Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 33 TN-A: Hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi
------------------------------------------ Phúc Âm: Mt 25, 14-30: “Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi. “Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình. “Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: “Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác”. Ông chủ bảo người ấy rằng: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”. Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: “Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác”. Ông chủ bảo người ấy rằng: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”. “Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: “Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại cho ông”. Ông chủ trả lời người ấy rằng: “Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------ Mục Lục:
Hơn tất cả 4 dụ ngôn trước nói về sự tỉnh thức - đại hồng thuỷ (24,37,42), kẻ trộm đến ban đêm: TN33-A1
Hơn tất cả 4 dụ ngôn trước nói về sự tỉnh thức - đại hồng thuỷ (24,37,42), kẻ trộm đến ban đêm (24,43-44), người đầy tớ trung tín (24,45-51) và trong PÂ Chúa nhật trước, mười người trinh nữ (25,1-13) - dụ ngôn Các Nén bạc nhấn mạnh đến trách nhiệm của các môn đệ. Một trách nhiệm không nhỏ (21) nếu ta nhớ rằng vào thời ấy, nén bạc (talent: tiếng Pháp cũng có nghĩa là tài năng) không là những khả năng tự nhiên khả năng trí thức hoặc khả năng nhân loại phải phát triển, nhưng là một đơn vị trọng lượng, đơn vị tiền. H. Vulliz giải thích: “Nó là kim loại thực sự, cân nặng từ 35 đến 60kg trị giá từ 4300 đến 8700 quan Pháp (8 triệu 6 đến 17 triệu 4 tiền Việt Nam), nếu bằng bạc, và trị giá 140.000 đến 152.000 quan (từ 250 triệu đến 304 triệu đồng Việt Nam), nếu bằng vàng.
Sau khi đã đo lường kỹ lưỡng trọng lượng của những trách nhiệm được chủ giao cho các đầy tớ, ta hãy đọc lại dụ ngôn kỹ hơn. Ta có thể chia diễn biến ra làm 3 thời kỳ rất rõ ràng.
- Thời kỳ ra đi của ông chủ. Ông “đi xa”. Ông trao cho 3 đầy tớ, mỗi anh một số nén bạc. Đó thực là một tài sản như ta đã thấy! Hoàn toàn tin tưởng các đầy tớ, ông không đưa ra một thoả thuận nào về cách họ phải sử dụng số bạc đó. Nhưng đó là một niềm tin tưởng rõ ràng, vì ông “đưa cho mỗi người tuỳ theo khả năng của họ”.
- Thời kỳ vắng mặt: sự ra đi của ông chủ “tức khắc” tạo nên những phản ứng trái ngược nhau nơi các đầy tớ.
. Hai người đầu liều lĩnh có tính toán: họ gởi tiền vào ngân hàng “để sinh lợi”.
. Người thứ ba lại sợ hãi. Theo “lời khuyên của luật rabbi đối với những ai nhận tiền gởi và tự cho mình không có trách nhiệm trong trường hợp trộm cắp”, anh đào lỗ chôn nén bạc của chủ, và phủi tay trốn trách nhiệm.
- Thời kỳ tính sổ, cũng với sự trở về của chủ, sau một thời gian dài vắng mặt.
. Hai người đầu thay phiên nhau trình lên số bạc đã sinh lợi gấp đôi.
Chủ đã gọi họ là những đầy tớ “tốt lành và trung tín”. Họ đã đáp ứng lòng mong đợi của ông, họ xứng đáng với niềm tin tưởng của ông: thay vì để tiền nhàn rỗi vô ích, họ đã liều mình để sinh lợi. Họ hành xử không như nô lệ, nhưng như người cộng sự. Vì thế chủ sẽ trao phó cho họ những trách nhiệm lớn hơn đưa họ từ địa vị tôi tớ lên hạng đồng bàn với chủ. Ông bảo họ: “hãy đến hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
. Còn người thứ ba thật kỳ dị, anh vẽ nên hình ảnh một ông chủ khó chịu, anh cho đó là “một người khó tính” “gặt ở nơi không gieo”, “thu ở nơi không phát”. Anh thú nhận: “Tôi sợ, nên đã chôn nén bạc của ông dưới đất”. Và anh kết luận: “Đây, nén bạc của ông đây”.
Tức giận vì lời lẽ của người đầy tớ này, ông chủ, có phần nào mỉa mai, chỉ cho anh thấy thái độ bất nhất của anh: “Ngươi đã biết ta hay gặt ở nơi không gieo, thu ở nơi không phát. Sao người không gởi bạc vào ngân hàng, để khi ta về sẽ thu cả vốn lẫn lời?”. Ông chủ đã tin cậy thì phải đáp lại bằng thái độ trách nhiệm xứng đáng với nhiệm vụ được trao chứ.
Án phạt ban xuống: “Tên đầy tớ xấu xa và lười biếng” bị chủ tước cả nén bạc duy nhất, vì anh không biết sử dụng. Nhiệm vụ bị bãi bỏ. Anh bị ném “vào nơi tối tăm”.
Sự hồi hộp được khéo léo sắp xếp kéo dài cho đến cuối dụ ngôn, và diễn tiến câu chuyện cho đến cuộc đối thoại giữa người đầy tớ thứ ba với ông chủ cho thấy rõ những đối tượng đầu tiên mà dụ ngôn có thể nhắm tới, những người mà Đức Giêsu muốn tạo cho một cơ may cuối cùng.
. Đó là các lãnh tụ tôn giáo, luật sĩ và biệt phái tự xưng là “đầy tớ của Thiên Chúa": Họ đã nhận gìn giữ Lời Chúa. Liệu họ có để tài sản này nhàn rỗi vô ích? Liệu họ có chiếm hữu làm của riêng?
. Đó là những người Do Thái, quên lãng sự nhân từ và lòng thương xót của Thiên Chúa, liều mình tìm kiếm an toàn tôn giáo trong việc lo âu giữ Luật cách cứng nhắc và tự giam mình trong thực hành nệ luật.
J. Potin bình luận: “Đức Giêsu cho thấy có một số chức sắc tôn giáo đã biết làm cho Lời Chúa sinh hoa kết trái giống như các thiếu nữ sẵn sàng đi theo chồng. Làm sao Ngài có thể không công nhận công trạng của những người công chính đã giúp phát triển đức tin của dân Người, các tổ phụ, một vài vị vua, các tiên tri, số đông thầm lặng của những kẻ tin. Tuy nhiên có những kẻ, do tính bảo thủ sợ hãi, đã không làm được như vậy. Có lẽ Đức Giêsu nhắm vào giới Sađucêô rất bảo thủ. Đó là lý do tại sao ông chủ trao nén bạc cho kẻ biết sinh lợi nhiều nhất. Nước Thiên Chúa tiếp tục sinh hoa kết trái nhờ những đầy tớ trung thành, nhưng khốn cho ai từ chối sinh lợi kho tàng đã nhận lãnh”.
2. Một dụ ngôn nói với Kitô hữu chúng ta.
Dụ ngôn mà Đức Giêsu đề nghị thính giả Do Thái suy nghĩ này, thánh sử Mt đã thuật lại với mục đích giúp cộng đoàn tín hữu sống trong lúc chờ đợi mỏi mòn ngày trở lại của Chúa. Các thành viên của cộng đoàn có lẽ đã mê ngủ, bị cám dỗ chỉ thực hành giới răn với tinh thần nệ luật, bị tê liệt vì sợ hãi.
Khi lồng dụ ngôn này vào “diễn từ cánh chung” và nối kết chặt chẽ nó với dụ ngôn 10 người trinh nữ, tác giả PÂ đã biến dụ ngôn này thành 1 dụ ngôn về sự tỉnh thức trong trung tín.
J. Dupont nhận xét: “Khi truyền đạt dụ ngôn này, Mt vẫn giữ được giáo huấn mà độc giả của ông phải biết rút ra. Dù cuộc trở lại của Chúa có chậm trễ, các tín hữu vẫn phải “tỉnh thức” và nhớ rằng họ sẽ bị xét xử về cách sống, liệu họ có được vào Nước Trời hay không, cũng tuỳ thuộc vào đó. Sự tỉnh thức chính là sự trung tín trong khi hoàn thành các nhiệm vụ được uỷ thác, nghĩa là mọi bổn phận của đời sống Kitô hữu. Để tham dự vào ơn cứu độ, chỉ nghe Lời Chúa chưa đủ: cần phải thực hành, làm cho Lời Chúa sinh hoa kết trái... Người tín hữu không biến sứ điệp thành hành động sẽ chẳng rút ra được lợi ích nào từ điều họ đã lãnh nhận được...”
PÂ là một số vốn: đã ký thác cho ai thì người ấy phải sinh lợi. Họ phải để PÂ biến đổi cuộc đời, hướng dẫn mọi hoạt động. Chỉ như thế họ mới chứng tỏ mình “trung tín” với Đấng đã ký thác PÂ cho họ.
Lòng đạo đức và ý hướng tốt chưa đủ. Đời sống Kitô hữu là một hành động có trách nhiệm. Bức tranh vĩ đại vẽ cảnh phán xét cuối cùng, trên đó ta kết thúc năm phụng vụ Mt, sẽ cho ta toàn bộ nội dung vào Chúa nhật tới.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một chờ đợi khiến những nhiệm vụ hiện tại thành nghiêm túc. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s'est approché, DDB).
Dụ ngôn giúp soi sáng hoàn cảnh của ta. Những nén bạc không là của ta, chúng được trao phó cho ta. Trước khi đưa các nén bạc ra làm việc, ta đã lãnh nhận chúng. Sau đó, ta sẽ phải tường trình cách thế ta đã dùng để làm cho những nén bạc sinh lợi. Đời sống ta, những khả năng, những phương tiện hành động, các hoạt động, tất cả đều là ơn Chúa ban. qua việc sáng tạo, qua ân sủng, Thiên Chúa đổ đầy hồn ta, mỗi người tuỳ khả năng đón nhận. Đời sống ta chỉ ở trong sự thật nếu nó là một bài ca tạ ơn, là của lễ, là đợi chờ và hy vọng! Ta không có quyền chiếm đoạt, sử dụng nó theo ý riêng, như thể chính ta ban cho mình sự sống. Ta không thể quên đời sau, không được quên nơi ta xuất phát, nơi ta sẽ đến, Đấng ta sẽ phải trả lời, điều đó giúp ta can đảm ý thức bổn phận mình ở đời này mà không quên đời sau. Sự trở lại của chúa khiến ta khẩn trương đến độ không có thời giờ nghĩ đến điều gì khác nữa. Đời sau làm cho đời này có ý nghĩa. Kết thúc thời gian làm cho thời gian có ý nghĩa! Kết thúc thời gian mở ra cho thời gian một chân trời. Công việc hiện tại của ta không đơn thuần là một “việc làm”, đó là một bổn phận, một sứ mạng. Nó chỉ có ý nghĩa khi hướng về vô biên. Sự chờ đợi ngày Chúa đến không làm mất giá trị của nó cũng không biến nó thành vô nghĩa. Trái lại sự chờ đợi Chúa đến tạo cho nó một tầm quan trọng, mà giá trị chắc chắn chính sự chờ đợi này biến công việc thường ngày thành cơ hội bày tỏ lòng trung tín và mối tương giao với Chúa: “tốt lắm, hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi coi sóc những việc lớn, hãy đến hưởng sự vui mừng với chủ ngươi”.
2. Ta chỉ là quản lý (H. Denis, Cent mot pour diu la foi, DDB).
Một tư tưởng cũ kỹ ta không được phép quên, tư tưởng rất gắn bó với tôn giáo Nhập Thể, đó là trên trần gian này ta chỉ là quản lý. Hiển nhiên phải là những quan lý năng nổ, sáng tạo, quan trọng. Nhưng cũng chỉ là quản lý.
Nói cách khác, ta không phải là chủ nhân các của cải mà ta làm sinh lợi: “Lạy Cha rất nhân lành, mọi sự đều bởi Cha!”. Đúng thế, đúng đối với mọi nghề nghiệp, mọi công tác nguy hiểm, táo bạo nhất (tôi nghĩ đến những ai đụng chạm đến lãnh vực đạo đức sinh học). Nhất là đối với Giáo Hội, với các tác vụ và sự phục vụ của Giáo Hội hiểu theo nghĩa rộng nhất.
Vị trí người quản lý quan trọng đến nghịch lý. Cuối cùng không những ông chủ sẽ trao lại kết quả của công việc đã hoàn thành mà còn ban thêm rất nhiều.
Nhưng ông cũng trừng phạt nặng nề đầy tớ nào không làm việc. Theo một tục ngữ Do Thái, ngày nay người ta vẫn còn nói: Ai không có, người ta sẽ lấy đi luôn cái nó có. Rốt cuộc, nó không còn lại chút gì.
Cũng nên lưu ý rằng Phaolô, dù không được nghe Đức Giêsu rao giảng ở Palestine, vẫn có cùng ngôn ngữ với Ngài:
“Xin mọi người hãy coi chúng tôi là tôi tớ của Đức Kitô và là quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vậy điều mà mọi người đòi hỏi nơi các quản lý, đó là hãy trung tín”.
Hãy để Chúa đến, chính Ngài sẽ soi sáng những bí mật trong bóng tối và phơi bày công khai mọi ý nghĩa trong tâm hồn. Rồi, mỗi người sẽ nhận được từ Thiên Chúa lời ca tụng, lời ca tụng ấy lại trở lại với Ngài (1Cor 4,1.2.5).
3. Thế giới được trao phó cho ta nhưng không kèm theo bản hướng dẫn cách sử dụng (Secours Catholique).
Hãy lưu ý rằng Thầy Chí thánh không đưa ra một qui ước nào. Ngài đã có thể nói: “Ta báo trước, khi ta trở lại, Ta muốn gấp đôi số vốn, hãy đầu tư vào bất động sản hay vào dịch vụ để sinh lợi”. Không, các tôi tớ đã đủ trưởng thành để biết điều phải làm.
Đó là bài học đầu tiên của bài Phúc Âm này.
Thế giới được trao phó cho ta mà không kèm theo bản hướng dẫn cách sử dụng. Có lẽ ta đã mơ màng nghĩ rằng Đức Giêsu, khi trở về bên Chúa Cha sau ngày Thăng Thiên, vẫn giữ đường dây điện thoại trực tiếp với các môn đệ, vẫn sẵn sàng ngày đêm trả lời những câu hỏi băn khoăn nhất của các dân tộc và các cá nhân: “Lạy Chúa, phải làm gì trong trường hợp chiến tranh huynh đệ tương tàn, trong các vấn đề tài chính, thiên tai?... Chúa ơi, hãy tìm cho con công ăn việc làm, hãy chữa bệnh cho đứa con của con, hãy sửa lại căn nhà sắp sập...”.
Giấc mơ ảo tưởng ấy, ta chưa giũ bỏ hết đâu. Nó vẫn ghi khắc trong tế bào di truyền của ta. Nhưng sự im lặng của Thiên Chúa cứu ta khỏi ma thuật, sự vắng mặt của Ngài khơi dậy trong ta niềm khao khát khác hẳn với một nhu cầu.
Và từ đó, ta phải luôn tỉnh thức đối với những ai tự cho rằng có thể lấp đầy quảng không của sự vắng mặt, đưa ra những giải đáp đơn sơ cho các câu hỏi phức tạp, và nắm trong tay tự do gai góc mà chính Thiên Chúa đã trao phó cho ta. Sự vắng mặt chỉ là tương đối, vì Đức Giêsu đã hứa: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Thánh Thần của Thầy sẽ ngự trong các con”. Trong các con chứ không ở nơi đâu khác hoặc ở trên mây. Trong nơi sâu thẳm nhất của Giáo Hội và của chính các bạn. Bản hướng dẫn cách sử dụng đời sống và thế giới, nếu có, nằm ở đó...
Dụ ngôn ông chủ trao những nén vàng cho người đầy tớ : người năm nén, sinh lợi ra 10 nén: TN33-A2
Dụ ngôn ông chủ trao những nén vàng cho người đầy tớ : người năm nén, sinh lợi ra 10 nén ; kẻ 2 nén sinh lợi ra 4 nén ; kẻ 1 nén đem chôn vô ích. Hai người làm sinh lợi được khen là tốt lắm, tài giỏi và trung thành. Ông chủ đã thưởng cho hai đầy tớ cả vốn lẫn lời, đặt họ lên địa vị cao và cho hưởng hạnh phúc chung với chủ. Kẻ chôn nén vàng đi, bị quở trách là tồi tệ, biếng nhác, vô dụng, bị phạt ném vào chốn tối tăm, khóc lóc nghiến răng.
Xem cung cách ông chủ xử với những đầy tớ, thì đây là thuật dùng người, hay là một cuộc xử án đánh giá công và tội. Cổ nhân dùng người thì gởi đi xa để thử tài, thử đức : Tài sẽ được phát hiện khi họ được tự do, được toàn quyền phát huy sáng kiến theo khả năng của mình, không còn phải e dè, lệ thuộc cấp trên. Đức sẽ tỏ ra khi họ được tự lập, tự chủ, đúng với nhân cách và địa vị của họ.
Dụ ngôn nói đến ông chủ đi xa để cho đầy tớ toàn quyền hành động. Nhờ đó ông thấy được ai hay ai dở. Sở dĩ ông trao số vàng cho kẻ nhiều, kẻ ít là tùy theo khả năng của mỗi người. Như vậy, chủ đã biết rõ tài năng của mỗi người. Chỉ còn xem ai tốt ai xấu thôi. Kẻ tốt sẽ trung thành với sự tin tưởng của chủ, anh sẽ hết lòng hết sức làm, không thắc mắc lương bao nhiêu ? không sợ lỗ lãi nhiều ít, miễn là cố gắng làm, hoàn toàn tín nhiệm vào lòng tốt của chủ, ca dao đã nói đúng : “Kẻ có nhân mười phần chẳng khó”. Kẻ xấu, sợ khó khăn, sợ lỗ lãi, chỉ vì lười biếng hay bất phục ông chủ nên không muốn làm. Tục ngữ có câu : “Kẻ bần, trí đoản” - hạng bần tiện, trí khôn chỉ nghĩ đến những cái lợi trước mắt, những điều thiển cận, bo bo ích kỷ, không thấy được những điều cao xa hữu ích rộng lớn. Nó lười biếng, còn bất trung dám nghĩ xấu, nói đổ oan cho chủ là người keo kiệt, gặt nơi không gieo, thu nơi không vãi.
Dụ ngôn cho thấy ông chủ rất tốt đối với đầy tớ. Ông hoàn toàn lo giúp đầy tớ, tạo điều kiện cho đầy tớ làm giầu. Đầy tớ nào có thiện chí làm, ông cho cả vốn lẫn lời và thưởng nhiều đặc ân ngoài sức tưởng tượng của đầy tớ tốt, có thiện chí tận tâm tận lực làm việc. Đối với kẻ xấu, bất trung, bất hiếu không thể giúp nó làm được gì, nó còn phạm thượng. Ông đành phải lấy lại của đã cho nó. Ông buộc lòng mặc cho nó tự do lao đầu vào cảnh khốn khó tối tăm khóc lóc.
Mục đích của dụ ngôn không dậy thuật dùng người cho bằng, đánh giá trị con người : có thiện chí thì thưởng, có tội thì phạt.
Thiện chí ở đây không đánh giá con người bằng lời lãi tiền của như các ông chủ ngân hàng. Các ông chủ Ngân hàng Thế giới đánh giá trị một nước theo tổng sản lượng quốc nội trên đầu người (GDP), để xét xem dân tộc đó phát triển hay kém phát triển, văn minh hay mọi rợ.
Ông chủ trong dụ ngôn không thu lời mà còn cho cả vốn. Ông không cần tiền của. Ông không đánh giá người theo tiền của, ông đánh giá con người theo tốt xấu. Ai tốt ông thưởng đặc biệt. Ai xấu, ông loại bỏ.
Đây là Ông chủ nước Trời khác với mọi chủ trần gian. Chủ trần gian bắt đầy tớ, con nợ, phải trả vốn lẫn lời. Ông chủ nước Trời không những cho cả lời, cả vốn, cho địa vị sang trọng và hạnh phúc của ông. Chủ trần gian thưởng lớn cho kẻ tài cao, thưởng nhỏ cho kẻ tài hèn. Ông chủ nước Trời khen đồng đều cho kẻ tài cao, tài hèn miễn là có lòng tốt như nhau, thiện chí như nhau, trung thành như nhau. Sự đánh giá con người của ông chủ nước Trời tương tự như sự đánh giá bà nội trợ hoàn hảo của vua Massa. Ông đánh giá bà ở sự tin tưởng của chồng, ở sự lành bà làm, sự cần mẫn và việc bố thí kẻ nghèo, hướng dẫn kẻ bần cùng và lòng kính thờ Chúa. Ông không đánh giá bà ở giầu sang phú quý và con ăn đầy tớ đông đảo. Giá trị nhân đức của bà đáng giá hơn ngọc ngà châu báu (Bài I - Cách Ngôn 31, 10-20... 30-31).
Của cải của ông chủ nước Trời là tất cả trời đất muôn vật, là cả hồn xác chúng ta cùng với kho tàng ân sủng vinh quang, hạnh phúc muôn thuở. Ông trao tất cả cho chúng ta. Những ai thành tâm thiện chí, hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn thực thi ý chủ, thực thi thương người như chủ thương ta. Khi chủ đến tính sổ “bất cứ thời nào, lúc nào không cần biết, miễn là nếu anh em là con cái ánh sáng, con cái ban ngày, biết sống tỉnh thức và điều độ, mặc áo giáp đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ thì Thiên Chúa không dành án thịnh nộ cho chúng ta, nhưng cho chúng ta được hưởng ơn phúc cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”
“Lạy Chúa Trời con, con chúc tụng Ngài, Đấng răn bảo con. Tâm can con tỉ tê nhắc bảo lời Ngài thâu canh. Con đặt Ngài luôn luôn trước mặt, bởi thế lòng con hớn hở, dạ con vui mừng, thân xác con được an toàn, vì Ngài không thí mạng con cho âm phủ. Ngài không để kẻ thành tín phải thấy mồ chôn. Ngài sẽ cho con biết con đường sự sống trước tôn nhan Ngài, phúc lộc no đầy, nguồn vui thú bên Ngài muôn thuở” (Tv. 16)
Nén bạc là một đơn vị tiền tệ quan trọng nhất thời bấy giờ, nó trị giá bằng một số tiền lớn bây giờ: TN33-A3
Nén bạc là một đơn vị tiền tệ quan trọng nhất thời bấy giờ, nó trị giá bằng một số tiền lớn bây giờ. Nhưng theo một nghĩa bóng, thì đó là tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta như sự sống, sức khỏe, thời giờ, ơn sủng… Ngoài ra thánh Giêrônimô còn thêm : Trong các nén bạc, phải kể đến sự xinh đẹp của vũ trụ, Chúa đã dựng nên cho chúng ta để lợi dụng nó, mà ngợi khen Thiên Chúa hầu gia tăng phần sản nghiệp thiêng liêng trên trời.
Kể dụ ngôn những nén bạc, Chúa muốn dạy chúng ta hai điều.
Điều thứ nhất, đó là Chúa sẽ thưởng cho chúng ta tùy theo việc chúng ta đã làm. Người có hai nén cũng được bằng người có năm nén, vì cả hai đều tăng lên được gấp đôi và cùng được hưởng sự vui mừng của chủ.
Điều thứ hai đó là chúng ta không có quyền chôn giấu nén bạc Chúa đã ban, vì chúng ta chỉ là đầy tớ, chúng ta mắc nợ Chúa về thời giờ, về sự hoạt động của chúng ta. Chúng ta gọi sự sống là của chúng ta, nhưng thực ra nó là của Chúa.
Sống trên đời, chúng ta phải làm cho Chúa những điều chúng ta có thể làm. Tên đầy tớ nhận một nén đã nhầm. Nhầm vì tưởng trả nguyên vốn đã đủ. Không, phải trả cả vốn lẫn lời. Đó là quyền Chúa đòi mà người đầy tớ không được phép từ chối.
Vì thế trong dụ ngôn, Chúa loại bỏ cái lý luận của tên đầy tớ bất trung đã đưa ra để tự biện hộ cho mình, qua việc ông chủ đã kết án hắn :
- Hỡi tên đầy tớ hư thân và biếng nhác.
Chúa luôn rộng rãi với những người tôi tá trung thành. Càng trung thành thì càng nhận được nhiều, trái lại kẻ phụ ơn Chúa, thì mỗi ngày sẽ bị cất đi những ơn đã ban, bởi vì hâm hâm, không nóng, không lạnh Chúa sẽ mửa ra khỏi miệng.
Từ bài học Chúa dạy, chúng ta đi tới hai kết luận cần phải suy nghĩ và thực hành.
Kết luận thứ nhất, đó là dụ ngôn gợi lên cho chúng ta nguyên tắc luân lý về công bằng phải luôn được tôn trọng. Vật đòi hỏi trở về với sở hữu chủ của nó. Ngoài ra, nén bạc được trao phó và sinh lời không làm thay đổi địa vị của người đầy tớ. Anh ta vẫn tùy thuộc vào ông chủ…
Trong đời sống chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa ban cho chúng ta tất cả và Ngài có quyền đòi lại tất cả. Đàng khác, của cải vật chất Thiên Chúa ban cho chúng ta cũng không được phép thay đổi địa vị của chúng ta chỉ là một tạo vật, tùy thuộc hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Ngày nay người ta đã hành động trái với giáo huấn trên. Khoa học tiến bộ, kỹ thuật mở mang, nhưng cũng vì thế mà con người trở nên tự phụ và kiêu căng, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống của xã hội và cá nhân.
Nơi một số người và một số gia đình, chúng ta thường thấy : Tiền vào thì Chúa ra. Khi nghèo nàn thì sốt sắng, nhưng khi khá giả thì lại lãng quên Chúa, sống một cuộc đời tội lỗi. Chúng ta hãy luôn nghĩ rằng : Chúa có quyền đòi lại tất cả và chúng ta chỉ là những đầy tớ của Ngài.
Kết luận thứ hai đó là tinh thần trách nhiệm. Có nghĩa là chúng ta phải biết trả lời trước xã hội, trước lương tâm và trước Thiên Chúa về đời sống của mình. Tất cả chúng ta đã lãnh nhận những nén bạc của Chúa, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Trách nhiệm của chúng ta là phải làm cho phát triển, cho sinh lời.
Chẳng hạn cha mẹ có làm tươi đẹp thêm cho đời sống của con cái hay chưa ? Người công chức có chu toàn hết những công việc đã được trao phó hay chưa? Người có tài, có khả năng, đã biết dùng tài năng ấy để phục vụ Chúa và các linh hồn hay chưa?
Thiếu tinh thần trách nhiệm là một tội đối với bản thân, đối với cộng đồng xã hội và nhất là đối với Thiên Chúa.
Trong năm vừa qua, hàng trăm ngàn người đã thiệt mạng bởi những tai ương hoạn nạn xẩy ra đó đây truên thế giới. Có nhiều người cho rằng đây là những dấu hiệu của ngày tận thế sắp xẩy ra trong một ngày gần đây. Vì Chúa đã nói khi ngày tận thế đến, “sẽ có những trận động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể” (Lc 21:11). Điều này khiến cho lòng chúng ta phải băn khoăn và tự vấn, phải chăng ngày tận thế đã đến gần? Nhưng trong thực tế, chúng ta sẽ không bao giờ biết rõ ngày giờ Chúa đến, như Lời Chúa đã phán: “Về ngày giờ ấy không ai biết, kể cả thiên thần trên trời, và cả Con Người nữa, chỉ Thiên Chúa Cha biết” (Mt 24:36)
Nghĩ đến ngày tận thế, nhiều người cảm thấy rùng mình khiếp kinh. Cũng trong đoạn Phúc âm này, Chúa nói: “Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc thì đừng sợ hãi” (Lc 21:9). Chúa luôn luôn biết chúng ta suy tưởng và cảm nghĩ gì; Ngài biết chúng ta đang sống trong tình trạng lo lắng và sợ hãi. Nỗi lo lắng băn khoăn về tương lai là một chuyệt rất tự nhiên. Theo lẽ thường, bất cứ điều gì chúng ta không thể nắm chắc trong tầm tay đều làm cho chúng ta cảm thấy băn khoăn lo lắng. Trong tâm tư chúng ta có thể có những khúc mắc về tương lai như: Tận thế bao giờ đến ? Nếu ngày tận thế đến, tôi có sẳn sàng chưa?...v.v. Chúng ta không nên lo lắng sợ sệt ngày Chúa đến, nhưng ngược lại hãy nên rộng mở cánh cửa tâm hồn để sẳn sàng đón Chúa. Nếu chúng ta sống trong tâm tình phó thác cậy trông vào sự quan phòng của Thiên Chúa thì không có điều gì đáng cho chúng ta phải lo ngại. Quá khứ, hiện tại, và tương lai của chúng ta đều nằm trong vòng tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.
Lo lắng để dọn mình sẵn sàng cho ngày Chúa đến là điều cần thiết và rất quan trọng; vì Chúa đã nói: “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày giờ Chủ các ngươi đến. Hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm sẽ vào, hẵn ông đã tỉnh thức và không để chúng đào ngạch khoét vách nhà ông. Vì thế các ngươi cũng vậy, hãy sẵn sàng vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:42-44). Nhưng tại sao chúng ta lại sợ đến ngày tận thế? Phải chăng vì chúng ta đã chưa ý thức sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố thường ngày của chúng ta? Mỗi người hãy gắn liền cuộc đời của mình với sức sống thần linh của Thiên Chúa; để qua những biến cố hân hoan vui mừng cũng như buồn phiền đau khổ chúng ta đều nhìn ra bàn tay yêu thương và quyền năng của Chúa trên cuộc đời chúng ta. Những ai vẫn kết hiệp với Chúa trong cuộc sống hằng ngày cũng sẽ được kết hiệp với Chúa trong ngày Chúa đến. Và Chúa sẽ đến trong vinh quang để đem sức sống của Ngài cho chúng ta. Chúa phán: “Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào.” (Jn 10:10)
Hãy để Chúa dẫn dắt chúng ta trên con đường thánh ý của Ngài. Nếu Chúa cùng đồng hành với chúng ta trên bước đường đời thì dù hôm nay, ngày mai, hoặc năm tới tận thế cũng chẳng sao.
Chúng ta hãy can đảm để sống từng giây phút trong niềm vui và an bình. Hãy phó thác và giữ vững niềm tin nơi Chúa trong mọi biến cố thăng trầm của cuộc sống. Để qua những việc hết sức tầm thường của cuộc sống trần thế ấy chúng ta sẽ nhìn ra sự cao cả phi thường của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, cuộc đời con Chúa đã an bài. Con xin phó thác quá khứ, hiện tại, và tương lại đời con trong ân tình Chúa. Lạy Chúa là cùng đích và là tất cả của đời con, xin ban cho con một tấm lòng luôn khát khao yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy giữ gìn và ban cho con một tâm hồn trong sạch để bất cứ lúc nào Chúa đến con đều sẵn sàng.
Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con.” (Lc 21:19)
Vào khoảng năm 538 trước Công nguyên, sau khi được Hoàng đế Ba tư là Kyrô ban sắc chỉ ân xá, con cái Israen rời đất lưu đày Balylon, tiến về thánh điện, khởi công tái thiết quê hương xứ sở giữa muôn vàn gian nan khốn khó.
Đứng trước cảnh đổ nát hoang tàn của đền thờ, đất đai bị ngoại bang lấn chiếm, tinh thần của dân Do thái hồi hương không khỏi lao đao. May nhờ có sự hổ trợ của Ezra và Nêhêmia là hai người giàu có, thế lực dưới triều vua Artaxerxes, dân Israen đã xây lại được một phần nhỏ đền thờ Giêrusalem và thánh hiến nó vào koảng năm 516 trước Công nguyên (BC).
Thế nhưng, chưa hưởng trọn niềm vui tự trị và tự do, người Do thái lại bị các quốc gia hùng mạnh như Ai cập và Hy lạp quấy phá. Đến năm 169 BC, người Xyria do vua Anticô II dẫn đầu, đã tiến vào đánh chiếm cướp phá đền thờ. Một lần nữa đền thánh Giêrusalem lại rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát.
Mãi đến năm 63 trước Công nguyên, sau khi người Rôma chiếm đóng Palestine và đặt Hêrôđê làm quan tổng trấn cai trị vùng đất Giuđê, đền thờ mới được tái thiết nguy nga và được thánh hiến vào năm 19 BC.
Biết bao cẩm thạch, vàng bạc, gỗ quí, và công sức được đổ ra cho việc xây cất một đền thờ lộng lẫy, làm nên niềm tự hào và sức sống của cả dân tộc Israen. Trong cuốn sách “Những Cuộc Chiến của Người Do Thái”, sử gia Josephus đã mô tả về “niềm tự hào” đó như sau: “Mặt tiền của Đền thờ đủ làm choáng ngợp tâm trí và đôi mắt người ta. Nó được bọc bằng những miếng vàng lớn. Khi ánh thiều dương vừa tỏa sáng ở chân trời, thì cả đền thờ rực lên bởi những tia sáng phản chiếu, khiến những ai muốn nhìn thẳng vào đó cũng bị lóa mắt, đến nỗi họ phải quay đi. Đối với khách lạ, thì từ đàng xa, Đền thờ nổi bật lên như một núi tuyết trằng xóa. Không có phần nào mà không được chạm trổ hay bọc vàng.”
Đứng trên núi Cây Dầu nhìn xuống đền thờ rực rỡ trong ánh nắng huy hoàng, các môn đệ không khỏi buông lời trầm trồ khen ngợi. Nhưng, thay vì hòa điệu với những rung cảm trước vẻ hoa lệ của Đền thờ, Đức Giêsu lại tiên báo về một sự sụp đổ không tránh khỏi. Những gì thế gian cho là vững chắc và xinh đẹp chỉ là những thứ mỏng dòn và tạm bợ. Tất cả sẽ bị tàn phá. Ngay như công trình và “niềm tự hào” của Israen đây cũng sẽ bị sụp đổ, “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào” (Lc 21:6). Đức Giêsu đã tiên báo như thế.
Và sự gì đã xảy ra?
Năm 70 sau khi Chúa Giêsu sinh ra, tướng Titô đem đại quân Rôma đến vây hãm thành Giêrusalem. Dân chúng bị đói khát đến nỗi phải ăn thịt lẫn nhau. Kẻ nào tìm cách trốn khỏi vòng vây đều bị giết chết. Tính ra số người bỏ mạng lên đến 1.100.000, và số người bị bắt sau khi thành thất thủ là 97.000. Đền thờ bị lính Rôma phóng hỏa tan tành. Tướng Titô chỉ cho chừa lại một mảng tường thành để sau này con cháu Israen đến đó mà than khóc. Như thế, lời tiên báo của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm.
Nhưng sự sụp đổ của thànnh Giêrusalem chỉ là hình bóng của ngày thế tận. Rồi đây, sẽ chẳng còn thứ gì tồn tại. Thời gian sẽ hủy diệt tất cả. Sự sống, sắc đẹp, sức lực, sung sướng... của cuộc đời này đều mỏng dòn và ngắn ngủi. Mọi sự đều tiến về cái chết, dù nhanh hay chậm.
Vì thế, thánh Anphong từng nhắc đi nhắc lại : “Chỉ có một việc ta phải lo là việc rỗi linh hồn, vì mỗi người chỉ có một linh hồn mà thôi.” Thánh Phanxicô Saviê cũng nói: “Mỗi người chỉ có một linh hồn. Nếu được rỗi thì được hưởng thiên đàng, nếu bị mất thì phải sa hỏa ngục.” Xưa Vua Đavít suy về điều này mà thốt lên lời nguyện cầu: “Tôi chỉ ước trông một điều, đêm ngày tôi khấn xin, là cho tôi được vui sống trong nhà Chúa trọn đời” (Tv 26:4)
Nhưng để được ở trong nhà Chúa, tức là để chiếm được Nước Trời, người ta phải nỗ lực chiến đấu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Nước Trời ở dưới sức cường bạo,và những kẻ cường bạo chiếm đoạt lấy.” (Mt 11:12) Không gắng công chống trả ba thù, thiếu quyết tâm đi vào cửa hẹp, làm sao có thể tìm được thiên đàng đích thực.
Lạy Chúa, xin trợ lực chúng con chống trả ba thù, kiên vững niềm tin, hầu mai kia được hưởng niềm vui trường sinh trong Nước Chúa. Amen.
Hẳn rằng chúng ta đã hiểu được ý nghĩa dụ ngôn về những nén bạc : Ông chủ là Thiên Chúa: TN33-A6
Hẳn rằng chúng ta đã hiểu được ý nghĩa dụ ngôn về những nén bạc : Ông chủ là Thiên Chúa, nén bạc là những tài năng Ngài đã trao ban. Lúc ông chủ trở về và tính sổ là lúc Thiên Chúa phán xét và chúng ta phải trả lẽ về những khả năng đã sử dụng. Trước tôn nhan Chúa, thì giàu sang hay nghèo hèn, già cả hay trẻ thơ, tất cả đều không mấy quan trọng. Điều cần thiết đó chính là sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa, chính là sự cố gắng của chúng ta để sử dụng và sinh lời từ những nén bạc Chúa đã trao gửi. Vậy sự cố gắng sẽ đem lại những hậu quả nào cho chúng ta ?
Trước hết, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện vật chất. Thực vậy, như chúng ta thường nói :
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ. - Năng nhặt thì chặt bị. - Nước chảy đá mòn. - Có công mài sắt có ngày nên kim.
Những thành công trên đường đời chỉ dành cho những người biết cố gắng mà thôi. Một con chuột nhắt cứ cắn mãi cắn hòai cũng có ngày làm đứt sợi dây thừng. Từng nhát búa bổ dần cũng có ngày đốn gẫy cây cổ thụ. Từng giọt nước nhỏ dần cũng có ngày chọc thủng phiến đá. Chính vì thế, tương lai được hứa hẹn không phải cho những kẻ thông minh tài trí, nhưng cho những người biết hành động hơn, biết chăm chỉ hơn, biết cố gắng hơn, như tục ngữ đã nói :
- Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Tiếp đến, sự cố gắng sẽ đem lại những thành công về phương diện tinh thần. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy muốn trở nên một người tài giỏi thì phải chăm chỉ học hành. Khi tìm hiểu về những thiên tài trong lịch sử, người ta đã ghi nhận chỉ có 5% là do khả năng trời ban cho, còn lại 95% là do sức cố gắng. Chính vì thế, người Trung Hoa đã nói : Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý. Viên ngọc mà không dũa không mài thì không thể trở thành đồ trang sức quí giá. Con người cũng vậy, nếu không chịu khó học hành thì không thể nào biết được lý lẽ mà cư xử. Thực vậy :
- Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, Cũng thành vô dũng, cũng hoài ngọc đi.
Kinh nghiệm cũng cho thấy : thay đổi được một thói hư, xóa bỏ được một tật xấu là điều rất khó và đòi hỏi nhiều cố gắng.
Một ông bố quyết định từ bỏ rượu chè bàng cách mỗi lần ngồi vào bàn cơm, ông ta đểu nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Cứ thế, cứ thế cho tới khi chiếc ly đầy nến và ông ta chừa bỏ được tật nghiện rượu của mình.
Đời sống là một cuộc giao tranh khiến chúng ta phải cố gắng và chiến đấu không ngừng. Sống trong cuộc đời, chúng ta như người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Đứng trước những thói hư tật xấu, nếu chúng ta không cố gắng chống trả, thì rồi chúng ta sẽ bị nhận chìm trong tội lỗi lúc nào cũng chẳng hay.
Sau cùng, trong phạm vi thiêng liêng, mặc dù Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, nhưng không phải là đã xong xuôi, trái lại chúng ta còn phải tiếp tục cộng tác với Ngài và ra sức chiến đấu không ngừng. Vì thế, thánh Augustinô đã nói :
- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta. Tuy nhiên, để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài, bởi vì chính Ngài cũng không thể cứu chuộc chúng ta, nếu như chúng ta không muốn.
Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu. Lời nói này có nghĩa là trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải cố gắng và cố gắng không ngừng. Trong ngày sau hết, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã làm được những gì, trái lại Ngài muốn biết chúng ta đã chiến đấu như thế nào, có sinh lời cho Chúa từ những nén bạc Ngài đã trao gửi hay không ?
Ngày xưa, triết gia Platô (427 – 347 BC, trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí: TN33-A7
Ngày xưa, triết gia Platô (427 – 347 BC, trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí dụ điển hình giúp chúng ta kiến tạo những điều ưu tiên trong cuộc đời. Hãy tưởng tượng cuộc đời như một hình tam giác lớn ; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh đáy của hình tam giác. Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên. Khi chúng ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của hình tam giác càng thu hẹp nhỏ lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của hình tam giác. Chúng ta sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy những điều coi như quan trọng hơn ở trên. Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh của hình tam giác, chỉ còn một chỗ duy nhất mà thôi. Kết quả là, chúng ta sẽ tự hỏi chính mình, “Cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi sự ?” Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là đầu tư cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn những nén bạc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tin tưởng trao ban cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát triển trở nên phong phú bằng cách sẵn lòng đầu tư khả năng của mình vào chương trình và mục đích của Ngài.
Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy sinh cho chương trình của Ngài. Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống của chúng ta.
Một vị vua kia có ba người con trai, mỗi người với những tài năng riêng của mình. Người thứ nhất có tài trồng cây ăn trái. Người thứ hai chăn nuôi cừu. Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất hay. Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dài. Trước khi ra đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân chúng hài lòng trong lúc vua vắng mặt.
Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp. Nhưng rồi mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có. Không còn đủ củi cho dân chúng sưởi. Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không ? Khi nhìn thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép họ làm.
Người con thứ hai cũng đã phải đối diện với một quyết định khó khăn. Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa đông. Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quý của mình làm lương thực không ? Khi nhìn thấy trẻ con than khóc vì đói, anh đau lòng và để cho họ giết đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông.
Dân chúng đã có củi để sưởi và thịt cừu để ăn trên bàn. Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dài. Tinh thần của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên được. Dân chúng tìm kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ chối không muốn chơi đàn cho họ nghe. Cuối cùng tình thế trở nên tuyệt vọng, nhiều người đã bỏ xứ, dọn đi nơi khác.
Đến một ngày, nhà vua trở về nước. Ông vô cùng buồn bã vì thấy rằng nhiều người đã bỏ nước ra đi. Ông gọi ba người con lại để tường trình xem chuyện gì đã xẩy ra. Người con thứ nhất nói, “Thưa cha, con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đã quá lạnh và con đã cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi”. Người con thứ hai nói “Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con vì khi lương thực khan hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con”.
Nghe vậy, nhà vua thay vì giận dữ, đã ôm lấy hai người con, hãnh diện và hài lòng về họ. Rồi người con thứ ba tiến đến với cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, “Thưa cha, con đã không thể nào chơi đàn nổi vì cha đã không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó, hơn nữa dân chúng cũng đang chịu khổ vì đói lạnh, làm sao vui được !”
Bấy giờ người cha mới nói rằng “Hỡi con, hãy kéo đàn cho cha nghe vì bây giờ lòng cha buồn rầu tan nát”. Người con cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những ngón tay của mình đã trở nên cứng nhắc vì bỏ lâu không thực tập. Dù cố gắng hết sức, anh cũng không thể nào nhúc nhích được những ngón tay. Sau đó người cha nói, “Con đã có thể làm cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của con, nhưng con đã từ chối không làm. Nếu xứ sở này đã mất đi một nửa số dân, đó là lỗi tại con. Nhưng bây giờ chính con cũng không còn có thể chơi đàn được nữa. Đó chính là hình phạt cho con vậy”.
Để sống một cách phong phú hơn chúng ta phải biết sử dụng tài năng đã đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén bạc, ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc. Một nén bạc tương đương với 15 năm lương của một người lao động suốt ảc ngày. Trong Anh ngữ nén bạc được dịch là “talent”, lại còn có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong các sinh hoạt sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú… Tài năng tự nhiên có thể được hiểu rộng rãi hơn gồm những ơn lành chúng ta đã đón nhận từ Thiên Chúa, đặc biệt là đức tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn… Những tài năng này đã được ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi, nhưng phải được đầu tư để làm cho chúng sinh hoa kết quả.
Báo Văn Học số 196 tháng 8 năm 2002, trong mục Tin Văn của Thế Quân, ca ngợi ông Gene: TN33-A8
Báo Văn Học số 196 tháng 8 năm 2002, trong mục Tin Văn của Thế Quân, ca ngợi ông Gene Smith 65 tuổi, “Một người mê sách : kẻ cứu tinh của một nền văn học”. Nhờ mê sách mà ông cứu vớt nền văn học của Tây Tạng. Ký giả Barbara Stewart của báo New York Times đã gọi ông già Smith là người cứu tinh của nền văn học Tây Tạng. Ông Smith đang sở hữu một kho tàng văn chương Tây Tạng mà ông sưu tập được từ 37 năm nay. Theo ước tính, ông hiện có khoảng 12 ngàn tác phẩm văn chương Phật giáo và văn chương chịu ảnh hưởng Phật giáo của Tây Tạng. Những học giả Mỹ đánh giá công trình sưu tập văn chương của ông là công trình to lớn nhất ở phương Tây và có thể lớn nhất thế giới.
Thế nhưng sự nghiệp này đã được bắt đầu rất đơn giản. Lý do đưa ông đến việc nghiên cứu văn chương Tây Tạng là hồi chiến tranh Việt Nam xảy ra, ông xoay sở để được hoãn dịch bằng cách học một trong những ngôn ngữ khó học là tiếng Tây Tạng. Sau đó, ông đã học triết lý và quan điểm về thế giới của Phật giáo Tây Tạng với lạt ma Deshung. Lạt ma Deshung là một người mê sách. Và nỗi đam mê ấy truyền sang Smith khiến ông trở thành một người mê sách luôn. Sau 5 năm học tiếng Tây Tạng, ông du hành qua An Độ để sưu tầm sách.
Mặc dù văn chương Tây Tạng đã có lịch sử cả 1000 năm với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm văn chương, nhưng vẫn là một nền văn minh ẩn giấu, không mấy ai biết đến nền văn minh này. Trên thế giới không đâu có tác phẩm của Tây Tạng kể cả những thư viện lớn nhất thế giới. Lý do là vì người Tây Tạng không biết in sách. Sách được hoàn thành bằng cách chép tay hoặc khắc trên những bản gỗ, và lưu giữ trong các tu viện hoặc nhà riêng. Đã thế mỗi một trong 4 tông phái Phật giáo Tây Tạng lại có một nền văn chương riêng biệt. Chẳng ai phân loại hay có một danh sách đầy đủ. Sau khi Trung Quốc xâm lăng, sách bị phân tán khắp nơi, cuốn còn, cuốn mất. Hơn nữa sách được mang ra ngoại quốc thường do những người tỵ nạn Tây Tạng vượt ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn mang sang An Độ. Tìm hỏi cho ra người mang sách đã là việc khó, lại còn phải biết sách nào quan trọng trong các tông phái chính đòi hỏi phải có kiến thức và sự nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để khắc phục những khó khăn trên, ông Smith phải dốc toàn tâm lực làm việc liên tục, tra cứu, tham khảo với các vị lạt ma, gửi các chuyên viên đến các nơi xa xăm ở An Độ cũng như Nepal để săn lùng sách. Trong quá trình làm việc như thế kiến thức của ông Smith trở nên phong phú phi thường. Ông trở thành giám đốc lưu động của văn phòng thư viện đặt tại New Delhi, Indonesia và Cairo. Hiện nay ông đang dự định chuyển chỗ ở về New York với cơ quan văn hoá “Rubin Cultural Trust” hứa sẽ cung cấp đủ chỗ để chứa thêm một số sách hiện đang tồn trữ và hàng trăm cuốn sách mới khác vừa được tìm thấy gần đây mà người ta tưởng rằng đã bị phá hủy. Nói rằng Gene Smith là người cứu tinh của cả một nền văn học, quả không có gì quá đáng !
Sự tiêu cực và bi quan đã bóp méo hình ảnh của Thiên Chúa trở nên một ông chủ hung ác. Đây là thái độ của người đầy tớ thứ ba.
Một người cha sắp sửa lên đường đi làm ăn xa, trao cho hai người con tiền bạc để xây cho ông hai căn nhà. Người con đầu tiên đã dùng tất cả số tiền được trao phó xây cho cha một ngôi nhà tuyệt đẹp, sang trọng. Còn người con thứ hai nhìn thấy đây là một cơ hội để kiếm tiền riêng cho mình, hắn dùng những vật liệu xây cất rẻ tiền, và xây cho cha một ngôi nhà rất tầm thường. Khi người cha trở về, để làm quà thưởng cho các con, ông nói “Để trả công cho các con, cha cho mỗi con chính căn nhà mà các con đã xây cho cha, hãy đưa gia đình các con vào ở trong căn nhà đó”.
Sự ích kỷ và lười biếng của người đầy tớ thứ ba đã làm cho anh có cái nhìn tiêu cực và bi quan về thiện ý của chủ rồi dẫn tới hành động chôn giấu nén bạc dưới đất.
Thiên Chúa chúng ta tờ phượng là một Thiên Chúa của sự sống, đầy yêu thương. Nói đến sự sống là nói đến sự sinh trưởng, phát sinh hoa trái. Vì chính Ngài là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên vũ trụ và phán : “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái tuỳ theo loại:, Ngài cũng phán ngay với con người rằng : “Hãy sinh sôi nẩy nở…” Do đó không tăng trưởng là dấu hiệu của sự hủy diệt, sự chết. Không phát sinh hoa trái là đi ngược lại thánh ý của Thiên Chúa và gây tai hại cho chính bản thân mình.
Chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay, William Barclay đã viết : “Thiên Chúa không muốn những con người phi thường làm những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con người bình thường làm những việc bình thường một cách phi thường”.
Chúa Giêsu sẽ trở lại để hỏi chúng ta về những nén bạc, tài năng, ơn lành đã được Thiên Chúa trao ban. Chúng ta sẽ bị xếp vào loại người đầy tớ nào ?
Đây là dụ ngôn thứ ba về ngày tận thế. Chúa dạy mấy dụ ngôn này ngay trưóc khi ngài bị: TN33-A9
Khung cảnh: Đây là dụ ngôn thứ ba về ngày tận thế. Chúa dạy mấy dụ ngôn này ngay trưóc khi ngài bị thương khó. Hai dụ ngôn đầu nói về hai đầy tớ và về mười trinh nữ.
Nén bạc: Nén là đơn vị đo lường lớn nhất thời đó, dù nay ta không rõ là bao nhiêu. Một nén có lẽ tương đương với mười lăm năm công thợ, hay khoảng một triệu đô-la bây giờ.
(c.19) Đào lỗ chôn báu vật là một cách thông thường và an toàn nhất. Người này không mất của, nhưng cũng không lời thêm, và như vậy là chưa đủ cho Chúa.
(c.25) Hai bên cho hai lý do khác nhau. Tớ thì nói là anh ta sợ, còn chủ thì nói là tớ tồi tệ và biếng nhác.
Một Điểm Chính
Ta cần tích cực chuẩn bị vì Chúa tới bất thình lình. Đừng sợ hãi hay lười biếng.
Suy Niệm
Chúa cho tôi nén bạc nào, tài năng nào, lợi điểm nào? Tôi có tích cực phát triển vốn liếng Chúa cho không? Nếu hôm nay là ngày phán xét, Chúa sẽ phán quyết tôi ra sao? Tôi tính sẽ đầu tư vốn liếng Chúa cho như thế nào?
Trên đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất nhiều: TN33-A10
1. Trên đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất nhiều nghịch cảnh. Vậy Ngài có phải là một Thiên Chúa bất công không? Nếu không bất công thì phải giải thích sự bất bình đẳng này ra sao?
2. Người được nhiều thuận lợi có trách nhiệm gì về những thuận lợi của mình không? Trách nhiệm thế nào?
3. Thiên Chúa phán xét con người dựa trên những thành quả, mức độ hoàn hảo mà con người đạt được, hay dựa trên mức độ nỗ lực mà con người đã làm để trở nên hoàn hảo hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, sự phân phối những điều tốt đẹp không đồng đều
Không ai có thể chối cãi điều này: trên đời, người ta khác nhau về đủ mọi phương diện: tính tình, khuynh hướng, khả năng, quan niệm, tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, v.v... Đúng như cổ nhân nói: «Bá nhân bá tánh»>, «chín người mười ý»... Và ngay trong từng phương diện, người ta cũng khác nhau về mức độ, chẳng ai tuyệt đối bằng ai, y hệt như: «Bàn tay ngón thấp ngón cao». Điều đó tạo nên sự phong phú đa dạng trong thế giới con người. Trong những lãnh vực khác của thiên nhiên vạn vật cũng có sự đa dạng y như thế. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa bất công? Phải chăng những người có tài đức hơn người, có nhiều điều kiện phát triển hơn người, giàu có hơn người… thì được lợi hơn những người khác?
2. Ai nhận được nhiều thì bị đòi hỏi nhiều
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Thiên Chúa cho ai nhiều, thì Ngài đòi hỏi người ấy nhiều. Ngược lại Ngài cho ai ít, thì lại đòi hỏi người ấy ít. Đức Giê-su đã từng nói: «Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn» (Lc 12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều ân huệ mà không làm những ân huệ sinh lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha nhân, thì ân huệ ấy trở thành án phạt cho mình. Cho nên ân huệ nhiều thì trách nhiệm cũng nhiều. Vậy ai nhận được nhiều thì cũng nên lo lắng về trách nhiệm của mình. Còn ai được ít thì cũng nên tự an ủi vì trách nhiệm của mình ít. Như vậy kẻ được nhiều không hẳn đã hay, và kẻ được ít không hẳn đã dở. Mới nghĩ thì thấy Thiên Chúa không công bằng, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy Ngài tuy chủ trương đa dạng nhưng lại rất công bằng.
Những ân huệ ta nhận được cũng như món tiền ta vay của ngân hàng, phải trả tiền lời theo định kỳ, mỗi tháng hoặc mỗi năm. Do đó, vay càng nhiều tiền thì càng phải sinh lợi ra nhiều để có thể trả số lời tương ứng với số tiền mình vay. Giả như lãi suất là 10% một năm (tức 0,83% một tháng), thì trong 10 năm, tiền lời sẽ lên cao bằng tiền vay ban đầu. Nếu vay trong 20 năm, tiền lời thành gấp đôi tiền vay ban đầu. Nếu vay nhiều mà không đủ khả năng sinh lợi ra nhiều, thì sẽ không có tiền để trả lãi, và vay càng lâu thì tiền lời càng cao, nếu không sinh lợi thì càng nguy hiểm. Vì tới kỳ hạn cuối cùng, phải thanh toán cả vốn lẫn lời, nếu không có khả năng trả hết thì có nguy hiểm phải ngồi tù. Do đó, nếu không có khả năng làm ăn sinh lợi, thì vay được nhiều không phải là điều tốt đẹp mà trái lại có thể là nguyên nhân gây ra tai họa. Vay càng nhiều, họa càng lớn. Tương tự, được Thiên Chúa ban nhiều thuận lợi chớ vội mừng hay tự hào, vì nếu không làm cho chúng sinh lợi thì rất có thể những thuận lợi ấy lại trở thành tai họa.
3. Hãy ý thức trách nhiệm về những thuận lợi mình đang hưởng
Vậy chúng ta hãy tự xét xem chúng ta được Thiên Chúa ban cho những thuận lợi nào: khỏe mạnh, thông minh, được giáo dục tử tế, có văn hóa, nhà giàu có, nhiều tài năng, v.v... Chúng ta thường hãnh diện, tự hào với mọi người về những thuận lợi đó, mà rất ít khi nghĩ đến trách nhiệm vì được những thuận lợi hơn người đó. Thiết tưởng, khi được những thuận lợi hơn người, người Ki-tô hữu phải nghĩ đến trách nhiệm hơn là tự hào về chúng.
Những thuận lợi đó phải được đem ra làm ích lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, và cho tha nhân. Nếu thuận lợi ta được quá nhiều, mà ích lợi ta làm ra được từ những thuận lợi đó lại quá ít, ắt nhiên ta không thể tránh được hình phạt của Thiên Chúa. Được quá nhiều thuận lợi mà không sinh lợi cho ai, điều ấy chứng tỏ ta không có tình yêu, và như thế là ta không có Thiên Chúa trong chúng ta: «Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được» (1Ga 3,17). Thật vậy, nếu về mặt vật chất mà Thiên Chúa còn đòi buộc chúng ta «ai có hai áo, hãy chia cho người không có; ai có gì ăn, cũng hãy làm như vậy» (Lc 3,11), thì về mặt tinh thần, Ngài còn đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ hơn vậy rất nhiều. Vì sự chia sẻ vật chất thì rất giới hạn, còn chia sẻ tinh thần thì ít bị giới hạn hơn rất nhiều.
4. Đừng vội tự hào hay kiêu hãnh về những thuận lợi của mình
Vậy khi xét xử, Thiên Chúa không xét theo mức độ đạo đức, những thành quả tâm linh mà chúng ta đang có hay đã đạt được, mà xét theo mức độ cố gắng của chúng ta để nên hoàn thiện hơn. Nếu Thiên Chúa ban cho ta 5 yến bạc, mà ta chẳng làm lợi ra được yến nào, nghĩa là ta không phát huy được những thuận lợi của ta, không dùng những thuận lợi ấy để làm ích cho ai, thì ta sẽ không được Ngài kể là công chính bằng một người chỉ được Ngài ban một yến, nhưng đã làm lợi ra được gấp 3, thành 3 yến. Tuy người ấy chỉ có 3 yến, nghĩa là kém ta tới 2 yến, nhưng người ấy được Thiên Chúa coi là công chính hơn ta rất nhiều. Có như thế, Ngài mới là một Thiên Chúa công bằng thật sự.
Vì thế, đừng tưởng ta đạo đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người mà nghĩ rằng ta công chính hơn người. Coi chừng kẻo lầm to: «ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). Vì không thể so sánh thấy kết quả của mình hơn người khác mà kết luận mình công chính hơn họ. Phải so sánh những thành quả mình làm được với những thuận lợi ban đầu Thiên Chúa ban cho, xem đã tương xứng chưa: «Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng so sánh với người khác» (Gl 6,4).
Đi vào cụ thể, ta thử so sánh hai người sau đây: Một người sinh ra từ một cha mẹ trộm cướp hay đĩ điếm, không được giáo dục đầy đủ, nhưng anh đã cố gắng hết sức mình ra vượt ra khỏi vòng tội lỗi do cha mẹ mình để lại. Anh nỗ lực vươn lên sự thiện suốt cả cuộc đời, và anh đã trở thành một người khá lương thiện. Còn người kia được sinh ra từ một cha mẹ đức hạnh, được giáo dục đầy đủ, vì thế, dù anh chẳng cố gắng hay nỗ lực nhiều, anh vẫn được mọi người coi là rất tốt, và nhờ đó có một địa vị khá cao trong xã hội hay Giáo Hội. Như vậy, trước mặt người đời, người thứ hai chắc chắn được đánh giá là công chính hơn người thứ nhất. Nhưng rất có thể trước mặt Thiên Chúa, Ngài thấy nỗ lực vươn lên của người thứ nhất lớn hơn gấp nhiều lần nỗ lực của người thứ hai. Như thế chắc chắn phần thưởng Thiên Chúa dành cho người thứ nhất sẽ phải lớn hơn phần thưởng cho người thứ hai.
Quả thật cách phán xét của Thiên Chúa khác hẳn với cách phán đoán của người đời. Ngài đã từng nói với các các thượng tế và kỳ mục trong dân, là những người được dân chúng tôn trọng và cho là đạo đức: «Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31). Tại sao? Có thể vì những người tội lỗi ấy đã cố gắng vươn lên sự thiện nhiều hơn cả những bậc được coi là đạo đức kia! Nên khi Gio-an Tẩy giả và Đức Giê-su đến, những người bị coi là tội lỗi ấy đã sám hối và tin theo ngay!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con vui mừng vì được Cha ban cho rất nhiều thuận lợi trong đời sống. Và con đã hãnh diện và tự hào với những người kém may mắn hơn con. Qua bài Tin Mừng này, con thấy mình thật dại dột, vì nếu con không dùng những thuận lợi ấy để bù đắp lại cho những người kém may mắn hơn con, thì vào ngày Cha phán xét, chính những thuận lợi ấy lại trở thành những gì gây bất lợi cho con. Xin cho con ý thức được trách nhiệm của con đối với họ.
Thiên Chúa là Alpha và Omega, Ngài là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn: TN33-A11
Thiên Chúa là Alpha và Omega, Ngài là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì ngàn năm đối với Chúa như một ngày.
Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giê-su trong ngày quang lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.
Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính. Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi, Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối dài và phân phát ơn cứu rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Ki-tô lịch sử sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.
Đức Giê-su là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi, nơi Ngài, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức Giê-su còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Ngài. Ngài là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Ngài loài người đạt tới sự sống viên mãn.
Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.
Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng ta nhận ra có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm thấm nhập lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung cuộc.
Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giê-su trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.
Ngày Đức Giê-su trở lại, ngày quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48), Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Ki-tô (Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17). Chính Đức Giê-su đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26, 64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39-40).
Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ đến, kể cả Đức Giê-su về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ "như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1-3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33-37; Lc 17, 22-37; 21, 35)
Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giê-su tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Sẽ có một cuộc phán xét chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu ám chỉ ngày phán xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới (Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Ngài hết thảy. Tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo... đều được triệu tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo, biện minh, đối chiếu, bằng chứng... Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi của mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.
Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Gio-an còn định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4, 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.
Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.
Các bài đọc Chúa Nhật 33 Thường Niên kêu mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động. Sách Châm Ngôn mô tả người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ. Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Thánh nhân đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời gian Chúa ban. Với bài phúc âm, Chúa Giê-su nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".
Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác. Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm việc, sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng ta thực thi đối với anh chị em mình.
Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:
Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này. Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ trong tình yêu.
Khi ông Adong và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ đã xây một cái nhà trên đất sỏi: TN33-A12
Khi ông Adong và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ đã xây một cái nhà trên đất sỏi khô cằn, và làm lụng vất vả đổ mồ hôi trán để kiếm của ăn. Mỗi năm hai ông bà có thêm một người con. Theo năm tháng, những người trẻ này lớn lên và tổng cộng tất cả là 14 người. Chắc chả ai ở đây có can đảm sinh sản 14 người!
Một hôm nghe tiếng gõ cửa, ông Adong ra mở và thấy Thiên Chúa đến thăm. Bà Evà mau mắn mời Chúa ngồi và dâng nước cho Chúa dùng. Chúa cám ơn và hỏi: “Các đứa trẻ đi đâu hết cả rồi?” Mau lẹ ông Adong đi gọi các con và 7 đứa đã bước vào nhà, đứng nghiêm trang trước mặt Chúa. Chúa đứng dậy mỉm cười và nói: “Cha sẽ chúc lành cho từng con một”. Họ quì xuống trước mặt Ngài, và Ngài đặt tay trên đầu chúng. Với người con cả, Ngài nói: “Con sẽ là một ông vua oai hùng dũng mạnh”. Với người con thứ hai, Ngài bảo: “Con sẽ là một công chúa xinh đẹp”. Người con thứ ba nghe Ngài nói: “Con sẽ là một vị công tước khôn ngoan”, và những người còn lại đều được lãnh nhận ơn lành để trở nên những học gidi, thi sĩ, đại thương gia.
Ông Adong và bà Evà thấy Chúa chúc lành rộng rãi cho các con của mình, nên vội vàng đi tìm 7 người con còn lại dẫn đến trước mặt Chúa. Chúa cười và nói: “Ta cũng phải chúc lành cho các trẻ này mới được”. Nghe thế, ông Adong và bà Evà mỉm cười sung sướng. Đặt tay trên đứa thứ nhất, Ngài nói: “Con sẽ là một người đầy tớ trung tín”. Với người thứ hai, Ngài bảo: “Con sẽ là một bác nông phu”. Người con thứ ba cũng được chúc lành để làm thợ đóng giầy. Số còn lại người làm thợ rèn, người làm thợ mộc, người làm nghề may vá quần áo.
Bà Evà nghe thấy Chúa chúc như vậy, nên khóc và thưa: “Lạy Chúa, thật không công bằng chút nào. Chúa phân phát các ân huệ của Chúa không đồng đều chi cả. Tất cả những người con này đều là con của con mà Chúa cho người được làm vua, người bị làm đầy tớ”. Chúa lắng nghe lời than, rồi trả lời: “Này Evà, con không hiểu Cha. Cha thấy cần thiết phải phân chia các nhiệm vụ, các công việc trên mặt đất này qua các người con của con. Nếu tất cả đều làm vua hoặc công chúa thì còn ai làm nghề nông để cung ứng thực phẩm nữa. Nết tất cả đều làm quan thì ai sẽ là người cung cấp quần áo. Mỗi người lãnh nhận nhiệm vụ khác nhau, nhưng dưới cái nhìn của Cha, tất cả đều quan trọng và cần thiết. Giống như các phần trong thân thể. Tất cả đều hoà hợp bổ túc và nuôi dưỡng nhau”. Nghe vậy, bà Evà thưa: “Lạy Chúa xin tha thứ cho con. Con đã quá vội vã và nông nổi. Con cầu xin cho thánh ý Chúa được nên trọn nơi các người con của con”.
Qua bài Phúc âm với dụ ngôn người lãnh năm nén, người hai nén, người một nén, Chúa muốn nói với chúng ta một sự thật căn bản: Không ai giống ai và mỗi người lãnh nhận những tài năng ân sủng khác nhau. Tuy nhiên tất cả mọi người đều có những gì cần phải có để đạt kết quả. Người lãnh một nén không có nhiều như người có năm nén, đó là điều rõ ràng hiển nhiên, nhưng ông có tất cả những gì ông cần. Nếu ông không đem đi chôn, có thể ông đã làm được nhiều chuyện. Điều này phản ảnh tâm trạng con người một cách sâu xa: Thiên Chúa trao ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần, nhưng điều đáng buồn là chúng ta thường không biết nhận ra giá trị và cảm ta những gì chúng ta có.
Phải, tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa trao ban ân huệ cũng như tài năng, và có tất cả những gì cần có để đạt đích. Thiên Chúa trao ban những ân huệ tài năng khác nhau là để giúp con nguời có thể chu toàn các công việc khác nhau, bổ túc, khích lệ, và nâng đỡ nhau trong cuộc sống vất vả nơi dương thế. Mỗi người đều quan trọng và có chỗ đứng riêng biệt trên trái đất. Điều quan trọng không nằm ở chỗ nhận nhiều hay ít, nhận ân huệ này hay tài năng kia, nhưng ở chỗ chúng ta đã, đang, và sẽ làm gì với những cái chúng ta có, những gì chúng ta đã lãnh nhận. Đây là điều quan trọng của dụ ngôn. Người có một nén cũng có cùng một cơ hội như người có năm nén, nhưng ông đã chọn lựa việc đem chôn giấu đi. Đó là điều tệ hại nhất chúng ta có thể làm với bất cứ quà tặng nào mà Thiên Chúa đã yêu thương trao ban cho chúng ta.
Đâu là ân sủng tài năng của chúng ta? Và Thiên Chúa đã trao cho chúng ta những gì để chúng ta chia sẻ với xã hội hôm nay? Phải chăng chúng ta chia sẻ hay lại chôn giấu dưới đất, đầu tư một cách ngu xuẩn hay dùng nó để làm vinh danh Chúa? Chúng ta cần nhớ rằng chúng ta có tất cả những gì cần thiết đế chu toàn nhiệm vụ và bổn phận của chúng ta. Và Thiên Chúa muốn chúng ta làm việc: Người lãnh một nén bị phạt không phải vì tội ông chỉ lãnh được một nén, nhưng vì ông không chịu làm việc, không khai thác khả năng của mình. Do đó, câu hỏi quan trọng mà mỗi người chúng ta cần kiểm điểm suy nghĩ một cách thành thực trước mặt Chúa và trả lời qua cuộc sống của mình, đó là: Chúng ta đã và đang làm gì với những cái chúng ta có, những gì chúng ta đã và đang lãnh nhận?
Chủ đề: “Chúng ta sẽ bị xét xử về cách thức chúng ta đã sử dụng tài năng của mình để làm việc cho nước Chúa.”
Giả sử chúng ta có một người em trai khi sinh ra đã không có bàn tay mặt, còn chân thì chỉ có: TN33-A13
Giả sử chúng ta có một người em trai khi sinh ra đã không có bàn tay mặt, còn chân thì chỉ có nửa bàn chân mặt, đến khi lên sáu tuổi nó hỏi bạn: "Anh nghĩ em có thể chơi thể thao ở trường được không?" chúng ta sẽ trả lời nó thế nào? Ta sẽ gây cho nó những niềm hy vọng hay sẽ cho nó biết thực tế? Giả sử vài ngày sau, ta và đứa em trai đó đang xem một chương trình truyền hình, chợt nó hỏi ta: "Anh có nghĩ rằng một ngày nào đó em có thể là tay đá bóng thiện nghệ không?" thì ta sẽ trả lời nó thế nào? Rồi giả sử vài ngày sau nữa, thằng bé nhìn thấy ta đang lật cuốn kỷ lục bóng đá quốc gia ra xem, liền hỏi: "Anh có nghĩ rằng một ngày kia em sẽ chơi bóng giỏi đến nỗi tên em được ghi vaò cuốn kỷ lục bóng đá quốc gia không?" trường hợp này ta sẽ trả lời nó thế nào?
Năm 1953, một cậu bé sáu tuổi là Tom Dempsey đã từng đưa ra chính những câu hỏi trên. Hệt như cậu em nhỏ trong tưởng tượng của bạn, Tom Dempsey cũng đã chào đời không có bàn tay phải, còn chân thì chỉ có nửa bàn chân phải thôi. Tom đến trường học và chơi môn bóng đá. Cậu lại còn được chơi trong đội banh trường cao đẳng ở California nữa chứ ! và không bao lâu sau, Tom đã trở thành một tay tiền vệ cho đội banh. Cậu chơi giỏi đến nỗi cuối cùng đội New Orleans Saints đã ký hợp đồng với cậu.
Vào ngày 8 tháng 11 năm 1970, đội Saints đang dẫn đội Detroit với tỷ số 17-16 ngay trước khi trận đấu kết thúc hai giây. Lúc này đội Saints đang có được trái banh ở lằn mức 45 mét trên sân Detroit. Huấn luyện viên của đội New Orleanss Saints là J. D. Roberts vỗ nhẹ vào vai Tom và nói: "Cậu hãy bước ra đó và đá một cú tuyệt nhất của cậu nhé!" thủ môn đặt trái banh xuống ở vạch 8 mét sau hàng tranh cướp bóng thay vì 7 mét để cho Dempsey có thêm chút ít thời giờ để sút bóng đi. Như thế trái bóng ở vào vị trí cách hai trụ gôn tất cả là 63mét.
Phần còn lại của câu chuyện đáng ghi vào lịch sử. Nửa bàn chân mặt của Tom đã sút một cú thật hoàn chỉnh. Sau này Tom đã nói trong tạp chí Newsweed (Tuần tin tức) như sau: "Tôi không thể ngờ được mình lại đá được quả banh đi xa đến thế. Nhưng tôi đã trông thấy cánh tay của huấn luyện viên giơ lên và tôi không thể nào diễn tả được tôi đã cảm thấy mình vĩ đại như thế nào!". Đội Saints thắng cuộc với tỷ số 19-17 và Dempsey đã phá kỷ lục bóng đá quốc gia trong tư thế sút bóng cách gôn xa hơn kỷ lục cũ tới 7 mét.
Câu chuyện trên có liên quan gì đến các bài đọc Thánh Kinh hôm nay- đặc biệt là với chủ đề mà Chúa Giêsu nêu ra trong bài Phúc âm hôm nay?
Xin hãy nhớ lai dụ ngôn Chúa Giêsu nêu ra. Người phú hộ nọ có 3 người làm công cho mình. một anh thì rất có tài. Anh thứ hai thì vào loại trung bình, anh thứ ba thì tài năng kém.
Một ngày nọ người phú hộ ấy quyết định đi xa một chuyến. Trước khi đi, ông trao cho mỗi người làm công một số tiền tuỳ theo tài năng. Anh thứ nhất được 5 ngàn đồng bạc, anh thứ hai được 2 ngàn, anh thứ ba thì một ngàn. Ba người làm công này phải dùng số tiền để sinh lợi cho ông chủ trong thời gian ông vắng mặt. Ý nghĩa sâu sắc hơn ẩn chứa đàng sau dụ ngôn này là gì? Chúa Giêsu đang nêu ra bài học gì qua dụ ngôn ấy? OÂng phú hộ giàu tượng trưng cho ai? Cuộc du hành ông ấy thực hiện là cuộc du hành nào? Ba người làm công ấy tượng trưng cho ai? Số tiền ông trao cho họ tượng trưng cho cái gì?
Ông chủ giàu có lên đừơng đi xa tượng trưng cho Chúa Giêsu, Đấng ngự về trời sau khi phục sinh. Ngài sẽ trở lại vào ngày thế mạt.
Các người làm công tượng trưng cho chính chúng ta trong lúc Chúa Giêsu vắng mặt, Ngài muốn chúng ta sử dụng những tài năng Chúa ban cho chúng ta vào việc mở mang nước Chúa trên trần gian. Khi Chúa Giêsu trở lại, Ngài sẽ xét xử chúng ta về việc chúng ta đã sử dụng tài năng chúng ta như thế nào cho công việc của nước Chúa.
Thật thú vị khi nhận thấy rằng trong dụ ngôn của Chúa Giêsu anh chàng kém tài nhất lại là anh chàng không chịu nỗ lực làm một điều gì đó với số tiền được giao phó cho. Anh ta buộc phải viện ra một cớ để bào chữa cho sự biếng nhác của mình. anh ta muốn nói rằng vì có quá ít tiền nên anh ta có thể tự bào chữa cho mình về việc chẳng chịu làm gì hết.
Chúng ta cũng thường có khuynh hướng lập luận tương tự như thế. Chúng ta lập luận rằng Chúa đã không kêu gọi chúng ta vào bất cứ địa vị cao cả nào trong Giáo Hội. vì thế chúng ta có thể dồn tất cả tâm sức thu vén cho riêng mình và để mặc công việc mở rộng Nước Trời cho những vị có phẩm trật cao hơn. Nói cho gọn, chúng ta đã cư xử giống người làm công thứ ba trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Và đây chính là chỗ câu chuyện về Tom Dempsey cần phải tham dự vào. Tom Dempsey có rất ít nếu không nói rằng chẳng có tài năng để chơi bóng đá. Tuy nhiên cậu ta đã sử dụng tài năng ít ỏi của mình để chu toàn một công việc lớn. Cậu không những chỉ chơi bóng đá chuyên nghiệp, mà còn lập nên kỷ lục bóng đá chuyên nghiệp hiện còn đứng vững.
Nếu Tom Dempsey sử dụng tài năng ít ỏi của mình để làm việc cật lực vì vương miện trần gian chóng qua này thì chúng ta còn phải cật lực hơn biết bao nhiêu trong việc sử dụng tài năng của mình vì vương miện nước trời là cái tồn tại vĩnh viễn?
Đây là vấn nạn vô cùng quan trọng mà các bài học hôm nay đặt ra trước chúng ta. Vấn nạn này đặc biệt thích hợp với chu kỳ năm phụng vụ đang sắp sửa chấm dứt. Thánh Phaolô cắt nghĩa lý do tại sao trong bài đọc thứ hai hôm nay: "Thưa anh chị em, anh chị em đều biết rất rõ ngày của Chúa sẽ đến như một tên trộm vào ban đêm. Vì thế, chúng ta không nên mê ngủ mà hãy lo tỉnh thức".
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện.
"Lạy Chúa xin dạy chúng con biết sống quảng đại biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đang thi hành ý muốn của Chúa".
Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những: TN33-A14
"Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi." (Mt 25:23). Được sinh ra làm người đã là một ân huệ lớn lao. Được tái sinh làm con Chúa thì lại là một ơn cao trọng hơn nữa. Sự biết ơn của từng người đối với Thiên Chúa thường được diễn tả trong hình ảnh của tình yêu vợ chồng. Họ đón nhận nhau với lời khen ngợi đấng Tạo Hóa. Khi âu yếm nhau họ nhớ ơn sinh thành và công dưỡng dục của cha mẹ. Khi chiêm ngưỡng nhau, họ biết trao niềm tin và tôn trọng. Vì nơi mỗi người phản ảnh nét đẹp siêu nhiên và chứa đựng sự thiện. Với lòng thiện, thì dù làm việc to hay nhỏ đều xây đắp hạnh phúc cho nhau và làm đẹp lòng Chúa. Nhờ vậy mà hạnh phúc gia đình mỗi ngày một dồi dào. Nhưng nếu lạm dụng duyên sắc, hoặc không biết dùng tài của mình để làm việc cho Chúa thì coi như phí cuộc đời, có khi gây tai họa lớn lao! Lời dạy trong các bài sách thánh hôm nay, gợi lại cho chúng ta câu chuyện thương tâm của những năm qua! Vào ngày 19 /11/ 94 một cô gái mới 15 tuổi đã nghiện xì ke ma túy. Cô bỏ nhà ra đi nhập bọn với nhóm trai bụi đời! Khi cần tiền, cô biết khai thác lòng từ thiện, nhưng lạm dụng lòng tốt của kẻ khác! Cô đến gõ cửa một người đàn ông gần công viên. Dựng chuyện rằng có người em đau đang nằm ngoài công viên, xin ông ra giúp. Vì thương tâm, ông gìa đi theo ra công viên. Nào ngờ cô cho bọn trai phục sẵn ở gốc cây và đánh chết ông gìa để móc túi! Chỉ vì mấy đồng bạc mà giết một mạng ngưòi! Kết qủa thật bi thảm! Tuổi trẻ bị nhốt tù! Tương lai tan vỡ chỉ vì tham vài đồng bạc! Người con gái thì không có nết, những chàng trai thì hung ác! Họ phá hại đời mình và phung phí những gì Chúa ban cho họ!
Thực Hành:
"Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa."(Tv 127,1) Chỉ những ai ý thức được rằng mọi sự mình có là do Chúa ban thì họ tỏ ra biết ơn và cộng tác để sinh nhiều ích lợi. Xin cho con biết xây dựng nước Chúa ở trần gian là Giáo Hội để là mái ấm đón nhiều linh hồn về với Chúa.
Trước hết, tài năng cần được phát hiện và thừa nhận. Người ta nói rằng nơi sinh thực sự của: TN33-A15
Trước hết, tài năng cần được phát hiện và thừa nhận. Người ta nói rằng nơi sinh thực sự của chúng ta là nơi mà, chúng ta được đánh thức những năng khiếu và tài năng của mình. Thông thường, cần có một người bên ngoài nhận ra tài năng của chúng ta.
Tương tự như mặt trời làm trổ sinh những bông hoa thơm ngát còn đang nằm ẩn bên dưới lòng đất ở những cánh đồng, cũng vậy, có những người tìm kiếm cách hoàn thành nhiệm vụ, bằng cách giúp cho những tài năng nơi người khác được bộc lộ ra. Có lẽ đây là những người có tài năng nhất.
Dostoevsky, một văn sĩ người Nga, đã viết tác phẩm Người Khốn Khổ, năm ông chỉ mới lên 20 tuổi. Belinsky là một nhà phê bình lỗi lạc nhất thời nay. Khi Belinsky đọc bản thảo của cậu thanh niên Dostoevsky, ông nói “Cậu đã làm cho chúng tôi chú ý đến một sự thật khủng khiếp. Cậu có một tài năng vĩ đại. Hãy chăm sóc cẩn thận tài năng này, rồi cậu sẽ trở thành một nhà văn lớn”.
Dostoevsky đã say sưa với những lời nhận định của nhà phê bình nổi tiếng này. Nhiều năm sau, ông viết “Đó là một giây phút hạnh phúc nhất trong suốt cuộc đời của tôi”.
Tại sao giây phút đó lại quan trọng đối với Dostoevsky đến thế? Bởi vì Belinsky đã thực sự làm chỗi dậy tài năng viết văn của ông. Ông vẫn còn đang chưa chắc chắn gì về bản thân mình, và do đó, rất dễ bị tổn thương. Sự phát hiện của Belinsky đã xác nhận được nơi ông niềm tin tưởng về tài năng của mình. Hơn thế nữa, điều này đã thúc đẩy ông tiến tới trên đường đời. Thông qua các tác phẩm của ông, ông đã sử dụng cả cuộc đời để diễn tả về bản thân mình.
Một trong những nhu cầu lớn nhất của chúng ta là tự diễn tả về bản thân mình. Chúng ta không thể nào thể hiện hoặc phát huy hết năng lực bản thân, trừ phi chúng ta tự diễn tả về mình. Sự tự diễn tả cần thiết đối với chúng ta, tựa như hoa lá cần thiết cho một thân cây. Thi sĩ và nghệ sĩ Kahil Gibran đã nói về điều đó như sau: “Trong hầu hết mọi người, đều có một nỗi cô đơn lớn lao – một niềm khát vọng được tự diễn tả về bản thân”. Và họa sĩ Van Gogh nói “Giữa điều mà tôi nhận thức và điều mà tôi diễn tả, có một bức tường ngăn cách; tôi đã trải qua cả cuộc đời mình để tìm cách phá bức tường đó”.
Diễn tả về bản thân là một cách thức sống trọn vẹn con người của mình, và từ đó, trở nên thánh thiện. Liệu có bao nhiêu người trong chúng ta có thể nói rằng mình đã phát triển đầy đủ các tiềm năng của mình, với tư cách là những con người? Tất nhiên là người ta có thể tự diễn tả về bản thân bằng nhiều cách thức. Tuy nhiên, người ta lại có thể bộc lộ ra rất nhiều tài năng của mình. Khi điều này xảy ra, chính sở hữu chủ của tài năng là người bị mất mát nhiều nhất. Một số người cứ sống trôi nổi cả cuộc đời mình, rồi đã chết đi, mà vẫn không thể hiện ra, dù chỉ một đôi chút tiềm năng của họ.
Sự diễn tả trái ngược hẳn với sự ngăn chặn. Ngăn chặn là kiềm chế, đè nén, giấu giếm, ức chế. Sự ngăn chặn không tránh khỏi tình trạng phát sinh ra sự trầm cảm. Diễn tả là nói rõ ràng ra, là bộc lộ, thể hiện mình… Sự diễn tả có thể lôi kéo theo nỗi đau, nhưng cuối cùng, lại đưa đến niềm vui.
Chính bằng lối sống đó, mà chúng ta phát hiện ra những tài năng của mình, và chính bằng cách sử dụng chúng, mà chúng được phát triển. Mỗi tài năng cần phải được phát triển. Nếu một tài năng cần phải mang lại hiệu quả đầy đủ của nó, thì người ta phải biết chịu khó làm việc, sống kỷ luật và kiên nhẫn. Chúng ta nhận thấy điều này ở người đầy tớ thứ ba trong dụ ngôn của Đức Giêsu.
Trong trường hợp người đày tớ thứ ba, chúng ta nhận thấy có sự trái ngược. Không phải do tính khắt khe của ông chủ, đã ngăn cản anh ta không sử dụng được những nén bạc của mình – đó chỉ là lý do biện hộ. Anh ta cũng không thiếu cơ hội. Bản thân anh ta đáng bị khiển trách, do tính lười biếng, hèn nhát và ích kỷ.
Cuộc sống là quà tặng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Chúng ta làm được gì cho cuộc đời, đó chính là quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu đã nói về sự tỉnh thức qua bốn dụ ngôn: “ đại hồng thủy (Mt 24, 37, 42 ): TN33-A16
Sau khi Chúa Giêsu đã nói về sự tỉnh thức qua bốn dụ ngôn: “ đại hồng thủy (Mt 24, 37, 42 ), kẻ trộm đến ban đêm( Mt 24, 43-44 ), người đầy tớ trung tín ( Mt 24, 45-51 ), mười người trinh nữ ( Mt 25, 1-13 ), chúa nhật 33 thường niên năm A hôm nay, Chúa Giêsu đề cập tới trách nhiệm của các môn đệ: một trách nhiệm rất nặng nề và lớn lao…
MỘT DỤ NGÔN NÓI VỚI NGƯỜI DO THÁI KHI XƯA, TỨC HÔM QUA: Đọc kỹ trình thuật này, chúng ta có thể chia câu chuyện : những diễn biến thành ba thời kỳ thật rõ ràng. Thời kỳ ông chủ đi xa, ông chủ vắng mặt. Ông trao cho ba đầy tớ mỗi người một số nén bạc tùy theo khả năng mà ông chủ đã xét định. Đó là một tài sản và ông hoàn toàn tin tưởng vào ba người đầy tớ này. Do đó, ông chủ không đưa ra một cách sử dụng làm sao về tài sản ông đã trao cho họ mà ông hoàn toàn tin vào khả năng sử dụng tài sản của từng người. Thời kỳ ông chủ vắng mặt. Các đầy tớ có những phản ứng trái nghịch nhau về cách sử dụng tiền bạc. Hai người đầu gửi tiền vào ngân hàng để sinh lợi. Người thứ ba lại sợ hãi. Anh đem nén bạc được trao chôn vùi xuống đất và phủi tay trốn trách nhiệm chủ trao phó. Thời kỳ tính sổ: ông chủ trở về sau một thời gian dài vắng mặt. Hai người đầu thay phiên nhau trình lên ông chủ số tiền họ đã làm lời gấp đôi. Chủ đã gọi họ là tốt lành và trung tín vì họ đã đáp lại lời mong mỏi của chủ. Ông bảo họ:” hãy đến hưởng sự vui mừng của chủ ngươi “. Còn người đầy tớ thứ ba thật kỳ dị, anh vẽ nên hình ảnh một ông chủ khó tính và khó chịu” gặt ở nơi không gieo”, “ thu ở nơi không phát “. Người đầy tớ này thú nhận :” tôi sợ, nên đã chôn nén bạc của ông dưới đất “. Và anh ta kết luận:” Đây, nén bạc của ông đây “.
Tin mừng cho ta thấy thái độ của ông chủ tức giận vì những lời lẽ xem ra xấc xược, lố bịch của người đầy tớ này. Do đó, ông chủ nói:” sao ngươi không đem nén bạc của ta trao cho ngươi gửi vào ngân hàng, để khi ta về sẽ thu cả vốn lẫn lời ? “. Ông chủ đã tin tưởng trao phó nén bạc thì người đầy tớ này cũng phải đáp lại lòng tin tưởng của ông chủ với trách nhiệm cao nhất của mình chứ ! Chính vì thế, ông chủ đã nổi cơn thịnh nộ:” tên đầy tớ xấu xa và lười biếng”. Ông chủ tước cả nén bạc duy nhất, vì anh ta không biết sử dụng. Nhiệm vụ của anh ta bị bãi bỏ. Anh bị ném vào nơi tối tăm.
Câu chuyện đã kết thúc một cách rất hồi hộp và khéo léo cho đến cuối. Cuộc đối thoại giữa người đầy tớ thứ ba và ông chủ cho thấy rõ những hạng người đầu tiên mà dụ ngôn có thể nhắm tới, những người mà Chúa Giêsu muốn tạo cho một cơ may cuối cùng.
-Đó là những lãnh tụ tôn giáo: thượng tế, ký lục, biệt phái, luật sĩ, những người tự xưng là đầy tớ của Thiên Chúa.
-Đó là những người Do Thái, quên đi lòng nhân từ, thương xót, chạnh thương của Thiên Chúa mà liều lĩnh đi tìm sự an toàn trong việc giữ luật cách máy móc, không hồn, không có chút nào là Tin Mừng.
MỘT DỤ NGÔN NÓI VỚI MỌI KITÔ HỮU MUÔN THỜI: Dụ ngôn thánh Matthêu thuật lại cho nhân loại, cho mỗi người về các nén bạc, giúp mọi người suy nghĩ sâu xa về bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi của mỗi người. Dụ ngôn đặc biệt gợi cho các cộng đoàn Kitô hữu đang mòn mỏi chờ đợi ngày Chúa trở lại. Đang lúc chờ đợi có lẽ các thành viên trong các cộng đoàn đã mê ngủ, bị cám dỗ chỉ thực hành lề luật cách máy móc, vụ luật và hoàn toàn sợ hãi. Thánh matthêu khi lồng dụ ngôn này nối kết chặt chẽ với dụ ngôn mười trinh nữ vào diễn từ cánh chung, thánh Matthêu đã biến dụ ngôn này thành dụ ngôn về sự tỉnh thức trong trung tín. Chúa dù có trở lại chậm trễ, các tín hữu luôn phải tỉnh thức và sẵn sàng, cầu nguyện vì Chúa sẽ xét xử con người về cách sống: trách nhiệm và bổn phận của họ trong cuộc đời. Con người có được vào nước trời hay không tất cả đều tùy thuộc vào cách sống của họ. Theo Chúa, giữ đạo, mang danh hiệu Kitô hữu không chưa đủ để vào nước Trời, nhưng vừa phải lắng nghe, thực hành và sống trung tín, hoàn thành trách nhiệm Chúa trao phó.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sẵn sàng, tỉnh thức và trung tín hoàn thành trách nhiệm Chúa trao ban để đón chờ ngày Chúa đến.
Trong các Chúa nhựt cuối của năm Phụng vụ, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức. Tuần qua: TN33-A17
Trong các Chúa nhựt cuối của năm Phụng vụ, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức. Tuần qua, Lời Chúa cho biết Tỉnh thức là luôn ở trong tư thế sẵn sàng. Hôm nay, Lời Chúa cho biết thêm, tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm đời mình.
- Bài đọc I : Người vợ gương mẫu là người chu toàn mọi trách nhiệm lớn nhỏ trong gia đình đối với mọi người.
- Ðáp ca : Tín hữu tốt là người luôn kính sợ Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài.
- Tin Mừng : Người đầy tớ tốt là người làm cho những nén bạc chủ giao sinh lời thêm.
- Bài đọc II : Tín hữu là con cái của ánh sáng, cho nên đừng mê ngủ, mà phải luôn tỉnh thức.
Minh họa
- Mille images 94 E F
- "Người kia sắp đi xa, gọi đầy tớ đến giao phó của cải mình cho họ : người này 5 nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén" (Mt 25,14-15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bây giờ đã là cuối năm phụng vụ. Chúng ta nên nhìn lại một năm đã qua để xem chúng ta đã nhận lãnh những gì từ tay Chúa, và chúng ta đã làm cho những ơn lành ấy sinh hoa kết quả ra sao.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng con đã nhận lãnh rất nhiều ơn Chúa, nhưng không dâng lại cho Ngài bao nhiêu việc lành.
- Thời gian càng trôi thì lỗi lầm chúng con càng chồng chất thêm.
- Chúng con còn xử dụng những tài năng Chúa ban để mà phạm tội, nghịch lại ý Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 31,10-13.19-20.30-31)
Bài ca tụng người vợ hiền đảm đang :
- Chăm sóc chồng một cách đầy đủ không thiếu thốn chi.
- Chu toàn mọi việc trong nhà.
- Quảng đại giúp đỡ những người túng thiếu.
Phần kết thúc bài ca cho biết nguyên nhân của việc đảm đang này là nhờ có lòng kính sợ Chúa.
2. Ðáp ca (Tv 127)
Tv này lặp lại điều được nói ở phần kết bài ca tụng người vợ đảm đang : "Phúc cho ai biết kính sợ Chúa"
3. Tin Mừng (Mt 25,14-30)
Dụ ngôn những nén bạc :
- Ông chủ trao cho các đầy tớ số lượng nén bạc không đồng đều nhau, nhưng đúng với khả năng mỗi người.
- Sau khi trao các nén bạc, ông chủ ra đi : Ông tín nhiệm các đầy tớ, không cần kiểm soát họ.
- Những đầy tớ được khen không chỉ vì đã làm cho những nén bạc sinh lời, mà còn vì tấm lòng của họ đối với chủ : ông chủ tín nhiệm họ, họ đã đáp ứng xứng đáng với sự tín nhiệm ấy.
- Người đầy tớ bị trách không phải vì không làm cho nén bạc của chủ sinh lợi, mà cũng vì lòng hắn đối với chủ : không nghĩ tới sự tín nhiệm của chủ mà lại nghĩ chủ là người hà khắc, keo kiệt, do đó không hết lòng với chủ.
4. Bài đọc II (1 Tx 5,1-6)
Thánh Phaolô "định nghĩa" tín hữu là con cái của sự sáng. Bởi đó tín hữu đừng "mê ngủ" mà phải "tỉnh thức".
- Mê ngủ : sống bê tha, thoả hiệp với tội lỗi, không tính đến tương lai.
- Tỉnh thức : sẵn sàng chờ ngày Chúa đến, chu toàn bổn phận, điều độ.
IV. Gợi ý giảng
1. Sao không đổi sang một cách nhìn lạc quan và tích cực hơn ?
Khi lãnh nén bạc của ông chủ, người đầy tớ thứ ba đã nghĩ gì ? Hắn nghĩ chủ hắn "là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát". Hắn cảm thấy thế nào ? Hắn "khiếp sợ". Và hắn làm gì ? Hắn "đi chôn giấu nén bạc dưới đất". Và suy nghĩ bi quan tiêu cực dẫn tới tình cảm bi quan tiêu cực, và làm phát sinh hành động bi quan tiêu cực.
Còn hai người đầy tớ đầu nghĩ gì ? Họ nghĩ tới tấm lòng của ông chủ đã yêu thương trao tài sản cho họ; nghĩ tới sự tín nhiệm của ông chủ đối với họ nên giao tiền xong là ông ra đi. Nghĩ như thế rồi họ cảm thấy gì ? Thấy thương mến chủ. Và họ đã làm gì ? Họ tích cực làm cho những nén bạc của chủ sinh lời thêm. Và suy nghĩ lạc quan tích cực dẫn tới tình cảm lạc quan tích cực, và làm phát sinh hành động lạc quan tích cực.
Có nhiều người trong chúng ta cũng nuôi những ý nghĩ bi quan và tiêu cực như thế. Họ được Chúa ban cho một số khả năng. Nhưng họ không vừa lòng, họ nhìn sang những người khác và trách Chúa sao ban cho người khác nhiều khả năng hơn họ. Suy nghĩ đó dẫn họ tới tình cảm ganh ghét so bì. Tình cảm ganh ghét so bì ấy khiến họ không lo phát triển những khả năng.
Khi nhìn thấy tình trạng không tốt trong gia đình, xã hội và Giáo Hội, những người ấy thường trách móc : tại những người lãnh đạo không tốt, tại người này người nọ. Suy nghĩ đó đưa đến tình cảm bực bội bất mãn. Tình cảm bực bội bất mãn làm phát sinh thái độ chống đối, bất hợp tác.
Sao ta cứ bi quan tiêu cực như người đầy tớ thứ ba, mà không đổi sang cách nhìn vấn đề một cách lạc quan và tích cực hơn ? Không cần so sánh số nén bạc của ta nhiều hơn hay ít hơn những người khác, điều quan trọng là Chúa đã thương và tín nhiệm ban cho ta những nén bạc ấy, cho nên cố gắng phát huy tối đa chúng; thấy một tình trạng tồi tệ, ta không cần đổ lỗi cho ai cả, nhưng hãy nghĩ xem Chúa muốn ta làm gì với khả năng của ta.
2. Hãy nhớ hai quy luật này
Sinh sản thêm, đó là quy luật của sự sống : cây cỏ, thú vật và con người đều phải tăng trưởng thêm thì mới sống còn. Quy luật này do chính Ðấng tạo hóa đặt ra : sau khi tạo dựng, Thiên Chúa phán "Ðất hãy xanh um thảo vật xanh tươi, rau cỏ hãy nảy hạt giống và cây có quả hãy sinh quả theo loại" (St 1,11); Thiên Chúa cũng phán với con người "Hãy sinh sôi nảy nở" (St 1,28). Bởi đó, không tăng trưởng nữa là dấu hiệu bắt đầu chết dần.
Người đầu tư có quyền hưởng hoa lợi, đó là quy luật của công bằng : "Có ai trồng nho mà lại không được ăn trái ? Hay có ai chăn súc vật mà không được uống sữa của súc vật ?" (1 Cr 9,7)
Hai quy luật trên nhắc ta phải làm cho những khả năng Chúa trao sinh kết quả tốt :
- Không sinh kết quả là lỗi công bình với Chúa.
- Không sinh kết quả gây hại cho chính bản thân chúng ta.
3. Nén bạc Tin Mừng
Trong số những nén bạc mà Chúa giao cho chúng ta, Tin Mừng là nén bạc quý báu nhất.
Hai người đầy tớ đầu là các thừa sai. Các ngài đã đem Tin Mừng đi gieo vãi khắp nơi. Hạt giống / nén bạc ấy đã sinh thêm gấp 30, 60, 100.
Người đầy tớ thứ ba cũng lãnh nhận Tin Mừng như hai người kia, nhưng đào lỗ chôn xuống đất. Ðó là người không dùng sức mạnh Tin Mừng để nuôi lớn cuộc sống tinh thần của mình, không nói lại Tin Mừng cho người khác, không sống tỏa ánh sáng Tin Mừng trước mặt thiên hạ.
Bạn là người đầy tớ nào ?
4. Chuyện minh họa
Ngày xưa có một ông nhà giàu nhưng rất keo kiệt. Ông gom tất cả số vàng của ông lại nấu thành một khối và đem chôn ở mảnh vườn sau nhà. Rồi ngày ngày ông bắc ghế nhìn chăm chăm chỗ đó một cách thích thú.
Bởi vì ngày nào ông cũng làm như thế, nên một trong những đứa đầy tớ biết được bí mật. Ban đêm, nó đào lấy khối vàng đi mất. Ông nhà giàu buồn quá, chẳng thiết ăn ngủ gì nữa cả.
Một người bạn biết chuyện, khuyên ông hãy lấy một viên gạch để vào đúng chỗ ấy, rồi ngày ngày cũng ra nhìn vào chỗ ấy.
Ông nhà giàu cãi :
- Nhưng đó đâu phải là khối vàng, chỉ là một viên gạch thôi mà.
- Thì có khác gì đâu.
- Vậy chúng giống nhau chỗ nào ?
- Ở chỗ cả hai không khi nào ông xài tới.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT : Anh chị em thân mến
Chúa đã trao cho chúng ta những nén bạc như sự sống, sức khoẻ, của cải, tài năng.Với lòng biết ơn chân thành, chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây.
1- Hội Thánh là người quản lý kho tàng ân sủng của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị lãnh đạo trong Hội Thánh / có lòng nhiệt thành ban phát ơn Chúa cho đoàn chiên / qua các bí tích và những lời giảng dạy.
2- Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho loài người biết dùng khoa học để phục vụ chứ không phải để làm hại cho con người.
3- Mức sống của nhân loại ngày nay rất chênh lệch / có những người rất giàu / bên cạnh những người rất túng thiếu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người giàu biết chia sẻ cho những người nghèo / để không ai còn bị túng thiếu về những nhu cầu cơ bản của con người.
4- Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sử dụng những nén bạc Chúa trao / mà góp phần xây dựng cho giáo xứ ngày càng tốt đẹp hơn.
CT : Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã tín nhiệm trao những nén bạc cho chúng con, hầu chúng con làm cho những nén bạc ấy gia tăng, đem lại lợi ích cho mình và nhiều người khác. Chúng con hứa sẽ cố gắng đáp lại lòng yêu thương và sự tín nhiệm của Chúa. Nhưng xin Chúa luôn giúp sức chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Trong kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người biết dùng hết khả năng của mình để góp phần làm cho Nước Chúa mau trị đến.
- Sau kinh Lạy Cha : "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con biết làm cho những nén bạc Cha giao được sinh lời. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về, và cố gắng làm cho những nén bạc Chúa trao sinh lời gấp bội.
· Is 5,1-7: (4) Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?
· Pl 4,6-9: (9) Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa, nguồn bình an sẽ ở với anh em.
· TIN MỪNG: Mt 21,33-43
Dụ ngôn những tá điền sát nhân (// Mc 12,1-12; Lc 20,9-19)
(33) Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: «Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. (34) Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. (35) Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. (36) Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. (37) Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: «Chúng sẽ nể con ta». (38) Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: «Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!» (39) Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. (40) Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?» (41) Họ đáp: «Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông». (42) Đức Giê-su bảo họ: «Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
(43) Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Dụ ngôn trên ám chỉ những ai? Nó chỉ áp dụng cho dân Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái giáo: TN33-A18
1. Dụ ngôn trên ám chỉ những ai? Nó chỉ áp dụng cho dân Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái giáo thời đó, hay nó có tính hiện sinh, nghĩa là có thể đúng với chính Ki-tô giáo của chúng ta hiện nay?
2. Liệu Thiên Chúa có thể nói về Ki-tô giáo như đã nói về Do Thái giáo: «Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?». Và Ngài có thể nói về chính bản thân tôi như vậy không?
3. Thiên Chúa có cần phải thay thế Ki-tô giáo bằng một tôn giáo mới như Ngài đã phải thay thế Do Thái giáo bằng Ki-tô giáo không?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước mắt có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là âm mưu giết Đức Giê-su. Kết cục được diễn tả trong câu cuối của bài Tin Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành ưu tiên trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ tỏ ra không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho những dân tộc khác.
Thiên Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều này được diễn tả trong bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như một người có một vườn nho mà anh ta rất quí: «Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho» (Is 5,2a). Anh quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà anh nghĩ nó cần nó thích: «Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?» (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn nho đó, nhưng vườn nho đã làm anh thất vọng: «Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại» (5,2b). Một vườn nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất vọng vì vườn nho ấy, anh ta đã «hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo () biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống» (5,5-6). Vườn nho đó được I-sa-i-a xác định: «Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than» (5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tiếp tục khai triển chủ đề «vườn nho» của bài đọc I (Is 5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do Thái; 2. Ông chủ đất ® Thiên Chúa,3. Bọn tá điền ® Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái; 4. Các tôi tớ của chủ đất ® Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con trai của ông chủ ® Đức Giê-su; 6. Các tá điền khác ® Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn nhân loại. Để thực hiện mục đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói của những ngôn sứ này thường không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì «trung ngôn nghịch nhĩ», «lời thật mích lòng». Và kết quả là các ngôn sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than phiền: «Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con» (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối với Nước Trời. Và Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập - gồm những người tin theo Đức Giê-su - bao gồm những người mà người Do Thái gọi là dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn dân Do Thái đã bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm 70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem, giết rất nhiều người Do Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước, và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6 triệu người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do Thái đã lập quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ đó, họ phải chiến tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến nay.
2. Dụ ngôn đó có áp dụng cho Giáo Hội chúng ta không?
Khi tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi thường nói: «Israel là Giáo Hội, Israel là chính tôi». Vì thế, nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân Do Thái, thì cũng có thể áp dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm là các tư tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã trực tiếp can thiệp vào lịch sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã đích thân ban hành luật pháp cho họ, đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai trị họ Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng chưa được Thiên Chúa trực tiếp can thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-tô giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói: «Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán như thế» (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4; v. v) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn giáo của mình do Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng lịch sử cho chúng ta thấy họ đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế bằng Ki-tô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của Ki-tô giáo.
Ki-tô giáo hiện nay cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô hữu đều tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ biết tự hào như thế mà quên đi niềm mong ước của chính Thiên Chúa đối với mình. Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về Ki-tô giáo như đã than về Do Thái giáo: «Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?» Ki-tô giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức Giê-su đến để thiết lập một tôn giáo mới dựa trên nền tảng tình yêu thương, và luật của Ki-tô giáo là luật yêu thương: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8).
Luật của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước của Do Thái giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi trọng luật ấy đủ chưa? đã tập trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức chưa? Hay Ki-tô giáo lại đi vào vết xe đã đổ của Do Thái giáo, là thượng tôn nghi thức, quá chú trọng tới những lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của Ki-tô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ hình thức thì chẳng khác gì những người Do Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự hỏi: ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của người Ki-tô hữu, có thể nhận ra đạo của chúng ta là «đạo yêu thương» như thời Ki-tô giáo sơ khai không? Ngày nay, lễ «bẻ bánh» có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có thực trong đời sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở thành một nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Ki-tô hữu - nhất là những người có trách nhiệm hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo - cần tự vấn: Thiên Chúa hay Đức Giê-su có hài lòng với tình trạng Ki-tô giáo hiện nay không? Còn những người lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có giống như những vị lãnh đạo Do Thái giáo xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn sàng bạc đãi hoặc bách hại những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không? Hay ít ra khi họ bị bách hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách hại như thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại ấy?
Không khéo Ki-tô giáo của chúng ta chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng sẽ phải đối xử với chúng ta như đã đối xử với dân Do Thái: «Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi»!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào, chính con - cũng như bất kỳ Ki-tô hữu nào - đều có phần nào trách nhiệm. Xin cho con biết sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với tinh thần yêu thương của Ngài. Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của dân Do Thái để tránh được vết xe đã đổ.
1. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống cho kẻ mình yêu
Nếu trong cuộc đời có nhiều điều tồi tệ thì cũng có rất nhiều điều tuyệt vời. Những điều tồi tệ là chiến: TN33-A19
Nếu trong cuộc đời có nhiều điều tồi tệ thì cũng có rất nhiều điều tuyệt vời. Những điều tồi tệ là chiến tranh, áp bức, bóc lột, bất công, xâm phạm tự do và phẩm giá con người, nhất là phụ nữ và trẻ em. Những điều tuyệt vời là những nỗ lực nhằm thực hiện những lý tưởng cao đẹp của con người và của Ki-tô giáo: xây dựng công lý và hòa bình, bênh vực phẩm giá và tự do của con người, làm cho con người biết tôn trọng và chấp nhận nhau, yêu thương và tha thứ cho nhau, xây dựng một nền văn minh tình thương trong xã hội ngày nay. Ðể thực hiện những điều tuyệt vời ấy, không biết bao nhiêu người " lương cũng như giáo, nam cũng như nữ " đã không quản ngại hiến dâng sức khỏe, tiền bạc, thời gian, quyền lợi, công danh sự nghiệp, thậm chí cả mạng sống mình.
Trong vụ hỏa hoạn Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế ở Sài-gòn chiều 29.10 vừa qua đã có những người liều chết xông vào đám cháy cứu các nạn nhân đang kẹt trong tòa nhà đó: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho người mình yêu." Cách đây hai ngàn năm, Ðức Giê-su, Con Một Thiên Chúa đã long trọng tuyên dương cách sống xả thân ấy. Chính Người đã sống như thế và mời gọi chúng ta bước theo Ngài mà sống như thế !
2. Theo Chúa là đi vào con đường từ bỏ của thập giá
2.1 Giả như Ðức Giê-su chỉ đề cao những tâm hồn quảng đại, dám hy sinh mạng sống cho anh em đồng loại thì chúng ta cũng chưa bị phiền toái gì cho lắm, vì chúng ta có thể dừng lại ở tâm tình ngưỡng mộ, khâm phục những con người anh hùng ấy mà không cần phải làm theo họ. Ðàng này Ðức Giê-su lại đưa ra điều kiện cho những ai muốn theo Người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" thì rõ ràng là chúng ta không thể ngồi yên, vì điều đó liên hệ mật thiết đến chúng ta !
Trong sách Phúc Âm ba lần loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh đi liền với ba lần giáo huấn về con đường ( hay cách sống ) làm môn đệ. Làm môn đệ là chấp nhận hy sinh, từ bỏ, là vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa. Thế có nghĩa là sống hy sinh từ bỏ, vác thập giá, thậm chí chết treo trên thập giá là điều kiện "không có không được" của người môn đệ Ðức Giê-su.
2.2 Theo Chúa là đi vào con đường thập giá, vô cùng khó khăn vì là đi ngược với dòng đời và ngược với xu hướng tự nhiên của con người. Thông thường ai cũng thích dễ dàng, ngại chịu khó; ai cũng thích an nhàn, ngại vất vả; ai cũng thích tích trữ, ngại cho đi; ai cũng thích được, ngại mất; ai cũng thích vinh quang, ngại khổ đau, tủi nhục. Nhưng theo Chúa là chọn khó, chọn cực, chọn khổ và chọn mất. Chúng ta chỉ thực hiện được những việc "ngược đời" ấy, khi trong lòng chúng ta, có một Tình yêu lớn lao đối với Thiên Chúa và con người hay đúng hơn những con người cụ thể mà chúng ta yêu thương quí mến.
3. Hãy cùng với các Thánh Tử đạo Việt Nam làm cho hạt giống Ðức Tin nẩy nở và phát triển mạnh mẽ trên mảnh đất thân yêu này
3.1 Con đường môn đệ là con đường khó, nhưng đã có rất nhiều người đi vào mà trước hết chúng ta phải kể đến các Thánh Tử Ðạo và nhất là các thánh tử đạo Việt Nam mà Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðọc lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, chúng ta thấy tổ tiên cha ông chúng ta đã chịu ngục tù hà khắc, tra tấn dã man, ngược đãi đủ điều, thậm chí cả cái chết tủi nhục và đẫm máu để khẳng định quyết tâm theo Chúa. Những tấm gương hy sinh ngời sáng ấy là niềm kiêu hãnh và cũng là trách nhiệm của chúng ta. Những giọt máu hồng của các Ngài là hạt giống Ðức Tin đã được gieo vãi vào lòng đất Việt Nam.
3.2 Nay đến lượt chúng ta, những người công giáo Việt Nam thế kỷ 21, có vinh dự và trách nhiệm làm cho những hạt giống Ðức Tin ấy nẩy nở và phát triển trên quê hương yêu dấu này.
Cánh đồng truyền giáo đang mở ra trước mặt chúng ta: khắp nơi khắp chốn đều có những con người, những hạng người cần đến sự quan tâm, giúp đỡ, phục vụ của chúng ta: người nghèo; người gìa, người tàng tật, trẻ em hè phố lang thang cơ nhỡ mồ côi; người nông thôn đổ về thành phố kiếm việc làm, kiếm kế sinh nhai; người dân tộc bị thiệt thòi, bị lãng quên; các bạn trẻ bơ vơ giữa dòng đời không biết phải sống theo tiêu chuẩn nào, không biết nên tin vào ai, có thể tựa vào ai. Ngoài ra có rất nhiều người thuộc mọi giới, mọi thành phần đang cần đến chúng ta vì họ không biết hay hiểu lầm ý nghĩa cuộc sống mà chỉ biết có danh vọng, giàu sang, lạc thú, quyền lực và coi nhẹ- thậm chí chà đạp - những giá trị nhân bản đích thực như công bình, bác ái, trong sạch, thanh thoát.
Muốn cộng tác với tổ tiên cha ông để làm cho những hạt giống Ðức Tin - mà các Ngài đã gieo vãi bằng máu đào- mọc thành cây và trổ sinh hoa trái, chúng ta phải "ra khơi" tức ra khỏi chúng ta và lên đường, tức ra khỏi sự ích kỷ và nhát đảm của mình mà đến với những người đang chờ đợi chúng ta và đáp ứng nhu cầu của họ.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con cảm tạ Cha về hồng ân Ðức Tin mà Cha đã ban cho cha ông chúng con và cho chính chúng con. Hồng ân ấy là ân huệ nhưng không mà Cha đã ban cho chúng con chỉ vì Cha thương yêu chúng con mà thôi. Nhưng chúng con cũng thấy mình có trách nhiệm phải làm sinh sôi nẩy nở hạt giống Ðức Tin mà Cha đã gieo vào lòng dân tộc chúng con qua những giọt máu đào của tổ tiên yêu quí của chúng con. Xin Cha ban Thánh Thần của Cha cho chúng con, để chúng con dấn thân vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam, để chúng con đến với mọi giới đồng bào, bằng tinh thần của Chúa Giê-su, Con Cha, Chúa chúng con, Ðấng đã chết trên thập giá để minh chứng tình yêu "tột cùng" Ngài dành cho con người. Amen !
Khá lắm! Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều: TN33-A20
“Khá lắm! Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Lời khen tặng của ông chủ rất nhân hậu thấu suốt những tâm tư tình cảm chân thành của người tôi tớ.
Điều kiện giống nhau ở mỗi người là ông chủ đã tin tưởng ký thác nơi mỗi người một số tiền, không nhiều thì ít. Nếu người tôi tớ thật sự yêu thương chủ thì sẽ khiêm nhượng vui vẻ với những phân định của chủ. Lòng yêu thương và sự biết ơn ấy sẽ được diễn tả ra thường xuyên hằng ngày qua những công việc thực tế. Lòng trân quí đối với những gì ông chủ ký gửi sẽ biểu lộ qua việc người ấy xử dụng tối đa những quà tặng ấy hầu mưu ích lợi nhiều thêm. Đó là những tâm tình đúng đắn của một tôi tớ, biết rõ và ưng nhận vị thế của mình. Tư tưởng của người đầy tớ thứ ba đã tố cáo rõ ràng là anh ta không yêu thương gì ông chủ:“…tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.”, có thể vì anh đã mang nặng thành kiến hay do lòng ganh tị đối với hai nguời kia. Khi mang những ý nghĩ ghen tương đố kị như thế, người đầy tớ này đã không vui nhận cái chỗ đứng thật của mình là đầy tớ, nhưng lại muốn dành quyền phân định của chủ, nghĩa là muốn làm chủ thôi chứ không muốn làm tớ! Và anh ta đã chẳng làm gì hơn suốt quảng thời gian ông chủ đi xa, ngoài việc nung nấu lòng đố kị, khinh thường những gì chủ đã ủy thác nên ‘vứt nó vào một xó’, không có một chút cố gắng làm việc nào cả!
Lòng trung thành hay sự bất trung trong những việc nhỏ của các đầy tớ không phải chỉ xảy ra nội trong ngày ông chủ trở về, nhưng là một quá trình tiệm tiến, mỗi ngày một tí của suốt mọi ngày ông chủ vắng mặt. Đấy cũng là phương cách thực tiển duy nhất để biểu hiện lòng trung thành đã có ngay từ ban đầu. Mỗi tín hữu hãy biết diễn tả và sống lòng trung thành của mình dành cho Chúa mỗi ngày như thế trong khiêm nhượng và yêu thương; tránh xa những ganh tị, khiến cho tâm hồn mình mất bình an và không có sức mạnh cần thiết để vươn lên trong tình yêu Chúa và tha nhân.
Đây là một trong các dụ ngôn Đức Giê-su dạy về sự tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến trong giờ chết - TN33-A21
Đây là một trong các dụ ngôn Đức Giê-su dạy về sự tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến trong giờ chết và ngày tận thế. Cho dù ngày Quang Lâm của Chúa Ki-tô có trễ, nhưng các tín hữu vẫn phải luôn tỉnh thức. Sự tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm được trao phó. Sự chu toàn này không được làm cách miễn cưỡng, nhưng phải làm cách tích cực hiệu quả.
Bài Tin Mừng có thể được chia làm 3 phần chính như sau :
Phần 1 : Dẫn nhập (c 14-18) : Việc ông chủ ra đi, số vàng ông trao cho các tôi tớ, và họ đã xử dụng số vàng ấy thế nào.
Phần 2 : Trọng thưởng tôi tớ trung thành (c 19-23) : Hai đầy tớ nhận năm nén và hai nén đã làm lợi gấp đôi, thì chủ ân thưởng tặng luôn cả vốn lẫn lời, và mời vào chung hưởng Nước Trời.
Phần 3 : Trừng phạt kẻ bất hảo và biếng nhác (c 24-30) : Người đầy tớ được trao cho một nén bạc đã tỏ ra vô dụng khi đem nén bạc ấy đi chôn giấu, nên đã bị chủ quở trách nặng lời và trừng phạt trong hỏa ngục đời đơ
2. CHÚ THÍCH :
(c 14) Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ :
+ Có người kia : ám chỉ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô của Người.
+ Đầy tớ riêng : hay gia nhân, ám chỉ mỗi người chúng ta.
+ Của cải : Là các tài sản thuộc quyền sỡ hữu của Thiên Chúa.
+ Giao phó của cải mình cho họ : Ong chủ tín nhiệm các đầy tớ. Cũng vậy Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã giao phó cho con người những ân huệ khác nhau tùy theo khả năng của mỗi người, để con người sinh lời ra bằng cách làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho đồng loại.
(c 15) Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi :
+ Nén bạc : là một đơn vị tiền tệ có giá trị tương đương với 10.000 ngày công lao động của các công nhân bậc trung bình. Đây là một số tiền rất lớn, nói lên tình thương lớn lao của Thiên Chúa. Người sẵn sàng trao ân huệ của Người là các tài năng, trình độ học vấn, của cải vật chất và địa vị xã hội... cho con người sử dụng.
+ Năm nén, hai nén, một nén : Dụ ngôn nêu ra ba người đầy tớ được chủ giao quản lý tài sản của ông. Việc chủ giao số nén bạc khác nhau cho các đầy tớ, người thì năm nén, người hai nén và một nén, ám chỉ số ân huệ được ban tùy theo kkả năng quản lý của mỗi người.
(c 16) Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. (c 17) Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai nén khác. Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ:
+ Làm ăn buôn bán : Nhấn mạnh đến sự làm việc có hiệu quả. Điều này ám chỉ những ân huệ Chúa ban đòi người lãnh nhận phải sử dụng để sinh lời ra nhiều.
+ Gây lời được năm nén khác : Lợi tức làm ra tỷ lệ thuận với số vốn được cấp : Người được giao năm nén đã làm lợi thêm năm nén khác; Giao hai thì đã làm lợi thêm hai nén khác. Cũng vậy, Thiên Chúa trao cho mỗi người quản lý bao nhiêu ân huệ, thì Người sẽ đòi họ phải làm lợi ra bấy nhiêu.
+ Đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ : Đây là thái độ tiêu cực và vô trách nhiệm của người đầy tớ chỉ được giao một nén. Những ai không sử dụng các phương tiện Chúa ban là tài năng, tiền bạc, danh dự... để làm lợi cho Chúa chính là đã chôn giấu nén bạc của Chúa giao cho mình.
(c 19) Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và thanh toán sổ sách với họ :
+ Thời gian lâu dài : Tượng trưng cho thời gian sống của mỗi người trên trần gian, hoặc thời gian từ khi Đức Giê-su về trời cho đến ngày Người sẽ tái lâm vào ngày tận thế, để phán xét.
+ Ông chủ đến và thanh toán sổ sách với họ : Đây là giờ chết riêng của mỗi người hay ngày tận thế chung của toàn thể nhân loại. Khi ấy, trước tòa phán xét riêng, mỗi người phải tính sổ với Chúa về tất cả những gì đã nhận và đã làm lợi thêm cho Chúa bao nhiêu. Hoặc trước tòa phán xét chung mỗi người được xét xử công minh, để kẻ lành sẽ được thưởng, và kẻ ác sẽ bị phạt.
( c 20) Người đã lãnh năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác và nói : " Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây." (c 22) Người đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói : "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây." (c 23) Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !" :
+ Làm ăn buôn bán và gây lời được năm nén khác : Ám chỉ những người đã dùng ân huệ Chúa ban để làm lời thêm gấp đôi cho Chúa. "Làm lời" tức là làm vinh danh cho Chúa và mưu ích cho phần rỗi đồng loại.
+ Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh : Số lời năm nén hay hai nén bạc tuy to lớn về giá trị trần thế, nhưng chẳng đáng gì nếu so với những giá trị thiêng liêng Chúa ban là được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
+ Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh : Được vui mừng hạnh phúc và được tham phần vào sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa chính là một điều cao cả và vô cùng to lớn.
( c 24) Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói : " Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. (c 25) Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!":
+ Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần : Mọi người giàu nghèo, sang hèn, giỏi dốt đều phải lần lượt ra trình diện trước tòa Chúa để chịu sự phán xét.
+ Tôi biết ông là người hà khắc : Kiểu nói " Gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi" có vẻ cường điệu, nhằm nhấn mạnh sự thành kiến và sự bất trung của người đầy tớ sở hữu một nén.
+ Tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất : Thái độ sợ hãi của người này là do không có lòng mến chủ, nên không muốn làm lợi cho chủ. Anh ta đã đem chôn giấu nén bạc của chủ giao và nghĩ rằng : " Ta chỉ cần giữ sao cho nén bạc ấy khỏi bị kẻ trộm lấy mất, để tránh bị trừng phạt là đủ".... Cũng vậy, những ai không chịu sinh lời thêm các tài năng Chúa ban, là dấu chỉ họ không có lòng mến Chúa.
( c 26) Ông chủ đáp : "Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác ! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, (c 27) thì đáng lý ngươi phải gửi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ !" :
+ Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác : Tương phản với hai người đầy tớ ở trên là người "tài giỏi và trung thành".
+ Đáng lý ngươi phải gửi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng : Chủ ngân hàng là người nhận giữ tiền và sinh lợi bằng cách cho vay lấy lời. Ở đây có ý nhấn mạnh đến khía cạnh phải dùng nén bạc là các tài năng Chúa ban để làm vinh danh Chúa và phần rỗi tha nhân.
+ Để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ !: Dù đứng trên quan điểm hẹp hòivà có cái nhìn sai lạc về ông chủ, thì người đầy tớ vẫn không thể biện minh cho hành động đem chôn giấu nén bạc của chủ được.
(c 28) Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc ra khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. (c 29) Vì phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi :
+ Lấy nén bạc ra khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén :Đức Giê-su muốn dạy rằng những người không biết dùng ơn lành để sinh lời cho Chúa, thì chính là một trọng tội. Họ sẽ bị Chúa lấy lại những hồng ân không được sử dụng kia, để trao vào tay những người biết làm phát sinh hoa lợi.
+ Phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi : Câu này lặp lại câu nói trước đó của Đức Giê-su khi cho biết lý do tại sao Người dùng dụ ngôn mà giảng dạy dân chúng (x Mt 13, 12). Ơ đây, câu này nghĩa là : Ai tin vào Đức Giê-su và dùng ơn Chúa ban để làm vinh danh cho Chúa và phần rỗi tha nhân, thì sẽ được Người ban Thần Chân Lý để soi sáng giúp họ hiểu biết sự thật và mỗi ngày một nên hoàn thiện hơn. Còn những kẻ không yêu mến Đức Giê-su, thể hiện qua việc không làm lợi nén bạc được giao, thì sẽ bị mất mọi ân huệ khác nữa, nhất là không được hạnh phúc đời đời trong Nước Trời.
(c 30) Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài. Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng :
+ Còn tên đầy tớ vô dụng kia: Sở dĩ người đầy tớ này bị coi là vô dụng là do anh đã chôn giấu nén bạc chủ giao, mà lẽ ra anh phải làm lợi thêm ra. Ở đây, đầy tớ vô dụng ám chỉ người không vâng phục Thiên Chúa, không sử dụng tài năng Chúa ban cách hiệu quả.
+ Hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài. Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng: Đây là kiểu nói diễn tả các hình phạt trong hỏa ngục mà các tín hữu lười biếng vô dụng kia phải gánh chịu. Từ đây, họ sẽ không bao giờ được hưởng nhan Chúa, sẽ phải đau khổ và hận thù trong hỏa ngục muôn đời.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) LỜI CHÚA :
Người đã lãnh năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác và nói : "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây". Ong chủ nói với người ấy : "Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" (Mt 25,20-21)
2) CÂU CHUYỆN:
a) MỘT NGƯỜI KHUYẾT TẬT ĐÃ VƯỢT QUA SỐ PHẬN
Vào năm 1953, tại Hoa Kỳ có một cậu bé sáu tuổi tên là TOM ĐIM-SÂY (Tom Dempsey), bị khuyết tật không có bàn tay phải ngay từ khi mới lọt lòng mẹ. Một hôm Tom đã hỏi cha rằng: " Ba nghĩ coi : con có thể chơi thể thao khi đi học ở trường hay không?". Rồi mấy hôm sau, khi hai bố con đang xem truyền hình trực tiếp một trận bóng đá, thì Tom lại hỏi : "Ba có nghĩa là một ngày nào đó con sẽ trở thành một cầu thủ nhà nghề hay không?". Rồi sau đó, khi thấy ba em đang xem một cuốn sách ghi các kỷ lục về bóng đá quốc gia, thì em lại hỏi: "Ba có nghĩ rằng một ngày kia con sẽ trở thành một cầu thủ tài giỏi và được ghi danh vào cuốn kỷ lục bóng đá quốc gia hay không?". Nhưng xem ra giấc mộng của Tom thật khó trở thành hiện thực, nên ba cậu chỉ ậm ừ cho quavà khuyên con hãy cố gắng. Thế nhưng một điều kỳ diệu đã xảy ra: Khi Tom đến trường học và tới năm lớp 6, cậu ghi danh vào chơi bóng đá của nhà trường. Trong quá trình tập luyện, Tom ngày càng tiến bộ trông thấy ! Cậu chơi hay đến nỗi khi lên đại học, cậu đã được tuyển làm cầu thủ bóng đá của trường đại học tiểu bang Ca-li-phóc-ni-a! Rồi chẳng bao lâu sau, Tom đã trở thành một tiền vệ của đội bóng đá của thành phố. Cuối cùng, anh được ông bầu của một đội banh nổi tiếng là NIU OÓC-LÊ-ÂN XANH (New Orleans Saints) đến thăm và đề nghị anh ký hợp đồng để trở thành một cầu thủ chính thức. Rồi ngày 8 tháng 11 năm 1970, hai đội banh NIU OÓC-LÊ-ÂN XANH và đội ĐI-TROI (Detroit) thi đấu. Trong trận đấu này, tỷ số bấy giờ đang hòa 2/2 ngay vào lúc chỉ còn ít phút nữa là kết thúc trận đấu. Lúc này huấn luyện viên đội XANH đã vỗ vai Tom đang ngồi dự bị và nói: "Này Tom, đã tới lúc cậu vào sân và hãy cố ghi bàn thắng tuyệt đẹp nhé!". Trong một pha tranh cướp bóng, đội XANH được trọng tài cho hưởng quả phạt trực tiếp, cách khung thành đối phương khoảng 20 mét, và Tom đã được chọn thực hiện quả đá phạt này. Bàn chân phải của Tom đã sút một cú thật mạnh như trời giáng và quả bóng đã bay theo đường vòng vào đúng góc chết của cầu môn đối phương, khiến thủ môn đành bó tay đứng nhìn! Bàn thắng ấy đã đem lại chiến thắng cho đội chủ nhà NIU OÓC-LÊ-ÂN XANH ! Cả cầu trường như bị nổ tung lên trước sự phấn khởi của các quan khách và cổ động viên đội nhà. Về sau, khi được một phóng viên của tờ "Tuần Tin Tức" (News Week) phỏng vấn, Tom đã diễn tả về cú đá xuất thần ấy như sau : "Tôi không ngờ là mình lại đá được một trái banh tuyêt vời như thế ! Khi tôi nhìn thấy hai cánh tay của huấn luyện viên giơ lên thì tôi không thể dùng lời nào để diễn tả niềm vui và sự hãnh diện của tôi!. Chính nhờ bàn thắng này mà đội banh của tôi đã chiến thắng đội khách với tỷ số 3/2."
TOM đã không đầu hàng số phận bị khuyết tật của mình. Dù chỉ có một nén bạc ít oi trong tay, nhưng cậu đã không ngừng tập luyện vươn tới đỉnh cao. Cuối cùng cậu đã thành công, và trở thành một cầu thủ xuất sắc và được ghi tên vào sách Kỷ Lục bóng đá quốc gia như cậu đã từng mong đợi bấy lâu.
b) LÀM ĐIỀU TỐT TRONG KHẢ NĂNG CỦA MÌNH
Sau khi đến thăm gia đình của một cô bạn cùng lớp bị chết trong một tai nạn xe cộ, cô bé Lin-đa trở về nhà. Cha cô nổi giận khi biết con vừa đến thăm tang gia. Ông trừng mắt nhìn Lin-đa và hỏi: "Tại sao con lại đến nhà người ta vào lúc này?" Lin-đa trả lời: "Thưa ba, con đến là để thăm viếng gia đình bạn ấy". Ong bố lại hỏi: " Nhưng con thì làm được gì để giúp đỡ người ta?". Lin-đa đáp: "Ba ơi, con chẳng giúp gì được cho gia đình bạn ấy. Con chỉ biết chạy đến ôm chầm lấy mẹ của bạn ấy mà khóc. Và mẹ của bạn ấy cũng ôm con vào lòng và cùng khóc với con". Câu trả lời của Lin-đa khiến cha cô hiểu rằng : tuy Lin-đa không làm được gì lớn lao cho tang gia, nhưng em đã làm tất cả những gì trong khả năng và tầm tay của mình, để an ủi bà mẹ đang đau khổ vì vừa mất đi đứa con thân yêu.
Còn bạn thì sao?
Trong cuộc sống, có khi nào bạn biết mỉm cười cảm thông với tha nhân không? Bạn có làm những việc trong tầm tay của mình như : chuẩn bị miếng trầu cho bà ngoại, sửa soạn một tách cà-phê vào mỗi sáng cho bố, đi chợ và dọn dẹp nhà cửa đỡ đần cho mẹ, giúp em học và làm bài ở nhà, giúp bạn bè vượt qua khó khăn với hết khả năng của mình... Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su tuy không làm được những việc lớn lao, nhưng chỉ luôn sống tinh thần "Con thơ phó thác" là yêu mến cậy trông vào Chúa noi gương Đức Giê-su. Thế mà ngày nay chị đã được tôn lên hàng đại thánh của Hội Thánh và được hàng triệu con tim trên thế giới ngưỡng mộ học tập. Tuy không đi giảng dạy Tin Mừng và không rửa tội được cho ai, nhưng nhờ lời cầu nguyện kèm theo sự hy sinh hãm mình cho công việc truyền giáo, mà Tê-rê-sa đã được tôn làm bổn mạng các miền truyền giáo, ngang hàng với Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Tuy không để lại những tác phẩm đồ sộ uyên bác như thánh Tô-ma A-qui-nô, nhưng Tê-rê-sa cũng được tôn lên làm tiến sĩ và làm thầy dạy đức tin cho Hội Thánh Như vậy, không nhất thiết cứ phải giàu có, phải ở địa vị cao, phải có tài năng vượt trội hơn người, thì chúng ta mới có thể làm được những việc lớn lao. Vì đối với Thiên Chúa, ai muốn làm lớn hãy trở thành đầy tớ phục vụ mọi người. Vậy tôi có ân cần nghĩ đến tha nhân và quảng đại chia sẻ cơm áo vật chất cho những người nghèo đói không ? Tôi có khiêm nhường rửa chân phục vụ anh em, nhất là những người đau khổ và đang bị bỏ rơi hay không ? Tôi đang xử dụng nén bạc Chúa trao cho tôi quản lý thế nào ?
3) SUY NIỆM :
Ngày nay có nhiều người thường nghĩ rằng Thiên Chúa bất công khi Người để xảy ra tình trạng : người thì có "bát ăn bát để" và "ngồi nhà mát ăn bát vàng", đang khi nhiều kẻ khác lại phải "khố rách áo ôm", "tay làm hàm nhai" và "chạy ăn từng bữa", thậm chí còn phải "bán trôn nuôi miệng"; Có người thì cao sang quyền quý "lên xe xuống ngựa", đang khi nhiều kẻ khác phải chịu "làm thân trâu ngựa" cho người, lúc nào cũng chạy tất bật vất vả và luôn chịu cảnh hà hiếp bóc lột; Có cô gái vừa "đẹp người đẹp nết", "mười phân vẹn mười", nhưng nhiều cô lại "xấu người xấu nết", ra đường chẳi ai thèm nhìn Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho vấn nạn nói trên qua dụ ngôn "những nén bạc" trong Tin Mừng hôm nay. Vậy ý nghĩa của dụ ngôn là gì ? Và chúng ta phải sống Lời Chúa dạy hôm nay ra sao?
1) Ý NGHĨA CỦA DỤ NGÔN :
Dụ ngôn trình bày Thiên Chúa và Đức Giê-su giống như ông chủ nhà kia, trước khi đi xa đã tính nhiệm giao phó tài sản của mình cho ba người gia nhân thân tín nhất. Cũng vậy, Đức Giê-su trước khi về trời, đã trao sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân của Người cho các tông đồ và các tín hữu sau này.
Việc ông chủ giao cho người thì năm nén, người khác hai nén và người thứ ba một nén bạc, là tùy theo khả năng quản lý cho họ, để họ có thể làm lợi ra cho ông. Nên biết rằng mỗi nén bạc lúc bấy giờ giá 6 ngàn quan tiền, tương đương với 6 ngàn ngày công. Như vậy, dù chỉ lãnh một nén cũng đã là một số tiền rất lớn. Thiên Chúa cũng trao cho mỗi chúng ta các ân huệ của Người là : tài năng, của cải, địa vị, chức quyền và hoàn cảnh, và chúng ta có bổn phận phải làm lợi ra cho Chúa, để chứng tỏ lòng mến chân thành của chúng ta...
Sau một thời gian ông chủ trở về, ám chỉ ngày Đức Giê-su sẽ đến vào giờ chết của mỗi người hay vào ngày tận thế chung toàn nhân loại. Hai gia nhân được trao năn nén và hai nén đã làm lợi thêm 100% số vốn, thì được chủ khen là đầy tớ "tài giỏi và trung thành". Đây là những người thể hiện lòng mến Chúa bằng hành động làm vinh danh Chúa và các linh hồn. Họ sẽ được Chúa cho vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời với Người.
Trái lại, gia nhân được giao một nén, đã nghĩ xấu cho chủ và mang mặc cảm sợ hãi hơn là yêu mến, nên đã không làm lợi ra cho chủ, nhưng đem chôn nén bạc được giao, thì đã bị chủ trách là "đầy tớ tồi tệ và biếng nhác", và nén bạc của hắn không sinh lợi kia bị lấy lại để trao cho người đã có mười nén.
Sau đó tên đầy tớ vô dụng còn bị chủ phạt quăng vào nơi tối tăm bên ngoài, "ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Điều này nghĩa là : nhưng ai không tận dụng tất cả tài năng, của cải, địa vị Chúa ban thì sẽ bị Chúa quở trách và mất đi tất cả những gì đã nhận được trước đó, và còn bị quăng vào hỏa ngục, nơi phải khóc lóc ưu sầu và nghiến răng thù hận đến muôn đời.
2) BÀI HỌC CỦA DỤ NGÔN
Qua bài Tin Mừng về dụ ngôn nén bạc hôm nay, Đức Giê-su muốn nhắn nhủ chúng ta rằng : Mỗi người chúng ta đều được giao trách nhiệm quản lý gia tài của Thiên Chúa; chúng ta phải sinh lời ra, nghĩa là làm vinh danh cho Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha nhân, tùy theo số vốn là các ơn lành hồn xác mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Một người quản lý đúng đắn là người biết sử dụng ơn Thiên Chúa ban để làm theo ý muốn của Chúa. Có những ơn tự nhiên thể xác, và cũng có những ơn siêu nhiên linh hồn nhằm giúp chúng ta được ơn cứu độ, nghĩa là được hưởng hạnh phúc Nước Trời với Chúa. Thời gian quản lý là cuộc đời của mỗi người chúng ta.
+ Đức Giê-su tuy về cùng Chúa Cha, nhưng Người sẽ trở lại phán xét về điều này là ta đã sử dụng các tài năng và của cải Chúa giao như thế nào.
+ Thiên chúa ban cho chúng ta người thì năm nén, kẻ khác hai nén, nghĩa là kẻ cao người thấp, kẻ tài người ngu. Ngày phán xét Chúa Kitô sẽ không hỏi: Tại sao anh cao, tại sao lại thấp Nhưng Người sẽ hỏi : "Con đã làm gì với chiều cao và sự tài trí hơn người đó?". Nói cách khác : vấn đề chính không phải đã lãnh nhận nhiều ít, nhưng là đã tận dụng được những ơn lành Chúa ban thế nào? Cũng giống như trong một cuốn phim, diễn viên tài năng không nhất thiết là người đóng vai ông vua, hay vai chính trong phim, nhưng là người có khả năng nhập vai đúng theo tính cách của nhân vật mà mình thể hiện hay không, dù đó chỉ là một vai phụ xuất hiện rên sàn diễn vài ba phút.
+ Người đầy tớ thứ ba bị chủ quở trách vì nguyên nhân nào?
Tuy anh ta khôn gphạm tội lấy tiền của chủ đi ăn nhậu, cờ bạc và đáng bị trừng phạt. Nhưng ở đây, dù anh chôn tiền để bảo vệ nguyên vẹn số bạc của chủthì anh cũnf đáng bị phạt nữa. Vì Thiên Chúa không chấp nhận và không tha thứ cho những kẻ tệ bạc, biếng nhác và vô trách nhiệm.
Thiên Chúa là ông chủ cho vay chứ không cho mượn. Hễ đã lãnh ơn huệ của Người thì ta phải làm phát sinh lợi nhuận. Như vậy Chúa có hà khắc lắm không? Thực ra không phải vậy. Vì hà khắc ở đây không nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, nhưng là vì yêu thương chúng ta, và muốn ban hạnh phúc đời đời cho ta. Do đó, sau khi đã tính sổ xong, Người lại ban cho chúng ta cả vốn lẫn lời, và còn ban hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta.
TÓM LẠI: Trộm cướp giết người là một trọng tội. Nhưng không sử dụng tài năng, của cải Chúa ban để làm lợi cho Chúa và tha nhân thì cũng đáng bị loại ra khỏi Nước Trời. Vậy tôi có cảm tạ về những hồng ân Chúa đã ban cả về vật chất cũng như tinh thần hay không? Trong những ngày này, tôi quyết tâm làm những việc gì cụ thể để làm lợi thêm những nén bạc Chúa giao, tức là làm vinh danh cho Chúa và mang lại ơn cứu độ cho tha nhân?
3) THẢO LUẬN :
Một số khá đông tín hữu nghĩ rằng: Tôi phải làm ăn để lo cho gia đình con cái, nên đâu còn thì giờ để cầu nguyện, năng đi dâng lễ hằng ngày và làm việc tông đồ truyền giáo như các linh mục và tu sĩ được! Vậy bạn có đồng ý như vậy không? Tại sao?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
a) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con xin cảm tạ Chúa muôn ngàn lần, vì con đã nhận được biết bao ơn lành của Chúa. Về vật chất thể xác, con có công ăn việc làm với mức thu nhập ổn định. con được sinh ra lành lặn và đẹp tốt, con được sống trong một gia đình gia giáo đạo đức... Về tinh thần, con đã được ơn tái sinh trong nước rửa tội để nên con cái Thiên Chúa, con đã được học hành và giáo dục nên một người tốt trong xã hội. Nhất là con còn được Chúa hứa ban hạnh phúc Nước Trời đời đời cho con sau này.
LẠY CHÚA. Xin cho con không ngừng dâng lời cảm tạ những ơn lành Chúa đã hứa ban. Nhất là xin cho con không làm cho ơn Chúa ra vô ích. Nhưng biết sử dụng những gì Chúa ban để làm sáng danh Chúa và đưa nhiều người về làm con cái Chúa trong Nước Trời sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
b) LẠY MẸ MA-RI-A. Xưa khi nghe bà chị họ Ê-li-sa-bét khen ngợi là "người có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói" (Lc 1, 45), thì lập tức Mẹ đã dâng lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong bài kinh "ngợi khen" (Ma-nhi-phi-cát). Rồi từ đây, cả cuộc đời của Mẹ là một bài ca "Xin vâng" theo thánh ý Thiên Chúa (x Lc 1, 38). Xin vâng cho đến khi đứng dưới chân thập giá để hiệp dâng với Chúa Giê-su khi Người dâng thánh lễ lần đầu và chỉ dâng một lần là đủ (x Dt 7,27).
LẠY MẸ. Cuộc đời chúng con ở trần gian còn nhiều gian truaân đau khổ. Xin Mẹ hãy luôn ở bên động viên con luôn "xin vâng" thánh ý Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để làm vinh danh Chúa và mang ơn cứu độ cho mọi người. Xin cho chúng con trong mọi hoàn cảnh khó khăn, không chỉ cầu nguyện suông rồi khoanh tay chờ Chúa làm phép lạ. Nhưng biết bắt tay vào việc, để làm từ điều chính tới điều phụ, làm từ việc dễ đến việc khó. Xin cho con vừa làm việc hết mình, lại vừa cầu nguyện cậy trông Chúa giúp như có người đã nói: "Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối!"
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. - Nhưng điều: TN33-A22
- Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít.
- Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”.
- Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ : người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
B.... nẩy mầm.
1. 3 người đầy tớ trong dụ ngôn này không hề so đo phân bì với nhau vì tại sao kẻ thì được nhiều kẻ thì được ít. Họ chỉ khác nhau ở tấm lòng đối với chủ.
Tôi cũng đừng so đo với người khác về những khả năng Chúa ban cho tôi ; kiêu căng đối với kẻ ít khả năng và đố kỵ đối với kẻ nhiều khả năng hơn mình. Tôi chỉ nên nghĩ tới Chúa thôi : Chúa mong chờ gì nơi tôi khi trao cho tôi những khả năng đó ?
2. Người đầy tớ thứ ba có nhiều điểm xấu : ít khả năng, lại không lo phát triển những khả năng ít ỏi đó, mà còn trách chủ keo kiệt. Hình phạt của hắn là một lời cảnh giác cho tôi.
3. “Người có sẽ được cho thêm và sẽ được dư dật” : Lời hứa này là một sự khuyến khích rất lớn cho tôi. “Có” gì và “được cho thêm” gì ? Thưa : cầu nguyện, tinh thần kết hợp với Chúa, sức sống thần linh của Chúa, ơn Chúa v.v.
4. Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. (Chờ đợi Chúa)
5. Ông chủ nói với người đầy tớ : “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)
Sau khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.
Vẻ mặt giận dữ, cha cô bé hỏi :
“Tại sao con đến nhà người ta vào lúc này ?”
Cô bé trả lời : “Con đến để an ủi mẹ bạn ấy”.
- Nhưng con thì làm được gì ? - Ba ơi con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy. Lúc đó, cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ”. Và tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi người. Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại Tách cá phê tôi pha cho bố mỗi sáng Một chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị những bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ Tôi đã làm tất cả với hết khả năng và nhiệt huyết của mình. Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.
Lạy Chúa ! Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao, biết trung thành với bổn phận hằng ngày. (Hosanna)
Tận Dụng Tài Năng Của Cải Chúa Ban - Lm Trần Bình Trọng, USA
Theo truyền thống tại các nước Cận Đông, khi một người giàu có trẩy đi xa, họ thường giao tài sản cho: TN33-A23
Theo truyền thống tại các nước Cận Đông, khi một người giàu có trẩy đi xa, họ thường giao tài sản cho các đày tớ, ít hay nhiều, tùy theo khả năng của mỗi người.
Dụ ngôn trong Phúc Âm hôm nay kể lại người nhận được năm nén bạc biết ông chủ mong mình đầu tư để kiếm lời. Người nhận được hai nén, mặc dù ít hơn, cũng đầu tư để sinh lời. Theo tỉ lệ phần trăm, thì người đày tớ làm lời thêm hai nén, cũng thành công như người đày tớ sinh lời thêm năm nén. Cả hai người cùng cố gắng đầu tư để sinh lời cho những nén bạc của chủ, và do đó được ơn nghĩa với chủ.
Còn người đày tớ chôn vùi nén bạc của chủ có đủ khả năng để làm việc nhỏ được trao phó. Tuy nhiên anh ta đã để cho tính lười biếng và sợ hãi chi phối. Anh ta che đậy cái cớ không thích đáng của mình bằng cách trả lại tiền vốn nguyên vẹn, không lời cũng không lỗ. Và vì thiếu tinh thần trách nhiệm, anh ta đã bị cách chức, sa thải. Anh ta không nêu lý do tại sao lại chôn vùi nén bạc của chủ, mà chỉ trách chủ là người keo kiệt, hà khắc.
Câu hỏi ta cần đề cập đến hôm nay là mỗi người đã dùng của cải tài năng, ân huệ Chúa ban như thế nào? Mỗi người hãy nhìn vào chính mình để tìm ra cái khoảng cách giữa tài năng mình có và công việc mình hoàn thành. Khi mà người ta không chịu toại nguyện và thoả hiệp với chính mình, với những của cải, tài năng mình có, người ta sẽ sinh ra phàn nàn, kêu trách và hận Chúa. Cái thái độ đó sẽ khiến người ta khó lòng vượt ra khỏi mình, và sẽ tự làm khổ mình. Nó làm tắc nghẽn cái sức vươn lên của ta với Chúa. Khi mà ta dùng quá nhiều thời giờ phàn nàn về những cái ta không có, phàn nàn về số phận hẩm hiu, mắt ta sẽ bị che đậy, không nhìn thấy những điều may mắn, những ân huệ Chúa ban. Do đó tâm trí ta bị mây đen bao phủ. Vậy chỉ khi nào ta nhìn mình từ những điểm tích cực, chỉ khi nào ta tiếp nhận của Chúa ban, lớn cũng như nhỏ, với lòng biết ơn, ta mới nhìn thấy cái chiều sáng của cuộc đời.
Cũng như người chủ mong người đầy tớ dùng tiền của đã được trao phó để sinh lời, Thiên Chúa cũng mong ta dùng của cải tài năng về thể chất cũng như tinh thần và thiêng liêng để làm vinh danh Chúa. Chúa không đòi ta phải trả nhiều hơn là của cải đã được trao ban. Chúa chỉ đòi ta trách nhiệm về của cải tài năng đã được trao phó. Đọc Thánh kinh ta thấy Chúa thường nói những điều ngạc nhiên không ai nghĩ tới, đôi khi làm rối trí ngay cả các tông đồ thân tín. Câu kết luận của dụ ngôn hôm nay thoạt nghe xem ra có vẻ bất công: “Phàm ai có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy đi”. (Mt 25, 29)
Cái bài học mà Chúa muốn dạy ta trong dụ ngôn hôm nay là cái tầm quan trọng của việc đầu tư vào đời sống thiêng liên. Theo Thánh Phaolô thì mỗi người nhận được những ân huệ khác nhau của Chúa: người thì nhận được nhiều của cải vật chất, người nhận nhiều của cải tinh thần như có đầu óc thông minh sáng tạo. Có người giỏi về thể thao, âm nhạc. Có người có tư cách tốt đẹp về bản ngã, nhân vị. Người khác có đời sống nội tâm cao độ, có thể gợi cảm hứng thiêng liêng nơi người khác. Cái điều quan trọng là khám phá những của cải tài năng mình có và tìm cách phát triển để làm vinh danh Chúa và phục vụ nhân loại chữ không tự phụ khoe khoang. Như vậy mỗi người đều có số vốn để đầu tư: vốn về vật chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Mỗi người tùy theo khả năng, cơ hội, hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, được kêu gọi dùng những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban một cách khôn ngoan và với tinh thần trách nhiệm để làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ nhân loại.
Booker Washington là người Mỹ da đen vĩ đại nhất. Ông là nhà giáo dục, nhà cải cách và văn sĩ nổi : TN33-A24
Booker Washington là người Mỹ da đen vĩ đại nhất. Ông là nhà giáo dục, nhà cải cách và văn sĩ nổi tiếng. Lúc mới 16 tuổi, Booler Washington đã đi bộ gần 600 cây số từ căn nhà nô lệ của cậu tới học viện Hampton, bang Virginia. Các lớp học đều đông đủ rồi, nên cậu không được nhận vào học. Và cậu nhận một công việc tại trường là quét phòng, dọn giường và làm một số việc hèn hạ khác. Cậu đã làm mọi việc rất chu đáo, thành ra cậu kéo được sự chú ý thuận lợi của phân khoa, và họ đã cho cậu một căn phòng sinh viên. Cậu làm việc với phong cách riêng của mình suốt thời gian đi học cho tới khi trở thành một giáo viên nổi tiếng và về sau là người sáng lập Học viện Tuskegee ở Alabama. Một người đã có thời là nô lệ trở thành người lãnh đạo chủng tộc da đen. Ông qua đời năm 1915.
Đây là mẫu gương về điều mà Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: "Anh đã trung tín trong việc nhỏ, tôi sẽ sở cậy anh trong việc lớn". Nói cách khác, bạn hãy làm một công việc khéo léo với những điều nhỏ bé được chỉ định cho bạn, rồi những dịp thuận lợi lớn hơn, tốt hơn và phần thưởng sẽ được dành cho bạn.
Chúa Giêsu đang nói về nước trời, về những sự thiêng liêng, chỉ là chân lý hôm nay Ngài nói với chúng ta mà người trần tục phải chấp nhận, nghĩa là, bạn hãy cố gắng với những gì bạn có và cơ hội lớn hơn sẽ được cống hiến cho bạn. Điều đó chẳng phải luôn gây ấn tượng cho bạn là những qui luật, lời khuyên, những dấu chỉ dẫn mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta về phương diện thiêng liêng cũng áp dụng vào thế giới vật chất của chúng ta sao ?
Những sự nhỏ bé cũng quan trọng. Xiết chặt những đai ốc ở bánh xe ô tô có thể cứu được một mạng sống, thu nhặt rác là việc cần thiết cho sức khỏe của một cộng đồng. Rửa chén bát giết được vi trùng. Dọn giường đẹp đẽ sẽ thêm tiện nghi cho người ngủ. Hãy làm những việc này và hàng trăm phận sự khác của đời sống hàng ngày một cách tốt đẹp, và bạn sẽ làm được những điều lớn lao hơn. Câu chuyện của Booker Washington là một bằng chứng về điều đó.
Chân lý này rất quan trọng trong thế giới thiêng liêng, đặc biệt hôm nay khi gia đình Chúa xin mọi người hành động, nghĩa là làm tất cả những gì bạn có thể để giúp đỡ gia đình Chúa. Một vài thí dụ như: những giáo dân là thợ điện, thợ mộc, hay làm bất cứ ngành nghề nào, dành dụm giúp đỡ các giáo xứ. Có nhiều người trồng bông để chưng cho bàn thờ. Còn nhiều giáo dân dâng hiến tài năng, thời gian và nghị lực góp phần giáo dục tôn giáo cho các thiếu nhi. Có những người giúp đỡ bằng việc thăm viếng người bệnh tật, gia nhập những nhóm cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, những người đọc sách thánh, những ca viên gồm cả bạn, làm cho nghi lễ thêm sốt sắng, linh động. Đây chỉ là một vài cách mà giáo dân đang xử dụng những khả năng tài cán mà Thiên Chúa ban cho.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với các bạn là những người đang nỗ lực làm một cái gì, dù nhỏ bé, để giúp người khác hiểu biết, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, bởi vì anh đã trung tín trong viễc nhỏ mọn, tôi sẽ sở cậy anh việc lớn, hãy vào hưởng sự vui mừng với chủ anh".
Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi người đang phục vụ gia đình Chúa.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay kêu mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao công.: TN33-A25
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay kêu mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao công. Thời gian được Chúa ban cho chúng ta, không phải để lăng phí vui chơi mà để làm việc. Ngày xưa, tại công trường Nhã Điển (Hy Lạp) nhà hiền triết Diogêrê, giữa trưa hè, tay xách một chiếc đèn sáng, đi tìm một người đàn ông xứng đáng với danh xưng ấy. Hôm nay, Sách Phương ngôn mô tả cho chúng ta một người đàn bà lý tưởng. Đây không phải là tiêu chuẩn một số bà tân thời mà ta thường gặp bay lượn ngoài đường phố. Nhưng nhà thi sĩ Thánh Kinh trình bày một người phụ nữ đầy sự sống, đảm đang, "một Thiên Thần của gia đình". Người đàn ông cũng như người đàn bà, trời cho đôi tay, "như chim sinh ra có cánh để bay, người sinh ra có tay để làm việc".
Sau đây là những đức tính cần thiết của người đàn bà trong gia đình. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi tay cần mẫm, tháo vát và chăm chỉ. Có đức Tin, lao công không phải là áp bức, nô nệ. Với đức Tin, mọi công việc mang một ý nghĩa hiến dâng: "Nàng rộng tay bố thí cho người nghèo khó và giơ tay hướng dẫn kẻ bần cùng". Người đàn bà là kẻ trợ lực của người đàn ông, theo nhân giới sách Sáng Thế Ký (1,27; 2. 18-22), một người bạn ngang hàng và đồng hành, sánh vai cùng tìm về chốn hạnh phúc.
Trong Thánh Thư gửi giáo đoàn Thessalonica, Phaolô đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn, có người lo sợ rằng ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Phaolô cảnh tỉnh. Đành rằng, sống hôm nay người giáo dân không được quên số phận đời đời, nhưng không phải chỉ nghĩ đến ngày Chúa giáng lâm đến lại rồi không làm gì cả. Vậy Phaolô bảo: "Hãy làm việc, đừng ngủ mê". Hãy biết trọng thì giờ Chúa ban.
Với bài Phúc Âm, chúng ta lại thấy rõ bài học mà Phaolô vừa dạy cho giáo đoàn Thessalonica họn. Đó là giá trị thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện để sinh sống như thời giờ, tài năng như "nén bạc Chúa gửi".
Nhưng Chúa ban tài năng thì chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng để sinh lợi cho mình và cho người khác. Chúa phán dụ ngôn về nén bạc mà người kia sắp đi xa, đem trao phó cho các đầy tớ để họ làm lợi ra cho ông, tùy khả năng. Người được năm, người được hai, người được một. rồi ông "đi xa một thời gian lâu dài". Đây là một điểm mà Chúa hay nhắc lại trong các dụ ngôn, như người chủ về chậm, người tân lang đến trễ, nhà Vua đi phương xa. Đây không phải khoảng cách thời gian xa gần cho bằng là lúc để mọi người nhận lãnh trách nhiệm. Thời gian Chúa ban để chúng ta dùng hầu sinh lợi, vì sẽ có một cuộc xét hỏi và tính sổ sau này.
Chúa chú ý cách riêng đến người thứ ba, chỉ lãnh một nén bạc rồi đem chôn luôn. Một nén bạc theo thời giá lúc ấy bằng tiền lương của sáu nghìn ngày làm việc. Tiền làm ra tiền, nhưng phải có can đảm và một chút liều lĩnh để biết đầu tư sinh lời.
Trong việc phụng sự Chúa, Chúa cũng đòi hỏi sự trông cậy và phó thác, đến liều lĩnh như ta thường nói. Các nén bạc Chúa trao chẳng khác gì lời Phúc Âm của Chúa. Ta phải đem phận phát. Các nén bạc Chúa trao chẳng khác gì nắm giống lúa người nông phu đem gieo vãi. Có thể mất mát đi ba phần nhưn gphần còn lại bừng lên một mùa gặt tốt, một thành ba mươi, sáu mươi, một trăm.
Đời ta, dưới can mắt người đời có thể được coi là thất bại, nhưng trước mặt Thiên Chúa, có thể có một giá trị khác, một đời tầm thường nhưng đã trở nên khác thường.
Thánh Giêrađô Majella, Tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế, và Martinô đệ Porres những bằng chứng. Porres đến gõ cửa một tu viện xin được vào làm công. Giêrađô được nhận vào Dòng với câu giới thiệu: "Xin gửi đến Cha một người chắc chả làm được gì". Nhưng cả hai là những vị Thánh đã cả đám "liều lĩnh" cho Thiên Chúa.
Tổ chức và các cơ cấu kinh tế thời nay rất khác với thời xưa. Các hoạt động kinh tế ngày nay rất bao quát: TN33-A26
Tổ chức và các cơ cấu kinh tế thời nay rất khác với thời xưa. Các hoạt động kinh tế ngày nay rất bao quát, phức tạp và chồng chéo nhau. Sự biến đổi liên tục của thị trường chứng khoán là một ví dụ. Tuy nhiên những nguyên tắc kinh tế căn bản thì không thay đổi, thời nào cũng vậy. Thời nào thì hoạt động kinh tế cũng nhằm bỏ vốn để sinh lời. Vốn đầu tư càng nhiều thì lợi càng lớn. Đầu tư càng dài hạn thì càng thu hút được nhiều lợi.
Trong dụ ngôn các nén bạc Chúa Giêsu cũng mượn các qui luật kinh tế để nói về cách sử dụng và khai thác cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta một số bạc, nhiều ít tùy người. Hết mọi người phải dùng số bạc đó để sinh lời. Và lời phải tương xứng với số vốn mình đã nhận được
VỐN CHÚA TRAO
Vốn Chúa trao cho chúng ta sinh lãi là những gì ?
Trước hết là chính sự sống, là chính cuộc đời chúng ta. Là những ngày tháng chúng ta được sống. Đó là số vốn ban đầu, là vốn căn bản. Vậy chúng ta phải sử dụng vốn đó như thế nào? Chúng ta có mặt trong cuộc đời không phải chỉ để sống cho qua ngày, nhưng còn để sống thế nào cho thật hữu ích và phong phú. Vì cuộc đời chúng ta trước sau rồi cũng qua đi. Chỉ những gì thật hữu ích chúng ta đã cố gắng làm mới sẽ còn mãi.
Vốn thứ hai, rất quí giá, được ban thêm vào vốn thứ nhất là đời sống mới trong Chúa Kitô, mà ta thường gọi là ơn làm con Thiên Chúa, ơn tái sinh, hoặc ơn cứu độ. Vốn này có tính quyết định: được thua, còn mất, sống chết là tại nó. Cuộc đời ta có nghĩa lý gì nếu không nhờ nó mà ta đạt tới ơn cứu độ. Ơn cứu độ chính là sự thành tựu chung cuộc của cuộc đời.
Cùng với ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho ta đủ mọi phương thế để thực hiện ơn ấy. Đây là loại vốn thư ba. Tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban suốt đời ta đểu trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm giúp ta sống xứng đáng cuộc đời trần thế và đạt tới cuộc sông vĩnh cửu.
Mỗi ngày, trong mỗi việc, mỗi bổn phận, mỗi khó khăn, mỗi cố gắng, đều có ơn Chúa kèm theo. Có thể nói: Vì phần rỗi của chúng ta, Thiên Chúa đầu tư đúng mức và còn quá mức cần thiết.
SỬ DỤNG VỐN
Vấn đề được đặt ra là chúng ta đã sử dụng những vốn đó như thế nào. Có thể chúng ta đã hành động như người lãnh một nén bạc rồi đem chôn dưới đất hơn là như người lãnh mười nén bạc rồi sinh lợi được mười nén khác.
Trước hết đối với ngày tháng của chúng ta. Nhiều lúc chúng ta than tiếc đời chúng ta quá ngắn, nhưng nhiều khi lại phung phí thời giờ như thế nó vô tận, muốn sống bao lâu cũng được. Nếu chia ngày tháng chúng ta làm ba loại tùy theo cách sử dụng: có ích - vô ích - có hại... thì có lẽ hai loại vô ích và có hại chiếm phần lớn cuộc đời. Chăng hạn một người sống bảy mươi năm có thể dùng đến hơn sáu mươi năm đời mình vào những việc vô ích hoặc có hại. Nhìn chung cuộc đời như vậy thì thật khủng khiếp.
Thời giờ không phải chỉ là tiền, như những nhà kinh tế nghĩ, nhưng còn là ơn cứu độ, theo cái nhìn đức tin. Thời giờ là vốn quý để tăng trưởng, nhưng nếu thời giờ bị phung phí thì làm cho đời ta nghèo đi thay vì làm giàu thêm.
Đối với những ơn ta nhận được mỗi ngày cũng phải tính toán xem lời lỗ thế nào.
Mỗi ngày có đưa ta đến gần Chúa hạơn không, có giúp ta sống thánh thiện hơn không? Câu nói quen thuộc "càng thêm tuổi càng thêm nhân đức thật giản dị và thật hay. Nhưng sự thật có như vậy không ? Đó là một lý tưởng mà không dễ gì có thể đạt tới.
Về cuối cuộc đời, chúng ta có thuộc về Chúa, sống với Chúa, sống cho Chúa nhiều hơn khi còn ở đầu đời không ? Nếu không thì, về mặt đức tin, đó là một thất bại không sao có thể gỡ lại. Còn nếu có thì cuộc đời chúng ta sẽ là một thành công mà mọi thất bại khác, nếu có, thì cũng chẳng quan trọng bao nhiêu. Bởi vì vốn đã sinh lời và sinh thật nhiều lời: mười nén bạc đã sinh mười nén khác. Thành công này có tính quyết định. Mọi thất bại khác, dầu lớn đến đâu, cũng không thế làm thay đổi giá trị của nó.
Trong tạp chí “Bit and Pieces” có kể rằng, Charles Shulz, khi còn bé là một học sinh rất kém cỏi. Ông: TN33-A27
Trong tạp chí “Bit and Pieces” có kể rằng, Charles Shulz, khi còn bé là một học sinh rất kém cỏi. Ông học môn nào cũng dở, thi cũng rớt. Trong trường, ông cố gắng nhập vào nhóm chơi banh golf, nhưng rồi ông cũng bị loại. Vì kém cỏi, ông không có bạn bè và cũng chẳng bồ bịch gì được với ai. Nhưng ông có một sở thích là vẽ hình hí hoạ, và ông chú tâm cố gắng trau dồi nó. Khi lớn lên, ông đã gởi hình hí họa của ông đi nhiều nơi để thử vận nhưng đều bị thất bại. Chẳng biết làm gì hơn, ông liền vẽ tranh hí họa diễn tả chính cuộc đời thất bại của mình qua hình ảnh của một chú bé luôn kém cỏi chẳng làm gì cho ra hồn. Và trên báo chí hiện nay, đa số ai cũng biết đến câu chuyện hí họa của một chú bé có tựa đề là “Peanut Comic Classic”. Và tất nhiên, từ một khả năng vẽ hí họa tầm thường đó, Charles Shulz, đã làm cho nó phát triển và trở nên nổi tiếng.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về dụ ngôn một ông chủ, trước khi trẩy đi xa, trao cho các đầy tớ của ông tài sản để họ dùng mà sinh lời cho ông. Theo nhà chú thích Thánh Kinh William Barclay, thì dụ ngôn này có thể nhắm trách những biệt phái Pharisiêu và các kinh sư, những người nắm giữ kho tàng lề luật của Chúa ban mà không biết áp dụng và làm triển nở lợi ích thiêng liêng thực sự cho con người mà chỉ biết khư khư giữ chặt và áp dụng luật lệ cách khắt khe theo nghĩa đen. Do đó, họ đã bị phạt, và nước trời đáng lẽ thuộc về họ đã bị lấy đi và trao cho dân ngoại.
Ngày nay theo ý kiến của nhiều người và chính chúng ta cũng có thể suy ra rằng những nén bạc Chúa trao cho mỗi người chúng ta là những tài năng siêu nhiên và tự nhiên Chúa ban. Và Chúa muốn chúng được phát triển qua đời sống Kitô Hữu. Làm thế nào để chúng ta có thể phát triển những tài năng Chúa ban. Hai yếu tố quan trọng là nhận ra và cố gắng xử dụng nó. Đọc kỹ dụ ngôn chúng ta thấy hai điểm quan trọng là (1) khi ông chủ trao nén bạc, ông không đòi rõ là mỗi đầy tớ phải sinh lời bao nhiêu, nhưng có một điều chắc chắn là ông muốn họ phải sinh lời bằng cách tự sức mình làm ra hay ít nhất gởi vào ngân hàng mà sinh lời, (2) và khi trao, ông đã biết rõ khả năng của từng người và ông chỉ trao đủ số lượng phù hợp với khả năng.
Những nén bạc chính là những ân huệ Chúa ban cho mỗi người, ân huệ Chúa ban nhưng không, nhưng Chúa ban kèm theo một trách nhiệm: làm phát triển những ơn Chúa ban. Điều kiện đó dường như là định luật ngay từ thuở tạo dựng. Chúa tạo nên Ađam và Evà với những khả năng siêu nhiên và tự nhiên để họ tiếp tục làm phát triển những công trình Ngài đã tạo dựng: “Hãy sinh sôi nảy nở và hãy làm cho đầy dẫy trên mặt đất” (Stk 1,28).
Các nhà giáo dục đều cho rằng khả năng, dù tự nhiên hay siêu nhiên, của con người chỉ có thể phát triển thực sự nếu họ biết dùng nó để phục vụ và trao ban cho tha nhân. Ngay từ đầu, Adam và Evà đã không dùng những khả năng cao quí của Chúa ban để phục vụ Chúa hay trao cho nhau, nhưng họ ích kỷ muốn tìm cho mình sự hiểu biết để chiếm lấy danh dự và nên như Thiên Chúa (xem Stk 3,5) Và kết quả là khả năng siêu nhiên cũng như tự nhiên của họ bị mất đi hay giảm sút.
Ông Charles Shulz, dù thấy mình bị thất vọng trong mọi lãnh vực, ông đã khám phá ra chút tài năng Chúa ban và phát triển nó, và có thể nói ông đã được Chúa thưởng ngay từ đời này.
Nghe lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta trước hết hãy nhận ra những ân huệ Chúa ban và làm cho nó phát triển qua cuộc sống phục vụ Chúa và tha nhân. Nếu không, e rằng ngay cả những gì chúng ta đang có, cả khả năng vật chất lẫn thiêng liêng, cũng sẽ bị Chúa cất đi và trao ban cho người khác.
Chúng ta hãy là những đầy tớ trung tín và cố gắng sống đời Kitô Hữu hết mình theo khả năng Chúa ban cho chúng ta, để sau này chúng ta được nghe Chúa nói: “Hãy vào và hưởng sự hoan lạc của chủ ngươi” (Mt 25,21).
Đoạn này diễn tả những nhân đức của người Vợ. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu: TN33-A28
Đoạn này diễn tả những nhân đức của người Vợ. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng
A Worthy Wife. This passage describes the virtue of Wife. She reaches out her hands to the poor, and extends her arms to the needy.
* Bài đọc 2: 1 Thes.5, 1- 6= Ngày của Chúa.
Sứ điệp đoạn này là Hãy canh thức, đừng say sưa. Thánh Phaolô tiếp tục trả lời cho tín hữu Thes. về ngày Quang lâm của Đức Giêsu Kitô.
Day of the Lord. The message is: Stay awake and sober. Paul continues his reply to the Thessalonians the Final coming of Jesus Christ.
* Tin Mừng/Gospel:
Mat. 25, 14-30= Người Phục vụ tin cậy.
Hôm ngay câu hỏi của Chúa với chúng ta là: các anh có thực hiện tao dựng lòng trung tín không? Có phải là hành động tích cực trong đời sống của người Tín hửu?
The Faithful Servant. Today, God's question to us is: Do we practice "creative fidelity"? An active Christian life possible?
A. Gợi ý Cảm nghiệm, Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: (Reflections, live out and shares )
1/ Trong dụ ngôn những nén bạc,ông chủ nói với người lãnh một nén bạc như sau: "Vậy các anh sẽ lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người có mười nén." Người Tín hữu đã đượclãnh nhận các phép Bí tích, sức khỏe, tiền của, các phương tiện xã hội...Tôi đã làm gì cho gia đình vã xã hội để xứng đáng với ơn Chúa ban?
You, there! take the thousand away from him and give it to the man with the ten thousand. (Mat. 25, 28 )
2/ Và ông chủ là Chúa nói tiếp: "Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa, còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi." Nếu mỗi người dùng ơn Chúa ban để phục vụ cho gia đình và giáo xứ thì họ sẽ trưởng thành thêm trong đời sống tâm linh. Bạn cảm thấy thế nào khi phục vụ anh em túng nghèo?
Those who have, will get more until they grow rich...will lose even the little they have. (Mat. 25, 29)
3/ Trong thư gới giáo đoàn Thêxalonica,Thánh Phaolô khuyên răn và khích lẹ :"Chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ." Nhiều người hôm nay, họ sống như không có Chúa, không chờ mong, chỉ biết chìm đắm trong các dục vọng. Tôi đã tập được những nhân đức nào cho mình?
4/ Trong sách Châm ngôn nói về người vợ Đảm đang như sau: "Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lơi lộc, Suốt đòi nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tại họa cho chồng." Nhiều người vợ đã gây sóng gió, lấn áp chồng khi có sắc đẹp và làm ra tiền. Bạn đã chứng tỏ mình là người vợ hiền thế nào?
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's Word )
AI ĐÃ CÓ THÌ ĐƯỢC CHO THÊM VÀ SẼ CÓ DƯ THỪA.. . (Mat. 29)
Those who have, will get more until they grow rich.. .
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống chờ ngày Quang Lâm: ( So what am I doing / For action )
a/ Tôi sẽ chọn 1 trong 4 gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống.
b/ Bạn nên tập Sống thật khiêm tốn và không kêu trách người khác như Đức Hồng Y Nguyễn vănThuận.
C. Tôi cầu nguyện như hơi thở và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice/ Pray in action )
1/ Lạy Cha, thánh Phaolô đã khuyên dạy con dừng có ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Xin cho con biết khôn ngoan tìm Chúa trong mọi lúc và dứt khoát với những đam mê dục vọng.
2/ Sách Châm ngôn đã nói lên người vợ đảm đang thật khó kiếm và quý hơn châu ngọc bội phần. Xin giúp con và những người vợ hôm nay luôn đem hạnh phúc cho chồng con và rộng lượng giúp đỡ người nghèo khổ.
Lời hay ý đẹp: TRI THỨC CÓ THỂ NGUY HIỂM, NẾU KHÔNG DẪN ĐẾN SỰ KHÔN NGOAN.
Knowledge can be dangerous, if it doesn't lead to Wisdom.
Dụ ngôn những nén bạc Tin Mừng trưng ra hôm nay, giúp ta suy nghĩ rất nhiều về ơn sủng nhưng: TN33-A29
Dụ ngôn những nén bạc Tin Mừng trưng ra hôm nay, giúp ta suy nghĩ rất nhiều về ơn sủng nhưng không Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta. Khả năng, tài trí và vật chất, Chúa trao ban cho con người để con người sinh lời cho Thiên Chúa. Tuy nhiên, cái gia tài Chúa trao ban nhưng không cho con người lại tùy thuộc vào sự thiện chí và cách đáp trả của mỗi người. Chúa trao cho mỗi người tùy theo mức độ lãnh nhận và đáp trả người một nén, người 5 nén người 10 nén, ngày cuối cùng chúa tính sổ với từng người...
VẪN LÀ NHỮNG NÉN BẠC PHẢI SINH LỜI
Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô không phải là cái gì trên mây trên gió, lơ mơ, lù mờ, không thực tế, xa con người. Tin Mừng của Chúa Giêsu là một tin vui rất người, rất thực tế và gần gũi con người. Chúa Giêsu luôn dùng những ví dụ, những dụ ngôn xẩy ra trong đời thường của con người. Chúa dùng những gì xẩy ra xung quanh con người, xẩy ra chung quanh xã hội để dậy cho con người, cho loài người những gì thực tế nhất diễn ra trong đời thường, trong cuộc sống con người. Dụ ngôn những nén bạc là một ví dụ rất người, rất thực tế, dễ hiểu vì rằng khi ông chủ đi xa muốn trao cho mỗi người một số tiền, để dựa vào số tiền nhận được, con người tìm các làm lợi ra cho chủ. Sở dĩ, ông chủ muốn làm một cuộc trắc nghiệm thực tế để hiểu nhân công của mình. Ông đã trao tiền và kèm theo câu nói: "Hãy nhận số tiền lãnh nhận và sinh lời ra dựa trên số tiền này". Câu nói của ông chủ vừa có tính cách khuyến khích, vừa là lệnh truyền bắt buộc. Hiểu được ý chủ, người đầy tớ sẽ làm theo ý chủ của mình. Ông chủ là Thiên Chúa sẽ dựa vào sự quyết tâm và thiện chí của con người để thưởng, phạt theo sự công bình của Người. Khi lồng dụ ngôn này vào bối cảnh dụ ngôn 10 cô trinh nữ, Tin Mừng Matthêu muốn nêu lên cho con người về nguyên tắc căn bản để đạt Nước Trời, đó là tỉnh thức, tỉnh thức để thấy những điềm báo, những thời triệu của nhân loại, của xã hội, của lịch sử để nhận ra ý Chúa hầu có thể sống tốt đẹp và thừa hưởng được Nước Trời. Người Kitô hữu muốn lãnh nhận ơn cứu độ, lắng nghe lời Chúa không chưa đủ mà còn phải lời Chúa ra thực hành trong đời sống, làm cho lời chúa sinh hoa kết quả.
GIỜ CỦA CHÚA, MỖI NGƯỜI HÃY SẴN SÀNG
Dụ ngôn làm sáng tỏ cuộc đời của mỗi người. Các nén bạc tức các ơn huệ không là của ta. Chúa trao cho Ta để ta sinh lời ra và làm cho nhiều người được hưởng ơn ích do hoa quả ta làm ra. Chúa đổ vào tâm hồn ta những khả năng, tài trí để ta sinh lời ra để ta làm ích lợi cho ta và cho nhiều người. Chúa vẫn muốn ta phải sinh hoa kết quả. Chúa vẫn muốn ta phải sinh lời khi ta lãnh nhận quá nhiều ơn huệ nhưng không của Chúa. Như 5 cô trinh nữ khôn ngoan, Chúa muốn mỗi người chúng ta phải có thái độ tỉnh thức, chóng vánh, mau mắn và cầu nguyện. Chúa muốn chúng ta phải luôn sẵn sàng phục vụ cho Nước Trời, Cho Giáo Hội, cho con người. Chờ đợi Chúa đến luôn phải là thái độ mau mắn của mỗi người. Chúa trở lại sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta phải tỉnh thức, mau mắn vâng lời Chúa.
Như các thánh tử đạo Việt Nam mà Giáo Hội dành riêng cho Giáo Hội Việt Nam mừng kính hôm nay. Mỗi người Kitô hữu phải mau mắn, nhanh nhẹn và tỉnh thức để làm chứng cho Chúa Kitô dẫu có phải hy sinh tính mạng: " Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của kẻ hiến mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15,13 ).
Chúa Giêsu đã hiến mạng sống trên thập giá vì phần rỗi của con người. Chúa nói: " Tốt lắm, hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi coi sóc những việc lớn, hãy đến hưởng sự vui mừng với chủ ngươi".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vâng phục ý Chúa để lắng nghe và làm cho lời Chúa sinh nhiều hoa trái tốt tươi.
Gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có cảm nghiệm gì về dụ ngôn các nén bạc.
2. Bạn nghĩ sao về ơn huệ Chúa ban cho bạn ?
“Nén bạc”: Nên biết rằng mỗi nén bạc lúc bấy giờ là sáu ngàn quan tiền, tức là có giá trị tương đương với sáu ngàn ngày công lao động của các công nhân bậc trung bình. Do vậy, đây là một số tiền rất lớn. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi đã giao phó cho con người những ân huệ khác nhau tùy theo khả năng của mỗi người, để con người sinh lời ra bằng cách làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích phần rỗi cho anh em đồng loại. Số nén bạc ông chủ giao cho các đầy tớ cho dù chỉ là một nén cũng nói lên tình thương lớn lao của Thiên Chúa. Người sẵn sàng trao ân huệ của Người là ban cho mỗi người chúng ta một thân xác và linh hồn cùng với các tài năng, trình độ học vấn, của cải vật chất, địa vị xã hội và biết bao ân huệ tinh thần – vật chất lớn bé khác kể cả vũ trụ này, kể cả thời gian quý báu... cho con người sử dụng.
“Làm ăn buôn bán”: Nhấn mạnh đến sự làm việc có hiệu quả. Điều này ám chỉ những ân huệ Chúa ban đòi người lãnh nhận phải biết sử dụng để sinh lợi nhiều hơn. Dụ ngôn kể rằng, người lãnh nhận năm nén đã gây lời thêm năm nén khác, người lãnh nhận hai nén đã gây lời thêm hai nén khác. Như vậy nghĩa là, lợi tức làm ra tỷ lệ thuận với số vốn được cấp. Cũng vậy, Thiên Chúa trao cho mỗi người quản lý bao nhiêu ân huệ, thì Người sẽ đòi họ phải làm lợi thêm ra bấy nhiêu. Còn người đã lãnh một nén thì sao ? Đầy tớ này đã đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Đây là thái độ tiêu cực, vô trách nhiệm không đáng cho chúng ta bắt chước.
Chúng ta hãy cùng nghe câu chuyện vui “Khối vàng không sinh lợi” sau đây, phần nào minh họa cho thái độ tiêu cực này:
Ngàyxưacó một ôngnhà giàunhưngrấtkeokiệt. Ônggomtấtcảsốvàngcủa ônglạinấuthànhmộtkhốivà đemchônởmảnhvườnsaunhà. Rồingàyngày ôngbắcghếnhìnchămchămchỗ đó mộtcáchthíchthú. Bởivì ngàynào ôngcũnglàmnhư thế, nênmộttrongnhững đầytớcủa ôngbiết đượcbí mật. Ban đêm, nó đàolấykhốivàng đimất. Ôngnhà giàubuồnquá, chẳngthiết ănngủgì nữacả. Mộtngườibạnbiếtchuyện, khuyên ônghãylấyviêngạch đểvào đúngchỗấy, rồingàyngàycũngranhìnvàochỗấy. Ôngnhà giàucãi: “Nhưng đó đâuphảilà khốivàng, chỉlà mộtviêngạchthôimà”. – “Thì có khácgì đâu”. – “Vậychúnggiốngnhauchỗnào ?” – “Ởchỗcảhaikhôngkhinào ôngxàitới !”
Chúngtacó thểhiểulà khốivàng đã chẳngsinhlợithêmgì cho ôngnhà giàuvà cũngchẳngsinhlợigì choaikháccảngoạitrừngười đầytớthamlam đã bấtchínhlấy đikhốivàngcủa ông. Vậy, nhữngaikhôngsửdụng ânhuệChúabanchomình đểsinhlợichoChúavà sinh ơn íchchophầnrỗicủaanhem đồngloạilà người đó đã chôngiấunénbạccủaChúa đã giaochomình. Trọngthưởng đầytớtrungthành ( Mt 25, 19 – 23 )
Chúng ta tiếp tục tìm hiểu ẩn ý qua các từ ngữ: “thời gian lâu dài”: Tượng trưng cho thời gian sống khác nhau của mỗi người trên trần gian, kẻ này vài ba năm, kẻ khác mấy chục năm, có khi đến cả trăm năm, hoặc thời gian từ khi Đức Giê-su Ki-tô về Trời cho đến ngày người sẽ tái lâm vào ngày tận thế để phán xét thế gian. “Ông chủ đến và thanh toán sổ sách với họ”: Đây là giờ chết riêng của mỗi người hay ngày tận thế chung của toàn thể nhân loại.
Vậy đến ngày ấy, trước toà phán xét riêng, mỗi người phải tính sổ với Chúa về tất cả những gì mình đã nhận và đã làm lợi thêm cho Chúa bao nhiêu. Hoặc trước tòa phán xét chung, mỗi người được xét xử công minh để kẻ lành sẽ được tưởng thưởng và kẻ ác sẽ bị trừng phạt.
Dụ ngôn kể rằng, Chúa đã tưởng thưởng cho người nhận năm nén và sinh lợi thêm năm nén khác, cũng như người nhận hai nén và sinh lợi thêm hai nén khác vì họ đã làm vinh danh cho Chúa và mưu ích phần rỗi cho anh chị em đồng loại. Phần thưởng ấy là: Được hưởng no đầy ân phúc Chúa ban ở đời này, nhưng đặc biệt có tính quyết định số phận đời đời của họ là: Được tham dự vào sự sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa ở đời sau.
Dụ ngôn kể rằng, người đầy tớ được giao một nén đã nghĩ xấu cho chủ mình và mang mặc cảm sợ hãi hơn là yêu mến, nên đã không làm lợi ra cho chủ, nhưng đem chôn nén bạc được giao, thì đã bị chủ trách là: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác !” Và nén bạc không sinh lợi kia bị lấy lại để trao cho người đã có mười nén.
Sau đó, tên đầy tớ vô dụng còn bị chủ phạt quăng vào nơi tối tăm bên ngoài: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Điều này có nghĩa là, những ai không tận dụng tất cả tài năng, của cài, địa vị và những ân huệ khác Chúa ban để sinh lợi cho Chúa và mưu ơn ích cho phần rỗi các linh hồn thì sẽ bị Chúa quở trách và mất đi tất cả những gì đã nhận được trước đó, và còn bị quăng vào hỏa ngục, nơi phải khóc lóc ưu sầu và nghiến răng ân hận đến muôn đời.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ Chúa vì những nén bạc – những ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Xin cho chúng con biết sử dụng những nén bạc – những ơn lành ấy để làm sáng danh Chúa và đưa nhiều người về làm con cái Chúa trong Nước Trời sau này.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin cho chúng con biết giá trị của thời gian và thấy Chúa đang dùng thời gian để tạo dựng vũ trụ này và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa. Xin cho chúng con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Xin cho chúng con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp chúng con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường. Ước gì chúng con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì chúng con đừng bỏ lỡ cơ hội, bỏ lỡ thời gian gặp Chúa trên bước đường đời chúng con đi.
Chúa trở lại và đòi chúng ta ngã sổ thanh toán cả vốn lẫn lãi cho Người. Thực tế, không ai “đem: TN33-A31
Chúa trở lại và đòi chúng ta ngã sổ thanh toán cả vốn lẫn lãi cho Người. Thực tế, không ai “đem trứng giao cho ác”: ông chủ trong bài Tin Mừng hôm nay chắc chắn biết rõ từ con người đến tính nết của những kẻ ông định giao cho một món tiền để sinh lãi, trong thời gian ông trẩy đi phương xa. Kế đến, ông cho các gia nhân có tự do hợp hoàn toàn và toàn quyền quyết định về số vốn ông cấp cho. Cũng đồng nghĩa với việc “lời ăn lỗ chịu” và phải chịu trách nhiệm về kết quả trước mặt ông chủ. Ta thấy ông chủ đã không lầm khi “chọn mặt gửi vàng”: người có khả năng và tinh thần trách nhiệm đã tận tụy với công việc và tài sản ông chủ giao cho, như là công việc và tài sản của chính bản thân. Những việc anh ta đã thực hiện tuy có kết quả mỹ mãn, cũng chẳng sáng tày phần thưởng ông chủ ban cho.
Một điều thường xãy đến khi đụng tới trách nhiệm, ấy là nhiều người dù đã nhận năm nén, hai nén, tức là được giao cho nhiều tài sản tinh thần và vật chất – lại luôn “khiêm nhường” cho rằng số bạc mình nhận chỉ có một nén hoặc ít hơn. Hậu quả là họ chỉ sinh lợi được rất ít so với những gì họ đã được giao, mà nếu cân bằng thu chi, thì chỉ từ hòa đến lỗ vốn. Sự tắc trách ấy không thể cho là vô tình. Trách nhiệm đem sinh lãi nơi tha nhân, làm lợi cho cả tha nhân lẫn bản thân, nhưng chúng ta chỉ chăm chút cho mình, dùng hết khả năng để vun vén cho mình, quên rằng những gì chúng ta được giao, là để yêu mến và phục vụ tha nhân.
Chính lòng yêu thương và phục vụ anh em, nhất là đối với những kẻ nghèo đói bất hạnh, là cái mà chúng ta trình ra để thanh toán với Chúa. Quả cân thanh toán sẽ nghiêng về phần thưởng tùy thuộc ở lợi ích mà anh em của chúng ta được hưởng nhờ việc khôn khéo, năng nổ và tận tụy trong việc sử dụng vốn liếng ông chủ giao cho; hoặc nghiêng về hình phạt nếu như chúng ta không có lòng xót thương, không có tinh thần phục vụ, và đem vốn liếng ông chủ đã giao chỉ để “vinh thân phì gia”. Quả thật, nội dung và tiêu chí để phán xét của Chúa hết sức rõ ràng: tùy vào cách xử đối của chúng ta với tha nhân !
“Vì khi Ta đói; vì lúc Ta khát; vì khi Ta mình trần; vì lúc Ta đau yếu tật nguyền, khi Ta bị tù đày hiếp đáp, thì các con đã cho hoặc không cho Ta ăn; đã cho hoặc không cho Ta uống; đã cho hoặc không cho Ta mặc; đã chăm sóc, thăm viếng, bênh vực, hoặc khoanh tay nhìn một cách bàng quan, thậm chí còn a dua để dè bỉu khinh bỉ, đày đọa Ta”... “Ta” là ai, thì ai cũng đã biết rõ, không còn chỗ cho ngộ nhận.
VỚI CÁC THÁNH TỬ VÌ ĐẠO VIỆT NAM
Cha ông chúng ta đã phải trả giá một cách võ đoán và bất công khi người ta “giận cá chém thớt”, vu cáo cho là đã “cõng rắn cắn gà nhà”. Chỉ cần nhìn qua lịch sử, cũng đủ chứng minh điều ngược lại. Hơn tám mươi năm người ngoại quốc chiếm cứ và cầm quyền trên đất nước, cha ông chúng ta đã không hề lợi dụng để trả thù hoặc để tìm lợi cho mình, từ những kẻ mà họ đã mang tiếng là “rước voi giày mả tổ” ! Cha Ông tử vì đạo của chúng ta đã nhận rất ít – vỏn vẹn một niềm tin nơi Thập Giá Chúa Giê-su, không học thức, không sách vở trường lớp đào tạo, không Thánh Đường nguy nga đồ sộ, không thong dong tự do – nhưng đã trung kiên đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ niềm tin ấy và dùng cả mạng sống để sinh lợi rất nhiều cho ông chủ. Là cháu con của các Đấng Cha Ông tử vì đạo, phải chăng mỗi năm một lần chúng ta ngẫng đầu hãnh diện, rồi thôi. Người Pháp có câu: “Tel père, tel fils”: cha nào con nấy. Cha ông Việt Nam cũng có câu: “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”. Nhưng xem ra, nếu đem so sánh cuộc sống của chúng ta với cha ông tử vì đạo, thì phải đặt dấu hỏi nghi ngờ, vì rất ít những nét tương đồng trong thực thi bác ái và đời sống Đức Tin. Có khi chẳng có dấu vết tương đồng nào: sa hoa, ích kỷ, tham lam, không chút từ tâm trước đồng lọai, hèn nhát, ngại ngùng, mặc cảm hoặc không dám tuyên Danh Chúa, không dám cho thấy mình là Kitô-hữu, dù đó chỉ là làm dấu Thánh Giá trong bữa ăn, hoặc ghi “Thiên Chúa Giáo” trong lý lịch. Cha Ông đã chết để truyền lòng kiên vững Đức Tin và Đức Ái cho chúng ta; đến lượt chúng ta lại truyền cho con cháu sự hèn nhát, khô khan nguội lạnh, tính ích kỷ, có khi còn tệ hại hơn những người tuy vô thần, tuy chống đối Chúa và Giáo Hội, nhưng vẫn còn biết thương xót đồng loại.
XÉT MÌNH
Nếu trong cuộc sống không có nhiều những giây phút nhìn lại đời mình, nhìn lại những thành quả có được, để tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa và mục đích của những thành quả nầy, thì chí ít trong những ngày cuối năm Phụng Vụ, mà Giáo Hội hướng chúng ta đến cái nhìn cánh chung, chúng ta cũng phải “bắt tay lên trán” mà gẫm suy, xét mình trước lương tâm, trước Chúa, với trọn Đức Tin. Nếu chân thành, có lẽ chúng ta sẽ ngao ngán lắc đầu với cuộc sống của bản thân mình: “Tôi là ai, mà còn trần gian thế !?!”
Ân sủng của Thiên Chúa được Chúa Giêsu ví như những nén bạc trao cho con người : người nhận năm nén: TN33-A32
Ân sủng của Thiên Chúa được Chúa Giêsu ví như những nén bạc trao cho con người : người nhận năm nén, người nhận hai nén và người nhận một nén, tùy theo khả năng mà Thiên Chúa trao cho, chứ Ngài không tùy tiện trao năm nén cho người chỉ có khả năng làm lợi hai nén. Nhưng dù mỗi người trong chúng ta có nhận bao nhiêu nén đi chăng nữa, thì cũng là đã nhận nén bạc mà Thiên Chúa đã trao cho để với mục đích làm lợi cho chính bản thân mình.
Chúa Giêsu tùy khả năng của mỗi người mà trao cho họ nén bạc, để họ tùy theo khả năng và nén bạc được trao mà làm sinh lợi cho Ngài thêm những nén bạc khác :
- Có những người được ơn tình nguyện đi phục vụ các bệnh nhân bị nhiễm HIV, họ đã làm lợi thêm những nén bạc khác bằng hành động phục vụ của mình.
- Có những người tình nguyện vào vùng sâu vùng xa, để đem ánh sáng văn hóa đến cho những trẻ em và những người không có điều kiện đến trường, họ đang làm lợi thêm những nén bạc khác bằng hành động tự nguyện hy sinh của mình.
- Có những người dù đang thiếu thốn nhưng vẫn cứ vui vẻ chia sẻ những gì mình có cho người không có, họ đang làm lợi thêm những nén bạc khác cho Thiên Chúa...
Anh chị em thân mến,
Có những người lại đem nén bạc mà Thiên Chúa trao cho chôn giấu trong đất, họ là những người không thấy được sự tín nhiệm của Thiên Chúa dành cho mình, họ đem ân sủng chôn vùi trong trong những tham lam dục vọng của họ, khi mà chung quanh họ có rất nhiều người đang cần đến “đồng tiền ân sủng” của họ để có chút an vui và hy vọng.
Ví dụ nén bạc là cách giảng dạy của Chúa Giêsu, để cho ai ai cũng hiểu được và trân quý ân sủng của Thiên Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta.
Nhận năm nén, hai nén hoặc chỉ một nén đều không quan trọng, cái quan trọng là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần phải nổ lực, chớp thời cơ để làm lợi thêm nén bạc nữa, đó chính là điểm chính yêu mà Chúa Giêsu muốn dạy dỗ chúng ta qua dụ ngôn nén bạc này.
Câu hỏi gợi ý :
1. Có lúc nào bạn nghĩ rằng Thiên Chúa đã trao cho mình năm nén bạc không ?
2. Trong những lúc gặp hoàn cảnh khó khăn, bạn có nghĩ rằng mình là người may mắn nhất vì đang giữ nén bạc của Thiên Chúa trong mình ?
3. Theo bạn hiểu, thế nào là phung phí ân sủng của Thiên Chúa ?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 33 thường niên tại nhà thờ Thánh Tâm.
“Được giao ít mà anh đã trung thành, hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.”
Bạn thân mến,
Có lúc nào bạn nghĩ mình được Chúa trao cho mấy nén bạc không ? Tôi tin chắc rằng, cũng có: TN33-A33
Có lúc nào bạn nghĩ mình được Chúa trao cho mấy nén bạc không ? Tôi tin chắc rằng, cũng có lúc trong cuộc sống bạn có nghĩ đến điều ấy, nhưng vẫn luôn khiêm tốn chỉ thấy Chúa trao cho mình chỉ một nén mà thôi, bởi vì thân phận của bạn, nghề nghiệp của bạn mà bạn phải nghĩ như thế. Nhưng dù sao đi nữa, dù một nén bạc nhưng bạn không đem nó chôn giấu trong đất là được rồi.
Chức vụ và trách nhiệm là nén bạc mà Chúa Giê-su trao phó cho bạn và tôi, tùy theo khả năng của mỗi người mà Chúa trao cho họ, nhưng có một điều mà bạn và tôi phải để ý là: Chúa Giê-su không đem năm nén bạc (chức vụ và trách nhiệm cao) trao cho người không có khả năng làm lợi thêm năm nén, và trong thực tế nếu có xảy ra như thế thì đa phần là do mưu mô, bè phái tạo ra, những người vô tài mà chức chức vụ cao này thì trước sau gì cũng kiêu ngạo và làm thiệt hại cho người khác, bởi vì họ chỉ sống cho mình mà thôi. Nhưng Chúa Giê-su có thể đem một nén bạc (chức vụ và trách nhiệm thấp) trao cho người rất có khả năng và tài cán, để thử thách và trui luyện lòng khiêm tốn của họ, bởi vì khi bạn có tài mà chỉ nhận được một chức vụ không ra gì, thì bạn dễ dàng phê bình người khác và có khi bất mãn...
Ông chủ -Chúa Giê-su- chỉ trao cho bạn một nén bạc mà thôi, ít quá so với tài năng của bạn, nhưng nếu bạn vui vẻ chấp nhận, có tâm hồn yêu mến ông chủ và công việc của mình, thì chắc chắn bạn sẽ tìm cách làm lợi thêm một nén nữa. Vâng, chỉ làm lợi thêm một nén thôi, so với tiền bạc đầy kho của ông chủ thì chẳng là gì cả, nhưng ông chủ rất vui mừng, vì bạn đã tỏ cho ông chủ thấy lòng trung tín của bạn, ông chủ vui mừng vì bạn là người tôi tớ trung nghĩa. Hạnh phúc lắm, vì bạn sẽ được nghe lời nói yêu thương và tín nhiệm của Chúa Giê-su: “Được giao ít mà anh đã trung thành, hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.”
Bạn thân mến,
Ý thức mình là một tôi tớ vô dụng của Chúa Giê-su để chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống, thì dù cho Ngài chỉ trao cho một nén bạc mà thôi, thì lương tâm, lòng trung tín và nghĩa vụ cũng thôi thúc chúng ta phải chu toàn bổn phận, làm lời thêm một nén bạc nữa cho ông chủ của mình, và đó là thước đo lòng của một tôi tớ với ông chủ của mình.
Không nhìn người khác được trao năm nén bạc mà so đo phân bì, bởi vì ai cũng có trách nhiệm của họ, còn bạn và tôi hãy chú tâm làm lời thêm một nén nữa cho Chúa Giê-su –ông chủ lớn- của chúng ta.
Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được thành công, may mắn và trở nên hữu ích cho đời, TN33-A34
Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được thành công, may mắn và trở nên hữu ích cho đời, cho bản thân, cho người khác. Đối với Kitô hữu sống bình thường, sống để làm giầu, sống bon chen và tất bật suốt ngày để mong có nhiều lợi nhuận.Đó là mối nguy hiểm cho một con người bất toàn bởi vì người yêu mến Chúa chỉ cần một việc hoàn toàn cho Chúa cũng là một mùa bội thu.
Vâng, những bài đọc của những ngày Chúa nhật cuối năm phụng vụ đều hướng chúng ta về ngày cánh chung. Do đó, các bài đọc, đặc biệt bài Tin Mừng luôn cảnh tỉnh chúng ta về ngày tận cùng của nhân loại, của con người. Tin mừng đưa ra những dụ ngôn như Nước Trời là viên ngọc quý, là bữa tiệc, là mẻ cá, là mười cô trinh nữ , là người quản lý bất lương vv…Tất cả những dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra nhằm đánh thức con người, thức tỉnh con người :” Hãy sẵn sàng và tỉnh thức “. Con người không biết lúc nào mình chết, nên thái độ con người phải có là khôn ngoan, tỉnh thức và sẵn sàng ra đi khi Chúa mời gọi. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh ba con người. Tất cả ba người này đều được Chúa trao cho vốn liếng tùy theo khả năng của mình. Chúa mời gọi họ hãy chăm chỉ làm việc, làm lợi cho bản thân và đặc biệt cho Chúa. Bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi của con người là phải siêng năng, cần mẫn, tận tụy làm lời số vốn được ông chủ trao phó. Con người không được làm biếng, ngồi im một chỗ, bất động không chịu làm lời. Hành động im lìm, bất động và thái độ lười biếng sẽ bị ông chủ nghĩa là Chúa chê trách:” Đầy tớ vô dụng “ và sẽ bị lấy hết những gì người này đang có, đang thụ đắc vv…Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay là những đầy tớ trung tín, biết chịu khó làm lời những gì Chúa trao sẽ được Ngài trọng thưởng, ban cho nhiều hơn và trao phó thêm những trách nhiệm cao quý khác. Ngược lại, đầy tớ biếng nhác, phán đoán, phân định theo ý của mình sẽ bị lấy đi tất cả và bị quăng vào nơi tối tăm khóc lóc. Sự tương phản ấy cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, sự khôn ngoan của Ngài và Lòng Thương Xót của Ngài đối với những ai biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống của mình.
Đầy tớ nào biết quảng đại, trung tín với chủ sẽ luôn quy hướng con người của mình, hành động của mình, những gì chủ trao cho mình về ông chủ, ngoan ngoãn làm theo ý ông chủ bởi biết rằng ông chủ yêu thương mình, không bao giờ chất gánh nặng trên đôi vai của mình, trái lại đầy tớ vô dụng chỉ biết quy hướng về mình, ích kỷ, ghen tương nên nghĩ sai, phán đoán sai ông chủ nên đã không làm theo ý của ông chủ.
Là môn đệ của Chúa, Chúa trao cho chúng ta những nén bạc nghĩa là ân huệ của Ngài. Chúa ban cho chúng ta trí khôn, tài năng, sức khỏe, những ơn cần thiết tuy nhiên chúng ta đã dùng những nén bạc Chúa trao như những đầy tớ khôn ngoan hay như tên đầy tớ vô dụng ?
Tất cả cho Chúa, tất cả quy hướng về Ngài.Chúng ta sẽ mau mắn vâng lời Ngài, làm lợi cho Ngài, cho bản thân, cho tha nhân mà không ích kỷ, ghen tỵ và làm biếng, ù lì không làm lợi cho Thiên Chúa và mọi người vv…
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những Vị tiền bối đã xây nên Giáo Hội của Chúa ở Việt Nam đúng như nhà sử học Tertullien đã viết :” Dòng máu của các Thánh Tử Đạo đã làm nẩy sinh các tín hữu “. Xin cho Giáo Hội Việt Nam luôn phát triển không ngừng noi gương các anh hùng Tử Đạo đã can đảm xây dựng Hội Thánh Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con biết nhìn ra muôn vàn hồng ân Chúa đã ban cho chúng con và để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa không ngừng trong mọi hoàn cảnh.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao người được trao một nén bạc lại đem chôn nén bạc đó ở dưới đất ? 2.Chúa đòi hỏi các đầy tớ phải như thế nào ? 3.Ông chủ ở đây là ai ? 4.Chúa muốn người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào ?
Tất cả chúng ta đều là những người tôi tớ của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài đã: TN33-A35
Tất cả chúng ta đều là những người tôi tớ của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài đã trao gửi. Những nén bạc ấy chính là thân xác và linh hồn, thời gian và tài năng. Nói tóm lại, là tất cả những gì chúng ta đang có và đang quản lý.
Đúng thế, tất cả không phải là của riêng chúng ta, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài trao gửi và cho chúng ta vay mượn trong một thời gian nào đó, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Những sự anh em có, há chẳng phải là đã nhận lãnh hay sao? Và nếu đã nhận lãnh, thì tại sao anh em lại tự phụ, như không cần nhận lãnh.
Chính vì thế, chúng ta không được toàn quyền sử dụng đã đành, mà còn phải chịu trách nhiệm vễ những nén bạc ấy. Chẳng hạn với thân xác, chúng ta không được ăn uống quá độ, chè chén say sưa có hại cho sức khỏe, cũng như không được hủy hoại thân xác mình, hay tự ý đi tìm cái chết.
Với linh hồn, chúng ta phải cương quyết chiến đấu, đừng để cho sự sống ơn sủng mỗi ngày một tàn lụi. Chúng ta phải dứt khoát khử trừ tội lỗi và làm cho linh hồn mình được hoàn thiện, nhờ Lời Chúa, nhờ các bí tích và nhờ những tâm tình cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa.
Tuy nhiên, điều quan trọng, đó là một ngày kia chúng ta sẽ phải tính sồ cuộc đời trước tôn nhan Chúa. Chúng ta không biết sự việc này sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ kết thúc cuộc đời, để rồi chúng ta sẽ phải đối diện với lương tâm và với chính Thiên Chúa.
Thế nhưng, đó lại là một sự kện chắc chắn, như một câu danh ngôn đã diễn tả: Sự chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Hay như chúng ta cũng thường nói: Đã là người thì ai cũng phải chết.
Đó là qui luật chung của muôn đời. Và sau cái chết sẽ là cuộc phán xét. Đây là một cuộc phán xét thật công bằng và chính xác. Cuốn sổ cuộc đời chúng ta được mở rộng, trong đó mọi sự đều được ghi chép. Khi vị thẩm phán ngự tòa, thì mọi bí ẩn sẽ bị lộ ra, không tài nào che dấu nổi.
Chính vì thế, chúng ta phải quyết tâm làm phát triển và sinh lời cho những nén bạc Chúa đã trao gửi, bằng cách thực hiện những hành động bác ái yêu thương, bởi vì đó chính là những vị trạng sư âm thầm và không tên, nhưng sẽ bào chữa cho chúng ta trước tòa án tối cao của Thiên Chúa.
Đồng thời, bằng cách trung thành với những công việc bổn phận của mình, tùy theo vai trò, tùy theo đấng bậc, tùy theo chức vụ mình nắm giữ trong cuộc sống. Và sau cùng, bằng cách sử dụng thời giờ một cách đúng đắn, vì thời giờ của chúng ta đã được cân đo đong đếm. Hãy sử dụng thế nào để đem lại lợi ích cho bản thân và cho người khác. Nếu chúng ta quản lý tốt, chắc chắn chúng ta sẽ không phải run sợ vào giây phút tính sổ cuộc đời. Trong giây phút trọng đại này, giây phút có tính cách ấn định số phận đời đời của chúng ta, mọi bạn hữu, dù thân tình đến đâu chăng nữa, cũng sẽ lìa bỏ chúng ta, chỉ những việc lành phúc đứ mới đi theo chúng ta mà thôi.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể lại rằng: Người kia phải ra trước tòa Thiên Chúa trong ngày sau hết. Anh bạn thứ nhất thấy vậy vội vã bỏ chia tay với người ấy. Anh bạn thứ hai bước theo người ấy, nhưng đã khựng lại khi đứng trước khung cửa hẹp của cái chết. Trong khi đó anh bạn thứ đã cùng đi với người ấy đến trước tôn nhan Chúa, trình bày những lý chứng và cứu thoát người ấy khỏi án phạt đời đời.
Người bạn thứ nhất là tiền bạc vật chất. Người bạn thứ hai là cha mẹ và họ hàng thân thích. Còn người bạn thứ ba, luôn trung thành và bào chữa cho chúng ta, đó chính là những hành động bác ái yêu thương.
Hãy làm cho những nén bạc Chúa đã trao gửi được sinh lời, nhờ đó giây phút chúng ta tính sổ cuộc đời với Chúa sẽ không phải là giây phút bẽ bàng và cay đắng, nhưng sẽ là giây phút mừng vui và hạnh phúc.
Phải sợ Thiên Chúa nếu không phải là Thiên Chúa. Nhưng có sự sợ hãi tốt và có sự sợ hãi: TN33-A36
Phải sợ Thiên Chúa nếu không phải là Thiên Chúa. Nhưng có sự sợ hãi tốt và có sự sợ hãi không tốt. Dụ ngôn ngày hôm nay là một bài học nói về hai nỗi sự hãi này. Điều cốt yếu nằm ở trong cuộc đối thoại giữa người chủ với người đầy tớ thứ ba, tức người tỏ ra sợ hãi.
- Thưa ông chủ, tôi biết ông chủ và tôi sợ ông. Tôi đã đem đi giấu dưới đất cái mà ông đã giao cho tôi.
- A! Ngươi biết ta sao?
Điều bi đát chính là việc người đầy tớ biết sai về ông chủ của mình. Cho nên một số tín hữu nghĩ rằng Thiên Chúa là vị quan toà tỉ mỉ và khó tính mà nhất thiết người ta đừng gây sự với Ngài. Người đầy tớ xấu nghĩ tốt hơn cả là sinh sự với Ngài càng ít càng tốt và làm hết cách để tránh những phiền toái.
Đó là sự sợ hãi xấu. Nó vô hiệu hoá, nó làm cho mình sống một cách tiêu cực: nếu tôi nói điều này, nếu tôi nói điều kia, điều gì sẽ xẩy đến cho tôi? Chúng ta ẩn mình trong những điều chắc chắn: điều gì có tính cách bó buộc?
Nhưng chúng ta đã chẳng nhận lãnh đức tin để sống tối đa hay sao? Sống hết sức tích cực. Chúng ta chẳng có Tin Mừng để thấm nhiễm Tin Mừng vào trong các tư tưởng, các hành vi của chúng ta và biết điều gì làm Thiên Chúa vui lòng hay sao? Chúng ta chẳng có các bí tích để mạnh mẽ đương đầu với cuộc sống hay sao? Tất cả những điều đó đôi khi im lìm như một kho tàng bị che giấu. Chúng ta không dám mạo hiểm, sự thực hiện các sáng kiến, những dấn thân có đôi chút tàn bạo. Nếu tôi mất đức tin vào đó thì sao? Nếu tôi để cho nhà của tôi bị xâm nhập thì sao? Nếu tôi không còn tìm ra thì giờ để cầu nguyện thì sao? Nếu tôi không có trong tay đủ tiền bạc thì sao? Và nếu ông chủ xét đoán tôi thì sao?
Còn biết bao nhiêu chữ nếu nữa... Cẩn trọng là tốt, nhưng không thoải mái. Càng đưa ra những giả thiết như thế, điều mà chúng ta gọi là cẩn trọng chỉ còn là sự sợ hãi mà thôi. Như thế thì cuộc sống Kitô hữu không nói gì về Chúa Kitô cả! Những người Kitô hữu ở trong một toà nhà, đi làm việc, đức tin của họ không lan truyền, không gây ngạc nhiên, không thu hút, thì đức tin đó đóng kén trong sự chờ đợi đầy sợ hãi và tầm thường. Văn hào Soljenitsyne nói “Tất cả chúng ta bị mê hoặc chờ đợi điều gì đó đến riêng rẽ; không, không có gì đén riêng rẽ cả”.
Các thánh không chờ đợi, các ngài nhận biết Thiên Chúa, cá ngài biết yêu thương nhau, và cái nhìn vào Chúa biến các ngài thành những nhà hoạt động và táo bạo. Các thánh cũng sợ, nhưng đó là sự sợ hãi đáng ca ngợi! Sợ được yêu thương đến độ đó và không yêu thương cho đủ. Nỗi sợ của thánh Vincentê Phaolô: “Ngài có thể làm gì hơn nữa? Người ta hỏi Ngài. –Nhiều hơn thế nữa”.
Nhiều hơn thế nữa. Đó là điều mà ông chủ chờ đợi nơi người đầy tớ sợ hãi, chứ không phải là điều tối thiểu! Chúng ta được trao ban một cuộc sống chứ không phải hai để sống Tin Mừng thực sự, để chứng tỏ rằng Thiên Chúa hiện hữu, rằng Ngài muốn chúng ta tin tưởng, hoạt động.
Ông chủ nói: “Khi trở về, tôi muốn thu lại tiền của tôi cùng với số tiền lời”. Vào cuối cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa sẽ nhìn xem điều gì đã phát sinh từ sự sáng tạo và tình yêu trong cuộc sống mà Ngài đã giao phó cho chúng ta. Nỗi sợ duy nhất của người Kitô hữu chính là không làm cho vốn liếng năm tháng của chúng ta sinh hoa kết quả cho đủ.
Câu chuyện do Chúa Giêsu đặt ra về việc sử dụng các nén bạc là một dụ ngôn tiêu biểu chứ: TN33-A37
Câu chuyện do Chúa Giêsu đặt ra về việc sử dụng các nén bạc là một dụ ngôn tiêu biểu chứ không phải là một ẩn dụ. Dụ ngôn là một so sánh toàn thể, cụ thể và đầy hình ảnh, cố ý giúp người ta hiểu một điều giảng dạy. Không nên xét quá kỹ về mỗi chi tiết, nhưng phải tìm bài học toát ra từ toàn thể, ẩn dụ là một số hình ảnh (sắp đặt thành một câu chuyện hy có khi không sắp đặt) nối tiếp nhau, mỗi một yếu tố đều tương ứng với các chi tiết của ý tưởng muốn diễn tả. Dụ ngôn các nén bạc đòi hỏi một cách hiểu toàn thể để rút ra một bài học lớn. Không nên cắt nghĩa chi tiết để rút ra các kết luận nhỏ; bài học lớn mà Chúa Giêsu muốn trình bày như sau: người môn đệ phải bày tỏ lòng trung thành tích cực phục vụ Thiên Chúa, ngược với sự thụ động lười biếng đồng nghĩa với bất trung, Người Kitô hữu chân chính sống cả đời trong sự trông đợi tích cực và có trách nhiệm. Việc so sánh ông chủ hà khắc đối với người làm có thể làm cho cảm xúc Kitô giáo của chúng ta thấy khó chịu. Chỉ cần nhớ lại Chúa Giêsu dùng các điều thấy trong lối sống thời Ngài mà so sánh; Ngài không nói nó xấu hay tốt, Ngài chỉ dùng như những sự kiện thấy được để rút ra những bài học. Trong trường hợp này, Ngài đặt ra một câu chuyện có thể tin được theo lối sống và tập tục thời ấy và qua đó Ngài rút ra 1 giáo huấn. Chúa nhấn mạnh ở điểm nào?
1) Ở sự nhanh nhẹn của các tôi tớ tốt. Họ ra đi ngay làm lợi số vốn được trao phó. Không những số tiền trao cho họ khiến nảy sinh ý thức trách nhiệm, nhưng tức thì gây nên ý muốn hành động. Hơn nữa họ không sợ phiền hà. Người tôi tớ thứ nhất và thứ hai ra đi và làm số vốn lợi gấp đôi. Việc phục vụ Thiên Chúa đòi hỏi người ta không được an thân trong sự bảo đảm của cái đã có. Không có gì là thực sự nắm chắc. Người ta chỉ duy trì được cái đang có bằng cách gia tăng nó lên. Cuộc sống siêu nhiên ở tron thế động. Không ngơi nghỉ, không khép mình ở một mức tưởng đã đạt tới. Vì là một cuộc sống, nó đòi hỏi phải tăng trưởng mà không mất đi những gì nuôi dưỡng nó. Nhanh nhẹn là ở chỗ không mất thì giờ trong những điều khởi sự và không thối chí cố gắng liên tục.
2) Chúa nhấn mạnh về nguy hiểm của sự lười biếng tinh thần. Nó bị kết án thực sự: Người tôi tớ lười biếng không làm mất nén bạc được trao phó, anh ta trả lại cho ông chủ nhưng anh ta phạm lỗi lười biếng không chịu hoạt động. Có một thái độ lười biếng tinh thần cứ nghĩ Thiên Chúa không khó tính và chúng ta ra sao Người sẽ chấp nhận như vậy, miễn là chúng ta làm cho Người một vài điều tối thiểu. Như thế là xét sai vấn đề. Thiên Chúa để cho chúng ta chịu trách nhiệm về những gì cuộc sống chúng ta đã làm hay không làm được. Không tiến bộ trong đức tin- đức mến, trong hoạt động (nếu ơn gọi chúng ta hoạt động) bị xét xử như một tội bất trung. Điều chính không phải làm ra được nhiều. Thiên Chúa ban cho mỗi người tùy theo khả năng khác nhau, Ngài cũng chờ đợi những thành quả khác nhau. Người đã nhận nhiều, sẽ phải trả nhiều hơn kẻ nhận ít. Nhưng cả hai phải tích cực phát triển những ân huệ Chúa đã giao phó.
Một câu hỏi cuối. Tại sao Thiên Chúa là Đấng có tình thương cứu độ vô biên và nhưng không lại đòi hỏi con người đáp ứng tích cực? Vì Ngài không muốn cứu con người mà không có phần đóng góp của con người. Ngài đã tạo con người có tự do, Ngài muốn con người có trách nhiệm. Đó chẳng phải là yêu sách tiên quyết của một tương quan yêu thương sao?
Chỉ còn vài giây trong một trận bóng đá, trọng tài đã chạy theo banh vào giữa vùng sân nơi có: TN33-A38
Chỉ còn vài giây trong một trận bóng đá, trọng tài đã chạy theo banh vào giữa vùng sân nơi có đội banh cuối cùng sẽ bị loại, họ đã đá một trận ra trò để tới gôn bên kia. Người tiền vệ đã thay đổi lối chơi đá một quả vào vùng cuối sân nhưng bóng bị chận lại, họ đã mất một cơ hội để chiến thắng. Một vị giáo sư trong lớp lịch sử đã buộc học sinh phải làm một bài với một trang giấy không quá năm ngàn từ. Một sinh viên đã quyết định viết một ngàn từ thế là mất điểm và anh ta bị điểm kém.
Điều tốt hơn là làm những gì đúng hơn là làm những gì chúng ta muốn. Từ bài Phúc âm ngày hôm nay chúng ta có thể học được rằng, sẽ muốn làm những gì là công chính trong mắt của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không muốn làm những điều lớn lao vì Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ muốn làm bất cứ điều gì mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm. Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta sẽ trở thành một người lớn lao trong Giáo hội, được phong thánh trong một thời gian ngắn, sau khi chúng ta chết, được tôn kính bởi toàn thể những người công giáo trên khắp thế giới, đó là giống như người mà Phúc Âm nói đến, người đã được trao cho năm nén bạc.
Mặt khác, có lẽ đời sống chúng ta không có gì đặc biệt. Đó là những dáng vẻ xuất hiện bên ngoài, chúng ta cũng nhỏ bé chẳng khác gì dân chúng sống chung quanh chúng ta, chúng ta làm việc với những người khác, chúng ta cũng xếp hàng tại các siêu thị. Điều quan trọng là chúng ta đã cố gắng sống theo ý muốn của Thiên Chúa, để tôn kính và hoàn tất ơn gọi của chúng ta trong từng chi tiết của đời sống, muốn trung thành sốt sắng trong tôn giáo của mình. Chúng ta giống như những người trong Phúc âm đã được trao cho không phải là năm nén, nhưng chỉ là hai nén.
Một người phụ nữ mà đời sống của bà không có gì đặc biệt, bà giống như nhân vật trong bài đọc I của ngày hôm nay, một người vợ giá trị sẽ không bao giờ được xuất hiện trên TV trong sô diễn “60 phút”. Người đàn ông có thể là một người chồng trung thành, tin tưởng trao phó trái tim của anh cho vợ mình, nhưng sẽ không bao giờ xuất hiện trong tạp chí “Dân chúng”. Có phải điều đó sẽ không thành vấn đề, bao lâu những người này biết họ được Thiên Chúa yêu mến và thân mật với họ? Theo Phúc âm, Thiên Chúa hài lòng với người tôi tớ có hai nén, vì anh ta đã là lợi được hai nén khác giống như người có năm nén đã làm lợi năm nén khác.
Điểm sai lạc là sống giống như một người trong Phúc âm, người nhận được một nén và đã chôn nó vào đất. Anh ta biện minh rằng anh ta sợ chủ của mình. Sợ hãi đã ngăn chặn anh ta làm bất cứ điều gì, hoặc không làm bất cứ điều gì, mặc dù anh ta là một người khó khăn. Chúng ta có thể phỏng đoán ông chủ là một người khoan dung cho những người thất bại, nhưng ông không thể nào kiên nhẫn với sự kiện là người tôi tớ không nỗ lực làm việc.
Người chủ hiển nhiên là không cần những nén bạc. Cuối cùng ông cũng cho họ, những người làm lợi năm nén hay người làm lợi hai nén. Sự thật là Thiên Chúa không cần chúng ta. Ngài có thể thực hiện ý muốn của Ngài trong tích tắc, nếu Ngài muốn điều ấy. Vì Thiên Chúa chọn và muốn cho chúng ta ân sủng của Ngài. Chúng ta phải hiểu rằng mọi thứ là ân sủng đến từ Thiên Chúa: đời sống của chúng ta, gia đình, đức tin, tài năng, ngay cả những khao khát và yêu mến phục vụ Thiên Chúa của chúng ta nữa. Mọi sự là đặc ân, nhưng chúng là một đặc ân được nhìn theo ý muốn của Thiên Chúa, vì vinh quang của Ngài, vì sự lợi ích cho dân của Người.
Thật sự trong một ý nghĩa chúng ta được gọi để làm một điều lớn lao cho Thiên Chúa bởi vì bất cứ khi nào chúng ta làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Thiên Chúa thì không có vấn đề nào là nhỏ hoặc là tầm thường, nếu nó xuất hiện trước mặt con người là như thế, nhưng thật ra đó là một điều rất lớn lao.
Tôi rất ngạc nhiên không hiểu làm thế nào những cuộc cạnh tranh cờ bạc trên truyền hình lại phổ thông: TN33-A39
Tơi rất ngạc nhin khơng hiểu lm thế no những cuộc cạnh tranh cờ bạc trn truyền hình lại phổ thông đến như vậy? Có tin đồn người ta sắp thiết lập một knh truyền hình mới dnh ring cho cc con bạc đỏ đen. Nếu đúng như vậy thì quả l tơi lạc hậu thơng tin. Cĩ lẽ knh đó đ được thực hiện rồi. Vì tuần vừa qua tơi ngồi bn một người đn ơng trn my bay v ơng ta chơi video game suốt mấy tiếng đồng hồ ở chiếc vi tính sch tay, r lại mấy vn bi đ pht tuyến trn ti vi. Ơng ta cĩ vẻ hi lịng v đầy nhiệt huyết. Một lần tơi nghe ơng hơ to “Yeah” (trng rồi), lc ơng thắng vn bi. Tơi tự nhận đôi lúc cũng ch ý đến các cao điểm của ơng. Một lần tôi định bụng xi ơng chơi ba l bi thay vì hai. Thực tế, cĩ khối lượng khổng lồ khn giả coi cc pha trình diễn v trị chơi đen đỏ ấy. Tại sao vậy ? Điều gì hấp dẫn họ ?
Tơi biết một buổi tối mình đ bị cuốn ht vo trị chơi ở một lần pht sĩng. Tơi phải nn lại vi pht vì một người đ đặt cọc tới 30.000 đôla, cho một lần rt bi. Tơi nghĩ mình đ run lắm thì phải. Nhưng ơng ta lại chẳng tỏ dấu gì sợ hi, v tơi hiểu ra ý nghĩa của cụm từ “poker-face” (mặt lạnh như tiền). Vì những liều lĩnh no m người đn ơng dm chấp nhận rủi ro? Tơi chẳng muốn lấy gương cc trị chơi đỏ đen hay các con bạc lm mẫu mực cho nếp sống của chng ta, cc tín hữu Cha Kitơ. Bởi lẽ qu nhiều người hoang phí tiền bạc cĩ hạn của mình vo cc trị chơi vơ bổ. Lại cịn nhiều người khc trở thnh cc con nghiện của thần đỏ đen. Chắc chắn cuộc đời họ, gia đình họ sẽ tan hoang vì con bi hoặc bnh xe may rủi. Tuy nhin, Tin mừng hôm nay có chút dính dáng đến nội dung liều lĩnh : “Nước Trời giống người kia sắp đi xa, gọi đầy tới đến m giao phĩ của cải mình cho họ. Ông đưa cho người ny năm yến, người kia hai yến, người khc nữa một yến, ty khả năng ring mỗi người. Rồi ông ra đi”. R rng, Cha Gi-su muốn dng dụ ngơn song song với cu chuyện bi bạc của thế giới đời thường để mạc khải một chn lý no đó cho chúng ta. Đức tin Ngi để lại trần gian phải được cc tín hữu sử dụng sao cho hợp thnh ý Ngi?
Trong cu truyện Tin mừng, số tiền ơng chủ đ giao mỗi gia nhn rất lớn, nếu tính gi hiện kim thì một yến tương đương với mười lăm năm lao động của một cơng nhn ngho. Hai yến l ba mươi năm lao động. Vậy thì số vốn qu dồi do để các đầy tớ sinh lợi. V sự thật ơng chủ trông đợi họ buơn bn lm ăn cho đến khi ơng trở lại. Cu truyện khơng phải l về ăn chay, hm mình, phạt xc, bc i, từ bỏ hay những chi giống như vậy. Cha Gi-su đ nĩi về cc vấn đề ny ở nhiều đoạn Phc m khc. Ở đây ý tưởng của Cha nhắm l nội dung sinh hoạt kinh tế, buơn bn, lợi lộc v khích lệ các môn đệ tăng trưởng về đng thing ling, sẵn sng liều lĩnh đảm nhận những nguy hiểm vì Danh Ngi. Nếu như Ngi sống ở thời điểm chng ta, cĩ lẽ Ngi cũng dng thí dụ về chuyện bi bạc trong truyền hình m dạy dỗ, chỉ bảo chng ta l cc mơn đệ Ngi phải biết điều hnh “việc lm ăn, sinh sống” khi Ngi vắng mặt.
Dụ ngơn nhắc nhở rằng đức tin chng ta nhận được từ Thin Cha khơng phải l ci bong bĩng dễ vỡ, nĩ cĩ nguồn gốc siu nhin, chắc chắn như nn bạc, chẳng dễ gì m bị ơ nhiễm bởi hồn cảnh của x hội, của những nơi tầm thường. Ngược lại, Cha bảo chng ta phải đầu tư vo đó : Gia đình, trường học, sở lm, chợ ba, vui chơi, ngay cả những chỗ sa đoạ, trc tng, những nơi tội c cĩ tổ chức, những b đảng ăn cướp, giết người. Nĩi cch khc, Cha ban cho chng ta những n huệ, những gi trị cĩ thể đứng vững ngay cả khi thế giới tấn cơng với những thử thách độc c nhất. Dụ ngơn khuyến khích chúng ta dám đảm nhận cc liều lĩnh v đem theo đức tin vo cc sinh hoạt hằng ngy. Chng ta phải dám đứng ra lm nhn chứng cho những điều mình tin. Than ơi, lý thuyết thì mạnh mẽ lắm, tưởng như Nước Trời đ r rng khắp nơi. Nhưng thực tế thì lại tối tăm, ảm đạm vì nếp sống kẻ rao giảng thường khi đi ngược với lời nĩi. Họ tìm kiếm những chi m thế gian ưa chuộng, hưởng thụ những chi m thế gian tìm kiếm. Họ khơng thiếu một sung sướng no m thế gian khao kht : Nh lầu, xe hơi sang trọng, vợ đẹp con khơn, cho nn Lời Cha dạy hai ngn năm xưa vẫn cĩ tính thời sự cho chúng ta hôm nay. Xin đừng nghĩ Tin mừng dạy dỗ người khc, nhưng mỗi linh hồn sa đoạ của chng ta. Khơng cải tổ nếp sống, thì khơng xứng đáng đọc Tin mừng; Vì ngược đời, khĩ nghe.
Thực sự l như thế. Mấy tuần lễ vừa qua, Phụng vụ của Hội thnh cho tín hữu nghe cc bi đọc cĩ tính chất cảnh giác để sẵn sng đón Chúa tới, v sửa soạn cho năm Phụng vụ mới. Chắc chắn năm cũ đang đến hồi kết thc. Cứ như ý tưởng cc bi đọc thì việc Chúa đến bị trì hỗn v cĩ nguy cơ các môn đệ ngủ qun, đng trí, bận rộn vì cc cơng việc trần thế. Năm cơ khờ dại v năm cơ khơn ngoan, chng rể đến muộn. Ơng chủ về trễ. vv Dụ ngơn hơm nay khơng về vấn đề tỉnh thức v sẵn sng nữa m phải thi hnh cc cơng việc Cha giao phĩ. Chng ta phải dồn hết tm lực chu tồn cc bổn phận trong khi chờ đợi Cha trở lại. Chng ta phải dấn thn vo thế giới với lịng tin cậy, tự tin v ngay cả dm liều nếu hồn cảnh địi hỏi.
Điều kh lạ lng l ơng chủ hồn tồn tín nhiệm vo cc đầy tớ. Khi trao ti sản to lớn vo tay họ, ơng khơng cĩ những chỉ dẫn tỉ mỉ phải sử dụng chng ra sa, khi no, bao giờ, lm sao họ buơn bn với số tiền khổng lồ đó. Mỗi yến cn nặng ba mươi lăm ký lơ vng bạc chứ có ít đâu? Cũng vậy, ơn thnh v việc phục vụ của chng ta rất đa dạng v phong ph, chng ta được trao cho cả Nước Trời để lm sinh sơi nảy nở. Chẳng cĩ sứ vụ no, hình thức tông đồ no l nhỏ b, hn km. Người ta phn chia cấp bậc, gi trị việc lm trong Nước Cha. Nhưng thực sự Cha Gi-su tín nhiệm chng ta trong bất cứ cơng việc no, bất cứ đường lối no m chng ta đầu tư sức lực, tiền ti, thời gian nhn Danh Ngi. Ơng chủ giu cĩ trong dụ ngơn chắc chắn biết r cc cơ nguy trong cơng việc lm ăn. Ở thương trường đầy dẫy m mưu, thủ đoạn. Ti sản của ơng cĩ thể mất trắng. Vậy m ơng vẫn trao tiền cho các đầy tớ, trông đợi nhiều lợi nhuận, bất chấp cc nguy hiểm. Vốn liếng ơng trao khơng phải l ít. Một yến tương đương với su ngn ngy cơng. Một năm chỉ cĩ 365 ngy. Ơng cũng r gia nhn thứ ba khơng cĩ khả năng như hai người kia vì đ từng phục vụ trong nh ơng. Tuy nhin, ơng vẫn giao một yến, tức ba mươi lăm ký vng bạc. Quả l mạo hiểm. Đối chiếu với cch Cha tín nhiệm chng ta, những ơn lnh Cha trao trong suốt cuộc đời thì lịng ho hiệp của ơng chủ vẫn cịn thua xa. Người đầy tớ thứ ba sợ hi v bất kính với chủ, khơng nhiệt thnh yu mến chủ, nn đ đo lỗ chơn dấu yến bạc v đ bị chủ đuổi ra khỏi nh, khơng được hưởng yến tiệc mừng chủ trở về. Cũng không được trao phĩ cc trch nhiệm to lớn hơn. Tri lại bị nm ra ngồi khĩc lĩc, nghiến răng. Anh ta mất hết mọi sự trong nh chủ chỉ vì khơng dm chấp nhận liều lĩnh. Số phận cc linh mục, tu sĩ, gio dn cũng vậy. Nếu chng ta khơng dm mạo hiểm vì Nước trời, khơng dm dấn thn phục vụ Ngi thì sẽ cng chung số phận. Do đó, chẳng ai dm vỗ ngực kiu căng, ngồi mt ăn bt vng, rồi chỉ tay năm ngĩn, sai bảo thin hạ. Nhưng khim nhường phục vụ việc nh Cha, tự thn chấp nhận trch nhiệm v chu tồn hồn hảo với hết khả năng, tm tình, lịng mến như hai người gia nhn cịn lại. Phần thưởng chắc chắn l bội hậu.
Nhân đề cập đến vấn đề chờ đợi Cha trở lại, chng ta thường lầm tưởng l tiu cực, bất động, mai phục chờ sẵn, đứng ngồi cc rắc rối. Phải cơng nhận nhiều khi sự rao giảng của cc chủ chăn, thậm chí của Gio hội nhắm hướng ấy. Nhưng chng ta phải dm chấp nhận những thch thức m dụ ngơn hơm nay dạy bảo. Ăn ở lười biếng sẽ chuốc lấy n phạt. Cậy vo hơn hai ngn năm tồn tại chẳng chứng minh được gì. Nĩ khơng phải l thước đo thnh cơng. Ngược lại, thất bại cũng khơng luơn l th thảm nếu chng ta dm mạo hiểm vì Danh Cha Kitơ. Dụ ngôn hôm nay không tính đến lịng sợ hi, v cũng khơng cĩ chỗ cho lười biếng. Thờ ơ những sinh hoạt trần gian m nhiều tu sĩ nam nữ cho l “đầy dẫy cạm bẫy”. Cĩ thể l như vậy. Nhưng dụ ngôn thúc đẩy chng ta dấn thn v thực hnh đức tin của mình. Một số ít được gọi vo đời sống chim niệm trong cc nh Dịng. Cịn phần đông tín hữu phải sống giữa thế gian, chịu đựng thử thch của nĩ, cĩ khi rất khốc liệt. Chúng ta được mời gọi sử dụng những kho tng, những nn bạc Chúa trao, để thay đổi hồn cảnh thế gian, cải tạo sai lầm, ng hầu triều đại Thin Cha mau xuất hiện trong cuộc sống mỗi người. Chng ta phải hoạt động để được hạnh phúc đó, chứ khơng phải bất động ngồi chờ nó đến. Xin đừng nghĩ đức tin của tín hữu mỏng dịn, bởi khơng phải do bn tay con người lm ra. Nĩ l n huệ vững bền Thin Cha ban cho mỗi người. Nĩ l kho tng sung mn v hữu hiệu nếu chng ta biết sử dụng cho chính đáng. Nó sẽ pht huy hiệu quả nếu chng ta thực sự trình by cho thế gian bằng lời nĩi, việc lm chn thật. Nếu chng ta từ chối mạo hiểm đưa đức tin vo thế gian, vì sợ sệt hay ươn lười, thì lm thế no nĩi được mình cĩ đức tin ?
Tơi suy niệm Tin mừng hơm nay với một tờ nhật trình. Tơi vừa đọc Phc m xong, thì tờ bo loan tin một biến cố lớn cho đất nước : B Rosa Parks chết đm hơm qua. B l một khuơn mặt lớn của dn chng Hoa Kỳ. Người ta gọi b l “Mẹ của phong tro quyền dn sự”. Trong những năm năm mươi của thế kỷ trước, b hoạt động mạnh mẽ ở thnh phố Montgomery, tiểu bang Alabama v trong đại hội NAACP ( National Association for Advancement of Colored People = Hiệp hội quốc gia vì sự thăng tiến dn da mu). Khi được yu cầu nhường chỗ trn xe buýt cho một người da trắng, b đ từ chối. Sau ny b cho biết, b qu mệt mỏi vì bị hạ nhục v quấy nhiễu chỉ vì mu da của mình v chịu đựng chế độ phn biệt chủng tộc qu nhiều. Sự phản khng của b đ thắp lửa cho phong tro người Mỹ gốc Phi Chu ở Montgomery. Họ đứng ln tẩy chay xe buýt 381 ngy, kết thc vo 13 thng 11 năm 1956 khi Tồ n Tối Cao (Browder chống Gayle) quyết định bi bỏ chế độ phn biệt chủng tộc trn cc xe chuyn chở cơng cộng thnh phố. Sự chống đối của b v tiếp theo l bắt giữ, t tội, đ biến đổi người thanh nin da đen 26 tuổi tn l Martin Luther King, Jn trở thnh lnh tụ phong tro giải phóng dân da đen, gọi l quyền dn sự quốc gia. Nhưng trước khi cĩ Marin Luther King, Jn thì đ cĩ Rosa Parks.
Lc ny, hnh động ngạo mạn php luật của b Rosa Parks xem ra đơn giản. Nhiều người trong chúng ta đ từng tham gia cc cuộc biểu tình phản đối hình thức ny hay hình thức khc, v đa phần l an tồn. Nhưng ở thập nin 1950 tại Alabama l điều rất liều lĩnh v nguy hiểm. B ta liều mình gặp luật php trừng trị, dn da trắng ght bỏ, thậm chí bị bạo lực trả th. B ta chỉ l khuơn mặt bình thường của một cơng dn, khơng cĩ chức, khơng cĩ quyền, khơng cĩ hậu thuẫn. Nhưng tính nết lại gy nhiều ch ý. Tơi cĩ một tấm ảnh của b lc cầu nguyện. B đứng ở dy ghế nh thờ, nt mặt gi dặn, hai tay đặt ln thanh dựa của chiếc ghế di trước mặt b. Tơi khơng hay mình đóan có trúng không, nhưng tấm ảnh gợi ý đức tin của b mạnh mẽ, lm điểm tựa cho cc hoạt động của b, nĩ trợ gip b tranh đấu cho lẽ phải. Thục vậy, cc nh thờ của người Mỹ gốc da đen Phi châu đ nuơi dưỡng, trợ gip, gy hứng cho phong tro quyền dn sự khắp nước Hoa Kỳ. Ngy nay chng ta được hưởng n huệ của phong tro ấy. Nhưng nĩ khởi sự từ đức tin của người đn b nhỏ b da mu.
Vậy thì b Rosa Parks cĩ bao nhiu yến bạc ? B ta l thần tượng của rất nhiều người Mỹ. Nhưng trong lịng khim tốn của mình, b trả lời : “Một nn”. Tuy nhin với nn ấy b đ lm nổ tung dư luận Mỹ, bắt họ suy nghĩ v trở về đường ngay, lẽ phải. B đ dm chấp nhận rủi ro, đầu tư yến bạc vo x hội phn biệt chủng tộc, mu da, ngơn ngữ. Nếu như cc tín hữu biết noi gương b, sử dụng đức tin của mình cho đúng mức, hẳn tồn thể thế giới trắng vng đen đỏ đều được hưởng lợi lớn lao biết mấy. Ước chi được như vậy. Amen.
Hội Thánh kết thúc năm Phụng Vụ bằng việc suy tôn Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của muôn: TN33-A40
Hội Thánh kết thúc năm Phụng Vụ bằng việc suy tôn Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của muôn loài muôn vật, là Chúa Tể của toàn thể vũ trụ, vì Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời và là Đấng đã cứu chuộc con người và vũ trụ.
Nhìn vào gia đình nhân loại, số người nhìn nhận Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của mình và của vũ trụ còn là thiểu số. Hơn nữa, trong số những người đã nhìn nhận Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua của mình và của vũ trụ thì cũng còn rất nhiều người chưa thật sự “đầu phục” Người, chưa sống đúng tư cách là “con dân”, là “kẻ được cứu” của Chúa. Vì thế mà việc mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa vũ trụ bao giờ cũng mang chiều kích Phúc Âm hóa và Truyền Giáo.
II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Bài đọc 1: Trích Sách Ê-dê-ki-en (34,11-12.15-17): Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên.
11 Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. 12 Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.
15 Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng. 16 Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.
17 Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.”
2.2 Bài đọc 2: Trích Thư 1 Cô-rin-tô (15,20-26.28): Đức Ki-tô trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
20 Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. 21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. 22 Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. 23 Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. 24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.
25 Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. 26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết,
28 Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
2.3 Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (25,31-46): Con Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau.
31 "Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. 32 Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34 Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." 37 Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?" 40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." 41 Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." 44 Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" 45 Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." 46 Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời."
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA
3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Mục Tử nhân lành, hết mực chăm lo cho con cái Người như người chăn chiên tốt lành chăm sóc, qui tụ, tìm kiếm, đưa về, băng bó, chữa lành, vỗ béo và chăn dắt đàn chiên của mình (bài đọc 1).
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho sứ mạng tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần và đưa toàn thể đưa nhân loại về với Cha. Người nắm mọi vương quyền trên trời dưới đất …. cho đến ngày Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (bài đọc 2). Trong ngày ấy Chúa Giê-su Ki-tô tức Con Người sẽ đứng phán xét người lành kẻ dữ để ban thưởng và luận phạt. Tiêu chuẩn cuộc phán xét cuối cùng là lối sống vị tha: "Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế (cho ăn, cho uống, cho mặc, tiếp rước, thăm viếng, hỏi han…) cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy" (bài Phúc âm).
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng cùng hành động với Chúa Cha và Chúa Con để giúp con người nhìn nhận và tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Vua vũ trụ vạn vật. 3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
Mỗi lần chúng ta cho/không cho kẻ đói ăn, cho/không cho kẻ khát uống, cho/không cho kẻ rách rước quần áo, tiếp rước/không tiếp trước khách trọ, thăm viếng/không thăm viếng người đau bệnh, hỏi han/không hỏi han người bị giam cầm là chúng ta đã làm/không làm những việc ấy cho chính Chúa Giê-su Ki-tô vậy.
IV. ĐÁP LẠI THIÊN CHÚA
Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, mỗi người hãy làm 2 việc này:
Việc thứ nhất là khám phá và cảm nghiệm sự chăm sóc mà Thiên Chúa dành cho mình trong đời sống cá nhân và gia đình, trong lãnh vực vật chất, tinh thần và tâm linh.
Việc thứ hai là kiểm điểm xem mình đã cư xử như thế nào với những người xung quanh, nhất là với những người cần đến sự giúp đỡ (về vật chất, tinh thần, thời gian) của mình.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ:
5.1.1 «Thiên Chúa là Mục Tử Nhân Lành vì Người chăm sóc, qui tụ, tìm kiếm, đưa về, băng bó, chữa lành, vỗ béo và chăn dắt đàn chiên của mình.» Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cách riêng cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Giám mục, các linh mục, phó tế và tu sĩ nam nữ, là những người được giao phó sứ mạng chăm lo cho những người khác trong cộng đoàn Dân Chúa, để các ngài chu toàn trách nhiệm nặng nề và cao cả mà Thiên Chúa đã giao cho.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 5.1.2 «Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trên thế gian này để sớm hay muộn họ được ơn nhận ra và đầu phục vương quyền của Chúa Giê-su Ki-tô!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.1.3 «Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu nhất là cho những người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta để họ nhận ra Chúa trong tha nhân, nhất là trong những người cần giúp đỡ!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.1.4 "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính chúng ta và cho những người chỉ biết sống đóng kín, tham lam và ích kỷ, để chúng ta và những người ấy nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của lối sống của mình mà sám hối và hoán cải trong thời gian Thiên Chúa còn nhẫn nại đợi chờ!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 5.2 Có thể dùng Bài Hát này để Câu Nguyện:
LẠY ĐẤNG TÌNH QUÂN (x. GIỜ BÊN CHÚA, trang 95).
ĐK. Lạy Đấng Tình Quân, con tôn thờ. Con nay thuộc về Chúa, Chúa nay thuộc về con, mũi tên nào say đắm, bắn trúng con tim hồng, để từ nay con sống là sống cho, cho tình yêu, và dầu cho con chết, là chết cho, cho tình yêu.
Con xin làm nô lệ của tình yêu. Con xin làm khí cụ của tình yêu. Cho mọi người nhận biết Chúa yêu thương, cho mọi người thức giấc sau đêm trường.
Chúa muốn gì trên bản thể đời con. Chúa muốn gì trên cuộc sống của con. Con chỉ là tay trắng với hư không. Con chỉ là tỳ nữ bao khốn cùng.
Con ước vọng theo Ngài suốt đời con. Xin dâng làm lễ vật cuộc đời con. Trong nguyện cầu thanh vắng với hy sinh, để nên lời ca hát khúc ân tình.
Rất có thể nhiều người trong chúng ta cảm thấy bất bình khi nghe câu chuyện được thánh sử Mát-thêu: TN33-A41
Rất có thể nhiều người trong chúng ta cảm thấy bất bình khi nghe câu chuyện được thánh sử Mát-thêu kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Phải chăng người đầy tớ thứ ba trong câu chuyện đã làm điều gì bất công? Phải chăng anh ta không phải là người quản lý trung thành? Phải chăng anh ta đã không trả lại cho ông chủ tất cả những gì anh ta đã lãnh nhận, chứ không làm sứt mẻ hay mất mát? Vậy, tại sao anh ta đã phải nghe lời kết tội: «Mi là đứa đầy tớ xấu và lười biếng!»
Một lần nữa chúng ta hãy nhìn lại ba người đầy tớ với tư cách của họ. Ông chủ giao phó toàn bộ gia tài cho họ. Ông giao cho họ tất cả những gì ông ta có. Nghĩa là ông chủ tin tưởng hoàn toàn vào họ. Người đầy tớ thứ nhất và thứ hai đã đáp trả lại sự tin tưởng của ông chủ. Họ hiểu ý ông chủ và tự đồng hóa mình với ông. Họ đem hết mọi khả năng của mình ra để làm tăng triển và sinh lời số vốn ông chủ giao phó. Nghĩa là họ đã can đảm đương đầu với mọi thách đố và rủi ro có thể xảy ra để đảm nhận trách nhiệm. Họ đã tìm cách hành động theo đúng với ý muốn và kế hoạch của ông chủ khi giao phó tiền bạc của ông cho họ! Bởi vậy, ông chủ đã thưởng công cho lòng trung thành và sự dấn thân tận tình của họ: «Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ ngươi!» Tiếp đến là người đầy tớ thứ ba; anh ta chỉ muốn «nắm dao đàng chuôi», chỉ muốn nắm lấy phần chắc, chứ không có can đảm liều «dám làm dám chịu». Anh ta sợ vấp phạm phải lầm lỗi. Anh ta chỉ làm có bấy nhiêu, vừa đủ để không một ai có thể phiền trách anh ta được. Anh ta nghĩ: Anh đã nhận một yến, nay anh cũng trả lại một yến, vậy là công bằng: Ông chủ không có quyền đòi hỏi hơn được nữa!
Vì thế, có lẽ trước hết chúng ta có khuynh hướng muốn bênh vực cho người đầy tớ thứ ba này: Anh ta đã không làm gì thất tín với tiền của ông chủ, cũng không phung phí xa hoa số tiền đã được giao phó, chẳng hạn như trường hợp đứa con hoang đường ( x. Lc 15,11-32). Ðể tránh nguy hiểm có thể bị tiêu hao mất mát, anh ta đã đào lỗ chôn số tiền ông chủ giao cho.
Thế nhưng, chính thái độ đó đã tố cáo tội của anh: Ông chủ đã đặt hết tin tưởng vào anh và giao phó tiền bạc cho anh; nhưng anh ta đã đáp trả lại sự tin tưởng to lớn đó bằng thái độ sợ hãi và nghi kỵ. Ông chủ đã tạo cho anh một vận may hiếm có, nhưng anh ta không có can đảm tin tưởng vào chủ mình để nắm bắt lấy vận may đó. Ông chủ đã tỏ ra hết lòng quảng đại với anh, nhưng anh đã chẳng những nghi ngờ sự quảng đại đó của ông chủ mà còn nặng lời phê bình chỉ trích ông nữa: «Tôi biết ông là người hà khắc, ông gặt chỗ ông không gieo, ông thu nơi ông không vãi…!» Nói cách khác, người đầy tớ đã phê phán ông chủ theo chuẩn độ của con tim bé nhỏ hẹp hòi của mình, và qua đó chứng tỏ anh ta không đủ khả năng để đáp trả lại cách quảng đại sự độ lượng của ông chủ. Bởi vậy, để cho chắc chắn một trăm phần trăm, anh ta đã khoanh tay ngồi chờ, chứ không động đậy chân tay, hầu không sợ bị mất mát gì cả. Nhưng chính do thái độ đó, anh ta đã đánh mất tất cả: «Các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến», tức đưa cho người đầy tớ can đảm đã biết đáp trả lòng tin tưởng của ông chủ nhiều nhất, tức đưa cho người «đã không để cho các ơn huệ của Thiên Chúa ban trở thành vô ích» (2Cr 6,1).
Sự phán quyết như trên muốn nói cho chúng ta điều gì?
Với chúng ta trong tư cách là những người Kitô hữu cá nhân, điều đó nói rằng: Người trung tín phải là người can đảm bước theo sát chân Ðức Giêsu. Sự lo lắng sợ hãi và sự thiếu can đảm là những thái độ đi ngược lại với các nhân đức Kitô giáo.
Với chúng ta trong tư cách là Giáo Hội của Ðức Kitô, điều đó nói rằng: Chỉ lo lắng bảo vệ và gìn giữ những gia sản ơn thánh được giao phó, là chưa đủ. Chúng ta không được phép che đậy và trói buộc Tin Mừng Ðức Giêsu, Sứ điệp sống động, những yến bạc của Ðức tin đã được giao phó, trong những hòm thủy tinh đóng kín. Chúng ta phải can đảm dấn thân đầu tư số vốn của Sứ điệp Kitô giáo để sinh lợi lộc cho Giáo Hội. Chúng ta phải gieo vãi những hạt giống của Thiên Chúa vào trong những thửa đất tốt để mang lại hoa trái. Nếu không, khi Ðức Chúa trở lại, Người sẽ tra hỏi chúng ta: Những yến bạc mà Ta đã giao phó cho các ngươi, nay đã lời lãi thế nào rồi? Tại sao các ngươi lại thiếu tin tưởng vào Ta và vào chính mình, mặc dù Ta từng căn dặn khi sai các ngươi ra đi: «Các con hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi»? (Ga 16,33).
Thật vậy, chắc chắn chúng ta đã cảm nhận được rằng câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay không có ý muốn đề cập đến một ông chủ và những người đầy tớ trong một thời tiền sử khắc nghiệt nào đó, nhưng là đề cập đến chính chúng ta, đề cập tới những biện pháp mà Thiên Chúa áp đặt vào cuộc sống của chúng ta, đề cập đến những mong muốn mà Người luôn chờ đợi nơi cuộc sống kitô hữu của chúng ta. Thiên Chúa cần có những cộng tác viên biết đón nhận sự tin tưởng đã được ban cho họ. Thiên Chúa cần những đối tác biết lấy ý muốn và kế hoạch của Người làm của mình và can đảm tìm cách hiện thực chúng trong cuộc sống. Ðó chính là những người mà Thiên Chúa sẽ mời gọi tham dự vào hạnh phúc sung mãn của Người trong ngày sau hết: «Hãy vào mà hưởng niềm vui của Chủ ngươi!» Amen.
Vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời (Mt 25,27).
Cuối năm Phụng Vụ 2011, lời Chúa trong bài Phúc âm mời gọi mỗi người chúng ta hãy tính: TN33-A42
Cuối năm Phụng Vụ 2011, lời Chúa trong bài Phúc âm mời gọi mỗi người chúng ta hãy tính sổ kết năm. Hằng năm, trong bất cứ tổ chức nào cũng có những kết toán sổ sách sinh hoạt, chi thu và rà soát những thành qủa thu hoặch hơn thua. Con người sống trong thời gian cần có những mấu chốt để khởi sự và hoàn thành chỉ tiêu. Về đời sống tôn giáo, chúng ta cũng cần tịnh tâm xét mình về những cách thức tin đạo, sống đạo và hành đạo. Xét về trách nhiệm và bổn phận của chúng ta đối với Chúa và tha nhân. Thiên Chúa yêu thương tạo dựng muôn loài, Ngài đều trao ban cho mỗi thụ tạo một khả năng riêng biệt và một mục đích. Mọi loài thú vật theo bản năng phát triển và sinh tồn theo định luật tự nhiên. Con người là tạo vật cao qúy có linh hồn, trí khôn, ý chí và tự do. Mỗi người được tạo hóa trao ban cho những vốn liếng và khả năng khác nhau để sinh lời.
Ai trong chúng ta cũng nhận được một số vốn khác nhau. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về “nén bạc” để dậy bài học: Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi (Mt 25,15). Số vốn nhiều hay ít không quan trọng. Điều quan trọng nhất là làm sao mỗi người phát triển và làm lợi thêm qua số vốn của chính mình. Số vốn là những kiến thức, trí tuệ, thời gian, tài năng cả về tinh thần và thể xác. Chúng ta biết có một sự khác biệt rất lớn giữa con người với nhau về mọi phương diện. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải sinh lợi giống nhau và bằng nhau. Điều thiết yếu là mỗi người phải sinh lời theo số vốn mà mình đã được lãnh nhận. Không ai có thể nói rằng tôi chẳng nhận được đồng vốn nào cả. Đã sinh ra làm người là đã lãnh nhận ân huệ của Đấng Tạo Hóa.
Mỗi người nhận số vốn khác nhau để sinh lời. Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác (Mt 25, 16). Ông chủ đã khen và ban phần thưởng. Rồi người nhận hai nén bạc cũng ra đi đầu tư và làm lụng vất vả để sinh hoa lợi: Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác (Mt 25,17). Ông chủ rất vui mừng vì kết qủa và sự chăm chỉ của các đầy tớ. Họ xứng đáng đáng được ông chủ yêu thương và tin tưởng. Khổ cho người lãnh một nén:Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình (Mt 25,18). Sự nghi ngờ và lười biếng đã đưa dẫn anh ta vào ngõ cụt. Anh chẳng sinh lợi được gì.
Chúng ta biết những người lo việc chính trị xã hội thì xem xét những thành qủa xây dựng và phát triển đất nước giúp con người xã hội sống trong tự do, an bình và hạnh phúc. Những người lo việc giáo dục học đường thì lo các sách giáo khoa, giáo án, giáo trình để giúp các học sinh trau dồi trí thức học làm người và nâng cao trình độ hiểu biết mọi khía cạnh của cuộc sống. Những vị lo về vấn đề lãnh đạo tinh thần, tôn giáo thì xem xét những bước tiến sinh hoạt cộng đoàn tín ngưỡng, giúp con người thành nhân, thành đạo và thành thánh. Những người kinh doanh buôn bán thì tính sổ tiền bạc trong công việc chi thu để phát triển nền kinh tế và nâng cao cuộc sống. Nói chung, trong bất cứ ngành nghề nào cũng phải có những đúc kết để nhận định giá trị phát triển. Là người công giáo, chúng ta có bổn phận trở thành người công dân tốt trong nước sở tại và còn có bổn phận trở nên người công dân gương mẫu, đạo đức và thánh thiện trong Nước Trời.
Xét về cuộc sống, mỗi năm ai trong chúng ta cũng có thêm được một chút. Ai cũng có thêm tí tuổi, thêm khôn ngoan, thêm chút kinh nghiệm, thêm bạn bè, thêm sự hiểu biết, thêm bằng cấp và có thêm của cải trần gian nữa. Mỗi người tự biết về sự sinh lợi của mình trong cuộc sống hằng ngày. Thánh Luca viết về Chúa Giêsu: Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa (Lc 2,40). Mỗi ngày chúng ta một lớn lên về mọi sự phát triển từ trong ra ngoài. Lớn lên và trưởng thành về thân xác, về sự hiểu biết và về các ngành chuyên môn nhưng về lòng đạo, sống đạo và đời ssống đạo đức luân lý có phần không phát triển đồng đều. Đôi khi còn rơi xuống tỉ lệ nghịch với sự phát triển con người.
Thực tế cuộc sống, có nhiều hoàn cảnh éo le không lường. Có những người không được may mắn bình thường ngay từ bẩm sinh. Tuy nhiên, họ cũng nhận được những nén bạc làm vốn liếng. Chúng ta biết có rất nhiều tiềm năng thiên tài phát sinh từ những người bị dị tật bẩm sinh. Người ta thường nói: Có tật có tài. Nhiều người với ý chí kiên cường và sự kiên nhẫn tuyệt vời để cố gắng khắc phục mọi khó khăn để sinh lợi số vốn có được. Trong khi đó, rất nhiều người có nhiều tài, có khả năng và có cơ hội sinh lời nhiều hơn nhưng lại tiêu xài hoang phí số vốn liếng được trao ban. Một số người đã sa vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, hưởng thụ, hút sách, trộm cướp, chém giết và bài bạc sa cơ lỡ bước. Có những con người đã gây chiến tranh hận thù, phá sản niềm tin, chối bỏ Thiên Chúa, gieo mầm tội lỗi, phò văn hóa sự chết, gây đồi bại luân thường đạo lý, dẫn đường lầm lạc, nêu gương mù gương xấu, lười biếng ăn không ngồi rồi và phí sức cho phường ngoại nhân.
Cuối năm là dịp rất tốt để chúng ta nhìn lại phía sau một chút. Biết rằng thời gian đã qua là qua đi vĩnh viễn. Chúng ta chẳng làm gì thêm được cho những công việc đã qua. Ngó nhìn lại, chúng ta có thể cảm thấy thoáng chút vui mừng phấn khởi vì sự thành công và thắng lợi, nhưng cũng có thể là phút giây hối tiếc về những sự cố không đẹp và không tốt đã gây nên. Thật thế, chúng ta đã có những hành động giúp xây dựng tình yêu thương đoàn kết, nhưng rồi cũng có những việc gây buồn phiền chia rẽ và hận thù. Có những sự tốt lành thôi thúc sống đạo đức nhiệt thành nhưng cũng không thiếu những sự giả hình, nặng về trình diễn và nông cạn. Chúng ta cần có phút giây để hồi tâm tính sổ lòng mình. Để biết mình rõ hơn, chúng ta không chỉ dựa vào phán đoán chủ quan, dự luận bên ngoài hay ý kiến của người khác mà còn phải soi mình trước tấm gương Điều Răn của Chúa, tiếng nói lương tâm và Lời Chúa. Đôi khi sự thành công hoành tráng bên ngoài chỉ là cái vỏ hình thức khoe mẽ để che đậy sự trống rỗng bên trong. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thật cụ thể để cảnh tỉnh chúng ta:Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác! (Mt 23, 27-28).
Bất cứ làm việc gì, ai trong chúng ta cũng mong có thành qủa. Hình ảnh các nhà nông giúp chúng ta nhìn vấn đề thật rõ. Các nhà nông dám đầu tư mọi vốn liếng vào thửa ruộng để mong thu hoặch kết qủa. Trồng cây hoa, hoa phải nở. Trồng cây ăn trái, cây phải có trái. Trồng cây rau, rau phải phát triển. Trồng cây cảnh, cây cảnh phải tươi đẹp. Nếu cây giống trồng bị đòi đẹt, cằn cỗi và thui chột thì chỉ có cách cắt bỏ đi. Cũng vậy, các nhà chăn nuôi cũng phải đầu tư vốn liếng vào các trang trại chăn nuôi để mong phát triển sinh xôi nẩy nở. Chẳng ai nhọc xác chăm dẵm các loại thú vật hay thực vật không phát triển hay không sinh hoa kết trái. Tạo thành con người cũng thế, Thượng Đế yêu thương trao ban cho mỗi người một số vốn khả năng và tài khéo riêng biệt. Tạo Hóa mong muốn con người phát triển mọi khả năng để sinh lời. Giờ đây, chúng ta phân định xem số vốn khả năng đầu tư thế nào? Chúng ta có được khả năng chuyên môn gì? Và đã làm lợi được bao nhiêu cho chính chúng ta, cho gia đình, xã hội và Giáo Hội? Thú thật, nhìn lại kết qủa cuộc sống của chúng ta chẳng có là bao. Thế mà Tạo Hóa vẫn tiếp tục ban mưa nắng thuận hòa, ban thời gian đắp đổi mỗi ngày 24 tiếng và được chung hưởng muôn phúc lộc đồng đều cho mỗi thụ tạo.
Chúng ta đã và đang được thừa hưởng những thành qủa hoa trái do các tiền nhân để lại và mọi người xung quanh đang kiến tạo và cống hiến. Ngoài những hồng ân trời biển của sự sống và thiên nhiên, chúng ta được sử dụng mọi kết qủa của văn minh kỹ thuật. Nhìn vào thế giới nơi chúng ta đang sống, đã có biết bao nhiêu sự góp công, góp sức, góp khả năng để xây dựng một xã hội kỹ thuật tân tiến và văn minh hiện đại. Tất cả các dụng cụ khoa học kỹ thuật và các đồ gia dụng mà chúng ta sử dụng hằng ngày đều do sức lao công của con người làm nên. Mỗi người được mời gọi góp một chút khả năng của mình để làm giầu cho đời sống xã hội và Giáo Hội cả tinh thần lẫn vật chất. Trả lời câu hỏi Giáo Lý Công Giáo: Ta sống ở đời này để làm gì? Thưa: Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và thương yêu mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời. Đây là mục đích cuộc sống mà chúng ta cần đầu tư vốn liếng để sinh lợi cho cả đời này lẫn đời sau.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con muôn vàn ân sủng và phúc lộc đầy tràn. Xin cho chúng con biết dùng những khả năng Chúa ban để sinh lợi và mưu ích chung cho đời sống. Sinh thêm lợi thì chúng con sẽ được hưởng lợi thêm. Chúa Giêsu đã nhắn nhủ:Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi (Mt 25,29).
Khi ấy, Đức Giêu nói với các môn đệ rằng: “Cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây”. Ong chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít
mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Ông chủđáp: “Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
SUY NIỆM
Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu. Đó là một đời sống cam chịu: TN33-A43
Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu. Đó là một đời sống cam chịu, nhẫn nhục, cúi đầu vâng phục Ý Chúa, một đời sống khổ đau vì phải bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá. Nhìn như thế đúng nhưng không đủ. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác, tươi tắn hơn nhiều, chủ động và tích cực hơn nhiều. Thiên Chúa được ví như một ông chủ sắp đi xa. Vì tin tưởng các đầy tớ của mình, nên khi vắng nhà (c. 14), ông không ngại giao phó cho họ những món tiền rất lớn, tùy khả năng. Người được năm yến, kẻ được hai, người được một (c. 15). Mỗi yến bạc tương đương với sáu ngàn ngày công. Hẳn các đầy tớ hiểu ý chủ muốn mình đầu tư sinh lợi. Anh nhận được năm yến đã đi ngay lập tức và làm ăn với số vốn ấy. Chúng ta không rõ anh đã đầu tư thế nào và bao lâu, chỉ biết anh đã sử dụng cách hiệu quả những gì anh nhận được. Sau một thời gian, tiền lời bằng số vốn bỏ ra. Anh nhận được hai yến cũng vậy, cũng sinh lợi được hai yến khác. Anh được một yến cũng đi, nhưng là đi đào lỗ dưới đất để chôn giấu yến bạc (c. 18). Anh không dám đầu tư vì sợ làm ăn lỗ lã. Anh sợ số bạc lớn bị mất, nên anh muốn chôn giấu nó cho an toàn. Khi ông chủ trở về để nghe báo cáo sổ sách của các đầy tớ, ông đã khen hai anh đầy tớ vất vả làm ăn bằng những lời giống nhau: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (c. 21. 23). Còn anh đầy tớ chôn giấu yến bạc dưới đất vì sợ hãi ông chủ, đã bị chủ chê là đầy tớ xấu xa và biếng nhác. Yến bạc của chủ còn nguyên chẳng hề là điều đáng tự hào. Ông chủ ngạc nhiên vì tại sao anh lại không gửi tiền vào ngân hàng để đồng vốn có thể sinh lợi (c. 27). Anh bị tước mất yến bạc anh đã giữ kỹ, và tống vào chỗ tối tăm. Một đầy tớ không sinh lợi từ số vốn được trao là một đầy tớ vô dụng (c. 30). Mỗi Kitô hữu cũng là một người đầy tớ, một quản lý của Chúa, được tin cậy giao phó, được yêu cầu đầu tư, được mong mỏi sinh lợi. Sống đời Kitô hữu là chấp nhận dùng tất cả khả năng của mình (c. 15) để làm cho những gì Chúa ban sinh lợi nhiều nhất. Điều đó cần đến công sức, tính toán, sáng tạo, và nhất là tình yêu. Yến bạc là khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để ta làm việc cho Chúa. Kitô hữu không phải là người thích an nhàn hay hưởng thụ. Họ nỗ lực phấn đấu từng ngày để đời mình sinh hoa trái cho Chúa. Ngày Phán xét, chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên nỗ lực sinh lợi của mình. Mỗi người chúng ta không rõ mình đã nhận bao nhiêu yến bạc. Điều quan trọng là không được giấu đi, và vui vẻ tận dụng điều mình có.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa. Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào... Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. ª
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi.
"Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
"Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại cho ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Suy Niệm:
Cn 31,10-13.19-20.30-31; 1Th 5,1-6; Mt 25,14-30
Chúa nhật này tiếp nối Chúa nhật trước. Chúng ta đang sống cuối năm Phụng vụ. Hội Thánh: TN33-A44
Chúa nhật này tiếp nối Chúa nhật trước. Chúng ta đang sống cuối năm Phụng vụ. Hội Thánh hướng chúng ta về ngày cánh chung để dạy chúng ta biết sống cuộc đời hiện tại.
Những bài đọc của Chúa nhật trước nói rằng Chúa sẽ trở lại bất thần, nên chúng ta phải sẵn sàng, tức là phải luôn luôn giữ cháy lòng mến Chúa và tìm kiếm Người. Đó là thái độ của người "khôn". Những bài đọc hôm nay khai triển chiều hướng ấy và mở ra trước mắt chúng ta đời sống cụ thể hàng ngày của những con người khôn có lòng mến Chúa. Họ không thụ động ngồi yên chờ ngày Chúa đến, nhưng cần mẫn và đảm đang, làm việc sinh lời lãi và giúp ích cho đời.
Chúng ta hãy đọc bài Thánh thư trước để hiểu rõ hơn về ngày Chúa trở lại; rồi sẽ đọc bài Tin Mừng và bài sách Cách ngôn để thấy rõ nếp sống cụ thể của chúng ta hiện nay phải thế nào? A. Hãy Canh Thức Và Tỉnh Táo
Thánh Phaolô hôm nay thấy không cần nói thêm với chúng ta về ngày giờ Chúa trở lại nữa. Chúng ta đã biết Người sẽ đến bất thần như kẻ trộm trong đêm tối. Nhưng ngày đó sẽ thế nào? Thánh Tông đồ mượn nhiều ý kiến trong Kinh Thánh và nhất là trong Cựu Ước để gợi lên cho chúng ta một số suy nghĩ.
Đối với những người vô tư, những người khờ như Tin Mừng Matthêô lần trước đã nói, thì "Bây giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập đến". Họ cứ chè chén, say sưa, buôn đi bán lại, hết xây lại đập (Lc 17,26-30) như thời Noe. Đang lúc ông này cặm cụi đóng tàu để tránh lụt thì chung quanh người ta cứ sống phây phây, bình chân như vại. Nhưng chính lúc đó tưởng là bình an chắc chắn thì mưa đã đổ xuống bất thần, diệt vong ập đến trên họ.
Quả thật, đối với họ, ngày của Chúa sẽ là diệt vong. Vì kể từ thời Amos (5,18-20) nhiều đoạn Cựu Ước đã nói như vậy. Các tiên tri đã thẳng thắn tuyên bố cho dân cứng đầu cứng cổ biết: họ ảo tưởng quá chừng khi vịn lẽ là dân được tuyển chọn rồi cứ chạy theo các dục vọng của mình và tưởng rằng sẽ chẳng sao vì Chúa sẽ cứu mình. Không! Chúa sẽ không đến cứu, nhưng để trừng phạt. Và ngày của Người sẽ trở nên tăm tối, khóc lóc, thê thảm cho dân lầm lạc ấy. Bấy giờ họ sẽ đau đớn quằn quại như đàn bà lúc lâm bồn, chẳng thể nào trốn thoát được.
Hôm nay thánh Phaolô cũng mượn lại những hình ảnh ấy để nói với những người khờ, những kẻ vô tư không sẵn sàng cho ngày Chúa trở lại rằng: ngày đó sẽ ập xuống trên họ như nước lụt xuống trên thời Noe. Nó sẽ đem lại diệt vong, đau đớn cho kẻ không tìm kiếm Chúa và yêu mến Người.
Còn đối với những người khôn, những người tìm kiếm và mến yêu Chúa, thì không có gì phải sợ vì họ không ở trong tối tăm, nhưng vẫn sống như con cái sự sáng. Ngày Chúa đến, đối với họ sẽ là ngày đầy vinh quang, ngày chan hòa ánh sáng.
Làm sao cũng là một ngày mà đối với hạng khờ thì là đen tối, còn đối với người khôn thì là sự sáng? Thiên Chúa vừa tối vừa sáng hay sao? Không phải thế! Người chỉ là sự sáng, sự sáng tuyệt đối. Những kẻ đau mắt sẽ chỉ thấy tối tăm khi Người đến. Còn người có mắt trong sáng sẽ thấy Người đem lại vinh quang. Chính Chúa Yêsu trong Tin Mừng Matthêô đã có đoạn nói con mắt là đèn của thân thể. Nếu mắt lành thì thân thể được ở trong ánh sáng; nhưng nếu mắt đau thì toàn thân sẽ ở trong u tối.
Như vậy, Ngày Chúa đến sẽ là tối tăm cho kẻ dữ và là ánh sáng cho người lành. Chúng ta phải sống như người lành để chờ đợi Chúa, tức là phải sống như con cái sự sáng, con cái của ban ngày. Thế mà ban ngày không phải là thời gian để ngủ và để say sưa. Những việc này người ta chỉ làm về đêm. Thành ra bài thư Phaolô hôm nay kết luật: hãy canh thức và tỉnh táo.
Nhưng lời khuyên này cũng phải được hiểu cho đúng. Dĩ nhiên trong chiều hướng coi Ngày Chúa đến có tính cách bất thần như kẻ trộm đột xuất lúc đêm khuya. Thánh Phaolô cũng như nhiều tác giả khác hay khuyên người ta phải "canh thức". Nhưng canh thức ở đây chỉ có nghĩa là cảnh giác và sẵn sàng, là thao thức tìm kiếm Chúa và chờ đợi Người. Và tỉnh táo không say sưa, là không bắt chước người thời Noe cứ mải miết đi trong đường tội lỗi mà không biết tai ương sắp ập đến. Tựu trung, với bài Thánh Thư hôm nay, Hội Thánh khuyên nhủ chúng ta trong cuộc sống tại thế phải biết nhớ đến Chúa, tìm kiếm Người và thi hành những lệnh truyền của Người.
Đó là điều mà Đức Yêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay được mệnh danh là dụ ngôn các nén bạc. B. Hãy Làm Việc Chăm Chỉ
Thánh Matthêô kể dụ ngôn này tiếp ngay sau dụ ngôn 10 trinh nữ đọc trong Chúa nhật trước. Và người mở đầu: về Nước Trời cũng giống như người kia đi xa, đã gọi tôi tớ lại và giao tiền của cho họ.
Như vậy bài dụ ngôn hôm nay muốn khai triển tư tưởng của bài Tin Mừng lần trước. Hôm nay Chúa cũng tự ví như người đi xa nhà một thời gian rồi sẽ trở về. Và cũng như chàng rể đến trễ, người đi xa hôm nay cũng chậm về (câu 19). Nhưng đang khi bài học lần trước dạy phải sẵn sàng vì ngày Chúa đến sẽ bất thần, hôm nay bài dụ ngôn bảo phải chăm chỉ làm việc sinh nhiều quả phúc đức.
Quả vậy bài dụ ngôn đã tập trung vào việc tính sổ, tức là việc phán xét trong thời cánh chung. Ba tên đầy tớ đến trước mặt chủ. Hai người đầu tiên đưa đến cả vốn lẫn lãi. Ông chủ khen họ lương hảo và trung trực và đưa họ vào sống trong hoan lạc của ông. Còn người thứ ba đến, chỉ mang theo tiền vốn và nói rằng y biết chủ là người hà khắc, và tham lam, nên vì sợ, y đã đem chôn tiền vốn và bây giờ xin nộp lại cho chủ. Y tưởng như vậy là thoát thân. Ai ngờ chính luận lý của y lại lên án y. Không biết làm ra của cải, tại sao y không đặt tiền vào ngân hàng để ít ra tiền cũng sinh lời? Vì thế chủ gọi ý là tên tôi tớ bất hảo và lười biếng.
Thánh Matthêô muốn chú trọng đến từ ngữ "lười biếng" này. Nó đối với từ ngữ "trung trực" ở trên khi người chủ khen hai tôi tớ đã biết làm việc. Và trong sách Tin Mừng của Matthêô từ ngữ "trung trực" luôn được dùng để nói về người tôi tớ, trong khi chủ vắng nhà, vẫn làm việc chăm chỉ, phân phát của ăn thức uống hẳn hoi cho mọi người trong nhà; đang khi tên quản gia gian ác thấy chủ về trễ, thì ăn uống với lũ say sưa và đánh đập các bạn tôi tớ (24,48-49).
Vậy, nếu được ghép những tư tưởng ấy lại chúng ta có thể nói rằng: thánh Matthêô bảo chúng ta trong thời gian chờ Chúa trở lại, tức là trong cuộc sống trần gian này, chúng ta không được lười biếng, ích kỷ, chỉ biết ăn uống say sưa và hành hạ người khác, nhưng phải bắt chước những người tôi tớ lương hảo, "ngay" khi được giao phó công việc đã "đi" doanh lợi (câu 16) và vì thế được khen là trung trực, tức là nhiệt tình với chức năng của mình. Trong ngày chung thẩm, những người tôi tớ như vậy sẽ được đi vào sự hoan lạc đời đời của Chúa; còn những kẻ lười biếng sẽ bị đày xuống nơi tối tăm khóc lóc.
Thật ra khi Đức Yêsu nói dụ ngôn các nén bạc, Người có ý nhắm vào hàng Biệt phái và Luật sĩ thời bấy giờ. Họ có một thứ tôn giáo sợ hãi. Họ tưởng cứ giữ các luật buộc là đủ để được công chính và Chúa sẽ phải công minh trả công cho họ. Nhưng nếu Chúa là Chúa và họ là tôi tớ thì họ luôn luôn phải tìm hiểu ý Người chứ sao lại bó buộc Người trong một khuôn khổ. Tôn giáo như vậy không còn là những tương quan sống động mà chỉ là pháp luật. Thánh Matthêô áp dụng rộng ra và bảo chúng ta phải nhiệt tình làm theo Ý Chúa.
Và như vậy, bài Tin Mừng cũng một ý với bài Thánh Thư. Cả hai đều dạy cuộc sống trần gian không phải để hưởng thụ và sống ích kỷ, nhưng phải cần mẫn chăm chỉ làm việc phục vụ anh em. Đó cũng là bài học của sách Cách ngôn. C. Hãy Biết Đảm Đang
Đoạn văn này đáng chú ý. Không thể nói rõ nó đã được viết vào thời nào. Vì cũng như ca dao tục ngữ của ta, nó là kho tàng khôn ngoan của cả một dân tộc, đã được thu góp từ đời nọ qua đời kia. Ở đây nói về người đàn bà đảm đang, người phụ nữ có tư cách. Chúng ta phải ngạc nhiên vì ở những thời đại xa xôi trước ngày Chúa sinh ra, văn chương Cựu Ước đã tạc ra được một người phụ nữ lý tưởng. Ai thấy nàng bị bóc lột và đàn áp? Ngược lại, nàng vươn lên như một anh hùng kiệt tác.
Dĩ nhiên các nét tả còn mang nặng nếp sống của một xã hội thời xưa. Nhưng cũng đã có nhiều nét thật văn minh. Người phụ nữ lý tưởng, trước hết được sự tin tưởng của chồng con và vì thế, là hạnh phúc cho cả gia đình. Những nét khiến nàng được tin tưởng thì thật nhiều. Nhưng nổi bật nhất là tư cách đảm đang, đảm đang việc nội trợ cũng như việc giáo dục và giao tế với bên ngoài. Vì đảm đang, nàng thắt chặt dây lưng và phát huy sức mạnh của cánh tay. Nàng dậy sớm thức khuya, chăm lo sản xuất và tìm kiếm thực phẩm cho gia đình. Chính tay nàng làm lấy nhiều việc, và nàng biết phân việc cho các tôi tớ. Nàng đề phòng mùa đông và dự trữ lương thực. Nàng không chểnh mảng dạy con đèn sách và lo cho cả địa vị và uy tín của chồng nơi xã hội. Đặc biệt nàng có từ tâm và nhân đạo, chìa tay cho người nghèo khó và mở cánh tay cho kẻ khốn cùng. Khi cần, nàng mở miệng với giọng khôn ngoan và trên lưỡi nàng, một giáo huấn về đạo đức. Công, dung, ngôn, hạnh không thiếu gì ở nơi nàng nên chồng con được hãnh diện.
Chúng ta có thể bảo những nét tả như thế có thể gặp nơi bất cứ nền văn chương nào. Nhưng nơi văn chương Cựu Ước, tức là văn chương tôn giáo có điểm đặc biệt này, là mọi đức tính trên được xây bằng lòng kính sợ Chúa. Thế nên, đoạn văn Cách ngôn đã kết luận: duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là hư vô; người đàn bà kính sợ Chúa là người phải ca ngợi.
Tôi không hiểu chị em phụ nữ nghĩ thế nào? Nhưng Phụng vụ không muốn đọc bài Cách ngôn hôm nay chỉ có phụ nữ, mà cho tất cả chúng ta và trước hết là cho Hội Thánh.
Đã nhiều lần chúng ta thấy Hội Thánh được mô tả như một phụ nữ hay trinh nữ, hoặc được khuyến khích để bắt chước và trở nên người phụ nữ lý tưởng. Vì thế, qua bài sách Cách ngôn, Phụng vụ muốn nói với tất cả Hội Thánh: hãy cố gắng trở thành người đàn bà có tư cách và tỏ ra đảm đang, tức là nhiệt tình thi hành tốt sứ mệnh của mình.
Và như vậy bài sách muốn nói trước hết với những ai có trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội và giáo xứ. Họ phải tỏ ra đảm đang để cộng đoàn Dân Chúa được hoàn hảo. Do đó chúng ta phải cầu nguyện cho họ và khuyến khích họ, để họ tỏ ra là người có tư cách. Vấn đề tài năng không phải là cốt yếu, vì với bất cứ vốn liếng tài năng nào mà biết chăm chỉ cần mẫn làm việc và phát huy để phục vụ người khác, thì ai ai cũng sẽ cảm mến và ca ngợi tinh thần của những con người như vậy.
Nhưng Phụng vụ bao giờ cũng muốn nói với hết mọi người. Và chủ đề của cả ba bài đọc hôm nay là muốn thúc giục chúng ta, trong thời gian ngóng chờ ngày Chúa trở lại, phải chăm chỉ nhiệt tình làm việc. Kẻ lười biếng sẽ bị coi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ thì đã được bài Tin Mừng gọi là lương hảo.
Dĩ nhiên các tác giả thánh muốn nói đặc biệt về sự chăm chỉ làm việc đạo đức. Thánh Phaolô bảo chúng ta phải sống như con cái của ban ngày, tức là của thời gian làm việc, nên không được say sưa và ngủ thiếp đi. Mà công việc của con cái sự sáng là thi hành các lệnh truyền của Chúa, tập trung trong quan niệm sống bác ái tức là mến Chúa và phục vụ anh em. Những công việc này, người ta sẽ chăm chỉ làm, dù có gặp khó khăn trở ngại, nếu người ta có thái độ sẵn sàng đối với ngày Chúa trở lại, tức là có lòng tìm kiếm Chúa. Chính bài Cách ngôn cũng đã kết thúc bằng câu: mọi nết tốt của người phụ nữ lý tưởng xây trên lòng kính sợ Chúa.
Vậy giờ đây chúng ta được tiếp xúc với Người trong thánh lễ. Người đến thật sự cũng để phán xét và phân biệt các tôi tớ lương hảo và bất hảo, chăm chỉ và lười biếng. Nhưng nhất là Người đến để ban sức mạnh giúp tất cả con cái Người thêm nhiệt tình để sống như con cái của sự sáng và của ban ngày. Người muốn nhờ Thánh Thể và Thánh Thần của Người biến chúng ta nên những con người đảm đang mọi việc trong đời sống. Đáp lại chờ mong của Người là đi vào hoan lạc của Người và tương lai của toàn thể lịch sử như lời kinh Tin Kính mà giờ đây chúng ta sẽ đọc.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Cuộc đời của mỗi người phải có một lý tưởng, phải có một đích để nhắm tới. Người Kitô hữu: TN33-A45
Cuộc đời của mỗi người phải có một lý tưởng, phải có một đích để nhắm tới. Người Kitô hữu là người thuộc về Chúa, nên đích đến, bến bờ của họ là Nước Trời, là Nước Thiên Chúa. Chúa ban cho mỗi con người một khả năng, một vốn liếng nhất định và Chúa đòi con người phải làm lợi cho Chúa. Đọc các bài Sách Thánh và bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ hiểu được ý của Chúa…
Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điều Ngài muốn chúng ta làm. Đọc nhiều chú giải Kinh Thánh, chúng ta hiểu nhiều cách giải thích về dụ ngôn các nén bạc. Ông chủ trước khi đi xa đã trao cho các đầy tớ mỗi người một số nén bạc và Ông chủ muốn các đầy tớ làm lợi trước khi Ông chủ trở về…Chúa muốn chúng ta làm những gì đúng, tốt hơn những gì chúng ta muốn. Chúa muốn chúng ta làm những gì là công chính, thánh thiện trước mặt Ngài. Chúa không muốn chúng ta làm điều gì ngoài ý Chúa. Đối với Chúa, tin tưởng, phó thác và tuân theo ý của Ngài là những điều cốt yếu để Ngài hài lòng, và gia ân giáng phúc cho chúng ta. Người được trao năm nén và được trao hai nén đã làm lợi theo ý của chủ mình. Điều này là điều Chúa đòi hỏi nơi mỗi người Kitô hữu chúng ta.Người lười biếng chôn dấu nén bạc của chủ không chịu làm việc, không chịu làm lợi cho chủ, người ấy giống như năm cô trinh nữ khờ dại, không biết khôn ngoan, không biết tỉnh thức, đem đèn mà không mang dầu dự trữ theo.
Thiên Chúa không cần hỏi ý chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta như lời thánh Augustinô đã nói. Mọi ân huệ đều đến từ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta được sống ở trần gian này : sự sống, gia đình, con cái, đức tin, tài năng, khao khát và ngay cả tình yêu đều do Chúa trao ban. Tất cả cho vinh quang của Thiên Chúa. Người Kitô hữu phải là người khôn ngoan, trung tín để ngày Chúa đến sẽ được nghe lời này :” Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi “.
Ý lực của Chúa nhật hôm nay là làm nổi bật tính chân thực, sự trung thành và khôn ngoan của người Kitô hữu trước Thiên Chúa. Ngài là Đấng chân thật, khôn ngoan và trung tín. Nên, ai trung thành với Ngài, tin tưởng, phó thác nơi Ngài, chắc chắn sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.
Hôm nay, Giáo Hội, đặc biệt Hội Thánh Việt Nam mừng kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam. Các Ngài là tổ tiên, cha ông của chúng ta đã hy sinh mạng sống của mình để xây dựng Giáo Hội địa phương. Các Ngài đã minh chứng cho Chúa Giêsu :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Thật tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta…Tình yêu đã thúc đẩy các thánh tử đạo Việt Nam coi thường mạng sống để làm chứng cho Chúa Giêsu, đúng như sử gia Tertullien đã viết :” Máu của các thánh tử đạo đã làm nẩy sinh các tín hữu Chúa Kitô “.
Thánh giá là nguồn sức mạnh để các thánh tử đạo Việt Nam kiên trung làm chứng cho Chúa Giêsu. Các Ngài đã luôn can đảm vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ chùn bước trước những đau khổ trần gian vì các Ngài tin vào “ Ơn của Chúa đủ cho các Ngài “ ( 2 Co 12, 9 ).
Các Thánh tử đạo Việt Nam đã làm cho Giáo Hội Việt Nam trổ sinh hoa trái tốt tươi nhờ lòng kiên trung không sợ gian nguy, không chịu khuất phục, thỏa hiệp với trần gian, với người đời để được dễ dãi chóng qua.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được biết làm lợi vốn liếng Chúa đã trao ban cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con luôn biết noi gương bắt chước các Thánh tử đạo Việt Nam để làm chứng cho Chúa dù hoàn cảnh thuận hay nghịch. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Dụ ngôn những nén bạc muốn nói gì ? 2.Ông chủ là ai ? 3.Những ân huệ bởi đâu mà đến ? Chúa có muốn chúng ta làm theo ý của ta không? 4.Tại sao máu của các thánh tử đạo lại làm phát sinh người Kitô hữu ? 5.Các thánh tử đạo Việt Nam là ai ?
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn Những nén bạc” (Mt 25,14-30) được đặt: TN33-A46
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn Những nén bạc” (Mt 25,14-30) được đặt trong ngữ cảnh là chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của Tin Mừng I, ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Câu truyện đặt đối diện hai nhân vật: một ông chủ và các đầy tớ. Ở đây giống như trong dụ ngôn mười trinh nữ, có những đầy tớ “tốt” và những đầy tớ “xấu”. Khi ông chủ trở về, người ta không còn có thể thay đổi tình thế được nữa, mà phải chấp nhận vĩnh viễn tình thế ấy.
Tuy nhiên, ở ngay chỗ bắt đầu bản văn, có từ “bởi vì” (gar). Từ này nối bài dụ ngôn với câu trước là 25,13 và làm cho bài dụ ngôn này nối với bài trước như sau: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. Bởi vì cũng như có người kia sắp đi xa…”. Vậy bài dụ ngôn biện minh cho việc phải “canh thức/tỉnh thức”. Dĩ nhiên, Mt không hiểu từ ngữ này theo nghĩa chữ, nếu không ngài đã chẳng dùng lời khuyến cáo này làm câu kết cho một dụ ngôn trong đó các trinh nữ đều đã ngủ cả. “Canh thức” là ở trong tư thế luôn “sẵn sàng” đối với cuộc Phán xét, mà mình không biết ngày giờ. Nếu dụ ngôn Các nén bạc nói về “canh thức” thì phải có những ý tưởng liên hệ tới đề tài này. Chúng ta thấy ở c. 19, tác giả cho biết rằng ông chủ trở về “sau một thời gian lâu dài”. Chi tiết này tương tự chi tiết của bài trước: “vì chú rể đến chậm…” (25,5); chi tiết này lại nhắc đến một chi tiết có trước trong dụ ngôn Người đầy tớ trung tín, trong đó người đầy tớ nói: “Còn lâu chủ ta mới về” (24,48). Những câu này nêu ra vấn đề các Kitô hữu đang phải đương đầu vào cuối thời các tông đồ do cuộc Quang Lâm đến chậm: Đức Kitô chậm trở lại như thế, có thể khiến các Kitô hữu thất vọng (x. 2 Pr 3,4), sẽ mất sự bền bỉ. Do đó, cần phải nhấn mạnh đến đề tài “canh thức” với các sắc thái khác nhau của đòi hỏi này. Mt diễn tả bổn phận canh thức qua các tĩnh từ dùng cho các đầy tớ: “tài giỏi và trung thành”, hay là “tồi tệ và biếng nhác”.
2.- Bố cục Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Giới thiệu các nhân vật và chủ đề (25,14-18):
a) Ông chủ giao tiền trước khi ra đi (cc. 14-15), b) Thời gian giữa thời điểm ông chủ ra đi và trở về (cc. 16-18);
2) Tính sổ với ông chủ (25,19-30):
a) Câu mở (c. 19) và Cảnh người đầy tớ tốt thứ nhất (cc. 20-21), b) Cảnh người đầy tớ tốt thứ hai (cc. 22-23), c) Cảnh người đầy tớ xấu (cc. 24-30. Hoặc: Người đầy tớ xấu: cc. 24-28; Nhận định chung kết: cc. 29-30).
3.- Vài điểm chú giải
- nén bạc (15): Một talanton Israel khoảng 35kg bạc (x. Xh 25,39; 1 V 9,14…), còn một talanton Hy Lạp (x. 1 Mcb 11,28; 2 Mcb 3,11; Mt 18,24…) thì khoảng 21-26kg. Ngoài các nghĩa tượng trưng đã được gán cho “nén bạc” (khả năng, các trách nhiệm, thì giờ, các của cải…), ý nghĩa của “nén bạc” tương ứng nhất với Tin Mừng Mt là “Tin Mừng”, hoặc tốt hơn, là sự hiểu biết mỗi người có về Tin Mừng (c. 15: “tuỳ khả năng riêng mỗi người”). Sự hiểu biết này phải được chuyển thành hoa trái phục vụ và bác ái đối với người khác. Nói chung, có thể cho rằng một nén bạc bằng 10.000 quan (một quan là công một ngày làm việc).
- được giao ít mà anh đã trung thành (21.23): Lời khen này có thể khiến độc giả nghĩ đến những gương mẫu trong quá khư, như Môsê hoặc Đavít: lúc đầu Thiên Chúa đặt các ngài chăn dắt các đàn vật trước khi giao cho các ngài những nhiệm vụ lớn lao hơn.
- niềm vui (21.23): Hẳn đây là niềm vui hai người đầy tớ tốt cảm nhận khi được vào hưởng bữa tiệc thiên sai, chứ không phải là niềm vui của ông chủ cảm nhận do lý do gì ta không biết.
- Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm (29): Công thức có lẽ là một câu tục ngữ (x. 13,12), hoặc một câu nói của Đức Giêsu đã bị tách khỏi ngữ cảnh, được Mt đặt ở đây. Câu này tóm dụ ngôn rất khéo: vào ngày Phán xét chung (bản văn Hy Lạp là “sẽ được ban cho” là một công thức ở thái bị động tuyệt đối, để nói về hành động của Thiên Chúa, và động từ ở thì tương lai gợi đến một hành động cánh chung của Thiên Chúa), ai có, tức là đã trung thành trong những chuyện nhỏ của cuộc sống trần thế, sẽ nhận được một phần thưởng lớn; còn kẻ nào không có gì, tức đã bất trung hoặc lười biếng, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
- chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng (30): Hình phạt này chỉ có thể là cuộc trầm luân đời đời (x. Mt 22,13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và chủ đề (14-18)
Dụ ngôn bắt đầu với từ hai từ nhỏ đáng chú ý: “cũng như” ([h]ôsper) và “bởi vì” (gar, “vì chưng” [NTT]; “quả thế” [CGKPV]). Với từ “cũng như”, bài dụ ngôn mới này dường như liên kết với c. 13 nói về canh thức. Còn với “bởi vì”, bài này triển khai câu cuối của dụ ngôn trước (25,13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”). Thật ra, cả bài nhắc nhớ đến các truyện Đức Giêsu đã kể trước đây: truyện Tên mắc nợ không biết thong xót (18,23-35: các từ có chung là “các yến vàng”, “tính sổ”) và nhất là truyện Người đầy tớ trung tín (24,45-51: các từ có chung là “đầy tớ trung thành”, “đặt lên”/”giao [nhiều]”, “ông chủ [các] tên đầy tớ ấy”, ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”).
Mọi chuyện xảy ra giữa ông chủ và các tôi tớ. Ông chủ chuẩn bị đi xa, đã ký thác công việc quản lý tài sản ông cho các đầy tớ. Trong thời gian ông đi vắng, các đầy tớ này phải vận dụng khả năng mà làm cho số bạc đã nhận sinh lãi. Như vậy, các tôi tớ này không tự do và độc lập, nhưng họ ở trong một tương quan lệ thuộc và phục vụ. Họ thuộc về ông chủ; những gì được ký thác cho họ là của cải của ông chủ và những gì họ làm sinh ra từ đó là sở hữu của ông chủ. Họ bị ràng buộc với chủ nhiều cách.
Nhân vật chính là một ông chủ giàu có, nhưng dù vậy, ông không muốn để cho vốn của ông nằm đó, càng không muốn cho các đầy tớ của ông chỉ biết nằm ngủ. Dường như điểm sau này là mối quan tâm chính của ông. Với tám nén bạc, ông có thể tự mình đưa đến ngân hàng hoặc đầu tư cách nào khác; ở đây ông lại muốn giao phó số bạc cho các trung gian. Ông đã bỏ một lối xử sự đảm bảo hơn, như ông cho biết trong mẩu đối thoại với tên đầy tớ biếng nhác, mà chọn lấy một cách phiêu lưu hơn, mục đích chỉ để họ chứng tỏ sự cần mẫn (c. 27) và chịu khó. Nét bất thường này cho thấy rằng mục tiêu đầu tiên của ông không phải là lợi nhuận nhưng là xem xét các khả năng, sự sẵn sàng, óc sáng kiến nơi các thuộc cấp. Nhưng cách làm ấy cũng chứng tỏ ông tin vào thiện chí của họ. Ông không muốn họ chỉ là những kẻ lệ thuộc, nhưng là những cộng sự viên có lương tâm. Để thẩm định óc sáng tạo và chuyên chăm, ông không xác định cách thức họ phải theo. Mọi sự được phó mặc cho chọn lựa của họ. Nếu ông phân phát các nén bạc tùy theo khả năng của từng người, là để cho mọi người có cơ hội làm ra một năng suất tối đa, chứ không phải là thiên vị người này hơn người kia. Lời nhận xét của người đầy tớ vô tích sự: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” (c. 24) xác nhận cách xử sự của ông chủ và hơn nữa việc ông tín thác công việc cho các cộng sự viên. Lẽ ra biết ông chủ là người nghiêm khắc, người đầy tớ càng phải ra sức mà làm việc, thay vì ươn ái bất động như thế!
Hai người tôi tớ tốt bắt tay vào việc tức khắc. Họ sử dụng của cải đã được giao cho họ theo cách tương ứng với ý muốn của ông chủ. Họ tuân theo các mục tiêu của ông và bảo vệ của cải lợi lộc cho ông. Cách làm của họ đã đưa lại hoa trái dồi dào.
Người tôi tớ thứ ba mang yến bạc đến trả lại cho chủ, không hơn không kém. Ngay từ đầu, anh đã có một tương quan sai lạc với chủ. Anh ta thấy ông là một con người cứng rắn, anh trách ông là gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông (25,24t). Anh nhìn nhận mình lệ thuộc ông, nhưng không quy phục ông với lòng tin tưởng và cần mẫn. Anh cảm thấy sự lệ thuộc của mình gay go và áp bức và tức giận với ông như đối với một kẻ bóc lột bắt kẻ khác làm việc cho mình và sống nhờ công lao của những kẻ khác. Do đó, anh từ chối phục vụ và không hành động theo ý muốn của chủ. Anh không phung phí của cải được giao và không tiêu xài cho mình. Anh chỉ để nó ở đấy không sinh lợi và trả lại cho chủ y như đã nhận. Những lời nói của anh chao đảo giữa sự nghi ngờ, phản đối và sợ hãi. Anh bị kết án không phải bởi vì anh đã không đạt được con số như các đồng nghiệp, nhưng bởi vì anh không vận dụng một sáng kiến nào cả, dù là việc dễ hơn như bỏ số bạc vào ngân hàng (dễ hơn cả việc đào lỗ chôn giấu énn bạc của chủ!), dễ nhưng phiêu lưu hơn, nên cũng nặng trách nhiệm hơn. Lỗi của anh là đã chôn giấu một của cải tự nó phải sinh lời.
* Tính sổ với ông chủ (19-30)
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ trở về và gọi các tôi tớ đến tính sổ. Cảnh tính sổ với ông chủ được chia thành ba hồi nhỏ: Ba người đầy tớ đến gặp chủ, mỗi người nói ra cách mình đã làm với số bạc của chủ và nghe ông đánh giá.
Trường hợp hai người đầu thì hoàn toàn song song: người đầu như thế nào, thì người thứ hai như vậy (mỗi người được dành cho 2 câu); người thứ ba được đặc biệt lưu ý (anh được dành cho 7 câu, hoặc ít ra là 5 câu, nếu tách cc. 29-30 ra như là phần thêm vào sau). Về phương diện văn chương, bốn câu dành cho hai người đầu làm thành một đơn vị văn chương được dùng làm đối trọng cho người đầy tớ thứ ba. Như vậy, trong thực tế, chúng ta có một phép đối ngẫu: điểm giáo huấn quan trọng nằm trong sự tương phản giữa hai người đầu với người thứ ba. Trong một dụ ngôn có đặc tính đối ngẫu như thế, điểm nhấn luôn nằm nơi vế thứ hai của thế đối ngẫu (x. các dụ ngôn trong các Tin Mừng và Tl 9), vế thứ nhất chỉ nhằm làm rõ vế hai mà thôi.
Họ đã báo cáo lại cho chủ đầy đủ và được ông không tiếc lời khen ngợi. Ông nhìn nhận họ là những tôi tớ tốt lành và trung tín. Một tôi tớ tốt lành thì chấp nhận trọn vẹn vị trí của mình và ra tay phục vụ chủ. Người ấy không theo các ý riêng hoặc các cảm hứng riêng, không tránh né chủ, nhưng tự đồng hóa với các mục tiêu và quyền lợi của chủ. Một tôi tớ tốt lành thì ân cần chăm sóc của cải đã được giao phó cho mình với lương tâm. Sau khi hai tôi tớ đã được thử thách, ông chủ có thể giao phó cho họ các nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông mời gọi họ đến niềm hạnh phúc viên mãn: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (25,21.23). Tin Mừng rất thường nói đến việc “đi vào Nước Trời” (x. 5,20; 7,21; 18,3), “vào trong cõi sống” (18,8t; 19,16) và bây giờ “vào trong niềm vui”. Những ai trung tín thì được chấp nhận cho thông phần Nước Trời, nghĩa là được sự sống viên mãn và niềm hạnh phúc vô tận. Ông chủ không đẩy các tôi tớ ra xa, nhưng chấp nhận họ vào trong môi trường sống của ông, trong cuộc sống hạnh phúc viên mãn của ông. Chúng ta không thể đạt tới mục tiêu này và mức sống viên mãn nhờ dựa vào sức riêng, hoặc nhờ đi qua một nẻo đường chọn riêng, nhưng chỉ nhờ phục vụ Chúa. Hai người tôi tớ nhận được phần thưởng như nhau, phần thưởng này không được xác định bởi mức độ đóng góp của họ, nhưng bởi mức độ là sự chuyên cần và trung tín.
Còn kiểu tính toán của người đầy tớ cuối cùng là một tính toán sai lầm; trong khi anh tưởng được yên thân khỏi bị quy trách, anh đã làm hại quyền lợi của ông chủ. Anh trả lại “nguyên xi” nén bạc đã nhận, nghĩ rằng như thế là “cân bằng thu chi”: anh vừa lười biếng lại vừa ngu ngốc. Ông chủ gọi anh là đầy tớ tồi tệ và biếng nhác (c. 26), một kẻ đã hoàn toàn làm hỏng cuộc đời của chính mình và lệnh truyền đã nhận. Bởi vì anh đã tránh né chủ, bây giờ ông chủ cũng tránh né anh. Ông không cho anh vào hiệp thông đời sống với ông, nhưng cho quăng anh ra ngoài, nơi đó không có niềm vui, nhưng chỉ có khóc lóc vì đau đớn và nghiến răng vì giận dữ vì sự hư hỏng chính mình đã gây ra cho mình (x. 8,12). Đây là một cuộc sống trong tối tăm, trong sợ hãi và tuyệt vọng.
+ Kết luận
Cho dù cuộc Quang Lâm có đến chậm, các Kitô hữu cần phải luôn “canh thức” với ý nghĩ là cuộc Phán xét sẽ đến và lối sống của họ sẽ bị thẩm định để xem có được vào hưởng niềm hoan lạc hay không. Sự canh thức này cũng đồng thời là sự trung thành chu toàn các nhiệm vụ đã được giao phó, tức là tất cả các bổn phận thuộc đời sống Kitô hữu. Xét như thế, bài này có những liên hệ với bài dụ ngôn Người đầy tớ trung thành (24,45-51). Người đầy tớ trung thành là người không những biết chu toàn một sứ mạng đã được giao phó vừa theo mặt chữ vừa theo tinh thần, mà còn biết lấy sáng kiến mà làm việc trong chiều hướng những gì ông chủ có thể chờ đợi nơi họ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Giống như các tôi tớ trong dụ ngôn, chúng ta, cùng với những gì chúng ta có, là thọ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta không có gì thuộc về chúng ta; các khả năng của chúng ta từ Người mà đến. Tuy nhiên, không phải mọi người đã nhận được như nhau; mức độ các ân ban của Thiên Chúa cho từng người thì khác nhau, và đó là quyền của Ngài. Các nén bạc đây có thể là các đức tính, các khả năng phải phát triển. Nhưng điều tác giả dụ ngôn nhấn mạnh là sự tin tưởng nơi ông chủ, và sự tha thiết, quảng đại hy sinh hầu chu toàn ý muốn của chủ.
2. Thiên Chúa dùng các cộng sự viên để thực hiện các kế họach của Ngài. Ngài không tự mình làm nhưng nhờ trung gian các người thân tín. Những người này cần phải nhận ra cách xử sự như thế của Thiên Chúa là một vinh dự cho mình, để mà ra sức quảng đại đáp lại sự chờ đợi của Người. Đời sống Kitô hữu không phải là một nếp sống tĩnh hoặc nghỉ ngơi thoải mái.
3. Không phải chỉ tránh sự dữ là đủ; còn cần phải vận dụng tất cả các năng lực và chính đời sống mình mà làm điều thiện. Ơn gọi Kitô hữu là một số vốn bấp bênh; đây không phải là một món tiền chết, nhưng là một quà tặng phải được làm cho sinh lời với óc khôn ngoan, chăm chỉ và tình yêu. Mỗi Kitô hữu phải lấy tinh thần trách nhiệm và can đảm mà làm việc.
4. Thời gian hiện tại là nhà băng thử thách để đưa tới định mệng tương lai. Ai đã chứng tỏ mình biết dấn thân làm việc sẽ được giao phó cho một hoạt động cao hơn; ai ươn ái và lười biếng sẽ mất cả số vốn của mình và thậm chí bị loại khỏi Nước Trời.
5. Chúng ta chỉ có một cách đạt tới cùng đích của đời sống chúng ta, đó là ra tay phục vụ Thiên Chúa, sử dụng theo ý Ngài tất cả những gì đã được ban tặng và ký thác cho chúng ta. Chúng ta không thể sử dụng theo ý muốn của mình và phung phí đời sống và thì giờ, các khả năng và phương thế, các công việc của chúng ta. Thiên Chúa đã ký thác tất cả các thứ đó cho chúng ta, và chúng ta phải trả lẽ với Ngài về tất cả. Không phải trong sợ hãi Thiên Chúa, nhưng trong sự tin tưởng vào Ngài, chúng ta mới có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 25:14-30)
Trong những tuần lễ cuối năm Phụng vụ, các bài Tin Mừng Thánh lễ Chúa Nhật hướng về chu: TN33-A47
Trong những tuần lễ cuối năm Phụng vụ, các bài Tin Mừng Thánh lễ Chúa Nhật hướng về chủ đề cánh chung, thúc giục chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến lần thứ hai. Hôm nay câu chuyện dụ ngôn những đầy tớ được ông chủ giao cho các yến bạc để sinh lợi trong thời gian ông vắng mặt nói lên ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trần gian này.
Đầu tư là danh từ rất quen thuộc với chúng ta. Đầu tư bừa bãi sẽ đưa tới phá sản, như chúng ta đã thấy trong bất cứ hoàn cảnh kinh tế nào. Ba người đầy tớ trong câu chuyện dụ ngôn biểu tượng cho sự khác biệt về khả năng để họ đầu tư làm cho cuộc sống có ý nghĩa và được phát triển trọn vẹn. Tuy số yến bạc trao cho người này khác với người kia, kẻ năm yến, người hai yến và kẻ một yến, nhưng ông chủ không đòi hỏi họ phải làm sinh lời như nhau. Chỉ số lợi tức họ phải đưa về cho ông được ấn định theo một tiêu chuẩn chung, đó là làm sao gấp đôi những gì họ đã được trao phó. Người được năm yến phải làm lợi thêm năm yến, người được hai thêm hai và người được một cũng chỉ thêm một.
Thời gian ông chủ đi xa để được phong vương là hình ảnh Chúa Giê-su lên trời và sẽ trở lại để lãnh nhận vương quyền Chúa tể vũ trụ muôn loài (Phi-líp-phê 2:11). Vậy trong thời gian ấy các Ki-tô hữu phải làm gì? Chúng ta phải sinh lợi gấp đôi có nghĩa là làm hết mình, tận dụng mọi khả năng Chúa ban để trước hết làm cho con người chúng ta được phát triển tối đa về mọi mặt thể xác, tâm trí và linh hồn. Đồng thời chúng ta cũng sử dụng những tài năng ấy để xây dựng Nước Chúa, cụ thể là Giáo Hội và xã hội tại ngay nơi chúng ta sống. Mọi người phải làm sinh lợi gấp đôi cũng mang ý nghĩa đạt chung một mục đích là được tham dự trọn vẹn vào gia tài vĩnh cửu Cha trên trời dành sẵn cho chúng ta.
Dụ ngôn dường như nhấn mạnh hơn đến thái độ tiêu cực của tên đầy tớ chỉ lãnh nhận có một yến bạc. Rõ ràng là ông chủ không đòi hỏi người ấy phải thực hiện những gì quá khả năng của anh ta. Thái độ tiêu cực của anh được biểu lộ qua lối suy nghĩ và hành động. Anh suy nghĩ cho rằng ông chủ là người hà khắc. Từ suy nghĩ sai lầm ấy, anh đi tới hành động muốn bảo vệ mình bằng cách “đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất”! Việc đáng lý anh ta phải làm là ít ra đem số bạc ấy gửi ngân hàng để có thêm chút lời. Nhưng anh ta đã không làm gì cả, chỉ vì anh là “tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác”! Cuối cùng “tên đầy tớ vô dụng” ấy phải chịu số phận bị lấy đi yến bạc đã trao cho nó và bị “quăng vào chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có khi nào chúng ta cảm thấy hình ảnh tên đầy tớ vô dụng này cũng chính là hình ảnh chúng ta không? Nhìn lại cuộc đời mình, không ai có thể phủ nhận những tài năng Chúa ban cho chúng ta kẻ ít người nhiều. Chúa lại cho chúng ta mỗi người một hoàn cảnh để thi thố những tài năng ấy. Vấn đề là chúng ta có thực sự cố gắng hết sức để đầu tư những vốn liếng Chúa ban mà sinh lợi cho Chúa và anh chị em hay không.
Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta hãy có cái nhìn đúng đắn về Chúa. Người tuyệt đối không phải là một “ông chủ hà khắc”, nhưng là người Cha nhân hậu biết rõ con cái mình cần những gì. Tạo dựng nên chúng ta, Chúa biết khả năng chúng ta và Người cũng chỉ đòi hỏi chúng ta làm hết khả năng mà thôi. Nếu chúng ta là một giáo dân thì Chúa không đòi chúng ta phải làm những công việc của một linh mục hay một nữ tu. Nếu chúng ta làm cha mẹ, Chúa chỉ cần chúng ta chu toàn bổn phận của bậc cha mẹ, lo lắng dạy dỗ con cái nên người. Trong bậc sống của mình, chúng ta được Chúa ban đặc sủng để có thể hoàn tất sứ mệnh chúng ta. Chúa cũng cho chúng ta đầy đủ những hướng dẫn cho việc đầu tư, đó là Mười điều răn, là những giá trị Tin Mừng, là những hướng dẫn luân lý được Giáo Hội trình bày…, tất cả để chúng ta sử dụng tài năng mà phục vụ Chúa và anh chị em.
Lắng nghe lời Chúa thôi chưa đủ, người môn đệ của Chúa còn phải thực thi lời Chúa trong đời: TN33-A48
Lắng nghe lời Chúa thôi chưa đủ, người môn đệ của Chúa còn phải thực thi lời Chúa trong đời sống thường ngày. Chúa trao cho mỗi người một số vốn là khả năng, là trí khôn, con người không được tự đứng im, tự tôn, tự mãn, làm biếng không biết dùng tài năng, khả năng Chúa trao để làm lời ra cho Chúa.Đoạn Tin Mừng Chúa nhật XXXIII thường niên, năm A, Chúa bảo mọi người phải tỉnh thức nhưng Chúa nhấn mạnh thêm một điều nữa, phải tỉnh thức cách tích cực, cần mẫn siêng năng làm việc, và làm việc có ích lợi cho Chúa, cho người khác.
DỤ NGÔN MUỐN NÓI GÌ ? : Dụ ngôn hôm nay cho chúng ta thấy cả ba người đều được trao vốn, tuy tiền bạc, vốn liếng khác nhau, nhưng bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ là phải làm việc, làm lợi số vốn chủ đã trao cho họ. Hai người đầy tớ được chủ trao cho mỗi người một số vốn cao, do đó, họ cảm thấy sung sướng vì chủ tin yêu họ, trao cho họ vốn nhiều, họ hết sức đầu tư, làm việc để sinh lời hầu đáp trả lại tấm lòng của chủ và để minh chứng họ cũng rất tin yêu ông chủ. Đúng hai người đầy tớ này quả có con tim nhạy cảm, một trái tim rộng mở, một trái tim tin yêu giúp họ có đủ nghị lực, đủ thông minh, đủ can đảm để đem tài trí, khả năng của mình tìm cách phục vụ có lợi ích và sinh lời ra cho chủ. Quả thực, hai người đầy tớ này đã được ông chủ khen thưởng, xứng đáng và xem như là những đầy tớ trung tín với chủ. Người đầy tớ thứ ba cũng được trao một số vốn hợp với khả năng, hợp với tài trí của mình, nhưng anh ta không tin yêu chủ đủ, chính vì thế anh đã không có sáng kiến để phục vụ chủ cho tốt.Anh ta không làm hao hụt vốn chủ đã trao, nhưng anh ta không biết làm lợi vì không tin yêu chủ cho đủ. Nên, ông chủ coi anh ta là đồ vô dụng, nghĩa là đồ bỏ không còn đáng được tin tưởng, tín nhiệm nữa.Ông chủ chính là Chúa. Ở đây, qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy chúng ta bài học rất thực tế : Chúa tạo dựng nên con người, Chúa thương hết cả mọi người, nhưng con người co tin yêu và tin tưởng, phó thác vào Chúa hay không lại là một chuyện khác.
CHÚA MUỐN MỌI NGƯỜI HÃY SINH HOA TRÁI TỐT ĐẸP : Chúa trao cho mỗi người một số vốn khác nhau, không ai giống ai cả. Có người Chúa trao cho khả năng vượt người khác, có người có trí chậm hiểu hơn, có người có trí đần hơn. Mỗi người đều có khả năng, tài trí khác nhau, không ai giống ai bao giờ. Và như Chúa nói : “ Cha ta làm việc không ngừng, Ta cũng phải làm việc…”. Cho nên, ai cũng vậy khi đã được Chúa trao cho số vốn nào đó, họ phải làm lời số vốn Chúa trao cho Người. Bất cứ người nào cũng phải hiểu rằng dù Chúa trao bao nhiêu đi nữa họ cũng phải làm lợi ra cho Chúa và không ai được làm biếng không chịu làm gì cả ! Mỗi người đều có bổn phận, trách nhiệm sinh hoa kết quả cho Chúa. Dẫu rằng người có khả năng nhiều, người có khả năng ít không ai giống ai cả, nhưng mẫu số chung con người phải có là cố gắng. Chúng ta thà cố gắng còn hơn có tài, có khả năng, có vốn nhiều mà không cố gắng sinh lời cho Chúa. Thực tế, Chúa chẳng cần những nén bạc của những đầy tớ đã làm lời cho Người bởi vì cuối cùng thì người cũng cho lại họ.Mọi sự đều là ân huệ của Chúa. Chúa muốn chúng ta làm theo ý của Người như trong tiệc cưới Cana, Mẹ Maria đã bảo các gia nhân, Chúa nói gì các anh hãy làm theo Người. Hoặc chính Chúa đã nói:” Con đến để thi hành thánh ý của Cha “. Do đó, bất cứ chúng ta làm việc gì theo ý muốn của Thiên Chúa thì không có việc nào là nhỏ, là tầm thường nhưng tất cả đều là lớn lao trước mặt Thiên Chúa.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ : Con người được Chúa sinh ra giống hình ảnh của Người. Chúa muốn con người luôn sống tình con thảo đối với Người cũng như Người đã luôn sống tình con thảo đối với Cha của Người. Sống tình con thảo có nghĩa là luôn vâng lời Cha, luôn làm theo ý Cha. Chúa Giêsu trước chén đắng thật sự khó nuốt đã thốt lên lời con thảo:” Lạy Cha nếu có thể thì xin cho Con khỏi uống chén đắng này, nhưng đừng theo ý Con ma theo ý của Cha “. Chúa đã trao cho chúng ta người năm nén, người hai nén, người một nén. Chúng ta phải mau mắn làm lời ra cho Người. Theo đạo, danh nghĩa là Kitô hữu rất dễ, nhưng để sống trọn vẹn ý nghĩa chữ Kitô hữu lại là một chuyện khác. Chúng ta có thể mang nhãn hiệu là Kitô hữu, nhưng cách sống của chúng ta lại phản Kitô, lại phản Tin Mừng như thế chúng ta chưa làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm Chúa trao phó cho chúng ta để chúng ta làm lời cho Chúa. Chúng ta hãy noi gương, bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai : siêng năng, chịu khó, cần mẫn làm lời vốn chủ đã tin tưởng trao phó cho mình và đừng bắt chước người đầy tớ thứ ba ỉ lại, làm biếng không chịu khó làm lợi số vốn chủ đã trao cho anh. Đối với Thiên Chúa không có việc gì quá nhỏ không đáng làm và không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Điều quan trọng là con người có làm hay không làm. Thánh Giacôbê cũng đã nói một câu thật chí lý :” Đức tin không việc làm là đức tin chết “. Tôi còn nhớ một lần có một bà Dân tộc đến xin trợ giúp, tôi hỏi bà :” Bà sinh được mấy đứa con rồi, bà trả lời cách rất thoải mái, đơn sơ: dạ được năm cái con “. Tôi bảo bà sao nghèo đói mà sinh nhiều thế, bà trả lời thật đơn sơ : Chúa cho.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết dùng khả năng , tài trí, ân huệ Chúa ban để kiến tạo cơ ngơi đời này và sự nghiệp tin yêu trên trời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
Ông chủ là ai ?
Người được trao năm nén và người được trao hai nén đã làm gì ?
Thế giới đang lo sợ về cuộc chiến giữa Iraq và Hoa kỳ xảy ra và có thể lan rộng đến độ không: TN33-A49
Thế giới đang lo sợ về cuộc chiến giữa Iraq và Hoa kỳ xảy ra và có thể lan rộng đến độ không kiểm soát được. Cuộc chiến đó chỉ khơi sâu hố ngăn cách giữa các nền văn hoá khác nhau. Thật là một thách đố lớn lao giữa những giá trị hôm nay.
NHỮNG CÁI NHÌN KHÁC NHAU
Vì “sắp đi xa” (Mt 25:14) trong “một thời gian lâu dài” (Mt 25:19), một ông chủ khôn ngoan kia đã chu đáo sắp xếp mọi việc. Được ông giao phó của cải, chắc chắn các đầy tớ phải là những người đáng tin cậy sau nhiều năm làm việc cho ông. Thật vậy, không một đầy tớ nào cuỗm số tiền bỏ trốn, mặc dù ông vắng nhà khá lâu. Về mặt trung tín không ai có thể trách họ.
Không những khôn ngoan, ông chủ còn có con mắt tinh đời khi “giao phó của cải mình cho họ,” (Mt 25:14) “tuỳ khả năng riêng mỗi người.” (Mt 25:15) Hớ hênh một chút, ông có thể trở về trắng tay. Giả sử ông giao năm yến cho cho người “tôi tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25:26), chắc chắn tài sản ông đã bị ảnh hưởng lớn và công việc đã ngưng trệ. Thất đức đã biến anh trở thành một thứ “kỳ đà cản mũi”. Người tôi tớ đó không hẳn bất tài. Nhưng tất cả những hành động xấu xa đó đều phát xuất từ một cái nhìn tiêu cực về ông chủ. Nếu đúng như người đầy tớ này nhận xét, tại sao các người đồng nghiệp với anh lại có thể yên tâm làm việc cho chủ?
Oâng đã chọn mặt gởi vàng, khi giao năm và hai yến cho các “tôi tớ tài giỏi và trung thành” (Mt 25:21.23). Điều ông quan tâm nhất không phải là khả năng chuyên môn, nhưng là nhân đức của người tôi tớ. Chính nhân đức mới quyết định tất cả thành bại cuộc đời. Những người tôi tớ này không những tài giỏi, nhưng còn có cái nhìn sáng suốt và đặt tất cả niềm hi vọng lớn lao nơi ông chủ. Bằng chứng họ đã hết sức tích cực làm việc ngay cả khi ông chủ vắng mặt. Đối với họ, ông chủ có mặt hay không, điều đó không ảnh hưởng tới công việc của họ. Vì chính lương tâm thúc đẩy họ hoàn thành mọi việc một cách xuất sắc. Niềm hi vọng đó phát xuất từ niềm tin tưởng ông chủ sẽ ban niềm vui lớn lao vào lúc ông trở về. Niềm vui chính là phần thưởng chỉ dành cho những “tôi tớ tài giỏi và trung thành”, bất kể số lượng được giao bao nhiêu. Quả thực, còn gì vui bằng khi nghe ông tuyên bố: “Phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa.” (Mt 25:29) Niềm vui tràn trề ! Vượt quá niềm tin và hi vọng.
Nhưng trong khi người tôi tớ “tài giỏi và trung thành” vào “hưởng niềm vui của chủ” (Mt 25:21.23), thì “tên đầy tớ vô dụng kia” bị quăng vào “chỗ tối tăm bên ngoài : ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 25:29.30) Một hoàn cảnh, hai số phận. Giá trị cuộc đời không đo bằng số lượng của cải hay tài năng, nhưng bằng lòng trung thành. Giả sử người đây tớ nhận một yến hoàn toàn hài lòng và hành động theo chỉ thị ông chủ, chắc chắn anh dư khả năng để hoàn thành nhiệm vụ. Thế nhưng, mặc dù đủ tài năng và được chủ tín nhiệm, anh cũng không muốn cố gắng chút nào. Anh không muốn biết đến cảnh đồng nghiệp đang nỗ lực thi hành ý muốn ông chủ. Anh lợi dụng cơ hội ông xa nhà để đứng nhìn cuộc đời dưới cặp kính đen thui của anh. Hẳn anh đã từng chê bai và buồn cười trước những lam lũ của những người cúi lưng làm tôi mọi cho một ông chủ “hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.” (Mt 25:24) Thực tế, cái nhìn tăm tối đó đã đẩy anh vào “chỗ tối tăm bên ngoài” để “khóc lóc nghiến răng” (Mt 25:30) trong tuyệt vọng.
Chắc chắn đồng nghiệp không chia sẻ quan niệm của anh về ông chủ. Ngược lại, qui luật cuộc sống rất cần để đạt đến hạnh phúc và niềm vui. Phân chia công tác hay lợi lộc, ông chủ căn cứ “khả năng riêng mỗi người.” (Mt 25:15) Khả năng khác nhau chỉ nhằm phục vụ anh em và giúp mọi người đạt tới hạnh phúc đích thực. Khả năng này chỉ tỏ lộ khi gặp thách đố. Đúng là “thui ra mới biết béo gầy”. Qua cơn thử thách tất cả sẽ lộ nguyên hình. Sau cơn thử lửa mới thấy niềm vui tuyệt vời.
NIỀM VUI TUỔI TRẺ
Niềm vui chính là hấp lực mạnh nhất đối với tuổi trẻ. Nhưng làm sao tìm được niềm vui đó giữa một thế giới quá nhiều bất ổn và khủng hoảng về mọi mặt như hôm nay ? Tương lai thuộc về ai “đem lại niềm hi vọng cho một thế giới đầy dẫy những bất công và thiếu vắng những giá trị,” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 8/11/2002) Muốn thế, “giữa một thời đại nổi cộm với một nền văn hoá nhiều lo lắng, trống rỗng và vô nghĩa, hãy lên tiếng rao giảng Thiên chúa siêu việt, Đấng luôn lắng nghe tiếng những người bị áp bức và đau khổ kêu gào.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 8/11/2002)
Không thể rao giảng Thiên chúa siêu việt, nếu không có lòng “kính sợ Đức Chúa.” (Cn 31:30) Chính lòng kính sợ ông chủ đã giúp những người tôi tớ hoàn thành công tác xuất sắc. “Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn.” (Cn 1:7) Như thế các đầy tớ ông chủ đã được phân ra hai hạng rõ rệt : khôn ngoan và ngu si. Khôn ngoan là thành trì vững chắc nhất bảo vệ mọi giá trị. Không bắt nguồn từ khôn ngoan, niềm vui sẽ hời hợt và lạt lẽo. Chỉ Đức Giêsu, sự khôn ngoan của Thiên Chúa, mới có thể đem lại niềm vui thực sự cho nhân loại. Giữa một thế giới đang vắng bóng Thiên Chúa, các bạn trẻ “hãy tin tưởng ! Hãy xây dựng cuộc sống với Đức Giêsu trong niềm hi vọng!” (Các Giám mục Pháp : Zenit 13/111/2002) Vì chỉ Đức Giêsu mới dẫn mọi người “vào hưởng niềm vui của” Thiên Chúa qua nẻo đường “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”(Rm 14:17). Đó chính là con đường thánh thiện, là “bổn phận căn bản và cấp thiết mà bạn có thể đóng góp vào công cuộc tân Phúc âm hoá, và là một bảo đảm cho công cuộc phục vụ Tin mừng đích thực cho những người cùng khốn.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 8/11/2002)
Giữa “những hoàn cảnh có thể làm lu mờ niềm hi vọng vì những căng thẳng và sợ hãi, chống đối và chia rẽ, quá khích và bạo lực, các bạn phải cấp thiết đem sứ điệp Tin mừng đến cho mọi người. Để có thể thực hiện sứ mệnh đó, trên hết các bạn phải duy trì sự hiệp thông bền bỉ với Đức Giêsu, không ngừng chiêm niệm thánh nhan Người trong kinh nguyện và hết sức phục vụ Người qua anh em.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 8/11/2002) Muốn được như thế, họ cần “mở rộng tâm trí trước những nhu cầu nhân loại, vì nhân loại đang chiến đấu để tìm ra mục đích trong một thế giới có quá nhiều xáo trộn do khủng hoảng về ý nghĩa.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 10/11/2002) Giữa cơn cuồng loạn ngôn từ hôm nay, người ta có thể sẵn sàng hi sinh anh em cho một mục tiêu không tưởng. Đó là cảnh tăm tối trần gian đang đầy đoạ con người.
Chúng ta không thể sống trong cảnh tối tăm đó, “vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày.” (1 Tx 5:5) Đúng như Chúa nói : “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” (Mt 5:14) Có thế, chúng ta mới có thể làm chứng cho mọi người biết “Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, là trung tâm của lịch sử nhân loại và là chìa khoá mở cho mọi người thấy mầu nhiệm con người và mạc khải về ơn gọi tối cao của Người.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 8/11/2002)
Sống giữa những ảnh hưởng chồng chéo nhau hôm nay, giới trẻ phải dấn thân vào “việc Phúc âm hoá văn hoá, để làm cho cuộc sống nổi bật lên niềm hi vọng hơn là sợ hãi hay bi quan.” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 10/11/2002) Muốn được như thế, họ phải lao vào cuộc canh tân đặc sủng Công giáo để trở thành “những dấu chỉ sống động của niềm hi vọng,” (ĐGH Gioan Phaolô: II Zenit 10/11/2002) làm chứng cho mọi người thấy Chúa Thánh linh đang hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân loại. Nhờ Thánh linh giới trẻ sẽ cảm nhận sâu xa chỉ Đức Giêsu mới là niềm vui tột đỉnh, vì “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1) khỏi mọi chế độ áp bức và bất công.
· Cn 31,10-13.19-20.30-31: (10) Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. (11) Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. (12) Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng. (20) Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
· 1 Tx 5,1-6: (2) Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. (3) Khi người ta nói: «Bình an biết bao, yên ổn biết bao!», thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.
(14) Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. (15) Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, (16) người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. (17) Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. (18) Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. (19) Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. (20) Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: «Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây». (21) Ông chủ nói với người ấy: «Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!» (22) Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: «Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây». (23) Ông chủ nói với người ấy: «Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!» (24) Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: «Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. (25) Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!» (26) Ông chủ đáp: «Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, (27) thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! (28) Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. (29) Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. (30) Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Người có một yến bạc đem chôn giấu đi, có làm điều gì thiệt hại cho ông chủ, hay làm điều: TN33-A50
1. Người có một yến bạc đem chôn giấu đi, có làm điều gì thiệt hại cho ông chủ, hay làm điều gì gian ác đối với ông không? Tại sao người ấy bị phạt? Lý do bị phạt là gì?
2. Người chỉ cố gắng tránh điều ác chứ không nỗ lực làm điều thiện, có được gọi là người đạo đức, tốt lành chưa? Quan niệm của Đức Giêsu về vấn đề này thế nào?
3. Tài năng Thiên Chúa ban cho ta là để ta hãnh diện với mọi người hay là để ta đem ra phục vụ mọi người? Ta có trách nhiệm gì khi được Thiên Chúa ban cho nhiều ơn huệ hơn mọi người không?
Suy tư gợi ý:
1. Trách nhiệm đối với những ân huệ Thiên Chúa ban
Dụ ngôn trên nói lên một sự thật đang xảy ra trong thực tế đời sống hằng ngày của ta. Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn huệ khác nhau: sức khỏe, trí khôn, tài giỏi, năng khiếu, thì giờ, nhà cửa, tiền bạc, nghề nghiệp, cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, v.v… kẻ ít người nhiều, người được ân này kẻ được ân khác. Đó là những yến bạc mà Thiên Chúa ban cho mỗi người cách khác nhau. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là mỗi người đều có trách nhiệm đối với những ân huệ đã nhận được. Chúng ta phải sử dụng ân huệ ấy đúng ý Thiên Chúa, phải dùng những ân huệ ấy để sinh lợi ích cho Ngài, cho tha nhân bên cạnh chúng ta. Người được Ngài ban cho nhiều thì cũng bị Ngài đòi hỏi nhiều, người được ban ít thì bị đòi hỏi ít. Và chúng ta ai nấy đều phải trả lẽ trước mặt Ngài về những ích lợi mình làm ra được từ những ân huệ ấy.
Như vậy, những ân huệ Ngài ban, ta có nhiệm vụ quản lý chúng hơn là làm chủ chúng. Nghĩa là ta không nên sử dụng chúng theo ý riêng ta, mà theo ý của Ngài. Do đó, đừng vội mừng vì được Ngài ban cho nhiều, và cũng đừng vội buồn vì được Ngài ban cho ít. Được ban nhiều thì đòi hỏi cũng nhiều, được ban ít thì đòi hỏi cũng ít. Thế mới công bằng! Dù nhiều hay ít, ai cũng phải sử dụng những ân huệ Ngài ban để tạo ích lợi cho Ngài, cho Giáo Hội Ngài, cho tha nhân.
2. Quan niệm về đạo đức theo dụ ngôn những yến bạc
Điều chúng ta cần lưu tâm là người được một nén tuy không hề làm điều gì ác, không làm mất mát hay thiệt hại gì cho ông chủ, thế mà bị ông chủ phạt, bị «quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 25,30). Anh ta bị phạt vì đã được chủ giao cho một yến bạc, nhưng không làm lợi ra được thành một yến khác vì đã cất kỹ nó vào một chỗ. Suy nghĩ về dụ ngôn này này khiến chúng ta phải thay đổi ít nhiều quan niệm về đạo đức. Chúng ta thường tưởng rằng hễ mình không làm điều gì ác thì mình là người vô tội, công chính. Nhưng không phải thế. Theo tinh thần của dụ ngôn, một khi đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa mà ta lại không dùng ân huệ đó để tạo lợi ích cho Thiên Chúa và tha nhân, thì ta trở thành kẻ có tội, cho dù ta không hề làm một điều gì thất đức cả. Đó là ý nghĩa của cụm từ «những điều thiếu sót» trong kinh Cáo Mình: «Tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót». Ít ai quan tâm tới tội phạm do thiếu sót. Nhưng rất có thể trong cuộc đời ta, những tội lớn nhất, nhiều nhất của ta và vì đó mà ta bị luận phạt nhiều nhất lại là thứ tội này. Dù là tội gì, thì căn bản của tội vẫn là do thiếu tình yêu.
3. Đạo đức không chỉ là trách điều ác
Cũng vậy, trong bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng, những kẻ bị kết án không phải chỉ là những người đã từng làm điều ác, mà còn là biết bao người không hề làm một điều gì ác. Lý do khiến họ bị kết án chính là: «Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng» (Mt 25,42-43). Chữ «Ta» trong câu này chính là Đức Giêsu được hiện thân thành tha nhân của ta, nhất là những kẻ nghèo hèn bé mọn. Như vậy, theo Đức Giêsu, người không làm điều gì ác chưa phải là người đạo đức, tốt lành, giống như biết bao Kitô hữu đang quan niệm. Thật vậy, nhiều Kitô hữu, kể cả trí thức, người dạy giáo lý, hễ cảm thấy mình không làm điều ác thì liền nghĩ mình vô tội, thậm chí còn tự hào mình đạo đức nữa.
Nguyên tắc đạo đức chung của con người là «tránh ác, hành thiện». Nếu ta chỉ tránh điều ác nhưng không cố gắng làm điều thiện, thì ta mới thực hiện được một phần rất nhỏ của nguyên tắc ấy thôi. Vì tránh ác thì tương đối dễ, còn hành thiện trong những trường hợp mà lương tâm đòi buộc thì đòi hỏi phải hy sinh, vất vả hơn rất nhiều. Tránh ác hay không làm ác thì không cần nhiều khả năng, vì làm một điều gì đó thì mới cần tới khả năng chứ không làm thì cần gì khả năng? Thật vậy, một trẻ nhỏ, một con vật, có khả năng gì đâu, thế mà chúng vẫn có thể không làm điều gì ác cả. Thiên Chúa đã ban cho ta mỗi người một số khả năng là để ta làm điều thiện, nhất là để làm theo những đòi hỏi của tình yêu trong lòng ta. Nếu khả năng Thiên Chúa ban cho ta mà ta không chịu dùng để làm những điều ích lợi, thì ta sẽ chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Do đó, nhiều khi ta tưởng mình vô tội, tưởng mình đạo đức khi thấy mình chưa hề nhúng tay làm điều gì ác. Nhưng rất có thể Thiên Chúa vẫn kết án ta là tội lỗi, chỉ vì ta đã không làm những gì mình phải làm. Tuy nhiên, hai người cùng ít làm điều thiện y như nhau, người nào có nhiều khả năng hơn thì tội người ấy lớn hơn.
4. Càng nhiều khả năng, trách nhiệm càng lớn
Vì thế, người có nhiều khả năng, nhiều điều kiện để làm điều thiện, thì càng phải ý thức trách nhiệm của mình. Thông thường, càng nhiều khả năng, nhiều tài, nhiều của, càng có địa vị cao, chức vụ lớn, càng trí thức, càng giỏi giang, càng được suy tôn, thì ta càng cảm thấy sung sướng và hãnh diện trước mặt người đời, nhất là trước những người kém cỏi hơn mình. Nhưng khi đọc dụ ngôn này, ta càng cảm thấy run sợ trước trách nhiệm của ta. Trong quá khứ, có biết bao trường hợp ta phải ra tay, phải hành động, phải can thiệp, phải cứu giúp, phải lên tiếng bênh vực, phải nói lên sự thật, phải minh oan, phải khuyên can… mà ta đã không làm gì cả, đang khi ta có thể làm những điều ấy tốt hơn và hữu hiệu hơn ai hết. Thậm chí ta có sứ mạng hay trách nhiệm hành động hay can thiệp. Tệ hơn nữa, ta không hề cảm thấy mình có lỗi gì cả, vẫn cứ tự hào mình vô tội, mình đạo đức, và chẳng thấy cần hối hận điều gì. Chỉ vì ta thấy mình không hề làm điều gì gian ác! Dụ ngôn này cho thấy quan niệm như thế là sai lầm!
Điều ngăn trở khiến ta không muốn là điều thiện, điều cần thiết hoặc ích lợi cho tha nhân, cho xã hội, đó chính là ta thiếu tình yêu. Tình yêu chính là yếu tố thiết yếu nhất của đạo đức, của sự thánh thiện. Chính tình yêu làm ta nên giống Thiên Chúa hơn bất kỳ điều gì khác, vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8.16). Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm cốt yếu của đạo đức hay thánh thiện là ở một điều gì khác: kẻ thì bảo hệ tại việc giữ luật lệ cho hoàn hảo, người cho rằng hệ tại việc cầu nguyện cho nhiều, kẻ khác cho rằng hệ tại việc thực hành chăm chỉ các nghi thức tôn giáo, kẻ khác nữa cho rằng hệ tại làm điều tốt này việc tốt kia… Thật ra, tất cả những chuyện ấy đều tốt, nhưng chúng chỉ là phương tiện để giúp ta hình thành hay củng cố tình yêu trong lòng ta. Nếu chúng không nhắm hay không đạt được mục đích ấy thì chúng đều trở thành vô ích. Thánh Phaolô xác định điều ấy: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3)
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con được Cha ban cho biết bao ơn huệ, thậm chí hơn rất nhiều người. Thế mà con chỉ biết cám ơn Cha, ca tụng tình yêu thương của Cha, chứ không hề nghĩ đến trách nhiệm phải sử dụng những ơn huệ ấy để làm ích lợi cho Cha, cho Giáo Hội, cho xã hội và tha nhân chung quanh con. Biết bao lần lương tâm và tình yêu trong con đòi buộc con phải ra tay cứu giúp, bênh vực, minh oan cho người khác, nhưng con đã không làm. Xin giúp con nhận ra đó là tội lỗi. Con chưa hề có ý thức tội lỗi về những việc phải làm mà không làm. Xin tha thứ cho con. Con cảm thấy cần phải sám hối và thay đổi lại quan niệm của con.