Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 31 TN-A Bài 1-50: Đừng làm theo hành động của họ
------------------------------------------
TIN MỪNG: Mt 23,1-12
(1) Bấy giờ, Đức Giê-su nói với đám đông và các môn đệ Nguời rằng: (2) “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. (3) Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. (4) Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. (5) Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. (6) Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, (7) ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (8) Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. (9) Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. (10) Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. (11) Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. (12) Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
------------------------------------------
Mục Lục:
TN31-A1. Trong hội thánh, chức vụ là để phục vụ, theo gương Đức Giêsu tôi tớ. 2
TN31-A2. TINH THẦN KHIÊM NHƯỢNG.. 7
TN31-A3. Suy Niệm của Trọng Hương. 8
TN31-A4. TRÁCH KẺ GIẢ HÌNH.. 10
TN31-A5. Chúa là trung tâm đời sống - Lm. Augustine, SJ. 13
TN31-A6. CHỈ CÓ MỘT CHA - Lm. VIKINI 17
TN31-A7. SỐNG LỜI CHÚA - NÓI VÀ LÀM... 19
TN31-A8. NTĐY/157- SỐNG CHÂN TÌNH.. 21
TN31-A9. CS / 148- THAM VỌNG.. 22
TN31-A10. STM/225- BIỆT PHÁI GIẢ HÌNH.. 24
TN31-A11. CSTM/254- KHIÊM NHƯỜNG.. 25
TN31-A12. PV / 622- NÓI VÀ LÀM... 27
TN31-A13. PV / 625- SAO LÃNG.. 29
TN31-A14. PV / 628- SOI GƯƠNG.. 31
TN31-A15. SCĐ / 539- VINH QUANG.. 33
TN31-A16. Suy Niệm của Lm Augustine S.J. 34
TN31-A17. Thế Nào là Sống Đạo Đích Thực - Sr. Margareta Maria Hiền. 37
TN31-A18. PHỤC VỤ THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU.. 38
TN31-A19. Các Kinh Sư và Pharisiêu Giả Hình – JKN.. 40
TN31-A20. Là Anh Em Với Nhau. 43
TN31-A21. Chỉ Có Một Thầy, Một Vị Chỉ Đạo: Đức Giêsu Kitô. 45
TN31-A22. Chớ Giả Hình, Kiêu Ngạo - Br Vincent Quốc Thanh, CMC.. 47
TN31-A23. Phục Vụ Trong Khiêm Tốn - Lm. John Trần Khả. 48
TN31-A24. HỌ NÓI MÀ KHÔNG LÀM - Huyền Đồng. 53
TN31-A25. SLC – Đạo đức thật và đạo đức giả. 55
TN31-A26. SLCTTY/345 – Đầy tớ. 57
TN31-A27. SLCTTY/345 – Đầy tớ. 59
TN31-A28. CSTM/229 – Đóng kịch. 61
TN31-A29. Điểm "A" cho sự cố gắng! 62
TN31-A30. Dậy bảo. 64
TN31-A31. Tinh thần & phong cách sống và lãnh đạo trong hội thánh. 67
TN31-A32. LINH MỤC LÀ CHA ?. 70
TN31-A33. Tư tưởng, lời nói, hành động cần ăn khớp tư tưởng, lời nói, hành động cần ăn khớp. 72
TN31-A34. Hãy làm những “cánh rừng đang mọc”. 75
TN31-A35. SỐNG CHÂN THÀNH.. 80
TN31-A36. THÙNG RỖNG KÊU TO ! 82
TN31-A37. Khiêm nhường. 84
TN31-A38. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 86
TN31-A39. Lúc này đây, ngài có phải là anh em của tôi không?. 88
TN31-A40. Hãy dâng cho Thiên Chúa chỗ nhất và không để cho một người nào khác. 89
TN31-A41. LÀ ANH EM VỚI NHAU.. 91
TN31-A42. HÃY BƯỚC XUỐNG ! ĐỪNG ĐỂ BỊ HẠ XUỐNG ! 93
TN31-A43. THẦN TƯỢNG.. 96
TN31-A44. HỒN KHẲNG KHIU KHÁT CHỜ TRĂNG MỞ HỘI…... 98
TN31-A45. Khiêm nhường. 101
TN31-A46. Thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái – Achille Degeest. 103
TN31-A47. Hãy sống trong sự thật 104
TN31-A48. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà. 106
TN31-A49. Chú giải của Noel Quesson. 109
TN31-A50. Thói giả hình và khoe khoang của ký lục và biệt phái 113
------------------------------------------
I. VÀI ĐIỂM GHI CHÚ:
1. Thi hành chức vụ....
Thay vì làm cho những đối thủ của Đức Giêsu im tiếng, ba dụ ngôn về ngày chung thẩm mà chúng ta: TN31-A1
Thay vì làm cho những đối thủ của Đức Giêsu im tiếng, ba dụ ngôn về ngày chung thẩm mà chúng ta đã suy niệm trong các ngày Chúa nhật thứ 26,27 và 28, lại làm nổ ra một loạt những tranh luận, trong đó bọn họ bắt tay nhau và thay phiên nhau giăng những cạm bẫy hòng để Đức Giêsu mắc vào.
- Trước hết, trong Phúc Âm Chúa nhật thứ 29, là mưu mô của “môn đệ nhóm Biệt phái và những người thuộc phe Hêrôđê": “Có nên nộp thuế cho hoàng đế hay không?”. Họ nêu lên câu hỏi, chắc ăn là sẽ bắt được con mồi.
Nhưng Đức Giêsu chẳng dại gì để mình rơi vào thế lưỡng nan, Người chuyển hướng vấn đề, và dựa vào hình khắc trên đồng tiền người ta trao cho, Đức Giêsu tuyên bố: “Hãy trả cho César những gì thuộc về César, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Một câu trả lời làm cho những kẻ hạch hỏi phải im tiếng: “Mọi người đều sửng sốt và rút lui”.
- Thứ đến, một đoạn không có trong bài đọc năm A, là thủ đoạn của những người thuộc phái Sadducée, “những kẻ không tin có sự sống lại”. Bằng câu chuyện tưởng tượng về một người đàn bà với bảy đời chồng, họ nắm chắc phen này sẽ giễu cợt được Đức Giêsu và niềm tin vào sự sống lại. Nhưng Đức Giêsu bắt họ phải quay về với mặc khải của Thiên Chúa trong câu chuyện bụi gai bốc lửa trong sách Xuất Hành, chương 3: Người là Đấng tự xưng mình là “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob, không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là Thiên Chúa của người sống”.
- Nghe tin Đức Giêsu đã “khoá miệng những người Sadducée”, các ông Biệt Phái lại tấn công Chúa. Lần này họ kéo đến cả nhóm: “Thưa Thầy - một người trong bọn họ, một tiến sĩ luật, lên tiếng vặn hỏi Chúa - điều răn nào là điều quan trọng nhất?”.
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách liên kết chặt chẽ hai giới luật mến Chúa và yêu người. Người kết luật: “Tất cả Sách Thánh, gồm Lề Luật và các Ngôn sứ, đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”.
Các đối thủ của Chúa, sau khi đã ê chề với kết cục của ba cuộc tranh luận, “không còn dám hạch hỏi Chúa điều gì nữa”. Đức Giêsu đã lật ngược thế cờ, chính những kẻ giăng bẫy để kết tội Chúa nay lại bị Người vạch tội. Người không hề có ý xem thường quyền bính của những bậc “ngự toà Môsê” và nắm giữ nhiệm vụ giải thích Lề Luật, nhưng chỉ muốn vạch trần cho họ thấy sự bất nhất giữa cái nói (giáo huấn) và cái làm của họ: “Họ chỉ biết nói mà không làm”.
- Lợi dụng quyền giải thích Luật của Môsê, họ chất trên vai kẻ khác những gánh nặng mà bản thân họ không hề đụng vào. Hoàn toàn trái ngược với Đức Giêsu, Người “chu toàn” Lề Luật, nhưng lại tỏ ra dịu dàng, ân cần đối với những ai phải mang gánh nặng nề (Mt 11,28-30).
- Cho mình là mẫu mực của thiên hạ - có thể họ chân thành nghĩ thế - “họ luôn làm mọi việc tốt để cho mọi người thấy”. Họ lo tô điểm cái vỏ bên ngoài - vỏ đạo đức, vỏ địa vị xã hội - hơn là làm sao để lời nói và việc làm của mình đi đôi với nhau.
* “Hộp kinh": Đó là những túi da đựng những đoạn Kinh Thánh mà mọi người Do Thái đạo đức thời đó cũng như nay thường mang trên cánh tay trái và trên trán của mình mỗi lần cầu nguyện. Vì sợ người ta thấy không rõ, nên họ đã nới những hộp kinh này ra quá khổ.
* “Tua áo": Đó là những chùm len may ở bốn góc của áo ngoài mà những người Do Thái ngoan đạo thời đó, cũng như Đức Giêsu, đã mang và ngày nay cũng thế, để thường xuyên nhớ đến các giới răn của Chúa. Những tua áo ấy cũng có kích thước quá phô trương.
* Danh vọng, địa vị là những thứ họ đặc biệt thèm khát: “Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là Rápbi”.
2. ... Để phục vụ theo gương Chúa Giêsu:
Khi viết Phúc Âm, vị thánh sử muốn kể lại những câu chuyện về Đức Giêsu, bằng cách thời sự hoá chúng lại cho các cộng đoàn Kitô hữu hôm nay đang sống trong những năm 80. Những cộng đoàn ấy đang gặp chống đối và bách hại từ phía Hội đường Do Thái. Những cộng đoàn ấy đang có nguy cơ bị lây nhiễm vi rút Biệt phái, và một số người có trách nhiệm trong đó đang tỏ ra cho thấy một thứ tinh thần kẻ cả rỗng tuếch.
Thánh Matthêu cũng thế, sau khi đã gom góp những lời của Đức Giêsu nói với các luật sĩ và biệt phái giả hình ("họ"), ông liền thuật lại những điều Chúa dạy nhằm xác định đâu là những nét đặc thù của việc thi hành quyền bính trong cộng đoàn “các môn đệ” của Người. Đó là:
* Tình huynh đệ: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau”. “Anh em” là từ thông dụng nhất xuyên suốt cả Tân Ước, để gọi thành viên của cộng đoàn Kitô hữu, nghĩa là của gia đình Hội Thánh. Do đó phải dứt khoát loại trừ tính kẻ cả, tinh thần tự mãn, làm cho những ai đang thi hành một tác vụ hay một chức năng trong Hội Thánh quên đi họ cũng chỉ là một người anh em giữa các anh em của mình.
* Lòng đơn sơ: “Anh em chỉ có một Vị Thầy là Đức Kitô... anh em chỉ có một Cha, Đấng đang ngự trên trời”. Những danh xưng mà người ta có thể dành cho những vị có trách nhiệm trong cộng đoàn Hội Thánh, không bao giờ được phép che khuất tính cách là con một Cha duy nhất mà người Kitô hữu tuyên xưng. “Tư cách của các vị lãnh đạo trong Hội Thánh bắt buộc phải là một hiện diện phục vụ, và hoàn toàn là một phản ánh trong suốt về Đấng Duy Nhất ("Assemblées du Seigneur, số 62, trang 31).
* Tinh thần phục vụ: “Người lớn nhất trong anh em, phải là người phục vụ”. Mọi chức vụ trong Hội Thánh từ nay đều phải được thi hành theo gơưng Đức Giêsu, là Thầy và là Chúa, nhưng lại “hạ mình xuống” và làm đầy tớ phục vụ các anh em của Người (cf. Rửa chân các môn đệ).
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Một trách nhiệm phục vụ” (L.Daloz, trong “Le règne de Dieu s'est approché”, Centurion, trang 315).
Đức Giêsu khiển trách những người Luật sĩ và Biệt phái vì họ tự cho mình hơn kẻ khác, và muốn tỏ mình ra hơn kẻ khác: họ nới rộng hộp kinh, nối dài tua áo, nghĩa là họ muốn những thứ đó của họ phải nổi bật hơn của người... Họ muốn khoe mình đạo đức, sốt sắng với Chúa và với Lề Luật hơn; Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi giữa nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi”... Lời mô tả của Đức Giêsu thật rõ ràng, dễ sợ, không bỏ qua điều gì! Ngược lại, chúng ta hãy nghe những gì Người căn dặn các môn đệ: đừng đễ ai gọi mình là “rápbi”, đừng gọi ai dưới đất là cha, đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo. Ở đây cũng thế: tất cả đều rõ ràng! Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu theo nghĩa sát mặt chữ: nếu như thế lại phải thêm dài dài không biết bao nhiêu danh xưng khác nữa mới đủ! Tuy vậy, điều rất quan trọng các môn đệ của Đức Giêsu không bao giờ được quên, là đừng để mối tương quan giữa họ với nhau rập khuôn theo kiểu tương quan của xã hội họ đang sống. Cách con người liên hệ với Thiên Chúa luôn ảnh hưởng tới tính chất của mối liên hệ giữa người với nhau. Nó cho thấy rằng mọi địa vị của con người, mọi chức vụ trong xã hội và cả trong gia đình, mọi trách nhiệm... đều phải ở trong thế lệ thuộc với một Đấng vừa là Tạo Hoá vừa là Cha của mọi người. Và không một thứ quyền bính nào có giá trị nếu không qui chiều về Người: Thử hỏi nhân danh cái gì một con người tự cho mình ở bên trên một con người khác, cũng mang hình ảnh Thiên Chúa như mình, đòi kẻ đó phải phục vụ và vâng lời mình? Bởi chỉ có một Thầy, một Cha, và một Người Chỉ Đạo duy nhất! Và do việc chúng ta chỉ có Thiên Chúa là Cha, nên tất cả loài người chúng ta đều bình đẳng như nhau trong cùng một nhà: “tất cả anh em đều là anh em với nhau!”. Quyền bính, chức cả, đều chỉ là những trách nhiệm phục vụ. Chỉ trong phục vụ, chúng mới có lý do tồn tại: “Kẻ làm lớn trong anh em sẽ là người phục vụ”. Chúng chỉ có thể là những danh hiệu của tình yêu, là ánh phản chiếu chính uy quyền và sự cao cả của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã cho thấy rõ điều đó khi Người hạ mình xuống làm người đầy tớ đau khổ và vâng phục. Mẫu gương đó của Chúa đã từ nay trở nên qui luật cho mối tương quan giữa các môn đệ với nhau: “ai treo mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
2. “Ở bên các gia đình đang gặp tang chế: một sứ mạng của Hội Thánh, một phục vụ huynh đệ”. (do một nhóm thành viên cộng tác thuộc giáo phận về mục vụ bí tích và phụng vụ của vùng truyền giáo phía Tây, trong “Vers la lumière” (CRER, Angers).
- “Ai có trách nhiệm?”
“Tất cả mọi người thuộc cộng đoàn Dân Chúa đều phải ý thức trách nhiệm của mình trong việc cử hành an táng. Tất cả không cùng một danh nghĩa như nhau, nhưng mỗi người có phần mình tuỳ hoàn cảnh và tuỳ chức vụ của mình (...). Cả cộng đoàn nói chung cũng có vai trò của nó” ("Nouveau rituel des funérailles”, Desclée Mame, N.5).
Cả cộng đoàn được mời gọi làm chứng về niềm hy vọng và niềm tin của mình vào sự phục sinh. Vấn đề không phải là tìm cách đưa người giáo dân thế chỗ của linh mục, nhưng làm sao để họ hợp tác vào việc trình bày một Hội Thánh tôi tớ.
- Hai thái độ phải có:
1. Một hiện diện huynh đệ:
Khi có người qua đời trong khu xóm, trường học, thôn làng, nhà máy... của mình, chẳng lẽ người Kitô hữu chúng ta không biết đến hiện diện, một cách thực tế, và đầy kính trọng sao? Mối liên hệ đơn sơ giữa người với người, sự quan tâm chân thành đến người khác, có khả năng làm dịu đi nỗi đau thương của cái chết. Đến đó, hiện diện và thinh lặng bên những con người đang đau khổ. Lắng nghe tiếng thở than, mỗi tức tưởi sự câm nín của họ. Đây không phải là lúc để diễn thuyết hay dạy đời, nhưng là cơ hội để hiệp thông và đồng cảm, theo nghĩa trọn vẹn của nó.
2. Một chứng tá:
Sự hiện diện như thế sẽ làm sáng tỏ giá trị của mọi cuộc sống, và làm chứng về sự trân trọng của Hội Thánh đối với tất cả những gì làm nên lịch sử của một đời người.
- Những vai trò khác nhau:
Tình trạng giảm sút số linh mục, sự nhìn nhận chỗ đứng của những người đã chịu phép thanh tẩy, ý thức về tính cộng đoàn trong mục vụ tang lễ, mời gọi mọi phần tử trong cộng đoàn Kitô hữu phải làm tròn nhiều vai trò khác nhau... Trước khi cử hành (...) đang lúc cử hành (...) sau cử hành (...).
Sự ra đi của một người thân, một người bà con, một người hàng xóm hay một người bạn luôn là một biến cố đau thương. Người Kitô hữu trong cùng khu xóm đó không được phép tỏ ra hờ hững. Công tác mục vụ an táng của Hội Thánh là một yếu tố quan trọng cho việc loan báo Tin Mừng hôm nay. Tham dự vào lễ nghi an táng không phải là chuyện chẳng đặng đừng ở đời, nó là một phần của ơn gọi của những ai đã lãnh nhận phép Thanh Tẩy. Do đó khi ở bên những tang gia trong lúc bối rối, các Kitô hữu đang thi hành sứ mạng của họ trong Hội Thánh. Có lẽ cần khẩn trương lên một kế hoạch đào tạo và thông tin cho các cộng đoàn Kitô hữu, sao để hình thành được những nhóm phụ trách tang lễ”.
----------------------------------
“Ai trong các ngươi có quyền thế hơn…”
Các bài phục vụ hôm nay hướng về các nhà lãnh đạo dân Chúa, cách riêng những người có trách: TN31-A2
Các bài phục vụ hôm nay hướng về các nhà lãnh đạo dân Chúa, cách riêng những người có trách nhiệm tinh thần và đạo giáo. Trước hết, Tiên tri Malachia sống ở Giêrusalem vào khoảng năm -500 và -450, nhìn thấy cảnh sa sút của dân chúng, sau những ngày phấn khởi và sốt sắng khi toàn dân vừa mới được Thiên Chúa cho thoát khỏi cảnh lưu đày (-538). Nhà Tiên tri đổ trách nhiệm cho các Thầy Cả: “Chúa phán: vì các ngươi đã không tuân giữ đường lối của Ta và vị nể trong khi thi hành lề luật, dân chúng đã phản bội giao ước của các Tổ phụ”. Nhà Tiên tri nhắc lại rằng dân chúng phải luôn luôn được dạy dỗ và thánh hóa- ngày nay chúng ta nói phải rao giảng Tin Mừng và thánh hóa bằng Bí tích, phải được huần luyện và đổi mới. Đó là bổ phận của các Thầy Cả, phải chăng lời kêu gọc của các Tiên tri còn vang vọng qua các thời đại cho đến hôm nay, chứ không phải chỉ trong quá khứ?
Qua Thánh Thư gửi giáo đoàn Thesalonica. Thánh Phaolô mô tả chân dung nhà lãnh đạo tinh thần trong đạo mới chính Ngài là điển hình, là gương mẫu. Cốt lõi của nhiệm vụ, ấy là lương tâm trach nhiệm về quyền năng tư thế mà Chúa trao phó. Ngài biết ai đã sai phái Ngài đi và đi đến với ai. Ngài là Tông đồ của Chúa. Sứ mạng ấy là một đặc ân Chúa ban cho Ngài và cho toàn dân chúng, ân soi sáng, ân sức mạnh, ân Tình yêu. Ngài tự xử như người vú nuôi nâng niu con cái. Người Tông đồ trao phó Tin Mừng và cả mạng sống, làm việc ngày đếm để Lời Chúa hoạt động trong cộng đoàn. Đó là gương sáng mà Thánh Tông đồ phác họa cho người Tông đồ của Chúa ngày nay.
Thánh Matthêô khai mạc cuộc đời công khai của Chúa bằng bài giảng trên núi (5-7) và kết thúc, trước tuần chịu nạn bằng một cáo trạng gắt gao thẳng nhặt nhắm vào quyền bính tôn giáo của Đạo Do Thái. Họ đã từ chối Chúa Giêsu, họ đã trục xuết khỏi hội đường những ai tin vào Chúa. Họ đã giữ nét chữ của lề luật nhưng coi nhẹ tinh thần của lề luật. Họ “nói nhưng họ không làm”. Trước thái độ giả hình kiêu ngạo đó, Chúa Giêsu không chịu được. Như những nhà Tiên tri Amos, Isaia, Joel và Malachia, Chúa đã lớn tiếng lên án những nhà lãnh đạo Pharisiêu ấy. “Họ chỉ nói nhưng không làm”, họ chỉ muốn kềm chế, khoe khoang, ăn trên ngồi trước. “Họ đặt lên vai kẻ khác những bó nặng, nhưng chính họ lại không màng giơ tay lay thử. Họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, muốn được gọi bằng Thầy”.
Đọc lại bài Phúc Âm này, chúng ta Giám mục, Linh mục, giáo dân, hãy lặng tâm suy nghĩ, những lời Chúa phán trước Pharisiêu, ký lục thời xưa phải có tiếng vọng đến ngày nay. Pharisiêu không còn nhưng tinh thần oharisiêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua thời đại phải nhìn nhận rằng những sự khoe khoang lòe loẹt trần tục đã đi vào trong hàng ngũ, những chức tước, thẻ kinh, tua áo cũng làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một Giáo Hội nghèo của người nghèo. Công đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều điều phù phiếm đó. Trong Công Đồng, một nhà quan sát viên cho biết: Có hai Giám mục của xứ nghèo đã đeo ở tay những chiếc nhẫn vàng to tướng! Đức Phaolô VI đã nêu gương và biếu mỗi nghị phụ một chiếc nhẫn đơn sơ và một số các nghị phụ đã quyết định thay thế cây Thánh giá vàng bằng một cây Thánh giá gỗ.
Tinh thần mà Chúa dạy qua bài cáo trạng là tinh thần khiêm nhượng của những người chỉ đạo. “Ai trong các ngươi có quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Đó là điều Chúa căn dặn tất cả chúng ta, cách riêng những ai “ngồi trên tòa Môi se” hướng dẫn kẻ khác.
Đức Cha Topel (1903-1986) là một Giám mục khiêm nhường thánh thiện. Giáo dân thường chào Ngài: Father Bishop. Ngài bàn tòa Giám mục 17 phòng để giúp cơ quan từ thiện. Với 4 ngàn đô, Ngài mua một căn nhà bệ rạc ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, về làm vườn, trồng rau, xin đầu có nấu ăn. Ngài bán nhẫn, Thánh giá, gậy Giám mục giúp người nghèo. Có người không tán đồng. Ngài trả lời: Bài toán của chúng ta là phải bớt (-), chia sẻ (:) và nhân (x) hy vọng cho người khác. Ngài là Giám mục giáo phận Spokane, WA.
----------------------------------
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài về các luật sĩ và biệt phái: Vì họ “ngồi tòa Môsê”, nghĩa là: TN31-A3
Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài về các luật sĩ và biệt phái:
1. Vì họ “ngồi tòa Môsê”, nghĩa là nắm quyền giảng dạy, cho nên “những gì họ nói, các con hãy làm và tuân giữ”.
2. “Nhưng dừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm”. Những gương xấu của họ là:
- Ra luật cho người khác giữ, còn bản thân không giữ.
- Làm những việc đạo đức chỉ cốt cho người ta thấy mà khen.
- Ham danh vọng: ngồi chỗ nhất, thích được chào nơi công cộng, thích được gọi là Rabbi.
B.... nẩy mầm.
1. Hầu hết những lời Chúa Giêsu kết án các biệt phái ngày xưa đều đúng cho tôi ngày nay:
- Trong cương vị lãnh đạo, phải chăng tôi cũng thường “chỉ tay năm ngón”, bảo người khác làm còn mình thì không làm ?
- Đạo đức bề ngoài: người ta tưởng tôi đạo đức, nhưng trước mặt Chúa tôi có đạo đức thật không ?
- Tôi cũng ham danh vọng và địa vị ?
2. “Tất cả chúng con đều là anh em với nhau”: người có quyền và người không có quyền, người bề trên và người bề dưới cũng đều ngang nhau trước mặt Chúa. Quyền và chức chỉ là những phương tiện để phục vụ anh em. “Trong chúng con, ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ chúng con”.
3. “Ai tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”: các động từ ở thể thụ động “bị hạ xuống” và “được nâng lên” ám chỉ kẻ hạ xuống và nâng lên là chính Thiên Chúa. Đã đành ai ai cũng ghét kẻ kiêu căng và mến người khiêm tốn. Nhưng quan trọng hơn nữa là chính Thiên Chúa cũng hạ kẻ kiêu căng và nâng cao người khiêm tốn.
4. Vào thế kỷ thứ 12, tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các nhà lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó Thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện. Ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài. Ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ. Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Các kinh sư và những người pharisêu… làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23,5)
Một thiếu tá vừa được thuyên chuyển về chỉ huy một tiểu đoàn mới. Ông tìm cách “hù” cho binh lính nễ sợ ông. Một hôm, một anh binh nhì gõ cửa xin vào phòng ông. Ông nói: “Vào đi. Nhưng đứng chờ đấy vì tôi đang bận tiếp điện thoại”. Rồi ông cầm điện thoại nói: “Chào Đại tướng, rất hân hạnh được nghe ngài. Ngài muốn gì ạ ?” Ông im lặng một hồi như đang lắng nghe, rồi nói tiếp: “Vâng, thưa Đại tướng, tôi sẽ nói lại với Tổng thống về điều ấy”. Xong, ông đặt ống nghe xuống và nói với anh binh nhì: “Xong rồi, bây giờ tới phiên anh. Anh có việc gì nào ?”. Anh binh nhì đáp: Tôi thừa lệnh trung sĩ đến đây để nối giây điện thoại cho ngài, thưa Thiếu tá !” (Mark Link, Vision 2000)
----------------------------------
Sự kiện có nhiều tín hữu lấy việc phải đóng góp như là cớ để rời bỏ Giáo Hội, vén mở cho: TN31-A4
Sự kiện có nhiều tín hữu lấy việc phải đóng góp như là cớ để rời bỏ Giáo Hội, vén mở cho thấy một vấn đề khác đang gây âu lo không ít cho Hội Đồng Giám mục các nước Âu Châu. Đó là nhiều Kitô hữu đánh mất đi niềm tin của họ trong một xã hội bị tục hoá nặng nề. Chính vì nhiều tín hữu Âu Châu không sống đạo và không liên hệ gì với Giáo Hội nữa, nên họ thấy việc đóng góp cho Giáo Hội trở thành một gánh nặng vô lý.
Trong một xã hội đang đánh mất đi các giá trị Kitô của mình như Giáo Hội Âu Châu, thì chỉ một Giáo Hội sinh động với một số tín hữu sống lòng tin trung thực và xác tín mới có sức trao ban hy vọng cho con người đang lạc hướng bơ vơ ấy. Đây là lý do giải thích tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẩn thiết khuyến khích công tác "tái truyền giảng Tin Mừng" và kêu gọi các quốc gia tái khám phá ra nền văn hóa Kitô của mình.
Nhưng thế nào là sống lòng tin trung thực cho một Giáo Hội sinh động? Các bài đọc Phụng vụ của Chúa Nhật XXXI Thường Niên hôm nay cống hiến cho chúng ta một số tư tưởng, giúp chúng ta duyệt xét lại lòng tin của mình vào Giáo Hội.
Bài Tin Mừng hôm nay được thánh Matthêu ghi lại cuộc đụng độ trầm trọng giữa Chúa Giêsu và hàng lãnh đạo Do Thái, đồng thời nó cũng diễn tả tình trạng căng thẳng sự đổ bể liên hệ giữa cộng đoàn Do Thái và cộng đoàn Kitô giáo trong thời sơ khai.
Cuộc đụng độ ấy cho thấy hai loại Giáo Hội đối nghịch nhau: Thứ nhất là một Giáo Hội đầy dẫy những tín hữu thủ cựu huênh hoang, phách lối, ham hố quyền bính, vụ luật và dùng luật lệ làm bình phong che đậy cuộc sống giả dối tội lỗi của mình. Thứ hai là một Giáo Hội sống theo tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu, trong đó hàng lãnh đạo là những người khiêm tốn, thánh thiện, biết hy sinh xả kỷ phục vụ và sống nêu gương cho người khác.
Vậy, khi mạnh mẽ chỉ trích hàng lãnh đạo Do Thái, Chúa Giêsu đã phản đối quyền lãnh đạo hợp pháp của họ, nhưng đồng thời Ngài cũng vạch trần những thái độ sống đạo sai lạc của giới lãnh đạo, của hàng tư tế, của giới luật sĩ và biệt phái, giới ký lục và các bô tão. Họ là những người thông hiểu luật Chúa, đáng lý ra họ phải nêu gương cho tín hữu thì ngược lại họ lại gây nên gương mù, gương xấu cho dân chúng.
Vì thế, Chúa Giêsu đã tố cáo thái độ sống đạo lệnh lạc của họ là không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Thái độ nói một đàng làm một nẻo ấy của họ bôi nhọ và giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ, cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho liên hệ giữa tín hữu với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế, cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính cách háo danh, thích ăn trên ngồi trốc, thích được nịnh hót, thích được xưng tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.
Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một đàng làm một nẻo".
Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện với từng người trong chúng ta trong cuộc sống, diện đối diện, mắt nhìn mắt, chúng ta hãy để cho lời Ngài xoáy vào tâm can, vào tâm hồn chúng ta. Vậy chúng ta đừng sợ chi cả vì bao lâu chúng ta còn sợ Lời Chúa, thì bấy lâu chúng ta còn bào chữa để che giấu cho con người thứ hai trong chúng ta, con người chỉ thích bóng tối. Hãy lôi cổ con người thứ hai đó ra ánh sáng Lời Chúa để định bệnh cho nó. Hãy mổ xẻ nó và với ơn Chúa hãy băng bó cho nó, tạo lại những nếp sống hài hòa trong mọi lãnh vực của đời sống chúng ta.
Thật vậy, sự hài hoà mọi lãnh vực trong đời sống của mình không phải là chuyện dễ, vì con người chúng ta đều có giới hạn. Nhưng Thiên Chúa đã đặt vào trong con người chúng ta những ý nghĩ của điều thiện hảo, giúp chúng ta hướng đến sự sống vô biên. Vậy chắc chắn điều Chúa muốn là chúng ta cố gắng trong khả năng, trong địa vị của mình để trở thành một mẫu gương sống cho người khác, nhất là những người mà chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn dạy dỗ họ.
Có như thế, chúng ta mới giảng dạy cho người khác một cách xác tín, mạnh dạn khuyên bảo người khác mà không đớ lưỡi, mà không ngượng miệng, không cứng họng, nhất là người khác đó là con cháu của mình. Và như thế, mỗi người chúng ta mới thực hiện được lời khuyên tha thiết của Chúa Giêsu: "Chúng con phải sống thế nào để người khác nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời".
Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống, nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin. Vì chính nhờ đời sống ngay lành, thánh thiện, công bình và bác ái của những người tin Chúa sẽ làm cho những người khác phải đặt câu hỏi. Nhờ đó mới khơi dậy trong họ một ước nguyện đi tìm Chân Thiện Mỹ mà Chân Thiện Mỹ tuyệt đối chính là Thiên Chúa vậy.
----------------------------------
Bùi Gia Phong (BJ. Funk) nay đã có gia đình ổn định, một vợ và hai con, nhưng ở tuổi lớn: TN31-A5
Bùi Gia Phong (BJ. Funk) nay đã có gia đình ổn định, một vợ và hai con, nhưng ở tuổi lớn lên Phong đã từng làm phiền lòng bố mẹ không ít. Nghe theo chúng bạn rủ rê, có những đêm Phong nhậu nhẹt mãi tới sáng, kệ cho mẹ của Phong mỏi mắt chờ con. Đã vậy, Phong còn ghiền sì ke nữa. Nay nhìn lại quá khứ, Phong thấy chiếc phao đã cứu anh chính là việc bố mẹ anh đã nhận Chúa là trung tâm đời sống gia đình mình. Anh thấy đó là di sản quí báu nhất mà vợ chồng anh có thể truyền lại cho các con.
Anh kể lại như sau cho phóng viên báo Thành Phố Mới:
"Gia đình tôi đã tham dự ba ngày họp Thành Phố của Đức Maria (Mariapolis) tại thành Đô Tây (Tagaytay) ở Phi Luật Tân. Khi ấy tôi lên 5. Kể từ ba ngày đáng ghi nhớ ấy cha mẹ tôi đã chọn Chúa làm trung tâm cho đời sống gia đình mình. Kết quả là tôi được hấp thụ một nền giáo dục gia đình dựa trên tình yêu cụ thể theo Tin Mừng.
Chúa hiện diện nơi những kẻ bé nhỏ
Tôi vẫn còn nhớ kinh nghiệm đầu tiên của tôi khi tôi nhận ra Chúa Giêsu hiện diện nơi người bên cạnh. Khi ấy tôi lên 6 và em út tôi lên 4. Chúng tôi đang chơi với nhau hai trái bóng hơi ở nhà xe. Hai anh em bị cuốn hút vào cuộc chơi đến nỗi chẳng để ý gì đến hai cậu bé xuất hiện muốn tham gia cuộc chơi.
Hai cậu bé ấy ăn mặc rách rưới nên thoạt nhìn tôi đã muốn đuổi đi. Nhưng lập tức tôi nhớ lại rằng tôi phải yêu mến Chúa Giêsu hiện diện nơi những kẻ bé nhỏ nhất. Cho nên tôi liền mời hai cậu bé ấy chơi chung với chúng tôi.
Mẹ tôi thấy thế liền chạy đi kiếm đồ mặc sạch sẽ rồi gọi cả bốn chúng tôi vào tắm rửa trước khi ngồi vào bàn ăn. Khi hai cậu bé sắp ra về tôi tặng các bạn hai trái bóng hơi ở nhà xe. Họ ra về vui vẻ, nhưng tôi còn nghiệm thấy niềm vui lớn hơn nhờ biết hy sinh một chút cho họ được vui.
Khi lên tuổi 13, tôi phải nằm nhà thương hai tháng vì bị nhiễm trùng nặng. Bố mẹ tôi hết lòng thương tôi, hằng ngày tới viếng thăm, vừa lo cho tôi khỏe lại, vừa lo trả tiền bệnh viện khá nhiều. Tôi nằm bệnh viện lâu đến nỗi bắt đầu đếm những đám tang đi ngang qua đường phố vì bệnh viện nằm sát bên nghĩa địa. Tôi đã tưởng bệnh tôi không bao giờ khỏi.
Tôi đã cầu nguyện như đã quen trong gia đình
Tôi nhớ khi ấy tôi đã cầu nguyện cùng Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria như tôi đã quen ầu nguyện trong gia đình tôi. Tôi nhận thấy tôi phải biết dâng lên Chúa Giêsu tất cả những khổ đau tôi phải chịu và phải biến chúng trở thành niềm vui nhờ biết yêu mến Chúa Giêsu. Tôi đã vui vẻ chấp nhận ý Chúa. Khi dâng lên Chúa tất cả những gì tôi đang trải qua, lòng tôi được bình an.
Ít lâu sau tôi được khỏi. Nhưng tiền bệnh viện lớn đến nỗi gia đình tôi không biết làm sao để có thể trả. Bố mẹ tôi đã giao phó tất cả vấn đề nơi Chúa quan phòng và người ta đã tính toán cho tôi được xuất viện ngon lành.
Sở dĩ thời gian tôi chịu ảnh hưởng của bạn bè xấu không kéo dài lâu, cũng là nhờ tình yêu mạnh mẽ và niềm tin của bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi không những tận tình thương tôi, các ngài còn khơi dậy nơi tôi tình yêu tôi từng có đối với Chúa Giêsu, nhờ đó tôi đã được hoán cải.
Qua kinh nghiệm tôi học được nơi bố mẹ tôi điều này là chỉ có Chúa Giêsu mới thực sự là nhà huấn luyện đích thực cho mọi gia đình người tín hữu Kitô. Cho nên hai vợ chồng chúng tôi đã rắp tâm luôn chạy đến với Chúa Giêsu, xin Người dạy dỗ.
Ngày mà Cẩm Lê (Là Cara) con đầu lòng của chúng tôi lần đầu tiên đi học, chúng tôi thật đã phải vất vả đưa cháu tới lớp. Biết được khó khăn ấy, tôi đã phải đi làm trễ để yểm trợ tinh thần cháu. Nhưng đứng trước cửa phòng lớp mà thấy có một cô bé khác nữa cũng sợ sệt như cháu, cháu liền òa lên khóc, nhất định không chịu bước vào. Cháu nói cháu không muốn ở lại một mình trong lớp. Chúng tôi mất công hồi lâu, tìm đủ mọi cách thuyết phục cháu mà vẫn không thành công vì cháu cứ khăng khăng đòi trở về nhà với chúng tôi. Đến lượt chính chúng tôi vì thất vọng nên cũng mất kiên nhẫn.
Nhưng khi ấy Hồng Liên vợ tôi nhỏ nhẹ bảo cháu đừng sợ, vì có Chúa Giêsu luôn ở với cháu. Thế là Cẩm Lê tự nhiện thay đổi thái độ. Cháu tự nguyện bước vào lớp khiến chúng tôi ra về với tinh thần hết sức nhẹ nhõm.
Hai vợ chồng chúng tôi thấy rõ gia đình chúng tôi được Chúa chúc phúc. Chúng tôi không những tin vào Chúa nhưng còn thấy Chúa hiện diện để hướng dẫn chúng tôi trong đời sống thường ngày. Mặc dầu đời sống người Kitô luôn có những đòi hỏi phải từ bỏ mình để bước theo Chúa Giêsu, nhưng chính qua đó chúng tôi nghiệm được niềm vui và ánh sáng từ Chúa để truyền lại cho con cái, như cha mẹ chúng tôi đã truyền lại cho chúng tôi."
Lời chia sẻ của anh Bùi Gia Phong vừa trích, cho thấy cách sống của gia đình bố mẹ anh cũng như cách sống của gia đình hai vợ chồng anh, phần nào thể hiện lời dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: "Anh chị em chỉ có một Thầy dạy là chính Đức Giêsu; chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô" (cc.8 và 10).
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Matthêu mô tả cuộc hành trình này như một cuộc gia tăng sự chống đối tự nhiên đưa Đức Giêsu đến cái chết khổ hình thập giá trên đỉnh Can-vê. Một loạt những cuộc tranh luận được nêu do các thượng tế và kỳ mục (Mt 21,23-27), do những người phe Hêrôđê và Pharisêu (22,15-22) do nhóm Xa-đốc (22,23-33), do người thông luật thuộc nhóm Pharisêu (22,34-40) và do chính Đức Giêsu (22,41-46).
Trong số những loại người chống đối Đức Giêsu như vừa kể, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý các môn đệ và đám đông về những nhà thông luật và phe Pharisêu. Đức Giêsu nặng lời chỉ trích họ bằng cách vạch trần cách họ dậy đạo và sống đạo. Người muốn giúp người nghe thấy rõ cách sống đạo như Người dạy các môn đệ là điều khác hẳn.
Thời Đức Giêsu, các nhà thông luật Do thái giáo là giới trí thức về đạo. Họ có tài bình giải Cựu Ước và áp dụng vào đời sống hàng ngày. Còn phe Pharisêu là một huynh đoàn những người chủ trương sống đạo nhặt nhiệm, nhất là trong việc thi hành luật đạo.
Đức Giêsu thẳng thừng chỉ trích hai loại người này về cách họ phô trương và ham chức tước (cc.5-10). Tước hiệu "ráp-bi" (Thày) cũng như "Cha" bị loại vì chỉ có Thiên Chúa mới thực là Cha và chỉ có Đức Giêsu mới thực là Thày. Lý tưởng mà Đức Giêsu đề nghị để các môn đệ noi theo là: Hãy phục vụ thay vì lãnh đạo.
Ý nghĩa cách xưng hô "Cha" và "Thày"
Vì lời dạy của Đức Giêsu quá rõ liên quan tới cách phô trương, cách xưng hô "Cha" và Thày" như ta vẫn dùng trong nền văn hóa xưa nay của ta, ta cần tương đối hóa ý nghĩa của những cách xưng hô đó khi áp dụng với loài người. Ý nghĩa tuyệt đối của những từ "Cha" và "Thày" nên được dành cho Thiên Chúa mà thôi.
Về danh xưng CHA, giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta rằng "Khi trình bày Thiên Chúa với danh hiệu CHA, ngôn từ đức tin chính yếu đề cập đến hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đệ nhất của muôn vật và quyền bính siêu việt. Đồng thời Ngài cũng tốt lành, ân cần yêu thương mọi con cái. Tình phụ tử dịu ngọt của Thiên Chúa cũng được diễn tả bằng tình mẹ. Hình ảnh này còn làm nổi bật Thiên Chúa nội tại và tình thân ái của Thiên Chúa với thụ tạo. Như thế ngôn từ đức tin thấm nhuần trong kinh nghiệm về tình phụ-mẫu-tử. Cách nào đó, họ là đại diện trước tiên của Thiên Chúa với con người. Kinh nghiệm cũng cho thấy cha mẹ trần gian có thể lầm lẫn và bóp méo khuôn mặt cha mẹ. Chúng ta nên nhắc lại: Thiên Chúa vượt trên phái tính người, Ngài không là nam, không là nữ; Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng siêu việt trên tình phụ mẫu của con người. Ngài đúng là nguồn gốc và chiều kích phụ mẫu, không ai là cha như Thiên Chúa là CHA (số 239).
Cũng vậy, xét về chức năng dạy dỗ và lãnh đạo loài người trở về với Thiên Chúa là mục đích tối hậu, chỉ một mình Đức Kitô có khả năng đó như chính Người tuyên bố: "Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Nhưng khi giờ Người được tôn vinh, đó là lúc Người phái Thần Khí của Người đến để đưa các tín hữu vào sự thật toàn vẹn. Thần Khí ấy sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho các tín hữu biết những điều sẽ xảy ra liên quan đến công trình đưa loài người về cùng Thiên Chúa là CHA (Ga 16,13-15).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Trong lời chia sẻ của anh Bùi Gia Phong, bạn có tâm đắc được điều gì chăng về: "Cha mẹ tôi đã chọn Chúa làm trung tâm cho đời sống gia đình mình"? "Lập tức bé Phong 6 tuổi nhớ rằng mình phải yêu mến Chúa Giêsu hiện diện nơi những kẻ bé nhỏ nhất"? "Mẹ tôi thấy thế liền chạy kiếm đồ sạch sẽ rồi gọi cả bốn chúng tôi vào tắm rửa trước khi ngồi vào bàn ăn"? "Tôi đã cầu nguyện cùng Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria như tôi quen cầu nguyện nơi gia đình tôi"? "Bố mẹ tôi không những tận tình thương tôi, các ngài còn khơi dậy nơi tôi tình yêu tôi từng có đối với Chúa Giêsu, nhờ đó tôi đã được hoán cải"? Bạn có ý kiến khác?
2. Bạn nghĩ gì về ý nghĩa cách xưng hô "CHA" và "THÀY"?
----------------------------------
Xu hướng tự nhiên của muôn loài và lòng người luôn hướng về một duy nhất, một nguồn: TN31-A6
Xu hướng tự nhiên của muôn loài và lòng người luôn hướng về một duy nhất, một nguồn, một Đấng tuyệt đối độc nhất. Xu hướng này không do thụ tạo, mà do Thiên Chúa, vì Người lôi kéo tạo vật hướng về Người, dù tạo vật chẳng nhận ra Người: “Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (Ga. 1, 10). Không nhận biết Người, mà chúng vẫn hướng về Người. Các hành tinh vĩ đại quy về một định tinh, các hệ thống định tinh hay thái dương hệ lại đi theo một hướng, toàn thể vũ trụ được tổ chức trong một trật tự lạ lùng. Kinh Thi nói: Thiên sinh chưng dân hữu vật hữu tắc - Trời sinh dân chúng có sự vật có phép tắc. Nhà sinh vật thời danh Darwin đã dầy công tìm tòi, sắp xếp, phân loại giúp ta thấy rõ trật tự đó. Các tổ chức của loài người, ở mọi thời đại cũng luôn luôn có một thủ lãnh: trong gia đình, làng xã, đất nước, thế giới. Các đạo giáo lớn như đạo Khổng, Lão, Phật, Ấn, Hồi đều qui niềm tin về một Đấng duy nhất. Đạo Khổng gọi Đấng ấy là Thượng Đế hay Ông Trời. Đức Khổng nói: Duy thiên sinh thông minh, (Kinh thư trọng hủy cáo) Duy thiên vi đại. Lão gọi là đạo: Đạo khả đạo phi thường đạo” (Đạo đức kinh ch. I). Phật gọi là tâm bình đảng, tâm bát nhã, chân như, tâm đại giác.
Ấn gọi là Đại ngã (Brahma). Hồi gọi là thánh Allah (Ar-Allah) “There is no god, but God, and Mohammed is the messenger of God” (Không có thần nào khác ngoài Thiên Chúa, và Mohammed là sứ giả của Ngài). Thánh Allah là Chúa duy nhất, độc nhất, chỉ có Ngài là Đấng tạo hoá, quan phòng, tác tạo mọi sự hiện có và sẽ có, siêu việt, nội tại, toàn năng ân điển, hiện hữu vô hình và đời đời.
Có thể nói đó là bản tóm tắt niềm tin của nhân loại hướng về Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Nhưng đó là một niềm tin còn lờ mờ ẩn hiện trong lương tri của một số người, họ chưa được Thiên Chúa mạc khải qua các ngôn sứ và nhất là qua Con Một Thiên Chúa giáng trần là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, họ đã có xu hướng tự nhiên về Người: “Muôn loài thọ tạo những mong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm. 8,19).
Tại sao có sự diễn tả khác nhau: Vì mỗi người có cá tính và tự do riêng. Có những người nhờ đức tính chân thật khiêm tốn họ công nhận chắc chắn có Thiên Chúa. Họ không thể hiểu được Người nhưng họ vẫn “Kính nhi viễn chi” và chuyên chăm trau dồi đạo đức như Khổng tử, Lão tử và Đức Phật.
Có những hạng người kiêu căng đầy tham sân si, đã tự tôn mình làm Chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên Đông phương. Nabukôđônôsô, Xêda và Nêrông bên Tây phương. Biệt phái, luật sĩ và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ: họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn “ngồi trên toà Môisê ...”. Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy. Cho nên họ đeo những hộp sách kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm ghế đầu trong Hội đường ... Họ thích thiên hạ gọi bằng thầy (Rabbi) (23, 4-7). Họ tôn mình lên, không còn thấy Thiên Chúa trên họ nữa, cho nên họ sẽ bị hạ xuống (23, 12). Thiên Chúa, Chúa tể càn khôn đã phán để hạ họ xuống: “Ta đã làm cho các ngươi đáng khinh bỉ và hèn hạ trước mặt toàn dân”. “Ta sẽ trút lời chúc dữ xuống trên các ngươi”. Bởi lẽ: “các ngươi đi trệch đường ; không chịu nghe và không để tâm làm vinh danh Ta; và đã làm cho bao nhiêu người vấp ngã vì lời các ngươi” (Bài đọc I –Ml. 2, 2. 8-10).
Chỉ có lời của Đấng từ trời hạ mình xuống mới làm cho muôn dân nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô đã đến dạy chúng ta: “Anh em đừng gọi ai ở dưới đất là Cha, vì anh em chỉ có một Cha trên trời” (23,9). Cha trên trời thế nào ? Thưa là “Đấng ngự trên trời, vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5,45). Như vậy chỉ có Cha trên trời mới tạo thành và nuôi dưỡng muôn loài muôn vật chứ không phải ai khác. Nếu ta gọi người sinh ra ta, nuôi dưỡng ta là cha, thì Cha trên trời mới đích thực là Cha toàn năng, là Cha muôn thuở. Cha dưới đất chỉ là cha tạm thời tham dự vào quyền phép Cha trên trời trong việc sinh ra, nuôi dưỡng ta ngắn hạn. Cha trên trời còn là “Đấng vô cùng toàn thiện (Mt. 5,48), là Đấng đã yêu thương thế nhân, đã ban Con Một chí ái của Người cho thế nhân, để cứu thế nhân khỏi chết đời đời và cho họ được sống muôn đời (Ga. 3,16). Cho nên khi “anh em làm vinh danh Cha, mở rộng nước Cha, vâng theo ý Cha, yêu thương anh em, yêu thương mọi người và cả kẻ thù, biết cầu nguyện tha thứ cho nhau” (Mt. 6, 9-15), có tâm tình và sống như Đức Giêsu Kitô để tôn vinh Cha trên trời (Phil. 2, 6-7) như vậy anh em mới nên “hoàn thiện như Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho anh em” (Mt. 5, 49 và 6, 6).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin cho chúng con biết lo làm sáng danh Cha, như thánh Phaolô “khi ở giữa anh em, biết cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ”. Xin cho chúng con biết quý mến anh em, sẵn sàng hiến cho anh em Tin mừng của Cha và cả mạng sống chúng con nữa mà không quản khó nhọc vất vả ngày đêm (1Tx. 2, 7-9) để cho mọi người nhận biết chỉ có một Cha trên trời và chỉ có một Thầy là Đức Giêsu Kitô, còn tất cả là anh em với nhau. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha muôn đời. Amen.
-------------------------------
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ: TN31-A7
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ là những người lãnh đạo tôn giáo trong dân Do Thái. Thế nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng được gửi đến cho mỗi người chúng ta, bởi vì những khuyết điểm của họ cũng là những khuyết điểm của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt của bọn biệt phái và luật sĩ, chúng ta không khỏi giật mình bởi vì bản thân chúng ta cũng có những đường nét nào đó giống như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt phái và luật sĩ đã mắc phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê bình một cách gắt gao ?
Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà không làm. Có một khoảng cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy với những điều họ thực hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đã diễn tả thật chính xác về họ như sau:
Họ nói mà không làm. Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo, họ làm ngược lại những gì họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Và như vậy, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thống nhất đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời chúng ta nói và dạy. Lời nói phải biểu lộ những gì ấp ủ trong cõi lòng, chứ không phải chỉ là sự vận dụng khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi cuốn người khác như người ta vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.
Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức Giám mục đã khuyên các tân chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hãy chú tâm tin điều chúng con đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng lại bắt người khác phải làm. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh sống động để diễn tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh nặng lên vai người khác, còn chính bản thân họ thì lại không muốn đụng ngón tay lay thử.
Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một cách khôi hài là giám đốc, giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất hiện một khoảng cách giữa điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác phải làm. Chúng ta khoan dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngã với người khác. Dường như chúng ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo danh và tự mãn. Họ làm mọi việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích nhắm của mọi hành động đó là tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều qui về cái tôi của mình, đều nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Thậm chí cả những hành vi đạo đức cũng biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo đức của chúng ta được khua chiêng gióng trống, nặng phần trình diễn, khiến người ta chỉ thấy được bản thân chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Biết đâu, đó cũng là bộ mặt giả hình của mỗi người chúng ta.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin để mỗi người chúng ta luôn sống trung thực với bản thân, với người khác và với Thiên Chúa. Tư tưởng thì đi đôi với lời nói. Còn lời nói thì lại đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta đều không quanh co, không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha lê.
-------------------------------
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau: TN31-A8
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả. Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống. Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần những con người giả hình ấy. Người nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào”. Người giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là thầy”.Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công lênh thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh của tính giả hình, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói và chỉ nói những gì mình đã làm. Đức Gioan Phaolô II đã nói “Con người ngày nay không cần những thầy dậy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói”.
Chúng ta không bao giờ phê bình lên án một ai, vì khi chỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật xấu nơi chính mình, là chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn mãi.
Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Điều này Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy người là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, làm lớn theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolô viết: “Người được chấp nhận không phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao”. Hãy soi đời mình vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.
----------------------------------
Đọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy đối tượng luôn bị Chúa Giêsu khiển trách là các ông: TN31-A9
Đọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy đối tượng luôn bị Chúa Giêsu khiển trách là các ông luật sĩ và biệt phái. Có khi Người khiển trách trực tiếp. Có khi Người khiển trách gián tiếp qua những bài giáo huấn dành cho các môn đệ và dân chúng. Nhưng những ông này là ai và đã làm gì đến nỗi Chúa Giêsu cứ phải trách móc nhiều khi rất nặng lời như vậy?
Thưa rằng: Các ông luật sĩ hay còn gọi là kinh sư là những người ghi chép những tài liệu tôn giáo để sử dụng cách riêng tư hoặc ở những nơi công cộng. Các ông là những người chuyên môn nghiên cứu và giảng dạy Thánh kinh cũng như luật đạo. Các ông có trách nhiệm đào tạo những người kế thừa để nội dung giảng dạy được lưu truyền. Các ông có công duy trì và truyền lại cho hậu thế những bản văn Cựu ước cũng như áp dụng Thánh kinh vào đời sống của người tín hữu Do thái giáo. Quả thật, người ta không thể phủ nhận những điều tốt đẹp các ông đã làm cho đạo giáo thời đó.
Còn các ông biệt phái cũng gọi là Pharisêu là những người tuân giữ rất nhiệm nhặt luật lệ của tôn giáo, đặc biệt luật liên quan đến vấn đề sạch và dơ theo đòi hỏi của việc phượng tự. Về giáo lý, các ông là những người có niềm tin chính thống. Một số trong các ông được tham dự vào Hội đồng tối cao của Do thái giáo. Nếu xét bên ngoài, người ta không thể phủ nhận sự nghiêm túc của các ông trong việc giữ đạo.
Nếu các ông luật sĩ và biệt phái đã làm được những việc tốt đẹp và có một đời sống đạo nghiêm túc như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại khiển trách các ông?
Đọc lại bài Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu khiển trách các ông về bốn điểm:
- Thứ nhất là giả hình, vì các ông nói mà không làm.
- Thứ hai là thích thống trị, vì các ông bó những gánh nặng chất trên vai người khác, còn các ông lại không muốn nhúng tay vào.
- Thứ ba là thích khoe khoang, vì mọi công việc các ông làm đều có ý cho người khác thấy.
- Thứ tư là tính hám danh, vì các ông muốn ngồi chỗ nhất ở những nơi công cộng và muốn được người khác tỏ lòng kính trọng qua những danh xưng thầy, cha, người chỉ đạo.
Thì ra lại cũng là những con đẻ của tội ngày xưa trong vườn địa đàng. Tội muốn đưa cái tôi của mình lên. Vì muốn đưa cái tôi của mình lên nên các ông mới tìm cách bắt người khác phải kính trọng, lụy phục mình. Vì muốn đưa cái tôi của mình lên nên các ông mới nghĩ đến chuyện thống trị người khác. Vì muốn đưa cái tôi của mình lên nên các ông mới tỏ ra mình vượt trội hơn người, thánh thiện, đạo đức hơn người. Và không chỉ muốn đưa cái tôi của mình lên trên người khác, các ông còn muốn đưa cái tôi của mình lên ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Các ông muốn chiếm đoạt cả những vinh quang, danh dự và quyền bính chỉ có nơi một mình Thiên Chúa. Vì muốn đưa cái tôi của mình lên ngang hàng với Thiên Chúa, nên các ông không chấp nhận Nước Trời như một ân huệ, như một quà tặng của Thiên Chúa, nhưng chỉ coi Nước Trời như một món hàng mà các ông có thể mua bán, đổi chác bằng những cái gọi là công phúc của các ông. Các ông đáng trách không phải vì những yếu đuối, lỡ lầm trong cuộc sống, nhưng vì các ông đã chọn cho mình một con đường đi, một hướng sống lệch lạc trong mối quan hệ với Thiên Chúa và tha nhân. Lệch lạc nhưng các ông vẫn cố chấp không chịu thay đổi.
Chính qua những tấm gương chẳng mấy tốt đẹp ấy mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Người, mời gọi mỗi người chúng ta xét lại đời sống của mình. Chẳng phải là những khát vọng quyền lực, khát vọng danh giá, khát vọng nể nang, khát vọng hơn người vẫn đang thống trị chúng ta hằng ngày đó sao? Chẳng phải chúng ta vẫn nghĩ rằng tôi giữ đạo, tôi tuân thủ lề luật, tôi đi lễ, tôi đọc kinh, tôi làm việc từ thiện… thì Chúa phải trả công Nước Trời cho tôi đó sao? Nghĩ như thế có khác gì chúng ta chỉ coi Thiên Chúa như một đối tác song phương trong việc mua bán Nước Trời?
Nếu không thay đổi nếp nghĩ, không thay đổi cách sống chúng ta sẽ không tránh được những lời khiển trách nặng nề của Thiên Chúa đâu. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng rằng: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và những người biệt phái, anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
----------------------------------
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm quốc tế với khoảng 6.000 linh mục tại Rôma vào năm: TN31-A10
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm quốc tế với khoảng 6.000 linh mục tại Rôma vào năm 1990. Một linh mục đã viết trong tập nhật ký của mình:
“Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi mẹ Têrêxa thành Calcutta thuyết trình, mẹ không nói lời văn hoa, nhưng mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi mẹ Têrêxa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì mẹ nói.
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự cao cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ”.
Những kẻ biệt phái trong Phúc âm hôm nay có thể nói được là những kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ không có lòng đạo đức, không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nhìn nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống của mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên Hội đồng các Giám mục nói về việc sám hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức Giám mục Việt Nam đã viết: “Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm là sám hối, vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo phận, của mỗi Giáo xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô tình khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho mọi người.
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh em. Phải hòa giải với anh em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh em xa Chúa. Phải hòa giải với anh em, vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải với anh em, vì đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan hưởng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm nhường, người khiêm nhường biết rõ mình là ai? Với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc âm hôm nay, nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn, xin Chúa ban ơn để chúng con canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân đức.
----------------------------------
Thiên Chúa thật kỳ diệu trong việc tạo dựng con người: Ngài tạo dựng mỗi người là một cá: TN31-A11
Thiên Chúa thật kỳ diệu trong việc tạo dựng con người: Ngài tạo dựng mỗi người là một cá biệt, không ai giống ai, không một người nào giống người nào, xét trên mọi phương diện. Đặc biệt hơn nữa, về điều kiện và hoàn cảnh sinh sống, mỗi người có một vị trí riêng của mình và không giống với bất cứ ai. Đây là nhận xét căn bản sẽ giúp chúng ta dễ ý thức về một thái độ sống là điểm chính của đoạn Tin mừng Chúa Giêsu dạy là hãy sống khiêm nhường.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhìn lên mình chẳng bằng ai, nhìn xuống lại chẳng thấy ai bằng mình”. Sự “Nhìn lên, nhìn xuống” đó không phải chỉ so sánh giữa mình và người khác trong phạm vi của cải, tài năng… mà còn có thể áp dụng bao quát và toàn diện cho con người, với tất cả những thứ con người “là” và con người “có”. Thật vậy, những thứ tôi là và tôi có không bằng ai hay giống ai hết, và cũng chẳng ai bằng tôi hay giống tôi cả, biết chấp nhận cái tôi cũng như hiểu biết về người khác, tôn trọng sự khác biệt và giữ đúng tương quan, liên hệ giữa mình và mọi người, suy nghĩ và cư xử đúng chính là thái độ sống khiêm nhường đúng nghĩa nhất.
Ngược lại, không nhận thức được những điều trên, tức là không nhận chân được thực tế, không nhìn ra chỗ đứng của mình, con người dễ rơi vào cách suy nghĩ và sống ở hai thái cực: hoặc băn khoăn, bực bội, tự ti, hoặc vênh vang, tự đắc, vì tự xếp mình vào hai trạng thái: “Mình chẳng bằng ai” hay “Không ai bằng mình”. Vì thế, khiêm nhường tất nhiên trái ngược với tự tôn, tự đắc, tự cao, tự đại; nhưng cũng không phải là tự ti, mặc cảm, luôn bị ám ảnh thua kém, khiến sinh ra nhu nhược, nhút nhát, luôn cắn răng chịu nhục, không dám có ý kiến, dễ bị khuất phục trước đe dọa dù là phi lý. Không dám có thái độ bênh vực sự thật thì không còn là khiêm nhường nữa mà là nhu nhược, hèn nhát. Người khiêm nhường cộng thêm sự khéo léo, tế nhị sẽ biết kiên nhẫn, nhường nhịn vừa phải, đúng lúc, biết tùy cơ ứng biến, đối chất để thuyết phục, giảng hòa.
Trái lại, người kiêu ngạo tự cho mình là “Trung tâm vũ trụ”, lên mặt vênh váo và coi thường mọi người, biểu lộ qua hai thái độ “vơ vào” hoặc “tránh né”. Chẳng hạn: khi thấy ai khác được vinh dự, may mắn, thì tự hỏi: “Tại sao không phải là tôi mà là người kia người nọ”; “Tại sao không hỏi ý kiến tôi mà lại hỏi người ấy?”. Ngược lại, khi gặp điều không may hoặc bị trách cứ, dù là chính mình gây lầm lỗi, thì người kiêu ngạo lại tránh né, đổ thừa: “Tại sao không trách người khác mà lại trách tôi?”. Hai trường hợp trên đây đã diễn tả được hết cái gian manh, xảo trá và lừa lọc đi đôi với lòng kiêu ngạo, tự cho mình là tất cả, không chấp nhận tương quan nào ở trên mình. Trái lại, lòng khiêm nhường là chấp nhận sự thật, chấp nhận tương quan trên dưới mà sống cho hài hòa, tốt đẹp.
Cũng thế, chúng ta hay dựa vào một số khả năng, một số uy quyền của mình để cho rằng mình có quyền trên tất cả. Chúng ta thành công trong một phương diện mà cứ cho rằng mình thành công trên mọi mặt, cho rằng mình không thể thua kém ai hay không ai có thể hơn mình. Chúng ta tự đưa mình lên đến trời, và tìm cách hạ anh em xuống tận bùn đen. Như thế là tự cao tự mãn, khoe mã cầu danh, phô trương, hợm mình, tự hào về những chuyện nhỏ nhen và nếu có ai hơn mình thì bực tức, khó chịu, rồi tìm cách bôi nhọ, hạ giá người ấy, và bao lâu người ấy còn hơn mình thì chúng ta khổ tâm dằn vặt. Đó là chính mình làm khổ mình. Đó là kiêu ngạo hạng nặng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: khước từ một lời khen thì dễ, nhưng đón nhận một tiếng chê bai thì khó. Phủ nhận một ưu điểm người ta ca tụng thì dễ, nhưng nhìn nhận một khuyết điểm người ta phê phán thì khó. Có đúng như thế không? Giả thử có ai đó khen chúng ta một điều gì, có thể chúng ta phổng mũi lên và im lặng thích thú trong lòng. Nhưng nếu có ai chê bai chúng ta một điều gì, chúng ta có đủ bình tĩnh để im lặng không hay chúng ta nóng mặt, bực tức và bốp chát lại liền? Rõ ràng là cái tôi của chúng ta còn lớn lắm. Vậy khiêm nhường, hạ mình xuống là chấp nhận xóa bỏ cái tôi của mình. Cái tôi có thể xuất hiện hay bộc lộ dưới nhiều hình thức: trong ước muốn thống trị người khác, trong ý chí muốn trổi vượt và tìm cách gây ấn tượng nơi người khác, cả trong những thái độ nhún nhường, có khi ngầm chứa bên trong lại là ý định tạo ảnh hưởng của mình.
Như vậy, bài học khiêm nhường Chúa Giêsu đã dạy luôn mang tính thời sự nóng bỏng đối với đời sống cá nhân mỗi người chúng ta. Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao tự đại, có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Tóm lại, càng biết Chúa, biết mình, biết người, biết đời rõ bao nhiêu càng bớt tự phụ kiêu kỳ bấy nhiêu. Do đó, chúng ta có thể nói được rằng: càng giỏi, càng có nhiều, càng phải khiêm nhường. Chỉ những ai dốt nát, dại dột mới cậy mình, khoe mình và kiêu ngạo.
----------------------------------
Căn nguyên của rất nhiều lỗi lầm trong thế giới chúng ta chính là thói không nhất quán giữa lời: TN31-A12
Căn nguyên của rất nhiều lỗi lầm trong thế giới chúng ta chính là thói không nhất quán giữa lời nói và hành động. Đây là sự yếu đuối của Giáo Hội, các đảng phái, và cá nhân, gây ra những tính cách chia rẽ nơi các cá nhân và tổ chức. Đây cũng là lỗi lầm chủ yếu nơi người Pharisêu: “Họ không thực hiện điều họ rao giảng”.
Hoa hồng là một trong những bông hoa xinh đẹp nhất. Tuy nhiên, hoa hồng cũng đòi hỏi người ta chăm sóc hết sức cẩn thận, nếu muốn giữ được vẻ xinh đẹp nhất của nó. Ở nơi tôi sinh sống, chúng tôi may mắn có một chuyên gia về hoa hồng, tên là Damien. Danh tiếng của ông lan rộng đi rất xa. Bằng chứng là ông liên tục được người ta mời đến nói chuyện.
Ông đã đi khắp chiều dài và chiều rộng của đất nước để nói chuyện về hoa hồng và cách thức trồng hoa hồng. Ông không chỉ nói bằng kiến thức rộng rải, mà còn bằng tình yêu lớn lao đối với đề tài của ông nữa. Nhờ những bài nói chuyện của ông, nhiều người đã trồng những bông hoa hồng thanh tú đầy trong vườn của họ.
Vì rất say mê hoa hồng, nên có một thời gian tôi đã theo Damien đi khắp mọi nơi, tin tưởng vào từng lời ông nói ra. Một trong những điều đầu tiên mà tôi được nghe ông nói là “Không một khu vườn nào được thực sự gọi là một khu vườn, nếu không có ít nhất một cây hoa hồng”. Tôi cũng nghe ông nói “Nếu bạn mong muốn có những bông hoa hồng thật đẹp, bạn hãy chuẩn bị để sẵn sàng làm việc cực nhọc. Nếu bạn e sợ gai, thì đừng nên nghĩ đến hoa hồng nữa”. Một ngày nọ, sau một buổi nói chuyện của ông, tôi đến bắt tay chúc mừng ông, vì bài nói chuyện thật xuất sắc. Khi làm như vậy, tôi ý thức được một điều rằng đó là bàn tay của một bậc thầy về cách trồng hoa hồng. Tất nhiên là tôi nghĩ rằng bàn tay của ông phải thô ráp và chai cứng. Tuy nhiên, tôi thật ngạc nhiên, khi nhận thấy nó thật mềm mại và trơn láng. Tôi nhìn vào bàn tay của ông, nó không hề mang một dấu hiệu nào, dù nhỏ bé nhất, về vết bị gai đâm.
Buổi tối hôm sau, tôi phát hiện ra nguyên nhân tại sao đôi tay của ông lại được bảo vệ kỹ lưỡng đến thế. Khi đến thăm chuyên gia này tại ngôi nhà của ông, tôi kinh ngạc nhận ra rằng khu vườn của ông – một mảnh đất nhỏ bé mà ông được cấp cho – không những không hề mang một cây hoa hồng nào, mặc dù là nhỏ bé nhất, mà còn mọc đầy cỏ dại nữa.
Điều đáng buồn chính là: một bậc thầy về cách trồng hoa hồng, lại không hề thực hành những lời mà ông giảng dạy. Và bản thân ông là người mất mát nhiều nhất. Đáng lẽ có thể được trồng đầy hoa hồng, thì khu vườn của ông lại mọc đầy cỏ dại. Chúng ta không bao giờ nên giới thiệu về một cái gì, trừ phi chúng ta có thể cung cấp một mẫu vật, dù nhỏ bé nhất về thứ đó.
Nếu chúng ta thực hành điều mà chúng ta rao giảng, nếu chúng ta sống bằng lòng tin của mình, thì chính bản thân chúng ta là người đầu tiên được hưởng lợi. Và chúng ta còn trở nên gương mẫu cho những người khác nữa. Người nào bắt đầu và kết thúc việc giữ đạo chỉ bằng sự tôn thờ và đọc kinh phụng vụ mà thôi, thì cũng giống như những quân lính cứ mãi diễn tập, mà không bao giờ thực sự xông trận; hoặc giống như những cầu thủ bóng đá cứ mãi tập luyện, mà không bao giờ đi thi đấu cả.
Tương tự như những bông hoa chỉ có đầy màu sắc, mà không hề có một chút hương thơm nào cả, những lời nói được chọn lựa cẩn thận của một người không có hành động phù hợp thì cũng giống y như vậy.
Những điều mà các vị ngôn sứ vĩ đại đã nói ra thường hay bị lãng quên, nhưng những hành động mà các vị anh hùng và các thánh nhân đã thực hiện, thì vẫn được ghi nhớ mãi. Khi những điều chúng ta tin tưởng lại khác biệt với những điều chúng ta thực hiện, thì chúng ta không thể có hạnh phúc được.
“Đừng chỉ nói suông mà thôi. Con người của bạn giám sát bạn trong suốt thời gian đó, và những tiếng sấm quá vang rền, đến nỗi tôi không thể nghe được lời nói trái ngược lại của bạn” (Ralph Waldo Emerson).
--------------------------------`
Ngày nay, người ta quá chú trọng đến dáng vẻ bề ngoài. Hình ảnh là tất cả mọi sự. Người ta đặt ra: TN31-A13
Ngày nay, người ta quá chú trọng đến dáng vẻ bề ngoài. Hình ảnh là tất cả mọi sự. Người ta đặt ra một tấm bình phong, nhưng tự trong thâm tâm, họ không hề giống như vậy. Bạn không thể chỉ nhìn vào vẻ bên ngoài.
Đó là một tòa lâu đài tọa lạc trên một vùng đất cao bao quát những khu rừng và ao hồ tươi đẹp. Nó thống trị một khu vực đồng quê chung quanh. Mặc dù tòa lâu đài này đã có mặt ở đó cả thế kỷ rồi, nhưng dường như không một viên đá nào lại không được quan tâm đến. Những bức tường vững chắc, tháp canh, pháo đài, và trụ cột, tất cả đều còn nguyên si, và tạo cho tòa lâu đài này một vẻ bề ngoài đầy ấn tượng.
Nhưng chỉ cần bước vào bên trong tòa lâu đài, thì bạn thấy ngay một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn. Bên trong là cả một sự bề bộn. Có những đống gạch vữa rơi vãi khắp nơi. Mái nhà chính, hầu hết các tấm trần và sàn nhà đều còn dang dở. Tất nhiên là không hề có một mẫu đồ đạc nào được tìm thấy ở đây. Những lò sưởi to lớn đều lạnh lẽo và trống rỗng. Tường của tòa nhà chưa hề được tô. Vẻ bề ngoài này thật dễ đánh lừa mọi người.
Các kinh sư và người Pharisêu cũng vậy. Bên ngoài, họ tỏ ra là những người tốt lành và thánh thiện. Nhưng bên trong, họ chẳng là gì cả.
Đây là một điều đáng báo động đối với tất cả chúng ta: Mỗi người chúng ta đều có hai bản chất: một bản chất bên ngoài và một bản chất bên trong. Bản chất bên ngoài mang tính chất công cộng, nghĩa là người khác có thể nhìn thấy được. Bản chất bên trong mang tính chất riêng tư, chỉ bản thân chúng ta mới nhìn thấy. Bản chất bên ngoài là một vỏ bọc; bản chất bên trong là cái cốt lõi. Chúng ta rất thường hay nhìn thấy trường hợp những quả hạch có vẻ bên ngoài to lớn nhất, nhưng bên trong lại trống rỗng.
Tại sao chúng ta cảm thấy nhu cầu phải giả vờ, hoặc phải gây ấn tượng với người khác? Bởi vì hầu hết chúng ta đều đạt được giá trị bản thân từ cách người ta nghĩ về chúng ta. Do đó, với nhu cầu được tán thành, được chấp nhận, và có địa vị, chúng ta có thể củng cố vẻ bên ngoài, để rồi phải trả giá bằng chính bản chất bên trong của mình. Nhưng vẻ bên ngoài mà không có thực lực, thì thử hỏi nó có giá trị gì, phải chăng đó chỉ là một hình ảnh mà không có bản chất.
Chừng nào chúng ta còn giả vờ sống không đúng với bản chất của mình, thì chúng ta không thể đạt được hạnh phúc và thánh thiện. Giây phút nào chúng ta cứ cố gắng trở nên cái không phải là con người của mình, thì chúng ta trở thành một nhân cách tưởng tượng, một sự hiện diện không có thực. Nhiều người có đạo không nên thánh được, vì họ không bao giờ sống đúng với con người của mình.
Khi người ta tập trung vào sự tốt lành của nội tâm, người ta không cần phải hò hét, hoặc thậm chí muốn hò hét, để cho mọi người biết là mình tốt lành. Họ âm thầm biết một điều chắc chắn rằng mình có một thứ gì đó, mà không một ai có thể lấy đi được, một thứ làm cho họ cảm thấy mình bỏ công theo đuổi, bất chấp những người khác có thể suy nghĩ gì về họ. Họ có lòng tự tin và tự trọng.
Đức Kitô có khả năng nhìn thấu được bên dưới vẻ bên ngoài, phía sau mặt nạ. Người nhìn thấy nội tâm của con người. Do đó, khi nhìn vào các kinh sư và người Pharisêu, Người nhìn thấy vẻ bên ngoài đạo đức của họ. Nhưng khi nhìn sâu hơn, thật đáng buồn, Người nhìn thấy bên dưới vẻ phô trương và cố tỏ ra đạo đức, đời sống nội tâm của họ rỗng tuếch. Mặt khác, Người rất vui mừng khi tìm thấy một con người chân thành. Người vui lòng đề bạt Phêrô làm đầu Giáo Hội, bởi vì Người biết rằng mặc dù đã phạm mấy lỗi tỏ tường, nhưng tâm hồn của ông lành mạnh.
Chúng ta phải cố gắng chân thành ngay với chính bản thân mình, nếu không, chúng ta chỉ là những con người giả dối. Khi chúng ta giả dối, vẻ bên ngoài không còn diễn tả, bộc lộ gì về tâm hồn nữa, nhưng thay vào đó, nó trở thành một vỏ bọc che đậy tâm hồn. Công việc lớn nhất của chúng ta là cứ cố gắng sao cho hòa hợp giữa cuộc sống với những niềm tin của chúng ta, và từ đó, đem lại sự hòa hoãn giữa nội tâm và con người bên ngoài của mình. Trong một số xã hội được gọi là nguyên thủy, người ta tin tưởng rằng nét đẹp bên ngoài là kết quả của nhân cách luân lý tốt đẹp trong nội tâm. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta quan tâm chăm sóc nội tâm, thì vẻ bên ngoài tự nhiên sẽ được chăm sóc theo.
--------------------------------
Có một câu chuyện về một người Do thái được sống sót trong trại tập trung. Đêm đầu tiên sau: TN31-A14
Có một câu chuyện về một người Do thái được sống sót trong trại tập trung. Đêm đầu tiên sau khi được phóng thích, anh đến một ngôi nhà gần đó. Tại đây, anh phát hiện thấy có khoảng 30 người sống sót khác đang tụ tập trong một căn phòng. Khi nhìn thấy một cái gương treo trên tường, anh đi đến trước gương. Anh cảm thấy băn khoăn không biết trông mình như thế nào. Nhưng trên tấm gương này, anh cũng nhìn thấy hình ảnh của một số người khác nữa. Có nhiều nét mặt phản chiếu trong gương, nên anh không thể nhận ra nét mặt nào là của mình. Anh phải cố tình diễn tả trên nét mặt và cử chỉ, để có thể phân biệt được bản thân mình với người khác.
Và khi nhận ra được nét mặt của mình, anh bị sốc khủng khiếp, bởi vì người mà anh đang nhìn thấy trong gương là một người trước đây chưa bao giờ anh nhìn thấy. Anh quá thay đổi, đến nỗi người trong gương không hề mang bất cứ vẻ bên ngoài nào nơi con người của anh trước khi có chiến tranh. Câu chuyện này nghe lạ tai, nhưng đó là một câu chuyện có thật.
Những lời chói tai của Đức Giêsu không có ý nói đến các kẻ tội lỗi, mà là nhắm thẳng vào những người đạo đức như các kinh sư và người Pharisêu. Ngay khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ, những hạng người này đã theo dõi Người sát gót. Người đã rất kiên nhẫn phân giải các điều cho họ, nhưng không đạt được ích lợi gì cả. Cuối cùng, Người bắt buộc phải phơi bày con người thật của họ ra.
Người đã làm điều đó như thế nào? Về cách nói, Người làm điều đó bằng cách đưa ra trước mặt họ một tấm gương, để lần đầu tiên trong cuộc đời, họ có thể nhìn thấy hình ảnh thật của mình. Đó là hình ảnh mà sẽ có ít người trong bọn họ nhận ra được là của mình. Nếu nhận ra được, thì họ sẽ sốc khủng khiếp.
Bức tranh mà Đức Giêsu vẽ về họ không hề đẹp đẽ chút nào. Trên thực tế, chúng ta đầy miễn cưỡng khi nhìn thấy vẻ phô trương và cố tỏ ra đạo đức, cùng với những sự không nhất quán thật đáng kinh tởm trong lối sống của họ.
Đức Giêsu đã nhận thấy những lỗi lầm nào chủ yếu nơi họ? Họ không hề thực hành những lời rao giảng. Họ đưa ra những luật lệ không thể thực hiện được đối với người bình thường, và đòi hỏi người ta phải quan sát chính xác những luật lệ này, mà không hề có bất cứ sự hỗ trợ nào, mặc dù là nhỏ bé nhất, khiến cho người ta cảm thấy những luật lệ đó chỉ là những gánh nặng mà thôi. Họ tìm kiếm vinh quang riêng cho mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Họ chỉ biết nghĩ đến bản thân họ, chỉ ưa thích con người của họ. Và điều tác hại nhất là họ thiếu đức bác ái và lòng thương xót trong cách cư xử với người khác.
Đức Giêsu đã phá hủy thói tự mãn của họ, khi họ chỉ tin tưởng vào vẻ tốt đẹp và nhân đức của bản thân. Người chỉ cho họ thấy con người thực sự của họ – đó là những con người đầy thói kiêu căng và tự mãn. Tất cả mọi việc họ làm đều chỉ có một mục đích – xây dựng riêng cho bản thân mình thứ lâu đài mà họ cho rằng tốt đẹp và hoàn hảo. Tuy nhiên, các kinh sư và người Pharisêu không phải là một nhóm người xấu duy nhất. Họ chỉ là những con người. Họ có thể là bất cứ nhóm người nào, thuộc về bất cứ thời đại nào và bất cứ ở đâu. Bức tranh mà Đức Giêsu vẽ về họ là một tấm gương mà chúng ta cũng được mời gọi để soi rọi mình. Nếu nhìn vào tấm gương đó, chúng ta sẽ nhìn thấy chính nét mặt của mình trong đó, bởi vì chúng ta cũng có một số nét, nếu không muốn nói là tất cả những lỗi lầm của họ.
Phải chăng đôi khi, chúng ta đã từng tự cho mình là tốt hơn người khác? Phải chăng chúng ta cũng áp đặt những luật lệ trên người khác? Chúng ta có đòi hỏi người khác phải hy sinh, trong khi không hề đòi hỏi gì nơi bản thân? Nếu có thể được, chúng ta có không thích được chú ý, được khen ngợi, được ngồi chỗ tốt nhất chăng? Về phương diện này, một bộ đồng phục hoặc một bộ quần áo đặc biệt có thể giúp chúng ta rất nhiều. Phải chăng chúng ta cũng thiếu đức ái, thiếu lòng thương xót, thiếu ý thức công bình và tinh thần phục vụ?
Tình trạng bi đát thực sự của các kinh sư và người Pharisêu không phải là vì họ phạm lỗi lầm, nhưng là do họ mù quáng không nhận ra lỗi lầm của mình. Mặc dù cũng có thể nhiều người trong bọn họ chân thành và đạo đức, nhưng phải chăng lòng đạo đức không còn là gì tốt đẹp nữa, nếu nó không làm cho chúng ta trở nên khiêm tốn hơn, bác ái hơn, và có lòng thương xót hơn? Lòng đạo đức không thay thế được lòng tốt.
Chúng ta không cần phải cố tỏ ra vẻ bên ngoài, hoặc giả vờ sống không đúng với con người của mình. Tất cả điều mà chúng ta cần phải làm, đó là cố gắng sống thật với con người của chúng ta, với tư cách là những con cái của Thiên Chúa.
--------------------------------
Có một người đàn ông đi dạo đến một nơi hành hương. Mệt nhọc, ông ngồi nghỉ trên một ghế: TN31-A15 Web
Có một người đàn ông đi dạo đến một nơi hành hương. Mệt nhọc, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông nghe không rõ. Thế rồi bà cũng ra đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian. Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa.
Theo lời dạy của Chúa Giêsu thì khác hẳn: “Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ mọi người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chúa không chỉ dạy bằng lời. Ngài còn làm gương. Ngài đã dẫn chứng bằng cả cuộc đời hiến thân phục vụ trong khiêm tốn của mình. Thập giá của Ngài là một bằng chứng không thể phủ nhận được.
Quả thật, Chúa Giêsu đã ý thức rất rõ bản chất và danh vị của mình. Nhưng Ngài sẵn sàng chọn sự rốt hèn, hết mình phục vụ, không ngại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử của mình, và cuối cùng dám để cho người ta bóc lột cả đến danh dự và sự sống thân xác của Ngài nữa.
Tất cả là để làm sáng tỏ vinh quang Thiên Chúa tình yêu và vì hạnh phúc của con người mà Ngài sẽ thu phục trong vương quốc Thiên Chúa.
Tưởng chừng thập giá là một ngõ bí, một sự hạ nhục và hủy diệt. Nhưng thực ra, nhờ thập giá mà Chúa Giêsu đã mở ra con đường phục sinh vinh quang. Ngài đã trở thành bất tử và được nâng lên tột cùng, để rồi cũng lôi kéo mọi người lên theo.
Như thế, chúng ta hiểu rằng: Vinh quang thật không khởi từ danh vị nhưng được xác định qua những nỗ lực và khiêm tốn phục vụ. Cái đáng tin, đáng phục không phải ở lời nói, quyền lực, mà là ở cuộc sống phản ảnh sự chân thực, ở khả năng cống hiến và mức độ dấn thân để sống yêu thương cách xứng đáng.
Chúng ta hãy nhìn lên tòa thập giá của Chúa Giêsu để tìm những lời dạy chí lý và khám phá ra những phương cách chia sẻ vinh quang đích thực và vững bền.
--------------------------------
Gợi ý
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời cảnh cáo gay gắt chống lại lối giữ đạo của các luật sĩ và biệt: TN31-A16
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời cảnh cáo gay gắt chống lại lối giữ đạo của các luật sĩ và biệt phái. Đó là hai lớp người có tầm ảnh hưởng lớn đối với các tín hữu Do thái giáo thời Đức Giêsu.
Trong bài giảng đầu tiên về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã tuyên bố rõ với đám đông rằng: "Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ không được vào Nước Trời" (Mt 5,20). Bây giờ, về cuối sách Tin Mừng Mátthêu, Đức Giêsu vạch rõ những điều xấu nào nơi họ cần phải loại bỏ.
Nhưng trước hết hai loại người đó là ai ?
Hình ảnh người Kinh Sư
Kinh Sư, cũng được gọi là luật sĩ: ban đầu là nhân viên có trách nhiệm ghi chép những tài liệu tôn giáo nhằm việc sử dụng riêng tư hoặc nơi công cộng (2V 22,8; Gr 32,12). Sau thời lưu đầy Babilon cũng như trong thời Tân Ước, kinh sư là người chuyên môn nghiên cứu và dạy Kinh Thánh (Nk 8,1; x. Er 7,10).
Là những chuyên gia nghiên cứu Luật đạo, các Kinh Sư lo áp dụng Luật Môsê với những quyết định có tính pháp lý, nên họ cũng chịu trách nhiệm về những tập tục cha ông để lại. Về họ, Đức Giêsu không ngại trưng lời ngôn sứ Isaia để nói "Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân" (Mt 7,7).
Tuy vậy, Kinh Sư thể hiện chức năng quan trọng trong việc cẩn thận duy trì và truyền lại cho thế hệ kế tiếp bản văn Cựu Ước và áp dụng Kinh Thánh vào đời sống người tín hữu Do thái. Các Kinh Sư giảng dạy luật đạo và đào tạo những người thừa kế để nội dung của lời giảng dạy được truyền lại qua bài bản cho thế hệ kế tiếp.
Một bản ngụy tác của Sách Giảng Viên xuất hiện giữa thời Cựu Ước và Tân Ước, đã dành những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi người Kinh Sư lý tưởng khi nói: "Người Kinh Sư được đầy tinh thần hiểu biết theo ý muốn của Thiên Chúa cao cả, nên sẽ nói những lời khôn ngoan và tạ ơn Chúa trong cầu nguyện. Người sẽ dẫn đưa lời chỉ bảo và kiến thức của mình theo chính lộ, đồng thời suy niệm những điều bí nhiệm mình đang đeo đuổi. Người sẽ vạch cho thấy điều Người chỉ bảo qua giảng dạy, nên sẽ được vinh quang nhờ Luật của Thiên Chúa Giao Ước! Sẽ có nhiều kẻ ca ngợi sự hiểu biết của Người và lời ca ngợi ấy không bị xóa đi. Người sẽ được tưởng niệm mãi chứ không bị quên, và danh thơm Người sẽ còn mãi qua các thế hệ. Các dân nước sẽ công bố đức khôn ngoan của Người - và cộng đoàn sẽ cao rao lời ca tụng Người (Gv ngụy tác 39,6-11).
Những đám đông khi nghe Đức Giêsu giảng bài Tin Mừng đầu tiên về Nước Thiên Chúa, họ nhận ra ngay "Người giảng như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ" (Mt 7,29).
Một Kinh Sư có thể là thành viên hay không là thành viên của phe phái Pharisêu.
Hình ảnh người Pharisêu thời Đức Giêsu
Pharisêu có nghĩa là những người tách biệt theo nghĩa chữ Hipri. Đó là những người giáo dân Do thái giáo cam kết về hai điều này: một là tuân giữ cách khắt khe các qui định Do thái giáo liên quan tới những đòi hỏi về trong sạch theo phụng tự; hai là chu toàn cách tỉ mỉ những bổn phận trong đạo, như nộp thuế thập phân cho Đền Thờ, thực hiện những cuộc thanh lọc đúng như đòi hỏi của nghi lễ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh người Pharisêu đối địch với Đức Giêsu, nhưng cũng nên nhớ rằng một số người Pharisêu sau này gia nhập Kitô giáo, mà nổi bật hơn cả là Phaolô, vị tông đồ của dân ngoại.
Vào thời Đức Giêsu, con số người Pharisêu được ước tính khoảng 6,000, theo sử gia Giuse (Josephus) gốc Do thái. Con số ấy không đông nhưng ảnh hưởng của họ vẫn lớn như thấy nơi các hội đường Do thái giáo. Ở đây người ta đọc kinh nguyện và tổ chức phụng vụ theo nề nếp của người Pharisêu, mặc dầu quyền bá chủ trên các hội đường này thuộc phe Xađốc là phe quyền lực về chính trị.
Ảnh hưởng của người Pharisêu phát sinh do hai lý do. Một là giới bình dân rất kính trọng họ bởi lẽ họ cam kết giữ đạo cách nghiêm nhặt. Hai là có một số người Pharisêu tham dự thượng hội đồng tối cao Do thái giáo, như chính Đức Giêsu nhìn nhận khi nói "Các kinh sư và người pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy" (Mt 23,12).
Về giáo lý, người Pharisêu tỏ ra chính thống khi họ tin có thế giới siêu nhiên trong đó có các thiên thần của Thiên Chúa, có sự sống bất tử với kẻ lành sống lại sẽ được Thiên Chúa ban thưởng. Họ tin vào lời chứng của Kinh Thánh cho biết Thiên Chúa sẽ phái một vị được xức dầu tấn phong (Mêxia) tới để hồi phục lại tự do cho con cái Ítraen.
Họ tin Kinh Thánh Cựu Ước là Lời của Thiên Chúa nói với loài người; nhưng đồng thời họ còn tin rằng nhà lãnh đạo Môsê đã truyền khẩu lại cho dân Thiên Chúa một bộ luật ngang hàng với Kinh Thánh và bộ luật ấy được lưu giữ nơi truyền thống Pharisêu. Đó là lý do tại sao người Pharisêu đã đến chất vấn Đức Giêsu khi nói: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?" (Mt 15,2).
Điều trái ngược là trong khi dân chúng hết mức kính trọng người Pharisêu về lối sống nghiêm nhặt, thì người Pharisêu lại ra mặt khinh rẻ dân chúng. Họ dám nói về đám dân tin theo Đức Giêsu rằng "còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!" (Ga 7,49).
Đức Giêsu với người Pharisêu
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự xung khắc giữa Đức Giêsu và người Pharisêu. Vấn đề giáo thuyết không được đặt ra vì về giáo lý, người Pharisêu tỏ ra khá chính thống như nói ở trên. Nhưng về nếp sống thì người Pharisêu đặt cơ sở trên truyền thống của tiền nhân, đó là điều Đức Giêsu phủ nhận ngay ở bài giảng đầu theo Tin Mừng Mátthêu. Người tuyên bố rõ nhiều lần rằng: Luật xưa dạy như thế này... còn bây giờ tôi dạy khác chứ không như vậy (x. Mt 5,21-26; 27-30; 31-32; 33-37, 43-48).
Thế là ngay từ đầu, Đức Giêsu đã công khai đối kháng lập trường của người Pharisêu. Cuộc đối kháng này trở nên ngày một trầm trọng. Lần đầu tiên Đức Giêsu làm phép lạ để chữa người bị bại tay trong ngày sabát, theo Mátthêu, liền bị người Pharisêu chống đối và bàn bạc để tìm cách thủ tiêu Người (x. Mt 12,9-14). Tin Mừng Máccô cho thấy Đức Giêsu vạch trần điều sai lầm cơ bản nơi người Pharisêu khi nói: "Các ông lấy truyền thống mà các ông đã truyền lại cho nhau để hủy bỏ Lời Thiên Chúa" (Mc 7,13). Đức Giêsu đau đớn nói lên rằng: "Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luât là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các ngươi lọc con muỗi nhưng lại nuốt con lạc đà!" (Mt 23,23-24)
Lời tuyên bố vừa nêu của Đức Giêsu, tóm tắt điều Người chỉ trích người Pharisêu, là họ chú trọng về việc cần làm theo truyền thống, mà bỏ quên ý nghĩa đích thực của Cựu Ước. Thánh thiện không hệ ở cố gắng tuân giữ các luật về nghi thức trong đạo. Thánh thiện hệ ở chính bản thân người tín hữu có lòng thành tín, đức công bình và lòng thương xót.
Gương lành của Đức Giêsu
Riêng với người Kitô hữu, chìa khoá để hiểu bài Tin Mừng hôm nay chính là bản thân Đức Giêsu. Từ máng cỏ, nơi Người sinh ra, cho tới cây thập tự, nơi Người chết đi, lời giảng dạy của Đức Giêsu được tóm gọn bằng gương lành Người nêu cho các môn đệ: "Anh em hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi thì êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,29). Đức Giêsu mới là vị lãnh đạo và là Thầy vì Người là con đường, là sự thật và là sự sống. "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Duy mình Chúa Cha tuyệt đối; không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa. (GLGHCG, số 239).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn có thiện cảm hay ác cảm với hình ảnh sau đây về người Pharisêu: Họ nói mà không làm (c.3)? Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy (c.5)? Ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc (c.6)? Ưa được chào nơi công cộng (c.7)?
2. Còn về Đức Giêsu, hình ảnh nào đối với bạn hấp dẫn, ngược lại với hình ảnh người Pharisêu?
--------------------------------
Vào một buổi tối kia ở tỉnh Berlin có một bé trai đi lạc đường. Trong khi em đang ngơ ngác, bối: TN31-A17
Vào một buổi tối kia ở tỉnh Berlin có một bé trai đi lạc đường. Trong khi em đang ngơ ngác, bối rối và sợ hãi vì màn đêm mỗi lúc càng phủ dầy. Bé chợt trông thấy một bà ăn mặc rất sang trọng, vào loại quý phái, bé mừng rỡ vội vã chạy tới hỏi: "Bà ơi, xin bà chỉ dùm cháu đường đi tới Kudamm". Người đàn bà nhìn em với nét mặt nghiêm nghị và nói: "Này cháu bé, trước hết bà muốn nói với cháu ít điều: Một, Cháu không được nói với bà là bà ơi nhưng cháu phải dùng câu lịch sự "Thưa bà". Thứ hai, chỗ cháu muốn tới là Kurfuerstendamm chứ không phải như cháu gọi là Kudamm. Điều thứ ba, khi cháu nói chuyện với người lớn, cháu không được để tay ở trong túi quần nghe". Nghe tới đây cậu bé nhanh nhẹn đáp lại bà: Những điều đó phức tạp quá. Như vậy cháu thích đi lạc đường hơn. Thế là cậu bé biến dạng vào trong đêm tối.
Qua câu truyện thực tế trong cuộc sống cũng như những lời giáo huấn của Chúa cho chúng ta thấy, người đàn bà quý phái, là người muốn tỏ ra là người rất thông thạo sự giao tế ở đời và muốn làm bậc thầy mọi nơi, mọi lúc. Còn các kinh sư và những người Phari-siêu, họ cũng là những người thông luật, chuyên viên về luật, là những người quan trọng trong đời sống chính trị và tôn giáo thời bấy giờ, vì thế họ cũng rất có uy tín đối với dân chúng. Chính vì thế họ rất nghiên nhặt trong việc giảng dậy đạo lý chân truyền của Mô-sê. Nhưng những giải thích cá nhân của họ đã được Chúa cảnh cáo và căn dặn dân chúng phải đề phòng, phải ý thức vì lối sống của họ rất khác với giáo lý họ dậy và Chúa cũng đã mạnh mẽ chỉ trích họ: "Vậy những gì họ nói thì anh em làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm".
Qua những tư tưởng đơn sơ trên, chúng ta hãy đọc lại bài Phúc Âm hôm nay với ánh sáng Thần Linh Chúa hướng dẫn để chúng ta lấy ra từ những mẫu người này một tấm gương cho chúng ta có thể đứng trước mà soi, nhờ sự phản ảnh đó mỗi người nhìn được rõ đời sống đạo thực tế của mình như thế nào! Chúng ta có bị xếp vào loại người sống đức tin chỉ theo hình thức như họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rap-bi. Đó là những người rất chăm chỉ đi dự Thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện mỗi ngày, nhưng sau đó họ sống với những lời kinh nguyện như thế nào trong gia đình, ngoài xã hội, chúng ta có đưa được con người dễ thương của Chúa Kitô đến cho người khác bằng chính cuộc sống của ta không? Đây là dịp mỗi người chúng ta hãy dừng lại trước những tấm gương trên đây để tự kiểm điểm đời sống đức tin của mình.
--------------------------------
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sự mẫu thuẫn cứ càng ngày càng chồng chất giữa quan niệm của các người biệt phái, Pharisiêu: TN31-A18
Sự mẫu thuẫn cứ càng ngày càng chồng chất giữa quan niệm của các người biệt phái, Pharisiêu, các vị lãnh đạo tôn giáo trong xã hội Do Thái và cái nhìn đổi mới của Chúa Giêsu. Lời Chúa trong các bài đọc phụng vụ Chúa nhật 31 thường niên, năm A, không chỉ là lời kết án trút xuống trên thái độ giả hình của những thành phần có nhiều đặc quyền đặc lợi thời Chúa Giêsu sinh sống, nhưng là lời mời gọi mọi người sám hối, đề phòng thái độ giả hình của những người biệt phái, Pharisiêu và những vị lãnh đạo tôn giáo có quá nhiều ưu đãi trong xã hội lúc đó. Chúa mời gọi con người phục vụ trong khiêm tốn và để chính Cha ở trên trời đánh giá, định liệu và thưởng công.
NÓI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM
Cái nghịch lý của những người Pharisiêu, biệt phái, đầu mục, tư tế và những người có chức có quyền trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu là nói nhiều mà không làm. Họ bầy ra muôn vàn lề luật tỉ mỉ,muôn vàn những tục lệ, tập quán, nhưng những điều ấy họ chỉ muốn chất trên vai kẻ khác, còn họ thì bình chân như vại. Điều Chúa Giêsu đưa ra ở đây là nhắn nhủ các môn đệ và đám đông rằng những gì họ rao giảng thì hãy giữ lấy nhưng đừng bắt chước gương xấu của họ. Quả thực họ chỉ là cái máy ghi âm, họ chỉ sống bề ngoài mà không có chiều sâu gì cả. Còn các môn đệ và những người tin vào Chúa thì phải tuân giữ những điều Chúa truyền dậy.
Chúa Giêsu trong lời Ngài hôm nay cũng muốn cho các môn đệ và mọi người tin thấy được cái xấu, cái hời hợt, sự bề ngoài xem ra có vẻ hì hợm, có vẻ mẽ của những người Pharisiêu, biệt phái và hàng lãnh đạo tôn giáo lúc đó. Họ làm cái gì cũng muốn khoe khoang, nếu không nói được là họ muốn la to lên, la vang lên để cho mọi người thấy họ đang làm việc này việc kia, họ đang thực hiện việc kia việc nọ. Họ chà đạp quyền lợi của những người khác để mình được nâng lên. Chúa Giêsu đi ngược lại quan niệm này và muốn các môn đệ, các người tin Chúa hãy tôn trọng tha nhân, phục vụ họ trong yêu thương vì họ là hình ảnh sống động của Chúa.
Trong đoạn cuối của Tin Mừng Chúa nhật nầy, Chúa Giêsu chỉ ra một đường lối chủ đạo: chỉ có một Thầy, một Đấng chỉ đạo, còn tất cả đều là anh em với nhau. Người Do Thái, Pharisiêu và biệt phái muốn lãnh đạo người khác với quyền lực họ chiếm đoạt được, còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài không phải là quyền lực mà là hiện thân của tình thương, kêu gọi mọi người đi vào công cuộc cứu độ của Chúa nơi trần gian.
VẪN PHẢI PHỤC VỤ MỌI NGƯỜI THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU
Chúa nói: "Ai muốn làm lớn, phải làm bé trước đã". Muốn làm lớn phải làm đầy tớ phục vụ mọi người.Theo quan niệm của Chúa: quyền cao chức vị là do Thiên Chúa ban cho. Đã lãnh nhận địa vị, quyền cao là để phục vụ mọi người, chứ không phải để xa lìa con người. Chúa đã từng nói: " Ta đến để phục vụ,chứ không phải để được hầu hạ". Gương của Chúa Giêsu đã để lại là cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Chúa Giêsu luôn nói và luôn làm theo điều mình nói. Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà không thực hiện điều mình nói.
Chúa đã làm gương cho các môn đệ, cho nhân loại để mọi người noi gương Chúa phục vụ với cung cách đơn sơ và khiêm nhượng. Con người theo Chúa Kitô có để cho mình rơi vào thái độ giả hình như các biệt phái và Pharisiêu không? Con người có niềm tin có dám tự phụ để mình trở thành rào cản cho người khác tới với Chúa khi mình rơi vào thói giả hình, theo đạo mà chỉ đóng khung đạo trong bốn bức vách nhà thờ, xóm đạo, mà quên đi đạo Chúa Kitô là đạo tình thương cần phải chiếu tỏa tình thương ấy cho những người khác.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1.Anh chị có phục vụ theo cung cách Chúa Giêsu ?
2.Anh chị có trở thành rào cản cho người khác không tới với Chúa được không ?
3.Anh chị đã sống khác với người Pharisiêu làm sao ?
--------------------------------
Câu hỏi gợi ý:
Động lực căn bản nào khiến những người Pha-ri-siêu hành động như vậy? Ta có bị thúc đẩy: TN31-A19
1. Động lực căn bản nào khiến những người Pha-ri-siêu hành động như vậy? Ta có bị thúc đẩy bởi động lực đó không?
2. Nếu mọi việc tốt đẹp ta làm đều làm nhằm để được tiếng khen, để được ca tụng, thì người khác có nghĩ rằng ta tốt, ta đạo đức không? Thiên Chúa sẽ đánh giá ta thế nào? Trước mặt Ngài, đạo đức của ta là đạo đức gì?
3. Muốn thánh thiện đích thực, ta phải xây dựng sự thánh thiện đó trên nền tảng nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tật xấu chung của con người: muốn được mọi người nể phục tôn trọng, muốn được hơn người khác
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay hai phần rõ rệt diễn tả hai tinh thần đối chọi nhau. Phần đầu nói lên tinh thần «phình to bản ngã» của người Pha-ri-siêu, thích đặt nặng «cái tôi», đưa «cái tôi» của mình lên trên «cái tôi» của người khác. Còn phần sau là tinh thần «tự hủy» của Đức Giê-su, là tinh thần từ bỏ mình, quên mình, xả kỷ, đặt «cái tôi» của mình dưới «cái tôi» của kẻ khác.
Tinh thần «phình to bản ngã» không chỉ là tâm lý của những người Pha-ri-siêu, mà còn là tâm lý của đại đa số nhân loại chúng ta. Chúng ta thích được mọi người nể phục, ca tụng, đề cao; thích khoe những ưu điểm, thành tích của mình; thích có địa vị hay quyền lực trong xã hội hay Giáo Hội; thích được người khác phục vụ, qụy lụy; ai nói đụng chạm đến mình thì tỏ ra bực bội; thấy những người chung quanh hơn mình thì đâm ra buồn nản, ganh tức, v. v.. Tâm lý như thế là tâm lý rất bình thường, không mang tính bệnh hoạn. Nó chỉ trở thành bệnh hoạn khi trở nên quá đáng, nghĩa là ước muốn được hơn người trở thành một nỗi ám ảnh, hay biến ta thành một người đầy tham vọng, và muốn thỏa mãn những mong ước ấy với bất cứ giá nào, bất chấp phải làm những điều trái lương tâm... Tình trạng bệnh hoạn ấy sẽ khiến tâm hồn ta thường xuyên mất bình an và làm người khác khó chịu.
Muốn nên thánh, ta phải vượt lên trên tâm lý bình thường ấy. Nếu ta thắng vượt được tâm lý đó, thì ta đã trở nên hơn người bình thường một bậc. Và lên được bậc này là lên được bậc căn bản nhất để nên thánh rồi. Thật vậy, không ai có thể nên thánh nếu vẫn còn trong tình trạng tâm lý coi «cái tôi» của mình là «cái rốn của vũ trụ», là hơn hết mọi người, và coi ý riêng, ý kiến, quyền lợi mình cao hơn ý riêng, ý kiến, quyền lợi người khác.
2. Coi chừng kẻo thứ đạo đức của ta đang được xây dựng trên tâm lý muốn «phình to bản ngã»
Khi ta tự đặt ta cao hơn người khác hoặc những gì của ta cao hơn của người khác thì ta cũng mong muốn, thậm chí đòi hỏi người khác phải coi ta hơn bản thân họ, hoặc những gì của ta hơn của họ. Một người luôn đặt nặng «cái tôi» của mình như thế vẫn có thể được mọi người coi là đạo đức, thậm chí là «đạo cao đức cả», nhờ tuân giữ chi tiết và hoàn hảo các luật lệ tôn giáo, hoặc làm được những việc phúc đức lớn lao như những người Pha-ri-siêu thời Đức Giê-su. Họ sẵn sàng tuân giữ mọi quy luật tôn giáo, làm những hành động tốt, không phải vì mến Chúa yêu người, mà vì muốn được mọi người chung quanh nể phục, ca tụng, coi mình là người đạo đức, và nhờ đó, tín nhiệm mình, tôn mình lên những địa vị cao trong xã hội hay Giáo Hội.
`Nhưng trước con mắt Thiên Chúa, tinh thần «phình to bản ngã» ấy làm hỏng tất cả những gì có vẻ tốt đẹp của họ. Tinh thần ấy đã biến những hành vi đạo đức như đọc kinh cầu nguyện, làm phúc bố thí, có vẻ yêu thương… thành những hành vi vị kỷ. Vì những hành vi ấy không xuất phát từ động lực yêu thương. Trước mặt Thiên Chúa, giá trị đạo đức của một hành động phần rất lớn hệ tại động lực thúc đẩy: càng vị tha, càng vì yêu thương thì càng có giá trị, còn càng vị kỷ thì càng giảm giá trị. Điều này thánh Phao-lô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3). Những hành vi ấy, cho dù vĩ đại, có vẻ đầy tình thương, hay đem lại lợi ích cho rất nhiều người khác, nhưng vì không được thúc đẩy bởi động lực yêu thương, nên chẳng có giá trị trước Thiên Chúa, và chẳng đem lại lợi ích tâm linh cho ta. Khi làm vì ta, thì ta đã đạt được những lợi ích trần thế, nghĩa là «đã được phần thưởng rồi» (Mt 6,5b).
Chính trong viễn ảnh này mà câu Kinh Thánh sau đây trở nên dễ hiểu: «Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?... Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» (Mt 7,22-23). Việc nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, tự bản chất đều là những việc đạo đức, nhưng nếu làm với động lực vị kỷ chứ không phải vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì về tâm linh. Nếu dựa vào những việc đạo đức kém giá trị ấy để lên mặt tự hào và khinh khi người khác, thì những việc ấy lại trở thành tội ác! Vì thế, muốn nên thánh, ta cần phải thường xuyên thanh luyện động lực khi làm những điều thiện, những việc đạo đức.
3. Sự thánh thiện đích thực được xây dựng trên nền tảng tự hủy, quên mình, xả kỷ, yêu thương
Thứ đạo đức của người Pha-ri-siêu được xây dựng trên nền tảng «phình to bản ngã», nên đó là thứ đạo đức giả, có thể được người đời lầm tưởng mà đánh giá cao, nhưng trước mặt Thiên Chúa chẳng có giá trị gì. Đức Giê-su muốn chúng ta, những kẻ theo Ngài, là những người đạo đức thật sự. Nghĩa là đạo đức của ta phải được xây dựng trên nền tảng tự hủy và yêu thương. Ngài khuyên chúng ta đừng ham được mọi người gọi mình là «ráp-bi», là «cha», là «thầy», là «người lãnh đạo»... nghĩa là đừng ham được mọi người nể phục, kính trọng, đề cao, đừng khao khát quyền lực, địa vị... Hãy tự coi mình là một số không, chẳng có gì đáng tự hào, đáng cậy công... Vì xét cho cùng, ta chẳng có một điều gì có giá trị do tự ta làm ra cả. Tất cả những gì có giá trị nơi ta đều đến từ Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: «Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?» (1Cr 4,7).
Khi ta tự hào với người khác về đạo đức, tài năng, lòng can đảm... thì điều ấy giả thiết rằng ta đã tự coi những thứ tốt đẹp ấy là do ta chứ không phải do ai khác. Thế là ta đã trở thành kẻ vô ơn đối với Thiên Chúa, vì không gì ta có mà không phải do Ngài ban. Gio-an Tẩy giả nói với những người Pha-ri-siêu: «Đừng tự hào rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham» (Mt 3,9). Cũng vậy, Thiên Chúa có thể biến những kẻ vô dụng, hèn kém nhất trong thế gian này, những kẻ mà ta đang khi rẻ thành những kẻ đạo đức và tài năng hơn ta. Và Ngài cũng có thể giảm các ân huệ Ngài vẫn ban cho ta, lập tức lúc đó ta trở thành kẻ không ra gì. Biết bao người đang được mọi người coi là cao cả mà chỉ vì bị mất ơn Chúa đã trở thành kẻ tầm thường! Như vậy, người hiểu biết và khôn ngoan đích thực sẽ không bao giờ dám tự hào về mình điều gì. Thánh Phao-lô khuyên: «Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa» (1Cr 1,31; x. 2Cr 10,17).
Một người đạo đức thật sự sẽ không «làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy» (Mt 23,5), «cốt để người ta khen» (Mt 6,2) như những người Pha-ri-siêu, mà trái lại sẽ làm theo lời khuyên của Đức Giê-su: «Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm» (Mt 6,3); «khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo» (6,6). Những việc tốt đẹp ấy nếu ta không làm vì ta, để vinh danh ta, mà làm vì yêu thương, vì ích lợi của tha nhân, thì dù nhỏ mọn, chúng vẫn có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Còn nếu làm vì ta, để được khen, được nể phục, thì việc ấy dù có lớn lao đến đâu, cũng trở nên vô giá trị trước Thiên Chúa, bất chấp chúng được người đời ca tụng thế nào. Vậy chính tinh thần tự hủy, quên mình, xả kỷ, vị tha khi hành động mới làm cho hành động của ta có giá trị, và giúp ta nên thánh thật sự.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: «Cha dựng nên con từ hư vô, và dựng nên người khác cũng từ hư vô. Tự bản chất và tự bản thân con, con chẳng hơn người khác một chút nào. Ngược lại người khác cũng chẳng hơn con chút nào. Con có hơn người khác được điều gì, thì do chính Cha đã ban đủ ơn để con hơn được như vậy. Thế thì con có lý do gì để lên mặt với những kẻ thua kém con? Rất có thể một lúc nào đó, Cha sẽ lại cho những kẻ kém con, những kẻ con khinh thường ấy hơn con. Tốt hơn là con hãy quên con đi, đừng tự coi mình là gì cả. Chính thái độ ấy làm cho con trở nên cao cả trước mặt Cha, làm đời sống con hạnh phúc và tốt đẹp biết bao! Cha mong con có thái độ ấy».
--------------------------------
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc. Đức Giêsu bảo ta đừng để ai: TN31-A20
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc. Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy, vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ... Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen. Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8)
Vậy đâu là điều Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa. Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu. Nếu họ được gọi là cha, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh, tôi cũng không được quên chân lý này: còn tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha trên trời. Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu. Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28). Đức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo. Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật. Giả hình là không làm điều mình dạy người khác, là dễ dãi với chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân. Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình, làm việc tốt để người ta thấy và thán phục. Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình, tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ, dám "đốc" chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối, vì mở cho chúng ta những chân trời xa, cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi nghĩ với điều tôi nói, giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều đều có chút giả hình. Bạn nghĩ gì về sự giả hình của bạn ?
Quyền hành thường làm con người hư hỏng. Bạn thấy có cách nào để tránh mối nguy hiểm này không ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời kinh đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn, và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn. Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và chính mình. Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành, để chúng con được lớn lên trong bình an.
--------------------------------
Sr Jean B. Minh Nguyệt
Mt 23,1-12
Chỉ Có Một Thầy, Một Vị Chỉ Đạo: Đức Giêsu Kitô
“Một ngày, Đức Giêsu về Nagiarét là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường và đứng lên đọc Sách Thánh. Đọc xong, Người ngồi xuống và nói: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,6.22). “Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư của họ”. (Mt 7,28-29).
Chỉ xin trích dẫn hai câu Kinh thánh trên đây để dẫn nhập vào bài suy niệm hôm nay: Đức Giêsu TN31-A21
Chỉ xin trích dẫn hai câu Kinh thánh trên đây để dẫn nhập vào bài suy niệm hôm nay: Đức Giêsu Kitô là vị Thầy, là bậc Tôn sư đích thực. Tên gọi Đức Giêsu torng nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là Đấng Cứu Độ. Nhưng trước khi hoàn thành sứ mệnh cứu độ bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, Đức Giêsu là Thầy và là vị Thầy Độc Nhất với đầy đủ trọn vẹn ý nghĩa của danh xưng Thầy.
Mở Phúc Âm ra, trong từng chữ từng dòng xuất hiện, chúng ta được chiêm ngưỡng diện mạo vừa uy nghiêm khả kính vừa giản dị khiêm tốn của Đức Giêsu. Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân (Mt 4,23).
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội Do Thái lúc bấy giờ, đã có các thượng tế, kỳ mục, luật sĩ, biệt phái, các kinh sư, những người Pharisêu và Xađốc. Đó là những người quyền uy, giàu có, thuộc các nhóm lãnh đạo tinh thần trong dân Do Thái. Họ có nhiệm vụ giải thích lề luật cho dân. Nhưng buồn thay, họ lại là những kẻ giả hình, những kẻ dẫn đường mù quáng. Phúc âm theo thánh Matthêu, nơi chương 23, từ câu 1-39, chúng ta đọc thấy nhưng lời quở trách nặng nề của Đức Giêsu. Ngài không nói quanh co, nói xa xa, nói bóng gió, nhưng Ngài điểm mặt chỉ tên: Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng! Đồ mãng xả, nòi rắn độc kia! Các ngươi trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục?
Đối diện với nhóm lãnh đạo quyền thế giả hình, ưa khua chiêng đánh trống, “nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là _ThầyỴ”, Đức Giêsu tự giới thiệu một mẫu tôn sư “độc nhất vô nhị”: Anh em hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Thầy, và hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách thầy êm ái và gánh Thầy nhẹ nhàng. (Mt 11,28-30)
Lời giảng dạy và cách sống của Chúa Giêsu làm nổi bật chính Con Người của Ngài. Nơi Ngài, chúng ta tìm thấy tư cách đầy đủ của Đấng vừa là Thầy, là vị Chỉ Đạo, vừa là Thầy Thuốc, là Đấng Cứu Độ và là Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu tự xưng: Thầy là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Thầy là Ánh Sáng thế gian. Ai theo Thầy sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Thầy là Bánh Trường Sinh. Ai đến với Thầy, không hề phải đói. Ai tin vào Thầy, chẳng khát bao giờ! (Gn 14,6;8,12;6,35). Quả thật, không một ông thầy này trên trần gian này lại có thể quả quyết những điều Chúa Giêsu vừa nói và hội đủ cùng một lúc tất cả những điều kiện cao cả trên đây!
Là tín hữu giáo dân, sao tâm lòng chúng ta lại hoang mang bấn loạn? Chúng ta quên rằng mình có một vị Thầy là chính Đức Giêsu Kitô sao? Sao chúng ta lại dại dột đi tìm kiếm những ông thầy: thần tượng giả dối ở trần gian này? Giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hômm nay mời gọi từng người, hãy trở về với vị Thầy, vị Chỉ Đạo đích thực là Đức Giêsu Kitô. Hãy noi theo gương sống, hãy thực hành giáo huấn của Ngài. Hãy hoàn toàn phó thác và tin tưởng nơi Ngài. Rồi chúng ta sẽ có được sự sống và sự sống đời đời.
Sr Jean B. Minh Nguyệt
-------------------------------
Mt 23,1-12
Trong sử các đấng tổ phụ tu hành có chép chuyện một thầy ẩn tu nổi tiếng nhân đức. Khi biết: TN31-A22
Trong sử các đấng tổ phụ tu hành có chép chuyện một thầy ẩn tu nổi tiếng nhân đức. Khi biết mình sắp lìa cõi đời, thầy xin Bề trên dòng đến ban các Bí tích sau cùng. Tình cờ một tên trộm khét tiếng trong vùng cũng đến chỗ của thầy ẩn tu. Thấy thầy cả làm các phép trong đạo, tên ăn trộm động lòng thống hối và được ơn trở lại. Cho mình không xứng đáng vào phòng thầy ẩn tu, hắn chỉ đứng ngoài và kêu lên: “Ôi, chớ gì tôi được phúc như thầy”. Thầy ẩn tu nghe thấy lấy làm đắc ý và đáp lại: “Ừ, thật đó, giả mày được giống như tao, thì còn phúc nào bằng.”
Rồi tên ăn trộm liền chạy đi xưng tội. Nhưng vì chạy mau quá, nên đâm đầu xuống vực thẵm mà chết. Vị ẩn tu được tiếng là nhân đức cũng chết sau một vài ngày. Một thầy ẩn tu khác trước vốn ở chung với thầy này khóc thương cho bạn mình, nhưng lại vui cho kẻ trộm đã chết. Có người hỏi tại sao, thì thầy trả lời: “Người trộm chắc được rỗi linh hồn vì đã có lòng ăn năn tội. Còn thầy ẩn tu đã hư đi đời đời vì kiêu ngạo.”
Thầy ẩn tu trong chuyện thuộc vào loại thầy “nói mà không làm” (Mt 23,3). Thầy làm những việc nhân đức cốt để cho người ta trông thấy và khen ngợi. Thầy thích được gọi là “Rabbi “ (thầy hoặc vĩ nhân) nơi công cộng và chiếm chỗ nhất trong đám tiệc. Khoác áo nhà tu, nhưng không có tinh thần tu trì, thầy mắc hai lỗi lớn trong đường thiêng liêng: giả hìnhvà kiêu ngạo.
Tại sao thánh sử Matthêu lại chống việc gọi các vị lãnh đạo tinh thần là “thầy” hoặc “cha”? Tiếng “Rabbi” được dùng vào khoảng năm 60-80 A.D. để chỉ về những vị thầy Do Thái có quyền giảng dạy luật Môisen. Theo mạch văn và theo hoàn cảnh lịch sử, thánh sử Matthêu chống lại nh”ng vị lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ hơn là danh xưng. Ông Saul Ben Batnith (ca.80-120) là vị lãnh đạo tinh thần đầu tiên dùng danh xưng Abba, “cha”. Mặc dầu Thánh kinh ngăn cản việc dùng danh xưng này, nhiều vị ẩn tu đã dùng danh xưng Abba để chỉ về những người cha tinh thần.
Theo Cha Benedict T. Viviano, OP., nhà chú giải Thánh kinh, những Kitô hữu tin chỉ có một Cha trên trời và một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, cũng có những vị “cha” và “thầy” giữ vai trò chuyển tiếp (transitory role). Những vị “cha” và “thầy” đó giúp cho những người theo Chúa hiểu về người Cha nhân lành và vị Thầy khả ái là Chúa Giêsu Kitô. Những vị “cha” hay “thầy” chuyển tiếp này nên được gọi là “ngôn sứ, hiền nhân, và kinh sư”. (Mt 23,34)
Vấn đề ở đây không phải là dùng danh xưng nào cho chỉnh hơn, nhưng là làm sao để sống đúng với danh xưng của mình. Nếu mình là “cha” hoặc “thầy” thì phải làm sao cho đời sống nội tâm phù hợp với danh tính và cử điệu bên ngoài của mình. Càng ý thức mình là những vị lãnh đạo tinh thần của dân Chúa, “cha” và “thầy” càng phải hại mình xuống và phục vụ hết sức mình (Mt 23,11). Nếu được thế thì chắc chắn người Cha trên trời sẽ được kính mến và vị Tôn sư duy nhất sẽ được tôn vinh.
NS Trái Tim Đức Mẹ Br Vincent Quốc Thanh, CMC
-------------------------------
Bài Đọc 1: Malakia 1,14- 2,2. 8- 10
Thiên Chúa cảnh cáo các tư tế và dân chúng vì họ đã đi sai đường lối của Chúa. Các tư tế thì vị nể: TN31-A23
Thiên Chúa cảnh cáo các tư tế và dân chúng vì họ đã đi sai đường lối của Chúa. Các tư tế thì vị nể khi thi hành lề luật. Còn dân chúng thì phản bội không tuân giữ giao ước. Cả tư tế lẫn dân chúng sống gương mù làm cho nhiều người vấp phạm. Do đó, Thiên Chúa sẽ để cho họ bị túng thiếu, bị khinh dể và đốn mạt trước mọi dân tộc. -Làm sao để biết chúng ta có đang sống và đi trong đường lối của Thiên Chúa hay không? Sống thế nào là sống gương mù và sống thế nào là làm gương mù? -Khi thấy người khác sống sai đường lối của Chúa và gây gương mù thì bạn xử sự ra sao?
Bài Đọc 2: 1 Thess 2,7- 9. 13
Thánh Phaolô nhấn mạnh đến hai điểm trong việc rao giảng Tin Mừng: - Người tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng vì tình yêu chứ không vì kinh tế tiền bạc. "Chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho anh em." Người rao giảng Tin Mừng cũng dấn thân hy sinh hết mình cho dân chúng. "Chúng tôi muốn trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa." - Người nghe rao giảng biết đón nhận Tin Mừng bằng đức tin. Phao lô quý mến các Kitô hữu Thessalonica vì họ nghe giảng Tin Mừng không như nghe lời của người phàm, mà nghe lời của Thiên Chúa. Họ đã tin và để cho lời Chúa hoạt động trong họ. - Khi làm việc tông đồ, hay khi có bổn phận trông coi, khuyên dạy người khác bạn đã làm với tinh thần và thái độ như thế nào? - Thế nào là một bài giảng hay? Mỗi khi nghe giảng hay được người khác khuyên bảo, nhắc nhở, bạn có thái độ ra sao?
Bài Phúc Âm: Mt 23,1- 12
Chúa Giêsu khuyên các môn đệ và dân chúng hãy nghe lời giảng dạy của những người Biệt phái và Pharisiêu vì họ là những người có thẩm quyền, nhưng đừng bắt chước hành vi của họ. Họ nói hay nhưng không làm. Người môn đệ của Chúa không làm việc để khoe khoang; không đi tìm địa vị; không mong được người khác để ý; không quan tâm đến danh xưng; không mong được gọi là thầy, hay là cha. Chỉ có Thiên Chúa là Cha và Đức Kitô là Thầy. Còn tất cả đều là anh chị em với nhau và phục vụ nhau trong tinh thần khiêm tốn.
Một người không muốn ứng cử hay đảm nhận một nhiệm vụ lãnh đạo trong giáo xứ hay trong một đoàn thể vì 'khiêm nhường' không muốn tìm địa vị, chức tước; như thế có phải là tinh thần của Chúa dạy không? Tại sao? Muốn làm lớn và thành công ngoài xã hội trần thế chúng ta cần có những đức tính nào? Và muốn làm lớn và thành công trong Nước Thiên Chúa chúng ta cần có những đức tính nào?
Bài Giảng Gợi Ý
Một bà đến thưa với vị linh mục, "Thưa cha con khổ quá tại vì đã lâu lắm rồi nhà con bỏ không đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không biết làm sao khuyên nhà con được."
Cha hỏi, "Vậy thì ông nhà có nói lý do tại sao ông bỏ không chịu đi nhà thờ và không xưng tội rước lễ không?"
Bà trả lời, "Thưa cha, ông nhà con ông ấy rất là gàn, nhưng ông ấy nói cũng có lý nên con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy được. Nhà con nói rằng: 'Tôi thấy có qúa nhiều người giả hình. Họ siêng năng đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ, ăn chay kiêng thịt, gia nhập hội đoàn này, tổ chức nọ, nhưng chẳng có tinh thần đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ thì ê a đọc kinh và rầm rang ca hát, nhưng về nhà thì sống bê bối, ra xã hội thì sống tham lam, hẹp hòi ích kỷ. Nhiều người còn gian lận, bỏ vạ cáo gian, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu người khác. Đến nhà thờ tôi chỉ thấy toàn là những người giả hình! Đi lễ đi nhà thờ mà như thế thì vô ích đi làm gì! Họ cũng đâu có khá gì hơn tôi đâu!"
Nghe như thế, cha nói với bà: "Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà đừng cãi với ông làm gì, bà về nói với ông như thế này, 'Cha bảo là cha đồng ý với ông trăm phần trăm. Ông nói rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến để gia nhập đầy nhà thờ cho vui!'"
Chúng ta không ai có thiện cảm với những người nói mà không làm. Chúng ta càng ghét những người giả dối bề ngoài nói thánh nói tướng lên mặt đạo đức giảng cho người khác, nhưng đời sống riêng tư của họ lại bê bối không sống theo điều họ rao giảng. Các bài đọc hôm nay dạy chúng ta phải tránh lối sống giả dối ngôn hành bất thuận như thế. Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Malakia để cảnh cáo các tư tế và dân chúng vì họ đã hủy bỏ giao ước; sống vị nể, và đi sai đường lối làm cho nhiều người vấp phạm. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc phê bình những người Biệt phái và Pharisiêu là giả hình, vì họ đã sống quá xa lạ với những lời họ giảng dạy. Họ nói một đàng làm một nẻo.
Thái Độ Của Luật Sỹ và Biệt Phái
Luật sỹ là những nhà chuyên môn về luật. Họ là những người được tuyển chọn làm tư tế, và làm thầy dạy thiên hạ. Pharisiêu là những người biệt phái; tuy họ không phải là những người được học có bằng cấp cao, không phải là tư tế, nhưng họ là những người được biệt phái làm đầu trong dân. Họ tận tình và tỉ mỉ giữ lề luật. Họ rất hãnh diện về địa vị lãnh đạo trong tôn giáo, về sự yêu mến tôn trọng lề luật và lòng sùng đạo của họ. Họ thích được nhìn nhận và được coi là gương mẫu cho thiên hạ. Họ muốn tài năng của họ phải được người khác nhận ra và được ngưỡng mộ cũng như được tưởng thưởng xứng đáng. Họ chuộng được người khác chú ý.
Chúa Giêsu nhìn thấu tỏ lòng dạ của các Luật sỹ và Biệt phái. Ngài biết là họ không rao giảng Thiên Chúa mà là rao giảng chính họ và những kiến thức hiểu biết của họ. Hiện tượng dài dòng kinh kệ và mặc áo tua rua chỉ là sự trình diễn phô trương, bởi vì trong thực tế họ đã lơ là hay bỏ qua tinh thần đức tin, sự công bình và lòng nhân ái. Họ trống rỗng và nông cạn, không tốt lành và cũng chẳng thánh thiện. Lối sống của họ là lối sống tìm sự vinh hoa giả tạo cho bản thân, chú trọng đến bề ngoài và nặng tinh thần thế tục.
Nói cách khác, họ đã nói những bài nói đạo đức, nhưng đã không bước đi trên con đường đạo đức. Họ trình bày những nguyên tắc sống đạo, nhưng lại không sống đạo. Họ nói thánh nhưng không sống thánh. Họ thích đứng nơi công cộng để được chú ý và được kính trọng, nhưng lại không có những tư cách xứng đáng để được kính trọng. Họ thích được ngồi bàn trên và chỗ danh dự, thích được gọi là thầy, nhưng lại không có tư cách của một vị thầy. Kết quả là việc rao giảng của họ tạo ra nhiều khuấy động rối loạn và sai lạc; gây đau khổ và thiệt hại cho nhiều người. Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự giả dối của ho, và Ngài đã không ngần ngại lên án lối sống giả tạo và giả hình như thế.
Chúng ta sẽ lầm lẫn nếu chúng ta chỉ phân tích và nhận định thái độ của những người Biệt phái và Pharisiêu. Trong một cách nào đó chúng ta cũng có những hình thức và lối sống kiêu ngạo, và giả hình của Pharisiêu.
Loại giả hình thứ nhất là nói mà không làm đúng theo lời mình nói. Rất ít người trong chúng ta dám nói rằng chúng ta đã thực hành tất cả những gì chúng ta nói hay những điều chúng ta tin. Chúng ta cũng dễ dàng mặc cho mình những cái tốt đẹp bề ngoài. Chúng ta tô điểm cho cái tôi xã hội, cái tôi công cộng một vẻ bề ngoài thật lịch sự, đạo đức, liêm sỉ hơn với con người thực sự của chúng ta. Hoặc nhiều khi lòng chúng ta không trong sáng đủ để sống với một chủ đích là tìm vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta còn tìm mình và tìm hư danh cho mình.
Loại giả hình thứ hai xấu xa hơn một khi chúng ta không những không thực hành mà còn không tin cả những điều chúng ta rao giảng. Chúng ta công bố lớn tiếng nơi công cộng chỉ vì chúng ta muốn lấy lòng người nghe và chiêu mộ người ta để đạt tư lợi. Chúng ta nói hay, giảng hay, tô điểm bề ngoài với những cử chỉ đạo đức thanh liêm để che mặt thiên hạ, nhưng trong lòng không tin nhận. Rồi trong đời sống tư lại có một lối sống ngược lại với những gì chúng ta rao giảng. Chúng ta lên án người này người kia sống bê tha tội lỗi, trong khi chính mình cũng vụng trộm tình nghĩa lăng nhăng, hoặc kín đáo làm những điều vô luân bất nghĩa, bất chính. Hoặc với người ngoài và với khách hàng thì chúng ta lịch sự khiêm tốn để chiếm được cảm tình của người ta, nhưng khi trở về nhà thì chúng ta lại không đối xử lịch sự với những người thân trong gia đình; chúng ta đánh đập hành hung hay chửi bới con cái. . . Sống như thế có nghĩa là còn giả hình. Sống như thế là sống hai lòng, hai mặt. Sống như thế là vừa kiêu ngạo vừa lừa bịp. Và Chúa Giêsu không bị lừa bởi tất cả những lớp vỏ bề ngoài giả hình như thế.
Tinh Thần Người Môn Đệ Chúa Kitô
Chúa Kitô đòi các môn đệ của Ngài phải sống điều mình rao giảng. Không ai được muốn người khác gọi mình là thầy hay là cha. Tất cả là anh chị em với nhau. Hơn thế nữa những người môn đệ của Chúa Giêsu phải biết quý trọng và chú ý đến tinh thần phục vụ trong khiêm tốn. Lời của Chúa Giêsu là một thách đố cho tất cả mọi Kitô hữu về tinh thần sống đạo và làm chứng về niềm tin của mình.
Cách đây không lâu, một người ở Port Arthur, TX biên thư thắc mắc về việc tại sao Giáo Hội lại bắt giáo dân gọi các linh mục là 'cha' trong khi Chúa Giêsu lại nói là đừng gọi ai dưới đất là cha, vì chỉ có một Cha trên trời? Và tại sao các cha lại tránh né không chịu giải thích? Tôi cũng cảm thấy khó khăn để giải thích. Tôi cũng cảm thấy ngượng ngùng khi xưng mình là 'cha' trong lúc nói chuyện với người khác.
Nhưng một lần có người gọi tôi là 'anh' thay vì gọi là 'cha' thì tôi cũng như một số người khác đứng đó đã cảm thấy có cái gì ngường ngượng nghe không thuận tai. Tuy nhiên danh từ 'cha' dùng để gọi các linh mục cũng chỉ là một tước hiệu nói lên tình liên hệ thiêng liêng trong Giáo Hội giống như địa vị làm cha trong tình liên hệ của người cha đối với con cái trong gia đình. Tước hiệu đó đã được dùng từ lâu do lòng quý mến và kính trọng của người giáo dân dành cho các linh mục là những người đại diện Thiên Chúa và là hiện thân của Chúa Kitô trong chức vị tư tế. Nếu chúng ta chú trọng quá nghiêm khắc vào từ ngữ thì chúng ta không hiểu đúng ý của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu có ý nói là không ai được tự đặt mình vào địa vị làm Cha như Thiên Chúa, và cũng không được coi bất cứ ai dưới đất là Cha thay thế Thiên Chúa. Chỉ có một chức vị Cha chân thật là Thiên Chúa, và chỉ có một Thầy chân thật là Đức Kitô. Điểm Chúa Giêsu nhấn mạnh là "Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi." Do đó có lẽ chúng ta không nên quá quan tâm đặt vấn đề khi người giáo dân gọi các linh mục là 'cha', nhưng chúng ta có thể đặt vấn đề nếu thấy các linh mục của mình không có tinh thần phục vụ như Chúa Giêsu mong muốn và đòi hỏi.
Trong tinh thần phục vụ Tin Mừng chân chính, Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã thẳng thắn tâm sự với giáo đoàn Thessalonica rằng, "Anh em còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: Chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em" (1 Thes 2:9).
Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đã tâm sự như sau:
Là một sinh viên ở Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời. Đó là thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi. Trong một cuộc bàn luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, "Anh sẽ không bao giờ tìm gặp được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi." Lúc đó tôi đang khảo cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong cùi, và tôi đã tới đây. Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được Thiên Chúa. Bạn sẽ không tìm được Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.
Trích Người Tín Hữu; Lm. John Trần Khả
----------------------------------
* Their words are bold but their deeds are few *
Xúc phạm Giao ước. Các ông đã gây ra nhiều nản chí bởi những lời chỉ dẫn; các: TN31-A24
Bài đọc 1/1st Reading: Mal. 1,14; 2, 2,8- 10= Xúc phạm Giao ước. Các ông đã gây ra nhiều nản chí bởi những lời chỉ dẫn; các ông đã không tuân giữ đường lối Ta./ Violating the Covenant. "You (priest) have cause many to falter by your instruction;...you do not keep My (God's) ways.
Bài đọc 2/2nd Reading: 1 Thess 2, 7- 9; 13= Theo Chúa tốt lành. Đoạn này cho Ta biết nên nhìn thế nào về tư tế của họ với những con mắt Đức Tin. Bạn không nhận...của con người; nhưng của Lời Chúa / God's Good Tidings.This passage tells us how Christians should look at their priests with the eyes of Faith.... But receive the Word of God.
Tin Mừng (Gospel): Math. 23, 1- 12= Nhân đức Khiêm nhường. Đức Giêsu đã chống lại với cách gĩư luật của người Pharisêu. Là dân chúa, ta phải chú ý tới Sứ điệp được dẫn giải hôm nay../ The virtue of Humility. Jesus had opposed the legalism of the Pharisees. God's people could heed the message as explained in the Theme.
A. Gợi ý Cảm nghiệm, Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Đức Giêsu nói với các môn đệ về các kinh sư: "Nhũng gì họ nói thì anh hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm." Nhiều tín hữu thường kêu trách người khác là lời nói không đi đôi với việc làm,rồi nản lòng không muốn giữ đạo. Tôi đã làm gì để thực hành luật Chúa? Do everything and observe everything they tell you. But do not fellow their example. (Math. 23, 3 )
2/ Ngài còn nói thêm: "Phần anh em đừng để ai gọi mình là ráp-bi, vì anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả đều là anh em với nhau." Theo thói quen từ lâu, danh từ Thầy, Cha hay Người lãnh đạo đã được dùng để tỏ ra kính trọng những nguời phục vụ mình. Bạn có những thái độ và tác phong nào khi phuc vụ người khác? Avoid being called "Rabbi ". Only one is your teacher, the rest are learners. (Math. 23, 8)
3/ Lời Chúa phán qua tiên tri Ma-la-khi như sau: "Ta sẽ làm các ngươi đáng khinh và ra hèn mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không giữ đường lối ta, và hay nể vì khi áp dụng luật." Không muốn nghe và lưu tâm đến người khác.Làm sai, gây hoang mang là điều cần tránh. Để mọi người tôn vinh Chúa, tôi phải làm gì? Have made you contemptible and base before all the people, since you do not keep My ways. (Mal.2, 9 )
4/ Thánh Phaolô đã có thái độ và gương mẫu như sau: "Chúng tôi quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em không những Tin Mừng của Chúa, mà cả mạng sống nữa." Cách cư xử hiền lành dịu dàng , tình thương ấp ủ như người mẹ là điều tốt nhất. Thường ngày bạn sống cho gia đình và giáo xứ thế nào? We toward you, that we wanted to share with you not only God's tidings but our very lives. (1Thess.2, 8)
B. Những câu Kinh Thánh đánh động tôi nhiều nhất tuần này: (The Best God’s Words of this week)
NHỮNG GÌ HỌ NÓI, ANH EM HÃY LÀM HÃY GIỮ, NHƯNG ĐỪNG THEO HÀNH ĐỘNG CỦA HỌ... TRONG ANH EM, NGƯỜI LÀM LỚN HƠN CẢ, PHẢI LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ ANH EM. AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG, AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ DƯỢC NÂNG LÊN. (Mat. 23: 3, 11, 12)
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để lời nói đi đôi với việc làm: ( So what am Idoing / For Action.)
a/ Tôi chọn 1 trong 4 gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành trong hoàn cảnh của mình.
b/ Bạn thành thật, khiêm tốn nhận lỗi lầm, tận tậm phục vụ một việc thật tốt cho Gia đình và Giáo xứ.
D. Tôi cầu nguyện cho nhau và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practices / Pray in Action )
1/ Lạy Cha, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô đã dạy con: Ai trong anh em người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Xin cho con luôn có tâm hồn khiêm tốn, cử chỉ dịu dàng và quí mến anh em.
2/ Lời Tiên tri Malachi nhắc bảo con: Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã hủy hoại giao ước với Lê-vi. Xin chỉ cho con biết tuân giữ đường ngay lối thẳng của Chúa
Lời hay ý đẹp: KHI BẠN TẬP TRUNG VÀO CHÚA, NGÀI SẼ CHỮA LÀNH TÂM HỒN BẠN As you focus on the Lord, He will heal your heart Praise can lift the burden of grief. Huyền Đồng
----------------------------------
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn: TN31-A25
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không ?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì mình công chính và đạo đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy được chân dung hai mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha niềm nở tiếp đón, thì anh ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu dàng khoan dung, thì anh ta đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về lòng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của con…
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về, không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
------------------------------
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần: TN31-A26
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói: “Tôi thích bản dịch Phúc âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn những bản dịch cũ. “Người thứ hai thêm ý kiến: “Tôi lại thích bản dịch của The New Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh”. Người thứ ba trả lời: “Tôi biết một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh vào trong đời sống, và đó là bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy tình thương luôn luôn để tâm tới những nhu cầu của người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài sống trên trái đất”. Với ý kiến này, tất cả ba người đều đồng ý như vậy !
Thánh Matthêu đã diễn tả một cách rõ ràng cuộc đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công việc đầy tình thương và quan tâm tới những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến những người cùi, đã ôm và hôn những em bé, đã khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi những kẻ tự cho mình là đạo đức, đã chết cho những người hèn mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một ai: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ trong tinh thần khiêm tốn của Thiên Chúa: “Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”.
Bài đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đã viết những lời gay gắt về những vị lãnh đạo tinh thần của Israel trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị… Dĩ nhiên, Malachi là một người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong phẩm trật của đền thờ. Nhưng như là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số vấn đề về tôn giáo đáng bị quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm của ông đã bắt ép ông phải nói những lời khó nghe với những vị lãnh đạo tinh thần của mình: “Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền dành cho các ngươi: Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ”.
Nhiều năm sau, dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, những điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên những người Biệt phái và các Kinh sư “ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy… họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy… ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc… ưa được chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rabbi”.
Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu tiên của các thầy sáu. Thích không phải vì chứng kiến sự run rẩy và lúng túng. Thích không phải vì tò mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng thuyết hay không. Nhưng thích vì các thầy sợ ! Sợ không phải vì đứng trước công chúng. Sợ không phải vì không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua lớp giảng thuyết rồi ! Nhưng sợ và rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời mình giảng có phù hợp với việc mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh ! Còn ngại miệng lắm !
Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần đầu tiên giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói nhiều điều chính mình chưa thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi mình nói và cái tôi mình sống nó không mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập với nhau thì lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt ! Nói hăng và nói hay nữa. Nhưng lại được giáo dân khen là giảng hay ! Càng hay tức là càng nói những lý tưởng cao cả mà mình chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và đáng bị Chúa mắng cho là “Họ nói mà không làm”!
Tôi không lấy làm lạ trước những điều Chúa Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt trái của chức vụ tư tế ở mọi thời đại. Người thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát biểu những lời hay ý đẹp. Chủ tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo đã có một cái gì đó làm cho người ta cảm thấy rằng một số người đã đạt tới một mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây giờ họ đáng được sự kính trọng hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục là một điển hình. Gặp các cha thì phải khoanh tay cúi đầu: “Con xin phép lạy cha ạ !” Lạy mà còn phải xin phép nữa!
Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách nào đó, đã làm mờ nhạt ý nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để trở thành những người đầy tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đã giải thích:
“Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các vị chủ chăn và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em mình, để tất cả những ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu độ”.
------------------------------
Con người mang lấy thừa tác vụ của Giáo Hội dễ lạm dụng chức thánh của mình và quên đi: TN31-A27
Con người mang lấy thừa tác vụ của Giáo Hội dễ lạm dụng chức thánh của mình và quên đi trách nhiệm phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Vào thời điểm lịch sử của Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ hiện nay, đang khi có những lời tố cáo về việc lạm dụng tình dục trẻ em bởi các linh mục và một số giám mục, hơn bao giờ hết, sự đòi hòi về tư cách lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm trở nên cấp bách và cần thiết. Và, một lần nữa, ai là những vị tiên tri nói lên những lời cảnh giác trong tình thế hiện nay của Giáo Hội? Họ lại là những người giáo dân giống như tiên tri Malachi!
Trong lúc theo dõi những diễn tiến của Hội đồng Các Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ ở Dallas vào tháng 6 năm 2002, những người giáo dân như Scott Appleby, giáo sư sử học của trường đại học University of Notre Dame, và bà Margaret O’Brien Steinfels, chủ bút tạp chí Commonweal, đã nói về các giám mục rằng các ngài đã thất bại thê thảm trong vai trò trách nhiệm của mình để chăm sóc những con người dễ bị tổn thương nhất, con cái của chúng ta. Có lẽ chưa bao giờ có một giai đoạn trong lịch sử Công giáo Hoa Kỳ, những người lãnh đạo tinh thần đã bị công khai chỉ trích bởi giáo dân như hiện nay. Và cũng chưa bao giờ có những lời chỉ trích thực sự mang tính chất muốn sửa đổi và xây dựng như hiện nay…
Dĩ nhiên, phê bình chỉ trích thường liên hệ với một lý tưởng. Sự phê bình về thái độ của các thầy tư tế của tiên tri Malachi và của giáo dân nhằm vạch ra một con đường tốt đẹp hơn cho đời sống tôn giáo. Tự bản chất của các thừa tác vụ là để phục vụ cho Chúa Kitô và Giáo Hội như sách Giáo lý Công giáo số 876 đã dạy: “Được gắn liền cách nội tại với bản chất bí tích của thừa tác vụ Giáo Hội, là đặc điểm phục vụ của thừa tác vụ này. Đúng thế, các thừa tác viên hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Kitô là Đấng ban sứ mạng và uy quyền cho họ, và họ thật sự là “những nô lệ của Chúa Kitô”.
Vấn đề phục vụ được Giáo Hội kêu gọi, không phải chỉ dành cho các giáo sĩ, hay tu sĩ, nhưng còn cho mọi người Kitô hữu như là môn đệ của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta bằng chính gương sáng của ngài trong thư thứ nhất gửi cho người Kitô hữu của Thêsalônica: “Trong khi chúng tôi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi đã quý mến anh chị em đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh chị em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa…”
Những lời của thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm lắng nghe lời Chúa, công bố lời Chúa và sống lời Chúa. Tất cả chúng ta được gọi để sống một cách nguyên vẹn và đầy đủ vai trò “chăm sóc” mà thánh Phaolô diễn tả. Chúng ta được kêu gọi để cùng nhau làm việc biến đổi trái đất này thành vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta được kêu gọi để chăm sóc lẫn cho nhau, và đặc biệt những người đã bị tước đoạt mất những nhân quyền căn bản và những nhu cầu của họ vì bất công, bạo lực và vì sự lãnh đạo vô trách nhiệm. Chúa Giêsu đã gọi những người Kitô hữu bước theo Ngài là “ánh sáng thế gian”, có nghĩa là mỗi người Kitô hữu phải chia sẻ vai trò lãnh đạo của Ngài.
Tuy nhiên, bổn phận của chúng ta phải được thi hành trong tinh thần khiêm tốn như Chúa Giêsu khuyên dạy: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Chúng ta được gọi không phải để đóng vai trò quyền lực hay kiêu hãnh, nhưng để phục vụ như những người đầy tớ khiêm tốn của Thiên Chúa.
Trong những ngụ ngôn Aesop có kể câu chuyện “Ngựa và con lừa”. Ngày xưa, có người kia nuôi ngựa và lừa để chúng giúp việc trong nhà. Ông có thói quen bắt lừa phải chở hàng nặng đến gần quỵ, trong khi lại để ngựa thong thả theo sau với mớ đồ nhẹ tênh. Ngày kia, cả ba lên đường. Con lừa vì đau yếu mấy ngày nên than thở với ngựa rằng: “Tôi khó chịu quá ! Anh chở hộ tôi ít món. Nếu không tôi chết mất”.
Con ngựa đá giò lái, bảo lừa im đi kẻo gây rắc rối cho nó. Con lừa im lặng, ráng bước thêm nửa dặm nữa rồi lăn ra chết. Ông chủ tháo hết hàng đặt lên lưng ngựa. Không những thế, ông còn đặt luôn xác của con lừa xấu số lên lưng ngựa nữa. Bấy giờ, ngựa mới than thở: “Than ôi ! Bây giờ tôi mới thấy cái tai hại của tính ích kỷ”.
Vai trò của Chúa Giêsu được diễn tả trong Phúc âm thánh Matthêu là vai trò Người Đầy Tớ của Thiên Chúa. Chúng ta, các giáo sĩ tu sĩ và giáo dân, được gọi để chia sẻ những khả năng tinh thần, vật chất và ngay cả chính đời sống của mình phục vụ cho tha nhân. Khi chúng ta phục vụ cho Giáo Hội và nhân loại, chúng ta được biến đổi từ những con người tội lỗi trở thành những con người mang Thần Khí của Thiên Chúa, Thiên Chúa của tình yêu thương và phục vụ.
------------------------------
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của: TN31-A28
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pharisêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính ? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hìng, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: “Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật”, nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pharisêu không còn, nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dẫu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm”. Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không ? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không ? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày “cháy nhà ra mặt chuột”. Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không ? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
------------------------------
Một trong những bài viết của Ralph Emerson, ông đã đặt một câu hỏi như sau: "Làm thế nào: TN31-A29
Một trong những bài viết của Ralph Emerson, ông đã đặt một câu hỏi như sau: "Làm thế nào để đo lường sự thành công?" (How do you measure success?) Ông đã trả lời bằng cách đưa ra ba điểm sau:
Biết quí vẻ đẹp (to appreciate beauty).
Biết tìm ra những ưu điểm ở người khác.
Biết làm cho thế giới trở nên tốt hơn bằng những gì mình có thể.
Trong chúng ta, có lẽ không mấy người thấy phương thức trên có gì đáng cho chúng ta công kích cả. Chẳng có mấy ai lại cãi rằng biết đánh giá đúng về những vẻ đẹp, hoặc tìm ra những ưu điểm ở kẻ khác, hoặc để lại cho thế giới những điều gì tốt đẹp lại không phải là đã sống thành công. Tuy nhiên, xét cho cùng, phương thức trên chưa phải là một phương thức để đo sự thành công một cách hoàn hảo.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đi xa hơn Ralph Emerson về sự thành công. Ngài đã phán rằng, "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em" (Mt 23:11). Rất nhiều người trong chúng ta có lẽ thấy điều này thật là quá sức của chúng ta có thể làm được.
Một học sinh trung học đã viết một tấm thiệp cho bà ngoại của nó đang nằm trong bệnh viện: "Thưa ngoại, mẹ con nói là ngoại đang là nằm bệnh viện để trắc nghiệm (you are in the hospital for tests). Cháu rất mong là ngoại sẽ lấy được điểm A!" Đó cũng là điều mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho tất cả những người muốn theo Ngài, "Ai là người lớn nhất, hãy phục vụ." Ngài mong muốn tất cả chúng ta đều lãnh điểm "A" về môn "Phục Vụ Tha Nhân."
Sự sinh tồn của chúng ta dựa bằng những gì chúng ta lãnh nhận, nhưng cuộc sống của chúng ta dựa trên những gì chúng ta trao ban (we make a living by what we get, but make a life by what we give). Không phải vị trí (position) của chúng ta làm cho cho chúng ta vui sống, nhưng là cách thức của chúng ta. Trong cuốn sách "The Kingdom Within" (Vương Quốc Ở Bên Trong), tác giả John Stanford đã kể lại thời niên thiếu của ông. Vào những mùa hè, ông thường trở về sống tại một căn nhà ngoại ô vùng nông trại tại New Hampshire. Ông còn nhớ cái chỗ đó thật là đơn sơ, không có điện, hoặc những ống nước như thời nay. Điểm mà ông vẫn chú ý là người nhà của ông thường lấy nước ở một cái giếng ở gần đó. Cái giếng này đã cho những người nhà của ông nước để sử dụng trong mọi công việc. Lúc nào nó cũng có nước, cho dù là trong lúc hạn hán... Sau đó một thời gian, ngôi nhà nông trại đã được sửa sang lại một cách khang trang có đầy đủ tiện nghi hệ thống điện và nước
Sau đó một vài năm, ông trở về căn nhà nông trại khang trang đó. Do sự tò mò thúc đẩy, ông đã lần mò ra cái giếng. Bây giờ nó đã được đậy lại. Trong khi gỡ các tấm đậy nắp giếng ra, trong đầu ông, ông cho rằng nó vẫn còn nước như những năm trước đây. Thế nhưng, thật là một sự bất ngờ, sau khi mở ra và nhìn xuống, cái giếng đã bị khô cạn từ lúc nào.
Ông đã đi tìm hiểu lý do tại sao cái giếng lại bị cạn khô như thế. Sau một thời gian, ông đã hiểu ra được lý do tại sao cái giếng bị khô cạn. Khi người ta lấy nước ở cái giếng, thì những mạch nước nhỏ ở dưới lòng đất sẽ cứ tuôn chảy nước vào cái giếng, và nhờ sự di chuyển này các mạch nước không bị tắc nghẽn. Thế nhưng khi người ta ngưng không múc nước ở trong giếng ra nữa thì các mạch nước bị nghẹt lại và không chảy nước vào trong giếng nữa.
Đó là một bài học rất quí giá cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Đạo Công Giáo đòi buộc chúng ta phải cho đi những gì mình có trong khả năng của mình. Ơn thánh của Chúa hằng luôn đổ tràn trên chúng ta không bao giờ ngừng. Những món quà mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta cũng không bao giờ ngưng. Thế nhưng tâm hồn của chúng ta bị khô cạn là bởi vì chúng ta đã không biết dùng những gì mà chúng ta đã lãnh nhận.
"Người lớn nhất trong anh em phải là người phục vụ tất cả những người khác." Có dễ làm không? Có lẽ không. Tuy nhiên, các bạn hãy thử đi, rồi các bạn sẽ thấy thích. Các bạn hãy thử đi rồi các bạn sẽ cảm nghiệm được niềm vui khôn tả trong tâm hồn khi phục vụ kẻ khác bởi vì qua đó, cuộc sống của chúng ta được trở nên sung mãn và dồi dào hơn.
----------------------------------
Dân tậc Ấn Độ là dân tộc đã có nhiều nền văn minh rất xa xưa. Họ có hai câu hỏi đáp như sau: TN31-A30
Dân tậc Ấn Độ là dân tộc đã có nhiều nền văn minh rất xa xưa. Họ có hai câu hỏi đáp như sau:
Hỏi cái gì dễ nhất trền đời?
Thưa cái dễ nhất trên đời, là dậy bảo người khác.
Hỏi cái gì khó nhất trên đời?
Thưa cái khó nhất trên đời là thi hành điều mình bạy bảo.
Chúng ta hãy cố gắng Giáo Hội nhớ những điều Chúa phán, và cũnh luôn luôn tự vấn lương tâm: thường ta chỉ nói mà không làm, ta thích buậ những bó nặng và chất lên vai người khác, còn chính ta lại không muốn giơ ngón tay lay thử.
Tại tỉnh đường Nam Định, Thánh Mai Văn (tử đạo ngày 12-8-1838, 57 tuổi) được dẫn ra tòa. Quan khuyên Cha Năm bỏ đạo. Ngài trả lời:
“Tôi là đạo trưởng làm sao dám bỏ đạo hay đạp ảnh hưởn tôn thờ. Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng, thà chết không bỏ đạo, thì tôi phải giữ lời tôi đã khuyên dạy người khác chứ. Nếu đạo trưởng mà không dám chịu chết vì đạo, thì ai chịu chết vì đạo.”
Đỗ Mai Năm, sinh năm 1781 tại Đông Biên, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh hóa. Mai Năm đi tu từ hồi nhỏ, sau một thời gian học tại chủng viện Vĩnh Trị, thầy Năm ở lại chủng viện dạy học. Thầy Năm tính tình vui vẻ hiền hòa nên các trẻ em rất mến thầy. Thầy học thêm thần học và năm 1813 được tấn phong Linh mục xứ đạo cho đến năm 1830, lại trở về Vĩnh Trị dậy chủng viện cho tới ngày bị bắt.
Ngày 2-7-1838, Tổng đốc Lê Văn Đức chỉ huy cuộc bủa vây làng Vĩnh Trị. Vừa nghe tin, Cha Giacô bê Đỗ Mai Năm lú ấn đang ẩn trú trong nhà ông trùm Antôn Nguyễn Đích, định trà trộn với đám dân chúng làm cơm cho quan tổng đốc. Nhưng chưa kip ra khỏi nhà thì quân lính ập đến.
Ngay lúc ấy hai nừ tên Tý và Xuân được quan thuê đi dò thám nơi ở của các đạo trưởng, trước đã giả xin việc trong nhà ông Lý Mỹ (là con rể ông Đích) liền đến chỉ vào Cha và kêu lên: “Đúng đạo trưởng ở nhà này đây.” Cha Năm điềm tĩnh trả lời: “phải chính tôi đây.”
Thế là Cha Năm bị bắt cùng với cụ trùm Đích, người chủ nhà chứa chấp, và con rể ông Đích là ông Mỹ.
Các quan làm án xử trảm Cha Mai Năm, ông Đích và ông Mỹ. Bản án được đề lên triều đình trên châu phê. Ngày 12-8-1838, ba chứng nhân Tin Mừng được biết Vua Minh Mạng đả y án. Các ngài vui mừng hớn hở chuẩn bị tâm hồn lãnh nhận Bí tích hòa giải và rước Mình Thánh Chúa cách sốt sắng. Cũng ngày ấy, ba vị anh hùng hân hoan bước đến nơi xử, vừa đi vừa hát bài Thánh Ca: “Chúc tụng Chúa đi, hết thảy công trình Chúa. Muôn ngàn đời hãy ca ngợi suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, các Thiên sứ của Ngài. Chúc tụng Chúa đi, chín tầng trời thăm thẳm… Nào chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mãi muôn đời cùng ca tụng suy tôn…” (Dn 3,57…)
Đến pháp trường Bảy Mẫu, ba chứng nhân quỳ gối cầu nguyện một lúc. Ông Lý Mỹxin xử Cha Giacô bê Mai Năm và cụ Antôn Nguyễn Đích trước, quan chấp thuận. Dân lương cũng như giáo phá vòng vây của binh sĩ, ùa vào thấm máu các Đấng tử đạo. Thi hài các đấng được rước về làng Vĩnh Trị ngay trong đêm đó, giữa một rừng đèn đuốc sáng rực cả góc trời. Đến sau, hài cốy của ba vị được đem đến nhà chung Kẻ Sở (Ninh Phú).
Trước khi bị điệu ra pháp trường, quan cho dẫn Thánh Đaminh Hạnh (tử đạo ngày 1-8-1838, 66 tuổi) và Thánh Bênađô Duệ lên tòa lần chót, để hỏi xem có đổi ý hay không, Thánh Hạnh trả lời:
“Được chết vì đạo là điều tôi mong đã lâu, rầy sự ấy đã gần, thì tôi vui mừng lắm.”
Hai Cha được dẫn ra tòa sau khi hỏi về sinh quán và chức vụ Cha Hạnh, quan nói: “Vậy ông dạy dân chúng những gì?”. Cha đáp: “Tôi dạy bảo người ta làm diều lành tránh điều dữ.” Quan lại hỏi: “Tại sao không bước qua Thập Tự”.Cha đáp: “Bẩm quan, Thập Tự đối với chúng tôi là tượng trưng cho ơn cúu độ, nên không ai được chà đạp, vì đó là một trọng tội”. Quan nói: “Xem kìa đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho.” Nhưng Cha Đaminh Hạnh bình tĩnh giải thích cho quan về đạo rồi kết luận: “Kẻ trung thành với Chúa Giêsu,khi chết sẽ được lên thiên đàng”.
Quan hỏi: “Thế những người không tôn thờ ông Giêsu, chết sẽ đi đâu?” Cha đáp “xuống hỏa ngục”. Câu trả lời đã làm cho quan phừng phừng lửa giận tiện tay cầm quạt đập ngay vào đầu Cha một cái, chửa mắng Cha thậm tệ và cho lính đánh 15 roi. Đánh xong, quan bắt Cha mang gông xiềng về ngục
Cha hạnh còn phải ra tòa nhiều lần nữa. Một lần quan đưa ra mẫu ảnh Đức Mẹ bảo Cha đạp lên thay vì Thánh giá, nhưng Cha kính cẩn cầm lấy hôn. Việc tôn kính Đức Mẹ ấy được quan ban thưởng 100 đòn.
Thấy không thể làm hai nhà truyền giáo đổi ý, các quan làm án gửi vào kinh, xin vua châu phê. Án ấy như sau:
“Chúng thần đã tra khảo hai tên Vũ Văn Nhuệ và Nguyễn Văn Hạnh. Hai người này đã bị bọn Gia Tô lừa bịp và theo đạo Gia Tô từ lâu. Chẳng những chúng tin, mà còn giảng đạo ấy cho người khác tin theo nữa… Xem ra đạo ấy đã thấy vào tâm can bọn ấy đến nỗi không thể bỏ được. Vậy chúng thần luận cho hai tên này án trảm quyết, để ai nấy đều biết tội chúng nặng, đáng phải phạt thế ấy.”
Nghe tin bản án đã được ký, Cha hạnh tỏ ra sung sướng và vững mạnh hơn nữa. Cha tranh thủ những ngày giờ còn lại để ủy lại các bạn tù giải thích về đạo cho lính gác. Ngày 24-7, Cha chính Fernandez hiền bị đem đi xử, Cha Hạnh được dẫn đến dinh quan án thì mừng rỡ tưởng sẽ được tử đạo với Cha Chính, nhưng Cha chỉ muốn nhốt Cha ở một nơiTuần lễ cuối cùng ở một nơi giam riêng, Cha Hạnh tuy không còn bị trận đòn nào khác nữa, nhưng quan cho người này đến người khác vào để quyến rũ Cha bỏ đạo. Có người nói: “Ông không thoát chết được đâu.” Cha đáp: “Phải, sự chết thì đã hẳn rồi. Trước tôi cứ tưởng là được chết với Cha Chính thì nay tôi chẳng được sự ấy thì lấy làm buồn lắm.” Lần khác, người của quan nói rằng nếu Cha bỏ đạo, quan sẽ đề bạt cho quan làm quan. Cha đáp: “Dù tôi được làm quan ngay hôm sau, tôi cũng không xuất giáo đâu. Tôi chỉ mong được làm con Đức Chúa Trời mà thôi.”
Ngày 1-8-1838, hai Cha Benađô Duệ và Đaminh Hạnh được dẫn đi xử. Từ sáng sớm, Cha Hạnh đã ngồi dậy đọc kinh, rồi chào từ biệt cám ơn các bạn tù đã giúp mình cách này cách khác. Quan cho dẫn hai quanlên tòa lần chót, để hỏi xem có đổi ý hay không. Cha Hạnh trả lời: “Được chết vì đạo là điều tôi mong đã lâu, rầy sự ấy đã gần thì tôi vui mừng lắm.” Cha Duệ già 38 tuổi được lĩnh võng đi trước, Cha Hạnh 66 tuổi mang gông xiềng nặng theo sau, tới khi kiệt sức mới được lính kéo đi. Thế nhưng Cha vẫn vui vẻ nói với các tín hữu đi theo rằng: “Anh chị em ở lại bình an, hai chúng tôi về Thiên đàng hưởng phúc vô cùng.”
Đến pháp trường Bảy Mẫu, Cha Hạnh nói với Cha già: “Đến nơi rồi, chúng ta hãy cầu nguyện sốt sắng hơn.” Hai Cha quỳ xuống, cầu nguyện. Lính tháo gông xiềng và trói hai đấng tử đạo vào cột. Tiếng chuông lệnh vang lên, hai lý hình thi hành phận sự, múa gươm chém, rồi tung hai thủ cấp lên cao cho mọi người thấy. Dân chúng ùa vào thấm máu tử đạo. Thi hài các đấng được chôn ngay tại pháp trường, đến sau tín hữu xin phép quan cho đưa về an táng tại nhà thờ Lục Thủy (Nam Định).
----------------------------------
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Đối với Chúa Giê-su và các Tông đồ thời kỳ đầu Ki-tô giáo cũng như với các Giáo hội Công giáo: TN31-A31
Đối với Chúa Giê-su và các Tông đồ thời kỳ đầu Ki-tô giáo cũng như với các Giáo hội Công giáo sau này, thì việc rao giảng Tin Mừng luôn đi đôi với việc xây dựng cộng đoàn Hội Thánh. Đôi khi việc xây dựng Hội Thánh còn khó khăn hơn cả việc rao giảng Tin Mừng, vì thường gặp rất nhiều trở ngại. Trở ngại đến từ lòng tham sân si và thói sống giả hình của con người, nhất là của những người lãnh đạo. Trở ngại còn đến từ tập quán thói quen của xã hội hay tôn giáo đã ăn rễ sâu vào tâm thức và cách hành sử của mọi người.
Đoạn Tin Mừng Mt 23,1-12 của Chúa nhật 31 Thường niên năm A hôm nay cho chúng ta sẽ thấy Chúa Giê-su và Thánh Mát-thêu muốn xây dựng Cộng đoàn Hội Thánh với tinh thần và phong cách sống và lãnh đạo mới, trong đó nổi bật tinh thần yêu thương, huynh đệ, bình đẳng và phong cách khiêm tốn, phục vụ. Nhưng các Ngài gặp không ít khó khăn từ những người lãnh đạo của Do Thái giáo là tiền thân của Ki-tô giáo.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 23,1-12: Các kinh sư và người Pha-ri-sêu gỉa hình (Mc 12,38-40; Lc 11,43-46; 20,45-47).
1 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 2 "Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. 3 Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ; còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. 4 Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5 Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7 ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi".
8 "Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "ráp-bi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. 9 Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10 Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. 11 Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. 12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 23, 1-12 trên, chúng ta khám phá Chúa Giê-su là Ai?
Nếu chỉ đọc qua đoạn Tin Mừng Mt 23,1-12, chúng ta dễ lẫm tưởng bản văn đề cập đến sự tranh chấp/xung đột giữa Chúa Giê-su và các kinh sư và biệt phái. Thật ra vào thời Chúa Giê-su quả là có sự tranh chấp/xung đột giữa Chúa Giê-su và thế lực đền thờ cũng như vào thế kỷ đầu của Hội Thánh có sự tranh chấp giữa cộng đoàn Mát-thêu với những người Do Thái có uy tín và thế lực trong hội đường. Nhưng ở đây Chúa Giê-su muốn đi từ thực tế cụ thể của một cộng đoàn Do Thái giáo để giáo huấn các môn đệ về tinh thần và phong cách mới phải có trong cộng đoàn Hội Thánh mà Ngài muốn thiết lập.
Đoạn Tin Mừng trên có thể chia làm hai phần: Phần thứ nhất (cc 1-7) là phần mô tả chân thực về tinh thần và cung cách lãnh đạo của các kinh sư và biệt phái và lời cảnh cáo Chúa Giê-su dành cho những người ấy. Phần thứ hai (cc 8-12) là giáo huấn của Chúa Giê-su về tinh thần và phong cách mới của cộng đoàn Ki-tô hữu. Hiểu như thế chúng ta sẽ dễ dàng khám phá dung mạo Chúa Giê-su và thông điệp của Lời Người gửi cho chúng ta hôm nay.
a) Mt 22, 34-40 cho ta thấy Chúa Giê-su là Đấng thấy rõ cách sống trọng danh vọng chức quyền thế gian và tinh thần kiêu căng, giả hình của các kinh sư và biệt phái là giới lãnh đạo dân chúng thời bấy giờ. Kinh sư là những người rành rẽ về luật, về Sách Thánh. Biệt phái là những người tự cho mình là ưu tú, vượt trội hơn người khác vì tuân giữ lề luật một cách máy móc hình thức. Họ làm nhiệm vụ giảng dạy, nhưng họ không thực thi những điều chính họ giảng dậy. Họ tạo gánh nặng cho người giáo dân và chạy theo danh vọng chức quyền.
(b) Mt 22,34-40 còn cho ta thấy Chúa Giê-su là Đấng tha thiết với việc xây dựng một cộng đoàn mới của các Ki-tô hữu mà chúng ta gọi là Hội Thánh Công giáo. Cộng đoàn ấy phải có một tinh thần mới, một phong cách sống và lãnh đạo mới. Chúa Giê-su nhấn mạnh đến tình thương huynh đệ và sự bình đẳng giữa mọi người trong cộng đoàn. Chúa Giê-su cũng nhấn mạnh đến cách sống khiêm tốn phục vụ mà mọi người trong cộng đoàn, nhất là những người giữ vai trò lãnh đạo, cần phải có.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 23, 1-12 dạy chúng ta điều gì?
Lời Chúa trong Mt 23,1-12 dạy: Cộng đoàn Ki-tô hữu hay Hội Thánh Chúa Ki-tô phải là một cộng đoàn khác hẳn với cộng đoàn Do Thái giáo. Những người được giao trọng trách lãnh đạo Hội Thánh phải khác hẳn với các kinh sư và biệt phái của Do Thái giáo. Khác về cả tinh thần lẫn cung cách sống và lãnh đạo. Tinh thần phải là tinh thần yêu thương, huynh đệ và bình đẳng. Phong cách sống và lãnh đạo phải là khiêm tốn, phục vụ.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
(1) Mỗi người hãy nhìn vào cộng đoàn của mình (hội đoàn tông đồ, dòng tu, giáo xứ, giáo phận) xem trong đó đã có tinh thần yêu thương, huynh đệ và bình đẳng chưa? Đã có phong cách khiêm tốn phục vụ mà Chúa Giê-su truyền dậy chưa?
(2) Cách riêng, mỗi người có vai trò (lớn hay nhỏ) lãnh đạo trong các cộng đoàn của Hội Thánh (hội đoàn tông đồ, dòng tu, giáo xứ, giáo phận) hãy nhìn xem mình đã có tinh thần yêu thương, huynh đệ và bình đẳng chưa? Đã có phong cách khiêm tốn phục vụ như Chúa Giê-su muốn chưa?
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đến trần gian để chỉ cho chúng con biết phải sống như thế nào để đẹp lòng Thiên Chúa Cha! Hôm nay Chúa dạy chúng con về tinh thần và phong cách sống và lãnh đạo trong cộng đoàn Hội Thánh của Chúa.
Chúa dạy chúng con tinh thần yêu thương, huynh đệ và bình đẳng. Thế mà trong cộng đoàn, chúng con thích, thậm chí rất thích, làm nổi bật những nét trái ngược với giáo huấn của Chúa: tinh thần phong kiến, giai cấp, quan liêu, cha chú (paternalisme).
Chúa dạy chúng con phong cách sống và lãnh đạo khiêm nhường, phục vụ. Thế mà trong cộng đoàn, chúng con thích sống tự cao tự đại, tìm hết cách để đưa mình lên và hạ người khác xuống. Chúng con thích được phục vụ hơn là hy sinh phục vụ anh em, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém.
Chúng con chẳng khác gì các kinh sư và biệt phái thời xưa. Chúng con chỉ giỏi nói mà chẳng giỏi làm! Chúng con chỉ giỏi tạo ra những gánh nặng cho người nghèo mà không muốn nhúng tay vào việc làm cho người nghèo bớt nghèo bớt khổ, làm cho xã hội bớt tham nhũng, hối lộ, lãng phí, phân biệt đối xử và độc tài chuyên chế.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, tội lỗi ngập đầu mà chúng con cứ tưởng mình là đạo đức thánh thiện! Xin Chúa mở rộng tấm lòng từ bi thương xót mà tha thứ và đón nhận chúng con. Xin Chúa ban Thánh Thần cho chúng con để Ngài thanh luyện và biến đổi chúng con và cộng đoàn chúng con. Để mọi thành phần Dân Chúa biết sống theo tinh thần và biết hành động theo phong cách mới mà Chúa đã dậy chúng con hôm nay. Có như thế mỗi người chúng con mới là chứng nhân, cộng đoàn Hội Thánh mới là cộng đoàn chứng nhân theo ý Chúa muốn, để thế giới tin rằng Chúa là Thiên Chúa thật và là Cứu Chúa của nhân loại. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 16.10.2005.
----------------------------------
VietCatholic News (26/10/2005)
LINH MỤC LÀ CHA ?
Lời Chúa Giêsu khẳng định: Đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời: TN31-A32
Lời Chúa Giêsu khẳng định: Đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời. (Mt 23,11-12). Người ta thường dựa vào câu thánh kinh này để biện hộ cho quan điểm không gọi Linh mục là Cha.Vậy phải hiểu câu nói Chúa Giêsu như thế nào ?
1. Tại sao gọi Linh mục là Cha ? Thói quen ấy có từ lúc nào trong Giáo hội ? Đâu là nền tảng của cách gọi này ?
“Cha” theo định nghĩa là một người đàn ông có một hay nhiều con. Một cách nào đó, Cha là người mang lại sự sống cho con.Do đó, bất cứ ai mang lại sự sống cho người khác, bằng cách này hay cách khác cũng đều có thể được gọi là Cha.Người ta cũng gọi một ai đó là Cha Già Dân Tộc khi người này đã hy sinh đấu tranh mang lại độc lập cho tổ quốc. Danh từ Cha ở đây được hiểu theo nghĩa loại suy. Chúng ta gọi Cha những người đàn ông nào đó có đặc tính của người Cha. Cũng như khi chúng ta chào hỏi một người là ông bà, chú bác thì không nhất thiết người đó phải có một liên hệ họ hàng với chúng ta. Danh xưng Cha được gán cho Linh mục cũng được hiểu theo nghĩa ấy.
Cách gọi này không phải là điều mới mẻ, ngay từ đầu lịch sử Giáo hội, các Giám mục được gọi là Cha, rồi dần dà người ta áp dụng cách gọi ấy cho các Linh mục.
Lý do gọi Linh mục là Cha thật đơn sơ và tự nhiên: Linh mục là thừa tác viên các bí tích. Ngài nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội để ban bí tích và sự sống ơn thánh. Qua lời dạy bảo, một cách nào đó Linh mục cũng nuôi dưỡng người Kitô hữu trong đời sống thiêng liêng. Do đó Linh mục đóng vai trò người Cha đối với các tín hữu.
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về sứ vụ và đời sống Linh mục đã nói về tương quan giữa Linh mục và giáo dân: Do bí tích thánh chức, các Linh mục Tân ước thi hành nhiệm vụ cao cả và cần thiết, đó là Cha và Thầy trong dân Chúa và cho dân Chúa.
2. Gọi Linh mục là Cha phải chăng đi ngược lại Tin mừng vì Đức Giêsu đã nói: đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha, Đấng ngự trên trời. Phải hiểu câu nói này như thế nào?
Vào thời Cải cách, người Tin Lành đã dựa vào câu nói này để bãi bỏ cách gọi Linh mục là Cha. Chúng ta phải hiểu đúng nghĩa câu nói của Chúa Giêsu. Đặt câu nói này trong văn mạch của đoạn Tin mừng: Chúa Giêsu đang tranh luận với nhóm Pharisiêu, Luật sĩ, Ngài khiển trách họ giả hình nói mà không làm, họ thích thống trị, bó những gánh nặng chất lên vai người khác còn họ không nhúng tay vào, họ thích khoe khoang làm mọi việc cho người ta thấy, họ hám danh muốn ngồi chỗ nhất nơi công cộng và muốn người khác tỏ lòng kính trọng qua những danh xưng thầy, cha, người chỉ đạo. Qua đó Đức Giêsu đưa ra một quan điểm mới cho các môn đệ: trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm người phục vụ anh em.
Đức Giêsu không cấm chúng ta gọi Cha đẻ của chúng ta là Cha hoặc gọi bất cứ ai dạy dỗ chúng ta là Thầy. Hẳn Ngài đã từng gọi Thánh Giuse là Cha và những người dạy Ngài là Thầy; do đó không nên hiểu câu nói ấy theo từng chữ. Người Do thái thường dùng kiểu nói phóng đại, Chúa Giêsu dùng kiểu nói này khi bảo rằng: Nếu tay con gây vấp ngã hãy chặt nó đi. Nếu mắt con làm cớ cho con vấp phạm hãy móc mắt đi để được vào Nước trời. Chính Thánh Phaolô, người hiểu sâu xa lời Chúa thế mà Ngài tự xưng mình là Cha các tín hữu, Ngài cũng gọi Timôthêô là con yêu dấu.
Vậy thì qua câu nói: Đừng gọi ai dưới đất là Cha, cũng đừng xưng mình là Thầy, Đức Giêsu vừa đề cao tính cách là Cha của Thiên Chúa, vừa xác định tính cách chỉ đạo của Ngài, đồng thời Ngài cũng đả phá sự kiêu hãnh của một số nhà lãnh đạo Do thái giáo thời đó, họ ưa thích được người ta gọi là Cha, là Thầy.
3. Có buộc phải gọi Linh mục là Cha không ? Về cách xưng hô, dường như không có một luật nào buộc. Gọi Linh mục là Cha hay không đó là vấn đề của tình cảm và niềm tin. Gọi Linh mục là Cha hay không điều đó không quan trọng cho bằng có ác ý trong cách cư xử với Linh mục hay không. Sự thiếu lễ độ, lịch sự tối thiểu đối với một người lãnh đạo, dù chỉ là lãnh đạo một cộng đoàn nhỏ, không chỉ là một xúc phạm đến Linh mục, mà còn có thể xúc phạm đến chính tình cảm tôn giáo của người tín hưũ nữa.
Lm Nguyễn Hữa An
----------------------------------
Chúa Nhật 31 Thường Niên, Năm A
Ml 1:14-2:2, 8-10; 1Tx 2:7b-9, 13; Mt 23:1-12
Ðể có được cái nhìn bao quát và tầm hiểu biết liên đới về toàn bộ Phúc âm, ta cần biết sơ qua về: TN31-A33
Ðể có được cái nhìn bao quát và tầm hiểu biết liên đới về toàn bộ Phúc âm, ta cần biết sơ qua về những nhóm người sau đây. Ngoài các tư tế và thượng tế, còn có các kinh sư, phái Pharisêu, phái Xađốc, nhóm Quá Khích, phe Hêrôđê và hội đồng kỳ mục. Khi gặp Chúa, họ ưa bắt bẻ, đối chất và đụng độ ít hay nhiều với Chúa.
Tư tế/thượng tế là những người thuộc dòng Lêvi, lo việc tế tự tại đền thờ. Ông Dacaria, thân phụ thánh Gioan tiền hô cũng là tư tế. Ông được trúng thăm vào dâng hương trong đền thờ (Luc 1:5-6). Sau khi chữa người phong cùi, Chúa bảo họ đi trình diện với tư tế để chứng minh được khỏi (Mt 8:1-4; Mc 1:44; Lc 5:14; 17:14). Tuy vậy có thầy tư tế gián tiếp bị phê bình khi gặp người bị kẻ cướp đánh nhừ tử mà bỏ đi qua (Lc 10:31). Kinh sư là những học giả và trí thức trong đạo Do thái, được nhận tước hiệu ráp-bi hoặc người chỉ đạo. Họ không thuộc phe đảng nào. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều người kinh sư thuộc phái Pharisêu nên họ cũng tỏ thái độ và hành động chống Chúa như phái Pharisêu. Các tông đồ đôi khi xưng Chúa là ráp-bi. Bà Maria Mác-đa-la khi nhận ra Chúa sống lại, thưa với Chúa là Ráp-bu-ni. Còn phe Pharisêu thường được nhắc tới trong Phúc âm. Họ là phe biệt phái, nằm trong Do thái giáo. Theo sử gia Josephus, có chửng sáu ngàn người Pharisêu thời vua Hêrôđê. Họ thường phê bình chỉ trích, bắt bẻ và chống đối Chúa và các môn đệ Chúa. Thánh Phêrô tông đồ là cựu thành viên của phái Pharisêu. Ông Nicôđêmô (Ga 3; 7:45-48) và Ga-ma-li-ên (Cv 5:34) cũng là người Pharisêu.
Phái Xađốc cũng nằm trong Do thái giáo. Phái này không tin có sự sống lại của người chết (Mt 22:23-32; Mc 12:18-27; Lc 20:27-40), không tin có thiên thần và qủi thần (Cv 21:6-8). Phe Xađốc và phe Pharisêu có lần đòi dấu lạ từ trời (Mt 16:1-12). Còn nhóm Quá Khích tượng trưng cho chủ nghĩa quốc gia cuồng tín. Họ tin vào việc phục hồi và độc lập của Do thái. Họ chống đối việc khai sổ nhân danh theo lệnh hoàng đế Augustô. Chiến thuật họ dùng để chống đối người ngoại bang giống như chiến thuật du kích của Cộng sản trước khi nắm quyền hay chiến thuật khủng bố của quân khủng bố. Vậy mà một thành viên của nhóm Quá Khích là Simon được Chúa chọn làm tông đồ đấy. Rồi đến phe Hêrôđê (Mt 22:16; Mc 3:6; 12:13) là những người phò vua bù nhìn Hêrôđê và do đó phò luôn cả đế quốc La mã. Rồi đến hội đồng kỳ mục, chủ trương duy trì những truyền thống mà các thầy ráp-bi thu tập lại thành sách. Ba nhóm nhúng tay vào việc bách hại và đóng đinh Chúa là các thượng tế có lãnh binh đền thờ, kinh sư, và kỳ mục cộng thêm đám đông dân chúng.
Thiên Chúa muốn dân được chọn đáp trả lời Chúa một cách trung thực. Hàng tư tế có trách vụ hướng dẫn dân chúng trong việc thờ phượng ngày sabát để đem sứ điệp của Chúa đến cho dân Người. Tuy nhiên Thiên Chúa của ngày sabát trong đạo cũ, cũng là Thiên Chúa của ngày Chúa nhật trong đạo mới, không hài lòng với họ, vì họ tỏ ra thiếu trách nhiệm, dâng lên Chúa việc thờ phượng rẻ tiền, nghĩa là họ chỉ thờ Chúa ngoàì môi miệng, theo thói quen và hình thức bên ngoài. Vì thế Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Malaki để cảnh giác họ: Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật, và huỷ bỏ giao ước Lêvi (Ml 2:8).
Hai nhóm người vào cuộc trong Phúc âm hôm nay là nhóm kinh sư và Pharisêu. Chúa bảo họ được ngồi ghế Môsê, nghĩa là họ thông luật Môsê và được quyền giải thích luật. Tuy nhiên Chúa lại cảnh giác họ về tội giả hình và bất công. Họ thích nhận tước hiệu và mong được người khác biết đến tên tuổi. Họ muốn được ngồi ghế danh dự và chỗ cao trọng. Họ còn tỏ ra đạo đức trước mặt người đời. Họ chú trọng đến việc giữ luật bề ngoài để trình diễn. Họ đòi người khác giữ luật tỉ mỉ còn họ không động tay đến. Vì thế Chúa căn dặn dân chúng và các môn đệ: Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm (Mt 23:3).
Có vài điểm trong Phúc âm hôm nay xem ra có vẻ khúc mắc trong tâm trí ta. Chúa bảo ta đừng gọi ai dưới đất là thầy, là cha, là người chỉ đạo. Tuy nhiên người ta vẫn gọi người dạy mình là thày: thày nọ, thày kia. Giáo dân vẫn gọi linh mục là cha phần linh hồn để bày tỏ mối liên hệ thiêng liêng. Con cái vẫn gọi người đàn ông sinh ra mình là cha. Người ta còn có cha nuôi, cha tinh thần, cha mẹ đỡ đầu... Như vậy có phải ta cố tình đi ngược lại lời Chúa dạy sao? Thưa rằng khi ta gọi ai là cha, ta vẫn xác tín rằng chỉ có Chúa là Cha toàn năng, hằng hữu. Lời Ðức Kitô không có nghĩa là các môn đệ không còn được quyền đóng vai trò giáo huấn, chữa lành và thánh hoá người tín hữu. Do đó từ thời Giáo hội sơ khai, trong khi thi hành sứ vụ, thì người tín hữu đã coi và gọi giám mục, rồi đến cả linh mục là cha phần hồn. Thánh Phaolô gọi Timôthê và Titô là con. Như vậy hiểu ngầm rằng hai môn đệ này coi thánh Phaolô như người cha tinh thần và thiêng liêng. Còn khi ta gọi ai là thầy, là người chỉ đạo, ta xác tín rằng chỉ mình Ðức Kitô là Thầy dạy tối cao và duy nhất và là Ðấng chỉ đạo khôn ngoan và sáng suốt.
Chúa chỉ lên án người kinh sư và Pharisêu vì họ muốn và thích được gọi là thày và có khi là cha nữa mà thôi. Những người kinh sư đòi hỏi học trò phải tôn kính thầy cách tuyệt đối. Tính kiêu căng và tự phụ của họ muốn được ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở những nơi cộng cộng và muốn được gọi là thầy (Mt 23:6-7), cộng thêm thái độ giả hình, háo danh, tính kiêu căng và tự phụ, mới khiến họ bị chê, trách, phạt (Mt 23: 13-36).
Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay cũng là những lời Chúa cảnh giác ta. Nếu không cẩn thận, ta cũng có thể rơi vào thái độ và hành động của người kinh sư và Pharisêu. Lời Chúa cảnh giác họ phải giúp ta tự xét xem việc phụng thờ và giữ đạo của ta thế nào. Nếu tự xét mình, ta có thể khám phá ra những thái độ và hành động của người kinh sư và Pharisêu cũng đã ăn rễ sâu vào đời sống nội tâm của tạ. Việc đạo đức của ta cũng có thể giả hình, đóng kịch, phô trương, khoe khoang và cạnh tranh để được tiếng khen chăng?
Xét cho cùng thì theo một nghĩa nào đó, có lẽ cái Pharisêu tính và kinh sư tính, có thể được tìm thấy nơi ta. Hôm nay mỗi người cần nhận thức rằng Thiên Chúa thông biết mọi sự. Chúa biết những ý nghĩ thầm kín của ta. Và ta không thể giấu Chúa điều gì. Nếu khi quét dọn nhà, ta cần lau bụi, cần loại bỏ những rác rưởi, thì khi quét dọn nhà tâm hồn, ta cũng cần lau bụi, cần loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn.
Lời cầu nguyện xin cho được sống trung thực với lòng mình:
Lạy Chúa, Chúa là Ðấng thông biết mọi sự.
Chúa biết cả những ý tưởng và ước muốn thâm kín của loài người.
Xin Chúa soi sáng để con có thể biết mình: điểm tốt cũng như xấu
để con có thể sống trung thực với lòng mình.
Xin cho lời nói của con được đi đôi với tư tưởng và hành động
để lời cầu nguyện và của lễ con dâng được đẹp lòng Chúa
và được Chúa vui chấp nhận. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
----------------------------------
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay như một lời mời gọi đầy quyết liệt, nhắm thẳng đến trước tiên là những: TN31-A34
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay như một lời mời gọi đầy quyết liệt, nhắm thẳng đến trước tiên là những “người mang sứ mệnh loan truyền chân lý”, những vị mục tử trong Hội Thánh; và sau là tất cả mọi người tín hữu, những người được chính Tin Mừng Chúa Giêsu “đưa vào sự thật”. Sứ điệp nầy được lồng trong những lời trách cứ của Gia-vê Thiên Chúa dành cho các vị lãnh đạo và dân Ít-ra-en thời sứ ngôn Ma-la-ki (BĐ 1) và nhất là được diễn dịch rõ nét trong những lời đanh thép mạnh mẽ của Chúa Giêsu ném về phía những ký lục và biệt phái, những kẻ từng vỗ ngực tự xưng là “Rabbi”, là “Thầy dạy chân lý”, là qui phạm đạo đức…nhưng lại là những kẻ giả hình, kiêu ngạo, mị dân…(TM).
Để xứng đáng cử hành thánh lễ và sống đích thực chân lý của Tin Mừng được công bố và gọi mời hôm nay, chúng ta cùng thú nhận tội lỗi
Giảng Lời Chúa:
1. Hãy làm những “cánh rừng đang mọc” (Vai trò ngôn sứ):
Ấn Độ là dân tộc đã có nền văn minh rất xa xưa. Họ có hai câu hỏi đáp như sau:
Hỏi cái gì dễ nhất trên đời?
Thưa cái dễ nhất trên đời, là dạy bảo người khác.
Hỏi cái gì khó nhất trên đời?
Thưa cái khó nhất trên đời là thi hành điều mình dạy bảo.
“Nói một đàng làm một nẻo”, hay “nói hay, nói giỏi mà không chịu thực hành”, phải chăng đó là “thói thường” mà bất cứ nơi đâu và thời nào nhân loại cũng đều rơi vào như một quán tính. Cách riêng, trong môi trường tín ngưỡng, ở giữa lòng dân tộc Ít-ra-en, một dân được Gia-vê Thiên Chúa ân cần giáo dục việc thực hành chân lý từ thuở khai sinh cho đến suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, thế mà cái “thói hư tật xấu” nầy vẫn đâu hoàn đấy, cho dù phải trãi qua bao bài học cay đắng của thời “xuất hành”, những giai đoạn mất nước, lưu đầy, chiến tranh, loạn lạc, thiên tai…
Chúng ta dễ dàng tìm gặp ý nghĩa nầy trong Bài đọc 1 hôm nay với trích đoạn sứ ngôn Malakia. Vị Sứ ngôn nầy sống ở Giêrusalem vào khoảng năm -500 và -450 (trước Công Nguyên), nhìn thấy cảnh sa sút của dân chúng, sau những ngày phấn khởi và sốt sắng khi toàn dân vừa mới được Thiên Chúa cho thoát khỏi cảnh lưu đày (-538). Ngôn sứ đã qui trách cho các Thầy Cả về sự suy thoái đạo đức và niềm tin nầy của dân Chúa: “Chúa phán: vì các ngươi đã không tuân giữ đường lối của Ta và vị nể trong khi thi hành lề luật,… nên dân chúng đã phản bội giao ước của các Tổ phụ”. Nhà Tiên tri nhắc lại rằng dân chúng phải luôn luôn được dạy dỗ và thánh hóa.
Lời kêu gọi đó vẫn còn mang tính thời sự cho thời đại chúng ta hôm nay, cho dù đó là một thời đại mà người ta “tin các chứng nhân hơn các thầy dạy”. Trong cái “siêu thị tổng hợp’ của thế giới hôm nay, phải chăng càng lúc càng thấy vắng bóng “những phát ngôn nhân” của chân lý, của tình thương, của niềm tin và những giá trị vĩnh cửu. Trong khi đó, người ta gặp nhan nhản không biết bao nhiêu là những sách báo khiêu dâm, những tác phẩm đồi trụy, những “ngôn sứ” của bạo lực, khủng bố, tham lam và bao nhiêu sự dữ khác. Đành rằng, có những sự dữ, sự ác phát sinh tự nhiên như “cỏ lùng trong ruộng”; nhưng cũng có những thứ “cỏ lùng” độc hại lại do cả một hệ thống, một guồng máy, một chính thể cưu mang cho hình thành và dốc toàn lực để dưỡng nuôi và phát triển ! (sic).
Tuy nhiên, dù cho có “ồn ào” như những cuốn tiểu thuyết “bestseller” “Da Vinci Code” (Mật mã Da Vinci), hay “Cơn cám dỗ cuối cùng”, thì đó cũng chỉ là thứ “ôn ào của những cây đang đổ”, không thể sánh ví với cái lực lượng hùng mạnh đang vươn lên của “một cánh rừng đang mọc” (Ngạn ngữ Trung Hoa: “Một cây đổ thì ồn ào hơn một cánh rừng đang mọc”.). Đó là những cánh rừng mang dáng đứng và âm giọng của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta, của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, của những chàng trai và những cô thiếu nữ đang phục vụ âm thầm trong những đoàn thiện nguyện “Thầy thuộc không biên giới”, của những nữ tu khiêm hạ hiền lành phục vụ trong những trại phung cùi, nhưng trung tâm điều trị Sida, những chiến sĩ đang kiên cường đấu tranh cho quyền con người, cho hòa bình, tự do, dân chủ dù phải chịu cay đắng xót xa vì muôn cách đối xử bạo tàn của những thế lực đen tối…
Vâng, là kitô hữu, là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta phải can đảm trở thành ngôn sứ; hay đúng hơn, phải là những ngôn sứ đích thực, phải làm “những cánh rừng đang mọc” để đem màu xanh hy vọng của nền văn minh tình thương mà xây dựng thế giới nầy.
2. Hãy trở thành ngôn sứ cho chính mình:
Trong khi đó, Tin Mừng hôm nay lại đưa chúng ta đến một thái độ dứt khoát và quyết liệt trong việc sống Lời Chúa, đem chân lý cứu độ vào hiện thực cuộc sống.
Nếu Thánh Matthêô trình bày bối cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Chúa bằng bài giảng trên núi (5-7) thì Ngài đã có dụng ý khi trình bày kết thúc cuộc đời công khai của Chúa trong khung cảnh trước tuần chịu nạn bằng một cáo trạng gắt gao thẳng nhặt nhắm vào trung tâm đầu nảo của Đạo Do Thái, nhắm vào những kẻ tự nhận là “cầm cân nẫy mực” cho đức tin và truyền thống đạo đức của Cha Ông, của các Tổ Phụ. Nào có phải là ai xa lạ. Họ chính là nhóm ký lục, tư tế và Biệt Phái. Họ là những kẻ đã bắt bẻ Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabat, họ là những kẻ đã trục xuất khỏi hội đường “người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt cách lạ lùng sau khi tiếp cận với Chúa Giêsu” và tất cả những ai tin vào Chúa. Họ là những kẻ đã rình bắt quả tang “người phụ nữ ngoại tình” để đem tới xin Chúa kết án; họ là những kẻ đã trao tiền cho tông đồ phản bội Giuđa để y bán rẻ Thầy; họ là những kẻ đã xúc xiểm dân đen đòi tha Baraba và đóng đinh Giêsu vào thập giá…Vâng họ chính là những kẻ đã từ chối Chúa Giêsu và sau cùng đã hè nhau kết án Ngài; họ là những kẻ chỉ biết giữ nét chữ của lề luật nhưng coi nhẹ tinh thần của lề luật. Họ “nói nhưng họ không làm”, họ “đặt lên vai người khác những gánh nặng nhưng không bao giờ kề vai vác thử”, họ là những kẻ “nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, muốn được gọi bằng Thầy”…Trước thái độ giả hình kiêu ngạo đó, Chúa Giêsu không chịu được. Và hôm nay, làm sao Ngài chịu được khi “Thân Mình mầu nhiệm của Ngài” lại đạp lên vết xe đổ đó ! Chính vì thế, lời răn dạy khi xưa không chỉ dừng lại cho những người xưa mà cho cả chúng ta hôm nay. Trước khi trở thành kẻ phát ngôn Lời của Thiên Chúa cho mọi người thì chúng ta hãy trở thành “ngôn sứ cho chính mình”.
Quả thật ngày hôm nay “bang hội Pharisiêu không còn”, giới tư tế và ký lục cũng khác xưa, nhưng nảo trạng pharisiêu chưa chết, vẫn còn tồn tại ẩn khuất hay công khai đâu đó giữa lòng Giáo Hội, giữa cuộc sống của cộng đoàn. Giáo Hội hôm qua cũng như hôm nay luôn phải nhìn nhận rằng những sự khoe khoang lòe loẹt trần tục đã đi vào trong hàng ngũ, những chức tước, thẻ kinh, tua áo cũng làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một Giáo Hội nghèo của người nghèo. Luồng gió mới của Công đồng Vatican II đã thổi bay đi nhiều điều phù phiếm đó. Người ta kể rằng ngay trong cuộc họp Công Đồng, có hai Giám mục của xứ nghèo đã đeo ở tay những chiếc nhẫn vàng to tướng ! Cũng may trong chính thời điểm ấy, Đức Phaolô VI đã nêu gương và biếu tặng mỗi nghị phụ một chiếc nhẫn đơn sơ, và tiếp đó, một số các nghị phụ đã quyết định thay thế cây Thánh giá vàng bằng một cây Thánh giá gỗ.
Khiêm nhượng đó chính là đức tính, là tinh thần của những ai mang "căn cước Tông đồ". “Ai trong các ngươi có quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Đó cũng là điều Chúa căn dặn tất cả chúng ta, cách riêng những ai “ngồi trên tòa Môi sê” hướng dẫn kẻ khác. Đó cũng chính là tinh thần trách nhiệm chu toàn sứ vụ ngôn sứ mà Chúa đã giao phó, không phải chỉ dành riêng cho các vị lãnh đạo, các Mục Tử, mà cho hết thảy chúng ta, những người, nhờ nhiệm tích Rửa tội, được tham gia vào sứ vụ “ngôn sứ, tư tế và vương đế” của Chúa Giêsu. Đó cũng chính là điều mà trích đoạn thư của Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Thêsalônia trong BĐ 2 hôm nay muốn nhắn gởi chúng ta.
Thật vậy, qua trích đoạn thư nầy, Thánh Phaolô mô tả chân dung nhà lãnh đạo tinh thần trong đạo mới mà chính Ngài là điển hình, là gương mẫu. Ngài là Tông đồ của Chúa Kitô. Sứ mạng ấy là một đặc ân Chúa ban cho Ngài và cho toàn dân chúng, ân soi sáng, ân sức mạnh, ân Tình yêu. Ngài tự xử như người vú nuôi nâng niu con cái. Người Tông đồ trao phó Tin Mừng và cả mạng sống, làm việc ngày đêm để Lời Chúa hoạt động trong cộng đoàn. Đó chính là đường đi nẻo bước của những người dấn thân trong ơn gọi Tông đồ hôm nay.
Vâng, Giáo Hội muôn nơi và muôn thuở cần những Mục Tử, những tông đồ, những giáo dân như thế. Chính nhờ những “viên đá sống động”, những “cành nho”, những “hạt lúa mục nát giữa lòng đời”, những “viên men vùi sâu trong thúng bột”, những “ngọn đèn cháy sáng đặt trên cao”, những “bước chân vội vã loan Tin Mừng”, những “cô thôn nữ khôn ngoan với đèn dầu nghiêm túc’, những”đầy tớ trung tín và khôn ngoan” chu toàn mọi trách nhiệm được giao, những “người thợ làm vườn nho” sẵn sàng dấn thân hành động cho dù đến trễ, những “đứa con hoang đàng nhưng biết cương quyết chỗi dậy đi về nhà Cha”, những Phêrô 3 lần chối Chúa nhưng sẵn sàng làm lại cuộc đời với 3 câu trả lời “Thầy biết con yêu mến Thầy”, những Maria Bêtania sắn sàng đập bể bình dầu thơm cam tùng hảo hạng để xức chân cho Chúa…Vâng, chính những con người ấy, chính những “chứng nhân sống động” viết Lời Chúa bằng chính cuộc sống mình và giảng Lời Chúa bằng trái tim mình đã làm cho Ngôi Nhà Hội Thánh mãi mãi rực ngát hương thơm thánh thiện và đạo đức.
Chúng ta không quên, vào thế kỷ thứ 12, khi tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các nhà lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó Thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện. Ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài. Ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ. Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp.
Giáo Hội Việt Nam cách đây gần 4 thế kỷ, có chàng trai Anrê Phú Yên với 19 xuân xanh, trên con đường ra gò thành Chiêm để chịu chết vì đức tin đã vui tươi giảng dạy chân lý Đạo Trời cho bàn dân thiên hạ đang đô hội theo coi mà nội dung cốt lỏi chỉ là: “Lấy tình yêu đáp lại tình yêu, đem mạng sống báo đền mạng sống…”. Không phải là lời giảng suông của một kinh sư hay biệt phái, cũng không là bài giáo lý thần học uyên thâm của các nhà tiến sĩ thần học, nhưng, lời rao giảng ấy lại có có sức thuyết phục tuyệt vời. Vì sau lời rao giảng đó chính là cái chết với trọn vẹn tình yêu…
Vâng, hôm nay nào có khác gì. Đừng ngồi đó mà nguyền rũa bóng đêm nhưng hãy mau mắn thắp lên một ngọn đèn. Đừng làm “những cây đổ ồn ào” nhưng hãy làm “những cánh rừng đang mọc”.
LM. Joseph Trương Đình Hiền
----------------------------------
Chân thành, nguyên ngữ La-tinh là: Sincerus, a, um. Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người: TN31-A35
Chân thành, nguyên ngữ La-tinh là: Sincerus, a, um. Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người Rô-ma thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt mẻ, thì họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó, rồi đánh cho thực trơn láng. Cũng giống như phụ nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp ong, thì là dấu tuyền vẹn, và gọi là: Sine cera; Sine: không, cera: sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này dính lại thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành. Tình thương giữa con người với nhau cần phải sinecera: không phấn sáp, không giả tạo, nhưng tự nhiên và chân thành.
Ngày xưa, nữ hoàng Sa-ba nghe biết về sự khôn ngoan của Sa-lô-môn nên đã gởi đến nhà vua hai bó hoa để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn và liền mở cửa để cho bầy ong bướm bay vào. Thế là đàn ong bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật. Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình dáng mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình nói thì nhiều mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm chí nói suông mà không thực hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su vạch trần sự giả hình của các Kinh Sư, Pha-ri-sêu. Họ giả hình: “vì họ nói mà không làm”; Họ thích thống trị: “Vì họ bó những gãnh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không buồn động ngón tay vào”; Họ thích khoe khoang: “Vì họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy”; Họ hám danh: “Vì họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi nơi cộng cộng, được thiên hạ gọi là Ráp-bi”. Những người Pha-ri-sêu tự cho mình là đạo đức, là bậc thầy dạy dỗ dân chúng về cách sống Đạo. Nhưng Đức Giê-su đã nhìn thấy trong lối sống Đạo của họ có những biểu hiện lệch lạc, giả hình làm hoen ố Đạo thật. Nhân đó, Người đưa ra mấy chỉ dẫn thiết thực cho đời sống Đạo như sau:
Chỉ dẫn 1: Lời nói đi đôi với việc làm
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn như giữa lý thuyết với thực hành, giữa ước mơ với hiện thực, giữa lý tưởng với thực tại. Nói thì dễ nhưng làm thì khó nên người ta để rơi vào thói nói nhiều, làm ít hoặc chỉ nói suông mà không làm hoặc còn tệ hơn khi việc làm mâu thuẫn với lời nói như người Pha-ri-sêu “nói mà không làm”. Trong những trường hợp ấy, nói về Đạo trở thành phản chứng làm cho người nghe khó chấp nhận Đạo.
Khi phê phán thái độ của người Pha-ri-sêu, Đức Giê-su muốn dạy chúng ta đừng nói nhiều nhưng hãy làm. Chính việc làm minh chứng Đạo thật, việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết có hay đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Người ta thích câu thành ngữ: "Đừng nghe những gì người ta nói mà hãy nhìn kỹ những gì người ta làm".
Chỉ dẫn 2: Hãy làm một cách khiêm tốn
Người Pha-ri-sêu làm gì cũng muốn phô trương, muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Rồi sợ người khác không nhìn thấy, họ phải đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương biến thành tự phụ, tự mãn, hợm hĩnh. Cho nên những người Pha-ri-sêu luôn ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, ưa được chào hỏi nơi công cộng.
Khi phê phán người Pha-ri-sêu, Đức Giê-su muốn cho các môn đệ hãy thực hành đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm” ( Mt 6, 3 ). “Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo” ( Mt 6, 6 ). Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ Lòng Mến Chúa chân thực. Lòng Mến chân thực dẫn đến thái độ khiêm tốn, biết kính trọng ngươi khác, biết luôn phục vụ anh em.
Lời chỉ dẫn trên đây của Đức Giê-su giúp chúng ta sống chân thành và khiêm tốn. Người chân thành khiêm tốn chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ làm. Người chân thành khiêm tốn không nói láo, không giả hình, không tự cao cho mình hơn kẻ khác, không phê bình, chỉ trích.
Ứng xử trong các mối quan hệ phải chân thành. Còn gì thất vọng cho bằng khi thấy những cử chỉ, thái độ, lời nói có vẻ lịch sự, bác ái nhưng thực tế lại giả tạo, xã giao miễn cưỡng, một thứ nguỵ tạo giả hình. Trước mặt thì niềm nở sau lưng thì phá ngầm, nói hành nói xấu, gièm pha. Lối sống của Pha-ri-sêu vẫn còn nhiều lắm trong đời sống thực tế hàng ngày. Sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau. Kinh nghiệm cho thấy một người không chân thành thì khó được tín nhiệm “một lần bất tín, vạn sự bất tin”.
Trong bài đọc 1, Ngôn Sứ Ma-la-khi trách mắng nghiêm khắc những Tư Tế Do Thái làm việc cẩu thả, biếng nhác và giả dối trong khi thi hành tác vụ của mình. Sau khi đi lưu đày về, đền thờ đã được tái thiết, nền phụng tự đã được thiết lập lại, nhưng sự nhiệt thành của những ngày đầu tiên đã bị biến mất. Nhiều Tư Tế không còn lưu tâm đến trách nhiệm của mình, bỏ bê công việc tôn vinh danh Chúa, làm gương mù gương xấu khiến cho nhiều người đi sai đường lối Chúa và hủy bỏ giao ước. Họ không còn được dân chúng tín nhiệm vì họ không chân thành trong sứ vụ hàng ngày của mình.
Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 nhắc lại với Giáo Đoàn Thê-xa-lô-ni-ca tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến mà ngài đã ân cần dành cho họ, như một người mẹ dành cho con cái mình. Ngài đã giảng dạy lời Chúa cho họ; họ đã đền đáp ngài cũng tràn đầy tình yêu. Thánh Phao-lô sống chân thành với cộng đoàn, ngài đã không ngần ngại và vui mừng được trao ban cho họ chính cả mạng sống của mình. Đáp lại, mọi người đã sống trung thành với Lời Chúa. Lời Chúa đã phát huy tác dụng nơi cộng đoàn này, đã sinh hoa trái tốt đẹp nơi cuộc sống của mỗi người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống chân thành với chính mình, với người khác, với Thiên Chúa. Tư tưởng đi đôi với lời nói. Lời nói đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói, việc làm đều phải diễn tả sự trung thực và chân thành. Như bông hoa thật đẹp đầy màu sắc toả hương thơm, những người chân thành khiêm nhường toả hương thơm qua việc làm. Những điều mà các vị Ngôn Sứ vĩ đại đã nói ra thường hay bị lãng quên, nhưng những hành động mà các vị thánh nhân, anh hùng thực hiện luôn được hậu thế ghi nhớ mãi.
Lm. NGUYỄN HỮU AN, Giáo Phận Phan Thiết
-------------------------------
Một hiện tượng khá phổ biến của thời đại này, là “sao” ! Khi đã ít nhiều thành danh sớm sủa: TN31-A36
Một hiện tượng khá phổ biến của thời đại này, là “sao” ! Khi đã ít nhiều thành danh sớm sủa và mau chóng chủ yếu nhờ vào năng khiếu hoặc tài sắc thiên phú, trong thể thao, trong nghệ thuật, thì nhiều người trở nên kiêu căng, kênh kiệu, ”coi trời bằng vung”, nói năng thiếu giáo dục, hành động thiếu đạo đức và cuộc sống mau chóng bị sa lầy, hủy họai, không chỉ mang tai tiếng cho bản thân, mà còn phương hại đến những thực thể và giá trị tinh thần mà họ thuộc về hoặc đại diện.
Thật ra, không chỉ sĩ tử ngày trước, mà ý nguyện của rất nhiều người từ xưa tới nay là được “lưu danh sử sách”. Đó là một ước vọng chính đáng. Nhưng điều mà một người quân tử – mẫu người lý tưởng cho mọi thời đại – phải tôn trọng, ấy là sự trung thực, ngay thẳng, tiến thân lập nghiệp và lập danh nhờ vào ý chí, cố gắng của cá nhân, chứ tuyệt nhiên không thể mượn danh người khác để tìm lợi danh cho riêng mình, chưa kể đến điều cấm kỵ là dùng người khác – thậm chí làm hại đến quyền lợi và danh dự người khác – để đạt được đích của mình với bất kỳ giá nào.
Quả thật, nhiều người vì quá đặt nặng, thèm khát cái “miếng giữa sàng”, để bất chấp cả lương tâm mà làm những điều sai trái. Thói hám danh, vì thế, còn nguy hiểm cho bản thân và tha nhân hơn cả hám lợi. Không úp mở tránh né trong sự phê phán những hành xử hợm hĩnh, sai lạc của hạng làm đầu trong dân Do Thái và quyết tâm một lần mổ xẻ bằng được cái ung nhọt của đám người này, để tránh làm “lây nhiễm” và dẫn đám đông dân chúng đi vào vết xe đổ ấy, hôm nay Chúa Giê-su vẽ lại hình ảnh của đám Kinh Sư và Pha-ri-sêu, đồng thời đưa ra mẫu người mới, ”mẫu người Phúc Âm”.
Trước hết, cái sai của Kinh Sư và Pha-ri-sêu ở chính chổ họ biết họ sai, nhưng thói hám danh đã làm mờ mắt họ: họ nắm vững chân lý và lời giảng dạy, nhưng xa rời thực hành, đơn thuần là vì thực hành như lời nói, cũng đồng nghĩa với phải hy sinh quyền lợi, phải chịu nhún nhường, phải ra khỏi vỏ ốc êm ái, an toàn vốn đã quen thuộc, thân thiết xưa nay. Dĩ nhiên Lời Chúa không làm tăng hay giảm giá trị chân lý do miệng con người nói ra, cho dù đó là một Ngôn Sứ hay một dân thường, một Tư Tế hay một giáo đồ, một người thánh thiện hay một kẻ tội lỗi. Nhưng nói ra là để thuyết phục, hướng dẫn người khác cùng nghe và thực hành theo, mà lại “tri hành bất nhất” – nói mà không làm – thì chẳng khác nào nhạo báng những gì mình nói ra, khiến người nghe cũng phải nghi ngờ chân giá trị của Lời. Chưa kể người nghe còn có thể suy nghĩ rằng: nhân sao vật vậy – người sao của vậy !
Kế đến, cái sai của Kinh Sư và Pha-ri-sêu là điều mà Khổng Tử đã nói: “Sở kỷ bất dục,vật thi ư nhân”. Những gì mình tránh né,thì lại bắt người khác thực hiện, lợi dụng địa vị để bày ra lắm điều làm cho cuộc sống của người khác vốn đã vất vả, nặng nề,nay càng bội phần bị mệt mỏi, ức chế. Lý do khiến họ sai lạc và đáng bị lên án,lại cũng là vì họ ý thức rõ điều họ nghĩ, biết rõ việc họ làm,nhưng quá đề cao “cái tôi” mà hạ thấp phẩm giá và quyền lợi của anh em.
Và sau khi đã làm sai cả trong lời nói ( trong tư cách người có quyền và có trách nhiệm rao giảng ) lẫn thực hành ( với tư cách người khởi xướng việc thực hiện ), thì cái sai tiếp tục trong cuộc sống, là điều không còn khó hiểu. Người lẽ ra đứng đầu trong dân, người lẽ ra là gương mẫu trong lời nói và thực hành, nay chỉ muốn là một “sao”, một loại chim công luôn xòe cánh phô trương. Trong ý muốn ích kỷ,sâu xa, họ muốn mọi người ca tụng, phục tùng họ, nhưng dần dà chính họ thực chất lại trở thành trò cười cho thiên hạ, như một thứ mua vui cho người khác, với hộp kinh lớn, tua áo dài, nghênh ngang trong cả hội đường và nơi bàn tiệc, thích được chào hỏi ở chổ công cộng và muốn ai cũng gọi họ là “thầy”: một vai hề hoặc một con khỉ nơi gánh xiệc không hơn không kém !
Thùng rỗng kêu to ! Con người càng trống rỗng trong cuộc sống nhân bản và đạo đức, thì càng kêu to và càng cần kêu to, trước là hòng lấp đầy những lỗ hỗng khiếm khuyết; kế đến là để che dấu cái dở, cái xấu của mình. Cha ông Việt Nam thường nói: ”xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Thùng rỗng kêu to ! Con người như thế quên rằng chẳng những mình lừa dối tha nhân, mà còn lừa dối cả bản thân, nhưng nhất là “dùng vải thưa che mắt thánh”: cả gan dốt gạt cả Thiên Chúa.
Còn mẫu người Chúa Giêsu muốn chúng ta bắt chước ? – Có thể đặt tên ngay là “mẫu người Phúc Am”: coi khiêm-nhường là tôn chỉ sống và hành động; coi phục vụ là bản chất của Ki-tô hữu; còn động-cơ chính là “vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” ( Mt 23, 9b ). Khi ấy, anh em không còn là đối tượng khai thác của chúng ta nữa, mà là bạn đồng hành nhưng cũng là đối-tượng để ta phục vụ, yêu mến và kính trọng. Chỉ với thái độ và hành xử theo “mẫu người Phúc Âm”, chúng ta mới biết suy nghĩ, thấu hiểu và hành động vì những người nghèo khó bất hạnh.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 124
----------------------------------
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê: TN31-A37
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.
Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là gì, nếu không phải là sự kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không chịu để cho Ngài hướng dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của Lucifer, vị thần mang ánh sáng, là gì, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa.
Từ đó, chúng ta thấy mình chỉ có thể gặt hái được những thành quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu lòng thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy dường như có một sự đảo lộn giá trị: Ai tự nâng mình lên cao thì sẽ bị hạ xuống thấp, và trái lại ai hạ mình xuống thấp thì sẽ được nâng lên cao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã phán: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ phục vụ cho mọi người…Ai trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời…
Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang địa, Chúa Giêsu đã không làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đã dùng năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống, Ngài đã sử dụng những phương tiện tầm thường nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đã không chọn lựa những tiến sĩ luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đã kêu gọi những con người đơn sơ và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly, mặc dù luôn ý thức quyền năng của mình, thế nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài đã không sử dụng tới uy quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đã cúi đầu chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài: các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một người tôi tớ, một người hèn mọn.
Kẻ kiêu căng luôn đặt mình làm trung tâm của vũ trụ, muốn người khác phải trọng kính và coi mình như một vị thủ lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn, trái lại lúc nào cũng ghen tức vì hấy người khác được thành công. Một kẻ như vậy thì làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.
Trong khi đó, người khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự hạ xuống.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
----------------------------------
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 23,1-12
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ.
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn pha: TN31-A38
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý: Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan hệ với xã hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng trong xã hội vì tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xã hội phải có tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lãnh đạo là được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự mình chiếm đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì lợi ích của tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào một gia đình. Trong gia đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đình. Nhưng chính cha mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ. Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng quyền để yêu thương và phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xã hội phải là người có lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với tình yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: “Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?” (Ga 13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Không còn lệnh truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không trở thành một trang sức quý giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở thành những gì gần gũi nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên một gia đình ấm cúng chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một thế giới chan hòa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU.
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?
----------------------------------
Hôm qua, có người đột nhiên nói với tôi: “Tại sao linh mục để cho người ta gọi mình là cha?: TN31-A39
Hôm qua, có người đột nhiên nói với tôi: “Tại sao linh mục để cho người ta gọi mình là cha? Linh mục hãy đọc Tin Mừng thì sẽ rõ!”
Tôi đọc được trong Tin Mừng: “Các con đừng muốn cho người ta gọi mình là thầy, các con đừng muốn cho người ta gọi mình là tiến sĩ, các con đừng gọi ai là cha”. Chắc chắn ở đây có một bài học mà chúng ta phải rút ra.
Tôi nghĩ rằng không nên chú mục vào những danh hiệu bị Chúa Giêsu lên án. Loại bỏ các danh hiệu đó, các bạn sẽ tìm được hàng chục danh hiệu khác cần thiết trong cuộc sống xã hội: ông thị trưởng, ông Tổng thống, Đại uý... Người ta thay thế danh hiệu Ngài bằng Đức giám mục? Danh hiệu này chẳng thích hợp và cũng không thoát được sự lên án của Chúa Giêsu.
Thật ra sự lên án của Chúa Giêsu nhắm đến điều gì? Tại sao lại gán cho điều chỉ là một chút kiêu căng một tầm quan trọng như thế? Thực tế, có điều gì trầm trọng đang xảy và một sự vụng về rõ ràng về biên tập của Matthêu lèo lái chúng ta. Luôn luôn nơi Matthêu, điều đó là cố ý, rất được trau chuốt từng ly từng tí. Ngài bắt đầu bằng: “Tất cả các con đều là anh em”. Sau đó Ngài tiếp: “Các con chỉ có một Cha mà thôi”. Nhưng ý tưởng anh em đến nhanh hơn bởi vì trong văn mạch, ý tưởng này là ý tưởng chủ đạo, mặc dầu ý tưởng này rõ ràng liên kết với tư cách làm Cha của Thiên Chúa: “Tất cả các con đều là anh em, bởi vì tất cả các con đều có cùng một Cha trên trời”.
Ở đây chúng ta rất kiêu căng, Chúa Giêsu sửa chữa lại những quan hệ bị sai lệch, giống như những nhà chuyên môn sửa lại những cái xương bị trật khớp. Chúng ta khó chịu trong cơ thể xã hội khi các quan hệ sai lệch và đau đớn: khi ông chủ đóng vai tay anh chị thì những người thuộc quyền khúm núm. Vấn đề là không phải nói: “Ông thị trưởng”, mà là có một ông thị trưởng tốt. Bên dưới danh hiệu không quan trọng đến thế, có những thái độ, những tấm lòng, một tinh thần.
Trong xã hội các môn đệ của mình. Chúa Giêsu muốn có một tinh thần, một tinh thần dường như rõ ràng nơi Ngài đến nỗi quan hệ giữa Ngài với Chúa Cha là rất thắm thiết. Chúng ta đừng đụng đến điều đó, đừng ai chiếm chỗ của Chúa Cha, đừng ai dành cho một người nào đó một tầm quan trọng làm lu mờ Thiên Chúa.
Hậu quả cũng rất rõ ràng: giữa con người với nhau chỉ có thể có quan hệ anh em mà thôi. Những chức vụ cần thiết và những danh hiệu có ích không được làm thay đổi tinh thần “anh em”. Tôi có thể để người ta gọi mình là cha... nếu tôi có một trái tim anh em! Nhưng điều đó phải rõ ràng trong các lời nói và trong các thái độ của tôi, và đừng ai cám dỗ tôi tự cho mình là Thiên Chúa.
Khuynh hướng ma quỷ làm cho chúng ta trượt về phía kiêu ngạo sẽ luôn luôn làm cho việc suy niệm bài Tin Mừng này có ích. Than ôi! Chúng ta có thể viết cả một quyển sách về sự kiêu ngạo trong Giáo hội, y phục, tước hiệu, ngôi thứ, và ghê gớm hơn nữa, chuyên quyền, tự mãn. Sự việc có phần tốt đẹp hơn, nhưng để duy trì tinh thần của Chúa Giêsu, các thầy, các cha và các tiến sẽ tự giữ gìn là điều chưa đủ: trong dân Chúa, bất cứ ai cũng có thể nói với họ rằng “Lúc này đây, Ngài có phải là anh em của tôi không?”
----------------------------------
Những người con thường gọi cha mẹ của chúng là cha mẹ, mặc dù Chúa Giêsu đã nói đừng: TN31-A40
Những người con thường gọi cha mẹ của chúng là cha mẹ, mặc dù Chúa Giêsu đã nói đừng gọi ai dưới đất là “cha”. Những vị dạy dỗ trong trường học chấp nhận tước hiệu “thầy” mặc dù Chúa Giêsu nói: “Tránh gọi ai là thầy”. Điều đó sẽ là ngớ ngẩn nếu duy trì những điều thực hành này khi những điều này trái với hướng dẫ của Chúa Giêsu. Hiển nhiên là ý nghĩa của nó không phải là nghĩa chữ. Mặc dù đúng hơn qua những điều giống như ra lệnh này, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta một bài học quan trọng hơn. Người muốn hướng dẫn dạy dỗ chúng ta rằng chúng ta đừng trao cho người nào chỗ nhất trong đời sống của chúng ta, mà chỗ này chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa.
Chúng ta là con cái của cha mẹ chúng ta. Một số người thì đã được chúc phúc bởi cha mẹ của mình và một số khác thì hoàn toàn không. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn lên thiên đàng để tìm thấy những Đấng cha mẹ hoàn hảo, một người tuyệt vời không thể tưởng tượng được đó là Cha của chúng ta nữa. Chúng ta không thể cho phép ai chiếm mất chỗ của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta.
Tất cả chúng ta phải có những vị thầy trong những khoảnh khắc khác nhau từ lúc chúng ta sinh ra trong suốt thời gian ở trường, khi chúng ta có một công việc, và thật sự xuyên qua toàn bộ đời sống của chúng ta, có một người có thể dạy dỗ chúng ta về mọi chân lý căn bản nhất của đời sống, cả đời này và cả đời sau, là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không thể cho phép bất cứ ai hơn Chúa Giêsu trong việc Chúa Giêsu trở nên Thầy dạy chúng ta về những giá trị của đời sống.
Thiên Chúa đã nói qua lời của tiên tri Malakia trong bài đọc I của chủ nhật hôm nay. Bài đọc tuyên bố: “Quả Ta là vua lớn lao”. Có ai trong đức tin chối điều đó không? Thiên Chúa đòi hỏi câu trả lời trong câu hỏi của Ngài: “Các người có chấp nhận rằng các người không được đặt ai vào chỗ của Ta như là Chúa các đạo binh của các người không?” Chúng ta phải trả lời: “Amen”.
Tuy nhiên có lẽ trong trường hợp của chúng ta thì không khác biệt mấy với những người dân mà tiên tri Malaki đã rao giảng sứ điệp của ông. Họ những người dân Do thái đang trở về từ cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, dân tộc đó không chia sẻ tôn giáo và những giá trị như họ. Hoàn cảnh là một thách đố đức tin cho cả hai, thành phần là tư tế và dân chúng. Đó là lý do vì sao tiên tri Malaki đã rao giảng cho họ một bài giảng khẩn cấp và lớn lao như vậy.
Đó là lý do vì sao Phúc âm của chủ nhật hôm nay có một ý nghĩa lớn lao đối với chúng ta. Chúng ta sống một xứ sở, xứ sở đó đã được thúc đẩy bởi những nguyện tắc chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa tiêu thụ, mà không phải bởi những giá trị của tôn giáo. Hầu hết mọi người mà chúng ta có thể nói rằng họ tin vào Thiên Chúa, nhưng sự cám dỗ thời đại trong xứ sở của chúng ta là sống mà Thiên Chúa không hiện hữu. Sự cám dỗ đó là có thực đối với chúng ta, tuy nhiên nó có thể tinh tế hay mờ nhạt khi chúng ta đang ngồi trong nhà thờ.
Có lúc nhà thờ sẽ là nơi cư ngụ của chúng ta, là ngôi nhà tinh thần của chúng ta trên mặt đất này. Nơi đây hãy trả sự chú ý cho Chúa Giêsu, vị Thầy dạy của chúng ta, khi chúng ta lắng nghe lời Người tuyên bố trong Thánh Kinh. Chúng ta tuân theo giáo huấn của Ngài bằng việc cầu nguyện với Thiên Chúa như là “Cha của chúng ta”, không chỉ trong lời kinh Lạy Cha, nhưng qua thánh lễ. Chúng ta nối kết với Người trong hy tế của Chúa Giêsu Kitô để hiểu rằng, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là vị Vua cao cả của chúng ta, là Đấng mà chúng ta dâng lời ngợi khen và cảm tạ.
Hơn nữa, chúng ta sẽ tìm thấy một dân và với dân đó chúng ta chia sẻ những giá trị trong đời sống, dân mà họ sẽ nâng đỡ chúng ta trong đức tin và là dân mà chúng ta sẽ sẵn lòng giúp đỡ trong mọi lúc họ cần. Người Do Thái trở về một miền đất có vẻ giống như là ngoại quốc đối với họ. Chúng ta sẽ không bao giờ có cảm giác mình không có chỗ trong một nhà thờ công giáo. Chúng ta phải tìm thấy nơi mỗi người, dân tộc được dâng hiến, là dân muốn sống theo những giá trị của Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta.
-------------------------------
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể làm cho ta bị sốc. Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi: TN31-A41
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể làm cho ta bị sốc. Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy, vì chỉ có một Thầy là chính Ngài. Cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ... Ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen. Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Vậy đâu là điều Đức Giêsu muốn nhắn nhủ ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên là: “mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.”
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu. Nếu họ được gọi là cha, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh, tôi cũng không được quên chân lý này: tất cả đều là anh em với nhau, đều là con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu. Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn bè của các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28). Đức Giêsu mãi mãi là gương sáng cho các nhà lãnh đạo. Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại sự giả hình của một số người pharisêu. Họ có quyền giảng dạy về Lề Luật. Giả hình vì họ không làm điều mà họ dạy người khác, họ dễ dãi với chính mình, nhưng lại khắt khe với người khác. Giả hình vì họ biến việc thờ phượng Thiên Chúa thành thờ phượng chính con người của họ. Khi làm việc tốt, họ muốn người ta nhìn thấy và thán phục chính họ.
Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay mời gọi ta: Hãy nhìn rõ khuôn mặt của mình. Hãy nhận ra những chiếc mặt nạ mà ta đang mang ? Ta phải làm cách nào để cởi bỏ những chiếc mặt nạ ấy ?
***
Lạy Chúa Giêsu! Khi đến với nhau, con thường mang những mặt nạ. Con sợ người khác thấy sự thật về mình. Con cố giữ uy tín cho bộ mặt, dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, con cũng thường mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời kinh đọc trên môi miệng, nhưng không có chỗ trong tâm hồn.
Con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ con đang mang.
Lạy Chúa Giêsu, Xin giúp con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ đã ăn sâu vào da thịt, để con không còn đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và đánh lừa chính mình. Amen
Trích trong ‘Manna’
(BĐ1: Ml. 1,14b – 2,2b.8-10 * BĐ2: 1Tx. 2, 7b-9.13 * PÂ: Mt. 23, 1-12)
--------------------------------
Ngay trong thời Cựu Ước, chức Tư Tế được ban cho một số người không phải vì tài năng hay công: TN31-A42
Ngay trong thời Cựu Ước, chức Tư Tế được ban cho một số người không phải vì tài năng hay công phúc của họ nhưng là ân huệ đặc biệt do lòng thương cách lạ lùng của Thiên Chúa, để họ phụng sự Thiên Chúa, để họ mời gọi mọi người phụng sự Thiên Chúa, làm vinh danh Thiên Chúa. Vì thế, khi một Tư Tế lạm dụng ân huệ này để thiên hạ phục vụ mình, làm vinh danh cho mình, thì đó là dấu chỉ của một sự phản nghịch. Đáng tiếc thay, thời ấy, đã có nhiều Tư Tế phản nghịch, đi sai đường lối của Thiên Chúa, nên đã bị Ngôn Sứ Malakhi cảnh cáo và chúc dữ. “Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật” ( x. Ml 1, 14b – 2, 2b. 8 – 10 ).
Chúa Giêsu, Tư Tế mới của Tân Ước, đã không đồng tình với cách sống của những Tư Tế Do Thái đương thời, vì:
- Họ “ngồi trên tòa Môsê” để giảng dạy, nhưng họ đã dạy điều họ không sống, không giữ. Họ nói mà không làm.
- Họ làm “hộp kinh” lớn hơn, “tua áo” dài hơn, không còn là để nhắc nhở họ chu toàn lề luật nhưng lại là vật trang trí khoe khoang rằng ta là người thông luật.
- Họ phải được trọng vọng, được chỗ ăn trên ngồi trước cho xứng với danh xưng là “thầy”, là “cha” hay là “người chỉ đạo”.
- Họ phải được mọi người kính nể và hầu hạ phục vụ chu đáo.
Thế thì, họ cũng không khác gì những Tư Tế thời Cựu Ước: làm Tư Tế để vinh danh mình, không phải làm Tư Tế để vinh danh Chúa.
Vì thế, Chúa dạy: “Trong các ngươi, ai quyền thế hơn phải là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” ( x. Mt 23, 1 – 12 ).
Lời Chúa Giêsu đã thấm nhuần trong Hội Thánh Công Giáo, và hai ngàn năm qua, chúng ta vui mừng có được vô số những Tư Tế thừa tác đã chia sẻ Thánh Chức Tư Tế của Chúa Giêsu, đã làm vinh danh Thiên Chúa nhờ đức khiêm tốn đáng kính của người được kêu gọi để “phục vụ chứ không phải để được phục vụ”.
Các ngài đã noi gương Chúa Giêsu Tư Tế của Thiên Chúa Khiêm Nhường và Giàu Lòng Thương Xót, Đấng đã “cúi xuống”, “nhìn xuống”, “bước xuống”, và cuối cùng là “xuống ở cùng nhân loại” và “xuống phục vụ nhân loại” trong mọi hoàn cảnh bi đát nhất của cuộc đời.
Cụ thể và gần gũi với Giáo Dân Việt Nam, là hình ảnh những Tư Tế biết hạ mình xuống và xuống với mọi người, để cuộc sống yêu thương phục vụ của họ nên bài giảng sống động.
Đã có những bài giảng sống động của các Chủ Chiên hiện nay, là những người đã từng “xuống” giảng trên đồng mía, nơi lò che, nơi chảo đường ở Tuy Hòa, nơi ruộng muối ở Qui Nhơn, đã từng xuống giảng trên nông trường Phạm Văn Hai nào đó ở ngoại thành Sàigòn, hoặc xuống trên ruộng lúa, trên rẫy ngô, với chiếc xe đạp cũ kỹ cọc cạch vượt núi đồi Lạng Sơn, trên chiếc xe bò ở Song Mỹ, Ninh Thuận, hoặc đã từng “xuống” giảng trên thuyền vượt khơi ngàn dặm…
Cụ thể hơn, gần đây hơn, bài giảng sống động bên bờ sông thượng nguồn giữa đại ngàn Tây Nguyên thật tuyệt. Bởi, một Giáo Dân ngủ ở bờ sông, chờ sáng, tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật là chuyện bình thường, nhưng một Giám Mục cũng dám ngủ ở bờ sông, chờ sáng, cử hành Thánh Lễ cho Giáo Dân, lại là một chuyện… “dám xuống” ! Một Giáo Dân nhặt rác quanh Đài Đức Mẹ là chuyện bình thường, nhưng một Giám Mục tận tụy nhặt rác hẳn phải là chuyện “bỏ cái tòa Môsê mà đi xuống”. Những chuyện “xuống” ấy, phần nào cho thấy một tấm lòng của một Chủ Chiên đã noi gương của Người Mẫu Tư Tế là Đức Giêsu Kitô: cúi xuống và hôn lên những mảnh đời bất hạnh, cúi xuống và làm gương phục vụ cho mọi người.
Anh em Chủng Viện Lâm Bích Nha Trang hẳn còn nhớ “Ông Nội”, Đức Hồng Y Phanxicô Tôi Tớ Chúa, hồi còn làm Giám Mục Nha Trang, ngài xứng đáng có mâm bàn riêng, thức ăn riêng… Sao vẫn luôn xuống đồng bàn với các Chủng Sinh, không có chỗ ngồi riêng cho Giám Mục, ngài muốn ngồi đâu tùy ý, ăn uống như Chủng Sinh, ăn xong, ngài cùng mỗi người một tay giúp dọn chén bát đĩa xuống bếp…. Rồi cũng chính ngài, đã có những bài giảng sống động, vì không “ngồi trên tòa Môsê” nhưng đã xuống tận trại cải tạo ở Cây Vông, ở Giang Xá, người giảng không “nới rộng hộp kinh hay kết dài tua áo” nhưng mặc tấm áo sờn mòn của tù nhân, tấm áo bươm rách vì muối mặn mồ hôi lao động… giảng Tin Mừng cho cả người không muốn nghe !
Quả thực, chúng ta được vui mừng vì Giáo Hội được gọi là Hội Thánh, nhờ những con người nên Thánh từ bài học “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” của Chúa Giêsu, nơi các Giám Mục, Linh Mục. Bởi, chuyện phục vụ sơ qua thì thấy dễ làm, nhưng thực ra là không dễ, nếu con người phục vụ không muốn bỏ cái Tôi cao trọng của mình mà chấp nhận nhìn xuống, cúi xuống, bước xuống và cuối cùng là “xuống” phục vụ mọi người.
Ngày nay, Giáo Dân Việt Nam, nhất là ở các vùng đồi núi hay sông nước xa xôi, vùng quê nghèo nàn rất thương quí các cha vì các cha dời nhà xứ xuống tận nhà dân, dời phòng tiếp khách xuống tận ruộng đồng để gặp gỡ bà con, gần gũi, và thương mến.
Chẳng hạn, Giáo Dân ở tận buôn làng, nơi các Giáo Điểm thuộc Bảo Lộc, Di Linh, Fyan, như KTM 1, KTM 2, B’lac… sung sướng biết bao khi các Linh Mục xuống tận Giáo Điểm của mình bằng con đường vừa xa xôi, vừa ngoằn ngoèo đồi dốc sình lầy đất đá đỏ. Hoặc, Giáo Dân ở các khu ổ chuột trong thành phố, họ sung sướng hạnh phúc đến rơi lệ mỗi khi được cha xứ đến thăm “khách sạn ngàn sao” của mình và bằng lòng ngồi bệt xuống sàn nhà dùng với gia đình một bữa cơm bất ngờ chỉ có cà dưa muối.
Giáo Dân Việt Nam quí mến các Linh Mục, không vì chức hay vì quyền, nhưng vì các Linh Mục nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự, họ là hiện thân của Chúa Giêsu, hiện thân của tình yêu và lòng thương xót. Cách nào đó, các Linh Mục, Tư Tế thừa tác của Thiên Chúa, họ đang thực sự nói Lời Chúa bằng cả đời sống khiêm tốn và thánh thiện của họ.
Chắc chắn họ đã xác tín và minh chứng được điều Thánh Phaolô dạy hôm nay: “Vì anh em nhận lãnh Lời Thiên Chúa do c húng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh Lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như Lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, Lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin” ( 1Tx 2, 13 ).
Lời Chúa hôm nay còn nói cho tất cả các tín hữu, những người nhận lãnh chức Tư Tế Cộng Đồng qua Bí Tích Thánh Tẩy, hãy tế lễ cuộc đời mình bằng cuộc sống hy sinh phục vụ cho gia đình, cho tha nhân, cho Hội Thánh, cho danh Chúa cả sáng: Phục vụ với lòng khiêm nhượng, với tình yêu thương không phải của mình mà của Chúa Giêsu đang ngự thật trong lòng và biến đổi trái tim mình thành trái tim Chúa. Hãy tạ ơn Chúa, vì còn có rất nhiều những gia đình tín hữu đang sống với tình yêu hy sinh và phục vụ nhau chân tình giữa một xã hội đầy muôn chước cám dỗ vô cảm, sống chết mặc ai, hay cám dỗ kiêu căng, vũ phu, lộng quyền, được thì ở, không được thì chia tay.
Trong khi vui mừng và tạ ơn Chúa vì chúng ta đang có những Tư Tế Thừa Tác và Tư Tế Cộng Đồng sống tinh thần khiêm cung tự hạ tự hủy cho Danh Chúa được cả sáng, thiết tưởng, chúng ta không quên cầu nguyện cho một số Tư Tế biết từ bỏ nhịp sống phong lưu trưởng giả, kiêu căng, vị kỷ, không phục vụ ai nhưng lại đòi ai nấy phải hầu hạ phục vụ mình, dành lấy của Thiên Chúa mọi lời chúc tụng vinh quang, và nhất là đang biến thái dần, thành những con người quỵ lụy người đời và phục vụ cho những tham vọng của trần thế, của Satan, của tà lực chống lại Thiên Chúa.
Mỗi Giáo Dân tưởng cũng nên nhắc nhở nhau khiêm tốn trong khi chu toàn ơn gọi Tông Đồ Giáo Dân. Hãy bước xuống ! Đừng để bị hạ xuống !
“Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa. Xin cho lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn” ( Tv 130 ).
Xin cho con biết chu toàn đặc ân Tư Tế bằng việc tế lễ cuộc đời mình mỗi ngày trong tinh thần khiêm tốn, cho vinh danh Chúa và vì phần rỗi của con và của mọi người. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 27.10.2011
--------------------------------
Căn bệnh tôn sùng thần tượng là một trong những căn bệnh thời đại, đặc biệt lứa tuổi teen. Quả: TN31-A43
Căn bệnh tôn sùng thần tượng là một trong những căn bệnh thời đại, đặc biệt lứa tuổi teen. Quả là hết sức ngờ nghệch khi những cô cậu học trò, vì quá tôn sùng ai đó, coi họ là thần tượng bậc nhất của mình để rồi tự đồng hóa mình nên giống thần tượng, từ mái tóc cho đến phong cách ứng xử. Nếu dừng lại ở mức độ khách quan, tích cực thì cũng không có gì đáng lo ngại, nhưng tồi tệ hơn, vì quá đam mê muốn trở thành khuôn mẫu của thần tượng, họ không ngần ngại thay đổi đến cả biến chất… chỉ vì thần tượng, gây ra những hậu quả tại hại khôn lường.
Kinh nghiệm dân gian cho biết: trong một ông thánh vẫn có thằng quỉ nho nhỏ và trong thằng quỉ vẫn có một ông thánh nho nhỏ. Ai đã từng sống thật với kinh nghiệm bản thân, có lẽ sẽ không bao giờ hàm hồ ghi dấu chấm hết cho người còn sống. Cũng vậy, người khôn ngoan chẳng bao giờ đặt ai làm thần tượng cho mình. Người có thánh đến đâu, cũng chỉ là người, đều chung số kiếp là thân phận bụi tro, mỏng manh, dễ sa ngã, phạm tội và mau thay đổi. Xác định được như vậy, có lẽ nhân loại mới biết mở mắt mà phân định thật giả, tốt xấu. Người ta dễ lầm tưởng lắm, “trời cho cái áo bên ngoài, để che cái lõi sơ sài bên trong” mà. Cứ nại vào chiếc áo hào quang của danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lực, con người sẽ đi vào ngõ cụt của bế tắc gian dối, lừa lọc.
Hỏi ai là người đáng tin trong nhân loại ? Hỏi phải tôn thờ, sùng bái ai khi không người nào trong nhân loại được xem là thật sự công chính ? Thế nên, chỉ có thể tôn thờ Đấng được gọi là Thánh. Nhân loại, ai cũng như ai. Người có tài giỏi, đức hạnh thế nào cũng không thể thoát khỏi chiếc áo phàm trần. Mà đã là nhân loại, ắt phải có khiếm khuyết, bất toàn. Hẳn nhiên, kinh nghiệm dân gian không phải vô cớ mà kết luận rằng “nhân vô thập toàn” là như vậy !
Nếu đã ý thức chỉ một Thiên Chúa là Cha, là Đấng mà chúng ta tôn thờ, thử hỏi tại sao nhân loại vẫn cứ thích chạy bám theo ánh hào quang phù phiếm để rồi xâu xé, sát hại lẫn nhau. Quả đáng sợ cho những ai dám tự cho mình là chuẩn mực để rồi khinh khi, coi thường người khác hay lên mặt dạy đời, kẻ cả. Nói đến cuộc sống, nói đến con người, hỡi ơi, trăm ngàn điều cần nói, cần diễn tả ! Cứ mải miết mà suy tư, phân định, có lẽ phải viết đến muôn đời. Thôi thì, hãy quay về với Thiên Chúa, hãy lấy Ngài làm chuẩn mực, làm chốn tựa nương để mà trao phó trọn vẹn cuộc sống cho Ngài. Chỉ ở trong Thiên Chúa, chốn là bình an vĩnh cửu và đích thực, con người mới tìm thấy hạnh phúc đời mình.
Càng tôn sùng vật chất, càng nô lệ tiền tài, danh vọng nhân loại càng lún sâu vào vũng lầy bế tắc, thất vọng. Nương tựa vào Chúa, quy hướng toàn bộ cuộc sống vào Ngài, kín múc từ Ngài sức mạnh niềm tin và tình yêu, sẽ là động lực để nhân loại vượt qua tất cả bất công cuộc đời. Đừng cậy dựa vào người thế, quyền lực, tiền tài rồi cũng qua đi. Càng bám vào vật chất, sẽ càng thất vọng đau đớn ê chề. Chỉ có tình thương và công lý mới là chìa khóa giải mã mọi ẩn số cuộc đời.
Hãy mở rộng tâm hồn để mà học hỏi, lắng nghe, tiếp nhận gương lành, tri thức tốt của nhân loại, nhưng đừng xem đó là cứu cánh để mà bán rẻ mạng sống. Nhân loại, tất cũng chỉ là nhân loại, không ai tự mình trở nên thánh thiện được nếu như không nhờ bởi lòng Thiên Chúa thương xót và ân huệ nhưng-không của Ngài. Cũng đừng khúm núm, lo sợ một ai, có sợ thì hãy sợ Thiên Chúa, Đấng có thể ném linh hồn của bạn vào hoả ngục hay đưa về thiên đàng. Người tài đức thật, không bao giờ biết phô trương, khoe mẽ. Bởi khiêm nhường, nền tảng của mọi nhân đức, đã làm chủ cuộc sống họ.
“Đừng để ai gọi mình là Rabbi vì anh em chỉ có một Thầy, mọi người đều là anh em với nhau. Đừng gọi ai dưới đất là cha, vì anh em chỉ có một Cha trên Trời” ( Mt 23, 8 – 9 ). Ước gì ai trong nhân loại cũng nghe và thực hiện điều này, có phải cuộc sống đã ươm màu ước mơ ?!?
Lạy Chúa, có một thời con sống lầm lạc trong thần tượng. Đôi mắt phàm trần, đam mê danh vọng, hào quang của con bị che lấp bởi những tấm màn trá hình, gian dối. Thời gian và cuộc sống đã mở mắt con, tình yêu, ân huệ và lòng thương xót của Chúa đã làm cho con sáng, con muộn màng nhận ra rằng chỉ có Ngài mới là Đấng Thánh, chỉ có Thiên Chúa mới là Thầy, là Đấng con phải tôn sùng, thờ kính.
Xin tha thứ cho con, quá khứ của một thời đi hoang sa đọa. Xin hãy đưa con về với Chúa, ở bên lòng Chúa diễm phúc biết chừng nào. Ước gì con luôn thấy Chúa hiện diện trong suốt cuộc đời, khi vui cũng như lúc buồn, để con không còn tủi phận vì cô đơn, bất hạnh mỗi khi gặp thử thách, gian truân. Xin cho con vững tin rằng, niềm xác tín mà con đã dày công vun đắp bao nhiêu năm qua là có thật.
Thiên Chúa của con chính là Đấng Thánh đích thật, để con không còn phải cất công tìm kiếm, hay vật vã thao thức trước mọi hoàn cảnh trớ trêu của cuộc đời. Chỉ cần biết sống nương theo Lời Chúa, chỉ cần lấy Ngài làm chuẩn mực cũng đủ cho con nghị lực bước hết con đường Ngài muốn. Amen.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
--------------------------------
“Hồn khẳng khiu khát chờ trăng mở hội,
Ngỡ ngàng đêm mộng điệp thốt lời ca.”
( dẫn từ thơ Vương Ngọc Long )
Chờ trăng mở hội, hồn nào mà chẳng chờ. Mở hội rồi, hồn cứ ngỡ mộng điệp, nên mới thốt lời ca. Lời: TN31-A44
Chờ trăng mở hội, hồn nào mà chẳng chờ. Mở hội rồi, hồn cứ ngỡ mộng điệp, nên mới thốt lời ca. Lời ca hay lời hát, đâu chỉ có từ những người từng hát ca, cả một đời. Hát hay ca, cả ở hội đường. Nhưng sống khác hẳn điều mình giảng và hát như trình thuật nói hôm nay
Trình thuật hôm nay, Thánh sử Mátthêu dùng lời lẽ khá cứng cỏi để lên án đấng bậc nào chủ trương giữ luật, nhưng không sống điều mình chủ trương. Người xưa gọi họ là đấng bậc rất Pharisêu. Ngày nay ta gọi họ là gì ? Là ai ? Phải chăng là bậc thày có ngai cao bục giảng, chẳng có lòng ?
Là, dân dã tầm thường ở đời, cùng với Giáo Hội, ít khi ta đứng lên mà chống trả, phản bác các đấng bậc chuyên giảng thuyết có lời khuyên. Bởi làm thế ta sẽ bị người đồng đạo trách móc cho mình thuộc thành phần bất mãn với quyền lực ở trên. Với Thánh Mátthêu, chẳng ai dám trách ngài là người như thế, dù thánh nhân dám viết về Pharisêu, Kinh Sư không gì tệ hơn.
Xét cho cùng, ta thấy Thánh Mátthêu cũng có lý. Bởi, vào thời trước, Pharisêu, Kinh Sư vẫn có thiện cảm với Chúa. Chỉ sau này, khi Giêrusalem bị tàn phá, hồi niên biểu 70 sau Công Nguyên, nhóm này mới trở thành đoàn ngũ độc tài thống trị mọi người ở Do thái. Họ tụ tập nhau ở Yebneh ( Jamnia ) lập ra triết thuyết mà ngày nay ta gọi là thuyết Giuđa tư tế phẩm trật, vẫn tồn tại. Các nhóm chuyên kình chống tín hữu tiên khởi như cộng đoàn Mátthêu ngõ hầu duy trì chỉ nhóm mình mà thôi.
Thánh Mátthêu vốn người hiền lành, chân phương, tử tế. Nhưng khi gặp chuyện chướng tai gai mắt, ngòi bút nhẹ êm lại biến thành ngòi châm chích quyết tấn kích loài độc ác, để bảo vể Tin Mừng của Chúa. Các đấng bậc sẽ vung tay tấn kích loài lang sói và quyết liệt lên tiếng chống cự.
Thông điệp Thánh Mátthêu gửi đến mọi người là: ta chỉ chấp nhận quyền uy ở bên trên, chứ không hề chấp thuận lối sống bê tha, bệ rạc của mấy người. Các vị ngồi trên ngai bệ Môsê, nhưng không biết hành xử và sống như vị tổ phụ. Khi Thánh Mátthêu viết: “Những điều họ nói, các ngươi hãy làm và giữ lấy”. Đây chỉ là dẫn nhập. Điều mà Thánh nhân muốn nói là: hãy nhìn cách họ sống, chứ đừng bắt chước. Bởi kiểu cách thì nhiều, nhưng sống thực lại ít. Họ còn tệ hơn cả gái làng chơi, không xứng với Nước Trời. Tức nào khác người mù dẫn dắt kẻ mù, cả hai đều sẽ lăn cù xuống hố.
Về đường lối họ sống, đây là ba điều để chống lại:
- Họ không thực hiện điều mình giảng;
- Họ trao gánh nặng lên vai người khác;
- Họ làm mọi sự chỉ để phô trương và muốn được khen ngợi.
Điều ấy chứng minh: họ chỉ là:
- Người giả hình;
- Những người nặng nề, lê thê không muốn tiến;
- Và chỉ là người vênh vang hãnh tiến, phô trương, đánh bóng chính mình thôi.
Dùng ngôn ngữ thời đại, phải gọi họ là kẻ “đâm sau lưng chiến sĩ” ở cấp trên.
Nói chi tiết, điểm cuối cùng cho thấy các đấng bậc nói ở trên làm mọi chuyện chỉ để phô trương với mọi người. Chỉ muốn tìm chỗ cao trên ngai bệ thờ phụng, để mọi người thấy. Ăn thì chỉ ăn trên ngồi chốc, hết phần người. Mặc thì súng sính những lụa là, đai mão rặt màu vàng đỏ. Đi đâu cũng võng lọng, gậy, mão, quyết tháp tùng. Nếu họ còn sống đến ngày nay, chắc chẳng ai dám chối từ mão, đai, giải lụa hoặc mũ chụp, nhiều sắc tía. Danh xưng thưa gửi, cứ muốn mọi người một điều “trọng kính” hai điều “Đức Thánh”, hoặc “thưa Ngài”, nghe oang oang.
Đọc trình thuật, có người sẽ bảo: nếu vậy ta chẳng nên nhận áo mão, chức vụ ở trên cao, hay sao ? Nhận thế có gì tệ ? Nghe hỏi thế, có thể Thánh Mátthêu sẽ trả lời: tuỳ lý do hoặc động lực thúc đẩy ta tìm kiếm, thế thôi. Chỉ thành vấn đề, khi người nhận chức cao quyền trọng chỉ để đề cao, thăng tiến chính mình. Chỉ thành vấn đề, khi người bị trị hoặc sống chung quanh nhận định thế nào, về quyền chức. Nếu trả lời: “Mọi người đều thế, tôi cũng thế” thì câu này chưa hẳn là đúng, dù rất thực. Thế những người không thể hoặc không làm thế, thì sao ? Sao ta không cúi xuống nhập bọn ở cùng hàng ?
Quả là vấn đề như vừa kể. Vẫn nóng bỏng thời hiện tại có xã hội và Giáo Hội như xưa và cả đến hôm nay. Xưa và nay, nhiều mục tử và thừa tác viên trong Đạo hẳn vẫn muốn thứ gì đó rất riêng tư ? Đặc biệt ? Đặc biệt, nơi vai trò. Đặc biệt, ở thế lực. Lịch sử trải dài nhiều thế kỷ vẫn cho thấy: các đấng bậc vẫn dính dự với lối sống này khác mà thực ra công việc thừa tác của mình đâu đòi thế. Thế nên, có vị cứ súng sính áo chùng rủng rỉnh để mọi người quan tâm, ngắm và nhìn. Có vị còn đeo mang trang phục rất đặc biệt để tỏ cho mọi người biết mình cũng có đặc quyền, đặc lợi, tỉ như các “vị cảnh sát” nơi phố chợ, huyện nhà ! Có vị, chỉ muốn sử dụng danh xưng rất đặc biệt tuy không hợp chức năng, nghề nghiệp, của ai hết.
Nếu Thánh Mátthêu nay bắt gặp những người như thế trong lòng Hội Thánh, ngài có gay gắt như xưa không ?
Để trả lời, câu dễ nghe nhất, có lẽ là: thánh nhân sẽ cân nhắc bề dày lịch sử, để rồi sẽ bảo rằng: mọi việc không thể đổi thay nội một ngày. Dù ngài hy vọng về lâu về dài, mọi chuyện sẽ thay và đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và Thánh nhân có lẽ sẽ hỏi đích thân các vị ấy, như từng hỏi và yêu cầu mọi người hãy sống thực tế. Cả vào khi mọi người làm vì sinh kế. Hoặc để bảo vệ nồi cơm, manh áo, dù đâu muốn. Và khi ấy, chắc hẳn Thánh nhân chỉ muốn bảo: hãy biến nơi làm việc của mình thành nơi chốn giúp mình sống đời tín hữu rất đích thực. Tức chỉ làm những điều lành thánh đúng vai trò, không se sua, bè phái, cũng chẳng cần “bùa phép”, lãng phí điều chi.
Có lẽ, thánh nhân sẽ có thêm nhiều ý tưởng để viết về chức năng, vai trò của người thừa tác công việc Hội Thánh hoạch định như Linh Mục. Có người phỏng đoán: có lẽ Thánh nhân cũng muốn linh mục và thừa tác viên trong Đạo chỉ chấp nhận thực thi công tác mục vụ, rao giảng nào được đề ra cho mình thôi chăng ? Thời buổi này mà nói thế, e hơi lạc điệu. Lạc cả cung giọng trầm bổng rất hăng say nhiệt nồng hơn thời cổ, ở cộng đoàn Mátthêu tiên khởi ?
Kể cũng khó định vị trình thuật sao cho hợp với thời buổi hiện tại có nền văn hoá của sự chết, như ngày nay. Thế nhưng, Thánh Phaolô khi xưa vẫn nghĩ và sống như thế suốt đời mình. Ngài luôn chỉ sống như người thợ may âm thầm chế biến lều bạt để kiếm sống. Thánh Mátthêu cũng nghĩ thế và sống như thế. Ngài chỉ là người thày viết lách và dạy học để kiếm sống thế thôi.
Đức Giêsu cũng thế, Chúa cũng chỉ sống giản đơn hiền từ như thế. Chúa là bác thợ đơn thần nghề mộc cốt sinh sống. Nếu còn hiện diện đến ngày nay, hẳn Thánh Mátthêu sẽ ngạc nhiên không ít khi nhận ra rằng Hội Thánh mình đã phải trải qua bao thăng trầm để hội nhập, trải dàn như một thể chế để ta hưởng. Nhìn ra thế, chắc hẳn Thánh nhân lại sẽ viết thêm một trình thuật khác khá gay gắt để đòi ta từ bỏ lợi lộc hoặc áo sống khá đặc biệt, hoặc chức vị đặc trưng nào đó để trở thành dân dã đơn thuần như Đức Giêsu từng sống thế và muốn ta nên như thế.
Viết lên trình thuật, Thánh Mátthêu không chỉ muốn gửi cho vua quan, lãnh chúa thời hôm trước, mà cho dân con đồ đệ người của Chúa ở mọi thời. Những thời và buổi còn đó, những người sống bên ngoài và bên dưới võng lọng cùng ngai bệ của vua, quan, giới chức. Để mọi người suy ra mà khởi sự thực hiện chuyện phải lẽ ngay từ nhà, nhà mình, Nhà Chung, là Hội Thánh rất đáng thương đáng mến.
Trong tâm tình gửi gắm rất như thế, ta cũng nên ngâm lên lời thơ còn đó cũng khá buồn, rằng:
“Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối.
Tôi đứng đây, bụi lốc mịt mù xa.
Nghìn mắt lá, đang nhìn tôi ái ngại.
Đêm nguyệt quỳnh hoá nở kiếp phù hoa…”
( Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh )
Nguyệt quỳnh hay nguyệt vọng, là đêm ngày ta đứng đó mà ngó nhìn. Nhìn, cảnh trời mây nước có trăng giăng đầy tình tự. Có cả những vị chẳng cần biết chuyện phải chăng. Lưu tâm gì đến điều mà Đấng bậc nhân hiền lành thánh vẫn khuyên răn vào mọi thời, gửi đến muôn người, rất hôm nay.
Lm NGUYỄN ĐỨC VINH SANH, bản lược dịch của Mai Tá
--------------------------------
Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô d’Assie, ngày kia: TN31-A45
Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô d’Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên thiên đàng và chiêm ngắm những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc ngai sáng chói, và Chúa đã nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là chiếc ngai của Lucifer, nhưng vì kiêu ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc về Phanxicô d’Assie, người tôi tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ, thầy đã hỏi thánh nhân: Thưa cha, cha nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ là một kẻ tội lỗi đáng thương nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể như vậy được. Thánh nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đã ban cho tôi, thì họ đã trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy dòng suy nghĩ, và nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời nói của Chúa Giêsu? Đâu là ý tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta tuân giữ một đức khiêm nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn như khi đi dự tiệc, là phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên mâm trên. Căn bản của thái độ này chính là kiêu ngạo, sự trá hình. Chúa không bảo chúng ta hãy lợi dụng chỗ thấp để làm cho mình được vinh dự, trái lại, chúng ta phải có tâm tình khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc khiêm tốn, những địa vị kém cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng ta, chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên trần gian, không phải là để thống trị mà là để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã phán: Con Người đến không để được phục vụ mà để phục vụ và hiến thân vì người khác. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ. Đó chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được quên lãng, vì Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ biết điều đó và thường hãnh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn. Sau khi sơ ấy chết đi, thánh nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn quại trong lửa luyện ngục. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc thương, nhưng Chúa hiện ra và phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu ngạo. Hãnh diện vì tiếng hát, sơ ấy đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì phụng sự thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta cũng đã tình cờ trở nên giống vị nữ tu trước những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy dùng những khả năng của mình để phụng sự Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm tình khiêm nhường đích thực, vì ai hạ mình xuống, sẽ được không phải là người đời, mà chính là Chúa nâng lên.
--------------------------------
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài đọc này tiết lộ một trong những lý do căn bản khiến người biệt phái đối đầu với Chúa Giêsu: TN31-A46
Bài đọc này tiết lộ một trong những lý do căn bản khiến người biệt phái đối đầu với Chúa Giêsu. Bài đọc cũng chất vấn chúng cả chúng ta ngày nay nữa, vì vấn đề đặt ra là sự thành thực của cuộc sống đối với Đức tin. Chúa Giêsu kết án người biệt phái cắt nghĩa lề luật mà sắp đặt theo sở thích của mình. Và thay vì có lương tâm khiêm nhường của tội nhân trước mặt Thiên Chúa, họ có lương tâm của kẻ tự mãn. Cần lưu ý Chúa Giêsu không hề đả kích quyền uy của các thày thông giáo giảng dạy giáo lý Do thái ở thời Ngài; nếu dùng bài đọc này biện minh cho việc phản kháng quyền hành trong dân Thiên Chúa quả là lạm dụng. Điểm chính xác mà Chúa Giêsu nhắm đến là sự phù hợp phải có giữa lời nói và việc làm; Ngài cũng tố cáo thái độ mong được người chú ý hơn là sống theo ý Thiên Chúa. Bởi đó những người nhận quyền hành có bổn phận, phải làm gương cụ thể những điều họ giảng dạy. Đồng thời việc chấp nhận ngay thẳng lời giáo huấn đến từ các vị có quyền buộc tín hữu thi hành những điều họ tin. Một vài điều xác định về bài đọc. Các thẻ kinh ở đây là những hộp vuông nhỏ bằng giấy hay bằng da bò màu đen, trong đựng những đoạn ghi chép các câu Kinh thánh nói về tnh1 chất linh thiêng của lề luật. Các người Do thái mộ đạo đeo trên trán hay buộc vào cánh tay trái để đọc vào kinh sáng; những biệt phái bị Chúa trách cứ có lẽ lúc nào cũng mang bên mình. Các tua áo và cả các túm đính vào bốn góc áo choàng có giá trị dấu hiệu tôn giáo để nhắc nhở tuân giữ lề luật. Các lời chào hỏi có tầm quan trọng lớn lao ở Đông phương, cử chỉ và lời dùng để chào nói lên phẩm giá xã hội người mình chào. Những người biệt phái rất thích được người ta thưa: “Bẩm thày đạo sư, nguyện chúc Ngài khang an”. Để suy gẫm:
1) Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Câu nói của Chúa tố cáo một cố tật của mọi kẻ nắm giữ quyền hành, mọi người cắt nghĩa luật pháp và ở đây chúng ta giới hạn trong phạm vi tôn giáo. Có một thứ am tường luật pháp, để tránh né các đòi buộc mà lương tâm vẫn yên ổn. Người ta cắt nghĩa sao cho kẻ khác buộc phải giữ còn mình thì thoát. Một cố tật khác là, cắt nghĩa luật pháp theo những ý tưởng và quyền lợi mà mình muốn bảo vệ. Cắt nghĩa Phúc âm cách sao để biện minh cho một số chủ trương “bảo thủ”, hay “cách mạng” là một việc giả hình, biệt phái cũng đáng kết án như việc giảng dạy Phúc mà tìm cách để khỏi thi hành. Trong cả hai trường hợp, đều có sự dối trá. Một bên biến Phúc âm thành gánh nặng cho người khác, một bên đặt thêm vào gánh nặng mà Phúc âm không có. Cả hai bên đều có việc tráo quan niệm nhân loại vào chỗ thánh ý Thiên Chúa.
2) Làm sao có được thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái? Các người chỉ có một Thày, một Cha, một Đấng chỉ đạo. Chúa Giêsu nhắc nhở người Kitô hữu rằng Đấng duy nhất xét đoán lương tâm họ là Thiên Chúa, dầu họ ở mức độ quyền bính hay tuân phục nào đi nữa. Họ phải thực hành điều họ dạy, điều họ tin. Sự ngay thẳng nội tâm trước mặt Thiên Chúa sẽ khiến họ ý thức mình là kẻ có tội. Khi cần, nó có thể khơi dậy một sự tìm kiếm trong lòng những người khác. Họ sẽ không thuộc số những kẻ hành động có ý cho người ta thấy. Họ sẽ hành động cách nào để khi thấy việc họ làm, người ta sẽ ngợi khen Cha ở trên trời (Mt 5,16)
--------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người: TN31-A47
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.
Anh chị em thân mến, “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.
Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Vì thế, “trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em”.
Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của người nghèo”. Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục”. Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ”.
“Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ”. Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.
----------------------------------
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị bản thân: TN31-A48
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn lên, để "trở nên người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô". Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao cả: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48). Như thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một khát vọng rất chính đáng và tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người nhắm đạt đến lý tưởng nầy bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn tới lý tưởng nầy bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài cốt để cho người ta thấy; họ "đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy."
Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn nâng cao giá trị của mình qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất. (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai đây Chúa Giêsu sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là Bà Dê-bê-đê đến nài xin Chúa Giêsu cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Người. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình ra mặt với Gioan và Giacôbê, vì chưa gì mà hai anh em nầy đã toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ cũng đang ngấp nghé. (Mc 10, 35-41)
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.
2. Đâu là phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy" là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nêu trên đem lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm tưởng, nhưng giá trị đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của con người.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội minh định: "Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (= bản thân ta và những gì ta sở hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của ta, chức vụ và quyền hạn lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những người không nhà, không xe, không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức (nếu có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha nhân như người tôi tớ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mc 10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được mấy ai chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng điều đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại An-ba-ni nhưng trải qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ, từ đó, Mẹ được mang danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục vụ những mảnh đời cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, các vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta để tham dự tuần lễ cầu nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người phụ nữ mang danh "Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa Kỳ nhất trí phong tặng mẹ danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo Hội nâng lên hàng Chân Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ, hai vị được phong chân phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh Maximilian Kolbe cũng phải mất đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người chúng ta thôi tìm kiếm vinh quang cho mình bằng những hình thức hư ảo của những hạng người nông nổi, nhưng biết dấn thân phụng sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương Chân Phước Têrêxa Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương và hạnh phúc hơn bằng tinh thần phục vụ.
----------------------------------
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ...
Bản văn này là một phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với những quyền bính tôn giáo: TN31-A49
Bản văn này là một phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với những quyền bính tôn giáo ở Giêrusalem: cuộc khổ nạn sắp đến gần và chúng ta biết rằng sự khước từ của các thân hào ở thủ đô là một trong những nguyên nhân cái chết của Đức Giêsu.
Vào thời kỳ Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, cuộc tranh luận nổ ra một cách bi thảm: Sau khi Đền thờ bị phá hủy vào năm 70, các người Pha-ri-sêu đã trở thành nhóm duy nhất còn tồn tại có tổ chức... và được quy tụ lại ở Giam-ni-a (Giáp nê), họ chính thức tuyệt thông với những người Do Thái theo Kitô giáo, coi những người này như những người lạc giáo và trục xuất họ ra khỏi Hội Đường Do Thái.
Những nhận xét về lịch sử này, tuy vậy, không cho phép chúng ta nghĩ rằng Matthêu chỉ đơn thuần nghĩ ra các cuộc tranh luận chống Pha-ri-sêu ấy. Đức Giêsu rõ ràng đã chết vì chống đối lại một số thủ lãnh tại thủ đô. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người Pha-ri-sêu đều đáng bị lên án. Và trong bất kỳ trường hợp nào, điều đó không thể nuôi dưỡng một cuộc bút chiến chống Do Thái. Vả lại chúng ta nhận thấy rằng, trong câu đầu tiên Đức Giêsu khuyên "thực hành và tuân giữ những điều các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy". Vì thế Người thừa nhận họ có thẩm quyền trong kiến thức về Luật của Thiên Chúa. Đức Giêsu không phê phán học thuyết và những nguyên tắc của người Pha-ri-sêu. Người yêu cầu chúng ta áp dụng những điều họ dạy.
Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Nếu Đức Giêsu tán đồng lý tưởng mà các Pha-ri-sêu đòi hỏi, thì Người lại trách họ rõ ràng đã không đem lý tưởng đó ra thực hiện cho đủ. " Vậy có một sự nghịch nghĩa khi tiếp thu tư tưởng của Đức Giêsu để biện minh cho thái độ bừa bãi trên bình diện thực hành tôn giáo. Người ta còn nghe quá nhiều những lời biện minh dễ dãi: "Tôi không đi dự thánh lễ bởi vì các Kitô hữu không tốt hơn những người khác... đó là những người Pha-ri-sêu! Chính Đức Giêsu không phê bình những người Pha-ri-sêu vì họ "thực hành" quá nhiều nhưng vì họ thực hành không đủ lý tưởng của họ.
Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
Chúng ta thấy lại một nét nổi bật của Đức Giêsu: Người bênh vực những người nhỏ bé, nghèo nàn, yếu đuối. Các kinh sư là những học giả. Ngày nay hẳn người ta gọi đó là những nhà trí thức, những người biết rành về Kinh Thánh. Những người Pha-ri-sêu đúng ra là những người sùng đạo. Ngày nay, người ta sẽ nói đó là những chiến sĩ, những người dấn thân để biến đổi xã hội. Nguy cơ lớn của học giả và người quảng đại là họ rất đòi hỏi những người khác khi áp dụng những nguyên tắc cao cả của họ cho các tập tục bên ngoài, thay vì xét lại chính bản thân mình. Canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con luôn sống nhân từ với người khác và khắt khe với chính chúng con. Xin làm cho chúng con gánh bớt gánh nặng của người khác và chớ để chúng con thành một gánh nặng cho những người xung quanh chúng con.
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội trường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.
Những hộp kinh là những hộp nhỏ chứa những bản văn Kinh Thánh mà người ta dùng dây cột ở trán và cổ tay: đó là một cách để nhớ lại lời Chúa (Xh 13,9-16; Đnl 6,8-11,18). Những tua áo ở lai áo cũng là một cách để nhắc người ta nhớ đến những điều răn của Thiên Chúa (Ds 15,37; Đnl 22,12).
Tập tục này giống với tục lệ đeo huy chương, vòng cổ, nhẫn.
Đức Giêsu không lên án những tập tục này tự nó. Chính Đức Giêsu cũng mang những tua áo (Mt 9,20; 14,36). Nhưng ở đây Đức Giêsu công kích thói tự kiêu vặt vãnh về tôn giáo: Người ta khoe khoang lòng sùng đạo của mình. Người ta tìm cách để được chú ý. Người ta đặt mình ra trước, chạy theo vinh hoa, phô trương thói kiêu căng hão huyền, tìm kiến những đặc ân đặc quyền. Tất cả đều là một khuyết điểm mà thời nào cũng có. Mỗi thời đại theo cách của thời đại đó.
Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi".
Công thức này chỉ cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu hơn tất cả những người Pha-ri-sêu của thời Người và quả thật, đây là lời Người nhắc nhở các môn đệ của mình. Thay vì lúc nào cũng áp dụng Tin Mừng cho những người khác, ví dụ như thay vì lên án những người giảng đạo nói mà không làm “bó những gánh nặng mà chất lên vai các tín hữu" thì chúng ta phải trở lại với chính mình: Phần anh em, đừng bắt người ta tôn xưng mình, cho mình được hưởng đặc quyền.
Còn tôi, cái cách của tôi làm cho tôi rơi trong sự lệch lạc ấy là gì?
Vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em là anh em với nhau.
Đức Giêsu lên án thói tự phụ rằng chúng ta phải là những người nắm giữ chính thức học thuyết đúng nhất. Chỉ một mình Thiên Chúa mới dạy chân lý tuyệt đối. Phần chúng ta, chúng ta chỉ đến gần chân lý ấy mà thôi. Còn tất cả anh em là anh em với nhau, Công thức này ngắn gọn, đầy những yêu sách. Đây là một yêu cầu về sự bình đẳng sâu xa giữa chúng ta với nhau: Một lần nữa, tôi phải áp dụng cho chính tôi những lời ấy: tôi có xu hướng muốn thống trị ai? Tôi có xu hướng muốn nhìn ai một cách ngạo nghễ, muốn khinh bỉ, phán xét ai?
Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.
Mỗi lần mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta có những thái độ trên bình diện đạo đức (làm điều này... không làm điều kia...), Đức Giêsu đều dùng các thái độ và xác tín của đức tin để nâng đỡ chúng. Ở đây yêu sách về sự bình đẳng bắt nguồn trong sự phụ thuộc của chúng ta trước Thiên Chúa. Đức Giêsu không đòi bãi bỏ mọi phẩm trật, quyền bính, tình phụ tử nào có thể thay thế cho Thiên Chúa. Đây là một yêu sách triệt để của tự do? Mọi con người đều có quyền gặp Thiên Chúa một cách trực tiếp. Không một thế phẩm nào được thay thế cho Đấng Duy Nhất, Đấng có thể cứu chuộc con người. Vâng, đối với Đức Giêsu việc gặp gỡ tình yêu của Chúa Cha, ở trên trời rất quan trọng đến độ mọi tấm chắn kính lọc, mọi sản phẩm thay thế mọi thế phẩm bất kỳ nào xem ra đều có hại. Đừng gọi ai dưới đất này là "cha"! Chắc chắn người ta có thể cho một người tước hiệu này nhưng không nên vì thế mà bị giam hãm trong mối quan hệ ấy, và trở thành ấu trĩ như trẻ con. Đức Giêsu biết rằng "chỉ có" Thiên Chúa mới là Thiên Chúa.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô
Đây cũng là lời cảnh báo tương tự không nặng được nhắc lại dưới những hình thức khác nhau. Xuyên qua những công thức ấy, chúng ta đã chẳng có thể khám phá chính điều chủ yếu của lời giáo huấn sao? Người lãnh đạo không phải là người lôi kéo người khác đến với mình nhưng lôi kéo người khác đến với chân lý.
Nhà giáo dục Kitô giáo, theo một ý nghĩa sâu xa hơn chỉ thật sự thành công trong việc giáo dục nếu người ấy có thể dẫn học trò mình bước vào quan hệ trực tiếp với Đức Giêsu. Trách nhiệm của cha mẹ, các nhà giáo dục và các linh mục vì thế rất nặng nề và kỳ diệu: một ngày kia họ phải tự quên mình là "thầy", bởi vì học trò mình đã tìm thấy vị Thầy duy nhất, vị "Lãnh đạo" duy nhất. Cuối cùng, một người dạy giáo lý chỉ đạt được mục đích khi dẫn đưa người học giáo lý đến kinh nguyện cá nhân để gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa. Và một nền giáo dục chỉ thật sự đạt được mục đích của nó nếu người được giáo dục một ngày kia có thể không cần đến nhà giáo dục nữa để hướng dẫn cuộc đời mình trong sự tự do hoàn toàn và dưới cái nhìn nội tâm của vị Thầy duy nhất.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống, sẽ được tôn lên.
Công thức này làm ngạc nhiên, dễ nhớ vì tính chất nghịch lý, là một trong số những câu mà Đức Giêsu đã phát biểu. một cách rõ ràng dễ nhớ nhưng người ta không thể xác định vào thời điểm chính xác nào trong sự giảng dạy của Người. Thật vậy, người ta tìm thấy câu ấy trong những văn cảnh khác nhau. Trong Matthêu (20,26) để gạt bỏ tham vọng của các con trai ông Dêbêđê: Trong Luca (14,11), để mời gọi các môn đệ không nên chọn chỗ nhất ở bàn tiệc. Trong Luca (18,14), để phục hồi danh dự cho người thu thuế trước sự tự mãn của người Pharisêu. Dù sao, tư tưởng ấy chắc chắn là một xác tín của Đức Giêsu mà Người đã không ngừng nhắc lại trong những trường hợp khác nhau.
Do đó nó không phải là một phương tháp hành văn của các tác giả Tin Mừng nào. Dẫu sao công thức ấy mạnh mẽ và tra hỏi chúng ta những bản năng tự tôn của tôi là gì? Những công việc phục vụ của tôi là gì?
------------------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Khi ấy Chúa Giêsu nói với dân chúng và môn đồ của Người rằng". Trong Tin Mừng Nhất lãm: TN31-A50
"Khi ấy Chúa Giêsu nói với dân chúng và môn đồ của Người rằng". Trong Tin Mừng Nhất lãm, Chúa Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với Biệt phái, nhưng với dân chúng và các môn đồ. Điều này thật quan trọng, nó có nghĩa là Người không tấn công chính giáo thuyết Biệt phái, nhưng đúng ra tự đặt mình làm trung gian giữa dân chúng và thủ lãnh xưa nay của họ để giải phóng dân khỏi ách nặng nề mà tinh thần nệ luật của các thủ lãnh ấy đặt trên vai họ. Chắc hẳn vì chính việc chống đối này hơn là vì những điểm đặc thù trong giáo thuyết mà Chúa Giêsu đã bị đẩy vào chỗ chết; đối với các thủ lãnh của dân, Người chẳng những là một tên tà đạo nguy hiểm hay một tên cuồng phái, như nhóm Essêni, những người rất mực khinh bỉ "dân chúng" hay "đám đông” song còn là một kẻ thù trực tiếp chuyên chống lại toàn thể dân Thiên Chúa. Mt nhấn mạnh đến mối tranh chấp này giữa Biệt phái và Chúa Giêsu, vì ông muốn giải thích cho Kitô hữu biết tại sao Chúa Giêsu bị đẩy đến chỗ chết do chính Biệt phái là những kẻ điều khiển sinh hoạt Hội đường vào thời của Người.
"Ngự tòa Môisen": Không nên hiểu động từ "ngự" theo nghĩa bút chiến, như thể Chúa Giêsu quả quyết rằng các Ký lục và Biệt phái chiếm ngự cách trái phép tòa Môisen. Ngược lại bản văn cho thấy là Chúa Giêsu không hề tấn công chính thế chế giáo sĩ, cũng như những kẻ mà Người tố cáo là ký lục giả hiệu. Người khiển trách một điểm khác. Trong Tân ước, từ ngữ kathodra, theo nghĩa tòa giảng sư, chỉ xuất hiện ở đây mà thôi (trong 21, 12 nó có nghĩa là bàn của những người buôn bán); tòa Môisen là tòa của các giáo sĩ, những người có nhiệm vụ giải thích áp dụng bằng cách khai triển luật Môisen.
"Họ nói mà không làm". Trước tiên (nhưng không phải là lần duy nhất), Chúa Giêsu tố cáo địch thủ Người có thái độ bất nhất: giáo huấn họ có giá trị nhưng chính họ lại không trung thành; hữu hiệu tính của giáo huấn họ, trong văn mạch này, mặc hai khía cạnh: một đàng, các giáo sĩ là những người giảng dạy hữu quyền của dân chúng; đàng khác, mọi điều họ nói chẳng phải là sai. Ở đây chúng ta gặp một thái độ đúng là của Do Thái ki tô giáo, chứ không phải là cửa Do thái giáo; vì quả thực, chỗ khác, Chúa Giêsu tấn công chính "men" nghĩa là chính nội dung giáo thuyết giáo sĩ.
Tiếng số nhiều "hành vi của họ" chỉ tất cả tác phong của Biệt phái, chứ không ám chỉ đến một vài thái độ riêng biệt mà Chúa Giêsu khiển trách; ký lục và Biệt phái chẳng phải là gương mẫu xứng đáng của đoàn chiên. Dĩ nhiên, chớ quên rằng đây là một chân dung tập thể, chứ chẳng phải của một cá nhân nào. Vì có nhiều giáo sĩ giữ luật rất tỉ mỉ. Khi cựu Biệt phái Phaolô tự tuyên bố mình vô phương trách cứ trước Lề luật (Pl 3, 6), thì phải nói là ngài rất chân thành. Ở đây, sự nghịch lý là, một cách chính thức, truyền thống giáo sĩ đã luôn luôn nhạy cảm trước sự quàng xiên Chúa Giêsu tố cáo nơi đây: "Học, giữ và thực hành, ngoài ra không cớ gì khác nữa" (Sifré sur le Dt 47), "Ai học mà không thực hành, thì tốt hơn là nó đừng được sinh ra" (Sifré surle Lv 26, 3, 110), "...Torah đã được ban chính là để học, để dạy, để gìn giữ và để chu toàn" (sifré sur les Nb 115), "...Đẹp thay những lời phát xuất từ miệng những người thực hành chúng, đẹp thay người giảng dạy chúng và đẹp thay kẻ đem chúng ra thực hành" (Yebamot 8,4).
"Họ có những gánh nặng": "Gánh nặng" mà Biệt phái chất lên vai người ta đối nghịch với "gánh nhẹ nhàng" của vị Thầy những người khiêm hạ (11, 30). Biểu tượng "gánh" gợi lên hình ảnh một tên nô lệ bị đè bẹp dưới sức nặng của một đồ vật mà người ta đây cột kỹ trên vai y nhưng lại không giúp y vác lấy Động từ "bó" chắc hẳn quy chiếu, theo nghĩa bóng, về các halakhot mà các giáo sĩ dùng để áp đặt cho dân những trói buộc lương tâm theo cách giải thích Kinh thánh của họ. Dầu sao, ở đây Tin Mừng không quan tâm đến tính cách nghiêm khắc của kỷ luật (Mt không ghét bỏ thứ kỷ luật đó cho lắm, x 23, 23), nhưng là đến thói giả hình cố ý tạo nên hai đấu: một đấu thuận lợi cho mình và một đấu đòi hỏi cho kẻ khác. Không phải sự bất lực hay tính yếu đuối của Biệt phái, nhưng là ý định xấu xa của họ bị tố cáo chỗ này (ou thelousin: họ không muốn); ta biết động từ "muốn" là một tràng những thuật ngữ của Mt.
"Mọi việc của họ, họ đều làm để được người ta thấy": Yếu khoản tố cáo thứ hai: tính cách quy ngã của các hành vi Biệt phái làm. ở đây Mt lấy lại chủ đề và ngay cả ngữ vựng của phần thứ hai trong Diễn từ trên núi (6, 1-6. 16- 18). Như thường lệ, ý tưởng chính trước tiên được phát biểu (c. 5a) rồi được khai triển trong một vài thí dụ (c.5b-7).
"Thủ phù": Đây là những hộp nhỏ hình vuông bằng da thuộc hoặc da bò con đựng những giải da dê mịn trên đó ghi 4 bản văn Kinh Thánh: Đnl 11, 13- 22; 6, 4- 9; Xh 13, 11 - 16; Xh 13, 2- 10. Thủ phù mặc một ý nghĩa tôn giáo rất cao nếu ta biết lý tưởng mà nó làm dấu hiệu: ghi nhớ không ngừng kỷ niệm của Lề luật Thiên Chúa và lời cam kết tuân theo luật đó. Từ năm 13 tuổi, trẻ em Do thái mang một thủ phù trên đầu và một ở tay trái vào buổi sáng những ngày thường, lúc giờ cầu nguyện, và đọc lên lời chúc tụng sau đây: "Lạy Giavê Thiên Chúa Vua vũ hoàn, chúc tụng Ngài đã thánh hóa chúng con bằng huấn lệnh Ngài và đã truyền cho chúng con mang lấy thủ phù đây". Bản văn chúng ta ám chỉ đến một thói quen của những người Do thái quá sùng đạo mang thủ phù cả ngày và nới rộng các giải kinh để dễ bề trông thấy. Chúa Giêsu không khiển trách việc các giáo sĩ mang thủ phù, nhưng khiển trách việc họ muốn lấy đó phô trương. Cũng thế đối với các tua áo, một thứ chùm lông (bằng len hay lụa) mà, theo quy định của Lề luật (Ds 15, 37- 39) mọi người Israel tốt đều phải mang ở bốn góc áo ngoài, như một lời nhắc nhở thường xuyên các giới răn, phải đem ra thực hành mà Chúa đã dạy. Biệt phái đã làm to đại các tua ấy vì muốn phô trương ta đây đạo đức.
"Chỗ nhất nơi hội đường": Các chỗ nhất này xây lưng lại với tráp Lề luật và quảy mặt về phía dân chúng.
"Cùng bái chào ngoài công trường": Theo quy luật của giáo sĩ, "người ta phải bái chào kẻ trối vượt hơn mình trong việc hiểu biết Lề luật"; thành thử, ưa được bái chào là ưa được công nhận như là trối vượt kẻ khác.
“Rabbi": Hạn từ hy bá Rab (lớn), vào thời Chúa Giêsu, có nghĩa là "chúa"; người ta thường thêm một tiếp vị ngữ của ngôi thứ nhất: Rabbi (“chúa tôi"). Với thói quen, tiếp vị ngữ này dần dần mất ý nghĩa. Hình như vào hậu bán thế kỷ I, lúc Mt biên soạn Tin Mừng của ông, tiếng "rabbi " này được dùng để chỉ một chức vụ tương đương với chứ( "tiến sĩ") và,'trong nghĩa đó, dùng để gọi các thầy dạy tôn giáo và các chuyên viên lừng danh nhất về Lề luật.
"Còn các ngươi": Đối xứng với ba thái độ kiêu căng vừa nêu là ba mệnh lệnh truyền dạy đức đơn sơ cho một nhóm người được chỉ định 8 lần (trong bản hy lạp) bằng đại danh từ "các ngươi". Chắc hẳn tiếng này không quy về dân chúng nói chung, nhưng về các môn đồ (x.c. 1) và qua họ, quy về những người hướng dẫn các cộng đoàn Kitô giáo. Qua cung giọng và lời văn, mấy câu này bổ túc cho "bảng hướng dẫn về đời sống tu đức và mục vụ" của chương 18. Trọng tâm của chúng không nằm trên việc cấm chế mọi phẩm trật trong Giáo Hội, nhưng trên các động từ "chớ cho gọi mình, đừng xưng hô ai "; chúng muốn tấn công chính lòng kính trọng đức giáo sĩ (rabbinat). Trong ngôn ngữ sêmita, "được gọi" thường tương đương với "là Do đấy câu 8 muốn bảo: các người đừng muốn là thầy (x Gc 3, 1), đừng tự đặt mình làm thầy giữa các ngươi, vì "thảy của các ngươi chỉ có một". Nếu lưu ý đến tính cách song đối của c. 10 và văn mạch chung của Tân ước (x.Ga 13, 13-14), thì Thầy duy nhất đó không ai khác hơn là Chúa Kitô.
"Đừng xưng hô ai dưới đất là "cha": Mệnh lệnh này xem ra phản đối thói quen gán cho một vài vị hướng dẫn cộng đoàn tước hiệu Abba cùng trong một ý nghĩa danh dự và xã hội như tước hiệu Rabbi. Rõ ràng là nó không nhắm đến người cha gia đình theo nghĩa đen (x. Mt l5,4-6; 19,19): Mệnh lệnh lại càng không chống đối cái truyền thống kỳ cựu -có nơi mọi dân tộc và trong Thánh Kinh- theo đó giữa thầy và trò phải thiết lập một mối liên hệ tương tự mối liên hệ giữa cha và con, khiến họ thường gọi nhau là "cha" và "con" (x. 2V2,12; Cn 4,1; 1Cr 4, 14-17; Gl 4,19; 2Tm 1,2; Tt 1,4; 1Pr 5,13; 1 Ga 2, 1.12). Chẳng hạn như trong các tiến sĩ Israel của 4 thế kỷ đầu hơn 50 vị được mang tước hiệu "Abba". Vì vậy trong các thể chế Kitô giáo, người ta cũng dùng khá nhiều tước hiệu "cha" dưới mọi hình thức (ví dụ: viện phụ, abbé; Đức Thánh Cha, Pape v.v...) theo nghĩa linh tông ấy. Đấy chẳng phải là đi ngược lại Tin Mừng, vì cái quan trọng là tinh thần chứ không phải chữ viết. Nên lưu ý là ở đây cũng vậy, các câu không nhấn mạnh đến sự phủ nhận mọi quyền bính trong Giáo Hội cho bằng là đến mối nguy tạo nên do những "đại nhân vật" chiếm hết danh dự dành cho Thiên Chúa và Chúa Kitô.
Ở giữa ba lời khuyến cáo chống Biệt Phái, lý do của chúng được lặp lại ba lần: Chỉ có một... thầy, cha, chỉ đạo). Chiếu theo nguyên tắc ấy, nhân cách của những người lãnh đạo Giáo Hội vừa bị hạ xuống vừa được đề cao: nhân cách đó phải nói lên sự hiện diện của Đấng duy nhất và đồng thời là tấm màn trong suốt không ngăn che Ngài. Cũng thế đối với vị Mục tử duy nhất (Ga), vị Thượng tế duy nhất (Dt). Kitô hữu chỉ xem một con người như thầy, như cha, như thủ lã nh, thư mục tử, như linh mục... trong mức độ con người ấy tham dự vào tư cách của vị Thầy, Cha, Thủ lãnh, Mục tử, Linh mục đích thực.
"Kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên": ý tưởng hạ mình cần phải được giải thích theo ý tưởng phục vụ ở câu trước, vì đây không phải là chuyện tự nhiên ưa thích xóa mình, hay anh hùng phủ nhận bản thân hoặc khiêm nhường đến làm cho mình lụi bại. Theo nghĩa của Tin Mừng, không ai hoạt động và sung sướng vì được hoạt động hơn kẻ phục vụ hết mình. Thì tương lai của 5 động từ vừa có tính cách truyền lệnh (c. 11) vừa có tính cách cánh chung (c. 12): các ngươi phải làm điều đó và Thiên Chúa sẽ trả lại cho các người vào ngày Chung thẩm ("bị hạ xuống" và "được nhắc lên" là những thể thụ động diễn tả hành động của Thiên Chúa). Thành thử các động từ này không mô tả một định luật tâm lý hay xã hội tự nhiên cho rằng định mệnh con người có thể thay đổi.
KẾT LUẬN
Óc tham vọng, tính háo danh nói lên cái tinh thần thống trị của một quyền bính đã tách khỏi nguồn gốc của mình, đã chiếm đoạt những quyền lợi chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa. Khi vạch trần các tính xấu của Hội đường, Chúa Giêsu muốn đề phòng Giáo hội Người cho khỏi nhiễm lây chúng, vì tính cách chính thống, vô hồn, tinh thần câu nệ hình thức, óc giáo sĩ trị bao giờ cũng vẫn là những cám dỗ lớn cho Giáo Hội; Giáo Hội chỉ có thể thoát khỏi chúng khi luôn nhớ rằng mình chỉ là "nữ tỳ của Chúa" (Lc 1, 38), tuân phục một mình vị Chúa độc nhất ấy mà thôi, Đấng không chấp nhận một chia sẻ nào (Mt 6, 24); uy quyền đích thực của Giáo Hội chỉ có khi Giáo Hội biết hạ mình theo gương Chúa Kitô. Đấng vốn là lớn hơn cả nhưng đã hóa thành kẻ bé nhất, là người đầu song đã tự: trở nên kẻ rốt hết, là Thầy và là Chúa nhưng đã trở thành kẻ phục vụ mọi người (Mt 20, 26-27; Lc 22, 24-30; Ga 13, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta cảm thấy gì khi nghe lời Chúa Giêsu chỉ trích Biệt phái? Phải chăng là thỏa mãn vì nghĩ rằng nó nhắm đúng vào những Biệt phái đời nay mà chúng ta biết rõ? Nhưng đấy không phải là dấu chỉ của một lòng kiêu hãnh nào đó sao, lòng kiêu hãnh muốn quả quyết rằng nhờ ơn Chúa, tôi không thuộc hạng người như vậy? Nếu chúng ta ra khỏi nhà thờ mà trong lòng tự khen mình không phải là Biệt phái, thì đó thật là một dấu hiệu chẳng mấy tốt lành. Môn đồ đích thực của Chúa Giêsu, kẻ biết lòng mình rất yếu đuối và dễ buông theo đàng tội lỗi thì bao giờ cũng hiểu rằng mình đang mang trong người mọi gốc rễ của Biệt phái, hiểu rằng bổn phận đầu tiên của mình là tự tra vấn hơn là tự hỏi ai là Biệt phái trong xứ đạo.
2. Chúng ta cũng vậy, mỗi người tùy theo vai trò xã hội, tuổi tác phái tính, kiến thức, chúng ta đã chẳng từng đòi hỏi một lòng kính trọng nào đó, một sự tán thành công khai, hay hơn nữa, một sự vâng phục và tùng quyền nào đó sao? Thanh danh và tăm tiếng là một điều tốt, nhưng nỗi lắng lo quá độ về tiếng tăm là một chuyện không hay gì. Sự đòi hỏi lòng vâng phục từ phía cha mẹ là một điều tốt khi nó phát xuất từ tinh thần hiền lành và bác ái, nhưng lại trở nên xấu và hoàn toàn có tính cách biệt phái lúc chỉ là một cái cớ để tỏ uy quyền và áp đặt ách thống trị.
3. Khi phê phán và khinh bỉ tha nhân bằng cách đòi hỏi họ phải có một thái độ khác, chúng ta đã đặt một gánh nặng trên vai họ và đồng thời tránh đặt lại vấn đề chính mình rồi. Thật ra, chúng ta có thể nhận ra chính mình trong chân dung Chúa Giêsu mô tả về Biệt phái.
4. Phẩm trật của Nước Trời không ở trong kiến thức cũng chẳng nằm trong khả năng chuyên môn hay trong việc điều khiển, nhưng là trong việc phục vụ. Trong Nước Trời, không ai là chủ, chẳng ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử uy quyền, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ. Ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự gọi là "tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa".
5. “Kẻ lớn nhất sẽ là người phục vụ", Chúa Giêsu đã nói thế. Rõ ràng đấy là vấn đề tập luyện một đức khiêm nhường nào đó. Tiếng “sẽ là" chỉ rõ đây là tình trạng mà chúng ta phải đạt cho được chứ chẳng phải là tình trạng tự nhiên. Thành thử chúng ta không thể nào không chống lại cơn cám dỗ muốn thống trị, muốn đè bẹp tha nhân, chống lại cơn cám dỗ muốn tỏ ra mình quan trọng mà làm thiệt hại cho kẻ khác. Tuy nhiên đức khiêm nhường trong phục vụ không phải là việc dẹp bỏ những khả năng tự nhiên hay là sự từ chổi hoạt động và phát triển, nhưng là một thứ tâm trạng, một niềm xác tín rằng mình chỉ là một dụng cụ mà ước muốn duy nhất là trở nên ngoan ngoãn trước sự thúc đẩy của Thánh Thần.
6. Có một tiêu chuẩn cho phép ta nhận biết mình có trung thành với những lời khuyên nhủ khiêm nhường mà Chúa Giêsu vừa ban cho ta không? "Vậy mọi điều họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm theo và giữ lấy" hay nói cách khác: "Các ngươi hãy có đủ lòng đói khát sự thật và công chính để phân biệt điều thiện bất cứ đèn từ đâu". Một Kitô hữu thật sự khiêm nhượng không bao giờ từ chối lời lành của một người nào đó, lấy cớ rằng kẻ ấy chẳng sống phù hợp với lời họ bảo, rằng họ giả hình hay khoe khoang. Vì Chúa có thể dùng họ để làm cho chúng ta tốt hơn.
------------------------------------------