các ông làm rường cột cho Giáo Hội Người sẽ thiết lập. Riêng đối với Phê-rô, một con người bộc trực nhưng đầy lòng nhiệt thành và yêu mến, Chúa Giê-su muốn ông đứng đầu Nhóm Mười Hai và lãnh đạo Giáo Hội. Tuy nhiên Giáo Hội không đặt nền móng đơn thuần trên con người. Không phải là những khối óc, kiến thức và bằng cấp sẽ là những điều kiện để Giáo Hội được lập nên và tồn tại giống như một chính phủ hoặc tổ chức xã hội, nhưng là lòng tin vào Chúa Giê-su và tin vào kế hoạch của Thiên Chúa. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ xác định rõ ràng họ tin vào ai và tin vào sứ mệnh của người ấy. Nói khác đi, họ cần phải trả lời câu hỏi cốt lõi về đức tin: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”
Thay mặt cho các anh em, Phê-rô nói lên lòng tin vào Chúa Giê-su: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tất cả con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su nằm gọn trong câu trả lời ấy. Thoạt nghe, chúng ta có cảm tưởng đấy là câu trả lời dễ dàng, ai cũng có thể nghĩ ra được! Nhưng thực ra không phải vậy, vì câu trả lời đó không phải là sản phẩm của trí óc, mà là của con tim. Không phải là câu trả lời do “phàm nhân”, mà là được mặc khải do “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Như vậy rõ ràng đức tin là sự đáp trả của con tim đối với điều Thiên Chúa muốn tỏ ra cho chúng ta biết. Chúa Cha đã tỏ ra cho ông Phê-rô và các bạn biết rằng Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Cho nên tin rằng Chúa Giê-su là “Con Thiên Chúa” và sứ mệnh của Người là sứ mệnh của “Đấng Ki-tô”, chính lòng tin này mới là nền tảng để Giáo Hội tồn tại.
Đức tin của Phê-rô và các Tông Đồ là nền móng vững bền của Giáo Hội. Đức tin ấy đã được Chúa Cha mặc khải và ông Phê-rô tuyên xưng, nhưng mới chỉ là khởi đầu cho một hành trình đòi hỏi các ông phải “từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà đi theo Chúa”. Đấng Ki-tô mà các ông theo không phải là một hoàng tử hay ông vua trần gian, nhưng là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa chịu đau khổ và chết nhục để cứu độ nhân loại. Đã biết con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su như vậy, nếu muốn “theo” Chúa thì các ông phải gắn bó với Người, nhận biết sứ mệnh cứu độ của Người và quảng đại hiến thân để cộng tác với Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giê-su, vậy mà Người lại “cấm các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô”! Có phải là Chúa Giê-su mâu thuẫn không? Tại sao Người lại cấm? Chắc chắn Chúa Giê-su biết rõ lý do hơn ai hết. Đó là vì Người muốn các Tông Đồ đồng hành với Người để hiểu rõ sứ mệnh của Người. Họ sẽ cùng với Người đi rao giảng Tin Mừng, chứng kiến cuộc Thương khó và cái chết của Người, nhất là làm chứng cho sự Phục sinh của Người. Nói tóm lại, họ phải biết “Đấng Ki-tô” là ai và làm gì, biết bằng trái tim, khi ấy họ mới có thể “nói cho mọi người biết Người là Đấng Ki-tô”.
Đây đích thực là một bài học về đức tin cho tất cả chúng ta. Có khi nào chúng ta nghĩ lý do tại sao Chúa Giê-su lại cấm chúng ta không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô không? Là vì chúng ta chưa có một lòng tin đích thực. Là vì chúng ta chỉ mới biết Chúa qua mấy bài giáo lý học từ nhỏ. Là vì Chúa Giê-su mới chỉ là đấng xa vời, chứ chưa phải là người Bạn chúng ta gặp gỡ trong cầu nguyện. Chắc chắn còn nhiều lý do khác nữa. Với chúng ta, Giáo Hội là chính Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su muốn thiết lập Giáo Hội trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Nhưng điều kiện trên hết để Người thực hiện việc thiết lập, đó là Người cần một tảng đá, tảng đá tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------------
Chúa Nhật 21A thường niên
Hôm nay nhân loại có đầy đủ phương tiện đi tìm sự thật. Nhưng chưa bao giờ sự thật xa tầm: TN 21-A98
Hôm nay nhân loại có đầy đủ phương tiện đi tìm sự thật. Nhưng chưa bao giờ sự thật xa tầm tay con người đến thế. Có cả trăm cách nhìn khác nhau. Mỗi chiều cạnh được khai thác theo mục đích riêng. Chẳng hạn trong lãnh vực chính trị, sự thật có thể bị bóp méo một cách dễ dàng vì quyền lợi đảng phái. Ngay trong lãnh vực tôn giáo, người ta có thể trục lợi nhờ khéo léo khai thác lòng mê tín của tín hữu. Chỉ có một Đức Kitô. Nhưng có cả trăm thứ Kitô giáo khác nhau. Đức Kitô đã bị xâu xé trăm mảnh.
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy cảnh dư luận xâu xé Đức Kitô ra trăm mảnh như thế. Chúa Giêsu đi giữa những luồng dư luận: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Eâlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ." (Mt13:14) Không hoàn toàn sai, nhưng chưa nói hết sự thật. Dân chúng ngưỡng vọng về Chúa như một nhà cách mạng trong tư tưởng và cơ chế, một người nhân danh Thiên Chúa đến công bố sứ điệp cho người đương thời. Nếu như một Gioan Tẩy Giả, Chúa sẽ nói cho dân biết về Đấng Cứu thế. Nếu là Eâlia, Chúa sẽ báo hiệu thời cánh chung sắp tới. Còn nếu như Giêrêmia, Chúa đến kêu gọi sám hối và canh tân.
Tuy có nhiều cái nhìn khác biệt như vậy, nhưng tất cả đều nhất trí công nhận Chúa là một ngôn sứ. Nhiều lần họ đã tỏ lòng ngưỡng mộ: "Ông này thật là vị ngôn sứ." (Ga 7:40) Đó là tột đỉnh nhận thức của quần chúng về Đức Giêsu. Nhưng ngay trong cái nhìn này, Chúa vẫn thấy còn nhiều thiếu sót. Chính Chúa Giêsu quả quyết:"Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa" (Mt 11:9). Phải đợi sau Phục sinh, niềm tin Kitô mới nhận ra tất cả ý nghĩa Ngôn sứ trong con người và sứ mạng Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu không muốn các môn đệ dừng lại mức nhận thức tầm thường của quần chúng. Người kỳ vọng và thôi thúc các môn đệ nhìn cao hơn và sâu hơn nữa. Bởi vậy Người lên tiếng: "Còn anh em, anh em bảo Thày là ai ?" (Mt 16:15) Niềm kỳ vọng đó quả thực đã được đáp ứng xứng đáng. Chưa ai có thể có câu trả lời tuyệt vời hơn Phêrô: "Thày là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16:16) Không phải tại Phêrô thông minh hơn các môn đệ khác. Nhưng do lòng thương xót, Thiên Chúa đã đưa cái nhìn Phêrô vào tận mối tương quan phụ tử thâm sâu giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa. Chính Chúa quả quyết: "Này anh simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thày, Đấng ngự trên trời."(Mt 16:17)
Niềm tin tuyệt vời đó đã được đáp ứng rất đích đáng. Tin bao nhiêu được bấy nhiêu. Nếu đức tin Phêrô không xoáy sâu vào tận bản chất Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, chưa chắc Phêrô đã được đặt làm nền tảng sâu xa và vững chắc như thế cho Giáo hội. Chúa đã quả quyết với Phêrô: "Thày bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16:18) Rõ ràng mặc khải và lời hứa đều vượt quá khả năng và sức tưởng tượng của Phêrô. Ông đã trở thành nền tảng hữu hình củng cố và hưng phát những nội lực vô hình là chính Thánh Linh, Đấng sẽ được Chúa Giêsu sai đến từ nơi Chúa Cha. Bởi đó sức mạnh tử thần không thể áp đảo được ông. Ông sẽ lãnh đạo Giáo hội trong sứ mệnh giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách thống trị của ác thần. Sứ mệnh đó không chịu khuất phục trước bất cứ sức mạnh nào.
Ông trở thành điểm tựa và qui tụ tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Ông là phát ngôn viên duy nhất của Chúa Giêsu trên trần gian. Đồng thời ông được giao việc quản lý và có toàn quyền như Chúa trong Nước Chúa ở trần gian. Đó là một vinh dự Chúa ban không căn cứ trên công trạng của Phêrô. Chúa bảo đảm quyền bính của Phêrô: "Thày sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điêu gì,trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." (Mt 16:19) Quyền bính này vô cùng cần thiết đễ thiết lập bảo tồn và phát triển Giáo hội. Bởi vậy quyền bính sẽ tồn tại mãi với Giáo hội, chứ không kết thúc với định mệnh cuộc đời Phêrô.
Quyền bính ấy không phải chỉ để cấm đoán, trói buộc, mặc dầu luật lệ vô cùng cần thiết cho bất cứ một tổ chức nào. Ngay trong một sân chơi cũng cần có những luật lệ mới có thể tạo hứng thú và đạt mục đích thể thao. Cuộc sốùng cũng như dòng xe lưu thông trên xa lộ. Bên cạnh những bảng chi đường, có những bảng hạn chế tốc độ và những bảng cấm quẹo phải hay trái v. v. . Mục đích giúp tổ chức xe cộ giao thông nhịp nhàng, tránh tai nạn. Không vì những bảng cấm đó mà khựng lại.
Nhưng chủ yếu quyền bính ấy nhằm giải thoát con người khỏi tầm ảnh hưởng tử thần, dẫn con người đạt tới cùng đích cuộc đời và sống hạnh phúc. Quyền bính vì con người, chứ con người sinh ra không phải vì quyền bính. Nhưng thực tế có nhiều người cứ tưởng mình sinh ra để làm bề trên. Nhiều bề trên cứ tưởng không ai có thể thay thế được mình.
Ngược lại nhiều người tỏ vẻ coi thường quyền bính. Họ luôn sống trong thế đối kháng, dù quyền bính chính đáng và đang phục vụ hạnh phúc con người. Chẳng hạn có những người lãnh đạo hội đoàn tỏ thái độ coi thường các linh mục. Họ không cần những giáo huấn của Lời Chúa, nhưng chỉ căn cứ vào những quy luật, thủ bản của hội. Họ tự coi mình như đại diện Đức Mẹ để ban huấn từ cho hội viên. Nhưng Đức Mẹ rất khiêm nhường. Còn người muốn đại diện Đức Mẹ có khiêm nhường đủ không ? Sinh hoạt trong đoàn thể, nhưng lại tách đoàn thể ra khỏi mạch sống chung của giáo xứ hay Giáo hội, liệu hội đoàn đó có đang làm đúng theo ý Chúa không ?
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
------------------------------------------
Những đề tài suy niệm về Nước Trời đưa ta dần tới tâm điểm là chính Chúa Ki-tô. Nếu không biết: TN 21-A99
Những đề tài suy niệm về Nước Trời đưa ta dần tới tâm điểm là chính Chúa Ki-tô. Nếu không biết được Chúa Ki-tô là Đấng nào, ta sẽ không thể có cái nhìn trọn vẹn về Nước Trời, vì một vương quốc mà không có vua hoặc người lãnh đạo thì không còn là một vương quốc nữa. Lời Chúa hôm nay giới thiệu cho ta biết vai trò của Chúa Ki-tô trong Nước Trời, dựa trên mặc khải của Thiên Chúa qua ngôn sứ I-sai-a và nhất là mặc khải Thiên Chúa ban cho Tông đồ Si-môn Phê-rô. Đồng thời, suy niệm của thánh Phao-lô cũng giúp ta có được một số điểm căn bản về sứ mệnh của Chúa Ki-tô.
1. Thiên Chúa ban chìa khóa nhà Đa-vít cho Chúa Ki-tô (bài đọc Cựu Ước – Is 22:19-23)
Phụng vụ Lời Chúa trích dẫn một sự kiện được ngôn sứ I-sai-a loan báo ám chỉ việc Thiên Chúa trao vương quyền cho Đức Ki-tô. Sép-na, viên tể tướng triều đình thời vua Ê-giê-khát, đã bị truất phế và Thiên Chúa đặt En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu, lên thay thế. Các giáo phụ cũng như phụng vụ đều nhìn nơi En-gia-kim hình ảnh của Đấng Mê-si-a. Vậy những gì Thiên Chúa thực hiện nơi En-gia-kim là hình bóng những gì Thiên Chúa thực hiện nơi Đấng Ki-tô, Con Một Người. Mọi thứ trang phục bề ngoài liên hệ tới chức vụ và địa vị của Sép-na nay đã được chuyển đổi sang cho En-gia-kim. Tuy nhiên, biểu tượng quan trọng nhất giữa những điều Chúa làm cho ông, đó là trao cho ông “Chìa khóa nhà Đa-vít”. Chìa khóa biểu tượng cho uy quyền. Giữ chìa khóa của một ngôi nhà tức là có toàn quyền sử dụng, sắp đặt và gìn giữ nó. Mở cửa nhà hoặc đóng lại là quyền của người giữ chìa khóa. Giờ đây nhà Đa-vít tức là Ít-ra-en đã được Thiên Chúa trao cho En-gia-kim chăm sóc.
Nhưng “Nhà Đa-vít” còn được hiểu là Nước Trời, hoặc Triều Đại Thiên Chúa, hoặc Giáo Hội Chúa Ki-tô. Vậy Chúa Ki-tô đã sử dụng quyền bính Thiên Chúa ban cho để xây dựng Nước Trời như thế nào? Trên đường cùng với môn đệ lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su có dịp nói về quyền bính khi hai người con của ông Dê-bê-đê tới xin Chúa dành cho các ông địa vị tốt trong nước vinh quang. Người bảo họ: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ… Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:42-44). Với Chúa Giê-su, mục đích của quyền bính không phải để làm oai làm phách, nhưng để phục vụ và vâng lời. Người đã vâng lời Thiên Chúa và phục vụ mọi người đến độ chết trên thập giá (Pl 2:8). Mặc dù Người có toàn quyền đóng mở nhà Đa-vít, nhưng tâm nguyện của Người vẫn là tâm nguyện của Chúa Cha, muốn quy tụ muôn loài muôn vật về một mối (Ga 17:20-23). Do đó, Người chỉ sử dụng quyền bính ấy theo ý của Thiên Chúa Cha mà thôi. “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28:19). Quyền bính ấy giờ đây được trao ban cho ông Phê-rô và các Tông đồ để tiếp nối sứ vụ của Chúa, cũng như các người kế vị và những người có trách nhiệm lãnh đạo các cộng đoàn dân Chúa khắp nơi.
2. “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (bài Tin Mừng – Mt 16:13-20)
Câu truyện Tin Mừng hôm nay tuy nói nhiều đến vai trò của ông Phê-rô trong Giáo Hội, nhưng theo hướng đi của các bài đọc, ta có thể chú ý đến căn tính của Chúa Giê-su để giữ sự thống nhất đề tài. Qua hình ảnh En-gia-kim được trao cho “chìa khóa nhà Đa-vít”, ta nhận biết vai trò của Chúa Giê-su trong việc thiết lập và xây dựng Nước Trời. Với câu truyện Tin Mừng, ta được biết mặc khải lớn lao nhất về căn tính Chúa Ki-tô, lớn lao vì “không phải phàm nhân mặc khải”, nhưng là chính Thiên Chúa Cha. Phàm nhân đã mặc khải những điều gì về Chúa Ki-tô? Dư luận công chúng đã chọn những điều vĩ đại nhất để diễn tả căn tính của Chúa Ki-tô. Thử hỏi còn ai cao trọng hơn những vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, Giê-rê-mi-a của thời Cựu Ước, hoặc gần đây nhất như ông Gio-an Tẩy giả? Đối với họ, ít nhất Chúa Giê-su cũng phải là hiện thân của những vị ấy. Do đó, trước câu hỏi của Chúa Giê-su, “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” các ông cũng chẳng có thể nghĩ ra được điều gì lớn lao hơn nữa để nói về Chúa. Đúng vậy, làm sao mà biết rõ được Chúa Giê-su là ai, vì trước mắt họ Chúa Giê-su cũng chỉ là con người như họ, Người “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:7). Dù Người có nói cho họ biết Người là ai, như Người đã từng nói cho người Do-thái (Ga 10:25-26), thì họ cũng khó mà tin. Cho nên phải là đích thân Chúa Cha mặc khải cho họ biết về Con Một của Người và ông Si-môn Phê-rô, người lãnh nhận mặc khải, quả là “người có phúc” (Mt 16:16).
“Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, ông Phê-rô thốt lên những lời này mà bản thân ông cũng chẳng hiểu ý nghĩa gì cả. Nếu có, thì ông chỉ mới hiểu theo phạm trù của con người đương thời, nghĩa là một vị anh hùng sẽ thay đổi vận mạng Ít-ra-en, chứ không thể hiểu đó là sứ mệnh cứu độ nhân loại của Chúa Giê-su. Bởi vậy, mặc khải ông Phê-rô, các Tông đồ và toàn thể nhân loại lãnh nhận hôm nay mới là bước đầu tiên cho một hành trình dài để biết được Chúa Giê-su rõ hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và trung thành theo Người hơn (thánh I-nhã Loyola). Riêng đối với Phê-rô, bắt đầu từ hôm nay ông là Tảng Đá để Chúa sử dụng xây Giáo Hội Người. Nhưng đức tin đá tảng của ông cũng cần phải được phát triển mỗi ngày một hơn, nhất là qua những thăng trầm và những vấp ngã cuộc đời tông đồ của ông. Chìa khóa Nước Trời cũng được Chúa Giê-su trao cho ông Phê-rô để ông “ràng buộc và tháo cởi”, sử dụng quyền bính một cách tuyệt đối, nhưng không phải cho cá nhân ông mà cho toàn thể Giáo Hội. Bài học của Chúa trên đường lên Giê-ru-sa-lem vẫn còn in sâu trong lòng, nhất là cái chết của Thầy trên thập giá là một tấm gương vô cùng sống động, tất cả đã giúp ông “với Chúa, sẵn sàng vào tù, và chết cũng cam” (Lc 22:33). Nhận biết căn tính của Chúa không chỉ là công việc của hiểu biết, nhưng là công việc của trái tim, của lỏng gắn bó keo sơn. Đây quả thực là một thách đố đối với nhiều người, vì họ tưởng rằng chỉ cần “biết” Chúa là đủ rồi, chứ không cần phải theo Người, làm môn đệ Người và cùng chết với Người.
3. Chúa Giê-su Ki-tô là tất cả: một mầu nhiệm Thiên Chúa mặc khải cho nhân loại (bài đọc Tân Ước – Rm 11:33-36)
Suy niệm về mầu nhiệm Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Ki-tô và ban Đức Ki-tô cho nhân loại để cứu độ nhân loại, thánh Phao-lô đã sử dụng vốn liếng Kinh Thánh Cựu Ước để chúc tụng ngợi khen công việc của Thiên Chúa. Ngài đã liên kết những lời trong sách Gióp, Thánh vịnh, Khôn ngoan, ngôn sứ I-sai-a và Giê-rê-mi-a để ca tụng thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan, siêu việt. Người tạo dựng nên ta là vì tình yêu. Người cứu độ ta là vì lòng thương xót, chứ Người chẳng mắc nợ gì ta. Việc Người sai Con Một đến thế gian là chứng từ mạnh mẽ nhất cho thấy chiều kích vô biên của tình Cha thương yêu con cái.
Đối với ta, Đức Ki-tô là tất cả, như thánh Phao-lô đã khẳng định: “Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người” (Rm 11:36). Quá khứ, hiện tại và tương lai của ta đều đặt trên nền tảng là Đức Ki-tô. Thiếu vắng sự hiện diện của Người, đời ta không còn ý nghĩa gì hết. Chẳng vậy mà thánh Phao-lô còn quả quyết: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1:21).
Suy niệm của thánh Phao-lô về thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa thể hiện nơi con người Đức Ki-tô đã trở thành một bài thánh thi, để tín hữu mọi thời mọi nơi cùng với ngài ca tụng Thiên Chúa. Nhận biết địa vị cao trọng của Đức Ki-tô trong kế hoạch cứu độ, ta không thể vô tình mà không hiệp lòng hiệp ý với toàn thể Giáo Hội để cảm tạ lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi ta bước theo Đức Ki-tô mà trở về nhà Cha.
4. Sống Lời Chúa
“Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” không chỉ đơn thuần là một câu hỏi thuộc lãnh vực hiểu biết. Có nhiều thần học gia, giáo lý viên, giám mục hoặc linh mục dạy người ta biết về Chúa, nhưng trong số ấy cũng có những vị dạy mà chính bản thân vẫn chưa gắn bó với Chúa. Giáo dân cũng thế. Kiến thức giáo lý đối với họ chỉ là những hiểu biết, đôi khi phải có để được rước lễ lần đầu, chịu Thêm sức hoặc lãnh nhận Hôn phối, chứ biết Chúa bằng con tim thì chưa chắc đã đủ. Lời Chúa hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, là một thách đố cho ta phải cố gắng tạo một quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, hoàn toàn đặt lòng tin vào Người và làm cho cuộc đời có ý nghĩa nhờ sự hiện diện và ảnh hưởng của Người đối với ta.
Suy nghĩ: Ông Phê-rô đã tin Chúa và đức tin của ông trở nên Tảng Đá để Chúa xây dựng công trình Giáo Hội. Tôi có thực sự là một tảng đá hoặc thậm chí chỉ là viên sỏi để Chúa sử dụng xây Giáo Hội không? Tôi thử nhìn lại cuộc đời mình, cách sống như người Công giáo của tôi, để thẩm định mức độ “tảng đá” đức tin của tôi.
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, nhờ Đức Ki-tô, Con Một Chúa, Chúa đã thương cứu chuộc chúng con và nhận làm nghĩa tử, xin lấy tình Cha mà âu yếm đoái nhìn: này chúng con là những kẻ tin kính Đức Ki-tô, xin cho chúng con được trở nên những người tự do đích thực và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 23 mùa Thường niên).
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
------------------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Rô-ma 11: 33-36
Nếu đọc riêng rẽ đoạn văn, chúng ta hiểu đây là lời tuyên xưng mầu nhiệm khôn dò về Thiên Chúa: TN 21-A100
Nếu đọc riêng rẽ đoạn văn, chúng ta hiểu đây là lời tuyên xưng mầu nhiệm khôn dò về Thiên Chúa. Nếu đọc theo mạch văn thì đó là kết luận suy tư của thánh Phao-lô về số phận Ít-ra-en. Nhưng nếu đọc theo chủ đề thần học và giáo lý mà Phụng vụ Lời Chúa muốn trình bày qua tư tưởng của Phao-lô thì đây là kết luận suy niệm về tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa biểu lộ nơi Ðức Ki-tô và qua kế hoạch cứu độ. Suốt từ Chúa Nhật 9 đến 21 thường niên năm A, các đoạn trích thư Rô-ma được sử dụng để quảng diễn giáo lý của thánh Phao-lô về ơn được nên công chính và ơn cứu rỗi. Ðể kết thúc phần trình bày giáo lý và bước sang phần áp dụng thực hành, thánh Phao-lô lấy ý từ những tư tưởng trong Cựu Ước, ca tụng thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Vỏn vẹn qua mấy dòng ngắn gọn (cc. 33-36), ngài đã lập lại ý tưởng của hàng chục câu Kinh Thánh Cựu Ước, nhất là trong sách Gióp, Thánh Vịnh, I-sai-a, Khôn Ngoan, Giê-rê-mi-a... Ðiều ấy chứng tỏ từ xưa tới nay, mầu nhiệm Thiên Chúa vẫn luôn là một đề tài phong phú để con người suy gẫm, nhận ra mình là ai và Thiên Chúa là Ðấng nào. Tuy nhiên, vì đoạn thư là cảm nghĩ kết luận về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa nên bài đọc hôm nay (được viết theo thể văn thánh thi) muốn chúng ta khám phá ra đâu là động lực để Thiên Chúa phác họa một kế hoạch như thế. Nói khác đi, trí khôn chúng ta không thể hiểu được kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chắc chắn con tim chúng ta có thể cảm nhận được động lực tại sao Thiên Chúa hành động như vậy. Tất cả là do lòng thương xót của Người.
a) Thiên Chúa giàu có, khôn ngoan và thông suốt
Ðứng trước mầu nhiệm Thiên Chúa, con người chỉ biết căn cứ vào những gì Thiên Chúa đã thực hiện để nhận ra được những đặc điểm của Người. Ðặc điểm của Thiên Chúa thì vô số kể. Mỗi một tạo vật đã nói lên một khía cạnh nào đó về những đặc điểm của Thiên Chúa rồi. Cho nên thánh Phao-lô chỉ nêu lên một vài nét tiêu biểu thường được ca tụng trong Kinh Thánh, đó là sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta có thể hiểu ý Phao-lô muốn lập luận như sau: nếu nhìn ngắm công việc tạo dựng, con người đã có thể nhận ra được cái vẻ bên ngoài những đặc điểm của Thiên Chúa, thì khi chiêm niệm kế hoạch cứu độ, chúng ta cũng có thể hiểu được chiều sâu của những đặc điểm ấy, tức là do động lực nào Người đã cho chúng ta được nên công chính và cứu rỗi. Kế hoạch cứu độ chứa đựng thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Vậy để nhận ra thánh ý, chúng ta phải nhìn ngắm kế hoạch ấy qua hai điểm:
b) Quyết định của Người và đường lối của Người
Chúng ta có thể hiểu được phần nào thánh ý của Thiên Chúa khi chúng ta suy nghĩ Người đã quyết định điều gì và Người đã thực hiện quyết định ấy thế nào. Ðây là điểm giáo lý cốt yếu thánh Phao-lô thường lập đi lập lại trong các thư của ngài. Ðặc biệt trong Ep 1:3-14, ngài trình bày rõ ràng quyết định và đường lối của Thiên Chúa: Người quyết định tuyển chọn chúng ta, cho chúng ta làm nghĩa tử, và thực hiện quyết định ấy "nhờ Ðức Giê-su Ki-tô" và "trong Thánh Tử." Thiên Chúa không giấu đi thánh ý của Người, nhưng "Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Ðức Ki-tô. Ðó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Ðức Ki-tô" (Ep 1:9-10). Nhìn đi nhìn lại, chúng ta đều thấy sự liên hệ rõ ràng giữa những đặc điểm của Thiên Chúa với quyết định và đường lối của Người. Càng nhận ra điều Thiên Chúa quyết định và cách thức Người thực hiện điều đã quyết định, chúng ta càng bái phục sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Người. Như thế, đây quả thực là một đề tài cầu nguyện không bao giờ cạn, cả đời chúng ta nếu chỉ cầu nguyện với đề tài này tưởng cũng đã quá đầy đủ rồi!
c) Bài học khi chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa
Thánh Phao-lô không quên tóm tắt bài suy niệm về mầu nhiệm Thiên Chúa bằng một kết luận vô cùng sâu sắc: "Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người" (Rm 11:36). Khẳng định này cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Ðấng nào, cội nguồn của chúng ta là từ nơi nào mà đến và điểm tới của chúng ta là đi về đâu. Muốn hiểu thánh Phao-lô quảng diễn khẳng định này như thế nào, chúng ta không thể bỏ qua đoạn thư Cô-lô-xê 1:15-20, đoạn thư đề cao vai trò của Ðức Ki-tô là nguyên lý để Thiên Chúa tạo dựng chúng ta (c. 16), cho chúng ta được tồn tại (c. 17), hòa giải chúng ta với Người (c. 20) và cho chúng ta hưởng phần gia nghiệp (c. 12). Có nhận thức được chỗ đứng của mình trước mặt Thiên Chúa và trong trái tim của Người, chúng ta mới thực sự thấm thía lời chúc tụng: "Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men!"
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Từ trước tới nay có lẽ tôi chỉ quen với lối cầu nguyện xin ơn, xin Chúa cho tôi ơn này ơn kia, mà không để ý tới lối cầu nguyện chúc tụng, ngợi khen. Vậy từ nay, tôi sẽ học hỏi và thực tập lối cầu nguyện này như thế nào? Thánh Vịnh sẽ giúp tôi trong lối cầu nguyện này làm sao?
Lòng thương xót của Thiên Chúa dạy tôi bài học gì? Ðối với tôi, "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Ðấng nhân từ" (Lc 6:36) có là một mệnh lệnh tương tự như "Anh em hãy nên thánh thiện, như Cha anh em là Ðấng thánh thiện" không? Tôi sống mệnh lệnh "hãy có lòng nhân từ" như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng sốt sắng đọc Thánh ca Cô-lô-xê 1:15-20, hoặc Thánh Vịnh 139.
Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi
------------------------------------------