Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 30 TN-A Bài 101-150: Điều răn trọng nhất
------------------------------------------
Tin mừng: Mt 22,34-40
34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. - 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: “ Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”
------------------------------------------
Mục Lục:
TN30-A101: Giới luật tình yêu. 2
TN30-A102: Ba chiều kích trong tình yêu. 3
TN30-A103: Yêu như Chúa yêu. 5
TN30-A104: Giới răn trọng nhất 7
TN30-A105: Yêu thương là đón nhận sự sống. 9
TN30-A106: "Ngừng lại!". 11
TN30-A107: Điều răn trọng nhất mến Chúa yêu người 13
TN30-A108: Cốt lõi của luật là Lòng Mến. 15
TN30-A109: GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT.. 18
TN30-A110: Chúa Giêsu đã khen các ông luật sĩ và người biệt phái 20
TN30-A111: CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN.. 22
TN30-A112: MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI 24
TN30-A113: CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN.. 26
TN30-A114: GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG.. 27
TN30-A115: Chúa Nhật XXX Thường Niên A.. 30
TN30-A116: ĐỆ NHẤT LUẬT.. 33
TN30-A117: XÃ HỘI VÔ CẢM... 37
TN30-A118: Ngươi sẽ không … ngược đãi khách cư ngụ. 39
TN30-A119: LUẬT YÊU THƯƠNG.. 40
TN30-A120: Giới răn trọng nhất 43
TN30-A121: Vị thế tối thượng của tình yêu. 50
TN30-A122: Điều răn quan trọng nhất 53
TN30-A123: Suy niệm của Nhóm Đồng Hành. 55
TN30-A124: Giới răn trọng nhất – Sr Mai Anh Linh. 56
TN30-A125: Thắp Lửa Yêu Thương. 58
TN30-A126: Yêu Người Như Chính Mình. 59
TN30-A127: Mến Chúa, Yêu Người 65
TN30-A128: MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI: HAI BẢN LỀ CỦA CUỘC SỐNG.. 68
TN30-A129: Lm Gioan Phan Tiến Dũng. 72
TN30-A130: Đôi cánh để bay lên - Linh mục Inhaxiô Trần Ngà. 74
TN30-A131: Mến Chúa và Yêu Người 76
TN30-A132: Điều răn trọng nhất - Huệ Minh. 82
TN30-A133: Suy niệm của Lm. Joshepus Quang. 87
TN30-A134: Điều răn trọng nhất 90
TN30-A135: Đôi cánh để bay lên - Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 96
TN30-A136: Ý nghĩa ba chữ "Hết". 98
TN30-A137: Yêu thương - Con đường dẫn tới sự sống. 101
TN30-A138: Thiên Chúa bảo vệ người nghèo. 104
TN30-A139: Điều răn trọng nhất 106
TN30-A140: Đức ái - Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 109
TN30-A141: Thừa tác viên - Lm. Vũ Đình Tường. 112
TN30-A142: Yêu như Chúa yêu. 113
TN30-A143: Giới răn trọng nhất - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 114
TN30-A144: Để yêu Chúa và tha nhân, phải biết yêu mình. 117
TN30-A145: Cốt lõi của luật là Lòng Mến. 119
TN30-A146: Điều răn trọng nhất - JM. Lam Thy ĐVD. 123
TN30-A147: Luật của sự sống - P. Trần Đình Phan Tiến. 127
TN30-A148: Đạo Yêu - vị tha hay vị kỷ. 129
TN30-A149: Một tình yêu duy nhất 131
TN30-A150: Chúa Nhật 30 Thường Niên. 132
------------------------------------------
Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua chương trình cứu độ nhất là TN30-A101
Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua chương trình cứu độ nhất là qua việc ban Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Ngài đến để làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài đã dạy cho loài người biết giới luật quan trọng nhất là kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Người Do thái có tới 613 điều luật, có 365 điều cấm và 248 điều truyền, các phe nhóm không thống nhất với nhau về việc coi giới luật nào là quan trọng nhất, nên họ giữ các điều luật gần như ngang nhau. Hôm nay họ hỏi Chúa Giêsu vừa để có ý thử Người. Nếu Chúa Giêsu nói điều này quan trọng, điều kia không thì thế nào cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia và như vậy Người thiên vị, không còn được kính nể nữa. Đối với họ thì câu này rất khó, nhưng Chúa Giêsu thấu biết mọi sự. Để trả lời họ, Chúa Giêsu đã trích dẫn ngay điều luật thứ nhất trong Thập giới mà Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: "Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em" (Đnl 6,5). Chính người Do thái cũng đã thấy tầm quan trọng của điều luật này nên kết thành kinh để đọc một ngày 2 lần. Song song với Giới răn đó, Giới răn thứ hai cũng quan trọng không kém: hãy yêu tha nhân như chính mình. Tất nhiên xét về đối tượng thì việc yêu Chúa có giá trị hơn hẳn so với yêu tha nhân, nhưng lòng yêu tha nhân bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cũng khẩn thiết như việc yêu mến Chúa vậy. Yêu tha nhân là dấu chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa và biết thi hành lời Chúa dạy. Chúng ta yêu tha nhân vì Chúa nhưng đồng thời tha nhân cũng là đối tượng để chúng ta yêu mến trong tinh thần huynh đệ có chung một người Cha.
Trước khi dạy cho con người giới luật yêu thương, Chúa đã tỏ lòng nhân ái trước, đã hứa ban ơn cứu độ, chuẩn bị dân Israel, và thể hiện tình yêu đối với loài người cách quyết liệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh phaolô đã diễn tả tình yêu tự huỷ của Chúa Giêsu Kitô đối với loài người trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: Đức Giê-su Ki-tô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". ( Pl 2, 6-11) Đức Giêsu là một con người trong thế giới loài người được thiên chúa rước đưa vào vinh quang Thiên quốc trong danh dự của một Thiên Chúa. Ngài đã đem biết bao người phàm lên nơi Thiên Chúa ngự và được thông phần vinh quang của Thiên Chúa.
Thật hạnh phúc biết bao cho loài người chúng ta, được tạo dựng bởi vị Thiên Chúa đầy quyền năng, công bằng và nhân từ vô cùng. Ngài đối xử với con người quá khoan dung, nhân hậu. Đáp lại tình thương ấy, chúng con nguyện yêu mến Chúa hết lòng và thực thi giới luật Chúa với hết sức lực con, con sẽ đối xử tốt với anh em đồng loại như Chúa đã đối xử tốt với bản thân con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về tình yêu bao la của Ngài, về giới luật yêu thương của Ngài. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sống cho tình yêu Chúa và thể hiện rõ bằng hành động cụ thể trong cuộc sống chúng con.
----------------------------------
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi tiếng về một người tên là Abou TN30-A102
Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi tiếng về một người tên là Abou Ben Adhem như sau:
Một đêm kia, khi Abou Ben Adhem choàng tỉnh dậy, anh thấy trong phòng ngủ của anh một thiên thần nhỏ đang cắm cúi viết trên một cuốn sách bằng vàng tên của những người yêu mến Thiên Chúa. Anh rón rén lại gần và hỏi nhỏ: “Có tên của con trong sách đó không, thưa ngài?”. Vị thiên thần nhỏ lắc đầu: “Chẳng có tên của anh”. Abou nài nỉ: “Nếu thế, con xin ngài hãy ghi tên con là người biết yêu mến những người anh chị em của mình thôi”. Đêm hôm sau, vị thiên thần trở lại với danh sách của những người yêu mến Thiên Chúa. Lần này, tên của Abou Ben Adhem đứng ở đầu danh sách.
Bài thơ này cho thấy tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu dành cho tha nhân thì tựa như 2 mặt của một đồng tiền. Người ta không thể tách rời 2 thứ tình yêu này ra khỏi nhau được. Đó cũng chính là những gì mà Tin Mừng ngày hôm nay muốn nói với chúng ta. Khi người ta hỏi Đức Giêsu rằng đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì câu trả lời vẫn là giới luật về tình yêu đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở đó. Ngài tiếp tục đưa ra một câu trả lời thực tế hơn. Ngài trình bày cho chúng ta thấy mặt khác của đồng tiền: đó là tình yêu dành cho tha nhân. Tình yêu mến Thiên Chúa cách đích thực và tình yêu thương tha nhân chân thành chỉ là một. Đức Giêsu đã nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môi-sen và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. (Mt 22, 37-40)
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu không chấp nhận lối hiểu tình yêu chỉ trong một chiều kích thôi. Đối với Ngài, tình yêu đích thực phải diễn tả trong 3 chiều kích, đó là (1) tình yêu đối với Thiên Chúa, (2) tình yêu đối với tha nhân, (3) và tình yêu đối với bản thân. Hai thứ tình yêu đầu được đòi hỏi cách tích cực, còn tình yêu thứ ba được đưa ra như một cơ sở của mọi tình yêu. Việc đòi hỏi yêu thương tha nhân như chính bản thân, đã giả định rằng bạn phải biết yêu thương chính mình.
Vì câu trả lời của Đức Giêsu đề cập tới cả 3 chiều kích của tình yêu, vậy đâu là điểm mà Đức Giêsu thực sự muốn nhấn mạnh?
Khi bạn hỏi ai đó một câu hỏi, và trong câu trả lời của người ấy, người ấy còn nói thêm một điều khác nữa mà bạn đã thực sự không muốn hỏi, thì hẳn rằng người ấy đang muốn bạn chú tâm đến yếu tố thêm vào đó. Tuần vừa qua, khi Đức Giêsu bị chất vấn về việc có phải nộp thuế cho hoàng đế Xê-da không, thì Ngài trả lời: “Của Xê-da, thì trả cho Xê-da;” và Ngài còn nói tiếp: “Của Thiên Chúa, thì trả cho Thiên Chúa”. Đó chính là điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu khi được hỏi về việc nộp thuế cho Xê-da. Ngài không chỉ nói đến một điều xem ra hiển nhiên về quyền của Xê-da, nhưng còn nhấn mạnh đến quyền của Thiên Chúa mà con người vốn thờ ơ, không coi trọng. Cùng cách thế này, đứng trước vấn nạn đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì tình yêu đối với Thiên Chúa là chuyện hiển nhiên, nên điều nhấn mạnh của Đức Giêsu ở đây chính là tình yêu đối với tha nhân mà vốn bị con người không để ý tới hoặc coi thường.
Bạn nên nhớ việc bắt bớ Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài là do chính những người lãnh đạo tôn giáo. Những kẻ này tưởng rằng họ làm thế để thể hiện lòng nhiệt thành và yêu mến Thiên Chúa của họ, để bảo vệ uy quyền tối cao của Thiên Chúa. Cũng những con người này khi hỏi Đức Giêsu đâu là giới răn quan trọng nhất, thì chính họ là những kẻ đang giăng bẫy nhằm giết Đức Giêsu. Họ rất ý thức về tình yêu phải dành cho Thiên Chúa, nhưng tại sao họ lại trở nên vô cảm trước tình yêu phải dành cho tha nhân? Sao-lê sau này trở thành Thánh Phao-lô, đã từng là một ví dụ điển hình về thứ quan niệm tôn giáo lệch lạc này. Đức Giêsu cũng nói tiên tri rằng: “Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” (Ga 16,2).
Điều sai lầm của những người Biệt phái ngày xưa có thể vẫn đang tồn tại nơi bản thân chúng ta. Vẫn có nhiều người Ki-tô hữu đang cố tách rời tình yêu đối với tha nhân ra khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa. Sự dấn thân trong niềm tin của họ không bao hàm việc dấn thân cho những quyền lợi của tha nhân, cho sự công bằng và hòa bình.
Chúng ta hãy biết mau mắn đáp trả trước lời mời gọi của Đức Giêsu trong sứ điệp của Ngài ngày hôm nay: Tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu đích thực dành cho tha nhân là 2 mặt của một đồng tiền. Mọi cố gắng nhằm tách rời 2 điều này, sẽ làm sai lệch sứ điệp của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
----------------------------------
Dựa theo những điều Thiên Chúa truyền dạy trong sách Luật (Ngũ thư: Sáng Thế, Xuật hành, Dân số, TN30-A103
Dựa theo những điều Thiên Chúa truyền dạy trong sách Luật (Ngũ thư: Sáng Thế, Xuật hành, Dân số, Lêvi và Đệ Nhị Luật), những người lãnh đạo tôn giáo Do thái đã làm thành Bộ luật gồm 613 điều khoản và buộc mọi người phải tuân giữ. Vì thế, cuộc sống của người Do thái trở nên rất nặng nề. Họ cảm thấy như bị bao vây bởi "Bức tường luật" kiên cố. Đâu đâu cũng thấy sự ràng buộc mà không thấy sự cảm thông và tình yêu nâng đỡ. Từ đó, người ta bắt đầu có thái độ sống vị luật, sống giả hình. Một số người đem luật ra làm thước đo cho mọi chiều kích của con người trong cuộc sống. Ai giữ luật càng kỹ thì càng được coi là công chính.
Chúa Giêsu đã kịch liệt chỉ trích và lên án thái độ giả hình và vị luật của những người Biệt phái và những nhà thông luật. Bởi vì họ "đã chất lên vai người khác những bó nặng không thể vác nổi, còn họ thì không buồn đọng ngón tay vào lay thử".
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bị những người Biệt Phái âm mưu hại Ngài bằng việc họ đặt ra câu hỏi đâu là giới luật quan trọng nhất giữa một rừng luật như thế? Dù biết họ thử mình, nhưng Đức Giêsu vẫn trả lời cho họ để mở mắt cho họ thấy đâu là vấn đề quan trọng nhất cần phải làm để làm đẹp lòng Thiên Chúa và chu toàn Lề Luật của Chúa. Chúa nói: Toàn thể Lề luật và các tiên tri đều tóm trong hai giới răn này: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình.
Chúa Giêsu đã làm một điều mới mẻ là Ngài đã nâng giới luật yêu người lên tầm mức quan trọng ngang bằng với việc yêu mến hiên Chúa: Yêu người là yêu Chúa, và yêu mến Chúa thì phải yêu anh em mình. Vì thế, Thánh Gioan tông đồ nói: "ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối"; "ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra".
Làm sao biết được mình yêu mến Thiên Chúa nhiều hay ít? Làm sao biết mình yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự hay chưa? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: "Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy". Giữ lời Thiên Chúa là ghi nhớ, yêu mến và đem ra thực hành. Điều quan trọng là làm theo Lời Chúa dạy chứ không phải nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa". Thi hành lời Chúa dạy là điều đòi hỏi con người phải có nhiều cố gắng, hy sinh và quên mình. Những điều Chúa truyền dạy xem ra rất khó thi hành và đi ngược lại với những gì là tính toán của con người. Sống giá trị của Tin Mừng đòi hỏi con người phải lột xác, chấp nhận trở thành kẻ khờ dại giữa thế gian này.
Nếu yêu mến Thiên Chúa đã khó như thế thì yêu người lại càng khó khăn hơn, nhất là khi Chúa dạy phải yêu thương kẻ thù của mình. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng: Chúa không chơi xấu! Chúa không bao giờ bắt chúng ta làm điều gì quá sức mình. Vì thế, ở đâu khó thì ở đó có ơn Chúa. Điều quan trọng là chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa và hãy sống hết mình trong nỗ lực yêu thương con người.
"Yêu anh em như yêu chính mình". Không ai lại ghét mình bao giờ! Vì thế, nói yêu anh em mình thì hãy yêu cách chân tình, không yêu trên đầu môi chót lưỡi. Yêu thương thật sự là muốn điều tốt cho người mình yêu, là chia sẻ thật sự cho anh em mình ngay cả những gì mình yêu quí và gắn bó. Câu chuyện về hai vợ chống trẻ tỉ phú Bill Gate, người giàu nhất thế giới, đã làm cho mọi người kinh ngạc. Họ đã tự nguyện tặng 95% giá trị tài sản của họ để làm từ thiện. Ước tính khoảng hơn 43 tỷ USD được trao tặng và có khoảng 43 triệu trẻ em nghèo được hưởng lợi từ tấm lòng của những con người hảo tâm này. Giờ đây, có lẽ vợ chống Bill Gate không còn là người giàu nhất thế giới về tiền bạc nữa, nhưng họ sẽ là người giàu nhất thế giới về tấm lòng quảng đại và chia sẻ! Yêu thương là biết hành động theo điều thiện, là thật tình chia sẻ!
Chúng ta hãy tập yêu thương anh em mình bằng cách tập nghĩ tốt, nói tốt và làm những điều tốt cho họ. Đừng dừng lại ở việc cầu chúc những lời tốt cho người khác, nhưng hãy tiến tới hành động. Bởi lẽ, không ít những kẻ: "Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời". Con người phức tạp lắm! Chúng ta đừng đóng kịch với nhau trong cuộc sống. Bởi lẽ, không ai giữ được những điều giả dối suốt cuộc đời mình. Hơn nữa, chúng ta có thể qua mặt được hết mọi người, nhưng không thể qua mặt được lương tâm của mình và càng không thể qua mặt được Thiên Chúa. Thái độ giả hình luôn là điều mà Đức Giêsu lên án nặng nề nhất. Harret Beecher Stowe đã chia sẻ cho chúng ta một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa quí báu như sau: "Tôi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi. Tôi tìm kiếm anh em và tôi gặp được cả ba". Quả thật, yêu người là yêu Chúa. Gặp được anh em mình chính là gặp được Chúa vậy!
----------------------------------
Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03/10/1970, cô Edwarda, mới 16 tuổi, đã lâm vào tình trạng TN30-A104
Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03/10/1970, cô Edwarda, mới 16 tuổi, đã lâm vào tình trạng hôn mê, do bệnh tiểu đường. Trước lúc sự việc xảy ra, cô quay sang mẹ nài nỉ: "Mẹ ơi, mẹ hứa đừng bao giờ bỏ con mẹ nhé!" Đến hôm nay, hơn 30 năm rồi, cô gái sống như "thực vật" không còn biết gì cả. Vậy mà bà Kaye O'Bara, mẹ cô, vẫn can đảm chăm sóc cho con. Cứ hai giờ là bà phải lấy máu để thử, đo độ đường trong máu, rồi tiêm insuline, hút đờm dãi, tắm rửa, cả cho con ăn nữa. Bà còn gội đầu, chải tóc, vuốt ve, thủ thỉ nói chuyện với con, dù con bà không hề trả lời. Thật là điều kỳ diệu của tình yêu. Khoa học không tài nào giải thích được sức mạnh này. Bà Kaye đã giữ đuợc lòng yêu thương hiếm thấy trên đời (Những điều kỳ diệu, D.P. Eich, trg. 80). Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nêu cho chúng ta rõ: điều răn của Thiên Chúa quan trọng chính là luật yêu thương. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
* Người pharisêu hỏi Chúa: Trong luật Môisen, điều răn nào là quan trọng hơn hết? Luật cũ của người Do thái có rất nhiều điều: Bộ luật có tất cả 613 điều khác nhau, trong đó có 365 điều cấm và 248 luật phải giữ. Nhiều như thế, nên phân biệt khoảng nào chính, khoảng nào phụ là một điều khó. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu, chính là vừa để thử Chúa, vừa là vì chính họ cũng không nhất trí với nhau khoảng luật nào là chính, là phụ nữa.
* Chúa trả lời: Phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn... Đó là điều răn thứ nhất... Còn điều thứ hai cũng quan trọng: hãy yêu tha nhân như chính mình... Hai điều răn này Chúa trích từ sách Đệ nhị luật 6,5 và sách Lêvi 19,18. Chính Chúa Giêsu là người đầu tiên nối kết hai khoảng luật này lại với nhau. Người đặt: luật kính yêu Chúa trước tiên, sau đó là luật thương người. Vậy yêu thương chính là cốt lõi của mọi khoản luật khác và đối tượng của tình yêu chính là Thiên Chúa và anh em mình.
b/. Bài Tin mừng chúa nhật hôm nay muốn dạy cho chúng ta điều gì?
* Chúa Giêsu xác định: hai giới răn yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân là gồm tóm hết mọi giới răn khác. Xem ra con người không còn phải bận tâm lo giữ cả 613 điều luật. Ai chu toàn hai giới răn này thì có thể tin mình đã chu toàn lề luật rồi. Thánh Phaolô giải thích ý của Chúa Giêsu trong thư Rôma như sau: "Ai yêu người là đã chu toàn Lề luật. Thật vậy, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy." (Rm 13, 8-10).
* Giới luật yêu thuơng: Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu xác định luật yêu thương là quan trọng. Lòng mến Thiên Chúa phải toàn diện liên quan đến trái tim, linh hồn, cả khối óc của con người nữa. Tình yêu này phải là động lực thúc đẩy mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác của chúng ta. Chính vì thế mà Chúa nói: tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều ấy.
Nói như thế, người ta sẽ hỏi lại: Tại sao luật yêu thương là trên hết và gồm tóm mọi lề luật? Thưa là vì: Thiên Chúa là Tình yêu và bản chất của Thiên Chúa chính là Tình yêu. Kinh thánh cũng đã dạy cho chúng ta biết: con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa; điều đó có nghĩa là con người được Thiên Chúa dựng nên chính là để yêu thương, và để yêu thương như Thiên Chúa. Bản chất Thiên Chúa chính là tình yêu, vì thế không thể nói Thiên Chúa không yêu thương, hay không thể nói Chúa dựng nên con người ta, mà Chúa lại không yêu họ; hay cũng không thể nói, con người được sinh ra lại không yêu thương Thiên Chúa và yêu thương nhau....
Chúa Giêsu chính là tấm gương cao cả về việc thực thi luật yêu thương. Người trước hết luôn yêu mến Chúa Cha, sống đẹp lòng Chúa, và vì vâng lời trọn hảo mà Chúa chấp nhận sinh làm người đền thay tội lỗi cho nhân loại chúng ta. Đọc qua Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu thương bằng việc hoàn toàn vâng phục Ý Chúa Cha. Hơn thế nữa, Người tỏ ra lòng yếu mến Chúa Cha qua việc quan tâm yêu thương, cứu giúp hết mọi người, kể cả người tội lỗi, đỉ điếm, thu thuế, người ngoại giáo samaritanô, những người mà các kinh sư, biệt phái xa lánh, khinh thị. Lại nữa, Chúa yêu mến nhân loại không chỉ bằng lời nói thôi, nhưng bằng việc làm cụ thể là lễ tế trên thánh giá. Yêu mến là cho đi, là chết đi, là quên mình cho người khác. Vì thế cái chết của Chúa trên thánh giá chính là cái chết vì TÌNH YÊU.
Bà Keye O'Bara, trong câu chuyện kể trên, cũng là tấm gương cao cả của Tình Yêu...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Tất cả mọi luật lệ đạo đời đều gồm tóm lại trong hai chữ yêu thương mà thôi. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ làm sao, bao lâu nay thực tâm khi giữ đạo chúng ta có thấy điều này là quan trọng, và mình có cố gắng sống điều răn này. Chính Chúa Giêsu còn dạy hãy yêu kẻ thù như chính mình nữa, chúng ta có tin không?
----------------------------------
Anh chị em thân mến.
Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn thấy nhau, chúng không thể chấp TN30-A105
Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn thấy nhau, chúng không thể chấp nhận nhau, chúng vươn những bộ lông của mình ra biểu lộ sự uy nghi trước đối phương, đôi mắt đỏ ngầu hướng về nhau. Chúng nhìn nhau tìm sơ hở của, bất ngờ chúng tung những cú đá, những cú cắn xé, dường như có mối thù truyền kiếp từ lúc nào. Bỗng có một con ngã lăn ra, nhưng vì không có trọng tài nên con kia vẫn còn hung hăng, chạy đến bên đối phương cho dù đã ngã quỵ, tiếp tục cho những ngọn đòn thù bằng chiếc mỏ sắc bén và đôi chân vững chắc của mình. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh cảnh gà mẹ ấp ủ đàn con, sao êm đềm quá, thân thương quá. Biết đâu hai chú gà vừa một mất một còn với nhau đây, cũng đã từng được ấp ủ chung cùng một người mẹ. Nếu những chú gà biết yêu thương nhau, chúng lo bảo vệ cho nhau, như gà mẹ bảo vệ cho đàn con, thì chúng đâu tìm cách loại trừ nhau như thế. Một chú gà phải chết đi vì chúng không biết yêu thương nên muốn loại trừ nhau. Yêu thương là sống, còn không biết yêu thương thì không thể tồn tại được, chỉ có đi đến cái chết mà thôi.
Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất.
Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình. Tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tóm về hai giới răn đó.
Người ta đến hỏi Chúa Giêsu về giới răn để sống theo thánh ý Chúa, Ngài cũng trả lời thật sự cho họ như thế. Tất cả lề luật đều tóm trong giới răn Yêu Thương. Sống yêu thương là sống theo lề luật, vậy mà khi người ta đến hỏi về sự sống lại muốn đưa Chúa Giêsu vào con đường chết. Nhưng Ngài đưa con người đến sự sống, Ngài đưa con người đến nguồn yêu thương. Tất cả lề luật đều giúp cho con người sống, nên lề luật được gồm tóm trong luật yêu thương. Không biết yêu thương là không giữ tròn lề luật, nghĩa là không thể sống được.
Chúng ta là những người đang sống, những người đang được yêu thương và cũng là những người đang biết yêu thương. Hơn thế nữa, chúng ta còn là những người Công Giáo, chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương như thế nào, đồng thời chúng ta cũng biết mình phải yêu thương như thế nào cho hợp thánh ý Chúa. Nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta hành động giống như những luật sĩ và biệt phái của thời xưa, muốn đưa người khác vào con đường chết, muốn loại trừ người khác ra khỏi sự sống con người.
Trong cuộc sống đời thường có những lần con người không chấp nhận nhau được, vì người khác được ưu đãi, được hạnh phúc, được thành công hơn mình, nên tìm cách loại trừ để đưa người đó vào con đường chết. Khi đó nếu con người nhớ đến mình đã từng được yêu thương, được chăm sóc như bao người khác, tại sao mình không yêu thương, như đã từng được yêu thương. Khi đó chúng ta giống như hai chú gà đá nhau mà không cần biết mình đang làm gì và muốn gì. Không cần biết mình đang đi trên con đường sống hay đang bước đi trên con đường chết.
Nếu trong cuộc sống mà chúng ta biết đặt câu hỏi: mình đang yêu thương hay đang loại trừ, đang sống hay đang chết. Nếu câu hỏi đó thường xuyên có trong đời sống để biết trả lời thật chính đáng, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Nếu chúng ta nhìn thấy được người khác như là một con người thật sự đang hiện diện trước mắt, để biết đối xử cho xứng đáng với nhân phẩm của họ với tất cả những gì cần thiết có thể được. Khi đó chúng ta đang sống, vì biết dùng tình yêu thương. Nếu trong mỗi công việc mà nhớ đến lề luật Chúa Giêsu dạy, để biết thi hành cách chính đáng trong mọi trường hợp, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang biết yêu thương và thi hành lề luật yêu thương. Nếu chúng ta chấp nhận được người khác với tất cả những gì là con người của người đó, để cùng nhau bước đi trên con đường yêu thương. Khi đó lề luật Chúa không phải chỉ ở trên môi miệng, nhưng nó là chính cuộc sống của con người, mà chúng ta đang sống, đang hành động.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, đốt nóng tình yêu Chúa trong mỗi người, để biết yêu thương thật sự như Chúa đã yêu thương.
----------------------------------
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi TN30-A106
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng. Một lần kia, khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu "Lạy Cha" rồi bất ngờ ông la to "Ngừng lại". Ngay lập tức ông vào bài giảng của ông. Điều ông làm đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp kinh Lạy Cha, vì họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn mà chúng ta không nên để cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu thâm sâu về ý nghĩa của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi." Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này có ý ám chỉ về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tôn thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta và tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể nói" Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa" triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể hiểu thấu được vì chúng ta còn hay lỗi phạm đến giới luật "yêu mến kẻ khác." Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi "Giới luật nào cao trọng nhất?" Ngài dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta. Thứ nhất, "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi," thứ hai, "Ngươi phải yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi." Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hiểu cao sâu hơn nữa về giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến Chúa và yêu mến kẻ khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: "Ta ban cho các ngươi giới luật mới... Hãy yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa tha thiết của chúng ta qua việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của chúng ta nơi tha nhân quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn như vậy. Việc đến nhà thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với tha nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà quảng cáo thật nổi tiếng đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn của họ được tăng triển và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng có thể đạt được nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình này đã làm cho họ trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện trên. Ông ta không một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi thuyết trình với một câu như sau: "Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một người hèn kém như tôi thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng sức mạnh nào đã làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả Tây phương như vậy không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ." Sau đó ông ta kết thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: "Bởi vì các bạn không còn niềm tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn ngoan thầm kín để thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã tự đưa mình vào hố sâu không lối ra." Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi người chúng ta ai cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm lu mờ niềm tin trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng nói của Đức tin, vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đã không còn nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết chúng ta là con Thiên Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta đã không chấp nhận điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại oán hận kẻ khác. Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm điểm cõi lòng nơi mỗi người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật sự về lòng yêu mến Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.
----------------------------------
Người ta hỏi Đức Giêsu điều răn nào trọng nhất. Ngoài việc tranh luận để tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu họ TN30-A107
Người ta hỏi Đức Giêsu điều răn nào trọng nhất. Ngoài việc tranh luận để tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu họ còn lòi ra tính lười "muốn ít, càng ít càng tốt và tính nệ luật "làm đủ luật" là xong và bảo đảm, đủ luật, đủ bổn phận rồi thì yên tâm, khỏi lo. Cụ thể thì đỡ phải suy tính như phải làm việc lành nào đọc mấy kinh thì được bao nhiêu ân xá. Đức Giêsu không trả lời theo ý họ vì không đủ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa.... hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi:”
Ba cái hết. Ngôn ngữ Do thái không có cách nói tuyệt đối, tối da (superlatif) mà nói ba lần. Ba cái hết là hết ráo trọi, hết trơn. Chỉ cần hết lòng. Chúa muốn tấm lòng. Tấm lòng là con người. Hết lòng là hết cả con người gồm luôn hết linh hồn và hết trí khôn. Việt Nam nói "yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự". Không nổi lắm. Nhưng tại sao, cách nào?
Điều răn thứ hai giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình: Người lân cận: Với Do thái là thân cận và là người Do thái. Còn với chúng ta là người lân cận, ở gần bên. Như chính mình: Muốn cái gì cho mình thì cũng hãy muốn cho người khác. Yêu thương còn nói nhiều hơn: hy sinh cho nguời khác.
Đức Giêsu chỉ lập lại công thức trong sách luật. Nhưng thêm làm thành khác biệt: điều răn thứ hai giống điều răn ấy. Là một, không tách biệt.
Tất cả luật Mosê và các tiên tri đều gồm trong ấy:
Tóm nhưng không gạt ra ngoài gì hết.
Nếu chỉ coi là vấn đề tranh luận, tìm cách làm khó thì không cần đi vào chi tiết nội dung. Văn mạch của Matthêu là vậy. Nhưng chúng ta cần làm rõ nội dung để thực hành cho có ích.
Tiếng Việt làm cho đơn giản, rất đơn giản là "mến Chúa yêu người". Đơn giản quá thì không chi tiết. Cũng như có câu kinh "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến, xin cữu rỗi các linh hôn". Đọc hoài, ngon miệng nhưng chẳng biết là gì và cũng chẳng biết làm gì nên chẳng có gì.
Chúng ta cũng nói lai lải "mến Chúa yêu người" rồi kể là đủ. Phải giải thích chi tiết, thật chi tiết mới biết rõ để làm và phải làm đủ chi tiết mới gọi là đủ, mới có kết quả.
Mến Chúa hết lòng hoặc trên hết mọi sự: là làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Không làm gì mất lòng Chúa. Quá mênh mông. Hết lòng là bằng cả tấm lòng. Chúa thấy tấm lòng chứ không thấy bề ngoài. Thường, người ta chỉ làm bề ngoài, không một chút tấm lòng nói chi hết lòng. Không biết làm sao là hết lòng. "Trên hết mọi sự" thì có mùi vật chất hơn dể hiểu hơn. Đặt Chúa trên hết mọi sự là không để bất cứ cái gì trên Chúa. Không dể tí nào và không mấy ai làm được nhưng lý thuyết thì được.
Có mến Chúa mới có yêu người. Yêu người vì là điều răn của Chúa, là luật buộc thì phải yêu. Không có Thiên Chúa thì cũng không có con người. Người ta loại bỏ Thiên Chúa thì trở thành độc ác đối với nhau. Hoàng Đế Julien (Julien le rénégat) của Rôma thấy người công giáo gây được ảnh hưởng lớn trong dân, người ta theo đạo nhiều mà không theo Hoàng Đế mặc dù ông có uy quyền tuyệt đối, sinh sát nắm trong tay. Ông ra lệnh làm việc bác ái hơn người công giáo vì ông có nhiều phương tiện hơn. Nhưng không kết quả vì thiếu tình thương. Không phải "mến Chúa yêu người".
Không phải là điều răn thứ hai mà là vế hai của một điều răn duy nhất. Người ta xin Đức Giêsu tóm tắt trong một điều răn trọng nhất, ắc và đủ. Người ta sợ nhiều. Ít thì khoẻ. Nên Đức Giêsu tóm tất cả trong "một" là mến Chúa yêu người. Rất gọn, rất ngắn. Nhưng lại mênh mong "tất cả luật Môsê và các tiên tri" đều gồm trong ấy.
Yêu người vì mến Chúa thì mới hết lòng. Yêu người vì mến Chúa thì làm trọn lề luật. Mến Chúa thì làm trọn mọi lề luật đối với Chúa. Yêu người thì làm trọn mọi lề luật đối với nhau. Yêu là nói tình cảm chứ không lý trí. Lý trí không "yêu" mà chỉ làm cái nầy cái nọ. Yêu mới hết lòng. Yêu là không tính toán đến nổi sẳn sàng hy sinh tới cả mạng sống.
Yêu người là mến Chúa. Không yêu người là không mến Chúa như Thánh Gioan nói "anh em mà ngươi thấy trước mắt mà không yêu lại nói yêu mến Thiên Chúa mà ngưoi không thấy là nói dối".
----------------------------------
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn TN30-A108
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa...!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.
1. Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,37-40).
Khi nói "Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy", Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).
2. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật, đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: "Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ [...] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[...] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3).
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: "Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1 Ga 4,16), còn nếu: "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được... Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng... Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện...
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia..., nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
-------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 22,34-40
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, đi từ bỡ ngỡ này tới bỡ TN30-A109 Dalat
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, đi từ bỡ ngỡ này tới bỡ ngỡ khác. Chúa Giêsu khi đi rao giảng có người theo, có người từ khước, có người chống đối. Nhóm Biệt phái và Pharisêu luôn tìm cách bắt bẻ, gài bẫy để ám hại Chúa Giêsu. Do đó, những cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhóm chống đối Ngài, không phải vì họ thương Chúa, không phải để họ tìm hiểu, nhưng họ tìm cớ để xem Chúa có sơ hở gì hầu bắt và giết Ngài. Họ đặt câu hỏi mà các Rabbi, những nhà thông luật đưa ra để tranh cãi và vặn hỏi Chúa Giêsu: “ Điều răn nào là điều răn lớn nhất ?“.
Đối với Chúa Giêsu không có một câu hỏi nào. một vấn nạn nào mà những nhà thông luật, nhóm Pharisêu, Biệt phái và Kinh sư có thể bắt bẻ được Ngài bởi vì Ngài là Chúa của họ. Những người có chức có quyền, những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó cứ tưởng dễ dàng gài bẫy Chúa. Họ tưởng lầm họ là khôn, là thông thái và biết hết mọi sự. Nên, họ dễ dàng coi thường người khác. Chúa Giêsu nhiều lần đã làm cho họ chưng hửng, bỡ ngỡ và xấu hổ. Một phụ nữ phạm tội ngoại tình, họ cứ tưởng đem tới Chúa, Chúa sẽ ra lệnh ném đá…Rồi về việc đóng thuế, Chúa trả lời:” Của Xêda,trả cho Xêda.Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa “. Những người Pharisêu và bè nhóm Hêrôđê muối mặt vì câu trả lời khôn ngoan, sâu sắc của Chúa Giêsu. Nhóm Sađucêô không tin có sự sống lại, họ đã đem ra một ví dụ ngớ ngẩn, mơ hồ hòng giăng bẫy và bắt bẻ Chúa Giêsu, nhưng Chúa đã trưng ra câu Kinh Thánh Xh 3, 6:” Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, Người không phải Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống “. Nghe Chúa trả lời, những người Sađucêô câm họng, không dám hó hé gì.Tuy nhiên, những người Pharisêu lại tiếp tục vào cuộc tranh luận với Chúa Giêsu nhằm hại Ngài. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người:” Thưa Thầy trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?”. Chúng ta được biết vào thời Chúa Giêsu, sách luật gồm không hơn không kém 613 điều răn, các Kinh sư phân ra 365 điều cấm tương đương với mỗi ngày trong năm và 243 điều truyền. Những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó còn bầy ra thêm rất nhiều điều nhỏ nhặt để làm cho dân mệt mỏi.Họ bầy ra luật nhưng không thi hành, họ bắt người dân thi hành mà thôi.
Đối với Chúa Giêsu, câu trả lời của Ngài rất thẳng thắn, Ngài đi thẳng vào điểm chính yếu. Ngài trưng ra câu Kinh Thánh của Sách Đệ Nhị Luật 6, 4-5:” Nghe đây, hỡi Israen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em…”. Điểm độc đáo Chúa Giêsu là Ngài liên kết giữa điều răn thứ nhất: yêu mến Đức Chúa, với điều răn thứ hai: yêu mến người lân cận thành một giới răn “. Chúa Giêsu đã gồm tóm được luật của Môsê và các ngôn sứ. Do đó, Chúa Giêsu đã gộp các giới răn khác vào hai giới răn thành một: “ Yêu mến Chúa và yêu tha nhân “. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy cái mầu nhiệm thẳm sâu của đời Ngài, một cuộc đời tự hiến vì ý Thiên Chúa Cha, yêu mến Chúa Cha và yêu thương đồng loại.
Vâng, trước câu hỏi hóc búa này, Chúa Giêsu không trả lời họ cách thường thức như họ tra hỏi, nhưng Chúa đã đi vào chiều sâu, đi vào lãnh vực mầu nhiệm để họ có tai mà không hiểu, có mắt mà không thấy được. Chúa cho họ thấy hai giới răn xét bình thường là hai giới răn nhưng thực tế chỉ là một giới răn mà thôi. Người Do Thái, đặc biệt những Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái vv…cứ tưởng giữ luật bề ngoài là đã chu toàn lề luật.Nhưng Chúa cho họ thấy cốt lõi của lề luật mới là tình yêu. Yêu Chúa sẽ gặp người và yêu người sẽ gặp Chúa.Những nhóm này luôn câu lệ, vụ luật lấy cái phụ làm chính, lấy cái chính làm phụ.nên, họ chỉ là những con robot rỗng tuếch…Họ cho rằng giữ luật như rửa tay, đóng thuế, giữ ngày Sabbat là đủ, nhưng đó chỉ là bề ngoài.Cái cốt lõi là sống bác ái yêu thương vì Đạo của Chúa là Đạo tình thương.
Ở đời này, muôn thời vẫn có hai loại người, một loại người cứ tưởng đi đạo là giữ một số lề luật cách máy móc, vô hồn là đủ.Họ đã lầm ! Vì đạo không phải đọc vài câu kinh ngoài miệng, nhưng lòng thì xa Chúa, không sống bác ái yêu thương.Loại thứ hai yêu mến Chúa hết lòng, đồng thời cũng yêu tha nhân. Họ lắng nghe, thực hành lời Chúa và sống hết mình vì tha nhân, giúp đỡ, chia sẻ với kẻ nghèo, bần cùng, những người không nhà không cửa vv…Họ đích thực là con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một tâm hồn rộng mở để chúng con luôn biết quảng đại yêu mến và giúp đỡ tha nhân.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Pharisêu và Biệt phái lại chống đối Chúa Giêsu ?
2.Thời Chúa Giêsu người đã đếm được bao nhiêu khoản luật ?
3.Mến Chúa và yêu người là mấy giới luật ?
4.Tại sao Chúa Giêsu không bãi bỏ luật mà làm cho luật nên hoàn hảo ?
------------------------------
Chúa nhật ngày 05 tháng 11 năm 2017
Mt 23,1-12
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã khen các ông luật sĩ và người biệt phái khi các TN30-A110
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã khen các ông luật sĩ và người biệt phái khi các ông đứng trên tòa giảng. Hiếm khi nào trong Tin mừng ta chứng kiến các ông này được khen. Chúa khen gì vậy? Khen các ông giảng dạy thật hay, thật đúng các lề luật, giáo huấn của Chúa. Khen các ông chắc còn nhiều hơn nữa là đã có sức học hỏi, tìm tòi để nói về luật và các giới răn của Thiên Chúa cho anh chị em dễ hiểu, chỉ dạy cho anh chị em cách áp dụng luật đó trong cuộc sống. Các ông nói đúng và nói hay nên mới được khen. Chuá khen các ông không chỉ với dân chúng mà còn trước mặt các môn đệ của mình nữa. Chúa mời gọi mọi người hiện diện ở đó hãy nghe và thực hành những gì các luật sĩ và biệt phái truyền dạy khi các ông này đứng trên tòa Môsê. Hẳn là trong đám đông đang nghe Người dạy dỗ lúc đó, cũng có không ít người biệt phái và luật sĩ đứng lẫn trong đám đông. Ta có thể cảm thấy họ như được “mở cờ” trong bụng vì Chúa Giêsu ủng hộ họ trên tòa giảng.
Tuy nhiên, Đức Giêsu vào đề liền: “ Những gì họ nói với các người, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm”. Họ nói hãy tuân giữ lề luật, họ đứng canh chừng xem có ai vi phạm là phạt liền, nhưng họ không làm theo luật ấy. Họ nới dài thẻ kinh, may dài tua áo, họ đứng chỗ nhất, đứng đầu trong hội đường, trong đám tiệc, trong chỗ có đám đông...chỗ nào họ cũng ở chỗ quan trọng. Họ như muốn “khoe” là họ cao trọng hơn mọi người. Họ mong muốn người khác kính trọng họ. Họ muốn được chào hỏi và muốn được người ta gọi là thầy. Họ muốn quyền thế.
Con người chỉ thực sự tự do khi không bám víu vào tiền bạc, tình cảm và địa vị. Những người biệt phái và luật sĩ ở đây đã bị nô lệ cho quyền lực và ai dám nói là không nô lệ cho cả tiền bạc ?
Với chúng ta, những con người thời nay, lời dạy của Thầy Giêsu vẫn mang một giá trị không đổi. Chúng ta có tự cho mình ở vị trí là “ quan”, là “xếp”, là “ ông chủ”, là “ boss”... của người khác không? Chúng ta luôn đứng ở vị trí quan sát người khác và góp ý phê bình không? Chúng ta đi lễ, đi nhà thờ, tham gia các hội đoàn, đọc kinh, thăm viếng nhà quàn... đeo những chuỗi tràng hạt dài, tràng hạt ngắn, các kiểu thánh giá với muôn ngàn màu sắc.... để mọi người biết mình là Kitô hữu, nhưng chúng ta có nói về đạo Chúa không? Đạo Chúa là đạo yêu thương, là đạo thực hành. Chúng ta có sống được tình yêu mà Chúa Giêsu mời gọi không?
Nói và làm phải là một, không thể bất nhất thì mới có được chữ tín trong cuộc sống. Người theo Chúa Kitô không làm được thì chỉ là Kitô hữu nửa vời và bị Đức Giêsu gọi là bọn giả hình.
Trong quyển tự thuật, Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Ðộ khỏi ách thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc kinh thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thực đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.
Mahatta Gandhi xác tín rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chận ông lại và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu.
Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa. (Trích sách lẽ sống)
Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy phục vụ như con của Người, Đức Giêsu Kitô. Đấng là con Thiên Chúa mà tự hủy mình ra như không, sống làm con một người thợ mộc, không danh tính, nghèo khó và lặng lẽ. Cho đến khi thi hành sứ vụ vẫn không có nơi gối đầu. Làm lớn là người phục vụ, làm lớn là người nhỏ nhất... đó là những hình ảnh, những mẫu người đánh động tâm hồn người khác nhất.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải sống phục vụ, phải sống lời nói đi đôi với việc làm, phải sống yêu thương. Nhưng đời sống chúng con với cơm áo gạo tiền, với đầy những đam mê của thế gain kéo chúng con đi xa Lời Chúa, kéo chúng con không thực hành điều Chúa dạy. Xin thêm sức cho chúng con để từng ngày chúng con sống gần Chúa hơn khi phục vụ anh chị em mình.
Amen
Nt. Maria Nguyễn Thị Minh Du
Dòng Đa Minh Rosa Lima, Việt Nam
------------------------------
Liên kết hai điều răn mến Chúa và yêu người
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Xh 22:20-26; 1 Tx 1:5c-10; Mt 22:34-40)
Tất cả chúng ta đều biết hai điều răn mến Chúa và yêu người liên kết chặt chẽ với nhau. Nhưng TN30-A111
Tất cả chúng ta đều biết hai điều răn mến Chúa và yêu người liên kết chặt chẽ với nhau. Nhưng liên kết thế nào thì quả là điều khó hiểu và khó thực hành! Để giúp chúng ta hiểu và làm cho tốt, phụng vụ Lời Chúa hôm nay khéo léo giúp chúng ta có câu trả lời. Với bài đọc Xuất Hành, chúng ta đi tới cao điểm của việc yêu người, cụ thể là yêu thương giúp đỡ người cùng khổ nhất xã hội. Tiếp đến là đoạn thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca giải thích bổn phận trên hết của chúng ta là yêu mến Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, Người khẳng định cả hai điều răn đều là trọng nhất, bất kể được xếp theo thứ tự thứ nhất hay thứ hai.
Trước hết cùng thánh Phao-lô, chúng ta suy nghĩ về điều răn mến Chúa. Điều nổi bật trong đoạn thư này là ngài khen ngợi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì họ “đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống”. Quả thực họ đã “nên gương cho mọi tín hữu miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a”. Theo ngẫu tượng tức là thờ các thần của ngoại giáo hoặc sống theo những thú vui xác thịt và tội lỗi thế gian. Vậy mà tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, “nhờ đón nhận lời Chúa”, đã sẵn sàng từ bỏ lối sống ấy để quay về với Thiên Chúa. Đây quả là ý nghĩa đích thực của sám hối. Thiên Chúa hiện nay của họ không còn là cái bụng (việc ăn uống rượu chè say sưa) và những vật chất phù hoa, mà là Thiên Chúa hằng sống và Thiên Chúa thật. Quay về với Thiên Chúa và phụng sự Người không phải là điều dễ dàng. Cám dỗ trở lại với lối sống cũ luôn là một thử thách lớn đối với họ, cho nên Thánh Phao-lô không ngần ngại gọi khó khăn đó là “bao nỗi gian truân” họ phải chịu. Tuy nhiên giữa thử thách ấy của họ, Thiên Chúa lại tích cực hỗ trợ họ bằng “niềm vui do Thánh Thần ban”. Như vậy, việc yêu mến và phụng sự Chúa khởi đầu bằng việc “đón nhận lời Chúa”, rồi nhờ niềm vui Thánh Thần tiếp tục sống lời Chúa qua gian truân, và sau cùng là làm cho “lời Chúa vang ra” ở những nơi họ sống.
Điều răn kế tiếp là yêu thương tha nhân. Đoạn sách Xuất Hành không chỉ nói đến yêu thương những người bà con thân thuộc, mà còn đặc biệt nhắc tới ngoại kiều, mẹ góa con côi. Họ là đối tượng của việc chăm sóc đặc biệt, vì họ là những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Nếu chúng ta đối xử không tốt với họ, Chúa sẽ để cho cơn giận của Người “bốc lên” và Người sẽ thẳng tay trừng phạt chúng ta. Một số ví dụ cụ thể được nêu lên cho thấy chúng ta phải “yêu người” như thế nào. Đối với người nghèo vay tiền chúng ta, chúng ta “không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi”. Đối với người đưa áo choàng cho chúng ta để cầm đồ, chúng ta “phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn”. Tại sao? Ở miền khí hậu khắc nghiệt như Do-thái, ngày thật nóng và đêm thật lạnh, áo choàng là vật bất ly thân, gắn liền với việc bảo tồn mạng sống. Vì thế không có áo choàng trước khi mặt trời lặn là sự sống có thể gặp nguy hiểm, nên chúng ta không thể để họ ngủ trong lạnh lẽo. Chúa bảo: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó”, lời này khác nào Chúa đồng hóa với họ, hay nói khác đi, như lời Chúa Giê-su thì “mến Chúa và yêu người” đều là quan trọng nhất!
Nhưng đâu là sự liên kết giữa hai điều răn mến Chúa và yêu người? Có lẽ chúng ta sẽ trả lời sự liên kết là do việc chúng ta được dựng nên “theo hình ảnh Chúa”. Đúng vậy, chẳng lẽ chúng ta yêu Chúa mà lại ghét “hình ảnh của Chúa”? Nhưng khi trả lời câu hỏi của nhóm Pha-ri-sêu “điều răn nào là điều răn trọng nhất”, Chúa Giê-su nói yêu mến Thiên Chúa là “điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất”. Liền sau đó, Chúa nói: “Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Vậy thì điều răn thứ hai giống điều răn thứ nhất ở chỗ nào? Chẳng lẽ về thứ tự? Cho nên chỉ có điểm duy nhất giống nhau, đó là tầm quan trọng. Phải, điều răn mến Chúa quan trọng thế nào thì điều răn yêu tha nhân cũng quan trọng như vậy! Tóm lại, mến Chúa và yêu người liên kết với nhau vì cả hai đều quan trọng nhất!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp đã rõ ràng. Về việc mến Chúa yêu người, chúng ta phải gạt bỏ ý niệm tầm quan trọng do thứ tự. Không phải hễ thứ nhất là phải hơn thứ hai. Với “Thiên Chúa là Tình Yêu” và tha nhân, chỉ có yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn mà thôi!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 22,34-40
Thánh Gioan tuy già rồi nhưng lúc nào lên tòa giảng cũng mời gọi mọi người:” Hãy thương yêu TN30-A112
Thánh Gioan tuy già rồi nhưng lúc nào lên tòa giảng cũng mời gọi mọi người:” Hãy thương yêu nhau, rồi làm gì thì hãy làm “.Đây đúng là cái diệu kỳ của Đạo Công Giáo. Quả thật, Chúa Giêsu đã đến nhân loại này để thiết lập Đạo Tình Thương.Đây là điều đi trái nghịch với cái nhìn hẹp hòi của những người Biệt phái, những người Pharisêu, những Kinh sư vv..Chúa Giêsu đưa ra giới răn mới là Kính Chúa, Yêu Người.Giữa trăm ngàn thứ luật rắc rối, lộn xộn, Chúa Giêsu cho nhân loại chúng ta biết chỉ có luật quan trọng nhất là luật Yêu Thương. Ngài cho biết tất cả các lề luật và các ngôn sứ đều qui về luật đó.
Cốt lõi Tin Mừng của Chúa Giêsu vẫn là yêu thương. Khơng hiểu được cái chính yếu, cái cốt lõi của Tin Mừng Chúa, của Đạo do Người thiết lập, người mơn đệ của Chúa vẫn chưa hiểu gì về Chúa cũng như những lời dạy của Người. Lề luật hay nĩi nơm na giới răn lớn nhất của Kitơ giáo là “ Mến Chúa, yêu Người “. Tin Mừng của thánh Matthêu hơm nay muốn nĩi lên sứ điệp rõ ràng nhất và chính yếu nhất của đạo cơng giáo. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người thơng luật Do thái:” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi, hết lịng, hết linh hồn và hết trí khơn ngươi “. Đĩ là điều răn trọng nhất, và là điều răn thứ nhất. Cịn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là:” ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình “ ( Mt 22, 37-39 ). Người mơn đệ của Chúa luơn phải hiểu rõ điều răn thứ nhất trong thập giới của Thiên Chúa:” thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”. Đĩ là giới răn thực quan trọng vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên trời đất, muơn lồi và tác tạo nên con người. Bởi thế, con người phải biết ơn Người và thờ phượng, kính mến Người. Tuy nhiên, Đạo của Chúa Kitơ địi hỏi con người phải vươn xa hơn nữa, vươn tới mọi người để yêu thương mọi người như Chúa đã yêu, khơng loại trừ ai ngay cả kẻ thù. Đĩ là cái kỳ diệu của đạo cơng giáo. Nếu nĩi yêu mến Chúa mà khơng yêu thương người thì chưa phải là người cĩ đạo, chưa phải là người của nước Thiên Chúa.
Nếu đã nĩi mến Chúa mà khơng yêu người thì vẫn chưa phải là Kitơ hữu. Và như thánh Gioan nói:” Nếu người nào nói yêu mến Chúa mà không yêu thương anh em là những người gần gũi mình.Đó là người nói láo “. Người mơn đệ Chúa thường đeo thánh giá hay vì dấu thánh giá hàng ngày là dấu hiệu được mời vươn lên tới Thiên Chúa để kính mến Người hết lịng, hết linh hồn, hết trí khơn. Và người mơn đệ Chúa cũng được mời gọi vươn tới mọi người để yêu thương họ kể cả kẻ thù nữa. Như thế, mến Chúa yêu Người chỉ là một giới răn mà thơi. Hai giới gồm tĩm thành một giới răn. Đĩ là cái mầu nhiệm của Đạo cơng giáo. Mến Chúa đã khĩ mà yêu người lại càng khĩ hơn. Tuy nhiên, thực hành được hai giới răn mến Chúa yêu Người mới là điều Chúa muốn người mơn đệ Chúa thực hiện và sống. Chúa nhắc nhờ chúng ta rằng giữa một thế giới với biết bao luật lệ, biết bao rắc rối, chồng chất do con người bầy ra những thứ luật tỉ mỉ,gây nên ách nặng nề cho con người, Ngài muốn con người nhớ lại con người được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Chúa, do đó, con người phải làm theo ý Chúa, làm theo lời Chúa dạy. Thiên Chúa là Tình Thương ( 1 Ga 4, 16) Chính vì thế, làm môn đệ của Chúa con người phải thực hiện điều Chúa truyền, một lệnh truyền xem ra dễ nhưng không dễ chút náo:” Kính Mến Thiên Chúa và Yêu Thương Tha Nhân “.
Xin mượn lời Bertrand Re1villion để kết luận bài chia sẻ này:” …Đối với Đức Kitô, tình yêu dành cho Thiên Chúa không cao trọng hơn tình thương đối với người thân cận.Không ! Kể từ đây, hai điều răn ấy “như nhau “, Đức Giêsu khẳng định vậy…Hôm nay, trong cầu nguyện, lấy thì giờ xem lại thái độ của mình: trong việc làm, trong tương quan vợ chồng, trong gia đình, trong cộng đoàn; tôi có tạo thuận lợi đủ cho phép người kia để lộ ra cho tôi thấy một thoáng gì của Thiên Chúa đang ngự trong người ấy không? Thay vì làm khổ người thân cận,tôi sẵn sàng “ chúc lành “ họ, nghĩa sát chữ là nói tốt về họ không ? Bởi vì chính nơi họ, có hơi thở của Thiên Chúa “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết lắng nghe và tuân theo lời Chúa chỉ dạy.Xin cho chúng con được yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Taị sao Chúa lại nói:” Hãy yêu như Chúa yêu “ ?.
Cốt lõi của Tin Mừng là gì ?
Đạo Công Giáo dạy con người thế nào ?
Chúa dạy yêu thương cả kẻ thù có nghịch lý không ?
Tại sao gọi Đạo Công Giáo là Đạo Tình Yêu ?
------------------------------
Mến Chúa và yêu người quan trọng như nhau
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 22:34-40)
Chúng ta có nhiều cách để giải thích hai điều răn mến Chúa và yêu người đều có tầm quan trọng bằng TN30-A113
Chúng ta có nhiều cách để giải thích hai điều răn mến Chúa và yêu người đều có tầm quan trọng bằng nhau, mặc dù hai điều răn ấy được gọi là điều răn thứ nhất và điều răn thứ hai. Với Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta có thể đối chiếu bài đọc 1 trích sách Xuất Hành với bài Tin Mừng, để hiểu được tại sao Chúa nói: Còn điều răn thứ hai, phải yêu thương anh chị em như chính mình ngươi, cũng giống điều răn thứ nhất, là phải yêu mến Thiên Chúa.
Trong sách Tin Mừng Mác-cô và Lu-ca, khi trả lời câu hỏi của ông kinh sư về điều răn nào trọng nhất, Chúa Giê-su đã nói cả hai điều răn mến Chúa và yêu người đều quan trọng như nhau, thì ông kinh sư đã đồng ý hết mình: “Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng!” Không hiểu ông căn cứ vào đâu để quả quyết là Chúa nói rất đúng. Còn hôm nay, chúng ta có thể căn cứ vào những điều Thiên Chúa phán với dân Ít-ra-en trong bài trích sách Xuất Hành, để thấy rằng chính Thiên Chúa đã coi việc chúng ta đối xử với nhau phải giống hệt như chúng ta đối xử với chính Chúa. Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương anh chị em giống như yêu mến Chúa.
Trước hết, chúng ta hãy lắng nghe Thiên Chúa nói gì với dân Ít-ra-en trong đoạn Xuất Hành 32:20-26. Chúa dạy dân Người phải đối xử tốt với mọi người: người ngoại kiều, mẹ góa con côi, những đồng bào nghèo phải vay tiền người khác hoặc phải lấy tấm áo choàng của mình để thế nợ. Đối với ngoại kiều, dân Ít-ra-en “không được ngược đãi và áp bức”. Đối với những mẹ góa con côi, họ “không được ức hiếp”. Chúa còn đe “sẽ cho gươm chém giết” đám đàn ông ức hiếp những kẻ cô thân cô thế kia, để vợ con chúng cũng sẽ biến thành vợ góa con côi. Đối với người đồng bào vay nợ, họ “không được bắt nó trả lãi”. Còn đối với kẻ lấy áo choàng thế nợ, họ “phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn” để nó dùng mà đắp ban đêm khi ngủ. Rồi Chúa ngăm đe: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó” và trừng phạt ngươi không nương tay! Như vậy thì ai ai cũng đều là những người được Chúa yêu quý và Người không muốn chúng ta làm thương tổn đến những kẻ được Người thương. Với những lời ngăm đe trên, chúng ta có cảm tưởng như Chúa nghiêm nghị bảo chúng ta rằng: Các ngươi xúc phạm đến chính Ta, Ta còn dung thứ; còn nếu các ngươi làm tổn thương đến những kẻ Ta yêu thương, Ta sẽ không để yên đâu! Những lời dạy bảo và cách cư xử như thế của Chúa đối với những anh chị em thân cận của chúng ta đã hiển nhiên nói lên tầm quan trọng bằng nhau của cả hai điều răn mến Chúa và yêu tha nhân rồi vậy. Như thế, bài đọc 1 hôm nay đã chứng minh cho lời khẳng định của Chúa Giê-su cũng như lời tán dương của ông kinh sư dành cho Chúa!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trong câu chuyện do sách Tin Mừng Mác-cô kể lại, ông kinh sư đã được Chúa Giê-su khen tặng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”. Thực vậy, là vì ông đã nhận thức được tầm quan trọng của việc yêu thương tha nhân cũng giống như yêu mến Thiên Chúa. Ông chỉ cần bước thêm một bước nữa, là sống những gì ông đã nói với Chúa Giê-su. Có lẽ ông đã đọc và suy niệm đoạn sách Xuất Hành được trích dẫn hôm nay, nên ông hiểu không phải điều răn thứ hai kém quan trọng hơn điều răn thứ nhất. Tầm quan trọng không tùy thuộc việc sắp đặt thứ tự.
Chúa Giê-su đã cho chúng ta một bí quyết để nhận ra việc yêu thương tha nhân là vô cùng quan trọng qua bài giảng về cuộc Phán xét chung. Đức Vua nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mát-thêu 25:40). Nếu chúng ta nhận ra hình ảnh Chúa ở trong anh chị em, chúng ta sẽ yêu thương họ như yêu mến Chúa. Hoặc cụ thể hơn, Chúa Giê-su đã dạy chúng ta phải yêu thương anh chị em như Chúa yêu thương. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gio-an 15:12). Thế là chúng ta có hai cách để đo lường: hoặc yêu thương tha nhân như chính mình, hay yêu thương anh chị em như Chúa yêu thương! Cách nào cũng được, miễn là chúng ta thực thi!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN, năm A
( CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO )
Mt 22, 34-40
Tôi còn nhớ rất rõ thời mới được thụ phong linh mục, một người bạn tặng tôi cuốn “ Giới Luật Yêu TN30-A114
Tôi còn nhớ rất rõ thời mới được thụ phong linh mục, một người bạn tặng tôi cuốn “ Giới Luật Yêu Thương “ của Đức Cha Bùi Tuần, Giám Mục Giáo phận Long Xuyên, một cuốn sách thu thập lại một số bài giảng, Đức Cha đã giảng tĩnh tâm cho các chủng sinh. Thú thực, tôi rất thích cách phân tích và truyền đạt tư tưởng của Ngài cho các chủng sinh. Và hôm nay, Chúa nhật XXX thường niên năm A, Tin Mừng lại đề cập tới giới răn quan trọng nhất:” Mến Chúa Yêu Người “. Đạo Công Giáo do Chúa thiết lập là Đạo Yêu Thương. Thiên Chúa là Tình Yêu như thánh Gioan định nghĩa.Do đó, truyền giáo cũng có nghĩa là truyền đạt Đạo Yêu Thương và loan báo Chúa là Tình Yêu.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng ngày hôm nay đã trả lời cho người thông luật:” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình “ ( Mt 22, 37-39 ). Đó là cốt lõi của Đạo Công Giáo bởi vì nói cho cùng mến Chúa mà không yêu người là nói láo. Nên, yêu người sẽ gặp Chúa và mến Chúa sẽ gặp người. Vâng, có người sẽ nói tôi yêu mến Chúa thế là đủ vì tôi hằng ngày vẫn đọc kinh, vẫn đi lễ, vẫn làm những điều Hội Thánh dạy mà. Nói thế mới chỉ được một vế vì Đạo Công Giáo là Đạo Yêu Thương. Do đó, nếu nói mình mến Chúa mà lại ghen ghét anh em thì đâu có phải là con Chúa.
Yêu thương là kiện toàn lề luật.Yêu thương là cốt lõi của đạo. Yêu thương là linh hồn, là hơi thở, là nhịp đập của con tim. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rất rõ về Giới Luật Yêu Thương mà Ngài đề ra. Hai mệnh lệnh Chúa Giêsu đưa ra là một giới răn duy nhất, vì con người không thể mến Chúa mà lại ghét bỏ, khinh chê hình ảnh của Ngài là con người do Ngài tạo dựng nên. Và thực ra người ta cũng không nói yêu thương con người mà lại không nhận ra Thiên Chúa là nguồn mạch mọi yêu thương, là nguồn sáng tạo nên con người theo hình ảnh của Ngài. Khi con người tách biệt hai giới luật ấy là con người tự chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ, biệt phái, tư tế, đầu mục, kinh sư thời Chúa Giêsu quả thực là những con người đạo đức theo quan niệm của họ: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ vẻ bề ngoài yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết đến nỗi khi cầu nguyện trong đền thờ họ dám đứng thẳng kể công với Chúa và chê người người anh em cùng cầu nguyện với mình nhưng không dám ngẩng đầu lên vì tự nhận ra mình tội lỗi, bất xứng. Chúa Giêsu đã điểm mặt những hạng tự cao, tự đại, tự mãn là những hạng giả hình: họ chỉ nói cái miệng, họ đặt ra đủ thứ lề luật để bắt người khác gánh, nhưng mình thì không hề đụng tới, không hề giữ luật vv…Chúa ví họ như mồ mả tô vôi bề ngoài, nhưng bên trong thì toàn hôi thối, rữa nát vv…Chúng ta ngày hôm nay có thể ví họ như người máy, người máy có thể làm được nhiều việc, nhưng không có tâm hồn để biết yêu thương thật.
Thánh Gioan đã giải thích “ Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, thì không thể yêu mến Đấng nó không thấy “. Chúa đã đưa ra giới luật và giải thích giới luật. Sau khi hiểu được Lời của Chúa, chắc chúng ta không ít thì nhiều cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Hoặc chúng ta ít nhiều cũng hám danh vọng, cũng thích khoe khoang, tự cao, tự nâng mình lên và muốn hạ người khác xuống vì ích kỷ tự cho mình là hơn người.
Chúa Giêsu quả là con người vĩ đại đã thẳng thắn vạch trần thói giả hình của con người và Ngài cương quyết đẩy lùi, tiêu diệt thói giả hình ấy. Ngài cho đó như một thứ ung nhọt phải loại trừ. Ngài cho chúng ta thấy chúng ta để chúng ta chân thành và khiêm tốn hơn.
Ngày nay, người ta thích những chứng nhân sống hơn là những thầy dạy chỉ nói suông, chỉ sống bề ngoài. Chúa muốn mọi người phải biết sám hối, ăn năn và canh tân đời sống. Trong nội tâm mỗi người, ai cũng có một chút tham vọng, một chút háo danh muốn tự đề cao mình và đè bẹp kẻ khác. Chúa dạy và làm gương cho chúng ta:” Trong anh em, ai làm lớn, phải làm người phục vụ anh em “ ( Mt 23, 11 ) và “ Ta đến phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ “,
Đỉnh cao của Đạo Công Giáo là Tình Yêu. Hãy yêu như Chúa vì Yêu người sẽ gặp Chúa và kính mến Chúa sẽ yêu mến anh em, yêu thương con người, yêu thương ngay cả kẻ thù. Và cuối cùng, đó là truyền giáo, là loan báo một Đấng Thiên Sai:” Đức Giêsu Kitô đầy chạnh thương và nhân hậu ”.
Thánh Phaolô viết:” Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt “ ( Ep 5, 2 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật XXX thường niên ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Chúa Giêsu đã dạy thế nào về yêu thương ?
Đạo Công Giáo là Đạo gì ?
Kiêu ngạo, tự mãn là tội gì ?
Tại sao Chúa khiển trách nặng lời những người Pharisêu, Kinh sư và Đầu mục?
Ông bà anh chị hiểu thế nào về dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện ?
------------------------------
Giới Răn Nào Lớn Nhất?
Mt 22:34-44:
34 Nghe biết Ngài đã khóa miệng bè Sađóc, thì Biệt phái tụ họp lại một chỗ. 35 Ðoạn một luật sĩ trong nhóm hỏi thử Ngài: 36 “Thưa Thầy, giới răn nào lớn nhất trong Lề luật?” 37 Ngài nói với người ấy: "Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi! 38 Ðó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất. 39 Thứ đến cũng giống như điều ấy: Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi. 40 Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều qui vào hai giới răn ấy.”
41 Biệt phái họp lại, thì Ðức Yêsu hỏi họ: 42 “Các ông nghĩ sao về Ðức Kitô? Ngài là con của ai?” - Họ đáp: “Của Ðavít.” 43 Ngài nói với họ: “Vậy làm sao Ðavít được thần khí ứng cho thì lại gọi Ngài là Chúa, mà rằng:
44 Chúa đã nói cùng Chúa tôi:
Hãy ngự bên hữu Ta,
chờ Ta đặt quân thù ngươi
dưới chân ngươi.
Đoạn 22:34-44 nằm trong văn mạch của các cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với các vị lãnh đạo do TN30-A115
Đoạn 22:34-44 nằm trong văn mạch của các cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với các vị lãnh đạo do thái (21:23-46): dụ ngôn hai người con (21:28-32); dụ ngôn các tá điền (21:33-46); dụ ngôn tiệc cưới (22:1-14); vấn đề nộp thuế (22:23-33); kẻ chết sống lại (22:23-33); Giới răn lớn nhất (22:34-40) và câu hỏi về Đấng Mêssia (22:41-46). Đoạn 22:34-44 có thể phân chia như sau: - Dẫn nhập ngắn (c. 34), - Vấn đề đặt ra (cc. 35-36); - Câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 37-40).
Đoạn 22:34-40 bắt đầu bằng câu chuyển tiếp nhắc đến kết quả của cuộc tranh luận trước về việc sống lại giữa Chúa Giêsu với nhóm Sađucêô (c. 34). Họ đã bị Chúa Giêsu khóa miệng. “Khóa miệng”, phimoō, là làm cho không nói được lời nào nữa. Nhóm Sađucêô đi, nhóm Pharisêô lại vào cuộc. Họ đã tranh luận với Chúa Giêsu nhiều lần từ khi Người vào đền thờ (21:23). Cách nói “nhóm họp lại một nơi” gặp thấy trong Cvtđ 4:26 và Tv 2:2 và chỉ việc “các quan quyền vây cánh liên minh chống lại Chúa và chống lại Đức Kitô của Người”. Việc nhóm họp nầy báo trước ý định xấu xa của họ là “thử Người” (c. 35), như họ đã từng làm trước đó là “tìm cách bắt Người” (21:46) và “gài bẫy Người” (22:15.18). “Thử Người” là hy vọng tìm được những sai lỗi căn bản trong lời giải thích của Người.
Việc người Pharisêô quy tụ cũng sẽ là khung cảnh cho đoạn tiếp theo sau, khi họ hỏi về nguồn gốc của Đấng Kitô (c. 41). Nomikos “người thông luật”, “luật sĩ”, là người hiểu biết về lề luật. Họ là người giải thích và dạy lề luật Môsê. Nomikos tương đương với grammateus trong câu song song ở Marcô (Mc 12:28). Người thông luật nầy thuộc về nhóm Pharisêô, và được gởi đến để hỏi Chúa Giêsu về lề luật Môsê.
Câu hỏi của người thông luật liên quan đến Lề luật Môsê. “Thưa Thầy, giới răn nào là lớn nhất trong lề luật?” (c. 36). Trong Matthêô không đưa ra định nghĩa nomos, “lề luật” là gì, mà chỉ nói đến việc tuân giữ và thực hành lề luật (5:19; 15:3). Trong sách Đệ Nhị Luật, lề luật là con đường Thiên Chúa đặt ra trước dân Người để họ bước đi theo đó, được sống và được vào đất hứa (x. Đnl 30:15-20). Matthêô dùng chữ “lớn nhất”, megalē, thay vì “trên hết”, prōtē, như trong câu song song ở Marcô (Mc 12:28). Trong Lề Luật của Môsê, có tất cả 613 giới răn: 248 giới luật, 365 điều cấm kỵ. Mỗi rabbin có một quan điểm riêng về việc phân biệt các giới răn lớn và nhỏ khác nhau, và họ không thống nhất với nhau về cách sắp xếp nầy. Bởi đó, khi hỏi Chúa Giêsu và gọi Người là Thầy “didaskalos”, họ muốn biết Người nghĩ như thế nào về vấn đề nầy. Vậy câu hỏi của thầy thông luật là muốn biết Thiên Chúa muốn gì nhất nơi con người.
Trong câu trả lời trích dẫn Đệ Nhị Luật 6:5 về giới răn yêu Chúa không có lời kinh Shema, “Hãy lắng tai nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Chúa độc nhất” (Mc 12:29) mà người do thái đọc hai lần sáng tối mỗi ngày. Lời trích dẫn của Matthêô giống nguyên văn với bản văn LXX, và chỉ gồm ba phần: “hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi và hết sức lực ngươi” (c. 37). So với Marcô, Matthêô thay đổi “bởi tất cả tâm hồn” thành “với tất cả tâm hồn”, và “sức lực”, dunameōs, thành “trí khôn”, dianoia.
Trong tiếng hipri động từ “Yêu” mang ý nghĩa rất bao quát. Nó đi từ tình yêu phái tính, sang tình yêu đối với các thành phần trong gia đình, bạn bè, quan hệ trong xã hội và đến tình yêu đối với Thiên Chúa. “Yêu Thiên Chúa” theo Đnl 6:5 trước tiên là hành vi vâng phục và tuân giữ các giới răn của Người. Yêu mến Thiên Chúa đòi hỏi dâng hiến cả con người.
Ba khả năng “con tim”, “linh hồn” và “tâm trí” tượng trưng cho toàn thể con người. Kardia, “con tim”, là trung tâm của đời sống thể lý và tinh thần. Psychē, “linh hồn”, là trung tâm của cảm giác, ước muốn, cảm tính. Dianoia, “tâm trí”, là khả năng của sự hiểu biết. Con người phải yêu mến Thiên Chúa với tất cả các khả năng nầy. Hơn nữa, bản văn luôn lập lại “của ngươi” (tính từ sở hữu ngôi thứ hai số ít) và “tất cả” ở mỗi khả năng trên: “hết lòng người, hết linh hồn người và hết trí khôn ngươi”. Điều nầy cho thấy đây là một đòi hỏi nơi mỗi người và là đòi hỏi trọn vẹn. Như thế, “yêu mến Thiên Chúa” không là một tình cảm, mà là sự dấn thân trọn vẹn và hướng trọn vẹn chính mình về Thiên Chúa qua việc nhận biết Người và sống cho Người.
Câu 38 là riêng biệt của Matthêô. Ông khẳng định tầm quan trọng của giới răn “yêu Chúa” và dùng cả hai chữ “lớn nhất” và “trên hết”. Làm như thế là ông đóng khung lại giới răn và muốn đặt ưu tiên cho giới răn nầy.
Chúa Giêsu nói đến giới răn thứ hai: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi” (22:39). Lần nữa, tính từ sở hữu “đồng loại của ngươi” và đại từ phản thân “chính ngươi” được đặt liên hệ với nhau. Giới răn thứ hai nầy trích từ sách Lêvi 19:18; Hai giới răn đã không được liên kết với nhau trong Cựu ước. Trong câu 5:43, plesiōn “đồng loại” “người lân cận” được đặt đối nghịch với “kẻ thù”, “Hãy yêu thương đồng loại và ghét kẻ thù”. Và tiếp sau đó ở câu 5:46 đối tượng của yêu thương là “yêu người yêu mình”. Như thế, plesiōn trước tiên là người mình có tình cảm hỗ tương; vì thế ở câu 19:19, plesiōn được đặt bên cạnh cha mẹ mà con người phải hiếu thảo. Trong Cựu ước, rēa‘ chỉ bạn bè, người lân cận, người đồng hương, người sống chung một lãnh thổ. Tuỳ nhiên, trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy tình yêu đối với tha nhân nầy vượt qua biên giới bà con, họ hàng, dân tộc. Tha nhân là người có nhu cầu và cần được giúp đỡ. Và “yêu thương tha nhân” là để tình yêu mỗi người có trong mình hướng dẫn mình làm mọi điều tốt cho người khác (x. 7:12).
Sau cùng Chúa Giêsu đã liên kết hai giới răn nên một và cho thấy tầm quan trọng của chúng: “Toàn thể lề luật và tiên tri đều qui về hai lề luật ấy” (c. 40). Chữ “qui về” dịch từ động từ kremannymi “treo vào” “gắn vào”. Động từ nầy gặp trong 18:6 nói về “treo cối đá vào cổ” (18:6); hay “một người bị treo vào thập giá” (Lc 23:39). Theo nghĩa đen, để có thể treo vào, cần một một vật chính làm điểm tựa hay cột trụ. Vật treo vào hoàn toàn lệ thuộc vào điểm tựa ấy. Ở đây, động từ kremannymi được dùng theo nghĩa bóng. Hai giới răn yêu thương là cột trụ. Toàn thể lề luật và tiên tri phải bám chặt vào hai giới răn nầy mới tồn tại và có ý nghĩa. Không gắn liền với hai giới răn yêu thương nầy toàn thể việc giữ luật sẽ rơi vào duy luật và mất hết ý nghĩa của nó.
Giới răn yêu thương Thiên Chúa và người khác là ý muốn lớn nhất và trên hết của Thiên Chúa. Người muốn con người đáp lại cách cá nhân và với trọn vẹn tình yêu của mình.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
------------------------------
Quốc gia và xã hội nào cũng có luật, ngay cả một nhóm người nhỏ cũng có luật – gọi là nội quy. TN30-A116
Quốc gia và xã hội nào cũng có luật, ngay cả một nhóm người nhỏ cũng có luật – gọi là nội quy. Theo luật học, luật pháp là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí chung của một quốc gia, khu vực, lãnh thổ, được chính quyền đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, hoặc cưỡng chế.
Đời có luật đời, đạo có luật đạo. Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và Ngài cũng ban hành luật pháp. Tất cả luật pháp trần gian chỉ là thứ cấp, chỉ có Luật Chúa mới là Đệ Nhất Luật. Thánh Vịnh gia chia sẻ kinh nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Thánh Phaolô so sánh mạnh mẽ và độc đáo: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Phải thực sự có niềm tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận như vậy. Không tin thì… miễn bàn luận!
Mệnh danh là Đạo Yêu Thương – vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16), Công giáo có “luật yêu” gồm 10 điều khoản – gọi là Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lược thành hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai điều khoản ấy cũng có thể “rút gọn” chỉ còn một điều là yêu thương. Rất ngắn gọn. Nói cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu, hoặc Luật Tình. Nói theo ngôn ngữ thời nay gọi là Luật hai-trong-một. Và có thể “cô đọng” thành một chữ mà thôi: YÊU.
Ngoài Thập Giới do Thiên Chúa ban qua Môi-sê, Giáo hội còn có Ngũ Giới (Năm Điều Răn). Cả 15 điều đó đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, ba điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, bảy điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người chẳng dễ gì đâu”. Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20). Vấn đề yêu thương liên quan vấn đề công lý. Đó là điều tất yếu và minh nhiên!
Một chữ và chỉ một chữ mà thôi: YÊU, rất ngắn gọn, không thể ngắn gọn hơn nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài”. Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ LẮNG NGHE và TUÂN GIỮ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28). Mối phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm (x. Lc 11:27-28). Bất cứ ai yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời dạy của Ngài, và đó chính là “hạnh phúc thật”.
Như đã nói, chữ Yêu tương quan chữ Thập. Chữ Thập có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt, cao và thấp,…), và hướng đến với các linh hồn. Thật tuyệt vời biết bao! Tương tự, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Chắc chắn không ai có thể giả vờ. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng khá độc đáo!
Người ta nói rằng “luật vị nhân sinh”. Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy. Đó là “dây cương” để giữ cho người ta khỏi “phá giới”. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp của Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3:24).
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi không được NGƯỢC ĐÃI và ÁP BỨC, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ỨC HIẾP. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút” (Xh 22:20-23). Ngược đãi và áp bức người khác là vi phạm luật công lý của Thiên Chúa, đồng thời xâm phạm nhân phẩm và nhân vị của họ, tất nhiên như vậy cũng trái với luật Chúa.
Cần phải có luật pháp để xử lý người vi phạm, nhưng luật pháp phải bao hàm tình yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé”, đồng thời phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật pháp không thể áp dụng theo kiểu “luật rừng”, mà phải nghiêm minh như thiết quân luật: Quân pháp bất vị thân. Câu nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình” – nghĩa là Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm riêng, nhưng “cứ đường lối Chúa mà đi” (Tv 119:3). Không dễ đâu đấy! Ai làm được vậy mới đáng cho người khác tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn theo phong cách của Đức Giêsu Kitô.
Thánh Luật của Thiên Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền thì ngươi KHÔNG được xử với nó như chủ nợ, KHÔNG được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ” (Xh 22:24-26). Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, là Thiện Luật, là Thiên Luật, là Thánh Luật, chứa chan Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo vô cùng!
Bất cứ ai được sống trong luật thiện hảo như vậy thì thật hạnh phúc. Vì thế, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:2-3). Không chỉ nói bằng lời, Thánh Vịnh gia còn xác nhận và chia sẻ: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù” (Tv 18:4).
Là Kitô hữu, chúng ta cũng đã và đang không ngừng nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Đây là lúc thuận tiện, hãy cùng Thánh Vịnh gia xưng tụng Ngài và xác tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 18:47-48). Và rồi chắc chắn Thiên Chúa quên ngay mọi tội lỗi của chúng ta, âu yếm ôm chúng ta vào lòng, và cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm Ngài. Tuyệt vời!
Thánh Phaolô chia sẻ tâm sự: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia” (1 Tx 1:5-7). Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức quyền, có địa vị, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” để cai trị người khác. Có “quyền” không phải để “hành” người khác, mà để phục vụ mới đúng luật của Thiên Chúa (x. Mt 20:26-28; Mc 10:43-45).
Với kinh nghiệm và sự chân thành, Thánh Phaolô bộc bạch thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, Người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” (1 Tx 1:9-10). Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như Thánh Phaolô cũng đã xác nhận trước đó: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa” (1 Tx 1:8).
“Điều Răn Trọng Nhất” là “Đệ Nhất Luật”, được đề cập trong trình thuật Mt 22:34-40 (tương đương Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) và có liên quan chữ YÊU. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật chữ YÊU trong Thánh Luật của Thiên Chúa.
Thánh sử Mátthêu kể: Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp nhau lại – nhóm này “không tin có sự sống lại” nên chuyên tìm cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà… “trớt quớt”, và “bị hố”. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Ngươi phải YÊU MẾN Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải YÊU người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Xa-đốc đành cắn răng và ráng ngậm bồ hòn làm ngọt. Phải thế thôi!
Nói trước nói sau, nói đầu nói cuối, nói dưới nói trên, nói lên nói xuống, nói ngang nói dọc, nói đi nói lại, nói tới nói lui,… nói kiểu nào hoặc theo hướng nào thì cũng chỉ để “diễn giải” chữ YÊU mà thôi. Chính Ngài là tình yêu thì luật của Ngài phải là Luật Yêu. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô thì phải “giữ trọn vẹn lề luật” (Gl 5:3). Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao? Thánh Gioan cho biết: “Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Tương tự, Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:10).
Các thánh cũng nói những gi liên quan Luật Yêu. Thánh Bênađô lý luận: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ”. Mức độ yêu là “yêu vô hạn” – không tính toán, không so đo, không phân bì, yêu như điên. Các thánh đều đã yêu “tới bến” và hóa điên rồ vì yêu Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn làm thánh, chúng ta cũng phải có “máu yêu” như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – có lẽ loại máu này y học không hề biết và thiếu trình độ để phát hiện.
Thật vậy, còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Thánh Tiến sĩ Lm Tommaso d’Aquino (1225–1274, Dòng Đa-minh) minh định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta”. Ước gì mọi người – bất luận Kitô hữu, không tín ngưỡng hoặc vô thần – đều có loại máu Y kỳ diệu.
Lạy Thánh Phụ toàn năng và toàn tri, xin khai lòng mở trí để con chân nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất từ bi và giàu lòng thương xót, “xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” (Tv 119:34), “xin đừng cất khỏi miệng con Lời Chân Lý” (Tv 119:43), “xin dẫn con đi theo Đường Chân Lý của Ngài” (Tv 25:5), xin giúp con khả dĩ nhận biết chính mình để con yêu mến Ngài hết lòng và yêu thương tha nhân thật lòng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
------------------------------
Hiện nay một căn bệnh trầm kha đang gặm nhấm tình người chính là bệnh vô cảm. Bệnh vô cảm TN30-A117
Hiện nay một căn bệnh trầm kha đang gặm nhấm tình người chính là bệnh vô cảm. Bệnh vô cảm không phải là bệnh của thế lý mà là bệnh của tâm hồn. Căn bệnh này đang lây lan trên toàn xã hội mà chúng ta có thể thấy mọi nơi. Đôi khi ta vẫn thấy hình ảnh những con người vô cảm thản nhiên đứng nhìn cảnh một kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu; một vụ nữ sinh lột áo, giật tóc, đánh hội đồng; một vụ làm nhục người khác… như xem một màn kịch, lấy điện thoại ra quay rồi tung lên mạng. Người ta coi như không nhìn thấy kẻ gian móc túi trên xe buýt mặc dù việc đó xảy ra sờ sờ trước mắt. Từ những chuyện tranh cãi hay xô xát lặt vặt nhưng không ai lên tiếng can ngăn và thế là dẫn tới án mạng.
Trong trận mưa lớn tháng 10 vừa qua, người ta sợ bể đập thủy điện nên xả nước dẫn đến cơn lũ đã quét sạch nhiều thôn làng gây nên 68 cái chết thương tâm, nhưng những cơ quan chức năng vẫn thản nhiên bảo rằng: “xả lũ đúng quy trình”, “vỡ đê có kế hoạch” mà không hề nuối tiếc vì những việc làm tắc trách của mình đã phá hoại biết bao hoa màu, tài sản và tính mạng con người!
Tại sao con người hôm nay lại không còn biết chạnh lòng thương xót nhau? Tại sao con người lại quá dửng dưng với nỗi đau của tha nhân? Thưa bởi vì căn bệnh “vô cảm” đã phá hủy hết tình liên đới giữa con người với nhau.
Người Việt Nam có truyền thống vô cùng tốt đẹp là
“thương người như thế thương thân”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… Thế nhưng “căn bệnh vô cảm” ngày nay đang gặm nhấm những truyền thống tốt đẹp đó. Nó đã khiến cho con người xa lạ với nhau đến dửng dưng về nỗi khổ của anh em.
Nếu để căn bệnh này lan tràn nó sẽ làm cho xã hội chết về tình người. Một xã hội không liên đới, mạnh ai nấy sống sẽ dẫn đến hủy diệt xã hội, bởi lẽ sự an toàn không còn được ai bảo vệ cho nhau.
Hôm nay Chúa bảo với chúng ta giới răn quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Phải chăng đây là lúc chúng ta phải làm sống lại tin mừng cho thế giới đang chết về tình người? Phải chăng xã hội hôm nay đang rất cần những men tin mừng để làm dậy lên nếp sống yêu thương, chia sẻ, bác ái, cảm thông với nhau?
Nhưng liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội vô cảm hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà lại bỏ rơi anh em của mình! Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giê-su khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Ước gì giữa một thế giới tình người đang chết dần tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay.
Nguyện xin Chúa là tình yêu uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
------------------------------
Suy niệm: Xh 22,20-26
Từ bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân ngày Thế Giới Người Di Dân và Tị Nạn, 05 tháng 8 năm 2013:
Thường thì sự xuất hiện của những người di dân, những người lánh nạn, những người đang tìm nơi TN30-A118
“Thường thì sự xuất hiện của những người di dân, những người lánh nạn, những người đang tìm nơi ẩn náu và những người tị nạn dễ gây ra sự nghi ngờ và thái độ thù địch. Người ta lo sợ rằng xã hội sẽ trở nên ít an toàn hơn, rằng đặc tính và văn hóa sẽ bị mất đi, rằng sự cạnh tranh về công việc sẽ trở nên căng thẳng hơn và thậm chí là các hoạt động tội phạm sẽ gia tăng …
“Một sự thay đổi thái độ đối với những người di dân và tị nạn đang có nhu cầu cần được giúp đỡ thì tùy thuộc vào phần mỗi người, khác với những thái độ phòng vệ và sợ hãi, lãnh đạm và xa tránh – tất cả đều điển hình cho một nền văn hóa hời hợt – còn đối với những thái độ dựa trên một nền văn hóa gặp gỡ, là nền văn hóa duy nhất có khả năng xây dựng một thế giới tốt hơn, huynh đệ và công bằng hơn…
“Mỗi con người là một người con của Thiên Chúa! Anh hay chị ấy mang hình ảnh của Chúa Kitô! Chính chúng ta cần nhìn thấy, và rồi làm cho những người khác cũng nhìn thấy rằng những người di dân và những người tị nạn không chỉ tượng trưng cho một vấn đề cần được giải quyết, nhưng họ là những người anh em và chị em phải được đón tiếp, được tôn trọng và được yêu thương. Họ là một cơ hội mà Đấng Quan Phòng ban tặng cho chúng ta để giúp xây dựng một xã hội công bằng hơn, … một thế giới huynh đệ hơn, và một Cộng đoàn Kitô hữu mang tính Tin Mừng và cởi mở hơn.
“Những người di dân có thể trao tặng những cơ hội cho một công cuộc rao giảng Phúc âm mới mẻ, mở ra một viễn tượng cho sự phát triển của một nhân loại mới đã được báo trước trong mầu nhiệm vượt qua: một nhân loại vì đó mà mỗi quốc gia nước ngoài là một quê hương/xứ sở, và mỗi xứ sở là một nước ngoài”.
Tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người di dân và tị nạn, họ đang tìm kiếm một nền văn hóa an toàn hơn. Nguyện xin Thiên Chúa bảo vệ họ khỏi tất cả mọi sự nguy hiểm đang bao quanh họ!
“Lạy Chúa, con cám ơn Chúa, vì Chúa đã lắng nghe tiếng kêu khóc của những người nghèo, người di dân và người nước ngoài”.
Theo the Word Among us
Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
----------------------------------
LỜI CHÚA: Mt 22, 34 – 40
Hôm nay phái Pharisieu tiếp tục giăng bẫy Chúa Giê-su bằng một câu hỏi đặc biệt, một câu hỏi TN30-A119
Hôm nay phái Pharisieu tiếp tục giăng bẫy Chúa Giê-su bằng một câu hỏi đặc biệt, một câu hỏi trường lớp về lề luật: Điều răn nào lớn nhất? Họ muốn lôi kéo Ngài vào cuộc tranh cãi về việc chú giải luật. Chúa Giê-su không tránh né, Ngài khởi đi từ điều chính yếu để trả lời cho họ: Tất cả lề luật và các tiên tri được tóm gọn trong hai điều luật này là yêu mến Chúa và yêu tha nhân.
Ai có thể nói mình yêu Thiên Chúa thật? Ai có thể nói mình yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn mà lại ghét anh em mình? Tình yêu thật khởi đi từ tình yêu Chúa và đến với anh em.Từ tình yêu Chúa chúng ta được mời gọi yêu anh em. Đây không phải là tình yêu trừu tượng chung chung nhưng là tình yêu cụ thể bằng hành động, bằng việc làm tình yêu.
Khi yêu Thiên Chúa, chúng ta khám phá ra tình yêu anh em và chúng ta được mời gọi yêu họ như Thiên Chúa yêu họ. Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân chỉ là một vì ngay từ đầu tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa trào tràn xuống chúng ta, những tạo vật của Ngài. Chúng ta được dựng nên vì tình yêu và trong tình yêu giống hình ảnh của Thiên Chúa. Bản chất tình yêu đó luôn ở trong chúng ta nên chúng ta luôn được mời gọi sống yêu thương. Cuộc sống loại trừ nhau ngay từ đầu đã bị Thiên Chúa kết án: Chúa đuổi Cain ra khỏi thế giới loài người khi hắn giết em mình. Thủ tiêu nhau là loài thú nên không thể sống trong cộng đoàn yêu thương được. Cain đã phải ra đi khỏi cộng đoàn những người yêu thương.
Để giúp chúng ta hiểu tình yêu tha nhân cũng giống tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa đã dùng sư phạm thật sự ý nghĩa để cho chúng ta hiểu điều răn quan trọng này. Trong sách xuất hành, Thiên Chúa đã nghiêng mình xuống dân lầm than, đói khổ, lưu đày khi họ kêu lên Ngài. Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới chiến tranh, nghèo khổ, cấm cách, bóc lột, chúng ta đang được nghe lời mời gọi của Chúa: Hãy thi thố tình yêu đối với những người cùng khốn hơn ngươi: “Ngươi đừng hành hạ người di dân đang cư ngụ ở nhà ngươi, ngươi đừng áp bức họ, vì chính ngươi cũng là những kẻ tha phương cầu thực nơi Ai Cập.” Nếu Israel được mời để yêu đến tận cùng, đó là họ đã có kinh nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống của họ. Họ có cảm nghiệm Thiên Chúa yêu họ và luôn đứng về phía họ, những con người đang bị áp bức.: “Nếu người nghèo kêu đến Ta, ta sẽ nghe họ vì Ta là Đấng xót thương!”
Tình yêu Thiên Chúa trước hết là lòng thương xót. Tình yêu này rất lạ lùng đối với thế giới. Tình yêu này không hạ thấp người được thương nhưng nâng họ lên. Thương xót là yêu tha nhân như họ được yêu, đó là làm cho họ vào trong cùng một thực tại của tình yêu, đó là cho họ tất cả những gì mình có như Thiên Chúa yêu họ. Chúa Giê-su nói: “Hãy thương xót như cha anh em trên trời là Đấng xót thương” (Lc 6,36). Khởi từ tình yêu đó Thiên Chúa cho chúng ta hiểu sự liên kết tình yêu giữa Ngài và anh em. Thiên Chúa muốn khi kinh nghiệm về tình yêu tha nhân, chúng ta sẽ là những người thương xót. Từ đó chúng ta sẽ kinh nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa, một tình yêu vô bờ, khôn cùng.
Trong cuộc sống tại thế, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy việc hoàn trọn tôn ý của Chúa Cha và tình yêu phục vụ nhân loại được nối kết trong một thực tại duy nhất. Vì tình yêu tha nhân, Chúa Giê-su hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại, nhưng tình yêu này không tách khỏi tình yêu Thiên Chúa, vì đó là ý Chúa Cha ( 20,28). Thánh Gioan đã cho chúng ta biết cái biệt điểm của tình yêu này: “ Nếu ai nói tôi yêu Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình thì nó là kẻ nói láo, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng họ không thấy bao giờ. Và đây là lệnh truyền ta đã lĩnh lấy nơi Ngài: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì hãy yêu anh em mình.”( 1Ga 4, 20-21). Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người; Ngài liên đới với con người; Ngài đồng hóa với con người( Cv 9,5) đến nỗi từ nay ta không thể phân biệt Ngài khỏi con người nữa. Thành thử khi thực sự yêu tha nhân vì họ, ta sẽ yêu Thiên Chúa vì Ngài. Chỉ có một tình yêu cũng như con người chỉ có một quả tim, một tấm lòng.
Đó là một cộng đoàn nền tảng được gắn bó bởi tình yêu. Đó là cộng đoàn lạ lùng của những người được hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong Lời của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su đã làm gương cho chúng ta về tình yêu này khi Ngài tự nguyện đi đến cùng của nghĩa yêu thương. Thập giá mà Ngài hi hiến chính là sự loan báo tình yêu hữu hiệu trên thế gian này. Sự loan báo này giúp chúng ta mở ra với Thiên Chúa thật, Đấng yêu đến nỗi đặt mình dưới chân các môn đệ và tự hiến trọn vẹn. Chúng ta chỉ có thể yêu anh em khi chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa xót thương, một Thiên Chúa cúi xuống trên sự khốn cùng của chúng ta để nâng chúng ta lên.
Ngày nay đói khát hoành hành, đau khổ bao trùm thế giới, chúng ta phải là những người mang những vết thương này vào trong lòng chúng ta và biến đổi những thảm khốc này trong khả năng và trong tầm tay chúng ta.. Đó là điều mà Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta: “Hãy yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn.” Đó là điều răn trọng nhất. Và điều răn thứ hai cũng giống như vậy: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu giữ được như thế chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa vì chúng ta thấy trong cộng đoàn Ki-Tô hữu có Đấng đang sống, đang hướng dẫn và yêu chúng ta.
Đến đây chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giê-su lại đòi buộc khắt khe như thế?
Thưa: Khi yêu mà không phải vì người thì chưa phải là tình yêu thực. Yêu vì mình chỉ là lòng ích kỷ trá hình mà thôi cho nên tình yêu nhất thiết đòi phải quên mình. Yêu kẻ thù là dạng tình yêu đòi phải quên mình một cách rõ ràng. Chết cho người mình yêu tức là bỏ mình vì người yêu, cho nên đó là tình yêu đúng nghĩa nhất.
Tình yêu đối với Thiên Chúa cũng phải triệt để như vậy. Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối nên tình yêu đối với Ngài cũng phải tuyệt đối. Phải yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là đòi buộc tất yếu của tình yêu đối với Thiên Chúa. Không có những đòi buộc tất yếu này thì không còn là tình yêu đối với Thiên Chúa nữa.
Đòi buộc này quá sức con người, nhưng đó là con đường cần thiết để cứu độ con người. nó giúp con người nhận ra sự bất lực của mình trong tương quan tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Từ đó con người phải dựa vào Thần Khí của Chúa mới có thể chu toàn hai giới răn này.
Đức Giê-su đòi buộc tình yêu vượt quá sức con người, nên sự hiện diện của tình yêu này là dấu chỉ rõ ràng có sự hiện diện của Thiên Chúa: “Ai sống theo tình yêu thì có Thần Khí của Thiên Chúa hoạt động nơi người ấy, cho nên họ là con cái của Thiên Chúa và là môn đệ của Đức Giê-su.”
Chúa Giê-su đã đi bước trước trong tình yêu này và Ngài mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Chúng ta hãy xin Thánh Thần mở lòng chúng ta ra với Tin Mừng của Ngài. Xin uốn ý muốn của chúng ta theo ý muốn của Ngài. Xin Ngài giúp chúng ta đi tới sự điên rồ của tình yêu, đó là sự khôn ngoan duy nhất để chúng ta biết yêu như Chúa Giê-su đã yêu. Amen.
Nữ tu Maria Faustina Lý Thị Báu
----------------------------------
A. DẪN NHẬP
Tình yêu ! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú TN30-A120
Tình yêu ! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú của nó, hoặc hiểu tình yêu một cách lệch lạc hoặc hiểu một cách phiến diện. Do đó, nhiều khi người ta đã làm mất ý nghĩa cao qúi của tình yêu, đồng hóa tình yêu với tình dục. Người ta chỉ biết dùng tình yêu để tìm đến những thú vui hạ đẳng mà không biết nâng cao tâm hồn lên.
Tình yêu mà phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hòan hảo, tinh tuyền, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là Bác ái công giáo (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng ? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ là một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Người đời chê những người chỉ biết yêu trên lỗ miệng mà không bao giờ đem ra thực hành bằng những việc làm cụ thể và coi đó chỉ là tình yêu giả dối:
Thương miệng thương môi
Thương miếng xôi miếng thịt.
Theo Đức Cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối với tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị: “Ama et fac quod vis”(Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xh 22,21-27
So sánh Cựu ước và Tân ước, ta thấy Cựu ước còn thô sơ, Tân ước mới hoàn chỉnh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Chính vì vậy mà Cựu ước có nhiều điều luật dạy người Do thái phải yêu thương đồng bào mình. Nhưng tình yêu này có tính cách cục bộ.
Bài đọc 1 này trích từ sách Xuất hành nói rõ về đức bác ái và công bình đối với người Do thái với nhau, nhất là đối với những người yếu và kém may mắn nhất: người góa bụa, mồ côi và nghèo khó.
Điểm đặc biệt trong bài đọc hôm nay nói đến tình yêu đối với những người ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Họ là những người đáng thương thiếu sự nâng đỡ và bảo đảm. Chúa đứng ra bênh vực cho họ. Nếu họ là nạn nhân của bất công , họ cứ kêu Chúa và Chúa sẽ đến giúp họ, trừng trị những kẻ nào cư xử xấu đối với họ.
+ Bài đọc 2: 1Tx 1,5c-10
Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô tỏ ra hết sức vui mừng và khen ngợi giáo đoàn vì họ đã mau mắn đón nhận Tin mừng Ngài rao giảng, và đã cố gắng sống Tin mừng ấy trong những hoàn cảnh thật khó khăn.
Thật vậy, dân Thessalonica đã trở nên gương mẫu cho thế giới Hy lạp: đức tin của họ sống động và sáng chói, đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
+ Bài Tin mừng: Mt 22,34-30
Trong bài Tin mừng tuần lễ trước, nhóm biệt phái và Hêrôđê đã thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho vua César. Họ chưa chịu thua, lần này họ cử một tiến sĩ luật để tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề: điều răn nào trọng nhất trong sách Luật.Câu hỏi này không phải là dễ trả lời. Trong sách Luật Do thái có 613 điều luật, thật là một rừng luật vì còn nhiều điều luật phụ nữa. Mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Nếu Chúa Giêsu chọn một điều luật nào đó thì sẽ làm phật lòng các nhóm khác.
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời rất xuất sắc làm cho vị tiến sĩ luật không hỏi gì thêm nữa. Câu trả lời này vừa mới mẻ, lại vừa rộng rãi:
– Một là mến Chúa và yêu người rút ra từ các điều luật trong các sách Luật.
– Hai là liên kết hai luật ấy: điều luật đã mến Chúa thì phải yêu người, yêu người là yêu Chúa.
– Ba là có thể tóm gọn hai luật ấy bằng một luật duy nhất là luật yêu thương.
Như vậy, Yêu thương hay Bác ái là cốt lõi của mọi điều luật và nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm thì đó là yêu mến.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Mến Chúa yêu người
I. BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?
Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật. Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm. Các điều đó chia làm trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Chúa Giêsu còn thêm: “Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Luật này trích ở sách Lêvi 19,18. Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa Giêsu, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao qúi và vô cùng hấp dẫn.
Tất cả mọi điểm khác trong luật hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.
Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18). Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40 ; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43). “Như chính mình”: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.
II. NÓI VỄ CHỮ YÊU
1. Chưa có một định nghĩa thoả đáng
Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận. Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni”: yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Câu định nghĩa ấy còn rất trừu tượng.
Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi , khi ông nói:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Nó đến với ta một buổi chiều.
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Thi sĩ Hồ Dzếnh cũng chịu bó tay khi ông nói:
Yêu là khó nói cho xuôi,
Bởi ai hiểu được sao trời lại xanh.
Theo thánh Phaolô tông đồ thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Thánh Gioan tông đồ thì nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình . Đại khái:
* Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu).
* Yêu là đau khổ.
* Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24 ; Mc 10,52).
* Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11).
* Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
* Yêu là quên mình.
Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tinh chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức Mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).
Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói: “Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,1-13).
2. Yêu trong thực hành
Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne: “Yêu mến Chúa là gì ? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”.
Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU
1. Tình yêu và hy sinh
Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.
Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết trong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến, quên mình…
Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế (cf Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu, tr 62).
2. Thánh giá là biểu tượng tình yêu
Theo Phúc âm chữ “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá. Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu ? Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được.
Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307).
3. Tình yêu trong phục vụ
Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết: thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em. Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tour chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25,36).
Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.
Truyện: Chị nữ tu phục vụ
Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến… Rồi người lạ đến gặp tôi nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư: “Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con” (Ga 15,34). Và Ngài đã yêu mến chúng ta đến mức chịu chết vì chúng ta. Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7): khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công.
Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại ; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
Thánh Augustino khuyên: “Ama et fac quod vis”: yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng,
Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con.
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình TN30-A121
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: “Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn…. Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.”
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái – Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối… chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao? “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê TN30-A122
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen.
-------------------------------
Chi Tiết Hay
Luật Do-thái có tất cả 613 điều răn. Tất cả đều phải tuân giữ, nhưng các thầy rabi thường tranh luận TN30-A123
Luật Do-thái có tất cả 613 điều răn. Tất cả đều phải tuân giữ, nhưng các thầy rabi thường tranh luận với nhau đến bất tận về tầm mức quan trọng của mỗi luật để chia ra thành điều răn “lớn” và điều răn “nhỏ”.
Hai điều răn Đức Giêsu trích dẫn là từ sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18. Có thể suy ra là Ngài là người đầu tiên liên kết hai điều răn này với nhau. Ngài đặt kính yêu Thiên Chúa trước tiên, và sau đó là thương người; chúng ta chỉ có thể thương người khi chúng ta kính yêu Thiên Chúa. Ngài nhắc nhở rằng các điều răn Thiên Chúa truyền ban là để cho con người kết hợp với Thiên Chúa.
Đệ Nhị Luật 6,5 là điều răn căn bản và chính yếu của Do-thái giáo. Cho tới bây giờ, điều răn này được dùng để mở đầu mỗi buổi lễ của người Do thái, và đây cũng là luật đầu tiên các trẻ em Do thái phải nhớ. Lòng kính yêu Thiên Chúa phải là hoàn toàn, bao gồm mọi suy xét, cảm kích, và là nguyên động cho cuộc sống.
Theo văn hóa của người vùng Địa trung hải, yêu thương là hoàn toàn quyến luyến với nhau.
Một Điểm Chính
Điều răn trọng nhất là phận sự đối với Thiên Chúa và nhân loại: kính yêu Thiên Chúa, và rồi thương người là tạo vật Thiên Chúa đã dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Suy Niệm
Trưóc khi thương ngưòi chúng ta phải kính yêu Thiên Chúa. Từ muôn đời Thiên Chúa đã thương yêu con người, và Ngài ao ước chúng ta đáp lại. Nhìn lại những kinh nghiệm sống của chúng ta, khi chúng ta mở lòng cho tình yêu Thiên Chúa phát triển, thì tình yêu ấy giúp chúng ta thế nào để thương người chung quanh, kể cả những người chúng ta không mấy ưa thích? Kính yêu Thiên Chúa là điều chính yếu cho đời sống nội tâm? Thương người có phải là tác động cần thiết để đo lường sự trung thực của lòng kính yêu Thiên Chúa của chúng ta?
Kính yêu Thiên Chúa có dễ dàng hơn thương người không? Suy niệm lời giảng dạy: “Kính yêu Thiên Chúa trước tiên, rồi thương người”.
Suy niệm về lòng kính yêu Thiên Chúa của chúng ta. Phân tách lòng kính yêu Thiên Chúa bằng cách nhận định cách chúng ta thường đáp lại tình yêu của Thiên Chúa – theo ý ta hay theo ý Chúa?
Đức Giêsu dạy chúng ta một cách để thương người: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Làm thế nào chúng ta có thể tìm thấy Chúa Giêsu trong các người chung quanh, kể cả những người chúng ta không ưa thích?
-------------------------------
Luật Do Thái có rất nhiều khoản, nhưng có nhiều khoản dạy phải yêu thương đồng bào mình, những TN30-A124
Luật Do Thái có rất nhiều khoản, nhưng có nhiều khoản dạy phải yêu thương đồng bào mình, những người góa bụa, nghèo khó và ngoại kiều(Xh.22,21-27). Trong Cựu Ước tuy nói tới tình yêu thương nhưng còn mang tính cách cục bộ, nghĩa là chỉ yêu những người đồng bào, đồng hương, chứ chưa đi xa hơn như trong Tân Ước ” yêu mọi người như chính mình”, đặc biệt Tin Mừng Chúa Nhật 30 năm A này, Chúa Giêsu đã đặt luật yêu người ngang hàng với luật yêu Chúa (x.Mt.22,34-40). Và dân thành Thessalonica đã sống Tin mừng ấy, họ trở thành gương mẫu cho nhiều người ở nơi khác noi theo, nên họ được thánh Phaolô khen ngợi (x. 1Thess. 1,5c-10).
Đối với người Do Thái thì giới răn trọng nhất là ” yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức”, đó là giới răn lớn nhất, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời cho người muốn thử kiến thức của Ngài biết rằng: ” giới răn hai giống như giới răn nhất là yêu tha nhân như chính mình”. Yêu như chính mình hiểu ngậm rằng yêu người thân cận như người ấy là mình, hay nói đúng hơn mình đồng hóa với người ấy, điều này diễn tả một sự hiệp thông bền chặt như trong một gia đình không phân biệt anh và tôi, một tình yêu không biên giới.
Chúng ta phải biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu tha nhân, yêu mình là làm cho lòng mình có những tình cảm cao thượng, bình an, chứ không phải yêu mình là chỉ nghĩ đến mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. Có như thế chúng ta mới yêu tha nhân vì họ và ta sẽ yêu Thiên Chúa vì Ngài. Cho nên khi không yêu tha nhân là không yêu mình là chối bỏ mình, mà đã chối bỏ mình thì cũng là chối bỏ Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã đặt con người vào đúng vị trí của nó là hình ảnh Thiên Chúa và là con Thiên Chúa. Đây đúng là điều răn quan trọng nên Chúa Giêsu đã dùng từ ngữ rất mạnh mẽ ” điều răn hai giống điều răn nhất”.
Là con người ai cũng thích yêu và được yêu, thích yêu nằm trong lãnh vực tự nhiên, Chúa Giê su muốn chúng ta phải vượt lên trên, không chỉ thích yêu hay yêu để thỏa mãn kiêu ngạo như làm một việc bác ái, nhưng Chúa muốn chúng ta yêu tha nhân vì chính họ, họ là con người như chúng ta nên chúng ta yêu, yêu vô vị lợi, yêu như Chúa yêu, Ngài yêu và phục vụ tha nhân mà Ngài hoàn tất công trình cứu chuộc, nhưng tình yêu ấy không tách rời khỏi tình yêu Thiên Chúa, vì đó là ý của Thiên Chúa Cha (x. Mt. 20,28). Chúng ta cũng thấy rõ điều này trong thư thánh Gioan “nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối…”(1Gn.4,20).
Yêu mà không phải vì người thì chưa phải là yêu thực, yêu mà còn vì mình thì chỉ là lòng ích kỷ trá hình mà thôi. Cho nên tình yêu nhất thiết phải quên mình, chết cho người mình yêu tức là quên mình, bỏ mình, đó là tình yêu đúng nghĩa nhất. Quả là một đòi hỏi vô cùng khó khăn, nhưng đó là con đường cứu độ.
Có như thế chúng ta mới nhận ra sự bất lực của mình trong tương quan tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Từ đó con người phải cậy dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mới có thể vuông tròn hai giới răn này. Đúng hơn chúng ta phải để cho Thần Khí của Thiên Chúa thực hiện hai giới răn này qua mình, nơi mình.
Lạy Chúa xin cho các Kitô hữu, đặc biệt những người giầu có luôn ý thức trách nhiệm phải yêu thương đồng loại như chính mình, để họ sẵn sàng chia sẻ của cải cho người nghèo khổ đang bị thiên tai bão lụt, nghèo đói, hầu xã hội bớt đi cảnh túng thiếu, đau thương đang diễn ra trên thế giới.
-------------------------------
Trong một bài luận văn về bệnh cô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học TN30-A125
Trong một bài luận văn về bệnh cô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.
Chỉ lạ một điều: Ðó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Ðó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.
Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?”
Đây là vấn nạn của thời đại hôm nay. Nhiều lần ta thấy trên mạng xã hội lan truyền những clip về sự vô cảm của con người. Có những người bị tai nạn nằm bất động trên vỉa hè nhưng hàng chục người đi qua, thậm chí dừng lại mà không ai giúp đỡ, … Rất nhiều vụ đánh ghen trên đường phố một cách giã man làm kẹt đường phố nhưng không ai can ngăn . . . Rất nhiều những người già, người khuyết tật lê thê trên đường phố bán vé số hay rau quả nhưng không có cơ quan nào đưa về nuôi họ mà dường như họ phải tự lực cánh sinh . . .!
Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu vắng tình thương”. Vàdường như xã hội chúng ta sống đang thiếu đi hơi ấm tình thương mà thay vào đó là cả một bầu không khí lạnh bao trùm xã hội.
Tình người được nuôi dưỡng, dạy dỗ từ rất sớm trong mỗi con người, vậy mà biểu hiện về sự vô cảm lại hiện hữu ngày càng nhiều hơn…
Hôm nay Chúa bảo với chúng ta giới răn quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Phải chăng đây là lúc chúng ta phải làm sống lại tin mừng cho thế giới đang chết về tình người? Phải chăng xã hội hôm nay đang rất cần những men tin mừng để làm dậy lên nếp sống yêu thương, chia sẻ, bác ái, cảm thông với nhau?
Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”.
Ước gì giữa một thế giới đang lạnh giá về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
-------------------------------
Vô Hạ
Tình yêu đúng nghĩa, mọi mặt nói chung, như viên ngọc quí, đã được coi trọng như chân lý muôn TN30-A126
Tình yêu đúng nghĩa, mọi mặt nói chung, như viên ngọc quí, đã được coi trọng như chân lý muôn đời cho sự sinh tồn của nhân loại, trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Xưa kia tình yêu được diển tả qua dấu chỉ, ngôn ngữ, rồi qua ca dao, tục ngữ, được viết thành văn, thành sách, thành phim, hàng vạn cách thế với lời ca tiếng nhạc muôn màu muôn vẻ… Đó là món quà quí giá nhất mà Trời ban cho loài người.
Riêng Lịch Phụng Vụ Công Giáo Chúa Nhật Thường Niên 30 A, ngày 25/10/2020 nầy, chọn đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu 22: 34 – 40 được Chúa Giêsu là bậc Thầy cao cả xếp loại và tóm gọn trọn bộ giáo lý Đạo Thánh của Người. Từ lúc tạo thiên lập địa trong Cựu Ước qua suốt thời Tân Ước, một cách gọn nhẹ, chỉ gói lại trong bốn chữ “mến Chúa yêu người”.
Xin đọc ba bài lời Chúa bên dưới và cũng xin Chúa soi sáng thêm để hiểu cốt lõi của Đạo Chúa, là Đạo của Tình Yêu.
BÀI ĐỌC I. Trích sách Xuất Hành 22: 21-27
Đây Chúa phán: “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi. “Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Đấng thương xót”.
BÀI ĐỌC II: Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.1 Tx 1, 5c-10
Anh em thân mến, khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Và anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân, với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia. Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, “Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại”, là Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.
PHÚC ÂM: Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.Mt 22, 34-40
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.
Vài ghi chú và tâm tình.
Sách Xuất Hành hay Xuất Ai Cập ghi lại biến cố vĩ đại, Chúa dùng cánh tay thần lực và uy dũng để đưa sắc dân Hyksos con cháu Abraham ra khỏi cảnh nô lệ tại Ai Cập và ký giao ước với dân tại núi Sinai.
Trong bài đọc I trên, Chúa phán với dân theo cung cách đầy uy quyền của vị Hoàng Đế vĩ đại mà lối nhân ảnh có thể diển tả. Trong bản Việt Ngữ, Chúa tự xưng “Ta” là chủ thể và đối tượng là “các ngươi” kèm theo cơn thịnh nộ và dùng gươm răn đe cho kẻ xấu phải run sợ, mà tránh điều ác. Vì hoàn cảnh và tâm lý lúc đó, Chúa phải dùng phương pháp giáo dục cứng rắn với dân như vậy. Nhưng Người là Đấng đầy lòng thương cảm.
Ở đây, Chúa còn dạy cho dân cách cụ thể đi vào chi tiết như biết tôn trọng và trợ giúp ngoại kiều, di dân vì chính mình đã là hạng người nầy khi còn trong xứ Ai Cập. Chúa cũng bảo vệ thêm những người dễ bị hiếp đáp và tổn thương nhất như cô nhi quả phụ. Qua các tiên tri Chúa cấm ngược đãi mẹ goá con côi (Amos 25:27). Chúa còn chỉ thị cho dân khi giúp người nghèo khó mượn tiền hay cầm cố, không kể lời tính lãi. Đây là những tiến bộ xã hội và nhân bản cao nhất trong yêu thương, được ghi lại trong Thánh Kinh, mà từ 3500 năm trước cho tới hôm nay, ít ai nghỉ tới và làm được.
Qua bài Phúc Âm. Nhóm đối nghịch Chúa Giêsu thua keo nầy lại gầy keo khác, nên gởi chuyên gia luật đến thử Chúa.
Luật Cựu Ước của đạo Do Thái có 365 điều cấm và 248 điều buộc. Cộng chung là 613 luật. Tất cả đều quan trọng như nhau trên vai của người khác, tùy theo ý diển giải của Thầy Thông Luật, đang khi chính Quí Thầy, đa số là giáo sĩ, thì ít khi mó tay vào (Mt. 23: 4).
Trong bài nầy, họ thử thách Chúa với câu hỏi: Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất trong lề luật? Chúa Giêsu liền dùng câu 5 đoạn 6 trong sách Đệ Nhị Luật để trả lời: Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi.
Điều răn nầy trọng nhất vì mời gọi Israel và cả dân Chúa thời Tân ước sau nầy, gắn bó cách cụ thể và tuyệt đối, đi vào thâm sâu của nội tâm. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng nâng điều răn thương người lên cùng tầm cỡ và gắn liền vào điều răn thứ nhất.
Tới đây xin ghi lại một chút lưu ý của Cố Linh Mục Giáo Sư Triết Học Đông Phương (1914-1997) để lại cho học sinh của Ngài về từ ngữ “neighbor” “người” trong tiếng Việt.
Ngài lý giải rằng thời nầy người ta thích theo khuynh hướng và cổ vũ mạnh mẽ cho việc dùng từ ngữ rất là kiêu sa, như quốc tế, thế giới, nhân loại, quốc gia, đại đồng, nhân dân, người người, làm chủ tập thể … Những nơi nào, như thời Quốc Xã Hitler, xài những từ ngữ trên nhiều chừng nào thì nơi đó nhà tù mọc lên nhiều hơn chừng ấy. Lý do, vì những từ ngữ trên quá bao la vĩ đại, không bờ bến, không là đích điểm cụ thể trước mắt để mình có thể ghé lại mà đối nhân xử thế cụ thể theo khả năng.
Vì không giúp được cho cả thế giới, nên khoanh tay không làm gì hết, trong khi người láng giềng bên cạnh là bến bờ Chúa muốn mình cần ghé lại trước khi đi xa hơn. Do đó mà những bản dịch Thánh Kinh Tây Phương dựa vào bản gốc hay văn hóa, mà dùng từ ngữ “neighbor”: người láng giềng, cận nhân, như Câu39 bên trên, The second most important commandment is like it: “Love your neighbor as you love yourself.” Yêu người lối xóm của bạn như chính bạn.
Chúa là bậc Thầy của phương pháp sư phạm căn bản, là dựa vào kinh nghiệm trong chính mình mà đi ra ngoài Không ai biết và hiểu cũng như yêu mình hơn chính mình. Từ đó, để loại suy ra phải yêu thương người khác làm sao.
Riêng 10 Điều Răn trong Sách Xuất Hành 20: 1-17, thì 3 điều cuối đều đề cập tới từ ngữ “người láng giềng”.
You shall not bear false witness against your neighbor. Ngươi sẽ không làm chứng dối chống đối láng giềng
9. You shall not covet your neighbor’s wife. Ngươi sẽ không ao ước/thèm muốn vợ người lối xóm.
10. You shall not covet your neighbor’s goods. Ngươi sẽ không ao ước/ thèm muốn/tham lam của cải của cận nhân.
Trong suốt chiều dài của Thánh kinh, riêng phầnTân Ước, Chúa Giêsu giảng dạy cho con người rất nhiều về tình yêu Chúa và yêu nhau.
Người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con thương yêu nhau (Gioan 15: 9-17). Ở đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời (Gn 4: 7-10)…
Trong thực hành năm A nầy, trước tiên thử đặt kế hoạch nhỏ thôi, là ráng ghé lại, giao tiếp với người lối xóm và sống hài hòa với họ theo lời răn dạy của tổ tiên, luôn đúng từ ngàn xưa cho đến ngàn sau: “bán bà con xa, mua láng giềng gần”. Khi tối lửa tắt đèn, rất cần có nhau, nhất là lối xóm, riêng trong những ngày u ám như bảo lụt miền Trung VN hiện nay, tháng 10/2020 nầy. Không vì một chút chuyện nhỏ như gà vịt heo chó của láng giềng bươi ủi liếp rau mà chiến đấu tới mức không đội trời chung, có khi thiệt hại lớn lao hơn cả ngàn liếp rau, như mất cả mạng sống hai bên.
Nhìn lại, tùy theo ngôn ngữ hay bản dịch, chử “tình yêu” trung bình có hơn 550 lần xuất hiện trong Thánh Kinh, để diển tả tình Chúa đổ xuống trên chúng con hơn biển hồ lai láng.
Không sai chút nào nếu quan sát tỉ mỉ một chút, thì thấy rằng muôn vật hữu hình và vô hình tại trái đất nầy, trong bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại và không để trở về nguồn Chân Hữu, đều xuất hiện, vận hành và biến dịch theo nguyên lý Tình Yêu. Đó là lẽ sống của người biết hay chịu lấy niềm tin, hi vọng và nhất là yêu mến làm chổ dựa tinh thần.
Trong bài đọc II. Thánh Phaolô khuyến khích bằng cách khen ngợi lòng yêu mến Chúa của tín hữu thành Tê-xa-lô-ni-ca từ bỏ tà thần, tiếp tục phụng thờ Thiên Chúa giữa những gian nan thử thách, đã trở nên tấm gương trung kiên cho những kẻ tin đạo Chúa trong vùng thời của Ngài.
Tấm gương nầy là đèn soi cho con dân Chúa khắp nơi muôn đời về sau nữa, riêng trong thời của con, lúc mà gian dối, hận thù tràn ngập khắp nơi.
Tóm lại. Tới nay mình vẫn thường nhớ, khi mẹ còn tại thế, lúc to nhỏ dạy dỗ đàn con, bà cũng hay lập lại câu Ê Vang trong lớp Sách Phần (giáo lý) mà bà đã học từ 1930 với những Thầy Nhà Giảng Ba Nam: bây hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ làm khốn bây (Mt. 5: 454) . Mình cũng hiểu lơ mơ Lời Chúa dạy rất chí lý nầy và cầu nguyện chung chung cho có lệ.
Nhưng trong một dịp may mắn đến Roma cuối mùa Hè 2017, quỳ bên mộ phần của Bậc Đáng Kính đỗng hương tại nhà thờ Santa Maria De Scalla, mình nhớ lại lời mẹ dạy cụ thể hơn, qua tấm gương điển hình yêu thương tha thứ của Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận (1928-2001).
Đó là trong thời gian 13 năm bị giam cầm, thời gian đầu ban giám thị trại cử mỗi tháng một người an ninh khác nhau canh giữ Ngài. Lý do: để người nầy không bị “mất hút hay chiêu hồi” do bị Ngài thuyết phục, nếu chỉ canh chừng Ngài 1 tháng. Nhưng một thời gian sau, không có thay đổi người an ninh nữa, mà chỉ dùng cùng một người lâu dài. Lý do: ban coi trại quyết định chỉ liều mất một người giám thị, thay vì phải mất nhiều hay tất cả, nếu để họ tiếp xúc với Ngài trong thời gian ngắn hoặc dài.
Kinh Cầu.
Chúa đã yêu thương chúng con và đã trở nên mẩu gương cho chúng con yêu thương nhau.
Xin cho con biết nương theo hương sắc và mỹ vị của Thánh Thần Chúa, đã thổi hơi linh hứng cho dân tộc chúng con, qua nhà Thi Sĩ Tâm Lý Chiến Nguyễn Trãi ( 1380 – 1442). Tiên Sinh đã dọn đường cho đạo Chúa tới VN, qua tác phẩm Gia Huấn Ca, Dạy Con Ở Cho Có Đức. Có nhiều điểm y như trong sách Xuất Hành trên, dù ông chưa từng có dịp đọc Thánh Kinh của Chúa.
Xin giúp con học tới đâu thì ráng thực hành ít nhiều tới đó.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
310. Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
315. Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây “cần kiệm” gọi là làm duyên …
----------------------------------
Mến Chúa, yêu người” là nét độc đáo nhất của Kitô giáo.Hai giới luật tạo thành một toàn thể bất TN30-A127
“Mến Chúa, yêu người” là nét độc đáo nhất của Kitô giáo.Hai giới luật tạo thành một toàn thể bất khả phân ly và là hai nguyên lý nền tảng của tất cả đạo đức học.Tin Mừng của Chúa Giêsu muốn loan truyền đến mọi người là tình yêu thương. Khi công bố giới luật yêu thương, Chúa Giêsu cũng nêu gương thực hiện giới luật ấy để chúng ta thấy sáng lên tình yêu cứu độ và gặp được những điểm nhấn mà bắt chước thực hành.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc trao đổi giữa những người Pharisêu và Chúa Giêsu về hai điều răn trong Cựu Ước như sau: Khi một người thông luật hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào trọng nhất?”, Chúa Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả lòng dạ của ngươi, với tất cả linh hồn của ngươi và với tất cả sức lực của ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu mến người thân cận của ngươi như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”.
Chúa Giêsu kết hợp hai điều răn trong Cựu Ước: (1) Điều răn yêu mến Thiên Chúa được lấy trong sách Đệ Nhị Luật 6,5: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi với tất cả lòng dạ của ngươi, với tất cả linh hồn của ngươi và với tất cả sức lực của ngươi”. (2) Điều răn yêu thương người thân cận được lấy trong sách Lêvi 19,18b. Đức Chúa phán: “Ngươi yêu thương người thân cận của ngươi như chính ngươi” (Lv 19,18). Hai giới răn này được biết đến rất nhiều; tuy nhiên, qua câu trả lời của Chúa Giêsu, ta thấy có một sự mới mẻ ở đây, đó là Chúa Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa trong kinh shema ở sách Đệ nhị luật với giới răn yêu thương người thân cận trong sách Lêvi.Cái độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giêsu chính là sự liên kết chặt chẽ hai giới luật này với nhau. Khi nói đến “giới răn thứ nhất và lớn nhất”, Người muốn nói rằng giới răn này là quan trọng nhất và tạo ý nghĩa cho tất cả các giới răn khác. Còn về giới thứ hai, nó “giống” với giới răn thứ nhất, nghĩa là cũng quan trọng như giới răn thứ nhất. Chúa Giêsu khẳng định “Tất cả luật Môsê và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy”. Lời khẳng định này có nghĩa là: “Tất cả các giới luật khác có thể được suy ra từ hai giới răn yêu thương, hay ngược lại, có thể quy về hai giới răn này; nói khác đi, ai thi hành các giới răn này thì ‘làm trọn’ Kinh Thánh và vì thế làm trọn ý Thiên Chúa”. Chỉ có những người yêu mến tha nhân mới thể hiện thật sự là người yêu mến Thiên Chúa. Việc đặt để giới răn yêu thương người thân cận ở mức ngang tầm với giới răn yêu mến Thiên Chúa quả là một điều vượt ngoài sức tưởng tượng của những người Do Thái lúc bấy giờ.
Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 22,36-40 // Mc 12,28-34 // Lc 10,25-28) nhắc lại hai điều răn “Mến Chúa yêu người” trong Cựu Ước, đây là hai điều răn quan trọng nhất. Tân Ước cũng áp dụng hai điều răn này cho các môn đệ: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận. Nhưng câu hỏi đặt ra là người thân cận là ai? Trong Cựu Ước, “người thân cận” chỉ giới hạn trong dân Israel. “Người thân cận” là đồng bào Israel, những người thuộc dân Chúa. Người ngoại bang không phải là người thân cận của dân Israel. Vậy Tân Ước áp dụng điều răn “yêu thương người thân cận” như thế nào?
Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện liên quan đến điều răn yêu thương ở Lc 10,25-28. Nhưng vấn đề hóc búa đặt ra: “Ai là người thân cận của tôi?” Đây là câu hỏi rất hay mà các môn đệ Chúa Giêsu cần biết. Sau khi người thông luật nhắc lại điều răn “yêu thương người thân cận như chính mình”, ông đã hỏi Chúa Giêsu: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Câu hỏi khó trả lời đối với Kitô hữu, vì khi chỉ ra ai là người thân cận, cũng có nghĩa là có người không phải là người thân cận của tôi. Khi truyền thống Cựu Ước định nghĩa người thân cận là dân Israel thì đương nhiên tất cả những người không thuộc về dân Israel bị loại trừ. Dân ngoại không phải là người thân cận của dân Israel. Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng cách kể dụ ngôn người Samari nhân hậu (Lc 10,30-35). Sau đó Chúa Giêsu hỏi người thông luật: “Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10,36) Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (10,37a). Chúa Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi và hãy làm như thế” (Lc 10,37b). Lời của Chúa Giêsu đảo ngược câu hỏi của người thông luật lúc đầu. Thay vì Chúa Giêsu trả lời câu hỏi “ai là người thân cận của tôi?” thì Người nói: Hãy làm cho mình trở thành người thân cận của người khác như người Samari nhân hậu đã làm. Chi tiết người Samari không thuộc dân Do Thái, cho thấy Chúa Giêsu đã mở rộng khái niệm “người thân cận” để áp dụng cho các môn đệ của Người. Từ nay người thân cận không chỉ giới hạn trong dân Israel là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, mà bất kỳ ai cũng có thể là người thân cận của tôi. Thay vì đặt câu hỏi “ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu mời gọi đặt câu hỏi: “Tôi là người thân cận của ai?”, nghĩa là tôi đã làm gì để trở thành người thân cận của người khác?
Như thế, trong Tân Ước, người thân cận là tất cả mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc. Tân Ước đã áp dụng hai điều răn trong Cựu Ước và mở rộng nghĩa của từ “người thân cận” đến tất cả mọi người. Để tránh rơi vào tình trạng phân biệt ai là người thân cận, ai là kẻ đối nghịch, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ: Hãy làm cho mình trở thành người thân cận của mọi người, nhất là hãy là người thân cận của những người đang gặp hoạn nạn, như nạn nhân trong dụ ngôn người Samari nhân hậu (x. Lc 10,30-35).
Truyền thống Kitô giáo đã mở rộng nghĩa của từ “người thân cận”, khi nói “yêu thương người thân cận” là nói đến tình yêu giữa các môn đệ Đức Giêsu với nhau và tình yêu giữa các môn đệ với tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc. “Người thân cận” theo nghĩa rộng là tất cả mọi người. Như thế, “yêu thương người thân cận” trong Ki-tô Giáo có chiều kích phổ quát, không loại trừ ai (x. Mt 5,34; 19,19; 22,39; Mc 12,31; 12,33; Lc 10,27; Rm 13,9; Gl 5,14; Jc 2,8)…
“Yêu mến Thiên Chúa”, “yêu mến tha nhân” và “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”: tất cả đây là lý tưởng sống đạo của người tín hữu.
Có thể nói đến ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh.
Yêu mến Đức Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình trong Cựu Ước (Đnl 6,5; Lv 19,18).
Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình trong Tân Ước. Trong đó, khái niệm “người thân cận” được mở rộng đến tất cả mọi người, không loại trừ bất kỳ ai.
“Yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương” (điều răn mới) là điều răn của Đức Giêsu và chỉ dành cho các môn đệ. Đây không phải là tình yêu khép kín, mà là yêu thương để mọi người nhận ra môn đệ Đức Giêsu (x. Ga 13,35). (x.Ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh, Giuse Lê Minh Thông, OP).
Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới chan hòa yêu thương, chan chứa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
“Mến Chúa, yêu người” là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng này; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn này thì được xem là đã giữ trọn tất cả các điều răn khác như lời Thánh Phaolô: “Thật thế, các điều răn như: ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 9-10).
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân làm nên một giới luật duy nhất là tình yêu. ĐGH Bênêđictô XVI mời gọi chúng ta hãy noi gương mẹ Têrêxa Calcutta, luôn canh tân khả năng yêu thương tha nhân của mình từ việc gặp gỡ Chúa Giêsu Thánh Thể.(x.Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 18).Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu dạy: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta”.
Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy“.
Lạy Chúa, hằng ngày chúng con đọc kinh Tin Cậy Mến, và thân thưa với Chúa rằng“chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong cuộc sống chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa giúp chúng con cố gắng thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
----------------------------------
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
[…] ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1 (Xh 22,20-26)
Kinh Thánh luôn nhấn mạnh đến tình yêu đối với người thân cận, đặc biệt đối với những con người TN30-A128
Kinh Thánh luôn nhấn mạnh đến tình yêu đối với người thân cận, đặc biệt đối với những con người cùng khổ. Bài đọc Cựu ước trích sách Xuất hành thể hiện sự quan tâm rất lớn đối với đồng loại, để làm sao con người luôn có mối tương quan hài hòa và quảng đại với nhau, như là một dân được tuyển chọn. Đoạn sách bắt đầu với một chuỗi lệnh cấm ngược đãi đối với một số người được cho là những người yếu thế và bất hạnh, như ngoại kiều, mẹ góa, con côi, bởi Đức Chúa luôn bảo vệ họ, và tiếng kêu cứu từ những con người bất hạnh này sẽ chắc chắn được Thiên Chúa lắng nghe và trợ giúp. Ngay cả trong những lúc túng thiếu, bần cùng, thì Thiên Chúa vẫn xem họ như là dân Người, và vì thế họ phải được cư xử cách rộng lượng và quảng đại.
2. Bài đọc 2 (1Tx 1,5c-10)
Trong bài đọc II, chúng ta thấy thánh Phaolô đã thực thi hai giới răn yêu thương của Chúa như thế nào. Trong thư gởi cho các tín hữu Thêxalônica, là những người vừa mới tin theo đạo, thánh nhân đã bày tỏ tình yêu thâm sâu của mình với Thiên Chúa. Trong chỉ một đoạn ngắn, thánh nhân đã nhiều lần quy về Thiên Chúa: “Còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa […] Lời Chúa đã vang ra […] đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa […] anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật”. Đàng khác, thánh nhân cũng bày tỏ tình yêu của mình đối với các tín hữu Thêxalônica. Dù ngài công nhận họ chỉ mới ít lâu, nhưng họ thật sự đã hiện diện thật sâu đậm trong lòng ngài, và ngài ca ngợi họ “đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia.” Về phần các tín hữu Thêxalônica, họ cũng đã chứng tỏ là những con người đại lượng, vì họ đã “đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban cho”.
3. Bài Tin Mừng (Mt 22,34-40)
Bài Tin Mừng hôm nay của thánh Mátthêu đã chỉ ra hai chiều kích căn bản như hai bản lề cho đời sống con người. Đối với thánh Matthêu, hai bản lề đó, một cái cao hơn, đó là yêu mến Thiên Chúa, một cái thấp hơn, là yêu mến người thân cận, nhưng cả hai đều quan trọng như nhau để mở cánh cửa. Thực tế cho thấy cánh cửa sẽ không thể mở được chỉ với một bản lề, vì thế cần ít nhất hai cái. Chúng ta gọi hai giới răn này là hai bản lề vì Đức Giêsu đã nói: “Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,40).
Hai giới răn này được biết đến rất nhiều; tuy nhiên, qua câu trả lời của Chúa Giêsu, ta thấy có một sự mới mẻ ở đây, đó là Chúa Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa trong kinh Shema ở sách Đệ nhị luật (x. Dt 6, 5) với giới răn yêu thương người thân cận trong sách Lêvi (x. Lv 19,18).
Người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu điều răn nào lớn nhất; trong phần trả lời của mình, Chúa Giêsu công bố hai điều răn dù vẫn không bác bỏ sự tối thượng của Thiên Chúa, và Người còn đưa ra một điều răn khác như là phản chiếu của điều răn thứ nhất và không thể thực hiện nếu không có điều răn thứ nhất, đó là yêu mến tha nhân. Chỉ có những người yêu mến tha nhân mới thể hiện thật sự là người yêu mến Thiên Chúa. Việc đặt để giới răn yêu thương người thân cận ở mức ngang tầm với giới răn yêu mến Thiên Chúa quả là một điều vượt ngoài sức tưởng tượng của những người Do Thái lúc bấy giờ.
Một vấn đề cần chú ý là trong phần trả lời của mình, Chúa Giêsu không chọn Mười Điều Răn, là những giới răn rất quan trọng được chính Thiên Chúa ban cho Môsê và dân Người, chẳng hạn như điều răn thứ nhất: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20,3). Quả thật, Người đã không muốn đưa ra cho chúng ta những giới răn phủ định, tiêu cực và giới hạn, nhưng muốn cho chúng ta những giới răn rất tích cực, năng động và phổ quát, đó là giới răn yêu thương. Việc tuân giữ Mười Điều Răn đã là một điều rất tốt, nhưng chưa đủ để đưa con người tiến xa hơn trong cuộc sống. Chỉ bằng tình yêu: yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân, mới giúp chúng ta đạt tới điều này.
Hai điều răn này không tách rời nhau, cũng không được tước bỏ sự trổi vượt của điều răn thứ nhất là yêu mến thiên Chúa: một khi đổ vỡ điều này, không ai có thể bền vững trong tình yêu đối với tha nhân.
“Yêu mến tha nhân như chính mình”. Ai trong chúng ta có thể nói được rằng chúng ta có thể yêu ai đó hơn cả chính mình? Tận thâm sâu, chúng ta luôn có xu hướng về một tình yêu bản thân mình, và thực tế tất cả những gì chúng ta làm cho người khác đều rất ít so với những gì chúng ta làm cho chính chúng ta. Bên cạnh đó, giới răn thứ hai cũng được Chúa Giêsu mở rộng ra với một viễn cảnh khác: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,12-13). Điều này có nghĩa là chúng ta phải yêu anh em hơn chính mình, vì chính Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, đến độ hiến dâng cả mạng sống của Người cho chúng ta.
Ý tưởng Chúa Giêsu đưa ra thật là tuyệt vời, và nó tương ứng với khát vọng thâm sâu của trái tim con người. Thật sự, con người được dựng nên để yêu thương. Chính Thiên Chúa là tình yêu, và Người dựng nên chúng ta để thông dự vào tình yêu của Người, để được Người yêu mến và để mến yêu Người.
Nhưng để đạt tới điều này, chúng ta cần phải có ân sủng của Người; chúng ta cần nhận lãnh nơi chúng ta khả năng biết yêu thương của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta nhận lãnh chính Mình và Máu Người, nghĩa là chúng ta nhận lấy Chúa Giêsu trong giây phút của một tình yêu lớn lao kỳ diệu, khi Người dâng chính bản thân cho Thiên Chúa Cha để cứu rỗi chúng ta.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Ngay từ đầu, qua Lời Chúa phán trong sách Xuất hành, Thiên Chúa đã tỏ ra luôn quan tâm đến những con người với những thân phận hèn yếu và cơ cực. Chính lời kêu xin của họ luôn được Thiên Chúa lắng nghe và bênh đỡ. Sự bảo đảm này của Thiên Chúa có giúp tôi sống trọn vẹn niềm tin của mình, luôn tín thác vào tình yêu của Người, nhất là trong những lúc tôi cảm thấy đời mình như bế tắc và đầy bất công? Và một khi cảm nghiệm điều đó, tôi có chia sẻ tâm tình này với những người đang trong cảnh cơ cực như tôi không?
2. Lời khen ngợi của Thánh Phaolô với các tín hữu Thêxalônica như là một sự diễn tả tình yêu và nhiệt huyết tông đồ của ngài. Việc nhìn nhận và ngợi khen những thành quả của người khác đạt được luôn là một sự khích lệ động viên làm triển nở những hành xử tốt đẹp. Trong cuộc sống thường ngày của mình, tôi có thành thật nhìn nhận những điều tốt đẹp nơi anh chị em tôi để tất cả cùng thăng tiến trong tình yêu với Thiên Chúa và với nhau không?
3. “Yêu mến Thiên Chúa”, “yêu mến tha nhân” và “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”: tất cả đây có phải lý tưởng sống đạo của tôi? Chiều kích nào được xem là khó nhất đối với tôi và làm sao tôi có thể vượt thắng được?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Giới răn mến Chúa yêu người là trọng tâm giáo huấn của Đức Kitô và là nền tảng của đời sống kitô hữu. Với khao khát nên hoàn thiện và quyết tâm thực thi điều Chúa dạy, cộng đoàn chúng ta cùng thành tâm dâng lời nguyện xin.
1. Cầu cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các thành phần trong Hội Thánh luôn tích cực trở nên dấu chỉ tình thương và sự hiện diện của Thiên Chúa giữa thế giới hôm nay, hầu giúp cho nhiều người đón nhận niềm vui Tin Mừng, cùng tin nhận một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
2. Cầu cho sự phát triển và bình an của thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trên thế giới, cách riêng tại những vùng đang có chiến sự, biết vượt qua những khác biệt về sắc tộc, văn hóa, hay tôn giáo, để luôn sống tinh thần tương thân tương ái, cùng nhau xây dựng một thế giới văn minh và hòa bình.
3. Cầu cho những người đang đau khổ và bất hạnh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nạn nhân của dịch bệnh hay thiên tai tìm được sự cảm thông, chia sẻ và đồng hành của nhiều tấm lòng quảng đại, để có thêm can đảm vượt qua mọi khó khăn thử thách, và luôn tràn trề hy vọng lạc quan trong cuộc sống.
4. Cầu cho tất cả mọi người trong cộng đoàn. Xin cho giới răn “mến Chúa yêu người” luôn khắc ghi trong tâm hồn và thấm nhập vào cuộc sống của mỗi người chúng ta, giúp chúng ta biết dành ưu tiên cho những sinh hoạt đạo đức, nhưng cũng luôn tích cực dấn thân trong các hoạt động bác ái tông đồ.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu và chân lý, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban ơn trợ giúp, để chúng con luôn hết lòng phụng sự Chúa và yêu thương tha nhân như Đức Giêsu Kitô, Con Chúa truyền dạy. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
----------------------------------
Kính thưa anh chị em!
Kính mến Chúa, yêu thương người” giới răn này dễ hay là khó. Nói thì thật là dễ, nghe thì thật TN30-A129
“Kính mến Chúa, yêu thương người” giới răn này dễ hay là khó. Nói thì thật là dễ, nghe thì thật là hay và rất lãng mạn, có thể ai cũng muốn thực hiện và chinh phục; nhưng tại sao lại quá khó để thực thi được điều này? “Mến Chúa-yêu người” tuy là hai nhưng chỉ là một giới răn, giới răn của yêu thương. “Mến Chúa-yêu người” phải là kinh nghiệm sống từ lòng mến của ân sủng đến lòng mến sẻ chia, trao ban hồng ân, chứ không còn phải là giới răn-lề luật khó, không còn là một khái niệm, định lý hay châm ngôn sống nữa.
Tin mừng hôm nay, khi một người thông luật đến để hỏi thử Chúa: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Là người thông luật Do Thái, ông ta chắc chắn biết, nhớ rõ và học thuộc về các lề luật, nhưng tại sao ông muốn hỏi thử Chúa? Phải chăng có quá nhiều thứ lề luật, nên ông ta không phân định được đâu là trọng và nhẹ? Cũng có thể vì giới răn “Mến Chúa-yêu người” quá trừu tượng chăng, vậy nên các luật sĩ và những người Do Thái thông luật cũng không thể phân biệt cái nào trọng nhất. Nhưng tại sao với Chúa Giêsu “Mến Chúa-yêu người” lại là giới răn quan trọng nhất? “Tất cả các lề luật và Tiên tri đều tóm gọn trong giới răn này”.
Trong những ngày qua mưa bão, lũ lụt xảy ra liên tiếp ở Miền Trung Việt Nam, không ai trong chúng ta mà không khỏi đau lòng khi chứng kiến những hoàn cảnh rất thương tâm của những ACE bà con đồng bào ruột thịt của chúng ta đang phải gánh chịu. Những nỗi đau khổ khi mất người thân yêu, mất nhà cửa, tài sản, ruộng vườn…mưa to và nước lũ lớn đã cuốn trôi, mang đi tất cả. Trong những lúc tang thương, đau khổ như vậy, đã có rất nhiều người hy sinh, quảng đại xả thân đến sẻ chia, giúp đỡ, vừa tinh thần và vật chất. Những người đầy lòng hảo tâm đi thiện nguyện này, khi được hỏi về lý do và động lực nào mà giúp họ có thể làm những việc quá tốt lành vậy. Câu trả lời rất đơn giản, chỉ vì họ đã đón nhận được nhiều điều tốt lành và thuận lợi trong cuộc sống, nên họ muốn chia sẻ như lời tri ân. Tất cả vì muốn chia sẻ tình yêu thương với ACE, vì quá xúc động trước những hoàn cảnh khổ đau, những việc thiện nguyện hy sinh chia sẻ, cảm thông như vậy được thực hiện. Điều đáng trân quý là, có những người trong số đó, khi làm việc thiện nguyện, họ không phải là người Kitô hữu; có thể họ không hay chưa biết về giới răn quan trọng nhất là “Mến Chúa-yêu người”, nhưng công việc bác ái-yêu thương đã được trao ban, sẻ chia chỉ vì từ tấm lòng đến tấm lòng.
Bài đọc một trong sách Xuất hành, Thiên Chúa cũng đã chỉ dạy dân chúng hãy yêu thương, quan tâm sẻ chia với những người nghèo khổ, những khách ngoại kiều, kẻ cô nhi, người góa bụa. Vì rằng nơi những con người đáng thương, đang bị lãng quên và bị loại ra bên lề xã hội này. Họ cũng chính là người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên giống với hình ảnh của Ngài. Tiếng kêu cứu than van của họ đã chạm đến lòng từ bi-nhân lành của Thiên Chúa. Do đó, việc yêu thương giúp đỡ những con người phận nhỏ này cũng phải là căn tính của con cái Chúa, điều mà Chúa đã đặt để trong chính lòng dạ của mỗi con người chúng ta. Thật là không đúng, nếu chúng ta không quảng đại giúp đỡ ACE mình, mà còn tệ bạc hơn nếu chúng ta vì tư lợi mà áp bức, bóc lột hay trục lợi vì những hoàn cảnh đáng thương này của ACE.
Còn với chúng ta, những người mang danh là Kitô hữu, là con cái Chúa, chúng ta đã có thái độ, phản ứng hay những hành động gì trước những hoàn cảnh rất thương tâm của AEC chúng ta. Có thể ai trong chúng ta cũng muốn giúp đỡ, sẻ chia; nhưng cũng có thể chúng ta không biết phải giúp thế nào; cũng có thể, chúng ta đang bất lực, tuyệt vọng chẳng làm được gì cho người khác. Chúa dạy chúng ta “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi và hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” Thật là khó để cho chúng ta có thể sống thực hiện và chu toàn giới răn quan trọng nhất này. Khó thật với sức của con người, nhưng không phải là không có thể được. Để có thể thực hiện, điều duy nhất mà chúng ta cần có, đó chính là lòng tin và luôn ý thức rằng, tất cả những gì mà chúng ta đã và đang có được là do bởi tình thương của Chúa dành cho chúng ta với những ơn ban của Ngài. Thật vậy, chỉ khi nào chúng ta tin và nhận ra được bằng chính con tim cảm mến của chúng ta, thì khi đó, hành động tôn kính Chúa và yêu thương quảng đại với ACE mà chúng ta thể hiện là sự đáp trả ân tình, là nghĩa cử của lòng mến, chứ không còn là giới răn hay lề luật. Vì “Yêu thương là chu toàn cả lề luật.”
Qua tràng chuỗi Mân Côi, nguyện xin Mẹ Maria cầu cùng Chúa giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn và xin ban ơn tình yêu Chúa cho chúng con, để trong mọi sự chúng con luôn tôn vinh Chúa, đem lại ơn ích cho tha nhân. Amen.
----------------------------------
Đôi cánh để bay lên
(Suy niệm Tin mừng Mat-thêu (22, 34 – 40) trích đọc vào Chúa nhật 30 năm A)
Máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một TN30-A130
Máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào cất cánh được.
Các loài chim cũng thế. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.
Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh.
Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22,37-39).
Và qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).
Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.
Ảo tưởng
Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: Chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.
Sống đạo như vậy thì chưa đủ, chưa đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.
Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô 16 nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: Vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.
Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.[1]”
Tóm lại, nếu chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì phải trang bị cho mình 2 cánh sau đây:
- Một là yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự;
- Hai là bày tỏ lòng yêu thương người khác bằng việc chăm sóc, phục vụ mọi người.
Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng chẳng quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.
Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.
Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ “bay” lên tới thiên đàng.
Lạy Chúa Giê-su,
Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.
Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
-----------------
[1] Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô
----------------------------------
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người TN30-A131
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là nền tảng của đạo Ki-tô”.
Xh 22: 20-26
Bài Đọc I trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
1Th 1: 5-10
Bài Đọc II tiếp tục trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh nhân khích lệ tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Mt 22: 34-40
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.
BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)
Bản văn nầy được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an (Đất Hứa). Vì thế, bộ luật này có thể được ấn định niên biểu vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là bộ luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh hư cấu văn chương: “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en” để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn tiếp nối tinh thần Luật Mô-sê và chỉ khai triển Luật Mô-sê.
Về phương diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu ngươi làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.
Về phương diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra bảo đảm luật, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.
1. “Người ngoại kiều”.
Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu ra là tính lịch sử: “Vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông thời xưa không bao giờ nêu ra nguyên do của các luật được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.
2. “Mẹ góa con côi”.
Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngõ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.
Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa, Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi: “Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu”. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành mẹ góa con côi.
3.Cho vay nợ.
Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.
Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm không được cho anh chị em đồng bào của mình vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em đồng bào mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).
Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em đồng bào nầy. Phải ghi nhận rằng luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” mở rộng đến hết mọi người, bởi vì “Tứ hải giai huynh đệ”.
Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị: người nghèo cần áo choàng làm chăn đắp ban đêm, vì thế “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bảo đảm luật yêu thương tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại.
BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
1.Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.
Thánh nhân nói đến cách sống của mình cùng với những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh Phao-lô sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà thánh nhân dành cho họ. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca là “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.
Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà thánh nhân vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Ki-tô” (1Cr 11: 1) và cho các tín hữu Phi-líp-phê nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).
2.Tấm gương của các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải trải qua biết bao gian truân, vẫn cảm thấy niềm vui vì họ thấy thành quả Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng cho mọi người: “Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”
3.Lương dân đón nhận đức tin.
Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì lương dân mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.
Ở đây, thánh nhân tóm gọn những điều cốt yếu trong lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng của thánh nhân theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công Vụ.
TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)
Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm trình thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh tranh luận của những người Pha-ri-sêu với Chúa Giê-su.
1.Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên:
Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Trong muôn vàn giới luật nầy, làm thế nào nhận ra giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu nầy.
2.Câu trả lời của Đức Giê-su.
Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người; Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn; cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng kiện toàn bằng cách đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?
Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18).
Như vậy, Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà nhóm Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ.
Trước hết, giới luật yêu người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” được Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật nầy hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).
Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn này”.
3.Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.
Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Ki-tô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’
mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).
----------------------------------
Kính thưa cộng đoàn,
Lại một cái bẫy khác, do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì đưa ra một nhóm người TN30-A132
Lại một cái bẫy khác, do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì đưa ra một nhóm người như những lần trước, thì lần này họ đưa ra một người đại diện trong nhóm thôi!
Vì muốn thử thách Chúa, họ đã đưa ra một người biết lề luật, và phải nói rằng người này là luật sĩ. Ông rất là thông luật.
Ông này thuộc lòng 613 luật phải ghi trong luật Do Thái. Và trong đó có 365 điều cấm, 248 điều luật truyền làm, chưa tính những cái luật phụ. Ông biết những cái luật này chia làm 2 vế trong Luật: về việc trọng luật và khinh luật.
Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội nhưng phạm trọng luật như: giết người, thờ Tà Thần, gian dâm thì bị tử hình. Bởi vì là người thông luật nên hiển nhiên rằng, ông biết rằng mỗi nhóm có giữ một điều luật và cho rằng điều ấy là quan trọng của họ. Và nếu mà Chúa Giêsu đưa ra cho mình cái luật nào hơn cái luật nhóm kia, thì Chúa Giêsu kẹt.
Và họ chất vấn rằng: Thưa thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất? Thì, chúng ta thấy họ gài bẫy. Chúa Giêsu đáp với người ta rằng: “Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi” nhưng mà, chúng ta thấy cái điều mới mẻ nhất đó là, Chúa nối kết một câu trích khác ở sách Lêvi 19, 18 dạy rằng: “Ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngươi. Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”
Trước Chúa Giêsu chúng ta thấy chưa ai đặc ngang hàng giữa luật yêu mến và đến Ngài Ngài đã hợp nhất thành luật mới đó là đặc điểm của Tin Mừng! Hơn nữa Chúa Giêsu còn tuyên bố rằng: Tất cả luật Môsê và sách ngôn sứ đều thuộc về hai điều này. Có nghĩa là hai điều răn này đã diễn tả trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, và do đó hai điều răn này chứa đựng tất cả mọi điều răn khác. Hay là nói cách khác tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này! và rồi chúng ta thấy sau này Chúa Giêsu đi thêm một bước nữa khi mà Chúa Giêsu dạy người ta phải yêu mến Chúa và yêu thương an hem như Người đã yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Chúa và yêu người với chính tình yêu của Người, một tình yêu chấp nhận từ Chúa Cha và cái tình yêu đó thúc đẩy người ta đến độ, hiến thân mình hy sinh mạng sống mình, vì người mình yêu.
Hiến chế về mục vụ Giáo Hội Công giáo trên thế giới ngày hôm nay, chúng ta thấy có vài đoạn nói về hiện tượng vô thần.
Ngày hôm nay Giáo Hội lưu ý chúng ta, về một số trào lưu là nhân bản vô thần. Nghĩa là người ta nhân danh con người để khước từ Thiên Chúa.
Những người đó lý luận rằng: niềm tin vào Thiên Chúa và đời sống mai sau, hạnh phúc mai sau. Để rồi, người ta quên lãng cái cuộc sống trần thế, làm cho người ta vô cảm với người khác. Không có giúp đỡ người khác, và họ sống theo cái kiểu chờ thời, chờ lên thiên đàng.
Và rồi vì nhân danh lòng yêu mến con người mà họ đã khước từ Thiên Chúa, thì những người này thì lý luận cái cơ sở rằng là: nhân danh con người.
Bởi vì chính vì con người mà họ khước từ Thiên Chúa, là điều này không có, bởi vì trong lịch sử Thánh Kinh và trong đời sống Giáo Hội người ta nhấn lòng yêu mến Thiên Chúa mà quên đi tình thương với con người.
Chúa Giêsu đi rất sát với câu chuyện Tin Mừng ngày hôm nay. Những người đạo đức, những người thầy thông luật thì họ cái lời Kinh Sêma, cái lời Kinh Sêma là như thế này mà chúng ta nghe rất quen:
Hỡi Iraen! hãy nghe đây! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất và các ngươi phải yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức ngươi.
Và rồi chúng ta rất là buồn cười, những người đạo đức họ viết cái điều luật này vào trong tờ giấy và cho vào hộp, dán trên trán để khỏi quên.
Dán trên trán thì làm sao mà quên được, lúc nào cũng nhớ cả. Và chúng ta nhớ lại Cựu Ước đã có nhiều lần nói về Luật Yêu Thương:
“Ngươi không được trả thù, ngươi không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19, 18).
Nhấn mạnh đến việc mà yêu Chúa, yêu người hết lòng, hết trí khôn! Thì chúng ta lại thấy, thực tế về con người, nó rất là buồn cười: Con người, người ta mâu thuẫn khi mà Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát thì họ phản đối và họ cắt nghĩa rằng là nếu con lừa rơi xuống hố thì họ có quyền kéo lên và nếu là con người thì không được!
Con người xét cho bằng cùng thì con người không bằng con lừa.
Và chúng ta thấy nhìn thấy cái mâu thuẫn đó để rồi cái dụ ngôn Samaria rất là thực tế.
Thầy tư tế, thầy Lêvi đi lên đền thờ, thấy có một người nằm sóng soài ở dưới đất, bị bỏ rơi chẳng ai coi sóc cả, bởi vì người ta đi lên đền thờ, người ta không muốn vấy vào người đó để bẩn tay. Và rồi người ta đã quên đi cái lòng thương xót, và người ta không nhìn tới những cái con người đau khổ. Họ cứ nghĩ rằng là họ đi lễ, đi đọc kinh, đi cầu nguyện làm tốt, nhưng rồi trong lời ăn tiếng nói, trong các cách hành xử của họ lại thiếu bác ái.
Người ta nhân danh Thiên Chúa để quên đi Thiên Chúa ngày hôm nay, mà người ta nhân danh con người. để rồi Cái thái cực mà nhân danh Thiên Chúa đó, để có thể quên đi Thiên Chúa.Và ngày hôm nay, nhân danh con người, người ta gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người. Điều này rất là tinh tế, đã xuất hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Liên quan trong cái đời sống thờ phượng, chúng ta có nghe rồi. Có những người lý luận rằng: cần gì đi nhà thờ Đọc kinh cầu nguyện làm gì? miễn là bác ái thôi!
Lý luận này xem ra cũng hay đó. Nhân danh lòng yêu mến mà con người đã gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Thế nhưng mà rồi tinh tế hơn nữa, đó là: đời sống và luân lý đạo đức. Người ta nhân danh con người để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Ví dụ như: Một chàng trai mà lỡ cho cô gái con người ta có thai thì, biện pháp tốt nhất mà người ta dùng đó là đi phá thai thôi! Trong vòng mấy phút đồng hồ và tốn tiền thì coi như xong! Khỏi có áy náy, xã hội không còn lên án nữa! Và lúc đó cảm thấy là thương cô gái đó đó!
Nhưng mà, khi mà người ta làm như thế người ta nhân danh con người, người ta hủy hoại Thiên Chúa hủy hoại cuộc sống. Sự sống, mà mầm sống mà Thiên Chúa ban cho con người. Người ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời người ta, bởi vì chính Thiên Chúa mới là chủ cuộc đời của người ta thật.
Rồi ngày hôm nay ở Việt Nam thì chưa có, chứ ở nước ngoài thì người ta chủ trương “chết êm dịu”:
- Già rồi, gần chết rồi! chích một mũi thuốc đi “chết êm dịu”.
Mà rồi, Giáo Hội không chấp nhận điều đó. Nhưng khi người ta thấy Giáo Hội làm điều đó, người ta cho Giáo Hội là gian ác, Giáo Hội quay lưng với con người.
Rất tinh tế, người ta nhân danh con người, để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Người ta mâu thuẫn, mà thật sự rằng, nếu mà thật sự như thế! thì rằng, người ta có yêu mến con người hay không?
Sau khi giúp một cô phá thai, người ta có xóa đi vết thương lòng của cô đó hay không? Hay cái nỗi dằn vặt “giết người con” của cô đó, đi theo cô đến chết! Có thật sự rằng, mình yêu mến cô ta thật sự! Hay mình hủy diệt cô ta cùng với đứa con của cô ta, đó là cái điều chất vấn chúng ta.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay xem ra quen thuộc, và rất mới và rất gần với đời sống của chúng ta. Cái nét độc đáo của Chúa Giêsu là đã kết nối hai cái giới răn này thành một, và nếu như tách ra hai giới răn này thì không có gì mới nói cả!
Cựu Ứớc thì đã nói về yêu mến rồi, yêu con người thì không cần! Nhưng mà chúng ta thấy đó về phần mà tôn giáo thì người Việt Nam chúng ta vẫn thường nói là gì: “Yêu người, như thể thương thân”.
Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, nối kết cái ý thức đó chứ không có tách lìa.
Còn nói về yêu thương con người thì chả cần gì về Công giáo cả! Có khác nào là Chúa Giêsu. Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, giúp cho con người ta không gạt bỏ Thiên Chúa và cũng không gạt bỏ con người bên ngoài. Cái mới nằm ở chỗ đó đó!
Những cái lối sống thiếu bác ái, thiếu yêu thương, thì không thể nào nói rằng mình mến Chúa được! Và ngược lại nếu mình yêu Chúa thì mình cũng phải bác ái, yêu thương thôi!
Như Thánh Gioan tông đồ nói: - Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Chúa, mà lại ghét anh em mình là nói dối; vì ai không yêu thương anh em mình người mà họ trông thấy, mà họ yêu mến người không trông thấy đó là Thiên Chúa. (1 Ga 4:20).
Điều răn mà ta nhận ra từ ngài: “Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em”. (1 Ga 4:21)
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta, đó là một người Cha yêu thương con cái, ngay khi mà đứa con đó còn ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta trên trời. Nghĩa là yêu thương mọi người không trừ người nào.
Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu, Ngài đến để nói với con người rằng: Thiên Chúa yêu thương và con người cũng hãy yêu thương nhau!
Chúng ta nhớ đến hình ảnh của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, khi đó Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một cái thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội không bằng lòng, nhưng Têrêsa thì ngược lại vẫn tỏ ra thái độ vui tươi và hồn nhiên và chịu đựng tất cả, vì đơn giản Thánh nữ Têrêsa yêu mến Chúa, vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến cả cái nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Thiên Chúa được tỏ ra bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Chúng ta không chỉ chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng hành động: sự nhẫn nhịn, sự thứ tha và cảm thông.
Khi mà Chúa Giêsu truyền dạy ngươi hãy yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu như đặt một tấm gương soi, chúng ta có yêu kẻ khác hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu của kẻ khác trên mệnh lệnh của Người. Mệnh lệnh ấy tóm tắt về lề luật. Đây là giới răn của thầy: “Anh em hãy yêu nhau như thầy đã yêu thương anh em”.
Nhiều người có khi đồng hóa Kitô giáo với luật Yêu Người. Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút nữa, khi nói về tình yêu người khác, thì người ta nghĩ ngay tới việc làm như: bác ái phải làm cho kẻ khác. Cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, đi thăm viếng...nói tóm lại là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu chứ chưa phải là yêu. Lòng từ tâm tới trước cái việc làm phúc. Trước khi làm phúc người ta phải muốn là một phúc.
Thánh Phaolô nói rõ với chúng ta: “Đức Bác ái không giả vờ.” Tức là phải chân thật, nghĩa đen là không giả hình. Người ta phải yêu thương với một con tim trong sạch.
Trên thực tế, ta có thể làm việc bác ái và bố thí nhiều, lý do không dính dáng gì tới tình yêu, bởi vì họ đã tô điểm chính mình, bởi vì họ làm cái vẻ đẹp, điều thiện, để được lên thiên đàng. Và có thể là để trấn an một cái lương tâm xấu, bởi vì họ đã không yêu thương thật lòng, như chính mình.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu. Và vì vậy: Hãy yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu của chính bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Ước gì mỗi người chúng ta, nhờ ơn của Chúa Thánh Thần. Sau khi thánh lễ này về, chúng ta sống với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta ngày mỗi ngày: yêu Thiên Chúa, cũng như yêu mến anh chị em đồng loại; mà đặc biệt không phải chỉ trên môi, trên miệng, mà bằng trên hành động, trên việc làm của mỗi người chúng ta. Amen.
----------------------------------
TRỌN TÌNH VỚI CHÚA VÀ VẸN NGHĨA VỚI NHAU
Là người lương dân hay Công giáo, ai cũng thuộc nhạc phẩm này: “Tình người ngoại đạo” của TN30-A133
Là người lương dân hay Công giáo, ai cũng thuộc nhạc phẩm này: “Tình người ngoại đạo” của tác giả Phượng Linh, tác giả là một người ngoại đạo yêu một cô gái Công giáo mà không dám tỏ tình, một hôm ông đến Nhà thờ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi. Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói. Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi. Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Lạy Chúa con thuơng nàng rất ngoan đạo. Thương nàng thường hay luôn di xem lễ. Con thuơng nàng rất đơn sơ. Màu áo trắng đơn sơ, với nét môi cười nắng nghiêng nghiêng. Con yêu nàng, tình yêu rất chân thành. Tình yêu không lừa dối. Nhưng Chúa ơi, nàng đâu hay biết đâu một người ngoại đạo tha thiết yêu nàng. Tình yêu trái ngang. Lạy Chúa con xin nguyện Chúa trên trời. Cho trọn niềm tin ơn trên Thiên Chúa. Con xin đuợc sống bên nàng, nguời con nhớ con thương. Kính mến tôn thờ Chúa. Amen”.
Anh chàng ngoại Đạo yêu cô gái Công giáo cốt ở điểm nào? Thưa thứ nhất, cô thường đi dâng lễ, có nghĩa rằng giữ trọn tình mến Chúa. Thứ hai, cô này ngoan Đạo, yêu chàng một tình yêu chân tình, tình yêu không lừa dối, có nghĩa rằng cô yêu người như chính mình vậy. Vâng, tại sao, Cô này trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với người yêu bởi vì cô này đã sống Đạo tốt qua việc giữ điều răn lớn nhất và quan trọng rất của Đạo Công giáo là Mến Chúa, yêu người. Đó là điều răn mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Trong văn hoá Á Đông, người Việt nam luôn để cao cuộc sống hôn nhân gia đình luôn có tình và có nghĩa với nhau. Cho nên, là vợ chồng sống với nhau phải có tình có nghĩa. Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng sống với nhau bằng “tình”. Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương, hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng vẫn sống bên nhau bằng “nghĩa”. Nói cách khác, tình là phần việc của con tim (cảm xúc), nghĩa là phần việc của lý trí (trách nhiệm). Con tim và lý trí đi chung với nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Vì vậy, theo văn hoá Việt Nam, vợ chồng lấy nhau vì “tình”, chung sống vì “nghĩa”. Vì thế, chất keo gắn bó cuộc sống vợ chồng chung thuỷ với nhau suốt đời: “tình” và “nghĩa”. “Tình” để yêu thương nhau và “nghĩa” để chịu đựng nhau nâng đỡ, chăm sóc và phục vụ nhau. Mất đi một hợp chất, keo không còn dính nữa, khác gì xi măng không có nước.
Cũng vậy, người Kitô hữu luôn mang trên mình Thánh giá Chúa. Thanh dọc của cây Thánh giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, hết linh hồn và hết trí khôn. Thanh ngang của thánh giá là phải vươn đến với tất cả mọi người để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là Thánh giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cho nên chỉ khi sống trọn vẹn giới răn mến Chúa và yêu người, thì chúng ta mới đích danh là Kitô hữu, mới thật sự là trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau trong cuộc sống này. Vì vậy, Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23). Và ngược lại, “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến việc thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Ngày nay, có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa. Vì vậy, chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thời giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước nguy cơ bách hại.
Bên cạnh mến Chúa, chúng ta còn phải yêu thân cận ngươi như chính mình. Nhưng ở đời đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương hết vì “chín người mười ý”, thượng vàng hạ cám, vàng thao lỗn lộn mà. Thế nhưng, chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, mến Chúa mà không yêu người thì là người đạo đức giả. Cho nên, nhà văn học Công giáo Mỹ Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Còn Lời Chúa nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8).
Đời sống Kitô hữu là cuộc tình của mình với Thiên Chúa. Cuộc sống con người chan chứa tình yêu và hiệp thông với Thiên Chúa đời đời. Vì thế, cuộc sống đức tin của chúng ta phải nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng yêu thương để làm sao mình không phải là tâm điểm mà chính Chúa và tha nhân là tâm điểm, và mình phải xoay quanh chứ đừng bắt Chúa và tha nhân phải xoay quanh mình. Nhưng Chúa ở đâu bây giờ và lúc này? Ai là người thân cận của tôi? Đó chính là những người còn sống với tôi hay đã qua đời, vì vậy chỉ yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp và yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta biết cầu nguyện cho những người thân yêu hay mọi người đã qua đời vì chưng sống chết đều có nhau như niềm tin chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin các thánh thông công”.
Vì thế, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta yêu mến Chúa hết lòng hết sức không phải vì Chúa ban cho chúng ta lợi lộc này, lợi lộc nọ mà vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Lẽ Sống, là Hơi Thở của chúng ta. Yêu mến Chúa cũng mời gọi chúng ta có lòng vị tha với tha nhân để yêu thương, phục vụ, hy sinh và cầu nguyện cho nhau hầu luôn giữ trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau. Amen.
----------------------------------
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Mến Chúa và yêu người
Một thanh niên bị công an tầm nả gắt gao. Trên đường tẩu thoát, anh xin tá túc trong một xóm TN30-A134
Một thanh niên bị công an tầm nả gắt gao. Trên đường tẩu thoát, anh xin tá túc trong một xóm đạo. Giáo dân che giấu anh tận tình. Nhưng thấy công an đến lục soát và hăm dọa nếu không bắt được người thanh niên đó, họ sẽ thiêu rụi xóm đạo và giết chết hết nên giáo dân sợ tìm đến hỏi ý kiến cha xứ. Cha vừa thương người thanh niên vừa sợ cho giáo dân nên không quyết định ngay được. Cha vào phòng đọc Kinh Thánh mong tìm được tìm giải pháp. Cha tìm thấy ông Caipha nói về cái chết của Chúa Giêsu: "Thà một người chết còn hơn cả một dân tộc bị tiêu diệt". Tin đó là Lời Chúa soi sáng, cha bảo giáo dân nộp người thanh niên cho công an và anh bị xử tử. Cái chết của anh thanh niên mà cha biết là vô tội đã dày vò tâm trí cha. Cha giam mình trong phòng để sám hối.
Một sứ thần đến tra vấn cha. Cha đáp:
- Tôi đã nộp người thanh niên đó cho kẻ thù.
Sứ thần tiết lộ cho cha biết:
- Người thanh niên đó chính là Chúa Giêsu.
Lời tiết lộ của sứ thần làm cho cha càng bối rối thêm. Thấy vậy, sứ thần dẫn giải:
- Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Chắc chắn anh ta là Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đã chẳng đồng hóa với tha nhân đó sao?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo: "Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình" (Mt. 22, 37-39).
Mến Chúa là thương người. Thương người là mến Chúa, vì Chúa đã đồng hóa với tha nhân, và mỗi người là hình ảnh Chúa. Chính vì thế, thánh Gioan đã xác quyết: "Kẻ nào bảo mình mến Chúa mà không thương người là nói dối. Vì tha nhân mình thấy trước mắt mà không thương thì làm sao mến Chúa mình không thấy được" (1 Ga. 4,20).
Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta hai giới răn chính yếu Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay. Đó là "mến Chúa yêu người". Không thể kính mến Chúa mà ghét bỏ con người. Cũng không thể yêu mến con người mà từ bỏ Chúa.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, để con người nhận ra mình trong anh em và mến người anh em như chính mình. Như thế "mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất cao trội". Hễ kính mến Thiên Chúa là yêu thương anh em. Nếu không anh em thì không thể nhìn nhận Thiên Chúa và kính mến Người được. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập III).
2. Người ta thương yêu ông dường nào
Một cuốn phim nói về cậu bé 7 tuổi với ông nội giàu có và đang quản lý nhiều công nhân. Ông là con người ích kỷ, độc ác, bắt công nhân làm việc cực nhọc và nhiều giờ để trục lợi, mà trả lương rất kém. Những ai đã làm việc cho ông đều than phiền ông, nhưng vì không có việc làm nên đành phải chịu vậy.
Trong khi đó, cậu bé quá thần tượng ông mình, nên không nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình là người quảng đại nhân từ. Cậu thường nói với ông:
- Nội ơi! Người ta thương nội biết dường nào. Vì nội nhân từ quảng đại với họ. Con dám chắc người ta thương nội như con thương nội vậy.
Tình yêu và lời nhắc nhở của cậu bé lần hồi thay đổi được lòng ông lão. Ông đã trở nên người quảng đại nhân ái như đứa cháu ông nghĩ về ông.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tình yêu của Chúa Giêsu có thể thay đổi tâm hồn chúng ta, và ban cho chúng ta sức mạnh thực thi bác ái đối với tha nhân và lòng mến đối với Thiên Chúa.
Việc làm biểu lộ tình yêu rõ rệt và cao cả nhất của Chúa Giêsu là chết treo trên khổ giá.
Trước hết, nó là dấu chỉ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, vì "không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga. 15,13).
Kế đến, việc Chúa Giêsu đóng đinh mời gọi chúng ta đến với tình yêu. Người bảo chúng ta: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga. 15,12). Người dạy chúng ta biết: chúng ta có thể hy sinh giúp đỡ kẻ khác như người đã hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta.
Sau cùng, ngoài dấu chỉ tình yêu, lời mời gọi đến tình yêu, thập giá Chúa Giêsu còn mạc khải cho chúng ta biết tình thương kéo theo đau khổ: yêu thương giúp đỡ kẻ khác sẽ đem lại đau khổ mất mát cho chính mình, như Chúa Giêsu vì thương chúng ta, để cứu rỗi chúng ta phải chịu chết trên khổ giá.
Như thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết điều răn trọng nhất trong đạo là "mến Chúa yêu người". Và Người mời gọi chúng ta thực thi điều răn đó, bằng cách nêu gương cho chúng ta khi Người chịu chết treo trên thập giá, để làm dấu chỉ tình yêu của Người, để mời gọi chúng ta đến tình yêu và mặc khải cho chúng ta biết tình yêu luôn luôn kéo theo đau khổ mất mát. (Theo "Sunday homilies").
3. Thị kiến hay phục vụ
Đã nhiều năm một vị tu sĩ cao tuổi cầu xin Chúa hiện ra củng cố niềm tin cho ông nhưng chưa được Chúa nhận lời. Trong lúc ông buồn phiền thất vọng thì Chúa hiện ra. Ông mừng quá, quỳ gối tiếp kiến Chúa!... Bỗng hồi chuông tu viện báo hiệu giờ phút phát chẩn cho người nghèo đã đến, và ông là người có trách nhiệm đó. Làm sao đây? Ở lại tiếp kiến Chúa hay đi giúp đỡ người nghèo? Ông suy nghĩ một lúc rồi xin phép Chúa đi làm bổn phận.
Khi làm xong bổn phận, ông trở về phòng, vẫn nuối tiếc vì không được diện kiến Chúa như lòng ước nguyện. Nhưng khi mở cửa phòng, ông không thể tin vào mắt mình: Chúa còn ở đó chờ ông, ông mừng rỡ quỳ xuống cảm tạ Chúa. Chúa liền nói:
- Nếu con không đi phát chẩn cho người nghèo. Ta không ở lại đây chờ con.
Câu chuyện trên đây minh họa tuyệt vời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: "Con hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con, và hãy yêu người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39). Vị tu sĩ lão thành trên đây đã làm đúng ý Chúa Giêsu. Ông đã học được phương thế tốt nhất để kính mến Chúa. Kính mến Chúa không nhất thiết phải từ bỏ mọi sự, phải quay lưng lại với tha nhân, mà thực hiện điều căn bản nhất là phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.
Một Kitô hữu vĩ đại thời nay là Albert Schweizer, người đã từ biệt những buổi hòa nhạc nổi tiếng ở Châu Âu đi làm bác ái thừa sai phục vụ người nghèo ở Phi Châu đã nói: "Tôi không biết bạn kính mến Chúa bao nhiêu. Tôi chỉ biết một điều là ai biết tìm và thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự kính mến Chúa như lời thánh Gioan khẳng định: "Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga. 4, 20-21). (Theo "Thiên đàng là thế đó").
4. Mến Chúa trong tha nhân
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Ý đã đưa ra một hình ảnh tra tấn dã man tại một số nhà tù ở Mỹ, là một nước tự hào là dân chủ tự do, tôn trọng nhân phẩm con người. Những hình ảnh tra tấn dã man đó là nguyên cớ sinh ra hận thù, bạo lực. Có sức mạnh nào thay đổi được thảm trạng hận thù bạo lực giữa con người không? Một linh mục đã từng bị tù ngục bất công trong nhiều năm kể lại: Trong thời gian bị giam, một đêm nọ tôi đau quá. Thấy người lính gác đi ngang qua, tôi liền nói:
- Này anh, anh thương cho tôi thuốc uống.
- Ở đây không có tình thương.
Đó là bầu không khí đè nặng chúng tôi trong tù ngục. Nhưng rồi một đêm lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe có tiếng nhắc nhở tôi: "Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm! Con còn mang tình thương Chúa Giêsu trong lòng con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu thương yêu con..."
Thế là tôi bắt đầu yêu thương họ, yêu mến Chúa trong họ, tươi cười với họ, trao đổi với họ. Dần dần chúng tôi trở thành bạn thân. Bầu khí nhà giam thay đổi hẳn. Quan hệ giữa họ và tôi cũng bắt đầu tốt đẹp thân thiện. Từ đó tôi quyết tâm làm theo Lời Chúa Giêsu: "Điều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em con là làm cho chính ta".
Sự thay đổi bầu khí nhà tù và mối quan hệ thân thiện trong câu chuyện trên đây là do sức mạnh của tình yêu: yêu Chúa qua tha nhân. Quả thế ở đâu có tình thương, ở đó có an bình vui tươi và hạnh phúc vì có Chúa hiện diện và ngự trị, có ngôn ngữ của bác ái. Đức ái liên kết mọi người nên một, đạp đổ hận thù, nghi kỵ. Bác ái chính là chứng tích nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô.
Bản tính con người hạn hẹp yếu đuối dễ sai lầm, và sai lầm nhiều nhất là không nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Thế nên trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp một người trong nhóm Biệt Phái hỏi thử, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta điều răn trọng nhất, cốt yếu nhất, tóm lại tất cả lề luật và lời các ngôn sứ: đó là:
"Con phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con...
Và phải thương người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39).
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho một trái tim như trái tim Chúa, để có thể kính mến Chúa tha thiết qua anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).
5. Yêu người không thấy mặt
Một trung úy Hải quân Hoa Kỳ thuật lại:
Qua mục "Tìm bạn bốn phương" trong báo chí, anh quen được một người con gái ở New York. Sau một thời gian thư từ qua lại, hai người yêu nhau. Nhưng có điều là chàng trung úy không vui là cô gái không bao giờ gởi hình cô cho anh, và anh muốn biết mặt cô. Cô giải thích:
- Nếu anh yêu em thực sự, thì diện mạo bên ngoài của em đâu phải là quan trọng. Giả như em đẹp, em sợ rằng anh yêu em chỉ vì sắc đẹp, đó là điều làm cho em thất vọng. Ngược lại nếu em xấu thì sao? Anh có yêu em không?...
Khi nào anh về New York, anh sẽ thấy em, và lúc đó anh sẽ quyết định.
Và họ hẹn gặp nhau tại ga xe lửa New York. Vừa đến điểm hẹn, chàng trung úy gặp ngay cô gái đang đứng chờ mình. Anh chưa kịp tự giới thiệu thì cô ta đã lên tiếng:
- Thưa ông, tôi không biết có chuyện gì giữa ông và cô gái đang đứng bên kia đường. Vừa thấy ông, cô ấy đã vội vã sang đó, và nhờ tôi gặp ông nói dùm: Cô ấy chờ ông ở trong quán bên kia đường.
Chàng trung úy vội vã sang bên kia đường, đến quán ăn nơi người yêu đang chờ đợi. Và họ đã gặp nhau vui mừng phở lở.
Câu chuyện trên đây nói lên tình yêu giữa người với người. Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng như một cuộc tình, trong đó chúng ta yêu thương một người mà chúng ta chưa hề thấy mặt. Người tình không chân dung đó chính là Thiên Chúa. Trước khi chúng ta thấy mặt diện đối diện, trước khi cho chúng ta chiêm ngắm dung nhan Người, Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta qua dung mạo của người anh em đồng loại chúng ta.
Do đó, cuộc sống của chúng ta tại thế cũng giống như cuộc tập dợt yêu thương từ một tình cảm vị kỷ, tình yêu của chúng ta ngày càng được thanh luyện để trở nên siêu nhiên hơn. Qua bao nhiêu người đồng loại chúng ta gặp mỗi ngày, Thiên Chúa không ngừng đến với chúng ta. Một tình yêu đích thực mà muốn chứng tỏ với Chúa sẽ được đo lường qua chính tình thương mà chúng ta thể hiện với tha nhân, nhất là qua những người mà tự nhiên không bao giờ chúng ta muốn tìm đến gặp gỡ.
Có thực hiện được như thế, chúng ta mới tuân giữ được giới răn trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn thành bổn phận đối với Chúa và với đồng loại. Khi đó chúng ta mới xứng đáng lời Chúa Giêsu mời gọi: "Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các con đã cho ăn; Ta khát các con đã cho uống; Ta là khách lạ các con đã tiếp rước; Ta trần truồng các con đã cho mặc; Ta đau yếu các con đã chăm nom; Ta ngồi tù các con đã đến viếng" (Mt. 25, 34-36)
(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).
----------------------------------
Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng TN30-A135
Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào bay lên được.
Các loài chim cũng phải có cánh để bay. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.
Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh.
Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22,37-39).
Và qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).
Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần thiết đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.
Ảo tưởng
Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.
Nhưng sống đạo như vậy thì chưa được, chưa làm đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.
Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.
Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.[1]”
Máy bay muốn bay lên thì cần phải có hai cánh. Chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì cũng cần có hai cánh.
Theo lời dạy của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô thì
- Cánh thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa qua việc cử hành hoặc tham dự Thánh lễ và loan truyền Lời Chúa.
- Cánh thứ hai là sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người.
Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng không quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.
Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.
Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như là máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ “bay” lên tới thiên đàng.
Lạy Chúa Giê-su,
Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.
Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.
-----------------------------
[1] Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Khi chúng ta dồn tâm gắng sức cho một công việc gì đó, như mua đất, xây nhà, lấy vợ, gả chồng TN30-A136
Khi chúng ta dồn tâm gắng sức cho một công việc gì đó, như mua đất, xây nhà, lấy vợ, gả chồng…, ta mô tả: Tôi đã dành cho công việc đó biết bao thời gian, biết bao công sức, biết bao suy tư, biết bao tiền của…. Tức là nhiều lắm!
Rồi khi mô tả một người mệt quá sức, ta không chỉ nói mệt lắm. Nhưng có thể thêm: Ông ấy mệt thở chẳng ra hơi, nói không thành lời, tay giơ không nổi, chân động chẳng lay. Những kiểu mô tả đó nhằm nói lên một phó từ (trạng từ): lắm, rất, nhiều: rất mệt, gắng nhiều …
Khi Chúa Giêsu tóm tắt lề luật bằng một giới răn mà một trong hai, đó là “yêu Chúa thật nhiều” thì Kinh Thánh cũng dùng kiểu nói: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Nhưng ba cái “hết” đó có phải chỉ là nhiều lắm, hay còn có ý nghĩa gì thêm? Chắc hẳn là có nhiều ý nghĩa hơn, nhất là khi được gắn với động từ “yêu.” Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của ba cái “hết” đó.
Tôi tò mò mở lại vừa học vừa xem nguyên bản Kinh Thánh Do thái (Hipri) dùng 3 cái “hết” đó là những cái “hết” nào, còn Kinh Thánh Hi lạp thì dùng 3 cái “hết” nào.
Do Thái là Đông phương, thì: “hết trái tim, hết linh hồn, hết sức lực” (bơkôl lơbavơka, ubơkol nápơka, ubơkol mơôdeka).
Hy Lạp là Tây phương, viết: “hết lòng (kardia), hết linh hồn (shukhe), hết trí khôn (dianoia).
Người Tây phương nặng óc phân tích, nhất là người Hi Lạp. Thời kỳ khai nguyên Triết học Tây phương là thời đại của Hi lạp. Nói cách khác, Hi lạp là quê hương của các tổ sư Triết Tây, như Socrates, Platon, Aristote, Zénon, Héraclite…, cho nên thay vì như kiểu nói Do Thái: “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực,” thì Hi Lạp đã chữa “hết sức lực” thành “hết trí khôn”. Tại sao?
Trong chương trình Triết lớp 12 trước đây, người ta chia sinh hoạt con người làm 3 lãnh vực: đời sống tình cảm, đời sống hoạt động và đời sống tri thức (lý trí).
Vì thế: hết lòng, hết trái tim: đời sống tình cảm
Hết linh hồn: tức hết ý chí: đời sống hoạt động
Và thay vì hết sức như Do Thái, Hilạp đổi thành hết trí khôn: tức là đời sống tri thức, lý trí.
Mỗi đời sống có thể lệ thuộc nhau, nhưng cũng có thể độc lập.
Kinh nghiệm hoặc những cảnh diễn ra trước mắt cho ta thấy:
Một người chồng có thể yêu một người khác (đ/s tình cảm). Người chồng này có thể nhớ nghĩ một người khác (đ/s tri thức), và hành động theo ý người vợ trước mặt (đ/s hoạt động). Nói đại như sau: Anh Khanh có thể yêu cô Thương, nhớ cô Tưởng, nhưng lại tuân lệnh bà Xã là vợ của anh đang ở trước mặt.
Có thể ba đối tượng của yêu, của nhớ, của hành động cũng là một, mà cũng có thể là ba đối tượng khác nhau, hoặc hai đối tượng khác nhau: yêu và nhớ một người, và hành động theo lệnh một người khác. Trong một tiểu thuyết của Quỳnh Dao tôi không nhớ rõ, có mô tả chàng kia hỏi nàng nọ “tim em đập làm sao, óc em nghĩ cái gì và hồn em thuộc về ai,” thì nàng đã trả lời “tim em đập hai tiếng Tâm Đan, óc em nghĩ tới hai chữ Tâm Đan và hồn em thuộc về chàng trai mang tên Tâm Đan.” Tâm Đan chính là tên của chàng kia hỏi nàng nọ. Thiên Chúa đòi chúng ta ba đối tượng đó phải là một: một Chúa.
Yêu Chúa hết lòng (đời sống tình cảm), nhớ Chúa không nguôi (đời sống tri thức) và làm theo ý Chúa mãi (đời sống hoạt động). Đó là ý nghĩa mệnh lệnh Chúa theo bản Kinh Thánh Hy Lạp: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Các thánh giáo phụ, đặc biệt Augustinô giải thích thêm cho ta:
Yêu Chúa hết lòng tức không yêu ai, yêu gì bằng Chúa. Có một trái tim thì Chúa ngự trị trọn vẹn trong đó.
Yêu Chúa hết linh hồn tức là yêu hết ý chí mình, sẵn sàng vâng theo ý Ngài, dù có phải chết. Chúng ta nghe nói đến thôi miên. Người bị thôi miên là mất hồn, không còn ý chí nữa, mà hành động theo lệnh của người thôi miên mình. Yêu Chúa hết linh hồn là như vậy: bị Ngài thôi miên để lúc nào cũng làm theo ý của Ngài sai khiến.
Yêu Chúa hết trí khôn nghĩa là luôn nhớ tới Chúa, không lúc nào ngơi. Nói theo kiểu nói của ngôn ngữ computer, thì yêu Chúa hết bộ nhớ luôn. Yêu Ngài, là out of memory. Tràn bộ nhớ. Không có cái nào khác lọt vào nữa.
Dân Israel ngày xưa và ngay cả ngày nay khắc ghi mệnh lệnh này của Đức Chúa một cách tuyệt đối. Đây là kinh Sơ ma, “Kinh Hãy Nghe” của họ. Chúng ta nghe trọn vẹn lời kinh “Hãy Nghe” theo bản dịch Hi Lạp:
“Hãy nghe, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết trái tim ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi, những lời ta truyền cho ngươi hôm nay, ngươi phải ghi lòng tạc dạ và thuật lại cho con cháu. Ngươi hãy lập lại các lời ấy lúc ngồi ở nhà, lúc đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Ngươi phải buộc những lời ấy vào tay để làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Phải viết lên khung cửa nhà và khung cửa thành của ngươi” (Đnl 6, 4-8).
Là người Do thái, Đức Giêsu ngay từ nhỏ đã thuộc nằm lòng Kinh Hãy Nghe này rồi. Vì thế mệnh lệnh “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” phải là mệnh lệnh đệ nhất. Người Do Thái thời đó ai cũng biết, nên khi hỏi Đức Giêsu: Trong lề luật, điều nào trọng nhất? Ngài trả lời dễ dàng.
Nhưng cái hay, cái cả gan của Đức Giêsu là dám nói câu này: Còn một điều nữa cũng giống như vậy: Hãy yêu anh em. Đức Giêsu cả dám đặt “hãy yêu anh em” bằng, như “hãy yêu Chúa.” Đây là mảng đề tài lớn và phong phú mà chúng ta đã được giải thích và ngẫm nghĩ nhiều lần, nhiều cách. Hôm nay chúng ta không đả động gì tới điểm này. Chỉ xin nói một câu: Nếu Chúa Giêsu đã nói “toàn thể lề luật tóm lại trong hai giới răn đó” (mến Chúa, yêu người), thì chúng ta xin tóm tắt hai luật đó thành một: yêu người vì Chúa: ngươi hãy yêu mến anh em hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn vì Ta là Chúa. Bài đọc I rất thấm thía để minh hoạ thêm cho điều này. Chỉ trích tóm một câu: “Nếu các ngươi ức hiếp mẹ goá con côi, thì cơn giận Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi” (x. Xh 22, 21-23).
Để kết luận: Tại sao phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Thưa bởi vì Ngài yêu ta trước.
Trong cuốn “tự thuật”, một người cha ghi lại câu chuyện và ý nghĩ sau: một đêm kia trong lúc tôi đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: “Bố ơi, để con đếm xem trên trời có mấy ngôi sao?” Rồi tôi nghe nó đếm (1,2,3,…) trong khi tôi vẫn chăm chú đọc báo. Đến khi đọc xong bài báo tôi chú ý lắng nghe và tiếng đứa con gái vẫn tiếp tục 300, 301, 302…. Chợt nó dừng lại quay sang nói với tôi: Bố ơi con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế! Nghe con gái bình luận vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng nói với Chúa “Chúa ơi để con thử đoán xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành của Chúa? Và càng đếm trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thấy phải thốt lên như con gái của tôi: Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế!”
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cứ thử đếm mà xem, tưởng ít mà hoá ra vô số các ân huệ của Chúa. Tôi có thể kể cả giờ những ý tứ của lời Kinh Cám Ơn “Tôi cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành… ,” lời kinh cho ta được một số ý niệm về ân huệ của Chúa.
“Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” vì Ngài yêu ta trước.
Mỗi thánh lễ là một lễ tế tạ ơn. Con người chúng ta tạ ơn không xứng. Ta phải hợp với Đức Chúa Con mà tạ ơn Đức Chúa Cha. Trước khi bước vào phần lễ tế tạ ơn, ta hãy tuyên xưng lòng tin của ta vào Đức Chúa.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin mừng Mt 22: 34-40:
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng TN30-A137
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ luật cũng đã được ban hành để cộng đồng Dân Chúa duy trì được trật tự và phát triển. Tuy nhiên, đây là cộng đồng được Chúa chọn giữa muôn dân, nên bộ luật dành cho Dân Chúa được chi phối bởi niềm tin tôn giáo độc thần, tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã giải phóng Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, đã chăm sóc cho dân như người mục tử chăm lo cho đàn chiên, như người cha chăm lo cho con cái. Vì thế, bộ luật ban hành cho Dân Chúa được xây dựng trên nền tảng thuộc bản chất của Đấng được gọi là yêu thương, nền tảng đó được Đức Kitô chỉ rõ: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
Trước tiên Chúa Giêsu nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực về sự hiện hữu của mình khi nhận ra mình được Chúa yêu thương và bước theo đường lối của Người chỉ vẽ như người con thảo hiếu, hay như người vợ hiền luôn tín trung. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã minh định: “Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiều kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: "Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn hạnh phức của con là ở kề bên Chúa (Tv 72) (số 9).
Vì thế việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là hành vi cốt cán chi phối mọi hành động của cuộc sống. Quả thật, sự hiện hữu của con người bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, nên tất cả mọi hoạt động của con người nếu muốn tồn tại cần phải qui hướng về tình yêu này. Lần đọc lại câu chuyện Ađam, nguyên tổ của con người, tác giả sách Sáng Thế đã cho biết, chỉ vì Nguyên tổ đã để cho lý trí và ý chí lệch hướng trong mối tương giao với Thiên Chúa mà con cháu phải chịu cảnh lầm than, không còn đặt Thiên Chúa là trọng tâm của cuộc sống, con người phải đối diện với sự hư vong. Thế giới hôm nay như đang đặt bước chân mình vào con đường của Nguyên Tổ đã trải qua, con đường khước từ Thiên Chúa để tìm vinh danh cho chính mình, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại mà con người quá đề cao chính mình và tỏ ra yêu mình quá mức. Từ thái độ đó, con người rơi vào vào cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, đánh mất đi căn tính thần thiêng của mình, và càng ngày càng tục hoá lối sống. Từ thái độ đánh mất mối tâm giao với Thiên Chúa, con người rơi vào khủng hoảng của thất vọng, của sự sợ hãi, và hầu như bế tắc trong nỗ lực đi tìm một sự bình an thư thái. Đây là kinh nghiệm mà Dân Do Thái đã trải qua, bao lâu Dân Chúa đánh mất tình bằng hữu với Thiên Chúa, bấy lâu họ luôn gặp nguy khốn và mạng sống luôn bị đe doạ.
Vì thế luật yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, xét cho cùng chẳng vì thiện ích của Thiên Chúa, nhưng đó lại là phương thế để giúp con người đạt tới hạnh phúc và tìm được sự sống đích thực, vì như đã nói, Thiên Chúa là tình yêu, và chính từ suối nguồn yêu thương này mà sự sống được nẩy sinh. Do đó luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết sức mình cũng có nghĩa là luật chỉ cho con người biết làm cho cuộc sống của mình luôn phong phú và được tồn tại. Ai luôn gắn bó với Thiên Chúa, người đó đang xây dựng cho cuộc đời mình một thành trì vững chắc và thù địch sẽ không thể xâm lấn được.
Sự sống đến từ Thiên Chúa luôn thể hiện đặc tính cộng đồng, bởi ngay chính nơi đời sống nội tại của Ngài, Ngài cũng không đơn độc trong một Ngôi vị duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Chính từ nơi các Ngôi vị này hình thành một mối dây hiệp thông làm nên một bản thể duy nhất, mối dây yêu thương, và từ đó Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, tất cả mọi tạo thành đều bắt nguồn tình suối nguồn tình yêu này đều mang lấy đặc tính cộng đồng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tác giả sách Sáng Thế đã tường thuật cách tuyệt vời về việc tạo dựng con người, ban đầu chỉ có môt mình Ađam, cho dẫu ông được Chúa cho quyền thống trị trên mọi dã thú, chim trời, nhưng ông cũng chẳng vui, để rồi Chúa phải thốt lên: con người ở một mình không tốt”, Ngài đã tạo nên Eva, một trợ tá tương xứng, và chỉ từ khi đó Adam mới vui, mới cảm thấy hạnh phúc (x. St 2, 18-24). Như vậy Thánh Kinh đã minh nhiên khẳng định, cuộc sống của con người chỉ tròn đầy ý nghĩa khi cuộc sống đó được biểu tỏ trong mối tương giao với tha nhân.
Chính vì thế luật Thiên Chúa ban truyền được xây dựng trên nền tảng giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Hai chiều kích không song song với nhau nhưng kết nối với nhau một cách bất khả phân ly, để có thể quả quyết rằng: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Ngài. Chính vì sự nối kết này, luật yêu người không đơn thuần xuất phát từ một cảm tính “đồng loại”, nói như cha ông Việt Nam chúng ta: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Luật yêu thương vượt xa cảm tính này, nó được xây dựng trên nền tảng đức tin. Đức Benêđictô XVI đã nói: “Tình yêu tha nhân cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 18). Và Đức Phanxicô cũng đã diễn tả: tình yêu tha nhân là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2, 14). Việc làm của đức tin chính là tuân giữ giới luật của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy” ( 1Ga 2: 3-4). Ước mong sao, từng ngườii Kitô hữu chúng ta không để cho ánh sáng đức tin bị vùi tắt trước lối sống thực dụng, hưởng thụ ích kỷ, những luôn cháy sáng lung linh được dệt lên từ một một cuộc sống ngạp tràn yêu thương, yêu Chúa và yêu tha nhân. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Mến Chúa yêu người là giới răn nền tảng của Kitô giáo. Ước gì mỗi Kitô-hữu sống giới răn yêu TN30-A138
Mến Chúa yêu người là giới răn nền tảng của Kitô giáo. Ước gì mỗi Kitô-hữu sống giới răn yêu thương này, để mỗi người được hạnh phúc từng ngày.
1. Mỗi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa
Người đời có thể thiên tư tây vị, trọng người này khinh người kia, vì người này giầu người kia nghèo, vì người này đẹp người kia xấu, vì người này có tài còn người kia kém trí. Người đời có tiêu chuẩn của họ, còn đối với Thiên Chúa ai cũng là con Chúa, mọi người đều bình đẳng. Thiên Chúa tạo dựng tất cả và ban cho mỗi người nét đẹp riêng. Thiên Chúa tạo dựng con người với những khác biệt, người tài về điều này, người tài về điều kia. Ngài tạo dựng con người như ngón tay có ngón dài ngón ngắn, để con người có dịp giúp đỡ nhau, diễn tả tình tương thân tương ái.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài muốn con người chinh phục vũ trụ này, để hưởng dùng và tôn vinh Thiên Chúa. Tài nguyên thiên nhiên cũng tương tự như của cải trần thế người cha người mẹ để lại cho con cái; người cha người mẹ muốn con cái dùng tài sản đó mưu hạnh phúc cho tất cả anh em, nếu một người nào đó ỷ vào sức mạnh hoặc tài khéo của mình mà lấy hết tài sản cha mẹ để lại cho tất cả anh em, thì chắc cha mẹ người đó rất buồn. Cũng tương tự vậy, tài nguyên trên thế giới, Thiên Chúa ban cho tất cả con người, và Ngài muốn con người dùng nó để phát triển tài năng Ngài ban, và giúp con người diễn tả tình yêu đối với nhau. Vũ trụ, là phương tiện Chúa ban giúp con người phát triển chính mình.
Con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, con người nhận ra con người có giá trị vô cùng đối với Thiên Chúa, vì yêu con người nên Lời Thiên Chúa đã nhập thể và vĩnh viễn làm người. Con người thường không nhận ra nét tuyệt vời của mình và của người khác, tuy nhiên nơi những người yêu nhau người này có thể nhận ra nét tuyệt vời của người kia, và nét đẹp này người khác không thể thay thế được.
2. Thiên Chúa yêu thương con người, cụ thể người nghèo
Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài là Cha tất cả mọi loài, và đặc biệt con người. Thiên Chúa yêu thương cả người giầu lẫn người nghèo, cả người thông minh lẫn người chậm hiểu. Tuy nhiên với những người nghèo, hoặc những người bị những người quyền thế khác áp bức, Ngài lưu tâm đến họ một cách đặc biệt. Qua việc Ngài để ý đến những người nghèo và cô thân cô thế, người ta nhận ra giá trị tuyệt vời của con người và hiểu biết hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa rất quảng đại và công bằng, Ngài cho tất cả mọi người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, để mỗi người tồn tại và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Không gì bắt Thiên Chúa phải tạo dựng con người, nhưng chỉ vì yêu mà Ngài tạo dựng họ; cũng không gì bắt Thiên Chúa một khi tạo dựng con người thì phải chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, thế nhưng Thiên Chúa đã cho con người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Một khi con người được tạo dựng, con người mãi mãi trường tồn. Mỗi một cá nhân thật mong manh và mỏng dòn, ấy thế nhưng lại là tạo vật đặc biệt, một tạo vật tồn tại vĩnh viễn và được yêu thương cách đặc biệt. Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành, nên mới tạo dựng và cho con người được những hồng ân đó.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng đôi khi người ta nói Thiên Chúa trừng phạt con người. Thực ra Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, Ngài không muốn con người đau khổ nhưng chỉ muốn con người hạnh phúc; nếu Ngài để những gì như thể “hình phạt” xảy ra, thì cũng là để giúp con người “giác ngộ”, nhận ra sự thật và trở về với chân thiện mỹ, để con người được hạnh phúc thật sự. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu thương. Thiên Chúa là Tình Yêu.
3. Yêu Chúa yêu người
Đối với những bậc sinh thành ra mình, người ta phải thảo hiếu. Hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người lương thiện. Với những người làm điều ác hoặc không lương thiện, họ có thể là người thành đạt và được thoả mãn về nhiều phương diện, nhưng dường như họ không hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, nên con người phải có bổn phận yêu kính Ngài. Không tôn kính Thiên Chúa, cũng tương tự như một người không yêu kính cha mẹ mình, thì không thể sống hạnh phúc đích thực được. Tuy nhiên không phải chỉ có những người nói tin kính Thiên Chúa mới là những người thờ kính Thiên Chúa thật, một người vô thần cũng có thể là người thờ kính Thiên Chúa mà chính họ không biết, nếu họ làm những điều thiện và sống theo lương tâm họ; và ngược lại cũng có những người mang danh Kitô-hữu, nhưng nếu họ làm ác thì họ vẫn không phải là kẻ thờ kính Thiên Chúa thật cho dù họ vẫn thực hiện những hành vi thờ phượng bên ngoài.
Yêu Chúa và thờ phượng Ngài, đó là điều mỗi người biết Ngài đều phải thực hiện. Tuy nhiên nói yêu Thiên Chúa bằng môi miệng thôi thì chưa đủ. Ai yêu Thiên Chúa thì cũng phải yêu con người. “Nếu ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối.” Yêu là muốn điều tốt xảy tới cho người khác, là kính trọng, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ, là giúp họ triển nở và hạnh phúc hơn. Nếu ai đó để lòng ghét và thù hận, người đó không thể sống thanh thản hạnh phúc được. Lòng thù hận hoặc không tha thứ, làm người ta khổ. Yêu thương, vui khi thấy người khác hạnh phúc, làm con người bình an thanh thản hạnh phúc.
Ai sống yêu thương là đã có thiên đàng nơi lòng mình. Kinh Thánh cũng nói: Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Nếu một người từ chối “Thiên Chúa” mà sống yêu thương anh em mình thật, người đó vẫn thuộc về Thiên Chúa, và “Thiên Chúa” mà họ từ chối e rằng không phải là “Thiên Chúa” thật, có thể đó là những hình ảnh về Thiên Chúa mà người khác phóng chiếu lên, và với hình ảnh “Thiên Chúa” đó người ta không chấp nhận. Bất kỳ ai, hễ yêu thương anh em mình thật, thì đã chấp nhận Thiên Chúa một cách nào đó, và đang sống trong Thiên Chúa. Và ai đang sống trong yêu thương, Thiên Chúa đang ở với người đó, và người đó cảm nghiệm bình an hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho thấy bằng cớ Thiên Chúa cũng yêu thương cả người giầu nữa.
2. Theo bạn, tại sao Kinh Thánh nói rõ Thiên Chúa yêu thương bảo vệ người nghèo?
3. Theo bạn, liệu có thể yêu người mà không yêu Thiên Chúa không? Tại sao?
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người Do thái có rất nhiều luật! Giữa bao nhiêu điều luật đó, điều luật nào trọng nhất? Yêu Thiên TN30-A139
Người Do thái có rất nhiều luật! Giữa bao nhiêu điều luật đó, điều luật nào trọng nhất? Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực; và yêu anh em như chính mình! Hai điều này không là điều mới, nó đã có trong bộ luật xa xưa, trong sách Thứ Luật và Lêvi (Tl. 6, 5 và Lv.19, 18).
1. Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi
Người Do thái và đặc biệt là các biệt phái một phần nào biết nguồn gốc nhân loại của Đức Yêsu (con bác thợ mộc Yuse và bà Maria, ở Nadarét)- một người không được giáo dục ở trường lớp và không có nhiều kiến thức! Vì vậy, họ muốn thử Đức Yêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?"
Đức Yêsu không nói gì mới, Ngài trích một câu sách Thứ Luật! Câu trả lời của Ngài ngắn gọn, nhưng rất chính xác!
Yêu Thiên Chúa, chọn Thiên Chúa trên hết mọi sự. Coi rằng được Thiên Chúa là được tất cả. Có Thiên Chúa là có tất cả! Mất Thiên Chúa là mất tất cả.
Hệ luận của điều này rất rõ ràng. Thiên Chúa là trên hết, đức tin là trên hết. Nếu điều nào làm một người mất đức tin, người ta sẽ bỏ điều đó. Nếu chọn Thiên Chúa mà phải mất nhiều điều, ngay cả mạng sống, thì họ cũng sẵn sàng mất (trường hợp những người tuyên xưng đức tin dù phải chết). Nếu người chồng ngoại đạo không cho người vợ sống đạo, Hội Thánh cho phép họ ly thân để sống đức tin.
Thà chết chứ không phạm một tội trọng, là trường hợp những người chọn Thiên Chúa trên tất cả.
2. Yêu anh em như chính mình
Sách Lêvi đã dạy điều này, nhưng sau này Đức Yêsu đã dạy: "anh em hãy yêu mến nhau như thày đã yêu mến anh em" (Ga.13, 34).
Từ "yêu người như yêu chính mình" (Lv.19, 18) đến "yêu nhau như Đức Yêsu yêu chúng ta" (Ga.13, 34), là một bước tiến rõ! Đức Yêsu đã yêu chúng ta đến độ tự hủy, chết để chúng ta được sống, cũng vậy chúng ta cũng phải yêu thương nhau và hiến mạng sống cho nhau.
Yêu như Chúa yêu!
3. Yêu nhau như thế nào?
Tôi mới dự buổi chia sẻ của một nhóm bạn sinh viên. Họ là một số bạn ở ký túc xá, và một số bạn cùng nhau thuê nhà trọ ở với nhau. Khi đọc đoạn tin mừng của Chúa Nhật này, có bạn đã chia sẻ: mình đã hy sinh nấu cơm cho các bạn cùng phòng ăn, quét dọn phòng, làm vệ sinh... (và một số bạn đó khá lười, chẳng để ý gì đến việc mình làm, không biết các bạn đó có cho mình là ngu không) để làm chứng bằng đời sống cho các bạn đó, hy vọng các bạn đó thấy điều tốt và các bạn đó tìm hiểu đạo chăng! Một bạn khác chia sẻ: cần phải tổ chức, phân công rõ ràng, chứ không nên hy sinh kiểu như vậy! Bạn sau này cho rằng, nếu chỉ làm thôi, mình sẽ bị dồn nén, mà cũng chẳng làm chứng được gì!
Như thế nào mới là đúng? Như thế nào là yêu thương thực sự? Phải chăng nên nhịn nhục, cam chịu và phục vụ? hay phải nói ra, phân công rạch ròi?
Yêu là muốn điều tốt cho người khác!
Làm sao để giúp tha nhân triển nở toàn diện, về thể xác về tinh thần!
Nếu hy sinh, mà giúp các bạn mình triển nở, trưởng thành, thì mình cần hy sinh phục vụ! Nhưng nếu điều đó làm cho các bạn ỷ lại, làm hư các bạn, thì đó không những không phải là hành vi bác ái, mà lại còn phản bác ái nữa. Cho nên, có khi nhịn nhục, hy sinh phục vụ, là yêu thương, là bác ái; và có lúc phải rạch ròi, phải đòi hỏi, phải cương quyết, mới là bác ái, mới là yêu thương thực!
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, làm mọi cách để người khác tốt hơn, triển nở hơn, hạnh phúc hơn.
4. Truyền giáo
Khánh Nhật Truyền Giáo. Ngày Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.
Chúng ta xin Chúa cho có nhiều vị quảng đại hiến thân cho công việc thánh thiện này.
Thời buổi này, người ta cần chứng nhân hơn người giảng dạy. Người ta được đánh động bởi những người có đời sống tốt, hơn là những người chỉ biết nói hay. Nếu chúng ta sống tốt, là chúng ta đã đang rao giảng về Thiên Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta!
Sống Tin Mừng, đòi chúng ta phải vui tươi triển nở, bình an hạnh phúc. Nếu Tin Mừng không giúp chúng ta bình an hạnh phúc hơn, thì cuộc sống của chúng ta là một phản chứng. Một kitô-hữu, là người cũng chung thân phận với con người ngày nay, nhưng cũng là người được đức tin, được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, nên cuộc sống của họ khác với những người khác. Sống Tin Mừng, là sống giữa những thực tại trần gian, nhưng không thuộc về trần gian. Kitô-hữu, sống giữa lòng thế giới, nhưng như ngọn đèn soi sáng, để con người thời đại này được chỉ lối về với Thiên Chúa.
----------------------------------
Người Kitô hữu phải luôn là người bước tới. Khi dừng chân là chúng ta đang tụt hậu và bị TN30-A140
Người Kitô hữu phải luôn là người bước tới. Khi dừng chân là chúng ta đang tụt hậu và bị lỗi thời. Mọi sự trên trời, dưới đất đang di động và lòng người luôn đổi thay hướng tới. Cuộc sống sinh hoạt của con người trên thế giới không đồng đều như nhau. Sự khác biệt về gia cảnh giúp mọi người thể hiện lòng bác ái và nâng đỡ nhau trong đời sống. Ngày từ những buổi sơ khai, trong xã hội loài người đã có sự đối xử chênh lệch giữa kẻ giầu người nghèo, kẻ sướng người khổ và người làm chủ kẻ làm tôi. Tác giả sách Xuất Hành đã nói đến sự hỗ tương trong cuộc sống: Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm và chớ bắt nó chịu lãi nặng (Xh 22, 24). Ngoài việc đối xử công bằng, con người cần có đức ái yêu thương chia sẻ với nhau. Vì trong cuộc sống của mỗi người có nhiều những éo le và sự cố khó lường. Người ta nói: Nghèo lại mắc cái eo. Đôi khi những sự khó xảy ra dồn dập, cái khó khăn này kéo theo cái khó khác, họa vô đơn chí là thế.
Đêm năm canh, ngày sáu khắc. Tạo Hóa đặt để sự liên đới giữa muôn vật trong thời gian và không gian. Đêm về mọi loài súc vật đồng hoang bắt đầu ra đi tìm kiếm của ăn. Khi ánh bình minh ló dạng, mọi loài thú vật rừng xanh lui vào hang hốc tìm nơi náu ẩn. Con người bắt đầu một ngày mới lo lao động kiếm sống. Trái đất vòng xoay đêm qua ngày tới, giúp mọi loài thụ tạo sinh sống hài hòa. Con người cũng tựa dựa vào khoảnh khắc thời gian để tập tành, lập công và đối nhân xử thế: Nếu ngươi nhận áo xống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn (Xh 22, 25). Mặt trời lên hay mặt trời lặn là cách diễn tả bình dân của ngôn ngữ loài người. Với lý trí khôn ngoan hiểu biết, con người căn cứ vào sự di chuyển vòng xoay của mặt trời, mặt trăng và thời tiết để ấn định cuốn lịch tính đếm ngày giờ năm tháng. Dùng thời gian đo lường để con người tạo những hiệp định, giao kèo, khế ước, qui ước, hòa ước, giao ước hay thỏa thuận trao đổi của cải với nhau.
Ngày xưa, ngay trong những cộng đồng nho nhỏ đã có sự tín nhiệm nhau qua việc cầm cố và trao đổi để sinh lợi. Xã hội văn minh ngày nay, có rất nhiều nhìn thức kinh doanh kiếm lời qua việc cầm cố mượn nợ. Các chủ ngân hàng dùng việc vay mượn nợ hoặc cầm cố để kiếm lợi nhuận qua việc trả góp dần. Có thể trả nợ hàng tháng (mortgage) nhà cửa, xe cộ, tài sản hay trả nợ thẻ tín dụng. Còn có nhiều tiệm cầm đồ (Pawn hay pledge), nhận tiền thế chân trong một thời gian. Mọi thứ từ thượng vàng hạ cám, đều có thể mang đến tiệm cầm đồ để cầm cố kiếm tiền xài trước. Sự trao đổi hợp lệ có giấy chứng nhận và điều kiện trao trả đúng ngày tháng. Nếu quá thời gian qui định, chủ nhân món hàng có thể sẽ không nhận lại được món đồ đã đưa cầm cố. Ngoài ra, trong xóm làng, còn có kiểu mướn nóng (mượn nóng), người mượn phải chịu trả tiền lời cao hơn, có khi 20-30%. Đây là một cách cho vay nặng lãi kiếm lời dễ dàng của người đời. Là Kitô hữu, trong việc cầm cố, chúng ta cần đối xử với nhau khoan dung hơn, cần có sự công bằng và bác ái nữa.
Tạo Hóa yêu thương tất cả mọi loài thụ tạo, nhưng mức độ và cách diễn tả rất khác biệt. Qua việc nghiên cứu của khoa học, chúng ta có thể nhận biết phần nào sự bày tỏ tình cảm của các loài vật thấp kém tùy theo cấp bậc. Con người cao vượt trên mọi loài thụ tạo, bởi vì con người được tạo dựng do tình yêu và cho tình yêu. Vì có lý trí, tự do và tình cảm, nên con người có thể chọn lựa đối tượng yêu và thể hiện tình yêu một cách đặc thù. Bài phúc âm hôm nay, những người thông luật hỏi thử Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất (Mt 22, 36). Đã gọi là nhà thông luật thì đương nhiên họ phải hiểu được luật nào là trọng. Biết luật, hiểu luật và giữ luật mới là bước đầu, nhưng sống ý nghĩa thật của luật mới là điều quan trọng. Lề luật giúp người ta sống đạo với cái tâm chính thật. Luật lệ như cái khung, khuôn mẫu và dẫn đưa chúng ta vào đời sống tình yêu nội tâm. Chúa Giêsu muốn mọi người đi vào căn cốt của giới luật.
Trả lời câu hỏi của các nhà thông luật: Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: Người hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22, 37). Yêu mến Thiên Chúa toàn vẹn. Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Chúng ta tự vấn phải yêu mến Thiên Chúa thế nào khi chúng ta không thể hình dung, vì Thiên Chúa vô hình. Nhiều khi chúng ta chỉ mạnh miệng tuyên xưng và bày tỏ tình yêu qua ngôn ngữ và sự diễn tả bề ngoài, mà tấm lòng thì rỗng tuếch. Chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Nhớ câu tuyện khi người ta bắt bẻ Chúa về việc giữ truyền thống rửa tay trước khi ăn, Chúa đã trả lời: Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết: Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mk 7, 6).
Yêu mến Thiên Chúa phải đi đôi với sự yêu mến tha nhân. Chúa Giêsu liên kết hai giới răn với nhau: Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39). Yêu thương kẻ khác thật sự không dễ chút nào. Là con người, tuy rằng chúng ta cùng chủng loại. Nhưng chúng ta có quá nhiều sự khác biệt giữa nhau. Sự khác biệt về dòng giống, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, mầu da, văn hóa, ý thức hệ … Làm sao chúng ta có thể nói yêu thương những người chúng ta chưa bao giờ gặp, không biết thân phận gia cảnh của họ và yêu cả những kẻ thù địch? Yêu thương kẻ khác như chính mình là một thách đố về đức ái vô giới hạn. Chúng ta phải cố gắng tiến tới không ngừng. Tình yêu tha nhân như bơi lội trong biển tình, chúng ta chẳng bao giờ yêu cho thỏa và không bao giờ có thể đáp ứng tròn đầy. Chúng ta thể hiện tình yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa Kitô là luôn tôn trọng, chia sẻ, từ bi, khoan dung, tha thứ cho những người chúng ta gặp gỡ và ước muốn điều lành cho hết mọi người.
Nhà truyền giáo sống tại New Guinea kể câu truyện. Một ông già mới tòng giáo, thường mỗi ngày đến bệnh viện để đọc phúc âm cho các bệnh nhân nghe. Vào một ngày kia, ông không thể đọc được nữa. Bác sĩ đã khám mắt và khám phá ra rằng tình trạng mắt của ông rất tồi tệ và rất có thể sẽ bị mù trong vòng một hay hai năm. Sau đó, trong một thời gian, ông biệt tăm không đến bệnh viện nữa. Không ai biết được điều gì đã xảy ra cho ông. May mắn, một người trẻ đã tìm thấy ông và đưa bác sĩ tới gặp ông. Ông già giải thích cho bác sĩ là ông đang bận rộn để học thuộc bản Kinh Thánh trong khi ông còn nhìn thấy. Ông nói: Để sớm khi tôi trở lại bệnh viện, tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi là đọc phúc âm cho các bệnh nhân. Ông đã hiến tặng cái mà Chúa đã ban cho ông.
Yêu thương là cho đi. Yêu thương là chia sẻ. Ai cũng có trái tim yêu thương. Ai cũng có thể cho. Trái tim là biểu tượng của tình yêu. Càng yêu thì trái tim càng rộng mở. Trái tim yêu thương sẽ không có giới hạn. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một khả năng yêu thương. Yêu thương là chu toàn lề luật. Muốn sự lành và sự tốt cho người khác. Giúp họ tìm về đường ngay nẻo chính. Thánh Phaolô đã cố công lôi kéo nhiều người đến phụng thờ Thiên Chúa: Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, làm sai để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật (1Thess 1, 9). Phaolô đã cho đi cả cuộc đời để phục vụ Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Thánh Augustinô dạy: Yêu đi, rồi làm. Xin cho chúng con được thấm nhuần tình yêu của Chúa để chúng con ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.
-------------------------------
Nhóm Pharisiêu phái người đến thử Đức Kitô hỏi người rằng: giới răn nào quan trọng nhất. Đức TN30-A141
Nhóm Pharisiêu phái người đến thử Đức Kitô hỏi người rằng: giới răn nào quan trọng nhất. Đức Kitô nói cho họ biết tất cả các giới răn lề luật dậy từ thời các tổ phụ cho đến các tiên tri đều tóm gọn trong hai điều. Đó là mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và điều thứ hai sanh ra từ điều thứ nhất là yêu thương tha nhân chứ chính thân mình.
Hầu như trong chúng ta ai cũng biết làm thế nào để yêu Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn nhưng khi áp dụng điều thứ hai vào trong thực tế cuộc sống chúng ta lại gặp khó khăn. Câu chuyện về người giầu có trong phúc âm thánh Marcô 10,17-31 cho thấy rõ khó khăn trên. Chàng thanh niên giầu có mến Chúa với tất cả tấm lòng, giữ tất cả các luật lớn nhỏ. Anh gặp Đức Kitô và nói thế. Đức Kitô khen anh và thêm anh còn thiếu một điều cần phải làm đó là phục vụ tha nhân. Anh buồn rầu bỏ đi và ta không rõ số phận anh ta sau này ra sao. Yêu thương tha nhân đòi hỏi chúng ta phải làm gì cho tha nhân, không thể yêu bằng nói suông nhưng phải hành động thực tế. Tình yêu Thiên Chúa mở đường dẫn ta tới yêu tha nhân. Như thế yêu thương tha nhân chính là phục vụ tha nhân trong tình yêu Chúa. Phục vụ tha nhân trong cộng đoàn đức tin có tên gọi riêng. Tên đó là thừa tác viên. Họ là những người tình nguyện làm công việc chung trong cộng đoàn. Mỗi Kitô hữu cần trở thành một thừa tác viên trong cộng đoàn. Tuỳ hoàn cảnh và thời gian cũng như tài năng Chúa ban cho mỗi người mà trách nhiệm công việc thừa tác cho xứng với tài năng Chúa ban. Công việc phục vụ nào cũng quí, cũng trọng, cũng cao đẹp bởi vì chúng ta thực thi điều răn thứ Hai đó là thương yêu tha nhân qua hành động cụ thể. Chúng ta phục vụ không vì tư lợi hay bè phái mà phục vụ tha nhân, làm cho Danh Chúa cả sáng hơn. Số giờ, số lượng phục vụ rất quí nhưng phẩm chất phục vụ còn quan trọng hơn bởi nó nói lên tâm tình, lòng quí mến, và tình yêu phục vụ. Phục vụ khi có yêu cầu tại chỗ là điều tốt nhưng đó không phải là công việc thừa tác bởi thiếu chuẩn bị, thiếu hy sinh định từ trước. Công việc thừa tác có lịch trình biết trước, được chỉ định từ trước nên thừa tác viên trước khi đến cộng đoàn đã chuẩn bị tâm tình, tinh thần phục vụ trong khi đáp ứng nhu cầu tại chỗ thiếu những chuẩn bị trên, mặc dù người đó quen công việc làm thuần thục nhưng vẫn không thể coi là nhiệm vụ của thừa tác mà chỉ do lòng bác ái giúp khi được yêu cầu.
Cảm xúc của con tim dẫn đến hành động. Nếu tình yêu Chúa đầy ắp trong tim ta không thúc đẩy ta nhận một trách nhiệm nào đó trong cộng đoàn đức tin thì rõ ràng là có điều chi không ổn. Việc cần phải tìm hiểu là điều chi ngăn cản ta thực thi điều răn thứ hai đó là yêu tha nhân. Rất khó có thể biện hộ cho hành động thiếu yêu thương này bởi Kitô hữu tham dự bí tích Thánh Thể mà lại cô lập mình khỏi cộng đoàn đức tin thì không thể nào nói lên đầy đủ í nghĩa của Thánh Thể. Người ta có thể là Kitô hữu tốt nhưng không thể là môn đệ của Đức Kitô bởi là tông đồ là phục vụ mà thiếu phục vụ chính là Kitô hữu hữu danh, chưa chính thức là môn đệ Đức Kitô.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Văn Tươi. Utica-NY)
Con người luôn khao khát và tìm kiếm hạnh phúc, vì hạnh phúc mang lại cho ta niềm vui, sức TN30-A142
Con người luôn khao khát và tìm kiếm hạnh phúc, vì hạnh phúc mang lại cho ta niềm vui, sức sống và nghị lực. Để hiểu thế nào là tình yêu và hạnh phúc, thì chúng ta cần phải biết yêu thương và sống cho tha nhân, đó cũng là giới luật yêu thương của Chúa Giê-su. Người ta không thể có tình yêu và hạnh phúc nếu người đó không biết yêu thương. Lời yêu thương luôn là lời êm đẹp, quyến rũ và hấp dẫn. Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất của con người.
Ngày nay, người ta nói rất nhiều về tình yêu, tình yêu được diễn tả trong thơ ca, trong âm nhạc, trong phim ảnh v.v. Tình yêu thì rất đẹp. Nhưng để hiểu và sống đúng với giá trị của tình yêu là điều mà chúng ta cần đáng quan tâm và chia sẻ với nhau qua thông điệp Lời Chúa hôm nay. Như nhà thông luật đặt ra câu hỏi với Chúa Giê-su:" Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là quan trọng nhất?" Đức Giê-su đáp:" Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn người và yêu người thân cận như chính mình vậy." Lời Chúa Giê-su giải thích rất rõ ràng, yêu Chúa chính là yêu người. Yêu người chính là yêu Chúa. Vì người ta không thể yêu Chúa mà không yêu thương người anh em thân cận. Như lời Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói rằng, đạo đức không phải là một thứ sản phẩm để người ta quảng cáo, nhưng là để sống và thực hiện đời sống đức tin, nó được biểu hiện trong mối tương quan với tha nhân và Thiên Chúa.
Người ta có thể dễ dàng nói lời yêu với Chúa, nhưng lại rất khó nói lời yêu thương với một người phản bội, đối nghịch và là kẻ thù với mình. Hằng ngày, có những người hàng xóm đang sống chung quanh ta, họ đang làm cho ta phải sự ganh tỵ và ghen ghét vì họ giàu có, tài năng và hạnh phúc hơn ta. Những thứ cám dỗ đó làm cho ta nhìn người thân cận như là đối thủ cạnh tranh hơn là đón nhận và cảm phục họ, và tha nhân trở thành địa ngục cho mình. Hơn nữa, trong đời sống gia đình, có biết bao gia đình hôm nay đang tan vỡ và ly dị. Họ không có hạnh phúc vì có quá nhiều sự khác biệt trong cuộc sống hôn nhân. Họ không còn cảm nhận được tình yêu và hy sinh dành cho nhau, thì lời nói tha thứ, khoan dung lại càng trở nên khó khăn hơn. Họ phải sống trong đau khổ, uẩn ức và chịu đựng, đó là những nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ hạnh phúc trong đời sống gia đình. Cuộc sống gia đình hôm nay đang gặp phải những thách đố và khó khăn, vì họ có quá nhiều áp lực bởi sự so sánh giàu nghèo, tính toán hơn thua. Tình yêu được đặt trên cung bậc bởi sự đánh giá giàu nghèo và địa vị. Cho nên, con người luôn đi tìm hạnh phúc trong cái hoàn hảo, và kiếm tìm tình yêu trong ảo tưởng hơn là những gì họ đang có. Đó là thứ tình yêu "ảo" qua các trang mạng, sách báo và phim ảnh mà người ta cho đó là thật. Trong khi đó, gia đình mái ấm hạnh phúc thì lại coi thường và bị bỏ rơi. Người ta thường coi hạnh phúc là được hưởng thụ hơn là sự hy sinh. Thật sự, không có hạnh phúc tột đỉnh nào trên trần gian này lại phải không phải trả giá để đạt được nó.
Tình yêu chỉ có giá trị và mang lại hạnh phúc đích thực khi người ta biết chấp nhận và sống cho tình yêu. Như lời Chúa Giê-su dạy: " Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu." Chỉ có tình yêu nơi Đức Giê-su là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu làm xóa tan hận thù. Tình yêu làm biến đổi thù thành bạn. Tình yêu là sự tha thứ cho kẻ đã giết mình. Tình yêu đã chữa lành biết bao con người tội lỗi quay trở về. Tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên tất cả. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người hạnh phúc, nên Ngài đã ban Con Một của Ngài là chính Đức Giê-su đã chết cho nhân loại và phục sinh để ban ơn cứu độ cho con người. Ai tin thì sẽ được sống và hạnh phúc đời đời.
Tóm lại, nếu chúng ta muốn được yêu và sống yêu thương như Chúa yêu, thì chúng ta hãy vượt lên trên chính mình, đi ra khỏi sự "cái tôi" thấp hèn và ích kỷ. Tình yêu là sống. Sống là để yêu. Tình yêu mang lại hạnh phúc, nhưng tình yêu phải được gắn liền với tình yêu thạp giá Chúa Ki-tô, thì mới đơm hoa kết trái của đức ái trọn hảo. Như Thánh Phao-lô viết: " Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả và chịu đựng tất cả".
Yêu như Chúa yêu. Tình yêu là không chỉ biết đón nhận mà còn phải biết cho đi. Cho và nhận là bản chất của tình yêu, như vị thánh Đức Giáo Hoàng Gioan PLII đã nói với kẻ đã sát hại ngài rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Vì lời tha thứ luôn là điều cao quý nhất làm xóa tan lòng hận thù và chữa lành vết thương tâm linh, để ta có sức mạnh tiếp tục yêu thương. Amen.
-------------------------------
Tin mừng Mt 22, 34-40:
Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hãy yêu mến Chúa TN30-A143
Tin mừng Mt 22, 34-40: Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”...
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác. Họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi Chúa Giêsu:
"Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì chắc chắn Chúa sẽ bị một trong hai phe chống đối.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau. Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”. Đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Chính vì thế, thánh Gioan mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (4,21)[1]
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “Mến Chúa Yêu Người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rằng: Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một viên đá vào cánh cửa chiếc xe. Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
"Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?"
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe...
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: "Em xin lỗi! Nhưng em ... em ... không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại...Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng".
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường.
"Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá". Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ:
"Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà. Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé.
Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có ai đó ném một viên đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
----------------------------
[1] JKN, CN 30A TN
-------------------------------
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín hữu thường nghe và đọc đi TN30-A144
Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín hữu thường nghe và đọc đi đọc lại nhiều lần trong Thánh kinh, trong sách tu đức và trong các bài giảng giải. Đồng thời ta cũng nghe nói đến những câu chuyện về tình yêu trong tiểu thuyết, những loại phim ảnh về tình yêu và những mối tình lãng mạn của những cặp trai gái mới lớn lên. Do đó mà quan niệm về tình yêu trong Thánh kinh nơi loài người đã bị nhiễm độc bởi những quan niệm về tình yêu trong sách vở, báo chí và phim ảnh. Vì thế nhiều khi chữ yêu vọng lên như một lời nói trống rỗng bởi vì người ta nói về yêu mà không thực hành.
Còn tình yêu trong Thánh kinh không phải là trống rỗng và nông cạn. Đức Kitô đến diễn tả tình yêu bằng cách chết cho người yêu là nhân loại tội lỗi. Và tình yêu theo nghĩa Phúc âm đã trở thành một biến cố tử nạn trên thập giá. Trong Phúc âm hôm nay Chúa trích sách Đệ nhị Luật (Đnl 6:5) để trả lời người thông luật trong nhóm Pharisêu: Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22:37). Yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.. là kiểu nói của người Do thái nói lên tính cách toàn diện và trọn vẹn của tình yêu và có nghĩa là yêu bằng toàn diện con người. Vì thế trong Phúc âm thánh sử Mác-cô có thêm hết sức (Mc 12:30) vào từ ngữ yêu mến, thì mức độ yêu mến mà Chúa đòi nơi loài người phải dành cho Chúa trong Phúc âm thánh sử Mát-thêu và thánh sử Mác-cô cũng vẫn như nhau, không hơn không kém.
Còn giới răn thứ hai được trích từ sách Lêvi (Lv 19:18) cũng giống giới răn thứ nhất là: Ngươi phải yêu cận nhân như chính mình (Mt 22:39). Mười Giới luật Thiên Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai (Xh 20) là những đòi hỏi tối thiểu mà người tin yêu và kính sợ Chúa phải thực hành. Những Giới luật này được các nhà lãnh đạo Do thái giáo phân chia thành 613 khoản luật khác nhau gồm 248 khoản truyền dạy và 365 khoản cấm đoán. Bây giờ Đức Kitô tóm tắt lại chỉ trong Hai Giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người hoặc có thể nói là một Giới răn Yêu thương kép. Câu trả lời của Chúa cho thấy Chúa trung thành với truyền thống và gia sản Do thái giáo. Đã yêu mến Chúa thì cũng phải yêu mến cận nhân, nhìn nhận cận nhân như chính mình. Yêu mến Chúa và yêu mến cận nhân là hai điều răn quan trọng nhất, gắn liền với nhau, không thể tách biệt như lời Chúa phán: Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy (Mt 22:40). Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu nhắc nhở cho ta: Nếu ai nói họ yêu mến Chúa mà ghét tha nhân là người nói dối (1Ga 4:20-21).
Lý do ta phải yêu mến tha nhân vì tha nhân được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc. Yêu mến tha nhân có thể đi kèm với cảm giác, nhưng không phải là cảm giác. Yêu phải là việc cam kết và quyết định của lí trí. Ta có thể không có cảm tình với người nọ người kia vì tính tình, tập quán, cách nhìn đời cũng như cách nói năng hành động của họ khác biệt với ta. Đó là cảm giác, cảm tình của ta. Tuy nhiên ta phải làm quyết định không được ghét bỏ, ngược đãi và áp bức người tha nhân. Yêu tha nhân còn là cầu nguyện cho họ và giúp đỡ người cần cơm ăn, áo mặc và nhà ở như lời Chúa dạy trong sách Xuất hành hôm nay (Xh 22:20-25).
Chúa dạy ta phải yêu cận nhân như chính mình như thánh Phaolô vọng lại: Không ai ghét thân xác mình bao giờ (Eph 5:29). Yêu mình đây không hiểu theo nghĩa tự ái quá đáng. Yêu mình có nghĩa là biết đánh giá những gì Chúa ban. Yêu mình là bằng lòng với thân phận và số phận, chấp nhận mình, thoả mãn với những gì mình có: tài năng, sức khoẻ, của cải, nhan sắc. Yêu mình còn có nghĩa là biết tha thứ cho mình, sau khi mình đã làm lỗi. Người ta thường chỉ nghĩ đến việc tha thứ cho người khác, nhưng ít ai nghĩ đến chuyện phải tha thứ cho mình ngay cả sau khi xưng thú tội lỗi và được thứ tha. Sở dĩ người ta không nghĩ đến việc tha thứ cho mình, vì có những khi người ta muốn nuôi cảm tưởng trách mình sau khi đã làm lỗi và phạm tội hoặc vì không muốn nhận mình có lỗi.
Khi người ta không yêu mình, người ta cũng khó có thể thực sự yêu ai. Khi người ta không thoả hiệp với chính mình, với tài năng, của cải mình có, với tầm thước, vóc dáng, diện mạo và điệu bộ của mình, thì người ta khó có thể dành thời giờ lưu ý đến tha nhân. Khi người ta không bằng lòng với số phận hẩm hiu, hoặc số kiếp lầm than của mình, người ta có thể đóng khung trong những cảm tình thương hại mình. Khi người ta không bằng lòng với những sắc thái thuộc về mình hoặc những gì mình có, người ta sẽ bận tâm, áy náy và lo ngại về mình. Do đó người ta tìm cách biện hộ cho mình và phê bình chỉ trích người khác hầu che đậy những khuyết điểm của mình. Đọc văn chương Việt Nam ta thấy có những nhân vật không bằng lòng với số phận. Người có thiên hương quốc sắc như Vương Thúy Kiều nhưng lại gặp mệnh bạc. Người có tài làm thơ với lời thanh, nhưng hàm chứa hai ý: tục hoặc thanh như Hồ Xuân Hương, mà cứ phải làm kiếp vợ lẽ. Người ở trong hoàng cung nhưng không còn được vua đoái hoài đến như Cung oán Ngâm khúc.
Khi người ta phải mang những bệnh tật về thể xác và tinh thần lâu dài, người ta có thể phàn nàn, kêu trách và oán hận Chúa. Mà trách móc và oán hận Chúa thì không thể nói được rằng người ta yêu mến Chúa bằng một tình yêu thanh thoát và bình thản. Vậy thì bao lâu ta còn mang bệnh tật, khổ đau, thiệt thòi trong thân xác và tâm hồn mặc dầu đã đi nhà thương và cộng tác với bác sĩ y khoa hoặc bác sĩ tâm linh để điều trị, ta cầu xin Chúa cho được biết chịu đựng, vác thánh giá của bệnh tật, đau khổ vì yêu mến Chúa. Ta dâng lên Chúa bệnh tật, đau khổ ta đang phải chịu để được hòa lẫn với những hi sinh thánh giá của Chúa để đền bù tội lỗi mình và tội lỗi thế gian. Ta xin Chúa giúp để biết tìm ra ý nghĩa của thánh giá đau khổ. Chấp nhận đau khổ và thánh giá vì yêu, thánh giá và đau khổ mới có thể biến đổi tâm hồn và đời sống và trở thành phương thế cữu rỗi.
Lời cầu nguyện xin Chúa dạy cho biết yêu ba chiều:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến
dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người.
Xin dạy con biết sống trong tâm tình biết ơn
về những hồng ân Chúa ban: lớn hoặc nhỏ, ít hay nhiều.
Cũng xin dạy con nhận ra hình ảnh của Chúa nơi tha nhân.
Và xin cho con biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh,
biết bằng lòng với số phận và thoả hiệp với đời sống,
để con có thể yêu Chúa và tha nhân với tâm hồn rộng mở. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Mt 22, 34-40:
Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu TN30-A145
Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô)...
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa...!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.
1. Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,37-40).
Khi nói "Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy", Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).
2. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật, đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: "Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ [...] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[...] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3).
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: "Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1 Ga 4,16), còn nếu: "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được... Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng... Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện...
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia..., nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
-------------------------------
Sau khi đám biệt phái Pha-ri-sêu gài bẫy Đức Giê-su về vụ “nộp thuế cho Xê-da” (CN.XXIX/TN-A) TN30-A146
Sau khi đám biệt phái Pha-ri-sêu gài bẫy Đức Giê-su về vụ “nộp thuế cho Xê-da” (CN.XXIX/TN-A) bị thất bại thê thảm, thì lại đến lượt đám Xa-đốc gài bẫy Người về vụ “Kẻ chết sông lại”. Đám Xa-đốc vốn không tin có sự sống lại, nên mới đưa ra trường hợp một người đàn bà liên tiếp sống với 7 đời chồng (là anh em ruột, cứ người anh chết đi thì lại lấy người em kế, cho đến khi cả 7 anh em đều chết hết). Sau đó người đàn bà cũng chết. Họ hỏi Đức Giê-su: “Vậy khi sống lại, thì bà ấy sẽ là vợ ai trong số 7 người chồng đó?” Thực tế, không thể và không hề có chuyện như vậy. Nhóm Xa-dốc phịa ra một câu chuyện không tưởng, mục đích chỉ để dồn Đức Giê-su vào thế bí, nhằm hạ nhục Người. Đức Giê-su đã giáng một đòn rất mạnh, khiến họ phải câm miệng: "Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mt 22, 29-30).
Vì liên tiếp thất bại, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại.” (Mt 22, 34) tìm phương kế tiếp tục hành động ám muội của họ. Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Đáng tiếc là họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).
Bài Tin Mừng hôm nay CN.XXX/TN-A – Mt 22, 34-40) trình thuật về vụ những “nhà thông luật” Pha-ri-sêu họp nhau lại bàn mưu tính kế, rồi đặt câu hỏi để thử xem Đức Giê-su có “thông luật” không? Họ hỏi: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Với bộ luật Mô-sê có tới 613 khoản (gồm 248 lệnh truyền và 365 điều cấm), nếu gặp phải tay mơ, thì “bí rị” là cái chắc; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su trả lời một cách trơn tru: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 36-40).
Mới thoạt nghe câu trả lời của Đức Giê-su (yêu Chúa và yêu người thân cận), ai cũng cho là hữu lý, vì nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha thì yêu Người “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là điều tất nhiên; còn người thân cận thì hẳn phải là những người máu mủ ruột thit (cha mẹ, anh chị em), yêu mến họ là phải đạo làm người. Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa yêu tất cả loài người, mà Người chỉ dạy yêu những người ruột thịt thôi sao? Thắc mắc này không được thánh Mat-thêu trình thuật, nhưng theo thánh Lu-ca thì đó cũng là thắc mắc của chính người đã hỏi Đức Giê-su về “Điều răn trọng nhất” (Lc 10, 29-37): Nhà thông luật “muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Chỉ đến khi nghe hết “Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 30-37), nhà thông luật mới vỡ lẽ để hiểu ra rằng “người thân cận” không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình ruột thịt, mà là tất cả “những người ta gặp trên đường” hay nói rõ hơn, đó là “người trong bốn bể đều là anh em” (“tứ hải giai huynh đệ”), vì tất cả đều là con cái của Người Cha duy nhất trên trời: “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta”.
Tới đây thì mọi sự đã rõ ràng: “Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người” (St 1, 27) thì tất cả những tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất, bởi tất cả đều giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, mà lại dựng nên con người giống hình ảnh Người, vậy phải hiểu vấn đề như thế nào cho ổn? Vấn nạn này cũng đã gây nhiều tranh cãi, mãi đến Công Đồng Va-ti-ca-nô II, vấn đề mới sáng tỏ: “Mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Thật vậy, A-đam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến, là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô, A-đam Mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Cl 1, 15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của A-đam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch.” (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes”, số 22).
Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Người. Do đó, thánh sử Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21). Đó cũng chính là nguyên cớ khiến thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật vào một giới răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật; Các điều răn đều tóm lại trong lời này: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 8-10); “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2, 8).
Chính Con Người không những đã dạy bảo mà còn thực hành điều đó trên Thánh giá. Khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc người tín hữu được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu được cả thế giới công nhận và tín phục: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…”), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40).
Không cần phải nói ở đâu xa, cứ xem ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Ki-tô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Viết tới đây, kẻ viết bài này bỗng liên tưởng tới một sự kiện cũng xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Đó là câu chuyện bộ phim “Chuyện Tử Tế” của nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã gây chấn động dư luận trong nước và cả thế giới.
Bộ phim được sản xuất và hoàn tất năm 1985, nhưng bị cấm phát hành, mãi đến năm 1987 mới được công chiếu. Bộ phim đã khắc họa hình ảnh của những người dân nghèo khổ dưới chế độ bao cấp của xã hội VN, để từ đó tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: "Thế nào là sự tử tế?" Tác phẩm sau đó đã giành giải Bồ Câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được nhiều đài truyền hình mua bản quyền để phát lại. Khi phim “Chuyện Tử Tế” được trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), một phóng viên đã hỏi: “Người Ki-tô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Đạo diễn Trần Văn Thủy đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Ki-tô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Ki-tô hữu.
Là Ki-tô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19-20)? Câu trả lời thật hiển nhiên: “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Ki-tô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Ki-tô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Ki-tô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội. Nhiều khi máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa.” (SL Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 5).
“Máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Ki-tô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng-Thập-Tự-Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
-------------------------------
Kinh thưa quý vị!
Thiên Chúa là nguồn sống, nguồn sống vĩnh cửu, đích thực và duy nhất. Vì sự sống từ nơi Thiên TN30-A147
Thiên Chúa là nguồn sống, nguồn sống vĩnh cửu, đích thực và duy nhất. Vì sự sống từ nơi Thiên Chúa phát xuất ra, chứ sự sống không do bởi con người. Vì thế, nguồn sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa là điều quan trọng nhất. Chủ đề Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật XXX TN (A), tuy không dài, nhưng thật quan trọng, thật cao siêu. Vì đây là tận cùng là mấu chốt của vấn đề Đức Tin Kitô giáo.
Vâng, tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, tất cả, chung quy, mọi sự rồi phải đến cùng đích đó là: “SỰ SỐNG VIÊN MÃN”. Từ đó, việc giữ đạo mới thật sự có giá trị.
Tại sao chúng ta nói: Thiên Chúa là tình yêu, vâng, quả thật là như thế. Bởi vì, Thiên Chúa là sự sống, là nguồn sống. Nếu như, Thiên Chúa không là tình yêu, thì tất không có sự sống. Chúng ta thấy, tại sao có ma quỷ? Bởi vì, nơi nó không có sự sống. Nó ghen ghét, nó có hận thù, nó là cho chết, tìm cách hãm hại. Thì chúng ta gọi đó là ma quỷ. Tại sao gọi là ma quỷ? Thưa, quỷ là kẻ đầu nêu, là kẻ gieo mầm sự chết. Tức satan, có nghĩa là kẻ phản nghịch, kẻ chống lại Thiên Chúa. Còn, ma là linh hồn người ta bị quỷ cám dỗ theo nó. Cho dù, linh hồn con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, hay là quỷ đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không tiêu diệt quỷ hay linh hồn đó. Bởi vì Nguồn sống bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng. Thiên Chúa chỉ tạo dựng một lần và mãi mãi, không tạo dựng hai lần. Đó là nguyên lý nguồn sống từ Thiên Chúa, hay nói cách khác, ngoài Thiên Chúa thì không có nguồn sống. Từ chân lý nầy, chúng ta suy ra, sự sống của linh hồn và sự sống của thân xác. Sự sống của linh hồn tuy siêu nhiên, nhưng bất tử, vĩnh cửu, đời đời. Chúng ta không nhìn thấy sự sống của linh hồn bằng con mắt thể xác. Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy sự sống của linh hồn qua con mắt đức tin. Bởi vì, điều gì nhìn thấy qua con mắt thể xác, thì điều ấy sẽ giới hạn. Vì vậy, qua sự sống hữu hạn, chúng ta được nhìn thấy sự sống vô hạn, đó là sự sống của linh hồn. Dù tin hay không, thì đây là chân lý.
Từ sự sống thể xác, chúng ta suy về sự sống của linh hồn, từ đó, chúng ta cần tìm kiếm và tôn thờ Thiên Chúa, Đấng là nguồn của sự sống vĩnh cửu và hữu hạn.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy luật của sự sống. Vâng, luật của sự sống đó là “YÊU THƯƠNG “. Vì tình yêu gắn liền với sự sống, cả nghĩa đen lẫn nghĩa siêu nhiên. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, hơn là quyền năng của Thiên Chúa. Vì quyền năng của Thiên Chúa làm cho chúng ta xúc phạm, còn tình yêu thương của Thiên Chúa, thì làm cho chúng ta được sống. Vâng, Thiên Chúa đã tỏ hiện tình yêu của Ngài qua Con Một- là Đức Giêsu –Kitô. Vì nếu chúng ta không đặt tình yêu Thiên Chúa lên trên tất cả, thì chúng ta không thể có sự sống vĩnh cửu được. Vì sự sống vĩnh cửu chỉ có ở một nơi duy nhất đó là Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể vừa tôn thờ Thiên Chúa là tình yêu, mà chúng ta lại không trao ban tình yêu cho tha nhân. Trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 39 b) hôm nay, gọi là “người thân cận “: Người thân cận có nghĩa là: Cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, hàng xóm,tất cả những người chúng ta gặp hằng ngày, nơi công xưởng, đồng nghiệp, học đường, ngoài chợ, bạn hàng. Tóm lại là tất cả mọi người chúng ta gặp từ người thường xuyên gặp đến những người ít găp, mới gặp. Trong cộng đoàn dòng tu, anh em cùng dòng, bề trên, bạn hữu, tất cả những anh chị em khác dòng, những người giúp việc, tất cả mọi người chúng ta gặp trên đường đi. Cụ thể như trường hợp các thánh. Các thánh tu trì không sống trong môi trường gia đình theo huyết thống, nhưng trong một môi trường gia đình thiêng liêng. Các thánh sống trong bậc gia đình, thì chu toàn bổn phận vì yêu thương gia đình đúng cách. Yêu như chính bản thân mình, là biết “hy sinh” cho người thân cận.
Chúa Giêsu day cho chúng ta biết yêu thương tha nhân như chính mình, là dạy cho chúng ta biết yêu thương đúng cách. Để chu toàn luật yêu mến Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Hai điều nầy không mâu thuẫn với nhau, nên, gọi là một điều răn. Vì ai yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì tất không có lòng thù ghét người thân cận. Người thân cận, rất nhiều khi làm mất lòng chúng ta, làm cho chúng ta thiệt thòi về những điều cố tình hoặc vô ý. Chúng ta rất khó chịu, đó là sự sống thân xác. Nhưng, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì đó là sự sống linh hồn, sự sống siêu nhiên. Theo đó, yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người thận cận như chính mình, chính là một con người có thân xác và có linh hồn, như thế mới gọi là một con người sống có sự sống. Như vậy, gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG”. Vì nếu, chúng ta chỉ yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa không thôi, thì chưa đúng như Lời Chúa dạy. Còn ngược lại, nếu chúng ta chỉ yêu người thân cận không thôi, thì làm sao chúng ta có sự sống đích thực là Thiên Chúa. Khi thân xác hữu hạn qua đi, chúng ta làm sao có sự sống vĩnh cửu là Thiên Chúa được. Vậy, chúng ta phải tìm lấy sự sống vĩnh cửu, để chu toàn sự sống hữu hạn nơi thân xác là yêu người thân cận như chính mình. Vì như thánh Phao-lô nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 8). Như vậy, cũng có thể gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG “. Khi chúng ta giết người, thì chắn chắc luật xã hội sẽ trừng trị chúng ta. Nhưng khi, chúng ta hận người trong lòng, thì luật tình yêu thương của Thiên Chúa sẽ lên án chúng ta. (vì luật xã hội không làm gì được chúng ta)
Tình yêu chính là sức mạnh, là động lực sống cho con người. Muốn làm được tất cả, trước tiên phải có tình yêu. Không phải chỉ có tình yêu đôi lứa, nam nữ giữa con người mà thôi. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, bởi vì: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU. Tình yêu gắn kết đôi nam nữ và làm cho họ trở nên vợ chồng, như vậy hôn nhân cần có tình yêu. Nhưng, tình yêu của hôn nhân cần có tình dục để chu toàn trọn vẹn tình yêu. Hôn nhân gia đình, nếu thiếu hoặc mất đi hương vị của tình yêu, thì không còn hôn nhân nữa.
Nhưng tình yêu nơi Thiên Chúa là tình bạn hữu muôn đời không thay đổi, vì đó là sự sống thần linh. Chúa Giêsu nói: “ Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì điều gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15).(Lc 12, 4)
Theo đó, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một sự khôn ngoan đích thực hầu bảo đảm cho chúng ta một sự sống đời đời. Như thế, không phải là “luật của sự sống” hay sao? Lời Chúa cho chúng ta biết sống, sống đúng cách, và sống đời đời.
Thánh Vịnh 17 hôm nay khái dài, cho chúng ta biết:” Bài ca cảm tạ “ Thiên Chúa: Chúa là dũng lực. là thành lũy chở che con. Muôn đời con cảm tạ ơn Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con một điều răn quan trọng nhất, đó là luật mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu thường người thân cân như chính mình con. Xin thương ban cho chúng con biết thực thi Lời dạy của Chúa để chúng con nhận được sự sống đích thực từ nơi Chúa là nguồn sống, vì đó chính là đích điểm của chúng con. Amen.
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. JP. Vũ Minh)
Phúc Âm Nhất Lãm có viết về Điều Răn Trọng Nhất (Mt 22:34-40; Mc 12:28-34; Lc 10:25-28) và TN30-A148
Phúc Âm Nhất Lãm có viết về Điều Răn Trọng Nhất (Mt 22:34-40; Mc 12:28-34; Lc 10:25-28) và bài Phúc Âm của chủ nhật này theo Thánh Mátthêu đã dựa vào bối cảnh của Phúc Âm theo Thánh Mátcô để diễn tả rằng Chúa Giêsu phải đối phó nhiều với các thượng tế, luật sĩ và người Pharisêu vì sau khi Ngài được đón rước vào Thành Thánh Giêrusalem một cách long trọng như một Vị Cứu Tinh nhưng những kẻ ghét Ngài đã quá thiển cận và mù quáng nên họ vẫn cứ gài bẫy, phản kháng và thách đố Chúa Giêsu để họ có thể tìm cách giết Ngài, và những cuộc đối chất này sẽ đưa đến hậu quả tối hậu là Ngài sẽ phải chết.
Trong phần đối chất theo bài Phúc Âm của chủ nhật này, một luật sĩ đã thử Chúa Giêsu với một câu hỏi rất thông thường trong Đạo Do Thái về lời Kinh Shema (như là Kinh Tin Kính) mà người Do Thái phải đọc mỗi ngày -- “Nghe đây, hỡi Ítsraen; ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất, hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (NL 6:4-5) -- để xét Ngài sẽ đáp lại thế nào về giới răn trọng đại nhất. Phúc Âm Thánh Mátthêu đã bầy tỏ rằng Chúa Giêsu đã biết ác ý của họ (Mt 22:18) nên Ngài đã dùng dịp này để đáp lại với một câu trả lời thật sâu xa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai - cũng giống điều răn ấy - là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:37-40); rồi những người muốn tranh luận với Ngài đã phải câm miệng và rút lui.
Câu trả lời tinh tế này cũng là một lời cảnh tỉnh cho cả chúng ta nên ta hãy bàn thêm về câu nói này của Chúa Giêsu:
Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn là một lẽ đương nhiên của những ai tin vào Thiên Chúa! Nhưng lời kinh này không phải chỉ được đọc suông như con vẹt vì người đọc lời kinh này phải chứng tỏ lòng tin đó qua cuộc sống của họ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại nói thêm vào lời kinh đó với câu nói: “Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy’.” “Yêu người thân cận như chính mình” là bằng chứng cụ thể của người yêu Thiên Chúa một cách đích thực!
“Yêu người thân cận như chính mình” ám chỉ rằng lòng yêu người phải được nhấn mạnh về tình thương tha nhân trước hết... khi ta thấy nỗi đau của người khác chính là nỗi đau của mình và tìm mọi cách để đáp ứng thì mới chứng tỏ được tình yêu tha nhân của mình có tính cách vị tha; thay vì tình yêu theo tính vị kỷ của con người vì họ chỉ nghĩ đến mình trước khi nghĩ đến người khác. Ta hãy xét lại về tình thương của ta với Thiên Chúa hay tha nhân để xem tình thương của ta có tính cách vị tha hay vị kỷ. Đây chính là Đạo Yêu đích thực mà Chúa Giêsu muốn ở nơi ta!
------------------------------------------
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Mến Chúa và yêu tha nhân như chính… Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta như vậy. Như thế TN30-A149
“Mến Chúa và yêu tha nhân như chính mình – đó là tóm lược tất cả Lề Luật và Ngôn sứ” –, vừa quy hướng về tha nhân – là một giới răn duy nhất và là nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Đó cũng là bản chất và là nền móng cho đời sống Đức tin. Đời sống Kitô hữu là sự tham dự vào chính bản tính của Thiên Chúa, Hữu thể siêu việt. “Thiên Chúa là Tình yêu” như thánh Gioan tác giả Tin Mừng lặp đi lặp lại nhiều lần để giúp chúng ta nhận ra bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu bao trùm đời sống Kitô hữu. Đó là một tình yêu duy nhất, nhưng được diễn tả ở hai chiều kích: Thiên Chúa và tha nhân. Hai chiều kích này như hai mặt của một tấm huân chương, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia. Mến Chúa mà không yêu tha nhân sẽ là ảo tưởng lý thuyết; yêu tha nhân mà không mến Chúa sẽ mất đi chiều kích siêu nhiên và có thể chỉ dừng lại ở tình yêu vụ lợi.
Lời Chúa trong sách Xuất Hành đưa ra những vụ việc cụ thể, liên quan đến người ngoại kiều, người nghèo và người mắc nợ. Trong mọi trường hợp, phải đặt tình yêu tha nhân lên trên hết. Phải đối xử với tha nhân như những nhân vị, những con người chứ không phải đồ vật. Thiên Chúa khẳng định: Ngài đứng về phía những người đau khổ để bênh vực họ. Ai xúc phạm người nghèo, người ngoại kiều hay người mắc nợ là xúc phạm chính Chúa, vì Ngài là Đấng nhân từ.
Bất cứ người Do Thái nào khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đều dễ dàng nhận ra đó là giáo huấn của Cựu ước. Quả vậy, lệnh truyền “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” đã được Thiên Chúa phán qua ông Môisen và được ghi trong sách Đệ nhị Luật (x. Đnl 6,4-5). Đây cũng là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức lặp lại mỗi lúc khởi đầu một ngày mới, được gọi là lời kinh “Shema Israel – Hãy nghe đây, Israel”. Lời kinh này giúp họ hướng lòng lên Chúa và chuyên tâm thực thi giáo huấn của Ngài. Theo quan niệm thời bấy giờ, con người được cấu thành bởi ba yếu tố: trái tim, linh hồn và tâm trí. Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn tức là dành cho Chúa một tình yêu trọn vẹn, không san sẻ và không tính toán, nhưng hoàn toàn quy thuận về Chúa.
Lệnh truyền “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” cũng đã được ghi trong sách Lêvi (x. Lv 19,18). Đối với Chúa Giêsu, giới răn này cũng giống giới răn trước và không thể tách rời. Đây chính là một trong những điểm ưu việt trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Thông thường, khi so sánh giá trị giữa hai thực tại, người ta xếp hạng thứ nhất và thứ nhì. Ở đây, Chúa Giêsu không xếp hạng như thế. Nếu Người gọi giới răn mến Chúa là giới răn trọng nhất và là giới răn thứ nhất, thì yêu người là giới răn cũng giống như giới răn trước, tức là có giá trị ngang nhau. Mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất hướng tới hai đối tượng, hai chiều kích. Hai chiều kích này bổ túc cho nhau và làm nên lòng mến hoàn hảo. Tình yêu dành cho Chúa là tình yêu không biên giới (hết lòng); tình mến dành cho tha nhân được đo lường bằng tình yêu mà người ta muốn người khác làm cho mình, “yêu người như mình ta vậy”. Mến Chúa yêu người cũng là chu toàn Lề Luật và truyền thống Ngôn sứ. Đây là mối bận tâm lớn nhất của những người Do Thái mộ đạo. Họ lo làm sao để thực hành những quy định của Lề Luật và giáo huấn của các ngôn sứ. Đó chính là con đường nên hoàn thiện trước mặt Chúa. Đối với Chúa Giêsu, con đường nên hoàn thiện trở thành đơn giản hơn và ai cũng có thể thực hiện được, đó chỉ là mến Chúa yêu người.
Lòng mến làm nên sức sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Phaolô diễn giải điều này khi ngài có những nhận định rất tích cực đối với tình bác ái của cộng đoàn tín hữu Thessalonica (Bài đọc II). Vị Tông đồ xác nhận rất nhiều việc tốt lành mà cộng đoàn này đã thực hiện, và như thế, họ đón tiếp chính Chúa Kitô. Thánh nhân cũng ca ngợi cách thức cộng đoàn này đã sống trong tình yêu Chúa. Khi làm như thế, “anh em trở nên những mẫu mực cho mọi tín hữu… đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì nữa”. Hai mươi thế kỷ đã qua, chứng từ đức tin và tình mến thể hiện trong cuộc sống của các Kitô hữu Thessalonica là gợi hứng cho những cộng đoàn tín hữu hôm nay.
Trong tháng Mười, chúng ta cùng nhìn lên Đức Trinh nữ Maria. Mẹ là mẫu mực của các tín hữu. Cuộc sống trần gian của Đức Trinh nữ hoà quyện niềm vui và đau khổ, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn trung thành và tín thác vào Chúa. Mẹ là người thực sự “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Những lúc gian khổ của đời Mẹ như khi gian nan cơ cực tại Be Lem, khi trốn sang Ai Cập, và nhất là vào giờ phút đứng dưới chân thập giá. Trong mọi hoàn cảnh Đức Trinh nữ thành Nagiarét vẫn kiên trung, can đảm, cậy trông và một lòng mến Chúa. Xin Mẹ dạy chúng ta mến Chúa yêu người, như một tình yêu duy nhất, toả hương thơm ngát trong cuộc đời.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17) nhóm Biệt TN30-A150
Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17) nhóm Biệt phái tiếp tục dùng chiêu khác để gài bẩy Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”(Mt 22,34).
Câu hỏi không dễ trả lời. Bởi vì, thời Đức Giêsu, luật Do thái có 613 khoản, trong đó có 365 luật cấm và 248 luật buộc. Trong 613 khoản luật đó, chính nhóm Biệt phái và các phe nhóm khác vẫn chưa thống nhất với nhau điều nào trọng nhất: Nhóm thì điều luật này, nhóm thì điều luật kia. Nhóm nào cũng muốn giữ lập trường của mình. Trước tình trạng đó, họ muốn hỏi Đức Giêsu để gài bẩy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng điều luật kia không thì Ngài rơi vào tình trạng ủng hộ quan điểm của nhóm này và phủ nhận quan điểm của các nhóm kia. Nên Ngài sẽ bị các nhóm kia chống đối. Nhưng Đức Giêsu không thể mắc bẩy của họ. Ngài luôn có câu trả lời khôn ngoan làm cho bọn họ phải “tâm phục khẩu phục”. Thật vậy, dựa vào sách Đnl 6,5 và sách Lêvi 19,18, Ngài đưa ra câu trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”(Mt 22, 37-40). Câu trả lời của Đức Giêsu thật xuất sắc, khiến vị tiến sĩ luật không còn thắc mắc gì thêm nữa. Câu trả lời này cho chúng ta biết trong 613 khoản luật của Do thái tóm lại hai điều luật quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Hai điều luật này khác nhau nhưng không tách rời. Hai điều luật này luôn đi đôi với nhau: Mến Chúa thì phải yêu người và yêu người thì phải mến Chúa. Chính Thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy.”(1 Ga 4,20). Nhưng chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa và tha nhân?
1. Chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa?
Có nhiều việc làm để yêu mến Chúa, xin được đơn cử một vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ giáo huấn của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Nơi khác Ngài cũng nói: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). Các giáo huấn của Chúa được cụ thể hóa qua 10 điều răn. Các giáo huấn của Chúa được thể hiện qua: Lời của Ngài trong cuốn Kinh Thánh; Giáo huấn của Giáo hội; tiếng nói của lương tâm; các vị bề trên hợp pháp thay mặt Chúa để coi sóc, dạy bảo chúng ta... Tuân giữ giáo huấn của Chúa không chỉ chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa mà còn để chu toàn bổn phận của chúng ta đối với Ngài, giống như người con yêu mến cha mẹ thì luôn vâng lời cha mẹ.
Thứ hai, để yêu mến Chúa, chúng ra phải “ ước ao làm vui lòng Chúa” (Đức cha Arthur Tonne). Nhưng như thế nào là làm vui lòng Chúa? Sau đây là 8 cách làm vui lòng Chúa:
Chân thành: Hãy sống chân thành với chính mình và tha nhân. Dù khó khăn thế nào thì bạn cũng phải đối diện sự thật – hãy nhớ rằng bạn không lừa được Thiên Chúa, và đó là lừa chính mình. Thiên Chúa và bạn là những người duy nhất biết điều gì thực sự xảy ra, vì thế đừng nói dối Đấng đã hy sinh mạng sống vì bạn!
Khiêm nhường: Đừng bao giờ ưu tiên chính mình. Không thể đốt giai đoạn, hãy cứ duy trì mức đầu và cố gắng để đạt mức tốt nhất. Đừng quên: “Dục tốc bất đạt”.
Dành thời gian cho Chúa: Cố gắng dành thời gian cho Chúa: Tham dự Thánh lễ, tham dự phụng vụ, tham dự giờ kinh chung, cầu nguyện riêng,… Hãy dành thời gian thờ phượng bởi vì không có Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiện hữu.
Hãy là chính mình: Bạn không cầu nguyện với gia đình hoặc bạn bè, do đó bạn không nên thay đổi chính mình theo ý họ. Đấng duy nhất mà bạn nên thay đổi theo ý Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài muốn bạn là bản sao tuyệt vời nhất của Ngài. Đừng ảnh hưởng bất kỳ ai ở xung quanh bạn, hãy chỉ ảnh hưởng bởi Thiên Chúa mà thôi.
Bám sát giá trị của mình: Đừng mắc lừa cơn cám dỗ hoặc ma quỷ. Hãy nhớ rằng bạn có các giá trị luân lý phải bám sát. Hãy cố gắng hiểu sự khác nhau giữa thiện và ác, đúng và sai. Đừng ảo tưởng bám theo điều mà bạn không thể.
Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng: Đừng lãng phí một giây phút nào trong ngày. Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của mình, vì Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai sống với gia đình và bạn bè. Cuộc sống không thể nói trước được điều gì, nhưng hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho bạn có dịp sống với những mơ ước của mình.
Đặt người khác trước mặt mình: Thiên Chúa hy sinh chính mình để bạn có thể sống trọn vẹn. Thay vì sống với gia đình và bạn bè theo tính xác thịt, Ngài đã đặt khác trước Ngài. Hãy cố gắng sống như Ngài. Hãy giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Các thiện cử của bạn sẽ không lãng phí vì Thiên Chúa luôn ở trong bạn.
Tín thác vào Chúa: Thiên Chúa có lý do và kế hoạch cho mọi thứ. Dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, bạn cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ngài là Đấng duy nhất mà bạn phải tín thác.
(8 cách làm vui lòng Chúa, do Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com)
2. Chúng ta phải làm gì để yêu thương tha nhân?
Cũng có nhiều việc làm để yêu thương tha nhân, xin được gợi ý vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, yêu thương tha nhân là không muốn điều xấu cho họ. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;”(x. Rm 13,10). Bài đọc I hôm nay cũng dạy: không được làm hại cô nhi quả phụ; không được cho họ vay nặng lãi, hãy trả những của cầm cố của người nghèo trước khi mặt trời lặn…(x. Xh 22, 21-27).
Thứ hai, yêu thương tha nhân là muốn điều tốt cho họ. Đức Giêsu đã nói: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phục vụ họ. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho các Tông đồ. Ngài còn quả quyết: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Phục vụ thì đòi hỏi phải hy sinh, hy sinh cho tha nhân chính là tình yêu cao cả: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phải biết giúp đỡ họ, giống như người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37). Bởi vì, khi chúng ta giúp đỡ tha nhân là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Trong ngày phán xét chung, vị thẩm phán sẽ nói với những người lành rằng: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,36).
Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn đọc Kinh Kính Mến, vẫn thưa với Chúa rằng “chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong thực tế chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con cố gắng từ nay biết thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.
----------------------------------