Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 32 TN-A Bài 1-50: Chuyện 10 trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể
------------------------------------------
Lời Chúa: Mt 25,1-13
Một hôm, Ðức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!” Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”. Ðang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!” Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
------------------------------------------
TN32-A1. CÁC CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI 2
TN32-A2. KHÔN NGOAN VÌ NƯỚC TRỜI 6
TN32-A3. CẦM ĐÈN SÁNG TRONG TAY.. 8
TN32-A4. CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA.. 9
TN32-A5. Khát vọng một thế giới hiệp nhất: Lm. Augustine, SJ. 11
TN32-A6. KHÔN VÀ DẠI - Lm. VIKINI 14
TN32-A7. KHÔN và KHỜ.. 16
TN32-A8. NTĐY/160- CHO NGÀY HÔM NAY.. 22
TN32-A9. CS / 151- KHÔN VÀ DẠI 24
TN32-A10. STM/229- MƯỜI NGƯỜI TRINH NỮ.. 25
TN32-A11. PV / 634- CHỜ ĐỢI 26
TN32-A12. PV / 636- KHÔN NGOAN.. 28
TN32-A13. PV/640- ĐAU KHỔ VÀ HY VỌNG.. 29
TN32-A14. Tỉnh Thức Đợi Chờ - Lm. Gioan Trần Khả. 31
TN32-A15. TỈNH THỨC ĐỂ DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI 35
TN32-A16. Dụ Ngôn Mười Trinh Nữ - JKN.. 37
TN32-A17. Sống Tỉnh Yêu và Hy vọng - Lm Augustine S.J. 40
TN32-A18. Tài năng Ân Điển Khác Nhau - Lm Louis Nhiên, CMC.. 44
TN32-A19. Hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng - Lm Carôlô Hồ Bạc Xái 46
TN32-A20. Khôn Ngoan Và Sự Chết - Huyền Ịồng. 50
TN32-A21. SLC – Sẵn sàng. 52
TN32-A22. SLCTTY/352 – Tỉnh thức. 53
TN32-A23. SLCTTY/352 – Tỉnh thức. 56
TN32-A24. CSTM/232 – Sẵn sàng. 57
TN32-A25. Chung vui với khách mời - nhóm Đồng Hành. 59
TN32-A26. Vừa Mang Đèn, Vừa Mang Dầu. 60
TN32-A27. Một chủ đề về sự chết và sự sống. 62
TN32-A28: THẾ NÀO LÀ KHÔN THẾ NÀO LÀ DẠI ?. 65
TN32-A29. Cảnh giác và sẵn sàng đón Chúa - Lm Vũ Thái Hòa. 67
TN32-A30. VÀO GIỜ ẤY CHÚNG TA ĐANG Ở.. 68
TN32-A31. Sống trung tín và tỉnh thức - Fr Jude Siciliano. 71
TN32-A32. KHÔN NGOAN.. 74
TN32-A33. 10 CÔ TRINH NỮ ỊƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI 77
TN32-A34. Khuyến cáo những người có trách nhiệm hướng dẫn người khác. 79
TN32-A35. HÃY TỈNH THỨC.. 85
TN32-A36. ĐỪNG ĐỂ VUỘT MẤT CƠ HỘI!! 86
TN32-A37. TỈNH THỨC.. 89
TN32-A38. CẦU – VỪA – ĐỦ – XÀI 91
TN32-A39. CÂU TRUYỆN: KHÔNG TIN CÓ ĐỜI SAU.. 94
TN32-A40. Dụ ngôn mười cô phù dâu. 94
TN32-A41: Dụ ngôn 10 cô trinh nữ. 96
TN32-A42. Khôn ngoan là báu vật 99
TN32-A43. Có thể ngủ được khi trời giông bão. 101
TN32-A44. Dụ ngôn 10 người trinh nữ. 105
TN32-A45. Chuẩn bị sẵn sàng. 107
TN32-A46. Chúa sẽ đến. 109
TN32-A47. Để tránh việc “quá trễ”. 110
TN32-A48. TRINH NỮ KHÔN NGOAN- + TGM Giuse Ngô Quang Kiệt 112
TN32-A49. Hãy sống khôn ngoan và tỉnh thức! 114
TN32-A50. Chú Giải Thánh Thư CN 32 TN-A (1 Cor 3: 9b-11; 16-17) 116
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn gởi đến những thính giả Do Thái ngày xưa:
Bài Tin Mừng của ngày Chúa nhật thứ 32 hôm nay lấy trong diễn từ thứ 5 của Đức Giêsu, “diễn từ về thời cánh chung”. Đức Giêsu đã từ chối trả lời câu hỏi của các môn đệ: “khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra?”. Bù lại, sau khi kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho họ phải chuẩn bị trước như thế nào: Năm dụ ngôn về sự tỉnh thức là những minh hoạ cho điều đó.
- Trước hết, Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thuỷ và ông Nôe để so sánh (Mt 24,37-42): “Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy”. Ai nấy chỉ lo chuyện đời: “thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng”; Họ không muốn biết rằng Thiên Chúa có thể thi hành việc xét xử ngay giữa cuộc sống hiện tại này. Một mình Nôe đã biết chuẩn bị cho tai hoạ sắp đến.
- Tiếp đến, Chúa kể dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết: “nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu”. Và kết luận: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
- Sau đó Chúa móc nối với dụ ngôn người đầy tớ trung tín để tuyên bố: “Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy!”.
- Đức Giêsu tiếp tục kể tới dụ ngôn mười cô trinh nữ được mời dự tiệc cưới. Bối cảnh của câu chuyện chẳng xa lạ gì đối với các thính giả của nó: một tiệc cưới như thường xảy ra ở Palestine thời đó:
* Như người ta thường biết, cô dâu phải ở tại nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè đến rước.
* Khi chú rể đến một cách long trọng để tìm đón cô dâu về nhà mình, nơi sẽ diễn ra nghi thức chúc hôn và tiệc cưới, có một đám rước tưng bừng ra đón chàng với đèn đuốc sáng trên tay, rồi sau đó cùng với chàng tiến vào tận phòng tân hôn.
Dụ ngôn của Đức Giêsu được Matthêu thuật lại gồm 3 hồi và một màn kết:
* Hồi 1: màn mở với cảnh mười cô trinh nữ “được mời dự tiệc cưới”, cầm đèn “ra đi đón chú rể”. Nhưng chú rể đến trễ, nên các cô “thiếp đi rồi ngủ cả”.
* Hồi 2: Câu chuyện đang mở màn một cách tốt đẹp, bỗng sang một khúc quanh bi đát, khi thình lình “nửa đêm có tiếng la lên: kìa chú rể, ra đón đi”.
Lúc này xảy ra một sự tách biệt giữa nội bộ các cô.
Một bên, gồm năm cô được gọi nào là “biết phòng xa”, “thận trọng”, “khôn”. Trong Thánh Kinh, đức tính này không chỉ sự khôn khéo theo kiểu người đời cho bằng một sự sáng suốt trong hành động, một cách thực tiễn, đối với ý định của Thiên Chúa. Được kể là “khôn” những ai ý thức được tính khẩn trương của ngày giờ, và biết ứng xử phù hợp.
Năm cô gái này “vừa mang đèn, vừa mang dầu theo”. Họ lập tức sẵn sàng, đèn trong tay cháy sáng, để nhập vào đám rước đi đón chú rể và đám bạn bè của chàng.
Bên kia là năm cô được gọi là “dại”. Trong Thánh Kinh, tính từ này không chỉ sự bất cẩn, lơ đễnh, cho bằng một thái độ quên lãng đối với Thiên Chúa: được xem là “dại” kẻ nào lạc xa con đường của Thiên Chúa.
Cả năm cô này mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô nửa chừng bị thiếu dầu vì chú rể đến trễ và bất ngờ. Do không thể xin các chị em khác chia dầu cho, bởi chẳng ai có thể tỉnh thức dùm ai, nên họ phải nửa đêm đi đánh thức chủ tiệm dậy bán dầu cho. Nhưng đi rồi trở về thì đã quá trễ!
* Hồi 3: Đám rước đã vào trong phòng cưới. Cửa đã đóng lại và sẽ không mở ra nữa. Các cô khi ấy mới năn nỉ: “Thưa ngài, thưa ngài! mở cửa cho chúng tôi với!”, nhưng vô ích. Chỉ có tiếng trả lời: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”. Thật trùng hợp lạ lùng với câu của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi: “Đến ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa... Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi” (Mt 7,22-23).
* Màn kết: với lời khuyên: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”.
Các thính giả của Đức Giêsu là những người rất rành Kinh Thánh, không thể lầm vào đâu được: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người (cf. Ed 16,1-43.49-63). “Qua hình ảnh các trinh nữ này, J.Potin nhận định, Đức Giêsu nhắm đến tập thể những người Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn cứu độ đòi phải chờ đợi. Dân Chúa đã thiếp ngủ về mặt thiêng liêng. Nhưng nay thời cứu thoát đã đến. Người ta phải mau chóng đáp lại lời loan báo Tin Mừng, phải nhập vào đám rước đang ngang qua. Để vài giờ nữa thì không thể kịp. Khi gởi gắm lời kêu gọi tối hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cảnh tỉnh dân Israel, đám dân cũ ở Giêrusalem, các vị lãnh đạo tôn giáo. Nếu họ chối từ lời loan báo ơn cứu độ này, họ sẽ không thể được gia nhập Nước Trời! Cả một tai hoạ nghiêm trọng sẽ dành cho họ trong tương lai” ("Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 383).
2. Một dụ ngôn gởi đến những Kitô hữu chúng ta hôm nay:
Dụ ngôn mà Đức Giêsu gợi ra cho các thính giả Do Thái của Người suy tư, vẫn có giá trị cho mọi thời, cả cho thời chúng ta nữa. Được Matthêu đưa vào trong diễn từ dài sau cùng của Phúc Âm ông, khi được gởi đến cho cộng đoàn Kitô hữu, nó trở thành một lời kêu gọi thôi thúc phải tỉnh thức, vì loài người chúng ta không thể biết trước “giờ” chú rể đến, “ngày” Chúa trở lại. Cl.Tassin nhận xét: “Để được dự vào bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa”. Cũng như mười cô phù dâu ở đây, được mời không có nghĩa đương nhiên được vào dự tiệc cưới, thì tự xưng mình là Kitô hữu thôi cũng chưa đủ. Do đó phải khẩn trương chuẩn bị đón Chúa trở lại. Đến ngày đó, Đức Giêsu chỉ “nhận ra” thuộc về Người những ai, trong lúc tích cực mong chờ Người, biết thi hành ý muốn của Chúa Cha; như thế mới là “người khôn”, theo nghĩa của Kinh Thánh.
Cl. Tassin viết tiếp: “Kitô hữu không phải là kẻ bị ám ảnh bởi ngày tận thế sắp đến. Bổn phận của họ là phải luôn sẵn sàng sống đức tin của mình giữa dòng thời gian, phân biệt với những kẻ chỉ biết có hiện tại trước mắt: chính đây là điểm mà trên đó Thiên Chúa sẽ phán xét loài người. Lối sống say sưa với hiện tại, kiểu dư thừa phù phiếm không cần biết trước sau đôi khi lại lấn át khả năng ý thức đúng đắn về hiện tại, biết rút ra những bài học từ quá khứ, biết sửa soạn cho tương lai. Hiểu như thế thì dụ ngôn mới thể hiện được hết sức tra vấn của nó.
Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã ngay giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục Chủ phải là linh hồn của thời gian đợi chờ. Hội Thánh sống với niềm mong đợi ngày cánh chung ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày” ("l'Evangile de Matthieu”, Centurion, trang 259-260).
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Hãy chong đèn sáng” (Mgr. L.Daloz, trong “Le Règne des cieux s'est approché, Desclée de Brouwer, trang 335-336).
“Việc loan báo Chúa đến không có mục đích hù doạ chúng ta, hay bắt chúng ta phải chờ đợi trong sợ hãi kinh hoàng. Thiên Chúa đến trễ không có nghĩa Người tìm cách bắt chợp chúng ta. Người không rình mò bắt tội bắt lỗi con người để trừng phạt! Người là Cha, người Cha nhân từ chỉ muốn mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Người ban cho chúng ta thì giờ vì lợi ích cho chúng ta, để chúng ta biết sử dụng cho nên. Thời gian cho sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa cũng là thời gian cho sự bền đỗ của chúng ta, thời gian của lịch sử chúng ta, là cơ hội cho chúng ta hoán cải đổi đời, sám hối trở về. Chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa về món quà thời gian ấy, và chính chúng ta cũng phải biết nhẫn nại đối với người khác như Thiên Chúa, cầu nguyện cho mọi người, để thông hiệp vào trong lòng nhân hậu và tình thương bao la của Thiên Chúa. Phải biết tận dụng thì giờ, phải hiểu lý do tại sao ông chủ về trễ!
Chúng ta thấy các cô trinh nữ khôn ngoan, có vẻ ích kỷ quá: khi chú rễ đến, họ từ chối không chịu chia chút dầu cho các cô kia: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua thì hơn”. Phải chăng họ quá khôn, quá thủ cho mình, y hệt như con kiến trong câu chuyện ngụ ngôn? Chúng ta đã biết rằng: dụ ngôn không phải là một câu chuyện dạy ăn ngay ở lành. Nó dùng sự so sánh lấy ra từ sinh hoạt hằng ngày, từ lối xử sự thông thường ở đời. Nó không có ý đưa ra một qui luật đạo đức, hay một mẫu mực nhất thiết phải theo... Người ta cũng có thể có nhận xét tương tự về thái độ quá ngờ vực hay quá cứng cỏi của chú rể đối với các cô khờ dại. Đúng là Đức Giêsu tự nhận mình là chú rể, nhưng điều đó không có nghĩa là Người xử sự theo kiểu chú rể trong dụ ngôn, xua đuổi những kẻ đến trễ: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”. Giáo huấn của dụ ngôn được chính Đức Giêsu rút ra. Đó là thái độ luôn sẵn sàng để đáp lại tiếng gọi: “Kìa chú rể, ra đón đi!”. Cần phải cảnh giác, tỉnh táo, khôn ngoan, để nhận ra, phân biệt, biết cách đáp trả; Cần phải chong đèn cho sáng và dự trữ trong mình lúc nào cũng đầy dầu Bác Ái, để giữ cho ngọn lửa đừng tàn lụi; Cần phải có mặt ngay khi Chúa đến, và đừng đi đâu xao lãng việc gì... “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào...” Chúa không chỉ đến trong ngày tận thế. Nếu chúng ta chờ Người đến vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy thời gian quá dài và chúng ta cũng sẽ thiếp đi rồi ngủ cả. Nếu biết rằng Người có thể đến trong mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta sẽ lo thắp sáng ngọn đèn đức tin, đổ đầy bằng dầu đức Ái, để mau ra nghênh đón Người không chút chậm trễ. Rồi sẽ đến một ngày, Người tỏ ra cho chúng ta biết Người là ai, và đã đến với chúng ta như thế nào: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy” (25,40).
2. “Con ve và con kiến” (Bible du dimanche, trang 339-340).
“Một đán cưới to ở một làng quê Palestine: 10 cô phù dâu đến để tháp tùng chú rể đi đón cô dâu. Nhưng chỉ có năm trong số các cô xứng đáng được vào phòng tiệc. Tại sao chú rể lại có thái độ có vẻ cứng cỏi như thế? Dường như tiêu chuẩn chàng đòi hỏi nơi các cô chính là sự “khôn ngoan”. Một khi đã quyết định đi theo chú rể (nói cách khác: một khi đã quyết định là Kitô hữu), phải hoàn toàn qui hướng về Đức Kitô, không được xao lãng tỉnh thức vì đủ ba mươi sáu thứ chuyện phù phiếm vô bổ ở đời. Phải biết chọn lựa, đó là một chuyện. Phải tận dụng mọi phương tiện cần thiết để trung thành với lựa chọn của mình và để đi đến cùng, đó là một chuyện khác nữa... và là chuyện quan trọng hơn cả.
Thánh Matthêu kể lại dụ ngôn này vào cái thời mà chắc chắn các Kitô hữu đã quá quen với đức tin của mình, và đang dần dần làm cho đức tin ấy chỉ còn là vâng theo Hội Thánh một cách máy móc mà thôi. Thời nào thì cũng thế, và những phương thế để tìm lại sức sống cho niềm tin cũng thế thôi”.
Không còn bao lâu nữa là năm Phụng vụ kết thúc, và chúng ta lại bắt đầu bằng một chu kỳ mới của năm Phụng vụ mới. Vì thế, các bài đọc kể từ Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở chúng ta về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày sau hết. Chúa Giêsu sẽ trở lại để gặp gỡ chúng ta, và cuộc đời của mỗi người là một cuộc đợi chờ. Chúng ta biết chắc Ngài sẽ đến, nhưng ngày nào và giờ nào thì không ai được rõ. Vậy mỗi người phải khôn ngoan trong giai đoạn đợi chờ này. Vì thế, trọng tâm của bài bài Tin Mừng hôm nay là hai chữ: "KHÔN NGOAN".
Bài đọc I ca ngợi sự khôn ngoan và bảo rằng: "Ai được sự khôn ngoan là kẻ đó bình an thư thái". Trong Phúc âm, Chúa Giêsu phân biệt hai hạng người. Đó là những người khờ dại và những người khôn ngoan. Và thường những người khôn ngoan biết tính toán, biết tiên đoán bao giờ cũng thành công, đạt được kết quả dễ dàng; còn những người khờ dại thường gặp phải thất bại ê chề.
Bởi vậy, người Việt Nam thường có câu: "Khôn sống, dại chết", và ở đời người ta cũng thường ca tụng và thích gần gủi với những người khôn ngoan, cho nên người ta mới có câu ngạn ngữ. "Một năm sống với người đần không bằng một phút sống gần người khôn". Nhưng khôn ở đây không phải là lưu manh, tráo trở, lường gạt, đạp lên đầu người khác, để ai chết mặc ai, miễn là mình được sống.
Phần đông chúng ta chắc quen thuộc với cảnh một bà mẹ quần quật với những công việc nhà, đứa con chơi ngoài sân chạy vào vừa mếu máo vừa nói: "Má ơi, thằng A nó đánh con". Bà mẹ dừng tay nhìn đứa con và la: "Sao mày ngu quá vậy. Nó đánh mày mà mày không đánh lại, lại còn mang họng chó về đây mà khóc". Như vậy thử hỏi một bà mẹ như thế có khôn không? Cho nên coi chừng nhiều cái khôn trước mắt người đời lại là cái dại trước mắt Thiên Chúa. Trái lại, nhiều cái dại dột trước mắt người đời lại là cái khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.
Thí dụ như các Thánh Tử Đạo của cha ông chúng ta thì trước mắt người đời là dại dột, vì các ngài chấp nhận ngục tù, đầy ải và cái chết nhục nhã dã man. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, các ngài là những người khôn ngoan đã nhìn thấu suốt được cuộc sống chóng qua này, để tìm được cuộc sống hạnh phúc bất diệt muôn đời.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra dụ ngôn năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại, dĩ nhiên Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta phải được xếp vào phía những người khôn ngoan, tức là những người luôn chuẩn bị đầy đủ và luôn sẵn sàng để gặp gỡ Chúa. Giả sử ngay bây giờ Chúa đến để gặp gỡ chúng ta, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình: "Tôi đã sẵn sàng để chờ Chúa không? Đèn của tôi có còn dầu và đang cháy hay là đã tắt từ lâu rồi?" Muốn sẵn sàng tôi phải làm sao bây giờ? Nhiều người tưởng mỗi tối trước khi đi ngủ đọc kinh ăn năn tội là đủ rồi. Không! Chưa đủ. Tôi phải thay đổi tận căn qua từng hành động và tư tưởng của tôi là sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào Chúa muốn, không thể giải quyết hời hợt nhất thời bên ngoài là được.
Chúng ta không cần thực hiện những việc vĩ đại, nhưng trong đời sống hằng ngày hãy bắt chước những em bé nuôi con heo đất, hằng ngày em bỏ vào đó những đồng bạc cắc, cứ vậy những cắc bạc ấy tăng lên. Cũng thế, hằng ngày chúng ta cũng bỏ vào tròng kho dự trữ của chúng ta những việc lành nho nhỏ nhưng chứa đầy tình yêu Chúa. Đó là những kho làng vô giá giúp chúng ta luôn sẵn sàng chờ đợi Chúa. Khi chúng ta đã sẵn sàng thì không ai còn sợ Chúa nữa vì đó là cuộc gặp gỡ yêu thương sau bao ngày chuẩn bị mong chờ.
Dụ ngôn mưới trinh nữ đi đón chàng rể ban đêm chỉ cho chúng ta thấy, trong nhiều ý nghĩa, ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời chúng ta. Có thể tóm gọn như sau : Đời Kitô hữu là một cuộc đợi chủ. Sự đợi chủ này phải mang tính chủ động, không tạiêu cực, thụ động.
ĐỜI KITÔ HỮU LÀ MỘT CUỘC ĐỢI CHỜ
Đợi chờ có nghĩa là hướng về phía trước, về tương lai. Chúng ta đang trên đường đại, chúng ta phải tiến tới một chủ đích còn nằm ở phía trước, ở cuối đường. Điều quan trọng chưa tới. Chúng ta đang hướng tới nó, đang tiến dần tới nó.
Đối với người Kitô hữu, Chúa đang đợi mình ở cuối đường đời. Tới một lúc nào đó, cuộc hành trình trần thế của mình hoàn tất. Cuộc đời mình chấm dứt. Lúc đó Chúa sẽ đến đón mình vào đời vĩnh cửu, vào vinh quang Nước Trời, cùng dự tiệc với Ngài trong cõi hằng sống.
Sự chết vì thế không phải là một thất bại, nhưng là một cuộc trở về nhà Cha, nơi mình sẽ được an nghỉ đời đời, ngoài những sóng gió, thăng trầm của thời gian.
Nếu quả thật như vậy thì người Kitô hữu phải sống như thế nào ? Chắc chắn là phải luôn nghĩ đến tình trạng lữ hành của mình. Mình là người đi đường (homo viator). Nhớ để mà sống siêu thoát, không bám víu một cách tuyệt vọng vào những cái đã, đang, hoặc sẽ qua đi. Trong một dòng nước lũ, nếu không muốn bị cuốn trôi, cần phải bám chặt vào những điểm tựa vững vàng. Đối với người Kitô hữu thì những điểm tựa đó là những chân lý đời đời, là những lời hứa của Thiên Chúa, là một cuộc đời lành thánh.
Có siêu thoát như vậy thì mới sẵn sàng đại theo Chúa khi Ngài đến. Hành trang mới đủ nhẹ để theo cho kịp Ngài.
ĐỢI CHỜ CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỤ'C
Người ta thường giữ thái độ thụ động khi chờ đợi. Trong khi chờ đợi người ta thường không làm gì cả, coi thời gian chờ đợi là khoảnh khắc tạm bợ, thời gian chết. Thời gian cứ trôi đi vô tội vạ.
Năm cô trinh nữ khờ dại phạm cái lỗi là đã không chuẩn bị chu đáo cho cuộc chờ đợi lâu dài thâu đêm. Đã không đem đủ dầu để đèn tắt, li còn bỏ đi ngủ thay vì chờ đợi. Đến khi choàng dạy kiếm được dầu thì cửa phòng cưới đã đóng, tiệc đã bắt đầu từ lâu.
Người Kitô hữu không thể chờ Chúa đến theo kiểu này. Thời gian chờ đợi Chúa không phải là thời gian chết. Phải chuẩn bị chủ động ngày Chúa đến. Chúa Giêsu thúc giục phải tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là biến khoảng thời gian trống thành những giây phút tràn đầy lòng khao khát và sự hiện diện của Thỉên Chúa. Cuộc đời Kitô hữu luôn phải diễn ra trong lòng sốt mến, thu tích tối đa kho tàng thiêng liêng. Cuộc đời càng dài thì lòng sốt mến càng phải gia tăng.
Tuy nhiên lòng siêu thoát hướng về thế giới mai sau không miễn trừ cho chúng ta những bổn phận hiện tại. Cánh chung và nhập thế không loại trừ nhau. Hơn nữa, làm những gì mà trách nhiệm hiện tại buộc chúng ta phải làm mỗi ngày cũng là một cách chuẩn bị đón Chúa và xây dựng Nước Trời mai sau. Không phải vì chờ đợi Nước Trời mà người Kitô hữu sao nhãng những trách nhiệm trần thế đối với bản thân, gia đình, xã hội, thế giới. Chẳng những không sao nhãng mà còn thi hành thật đầy đủ, hoàn hảo vì hiểu rõ ý nghĩa và tin tưởng vào giá trị những việc mình làm.
Tóm lại Chúa Giêsu đặt ra một số nguyên tắc căn bản để giúp chúng ta hướng dẫn cuộc sống của mình :
- Nhớ mình là người đi đường và Chúa đang đợi mình ở cuối đường. Vì thế phải sống siêu thoát và nhanh chân trên đường đại.
- Không chờ đợi thụ động mà phải chuẩn bị tích cực cuộc gặp gỡ cuối cùng với Chúa.
- Chu toàn mọi trách nhiệm trần thế và coi chúng là một phần không thế thiếu của cuộc chuẩn bị Nước Trời mai sau.
“Ta không biết các ngươi”
Trong Giáo Hội Thessalonica, gần cửa biển, xảy ra nhiều vụ chết chóc. Giáo dân hoảng sợ và tự hỏi số phận những ấy sẽ như thế nào, trong ngày Chúa đến, các ngươi ra đi có được dự phần vinh quang không?
Phaolô nhắc lại cho giáo dân đang lo sợ niềm tin của họ ngày chịu phép rửa tội. Họ đã tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục sinh sống lại, thì điều đã xảy ra trong quá khứ chính là niềm hy vọng trong tương lai. Trong ngày Chúa lại đến, tất ac những ai đã được Rửa tội, dầu còn sống hay đã chết, đều được dự vào bữa tiệc hoan lạc, cả hồn lẫn xác. “Vì-Phaolô nói-khi nghe lệnh, tiếng Tổng Lãnh Thiên Thần và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời xuống và những người đã chết trong Đức Kitô, sẽ sống lại, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Chúa Kitô và được ở cùng Ngài luôn mãi”. Đó là niềm tin của chúng ta và đó là mối hy vọng của những ai buồn sầu vì số phận phải chết.
Nhưng muốn vào dự Tiệc Thánh thì chúng ta phải làm thế nào?
Chúa Giêsu dạy chúng ta phương thế qua dụ ngôn mười người Trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó có 5 cố khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Đám cưới Do thái thường tổ chức ban đêm. Người ta sẵn sàng đèn đóm đi đón chàng rể. Chúng ta thấy, qua dụ ngôn, chàng rể là Chúa Giêsu và không biết Ngài sẽ đến lúc nào, giờ nào.
Phaolô định nghĩa người giáo dân là “những người đang chờ đợi Chúa đến trong tình yêu thương” (2 Tm4,8)
Hình ảnh đêm tối nói lên sự chậm trễ. Chúa sẽ đến những không biết lúc nào. Vả lại, chúng ta đâu có quyền đặt cho Chúa một thời khóa biểu lúc nào Ngài đến.
Bởi vậy phải tỉnh thức. Phải dọn mình sẵn sàng khi Chúa đến, bằng sự ước ao, bằng lời cầu nguyện. Khốn cho những ai không trông đợi Chúa, không chuẩn bị đón Chúa.
Sự chết sẽ đặt ta trước cửa Nước Trời. Cửa ấy mở ra hay đóng lại? Một cuộc đời tin yêu trung thành với Chúa là chìa khóa đưa “vào bữa tiệc Con Chiên” (Kh.h 21). Bằng không, cửa sẽ đóng lại với tiếng ghê rợn từ bên trong vọng ra: “Ta không biết các ngươi”. Đối với những ai đã sẵn sàng, đèn cháy cầm tay, họ sẽ được sung sướng gặp Chúa. Bà Thánh Têrêsa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”, trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài đồng than thở: “Lạy Chúa, con… yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt lại đi, đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút tối 30 tháng 9 năm 1897. Hai người Trinh nữ ấy đã cầm đèn sáng ra đón Chúa và gặp gỡ “người tình lang” muôn thuở.
Đỗ thế Anh và Mai lệ Thu (Joel and Marie) sẽ thành hôn trong 12 ngày. Cả hai là thành viên của Phong trào Tổ Ấm. Phong trào hiện đứng ra tổ chức (4-4-1993) một cuộc liên hoan giới trẻ qui tụ được gần 5,000 người trẻ từ 21 quốc gia hầu hết từ Châu Á, như Nhật Bản, Miến Điện, Singapo, Malaixia, Thái Lan, HongKong, Đài Loan, Macao, tuy đông nhất từ Phi Luật Tân là nơi cuộc liên hoan được tổ chức. Họ thuộc nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa và chế độ chính trị khác nhau, nhưng cùng chung niềm khát vọng xây dựng một thế giới hiệp nhất. Khát vọng ấy được diễn tả qua những bài hát, những kịch câm, những điệu vũ, những cuộc chia sẻ kinh nghiệm sống. Đã có những bạn ra về nhìn nhận thành công của cuộc liên hoan này. Chẳng hạn, bạn Cao như Ri (Kaori) từ Nhật Bản nói: "Tôi không phải là Kitô hữu nhưng là một Phật tử… Tôi nhận ra điều có thể thực hiện được là xây dựng một thế giới hiệp nhất. Đây là lần đầu tiên tôi có kinh nghiệm về hiệp nhất và cảm nhận được tình hiệp nhất đó tràn ngập bất cứ đâu trong cuộc đại hội tôi được tiếp cận. Đó là khởi đầu của đời sống hiệp nhất của tôi bởi vì tôi muốn sống lối sống hiệp nhất như tôi được thấy." Vậy hai cô cậu Đỗ thế Anh và Mai lệ Thu đã chia sẻ được gì về tình yêu và hiệp nhất để góp phần cho thành công của cuộc liên hoan? Hai cô cậu đứng chia sẻ kinh nghiệm sống của mình trên sân khấu có căng hai khẩu hiệu cho thấy điều thách đố là ĐI NGƯỢC DÒNG và XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA CHO KHÔNG.
Trong tương quan với nhau - Thiên Chúa phải là trên hết
Đỗ thế Anh: Chúng tôi khi tương quan với nhau phải nhìn nhận Thiên Chúa là trên hết. Tương quan với Chúa quan trọng hơn tương quan giữa chúng tôi với nhau. Đó là điều hai chúng tôi đều nhất trí với nhau. Quả thật khi chúng tôi yêu nhau, tình yêu ấy chỉ đích thực khi chúng tôi đặt lòng yêu mến Thiên Chúa lên hàng đầu. Chẳng vậy, chúng tôi sẽ nghèo nàn, chẳng có gì là thực chất để cho nhau hay cho bất cứ ai khác. Vậy nên, chúng tôi cần phải cố thể hiện ý Chúa trước khi thể hiện ý riêng mình. Điều được bao hàm là phải sống trong sạch và phải giữ khoảng cách.
Mai lệ Thu: Trong sạch có nghĩa là yêu nhau không vì mình nhưng vì người mình yêu. Tôi có thể thực hiện điều đó nếu tôi để Đức Giêsu sống trong tôi. Người cho tôi khả năng thực sự là mình cách hoàn toàn và trọn vẹn. Nhờ vậy tránh tình trạng rỗng tuếch nơi tôi khiến tôi phải dựa vào anh ấy về mặt tình cảm, như người hai chân không vững phải dựa vào nạng để đứng. Anh ấy và tôi nhận Đức Maria làm người mẫu về trong sạch. Chúng tôi cố gắng sống với nhau như những người bạn đích thực cho tới khi thành hôn, thay vì đối xử với nhau như đã là vợ chồng rồi. Chúng tôi nhất trí với nhau về những điều nên làm cũng như những điều không nên làm. Chúng tôi cũng cố trung thành với điều đã quyết tâm bằng cách tránh những nơi hoặc những hoàn cảnh gây nên những chước cám dỗ cho chúng tôi.
Đỗ thế Anh: Đã có thời bản thân tôi cảm thấy bị lôi cuốn mạnh về giới tính đối với Mai lệ Thu. Thật là thời điểm căng thẳng. Đó là lúc tôi thực không rõ điều tôi cảm nhận đúng hay sai. Nếu hai chúng tôi thực sự yêu nhau thì nên nói cho nhau biết sự thật. Vậy tôi đã chia sẻ với Mai lệ Thu những cảm nhận của tôi. Mai lắng nghe tôi nói với một tình cảm quảng đại đến nỗi tôi cảm thấy mình không bị xét xử nhưng được thông cảm. Vì có tình hiệp nhất như vậy giữa chúng tôi, nên rõ ràng đó chỉ là một thời điểm qua đi. Sau đó, tôi cảm thấy được bình tĩnh, tự do và bình an nội tâm.
Mai lệ Thu: Để cho tình yêu và tình hiệp nhất ấy lớn lên giữa hai người chúng tôi, chúng tôi cố gặp nhau ít là mỗi tuần một lần bằng cách tổ chức đi chơi ngoài trời hoặc tổ chức một bữa ăn, một buổi cầu nguyện hay một buổi làm việc chung với nhau. Cũng có những lần với những sinh hoạt như vậy, chúng tôi mời cả người của gia đình chúng tôi hoặc bạn bè đến nữa, vì chúng tôi cảm thấy đó là cách hướng tình yêu của chúng tôi về với những người lân cận. Thường xảy ra về cuối tuần, chúng tôi cần gặp nhiều người khác nữa. Những chuyện của giới trẻ Tổ Ấm hoặc của gia đình chúng tôi, có khi đến bất ngờ khiến chúng tôi mất cơ hội gặp nhau. Nhưng chúng tôi vui vẻ lo những chuyện đó như là chút quà tặng mà chúng tôi dành riêng cho những người khác.
Đỗ thế Anh: Câu Phúc Âm đánh động tôi rất nhiều là "Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hiến mạng mình vì bạn hữu." Câu ấy đòi tôi phải cho đi tất cả, gồm cả sức lực, trí khôn và tình yêu, kể cả mạng sống tôi nữa. Tôi cảm thấy mệt nhọc sau một ngày làm việc vất vả, nhưng nhiều khi tôi phải lái xe đưa Mai lệ Thu về nhà của Mai ở Yên Đổ (Antipolo) vì sợ nguy hiểm cho Mai phải đi về nhà một mình ban đêm. Tôi hiểu khi tôi yêu Mai với tất cả tâm hồn thì có nghĩa là tôi phải quan tâm tới những điều Mai ưa thích. Hôm ấy tôi tháp tùng Mai đi vòng vòng để mua thứ quần và áo gió theo sở thích. Thật là mất giờ để Mai chọn được điều mình ưa thích đến nỗi tôi gần như phải bực mình vì khi ấy đã muộn mà tôi lại có hẹn gặp người khác nữa. Khi ấy tôi cảm thấy tôi cần phải bày tỏ tình yêu đối với Mai bằng cach kiên nhẫn gợi ý về màu sắc và kiểu may để Mai chọn. Tôi thực đã khám phá ra nhiều cơ hội như vậy để bày tỏ tình yêu đích thực.
Mai lệ Thu: Chỉ còn 12 ngày nữa chúng tôi sẽ thành hôn. Chúng tôi thực muốn tình yêu của chúng tôi đối với Chúa là cơ sở để mái ấm của gia đình chúng tôi được bén rễ.
Đức Giêsu ban Thần Khí giúp ta luôn tỉnh thức đón Người đến
Lời chia sẻ của Đỗ thế Anh và Mai lệ Thu vừa trích cho thấy hai người trẻ đã có tâm hồn cao thượng đáng thán phục nhưng lời chia sẻ của họ có nói lên được điều gì mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nói chăng?
Bài Tin Mừng hôm nay rút ra từ bài giảng chót, tức thứ năm quen gọi là bài giảng cánh chung của Đức Giêsu theo sách Phúc Âm Matthêu. Đề tài là Nước Thiên Chúa đang đến. Điều được nhấn mạnh là: Phải tỉnh thức vì thực sự không ai biết ngày nào giờ nào Nước ấy sẽ đến.
Trước hết Đức Giêsu nói đến những biến cố phải đến trước tận thế, như những cơn đau đớn khởi đầu (Mt 24,4-14), cơn gian nan khốn khó tại Giêrusalem (24,15-25). Kế đến là những dụ ngôn khuyến khích người nghe phải có thái độ tỉnh thức, cuối cùng là hình ảnh về ngày chung thẩm (25,31-46) là phần chót của bài giảng cánh chung.
Riêng dụ ngôn mười trinh nữ tượng trưng toàn bộ các Kitô hữu, giáo dân nam nữ cũng như giáo sĩ. Ai cũng có thể là tín hữu khôn ngoan hay khờ dại. Khôn là người biết chuẩn bị những điều cần thiết để nghênh đón Chúa đến. Khờ, ngược lại, là kẻ chẳng quan tâm chuẩn bị. Đức Giêsu sử dụng phong tục lễ cưới vùng Trung Đông để mang lại cho dụ ngôn mười trinh nữ giá trị sân khấu. Điều gay cấn theo phong tục là cuộc thương lượng giữa hai gia đình. Chỉ khi nào cuộc thương lượng kết thúc, chàng rể mới đi đón cô dâu về. Các phù dâu khờ cứ tưởng chàng rể sẽ không đến ban đêm, còn các cô khôn ý thức rõ chàng rể có thể đến bất cứ lúc nào (cc.2-4). Chàng rể trong thực tế đã chậm trễ (c.5) nhưng cuối cùng xuất hiện vào thời điểm bất ngờ nhất (c.6). Các cô khờ trở tay không kịp nên đã không mua được dầu để thắp đuốc hầu rước dâu về nhà chồng (cc.7-10). Cái cảnh họ bị từ khước không được vào tham dự tiệc cưới (cc.11-12) chỉ là logic của việc họ đã không chuẩn bị cho cuộc hành trình đưa họ vào dự tiệc cưới đó. Vậy bài học là phải tỉnh thức (c.13).
Lời chia sẻ của Đỗ thế Anh và Mai lệ Thu dĩ nhiên không được cơ cấu hóa một cách khít khao như bài Tin Mừng để nói lên lời khuyên là phải tỉnh thức. Nhưng nội dung của lời chia sẻ cho thấy hai người trẻ này rất ý thức về Nước Thiên Chúa đang đến và họ luôn chuẩn bị để Chúa đến với họ trong giây phút họ hiện đang sống.
Đỗ thế Anh nói ở đầu cuộc chia sẻ là "Chúng tôi khi tương quan với nhau phải nhìn nhận Thiên Chúa là trên hết." Câu nói ấy cho thấy hai người trẻ này đặt bản thân và tương quan giữa nhau trong vòng tay ưu ái của Thiên Chúa. Họ ý thức chính Chúa đã đưa họ vào đời ngang qua cha mẹ là cộng sự viên của Người. Chính Chúa cũng đang đưa họ về cùng đích ngang qua mối tình mà Người khơi dậy nơi họ cho phép họ yêu thương nhau tới mức có thể hy sinh mạng sống mình vì tình yêu đó. Cho nên điều hoàn toàn logic là họ phải đặt lòng yêu mến Thiên Chúa lên hàng đầu. Và họ phải cố thể hiện ý Chúa trước khi thể hiện ý riêng mình. Như vậy chứng tỏ họ đang đặt mình hoàn toàn ở trong Nước Thiên Chúa thay vì ở ngoài Nước ấy. Nước Thiên Chúa là cảnh vực nơi mà Thiên Chúa hiện làm chủ. Cũng tựa như nước Việt Nam bao gồm mọi lãnh vực dưới đất, trên không và ở lòng biển, nơi mà nước Việt Nam nắm chủ quyền.
Điều bảo đảm tình trạng họ ở trong Nước Thiên Chúa là họ "để Đức Giêsu sống" trong họ, như lời Mai lệ Thu nói. Đức Giêsu một khi chỗi dậy khỏi sự chết, Người không còn bị lệ thuộc vào những điều kiện ràng buộc của thân xác nữa. Thiên tính Người như từng ẩn dấu mình đi trong cuộc sống trần thế, nay biểu lộ ra cách mãnh liệt qua Thần Khí Người ban cho tất cả những ai nghe Lời Người dạy dỗ. Chính Thần Khí luôn luôn sống động và luôn tỉnh thức giúp Đỗ thế Anh và Mai lệ Thu đón nhận Nước Thiên Chúa đến trong cuộc sống hàng ngày.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Đọc lời chia sẻ của Đỗ thế Anh và Mai lệ Thu, bạn có thể tâm đắc về câu: "Khi chúng tôi yêu nhau, tình yêu ấy chỉ đích thực khi chúng tôi đặt lòng yêu mến Thiên Chúa lên hàng đầu. Chẳng vậy chúng tôi chẳng có gì là thực chất để cho nhau"? "Cần thể hiện ý Chúa trước khi thể hiện ý riêng mình"? "Đức Giêsu cho tôi khả năng thực sự là mình… nhờ vậy mà tránh được tình trạng rỗng tuếch nơi tôi khiến tôi phải dựa vào anh ấy…như người hai chân không vững phải dựa vào nạng để đứng"? "Chúng tôi thực muốn tình yêu của chúng tôi đối với Chúa là cơ sở để mái ấm của gia đình chúng tôi được bén rễ"? Bạn có ý kiến khác?
2. Ai cũng có thể là tín hữu khôn hoặc khờ. Vậy theo bài Tin Mừng hôm nay, ai là người khôn và ai là người khờ?
Lời Chúa đề cập đến năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Thế nào là khôn ngoan và khờ dại ?
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích :
Theo chiều kích tự nhiên, khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập” (1V. 5, 9-14).
Theo chiều kích siêu nhiên, khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết” (Dn. 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói : “Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan” (Cv. 6, 3)
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái” (Đnl. 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan : “Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan” (Hc. 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi” (Tv. 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1. 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói : “Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa” (Lc. 11,31). Cho nên Bài đọc I đã hô hào ta khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu (Kn. 6, 12-16)
Bài Tin mừng cho thấy năm cô khôn ngoan. Các cô đã được theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Đây là tiệc cưới nước Trời muôn ngàn vinh quang rực rỡ, và hạnh phúc vô cùng.
Các cô đáng được hưởng hạnh phúc vinh quang đó vì các cô khôn ngoan biết lo chu toàn nghĩa vụ của mình, đã sửa soạn đầy đủ đèn dầu thắp sáng cho đám tiệc được vui mừng rực rỡ. Các cô đã coi trọng nhiệm vụ mình để tôn trọng chú rể, mong đợi giờ phút chú rể đến, dù bất cứ lúc nào, các cô đã sẵn sàng tất cả mọi sự, các cô có thiếp ngủ, các cô vẫn an giấc, không còn lo âu, áy náy sợ chi nữa. Chỉ cần có tiếng hô to là các cô thức dậy theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Thánh Phaolô thấy giáo hữu Thessalonica đã khôn ngoan sống theo lời Chúa, nên ngài đã an ủi họ đừng có buồn phiền về người an giấc ngàn thu như những người không tin tưởng, những người khờ dại. Vì chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng với Chúa Giêsu... được ở cùng Chúa mãi mãi (Thes. 4, 13-18)
Trái lại, những kẻ khờ dại như năm cô đem đèn mà không có dầu. Những kẻ này quá tệ ! Chúng lơ là lười biếng, thờ ơ nguội lạnh bỏ bê nhiệm vụ, chúng khinh thường những việc trọng đại như tiệc cưới, coi khinh chàng rể, xách đèn đi mà không coi gì tới đèn có dầu hay không. Sống quá bừa bãi, bê tha gì đâu đâu, còn chính nhiệm vụ quan trọng của mình lại không lo. Đối với hạng người bê bối này, chủ bảo : “Tôi bảo thật các cô, tôi không hề biết các cô là ai cả”. Chúng đã không biết chủ, không kính trọng chủ, làm cho đám tiệc thiếu niềm vui vì thiếu ánh sáng, tối tăm, cho nên chúng đáng phải trong tối tăm. Khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần ban ra và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, những người chết trong Chúa Kitô sẽ được sống lại trong vinh quang với Chúa (Thes. 4,16), còn “những kẻ đã không làm cho chính Ta, sẽ bị đuổi vào chốn cực hình muôn kiếp” (Mt. 25, 46).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khôn ngoan tỉnh thức, luôn luôn sẵn sàng lo chu toàn ý chủ, chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc Chúa trao phó. Như thế, chúng con đã chứng tỏ được lòng trung tín tôn thờ và kính mến Chúa hết lòng. Xin đừng bao giờ để con dám bỏ bê khinh thường việc chuẩn bị đi đón Ngài, kẻo bị loại ra khỏi tiệc cưới nước Trời.
KHÔN và KHỜ là hai trạng thái đối lập. Hai tâm tình cùng “ca hát” nhưng lại không vui vẻ TN32-A7
KHÔN và KHỜ là hai trạng thái đối lập. Hai tâm tình cùng “ca hát” nhưng lại không vui vẻ như nhau – một Khôn Khéo, và một Khờ Khạo. Thật thú vị khi nói về cách đánh vần trong Việt ngữ, một cách là “ca hát” (KH) và một cách là “khờ” (KH). Hoàn toàn trái ngược!
Kinh Thánh minh định: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời” (Hc 1:1). Thánh Vịnh gia cũng xác định: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan. Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy. Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người” (Tv 111:10). Và Thánh Bênađô đặt vấn đề: “Nếu con người KHÔNG biết kính sợ và yêu mến Thiên Chúa, bất kể họ gọi Ngài là gì thì KHÔNG THỂ gọi họ là người khôn ngoan”. Kinh Thánh xác định: “Người khôn tránh bạn xấu” (Cn 1:8a). Chúng ta đã thực sự là người khôn ngoan chưa? Coi bộ “căng” dữ nghen!
Ai cũng khả dĩ biết rằng sự khôn ngoan là một đức tính cần thiết trong cuộc sống, Kitô hữu chúng ta gọi là “nhân đức” – Đức Khôn Ngoan, một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần. Người khôn ngoan là người biết tiên liệu và dự phòng mọi thứ có xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Dù không học nhiều, thậm chí là mù chữ, nhưng người ta vẫn có thể khôn ngoan. Sống lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Từ xa xưa, Menander (342-291 trước Công Nguyên) đã xác định: “Tóc bạc KHÔNG sinh ra sự khôn ngoan”. Mạnh mẽ và thẳng thắn, tác giả sách Huấn Ca nói mà không kiêng nể chi: “Già đầu mà ngu” (Hc 25:2).
Thật thú vị bởi vì đức khôn ngoan liên quan sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác cũng rất cần thiết trong đời sống. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời mình mới là khôn ngoan”. Tác giả sách Giảng Viên cho biết: “NGƯỜI KHÔN biết mở mắt nhìn, KẺ DẠI bước đi trong tăm tối” (Gv 2:14).
Người ta phải có sự khôn ngoan trước khi có thể đạt được quyền lực, có khôn ngoan mới có thể sử dụng quyền lực đó một cách đúng đắn, nếu không sẽ rất nguy hiểm – nguy hiểm cho người khác và cho chính họ.
Ngày xưa, Vua Salômôn thực sự khôn ngoan khi xin Chúa ban cho được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân. Và rồi ông đã có mọi thứ, vì điều ông xin đã làm Thiên Chúa hài lòng. Ngài giải thích: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi” (1V 3:11-13; 1Sbn 1:11-12). Vua Salômôn nổi tiếng khôn ngoan với vụ xử kiện “giành con” của hai cô gái điếm (x. 1V 3:16-28).
I. ĐỨC KHÔN NGOAN
Kinh Thánh nói về tầm quan trọng của sự khôn ngoan: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (Kn 6:12-14).
Đề cập đức khôn ngoan, chúng ta thử suy nghĩ vài “điều nhỏ” này:
- Nếu chỉ biết sáng đi làm, chiều trở về, ăn uống, xem ti vi, rồi ngủ nghỉ, thế thì người đó chẳng khác gì loài động vật;
- Nếu bạn chỉ có ý định gian lận cái gì đó của người khác thì đó cũng là lúc đen tối nhất của cuộc đời rồi;
- Người thầy mà không dạy cho học trò biết ham muốn học tập thì đó là người thầy tồi;
- Học trò mà không biết lắng nghe thầy cô giảng bài thì đó là học trò ngu dốt, vô trách nhiệm với chính cuộc đời mình, chẳng hy vọng gì trong tương lai;
- Người nóng vội, bộp chộp, động thái đó ảnh hưởng xấu tới cả tinh thần lẫn thể lý, ảnh hưởng xấu tới cả những người xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì người đó không hơn một con chó giữ nhà;
- Sống mà không có ước mơ, luôn than phiền, người đó chẳng khác loài tầm gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu người khác để sống.
Và còn nhiều điều khác tương tự như vậy. Lối sống đó là ích kỷ, chỉ biết yêu mình, không sáng suốt và chắc chắn là không khôn ngoan chút nào. Như vậy là lãng phí cuộc đời, là “chết” ngay trong khi còn sống, bởi vì sống quá thụ động, buông xuôi!
Kinh Thánh nói: “Trí khôn ngoan làm miệng nên khéo léo, và thêm sức thuyết phục cho đôi môi” (Cn 16:23). Sự khôn ngoan không chỉ làm cho người ta linh hoạt về tinh thần, mà còn tươi tỉnh cả về thể lý: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng” (Gv 8:1). Sự khôn ngoan quá tuyệt vời, thế nên mới cần thiết. Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (Kn 6:15-16). Ở đây không là sự khôn ngoan nhờ vào phàm nhân mà là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa.
Cái lợi này tích lũy thêm cái ích nọ. Càng khôn thì càng khéo, và người ta thường ghép đôi là “khôn khéo”. Cứ thế và cứ thế. Người khôn ngoan biết tìm kiếm những thứ bền vững, không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” trong tầm nhìn của loài người. Nhưng điều trường cửu đó là điều thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3).
Khôn ngoan đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Vì thế, người khôn ngoan là người chuyên tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và họ có được Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Vịnh gia cảm nghiệm và chia sẻ: “Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui” (Tv 63:8). Khôn ngoan giúp người ta bớt lo lắng, bớt lo lắng thì dễ an tâm, nhờ an tâm mà vui sống. Rất lô-gích!
Ngược lại, vì thiếu khôn ngoan mà người ta cảm thấy bất an, khắc khoải, lo sợ và nuối tiếc. Người ta trở nên bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Thuyết nhà Phật gọi tình trạng đó là “giác ngộ”. Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang thang khắp Sàigòn với phong cách rất “bụi”, và ông đã than thở:
Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ!
Còn đối với thi sĩ Trần Tế Xương, trong thi phẩm “Dại Khôn”, ông đã nhận định thế này:
Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn
Thật vậy, khó có thể nhận biết ai dại, ai khôn. Chúng ta tưởng người này khôn mà hóa ra người dại, chúng ta tưởng người kia dại mà hóa ra người khôn. Thánh Phaolô cho biết: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1Cr 1:25). Người khôn ngoan nhất là người biết kính sợ Thiên Chúa (x. Tv 111:10). Làm người sống ở đời, chẳng ai biết ngày mai trời mưa hay nắng, cũng không thể biết cuộc đời mình ra sao, vì thế mà luôn cần tỉnh thức. Người khôn ngoan là người luôn biết tỉnh thức!
II. KHÔN và KHỜ
Khôn Khéo thì Tỉnh Thức, Khờ Khạo (Không Khôn) thì Mê Muội. Khôn và Khờ là hai trạng thái khác nhau, “khoảng cách” rất mong manh giữa hai trạng thái đó. Thiên Chúa đã cảnh báo mỗi người chúng ta: “Nếu ngươi KHÔNG TỈNH THỨC thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi CHẲNG BIẾT giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi” (Kh 3:3). Bão lũ, lụt lội, giông tố, động đất, sóng thần, tai nạn, ... Cụ thể là cơn siêu bão Damrey vừa “tấn công” Khánh Hòa ngày 4.11.2017. Chắc chắn không ai biết lúc nào gặp “sự cố”, dự báo thời tiết cũng chỉ là dự đoán, không thể biết chính xác thời điểm nào. Ngay giữa lòng thành phố Sàigòn mà có nhà tự dưng sụp hố làm lọt xe và người xuống. Ai có thể dự đoán? Chắc chắn là “bó tay”, ấy thế mà người ta vẫn dám coi thường Thiên Chúa, muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống này. Thế thì thật khốn thay!
Thiên Chúa là Đấng duy nhất và toàn năng, mọi sự đều bởi Ngài và nhờ Ngài, và Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố lịch sử của cuộc đời mỗi người. Danh nhân thông thái Rabindranath Tagore (Rabīndranātha Thākura, 1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày, hằng thời đại, … Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào”. Tư tưởng của R. Tagore rất gần với Công Giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với bút danh Bhānusiṃha (Sư Tử Thái Dương).
Tương tự, Thánh Vịnh gia cũng chân thành thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thật vậy, đến từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm cả rồi (Mt 10:30; Lc 12:7). Ai tìm Ngài thì Ngài cho người đó được gặp, ai lìa xa Ngài thì Ngài sẽ lìa bỏ người đó (1Sbn 28:9).
Chỉ nhỏ nhoi như sợi tóc, chẳng đáng gì, thế mà Thiên Chúa còn quan phòng và tiền định, huống chi chuyện sinh – tử, liên quan mạng sống của con người – mà Ngài lại chính là Sự Sống và Nguồn Sống (Ga 14:6; Tv 36:10). Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1Tx 4:13-14).
Được làm người sống ở đời, người ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn, đó là phải “đi” bằng cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng hơn, đó là phải cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Kitô hữu cần cả Thánh Thể và Lời Chúa.
Thánh Phaolô giải thích: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1Tx 4:15-18). Qua đó, chúng ta biết chắc chắn thời đại của chúng ta là thời cánh chung, nhưng không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử vĩ đại nhất hay không.
Vì không biết nên chúng ta mới phải tỉnh thức, và không ngừng sống trong tình trạng tỉnh thức, nghĩa là phải sống yêu thương đến từng chi tiết: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau. Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người” (1Tx 5:13-14).
Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 25:1-13, đề cập dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ”, nêu rõ vấn đề “tỉnh thức”. Đây là một trong các dụ ngôn “quen thuộc”, đặc biệt nói về thời điểm cánh chung, nói chi tiết là liên quan ngày tận thế riêng của mỗi người chúng ta. Trong dụ ngôn này có hai nhóm đối lập: Người Khôn và Người Khờ.
Qua đó, Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô khôn mang đèn và mang chai dầu dự trữ. Vì chú rể đến chậm, nên các cô ngủ thiếp. Nửa đêm, có tiếng báo “chú rể đến”. Bấy giờ, tất cả các cô đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Tuy nhiên, đèn của năm cô dại cạn dầu, thế nên không thể đủ dầu để thắp sáng. Các cô khờ biết mình thiếu dầu nên xin các cô khôn. Các cô khôn không dám cho bởi vì biết dầu của họ không thể đủ dầu thắp đèn sáng đèn của chính mình và của người khác, thế nên họ khuyên các cô dại nên ra tiệm hoặc cây xăng mà mua. Đang lúc các cô dại đi mua dầu thì chú rể tới, các cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự tiệc cưới. Sau đó, cửa liền đóng lại. Cánh cửa cơ hội cũng khép lại!
Ngay lúc đó, các cô dại về đến nơi và gọi cửa, thế nhưng chú rể nói thẳng: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Quá bất ngờ, nhưng thế là xong! Vì vậy, Chúa Giêsu đã vừa căn dặn vừa cảnh báo: “Anh em hãy CANH THỨC, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”.
Hai năm rõ mười. Ai khôn, ai dại đã rõ, không còn mơ hồ hoặc phỏng đoán. Người mà chúng ta tưởng là khôn lại chỉ là người dại, người mà chúng ta tưởng là dại lại chính là người khôn. Cũng trong thi phẩm “Dại Khôn”, thi sĩ Trần Tế Xương đã “ngộ” ra và kết luận:
Này kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên khôn
Trong bài “Dậy Mà Đi”, cụ Ngô Tất Tố đã xác định: “Ai nên khôn (mà) không khốn một lần!”. Trong cái khó lại ló cái khôn. Cuộc sống cho chúng ta biết rằng đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm càng dày. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, chúng ta thấy tuyết tương đối của Bác học Einstein vẫn đúng. Kỳ diệu thật! Tất nhiên chính Thiên Chúa đã tác động để ông khả dĩ thấu hiểu quy luật tự nhiên và đưa ra định luật như vậy, bởi vì mọi sự đều bởi Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Ngài là Đấng chí thánh, chí thiện và chí ái, nên Ngài luôn yêu quý những ai đơn sơ và chân thật, xin dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan (Tv 51:8), xin dạy con biết đếm tháng ngày con sống để tâm trí con được khôn ngoan (Tv 90:12), xin giúp con chuẩn bị đủ dầu-đức-tin để đủ thắp sáng đèn-đời trong thời gian canh thức. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Trong mục “Cửa sổ tâm hồn” của báo Tuổi Trẻ có đăng một bài với tựa đề “Cho ngày hôm nay” như sau : Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.
Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những tội lỗi, những thiếu sót và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể nào hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Còn một ngày nữa mà chúng ta không nên lo lắng, đó là ngày mai với những kẻ thù quá quắt, những gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề. Mặt trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau đám mây, nhưng dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và trước khi nó mọc lên, vào ngày mai chúng ta chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra.
Vì vậy chỉ còn một ngày duy nhất là ngày hôm nay. Bất cứ ai cũng đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải qua ngày hôm nay khiến người ta phát rồ – mà đó chính là sự hối tiếc về những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem đến.
“Năm cô trinh nữ khôn ngoan” là những con người của ngày hôm nay. Các cô không hối tiếc cho ngày hôm qua, cũng không lo lắng cho ngày mai, vì ngày hôm nay, các cô đang cầm đèn cháy sáng trong tay theo chú rể vào dự tiệc cưới.
“Năm cô trinh nữ khờ dại” mãi mãi là những con người của ngày hôm qua. Cho dù các cô có đi mua thêm dầu, rồi cầm đèn cháy sáng trong tay, nhưng đã quá muộn, vì cửa đã đóng.Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Cuộc đời người tín hữu Kitô lúc nào cũng phải được xem là ngày hôm nay, luôn sẵn sàng chờ chàng rể đến, để vào dự tiệc cưới Nước trời. Thế nào là người tín hữu luôn sẵn sàng? Tin Mừng hôm nay chỉ rõ: “Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo”. Cốt lõi vấn đề là ở chỗ đó. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo, nên các cô sẽ mãi mãi là người đến sau, mãi mãi phải đứng bên ngoài, suốt đời hối tiếc. Vì ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Trái lại, các cô khôn vừa mang đèn vừa mang theo chai dầu. Đèn chính là ánh sáng đức tin luôn chiếu tỏa từ ngày chịu phép rửa tội. Đã có đèn thì phải có dầu; đã thắp đèn thì phải hao dầu, hao dầu thì phải châm thêm mỗi ngày. Dầu ấy chính là dầu bác ái yêu thương. Chỉ có dầu tình yêu mới thắp sáng được cây đèn đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Ai vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo người đó được kể là người sẵn sàng và là thực khách danh dự của tiệc cưới Nước Trời. Thánh Matthêu ghi rõ: “Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Vì thế, những người luôn sẵn sàng là những con người của ngày hôm nay, không hối tiếc cho ngày hôm qua đã đi xa rồi, cũng chẳng lo lắng cho ngày mai chưa tới, nhưng chỉ tỉnh thức trong ngày hôm nay cho đèn luôn cháy sáng, cho dầu vơi lại đầy.
Người ta cứ tự hỏi : Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng! – Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cũng cạn. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi, lời kinh có khi cũng phôi pha, cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương, chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
Thông thường trong đời khi làm bất cứ công việc gì, nếu muốn đạt kết quả tốt người ta phải lên kế hoạch, phải chuẩn bị những phương tiện cần thiết và dự phòng những bất trắc có thể xảy ra. Điều đó nói lên sự khôn ngoan của con người. Hạnh phúc Nước Trời chính là kết quả sau cùng của đời sống, một kết quả quan trọng nhất mà ai trong chúng ta cũng ước mơ. Thế nhưng, người ta có thể rất khôn ngoan và cần mẫn trong những công việc đời này, nhưng lại không quan tâm đủ hay không cần mẫn đủ trong việc mưu tìm hạnh phúc Nước Trời. Bài Tin mừng hôm nay như một cảnh giác và như một mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết khôn ngoan để lo cho hạnh phúc ấy.
Cần phải lo cho hạnh phúc ấy bởi đó là mục đích cuối cùng của một đời người. Nếu trong cuộc đời này chúng ta thành đạt trên đường công danh sự nghiệp, nhưng lại thất bại trong việc mưu tìm hạnh phúc Nước Trời thì coi như chúng ta thất bại hoàn toàn. Chúa Giêsu đã dạy; “Được lời lãi thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì?”.
Cần phải lo cho hạnh phúc ấy ngay từ hôm nay, ngay từ lúc này, bởi chẳng ai biết lúc nào đời mình kết thúc, chẳng ai biết được ngày giờ Chúa đến gọi mình. Người sẽ đến bất ngờ không báo trước như chú rể đã đến bất ngờ vào lúc đêm khuya. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết chắc chắn Người sẽ đến mà thôi: “Con Người sẽ đến vào giờ các con không ngờ”. Chính vì vậy, người khôn ngoan là người biết sẵn sàng và chờ đợi. Sẵn sàng có nghĩa là dứt khoát chọn cho mình một thái độ sống phù hợp với ơn gọi làm Kitô hữu của mình. Mọi sự trì hoãn đều có thể đưa tới sự lỡ làng. Sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta còn có thể bắt đầu lại, còn có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong chuyến xe cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại nữa, và khi ấy hậu quả thật là bi thảm.
Mỗi người chúng ta chỉ sinh ra trong cuộc đời này có một lần. Và mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống, để chuẩn bị cho ngày mai vĩnh cửu. Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Cuộc đời của chúng ta mỗi ngày một ngắn lại, và mỗi ngày chúng ta bước dần tới ngưỡng cửa sự chết, tới đời sau hơn. Bởi đó, mỗi giây phút trong đời đều là những khoảnh khắc cần thiết và quí báu để chúng ta góp nhặt hành trang cho ngày mai. Sự lơ là nào, sự trì hoãn nào cũng là một lãng phí thời gian ân phúc. Vận mệnh đời sau của mỗi người tùy thuộc hoàn toàn vào chính cuộc đời trần thế này. Hạnh phúc vĩnh cửu hay bất hạnh muôn đời là tùy ở sự lựa chọn của chúng ta hôm nay.
Tháng mười một là tháng dành riêng cho các linh hồn, nên chúng ta dừng lại để suy nghĩ một vài tư tưởng về cái chết. Chắc hẳn Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm đắm trong một màu tang tóc và từng giây từng phút luôn nơm nớp lo sợ, nhưng Chúa muốn chúng ta sẵn sàng và nhìn vào cái chết với đôi mắt lạc quan tin tưởng và hy vọng. Cái chết sẽ dạy cho chúng ta biết cuộc đời này tuy ngắn ngủi và chóng qua nhưng lại là một kho tàng quí giá, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể chiếm được Nước Trời, và một khi nó đã đi qua thì không bao giờ trở lại. Bởi đó chúng ta hãy biết lợi dụng những năm tháng hiện tại để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, hầu sẵn sàng lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình cô đơn và bi thảm nhất, đó là cái chết.
Thật là hạnh phúc và tốt đẹp nếu ta có được một linh hồn luôn chuẩn bị và sẵn sàng, nhưng cũng thật bẽ bàng và cay đắng nếu ta chết đi trong tình trạng tội lỗi và thù nghịch cùng Chúa. Lúc đó ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lời, cả đời này lẫn đời sau, cả thân xác lẫn linh hồn.
Trên bia mộ của những người thời xưa người ta thường thấy những chữ tuyệt vời trên đó: “Người này đã nghỉ yên trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa”. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi bác ái yêu thương để dù Chúa có đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, chúng ta vẫn sẵn sàng và vui mừng kêu lên: “Lạy Chúa, này con xin đến”. Thế nhưng chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này chưa? Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita : Có cần gì nữa chăng?
Thánh nữ trả lời : Không, tôi đã sẵn sàng.
Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Liệu chúng ta đã trả hết món nợ đối với Chúa và đối với anh em hay chưa? Liệu chúng ta đã tẩy xóa hết tội lỗi trong tâm hồn qua Bí tích Giải tội hay chưa? Nếu chúng ta biết chuẩn bị ngay từ bây giờ, nếu như mỗi khi chiều xuống chúng ta ngồi hồi tâm xét mình và chúng ta chỉ ngủ yên khi tâm hồn mình đã gột rửa tẩy sạch qua tâm tình sám hối ăn năn. Nếu chúng ta luôn giữ được tấm áo trắng trong ngày lãnh nhận Phép Rửa tội, nếu ngọn nến đức tin vẫn còn cháy sáng trong cuộc đời, thì quả thật chúng ta là người có phúc và cái chết không còn là một giây phút kinh hoàng và khiếp hãi nữa.
Cuộc đời là một chuyến viễn du trong đêm tối, nhưng bên kia là bình minh ló hiện. Cuộc đời chúng ta là một hành trình trên mặt biển đầy sóng, nhưng bên kia là bến bờ hạnh phúc, ở đó Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay để chờ đón chúng ta. Nếu bây giờ chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, thì khi Chúa đến chúng ta sẽ không chết nhưng thực sự bắt đầu sống, vì bấy giờ chúng ta được sinh ra cho cuộc sống mới, một cuộc sống muôn đời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khử trừ tội lỗi trong tâm hồn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công việc sáng chói là những hành động bác ái yêu thương, để khi Chúa đến chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào bàn tiệc Nước Trời.
Một đêm kia, tôi thấy mình đang đi về phía cổng thiên đàng. Trên đường đi đến đó, tôi nhận thấy: TN32-A11
Một đêm kia, tôi thấy mình đang đi về phía cổng thiên đàng. Trên đường đi đến đó, tôi nhận thấy trong bóng tối, có vài khuôn mặt đang khóc than. Tôi hỏi “Tại sao các bạn khóc vậy?”. Họ trả lời “Chúng tôi khóc, vì Chúa từ chối không cho chúng tôi vào. Người nói rằng Người không biết chúng tôi là ai”. Tôi đến cổng, để xem cổng có bị khóa không. Tuy có hơi ngần ngừ, nhưng tôi không hề bối rối, và tôi đã rung chuông, vì biết rằng chính Chúa sẽ trả lời tôi.
Trong khi đang đứng đợi ở đó, tâm trí tôi nổi lên một câu hỏi đáng sợ : Liệu Chúa có biết tôi không? Tất nhiên là Người biết tôi! A, vâng, nhưng liệu Người có nhận ra tôi là môn đệ của Người không? Vấn đề là ở chỗ đó. Và đây là vấn đề mà tôi không thể làm được gì trong lúc này. Đã quá muộn để có thể thay đổi được bất cứ điều gì. Tôi khiếp sợ khi nghĩ rằng chính mình có thể bị xua đuổi, như một kẻ ngoài cuộc, hoàn toàn cô độc.
Tôi tự hỏi : Thiên Chúa đang tìm kiếm gì? Thế rồi tôi nghĩ đến dụ ngôn những cây đèn. Người sẽ tìm kiếm một cây đèn đang được thắp sáng. Tôi đã làm được gì cho cây đèn của mình? Tôi reo lên “ Ồ, tốt quá, mình vẫn còn cầm đèn đây”. Nhưng khi nhìn vào cây đèn, tôi run sợ khi nhận thấy đèn đã tắt ngúm rồi.
Tuy nhiên, đến lúc đó, tôi thức giấc, và nhận ra rằng đó chỉ là một giấc mơ. Thật may mắn! Đây chính là một lời cảnh báo mà trong lòng nhân từ của Người, Chúa đã gửi đến để đánh thức tôi, để lay động tôi khỏi thói bất cẩn và lười biếng của tôi.
Phải chăng là một cảnh đáng sợ, khi bạn đi đến cửa thiên đàng, gõ cửa, và rồi Chúa đi ra và nói với bạn “Ta không biết các ngươi là ai”. Và bạn tự nhận thấy mình phải đứng một mình trong bóng tối, trong khi ở bên trong, tất cả mọi sự đều là ánh sáng, niềm vui, sum vầy và ca ngợi.
Chúng ta đang nói về ngọn đèn nào vậy? Chủ yếu là ngọn đèn của tình yêu mến. Nói một cách chính xác, tình yêu không được bất thường. Điều mà chúng ta cần, đó là tình yêu thương, mà không phải mệt mỏi hoặc bị quan yếm thế.
Ngọn đèn cháy sáng như thế nào? Từng giọt dầu nhỏ bé được thấm vào liên tục. Nếu không còn những giọt dầu đó nữa, thì ngọn đèn sẽ tắt. Những giọt dầu này trong ngọn đèn của chúng ta là cái gì vậy? Đó là những công việc nhỏ bé trong cuộc sống hằng ngày : Lòng trung thành, sự đúng giờ, những lời nói tử tế nhỏ nhoi, một ý nghĩ đến người khác, cách chúng ta giữ thinh lặng, cách nhìn ngắm, cách nói năng, và cách hành động. Đây là những giọt dầu của tình yêu mến, giữ cho đời sống đạo của chúng ta được cháy sáng, tựa như một ánh lửa sống động.
Đức Giêsu đã đến để chia sẻ cuộc sống, sự cô đơn, nỗi buồn phiền, cảnh tang tóc của chúng ta. Người không ở đâu xa, mà rất gần gũi với chúng ta. Mỗi ngày trong cuộc sống, chúng ta đều có thể đụng chạm đến Người, phục vụ và yêu mến Người. Với giọt dầu của lời cầu nguyện và các việc lành, chúng ta phải giữ sao cho ngọn đèn đức tin của chúng ta cháy sáng, và Người sẽ nhận ra chúng ta. Chúng ta sẽ không bị phán xét căn cứ trên một thiếu sót nhất thời, nhưng tùy thuộc vào toàn bộ cuộc sống của chúng ta.
Bởi chúng ta không biết được ngày nào hoặc giờ nào Chúa đến, nên chúng ta phải chuẩn bị, sao cho khi Người đến, chúng ta có thể được đón nhận vào vương quốc của Người. Chuẩn bị có nghĩa là trở nên một người biết thực hiện, hơn là chỉ biết lắng nghe lời Chúa.
Tất cả những điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta trong dụ ngôn này đều mang ý nghĩa như một lời cảnh báo. Lời cảnh báo này là một dấu hiệu cho thấy tình yêu của Người đối với chúng ta, nói cho chúng ta biết rằng chúng ta nên sống một cách tốt đẹp trong từng giây từng phút, để tâm hồn chúng ta luôn luôn sẵn sàng đón chàng rể đến, luôn luôn chờ đợi tiếng nói của Đấng chúng ta yêu mến.
Khôn ngoan là một trong những đề tài vĩ đại nhất trong Kinh thánh. Chúng ta dễ dàng nhận: TN32-A12
Khôn ngoan là một trong những đề tài vĩ đại nhất trong Kinh thánh. Chúng ta dễ dàng nhận thấy nguyên nhân tại sao. Nếu không có sự khôn ngoan, chúng ta giống như những lữ khách đi trong bóng tối. Với sự khôn ngoan, chúng ta có một ngọn đèn chiếu sáng những bước chân của chúng ta. Nhưng người ta chỉ có thể đạt được đức khôn ngoan một cách từ từ và thường đầy gian khổ. Khi gặp gỡ được một người nào đó đi thu tích sự khôn ngoan trên đường đời, thì đó là một niềm vui, một sự khích lệ, và một niềm cảm hứng lớn lao.
Michael là một tù nhân khi ở lứa tuổi ngoài 40. Anh bị kết án tù vì một tội rất trầm trọng (ám sát vợ). Mặc dù trông anh có vẻ nghiêm nghị, nhưng anh chẳng hề khắc khổ hoặc thất vọng chút nào. Anh là một người thông minh, có suy nghĩ. Anh đã ở trong tù được 8 năm, và đang hy vọng là sẽ được phóng thích trong vòng 3 hoặc 4 năm nữa.
Một lần kia, có người hỏi anh :Nếu trên đường vào nhà tù, có người cho anh thuốc phiện, sẽ làm cho anh ngủ vùi trong suốt thời gian bị ở tù, thì anh có nhận không?”.
Anh trả lời: “Tại sao lại không?” “Bởi vì tôi đã học hỏi được rất nhiều điều về bản thân mình trong thời gian ở đây. Và tôi cũng đã thay đổi. Hiện nay, tôi trở nên khiêm tốn hơn, và tôi hy vọng được trở thành một con người khôn ngoan”.
Khôn ngoan là một nhân đức cao cả nhất. Thông qua đức khôn ngoan, Thiên Chúa thông truyền cho chúng ta ý nghĩa cuộc đời, và tính cách cao quí nơi định mệnh của chúng ta, mà đối với Thiên Chúa, định mệnh đó phải trở nên một điều thiện hảo lớn lao hơn so với bản thân cuộc sống. Không giống như kiến thức, mà người ta có thể đạt được thông qua sự chăm chỉ làm việc, đức khôn ngoan là một quà tặng của Thiên Chúa, và chỉ những ai ao ước và tìm kiếm, thì mới tìm thấy mà thôi.
Trong câu chuyện của Đức Kitô, chúng ta không nói đến một thiếu sót nhất thời về mặt trí nhớ, như trường hợp của các cô trinh nữ khờ dại, đã quên không mang thêm dầu để thắp đèn. Chúng ta đang nói về hai thái độ tương phản lại lễ cưới. Đối với các thiếu nữ khôn ngoan, thì đây là một dịp may, một cơ hội không bao giờ có thể lập lại lần nữa, đó là được gặp gỡ chàng rể. Còn đối với các cô trinh nữ khờ dại, thì đây không có gì khác hơn là một dịp để vui đùa, giỡn chơi.
Chúng ta có thể hiểu được khi một tù nhân muốn ngủ cho qua thời gian, nhưng không thể hiểu được cảnh các cô trinh nữ lại ngủ quên, trong khi chờ đợi chàng rể đến, để được cùng với chàng đi vào tiệc cưới. Bởi vì họ không biết chính xác khi nào chàng đến, nên họ phải chờ đợi trong sự sẵn sàng. Tuy nhiên, vẫn có năm cô trong số đó không thể làm được điều này, và đã bị khóa cửa nhốt ở bên ngoài.
Chúng ta giống như những cô trinh nữ đang chờ đợi. Chúng ta không chờ đợi một lễ cưới, mà là chờ đợi một điều gì đó vô cùng quí giá hơn – đi vào Nước Trời. Giống như một ngọn đèn hiệu hướng dẫn cho con tàu đi vào bến cảng, viễn cảnh này sẽ hướng dẫn chúng ta trên đường dương thế.
Vợ của ông Vincent vừa mới qua đời, và hiện nay, ông đang phải sống một mình. Ông vẫn còn: TN32-A13
Vợ của ông Vincent vừa mới qua đời, và hiện nay, ông đang phải sống một mình. Ông vẫn còn đang ở trong giai đoạn đầu của một nỗi đau khổ rất sâu xa. Cái chết của vợ ông không những chỉ để lại một lỗ hổng vĩ đại trong cuộc đời ông, mà còn cả một sự lặng lẽ lớn lao.
Giữ lời hứa với ông, những người con đã trưởng thành của ông thường xuyên đến thăm viếng ông. Tuy nhiên, họ không muốn nói đến một đề tài mà ông lại mong muốn và rất cần được nói đến, đó là cái chết của vợ ông. Họ nói rằng không muốn làm cho ông buồn phiền. Do đó, họ hành động như thể không có gì xảy ra cả, và họ cũng mong muốn ông làm như vậy. Mặc dù họ có ý tốt, nhưng họ không giúp gì được cho ông cả. Ông phải tự giải quyết lấy nỗi đau một mình. Nỗi đau khổ đó càng trở nên lớn lao hơn, vì không hề được chia sẻ.
Cảnh mất mát một người thân yêu luôn để lại nỗi đau khổ, đó là một điều chắc chắn và tự nhiên, giống như hết ngày rồi lại đến đêm vậy. Đau khổ là một trong những cảm xúc mạnh mẽ nhất, mà chúng ta sẽ phải trải qua. Nhiều người gặp khó khăn khi diễn tả nỗi đau khổ, và họ cứ cố gắng đè nén nó. Nhưng đè nén đau khổ thật là nguy hiểm, và nó gây ra hậu quả là dễ mắc phải những vấn đề trầm trọng về tình cảm.
Để có thể sống có ích lợi sau cái chết của một người thân, người ta cần phải trải qua một giai đoạn tang tóc. Phương cách để giải quyết nỗi đau khổ không phải là cứ cố dẹp bỏ đi, hoặc giả vờ như không có, nhưng là phải mạnh dạn đương đầu với nó, và cứ tiếp tục làm việc, với thật nhiều sự can đảm và chân thành hết sức có thể.
Người nào làm được như vậy, sẽ tỏ ra là một con người có đời sống phong phú. Nỗi đau khổ có một giá trị thanh lọc lớn. Thiên Chúa không thể nào lấp đầy được tâm hồn con người, trừ phi tâm hồn đó được trống rỗng khỏi những ý nghĩ tầm thường. Và một nỗi đau khổ to lớn chính là một ngọn lửa cháy bùng, có thể thiêu rụi được tất cả những rác rưởi của cuộc đời.
Chúng ta không nên sử dụng đức tin như một hàng rào để ngăn cản nỗi đau khổ. Đôi khi, người ta nói về một người nào đó không biết đau khổ “Lòng tin của họ mới mạnh mẽ làm sao!”. Nhưng ngay chính Đức Kitô cũng đã từng chịu đau khổ. Đau khổ vì mất mát một người thân yêu là một tình cảm tốt đẹp và cần thiết.
Trong khi đức tin không làm tiêu tan sự cần thiết của nỗi đau khổ, thì đức tin lại chính là một niềm an ủi và nâng đỡ tuyệt vời trong lúc tang tóc. Thánh Phaolô nói “Nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Kitô… Vậy anh em hãy dùng những lời đó mà an ủi nhau”. Đức tin không miễn cho chúng ta khỏi phải chịu đau khổ. Điều mà đức tin làm được, đó là đem lại cho chúng ta khả năng để chịu đựng đau khổ trong niềm hy vọng.
Vậy chúng ta không nên trốn tránh đau khổ, và hành động đó không thể tiết kiệm được gì cho chúng ta cả. Nếu bây giờ, chúng ta đè nén đau khổ, thì nó sẽ bùng lên sau đó, khi có một cái chết khác, hoặc một ngày giỗ khác.
Chúng ta không được e sợ khi phải khóc lóc. Nước mắt là một phần của quá trình phục hồi. Chúng ta có nước mắt trong đôi mắt, nhưng lại có niềm hy vọng trong tâm hồn. Nếu chúng ta chịu đau khổ cho nên, thì một buổi sáng nào đó, chúng ta sẽ thức giấc với tâm trạng được giải thoát, và đầy năng lực dành cho cuộc sống.
Tiệc cưới mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta sẽ càng trở nên vui tươi hơn, đối với những người đã đi qua bóng tối của thung lũng đau khổ, và trỗi dậy với cây đèn của lòng mến cháy sáng rực rỡ
Sự khôn ngoan thì sáng tỏ và không bao giờ lu mờ. Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan thì sẽ gặp: TN32-A14
Bài Đọc 1: Khôn Ngoan 6:12- 16
Sự khôn ngoan thì sáng tỏ và không bao giờ lu mờ. Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan thì sẽ gặp. Ai khao khát sự khôn ngoan thì sẽ được đón tiếp. Ai gặp sự khôn ngoan thì sẽ không còn lao nhọc, sẽ được an tâm. Ai tưởng nhớ đến sự khôn ngoan thì sẽ được khôn sáng vẹn tuyền. Sự khôn ngoan chu du khắp nơi để tỏ mình ra cho những kẻ xứng đáng với mình.
- Khôn ngoan là gì? Và làm sao để chúng ta biết mình có sự khôn ngoan hay không?
- Ai là người khôn ngoan bạn đã gặp trong cuộc đời của bạn? Tại sao bạn nghĩ rằng họ là người khôn ngoan? Và bởi đâu họ có được sự khôn ngoan như thế?
Bài Đọc 2: 1 Thes 4:13- 18
Những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu khi Ngài đến lần thứ hai. Đây là một sự diễn tả đem lại cho các Kitô hữu chúng ta niềm an ủi và hy vọng. Vì ngủ tức là chưa chết, chúng ta sẻ tỉnh thức trở lại. Đối với Kitô hữu, cái chết thân xác chỉ là giấc ngủ. Khi thức dậy chúng ta sẽ mãi mãi sống trong nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô khuyên chúng ta, các Kitô hữu, hãy dùng đức tin và niềm hy vọng này để an ủi nhau.
- Chúng ta phải làm gì và sống thế nào để hy vọng được sống mãi mãi cùng Đức Giêsu?
- Mỗi khi đứng trước cái chết của một người, nhất là những người thân, bạn đã có thái độ như thế nào? Kitô hữu làm những gì để chia buồn và an ủi người khác khi có một người chết?
- Đâu là ý nghĩa của việc mua vòng hoa đưa đến nhà quàn để phúng điếu?
Bài Phúc Âm: Mt 25:1- 13
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại để nói về bối cảnh của nước Thiên Chúa. Những cô khôn ngoan mang đèn và đem theo cả dầu. Những cô khờ dại mang đèn nhưng lại không đem dầu theo. Vì không biết rõ giờ nào chàng rể đến, các cô ngủ thiếp đi. Khi chàng rể đến, họ thức giấc và những cô khôn ngoan có sẵn đèn và dầu thì đốt đèn đi theo chàng rể vào phòng tiệc. Còn những cô khờ dại không có dầu, phải vội vàng đi mua, khi trở lại thì đã muộn.
- Đặt địa vị của bạn vào trong dụ ngôn của Chúa Giêsu thì bạn thuộc loại người khôn ngoan hay khờ dại? Tại sao?
- Dầu đèn của Kitô hữu là gì? Tại sao những cô khôn ngoan không thể chia sẻ dầu của họ?
Bài Giảng Gợi Ý
Một trong những cái quan trọng khi chúng ta lái xe là phải có bánh xe xơ-cua để dự phòng cho những lúc không may bị nổ lốp hoặc xì hơi giữa đường. Đây là một sự khôn ngoan thông thường mà mọi người lái xe đều phải biết. Tuy nhiên đôi khi cũng xẩy ra cho một số người sau khi xe của họ bị bể bánh giữa đường và lúc đó mới khám phá ra là họ không có bánh xe xơ-cua hay bánh xe xơ-cua của họ đã bị xì hơi. Điều này càng làm cho họ bối rối, lo lắng và khó chịu khi nó lại xảy ra ban đêm giữa xa lộ hay ở những quãng đường hẻo lánh tối tăm và vắng vẻ. Nếu không may xảy ra chuyện như thế, thường thì chúng ta phải đi bộ một quãng thật xa để tìm người giúp đỡ. Hậu quả là sẽ bị trễ hẹn hay không đến được địa điểm đúng giờ dự định. Sau khi tìm được người giúp thì thường họ sẽ hỏi, "Tại sao không chịu kiểm soát trước khi lái xe xem bánh xe xơ-cua có ở đó, hay có còn tốt hay không?" Ai cũng biết đây là điều cần thiết mỗi khi lái xe, nhưng nhiều khi chúng ta coi thường không để ý.
Cảnh tỉnh
Đây cũng chính là điều mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn Mười Cô Trinh Nữ của bài Tin Mừng hôm nay. Những điểm chúng ta cần quan tâm chú ý:
- Tỉnh thức đợi chờ
- Chàng rể đến bất ngờ
- Phải có dầu đèn
Chúng ta luôn cần phải có thái độ tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa Kitô vào bất cứ ngày giờ nào. Những cô trinh nữ khôn ngoan đã biết lo liệu chuẩn bị cầm đèn và mang theo dầu do đó họ đã không trở nên nạn nhân của tình trạng bất ngờ. Những cô khác đã không biết lo liệu phòng xa; họ đã có thái độ ỷ y, dửng dưng coi thường, nghĩ rằng chàng rể còn lâu mới đến, nhưng giữa lúc đêm khuya, lúc mọi người tắt đèn đi ngủ thì không ngờ chàng rể đến. Chúa Giêsu nói rằng việc Ngài đến lần thứ hai cũng bất ngờ giống như thế. Ngài cảnh tỉnh chúng ta, "Hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày nào, hay giờ nào!" Các Kitô hữu đầu tiên cũng đã hy vọng Chúa đến vào thời điểm của họ; nhưng cho đến nay sau 20 thế kỷ, Ngài vẫn chưa đến. Con người chúng ta dễ cảm thấy tình trạng "thức lâu chầu mỏi." Chờ lâu quá không thấy Chúa đến, nhiều người đã coi thường, hay không tin là Ngài sẽ đến lần thứ hai. Họ bắt đầu ngủ thiếp đi trong những sinh hoạt của cuộc sống trần thế. Và Chúa Giêsu kết luận họ là những người khờ dại. Khờ dại chỉ vì không biết tỉnh thức và không biết lo liệu chuẩn bị sẵn sàng.
Khôn Ngoan Hay Khờ Dại?
Khi nói đến tinh thần và việc chuẩn bị đón Chúa Kitô đến lần thứ hai thì chúng ta một là người khôn ngoan, hai là kẻ khờ dại, một là sẵn sàng hai là không chứ sẽ không có sự dung hòa ở trung lập không khôn mà cũng không khờ. Theo như câu truyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng thì có một nửa số người khôn ngoan, và một nửa số người khờ dại. Một nửa sẽ được vào Thiên Đàng để dự tiệc cưới với Chúa Kitô và một nửa sẽ không được vào. Một nửa sẽ được hưởng hạnh phúc và một nửa thì không. Chúng ta sẽ thuộc vào một trong hai nhóm này. Như vậy chúng ta thuộc vào loại nào? "Tôi, Ông, Bà, Anh, Chị, Em, chúng ta là người khôn ngoan hay người khờ dại? Là người thuộc thành phần được vào hay không được vào phòng tiệc với Chúa Kitô?"
Sự khờ dại đây không phải là vì trí khôn ngu dốt không biết, hay là bởi không có học thức, không có bằng này hay cấp nọ, hoặc vì sự quên sót không mang dầu đốt đèn. Sự khôn ngoan đây cũng không phải là vì trí khôn thông minh sáng suốt, học cao hiểu rộng, bằng này cấp kia. Điều chính yếu là có sống trong tinh thần tỉnh thức và tin tưởng đợi chờ hay không? Đèn của chúng ta có dầu hay không có dầu?
Gần đây có những người phao đồn tin sẽ có hiện tượng tối ba ngày ba đêm và rồi sẽ tận thế. Không biết nghe mặc khải nào hay lời khuyên của ai, nhiều người ở một số nơi đã lo đi mua mấy thùng nến và nhiều thùng chứa nước để nhờ các cha làm phép đem về phòng trữ ở trong nhà. Làm như thế không phải là sự khôn ngoan phòng xa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay. Nến phép và nước phép đó không phải là dầu đèn của Kitô hữu chúng ta. Nếu ngày Chúa đến mà chỉ thấy chúng ta có nến phép và nước phép, thì nến phép và nước phép đó cũng không có sức mạnh để đưa chúng ta vào Thiên đàng với Thiên Chúa. Năm cô trinh nữ được gọi là khôn ngoan vì họ mang đèn và có mang theo dầu. Còn những cô khờ dại có mang đèn những không mang dầu theo.
Khủng Hoảng Hết Dầu
Thế giới nếu không biết tự chế trong việc tiêu thụ năng lượng thì cũng có ngày bị khủng hoảng thiếu thốn dầu xăng. Trong đời sống tinh thần nếu chúng ta không cẩn thận và khôn ngoan thì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng hết dầu thiêng liêng. Có dầu thiêng liêng hay hết dầu thiêng liêng chính là lý do phân cách giữa người khôn ngoan và người khờ dại. Người được vào phòng tiệc và người phải đứng ở ngoài. Các Kitô hữu chúng ta là đèn soi thế gian. Đèn đó chỉ được cháy sáng khi có dầu. Đức tin nơi Chúa Kitô chính là dầu làm cho đèn Kitô hữu được cháy sáng. Đức tin ấy chính là lý do quyết định được vào hay ở ngoài. Giữ tình liên hệ mật thiết với Chúa Kitô qua việc sống đức tin, việc học hỏi Kinh Thánh, tham dự và cử hành các bí tích, làm những việc đạo đức; những lời kinh nguyện sớm hôm; những việc hy sinh bác ái và tình yêu đối với tha nhân, nhất là những người nghèo khổ chính là những giếng dầu tiếp tế cho đèn chúng ta được tiếp tục cháy sáng để đón và đi theo Chúa Kitô vào trong nước hằng sống.
Đối với chúng ta, đây là một bài học rất rõ ràng. Chúng ta không phải là đang đối diện với một dịp dự tiệc cưới đặc biệt ở trần gian. Chúng ta cũng không phải là đang đối diện với tình trạng có bánh xe xơ-cua hay là không. Nhưng là sự cứu rỗi đời đời của linh hồn chúng ta. Khi bị bể bánh xe giữa đường mà không có bánh xe xơ-cua, chúng ta cảm thấy bức rứt khó chịu với chính mình. Chúng ta có thể bị trễ hẹn hay trễ công việc và làm cho một số người khác phải chờ đợi. Chúng ta trách mình tại sao lại lơ đễnh thiếu cẩn thận như thế. Tuy nhiên những phiền toái đó chỉ là những phiền toái tạm thời ở đời này. Nhưng khi đối diện với sự sống đời đời; đối diện với việc Chúa Kitô bất ngờ đến lần thứ hai, nếu chúng ta cũng vô tâm không sẵn sàng cho đèn có dầu để đốt cháy sáng thì sự phiền toái đó sẽ là sự phiền toái đời đời. Giống như năm cô trinh nữ khờ dại, chúng ta sẽ phải đứng ở ngoài và nghe tiếng nói nghiêm khắc từ bên trong vọng ra, "Ta không biết các ngươi là ai!"
Trên thực tế, thật buồn và đáng lo ngại. Nhiều khi chúng ta đã dại khờ lo lắng quan tâm cho thân xác mình và cho những nhu cầu đời này hơn là lo lắng quan tâm đến Nước Trời, đến nhu cầu của người khác và đến sự sống phần linh hồn của chính mình. Nhiều khi mối bận tâm của chúng ta không phải là lo khai thác các giếng dầu thiêng liêng, nhưng mà là lo khai thác mỏ tiền mỏ bạc trần thế; lo xây dựng sự nghiệp đời này, và chểnh mảng lơ là không hết tâm chu đáo chuẩn bị cho ngày đón chúa Kitô đến lần thứ hai. Nhiều khi việc làm, việc đi chơi, đi chợ, đi shoping, hay ngủ nghỉ, thể dục thể thao, kiêng cữ, vẽ mặt vẽ mày, sửa ngực sửa mũi làm đẹp thân xác được chúng ta coi là cần thiết và ưu tiên hơn là việc cầu nguyện, đọc kinh dâng lễ tu thân, tập luyện nhân đức, và làm việc lành. Cứ nhìn vào tất cả các sinh hoạt hàng ngày của chúng ta và kiểm điểm tâm tư cũng như cách hành xử của chúng ta thì chúng ta sẽ biết mình là người khôn ngoan hay khờ dại. Chúng ta là người có dầu sẵn trong đèn hay là người khủng hoảng thiếu dầu đức tin.
217 người trên chuyến bay của hãng EgypAir 990 khởi hành từ New York ngày 31 tháng 11 năm 1999 vừa qua đâu có ngờ đó là chuyến bay cuối cùng trong đời họ. Việc đó có thể xẩy ra cho bất cứ ai trong chúng ta. Và khi đó thì chúng ta sẵn sàng hay không sẵn sàng? Đèn chúng ta còn dầu để cháy sáng hay không? Nếu đèn có dầu thì chúng ta là những người khôn ngoan, nhưng nếu đèn hết dầu thì sẽ bị xếp vào loại những cô trinh nữ khờ dại. Chúa Giêsu dạy chúng ta dụ ngôn này là Ngài muốn tất cả chúng ta là những người khôn ngoan.
Một Câu Truyện: Trong triều đình có một quan hầu cận chuyên môn đi bên cạnh nhà vua để mua vui trong triều. Một hôm quan hầu cận nói đùa một câu rất ngớ ngẩn khờ dại khiến nhà vua không hài lòng lắm nên nhà vua đưa cho quan một cái gậy và nói, "Từ nay trở đi nhà ngươi phải giữ lấy cây gậy này như là một hình phạt. Ngươi phải giữ nó cho tới khi ngươi gặp một người nào đó khờ dại hơn ngươi thì lúc đó sẽ trao cây gậy cho người ấy!"
It năm sau nhà vua lâm bệnh nặng và nằm liệt trên giường. Vua cho triệu tập mọi người thân cận trong triều đến và dặn dò, "Trẫm sửa soạn lên đường. Trẫm sẽ đi đến một nơi rất xa; và trẫm sẽ không trở lại đây nữa; do đó trẫm muốn triệu tập mọi người trong triều đến để từ giả."
Nghe nhà vua nói như vậy, quan hầu cận hỏi nhà vua, "Tâu bệ hạ, thần xin được hỏi một điều. Thường thì khi đi đâu xa như thăm dân, đi họp ngoại giao hay đi thăm những nước láng giềng, Bệ hạ luôn cho người đi trước để dọn đường chuẩn bị. Thế thì lần này Bệ hạ đã có chuẩn bị cho chuyến đi xa quan trọng này chưa?"
Nhà vua trả lời, "Trong chuyến đi này, trẫm không có sự chuẩn bị gì cả."
Quan hầu cận liền nói, "Như thế thì xin trẫm nhận lại cây gậy này, bởi vì bây giờ khanh đã tìm được người ngố và khờ dại hơn khanh!"
- Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ngày nay và muôn thời, bữa ăn vẫn là đề tài nóng bỏng, xôi động người ta hay nói tới. Mà có: TN32-A15
Ngày nay và muôn thời, bữa ăn vẫn là đề tài nóng bỏng, xôi động người ta hay nói tới. Mà có ăn, con người mới làm lụng vất vả, mới đầu tư công sức, trí tuệ để cố làm sao cho vật chất vươn cao. Có tiền, có của, bữa tiệc, bữa ăn mới được cải thiện tốt đẹp.Chúa Giêsu là một con người rất thực tế, Ngài đã ví Nước Trời như một bữa tiệc, một tiệc cưới hay như mười cô trinh nữ…...
CÁI BI HÀI CỦA CÂU CHUYỆN
Dưới ngòi viết của thánh Matthêu, câu chuyện mười cô trinh nữ mang tính chất bi hài. Cái nghịch lý ở câu chuyện này là tất cả muời cô gái đều được chủ báo là chàng rể sẽ đến, nên mọi cô đều phải khôn ngoan và tỉnh thức để chón chàng rể đến bất ngờ. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thì vô cùng khác với sự ma ranh, lườn lẹo của thế gian. Cái mà thế gian cho là dại khờ, lại trở nên có giá trước mặt Thiên Chúa. Sự đảo lộn của thập giá là như vậy.Trình thuật Mt 25, 1-13 là sự đảo ngược của cái khôn, cái khờ. Năm cô khôn ngoan gắn liền với sự tỉnh thức. Chúa nói: " Các con hãy tỉnh thức ...vì không biết ngày nào giờ nào ".
Tính bi hài của câu chuyện bắt đầu ở 5 cô gái khờ khạo. Dĩ nhiên, trước khi vào tiệc cưới, chủ đã báo với 10 cô trinh nữ rằng chàng rể sẽ đến, nhưng phải đèn dầu sẵn sàng. Đây là tập tục của dân Do Thái, họ thường tổ chức đám cưới vào đêm tối. Vậy, sẵn sàng đèn không chưa đủ mà còn phải chuẩn bị dầu nữa ... Các cô khờ cứ mơ hồ, ấm ớ vì lời nói của chủ các cô để ngoài tai, không chú tâm đến giờ đón chàng rể. Như thế, Nước Trời hầu như cũng trở nên lu mờ với các cô. Các cô dù không bị khước từ, nhưng giờ chàng rể đến các cô không sẵn sàng và như thế, Nước Trời cũng trở nên xa vời với các cô. Ngược lại, 5 cô gái khôn ngoan nghe lời chủ, tin tưởng vào chủ, các cô mang đèn lại chuẩn bị cả dầu. Đây là sự chuẩn bị hết sức bình thường của một con người biết dự trù, biết nhìn trước sự việc trong tin tưởng, cậy trông. Các cô khôn ngoan đã hân hoan đón giờ chàng rể đến và vào phòng dự tiệc ...
MỘT SỰ KHÔN NGOAN CẦN THIẾT
Thánh Matthêu đã nhiều lần đưa ra những ví dụ, những dụ ngôn hết sức hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh, với con người. Có đoạn Ngài đã nói tới sự khôn ngoan của người xây nhà trên đá, không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, dưới gầm giường, không ai lãnh bạc rồi đem chôn không làm cho sinh lợi, không ai ngu dựng nhà trên cát, không ai ngu tìm được ngọc quý mà lại không tìm hết cách để mua bằng được viên ngọc quý giá đó. Tất cả những sự việc ấy nói lên sự dự trù khôn ngoan của con người, một sự tiên đoán tất yếu phải có nếu muốn thành công. Người Kitô hữu theo Chúa luôn phải tỉnh thức và sẵn sàng. Nước Trời đang ở đó, đang ở đây . Nước Trời rất gần nhưng cũng rất xa khi con người không biết tỉnh thức, khôn ngoan và cầu nguyện. Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời khi Ngài khai mạc sứ vụ công khai: " Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần đến" ( Mt 4, 17 ) hoặc " Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng " ( Mc 1, 14-15)
Người Kitô hữu sẽ đạt được Nước Trời khi họ mở lòng đón nhận mọi người bằng những hành động tốt, hành động bác ái. Tin Mừng của Chúa sẽ xuyên suốt trong đời sống người Kitô hữu khi họ biết mở lòng để đón nhận Nước Trời với niềm tin trong sáng, với sự khôn ngoan tỉnh thức như 5 cô gái khôn ngoan. Nước Trời chỉ vuột khỏi tay con người, luột khỏi tay của người có niềm tin khi họ không sẵn sàng chờ đón chàng rể đến bất ngờ, mà lại hành động mơ hồ, khù khờ như 5 cô trinh nữ khờ dại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có tâm hồn mở rộng để tỉnh thức và sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Gợi Ý Chia Sẻ:
1. Bạn nghĩ gì về thái độ của 5 cô trinh nữ khôn ngoan ?
2. Bạn đã sẵn sàng chờ Chúa đến hay không ?
Câu hỏi gợi ý:
Chúng ta là những người đang lữ hành tiến về Quê Trời, nhưng có bao giờ chúng ta đặt vấn đề: TN32-A16
1. Chúng ta là những người đang lữ hành tiến về Quê Trời, nhưng có bao giờ chúng ta đặt vấn đề về điều kiện không có không được để về được Quê Trời là gì không? Nếu không có điều kiện cần thiết ấy thì việc lữ hành vất vả của ta có ích lợi gì không? Vấn đề quan trọng như thế tại sao ta lại không quan tâm?
2. Nếu Thiên Chúa cho cả những người không có tình yêu, vẫn còn ích kỷ, ghen ghét, hận thù... vào Thiên Đàng, thì Thiên Đàng ấy có hạnh phúc được không? Thiên đàng ấy có khác gì trần gian không?
3. Đức tin hay tình yêu là «vé» để vào Nước Trời. Nhưng thứ đức tin không việc làm, chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, thứ tình yêu không cụ thể, chỉ nói ngoài môi miệng, có thể dùng làm «vé» vào Nước Trời được không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Mô tả lại dụ ngôn
Theo phong tục của các dân tộc, khi cô dâu về nhà chồng, cô thường kêu thêm những cô gái đồng trang lứa làm phù dâu, để cùng tiễn đưa cô về nhà chồng cho có bạn. Theo phong tục Do Thái, những cô phù dâu này ngoài việc trang điểm và mặc quần áo đẹp còn phải mang theo đèn, vì chàng rể thường đến đón dâu vào buổi tối, là đầu ngày (ngày của Do Thái bắt đầu từ 6 giờ tối). Các cô phù dâu sẽ cùng cô dâu đi về nhà chồng để dự tiệc cưới. Khi chàng rể đến, các cô sẽ cầm đèn thắp sáng trong suốt hành trình đi đến chỗ dự tiệc. Vì thế, đúng ra các cô hễ đã mang đèn thì phải lo liệu mang dầu đi. Khi nghe báo tin chàng rể đến, mấy cô không đem theo dầu mới khám phá ra đèn mình không có dầu, và phải ra tiệm mua dầu. Trong khi các cô ra đi thì chàng rể đến, năm cô đã sẵn sàng theo chú rể đi dự tiệc cưới. Khi các cô kia mua dầu về thì đã quá trễ. Các cô tới chỗ dự tiệc thì cửa đã đóng, không vào được nữa. Sự thường mà nói, mấy cô này quả thật là khờ dại: chỉ vì không biết lo liệu mà lỡ chuyện của mình. Công trang điểm, mặc quần áo đẹp, chờ đợi... trở thành «công cốc»!
2. Ý nghĩa dụ ngôn
Dụ ngôn trên là một minh họa nói về những người đang thực hiện một mục đích nào đó, nhưng không hề ý thức về những gì mà mục đích ấy đòi hỏi, nên cuối cùng trở thành «sôi hỏng bỏng không», «nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì». Dụ ngôn trên có khác gì chuyện một học sinh chuẩn bị đi thi mà không hề nghĩ tới chuyện phải chăm lo học hành, nên khi vào phòng thi chẳng có một kiến thức nào trong bụng. Hay như một người chuẩn bị nấu cơm mà không hề nghĩ đến chuyện phải có gạo mới nấu được, chỉ biết lo tìm củi lửa, nồi nấu... để rồi tới lúc phải nấu thì chẳng có gạo để nấu. Hay như người sắp lên máy bay để đi du hành mới khám phá ra mình quên mua vé. Dụ ngôn hay các minh họa trên có thể áp dụng cho việc nên thánh hay cho cuộc lữ hành về Nước Trời của chúng ta.
Rất nhiều Ki-tô hữu lúc nào cũng ngưỡng vọng về hạnh phúc đời sau, và thường cầu xin cho mình được «ái mộ những sự trên trời» (Kinh Môi Khôi). Họ khá ý thức rằng mình đang trên đường lữ hành về Quê Trời. Nhưng trong số những Ki-tô hữu ấy có được bao nhiêu người tự hỏi xem những điều kiện cốt yếu nhất để vào Nước Trời là gì, để rồi thực hiện cho bằng được những điều kiện ấy, hầu chắc chắn đạt được mục đích mình nhắm tới? Vì quả thật, có biết bao Ki-tô hữu đang cố gắng thực hiện đủ mọi thứ chuyện chẳng đâu vào đâu hầu vào được Nước Trời, mà chuyện cốt yếu nhất để có thể vào đấy thì lại chẳng làm! Họ có thể là những Ki-tô hữu được tiếng là đạo đức, vì họ ngày nào cũng đi dự thánh lễ, sáng tối nào cũng đọc kinh cầu nguyện, hội đoàn nào cũng tham gia, thậm chí họ bỏ cả bổn phận chính yếu nhất của mình để thực hiện những điều ấy! Vì thế, rất có thể vào ngày phán xét họ sẽ bật ngửa vì ngạc nhiên khi nghe Chúa phán: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» (Mt 7, 23). Để tránh tình trạng đáng tiếc này xảy ra cho mình, chúng ta cần phải nắm thật vững những điều kiện cốt yếu không thể thiếu để vào Nước Trời là gì.
2. Nước Trời là một nơi hoàn toàn hạnh phúc chỉ dành cho những người biết yêu thương, sống vị tha
Nước Trời hay Thiên Đàng được định nghĩa là một tình trạng vĩnh cửu, hoàn toàn hạnh phúc, một nơi không còn đau khổ, được dành cho những người biết thật sự yêu thương: yêu Chúa thương người. Định nghĩa ấy rất hợp lý. Để hiểu sâu xa điều ấy, ta thử đặt vấn đề: khi về nơi lý tưởng ấy, liệu người ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với những người ích kỷ, không biết yêu thương không? Nếu những người trên thiên đàng vẫn còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho những người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ nào không? Chưa hoàn hảo, chưa đủ khả năng yêu thương mà đã vào Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền - không vương chút đau khổ - của Thiên Đàng rồi, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình thương, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân. Nếu còn chút gì là ích kỷ, ghen ghét, hận thù ... thì chưa thể vào được, và cần phải được thanh luyện ở luyện ngục cho đến khi nào trở nên hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình yêu thương với mọi người mới vào được Nước Trời.
3. «Đức tin đắt giá» và «đức tin rẻ tiền»
Theo Kinh Thánh, để vào được Nước Trời thì phải là người công chính. Mà người công chính là người có đức tin, vì «người ta được trở nên công chính nhờ đức tin» (Rm 3, 22); «Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính» (4, 3). Chúng ta, những Ki-tô hữu, đều được coi là đã tin vào Thiên Chúa, vậy có phải chúng ta đều là những người công chính không? Thưa không chắc, vì có hai loại đức tin. Theo thánh Gia-cô-bê thì đó là «đức tin có việc làm» và «đức tin không việc làm». Còn theo nhà thần học D. Bonhoeffer, thì đó là «đức tin đắt giá» và «đức tin rẻ tiền».
«Đức tin đắt giá» là đức tin được chứng tỏ bằng hành động, là đức tin có việc làm. Đây mới chính là đức tin đích thực, mới làm cho người ta nên công chính. Gọi là «đắt giá» là vì để có được đức tin ấy, người ta phải trả một giá rất đắt là sự hy sinh bản thân, chấp nhận mất mát, không chỉ thời giờ, của cải hay những thứ ngoài mình, mà thậm chí cả mạng sống, hay bản thân mình nữa. Còn «đức tin rẻ tiền» là đức tin không phải trả giá bằng hành động, bằng việc làm, bằng sự hy sinh. Đó là thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, có thể được tuyên xưng hết sức mạnh mẽ, có vẻ như đầy xác tín, nhưng lại không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Thánh Gia-cô-bê nói về hai loại đức tin này như sau: «Có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,14.17). «Đức tin không có hành động là đức tin vô dụng» (2,20).
Đức tin đích thực phải được thể hiện thành tình yêu, thành những hành động yêu thương. Ngay cả tình yêu cũng có hai loại: «tình yêu đắt giá» và «tình yêu rẻ tiền», nói cách khác: tình yêu có việc làm và tình yêu ngoài môi miệng. Thánh Gia-cô-bê cũng nói về thứ tình yêu đãi bôi: «Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?» (Gc 2,15-16).
Tóm lại, để vào được Nước Trời, chúng ta cần tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su Ki-tô, nhưng phải tin bằng thứ đức tin đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm, tức thứ «đức tin đắt giá». Mà hễ đã là đức tin đích thực, tất nhiên nó sẽ phải được thể hiện thành tình yêu thương thật sự, bằng những hành động yêu thương cụ thể. Chính vì thế, tới ngày phán xét cuối cùng, Thiên Chúa chỉ phán xét về tình yêu đích thực của ta đối với tha nhân mà thôi (x. Mt 25,31-46). Vì tình yêu đích thực hay tình yêu được trả giá đắt đó chứng tỏ một đức tin đích thực. Không ai có thể thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su mà lại sống không có tình thương. Tại sao? vì kẻ tin Ngài thì ắt phải giống như Ngài, mà Ngài, tự bản chất, chính là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16a).
Vậy cái «vé» cần thiết đến mức không có không được để vào Nước Trời chính là tình yêu đích thực. Không có tình yêu đích thực, chúng ta đừng mong vào được Nước Trời. Đó chính là «đèn có dầu» để chúng ta - những «cô phù dâu» - thắp sáng lên khi đón «chàng rể» - là Đức Ki-tô - vào «tiệc cưới Nước Trời».
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha chính là Tình Yêu. Vì thế, để kết hiệp với Cha, con cũng phải là tình yêu, là hiện thân của tình yêu, đặc biệt giữa những người sống chung quanh con. Nếu con không thể hiệp nhất với họ bằng tình yêu, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Nếu những người cùng bản chất với con mà con không hiệp nhất với họ được, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Xin Cha hãy tăng cường tình yêu nơi con, để con hiệp nhất được với mọi người. Amen.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Cô gái người Đức, tên là Johanna, vừa tạ thế một cách bình thản lạ thường vào ngày 9 tháng 2 năm: TN32-A17
Cô gái người Đức, tên là Johanna, vừa tạ thế một cách bình thản lạ thường vào ngày 9 tháng 2 năm 1980 khi vừa tròn 24 tuổi, giữa lúc cuộc đời còn tràn đầy sức sống. Trước lúc từ trần, cô đã để lại những dòng chữ thật tuyệt vời trong quyển nhật ký của mình.
"Thiên Chúa làm cho mọi sự
đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người." (Rm 8,28)
"Cách đây một năm, lúc đó tôi vừa phải dọn bài thi y khoa khá quan trọng, vừa cùng các bạn sửa soạn cho ra một tờ báo trẻ. Tôi cảm thấy mệt mỏi nên đã đi khám bệnh và phải trải qua nhiều cuộc xét nghiệm. Sau lần siêu âm đầu tiên, tôi biết chắc mình đã mắc một chứng bệnh khá trầm trọng. Tôi cảm thấy bất lực. Mọi việc tôi làm trở thành vô dụng và không còn gì đáng kể nữa. Mới được 22 tuổi, không nghĩ mình có thể chết trẻ như vậy được, tất cả con người tôi nổi dậy chống lại viễn cảnh đen tối ấy.
Ngày hôm sau bác sĩ đến cho biết tôi mắc bệnh Hodgkin, một chứng bệnh gây sưng lá lách, gan và thận. Tôi không cầm được nước mắt vì biết đó là một căn bệnh nan y. Nhưng ngay lúc đó tôi nhớ đến lời của thánh Phaolô: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28). Tôi cũng nghĩ đến Chúa Giêsu lúc Ngài phải vác thánh giá và xin vâng theo thánh ý Chúa Cha, tâm hồn tôi tràn ngập bình an.
Nhiều khi vừa học bài tôi vừa nghĩ: "Nhưng Chúa Giêsu sẽ hỏi mình điều gì trong kỳ thi cuối cùng? Ta đói và con đã cho ta ăn... Điều này đã giúp tôi không chú trọng vào chuyện thi cử, nhưng vào chuyện yêu thương người khác, sửa soạn một bữa điểm tâm chẳng hạn, hay làm bất cứ việc nhỏ nhặt nào với tình thương yêu.
Cô Johanna cầm đèn sáng đi đón chàng rể:
"Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu"
Có lúc tôi muốn bỏ hẳn việc học hành vì có thể tôi sẽ chẳng bao giờ có dịp hành nghề. Nhưng tôi đã xua đuổi ý nghĩ này ngay, vì thánh ý của Chúa rất rõ với tôi trong phút hiện tại: tôi phải tiếp tục học. Học mà không cần nghĩ đến đậu hay rớt. Cứ thế tôi sửa soạn mỗi ngày cho cái chết của tôi: Vâng theo thánh ý Chúa, chẳng ai tự dưng mà nên thánh. Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu: việc học, cách cư xử với người khác, mọi chuyện lặt vặt, vì tôi không thể làm những việc lớn.
Tôi sẵn sàng đón nhận mọi sự, nhưng trước hết, tôi mong chờ tình thương yêu của Chúa như một chút mùi vị của Thiên Đàng được nếm trước..." (trích theo Đỗ Minh Trí, SJ., Đi Tìm Anh Em; trang 177-178)
Những dòng chữ trên đây của cô Johanna phần nào giúp ta dễ lãnh hội nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, nhất là tinh thần sẵn sàng đón Chúa của người Kitô hữu.
Có một điều chắc chắn đó là ai cũng phải đối diện với cái chết một lần, nhưng điều này xảy ra vào lúc nào thì không ai lường trước được cả. Đối diện với sự thật này, con người có những thái độ khác nhau. Có người thì sợ hãi đến nỗi tìm cách chối bỏ, coi như không có cái chết, bằng việc lao vào những thú vui xác thịt, thế trần... Nhưng cũng có người bình thản đón nhận cái chết y như ý Chúa muốn.
Niềm tin Kitô cho ta biết ý nghĩa của sự chết, đó chính là lúc Đức Kitô trở lại để đem ta về với Ngài, để Ngài ở đâu thì ta cũng sẽ ở đó cùng Ngài (x. Ga 14,3). Đó cũng là lúc Ngài cất khỏi lòng ta mọi buồn phiền lo lắng và ban cho ta niềm vui trọn vẹn (x.Ga 16,22).
Việc đón chờ Đức Kitô của người Kitô hữu, được sánh với việc các cô trinh nữ cầm đèn sáng đi đón chàng rể trong dịp lễ cưới. Các cô là những người được tuyển chọn và được mời vào hưởng niềm vui của bàn tiệc. Như các cô trinh nữ trong dụ ngôn, người Kitô hữu cũng được tuyển chọn bởi Cha (x.Ga 17,6) và bởi Đức Giêsu: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em" (Ga 15,16). Đáp lại điều "được tuyển chọn", các cô trinh nữ phải chăm lo chu toàn bổn phận được trao phó cho mình, đó là sửa soạn dầu đèn cho chu đáo. Cũng vậy, người Kitô hữu đáp lại tình yêu Chúa dành cho mình, qua việc Ngài tuyển chọn mình, bằng nỗ lực chu toàn bổn phận của người môn đệ đi theo Đức Kitô.
Đức Kitô hằng vâng theo thánh ý Cha, bất chấp những đau khổ và cái chết mà Ngài phải nếm chịu, trải qua. Bước theo Ngài, người Kitô hữu cũng không ngần ngại trải qua nhiều đau khổ để học thưa tiếng xin vâng ý Cha như Ngài (x.Dt 5,8). Chỉ có những cô trinh nữ chu toàn bổn phận chăm lo đèn dầu đầy đủ mới được hưởng niềm vui của bàn tiệc cưới. Cũng vậy, chỉ có những Kitô hữu nào sống trọn tinh thần xin vâng ý Chúa như Thầy của mình mới được vui hưởng chính hạnh phúc Thiên Đàng của Thầy (x. Ga 17,13).
Khi Thiên Chúa tuyển chọn một ai, Ngài không đòi người đó phải làm những điều lớn lao vượt sức mình; ngược lại, Ngài mời họ làm những công việc bổn phận bé nhỏ bằng một tình yêu vĩ đại. Làm việc vì yêu mến là cách thế tuyệt hảo của sự đáp trả trước sự kiện được tuyển chọn vì yêu. Người Kitô hữu biết chắc rằng, Đức Kitô đang đợi chờ mình ở cuối đường đời, tựa như chàng rể sẽ có lúc gặp gỡ những cô trinh nữ đang cầm đèn cháy sáng, để chính Ngài ngỏ lời cùng họ: "Hỡi kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa..." (Mt 25,34). Hạnh phúc thay cho những ai đã không ngừng sống đời yêu mến, luôn thưa tiếng xin vâng ý Chúa! Họ quả thực là những cô trinh nữ khôn ngoan: luôn chăm lo cho bình dầu tình yêu hằng ở mức dư tràn, để lòng mình hằng hướng về việc đón chờ Chúa Kitô trở lại.
Giáo Hội nhắc nhở các Kitô hữu:
Quê hương chúng ta ở trên trời (x. Pl 3,20)
Chúng ta đang sống trong những tuần lễ cuối năm phụng vụ. Khi sử dụng đoạn Mt 25,1-13 làm bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật 32 Thường Niên này, Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta đích điểm của đời mình là vui hưởng hạnh phúc Quê Trời. Như bao con người khác, người Kitô hữu chúng ta cũng có một lần giã biệt cõi đời. Thế nhưng đó không phải là điều kinh hoàng khiến ta hoảng sợ. Ngược lại, đó là ngày vui mừng khôn tả, ngày ta được trọn vẹn đi vào kết hiệp với Chúa. Thái độ của người Kitô hữu đứng trước cái chết phải là thái độ thanh thản, tin yêu và đợi chờ. Đức Kitô chắc chắn sẽ trở lại để gặp gỡ mỗi người chúng ta trong giờ chết của mình. Vậy chúng ta cần nỗ lực chờ đợi Ngài với đôi tay luôn cầm đèn cháy sáng, đó chính là việc luôn chu toàn thánh ý Chúa bằng một tình yêu trổi vượt.
Như cô Johanna, cũng có lúc ta thấy mình ham sống và sợ chết, nhất là khi đời ta còn trẻ, việc ta còn nhiều... Cô Johanna đã biết nhìn lên Đức Giêsu để học với Ngài thái độ vâng phục kế hoạch nhiệm mầu mà Chúa muốn dành cho cô. Cô cũng sẵn sàng để cho Lời Chúa dìu dắt mình đi, giữa lúc bản thân mình gần như bất lực. Cô đã tìm thấy sự bình an đích thực khi buông mình cho thánh ý Chúa, một sự bình an do chính Đức Kitô ban tặng (x. Ga 14,27). Cô đã cảm nhận hạnh phúc Thiên Đàng ngay khi còn tại thế. Gương sống của cô Johanna cũng là lời mời gọi cụ thể của Chúa muốn ngỏ cùng ta là những môn đệ của Ngài: Hãy phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa, đó là cách duy nhất ta đáp lại tình yêu Ngài. Sự phó thác trọn vẹn này phải được cụ thể hoá qua cách sống trọn vẹn giây phút hiện tại của ta trong tình yêu. Lòng ta chắc chắn sẽ cảm nhận niềm vui náo nức của Thiên Đàng ngay tại thế, khi ta hướng trọn về Đức Kitô, tựa như các cô trinh nữ đã sẵn sàng dầu đèn để đón chờ chàng rể đến, bất chấp sự trễ muộn.
Tình yêu Chúa nơi lòng ta cũng có thể bị tàn lụi khi ta không hâm nóng nó bằng những công việc phục vụ anh em mình. Cách tốt nhất để nuôi dưỡng tình yêu đó là sống tình yêu. Nhờ tình yêu mãnh liệt, người Kitô hữu can đảm sống đời mình từng ngày trong niềm hy vọng vui hưởng Nước Trời, đó là hạnh phúc bất tận mà Thiên Chúa hằng dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Có bao giờ bạn nghĩ về sự chết chưa? Bạn cảm thấy thế nào khi đứng trước sự ra đi của một ai đó là bạn bè thân quyến của mình?
2. Câu chuyện về cô Johanna có nói cho bạn điều gì không?
Khi ông Adong và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ đã xây một cái nhà trên đất sỏi khô: TN32-A18
Khi ông Adong và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ đã xây một cái nhà trên đất sỏi khô cằn, và làm lụng vất vả đổ mồ hôi trán để kiếm của ăn. Mỗi năm hai ông bà có thêm một người con. Theo năm tháng, những người trẻ này lớn lên và tổng cộng tất cả là 14 người. Chắc chả ai ở đây có can đảm sinh sản 14 người!
Một hôm nghe tiếng gõ cửa, ông Adong ra mở và thấy Thiên Chúa đến thăm. Bà Evà mau mắn mời Chúa ngồi và dâng nước cho Chúa dùng. Chúa cám ơn và hỏi: “Các đứa trẻ đi đâu hết cả rồi?” Mau lẹ ông Adong đi gọi các con và 7 đứa đã bước vào nhà, đứng nghiêm trang trước mặt Chúa. Chúa đứng dậy mỉm cười và nói: “Cha sẽ chúc lành cho từng con một”. Họ quì xuống trước mặt Ngài, và Ngài đặt tay trên đầu chúng. Với người con cả, Ngài nói: “Con sẽ là một ông vua oai hùng dũng mạnh”. Với người con thứ hai, Ngài bảo: “Con sẽ là một công chúa xinh đẹp”. Người con thứ ba nghe Ngài nói: “Con sẽ là một vị công tước khôn ngoan”, và những người còn lại đều được lãnh nhận ơn lành để trở nên những học gidi, thi sĩ, đại thương gia.
Ông Adong và bà Evà thấy Chúa chúc lành rộng rãi cho các con của mình, nên vội vàng đi tìm 7 người con còn lại dẫn đến trước mặt Chúa. Chúa cười và nói: “Ta cũng phải chúc lành cho các trẻ này mới được”. Nghe thế, ông Adong và bà Evà mỉm cười sung sướng. Đặt tay trên đứa thứ nhất, Ngài nói: “Con sẽ là một người đầy tớ trung tín”. Với người thứ hai, Ngài bảo: “Con sẽ là một bác nông phu”. Người con thứ ba cũng được chúc lành để làm thợ đóng giầy. Số còn lại người làm thợ rèn, người làm thợ mộc, người làm nghề may vá quần áo.
Bà Evà nghe thấy Chúa chúc như vậy, nên khóc và thưa: “Lạy Chúa, thật không công bằng chút nào. Chúa phân phát các ân huệ của Chúa không đồng đều chi cả. Tất cả những người con này đều là con của con mà Chúa cho người được làm vua, người bị làm đầy tớ”. Chúa lắng nghe lời than, rồi trả lời: “Này Evà, con không hiểu Cha. Cha thấy cần thiết phải phân chia các nhiệm vụ, các công việc trên mặt đất này qua các người con của con. Nếu tất cả đều làm vua hoặc công chúa thì còn ai làm nghề nông để cung ứng thực phẩm nữa. Nết tất cả đều làm quan thì ai sẽ là người cung cấp quần áo. Mỗi người lãnh nhận nhiệm vụ khác nhau, nhưng dưới cái nhìn của Cha, tất cả đều quan trọng và cần thiết. Giống như các phần trong thân thể. Tất cả đều hoà hợp bổ túc và nuôi dưỡng nhau”. Nghe vậy, bà Evà thưa: “Lạy Chúa xin tha thứ cho con. Con đã quá vội vã và nông nổi. Con cầu xin cho thánh ý Chúa được nên trọn nơi các người con của con”.
Qua bài Phúc âm với dụ ngôn người lãnh năm nén, người hai nén, người một nén, Chúa muốn nói với chúng ta một sự thật căn bản: Không ai giống ai và mỗi người lãnh nhận những tài năng ân sủng khác nhau. Tuy nhiên tất cả mọi người đều có những gì cần phải có để đạt kết quả. Người lãnh một nén không có nhiều như người có năm nén, đó là điều rõ ràng hiển nhiên, nhưng ông có tất cả những gì ông cần. Nếu ông không đem đi chôn, có thể ông đã làm được nhiều chuyện. Điều này phản ảnh tâm trạng con người một cách sâu xa: Thiên Chúa trao ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần, nhưng điều đáng buồn là chúng ta thường không biết nhận ra giá trị và cảm ta những gì chúng ta có.
Phải, tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa trao ban ân huệ cũng như tài năng, và có tất cả những gì cần có để đạt đích. Thiên Chúa trao ban những ân huệ tài năng khác nhau là để giúp con nguời có thể chu toàn các công việc khác nhau, bổ túc, khích lệ, và nâng đỡ nhau trong cuộc sống vất vả nơi dương thế. Mỗi người đều quan trọng và có chỗ đứng riêng biệt trên trái đất. Điều quan trọng không nằm ở chỗ nhận nhiều hay ít, nhận ân huệ này hay tài năng kia, nhưng ở chỗ chúng ta đã, đang, và sẽ làm gì với những cái chúng ta có, những gì chúng ta đã lãnh nhận. Đây là điều quan trọng của dụ ngôn. Người có một nén cũng có cùng một cơ hội như người có năm nén, nhưng ông đã chọn lựa việc đem chôn giấu đi. Đó là điều tệ hại nhất chúng ta có thể làm với bất cứ quà tặng nào mà Thiên Chúa đã yêu thương trao ban cho chúng ta.
Đâu là ân sủng tài năng của chúng ta? Và Thiên Chúa đã trao cho chúng ta những gì để chúng ta chia sẻ với xã hội hôm nay? Phải chăng chúng ta chia sẻ hay lại chôn giấu dưới đất, đầu tư một cách ngu xuẩn hay dùng nó để làm vinh danh Chúa? Chúng ta cần nhớ rằng chúng ta có tất cả những gì cần thiết đế chu toàn nhiệm vụ và bổn phận của chúng ta. Và Thiên Chúa muốn chúng ta làm việc: Người lãnh một nén bị phạt không phải vì tội ông chỉ lãnh được một nén, nhưng vì ông không chịu làm việc, không khai thác khả năng của mình. Do đó, câu hỏi quan trọng mà mỗi người chúng ta cần kiểm điểm suy nghĩ một cách thành thực trước mặt Chúa và trả lời qua cuộc sống của mình, đó là: Chúng ta đã và đang làm gì với những cái chúng ta có, những gì chúng ta đã và đang lãnh nhận?
Mt 25,1-13
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Nhịp sống đều đều dễ ru ngủ chúng ta trong thói quen, thụ động và an phận... quên mất nhiều: TN32-A19
Nhịp sống đều đều dễ ru ngủ chúng ta trong thói quen, thụ động và an phận... quên mất nhiều vấn đề quan trọng thiết yếu. Bởi vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta phải luôn tỉnh thức.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và xin Ngài giúp chúng ta sống theo Lời dạy của Ngài.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta mải mê làm ăn sinh sống, đến nỗi không nghĩ đến cuộc sống mai sau. - Chúng ta mải mê lo cho bản thân mình, đến nỗi không nghĩ gì đến tha nhân. - Chúng ta miệt mài tìm hưởng thụ sung sướng mà không nghĩ đến vấn đề tội phúc.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 6,13-17)
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi. Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm.
2. Đáp ca (Tv 62)
Tv này bày tỏ tâm tình của một người đang sống kiếp lưu đày, tâm tình thao thức kiếm tìm Chúa.
Sự thao thức kiếm tìm được mô tả như người khát mong gặp được nước, người đói mong được của ăn, như người nằm trên giường mà không ngủ được vì mãi nhớ kẻ mình thương.
3. Tin Mừng (Mt 25,1-13)
Dụ ngôn 10 trinh nữ đón chàng rể nói đến sự tỉnh thức để đón Chúa khi Ngài quang lâm.
"Tỉnh thức" ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
Dụ ngôn này cũng có một chi tiết rất ý nghĩa: 5 cô khôn ngoan không cho 5 cô khờ dại mượn dầu. Đây không phải là thái độ ích kỷ không giúp nhau. Chi tiết này muốn nói rằng trước số phận đời đời, không ai có thể giúp ai được. Vậy mỗi người phải tự lo bằng một cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
4. Bài đọc II (1 Tx 4,12-17)
Tín hữu Thêxalônikê rất mong tới ngày tận thế, vì khi đó họ sẽ được gặp lại Chúa. Nhưng mong mãi mà chưa tới tận thế, họ sợ rằng mình sẽ chết trước ngày đó và không gặp được Chúa.
Thánh Phaolô trấn an họ: Khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi.
Tâm trạng này của tín hữu Thêxalônikê rất lạ đối với chúng ta. Nhưng nó cho thấy điều này là: Chỉ khi nào người ta luôn tỉnh thức sẵn sàng thì người ta mới có thể không sợ mà còn nôn nóng chờ ngày tận thế (hay ngày chết của mình).
IV. Gợi ý giảng
1. Chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn
Đối với những việc còn mơ hồ, nghĩa là không chắc sẽ đến hay không, thì không chuẩn bị là việc có thể thông cảm được. Nhưng đối với những việc mình biết chắc chắn sẽ đến, thì chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn.
Trong tương lai, bạn sẽ lên chức giám đốc, sẽ lãnh đạo một công ty lớn chăng? Chưa biết. Vì thế, chưa cần phải nghĩ ngợi lo lắng nhiều. Tới chừng đó sẽ tính.
Hai tháng nữa là đám cưới của con trai bạn. Nếu bạn cẩn thận và khôn ngoan thì chắc hẳn bạn sẽ lo ngay từ hôm nay.
Trong tương lai, có thể xa mà cũng có thể gần, bạn sẽ chết chăng? Chắc chắn rồi. Vậy sao bạn không lo trước? Đành rằng không ai biết ngày chết của mình, như Đức Giêsu đã nói rõ "Các con không biết ngày nào, giờ nào", nhưng chuẩn bị sẵn sàng trước luôn là điều tốt hơn. Vả lại biến cố này vô cùng hệ trọng, hệ trọng hơn cả việc chuẩn bị cho một tiệc cưới.
2. Không nghĩ tới không phải là cách trốn tránh được
Chết là một chuyện rất buồn và rất đáng sợ. Vì thế nhiều người không muốn nghĩ tới nó. Họ giống như con đà điểu sợ người thợ săn nên giấu đầu trong cát.
Nhưng việc con đà điểu chúi đầu vào cát không hề ngăn cản được bước chân người thợ săn càng lúc càng tiến gần tới nó. Cũng thế, việc không nghĩ tới cái chết không giúp người ta trốn được tử thần.
Tốt hơn cả là hãy tỉnh thức chuẩn bị sẵn sàng, như gương các tín hữu Thêxalônikê. Càng chuẩn bị thì ta càng bình an khi cái chết đến. Chuẩn bị hoàn toàn chu đáo thì ta còn có thể vui mừng nôn nóng mong cho ngày chết mau đến nữa.
3. Chờ đợi trong tình yêu
Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cuộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Mảnh suy tư
- Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận (ĐHV 25)
- Bổn phận là giấy vào Nước Trời: "Ai thực hiện ý Cha Ta trên trời, sẽ vào Nước Trời" (ĐHV 27)
- Nếu ai cũng nên thánh trong bổn phận, thì tâm hồn mới, gia đình mới, thế giới mới (ĐHV 20)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Chúa có thể đến vào lúc chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Do đó tỉnh thức là việc mỗi kitô hữu cần phải làm thường xuyên cả cuộc đời mình. Tin tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh không ngừng nhắc nhở các kitô hữu / cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quyết định với Đức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh / biết cố gắng sống thánh thiện / để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này.
2. Đứng trước cái chết / mọi người đều sợ hãi / nhất là đối với những ai chưa chuẩn bị để gặp gỡ Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi kitô hữu hiểu rằng / phải làm thật nhiều việc lành phúc đức / để khi Chúa gọi ra trình diện trước tòa Chúa / sẽ không bị Chúa khiển trách bất cứ điều gì / trái lại còn được vui hưởng hạnh phúc trên trời.
3. Tỉnh thức trong bổn phận đối với Chúa và tha nhân / là những điều căn bản trong đời sống đức tin của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / luôn tỉnh thức như Chúa đã dạy.
4. Dầu cần cho đèn thiêng liêng chính là lời cầu nguyện / đồng thời cũng là những việc bác ái yêu thương / như giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cầu nguyện không ngừng / và quảng đại giúp đỡ anh chị em nghèo đói đang sống chung quanh mình.
CT: Lạy Chúa, cuộc sống thường ngày có quá nhiều thử thách gian nan, khiến chúng con dễ sao lãng bổn phận tỉnh thức. Vậy xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con luôn tỉnh thức giữa biết bao phiền toái của cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin nhờ...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy nói với Cha chúng ta ở trên trời rằng chúng ta yêu mến Cha và lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng để về nhà Cha khi Cha đến rước chúng ta.
- Sau kinh Lạy Cha: "... và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc..."
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu dạy: "Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào, giờ nào". Thánh lễ đã xong, nhưng lời Chúa vẫn còn đó. Chúng ta hãy luôn tỉnh thức theo lời Chúa dạy.
Trích Người Tín Hữu Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
KHÔN NGOAN VÀ SỰ CHẾT * Wisdom and Death *
Bài đọc 1 /1st Reading: Kn. 6,12-16= Yêu mến sự Khôn ngoan.- Love of Wisdom. Đức Khôn Ngoan là món quà của Thiên Chúa, ai tìm kiếm Nàng thì Nàng cho gặp. She is a gift of God. She is readily perceived who love and found her.
Bài đọc 2 /2nd Reading: 1Thess.4, 13- 18= Sống lại từ cõi chết. -Rising from the dead. Đoạn này cho người Tín hữu biết không phải chỉ khôn ngoan của con người ... .mà khôn ngoan trong ơn Chúa, bởi đức Tin. This passage gives the Christian's answer, which is inspired not by human wisdom alone, but by human-divine wisdom which we call Faith.
Tin Mừng (Gospel): Math. 25, 1- 13= Luôn chuẩn bị để gặp Chúa. Always be prepared to meet the Lord. Có hai loại người: Kẻ ngu dại thì không sẵn sàng, còn người khôn ngoan thì sẵn sàng khi chú dể đến(Jesus). There are two classes people: the foolish one who were not ready, and wisdom one were ready when the groom (Jeus) arrives.
A. Gợi ý Cảm nghiệm, Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Trong dụ ngôn mười trinh nữ nói: Các cô khờ dại mang đèn mà không mang dầu theo, còn các cô khôn ngoan thì vừa mang đèn vừa mang dầu theo. Trong cuộc sống bon chen hôm nay cũng có nhiều tín hữu chỉ lo tích thu góp tiền của và hưởng thụ cho sướng. Tôi mang dầu theo cho đời sống tâm hồn là những việc gì? The foolish ones ... brought no oil along, but the sensible ones took flasks of oil aswell as their torches. (Mat. 25, 3)
2/ Những câu kết của bài dụ ngôn này nói tiếp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô! Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào." Đừng để những thú vui và vật chất chóng qua làm mất canh thức chờ Chúa . Vụ cháy lớn ở Saigòn và động đất ở Ý vừa qua đã giúp gì cho bạn sống chuẩn bị.? "I tell you, I do not know you, ...keep your eyes open, for you know not the day or the hour." (Mat. 25, 12- 13)
3/ Sách Khôn Ngoan nói cho những ai có chức vụ cần biết: "Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Nàng dễ dàng cho chiêm ngưỡng, ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Nàng cho gặp." Chức vụ và quyền hành Chúa ban cho quí vị, nhưng Ngài kiểm tra và xem xét quí vị làm. Tôi hành động thế nào theo đường lối của Ngài? She is readily perceived by those who love and found by those who seek her. (Kn. 6, 12)
4/ Thánh Phaolô đã dẫn ta đến hình ảnh ngày quang lâm của Chúa: "...chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên." Người Tín hữu không phải chỉ chết khi tắt hơi mà hằng ngày ta hằng chết qua những từ bỏ và quên mình. Làm sao để biết là bạn đã chết trong Đức Kitô? ...The Lord himself will come down from heaven, and those who died in Christ will rise first. (1Thess 4, 16)
B. Câu Kinh Thánh nhắc bảo tôi Sống Lời Chúa tuần này: ( The Best God's Word )
ANH EM HÃY CANH THỨC, VÌ ANH EM KHÔNG BIẾT NGÀY NÀO, GIỜ NÀO. ( Math. 25, 13) SO, STAY AWAKE, FOR YOU DO NOT KNOW THE DAY NOR THE HOUR.
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì ngay để tỏ mình tỉnh thức: ( So what am I doing / For Action )
a/ Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành vào đời sống.
b/ Bạn cần xem lại cách dùng chức vụ và quyền hành theo ý Chúa để khỏi bị xét xử nghiêm minh.
D. Tôi cầu nguyện để canh thức và Sống lơì tôi cầu nguyện: (I pray and practice / Pray in action)
1/ Lạy Cha, lời sách Khôn ngoan đã cho con biết: Ai khao khát Đức Khôn ngoan, thì Đức khôn ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Xin cho con luôn biết sống phục vụ tha nhân theo đường lối và ý muốn của Cha.
2/ Trong bài dụ ngôn, Chúa có ý nhắc bảo con: Tôi bảo thật, tôi không biết các cô; vậy anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày, giờ nào. Xin giúp con đừng đam mê của cải và thú vui mau qua để đón Chúa.
Lời hay ý đẹp:
HÃY ĐỂ CHÚA KITÔ LÀM CHỦ, NẾU BẠN MUỐN HÔN NHÂN MÌNH LÂU BỀN Put Jesus Christ first, if you want your marriage to last
Huyền Đồng
Theo tục lệ tại các nước Trung Đông, thì trong dịp đám cưới, nhà gái thường tổ chức những cuộc vui chơi suốt ngày. Thỉnh thoảng người ta lại loan báo cho biết :
- Chàng rể sắp đến.
Trong thực tế, nửa đêm vào lúc bất ngờ nhất, chàng rể mới xuất hiện. Chàng đến với đèn đuốc sáng trưng để đón cô dâu. Đáp lại, cô dâu cùng các cô phù dâu, cũng phải mang đèn đuốc sáng trưng để bắt đầu cuộc rước về nhà chồng.
Đọan Tin mừng hôm nay cũng cho hay là chàng rể đến chậm. Sự chậm trễ này cũng là điều bình thường và phần lớn xảy ra là do nhà trai chưa đạt được thỏa thuận về các sính lễ phải đem sang nhà gái trước khi rước dâu.
Tục lệ này tương đương với việc “thách cưới” ở Việt Nam mà dân gian đã có những lời diễu cợt như sau :
- Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Ở Trung Đông, tục lệ này còn nặng nề hơn nữa, đến nỗi cuộc rước dâu có thể bị đình hoãn tới đêm hôm sau do cuộc thương lượng và thỏa thuận kéo dài lê thê…
Vì thế không lạ gì khi thấy các cô phù dâu thiếp đi rồi ngủ cả. Các cô tuy không buộc phải tỉnh thức, nhưng buộc phải sẵn sàng để đón chàng rể với đèn cháy sáng cầm trên tay.
Câu chuyện trên được áp dụng vào hai lãnh vực. Lãnh vực nhân loại và lãnh vực cá nhân.
Trước hết là lãnh vực nhân loại. Như chúng ta đã biết chàng rể trong câu chuyện là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Ngài sẽ đến viếng thăm nhân loại vào ngày cuối cùng của vũ trụ vật chất, để phán xét chung hết thảy mọi người.
Tuy nhiên quan trọng hơn đó là lãnh vực cá nhân. Ngài sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào ngày sau hết của cuộc đời để phát xét riêng mỗi cá nhân và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
Điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta không phải chỉ là tỉnh thức để biết được ngày giờ nào Ngài sẽ viếng thăm, nhưng cần thiết hơn, đó là thái độ sẵn sàng, để khi Ngài đến, chúng ta không bị bẽ bàng, hut hẫng và đắng cay vì sẽ bị loại trừ.
Vào năm 79 sau công nguyên, thành phố Pompei với trên 20.000 dân bất ưng bị một ngọn núi lửa vùi lấp dưới lớp tro bụi dày hơn 5 thước.
Các nhà khảo cổ đã đào bới và tìm thấy những bộ xương người mà thịt rữa được thay thế bằng những lớp tro chai cứng. Hay họ dùng thạch cao để đắp lại thành hình người theo dựa theo những bộ xương trong tư thế y hệt lúc xảy ra tai nạn núi lửa. Những khuôn đức ấy cho thấy hành vi cuối cùng của một số người trong thành.
Trước hết là một người mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con trong vòng tay của mình. Tiếp đến là một người lính gác trong bộ áo giáp với vũ khí trong tay, vẫn đứng thẳng tại vị trí của mình, còn người khác thì tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, bên cạnh là năm xác chết, có lẽ đó là những người đến để cướp bóc hay hôi của.
Nếu như hôm nay Chúa đến viếng thăm, liệu chúng ta có ở trong tư thế sẵn sàng với đôi tay chất đầy công nghiệp và một tâm hồn trong trắng, như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn sáng đi đón chàng rể hay không ?
Vào thế kỷ thứ 19, một tác giả vô danh đã kể câu chuyện về một người Mỹ đi du lịch sang Ba Lan, đến thăm thầy Rabbi Hofetz Chaim là người đang được dân chúng kính trọng như một vị thánh rất khôn ngoan. Khi đến nơi cư ngụ của thầy Rabbi, người khách du lịch quá ngạc nhiên khám phá thấy rằng chỗ đó chỉ có một phòng duy nhất mà thôi. Sách vở xếp hàng dọc theo bờ tường ; đồ đạc trong nhà chỉ có một cái bàn và một cái ghế. “Nhưng thưa thầy Rabbi”, người khách hỏi, “Đồ dùng của thầy ở đâu ?” Thầy Rabbi trả lời bằng cách hỏi lại, “Thế đồ dùng của ông ở đâu ?” “Đồ dùng của con ?” người du khách lúng túng nói, “Con chỉ là một người khách đến đây, trọ qua đường”. “Tôi cũng thế” thầy Rabbi Hofetz Chaim trả lời, “tôi cũng là khách trọ qua đường vậy thôi”.
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu diễn tả thái độ sẵn sàng của năm cô trinh nữ khôn ngoan và sự ngu xuẩn của năm cô trinh nữ khờ dại. Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào cho thích hợp đối với cuộc sống trần gian ?
Sự khôn ngoan là một tặng phẩm được Thiên Chúa ban cho con người để biết cách sống thánh thiện theo đường lối của ngài. Sự khôn ngoan không thể bị nhầm lẫn với sự hiểu biết hay kiến thức của trí óc con người. Kiến thức của con người rất giới hạn, và cuộc sống lại đầy những huyền bí. Sự huyền bí tối cao là Thiên Chúa. Và người khôn ngoan là con người biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao.
Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã chuẩn bị sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh của Chúa Giêsu đến trần gian, cũng có thể cắt nghĩa đó là những lần Chúa Giêsu đến với chúng ta trong cuộc đời, và cũng có thể hiểu đó là lần chúng ta phải đối diện với Thiên Chúa qua cái chết.
Những du khách tới Paris và Rheims đã chiêm ngưỡng những bức tượng điêu khắc bằng đá từ thời Trung Cổ minh hoạ dụ ngôn hôm nay. Chúa Giêsu được đặt ở chính giữa giống như chú rể. Ở bên phải của Ngài là năm cô trinh nữ khôn ngoan dưới ánh đèn tươi sáng tượng trưng cho dân ngoại. Họ đứng vây quanh Đấng Thiên Sai. Ở bên trái là những cô trinh nữ khờ dại, những người Do thái, đang nhìn buồn bã vào những cái đèn dầu tối om. Họ bước đi trống rỗng và quay lưng lại với Đức Giêsu.
Thánh Bênêđictô đã muốn các tu sĩ trong nhà dòng của ngài mỗi ngày phải nghĩ về sự chết. Ngài đã dạy các tu sĩ rằng : “Hãy giữ cái chết trước mặt của các bạn hằng ngày”. Đây chính là truyền thống của sự khôn ngoan. Nếu chúng ta nhận ra rằng ngày hôm nay có thể là ngày cuối cùng của mình trên trái đất, chúng ta sẽ cố gắng làm những việc tốt đẹp, phải sống thế nào cho xứng đáng, không phải vì sợ, nhưng vì chúng ta muốn ra đi bằng an, muốn chết thánh thiện và thảnh thơi.
Tướng Baden Powell of Gilwell (1857-1941) của Anh Quốc, người sáng lập phong trào Hướng đạo đã để lại “Thông Điệp Cuối Cùng Của BiPi” cho các hướng đạo sinh như sau :
Các Hướng Đạo sinh thân mến.
Nếu các bạn đã có bao giờ xem vở kịch “Peter Pan” thì hẳn sẽ nhớ rằng lão tướng cướp đã luôn luôn làm sẵn bài diễn văn giã biệt cõi đời của mình vì e ngại rằng khi quỷ vô thường đến lão sẽ không có thì giờ để thực hiện điều ấy nữa. Đối với tôi cũng hầu như vậy, cho nên, mặc dầu chưa đến lúc, tôi cũng muốn làm như thế trong những ngày này và tôi xin gửi đến các bạn vài lời từ biệt.
Xin nhớ rằng đây là những lời cuối cùng của tôi – nên mong các bạn hãy để tâm suy nghĩ. Tôi đã có một cuộc đời hạnh phúc nhất và tôi mong muốn mỗi bạn cũng có một cuộc đời hạnh phúc như thế.
Tôi tin tưởng rằng Đấng Tạo Hóa đặt để chúng ta trong thế giới tươi vui này để được hạnh phúc và hưởng cuộc sống. Hạnh phúc không đến từ sự giàu sang, cũng chẳng phải nhờ thành công trong sự nghiệp, cũng không phải sự tự do buông thả. Một bước dẫn đến hạnh phúc là các bạn cần giữ mình khoẻ mạnh khi còn niên thiếu, như vậy các bạn sẽ trở nên hữu ích và có thể hưởng cuộc đời khi trưởng thành.
Việc học hỏi thiên nhiên sẽ cho các bạn thấy có biết bao nhiêu điều đẹp đẽ và kỳ diệu mà Đấng tạo Hoá đã lập ra thế giới này để các bạn thụ hưởng. Hãy thỏa mãn với những gì các bạn đã đạt được và hãy tận dụng nó. Hãy nhìn khía cạnh sáng sủa của sự vật thay vì mặt phía trái.
Nhưng con đường thật sự để được hạnh phúc là đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Hãy cố gắng lưu lại cho thế giới này một chút gì đẹp hơn là các bạn đã tìm thấy và khi đến phiên các bạn từ giã cõi đời, các bạn có thể ra đi trong hạnh phúc với sự cảm thụ rằng với bất cứ giá nào, các bạn đã không phung phí thời gian và đã làm hết sức mình.
Hãy “sắp sẵn” trong lối này, là sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Hãy luôn luôn thực hành lời hứa hướng đạo ngay cả sau khi các bạn không còn là một thiếu niên và Thượng Đế giúp các bạn thực hiện điều đó. Bạn của các bạn.
Theo câu châm ngôn “sắp sẵn” của các hướng đạo sinh, chúng ta phải sống giống như những cô trinh nữ khôn ngoan, luôn luôn sẵn sàng đáp trả điều sẽ xảy ra trong cách tốt đẹp nhất và đem lại hạnh phúc cho tha nhân.
Chúa Giêsu hay nói về đám cưới, vì đám cưới của người Do Thái sống ở Palestine thời Chúa Giêsu là một cơ hội lễ lạc linh đình. Theo William Barclay, toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rể và cô dâu về nhà mới, họ đứng hai bên đường ca hát và chúc mừng những lời tốt đẹp nhất. Đôi tân hôn không đi xa để hưởng tuần trăng mật, nhưng ở tại nhà, suốt cả tuần lễ tiệc tùng, và được đối đãi quý trọng như hoàng tử và công chúa. Đây là tuần lễ quan trọng đáng ghi nhớ nhất trong đời của một người. Do đó, theo luật lệ của các thầy Rabbi, ngày lễ cưới là ngày hoan lạc vui tươi, tất cả khách đến tham dự được miễn trừ không phải giữ luật ăn chay.
Thánh lễ cưới theo nghi thức tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều đứng lên tập trung vào cô dâu đẹp đẽ trong y phục áo cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Còn chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên bàn thờ đón tiếp cô dâu.
Trái lại, trong nghi thức đám cưới Do Thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Trước hết, nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn… vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Tuy nhiên, theo bài Phúc âm diễn tả, năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến thì họ lại hết dầu. Điểm rất quan trọng cần lưu ý ở đây là thời xưa không ai được phép ra đường vào ban đêm mà không có đèn, nhất là trinh nữ. Vì bóng đêm với đầy dẫy sự nguy hiểm của gian tà tội lỗi !
Thánh Augustinô đã chú giải như sau : “Năm cô trinh nữ khờ dại trong bài Phúc âm hôm nay thực sự là ngu xuẩn. Họ khờ dại vì đã chểnh mảng giữ giới răn dễ dàng hơn, đó là mến Chúa và yêu người, để liều lĩnh giữ giới răn về sự thanh khiết”. Họ phải yêu thương tha nhân bằng việc thắp đèn dầu của mình soi sáng đường đi cho mọi người đến đón chú rể. Họ ngu xuẩn vì họ đã bỏ qua giới răn quan trọng và dễ thi hành này, “mến Chúa và yêu người”, để giữ một giới răn khó khăn là sự trong sạch. Theo William Barclay, tiệc cưới là những ngày hội vui tươi và linh đình, kéo dài cả tuần lễ. Ăn uống, vui chơi, đàn ca và khiêu vũ không chỉ dành riêng cho đôi tân hôn, nhưng cả bạn bè và những người thân đều được mời tham dự. Do đó, những cô trinh nữ khờ dại đã bị loại ra, uổng mất cơ hội hoan lạc đáng kể này !
Những nhân viên sĩ quan và thủy thủ đoàn cấp cứu của con tàu Titanic rất giống với những cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Họ đã không chuẩn bị đầy đủ cho điều có thể xảy ra vì họ tin rằng con tàu của mình không thể chìm nổi, nhưng trong một số trường hợp họ cũng không biết điều khiển máy móc làm cho những chiếc thuyền cấp cứu hạ thấp xuống nước nữa. Do đó, khi tai nạn xảy đến, tất cả chỉ là một đám đông hỗn độn: thủy thủ đoàn không được huấn luyện không biết phải làm gì. Và khi họ phát ra những chiếc phao cấp cứu, họ mới khám phá thấy rằng tất cả những dụng cụ cấp cứu và phao nổi đã quá ít so với số hành khách và thủy thủ đoàn.
Đừng bắt chước năm cô trinh nữ khờ dại. Họ nghĩ rằng có thể mượn được dầu từ người khác. Chúng ta cũng không thể nào vay mượn được đời sống tinh thần của người khác. Phải tự phát triển đời sống đạo đức của riêng mình. Không ai có thể sống dùm cho chúng ta. William Barclay ví von rằng, chúng ta không thể nào vay mượn được tính tình và nhân đức giống như vay tiền từ thẻ tín dụng! Năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại là những biểu tượng của những cách sống của con người. Xin Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để biết sống sẵn sàng vâng theo đường lối của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau : một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không ? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không ? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng : chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau : Bá tước Henri đơ Bavie, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôngang. Một hôm thánh Uôngang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ : “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Henry suy nghĩ mãi, không hiểu “sau sáu…” nghĩa là gì ? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng ? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng : sau sáu tuần chăng ? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng ? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng ? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sau sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy, ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta : hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn và cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm khô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ : một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
Chi Tiết Hay
Theo tục lệ của người Do Thái thì đám cưới là một cơ hội đặt biệt. Toàn thể dân cư trong làng sẽ cùng đi bộ với cô dâu chú rể đến nơi cư ngụ mới của họ. Ngay cả những thầy Do Thái vào thời đó cũng đồng ý bỏ qua những giờ học luật để tham gia ngày hội.
Không giống như văn hóa tây phương, đi hưởng tuần trăng mật là chuyện không bao giờ nghe nói tới. Thay vào đó thì đôi vợ chồng mới sẽ ở nhà trong vòng một tuần để chung vui với khách mời và chỉ có những người bạn tuyển chọn mới được phép tham gia.
Trước khi nghi lễ bắt đầu, chú rể phải thương lượng với gia đình cô dâu; không có lời tuyên bố nào cho biết là bao giờ cuộc thương lượng mới chấm dứt.
Cuối cùng khi chú rể tới, thông thường thì sẽ có một người đến và nói "Hãy sẵn sàng, chú rể đang tới!" Việc đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào, có khi xảy ra ngay vào lúc nửa đêm. Vì thế, phía nhà gái phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng ra nghênh đón chú rể.
Khi trời tối, không ai được phép đi ra ngoài mà không cầm theo đèn. Sau khi chú rể tới, các cửa sẽ được đóng lại ngay lập tức. Những khách đến trễ sẽ không được vào. Người Do Thái cho rằng làm khách mà đến trễ thì đó là một sự
sỉ nhục.
Một Điểm Chính
Giờ Chúa đến thì không thể đoán trước được. Không có một trường hợp ngoại lệ nào cho những ai không chuẩn bị cho ngày Nước Trời đến.
Suy Niệm
Tại sao có năm cô trinh nữ khờ dại và năm cô trinh nữ khôn ngoan? Phải chăng điều đó ám chỉ rằng chỉ có một nửa thế giới của chúng ta sẽ được lên Thiên Đàng? Như vậy phải chăng sẽ không có bao nhiêu người trong chúng ta sẽ được lên Thiên Đàng? Hay là có thể năm cô trinh nữ khôn ngoan kia có khả năng chia sẻ dầu thắp đèn cho năm cô trinh nữ khờ khạo nhưng lại không chịu làm như vậy vì nước Trời thì quá xa để mà làm bất sự mạo hiểm nào khác.
Có khi nào chúng ta không chịu chuẩn bị cho điều gì mà chúng ta biết trước là chúng ta nên chuẩn bị, thí dụ như chuẩn bị chu đáo cho một kỳ thi kiểm tra trong lớp? Giả dụ kỳ thi được chấm điểm một cách nghiêm minh và chúng ta bị điểm thấp. Chúng ta sẽ tự trách mình hay đi trách thầy giáo?
Hãy lắng đọng và suy nghĩ xem chúng ta đã và đang chuẩn bị cho ngày tái lâm của Chúa Giêsu ra sao? Hay có khi nào chúng ta suy nghĩ đến chuyện đó hay không? Những gì chúng ta đang làm liệu có đủ chưa? Những gì chúng sẽ phải chuẩn bị cho nước Trời như là một cá nhân, như là một cộng đoàn, và như là một thế giới.
Suy Niệm
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết. Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình. Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Điện Biên Phủ, nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết. Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ, lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật. Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ, như chú rể đến lúc nửa đêm. Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan, hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá!
"Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!"
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm, khiến đèn của mình hết dầu. Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan, vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya. Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng, không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ! Đèn cần phải sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ. Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại, có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung, của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ... Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế. Chẳng ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức, khi nhận ra mình đã mê muội.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nạn ma tuý đã đi vào trường học và tác hại trên người trẻ. Theo ý bạn, phải làm gì để ngăn chặn?
Nếu định nghĩa ma tuý là tất cả những chất gây nghiện, khiến con người có nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, không thể cưỡng lại được, thì theo ý bạn, đâu là những thứ ma tuý hiện nay đang mê hoặc giới trẻ ? (rượu, cờ bạc, bạo lực, tình dục...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Một tác giả trong thành phố Nữu Ước nói chuyện về tuổi thơ ấu của ông ta như sau: Trước ngày sinh nhật thứ mười của ông ta, gia đình ông đã đổi chỗ sinh sống tới mười lần. Kỷ niệm khó quên nhất của ông mỗi lần đến vùng đất mới là luôn luôn chứng kiến sự than khóc của người mẹ trong ngôi nhà mới. Ông đã nhớ lại sự khóc lóc đau khổ của người mẹ khi bà ta mở những thùng đồ ra. Ông cũng nhớ lại người cha của ông nói với ông, "Này con, mẹ con sẽ không sao. Mẹ chỉ chào tạm biệt những người bạn mà mẹ bỏ đi, thì mẹ có thể làm quen được với những người bạn mới ở đây. Vậy con phải chấp nhận sự đau khổ của mẹ."
Có một điều chủ yếu giá trị và sâu xa của Thánh Kinh nơi làm việc trong đoạn đơn giản này. Một trong những tường thuật rõ ràng nhất của chủ yếu này thì đã được tìm thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan -- Phúc Âm của "Sự Sống Lại". Phúc Âm Thánh Gioan chia ra làm hai phần. Phần đầu, Gioan kể lại câu chuyện về sứ vụ công khai của Chúa Giêsu vòng quanh những dấu hiệu sống lại. Những dấu hiệu đầu tiên này xẩy ra khi Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Sự biến đổi mầu nhiệm nước thành rượu là một dấu hiệu của Chúa đang làm trong cuộc sống chúng ta đó là biến đổi đau buồn thành niềm vui, thất vọng thành hy vọng, sự chết thành sự sống. Trong bẩy chương đầu của Thánh Gioan, chúng ta tìm thấy sự tham khảo về sự sống lại được lập đi lập lại. Điểm cao nhất trong chương bẩy vẫn còn một dấu hiệu sống lại vĩ đại khác đó là sự sống lại của Lazarô từ cõi chết. Giữa đoạn này, Chúa Giêsu nói, "Ta là sự sống lại." Lúc đó, có một sự thay đổi: Từ chương mười hai trở đi các tông đồ kể về sự chết và sự sống lại của Chúa. Đặt giữa hai đoạn này của Phúc Âm giống như một hạt kim cươmg trong một khung cảnh đẹp, Chúa Giêsu đã nói một câu rất hợp với lẽ thường tình tự nhiên: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mỉnh, nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ sinh được nhiều hoa trái" (Jn 12:24). Thiên nhiên làm chứng cho chu kỳ sáng tạo của sự chết và sự tái sinh. Chúa Giêsu, qua sự chết và sự sống lại, làm chứng cho sự hiện diện của chu kỳ này trong mỗi người chúng ta.
Vào mùa cắm trại hè, có chú bé đã đi tới bệnh xá rên rỉ vì bị cảm lạnh. Cô y tá nói với bé: "Cô sẽ cho em một viên thuốc cảm, em sẽ khỏi; đồng thời, cô cho em biết em có một hồ sơ tốt. Em đã không bao giờ bịnh trước đây." Cậu bé đó đã viết thơ về nhà: "Kính thưa ba má! Hôm nay con bị bệnh. Ba má đoán xem con bịnh gì! Cô y tá nói ngày giờ của con đã được ghi sổ." Thật ra, định mệnh của mỗi người đã được ghi sổ. Nhưng đối diện với thực tại đó Chúa đã có lời hứa lý thú cho chúng ta là từ thân xác hay chết này sẽ sống lại và tái sinh trong thân xác thiêng liêng sáng láng.
Lãnh vực nào trong cuộc sống của bạn nơi mà một vài người chết đang xẩy ra? Người đàn bà khóc lóc đau buồn mổi lần phải rời tới khu nhà mới trong câu chuyện trên là một thí dụ điển hình. Có thể vì cao niên mà những khả năng, sức mạnh, cảm tình đang bị chết dần. Cũng có thể là vì cắt đứt tình bạn hữu. Cũng có thể vì một vài tình trạng nơi làm việc hoặc hàng xóm. Dù bất cứ là cái gì và bất cứ ở đâu liên quan tới nó bây giờ và bắt đầu hiểu cái gì Chúa Giêsu đang nói với bạn rằng: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nót thối đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái." Khi chúng ta nhận ra tiến trình này trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần hiểu sự cần thiết của sự từ bỏ cái gì mà đang mất hoặc đã mất.
Nữ diễn viên nổi tiếng Helen Hayes nói rằng thời gian đau khổ nhất đến trong cuộc sống của cô là sau khi người con gái mười chín tuổi của cô chết vì bệnh bại liệt. Cô nói rằng thu thập mảnh vỡ của cuộc đời cô và tiến về phía trước là một điều đau đớn nhất cô đã từng làm, nhưng cô đã tìm cách giải quyết được nó, lấy lại nghề nghiệp, và đã làm những điều lạ lùng chống lại bệnh tê liệt. Một lần nọ bác sĩ Jonas Salk nói với cô, "Bạn là một vũ khí lợi hại nhất tôi có trong trận chiến chống lại thứ bịnh này." Một vài năm trước đây, cô Hayes đã thu tất cả gia tài của cô đem đi bán đấu giá và cho tất cả số tiền đó tới hội từ thiện. Khi người ta phỏng vấn, cô nói, "Tôi từ bỏ những thứ đó để tôi không bị vướng víu khi tôi hướng về trời." Từ bỏ! Không vướng víu! Hướng về trời! Sự chết và tái sinh!
Bất kể chúng ta thế nào, thì ngày giờ chúng ta cũng đã được ghi sổ. Giầu hay nghèo, nổi tiếng hay không. Không trừ một ai. Sự chết tuyên bố chiến thắng tất cả. Tuy nhiên trong sự chiến thắng hiện nay chúng ta phải vượt qua. Chúng ta chỉ học được cái gì để sống bởi sức mạnh của Thiên Chúa khải hoàn để có khả năng nói như Thánh Phaolô, "Ô sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu... Tạ ơn Chúa, Người đã cho chúng ta sự chiến thắng trong Đức Giêsu Kitô" (1 Cor 15:55,57). Trong sự liên kết với những người Kitô hữu trung thành của mọi thời đại chúng ta có thể tiếp tục cuộc hành trình, hy vọng nhắm tới sự chiến thắng của cuộc sống trong ngày hạnh phúc cuối đời.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm ngày hôm nay nói về ngày thế mạt liên quan đến sự biết trước được giờ nào chú rể đến tiệc cưới. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này tượng trưng cho ngày giờ sắp đến của bữa tiệc đời đời của chúng ta là những người bạn thân vĩnh viễn của Ngài. Đây là cảnh tái sinh của chúng ta trong "trời mới và đất mới khi trời cũ, đất cũ đã qua đi" (Rev 21:1). "Vậy, hãy tỉnh thức" Chúa Giêsu khuyên, "vì các ngươi không biết ngày cũng chẳng rõ giờ" mà chú rể sẽ đến và bữa tiệc sẽ bắt đầu.
Những cây đèn bằng chứng của chúng ta đã đươc đổ đầy dầu hy vọng. Hãy vang dội lại những tiếng kèn reo mừng của các thánh và thiên thần, đóng dấu bằng máu tử đạo, và tin tưởng chắc chắn vào lời nói hy vọng này của Đấng Cứu Thế là ở giữa sự chết này chúng ta đang sống.
– Gier. Nguyễn văn Nội
Dụ ngôn mười trinh nữ
1. Thế nào là khôn, thế nào là dại theo Phúc Âm ?
Dụ ngôn mười trinh nữ thật dễ hiểu: đi đón chú rể, mười trinh nữ đều mang theo đèn (vì theo phong tục người Do-thái xưa, đám cưới được tổ chức vào ban tối). Có năm cô không chỉ mang theo đèn mà còn mang theo cả dầu dự trữ nữa, vì các cô này biết phòng xa cho trường hợp chú rể không đến đúng giờ hẹn. Còn năm cô khác chỉ mang theo đèn mà không mang theo dầu dự trữ. Sự việc xẩy ra đúng như năm trinh nữ khôn ngoan biết phòng xa. Họ được vào phòng tiệc cùng cô dâu chú rể. Còn năm cô không mang theo dầu dự trữ đã hụt mất cơ may, vì khi họ đi mua dầu ở quán hàng trở về, thì phòng tiệc đã đóng và chú rể không tiếp nhận họ. Năm cô trước được gọi là khôn; còn năm cô sau bị coi là dại.
Vậy theo Phúc Âm, người khôn là người không chỉ sống với hiện tại mà còn biết nghĩ tới tương lai, luôn tỉnh thức và biết dự phòng. Còn người dại là người chỉ biết nghĩ tới những điều xẩy ra trước mắt, không biết nhìn xa trông rộng, không biết dự phòng cho ngày mai. Giáo Huấn của Đức Giê-su là chúng ta hãy trở thành người khôn: "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào."
2. Khôn theo Phúc âm khác xa với khôn theo người đời
Quả đúng như lời Đức Giê-su đã nói là chẳng ai trong chúng ta biết khi nào, ngày nào Thiên Chúa sẽ đến gặp chúng ta, sẽ gọi chúng ta và đưa chúng ta vào Vương Quốc của Người. Nên tốt nhất, khôn ngoan nhất là chúng ta hãy chọn cho mình một tư thế luôn sẵn sàng, tỉnh thức trước một sự kiện chắc chắn sẽ xẩy ra nhưng chúng ta chỉ không biết khi nào sự kiện ấy xẩy ra mà thôi.
Nhìn vào cách sống của nhiều người chung quanh và của chính bản thân mình, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng khi thấy nhiều người (trong đó có chúng ta) sống như chỉ có ngày hôm nay, chỉ có cuộc đời trần thế và chỉ có đời sống vật chất này mà thôi ! Người ta (trong đó có chúng ta) chạy theo và thu tích của cải, giầu sang, vui thú, danh vọng, quyền chức... mà coi thường và lãng quên những gía trị thiêng liêng và vĩnh hằng của một cuộc sống thanh đạm, siêu thoát, từ bỏ, bác ái. Nhiều người trong chúng ta thừa biết là vào giờ lâm chung chúng ta chẳng mang theo được của cải, vàng bạc, châu báu hay chức tước, địa vị, vinh hoa, phú quí trần gian. Chúng ta chỉ có thể mang theo những hành động hy sinh, hãm mình, từ bỏ nhằm phục vụ Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân, nhất là những người nghèo khó, túng thiếu, bị thiệt thòi và bị loại trừ trong xã hội (xin đọc lại Mt 25).
Thế mà chúng ta vẫn sống ngược lại với lời cảnh báo của Phúc Âm ! Thế là sống khôn hay sống dại? Xin trả lời: Thế là sống khôn theo người đời và sống dại theo Phúc Âm! Sống khôn theo Phúc Âm thì khác xa với sống khôn theo người đời, thậm chí đối nghịch với sống khôn theo người đời. Sống khôn theo Phúc Âm là cho đi, là dâng hiến trong khi sống khôn theo người đời là bo bo giữ chặt cho mình. Sống khôn theo Phúc Âm là dành ưu tiên cho các gía trị không bao giờ hư mất: công lý, yêu thương, hiền hòa, khiêm nhường, trong sạch; còn sống khôn theo người đời là chạy theo và thèm khát các gía trị chóng qua: giầu sang, lạc thú, quyền lực.
3. Ngày nay sống khôn theo Phúc âm có khó lắm không ?
Nói chung, sống khôn theo Phúc Âm bao giờ cũng là sống ngược dòng. Vì thế sống khôn theo Phúc Âm không phải là một chuyện dễ dàng. Nhưng ngày nay dường như sống khôn theo Phúc Âm còn khó khăn hơn bội phần. Tại sao? Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan:
Ngày nay nhờ khoa học và kỹ thuật con người thực hiện được rất nhiều kỳ công nhưng lại biến mình thành nô lệ của các kỳ công ấy đến độ tôn thờ chúng như tôn thờ thần thánh, gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Vì thế con người không coi trọng đời sống tâm linh, tôn giáo như xưa nữa, người ta sống như "chết là hết" và chỉ quan tâm tới đời sống trước lúc chết mà thôi.
Trong đời sống xã hội, quốc gia và quốc tế, người ta thấy sức mạnh của đồng tiền và quyền lực, nên ai nấy đều ít nhiều khao khát của cải, địa vị và tìm mọi cách để có được những thứ ấy. Lòng con người dễ trở nên mù quáng. Hơn nữa xã hội tiêu thụ, với mọi phương tiện quảng cáo và khuyến mãi trong tay, tạo nên một não trạng ham mua sắm, chạy theo tiện nghi cuộc sống. Từ đó tạo nên một não trạng chỉ biết có đồng tiền, chỉ coi trọng đồng tiền.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, sống khôn theo Phúc Âm quả là khó !
Sống khôn theo Phúc âm quả là khó, nhưng không phải là không thể. Muốn sống khôn theo Phúc âm, chúng ta cần tới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần là chính sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Bài đọc 1 cho chúng ta thấy Đức Khôn Ngoan (là chính Thánh Thần) luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như thế nào. Chỉ cần chúng ta chạy tới Người, kêu cầu Người là chúng ta được Người trợ giúp. Chúa Thánh Thần còn là Đấng ban bẩy ơn cho những ai kêu cầu Ngài. Trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần nhất là Ơn Thông Hiểu và Ơn Khôn Ngoan để chúng ta biết lượng giá các sự việc, biết chọn lựa và biết sống theo Phúc Âm!
Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã dùng dụ ngôn mười trinh nữ để dạy chúng con biết chọn lựa cách sống khôn theo Phúc Âm. Chúng con quyết tâm thức tỉnh và cảnh giác, luôn luôn sẵn sàng trước tiếng gọi của Chúa, trước ngày giờ Chúa đã định cho chúng con!
Lạy Chúa Thánh Thần là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, là Đấng sở hữu và ban phát bẩy ơn của Thiên Chúa. Xin Thánh Thần ban cho chúng con bảy ơn ấy, nhất là Ơn Thông Hiểu và Ơn Khôn Ngoan, để chúng con biết sống khôn theo Phúc âm, sống tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng.
Khung cảnh lễ cưới trong dụ ngôn rất quen thuộc với thính giả của Chúa Giêsu: tại nhà cha mẹ mình, cô dâu chờ chú rể đến rước để làm lễ chúc lành và ăn tiệc cưới tại nhà trai. Khi chú rể và đoàn phù rể kéo đến đón cô dâu, đoàn phù dâu sẽ ra đón rước với đèn, đuốc sáng. Sở dĩ đám cưới làm vào ban tối vì ban ngày thời tiết rất oi bức. Trước đó, hai gia đình thương lượng với nhau, về của hồi môn chẳng hạn. Vì thế, nhà gái có thể chờ lâu, có khi đến nửa đêm.
Câu chuyện đám cưới tưởng sẽ diễn tiến tốt đẹp, không ngờ kết cuộc thật thảm hại, với những chi tiết rất khó tin: năm cô khôn ích kỷ không chịu chia sẻ dầu, bắt năm cô dại đi mua dầu lúc đêm khuya, về đến cửa phòng tiệc đóng kín, và thái độ của chú rể đối với các cô đến chậm.
Thực ra, đây chỉ là bài dụ ngôn, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa tổng quát của nó. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đặt dụ ngôn trong thời điểm Chúa Giêsu giảng dạy về ngày quang lâm của Người. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cảnh giác vì không ai biết ngày nào, giờ nào Người sẽ trở lại để phát xét chung. Không phải được chọn cầm đèn ra đón chú rể là tự động được vào dự tiệc cưới, cũng như không phải chỉ xưng mình là người Ki-tô hữu là được cứu rỗi! Giấy chứng chỉ rửa tội không phải là vé vào cửa miễn phí và tự động của Nước Trời đâu!
Trong dụ ngôn có năm trinh nữ được khen là khôn, không phải do sự khôn ngoan tự nhiên của mình, nhưng vì thông hiểu dự định của Thiên Chúa. Còn năm cô kia bị chê là dại, không phải do sự đãng trí và sơ suất của mình, nhưng do một thái độ tinh thần quên Chúa. Vấn đề quan trọng nhất là việc chú rể đến trễ. Qua dụ ngôn này, Chúa dạy chúng ta ý nghĩa của thời gian. Đó là một thử thách của đức tin. Sự cảnh giác và sẵn sàng là hai chữ quan trọng nhất trong dụ ngôn này. Chúng ta phải cảnh giác vì Chúa Ki-tô sẽ đến lúc mà không ai ngờ tới.
Mặc dù nói về sự trở lại của Chúa Ki-tô, dụ ngôn cũng cho chúng ta một bài học về lợi ích trước mắt và cụ thể, đó là giúp mỗi người chúng ta chuẩn bị cho cái chết của mình. Tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn, nhắc nhở chúng ta phải luôn chuẩn bị: sự chuẩn bị cần phải tích cực và cá nhân.
- Chuẩn bị tích cực: được nhập vào đoàn rước chờ đợi hoặc mang đèn vẫn chưa đủ, mỗi người chúng ta cần phải tích trữ dầu, có nghĩa là phải luôn duy trì tinh thần và đức tin sống động, trong tình bác ái. Có như thế, sự chuẩn bị mới trọn vẹn.
- Chuẩn bị cá nhân: ngày đó, chúng ta tưởng có thể nhờ cậy vào người khác. Không! Người khác có thể giúp chúng ta, nhưng họ không thể thay thế chúng ta được. Sự tương trợ là điều trọng yếu trong đời sống Ki-tô giáo, nhưng mỗi người có trách nhiệm riêng của mình. Một số người cảm thấy khó chịu về tính ích kỷ của năm trinh nữ khôn ngoan. Họ không thể cho mượn dầu, vì có nhiều điều chúng ta không thể cho mượn được, tình yêu chẳng hạn. Chúng ta không thể thay thế lòng ước ao bằng đồ vật được! Chúa Giêsu nói: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49). Lửa tình yêu đó đã nung đốt chúng ta khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Nhưng sau đó, chúng ta có gìn giữ cho ngọn lửa được sáng mãi hay không?
Câu kết luận của Chúa Giêsu Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào nhấn mạnh ý nghĩa của dụ ngôn. Sự mong đợi Chúa trở lại không phải là một thời gian trống rỗng nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực. Lịch sử cứu độ vẫn tiếp diễn. Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng! Đừng để lỡ ngày giờ đón rước Chúa Ki-tô khi Người trở lại, cũng như trong giờ sau hết của chúng ta. Chúng ta có hẹn với Chúa mọi lúc trong cuộc sống của chúng ta. Khi có chuyện vui, Chúa mời gọi chúng ta san sẻ niềm vui đó. Khi có chuyện buồn (bệnh tật, tang...), Chúa mời gọi chúng ta không sống khép kín, nhưng đến với những ai đang cùng chung hoàn cảnh. Họ cần được người khác hiểu, thông cảm, khuyến khích và song hành với họ. Như thế, trong mọi nơi và mọi lúc, chúng ta luôn cầm đèn sáng và làm chứng rằng Chúa Ki-tô là ánh sáng thế gian.
TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?
- Lm Mark Link
Chủ đề: Ngày cuối cùng sẽ đến bất ngờ, vì vậy hãy sẵn sàng.
1.900 năm trước đây, núi lửa Vesuvius đã phun lên ở Italy. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompél đã bị chôn dưới lớp phún thạch dầy tới 18 bộ (gần 6mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần dây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên. Mọi người ai cũng phải ngạc nhiên về những điều họ khám phá được. Có những ổ bánh mì cháy thành than, trái cây vẫn còn bốc mùi, những trái ô liu vẫn còn nổi trong chảo dầu. Tuy nhiên, có những khám phá khiến người ta còn sửng sốt hơn. Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại hoạ đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Dùng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân. Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang quấn chặt đứa con trong đôi tay mình, hoặc một lính gác Roma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới phút cuối cùng. Nạn nhân thứ ba là một người đàn ông tay cầm gươm đứng trong tư thế thẳng tắp, chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc Rải rác quanh anh ta là năm xác khác có lẽ là những kẻ dự định cướp của đã bị anh ta giết chết.
Những khuôn thạch cao trên minh hoạ sống động cho hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay. Chủ đề thứ nhất là sự cố ngày tận thế và cuộc giáng lâm lần thứ hai của Chúa Giêsu sẽ xẩy đến bất ngờ. Hai biến có này sẽ đến mà không hề báo trước. "Như một tên trộm viếng vào ban đêm". (1 Tx 5 : 2). Hai biến cố ấy đến bất chấp những kẻ được ái mộ, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo, trẻ hay già, nổi danh hay vô danh, da trắng, da đen hay da nâu.
Hai biến cố ấy sẽ xảy đến thình lình với tất cả mọi người. Điều đó dẫn chúng ta đến chủ đề thứ hai của bài đọc hôm nay là chúng ta hãy sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như các cô phù dâu khôn ngoan kia không? Hay giờ chúng ta chẳng chuẩn bị gì cả giống như các cô phù dâu khờ dại? Liệu chúng ta có sẽ phải nghe những lời kinh khiếp: "Ta không biết các ngươi". Như đám phù dâu khờ dại này đã được nghe khi họ gõ cửa không?
- Hay vào giờ cuối cùng chúng ta có giống anh chàng ở thành Poméi đang nắm chặt cây gươm đứng trên đống vàng bạc vô dụng không?
- Hay giờ ấy chúng ta sẽ giống như bà mẹ đang ôm chặt con mình một cách yêu thương chăng?
- Hay giờ ấy chúng ta giống như anh lính gác Roma đang trong tư thế trung thành với bổn phận của mình?
Hai chủ đề của các bài đọc hôm nay: một là ngày cuối cùng đến bất ngờ, và hai là bổn phận chúng ta phải sẵn sàng cho ngày ấy là hai chủ đề nghiêm chỉnh, đòi chúng ta phải đưa ra quyết định bởi vì đây là những chủ đề có thể đổi thay cuộc sống chúng ta. Đây không phải là những chủ đề mà chúng ta có thể lắng nghe một cách vô tư, cũng chẳng phải là những chủ đề mà chúng ta có thể tuỳ tiện bỏ mặc. Những chủ đề này hàm chứa sức mạnh của gươm hai lưỡi mà thư gởi tín hữu Do Thái đã đề cập tới; "Lời Chúa sắc bén hơn bất kỳ gươm hai lưỡi nào. Lời Ngài phân chia hồn, linh, cốt, tuỷ, xem xét tư tưởng và ý muốn trong lòng người. Chẳng có vật nào giấu kín được trước mặt Chúa, mọi sự đều trần trụi và phơi bày ra trước mặt Đấng mà chúng ta phải tự mình trả lẽ" (Dt 4 : 12-13).
Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng là những chủ đề thích hợp mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta vào những ngày cuối năm phụng vụ. Đây cũng là chính là hai chủ đề Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vào lúc cuối đời Ngài. Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng mời gọi chúng ta tự vấn chúng ta sống giống như đám phù dâu khờ dại hay giống đám phù dâu khôn ngoan?
Nếu giống đám phù dâu khờ dại thì chúng ta không nên ngã lòng bởi vì vẫn còn thời gian để sửa đổi tình cảnh. Còn nếu giống đám phù dâu khôn ngoan thì chúng ta hãy cảm tạ Chúa về ân sủng và sự khôn ngoan đã giúp chúng ta nghe theo lời Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc với mẫu chuyện sau. Mẫu chuyện này sẽ giúp minh hoạ cho những gì các bài đọc hôm nay đang mời gọi chúng ta thực hiện.
Cách đây nhiều năm, năm nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giãi phẫu. Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai, chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình. Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng. Đó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em vẫn đọc. Đó là "Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh" thường đọc sau rước lễ:
Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật, lòng chừa cải cho vững. Đang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Đavid phán tiên tri về Chúa con rằng: "Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra".
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Vào thời tiết này, nhiều nơi trên đất nước Hoa Kỳ, nhất là ờ miền Nam ấm áp, cây cối vẫn còn rực sáng trong nắng cuối thu. Trời đất quả là một bức tranh tuyệt đẹp. Lá vàng nhuộm màu sặc sỡ khắp đó đây. Nhiều thi nhân, hoạ sĩ gọi là mùa pháo bông của thiên nhiên. Tiết đông chưa tới, gió lạnh nghiệt ngã chưa thổi luồn qua các khóm lá vàng trên cành khô. Ánh sáng mặt trời óng ả đọng từng mảng trên triền núi, mái nhà, ngọn cây cao làm tăng thêm vẻ rực rỡ cho các phiến lá đầy màu sắc cuối thu. Những tia sáng nhạt xuyên qua kẽ lá làm bầu khí ban chiều thật yên tĩnh. Mọi người đều khao khát những khoảnh khắc nhàn rỗi để đi dạo chơi trong quang cảnh quyến rũ của vạn vật vào những buổi chiều tàn cuối năm. Nhưng có điều chi không ổn trong tâm trí tôi : Cảnh trí rực rỡ kia lại như báo trước cái chết có sẵn trong thiên nhiên.
Những tấm lá vàng cực kỳ đẹp đẽ kia lại đang nói rằng chúng sắp qua đời, đang tàn tạ dần. Những chiếc lá vàng cho biết rằng chúng đang run rẩy chết trên các cành cây, chẳng mấy chốc nữa sẽ quay cuồng trong gió lạnh rồi rơi xuống mặt đất khô, người ta sẽ gom chúng lại, chở đi đổ ở mãi tận đâu xa. Chấm hết một đời lá. Chắc chắn mùa đông sẽ tới, năm tận tháng cùng. Những người trọng tuổi, các thân hình đau yếu, bệnh hoạn rất sợ mùa lạnh lẽo, gía rét này. Bởi nó có nghĩa là họ sẽ bị giam hãm dài ngày trong những căn phòng chật hẹp, tù túng bốn bề, từng giây từng phút ngóng đợi đến khi tuyết tan, nước chảy, cho đến ngày lại được chống gậy đi đây đi đó cho khuây khoả tấm lòng, lại được thấy cây xanh nẩy lộc, chim hót líu lo.
Thật kỳ diệu, phụng vụ của Hội Thánh luôn đi song song với cảnh sắc thiên nhiên. Nó cũng đang kết thúc một chu kỳ, chù kỳ năm A. Chúng ta đang ở trong ba tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, trước khi bước vào mùa vọng năm tới, năm B. Suy tư và lời kinh nguyện của chúng ta cũng đang hướng về ngày cánh chung, kết thúc thời gian trần thế. Mọi chỉ dẫn của phụng vụ đều nhắc nhớ các tín hữu phải ngẫm nghĩ, không những về sự chết riêng của mình, mà còn về kết thúc tất cả các kinh nghiệm mà chúng ta phải trải qua trong cuộc đời. Những thành công và thất bại, những ân huệ và tội lỗi, những trung tín và phản bội. Các bài đọc Thánh kinh cũng hằng khuyến khích cộng đồng suy niệm về những thực tại chắc chắn và bền vững của kiếp sống con người, những phù vân mau qua của thế gian mà không đáng tín hữu đầu tư thời gian, sức lực hoặc tiền tài, những điểm hội tụ chính đáng của cuộc sống mỗi người, cũng như những điều phải gạt bỏ đi, những chi nâng đỡ và cứu giúp chúng ta qua khó khăn khủng hoảng trong cuộc sống.
Tác giả sách Khôn ngoan bộc lộ sự hiện diện của một nhân tố tối cần thiết cho các linh hồn để vượt qua biển đời trần thế là Khôn Ngoan. Sách này được soạn bằng ngôn ngữ Hy Lạp ở thành phố Alexandria, nước Ai Cập vào khoảng giữa các năm 100 và 50 trước Chúa Cứu Thế. Bà chúa Khôn Ngoan "sáng chói và không hề tàn tạ" là tâm điểm của sách. Bà sánh đôi với khao học, triết học, thần học và các môn khác của khôn ngoan nhân loại. Bà không thể thiếu trong tư duy và hành động của một con người khôn khéo. Bà dạy dỗ những việc lành phải làm, việc ác phải tránh, để được hạnh phúc trong cuộc đời hiện tại và sự sống mai hậu. Bà được nhân cánh hoá để thi hành ý muốn của Thượng Đế nơi trần gian. Hội Thánh có thói quen đồng hoá Bà chúa Khôn Ngoan với Đức Giêsu Kitô, khuyên dạy chúng ta lấy Bà làm tiêu chuẩn để lọc lựa những phù vân thế tục, giữ vững những điều chi "sáng chói và không hề tàn tạ"của cuộc sống trên thế gian này, khi những xoắn vặn mùa đông, những gian nan thử thách, những tin tức không vui ập đến, bà chúa khôn ngoan sẽ là điểm tựa để chúng ta chống đỡ, kêu cầu. Bà là ngọn hải đăng "sáng chói không hề tàn tạ" hướng dẫn mọi cuộc đời vượt biển trần gian trong tối tăm.
Như vậy chúng ta có thể đáp trả bài đọc 1 trong thánh lễ hôm nay bằng cách mời mọc Bà đến cư ngụ trong linh hồn mình. Bí tích thánh thể sẽ khích lệ chúng ta canh thức và ngóng trông Bà, vì Bà luôn luôn gặp gỡ linh hồn với mọi nỗi "lắng lo". Tác giả bài đọc còn gợi ý rằng tất cả những ai cất công tìm kiếm ngôn khoan sẽ được gặp Bà: "Ai kiếm tìm Đức khôn ngoan thì Đức khôn ngoan cho gặp, ai khao khát Đức ngôn ngoan thì đức khôn ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết." Điều kiện duy nhất là có một trái tim trong sạch, thành thật kiếm tìm. Sách các Vua quyển thứ I còn cho hay khôn ngoan là ân huệ Chúa ban và cung cấp cho người tìm kiếm " một trái tim hiểu biết để phán đoán và phân biệt phải trái " (1V 3,9). Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, nhưng Bà chúa khôn ngoan sẽ dẫn chúng ta đến với những chi vững bền, bởi bà giống như Thượng Đế toàn năng và bất biến (Kn 7,22-27). Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta chỉ khởi sự tìm kiếm thì Đức khôn ngoan đã ngự sẵn trong lòng: " Ai từ sáng sớm đã tìm Đức khôn ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả, họ sẽ thấy Đức khôn ngoan ngồi ngay trước cửa nhà ". Khôn ngoan như vậy là ân huệ hơn là cố gắng thủ đắc. Nó chỉ đường dẫn nẻo để chúng ta tận lực sống trung tín và tỉnh thức.
Chúa Giêsu là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh, là Khôn Ngoan Thiên Chúa nhập thể. Những ai hằng ngày kiếm tìm Ngài, sẽ thấy Ngài là ánh sáng "rực chói và không hề tàn tạ". Trong Tin mừng hôm nay chúng ta ngồi dưới chân Ngài mà học cho biết khôn ngoan để bước đi trên những đường lối Thiên Chúa, không bị thế gian, ma quỉ, xác thịt lừa đảo trong những chuyện chóng qua. Phong tục tập quán cưới hỏi ở thời Ngài khác xa bây giờ. Cô dâu và đoàn tuỳ tùng ngồi ở nhà đợi chú rể và đám bạn bè tới dự tiệc. Tại sao tiệc lại trễ? Ấy là vì theo thói tục thời đó, người bên chú rể còn phải thương lượng với bố cô dâu và gia đình. Càng thương lượng lâu thì là dấu cô dâu càng đắt giá và danh tiếng. Có khi người ta phải thức thâu đêm hay nhiều ngày để thương lượng. (Patricia Sanchez : Lời Chúa chúng ta cử hành, năm A). Cuối cùng, chú rể và bạn bè cũng đến. Tiệc cưới khởi sự. Nó có thể kéo dài cả tuần lễ, vì vậy Chúa đã sử dụng tục lệ này để minh hoạ cho việc Ngài trở lại bất ưng và tuyên bố triều đại Thiên Chúa ngự trị. Mặc dầu thời giờ trở lại là việc chắc chắn, nhưng chúng ta vẫn dễ dàng vô tâm, không sẵn sàng, đúng như năm cô gái khờ dại trong truyện ngụ ngôn.
Hàng chữ cuối cùng của Tin Mừng hôm nay thật đột ngột và dứt khoát : "Rồi người ta khoá cửa lại." Không phải chỉ khép mà khoá lại (locked). Những cánh cửa mở rộng đón khách, nay được khoá lại. Tiếng then lóc cóc gài vào ổ nhắc tôi nhớ đến ngay các cánh cửa của nhà tù đóng lại. Nhưng đây là tiệc cưới, không phải nhà giam. Những thực khách bên trong đang hưởng sự vui mừng hớn hở của bữa tiệc. Họ chấm dứt những giây phút mong đợi dài dằng dặc. Những ai ở ngoài là vĩnh viễn ở ngoài. Họ lỡ hẳn cơ hội dự tiệc, bởi đã hoang phí thời giơ, sức lực vào những công việc vô ích, không dự trữ dầu đèn đầy đủ. Rõ ràng họ ngu ngốc hết cỡ. Đáng lý, khi chờ đợi họ phải tỉnh thức canh phòng, làm những chi cần làm do hoàn cảnh đòi hỏi, để không phải rơi vào kết thúc đáng buồn. Khi đang viết những dòng này, tôi nhận được cú điện thoại của một anh bạn. Anh báo cho tôi hay rằng bạn anh, 45 tuổi, cha của hai đứa nhỏ, chồng của một người vợ trẻ, vừa mới đột ngột qua đời khi vượt qua chỗ quẹo gấp. Gia đình anh rất buồn và đau lòng. Anh là một lực sĩ nổi tiếng, chẳng bao giờ ngờ rằng mình sẽ vĩnh viễn ra đi chỉ sau một cuộc chạy đua vào buổi chiều thu như hôm nay. Người ta vẫn hy vọng anh còn nhiều sức lực, đèn của anh còn cháy sáng và có nhiều dầu, anh còn đủ thời gian để nói những lời yêu thương với vợ con, lời xin lỗi với bạn bè. Người ta vẫn hy vọng anh sống khôn ngoan, biết thương cảm những ai bất hạnh, giúp đỡ hàng xóm láng giềng khi gặp khó khăn, thực phẩm cho người đói, nước uống cho người khát, đón tiếp khách lạ, áo mặc cho kẻ trần truồng, thăm viếng người tù tội hay yếu đau (Lễ Chúa Kitô Vua chúng ta sẽ được nghe Tin Mừng Chúa phán xét về những công việc tương tự).
Câu truyện Tin Mừng Chúa nhật này không những nói đến ngày cánh chung, nhưng cả đến thời khắc hiện tại. Nó nhắc nhở chúng ta phải luôn tỉnh thức và hướng dẫn cuộc đời mỗi người theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tỏ hiện nơi Đức Kitô. Chúng ta chưa được trông thấy ngày Ngài trở lại. mà chỉ được kinh nghiệm những công việc hằng ngày, lao động, học hành, buôn bán, cầy cấy, gieo trồng... Nhưng đôi khi cũng gặp những điều bất ngờ xảy đến cho mình, cho gia đình và bạn bè thân yêu. Chúng ta có luôn luôn sẵn sàng không? Nó tuỳ vào dầu đèn của mình đầy đủ hay thiếu thốn. Nếu hiện thời chúng ta phí phạm thời giờ, tiền của, sức lực, e rằng lúc gặp những khủng hoảng chúng ta chẳng thể trở tay kịp. Thời gian đã hết, muộn quá rồi, cửa đã khoá. Chúa giảng dụ ngôn là để cảnh giác toàn thể nhân loại luôn tỉnh thức chờ đợi ngày Ngài xuất hiện. Ngài luôn sẵn lòng ban khôn ngoan giúp chúng ta sống trung thành và xứng đáng.
Để kết thức bài suy niệm, xin kể một câu truyện nhỏ :
Trong một vụ đắm tàu, đoàn thuỷ thủ chết hết, chỉ còn xót lại một thanh niên trẻ. Nhờ tấm ván anh lênh đênh trên mặt biển cả suốt mấy ngày đêm. Anh hoàn toàn kiệt sức vì đói khát, gío lạnh, nằm chờ chết. Trời phật thương tình, nổi cơn gió lớn đưa anh dạt vào một hòn đảo giữa đại dương. Cư dân trên đảo cứu anh sống, rồi phong làm vua. Anh ngỡ ngàng hết sức, tưởng mình nằm mơ. Dân trên đảo bàn tán sôi nổi với nhau mà anh chẳng hiểu chi. Anh cố gắng học ngôn ngữ của họ. Sau hiểu ra, theo thói tục, mỗi người chỉ được làm vua có một năm, sau đó bị đày ra một hòn đảo hoang vu, xa cư dân và bỏ cho chết đói. Anh thuỷ thủ trẻ lo lắng sợ hãi quá. Vận may hoá thành tai hoạ. Anh thức suốt đêm, tìm ra một phương kế để không bị chết đói sau khi mãn hạn một năm. Anh dùng quyền làm Vua của mình phái một số nông dân giỏi ra đảo canh tác trước, biến nó thành màu mỡ, sản xuất đủ lương thực thực phẩm. Nhờ khôn ngoan anh đã thành công lớn. Sau năm mãn hạn anh ung dung ra đảo với tương lai vững chắc.
Chúng ta cũng chỉ làm vua ở thế gian này bất quá một đời người, cho nên phải biết khôn ngoan lợi dụng thời gian, tài năng để lo liệu cho cuộc sống tương lai như người thủy thủ trẻ. Bằng không, sẽ ngu dốt như năm cô trinh nữ dại khờ.
Xin Chúa Giêsu Thánh Thể soi sáng chúng ta trong thánh lễ này để làm những quyết định Khôn Ngoan cho cuộc đời mình. Amen.
KHÔN NGOAN
Bài đọc 1: Kn 6, 13-17
Bài đọc 2: 1 Thess 4, 12-17
Tin mừng: Mt 25, 1-13
Khi đọc đoạn Tin mừng hôm nay đến chỗ 5 cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể trong đêm mà không đem dầu theo, tôi lại nhớ đến vụ cháy lớn xảy ra cách đây 3 năm, vào ngày 29/10/2002, tại khu Trung Tâm Thương mại quốc tế thuộc thành phố Sàigòn. Vụ cháy này đã làm chết 61 người, cùng với hàng trăm người bị thương khá nặng, khả năng hồi phục rất khó khăn, kèm với thiệt hại về vật chất lên đến khoảng chừng 100 tỷ đồng. Khi vụ cháy xảy ra lực lượng chữa cháy của Thành phố Sàigòn đã nhanh chóng tới để cố gắng dập tắt ngọn lửa, và nhiều người đã không quản ngại hy sinh để giúp những người bị nạn.
Thế nhưng, có một vài điều làm tôi suy nghĩ: đó là có một chiếc xe mang biển số 0038 trong đoàn xe chữa lửa hôm ấy không thể tới nơi được để làm nhiệm vụ, chỉ vì một lý do rất đơn giản: xe đang chạy giữa đường thì hết nhiên liệu (Báo Tiền Phong tuần 28/10-3/11/2002; Tam hà 5/11/2002). Còn bồn nước dự phòng ở toà nhà này chỉ có 10 m3 nước, số nước mà trên lý thuyết chỉ có thể dùng để chữa cháy cho một diện tích 5000 m2 trong vòng … 10’. Vậy là lực lượng cứu hoả phải chạy ra sông Saigon cách đó 5 km để lấy nước.
Xe cứu hoả thì hết nhiên liệu, bồn nước chữa lửa thì hết nước. Tôi thiết nghĩ, nếu chiếc xe cứu hoả ấy tới kịp lúc và lượng nước tại chổ có nhiều hơn có lẽ thiệt hại về người và của có thể đã được giảm bớt. Nhưng, dù nói gì đi nữa, đây cũng là lỗi của những người có trách nhiệm trực tiếp. Họ chỉ nhìn thấy xe mà không biết trong xe có còn nhiên liệu hay không, thấy bồn nước, nhưng không đánh giá được rằng: lượng nước đó chẳng là gì đối với công việc chữa cháy. Họ chỉ thấy bên ngoài, mà không đánh giá đủ thực chất ở bên trong. Họ cũng giống như 5 cô trinh nữ trong bài Tin mừng, những người mà Tin mừng gọi là “khờ dại”, cầm đèn mà không mang dầu theo. Họ thiếu sự khôn ngoan cần thiết. Nhờ khôn ngoan, chúng ta lượng định được đâu là điều chính, đâu là điều phụ; điều gì là phải làm, điều gì không nên làm để đạt được hạnh phúc thật. Do đó, dựa vào lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về đức tính này.
1. Dại và khôn theo Thánh kinh:
Theo Thánh kinh, trước hết, người khôn là người không chỉ nghe mà còn sống lời Chúa, còn người dại là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành như lời của Đức Giêsu: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát.” (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Đức Giêsu còn khẳng định: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời.” (Mt 7, 21)
Tuy nhiên, để thực sự có được sự khôn ngoan này, mỗi người chúng ta cần một có một sự cố gắng liên lỷ, một nỗ lực đi ngược lại với những suy nghĩ theo sự khôn ngoan tự nhiên của con người. Tác giả sách Khôn ngoan tuyên bố: “Những ai yêu mến sự khôn ngoan, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước… Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình”. Vâng, sự khôn ngoan chỉ đón tiếp những ai khao khát nó và nó chỉ tỏ mình ra cho những ai xứng đáng với nó. Tới đây, nhìn lại bản thân mình, tôi và quý ông bà anh chị em đã có một lần nào nỗ lực để đạt được sự khôn ngoan này chưa? Nghĩa là chúng ta đã có một lần nào cố gắng để sống đúng với lời Chúa dạy hay chưa? Hay là chúng ta cũng giống như 5 cô cầm đèn mà không có dầu, giống như anh tài xế kia lái xe mà xe không có nhiên liệu? Chúng ta chỉ có cái đèn, nghĩa là có tên gọi kitô hữu, nhưng thực tế trong cuộc sống, chúng ta chưa một lần cố gắng sống đúng với tên gọi kitô hữu. Chúng ta chưa một lần, cố gắng lắng nghe và sống đúng với lời Chúa dạy. Chúng ta dùng đủ mọi lý do để biện minh cho mình: Nào là cuộc sống của tôi còn quá khó khăn, nào là hoàn cảnh không cho phép, thậm chí có những người còn tuyên bố: “Tôi chưa có ý định nên thánh. Cuộc sống còn dài. Vội gì mà phải lo đến việc linh hồn”. Chúng ta nêu ra thật nhiều lý do, nhưng sâu xa nhất, có lẽ chỉ vì chúng ta lười biếng, chúng ta ngại cố gắng, chúng ta chưa ý thức đủ tầm quan trọng của việc nghe và sống lời Chúa. Chúng ta cần nhớ rằng: Mọi sự trì hoãn đều có thể đưa tới sự lỡ làng. Sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta còn có thể bắt đầu lại, còn có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong chuyến xe cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại nữa, và khi ấy hậu quả thật là bi thảm. Vì nếu chỉ có một tên gọi kitô hữu, nghĩa là một cái đèn không dầu, một cái xe không có nhiên liệu, chúng ta có thể nghe lời Chúa nói: “Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi”.
Mặt khác, chính nhờ sự khôn ngoan luôn lắng nghe lời Chúa, chúng ta sẽ luôn ý thức rằng: không ai sống mãi, nhưng sẽ có ngày phải chết và ra trình diện với Thiên Chúa. Chúng ta thường cố quên đi chân lý này, không muốn đối diện với nó. Nhưng cho dù chúng ta có chạy trốn và không muốn nói đến nó, thì nó vẫn là sự thật.
2. Chàng rể đến muộn:
Tin mừng ghi lại mãi cho đến nửa đêm, đang khi các cô đi đón chàng rể thiếp ngủ vì mệt mỏi chờ đợi, mới có tiếng hô to: “Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người”. Như thế, dù muộn, chàng rể vẫn đến và những ai khôn ngoan, sẵn sàng sẽ được vào dự tiệc cưới với Ngài. Chính vì Chúa đến muộn và không biết vào lúc nào, nên các tín hữu thời sơ khai đã rơi vào tình trạng “thức lâu, chầu mỏi”. Họ thắc mắc không biết liệu Chúa có tái lâm thật không? Các tín hữu đã chết có được gặp Chúa không? Đứng trước những băn khoăn đó, thánh Phaolô khẳng định: “Chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng”. Vâng, là kitô hữu, chúng ta không có quyền sống như những kẻ không có niềm tin. Cuộc sống của chúng ta phải là một minh chứng cho niềm hy vọng sống lại. Cách sống của chúng ta phải nói lên cho mọi người biết rằng “quê hương chúng ta là ở trên trời” (Pl 3, 20). Và thánh Phaolô còn khẳng định với chúng ta: “những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người”. “Đã chết nhờ Đức Giêsu”, nghĩa là chúng ta không còn sống cho chính mình, nhưng là sống theo lời của Đức Giêsu (x. Gl 2, 20).
Giờ đây, để được vào dự tiệc cưới của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta hãy bắt chước 5 cô trinh nữ khôn ngoan, không chỉ cầm đèn mà còn mang theo bình dầu. Nghĩa là luôn lắng nghe và nhất là sống những điều Chúa dạy ngay trong cuộc sống đời thường, trong những việc bình thường nhất. Đối với Chúa, ít ra chúng ta hãy trả lại cho Thiên Chúa thời gian thuộc về Thiên Chúa. Mỗi tuần một Thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta hãy tham dự một cách đầy đủ, sốt sắng, đừng cắt đầu bớt đuôi, đừng so đo, tính toán với Chúa, vì biết đâu đây chẳng là Thánh lễ cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Đối với bản thân, với những người trong gia đình và tha nhân: Chúng ta hãy sống bác ái, tha thứ, thông cảm, khiêm tốn, hãy vượt thắng những đam mê, ích kỷ, những ù lì trong đời sống thiêng liêng. Nhờ đó, khi nghe tiếng loa của Thiên Chúa, từng người sẽ được đi đón Đức Kitô và được ở với Người luôn mãi. Amen.
Lm Trần Thanh Sơn
- Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 25, 1-13
Chúa Giêsu thường kể chuyện những bữa tiệc, những đám cưới, những bữa ăn thanh đạm, mà đám nào cũng có những sự cố không vui. Một hôm trong một bữa tiệc cưới khách mời lại không tới, nên chủ tiệc sai các đầy tớ ra đường mời bất cứ người nào gặp thấy vào ngồi dự tiệc cưới. Một hôm khác, Chúa Giêsu đem ra ví dụ trong một bữa tiệc một người ham ngồi ghế nhất bị chủ kéo xuống bàn chót. Lần khác, Chúa kể chuyện một người đi ăn tiệc, không ăn mặc đúng kiểu, đúng mốt, nên bị đầy vào chỗ tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Thật là những bữa tiệc, những đám cưới thật kỳ khôi, bao giờ cũng có sự cố.
MỘT DỤ NGÔN GỬI ĐẾN NHỮNG NGƯỜI DO THÁI THỜI XƯA:
Bài Tin mừng hôm nay của Đức Giêsu nói đến bữa tiệc cánh chung, ngày cùng tận, ngày tận thế. Chúa Giêsu đã tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi của các môn đệ:” khi nào những sự việc ấy sẽ xẩy ra ? “. Chúa Giêsu đã kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho các môn đệ phải chuẩn bị, phải tỉnh thức, phải cầu nguyện như thế nào. Các dụ ngôn về sự tỉnh thức mà các chủ nhật trước trình bầy cho chúng ta là những minh họa về việc đó. Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thủy và ông Noe để so sánh( Mt 24, 37-42 ). Qua câu chuyện này chỉ mình ông Noe biết trước đại hồng thủy để chuẩn bị. Chúa dùng dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết:” nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu”.Và kết luận:” cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. Chúa liên kết dụ ngôn này với dụ ngôn người đầy tớ trung tín:” Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy”. Chúa Giêsu tiếp tục kể câu chuyện về mười cô trinh nữ đi dự tiệc cưới. Đây là câu chuyện rất bình thường ở Palestine thời đó: cô dâu phải ở nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè tới rước. Chú rể đến cách long trọng để đón cô dâu về nhà mình để tổ chức đám cưới cùng với đám rước linh đình, đưa cô dâu tiến vào tận phòng cưới. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy có nhiều chi tiết thật kỳ quặc. Mười cô trinh nữ đợi chàng rể đến mòn mỏi, đến nỗi các cô đều thiếp ngủ cả.Đèn thì cái có dầu, cái không. Có cô dự trữ dầu, có cô không dự phòng dầu. Tất cả chi tiết đều hết sức kỳ cục, nhưng cái kỳ quặc lớn nhất vẫn là không thấy bóng cô dâu đâu cả. Tuy nhiên đây lại là chi tiết quan trọng nhất. Cô dâu ở đâu ? Tại sao cô dâu lại vắng mặt trong tiệc cưới ? Các thính giả và độc giả nghe Chúa Giêsu kể chuyện, hẳn là những người rành Kinh Thánh: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người. Cô dâu vắng mặt ấy chính là dân tộc Israen, mà các ngôn sứ hay đem so sánh với một nàng dâu. Còn tiệc cưới ám chỉ Vương quốc của Thiên Chúa. Việc vào Vương quốc mở rộng cho mọi dân, mọi nước, cuối cùng sẽ là bữa tiệc cưới tình nghĩa giữa Thiên Chúa và nhân loại. Đây là một ngày vui cho toàn thể nhân loại.
MỘT DỤ NGÔN NHẮM TỚI MỌI NGƯỜI:
Dụ ngôn mười cô trinh nữ được Chúa gửi tới các thính giả Do Thái vẫn có giá trị đối với mọi người muôn thời. Chúa thôi thúc con người phải tỉnh thức, vì nhân loại không thể biết giờ chú rể đến, ngày Chúa trở lại. Cũng như mười cô phù dâu ở đây, các cô được mời, không có nghĩa là được dự tiệc cưới. Là Kitô hữu không chưa đủ mà còn phải biết nghe và thực thi lời Chúa. Mang danh có đạo không vẫn chưa đủ, nhưng người Kitô hữu phải biết giữ và sống đạo với tất cả lòng tin của mình. Cl. Tassin viết một câu rất chí lý:” Để được dự vào bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa “. Chuẩn bị sẵn sàng là đức tính khôn ngoan của Kinh Thánh.
Xin Chúa ban cho chúng ta biết tỉnh thức và khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan để đón chờ chàng rể đến.
- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
Chủ đề: Khuyến cáo những người có trách nhiệm hướng dẫn người khác - Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta" (Mt 23,4)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay nói về trách nhiệm hướng dẫn người khác. Trong chúng ta, nhiều người có trách nhiệm hướng dẫn: kẻ thì hướng dẫn gia đình, người thì hướng dẫn một nhóm người trong họ đạo hoặc ngoài xã hội. Trách nhiệm hướng dẫn rất nặng nề và đòi hỏi rất nhiều, kẻo "mù dẫn mù, cả hai lăn cù xuống hố".
Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa dạy cách hướng dẫn người khác. Ðồng thời chúng ta cũng hãy nài xin Chúa trợ lực để chúng ta có thể chu toàn trách nhiệm của mình.
II. Gợi ý sám hối
* Nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn người khác, nhưng chúng ta chưa có một đời sống gương mẫu để làm gương cho những người được chúng ta hướng dẫn.
* Nhiều khi chúng ta còn làm gương xấu.
* Chúng ta để ý nhiều đến vinh dự của mình, mà ít quan tâm phục vụ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ml 1,14-2,2.8-10)
Ngôn sứ Malakhi rao giảng vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, khi ấy Ðền thờ đã được xây dựng lại xong. Tuy nhiên những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái chỉ quan tâm tổ chức các lễ nghi bề ngoài, không quan tâm hướng dẫn tinh thần dân chúng.
Từ đó phát sinh nhiều tệ nạn: các lễ vật dâng tiến cho Chúa là những con vật đui mù què quặt, thậm chí là những con vật ăn cắp; dung túng cho việc li dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
Thiên Chúa bảo ngôn sứ Malakhi nhắc nhở về cung cách lãnh đạo: làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
2. Ðáp ca (Tv 130)
Tv này là lời cầu nguyện của một tín hữu chân thành. Tác giả nguyện sống khiêm tốn "mắt chẳng liếc nhìn cao", "không lo nghĩ những chuyện lớn lao" mà chỉ chuyên chăm "lo giữ linh hồn cho êm can và thanh thản", luôn trông cậy vào Chúa "như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu".
3. Tin Mừng (Mt 23,1-12)
Ðức Giêsu nói về giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời của Ngài, tức là các luật sĩ và các người biệt phái:
* Một mặt, Ngài bảo mọi người phải tôn trọng chức vụ của họ, vì họ "ngồi toà Môsê", và hãy làm theo những gì họ dạy.
* Nhưng mặt khác đừng noi theo hành vi của họ, biểu hiện những thói xấu như: chỉ tay năm ngón, hám danh, kiêu căng.
4. Bài đọc II (1 Tx 2,7-9.13)
Cung cách lãnh đạo của Thánh Phaolô:
* "Chúng tôi đã trở thành những kẻ bé mọn giữa anh em"
* Ðối xử với tín hữu "như người vú nuôi nâng niu con cái mình"
* Sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu, ngay cả mạng sống mình.
* Cố gắng tự lực cánh sinh để không trở thành gánh nặng cho giáo đoàn.
IV. Gợi ý giảng
1. Vinh quang ở đâu?
Có một người đàn ông đi dạo đến một nơi hành hương. Mệt nhọc, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngã mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông nghe không rõ. Thế rồi bà cũng ra đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian. Bởi vì, thật là dạ dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn tây nhiều tai họa cho người khác nữa.
Theo lời dạy của Chúa Giêsu thì khác hẳn: "Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ mọi người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Chúa không chỉ dạy bằng lời. Ngài còn làm gương, Ngài đã dẫn chứng bằng cả cuộc đời hiến thân phục vụ trong khiêm tốn của mình. Thập giá của Ngài là một bằng chứng không thể phủ nhận được.
Quả thật, Chúa Giêsu đã ý thức rất rõ bản chất và danh vị của mình. Nhưng Ngài sẵn sàng chọn sự rốt hèn, hết mình phục vụ, không ngại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử của mình, và cuối cùng dám để cho người ta bóc lột cả đến danh dự và sự sống thân xác của Ngài nữa.
Tất cả là để làm sáng tỏ vinh quang Thiên Chúa tình yêu và vì hạnh phúc của con người mà Ngài sẽ thu phục trong vương quốc Thiên Chúa.
Tưởng chứng Thập giá là một ngõ bí, một sự hạ nhục và huỷ diệt. Nhưng thực ra, nhờ Thập giá mà Chúa Giêsu đã mở ra con đường phục sinh vinh quang. Ngài đã trở thành bất tử và được nâng lên tột cùng, để rồi cũng lôi kéo mọi người lên theo.
Như thế, chúng ta hiểu rằng: vinh quang thật không khởi từ danh vị nhưng được xác định qua những nỗ lực và khiêm tốn phục vụ. Cái đáng tin, đáng phục không phải ở lời nói, quyền lực, mà là ở cuộc sống phản ảnh sự chân thực, ở khả năng cống hiến và mức độ dấn thân để sống yêu thương cách xứng đáng.
Chúng ta hãy nhìn lên "tòa thập giá" của Chúa Giêsu để tìm những lời dạy chí lý và khám phá ra những phương cách chia sẻ vinh quang đích thực và vững bền. (Lm Nguyễn Thanh Tước, Tây Ninh. Trích trong báo CgvDt số đặc biệt giáng sinh '95, trang 281-282)
2. Mô hình người lãnh đạo gương mẫu
Mô hình này dựa trên những lời Ðức Giêsu dạy và chính gương của Ngài được ghi lại trong các sách Tin Mừng, như Mt 20,24-28; Mt 23,1-32; Ga 13,1-20 v.v.
* Tấm lòng của người lãnh đạo: yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
* Phương châm của người lãnh đạo: tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ mình hướng dẫn.
* Cung cách của người lãnh đạo: hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
3. Những thói xấu mà người lãnh đạo dễ mắc phải
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay vạch rõ những thói xấu mà những người lãnh đạo dễ mắc phải:
* Lo tìm vinh dự cho mình, mà quên tìm lợi ích cho thuộc cấp.
* Thái độ quan liêu, coi rẻ thuộc cấp.
* Sai khiến người khác làm, phần mình thỉ chỉ tay năm ngón.
* Quên phục vụ người khác, mà bắt người khác phục vụ mình.
4. Suy nghĩ về cái "làm" và cái "thấy"
Cái "làm" của chúng ta dễ bị ảnh hưởng tác động của cái "thấy".
- Nếu "làm để cho người ta thấy", thì: khi người ta thấy thì chúng ta cố gắng làm cho thật tốt để được người ta khen; nhưng khi không ai thấy thì chúng ta hoặc không làm, hoặc làm cẩu thả.
- Nhưng cái "thấy" của người ta thế nào? Người ta chỉ có hai con mắt và chỉ hiện diện ở một nơi, cho nên có cái người ta thấy và có cái người ta không thấy.
- Ngay cả khi người ta thấy đi nữa thì làm sao? Có khi người ta thấy việc chúng ta làm và người ta khen hoặc chê; nhưng nhiều khi người ta dù có thấy nhưng thờ ơ chẳng có ý kiến khen chê gì cả (thí dụ chúng ta đi một đoạn đường, chúng ta thấy rất nhiều việc, nhưng chúng ta vẫn dửng dưng đâu có ý kiến gì); có khi mình làm việc tốt, người ta thấy nhưng lại hiểu sai và cho là việc xấu (thí dụ chuyện Quan Âm Thị Kính: Thị Kính thương chồng định lấy kéo cắt dùm một sợi râu của chồng, có người thấy thế tố cáo Thị Kính muốn dùng kéo giết chồng).
- Còn cái "thấy" của Chúa thế nào? Có câu hát: "Con kiến đen, nằm trên hòn đá đen, mà trời tối đen Ðức Chúa Trời cũng thấy". Nghĩa là Chúa thấy hết mọi sự, ở khắp mọi nơi. Không gì mà Ngài không thấy. Và khi thấy thì Chúa luôn đánh giá: nếu thấy ta làm điều tốt thì Chúa vui và thưởng ta, còn thấy ta làm điều xấu thì Chúa buồn và phạt ta.
Ðức Giêsu dạy chúng ta đừng làm như người biệt phái "Họ làm mọi sự cốt cho người ta thấy", nhưng hãy cố gắng luôn sống dưới cái nhìn của Chúa, làm gì dù có người thấy hay không, dù việc lớn hay việc nhỏ, việc chung hay việc riêng, hãy luôn làm vì muốn đẹp lòng Chúa.
5. Chuyện minh họa
a/ Tiền giả
Có khi nào người ta dám quẳng bỏ những tờ giấy bạc không? Thưa có, khi đó là tiền giả. Nhiều người đã quẳng bỏ Kitô giáo vì thấy những kitô hữu giả hình (W.E. Biederwolf).
b/ Ông vua ở truồng
Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: "Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng". Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh "Áo ta có đẹp không?" Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở khen. Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: "Ông vua ở truồng! Ông vua ở truồng!". Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và tha thiết cầu xin.
1. Hội Thánh luôn dùng đời sống phục vụ mà xoa dịu đau khổ của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội Thánh / để qua đó Hội Thánh có thể giới thiệu Chúa cho mọi nước mọi dân.
2. Trên thế giới ngày nay / từ những khu nhà ổ chuột ở các thành phố / cho tới tận những miến xa xôi hẻo lánh / rừng thiêng nước độc / lúc nào cũng có những người thiện nguyện / đang hy sinh cả tuổi thanh xuân / hạnh phúc riêng tư / và cả mạng sống của mình nữa / để phục vụ những anh chị em bất hạnh nhất của xã hội / những Ðức Kitô bị bỏ rơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / gìn giữ những anh chị em ấy luôn được an toàn / và cho họ tìm được niềm vui trong việc phục vụ tha nhân.
3. Ngày nay / bên cạnh rất nhiều người trẻ có tâm hồn quảng đại / âm thần phục vụ / thì cũng có một số người khác chỉ biết ăn chơi trác táng / hưởng thụ ích kỷ / không bao giờ biết quan tâm đến nỗi thống khổ / của những người nghèo chung quanh mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / biết sống cho một lý tưởng cao đẹp.
4. Sẵn sàng giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn / là một trong những cách sống đạo đẹp lòng Chúa nhất / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vui với người vui / và khóc cùng người khóc như Thánh Phaolô đã dạy.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con: "Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em; còn ai muốn đứng đầu trong anh em, thì phải làm đầy tớ anh em". Xin ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị....
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Là những người nhận trách nhiệm lãnh đạo một số người nào đó, chúng ta dễ bị cám dỗ hám danh, bắt người ta phục vụ mình, kiêu ngạo v.v. Trong Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy thành khẩn xin Chúa giúp chúng ta khỏi sa vào những chước cám dỗ ấy.
VII. Giải tán
Thánh lễ vừa xong, Anh chị em hãy trở về chu toàn những trách nhiệm của mình trong tinh thần phục vụ, khiêm tốn và yêu thương.
Trích Người Tín Hữu
Chúa Nhật 32 Thường Niên Lm Phêrô Trần Văn
Mt 25,1-13
“Vậy anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” Lời Chúa Giêsu nhắc nhở mỗi người tín hữu hãy luôn giữ mình trong tư thế sẳn sàng khi Ngài đến, lý do là vì chúng ta không được biết trước!
Cuộc sống mỗi người tuy có vẻ liên tục như giòng Hương giang lững lờ trôi, nhưng nếu suy nghĩ thật kỹ, lại là một chuỗi những biến cố chết đi và sống lại. Một ký gĩa đã kể về thời thơ ấu của mình. Trước khi cậu được mười tuổi, gia đình cậu đã phải di chuyển chỗ ở đến năm lần, mỗi lần đều dọn vào một khu xóm mới. Hình ảnh sống động nhất về mỗi lần dọn nhà còn lưu lại trong cậu là nhìn thấy mẹ cậu khóc sướt mướt trong căn nhà mới. Cậu nhớ lại hình ảnh của mẹ buồn tan nát cỏi lòng, khóc thổn thức khi mở những thùng đồ đạc để xếp đặt chúng vào nhà mới. Cậu nhớ lời của bố vẫn thường bảo: “Con đừng lo, rồi mẹ con sẽ được bình an trở lại. Mẹ con đang tạm biệt những người bạn cũ và sẽ quen những bạn mới ở đây. Bố con mình cứ để cho mẹ được tự nhiên bày tỏ nỗi lòng.”
Helen Hayes một diễn viên nổi tiếng người Mỹ đã từng tâm sự rằng, giai đoạn đau khổ nhất đời của cô là thời gian sau khi người con gái mười chín tuổi thân yêu của cô bị chết vì bệnh sốt tê liệt. Cô cho rằng trong cùng cực đớn đau mà phải gom hết tàn lực để tiếp tục vươn tới với cuộc sống là điều đau đớn nhất cô đã từng thực hiện. Nhưng cô đã hoàn thành được điều đó, tiếp tục con đường sự nghiệp và đã làm những công tác tốt đẹp giúp ngăn ngừa căn bệnh ác tính này. Bác sĩ Jonas Salk đã có lần bảo với cô: “Chị chính là khí cụ hữu hiệu nhất tôi có được trong trận chiến chống lại cơn bệnh hiểm nghèo này.” Cách đây chừng bảy năm, cô Hayes gom tóm hết tài sản chất đầy cả một ngôi nhà lớn, rồi bán đấu giá cho công chúng rồi dâng cúng trọn số tiền cho hội từ thiện. Khi được hỏi về chuyện này, cô đã trả lời: “Tôi muốn từ biệt với những sự vật của dĩ vãng để có thể tiến vào tương lai không bị vướng bận.” Từ bỏ! Không vướng bận! Tiến vào tương lai! Chết đi và tái sinh! Đó chính là những bước liên tục và đều đặn ta cần phải thực hiện. Như mỗi bước chân vững vàng cứ lập lại sẽ dẫn ta về đến đích bình an.
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong cuộc sống đời thường, những người biết lo xa và luôn sẵn sàng thường vẫn là những người thành công nhất, hay ít ra là tránh được những điều tồi tệ nhất. Dĩ nhiên có nhiều trường hợp sự việc ập đến quá bất ngờ thì chẳng có ai có thể chuẩn bị kịp. Nhưng rất nhiều khi chỉ vì sự chểng mảng lơ là của mình, mà con người lãnh đủ. Bão Katrina ở Mỹ, bão số 7 ở Việt Nam, trận động đất ở Pakistan đều khẳng định điều ấy.
Trong đời sống tâm linh cũng tương tự như thế. Để giúp người ta hiểu Nước Trời là gì Chúa Giê-su đã dùng nhiều dụ ngôn trong đó có dụ ngôn mười trinh nữ trong bài Tin Mừng Chúa nhật 32 Thường niên năm A hôm nay (Mt 25,1-13). Ví Nước Trời như câu chuyện mười trinh nữ chuẩn bị dầu đèn đón chàng rể, Chúa Giê-su muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng thời cơ như năm cô gái khôn và đừng để vuột mất cơ hội như năm cô gái dại.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 25,1-13: Dụ ngôn mười trinh nữ.
1 "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2 Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. 3 Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. 4 Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. 5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. 6 Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi !" 7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. 8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi !" 9 Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." 10 Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. 11 Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!" 12 Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả !" 13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 25, 1-13 trên, chúng ta khám phá Chúa Giê-su là Ai?
Chúa Giê-su dựa vào phong tục tập quán về lễ cưới của người Do Thái thời của Ngài để sáng tác ra dụ ngôn mười trinh nữ: mười trinh nữ là “đội ngũ danh dự” của đám cưới; đèn và dầu vì lễ đón rể vào ban đêm; chàng rể đến trễ có thể ở xa mà cũng có thể có ý chủ ý muốn người ta phải đợi mình; mọi người thiếp ngủ vì chờ mãi ai mà chả mệt; năm cô gái khôn đã biết phòng xa có đủ dầu được cùng chàng rể vào phòng cưới; còn năm cô dại không biết phòng xa nên phải đi mua dầu và bị từ chối không được vào phòng cưới. Lời giáo huấn của Chúa Giê-su: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” Con Người xuất hiện.
Qua nội dung dụ ngôn và cách trình bày của Chúa Giê-su, chúng ta khám phá Chúa Giê-su là Đấng rất có tài quan sát và ghi nhận các sự việc xẩy ra trong đời thường. Ngài còn rất có tài vận dụng những quan sát và ghi nhận ấy vào cách giáo dục của Ngài về Nước Trời và đời sống tâm linh nữa. Thay vì chỉ nói câu: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” không mấy ép-phê với thính gỉa, Chúa Giê-su đã kể một dụ ngôn rất sinh động và gần gũi vể năm cô gái khôn và năm cô gái dại, nhằm giúp các thính giả ‘hiểu sâu’ và ‘nhớ lâu’ giáo huấn của Ngài.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 25, 1-13 dạy chúng ta điều gì?
Giáo huấn hay sứ điệp hay lời căn dặn thân tình của Chúa Giê-su hôm nay là: đừng để vuột mất cơ hội được vào dự tiệc cưới cùng với chàng rể. Chàng rể thường được hiểu là chính Chúa Giê-su, Đấng đã ‘kết hôn’ với Hội Thánh, với loài người. Vì thế tiệc cưới của chàng rể trước hết bao hàm “cuộc gặp gỡ mang tính quyết định” của mỗi người chúng ta với Thiên Chúa trong Ngày Cánh Chung. Nhưng còn được hiểu rộng ra là tất cả những cơ hội mà Thiên Chúa ban cho mỗi người để mỗi người nên tốt lành thánh thiện. Nói cách khác Lời Chúa trong Mt 25,1-13 dạy chúng ta phải luôn sống tỉnh thức và sẵn sàng để không vuột mất cơ hội gặp gỡ Thiên Chúa và sống hạnh phúc với/bên Người ở ngay đời này và ở trong Nước Thiên Chúa trong ngày Cánh Chung.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Cơ hội gặp gỡ Thiên Chúa và sống hạnh phúc với/bên Người trước hết được hiểu là trong Ngày Cánh Chung; nhưng cũng đuợc hiểu là mỗi khi Thiên Chúa lên tiếng mời gọi hay có ý đợi chờ sự đáp lại của mỗi người chúng ta. Hiểu như thế thì trong bất cứ thời gian năm tháng ngày giờ nào, chúng ta cũng có thể nắm được cơ hội tốt lành để sống đẹp lòng Chúa và mưu ích cho bản thân và tha nhân. Hiểu như thế thì chúng ta phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng và tỉnh thức để không vuột mất cơ may. Lời nói đáng chúng ta nuôi sẵn trong tâm tình và trên đầu lưỡi là: “Lạy Chúa, này con đây! Xin Chúa hãy phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!”
Nhưng không chỉ luôn lắng tai nghe mà còn luôn sẵn sàng hành động. Ví dụ: cả mấy tuần lễ nay, báo chí, truyền thanh, truyền hình liên tục kêu gọi mọi người, mọi tổ chức cứu trợ các nạn nhân của cơn bão Katrina, cơn bão số 7, trận động đất ở Nam Á… thì phản ứng của chúng ta là mau mắn đáp lại lời kêu gọi ấy, bằng việc chia sẻ một phần những gì mình được Thiên Chúa ban cho, để giúp đỡ đồng loại và nhất là đồng bào đang phải khốn khổ.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã cho Con Một Cha đến trần gian để dạy cho chúng con biết rằng: muốn gặp gỡ Cha mỗi ngày và muốn được sống hạnh phúc đời đời bên/với Cha thì chúng con phải biết sống như năm cô gái khôn trong dụ ngôn, luôn luôn sẵn sàng, tỉnh thức và biết nắm bắt mọi cơ hội mà đáp lại lời mời gọi và sự chờ đợi của Cha!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã dậy chúng con phải biết sống như năm cô gái khôn trong dụ ngôn là luôn tỉnh thức và sẵn sàng để không vuột mất cơ hội gặp gỡ và sống với/bên Chúa ở đời này và ở đời sau!
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Chúa Cha và cũng là Thần Khí của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con biết mình phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng để không vuột mất cơ hội ngàn đời. Nhưng chúng con hay quên và dễ bị của cải, chức quyền và danh vọng trần gian lôi cuốn, nên rất khó tỉnh thức và sẵn sàng như Chúa Giê-su đã dậy chúng con. Nguyện xin Chúa Thánh Thần không ngừng đánh thức, nhắc nhở và giúp chúng con sống theo giáo huấn và lời căn dặn của Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 22.10.2005.
Ghi chú:
Kính mời quí cha và quí anh chị
- đọc đặc san điện tử ‘Thăng Tiến Giáo Dân’ trên www. conggiaovietnam.net
- và ghi danh nhận báo ấy ở địa chỉ: thangtiengiaodan@gmail.com
Thánh Don Bosco, một vị Thánh chuyên lo công việc giáo dục cho giới trẻ, một hôm đang giờ chơi, ngài hỏi các em nhỏ: “Nếu bây giờ Chúa gọi các con, các con sẽ làm gì ?” Các em nhanh nhẩu trả lời. Em thì nói là mình sẽ vào Nhà Thờ cầu nguyện. Em thì xin đi xưng tội. Em thì nói là mình sẽ chạy về xin lỗi ba má. Em thì đi xin lỗi bạn... Thôi thì đủ các thứ việc cần làm ngay. Chỉ riêng có Đa Minh Sa-vi-ô, sau này đã trở thành vị Thánh, trả lời: “Con vẫn tiếp tục chơi”. Cha Thánh thắc mắc hỏi tại sao Sa-vi-ô không làm như các bạn. Cậu trả lời: “Thưa Cha, vì đây là giờ chơi, nên con vẫn chơi. Còn việc Chúa gọi thì con đã sẵn sàng để đáp lời bất cứ lúc nào, ngay cả bây giờ”.
Thái độ của cậu bé Đa Minh Sa-vi-ô đáng cho từng người chúng ta suy gẫm. Cậu vẫn tiếp tục chơi, cho dù đây là giờ Chúa gọi. Sở dĩ Đa Minh Sa-vi-ô vẫn tiếp tục chơi là vì cậu đã luôn sẵn sàng, hay nói một cách khác, cậu luôn tỉnh thức. “Hãy tỉnh thức” cũng là lời mời gọi của Chúa gởi đến cho từng người chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
1. Lời mời gọi tỉnh thức:
Nói về vấn đề tỉnh thức trong khi chờ đợi ngày Chúa đến, Đức Giê-su trong bài Tin mừng đã thuật lại câu chuyện 10 cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Vì một lý do nào đó, chàng rể đến muộn. Thế là cả 10 cô cùng thiếp đi và ngủ cả. Tới đây, chúng ta thấy cả 10 cô cũng giống như nhau, chẳng có gì phân biệt. Cô nào cũng có đèn. Nếu có điểm khác thì đó là 5 cô cầm đèn mà không mang dầu, còn 5 cô kia cầm đèn và mang dầu theo. Nhưng ngay bây giờ điểm khác biệt đó, đối với họ đâu có quan trọng gì, vì trong khi chờ đợi, tất cả đều ngủ và khi ngủ thì đâu ai cần đến đèn chứ còn nói gì đến dầu.
Thế nhưng, ngay khi có tiếng hô: “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người”. Lập tức, chúng ta thấy có vấn đề đặt ra. Các cô cầm đèn mà không có dầu không thể thắp đèn của mình được và cũng không thể xin các cô kia được vì không đủ cho cả hai. Họ phải ra hàng quán để mua. Còn các cô cầm đèn và mang theo dầu thì đã sẵn sàng để thắp sáng đèn đón chàng rể.
Và khi chàng rể đến thì sự khác biệt càng rõ hơn nữa: “Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại”. Còn các cô phải đi ra quán mua dầu trở về thì phải nghe câu trả lời: “Ta không biết các ngươi !” Họ không được vào dự tiệc cưới.
Thế đó, cả 10 cô cùng đi đón chàng rể, vậy mà chỉ có 5 cô được vào, còn 5 cô thì bị loại. Do đó, Đức Giê-su nhắc nhở chúng ta: “Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”. Lời mời gọi tỉnh thức này, chắc hẳn không phải là bảo chúng ta không ngủ, vì thực tế cả 10 cô đều ngủ. Nhưng đúng hơn là mời gọi chúng ta phải luôn ở tư thế sẵn sàng, biết khôn ngoan tiên liệu như 5 cô được gọi là khôn ngoan. Họ khôn ngoan vì chẳng những có đèn mà còn “chuẩn bị đủ dầu, để ngay cả khi chàng rể đến muộn”, thì đèn vẫn sáng.
Tuy nhiên, sự khôn ngoan này không tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một lòng ước muốn và cố gắng liên lỷ tập luyện, như lời tác giả sách Khôn Ngoan: “Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình cho họ trước”. Sự tỉnh thức này còn là một tình trạng luôn chờ đợi, mở ngỏ và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa như tâm tình của tác giả Thánh Vịnh trong bài đáp ca: “Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của tôi, tôi thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn tôi khát khao, thể xác tôi mong đợi Chúa như đất héo khô khát mong mà không gặp nước”.
2. Đây là việc của mỗi người:
Kế đến, chúng ta thấy lời mời gọi của Đức Giê-su: “Hãy tỉnh thức” không phải là một lời mời gọi chung chung, nhưng là một lời nhắn gởi đến từng người trong chúng ta.
Khi chàng rể đến, 5 cô khờ dại đã không thể xin dầu của 5 cô khôn ngoan. Họ không thể đổ lỗi cho ai hay hoàn cảnh nào. Họ phải chịu trách nhiệm về việc đèn của mình hết dầu. Điều này nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: Chúng ta phải chịu trách nhiệm về mọi lời chúng ta đã nói, mọi việc chúng ta đã làm trong cuộc sống thường ngày. Mặc dù có liên đới, nhưng cuối cùng vào ngày ra trình diện trước mặt Chúa, chúng ta không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh, hay bất cứ ai. Con cái không thể đổ lỗi cho cha mẹ; cha mẹ cũng không thể đổ lỗi cho con cái; vợ chồng không thể đổ lỗi cho nhau; Giáo Dân không thể đổ lỗi cho hàng Giáo Sĩ; và hàng Giáo Sĩ cũng không thể đổ lỗi cho Giáo Dân. Mỗi người phải trả lẽ về cuộc sống của chính mình, về mối tương quan riêng tư của chính bản thân mình với Thiên Chúa. Không ai chịu thay cho ai.
Mỗi người cuối cùng phải trả lẽ với Thiên Chúa là một điều có thực, rất thực như lời chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đây cũng là xác tín của Thánh Phao-lô, ngài nói: “Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng Lãnh thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống”. Niềm tin này không chỉ là một lời tuyên xưng, nhưng phải được thể hiện qua cuộc sống vui tươi của từng người chúng ta ngay giữa những thử thách, khó khăn trăm bề của cuộc sống hiện tại. Vì thế, Thánh Phao-lô trong bài đọc hai đã kêu gọi các tín hữu ở cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca không được sống buồn phiền như những kẻ không có niềm hy vọng.
Cùng với niềm vui và hy vọng, niềm xác tín này còn đòi mỗi người chúng ta phải luôn tỉnh thức, vì chúng ta “không biết ngày nào giờ nào”. Nó không cho phép chúng ta mê ngủ trong sự lười biếng, cùng với những đam mê của mình. Thái độ tỉnh thức đòi mỗi người chúng ta có một thái độ đoạn tuyệt dứt khoát với tội lỗi. Mỗi sáng, mỗi ngày, chúng ta cũng có thể dùng lại câu hỏi của Thánh Don Bosco với các học sinh của ngài để xem thử chúng ta có tỉnh thức hay không: “Nếu chiều nay hay lát nữa đây, Chúa gọi tôi, tôi sẽ làm gì ?” Và nếu chúng ta có thể trả lời như vị Thánh trẻ Sa-vi-ô: “Tôi sẽ tiếp tục dâng Thánh Lễ, tiếp tục đi chợ, tiếp tục học hành, tiếp tục vui chơi...”, thì quả thật, chúng ta đang tỉnh thức.
Giờ đây, đứng trước lời mời gọi của Chúa, mỗi người chúng ta hãy sẵn sàng đón nhận lời Chúa, như cậu bé Sa-mu-en năm xưa, mặc dù đang giữa đêm khuya trong giấc ngủ ngon của một đứa bé, cậu vẫn mau mắn đáp lời: “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời.” ( 1 Sm 3, 9 ). Không chỉ nghe mà chúng ta cần phải sẵn sàng sống những Lời Chúa dạy, bằng cách chu toàn các bổn phận trong cuộc sống thường ngày. Nhờ đó, khi chàng rể là Đức Ki-tô đến, tất cả chúng ta đều được vào dự tiệc cưới với Người.
Lm. TRẦN THANH SƠN, Giáo Phận Xuân Lộc
Trong những ngày giỗ chạp, ở Miền Bắc có Mâm Ngủ Quả dâng kính tổ tiên và cầu xin ơn lành. Ở Miền Nam, bất kể cách phát âm thiếu chính xác, người dân vẫn chọn để trưng bày trên bàn thờ những hoa quả mang lại hạnh phúc, ấm no, bình an như lòng họ mong ước và được thể hiện qua tên các loài trái cây, như là: cầu ( mãng cầu ) – vừa ( dừa ) – đủ ( đu đủ ) – xài ( xoài ), nói lên sự bình dị mộc mạc, không gợn chút tham lam. Xưa nay dân Miền Tây chung chung vẫn thích nhàn hạ, không tính toán tích lũy và cũng vì thế mà rất ít người giàu có.
Không ở trong não trạng ấy, có thể nhiều người lấy làm khó chịu, nhưng không ít người mệt mỏi với cuộc chạy đua danh lợi, lại thèm thuồng lối sống giản dị như vậy. Tuy nhiên, hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, lắm khi đòi buộc ta phải thích nghi, nghĩa là phải tính toán, để chẳng những không xa lạ, mà còn không để bị hụt hẫng, nhiều khi gây phiền toái, nhiều khi khiến việc chung “hư bột hư đường” rất đáng trách. Dụ ngôn “mười cô trinh nữ” mà Chúa Giê-su đưa ra hôm nay, cho chúng ta hình ảnh đó: bất cẩn và ỷ lại.
Chưa kể đến chuyện làm giàu, thì “tích cốc phòng cơ” cũng là bài học để mỗi người thực hành theo. Không ai biết trước ngày mai sẽ xảy ra những chuyện gì, nhưng ai ai cũng rõ là khi “đụng chuyện”, thì luôn cần đến tiền bạc hoặc các thứ có thể quy đổi thành tiền.
Trong mọi cuộc chiến của bất cứ thời đại nào, quân lương ( và đàng sau là nền kinh tế hùng mạnh ) vẫn là điều kiện cần và ắt đủ để kéo dài và đi đến thắng lợi. Người ta vẫn hay ví “thương trường như chiến trường”. Ai “trường vốn” – nghĩa là có nhiều tích lũy và tiềm lực – thì dễ đạt được thành công. Trái lại, một cuộc sống chỉ ngày nào biết ngày đó, không tính toán và có phương án phòng ngừa các bất trắc, thì rất dễ bị động và thất bại.
Đó là trường hợp của năm cô trinh nữ “khờ dại”.
Thực ra, năm cô trinh nữ nầy chưa hẳn đã “khờ dại” chút nào, trái lại, có vẻ còn lắm mưu nhiều kế. Đối với phần lớn các cô gái trẻ, việc được mời đi đón chàng rể là một niềm vui và vinh dự, vì vậy có thể loại trừ ngay lý do miễn cưỡng để dẫn đến làm qua loa chiếu lệ. Chỉ còn lại suy nghĩ và hành động của năm cô, cho rằng việc chú rể đến trễ trong một ngày trọng đại nhất đời, là điều không bình thường và sai sót đầu tiên, kẻ đáng trách đầu tiên, sẽ phải là chú rể: vì vậy, đem đủ để không phải “tay xách nách mang” là điều hợp lý ( có thể năm cô đã kinh qua những lần được mời đi đón rể ). Kế đến, còn có các cô gái khác cũng được mời và nếu xãy ra bất trắc, thì việc chia sẻ chẳng quá khó khăn, khi cùng phục vụ một chủ, một mục đích và một lợi ích. Cầu được, ước thấy: tai họa đã xãy đến ! Điều hiếm hoi – chú rể đến trễ, rất trễ – đã xảy ra và năm cô trinh nữ đã bị khốn đốn, lỡ làng!
Đó là trường hợp của nhiều người trong chúng ta !
Trước hết đó là sự thiếu quan tâm đến người khác, mà chỉ lo nghĩ về cái lợi, cái được cái mất của mình. “DẦU” của mỗi người không phải là ít, khi được đổ đầy ắp trong các lần nhận lãnh Bí Tích. Nhưng nếu dầu ở ngay cả những mỏ có trữ lượng khổng lồ mà còn chóng cạn, vì đơn giản là không ai... châm thêm vào mà chỉ rút ra tiêu dùng, thì “dầu” nơi người Ki-tô hữu cũng sẽ mau chóng bị đốt cạn, nếu không được đều đặn châm thêm, bằng lãnh nhận các Bí Tích, nhưng cũng cả bằng cuộc sống thực thi Tin Mừng, bác ái, yêu thương và làm chứng nhân cho Đức Ki-tô Phục Sinh bằng chính cuộc sống.
Đường đời vô vàn thử thách, nhất là các cám dỗ đến từ ma quỷ, đến từ tiền bạc, dục vọng. Đức Tin luôn phải cháy sáng, lòng TIN CẬY MẾN luôn phải được thắp sáng lên – vì không ai thắp đèn rồi đặt dưới đáy thùng – mà “dầu” lại chỉ đổ một lần, thì cho dù đổ đầy đến đâu, cũng sẽ bị hao hụt và khô cạn. Bấy giờ chúng ta sẽ nhìn vào ai và cậy vào ai ?
Có vô vàn những thứ có thể chia sẻ, nhưng ơn thánh, đức tin và lòng TIN CẬY MẾN là những mà nếu ta để thiếu hụt, thì người khác dù có dồi dào đến đâu và quảng đại đến đâu, cũng không thể chia sẻ cho chúng ta được. Và không phải là vì họ ích kỷ !
Đó là sứ mệnh truyền giáo của Ki-tô hữu !
Chú Rể là Đức Ki-tô chẳng khi nào... đến đúng giờ hoặc có hẹn trước: Ngài luôn luôn đến trễ và đến vào lúc người đón đợi – nếu quả là có ý đón đợi – không ngờ tới. Đây không còn phải là một bí mật và cũng chẳng phải là việc bất thường. Nó đã thành... lệ ! Vậy, nếu chúng ta chỉ hành xử theo suy nghĩ và sở thích của mình, mà không theo “người chủ cuộc chơi”, thì thất bại và bị loại trừ là điều thấy trước !
“Trinh nữ” là lớp người trẻ trung, đầy sức sống, là hiện tại và tương lai của Giáo Hội. Nếu như tất cả mười trinh nữ đều suy nghĩ và hành động hồ đồ như trong bài Tin Mừng hôm nay, thì Giáo Hội sẽ đi về đâu ? Ai sẽ soi sáng cho bước chân của Chúa Giê-su và Tin Mừng vào chốn dương gian u tối đang mong ngóng Chàng Rể ?
Đây không phải là một câu chuyện để nghe qua và lấy làm tiếc giùm hoặc xỉ vả tính ươn lười cẩu thả của năm cô trinh nữ khờ dại, mà là lời cảnh tỉnh Chúa Giê-su gửi đến cho mỗi người chúng ta: đêm còn dài lắm và Chú Rể chẳng biết khi nào mới lại đến. Đêm còn dài lắm và việc thiếp ngủ vì mệt mỏi là điều khó tránh:
Thân xác và tâm hồn có thể trĩu nặng, nhưng đèn Đức Tin vẫn phải giữ cháy sáng, thắp cho niềm tin chúng ta mãi cháy sáng, soi sáng cho anh em, soi sáng cho Lời Chúa đi vào lòng nhân loại đang chìm đắm u mê trong gian tà, dục vọng, thù hận và độc ác !
Ai sẽ đổ dầu cho chúng ta, khi vô số người đang nhìn vào và cậy trông nơi ánh sáng từ chúng ta, vì họ không có đèn, không có dầu ? Bởi đơn giản: thắp sáng niềm tin, giữ cho đèn Đức Tin đủ dầu để cháy sáng mãi, trở thành mệnh lệnh cho mỗi Ki-tô hữu, vì tên gọi đích thực của nó, chính là: SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 125
Một câu chuyện giả tưởng của một bác sĩ sản khoa viết rằng: một lần nọ, bác sĩ thử nói chuyện với bào thai, bác sĩ nói: “Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được.”
Nghe vậy, bào thai liền nói: “Thôi, ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác nữa. Một cuộc sống ở nơi nào nào khác chỉ là điều bịa đặt của những người cuồng tín...”
Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai liền thắc mắc: “À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ ? Ở đây đâu có gì để nhìn ? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì đây ? Và tại sao tôi lại phải có tay ? Có tay để cứ khoanh mãi thế này ư ? Tay làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống chắc là vĩ đại lắm nhỉ ? Chắc tôi phải đi thật nhiều nên tôi mới cần có đôi chân. Chắc tôi phải làm việc và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay ! Vậy thì... Bác sĩ nói đúng đấy ! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi...”
Hội Thánh dạy chúng ta rằng cuộc đời trong trần gian này không khác gì bào thai đang sửa soạn cho một cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên Nước Trời. Cũng như mắt, chân và tay của bào thai sự khôn ngoan dành cho cuộc đời sắp đến. Sự phát triển của con người trong cuộc đời này chứng minh cho một cuộc đời mai sau.
Trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 8
Mt 25,1-13
A. Hạt giống...
Dụ ngôn mười cô phù dâu : dạy về sự tỉnh thức :
- Kitô hữu tỉnh thức là để đón chờ Đức Kitô (chàng rễ) đến.
- Phải tỉnh thức luôn luôn vì không ai biết chừng nào Đức Kitô đến.
- Tỉnh thức là lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng (như đèn đầy đủ dầu).
- Chi tiết các cô khôn ngoan không cho các cô khờ dại mượn dầu có nghĩa là không ai có thể giúp ai được trước số phận đời đời.
B.... nẩy mầm.
1. 5 cô khôn ngoan cũng ngủ như 5 cô khờ dại, thế mà được coi là có thái độ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ nhưng họ đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải là lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm : khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền ngơi nghỉ.
2. Cách sống của 5 cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, là cách sống của những người gần chết mới nghĩ tới việc linh hồn.
3. Dầu mà tôi phải luôn chuẩn bị đầy đủ cho cây đèn linh hồn tôi là những gì ?
4. Trong bài Tin Mừng này có một chi tiết hơi lạ là khi 5 cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã đến xin dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình dầu đầy ắp thế mà lại không chia xẻ cho 5 cô kia. Có phải là quá ích kỷ không ? Thưa nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời nên nó không có nghĩa là ích kỷ. Bời vì đối với phần rỗi đời đời của mỗi người, nói cách khác, đối với chuyện công đức và tội lỗi thì không ai có thể chia cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Anh bạn tôi chết, tôi thương anh tôi lắm nhưng tôi không thể chia cho anh những công lao phúc đức của tôi, tôi cũng không thể xin Chúa san xẻ cho tôi gánh chịu dùm một số tội lỗi của anh.
Bởi vậy, mỗi người tự gánh tránh nhiệm về cuộc đời mình, tu thân tích đức thì mình nhờ, chuốc lấy tội lỗi thì mình chịu.
5. Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình ; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. ("Mỗi ngày một tin vui")
6. “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13)
“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi ?” Đó là chính câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường và có kết quả :
20% được hỏi liền trả lời : “Chúng sẽ dùng thời gian còn lại để uống say sưa, hút ma túy và vui chơi cho thoả thích”.
Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời : “Tôi sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi môt đời sống hạnh phúc và đầy đủ”.
Chúa đến bất chợt, hôm nay, ngày mai hay một ngày gần đây. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị cho giờ đó ? Hay chúng ta chỉ mãi sống trong nếp sống cũ ? Hãy canh thức để đón chờ ngày Chúa đến gọi ta.
Lạy Chúa Giêsu, bao giờ Chúa đến gọi con, hôm nay hay ngày mai ? mùa thu hay mùa xuân ? Xin Chúa giúp con để con luôn tỉnh thức chờ ngày đó. (Hosanna)
7. Mầm khác :
Qua dụ ngôn 10 cô trinh nữ: năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Chúa đã nhắc nhớ chúng ta:
“Vậy hãy tỉnh thức vì các con không biết ngày nào giờ nào.”
Chúa nhắc tới mỗi người, ngay đang lúc sống, cũng phải sẵn sàng nghĩ tới giấy phút trở về thế giới bên kia, giây phút Chúa đến với ta, giây phút ra trước tòa Chúa. Nhiều khi Chúa đến với ta, gọi ta một cách bất ngờ, có nghĩa là ta phải bỏ đời ngay chính lúc chúng ta đang mạnh khỏe. đang sống an vui, đang lúc ta tưởng cuộc sống của ta còn kéo dài nhiều ngày, nhiều năm tháng.
Cũng vì muốn khuyên chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, sách gương Chúa Giêsu đã viết:
“Cuộc sống của bạn không kéo dài lâu đâu: Hãy hỏi mình đã sn sàng chưa?”
Con người hôm nay còn, mai đã mất!
Khi họ đã khuất mắt mọi người, thì mọi người cũng cách xa lòng với họ.
Thực là điên rồ, khi chỉ biết đến giây phút sống, mà không dự phòng cho giây phút cho giây phút bỏ đời.
Trong mọi hành động, mọi ý nghĩ, bạn sẽ cư xử như chính bạn đang đúng ngày hôm nay.
Nếu tâm hồn bạn trong trắng, bạn sẽ không sợ chết mất.
Thà tránh làm điều dữ, còn hơn là tránh cái chết.
Nếu hôm nay bạn không sẵn sàng, thì đến ngày mai bạn sn sàng thế nào được?
Ngày mai có gì là chắc! Bạn có chắc chắn sẽ sống đến ngày mai không?
Sống nhiều mà sửa mình ít, thì hỏi được ích lợi gì?
Giả như ta chỉ sống thánh thiện, được ít là lấy một ngày, thì chả hay lắm sao?
Hạnh phúc thay, người luôn luôn biết để giờ chết trước mắt, và ngày dọn mình sẵn sàng…
Đôi khi bạn thấy người ta chết, bạn hãy nghĩ một ngày nào đó, bạn cũng sẽ như vậy.
Sqáng thức dậy, bạn nên ghĩ bạn sẽ không sống đến ngày mai.
Hãy sẵn sàng luôn, hãy sống thế nào để giờ chết đến lúc bạn đã sẵn sàng. Biết bao người đã phải chết bất ưng: “Vì Con Người đến lúc không ai ngờ.” (Lc 12,40)…
Đừng tin tưởng ở bạn bè thân thuộc, cũng đừng giãn việc phần rỗi lại lâu, vì đời quên bạn chóng hơn bạn tưởng.
Thà tự liệu kỹ lưỡng cho mình ngay lúc này, và sắm lấy đôi việc phúc thiện, còn hơn trông vào người khác giúp đỡ.
Nếu bây giờ bạn không tự liệu cho mình, mai này ai sẽ lo cho bạn?
Giây phút hiện tại là giây phút vô giá: “Đây là giờ phần rỗi, đây là thời cơ thuận tiện.” (2Cor 6,2)
(Trích gương Chúa Giêsu L.I.C 23)
Ngày 25 tháng 5, bản án của truều đình truyền phải xử Thánh Đoàn Trinh Hoan (tử đạo ngày 26-5-1861, 63 tuổi) ra tới Đồng Hới. Sau khi nghe đọc bản án, Cha Hoan cầu nguyện:
“Chúng con chúc tụng Chúa, Ngài đã cho chúng con biết trước giờ hồng phúc đổ máu vì Danh Ngài.”
Thật cảm động, hình ảnh người cha già, tay chân đeo xiềng, cổ mang gông và nắm chắc bản án tử hình vì đức Tin, đã đến gặp từng người bạn tù để nói đôi lời ủy lạo. Cha đi một vòng thăm các bạn tù lần chót, khuyên họ;
“Giờ cuối cùng của tôi không còn xa. Phần anh em, những người con yêu quí, anh em còn ở lại trần gian đau khổ này, anh em hãy trung tín đến cùng. Xin anh em cầu nguyện cho tôi làm trọn vẹn ý Chúa.”
Cha đã bị bắt cùng với ông trùm Matthêô Phượng.
Quan trấn Quảng Bình đã cho dùng mọi dụng cụ tra tấn. Cha Hoan và ông Phượng chịu đánh đập cùng với 7 chứng nhân khác một cách tàn nhẫn. Họ cho nung đỏ kìm sắt, kẹp vào đùi và hai tay để bắt các môn đệ Chúa Kitô phải bước qua Thập giá và khai báo những điều mà họ muốn biết. Dù đau đớn đến độ ngất xỉu, Cha Hoan, ông Phượng và các chứng nhân vẫn không nói một lời, không tiết lộ những gia đình Cha đã trú ngụ, không để lộ chi tiết nào có hại đến người khác, và tất cả đầu can đảm tuyên xưng đức Tin. Cuối cùng Cha Hoan và ông trùm Phượng bị kết án xử tử, còn những người kia phải lưu đày chung thân.
Chiến dịch bắt đạo tháng 12 năm 1859 đã gom nhiều chức sắc trong các Giáo xứ, và riêng ở Huế, tập trung mọi tín hữu trên 50 tuổi vào trại giam, do đáo khu vực giam Cha Hoan còn có nhiều anh em giáo hữu. Nhớ có tài xã giao lịch thiệp, Cha Hoan đã danh được thiện cảm của toán lính canh ngục. Cha có thể dễ dàng đến các phòng giam trong trại để thăm viếng các tín hữu. Trong suốt tháng bị giam, Cha Hoan dành rất nhiều thì giờ để giải tội, và khích lệ các giáo hữu. Nhận được Mình Thánh Chúa gởi vào, Cha rước lễ và chia sẻ cho anh em.
Ngày 25 tháng 5, bản án của triều đình truyền phải xử Thánh Hoan ra tới Đồng Hới.
Tối hôm ấy Cha thức thật khuya để ủy lạo bạn hữu và giải tội cho một số người. Sáng sớm hôm sau 26-5-1861 tù nhân ở các phòng khác cũng được phép đến gặp và từ giã Cha, Cha nói:
“Thưa anh em tôi, tôi dám xin mượn lời Thánh Phaolô để nói với anh em rằng: anh em hãy nói gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô”.
Cha con vui vẻ hàn huyên cho đến khi có lệnh ra pháp trường. Cha đứng thẳng lên, cổ mang gông nặng, hiên ngang bước theo viên cai ngục.
Ra đến cửa, Cha gặp ông trúm Phượng, hai toán lính nhập thành một, hai lính cầm hai bản án đi trước. Đến pháp trường, hai vị đã quỳ lên chiếu trải sẵn. Quan hỏi hai chứng nhân cần trói vào cột không, Cha nói: “Khỏi cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự nguyện chết, tôi đã chẳng đến đây, xin cho vài phút để cầu nguyện.”
Cha ngẩng mặt lên trời, tạ ơn Chúa, giơ tay giải tội cho ông phượng và ra dấu đã sẵn sàng để lý hình thi hành nhiệm vụ.
Thái độ ấy dũng cảm của Cha, biết Cha vô tội, nên lý hình đã chỉ định, phải nhờ một lý hình khác không quen tay: Do đó Cha bị chém tới nhát thứ ba, đầu mới rơi xuống.
Tin mừng : Mt 25, 1-13.
Anh chị em thân mến,
Khôn ngoan là báu vật mà Thiên Chúa ban cho con người, nói cách khác, Ngài ban cho những ai thành tâm tìm kiếm điều thiện hảo với lòng khiêm tốn.
Mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón tân lang là một ví dụ điển hình mà Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta nghe trong bài tin mừng hôm nay, chính là Ngài dạy chúng ta phải chuẩn bị đợi chờ ngày Ngài lại đến trong vinh quang, đợi chờ cách khôn ngoan của năm cô khôn ngoan là đem đèn và đem luôn cả dầu, nghĩa là các cô đã chờ đợi trong sự khôn ngoan của mình.
Khôn ngoan của người đời là biết lo liệu, biết dự tính và biết “thấy” trước tình huống sẽ xảy ra để có kế hoạch đối phó, nhưng sự khôn ngoan của người Kitô hữu là để chờ đợi ngày đến bất thình lình của Thiên Chúa, trong khi vẫn cứ chu toàn bổn phận hằng ngày của mình cách trọn vẹn.
Khôn ngoan của người Kitô hữu là thực hành đức tin ngay trong cuộc sống của mình, vì đức tin chính là ngọn đèn được đốt lên trong cuộc đời của người Kitô hữu, ngọn đèn đức tin này cần phải đổ đầy bằng dầu đức ái, bằng không thì nó sẽ tàn lụi và cuối cùng thì tắt ngúm và trở nên lạnh lẽo.
Khôn ngoan của người Kitô hữu là sự tỉnh thức và cầu nguyện khi người khác mãi mê ngủ trong đam mê tội lỗi, bởi vì họ -người Kitô hữu- không muốn Con Người đến khi họ đang sống trong tình trạng tội lỗi mà chưa được chuẩn bị đầy đủ.
Anh chị em thân mến,
Ai trong chúng ta cũng muốn mình trở thành người khôn ngoan thông minh để lời nói mình được đám đông nể mặt, để người khác phải bái phục khi những kế hoạch mình đưa ra đều thành công vang dội.v.v…nhưng, sự khôn ngoan ấy chỉ là khôn ngoan tạm bợ của người đời mà thôi, bởi vì có rất nhiều người khôn ngoan như vậy, thông minh như vậy nhưng vẫn không giành được Nước Trời.
Năm cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể đã không làm cho chàng rể bẻ mặt trong ngày vui trọng đại, vì họ đã khôn ngoan chuẩn bị chu đáo đèn và dầu cho ngày dự tiệc cưới với chàng rể là chủ nhân của họ.
Chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi hãy tỉnh thức luôn, mà người biết tỉnh thức cũng có nghĩa là người khôn ngoan biết đợi chờ ngày đến bất chợt như kẻ trộm của Chúa Giêsu, đó mới chính là sự khôn ngoan mà chúng ta phải tìm kiếm trong cuộc sống ở trần gian này.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 32 thường niên tại nhà thờ Thánh Tâm-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dẫn nhập đầu lễ :
Anh chị em thân mến!
Không còn bao lâu nữa là kết thúc năm Phụng vụ 2005, và chúng ta lại bắt đầu bằng một chặng đường mới trong “cuộc hành hương tiến về vĩnh cửu”. Vì thế, các bài đọc kể từ Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở chúng ta về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày tận thế. Chúa Giêsu sẽ trở lại để gặp gỡ chúng ta, một cuộc viếng thăm “bất ngờ” của Đấng hằng yêu thương chúng ta; và vì thế, cuộc đời của mỗi người phải biến thành một cuộc đợi chờ trong tỉnh thức và đầy hy vọng, trong tư thế sắp sẵn và khôn ngoan.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi và thành tâm sám hối để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
Giảng Lời Chúa :
Chưa đi hết chặng đường 365 ngày của một năm mà thế giới chúng ta đang sống đã trãi qua không biết bao nhiêu tai ương hoạn nạn và đã mang đi về bên kia thế giới bao nhiêu triệu sinh linh. Với một hiện thực sờ sờ trước mắt như thế mà cũng còn không biết bao nhiêu người cứ mê man trong giấc ngủ lầm lạc khi cho rằng chỉ có cuộc sống tại thế nầy mà thôi, chỉ có hạnh phúc trên thế gian nầy mới dáng kể, nên “cứ ăn đi, uống đi, nhậu nhẹt say sưa đi, chơi bời trác táng đi, lo hưởng thụ đi, lo làm giàu đi…”, lo chi một thiên đàng ảo ảnh, một địa ngục hảo huyền…Và họ còn to miệng lớn tiếng : chỉ những kẻ dại khờ, mê tín mới mơ tuởng, mới hy vọng một thế giới mai sau; còn những kẻ khôn ngoan, trí thức, khoa học, không ai bám víu vào một niềm tin ấu trỉ như thế.
Vào thời Chúa Giêsu và hàng trăm năm trước đó cũng đã từng có những lập luận như thế. Và chính quan niệm nầy đã dẫn lối đưa đường để cho biết bao nhiêu con người sống thác loạn, sống vong thân, biến tôn giáo-tín ngưỡng trở thành một thứ bùa mê thuốc lú phĩnh gạt dân đen, biến việc thờ tự lễ nghi trở thành dịch vụ buôn thần bán thánh…
Chúa Giêsu đã đến để khai đường mở lối dẫn con người đi vào chính lộ, uốn nắn cái tâm của con người biết đón nhận chân lý và biến cuộc sống con người thành một “cuộc cử hành tôn thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật”. Và nhất là chỉ cho con người biết cách vận dụng cuộc đời tại thế để “đắp đường tiến vào cõi sống ngàn thu”, chuẩn bị hành trang của cuộc sống hôm nay để hành hương tiến về vĩnh cửu.
1. Sự khôn ngoan của đức tin cựu ước : Khát khao đi tìm Thiên Chúa
Nếu cuộc hành trình của cựu ước đó là không ngừng lên đường tìm kiếm sự “khôn ngoan đích thực”, sự Khôn Ngoan được hiểu là chính Thiên Chúa và các ý định cứu độ của Ngài, sự Khôn Ngoan đã trở thành một “Ngôi Vị Thần Linh” sẵn sàng hiện diện và đồng hành với tất cả những ai khao khát kiếm tìm và mở cửa lòng đón đợi như BĐ 1 hôm nay đã khẳng quyết : “Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả…”. Và như thế, Lời Chúa đã minh định rằng : cuộc sống có ý nghĩa, lựa chọn khôn ngoan và sáng suốt chính là biết “hướng về Thiên Chúa, khát khao Thiên Chúa, tìm kiếm Thiên Chúa” theo như Thánh Vịnh 62 mà chúng ta vừa cùng nhau ca hát :
“Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,
Ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
Tấm thân nầy mòn mõi đợi trông,
Như mảnh đất hoang, khô cằn, không giọt nước…”
2. Khôn ngoan của Tin Mừng Đức Kitô :
Đức Kitô không nói khác những gì các sứ ngôn và các Tổ phụ đã dạy trong cựu ước cho dân ưu tuyển Ít-ra-en. Khác chăng là tính dứt khoát và uy thế của Tin Mừng mà Ngài nhất quyết phải giữ “độc quyền” như một “Người Con Thừa Tự” có trách nhiệm bảo tồn di sản của Chúa Cha. Thật vậy, sự Khôn ngoan đích thực theo Tin Mừng của Đức Kitô chính là :
- Bước đi trên lộ trình của Bát Phúc : Khó nghèo, hiền lành, trong sạch, xây dựng hòa bình, đón nhận hy sinh…
- Sẵn sàng bán tất cả để có được “Viên ngọc quí” là chính Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
- Biết cúi xuống rửa chân cho anh em, sẵn sàng yêu thương thù địch và có thể tha thứ bảy mươi lần bảy.
- Biến cuộc đời thành người Samari nhân hậu đới với hết mọi anh em, đặc biệt những anh em thương tật, nghèo hèn, rách nát…
-Thà như Maria Bêtania mất bình dầu thơm cam tùng nhưng đôi chân của Chúa tỏa mùi hương thơm ngát hơn là “lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn”.
-Là sẵn sàng bỏ bàn thu Thuế hái ra tiền như Matthêô để làm tông đồ và hoán cải như Giakê để trở nên một con người mới.
-Không ngừng trở nên như trẻ thơ và biết sống tin yêu phó thác trong tay quan phòng của Cha như chú chim sẻ trên cành và cây hoa huệ giữa đồng xanh.
-Can đảm đứng lên để trở về nhà Cha cho dù thân tàn ma dại như Phêrô, hơn là thất vọng với chiếc thòng lọng treo cổ trên cành như Giuđa Ít-ca-riốt.
- Là như người trộm lành đến giây phút cúi đời biết đặt niềm trông cậy vào lòng khoan dung tha thứ để được đón nhận vào Vương quốc vĩnh hằng.
-Và hôm nay, Khôn Ngoan là biết hướng về tương lai chung cuộc để đón gặp “Tân Lang” với đèn dầu nghiêm túc như 5 cô thiếu nữ phù dâu hân hoan vào dự tiệc cưới.
3. Một lời khuyên không bao giờ cũ : tỉnh thức đợi chờ :
Vâng, nếu sống đó là tìm kiếm, khao khát khôn ngoan, thì chết chính là trực diện, gặp gỡ Khôn Ngoan đích thực. Chính vì thế, cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu luôn là cuộc lên đường tiến về cùng đích cuộc đời, tiến về quê hương vĩnh cửu. Cuộc hành trình đó, trong ngôn ngữ của dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, chính là “sự tỉnh thức đợi chờ của những người thiếu nữ cầm đèn đi đón tân lang”; và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cuộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. ("Mỗi ngày một tin vui")
“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13)
“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi ?” Đó là chính câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường và có kết quả :
20% được hỏi liền trả lời : “Chúng sẽ dùng thời gian còn lại để uống say sưa, hút ma túy và vui chơi cho thoả thích”.
Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời : “Tôi sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ”.
Nhưng không chỉ để đến giây phút cuối mới “dành thời gian còn lại để chuẩn bị” như cô nữ sinh nọ; mà phải chuẩn bị ngay từ đầu, phải “tỉnh thức” thường xuyên, phải sống trọn vẹn “giây phút hiện tại”. Đó mới là khôn ngoan đích thực mà Tin Mừng hôm nay nhắm tới.
Ý tưởng nầy gợi nhớ câu chuyện về một thanh niên tìm việc làm. Khi được phỏng vấn về các tài năng chuyên môn, anh ta chỉ trả lời vỏn vẹn : “Tôi có thể ngủ được khi trời giông bảo”. Ông giám đốc lấy làm lạ về cái “tài đặc biệt” nầy. Nhưng cũng nhận vào làm công tác bảo vệ để xem thử. Và rồi một đêm giông bảo nổi lên. Ngài giám đốc lo lắng cho cơ sở của công ty sẽ bị giông bảo tác hại, đã thức dậy giữa đêm và đi tuần tra. Ông ta rất ngạc nhiên, vì thấy mọi sự đã được chuẩn bị nghiêm túc, cửa nẻo, phòng ốc đã được sắp đặt, phòng bị an toàn. Và nơi ở của nhân viên, chàng thanh niên mới vào đang nằm ngủ ngáy o o. Ông giám đốc đập dậy và quở trách; “Sao lại ngủ đang khi trời giông bảo”. Chàng thanh niên trả lời. “Thức làm gì, vì tôi đã chuẩn bị tất cả từ chiều rồi. Tôi có thể ngủ thoải mái cho dù giông bảo”. Phaỉo chăng đó chính là thái độ “khôn ngoan của những cô trinh nữ dầu đèn đầy đủ” !
Trong viễn tượng cánh chung của mỗi cuộc đời cũng thế. Đối với những ai đã sẵn sàng, đèn cháy cầm tay, họ sẽ được sung sướng gặp Chúa. Thánh Nữ Tiến Sĩ Têrêsa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”; trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài đồng than thở: “Lạy Chúa, con… yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt lại đi, đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút tối 30 tháng 9 năm 1897. Hai người Trinh nữ ấy đã cầm đèn sáng ra đón Chúa và gặp gỡ “người tình lang” muôn thuở.
Tóm lại, vào những ngày gần kết thúc năm phụng vụ, sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta sống đức “Trông cậy” một cách vững vàng, trông cậy sẽ được hưởng hạnh phúc bất diệt trong vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc của sự phục sinh. Đó chính là bài giáo lý cơ bản mà Thánh Phaolô đã dạy cho các tín hữu Thessalônica ngày xưa mà chúng ta mới nghe công bố trong Bài đọc 2 hôm nay : “Chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền, như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu”. Sứ điệp nầy lại được vang lên trong tháng “Các đẳng linh hồn” sẽ là một nhắc nhớ mỗi người chúng ta đừng quên số phận của những anh chị em đang được thanh luyện trong luyện ngục, và sốt sắng cầu nguyện cho họ để họ sớm được hưởng phúc thiên đàng.
Chút nữa đây, Tấm bánh là Thân mình Đức Kitô được bẻ ra để trao ban cho chúng ta như quà tặng tuyệt vời nhất, như lương thực trường sinh cao quí nhất để dẫn chúng ta tiến bước về quê hương bất diệt. Vì chính Ngài đã dạy : “Ai ăn và uống máu tôi, sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54)
LM. Giuse Trương Đình Hiền
Bài Giảng LỄ GIỚI TRẺ 5 tháng 11 năm 2005 : CN XXXII A (Mátthêu 25,1 - 13)
Các bạn trẻ thân mến,
Hôm nay cha nói với các con một điều rất cao, nhưng cha tin chắc các con hiểu được, vì những người trẻ hôm nay rất thông minh và sâu sắc, đó là chủ đề mục đích cuối cùng của đời người. Không phải tự ý cha muốn nói về điều đó, nhưng vì Chúa muốn cha phải nói. Lời Chúa trong các bài đọc kinh thánh hôm nay muốn cha nói. Dụ ngôn 10 người trinh nữ trong bài Phúc âm là một dụ ngôn cánh chung, nói về thực tại cuối cùng, mục đích cuối cùng, tương lai cuối cùng của đời người. Mục đích cuối cùng của cuộc đời chúng ta không phải là đời này.
Ở đời này chúng ta chỉ có những mục đích trước mắt là: thi đậu, làm giàu, có việc làm, lấy vợ, lấy chồng, hay những mục tiêu có tính chất tôn giáo, như làm linh mục, làm nữ tu…Tất cả những điều đó là những mục đích thực tế ở trần gian, chúng ta vui mừng khi đạt được những mục tiêu đó; nhưng chúng không phải là mục tiêu cuối cùng của cuộc đời ta. Khi đã đạt được một mục tiêu cụ thể rồi, chúng ta lại nhằm một mục tiêu cụ thể khác. Không bao giờ hết những mục tiêu cụ thể trong cuộc đời, bởi vì hết mục tiêu cụ thể là chấm dứt cuộc đời trần thế.
Bao lâu chúng ta còn ở trần gian, Chúa không cấm chúng ta đạt những tiêu cụ thể, trái lại Chúa còn muốn cho chúng ta thành công. Thành công ở đời làm cho chúng ta vui, thì cũng làm cho Chúa vui, vì Chúa yêu ta. Nhưng vì những thành công ở đời không là mục tiêu cuối cùng của đời người, nên chúng không là tuyệt đối. Nếu có thất bại, cuộc đời của chúng ta không chấm dứt ở đó. Trong thực tế, nhiều lần ta đã thất bại, đã không đạt được mục tiêu, nhưng cuộc đời chúng ta đâu có chấm dứt, ta vẫn có thể làm lại cuộc đời, nhằm những mục tiêu khác.
Chỉ có Chúa mới là mục tiêu cuối cùng của đời ta, là tương lai cuối cùng, là hạnh phúc vĩnh cữu mà chúng ta phải đạt tới. Hướng tới Chúa là hướng tới mục đích cuối cùng của đời người. Vị Tân Lang trong bài phúc âm là hình ảnh của Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng sẽ trở lại ngày sau hết, hình ảnh Tương Lai cuối cùng của nhân loại. Mười cô trinh nữ là hình ảnh của loài người, phân nữa dại, phân nữa khôn. Sự chờ đợi là hình ảnh của lịch sử kéo dài, nhưng chấm dứt bất ngờ, có thể đó là lịch sử của nhân loại, nhưng cũng có thể là lịch sử của đời người.
Con người ở trần gian có lúc ngủ, có lúc thức; không thể thức mãi, cũng không thể ngủ hoài. Chúa không phiền trách khi chúng ta ngủ, nhưng Chúa chỉ muốn chúng ta thức tĩnh khi có người gọi dậy. Và khi thức dậy phải có ánh sáng, mà hình ảnh là cây đèn dầu, để thấy đường đi đón Chúa. Những cô khờ dại mang đèn không có dầu, nên không có ánh sáng, không thấy đường đi và không gặp được Chúa, không đạt được mục đích cuối cùng của đời người. Cuộc đời của họ coi như không thành công vì không đạt được mục đích cuối cùng, tuy có thể đã đạt được một số mục tiêu cụ thể, như tiền bạc, danh vọng, địa vị.
Theo kinh thánh, những người khờ dại là những người chạy theo những mục đích trước mắt, mà không thấy được mục tiêu lâu dài, không thấy được cứu cánh của đờùi người, không nhận biết Thiên Chúa là mục tiêu cuối cùng của đời mình, không thức tỉnh chờ đợi Chúa Kitô quang lâm. Những người khôn là những người vẫn có những mục tiêu trước mắt, nhưng luôn hướng tới mục đích cuối cùng. Mọi mục tiêu trước mắt chỉ là những phương tiện để đạt tới mục đích cuối cùng. Càng khôn ngoan bao nhiêu, thì mục đích cuối cùng càng sáng tỏ và càng thu hút bấy nhiêu. Đó là sự khôn ngoan của các Đấng thánh luôn được ánh sáng của Chúa chiếu soi và tình yêu của Chúa thu hút. Lời của thánh Phaolô nói về sự thánh thiện rất cụ thể và dễ hiểu : dù ăn, dù uống, hay dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì vinh danh Chúa.
Tất cả chúng ta là những con người mỏng dòn, hay ngủ quên, hay sa đà xuống dốc. Muốn luôn hướng tới Chúa để đạt mục đích cuối cùng của đời ta, phải có sức, có năng lượng bồi bổ, có lương thực thần linh là bí tích Thánh Thể làm của ăn đi đường, có Lời Chúa là đèn rọi bước chân, là ánh sáng chỉ đường. Cả hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể đều cần thiết cho đời sống đạo của chúng ta. Chúng ta đừng để thiếu lương thực, cũng đừng để thiếu ánh sáng.
+GM Phaolô Bùi Văn Đọc
Từ những chuyện nhỏ nhặt hàng ngày như nấu ăn, làm việc, kinh doanh mua bán, giao tiếp.. . cho đến những chuyện hệ trọng như chọn trường học, chọn ngành học, chọn nghề, kiếm việc làm, dọn nhà, thuê nhà, move in, move out... Tôi và bạn đều phải dùng trí khôn ngoan mà Chúa ban để tính toán, để chuẩn bị kỹ ghê lắm.
· Trước khi mua một căn nhà, bạn phải tính toán, suy nghĩ về nhiều vấn đề: Diện tích của căn nhà, location, giá tiền, build up credits, để dành tiền, tính toán khoản tiền lời trả cho ngân hàng, payment hàng tháng, tiền bảo hiểm, tiền thuế đất.. . Bạn phải chuẩn bị rất uu là kỹ lưỡng, rất chi li trước khi mua một căn nhà bởi vì sai một li là đi một dặm! Có người còn quả quyết rằng mua một căn nhà cũng giống như cưới vợ hay lấy chồng vậy! (Có lẽ vì vậy cho nên người ta hay ví người chồng hay người vợ của mình là “Nhà tôi”). Mua lầm một phát là.. . tàn đời.
· Trước khi lập gia đình, bạn chuẩn bị những gì và chuẩn bị trong vòng bao lâu chắc bạn vẫn còn nhớ.. . đời chứ? Nhà hàng, nhẫn, áo cưới, thiệp mời, danh sách thực khách, chọn phù dâu, phù rể, chọn nhà hàng, chọn món ăn, chọn nhà thờ, chọn...cha giảng trong thánh lễ, chọn thợ chụp hình, quay phim, trang trí.. .
· Trước khi tuyên khấn, trước khi lãnh nhận chức thánh, tu sĩ và chủng sinh phải dùng 10-12 năm để chuẩn bị: cầu nguyện, suy nghĩ, học hành, trau dồi kiến thức cả đạo lẫn đời, chịu bị thử thách, chiến đấu với những cám dỗ.. .
Chúng mình đã, đang và sẽ còn dùng rất nhiều thời gian, bỏ ra rất nhiều sức lực, bóp đầu, nặn trán suy nghĩ, tính toán, lo lắng, dành dụm, và hy sinh rất nhiều để chuẩn bị cho những công việc phù vân ở trần thế (Gv 1:2). Thế còn cái chuyện cực kỳ hệ trọng trong cuộc đời của bạn và tôi: PHẦN RỖI LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU trên Thiên Quốc thì chúng mình đã chuẩn bị tới đâu rồi?
Chúng mình đã dùng trí khôn ngoan, bỏ thời gian, bỏ sức lực, bóp đầu, nặn trán suy nghĩ, tính toán, lo lắng, dành dụm, và hy sinh tất cả để chuẩn bị sẵn sàng cho ngày mà bà con thân thuộc, bạn bè đến hát thay cho bạn “Khi Chúa thương gọi con về, hồn con hân hoan.. .” của nhạc sĩ Kim Long hay chưa?
Bạn và tôi đã làm gì và chuẩn bị được bao nhiêu trong saving account trên Thiên Quốc để có thể mua một căn nhà trên ấy?
Rất có thể chúng mình đang sống, đang hành xử giống y hệt như những cô trinh nữ khờ dại mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay. Họ mang đèn mà không mang dầu dự trữ đi đón chàng rể.
· Khi tôi và bạn chỉ biết dùng trí khôn ngoan để lo toan những chuyện trần thế, chỉ lo làm việc, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm quên lễ Chúa Nhật, làm thật ăn chơi, làm không nghỉ ngơi, làm tơi bời hoa lá, làm tá lả âm binh, làm đến khi ngã bịnh, bị rinh vào nhà thương mới.. . chịu nghỉ, thì thật Ta bảo thật các ngươi: “Các ngươi là những đứa khờ dại, mang đèn mà lại không mang theo dầu sơ cua đấy.”
· Khi chúng mình chỉ lo chuẩn bị lo trang hoàng cho căn nhà vật chất ở trần thế này cho thật đẹp, thật sang, thật lộng lẫy, thật nguy nga tráng lệ nhưng lại bỏ bê căn nhà linh hồn của bạn và tôi dơ dáy, bê bối, bẩn thỉu, rác rưởi, và tăm tối, u ám thì đích thị chúng mình là những người dại dột giống hệt năm cô trong bài Tin Mừng hôm nay.
· Khi bạn và tôi lý luận rằng cứ từ từ, để đến khi nào gần đến ngày về hưu, đi du lịch, ăn chơi cho đến khi hết xí quách rồi lúc đó sẽ lo đi xưng tội, rước lễ và tham dự thánh lễ mỗi ngày, sẽ lần hạt Mân Côi một ngày 3 chuỗi và sẽ yêu Chúa.. . cho đến khi con tim ngừng dập, khi thiên thu là một giây.. . thì coi chừng, khi đến trước tòa phán xét, Chúa sẽ nói thẳng vào mặt chúng mình: “Ta bảo thật, Ta không biết các ngươi là ai!”(Mt 25:12).
Hãy chuẩn bị sẵn sàng vì chúng mình không biết ngày nào Chúa gọi bạn và tôi ra trước tòa phán xét cả. Hãy chuẩn bị sẵn sàng bằng cách:
· Thường xuyên đến với tòa giải tội, lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa qua Bí Tích Giải Tội
· Thường xuyên tham dự Thánh Lễ, rước lễ, viếng Mình Thánh Chúa, tham dự những giờ Chầu Thánh Thể.
· Thường xuyên làm việc bác ái, giúp đỡ kẻ nghèo túng, an ủi người phiền muộn, đau khổ.
· Siêng năng cầu nguyện cho những linh hồn trong luyện tội: lần hạt Mân Côi, lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa
Bạn thân mến, mỗi lần tôi và bạn thực hành một trong những công việc trên là mỗi lần chúng mình tậu được một bình dầu sơ cua. Bạn muốn có nhiều dầu để dự trữ không? Bạn có muốn lâm vào tình trạng bối rối, lo lắng của những cô trinh nữ không chuẩn bị dầu đèn không? Tùy bạn!
phamtinh@yahoo.com
LM. Ansgar Phạm Tĩnh
Đối với mười cô trinh nữ, thì việc chàng rể sẽ đến là một xác tín mãnh liệt và hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và đợi chờ chàng rể tại một nơi đã được ấn định. Họ tin chắc chắn rằng chàng sẽ tới. Tin chắc đến độ không còn lo âu và băn khoăn trước sự chậm trễ của chàng. Họ đã thiếp đi và ngủ cả. Đó là dấu chỉ cho thấy tâm hồn họ thật bình thản. Còn đối với chúng ta thì sao?
Chúng ta cũng tin chắc chắn rằng Chúa sẽ đến. Tuy nhiên, đôi lần việc chờ đợi đã làm cho niềm tin ấy bị lu mời và phai nhạt. Ngài sẽ đến, nhưng xem ra mọi sự lại diễn ra một cách quá bình thường. Ngài sẽ đến, nhưng lại chẳng có dấu chỉ gì báo trước. Ngài sẽ đến, nhưng sao lại vẫn thinh lặng., một sự thinh lặng dễ sợ. Sự hao mòn của thời gian dễ dàng tàn phá lòng kiên nhẫn của chúng ta.
Những câu hỏi bắt đầu được đặt ra, rồi những nghi vấn được chen vào làm cho niềm xác tín bị lung lay. Thêm vào đó, những kiến thức hời hợt và nông cạn sẽ làm phut tắt ngọn đèn nội tâm của chúng ta và đặt trong chúng ta một tình trạng dửng dưng nào đó, bởi vì các biến cố đã được tiên báo xem ra thật đáng nghi ngờ. Bấy giờ, nếu thình lình xảy ra những tai ương hoạn nạn, thì sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi là hoàn toàn vô ích.
Chúa sẽ đến, đó là một điều chắc chắn và là một xác tín phải được củng cố trong suốt cuộc đời chúng ta. Đó không phải là một giả thuyết, nhưng là một thực tại hiển nhiên của tương lai. Và vì liên hệ tới tương lại, nên đó cũng chính là một viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chết phần xác của chúng ta. Ước gì niềm xác tín này làm cho cõi lòng chúng ta được tràn ngập an bình và tâm hồn chúng ta được hoàn toàn thanh thản.
Chúa sẽ đến và Ngài sẽ đến một cách bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười cô trinh nữ. Vào nửa đêm, có tiếng hô to:
- Kìa chàng rể đến.
Như thế, việc chuyển sang một ngày mới cũng là việc chuyển đổi từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà chúng ta đang nghe lúc này đây của thánh lễ. Đấy là như một dấu báo hiệu: Trước đó, nó đã cho thấy thật là phi lý nếu chúng ta tưởng rằng mình sẽ có đủ thời giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn bất chợt vang lên, hay như một con đường đi Đamas khiến cho Phaolô bị quật ngã, xem ra rất bình thường nhưng lại có tính cách quyết định cho số phận đời đời.
Cuộc viếng thăm trọng đại này sẽ áp đặt và mang đi tất cả, nhưng đồng thời cũng ban sự sống cho những gì phù hợp với nó và cho những ai đợi chờ nó.
Tuy nhiên, hăng hái trông mong và hăm hở đi đón mừng Chúa đến với một đức tin kiên vững mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, bằng cách tích lũy cho mình thật nhiều những việc lành phúc đức, thật nhiều những hành động bác ái yêu thương, thật nhiều những thái độ xả thân phục vụ những người hèn mọn chung quanh chúng ta. Chỉ một đời sống hoàn toàn dấn thân cho Chúa và cho anh em mới có thể rạng gnời như đèn sáng trong đêm tối trần gian và cho phép chúng ta được yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở cho chúng ta cánh của phòng tiệc của Ngài.
Dụ ngôn mười người trinh nữ mặc dầu rất phổ biến cũng là một trong những dụ ngôn khơi dậy nhiều biện giải thông thái nhất. Ở đây chúng ta giới hạn vào cách giải thích và vào một trong những suy tư rút từ truyền thống sống động của Giáo hội. Có phải Chúa dùng một việc thông thường làm căn bản cho dụ ngôn của Ngài hay không, một lễ cưới người ta có thể thấy luôn? Đúng, nhưng Ngài sắp đặt lại theo cách riêng để làm nổi bật điểm chính xác trong giáo huấn của Ngài: Mọi chi tiết trong dụ ngôn không tương ứng hẳn với cách cử hành các lễ người ta có thể thấy được, nhưng chúng được xếp đặt sao cho nổi bật sự cần thiết phải sẵn sàng để gặp gỡ Thiên Chúa. Bổn phận phải sẵn sàng có ý nghĩa gì và hậu quả ra sao?
1) Sẵn sàng có nghĩa là đã chuẩn bị đầy đủ. Nên lưu ý dụ ngôn không trách các cô đã ngủ, nhưng trách các cô đã không dự trù số dầu cho đủ. Các cô đã không chuẩn bị kỹ để ứng phó với tình thế. Áp dụng cho cuộc sống Kitô hữu, có thể nói việc chờ đợi Thiên Chúa (trong các ân huệ hàng ngày, hay khi Ngài đến ngày lâm tử) không đi đôi với sự chểnh mảng, nửa vời, đãng trí. Thiên Chúa luôn nhập bất thần vào cuộc đời chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta phải giữ lòng ngay luôn sẵn sàng tiếp đón Ngài. Người ta sẽ thiệt hại rất nhiều nếu thiếp ngủ quên đi 1 thiếu sót về bác ái, một lầm lỗi của lương tâm, một khiếm khuyết trung thành. Cụ thể điều này kêu gọi chúng ta hãy sống mỗi giây phút cuộc đời với quyết tâm hết sức chu toàn tất cả bổn phận.
2) Sẵn sàng có nghĩa là lãnh trách nhiệm lo toan chứ không cậy dựa vào kẻ khác. Các cô khờ dại chắc có lẽ đã nghĩ, nếu thiếu dầu sẽ nhờ bạn các giúp. Trên bình diện Giáo hội, chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau, vì tình liên đới nối kết chúng ta. Nhưng có một mức độ cá nhân ở đó chúng ta là những kẻ duy nhất mang trách nhiệm về mình. Không ai có thể sớt cho chúng ta đức tin, đức cậy và đức mến mà chúng ta đã lơ là như các cô khôn ngoan ở vào hoàn cảnh không thể chia số dầu đem theo, không ai ở trong Giáo hội có thể san sẻ tương quan cá nhân riêng với Thiên Chúa. Sự trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa có thể được nâng đỡ nhiều trong việc các thánh thông công, nhưng các thánh không thể bổ khuyết trách nhiệm riêng của chúng ta.
3) Hậu quả những cố gắng trung thành của chúng ta rất lớn lao. Câu kết luận dụ ngôn thật đáng sợ: thật Ta nói cho các ngươi hay, Ta không biết các ngươi. Người ta vui mừng vì các trinh nữ sẵn sàng được vào phòng tiệc bao nhiêu, người ta lại sợ vì các cô đến chậm bị loại bấy nhiêu. Như thế có một cái “quá trễ” đè nặng trên định mệnh nhân loại. Nó nằm ở chỗ nào? Đây là một mầu nhiệm bất khả thấu. Chúng ta biết lòng nhân lành Chúa khôn cùng và dung thứ tự do nhân loại đến những giai đoạn cuối tận, nhưng có một lúc mọi sự đều chấm dứt. Chuẩn bị cho giờ phút mà chúng ta không biết, chúng ta cần sắp đặt sẵn sàng để đón tiếp Thiên Chúa tức thời, nếu Ngài đến tức thời và để chờ đợi Ngài nếu Ngài để chúng ta chờ đợi. Thiên Chúa đóng cửa không nhận con người sau những thiếu sót có hiểu biết và cố ý nào, chúng ta không cần phải tưởng tượng ra. Nhưng sự thực phải khiến chúng ta suy nghĩ. Điều ấy có thực.
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Mt 25, 1-13: "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi !" Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi !" Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài ! mở cửa cho chúng tôi với !" Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả !" Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa?
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
(Mt 25,1-13)
Trong khi công bố bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vào cuối năm Phụng vụ và là Chúa Nhật thứ hai trong tháng Các Linh Hồn hôm nay, Giáo Hội đã đề cập đến tương lai của chúng ta, dĩ nhiên không phải đến những ngày những tháng sắp tới, nhưng là đến một tương lai tuyệt đối và vĩnh cửu, một tương lai vượt lên trên mọi phạm trù thời gian và không gian của thế giới này. Ðó là khoảnh khắc mà người ta còn gọi là «bên kia thế giới», là cuộc sống sau cái chết, là «cuộc sống dưới suối vàng», là thời «thế mạt»!
Thánh sử Mát-thêu ghi lại dụ ngôn Mười người trinh nữ này để muốn nhắc nhủ chúng ta phải lưu tâm đến giờ phút quyết định mang tính cách vĩnh viễn đó, khi Thiên Chúa hiện thực vương quyền tình yêu cũng sự công bằng của Người đối với nhân loại. Tiếp đến thánh nhân cũng muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống hiện tại, cuộc sống trần thế của chúng ta chỉ là một sự sửa soạn cho giờ phút quyết định đó, chỉ là thời gian chờ đợi và chuẩn bị; bởi vì không một ai có thể biết chính xác khi nào giờ sau hết của mình đã điểm, khi nào sự chết sẽ như là một cửa ngõ dẫn vào trong sự sung mãn đó sẽ xảy ra, khi nào thì thế giới này được thay thế bằng một thế giới tuyệt đối mới mẻ và hoàn hảo!
Trong bài Tin Mừng hôm nay, một hình ảnh về một đám cưới đã được vẽ ra trước mắt chúng ta. Có mười người trinh nữ chờ đón chú rể đã đến chậm hơn thời gian đã dự định. Và qua cách thức hành xử và thái độ sống của họ, các cô gái được chia làm hai nhóm khác nhau: Một nhóm gồm năm cô khôn ngoan, nhóm thứ hai còn lại gồm năm cô khờ dại.
Sự phê phán này khiến chúng ta phải suy nghĩ. Nó liên quan chặt chẽ với chủ ý của bản văn, tức lời kêu mời hãy tỉnh thức. Theo câu chuyện, tất cả các cô trinh nữ đều không đáng trách vì đã thiếp ngủ đi, lý do chàng rể đến chậm. Nhưng điều chính yếu mà các cô không thể thiếu được, đó là sự chuẩn bị. Các cô phải luôn sẵn sàng cho giây phút quyết định sắp xảy tới, phải trang bị đầy đủ cho cuộc tiếp rước chàng rể, cho bữa tiệc cưới!
Ở đây, xét theo ý nghĩa của sự đòi hỏi đó, thì một trong hai nhóm các cô trinh nữ rất đáng trách, vì các cô đã không có sự chuẩn bị chu đáo và đầy đủ trước. Thật ra các cô có sửa soạn, nhưng chỉ sửa soạn cách qua loa cho giây phút trước mắt, tức các cô cũng có thiện ý cầm đèn theo. Còn sự sửa soạn đầy đủ cho một thời gian chờ đợi lâu dài, thì các cô đã không làm, tức các cô mang đèn mà lại không mang theo dầu. Vì thế khi giây phút quan trọng có tính cách định đoạt tới, thì mọi chuyện lại quá trễ! Khi chàng rể tới mà các cô còn chạy đi mua dầu, thì đã quá muộn! Không còn kịp nữa!
Cũng vậy, trong đời sống đời thường, những ai vì khinh suất và lơ đễnh mà bỏ bê, chứ không lo hoàn thành công việc bổn phận của mình và rồi một lúc nào đó muốn tìm cách chuộc lại sự lầm lỗi và thiếu sót đã sai phạm, thì thường là không còn cơ may nữa, thì thường là mọi sự đã quá muộn mằn! Cửa đã được khóa chặt lại rồi! Họ sẽ không còn theo kịp đoàn rước bước vào phòng tiệc cưới, không còn kịp theo chân chàng rể để vào tham dự tiệc cưới và phải đứng ở ngoài; vâng, còn hơn thế nữa: Họ bị coi như những kẻ xa lạ!
Nhưng bây giờ dựa theo câu chuyện dụ ngôn, nhiều câu hỏi khác cũng được đặt ra cho chúng ta. Trước hết, theo tinh thần đức bác ái Kitô giáo của chúng ta, thì xem ra cách cư xử của năm cô trinh nữ khôn ngoan là thiếu độ lượng: Tại sao các cô lại không muốn san sẻ dầu với các cô khờ dại kia? Nhưng nếu đứng vào địa vị các cô gái khôn ngoan, chúng ta có thực sự dám liều và chia sớt dầu với các cô khờ dại kia không? Trong những trường hợp tương tự trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có dám làm khác hơn các cô không? Ðối với tác giả bài Tin Mừng, xem ra những câu hỏi đó không đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta quan sát và nhận thấy rằng câu chuyện chỉ muốn đưa ra một ví dụ, một dụ ngôn, để muốn nói lên một chủ đích là đối chiếu giữa sự dại khờ và sự khôn ngoan! Và điều đó mang đầy tính cách nghiêm trọng của nó! Ðúng vậy, những tiếng «cửa đóng lại» và «tôi không biết các cô là ai» đã muốn nhắn nhủ chúng ta: Ở đây vấn đề được đề cập tới là những quyết định có tính cách vĩnh viễn, là sự thể: Có được cùng với mọi khách mời vào tham dự tiệc cưới hay vĩnh viễn bị gạt ra ngoài!
Trong khi đó những cô trinh nữ khôn ngoan: Họ sửa soạn cho giây phút hiện tại, nhưng đồng thời còn lo lắng chuẩn bị đầy đủ cho mọi hoàn cảnh bất trắc có thể xảy ra, họ nghĩ tới cả tương lai lâu dài nữa: Họ mang đèn và mang cả dầu theo nữa! Họ ý thức được rằng tiệc cưới sau cùng sẽ được quyết định bởi giây phút hiện tại, và vì thế họ tổ chức cuộc sống của mình một cách tương xứng. Họ có thể được so sánh với người xây nhà trên nền đá vững chắc và với người đầy tớ tốt luôn tỉnh thức chờ đợi chủ mình trở về (x. Mt 24,45-51). «Dầu» mà họ mang theo cùng với đèn là muốn so sánh với thái độ sống nội tâm của họ, một thái độ sống luôn mang đầy hy vọng và tỉnh thức chờ đợi giờ phút chú rể tới.
Vậy, chúng ta hãy cố gắng chuẩn bị sẵn sàng và trở nên khôn ngoan. Tuy nhiên, bài tin Mừng hôm nay không hề đưa ra sự hướng dẫn tỉ mỉ phải chuẩn bị như thế nào – và thiết tưởng điều đó có lẽ cũng không cần thiết! Bởi vì mỗi người đã biết rõ khi nào và ở đâu trong cuộc sống, mình đã hành động một cách chủ quan và khờ dại; trong lúc nào và phải hành động thế nào mới đúng, mới khôn ngoan, nói cách khác: Khi nào và ở đâu cần phải hy vọng vào Thiên Chúa, cần phải chạy đến cùng Người? Ở đâu còn ngự trị sự ích kỷ - kể cả sự ích kỷ tập thể - chỉ tìm kiếm lợi ích riêng cho mình và chiếm đoạt quyền lợi chính đáng của kẻ khác một cách bất công?
Sự khác biệt giữa sự khờ dại và sự khôn ngoan còn được biểu lộ rõ ràng trong các lãnh vực khác của cuộc sống, trong toàn bộ các hành động cũng như trong các bê trễ của chúng ta. Giữa cuộc sống cho giây phút hiện tại và sự định hướng cho tương lai theo lời hứa của Ðức Giêsu, không còn có con đường nào khác ở giữa nữa! Vì thế, chúng ta phải chọn lựa và quyết định cũng như phải hành động cho cân xứng – trong những việc trọng đại cũng như trong những việc nhỏ bé tầm thường – và luôn canh tân đổi mới mãi cho tới khi chàng rể tới! Amen.
Lm Nguyễn Hữu Thy
Thành phố Côrinthô là một thành phố ăn chơi của người Hy Lạp. Thánh Phaolô đã từ Athen đến Côrinthô trong chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài. Ngài cư ngụ ở đó khoảng 18 tháng, vừa làm việc vừa giảng dạy cho họ. Sau khi rời họ, ngài đã nghe biết những chuyện không hay xảy ra giữa họ vì có những vị thầy hay tiên tri giả đã dạy họ những điều sai lầm và gây chia rẽ. Đồng thời cũng có những gương mù về luân lý nơi họ, nên ngài đã viết thư này cho họ từ Êphêxô vào khoảng năm 57 để nhắc lại các giáo huấn của ngài, để khuyên bảo và để cảnh cáo họ. Trong chương này Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Côrinthô rằng các Tông Đồ chỉ là những thừa tác viên của Đức Kitô và thi hành phận sự mà Chúa trao phó. Cho nên họ không có lý do gì để phải về phe Tông Đồ này hay Tông Đồ khác mà chia rễ nhau vì tất cả đều thuộc về Đức Kitô. Họ là thửa ruộng của Thiên Chúa, là tòa nhà của Thiên Chúa, chứ không phải của Apôllô, Phaolô hay Kêpha. Còn hơn một tòa nhà, họ là Đền Thờ của Thiên Chúa.
Câu 9b. anh em là toà nhà của Thiên Chúa.
Theo Giáo Lý vủa Hội Thánh Công Giáo thì “Hội Thánh cũng thường được gọi là ‘toà nhà của Thiên Chúa’” (1Cr 3: 9) (GLCG 755). Vì thế Thánh Phaolô gọi Hội Thánh tại Côrinthô là tòa nhà của Thiên Chúa chứ không phải của riêng Phaolô hay Apôllô. Vị kiến trúc sư đầu tiên của Hội Thánh là Thiên Chúa; và người thừa hành là các Tông Đồ như Thánh Phaolô và các nhà truyền giáo khác. Mỗi người trong chúng ta cũng vừa là những viên gạch xây Hội Thánh, đồng thời cũng là những ngôi nhà của Thiên Chúa.
Những ngôi nhà này không phải là những căn nhà cho thuê nhưng là nơi Thiên Chúa chiếm hữu và ngự trị như xưa kia ngài ngự trị nơi Hội Mạc hay Đền Thờ Giêrusalem.
Câu 10. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem coi mình xây lên thế nào?
Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi… Tuy là người thành lập ra nhiều cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, nhưng Thánh Phaolô không bao giờ cho đó là công sức của ngài, mà là nhờ ân sủng Thiên Chúa ban cho ngài. Ngài cũng muốn tất cà chúng ta ý thức điều này trong khi làm việc tông đồ: “Vậy Apôllô là gì? Phaolô là gì? Chỉ là những thừa tác viên mà qua họ anh em tin, theo khả năng Chúa ban cho mỗi người (chúng tôi). Tôi đã trồng, Apôllô đã tưới, nhưng Thiên Chúa đã làm cho lớn lên. Vì vậy, kẻ trồng hay người tưới không là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới quan trọng” (1 Cor 3: 5-7). Nếu tất cả những người phục vụ các cộng đồng và các giáo xứ hôm nay ý thức được điều này thì đâu có việc tranh nhau chức quyền, danh vọng; đâu có việc bè phái, chia rẽ và chống đối nhau.
… tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên... Chữ architekton của Hy Lạp cũng có thể được dịch là “một thợ xây chính” thay vì “một kiên trúc sư”, vì thế mà hầu hết các bản tiếng Anh dịch là “master builder”. Như đã nói ở trên, vị kiến trúc sư đầu tiên là Thiên Chúa. Các thừa tác viên của Ngài được ủy thác để xây Hội Thánh không những chỉ Hội Thánh hoàn vũ, hay Hội Thánh địa phương, nhưng cả Hội Thánh trong tâm hồn mỗi người. Thiên Chúa là Đấng vô hình, đã dùng con người để làm những việc hữu hình. Nhưng Ngài muốn chúng ta hợp tác với nhau, mỗi người làm một công tác khác nhau. Chỉ có những người kiêu ngạo mới nghĩ rằng mình có thể làm được tất cả mà không cần sư hợp tác của người khác.
Ở đây Thánh Phaolô nhận rằng ngài chỉ là người đặt nền móng mà thôi. Nhưng trong việc tông đồ, nền móng vững chắc là điều rất quan trọng. Không ai xây một căn nhà đồ sộ trước khi đặt nền móng cả. Thế mà có nhiều người chưa làm việc tông đồ, như dạy Giáo Lý chẳng hạn, được bao nhiêu đã mong thấy kết quả ngay. Khi không thấy kết quả thì chán nản, và muốn bỏ cuộc. Làm như thế là cậy vào sức mình chứ không thật sự cậy vào ân sủng Chúa. Làm như thế là muốn xây xong căn nhà trước khi đào móng, là xây nhà trên cát.
11. Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Đức Kitô.
Về phương diện Đức Tin, chúng ta chỉ có một nền tảng duy nhất là Đức Kitô. Chính vì Đức Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể, là Alpha và Ômega của tất cả mọi sự, nên Hội Thánh đã dành năm nay để chúng ta học hỏi về “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ Hội Thánh.” Nhiều người trong chúng ta khi nói đến Lời Chúa thì nghĩ ngay đến Sách Thánh Kinh. Thực ra, Thánh Kinh chỉ là những Lời Chúa được ghi thành văn tự. Lời Chúa còn lớn lao hơn Thánh Kinh nhiều vì Lời Chúa chính là Đức Kitô.
Hội Thánh hữu hình và Hội Thánh trong tâm hồn mỗi tín hữu phải được xây trên nền tảng là Đức Kitô, là nền tảng đã được chính Thiên Chúa xây dựng. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo viết:
“Chính Đức Kitô đã tự ví Người như viên đá mà các thợ xây nhà loại bỏ, nhưng đã trở nên viên đá góc tường (Mt 21,42) (x.Cv 4,11; 1Pr 2,7; Tv 118,22). Trên nền móng này, các tông đồ đã xây dựng Hội Thánh (1Cr 3, 11) và Hội Thánh được bền vững, liên kết nhờ nền móng đó. Toà nhà này còn được gọi bằng nhiều tên khác: Nhà Thiên Chúa (1Tm 3,15) nơi Gia đình Người cư ngụ, nơi Thiên Chúa cư ngụ trong Chúa Thánh Thần (Ep 2, 19-22); ‘Lều Tạm của Thiên Chúa giữa loài người’ (Kh 21,3) và nhất là Ðền Thánh, tiêu biểu bằng các đền thờ bằng đá, đã từng được các thánh Giáo phụ ca tụng, và được Phụng Vụ sánh ví rất đúng với Thành Thánh, thành Giêrusalem mới. Thật vậy, trong Hội Thánh tại thế, chúng ta là những viên đá sống động dùng vào việc xây cất (1Pr 2,5). Thánh Gioan đã chiêm ngưỡng Thành Thánh ấy từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống trong ngày canh tân vũ trụ, "sẵn sàng như hôn thê trang điểm để đón tân lang mình" (Kh 21,1-2) (GLCG 755).
Muốn cho căn nhà Hội Thánh cũng như căn nhà tâm hồn của mỗi tín hữu được vững chắc thì phải xây trên nền tảng Đức Tin vào Đức Kitô, là Đấng Cứu độ chúng ta. Đức tin ấy phải được thể hiện qua đức ái. Vì “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” (Gia 2:17). Hơn nữa, đặc tính của nền móng là phải được đào sâu và phải được chôn vùi. Nếu muốn Đức Kitô làm nền móng của đời mình, của cộng đoàn mình, thì chúng ta cũng cần phải đào sâu về Đức Kitô, nghĩa là phải hiểu biết Người để yêu mến Người một ngày một hơn, phải kết hợp mật thiết với Người. Đồng thời cũng để cho Lời Người thấm nhuần mọi bình diện của đời sống chúng ta. Nếu đời sống Đức Tin không có chiều sâu là chúng ta xây nhà trên nền không vững chắc. Như thế rất khó mà đứng vững trước những phong ba thử thách trên đời.
Một đặc tính quan trọng thứ nhì của nền móng là phải xây nhà theo hình thể của nền nhà. Căn nhà phải được đặt hoàn toàn trên nền, phải có hình dạng của nền. Nếu nền móng của cuộc đời chúng ta là Đức Kitô thì chúng ta cũng phải trở nên đồng hình đồng dạng với Người, là sơ đồ được vẽ trên nền. Xây cuộc đời hay cộng đoàn chúng ta khác hình thể của nền, hoặc xây ngoài nền, thì ngôi nhà thiêng liêng của chúng ta chẳng sớm thì muộn cũng sẽ xụp đổ.
Câu 16. Anh em không biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?
Anh em không biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa… Sau khi đã nói về những thợ xây được Thiên Chúa dùng để xây ngôi nhà thiêng liêng, Thánh Phaolô nói đến nhiệm vụ của mọi người là những Đền Thờ sống động của Thiên Chúa. Mỗi người là Đền Thờ của Thiên Chúa, là nơi Thiên Chúa ngự. Không những chỉ linh hồn mà cả thân xác chúng ta cũng là Đền Thờ: “Anh em không biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ Chúa Thánh Thần, Ðấng đang ngự trong anh em, là Ðấng anh em nhận được từ Thiên Chúa sao? Như thế, anh em không còn thuộc về mình nữa, vì anh em đã được mua bằng một giá đắt; cho nên anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cor 6:19-20). Vì thế chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn ngôi Đền Thờ này trong một Đức Tin tinh tuyền và một đời sống luân lý trong sạch. Tránh xa những tông đồ giả là những người dạy những giáo thuyết sai lầm. Bao lâu chúng ta sống trong ân nghĩa Chúa, tức là không mắc tội trọng, bấy lâu Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta.
Thánh Cyprianô nói: “Chúng ta hãy chứng tỏ bằng đời sống của mình rằng mình là Đền Thờ Thiên Chúa, để mọi người thấy Thiên Chúa ngự trong chúng ta, ngõ hầu chúng ta là những người bắt đầu thuộc về Thiên Quốc và Thần Khí, sẽ không nghĩ và làm gì ngoài những việc thuộc về Thiên Quốc và Thần Khí” (de Orat. Domin.).
Sách Giáo Lý Công Giáo viết:
“’Tinh thần hay linh hồn tương quan với chi thể thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng như thế đối với các chi thể của Ðức Kitô, với Thân thể Người, là Hội Thánh’ (T.Âu-tinh, Sermo 267,4). ‘Chính nhờ Thánh Thần của Ðức Kitô, như một nguyên lý tiềm ẩn, mà tất cả các phần của Thân Thể được nối kết với nhau cũng như với Ðầu, vì Người hiện diện trọn vẹn nơi Ðầu, trọn vẹn nơi Thân thể, trọn vẹn nơi mỗi một chi thể’ (x. Piô XII, Thông điêp Thánh Thể; DS 3808). Chúa Thánh Thần làm cho Hội Thánh trở nên ‘Ðền Thờ của Thiên Chúa hằng sống’ (2 Cr 6:16) (x. 1Cr 3:16-17; Ep 2:21)” (GLCG 797).
Theo Thánh Bernađô thì một linh hồn được cung hiến giống như một Đền Thờ của Thiên Chúa. Ngài nói rằng có năm điều được thấy trong một buổi lễ cung hiến là rẩy nước thánh, làm dấu Thánh Giá, xức dầu, nến sáng, và phép lành. Và cả năm điều này đều xảy ra trong việc cung hiến linh hồn cho Thiên Chúa (x. Sermo 1 de Dedic. Eccl.) trong ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy.
17. Nếu ai xúc phạm tới Đền Thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì Đền Thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là Đền Thờ ấy.
Nếu ai xúc phạm tới Đền Thờ của Thiên Chúa… Có nhiều cách để xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa. Như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, người Do Thái đã biến Đền Thờ thành nơi buôn bán. Và Chúa Giêsu đã nổi giận đến nỗi Người phải lấy dây thắt thành roi để đánh đuởi họ và lật đổ bàn ghế của họ. Ngày nay có nhiều nơi cũng dùng Thánh Đường để buôn thần bán thánh, nhưng cách xúc phạm thông thường nhất là phạm đến Đền Thờ trong tâm hồn và thân xác của mỗi người và của tha nhân.
Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng thân xác anh em là chi thể của Đức Kitô sao? Tôi sẽ lấy chi thể của Đức Kitô mà làm nó thành chi thể của một gái điếm sao? Không đời nào! Anh em không biết rằng ăn ở với một gái điếm là nên một thân xác với cô ta sao? Vì có lời rằng ‘cả hai sẽ nên một thân xác’ Nhưng ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần” (1 Cor 6:15-17), vì thân xác chúng ta là chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô, là Hội Thánh, là Đền Thờ của Thiên Chúa, nên khi chúng ta làm ô uế thân xác mình là chúng ta xúc phạm đến Đền Thờ Thiên Chúa. Tương tự, thân xác người khác cũng là Đền Thờ của Thiên Chúa, và xúc phạm đến thân xác họ là xúc phạm đến Đền Thờ Thiên Chúa.
Phá thai cũng là một hình thức xúc phạm nặng nề đến Đền Thờ Thiên Chúa. Không những xúc phạm, mà còn phá hủy những Đền Thờ nhỏ bé của Thiên Chúa, tước quyền Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên các thai nhi ấy theo hình ảnh của Ngài và đã truyền chính hơi thở của Ngài vào chúng.
Nhân danh Thiên Chúa mà kéo bẻ, kéo phái, mà tranh chấp, cãi cọ, xỉ nhục nhau cũng là xúc phạm đến Đền Thờ Thiên Chúa. Làm như thế là chúng ta không sống theo Thánh Thần mà theo xác thịt: “Bao lâu còn ghen tương và tranh chấp giữa anh em, thì anh em không phải là còn đang sống theo tính xác thịt, và cư xử như những người tầm thường sao? Vì khi người này nói, “Tôi là người của ông Phaolô”, và người khác, “Tôi là người của ông Apôllô”, thì anh em không chỉ là người phàm sao?” (1 Cor 3:3-4).
Linh hồn cũng là Đền Thờ Thiên Chúa. Chúng ta xúc phạm đến Đền Thờ này bằng cách xúi dục người khác phạm tội, làm dịp cho người khác phạm tội, làm gương mù cho người khác, nhất là trẻ em (x. Mt 18:6; Mc 9:42; Lc 17:2), hay làm lơ không nhắc nhở khi mình có trách nhiệm. Có nhiều người nghĩ rằng mình không làm hại ai là đủ rồi. Thật ra những người có trách nhiêm giáo dục và hướng dẫn người khác, như các linh mục, các phụ huynh, các thầy cô… mà lơ là bổn phận của mình, cũng là xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa vì mình không chu toàn bổn phận bảo trì và xây dựng những ngôi Đền Thờ mà Thiên Chúa đã trao cho mình.
Ngoài ra, Thánh Phaolô cũng có ý nói đến những người rao truyền những lạc thuyết trong dân làm cho họ xa lìa những giáo huấn chân chính. Nhiều khi chúng ta không có ý giảng dạy sai lầm, nhưng vì không chịu học hỏi, hoặc vì dạy theo ý mình chứ không theo giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta cũng trở thành những người rao truyền lạc thuyết. Cho nên, những ai dạy Giáo Lý phải luôn luôn tâm niệm như Đức Kitô rằng: “Giáo huấn của Tôi không phải là của chính Tôi, nhưng là của Ðấng đã sai Tôi…. Ai giảng dạy theo ý mình, thì tìm vinh quang cho chính mình. Nhưng ai tìm vinh quang cho Ðấng đã sai mình, người đó là người chân thật, và nơi người đó không có điều gì gian dối” (Ga 7:16-19).
Kết Luận
Chúng ta là Đền Thờ của Thiên Chúa. Từ Đền Thờ đó, Thiên Chúa cho chảy ra Nước Hằng Sống để tẩy rửa, chữa lành và nuôi sống thế gian làm cho nó nên trong sạch. Chúng ta chính là những dòng nước ấy. Sau mỗi lần đến Bàn Tiệc Thánh, Thiên Chúa không giữ chúng ta mãi ở trong Đền Thờ, nhưng sai chúng ta vào thế gian để làm những tác nhân của Ngài mà thánh hóa thế gian, như những dòng nước mà ngôn sứ Êdêkiên nói trong Bài Đọc I. Cách sống thường nhật của chúng ta có thực sự góp phần vào việc canh tân bộ mặt trái đất của Chúa Thánh Thần không? Hay là chúng ta để cho dòng nước tinh tuyền mà Chúa trao cho chúng ta bị thế gian làm cho ra vẩn đục và ô nhiễm?
Lạy Chúa xin cho con luôn ý thức rẳng tất cả những việc tốt lành con làm được là nhờ hồng ân Chúa, là nhờ Chúa Thánh Thần đang ở cùng con, như ở trong Đền Thờ của Chúa. Xin cho con biết kính trọng chính bản thân con và kính trọng những người khác như kính trọng chính Thân Thể Chúa, vì tất cả chúng con đều là Đền Thờ của Chúa. Amen.
Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận
Hiện nay nền móng của đời bạn là gì?
Cách nào là cách tốt nhất để xây một nền móng cho đời bạn?
Thánh Phaolô nói với tín hữu thành Côrinthô rằng họ là Đền Thờ Thiên Chúa. Những gì đang xảy ra trong Giáo Xứ hay cộng đoàn của bạn cho thấy đó là Đền Thờ Thiên Chúa?
Có những điều gì bạn có thể kể ra để chứng minh rằng Chúa Thánh Thần đang ngự trong bạn?
Kể ra những trường hợp trong quá khư mà bạn hay cộng đoàn, giáo xứ, hoặc đoàn thể của bạn xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa. Bạn quyết tâm làm gì để sửa lại những xúc phạm ấy?
Phaolô Phạm Xuân Khôi