Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 33TN-A Bài 51-85: Hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi
------------------------------------------ Phúc Âm: Mt 25, 14-30: “Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi. “Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình. “Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: “Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác”. Ông chủ bảo người ấy rằng: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”. Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: “Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc; đây tôi đã làm lợi được hai nén khác”. Ông chủ bảo người ấy rằng: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”. “Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: “Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ (mà) đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Ðây của ông, xin trả lại cho ông”. Ông chủ trả lời người ấy rằng: “Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, người đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra người phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------ Mục Lục:
Trong đoạn thư 4:13-18, thánh Phao-lô đã giải thích mối quan hệ mật thiết giữa sự Phục sinh: TN 33-A51
Trong đoạn thư 4:13-18, thánh Phao-lô đã giải thích mối quan hệ mật thiết giữa sự Phục sinh của Chúa Ki-tô với sự sống lại của các tín hữu. Tiếp theo, trong lời Chúa hôm nay, ngài quay sang vấn đề thời gian: Vậy khi nào cuộc quang lâm của Chúa Ki-tô sẽ xảy ra? Chính thánh Phao-lô cũng nghĩ là mình sẽ còn sống cho đến lúc Chúa trở lại (xem 4:17). Hình ảnh Phao-lô và các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca "sẽ được đem đi trên đám mây, để nghênh đón Chúa trên không trung" chắc chắn đã in sâu trong tâm trí và là điều cộng đoàn của Phao-lô dùng để an ủi nhau, khích lệ nhau sống đời Ki-tô gương mẫu. Nhưng năm tháng trôi qua mà vẫn chưa có gì xảy ra, nên ý niệm thời gian về việc Chúa trở lại cũng cần phải thay đổi.
a) Đối với Chúa, thời gian là cơ hội chứ không phải thời gian tính bằng năm tháng
Có hai ý niệm khác nhau về thời gian: thời gian được đếm bằng năm tháng (chronos) và thời gian được coi như một thời điểm, một cơ hội (kairos). Cơ hội bao giờ cũng cho chúng ta một khoảng thời gian tính bằng năm tháng, nhưng khoảng thời gian ấy không khi nào rõ rệt. Thời gian tính bằng năm tháng tuy rõ ràng, nhưng không phải lúc nào cũng là cơ hội. Cơ hội tuy không thể xác định được chính xác vào lúc nào, nhưng là một bảo đảm nếu người ta đừng để lỡ nó. Hầu hết trong Kinh Thánh, thời gian thường mang ý nghĩa thời điểm hoặc cơ hội, nhất là khi nói về tương lai. Khi rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giê-su chỉ xác định: Nước Thiên Chúa đã gần kề. Nói thế, Người không có ý ám chỉ về ngày giờ Người đến với nhân loại vào ngày 25 tháng 12 năm 1, tại Bét-lem, nhưng Chúa muốn nhấn mạnh đến việc nhân loại đừng để quá trễ, mà hãy mau mắn tiếp nhận Người! Đối với những ai sẵn sàng mở lòng tiếp nhận thì Nước Thiên Chúa đã đến và đang hoạt động biến đổi con người họ. Còn đối với ai không muốn tiếp nhận lời giảng và con người Đức Ki-tô cùng sứ mệnh của Người thì Nước Thiên Chúa vẫn còn là một lời hứa chưa được thực hiện. Vậy thời gian Nước Thiên Chúa đến là cơ hội chứ không phải là ngày ấy giờ ấy. Chỉ có một mình Thiên Chúa Cha biết rõ ràng ngày giờ ấy mà thôi (Mt 24:36).
Nếu việc Chúa đến với nhân loại là một cơ hội, một thời điểm để người ta tiếp nhận Người, thì việc Chúa trở lại vào ngày chung thẩm cũng sẽ là một cơ hội, một thời điểm để người ta được thẩm định về việc tiếp nhận ấy. Khẳng định việc Chúa Ki-tô quang lâm không phải là chúng ta bảo rằng Người sẽ trở lại vào ngày mấy tháng mấy năm bao nhiêu, nhưng là giữa hai điều, tin rằng Chúa sẽ trở lại và tin rằng Chúa sẽ không trở lại, chúng ta chọn điều thứ nhất, tức là tin Chúa chắc chắn sẽ trở lại.
Tin Chúa sẽ trở lại vào ngày giờ rõ ràng và tin Chúa chắc chắn sẽ trở lại nhưng không rõ khi nào, hai cách tin này ảnh hưởng khác nhau trên lối sống của chúng ta. Nếu tôi nghĩ Chúa Ki-tô sẽ trở lại vào ngày ấy tháng ấy, có lẽ tôi sẽ cứ sống buông thả, cho rằng mình còn thời giờ. Nếu tôi biết chắc chắn Chúa sẽ trở lại, tuy không biết lúc nào, nhưng tôi sẽ ở trong tư thế sẵn sàng vì "chẳng có ai trốn thoát được" (5:3).
b) Chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại mới là quan trọng
Thánh Phao-lô muốn đưa chúng ta trở lại vấn đề cốt lõi, không phải là tò mò muốn biết ngày giờ nào, nhưng là có tin Chúa sẽ trở lại hay không. Tin Chúa Ki-tô sẽ trở lại là điều quan trọng vô cùng, vì thế Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng niềm tin này ngay trong phần linh thiêng nhất của Thánh Lễ, sau khi Truyền Phép. Đây là cơ sở để người Ki-tô hữu sắp đặt cho mình một cuộc sống thích đáng đối với chân lý Chúa Ki-tô sẽ trở lại trong vinh quang để xét xử muôn loài muôn vật.
Chuẩn bị chờ đợi bằng cuộc sống thích đáng có nghĩa là liên tục thay đổi cuộc sống mình, dựa theo những tiêu chuẩn Chúa Giê-su đã đề ra trong lời giảng và lối sống của Người. Sự cần thiết của việc chuẩn bị này đã được chính Chúa Giê-su khẳng định khi Người mở đầu việc rao giảng: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1:15). Sám hối là quay lưng lại với tội lỗi để hướng về Chúa Ki-tô, chấp nhận lời mời gọi của Người mà biến đổi con người tội lỗi chúng ta. Chúng ta cần ra khỏi bóng tối để sống theo căn tính mới của mình là "con cái ánh sáng" (5:4).
c) Chuẩn bị thế nào?
Một lần nữa, thánh Phao-lô nhắc đến bộ ba nhân đức: tin, cậy, mến, để nhắc nhở tín hữu phải chuẩn bị thế nào cho cuộc quang lâm của Chúa Ki-tô. Quen thuộc với hình ảnh và lối sống người lính Rô-ma, thánh Phao-lô diễn tả ba nhân đức tin cậy mến như những thái độ sẵn sàng, giống như người lính trong tư thế chiến đấu: "Chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ" (5:8).
Sống tiết độ là điều kiện cần thiết để chúng ta có thể tỉnh thức và sẵn sàng. Thực hành ba nhân đức tin cậy mến là sức mạnh để chúng ta thắng được cám dỗ và tối tăm của ma quỷ tội lỗi. Với tất cả những chuẩn bị này, việc Chúa trở lại hôm nay hay ngày mai không còn là một vấn đề chúng ta cần đặt lại, nhưng là việc chúng ta có tin chắc chắn Người sẽ trở lại hay không.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Trong đời sống thiêng liêng, tôi có nhận ra những "dấu chỉ thời gian" như là những sứ điệp Chúa nói với tôi không? Chia sẻ một vài dấu chỉ ấy.
Tỉnh thức là một đề tài lớn trong Tân Ước, có nghĩa là sống mà chờ đợi Chúa, chứ không ngủ mê trong dục vọng. Vậy tôi đã thực hành thái độ "tỉnh thức" đó như thế nào trong quá khứ? Tôi cần điều chỉnh lại cách sống tỉnh thức như thế nào?
Suy nghĩ thêm về vai trò của ba nhân đức tin cậy mến trong đời sống Ki-tô hữu.
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện sau đây:
"Lạy Chúa Giê-su, xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa. Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người, vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa. Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường. Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. A-men."
(Suy niệm Tin Mừng Ma-thêu ( 25,1-13) được trích đọc vào Chúa Nhật 32 thường niên)
Được mời làm phù dâu là một vinh dự lớn đối với các cô gái đương xuân. Đây là một cơ hội tốt : TN 33-A52
Được mời làm phù dâu là một vinh dự lớn đối với các cô gái đương xuân. Đây là một cơ hội tốt để giao lưu, để gặp gỡ, để làm quen với nhiều người bạn khác cùng trang lứa… Và biết đâu, nhân dịp nầy, các cô có thể tìm thấy bạn trai ý hợp tâm đầu rồi sau đó kết ước chuyện trăm năm thì còn gì hạnh phúc bằng !
Vì thế, ngay khi được mời làm phù dâu, các cô nô nức sửa soạn cho ngày quan trọng nầy rất chu đáo. Phải trang điểm chi li từ lọn tóc trên đầu cho đến cái móng chân.
Thế rồi, thời điểm chờ đợi lâu nay đã đến. Các cô tung tăng hớn hở cùng nhau tiến về nhà cô dâu để chuẩn bị nghênh đón chàng rể và để gặp gỡ những người bạn trong mơ.
Thế nhưng, điều đáng tiếc là vì mải lo sửa soạn áo xống, lo trang điểm bên ngoài thật tươm tất chu đáo thì năm trong số mười cô phù dâu xinh đẹp lại quên mất điều quan trọng nhất là chêm thêm dầu vào chiếc đèn của mình.
Và bởi quên đi điều quan trọng nầy nên khi chàng rể đến bất thần giữa đêm đen, các cô chỗi dậy sửa soạn đèn đóm, không ngờ đèn đã cạn dầu từ lúc nào không hay. Các cô năn nỉ, nài xin các bạn có mang dầu đầy bình giúp cho chút ít, nhưng chẳng ai cho.
Thế là vì không có đèn sáng trên tay, các cô không được vào phòng tiệc cưới, không được chung vui cùng cô dâu chú rể, không được hàn huyên trò chuyện với các bạn bè, không được ăn uống tiệc tùng gì cả… và rồi phải thui thủi ra về trong buồn tủi giữa đêm đen!
Có lẽ lúc bấy giờ các cô rất hận mình, vò đầu bức tóc và tự dằn vặt tại sao mình lại ngu khờ đến thế! Uổng công trang điểm má hồng môi son, uổng công mua những thỏi son hạng nhất, mua những lọ nước hoa đắt tiền, phí tiền may sắm quần áo lụa là xa xỉ, uổng công trang điểm chi li từ lọn tóc trên đầu cho đến cái móng chân và trải qua bao ngày nôn nao chờ đợi… Nhọc công làm tất cả những điều ấy mà không biết mang theo đủ dầu cho đèn cháy sáng nên mới ra nông nổi nầy. Đau buồn biết bao !
Nói người rồi nghĩ đến ta. Chúng ta cũng là những phù dâu, phù rể đang chờ đợi Chàng Rể khác là Chúa Giê-su sắp đến. Mong sao chúng ta đừng bước theo vết chân năm cô phù dâu dại dột nầy.
Cũng như các cô phù dâu khờ dại chỉ mải lo sửa soạn áo xống và đồ trang sức hết sức chu đáo mà không quan tâm tích lũy đủ dầu cho đèn của mình được cháy sáng, chúng ta cũng mải mê sắm sửa cho mình đủ mọi thứ vật dụng cần thiết cho đời sống phần xác mà lãng quên tích lũy những gì cần thiết cho đời sống thiêng liêng. Vì thế, khi Chúa đến, chúng ta không được đón nhận vào phòng tiệc Nước Trời, thì thật vô cùng tai hại. Khi đó dù có than thân trách phận thì cũng đã quá muộn màng. Chàng Rể Giê-su sẽ đến vào giờ không hẹn trước. Vậy chúng ta đừng mải mê đầu tư tất cả cho thân xác mà không mảy may đầu tư cho đời sống mai sau. Cần phải có dầu đầy bình ngay hôm nay đi, kẻo rồi khỏi phải hối tiếc như những cô phù dâu khờ dại trên kia.
Tích lũy đầy dầu là gia tăng làm việc thiện, là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trong thôn xóm, là phục vụ, là hiến thân giúp đỡ những anh chị em đang gặp khó khăn đau khổ quanh mình.
Lạy Chúa Giê-su, Xin giúp chúng con đừng bận rộn quá đáng với cuộc sống vật chất đời nầy mà quên sửa soạn đèn dầu cho ngày mai.
Xin cho chúng con hôm nay biết siêng năng làm việc thiện, quan tâm xây dựng công ích, ra sức phục vụ xóm giềng … Chính những điều nầy làm cho đời chúng con trở nên đèn sáng. Và như thế, bất cứ lúc nào Chúa đến, chúng con cũng được mời vào dự tiệc vui muôn đời.
Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây. - Thưa ông: TN 33-A53
- Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây.
- Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi cũng đã gây lời được hai nén khác đây.
“Khá lắm! hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc nhỏ mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh trông coi việc lớn. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt.25:20-23).
***
Bạn thân mến! Trên đây là lời đối đáp và khen tặng của ông chủ dành cho những người đầy tớ tài giỏi và trung thành được nhắc đến trong dụ ngôn “Các nén bạc” của bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Lời đối đáp và khen tặng trên đây cũng nói lên nguyên tắc kinh tế căn bản đã không bao giờ thay đổi theo thời gian. Thời nào thì hoạt động kinh tế cũng nhằm dùng vốn để sinh ra lời. Vốn đầu tư càng nhiều thì lợi càng lớn. Đầu tư càng dài hạn thì lợi càng nhiều.
Trong dụ ngôn “Các nén bạc”, Chúa Giêsu cũng mượn các qui luật kinh tế để nói về cách sử dụng và khai thác vốn đầu tư trong cuộc đời chúng ta. Cũng như người chủ mời gọi người đầy tớ dùng vốn là những nén bạc đã được trao phó để sinh lời thêm, Thiên Chúa cũng mời gọi ta dùng vốn là "ơn ban" mà Ngài đã trao tặng cho ta trong cuộc sống, là của cải và tài năng mà ta đã lãnh nhận ...Ngài mời gọi ta làm lời ra nhiều thêm, để làm vinh danh Chúa hơn, để giúp ích cho anh chị em chung quanh mình nhiều hơn.
Vốn Chúa trao cho ta là những điều gì ? Trước hết là chính sự sống của ta, là chính cuộc đời của ta. Đó là số vốn đầu tiên, là vốn căn bản.
Ơn làm con Chúa, ơn tái sinh, ơn cứu độ… Đó là vốn qúy giá nhất, lớn lao nhất mà Chúa đã trao ban cho ta qua Đức Giêsu. Cuộc đời này có còn ý nghĩa gì nếu ta đánh mất Ơn Cứu Độ. Ơn Cứu Độ chính là sự thành tựu chung cuộc, là cùng đích mà ta phải nhắm tới trong cuộc đời này.
Mỗi ngày, mỗi việc, mỗi bổn phận, mỗi khó khăn, mỗi cố gắng và ngay cả trong mỗi lo lắng và khổ đau …Tất cả đều có ơn Chúa ban kèm theo. Đây cũng là vốn đầu tư mà Chúa đã liên tục trao ban cho ta trong cuộc sống này để ta mưu cầu hạnh phúc đời đời trong cuộc sống mai sau.
Dụ ngôn “Các nén bạc” đã cho ta một hình ảnh vui buồn lẫn lộn. Vui vì những người đầy tớ tài giỏi và trung thành đã làm sinh lời gấp đôi, và được chủ thưởng công bội hậu. Nhưng lại buồn vì một người đầy tớ lười biếng nhưng có tài ăn nói, biết đối đáp, lý luận, rất nhiều triển vọng thành công trên thương trường, thì lại không làm nên tích sự gì cả. Dù chỉ cần làm lợi thêm một chút thôi, nhưng anh đã không làm, mà đem nén bạc chủ giao đi chôn giấu dưới đất và sau khi chủ về, anh trao lại cũng một nén bạc đó cho chủ mình. Khi chôn nén bạc xuống đất, một cách nào đó anh cũng đã chôn một phần bản thân mình, cuộc sống của anh đã khựng lại với những suy nghĩ rất khắt khe, tiêu cực và sai trái:" ...tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy" (Mt.25:25). Hậu qủa mà anh phải lãnh nhận là sự nguyền rủa đời đời, anh bị coi là đồ vô dụng và bị ông chủ quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài (Mt.25:30). Đó cũng là hình ảnh chung cuộc của mỗi người chúng ta trong ngày giã từ cuộc đời này để ra trước toà Chúa, ngày Chúa phán xét công trạng hay tội lỗi của ta, ngày ta được Ngài khen thưởng hay nguyền rủa đời đời.
Dụ ngôn “Các nén bạc” cũng mời gọi bạn và tôi, chúng ta hãy cùng nhau tự hỏi lòng mình: Chúa đã đầu tư nơi tôi nén bạc nào, tài năng nào, lợi điểm nào? Tôi đã dùng của cải tài năng và ân huệ Chúa ban như thế nào? Tôi có tích cực phát triển “vốn đầu tư” mà Chúa đã trao cho tôi không? Tôi có biết tạ ơn Chúa vì những tài năng và ân sủng Chúa trao ban cho tôi không? Và tôi đã làm gì để tạ ơn Ngài?
***
Lạy Chúa! Chúa đã trao cho con những nén bạc ơn phúc tự nhiên và siêu nhiên. Xin cho con biết cố gắng nỗ lực để phát triển và sinh lợi những ơn phúc đó vì vinh quang của Chúa và niềm hạnh phúc của bản thân con và của anh chị em con. Amen.
Nhìn thẳng vào đám đông, nhìn thẳng vào từng người một, Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo tôi”. TN 33-A54
Nhìn thẳng vào đám đông, nhìn thẳng vào từng người một, Chúa Giêsu nói:
“Ai muốn theo tôi”. Một sự tự do hoàn toàn, không hề ép buộc. Bởi vì con người phải chịu trách nhiệm về bản thân mình. Nếu không có tự do, sẽ không có giá trị trách nhiệm.
“Hãy từ bỏ chính mình và vác thập giá”. Không ru ngủ, cũng chẳng mị dân. Đường đi theo Chúa là một con đường THẲNG. Cũng như trên con đường thương khó Ngài đi, dù ngã ba lần, Ngài vẫn đứng dậy đi tới đỉnh đồi Núi Sọ. Huấn dụ này là một chỉ nam cho kẻ theo Người phải tuân giữ. Trong cuộc sống bình thường của người giáo dân sống nơi xứ đạo: Phải sống vượt lên những đòi hỏi của đam mê thân xác và những ước muốn hạ đẳng. Và phải vác thập giá là gì nếu không phải là chấp nhận thực tại yếu đuối của thân xác và của xã hội? Chấp nhận thực tại cách anh dũng như một của lễ hiến dâng, bắt chước Thầy Chí Thánh, đau thương nào cũng vác, không kêu ca oán than. Còn khi trời nổi gió, Giáo Hội bị bách hại, thì phải dám đứng thẳng để bảo vệ đức tin.
“Ai liều mất mạng sống vì tôi, sẽ cứu được mạng sống ấy”. Các thánh tử đạo nói chung và nhất là các vị tử đạo Việt Nam nói riêng, là những người đã dám đánh đổi mạng sống quý giá của mình, để lấy Nước Trời, để lấy cõi hạnh phúc vĩnh hằng. Thân xác nào bị đâm mà chả đau, chả chảy máu. Con người nào bị hành hạ mà không co giật, quặn người. Ai mà mất tài sản, địa vị và nhất là mạng sống mà chẳng nuối tiếc? Nhưng các vị ấy không phải để mất tất cả những thứ ấy một cách uổng phí, mà là như Chúa nói: Sẽ được đền bù và ân thưởng bằng một cuộc sống mới với chan hoà ánh sáng ở thế giới vĩnh cửu đời sau. Một sự đánh đổi trước mắt như thua lỗ, nhưng thực ra là lời lãi gấp ngàn lần. Chúa Giêsu không nói dối, mà Ngài thẳng thắn trình bày để con người tự do lựa chọn. Và Ngài cũng nói tiếp: “Ai xấu hổ vì Tôi và Lời Tôi, thì Tôi cũng xấu hổ vì kẻ ấy trước mặt Chúa Cha”. Trong dòng lịch sử Giáo Hội, cũng có không ít những người đã hèn nhát trước kẻ thù, không dám can đảm biểu lộ đức tin của mình, không dám sống theo Lời Chúa dạy, mà lại quỵ luỵ trước kẻ thù và đánh mất tư cách của mình. Câu hỏi gợi ý:
1* Để theo Chúa, bạn phải làm những gì? 2* Mạng sống đời này quý, hay phần rỗi đời đời quý hơn?
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc chúng ta. Ngài là Chủ của chúng ta. Ngài không những TN 33-A55
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc chúng ta. Ngài là Chủ của chúng ta. Ngài không những cho chúng ta được hiện hữu nơi trần gian mà còn tiếp tục quan phòng, ban nhiều ơn ích cho cả xác hồn chúng ta và lo cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc thật bên Ngài. Những ơn Chúa ban cho chúng ta được Tin mừng hôm nay nhắc tới qua hình ảnh "nén bạc" Chúa trao cho mỗi người.
Trong cuộc đời này, có người được Chúa ban cho nhiều, có người ít hơn tuỳ theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta không nên so đo vì tất cả những ơn Chúa ban đều do lòng yêu thương bao la của Chúa đối với từng người chúng ta. Chúa chỉ đòi chúng ta làm lợi tương xứng với tài sức Chúa ban. Người ta nói rằng, đa số chúng ta sử dụng chưa tới 10% tài năng tiềm ẩn của mình. Chúa ban cho chúng ta rất nhiều nhưng chúng ta chưa khám phá hết khả năng của mình. Ông chủ trong Tin Mừng cho những người đầy tớ của mình ít nhất là 1 nén bạc. Nén bạc thời đó có giá trị rất lớn tương đương với giá 10. 000 ngày công của một người thợ trung bình. Đó là một số tiền khá lớn. Điều này cho thấy những gì Chúa giao phó cho mỗi người lớn lao lắm. Cho nên tâm tình trước tiên của người đầy tớ là cám ơn Chủ đã tín nhiệm mình, kế đến là lo làm việc hết mình cho Chủ để sinh lời xứng với lòng tin yêu của chủ. Chúng ta phải biết ơn Chúa và tận dụng ơn Chúa ban để không phụ tình thương của Chúa. Mỗi người hãy chu toàn trách nhiệm đã lãnh nhận cách hiệu quả nhất, với tâm tình kính mến Chúa và yêu thương tha nhân cách chân thành.
Chủ đi xa, giao phó tài sản cho các đầy tớ, chứng tỏ ông chủ tín nhiệm các đầy tớ. Cũng vậy, Chúa yêu thương chúng ta và đã trao cho nhiều ơn phần hồn phần xác để chúng ta sinh lời, làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho tha nhân và được Chúa thưởng trong ngày sau hết. Để nhận ta vào Thiên đàng, Chúa không xét là ta làm lợi nhiều ít so với người khác. Đối với vua trời, 10 nén bạc chẳng là bao, số nén bạc sinh lời gấp đôi tuy là lớn đối với giá trị ở đời này, nhưng lại là nhỏ so với giá trị ở đời sau. Việc làm ở đời này tuy có lớn lao đi nữa nhưng so với phần thưởng đời đời thì vẫn là nhỏ bé. việc lớn là: vào hưởng sự vui mừng với chủ, được nâng lên hàng con cái Chúa, được đồng bàn với chủ tức là tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Đó là phần thưởng cao trọng lớn lao vô cùng.
Người lãnh một nén phải bị phạt đời đời vì đã không làm theo ý chủ, không đáp trả sự tín nhiệm của chủ đồi với mình. Hắn không nên thân mà cứ luôn miệng trách ông chủ! hắn không sống thân phận đầy tớ của mình là: lệ thuộc vào ông chủ và làm theo hảo ý của chủ. Án phạt của Chủ trên người đầy tớ biếng nhác này là lời cảnh tỉnh loài người. Chúng ta đã sinh lời cho Chúa chưa, hay chúng ta cũng đổ thừa cho hoàn cảnh, người thân...và không dùng khả năng Chúa ban để sinh lời. Để nắm chắc phần thưởng đời đời, chúng ta hãy lo phát triển những khả năng Chúa ban với tất cả lòng thành cho xứng đáng với tình thương của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã tín nhiệm chúng con, cho chúng con những khả năng lớn lao. Chúng con sẽ không so bì với khả năng của người khác nhưng biết phát triển hết mức tài năng của mình để sinh lợi cho Chúa và được Ngài thưởng ban hạnh phúc đời đời trên Thiên quốc.
Mt 25:14-30: 14 "Vì chưng cũng nhưng người kia trẩy đi xa, gọi tôi tớ lại mà ký thác của cải mình cho họ. 15 Người thì được ông trao cho năm nén vàng; người khác: hai; và người thứ ba: một nén; mỗi người tùy theo tài lực của mình. Đoạn ông trẩy đi. Ngay đó 16 người lĩnh năm nén ra đi doanh lợi bằng vốn đó và gây lời được năm nén khác. 17 Cũng vậy, người có hai nén đã gây lời được hai nén khác. 18 Còn người lĩnh một nén, thì đi đào đất giấu bạc của chủ. 19 Đằng đẵng mãi lâu sau, chủ các tôi tớ ấy đến mà tính sổ với họ. 20 Người đã lĩnh năm nén tiến lại nộp thêm năm nén khác, mà rằng: "Thưa ngài, ngài đã trao tôi năm nén; này tôi đã gây lời được năm nén khác đây!" 21 Chủ nói với người ấy: "Tốt lắm! Tôi tớ lương hảo và trung trực! Ít, mà ngươi đã trung trực thì ta sẽ đặt ngươi cai nhiều; hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi". 22 Người đã lĩnh hai nén cũng tiến lại mà nói: "Thưa ngài, ngài đã trao tôi hai nén; này tôi đã gây lời được hai nén khác đây". 23 Chủ nói với người ấy: "Tốt! tôi tớ lương hảo và trung trực! Ít, mà ngươi đã trung trực thì ta sẽ đặt ngươi cai nhiều; hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi". 24 Cả người lĩnh một nén cũng tiến lại mà nói: "Thưa Ngài, tôi đã biết Ngài là một người hà khắc, không gieo mà gặt, không vãi mà thu; 25 nên tôi sợ và tôi đã giấu dưới đất nén vàng của ngài: Này đây, xin ngài nhìn lấy của ngài". 26 Đáp lại, chủ nói với nó: "Tôi tớ bất hảo và lười biếng! Ngươi đã biết ta không gieo mà gặt, không vãi mà thu? 27 Vậy thì phải đặt bạc của ta nơi ngân hàng và khi ta đến, ta thu hồi lại mà có lãi chứ! 28 Vậy hãy cất lấy nén vàng nó giữ mà ban cho người có mười nén. 29 Vì mọi kẻ có, thì sẽ được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có, thì điều có cũng bị giựt mất. 30 Còn tên đấy tớ vô dụng kia, thì hãy đuổi nó ra tối tăm bên ngoài: ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!".
Dụ ngôn được trình bày dưới hình thức một chuyện kể. Về văn mạch của đoạn 25:14-30 xem bài: TN 33-A56
Dụ ngôn được trình bày dưới hình thức một chuyện kể. Về văn mạch của đoạn 25:14-30 xem bài chú giải phúc âm Chúa nhật XXXII Thường Niên A. Dụ ngôn có thể phân chia thành ba màn: 1/ Ông chủ trao tài sản cho các tôi tớ (25:14-15); 2/ Các tôi tớ hành động với những nén bạc được giao (25:16-18); 3/ Ông chủ tính sổ sách (25:19-30).
1/ Dẫn nhập. Ông chủ trao tài sản cho các tôi tớ (25:14-15)
Dụ ngôn nói đến một người giàu có trước khi đi xa, giao cho các tôi tớ những nén bạc để sinh lợi. Với liên từ đầu câu 1 “cũng thế”, hôsper, và gar liên kết dụ ngôn nầy với dụ ngôn trước, và có chung chủ đề là một trách nhiệm được giao phó và phải hoàn thành. Dụ ngôn nói đến sự vắng mặt của người chủ. Một người sắp sửa ra đi, apodçmôv, (c. 14) và ông đã ra đi, apedçmçsen (c. 15). Trước khi ra đi ông giao cho các tôi tớ ông các nén bạc để sinh lợi trong thời gian ông vắng mặt. Talanton, theo nguyên ngữ là một đơn vị đo lường. Ở đây là một số lượng tiền bạc đo bằng một talent (x. 18:24). Một talent có thể bằng 6.000 đồng bạc, và một đồng bạc là lương một ngày công. Chủ đề người chủ giao cho người quản lý trông coi tài sản của mình tìm thấy trong một số dụ ngôn. Tuy nhiên trong dụ ngôn nầy, nhấn mạnh đến việc sinh lời tài sản ấy. Tài sản giao cho các tôi tớ nầy không phải là nhỏ. Khi trao, paradidômi (c. 14), cho họ, không thấy nêu lên lý do của việc nầy. Sang phần hai, mới biết mục đích của việc trao tài sản là để sinh lợi. Động từ “sinh lợi”, kerdainô, được dùng đến 4 lần khi nói đến hành động của hai người tôi tớ đầu tiên (cc. 16.17.20.22). Kerdainô, ”kiếm được” do đầu từ công sức (x. 16:26; 18:15). Số tiền đã được giao tùy theo khả năng riêng của từng người. Người chủ biết rõ khả năng của các tôi tớ mình.
2/ Các tôi tớ hành động với những nén bạc được giao (25:16-18)
Nén bạc được giao cho 3 người tôi tớ: người năm nén, người hai nén và người một nén. Trong đoạn nầy các động từ đều ở thì bất định (aorist), diễn tả sự nhanh chóng của các hành động. Dụ ngôn không nói họ làm gì với các nén mạc, mà chỉ nói cả hai người tôi tớ đầu tiên çpagasato en autois, “làm việc với những nén bạc ấy”, và kiếm được những nén bạc gấp đôi. Người nhận 5 nén sinh lợi thêm 5 nén. Người nhận 2 nén sinh lợi thêm hai nén.
Người thứ ba có hành động nghịch lại (c.18). Liên từ “nhưng”, de, chỉ hành vi tiếp sau sẽ trái ngược. Việc đào đất và chôn dấu nén bạc trong đó chỉ sự cất giấu an toàn (x. 21:33; 13:44). Người nầy không muốn nén bạc của ông chủ không sinh lợi, mà chỉ lo giữ khỏi mất đi.
3/ Ông chủ tính sổ sách (25:19-30)
Sau một thời gian dài chủ trở lại. “Một người” ở câu dẫn nhập, bây giờ được xác định là “kurios”, ông chủ/Chúa (c. 19). Tương tự như trong dụ ngôn 10 trinh nữ (25:11[2x]), từ kurios thường được dùng trong phần hai của dụ ngôn, lúc có tính cách quyết định. Synairô logos, “tính sổ” cụm từ lấy từ ngôn ngữ thương mại, rất giống với việc vua tính sổ (x. 18:23.24), và chỉ sự phán xét cánh chung.
Lời lẽ của hai người đầu tiên rất giống nhau (cc. 20-23), chỉ khác chữ số nén bạc. Cả hai người tôi tớ đều được gọi là “ngay thẳng” và “trung tín” (cc. 21.23) vì họ đã hoàn thành bổn phận được đòi hỏi. Lời khen ngợi nầy tương tự với câu 24:46. “Phúc cho tôi tớ nầy đang làm như vậy khi chủ trở về”. “Hãy vào hưởng vui mừng của chủ ngươi” (25:21.23). Nhiều lần Tin Mừng nói đến việc “vào Nước Trời” (5:20; 7:21; 18:3) vào sự sống (18:8-9; 19:16). Và ở đây nói đến niềm vui. “Niềm vui” liên quan rất mật thiết với những điều thuộc về Thiên Chúa: thấy ánh sao dẫn đường (2:10), tìm được kho tàng Nước Trời (13:44), thấy Chúa sống lại (28:8). Nói tóm, “vào trong hoan lạc với chủ ngươi” là vào hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Khác với hai người tôi tớ trước, người tôi tớ thứ ba bắt đầu bằng lời phê phán ông chủ để biện minh cho việc mình đã làm (25:24-30). Sklçros, “cứng”, “cứng lòng (19:8), nghĩa bóng là “khắt khe”, “ác nghiệt”, “không thương xót” (x. 1 Sam 25:3). Gặt nơi không gieo. Thu nơi không vãi. Hai câu song song và đồng nghĩa (gặt = thu; gieo = vãi). Như thế theo lời người tôi tớ nầy, ông chủ là người kiếm lợi nhuận cách bất chính. Và người tôi tớ nầy sợ không thể sinh lợi được như đòi hỏi của ông chủ, nên đã chôn giấu nén bạc nơi an toàn. Người nầy đã đưa lại nguyên vẹn cho chủ một nén bạc, không thêm không bớt. Hành động như thế, người nầy đã làm như người đã thắp đèn và để dưới đáy thùng (5:15).
Lời của ông chủ tiếp theo rất dài (25:26-30). Đáp lại ông chủ lập lại lời không phản đối lời người tôi tớ nói về ông, và ông không phải đối điều nầy. Ông còn chỉ cho người tôi tớ cách làm lợi nén bạc mà không phải nhọc công (c. 27). Ông gọi người tôi tớ nầy là ”bất hảo” và “lười biếng” (c. 26). Từ “bất hảo” áp dụng cho con người (7:11; 12:34). Người tôi tớ nầy bị gọi là “bất hảo”, ponçros, theo nghĩa là người nầy đã không suy nghĩ như người chủ (x. 20:15) và không hành động như chủ muốn (x. 18:32). Oknçros, thông thường được dịch là “lười biếng”, nhưng ở đây có thể có nghĩa là “ngần ngại”, “sợ hãi”. Do sợ sinh lợi không thành, mà người nầy đã không dám kinh doanh với nén bạc của mình.
Vì người tôi tớ tỏ ra “vô dụng” với nén bạc được trao, chủ đã lấy lại nén bạc ấy, và trao cho người thứ nhất (c. 28). Các động từ trong câu 29 ở thể thụ động có Thiên Chúa là tác nhân. Người đã có lại được thêm và người không sinh lợi được nén bạc được trao, mất luôn cả điều họ đang có. Và người nầy chịu hình phạt nặng nề, vì đã không làm theo ý chủ (ném vào nơi tối tăm 8:12; 22:13; khóc lóc và nghiến răng 8:12; 13:42.50; 22:13; 24:51; x. Lc 12:47).
Người tôi tớ không độc lập với chủ của mình, nhưng ở trong tương quan phục vụ với chủ. Người tôi tớ không làm theo ý riêng, mà ý muốn của chủ. Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa vì do Người tạo dựng. Mỗi người tùy theo khả năng được ban cho mà phụng sự Thiên Chúa hết tâm hồn.
(Suy niệm của Nữ tu Barbara E. Reid OP. - Văn Hào, SDB chuyển ngữ) Khá lắm, anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành” (Mt 25, 21).
Khi con người sống trong một định chế xã hội với hệ thống kinh tế đầy những bất công, chúng ta: TN 33-A57
Khi con người sống trong một định chế xã hội với hệ thống kinh tế đầy những bất công, chúng ta có thể làm được những gì? Có một thời, người ta đã xuống đường ở Mỹ, chiếm phố Wall, như một động thái phản kháng, và gióng lên hồi chuông báo động về những bất công nơi hệ thống tài chánh tại đất nước tư bản này. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay cũng phác vẽ hình ảnh về một cơ chế xã hội khi con người phải hứng chịu những bất công trước một thực tế phũ phàng, đó là người giàu càng ngày lại càng thêm giàu, và những người nghèo khổ càng ngày càng trở nên cơ cực hơn.
Bài Tin Mừng thuật lại câu truyện, một nhà phú hộ trước khi đi xa, đã trao phó tài sản mình cho những đầy tớ để họ sinh lợi. Người nhận năm nén, người nhận được hai, và người đầy tớ sau cùng chỉ nhận một nén bạc. Từ ngữ “nén bạc” dịch từ hạn từ talenton trong tiếp Hy Lạp, là một đơn vị tiền tệ để giao thương hoặc để định lượng tài sản lúc bấy giờ. Trình thuật hôm nay phần nào khác với câu truyện dụ ngôn được Thánh Luca kể lại. Trong Tin mừng Luca, ông chủ chỉ thị một cách rõ ràng cho các đầy tớ phải đầu tư kiếm lợi, còn nơi Matthêu, ông chủ không ra lệnh trực tiếp, nhưng trong thâm tâm ông cũng muốn các đầy tớ quản lý tài sản của mình cách khôn khéo lúc ông vắng nhà. Trong lúc người phú hộ đi xa, hai người đầy tớ đầu tiên đã sinh lợi gấp đôi với số bạc được trao phó. Vì thế cả hai đều được ông chủ khen ngợi và trao cho những trách vụ to lớn hơn. Còn người đầy tớ thứ ba lại đem nén bạc đi chôn giấu. Anh ta không làm cho nén bạc sinh lợi, nhưng cất giấu đi như một phương cách bảo đảm an toàn theo thói quen thời xưa (xem Mt 73,44): Dụ ngôn kho tàng được chôn giấu trong ruộng). Tên đầy tớ này đã bị ông chủ khiển trách nặng nề và phải lãnh nhận hình phạt.
Chìa khóa quan trọng để ta có thể hiểu dụ ngôn, đó là chúng ta phải đặt mình vào trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đức Giêsu đã không sống trong một xã hội theo hệ thống tư bản, và vào thời đó, người ta chưa quen đầu tư để sinh lợi như hiện nay. Thay vào đó, người ta nghĩ rằng mọi người đều được xã hội phân định tài sản. Tài sản của ai tăng lên do sinh lợi đương nhiên là rút tỉa từ người khác. Một nông dân bình thường chỉ cần đủ những chi tiêu để nuôi sống bản thân và gia đình. Những người có nhiều của cải và chỉ lo tích trữ cho mình vẫn bị coi là những hạng người keo kiệt và gian ác. Vì vậy, trong dụ ngôn, người đầy tớ thứ ba dẫu sao, cũng là một con người đáng trân trọng, chỉ vì anh ta đã chối từ cộng tác vào hệ thống tài chính chỉ để làm tăng thêm lợi nhuận cho ông chủ, trong khi những người khác lại bị thiệt thòi.
Dụ ngôn có thể là một lời cảnh báo trước lối sống an nhàn trưởng giả nơi những con người bị lôi kéo vào một hệ thống kinh tế đầy bất công như hiện nay. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng khích lệ các học trò của mình phải can đảm phản kháng lại những tham lam một cách vô lối như một dạng bất chính, và đó cũng là một hình thái rõ ràng của tội ác. Câu cuối trong dụ ngôn mời gọi chúng ta phải cảnh tỉnh khi đối mặt với những ai khuyến khích làm giàu và biến mình trở nên những con người đầy quyền lực với tiền bạc dư giả. Dụ ngôn cũng khuyến mời chúng ta phải tìm cách cùng nhau chống lại những hệ thống kinh tế bất công, một hệ thống không cổ xúy tình tương thân tương ái, mà nạn nhân điển hình là người đầy tớ thứ ba trong câu truyện Tin mừng hôm nay.
Đọc dụ ngôn theo nhãn quan này, chúng ta thấy rằng ông chủ đi phương xa, không phải là một hình tượng ám thị về Thiên Chúa. Dụ ngôn cũng không khuyến khích chúng ta phải biết sử dụng của cải vật chất Chúa ban để phát huy đến độ sung mãn. Điều này là một việc quan trọng mà các Kitô hữu phải thực thi, khác với cách hiểu của đám đông khi nghe Chúa Giêsu giảng lúc bấy giờ. Nén bạc, theo hạn từ Hy Lạp, không hề mang một ý nghĩa ẩn dụ hay biểu trưng. Nếu hiểu sai, chúng ta sẽ làm mất đi chiều kích cánh chung nơi trình thuật.
Theo mạch văn trong Tin Mừng Matthêu, đây là dụ ngôn cuối trong ba dụ ngôn nhấn mạnh về sự trung tín của các môn đệ Đức Giêsu trong thời gian mong chờ Ngài lại đến. Những người đầy tớ đang rên xiết trong nỗi khiếp sợ mỗi lúc một tăng cao, khi họ sống dưới quyền một ông chủ keo kiệt, một ông chủ dã tâm đã trừng phạt cách ác độc những ai không chịu đi vào hệ thống làm giàu cho riêng cá nhân của mình. Trái lại, các môn đệ Đức Giêsu, khi tín thác vào Thiên Chúa, vào đấng không phải là một ông chủ ác độc, nhưng là một Người Cha tốt lành luôn yêu thương chúng ta bằng cõi lòng nhân ái và khoan hậu của Ngài, chúng ta sẽ làm việc cho sự công chính và những giá trị của Vương quốc Nước Trời, ngày hôm nay, và ngay bây giờ để chờ đợi sự viên thành cánh chung mai sau.
Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi: TN 33-A58
Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi mỗi người chúng ta phải giáp mặt với ‘Con Người đến trong vinh quang của Người’ (Mt 25,31). Thế nhưng nếu Con Người đó vẫn luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu và cứu độ, kể cả (hay đúng hơn nhất là) khi Người đến trong vinh quang của Người, và nếu thời cánh chung là cao điểm của Tin Mừng đầy vui mừng và hy vọng chứ không phải là cao điểm của sợ hãi âu lo, thì việc tôi phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của ba câu chuyện dụ ngôn này, nhất là dụ ngôn những yến bạc, là điều cần thiết; nhất là khi Hội Thánh, trong các tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, đang muốn gởi tới tôi một thông điệp có tầm quan trọng lớn lao cho toàn thể đời sống Tin Mừng của tôi.
Câu chuyện những yến bạc gợi ta nhớ tới đoạn Tin Mừng Luca Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến nhiều (xem Lc 7,36-50), trong đó Đức Giêsu khảng định với một người Pha-ri-sêu có tên là Si-mon mời ngài dùng bữa tại nhà ông: “Vì thế tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều… Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”.
Trước hết số yến bạc có là năm, hai, hay một (NB: dụ ngôn này trong Luca có chi tiết hơi khác, đó là mỗi đầy tớ nhận được một nén bạc như nhau, nhưng sau đó đã làm sinh lời khác nhau, xem Lc 19,11-27) mà các đầy tớ nhận được đều là của cải ông chủ giao phó cho cả. Vậy thì, của cải đích thực Thiên Chúa tình yêu và cứu độ giao phó cho tôi là gì? Đấng Tạo Hóa đương nhiên là giao cho tôi sự sống, trí tuệ, năng khiếu… và nhiều điều khác nữa; thế nhưng Kitô hữu chúng ta còn biết: Thiên Chúa cứu độ trao ban cho chúng ta một thứ còn quí báu và vĩ đại hơn nhiều đó là tình yêu tha thứ, và nén bạc này thì mọi người ai cũng nhận được hết. Chính Đức Giêsu Kitô đã dùng cả cuộc đời Người để minh chứng điều này: kho báu quý giá nhất mà Kitô hữu tìm thấy chính là ‘ơn cứu độ’ Chúa ban. Mỗi Kitô hữu chúng ta đều tự biết mình đã nhận được số yến bạc tha thứ của Ông Chủ là bao nhiêu; từ ngày rửa tội và trong suốt năm tháng cuộc đời, kẻ năm, người hai… tùy theo nhận định riêng. Tuy nhiên vẫn có những kẻ cho rằng mình chỉ nhận được có một ít ỏi. Trong câu chuyện dụ ngôn, hai người trước biết mình nhận được một số yến bạc nào đó, đã làm sinh lợi ra nhiều yến bạc khác; “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, còn người thứ ba, vì cho rằng mình nhận được quá ít nên đào lỗ chôn giấu. Đúng là “người được tha nhiều thì yêu nhiều hơn, còn ai được tha ít (đúng hơn cho là mình được tha ít) thì yêu mến ít” (Lc 7,43.47). Thái độ và lời hỗn xược của người thứ ba này càng làm ta phải suy nghĩ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi… Vì thế tôi đâm sợ…” Đúng là nếu có kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa thương xót cứu độ thứ tha, thì cũng có không ít người suy nghĩ ngược lại, họ cho rằng Thiên Chúa quá đòi hỏi và nghiêm khắc. Rất có thể người tội lỗi hơn lại dễ nhận ra mình được tha nhiều và do đó yêu nhiều, trong khi lắm kẻ đạo đức thánh thiện hơn lại cho rằng mình được tha ít (hay đúng hơn ít cần được tha) nên yêu mến ít hơn, và đôi khi còn sống trong sợ hãi. Đức Giêsu đã lặp đi lặp lại ý kiến này nhiều lần tới độ một số kinh sư và các Biệt Phái cảm thấy bực tức khó chịu, phải chăng chỉ vì họ cảm thấy mình đã quá tốt qua việc trung thành giữ đạo để mà không cần gì tới lòng nhân lành tha thứ của Thiên Chúa (xem Ga 9).
Như thế tới ngày chung thẩm, khi ra trước Con Người của tình yêu và cứu độ, điều quan trọng hơn cả sẽ là: tôi nhận ra mình đã được Ông Chủ tha thứ bao nhiêu, để rồi tôi yêu lại bấy nhiêu. Lúc đó lời phán quyết của Ông Chủ sẽ là “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”. Sẽ không có khác biệt giữa năm hay hai, quan trọng là đã nhận ra mình được tha nhiều để đáng vào hưởng tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Cũng vậy, vào ngày đó điều bất hạnh lớn nhất chính là cảm thấy mình được tha quá ít; và vì nhận thức hẹp hòi này mà tôi vẫn coi Con Người quang lâm chỉ là một ông chủ đòi hỏi và keo kiệt, một thẩm phán công thẳng và xét nét. Thái độ của đầy tớ ra trước mặt Ông Chủ sẽ chỉ vỏn vẹn là mình đã giữ luật sòng phẳng, đã trong sạch và không phạm tội… “đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” để rồi phải nghe phán quyết nghiêm thẳng của Con Người quang lâm: hãy rút lại lòng thương xót đã trao, và sử với nó theo đúng luật công bằng: “hãy lấy yến bạc khỏi tay nó… quang ra chỗ tối tăm bên ngoài”, đời đời sẽ “khóc lóc nghiến răng’, vì sẽ không còn tha thứ và cứu độ nữa đối với hạng người như thế.
Kitô hữu sẽ là những người ngày cánh chung “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21,28), không phải vì họ đã thánh thiện và đạo đức hơn nhiều người khác, hoặc vì thấy chẳng có chi phải sợ Ông Chủ vì mình đâu có phạm tội lỗi gì quá đáng, nhưng chỉ vì “anh em sắp được cứu chuộc”. Họ vui mừng và hy vọng vì đã từng nghiệm thấy trong suốt đời Kitô hữu của mình lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Tội lỗi đã từng phạm không hề làm họ sợ hãi, vì hơn lúc nào hết, họ biết mình đã được tha nhiều nên yêu nhiều, và họ yên lòng ‘ngẩng đầu’ tiến đến trước mặt ‘Ngài Quan Án’ từ nhân, giầu lòng thương xót, và hay thứ tha.
Lạy Thiên Chúa của lòng nhân ái, con đã từng hãi sợ cái chết và sự phán xét chỉ vì cứ tối mặt nhìn vào tội lỗi con đã phạm. Con biết thái độ đó đối với Tin Mừng là cả một sai lầm lớn lắm! Xin cho con biết luôn ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’ với niềm xác tín: con đã từng được tha thứ rất nhiều trong đời, và vì thế không có gì phải sợ hãi giáp mặt Đấng con sẽ yêu nhiều hơn. Trong những ngày cuối năm phung vụ này, xin cho niềm hy vọng và mừng vui tràn ngập tâm hồn con cũng như mọi anh chị em tín hữu, vì chúng con đã nếm cảm được tình Chúa xót thương. Amen.
Người đầy tớ trung thành là người không những biết chu toàn một sứ mạng đã được giao phó vừa theo: TN 33-A59
Người đầy tớ trung thành là người không những biết chu toàn một sứ mạng đã được giao phó vừa theo mặt chữ vừa theo tinh thần, mà còn biết lấy sáng kiến mà làm việc trong chiều hướng những gì ông chủ có thể chờ đợi nơi họ.
1.- Ngữ cảnh
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn Những nén bạc” (Mt 25,14-30) được đặt trong ngữ cảnh là chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của Tin Mừng I, ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Câu truyện đặt đối diện hai nhân vật: một ông chủ và các đầy tớ. Ở đây giống như trong dụ ngôn mười trinh nữ, có những đầy tớ “tốt” và những đầy tớ “xấu”. Khi ông chủ trở về, người ta không còn có thể thay đổi tình thế được nữa, mà phải chấp nhận vĩnh viễn tình thế ấy.
Tuy nhiên, ở ngay chỗ bắt đầu bản văn, có từ “bởi vì” (gar). Từ này nối bài dụ ngôn với câu trước là 25,13 và làm cho bài dụ ngôn này nối với bài trước như sau: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. Bởi vì cũng như có người kia sắp đi xa…”. Vậy bài dụ ngôn biện minh cho việc phải “canh thức/tỉnh thức”. Dĩ nhiên, Mt không hiểu từ ngữ này theo nghĩa chữ, nếu không ngài đã chẳng dùng lời khuyến cáo này làm câu kết cho một dụ ngôn trong đó các trinh nữ đều đã ngủ cả. “Canh thức” là ở trong tư thế luôn “sẵn sàng” đối với cuộc Phán xét, mà mình không biết ngày giờ.
Nếu dụ ngôn Các nén bạc nói về “canh thức” thì phải có những ý tưởng liên hệ tới đề tài này. Chúng ta thấy ở c. 19, tác giả cho biết rằng ông chủ trở về “sau một thời gian lâu dài”. Chi tiết này tương tự chi tiết của bài trước: “vì chú rể đến chậm…” (25,5); chi tiết này lại nhắc đến một chi tiết có trước trong dụ ngôn Người đầy tớ trung tín, trong đó người đầy tớ nói: “Còn lâu chủ ta mới về” (24,48). Những câu này nêu ra vấn đề các Kitô hữu đang phải đương đầu vào cuối thời các tông đồ do cuộc Quang Lâm đến chậm: Đức Kitô chậm trở lại như thế, có thể khiến các Kitô hữu thất vọng (x. 2 Pr 3,4), sẽ mất sự bền bỉ. Do đó, cần phải nhấn mạnh đến đề tài “canh thức” với các sắc thái khác nhau của đòi hỏi này. Mt diễn tả bổn phận canh thức qua các tĩnh từ dùng cho các đầy tớ: “tài giỏi và trung thành”, hay là “tồi tệ và biếng nhác”.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Giới thiệu các nhân vật và chủ đề (25,14-18): a) Ông chủ giao tiền trước khi ra đi (cc. 14-15), b) Thời gian giữa thời điểm ông chủ ra đi và trở về (cc. 16-18);
2) Tính sổ với ông chủ (25,19-30): a) Câu mở (c. 19) và Cảnh người đầy tớ tốt thứ nhất (cc. 20-21), b) Cảnh người đầy tớ tốt thứ hai (cc. 22-23), c) Cảnh người đầy tớ xấu (cc. 24-30. Hoặc: Người đầy tớ xấu: cc. 24-28; Nhận định chung kết: cc. 29-30).
3.- Vài điểm chú giải - nén bạc (15): Một talanton Israel khoảng 35kg bạc (x. Xh 25,39; 1 V 9,14…), còn một talanton Hy Lạp (x. 1 Mcb 11,28; 2 Mcb 3,11; Mt 18,24…) thì khoảng 21-26kg. Ngoài các nghĩa tượng trưng đã được gán cho “nén bạc” (khả năng, các trách nhiệm, thì giờ, các của cải…), ý nghĩa của “nén bạc” tương ứng nhất với Tin Mừng Mt là “Tin Mừng”, hoặc tốt hơn, là sự hiểu biết mỗi người có về Tin Mừng (c. 15: “tuỳ khả năng riêng mỗi người”). Sự hiểu biết này phải được chuyển thành hoa trái phục vụ và bác ái đối với người khác. Nói chung, có thể cho rằng một nén bạc bằng 10.000 quan (một quan là công một ngày làm việc).
- được giao ít mà anh đã trung thành (21.23): Lời khen này có thể khiến độc giả nghĩ đến những gương mẫu trong quá khư, như Môsê hoặc Đavít: lúc đầu Thiên Chúa đặt các ngài chăn dắt các đàn vật trước khi giao cho các ngài những nhiệm vụ lớn lao hơn.
- niềm vui (21.23): Hẳn đây là niềm vui hai người đầy tớ tốt cảm nhận khi được vào hưởng bữa tiệc thiên sai, chứ không phải là niềm vui của ông chủ cảm nhận do lý do gì ta không biết.
- Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm (29): Công thức có lẽ là một câu tục ngữ (x. 13,12), hoặc một câu nói của Đức Giêsu đã bị tách khỏi ngữ cảnh, được Mt đặt ở đây. Câu này tóm dụ ngôn rất khéo: vào ngày Phán xét chung (bản văn Hy Lạp là “sẽ được ban cho” là một công thức ở thái bị động tuyệt đối, để nói về hành động của Thiên Chúa, và động từ ở thì tương lai gợi đến một hành động cánh chung của Thiên Chúa), ai có, tức là đã trung thành trong những chuyện nhỏ của cuộc sống trần thế, sẽ nhận được một phần thưởng lớn; còn kẻ nào không có gì, tức đã bất trung hoặc lười biếng, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
- chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng (30): Hình phạt này chỉ có thể là cuộc trầm luân đời đời (x. Mt 22,13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và chủ đề (14-18)
Dụ ngôn bắt đầu với từ hai từ nhỏ đáng chú ý: “cũng như” ([h]ôsper) và “bởi vì” (gar, “vì chưng” [NTT]; “quả thế” [CGKPV]). Với từ “cũng như”, bài dụ ngôn mới này dường như liên kết với c. 13 nói về canh thức. Còn với “bởi vì”, bài này triển khai câu cuối của dụ ngôn trước (25,13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”). Thật ra, cả bài nhắc nhớ đến các truyện Đức Giêsu đã kể trước đây: truyện Tên mắc nợ không biết thong xót (18,23-35: các từ có chung là “các yến vàng”, “tính sổ”) và nhất là truyện Người đầy tớ trung tín (24,45-51: các từ có chung là “đầy tớ trung thành”, “đặt lên”/”giao [nhiều]”, “ông chủ [các] tên đầy tớ ấy”, ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”).
Mọi chuyện xảy ra giữa ông chủ và các tôi tớ. Ông chủ chuẩn bị đi xa, đã ký thác công việc quản lý tài sản ông cho các đầy tớ. Trong thời gian ông đi vắng, các đầy tớ này phải vận dụng khả năng mà làm cho số bạc đã nhận sinh lãi. Như vậy, các tôi tớ này không tự do và độc lập, nhưng họ ở trong một tương quan lệ thuộc và phục vụ. Họ thuộc về ông chủ; những gì được ký thác cho họ là của cải của ông chủ và những gì họ làm sinh ra từ đó là sở hữu của ông chủ. Họ bị ràng buộc với chủ nhiều cách.
Nhân vật chính là một ông chủ giàu có, nhưng dù vậy, ông không muốn để cho vốn của ông nằm đó, càng không muốn cho các đầy tớ của ông chỉ biết nằm ngủ. Dường như điểm sau này là mối quan tâm chính của ông. Với tám nén bạc, ông có thể tự mình đưa đến ngân hàng hoặc đầu tư cách nào khác; ở đây ông lại muốn giao phó số bạc cho các trung gian. Ông đã bỏ một lối xử sự đảm bảo hơn, như ông cho biết trong mẩu đối thoại với tên đầy tớ biếng nhác, mà chọn lấy một cách phiêu lưu hơn, mục đích chỉ để họ chứng tỏ sự cần mẫn (c. 27) và chịu khó. Nét bất thường này cho thấy rằng mục tiêu đầu tiên của ông không phải là lợi nhuận nhưng là xem xét các khả năng, sự sẵn sàng, óc sáng kiến nơi các thuộc cấp. Nhưng cách làm ấy cũng chứng tỏ ông tin vào thiện chí của họ. Ông không muốn họ chỉ là những kẻ lệ thuộc, nhưng là những cộng sự viên có lương tâm. Để thẩm định óc sáng tạo và chuyên chăm, ông không xác định cách thức họ phải theo. Mọi sự được phó mặc cho chọn lựa của họ. Nếu ông phân phát các nén bạc tùy theo khả năng của từng người, là để cho mọi người có cơ hội làm ra một năng suất tối đa, chứ không phải là thiên vị người này hơn người kia. Lời nhận xét của người đầy tớ vô tích sự: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” (c. 24) xác nhận cách xử sự của ông chủ và hơn nữa việc ông tín thác công việc cho các cộng sự viên. Lẽ ra biết ông chủ là người nghiêm khắc, người đầy tớ càng phải ra sức mà làm việc, thay vì ươn ái bất động như thế!
Hai người tôi tớ tốt bắt tay vào việc tức khắc. Họ sử dụng của cải đã được giao cho họ theo cách tương ứng với ý muốn của ông chủ. Họ tuân theo các mục tiêu của ông và bảo vệ của cải lợi lộc cho ông. Cách làm của họ đã đưa lại hoa trái dồi dào.
Người tôi tớ thứ ba mang yến bạc đến trả lại cho chủ, không hơn không kém. Ngay từ đầu, anh đã có một tương quan sai lạc với chủ. Anh ta thấy ông là một con người cứng rắn, anh trách ông là gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông (25,24t). Anh nhìn nhận mình lệ thuộc ông, nhưng không quy phục ông với lòng tin tưởng và cần mẫn. Anh cảm thấy sự lệ thuộc của mình gay go và áp bức và tức giận với ông như đối với một kẻ bóc lột bắt kẻ khác làm việc cho mình và sống nhờ công lao của những kẻ khác. Do đó, anh từ chối phục vụ và không hành động theo ý muốn của chủ. Anh không phung phí của cải được giao và không tiêu xài cho mình. Anh chỉ để nó ở đấy không sinh lợi và trả lại cho chủ y như đã nhận. Những lời nói của anh chao đảo giữa sự nghi ngờ, phản đối và sợ hãi. Anh bị kết án không phải bởi vì anh đã không đạt được con số như các đồng nghiệp, nhưng bởi vì anh không vận dụng một sáng kiến nào cả, dù là việc dễ hơn như bỏ số bạc vào ngân hàng (dễ hơn cả việc đào lỗ chôn giấu énn bạc của chủ!), dễ nhưng phiêu lưu hơn, nên cũng nặng trách nhiệm hơn. Lỗi của anh là đã chôn giấu một của cải tự nó phải sinh lời.
* Tính sổ với ông chủ (19-30)
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ trở về và gọi các tôi tớ đến tính sổ. Cảnh tính sổ với ông chủ được chia thành ba hồi nhỏ: Ba người đầy tớ đến gặp chủ, mỗi người nói ra cách mình đã làm với số bạc của chủ và nghe ông đánh giá.
Trường hợp hai người đầu thì hoàn toàn song song: người đầu như thế nào, thì người thứ hai như vậy (mỗi người được dành cho 2 câu); người thứ ba được đặc biệt lưu ý (anh được dành cho 7 câu, hoặc ít ra là 5 câu, nếu tách cc. 29-30 ra như là phần thêm vào sau). Về phương diện văn chương, bốn câu dành cho hai người đầu làm thành một đơn vị văn chương được dùng làm đối trọng cho người đầy tớ thứ ba. Như vậy, trong thực tế, chúng ta có một phép đối ngẫu: điểm giáo huấn quan trọng nằm trong sự tương phản giữa hai người đầu với người thứ ba. Trong một dụ ngôn có đặc tính đối ngẫu như thế, điểm nhấn luôn nằm nơi vế thứ hai của thế đối ngẫu (x. các dụ ngôn trong các Tin Mừng và Tl 9), vế thứ nhất chỉ nhằm làm rõ vế hai mà thôi.
Họ đã báo cáo lại cho chủ đầy đủ và được ông không tiếc lời khen ngợi. Ông nhìn nhận họ là những tôi tớ tốt lành và trung tín. Một tôi tớ tốt lành thì chấp nhận trọn vẹn vị trí của mình và ra tay phục vụ chủ. Người ấy không theo các ý riêng hoặc các cảm hứng riêng, không tránh né chủ, nhưng tự đồng hóa với các mục tiêu và quyền lợi của chủ. Một tôi tớ tốt lành thì ân cần chăm sóc của cải đã được giao phó cho mình với lương tâm. Sau khi hai tôi tớ đã được thử thách, ông chủ có thể giao phó cho họ các nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông mời gọi họ đến niềm hạnh phúc viên mãn: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (25,21.23). Tin Mừng rất thường nói đến việc “đi vào Nước Trời” (x. 5,20; 7,21; 18,3), “vào trong cõi sống” (18,8t; 19,16) và bây giờ “vào trong niềm vui”. Những ai trung tín thì được chấp nhận cho thông phần Nước Trời, nghĩa là được sự sống viên mãn và niềm hạnh phúc vô tận. Ông chủ không đẩy các tôi tớ ra xa, nhưng chấp nhận họ vào trong môi trường sống của ông, trong cuộc sống hạnh phúc viên mãn của ông. Chúng ta không thể đạt tới mục tiêu này và mức sống viên mãn nhờ dựa vào sức riêng, hoặc nhờ đi qua một nẻo đường chọn riêng, nhưng chỉ nhờ phục vụ Chúa. Hai người tôi tớ nhận được phần thưởng như nhau, phần thưởng này không được xác định bởi mức độ đóng góp của họ, nhưng bởi mức độ là sự chuyên cần và trung tín.
Còn kiểu tính toán của người đầy tớ cuối cùng là một tính toán sai lầm; trong khi anh tưởng được yên thân khỏi bị quy trách, anh đã làm hại quyền lợi của ông chủ. Anh trả lại “nguyên xi” nén bạc đã nhận, nghĩ rằng như thế là “cân bằng thu chi”: anh vừa lười biếng lại vừa ngu ngốc. Ông chủ gọi anh là đầy tớ tồi tệ và biếng nhác (c. 26), một kẻ đã hoàn toàn làm hỏng cuộc đời của chính mình và lệnh truyền đã nhận. Bởi vì anh đã tránh né chủ, bây giờ ông chủ cũng tránh né anh. Ông không cho anh vào hiệp thông đời sống với ông, nhưng cho quăng anh ra ngoài, nơi đó không có niềm vui, nhưng chỉ có khóc lóc vì đau đớn và nghiến răng vì giận dữ vì sự hư hỏng chính mình đã gây ra cho mình (x. 8,12). Đây là một cuộc sống trong tối tăm, trong sợ hãi và tuyệt vọng.
+ Kết luận
Cho dù cuộc Quang Lâm có đến chậm, các Kitô hữu cần phải luôn “canh thức” với ý nghĩ là cuộc Phán xét sẽ đến và lối sống của họ sẽ bị thẩm định để xem có được vào hưởng niềm hoan lạc hay không. Sự canh thức này cũng đồng thời là sự trung thành chu toàn các nhiệm vụ đã được giao phó, tức là tất cả các bổn phận thuộc đời sống Kitô hữu. Xét như thế, bài này có những liên hệ với bài dụ ngôn Người đầy tớ trung thành (24,45-51). Người đầy tớ trung thành là người không những biết chu toàn một sứ mạng đã được giao phó vừa theo mặt chữ vừa theo tinh thần, mà còn biết lấy sáng kiến mà làm việc trong chiều hướng những gì ông chủ có thể chờ đợi nơi họ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Giống như các tôi tớ trong dụ ngôn, chúng ta, cùng với những gì chúng ta có, là thọ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta không có gì thuộc về chúng ta; các khả năng của chúng ta từ Người mà đến. Tuy nhiên, không phải mọi người đã nhận được như nhau; mức độ các ân ban của Thiên Chúa cho từng người thì khác nhau, và đó là quyền của Ngài. Các nén bạc đây có thể là các đức tính, các khả năng phải phát triển. Nhưng điều tác giả dụ ngôn nhấn mạnh là sự tin tưởng nơi ông chủ, và sự tha thiết, quảng đại hy sinh hầu chu toàn ý muốn của chủ.
2. Thiên Chúa dùng các cộng sự viên để thực hiện các kế họach của Ngài. Ngài không tự mình làm nhưng nhờ trung gian các người thân tín. Những người này cần phải nhận ra cách xử sự như thế của Thiên Chúa là một vinh dự cho mình, để mà ra sức quảng đại đáp lại sự chờ đợi của Người. Đời sống Kitô hữu không phải là một nếp sống tĩnh hoặc nghỉ ngơi thoải mái.
3. Không phải chỉ tránh sự dữ là đủ; còn cần phải vận dụng tất cả các năng lực và chính đời sống mình mà làm điều thiện. Ơn gọi Kitô hữu là một số vốn bấp bênh; đây không phải là một món tiền chết, nhưng là một quà tặng phải được làm cho sinh lời với óc khôn ngoan, chăm chỉ và tình yêu. Mỗi Kitô hữu phải lấy tinh thần trách nhiệm và can đảm mà làm việc.
4. Thời gian hiện tại là nhà băng thử thách để đưa tới định mệng tương lai. Ai đã chứng tỏ mình biết dấn thân làm việc sẽ được giao phó cho một hoạt động cao hơn; ai ươn ái và lười biếng sẽ mất cả số vốn của mình và thậm chí bị loại khỏi Nước Trời.
5. Chúng ta chỉ có một cách đạt tới cùng đích của đời sống chúng ta, đó là ra tay phục vụ Thiên Chúa, sử dụng theo ý Ngài tất cả những gì đã được ban tặng và ký thác cho chúng ta. Chúng ta không thể sử dụng theo ý muốn của mình và phung phí đời sống và thì giờ, các khả năng và phương thế, các công việc của chúng ta. Thiên Chúa đã ký thác tất cả các thứ đó cho chúng ta, và chúng ta phải trả lẽ với Ngài về tất cả. Không phải trong sợ hãi Thiên Chúa, nhưng trong sự tin tưởng vào Ngài, chúng ta mới có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Đức tin nói với chúng ta: vốn liếng Chúa ban cho chúng ta là sức khỏe, gia đình, của cải, con cái, TN 33-A60 HP
Đức tin nói với chúng ta: vốn liếng Chúa ban cho chúng ta là sức khỏe, gia đình, của cải, con cái, công việc, bạn bè và môi trường sống. Chúng ta đã làm gì để cho số vốn ấy sinh lời?
Trong xã hội hôm nay, mọi sự đều có thể biến thành hàng hóa, mọi công việc đều mang tính thương mại, kể cả trong lãnh vực tâm linh. Con người ngày càng trở nên so đo tính toán thiệt hơn trong mối tương quan xã hội. Qua hình ảnh của một xã hội thương mại, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: hãy biết sinh lợi thiêng liêng để đem lại ích lợi lâu bền, tức là phần rỗi linh hồn. Tự bản tính, con người sống trên đời phải lo làm ăn kiếm sống. Có những người đôn đáo suốt đời mà vẫn tay trắng, vì thiếu cần cù, khôn ngoan hoặc thiếu đức độ. Tiền nhân dạy: "Có đức mặc sức mà ăn". Điều này có nghĩa, trong công việc làm ăn, phải lấy đức làm đầu. Bởi lẽ "Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên". Người tính không bằng trời tính. Con người mưu mô, tính toán theo những tham vọng của mình, nhưng Trời lại có cách tính khác. Vì vậy, những ai tưởng mình "lấy tay che được mặt trời" sẽ bị thất bại. Người phụ nữ được diễn tả trong sách Châm ngôn, là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng, đầy đủ mọi tiêu chuẩn: công, dung, ngôn, hạnh như truyền thống Việt Nam chúng ta. Còn hơn thế nữa, người phụ nữ nay chăm chỉ làm việc và kính sợ Chúa, đồng thời biết dùng của cải mình làm ra để giúp những kẻ khó nghèo. Đây là nét làm cho bà đáng kính trọng và đáng ca tụng, vì đức hạnh không hệ tại ở nhan sắc bề ngoài. Hình ảnh này không chỉ diễn tả những người phụ nữ nội trợ, mà là mẫu mực cho hết thảy chúng ta. Vì trong cuộc sống này, lao động thuộc bản tính của con người. Lao động lương thiện, với tâm tình mến Chúa và quảng đại chia sẻ cho người nghèo sẽ đem lại cho chúng ta muôn vàn phúc lộc. Đó cũng là một cách sinh lợi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta được phong phú. Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường phàn nàn về những điều chưa hài lòng trong cuộc sống. Ít khi chúng ta nghĩ đến những điều tốt đẹp Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cũng hay so sánh mình với những người khá giả hơn mình, mà ít khi dừng lại để thấy mình còn hơn rất nhiều người xung quanh. Người hạnh phúc là người cảm nhận những niềm vui nho nhỏ ngay giữa cuộc sống còn bộn bề những gian nan. Người bất hạnh chỉ nhìn thấy những điều tiêu cực hoặc chỉ chú trọng đến những điều không hài lòng. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhìn lại cuộc đời mình để thấy những điều tốt đẹp, đồng thời, xem lại cách sử dụng những vốn liếng Chúa ban như thế nào. Đức tin nói với chúng ta: vốn liếng Chúa ban cho chúng ta là sức khỏe, gia đình, của cải, con cái, công việc, bạn bè và môi trường sống. Chúng ta đã làm gì để cho số vốn ấy sinh lời? Nếu mỗi người sống trên trần gian đều được Chúa trao cho một phần tài sản nào đó để quản lý và sinh lợi, thì có lúc Ngài sẽ tính sổ với chúng ta về cách quản lý và sử dụng của cải đã được trao phó. Bài Tin Mừng Thánh Luca phần nào phác họa khung cảnh ngày tận thế, tức là lúc Chúa xét xử con người. Lưu ý đoạn Tin Mừng này được đặt trong ngữ cảnh những bài giảng của Chúa Giêsu nói về ngày cánh chung, tức là ngày phán xét. Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta, giống như người kinh doanh thanh toán sổ sách vào cuối năm xem việc làm ăn buôn bán lỗ lãi thế nào. Ngài dựa trên khả năng của mỗi người để trao vốn cho họ: người nhiều thì được trao năm nén bạc, người hai nén và người khác chỉ có một nén. Việc trao vốn này cho thấy không ai trong chúng ta dựa trên khả năng kém cỏi hay đời sống nghèo nàn của mình mà biện minh cho sự lười biếng. Chúa muốn chúng ta sinh lợi, tùy khả năng của mình. Ngài không đòi người đã được trao hai nén phải sinh lợi giống như người được trao năm nén. Đến thời điểm chung cục của cuộc đời, mỗi người đều phải thanh toán sổ sách với Chúa, bất luận nghèo hay giàu, văn minh hay lạc hậu, trí thức hay bình dân. Lý luận của người thứ ba cho thấy sự biếng nhác và thiếu thiện chí của anh: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ mà đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại cho ông". Người này đã quên thân phận đầy tớ của mình. Anh ta vừa lười biếng, vừa vu khống chủ là "một người keo kiệt". Anh bị ông chủ mắng là “xấu xa và biếng nhác”. Anh không thật tâm với ông chủ. Bằng chứng là mặc dù anh chịu ơn ông chủ, nhưng trong đầu óc của anh luôn nghĩ xấu về chủ mình. Tại sao lại nói ông chủ là người “gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” trong khi chính ông chủ đã trao cho anh ta một nén bạc để làm vốn? Hơn nữa, trong khi hai người đầy tớ trước rất tự tin nói với ông chủ: “Ông đã trao cho tôi năm (hai) nén, tôi đã gây lời được năm (hai) nén khác đây”, thì anh đầy tớ lười nhác này lại nói với ông chủ: “Của ông vẫn còn nguyên đây này!”. Anh đầy tớ xấu xa và lười nhác chưa bao giờ coi số vốn đó là như của mình, để rồi anh quan tâm làm cho sinh lợi. Một điều nhỏ nhất anh có thể làm được mà anh cũng bỏ không làm, đó là đem gửi số bạc đó vào ngân hàng để hưởng lợi. Anh đáng khiển trách không phải vì đã làm điều xấu, nhưng vì anh lười biếng không chịu làm gì. Hình phạt cho anh đã rõ ràng và thích đáng: anh bị tước mất một nén bạc được trao phó và bị tống ngục. Ngục giam ở đây được trình bày như một nơi tăm tối và khóc lóc, là nơi thiếu vắng tình yêu. Đó chính là cách diễn hỏa ngục theo niềm tin của Do Thái giáo. Không chỉ chờ đến ngày tận thế hay ngày lâm chung mới thanh toán sổ sách với Chúa, vì Chúa đến không biết vào ngày nào giờ nào. Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta như thế, đồng thời Ngài kêu gọi chúng ta hãy luôn sẵn sàng, đừng mê ngủ, kể cả khi mọi người xung quanh cho rằng yên ổn và an toàn. "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Đây là những lời ngọt ngào ông chủ nói với người đầy tớ đã biết khôn ngoan làm cho vốn được trao sinh lợi. Ước chi đây cũng là lời Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta kết thúc hành trình cuộc đời để về gặp gỡ Đấng là Cha và là Cội Nguồn của muôn vật muôn loài. +Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Kiếp người là một chuyến lữ hành, tất nhiên có khởi hành và kết thúc. Chuyến lữ hành có thể dài TN 33-A61
Kiếp người là một chuyến lữ hành, tất nhiên có khởi hành và kết thúc. Chuyến lữ hành có thể dài hoặc ngắn, nhưng ai cũng có hai điểm: Sinh và Tử – khởi hành từ lúc sinh ra và kết thúc vào lúc trút hơi thở cuối cùng. Sinh ra thì không mấy lo, nhưng chết là mối quan ngại lớn!
Chết là “chuyến định mệnh” của mọi người, không ai tránh khỏi, như Thánh Phaolô đã xác định: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Tiền bạc, danh vọng, sự nghiệp, mọi thứ đều không thể đem theo. Của thế gian trả lại thế gian, chỉ có một thứ duy nhất có thể đem theo: Nhân Đức.
Lúc nào cũng thấy có người chết, nhắc nhở chúng ta lúc nào cũng phải nghĩ đến cái chết của chính mình, không chỉ nghĩ đến Tử Thần mỗi dịp Mùa Chay và Tháng Cầu Hồn, hoặc một dịp đặc biệt nào đó. Thật vậy, cái chết có thể xảy đến với chúng ta bất cứ giây phút nào, đừng tưởng mình còn trẻ hoặc còn “ngon lành” mà khinh suất. Mỗi người chỉ có một “chuyến lữ hành” mà thôi. Và đừng quên điều quan trọng này: KHÔNG CÓ KIẾP LUÂN HỒI. Đừng ảo tưởng!
Cuộc đời có rất nhiều chuyến xe: Xe khách, xe tải, xe buýt, xe xích lô, xe ôm, xe chở hàng, xe buôn lậu, xe tăng, xe hủ lô, xe cứu thương, xe cứu hỏa, xe hành hương, xe cứu trợ, xe cảnh sát, xe dân sự, xe hoa, xe tang, … Trong đó có loại xe tốt, có loại xe không tốt, có chuyến xe an toàn, có chuyến xe không an toàn – tốt hay xấu, an toàn hay không an toàn được hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cuộc đời có nhiều chuyến xe, nhưng mỗi người chỉ có một “chuyến đời”, một chuyến duy nhất để mà sống, không thể “rút kinh nghiệm” cho chuyến nào khác. Tuy nhiên, với “chuyến đời” ấy, vấn đề không phải là dài hay ngắn, đi trên đường đất bụi mù hay đường nhựa trơn láng, đường hẹp và đầy ổ gà hay đường rộng thênh thang và đẹp đẽ, mà vấn đề là “chuyên chở” những thứ gì.
Ngay từ hồi còn niên thiếu, không hiểu sao tôi đã cảm thấy thích ca khúc “Những Chuyến Xe Trong Cuộc Đời” của nhạc sĩ Hoài Linh. Theo tôi, ca khúc này đầy triết lý của kiếp người. Với cấu trúc phổ biến A – A’ – B – A’’ đối với các ca khúc trong nửa sau của thế kỷ XX, nhưng “Những Chuyến Xe Trong Cuộc Đời” không hề đơn điệu, giai điệu nhẹ nhàng và sâu lắng, ca từ bình dị mà thâm thúy: “Chuyến xe đầu, đưa người từ lòng nôi vào dương thế chơi vơi. Tay không hành lý ngóng nhìn về tương lai, ngỡ ngàng lên tiếng khóc cười, thay cho lời đầu tiên người nói”.
Người ta bật khóc ngay khi vừa sinh ra. Sinh ra là niềm vui lớn, sao lại khóc? Phải chăng vì “tay không hành lý” hay là “điềm báo” về chuyến đời đầy gian truân, khổ ải trần gian này? Có lẽ trước tiên vì “tay không hành lý” nên chính chuyến xe đầu tiên ấy đưa con người vào “dương thế chơi vơi”, thế nên con người cứ “ngóng nhìn về tương lai”, để rồi biết bao lần “ngỡ ngàng lên tiếng khóc, cười”. Chưa gì đã thấy buồn rồi!
Khởi đầu cuộc đời bằng tiếng khóc, nối tiếp là những nỗi buồn: “Tháng năm dài, vui buồn tuổi chẳng thêm, ngọt cay cũng mau quen. Xe lăn một chuyến cát bụi mòn chân đen, sang giàu may mắn phút đầu, hay nhịp độ gãy đôi ba cầu”. Cuộc sống cứ trầm lặng chứ không ồn ào, náo nhiệt!
Vâng, nỗi buồn quá nhiều, mà niềm vui quá ít. Nhưng cứ phải chịu đựng mãi rồi cũng thành quen. “Người ăn không hết, kẻ lần không ra” như một quy luật. Nhiều người phải gian nan đủ thứ mới được thanh thản đôi chút, như người ta thường nói: “Ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”. Mệt thật! Hạnh phúc nào cũng tốn nhiều nước mắt, vinh quang nào cũng chứa nhiều tủi nhục, thành công nào cũng nếm nhiều thất bại.
Thế mà sóng đời vẫn chưa chịu lặng, cuộc đời cứ chông chênh mãi: “Xe hoa đưa người êm ấm tình nồng, em anh nên đôi vợ chồng, xe tơ hồng một duyên hai bóng. Duyên đưa, có người chỉ một xe đầu, có người vài lần thương đau, có người chẳng bao giờ đâu”.
Chuyến xe được người ta quan tâm nhất là “chuyến xe hoa”. Thế nhưng các cô gái miền quê có lấy chồng cũng chẳng được ngồi xe hoa về nhà chồng, có chăng việc “lên xe hoa” của họ là ngồi trên chiếc xe trâu hoặc xe bò lọc cọc leo đồi mà về nhà chồng, thậm chí có những người còn phải lội bộ. Đối với họ, “xe hoa” chỉ có trong thơ văn, nghệ thuật.
Có những cô gái chỉ một lần lên xe hoa, nhưng có người lên xe hoa chưa được bao lâu đã phải khóc thương người chồng bạc mệnh, hoặc vì lý do nào đó mà phải chia tay. Có người bước thêm bước nữa nhưng rồi cũng chẳng vui hạnh phúc được bao lâu. Tái giá vài lần mà hạnh phúc vẫn xa tầm tay. Và “có người chẳng bao giờ đâu”, nghĩa là họ không lên xe hoa, vì nhiều hoàn cảnh khác nhau. Không ai hiểu được ẩn số cuộc đời nên người ta gọi đó là “duyên số” hoặc “duyên phận”, hoặc “định mệnh”.
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Biển không bao giờ cạn nước, thế nên khổ hải (bể khổ) cũng chẳng bao giờ hết đau khổ: “Sáng trưa chiều, khi tuổi đời nặng gieo, vòng tay cũng xuôi theo. Công danh ngày ấy, giấc mộng tình hôm nay, cũng về như chiếc lá gầy, xe đơn lạnh tiễn ai trong này”.
Ai cũng một thời trẻ, rồi già: “Khi tuổi đời nặng gieo”. Và đó là lúc “vòng tay cũng xuôi theo”, nghĩa là Tử thần bắt đầu “dòm ngó” hoặc đứng chờ ngoài cửa. Công danh, sự nghiệp, tiền tài, địa vị, tình yêu, … cũng chẳng còn nghĩa lý gì, vì tất cả “cũng như chiếc lá gầy”, cuối cùng chỉ còn là “chuyến xe đơn lạnh” mà thôi. Chuyến xe đó chính là chuyến xe tang!
Cuộc sống có nhiều “cái cuối”. Cuối giờ. Cuối ngày. Cuối tháng. Cuối năm. Và đặc biệt là cuối đời. Định luật muôn thuở và bất biến. Thời gian không nhanh, không chậm, muôn thuở vẫn vậy. Cảm giác nhanh hay chậm là do cảm giác của con người tùy thuộc cảm xúc vui hay buồn. Người ta vui thì thấy thời gian trôi qua mau, người ta buồn thì thấy thời gian trôi qua chậm. Người ta trẻ thì thấy thời gian “dài” với sắc màu rực rỡ, người ta già thì thấy thời gian “ngắn” với sắc màu ảm đạm. Chuyện đời bình thường vậy thôi!
Người ta gọi cuộc sống là “dòng đời” vì người ta thấy nó cũng cứ trôi đi như dòng sông. Sông hoặc biển cũng đều có sóng. Và cuộc sống cũng có một loại sóng đặc trưng là “sóng đời”. Với ý nghĩa đó, trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, Trịnh Công Sơn viết: “Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người… Biển sóng biển sóng đừng trôi xa, Bao năm chờ đợi sóng gần ta, Biển sóng biển sóng đừng âm u, Đừng nuôi trong ấy trái tim thù”.
Trăm năm tưởng dài mà ngắn. Đời người qua nhanh tựa “bóng câu qua cửa sổ” (Trang Tử – Nam Hoa Kinh). Tương tự, Nguyễn Gia Thiều (1741–1798) cũng đã diễn tả trong “Cung Oán Ngâm Khúc”: “Đời người như bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi”. Đó là sự thật minh nhiên, không thể chối cãi. Tác giả Thánh Vịnh nhận định:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng Một cơn gió thoảng là xong Chốn xưa mình ở cũng không biết mình (Tv 103:15-16).
Nghe buồn quá. Nhưng đó là sự-thật-của-sự-thật. Không ai có thể làm gì. Không còn cách nào khác. Con người xem chừng đành thúc thủ, nhưng người ta vẫn có thể “quản lý” những “vật dụng” trong “chuyến đời” của mình. Bằng cách nào?
Chắc hẳn chẳng còn cách nào khác hơn là “sống tốt”. Có nhiều cách sống tốt, nhưng có thể tạm tóm lược qua mấy điểm chính: Đứng đắn, tử tế, nhân bản, yêu thương, và hòa nhã. Đó là cách sống tích cực trong mọi hoàn cảnh. Một danh nhân đã nói: “Chỉ có người biết yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Quả đúng là như vậy!
Thánh Faustina tâm sự về “chuyến đời” của Chị: “Tôi luôn hiện diện trước mặt Thiên Chúa trong linh hồn tôi, và tôi kết hiệp mật thiết với Ngài. Tôi làm việc với Ngài, tôi giải trí với Ngài, tôi chịu đau khổ với Ngài, tôi vui mừng với Ngài; tôi sống trong Ngài và Ngài sống trong tôi. TÔI KHÔNG BAO GIỜ CÔ ĐƠN, vì Ngài luôn đồng hành với tôi” (Nhật Ký, số 318).
Ước gì chúng ta cũng được như vậy! Theo lời khuyên (và cũng là mệnh lệnh) của Chúa Giêsu, chúng ta cần phải thực hành điều Ngài đã mặc khải qua Kinh Thánh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16), hoặc “ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3:36), và qua mặc khải với Thánh Faustina: “Lạy Chúa Giêsu, con TÍN THÁC vào Ngài!”.
Có một truyện ngụ ngôn “Hành Trang Cuộc Đời” như thế này… Một người hấp hối thấy Chúa vừa ưu ái trao cho chiếc vali vừa nói: Đến giờ con ra đi rồi! Người này ngạc nhiên:
– Bây giờ sao Chúa? Sớm quá, con còn nhiều việc chưa làm! – Rất tiếc vì tới giờ con phải ra đi thôi!
– Có gì trong vali vậy, thưa Chúa? – Hành trang của con đó.
– Sở hữu của con, y phục, tiền bạc? – Các vật đó không phải của con, chúng thuôc về trái đất! – Vậy có phải ký ức của con? – Không phải của con, của thời gian!
– Phải chăng tài năng của con? – Không phải của con, của hoàn cảnh!
– Có phải bạn bè hay gia đình con? – Rất tiếc cũng không phải của con, chỉ là tiến trình cuộc đời. – Phải chăng vợ và con của con? – Không phải của con, mà là tâm tư con!
– Có phải là thân xác của con? – Cũng không phải của con, nó là cát bụi! – Phải chăng tâm linh con? – Không, đó là của Ta!
Phập phồng người chết nhận chiếc vali Chúa trao và liền mở ra xem. Bên trong không có gì cả. Trống rỗng! Bàng hoàng, người này nói: “Không có cái gì là của con cả!” Chúa nói: “Đúng thế, chỉ có THỜI GIAN CON SỐNG là của riêng con”.
Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài (Tv 130:3-4). Xin cho chuyến đời của chúng con được đến Bến An Bình. Amen.
(*) Nhạc sĩ Hoài Linh tên thật là Lê Văn Linh, người gốc miền Bắc, sinh vào khoảng 1925. Ông cũng sáng tác những bài hát có nét nhạc cổ điển ảnh hưởng bởi thời cuộc, ca từ lãng mạn nhưng chưa vương khói lửa chiến chinh. Các ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Hoài Linh thời gian đầu là bài Nếu Đừng Dang Dở và Sầu Tím Thiệp Hồng.
Sau đó, ông có nhiều bài khác được nhiều người biết đến: Áo Em Chưa Mặc Một Lần, Căn Nhà Màu Tím, Chuyến Đò Không Em, Cô Bé Ngày Xưa, Giọt Lệ Vu Quy, Hai Đứa Giận Nhau, Khách Lạ Đò Xưa, Lá Thư Trần Thế, Nhịp Cầu Tri Âm, Tám Nẻo Đường Thành, Tâm Sự Nàng xuân, Thiệp Hồng Anh Viết Tên Em, Về Đâu Mái Tóc Người Thương, Xin Tròn Tuổi Loạn, Xuân Muộn, ... Nói chung, ông có khá nhiều ca khúc quen thuộc với người thưởng thức âm nhạc.
Sách Phương Ngôn (còn gọi là sách Châm Ngôn) diễn tả hình ảnh một người vợ tài đức vẹn toàn. TN 33-A62
Sách Phương Ngôn (còn gọi là sách Châm Ngôn) diễn tả hình ảnh một người vợ tài đức vẹn toàn. Nàng lo toan cần mẫn trong công việc cửa nhà rất chu đáo. Nàng yêu thương và chăm lo cho chồng con. Với lòng bác ái từ bi: Nàng rộng tay bố thí cho người nghèo khó và giơ tay hướng dẫn người bần cùng (Pn 31, 20). Nàng quí giá hơn ngọc ngà châu báu muôn vàn. Nàng mang lại niềm an vui và hạnh phúc cho gia đình. Trong vai trò là vợ, là mẹ và là người phụ nữ, nàng lo liệu mọi việc trong nhà và ngoài xã hội một cách chăm chỉ. Đời sống nội tâm của nàng thể hiện một niềm tin mạnh mẽ trong sự kính sợ Thiên Chúa: Duyên dáng thì giả dối và nhan sắc thì hão huyền. Người phụ nữ kính sợ Chúa, sẽ được ca tụng (Pn 31, 30). Nàng nhận diện giá trị đích thực của người phụ nữ không hệ tại ở nhan sắc chóng tàn phai, nhưng là cái tâm trinh trong vẹn tuyền. Nàng đáng được ca ngợi!
Bài phúc âm hôm nay kể cho chúng ta một dụ ngôn về kết qủa tính sổ của các đầy tớ. Câu truyện rất ý nghĩa, trước đi trẩy đi miền xa, ông chủ đã trao cho các đầy tớ những nén bạc để làm vốn sinh lời: Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng của mỗi người, đoạn ông ra đi (Mt 25, 15). Trao nén bạc cho các đầy tớ xong, ông ra đi. Họ phải tự mình lo chu toàn bổn phận và trách nhiệm đã được trao. Người nhận nhiều, kẻ nhận ít. Ông chủ chỉ muốn mỗi đầy tớ hãy cố công lao động sinh lời từ số vốn liếng mà mình đã nhận được. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để áp dụng cho mọi người ở mọi thời. Đã hai ngàn năm trôi qua, dụ ngôn tính sổ đời là một lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự vấn.
Ông chủ trao các nén bạc cho mỗi người đầy tớ tùy theo khả năng của họ. Ai trong chúng ta cũng đã lãnh nhận những nén bạc quí báu. Nén bạc là khả năng, thời giờ, của cải và tài đức. Ngoại trừ những người bị bệnh tật, khiếm khuyết, dị tật và bất thường, đa số chúng ta là những người bình thường có thể lao động sinh lời. Mỗi cá nhân đã nhận được biết bao nhiêu vốn liếng hồng ân. Thiên Chúa ban cho mỗi người một khả năng để chúng ta làm lời thêm cho gia đình, tha nhân và xã hội. Nhìn quanh, chúng ta đang được thừa hưởng nhiều thành qủa do công khó của biết bao người cống hiến. Họ đã hy sinh thời giờ, khả năng và sức lực để xây dựng một xã hội kỹ thuật văn minh giầu đẹp. Tự hỏi, mỗi người chúng ta đã đóng góp được gì vào kho tàng cuộc sống của xã hội và Giáo Hội? Hãy tận dụng những khả năng sẵn có để phục vụ anh em đồng loại.
Một chi tiết đáng chú ý: Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn dấu tiền của chủ mình (Mt 25, 18). Người đầy tớ lãnh một nén bạc đã đem chôn vùi. Có thể vì người đầy tớ này khinh thường, chê vốn ít, không kính phục và cũng có thể vì lười biếng hoặc muốn làm reo. Nại đến nhiều lý do không thích đáng để chôn dấu nén bạc của mình. Trong thế giới con người, một sự thật hiển nhiên là mỗi người có những khả năng chuyên môn khác nhau. Có những thiên tài trổi vượt trong một số các ngành nghề. Có nhiều người rất thông minh, giỏi giang lại còn giầu có và tốt lành.Có những người phải học hành và làm việc cực lực để đạt được những thành qủa giá trị. Có nhiều kẻ trí khôn trì độn, chậm chạp và kém cỏi, cần sự giúp đỡ. Khả năng thiên phú nơi mỗi người không đồng đều. Tạo Hóa không đòi hỏi mọi người phải sinh lợi bằng nhau. Điều quan trọng là, dù ít dù nhiều, mỗi người phải tận dụng khả năng mình có, để góp phần làm giầu cho đời sống chung. Ai lười biếng sẽ bị tước đoạt hết.
Lời kết của dụ ngôn rất chí lí: Vì người có, sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi (Mt 25, 29). Người có, lại được thêm dư dật. Người ta nói: Xởi lởi, trời lại ban cho. Kinh nghiệm ở đời cho chúng ta thấy rằng những người chí thú lo làm ăn, sớm hay muộn, họ cũng sẽ thành công. Nhờ có số vốn cộng thêm sự chăm chỉ làm việc, từ đó vốn mẹ đẻ ra vốn con. Bấy giờ, họ có, lại càng có thêm. Người có năm nén làm thêm được năm nén. Người có hai, làm lợi thêm hai nén khác. Ông chủ khen họ là những đầy tớ trung tín. Trung tín trong việc nhỏ, sẽ giao trách nhiệm công việc lớn hơn. Qua đó, khả năng càng được phát triển và giầu có thêm lên.
Truyện kể: Một nữ tu tuổi trung niên đã bước vào khu ổ chuột của một thành phố lớn ở Ấn Độ. Lúc đó, bà ta chỉ có hai đồng đôla trong ví. Bà không có thu nhập và cũng không có chỗ để trú thân. Tất cả cái bà có là niềm tin tưởng rằng Chúa đang mời gọi bà thực hiện một điều gì đó cho người nghèo ở khu vực này. Bà cảm nhận một cách chắc chắn rằng, nếu thực sự là lời mời gọi của Chúa, Chúa sẽ cung cấp tất cả những gì cần thiết. Bà ta chính là mẹ Têrêxa thành Calcutta. Ngày nay, Mẹ được biết đến và được kính trọng trên khắp thế giới. Mẹ đã dựng xây 80 trường học, 70 bệnh xá giúp người cùi, 30 nhà dành cho những người hấp hối và 40,000 cộng sự viên trên toàn thế giới. Mẹ khởi sự với mấy đồng lẻ chỉ tương đương với vài chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, nhưng mẹ đã sẵn sàng dâng hiến cho Chúa và rồi đã có cả ngàn ngàn người tiếp tục được nuôi dưỡng và chăm sóc. Thực thế, mẹ đã làm sinh lợi nhiều điều tốt lành cho Chúa và tha nhân. Chúng ta nhớ rằngsự quảng đại của Thiên Chúa vĩ đại gấp ngàn lần sự rộng rãi của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Calcutta với dáng thon gầy nhỏ bé, nhưng đã có một trái tim vĩ đại. Mẹ có thể ôm vào lòng tất cả những người cùng khốn, bệnh nhân ghẻ lở hôi hám và cả người hấp hối bên lề đường. Mẹ nhìn họ như là hình ảnh của Chúa Kitô. Mẹ yêu thương, chăm sóc và ban tặng lại cho họ phẩm giá con người. Với một vốn liếng rất khiêm nhường, mẹ đã sinh lời gấp trăm gấp ngàn. Chúa đã thưởng công cho mẹ và thế giới đã tôn vinh danh mẹ. Chúng ta nhận thấy sự thành công của mẹ không tùy thuộc vào số vốn liếng nhiều hay ít, nhưng là trái tim biết yêu thương và tấm lòng từ bi rộng mở. Ai trong chúng ta cũng có một vố vốn, chỉ cần dám dấn thân đầu tư vào một công việc thiện nhỏ, chúng ta sẽ gặt hái được kết quả.
Trong tuần áp cuối của năm Phụng Vụ (A), thánh Phaolô nhắc nhớ mọi người về ngày giờ sau hết. Ngày đó, chúng ta phải chuẩn bị để tính sổ. Xét nhìn lại những những thành qủa mà chúng ta đã gặt hái được trên đường lữ thứ trần gian. Chúng ta cũng phải chấp nhận có những thất bại, thiếu xót và lầm lỗi. Vì gieo nhân nào, chúng ta sẽ được gặt qủa đó. Hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng trong sự tỉnh thức, vì ngày cùng sẽ tới vào lúc chẳng ai ngờ, Phaolô viết: Vì chính anh em đã biết rõ ngày Chúa đến như kẻ trộm trong đêm tối (1Thess 5, 2). Chẳng có sự gì là yên ổn và an toàn tuyệt đối. Cuộc sống con người như sợi chỉ mành. Một cơn gió thoảng cũng có thể làm cho nó biến mất. Chúng ta không thể cậy dựa vào những sự an toàn bảo hiểm xã hội. Mọi sự cố có thể xảy đến bất cứ lúc nào: Khi người ta nói rằng: yên ổn và an toàn, thì chính lúc đó, tai họa thình lình giáng xuống trên họ… (1Thess 5, 3). Để tìm được sự bình an đích thực trong cuộc sống, chúng ta hãy chu toàn bổn phận hằng ngày và vui sống với cái mình đang có.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì muôn ân huệ Chúa đã thương ban. Xin cho chúng con biết tận dụng mọi khả năng, thời giờ và nguồn phúc lộc Chúa trao ban, để làm sinh hoa kết qủa tốt cho đời sống của chúng con và cho đồng loại.
Có những người trời ban cho khả năng không những đã khéo tay, khéo ăn lại khéo nói và thông minh, TN 33-A63 Luong
Có những người trời ban cho khả năng không những đã khéo tay, khéo ăn lại khéo nói và thông minh, hầu như giao cho việc gì cũng có khả năng hoàn thành một cách tốt đẹp. Chúng ta cảm tạ Chúa cho những người đó. Hầu hết trong chúng ta chỉ giỏi trên một vài phương diện và chúng ta cảm tạ Chúa cho những tài năng Chúa ban. Đại đa số may mắn nhận ra thiên phú ngay từ nhỏ và phát triển chúng tới mức tối đa. Một ít vì lí do nào đó không nhận ra tài năng lúc nhỏ mà phải đợi đến lúc lớn, nhờ cơ may nào đó mới nhận ra thiên phú riêng. Dù không nhận ra lúc nhỏ nhưng trong tâm họ luôn có khuynh hướng thúc dục một cách không rõ ràng phát triển tài năng. Chính vì thúc dục nhẹ nhàng mà người đó không nhận ra tài năng lúc còn nhỏ. Đáng tiếc.
Phúc âm hôm nay cho thấy Thiên Chúa ban tài năng cho mỗi người khác biệt, kẻ ít người nhiều. Kẻ mười nén, người năm, kẻ ba, kẻ khác chỉ có một. Tài năng Chúa ban và thành quả gặt hái tài năng đó không nhất thiết phải căn bằng. Điều cần thiết phải làm là đừng lạm dụng tài năng vì đó là một lỗi lớn với Đấng ban tặng. Lạm dụng tài nằng bằng nhiều cách. Một trong những cách lạm dụng tài năng dụ ngôn hôm nay nhắc đến là chôn dấu tài năng, không phát triển nó. Không phát triển tài năng vì không quí món quà được trao tặng. Coi thường quà tặng chính là coi thường người tặng quà.
Người tặng quà đây chính là Thiên Chúa. Đức Kitô nói rõ người nhận một nén bạc kết án ông chủ trước khi ông chủ kết án anh ta bằng chính lời của anh.
Tôi nghe nói ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu chỗ không vãi nên tôi sợ và đem chôn tài năng ông ban, của ông xin trả lại ông (Mt. 24,25).
Không phải chủ coi thường anh mà chính anh coi thường chủ. Coi thường quà tặng Chúa ban, không phát triển nó cho thấy anh sống cuộc đời buồn nản. Anh sống trong sợ hãi, sợ chủ. Sợ không phải do kinh nghiệm làm việc cho chủ mà sợ do nghe người ta nói về chủ. Điều này cho thấy anh ta không tin chủ mình nhưng lại tin vào đám thân hữu nói về chủ mình. Nói cách khác anh không tin mình, không tin chủ mình nhưng lại tin người ngoài.
Anh sai lầm ở chỗ không dùng kinh nghiệm riêng của mình khi tiếp xúc với chủ mà chỉ nghe thiên hạ nói về chủ rồi có định kiến về chủ. Bao nhiêu lần chúng ta bị ảnh hưởng bởi í kiến người khác lèo lái cuộc đời, lung lạc í kiến, thay đổi chủ í của mình. Lắng nghe í kiến của người khác là điều tốt nhưng cần tỉnh thức khi lắng nghe. Mù quáng trong lắng nghe là điều cần tránh, bởi thiếu tỉnh thức dễ bị dẫn đi lạc đường và chính mình chịu thiệt thòi.
Dụ ngôn hôm nay không nhắc đến việc lạm dụng bằng cách bóc lột, đàn áp người khác. Giúp đỡ một trong những anh em bé mọn là giúp chính Đức Kitô vậy đàn áp, áp bức một trong những kẻ bé mọn cũng chính là đàn áp Đức Kitô.
Thiên Chúa là Đấng ban tài năng cho mỗi người trong chúng ta vậy khi ghen tài người khác chính là một cách nào đó lên án Thiên Chúa đối xử không công bằng, tại sao cho người này nhiều mà cho mình ít hơn. Điều rõ ràng quà tặng và trách nhiệm đi kèm. Nhiều tài năng trách nhiệm nặng hơn. Ghen tị chính là nhìn hạn hẹp bên ngoài mà không thấu chiều sâu của vấn đề tài năng- Thuyền to thì sóng cả. Tài nhiều, trách nhiệm nặng nề hơn, cuộc sống nhiều căng thẳng hơn và tất nhiên cuộc sống vất vả hơn và trách nhiệm cũng khó hoàn thành hơn.
Trách nhiệm chính của quà tặng chính là phát triển món quà đó sao mang lợi ích lại cho chính mình và cho tha nhân. Trách nhiệm thứ hai của quà tặng là chia sẻ những gì mình thu lợi được cho người khác, làm cho cuộc sống họ thoải mái hơn. Kết quả của việc chia sẻ tài năng làm cho tài năng phát triển hơn và cũng nhờ vào việc phát triển và chia sẻ đó mà cuộc đời thấy í nghĩa hơn, đáng sống hơn và tất nhiên cuộc sống cũng có nhiều niềm vui thật hơn.
Chủ không lợi lộc gì khi chúng ta phát triển tài năng. Người hưởng hoa trái đầu tiên là chính chúng ta, sau đó là đồng loại và chính điều này hoàn thành ước nguyện của Đức Kitô đó là chăm sóc cho tha nhân như chính mình…
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy ra trong TN 33-A64
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước mắt có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là âm mưu giết Đức Giêsu. Kết cục được diễn tả trong câu cuối của bài Tin Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành ưu tiên trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ tỏ ra không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho những dân tộc khác.
Thiên Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều này được diễn tả trong bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như một người có một vườn nho mà anh ta rất quí: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà anh nghĩ nó cần nó thích: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn nho đó, nhưng vườn nho đã làm anh thất vọng: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại” (5,2b). Một vườn nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất vọng vì vườn nho ấy, anh ta đã “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo () biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống” (5,5-6). Vườn nho đó được I-sa-i-a xác định: “Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục khai triển chủ đề “vườn nho” của bài đọc I (Is 5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do Thái; 2. Ông chủ đất ám chỉ Thiên Chúa,3. Bọn tá điền ám chỉ Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái; 4. Các tôi tớ của chủ đất ám chỉ Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con trai của ông chủ ám chỉ Đức Giêsu; 6. Các tá điền khác ám chỉ Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn nhân loại. Để thực hiện mục đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói của những ngôn sứ này thường không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì “trung ngôn nghịch nhĩ”, “lời thật mích lòng”. Và kết quả là các ngôn sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than phiền: “Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con” (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối với Nước Trời. Và Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập - gồm những người tin theo Đức Giêsu - bao gồm những người mà người Do Thái gọi là dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn dân Do Thái đã bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm 70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem, giết rất nhiều người Do Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước, và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6 triệu người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do Thái đã lập quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ đó, họ phải chiến tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến nay.
2. Dụ ngôn đó có áp dụng cho Giáo Hội chúng ta không?
Khi tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi thường nói: “ Israel là Giáo Hội, Israel là chính tôi”. Vì thế, nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân Do Thái, thì cũng có thể áp dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm là các tư tế, Lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã trực tiếp can thiệp vào lịch sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã đích thân ban hành luật pháp cho họ, đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai trị họ Ngay cả Kitô giáo hiện nay cũng chưa được Thiên Chúa trực tiếp can thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Kitô giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói: “ Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán như thế” (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4; v. v) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn giáo của mình do Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng lịch sử cho chúng ta thấy họ đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế bằng Kitô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của Kitô giáo.
Kitô giáo hiện nay cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Kitô hữu đều tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng nhiều khi các Giáo Hội Kitô giáo chỉ biết tự hào như thế mà quên đi niềm mong ước của chính Thiên Chúa đối với mình. Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về Kitô giáo như đã than về Do Thái giáo: “ Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?” Kitô giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức Giêsu đến để thiết lập một tôn giáo mới dựa trên nền tảng tình yêu thương, và luật của Kitô giáo là luật yêu thương: “ Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Luật của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước của Do Thái giáo, nhưng các Kitô hữu đã coi trọng luật ấy đủ chưa? đã tập trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức chưa? Hay Kitô giáo lại đi vào vết xe đã đổ của Do Thái giáo, là thượng tôn nghi thức, quá chú trọng tới những lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của Kitô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ hình thức thì chẳng khác gì những người Do Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự hỏi: ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của người Kitô hữu, có thể nhận ra đạo của chúng ta là “ đạo yêu thương” như thời Kitô giáo sơ khai không? Ngày nay, lễ “bẻ bánh” có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có thực trong đời sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở thành một nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Kitô hữu - nhất là những người có trách nhiệm hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo - cần tự vấn: Thiên Chúa hay Đức Giêsu có hài lòng với tình trạng Kitô giáo hiện nay không? Còn những người lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có giống như những vị lãnh đạo Do Thái giáo xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn sàng bạc đãi hoặc bách hại những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không? Hay ít ra khi họ bị bách hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách hại như thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại ấy?
Không khéo Kitô giáo của chúng ta chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng sẽ phải đối xử với chúng ta như đã đối xử với dân Do Thái: “ Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Kitô giáo hiện nay thế nào, chính con - cũng như bất kỳ Kitô hữu nào - đều có phần nào trách nhiệm. Xin cho con biết sống đạo Chúa Kitô đúng với với tinh thần yêu thương của Ngài. Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của dân Do Thái để tránh được vết xe đã đổ.
Trong quyển ‘Đường Hy Vọng’ Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê đã "chê" Đức Giêsu một người TN 33-A65
Trong quyển ‘Đường Hy Vọng’ Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê đã "chê" Đức Giêsu một người không biết làm kinh tế. Nhưng trong dụ ngôn các nén bạc hôm nay Chúa Giêsu cũng dùng các qui luật kinh tế để nói về cách sử dụng và khai thác cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta một số bạc, nhiều ít tùy người. Hết mọi người phải dùng số bạc đó để sinh lời. Và lời phải tương xứng với số vốn mình đã nhận được
Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho một số vốn đó chính là cuộc đời chúng ta. Là những ngày tháng chúng ta được sống. Đó là số vốn ban đầu, là vốn căn bản. Vậy chúng ta phải sử dụng vốn đó như thế nào? Chúng ta có mặt trong cuộc đời không phải chỉ để sống cho qua ngày, nhưng còn để sống thế nào cho thật hữu ích và phong phú. Vì cuộc đời chúng ta trước sau rồi cũng qua đi. Chỉ những gì thật hữu ích chúng ta đã cố gắng làm mới sẽ còn mãi.
Vốn thứ hai, rất quí giá, được ban thêm vào vốn thứ nhất là đời sống mới trong Chúa Kitô, mà ta thường gọi là ơn làm con Thiên Chúa, ơn tái sinh, hoặc ơn cứu độ. Vốn này có tính quyết định: được thua, còn mất, sống chết là tại nó. Cuộc đời ta có nghĩa lý gì nếu không nhờ nó mà ta đạt tới ơn cứu độ. Ơn cứu độ chính là sự thành tựu chung cuộc của cuộc đời. Cùng với ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho ta đủ mọi phương thế để thực hiện ơn ấy. Đây là loại vốn thư ba. Tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban suốt đời ta để trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm giúp ta sống xứng đáng cuộc đời trần thế và đạt tới cuộc sông vĩnh cửu.
Thiên Chúa đã chuẩn bị hết cho chúng ta rồi, vốn, thời gian và phương tiện Ngài đã chuẩn bị sẵn, chỉ cần chúng ta vận hành chúng để sinh lợi mà thôi. Nhưng mỗi người chúng ta đã sử dụng những vốn đó như thế nào. Có thể chúng ta đã hành động như người lãnh một nén bạc rồi đem chôn dưới đất hơn là như người lãnh mười nén bạc rồi sinh lợi được mười nén khác. Thời giờ không phải chỉ là tiền, như những nhà kinh tế nghĩ, nhưng còn là ơn cứu độ, theo cái nhìn đức tin. Thời giờ là vốn quý để tăng trưởng, nhưng nếu thời giờ bị phung phí thì làm cho đời ta nghèo đi thay vì làm giàu thêm.
Đối với những ơn ta nhận được mỗi ngày cũng phải tính toán xem lời lỗ thế nào. Mỗi ngày có đưa ta đến gần Chúa hơn không, có giúp ta sống thánh thiện hơn không? Hay chúng ta chỉ biết sống tà tà đi tìm sự an nhàn, không có động lực, không có quyết tâm. Hay chúng ta đã chôn đi nén bạc Chúa trao rồi
Về cuối cuộc đời, chúng ta có thuộc về Chúa, sống với Chúa, sống cho Chúa nhiều hơn không? Đó là câu hỏi cho mỗi người trả lời với Chúa và với chính bản thân mình.
Lạy Chúa, trong cuộc sống có nhiều lo âu, lo cho vật chất, lo cho danh vọng trần gian... chính những điều này làm cho chúng con quên đi những nén bạc Chúa ban. Xin cho con nhận ra rằng kho tàng vĩnh cữu chính là cuộc sống mai sau để con biết sinh lợi với những nén bạc mà Chúa đã ban. Amen.
(Suy niệm của An Phong, OP) Mỗi người một hoàn cảnh riêng
Con người sinh ra đã có sự bất bình đẳng: có kẻ giàu người nghèo; kẻ thông minh, người thì đần độn; TN 33-A66
Con người sinh ra đã có sự bất bình đẳng: có kẻ giàu người nghèo; kẻ thông minh, người thì đần độn; kẻ ra đời trong mảnh đất tốt, người thì phải đón nhận biết bao bất hạnh...
"Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén"
Những sự bất bình đẳng tự nhiên về tài năng và hoàn cảnh không có nghĩa là có một sự bất bình đẳng về phẩm giá. Thiên Chúa không đòi mọi người phải làm lợi được năm nén, nhưng chỉ muốn mỗi người đón nhận cuộc sống của mình, đón nhận hoàn cảnh riêng của mình và sống tốt đẹp trong chính hoàn cảnh ấy. Mỗi người, trong hoàn cảnh riêng của mình vẫn là một con người cao quí, vẫn là con cái của Thiên Chúa và được Thiên Chúa tin tưởng trao phó nén bạc của Ngài.
Thái độ so đo tính toán
Tuy nhiên, có nhiều người luôn "đứng núi này trông núi nọ", họ luôn thấy mình thiếu và muốn đổ tội cho hoàn cảnh. Một thái độ so đo tính toán như thế bộc lộ thái độ của người nô lệ hơn là thái độ của người con trong nhà; và bình thường, đã là thái độ chào thua trước cuộc đời.
"Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy".
Trong tâm tình con cái, một nén bạc đã là một hồng ân! Nhưng trong thái độ "đứng núi này trông núi nọ", một nén bạc lại là một hình phạt. Chính thái độ của con người trước cuộc đời và trước Chúa đã góp phần làm nên thành công hay thất bại của con người. Nhiều khi người ta được đón nhận hơn một nén (một nén bạc hiểu như điều căn bản để có thể sống và hoàn thành cuộc sống), nhưng lại cứ phàn nàn tôi chẳng có gì.
Thiên Chúa tin tưởng con người
Thiên Chúa đi xa? Thật ra Thiên Chúa chẳng bao giờ đi xa cả. Ngài chỉ ra như "vắng mặt" để con người biết thể hiện năng lực và lòng trung tín của mình. Trong ý nghĩa đó, thái độ trung tín trở nên một yếu tố hết sức quan trọng. Nếu ta trung tín trong mỗi công việc nhỏ, thì bình thường chính công việc ấy sẽ mở ra những cánh cửa mới cho cuộc đời; và nếu ta biết cảm tạ hồng ân, thì chính những hồng ân nhỏ lại dẫn ta tới niềm vui lớn lao hơn: "vì phàm ai có, sẽ đựơc cho thêm và sẽ có dư thừa".
Lạy Chúa Giêsu, Thú thật với Chúa, con vẫn chưa tin tưởng nhiều nơi Chúa trong đời sống, trong công việc, trong những khó khăn mà con gặp phải trên đường đời. Và cũng vì thế, nhiều lần con muốn lẩn tránh, hoặc đầu hàng cuộc đời. Xin cho con biết tin tưởng nơi tình thương Chúa và sự quan phòng yêu thương của Chúa Cha nhiều hơn nữa.
Dụ ngôn những nén vàng là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn được thánh Mátthêu gom lại để nói TN 33-A67
Dụ ngôn những nén vàng là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn được thánh Mátthêu gom lại để nói lên chủ đề "Thời cuối cùng". Trong câu chuyện này, ai là ông chủ sắp đi xa, nếu không phải là chính Đức Giêsu? Trước đây một khoảng thời gian ngắn, chính Người đã tuyên bố: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ thấy Thầy." (Ga 16,16). Người sẽ ra đi để được Chúa Cha tôn vinh cách công khai và long trọng, Người cũng sẽ trở lại để tính sổ. Vì vậy, Tin Mừng Mát-thêu đã nối kết câu chuyện xét xử tên gia nhân bất tài với cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).
Ngoài ra, trình thuật hôm nay được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu sắp tiến vào Giêrusalem và chịu khổ nạn. Con Người sắp ra đi và trao phó vương quốc lại cho những người được tín nhiệm. Các ông có nhiệm vụ làm cho vương quốc ấy được tiến triển.
"Một người kia sắp đi xa, liền gọi gia nhân đến mà giao phó của cải mình cho họ."
Trước hết, tất cả các gia nhân đều được trao một số nào đó, không ai trắng tay, không có vốn ban đầu. Tuy vậy, mỗi người nhận được số vàng không như nhau. Sau này, khi trở về, ông chủ tính sổ với mỗi người theo tình trạng không đồng đều này: ông không đòi người nhận hai nén phải trả lại năm nén. Ông đòi mỗi người theo mức độ ông đã giao, và chỉ chừng đó thôi.
Thời gian của lịch sử nhân loại, đó là thời gian "ông chủ đi vắng": mỗi người bị đặt trước thử thách, như gia nhân được ông chủ trao phó những trách nhiệm lớn lao. Quả thế, đời sống của con người qua đi trong lúc dường như Thiên Chúa vắng mặt hay rút lui để cho các thụ tạo có thể phát huy sáng kiến của mình. Điều này cho thấy Thiên Chúa rất tin tưởng và tôn trọng con người.
Với các môn đệ của Đức Giêsu, nén vàng chính là "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ..., dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em..." (Mt 28,19.20). Ngay từ lúc ấy, các môn đệ của Đức Giêsu, đặc biệt là ông Phêrô, được tung vào một thử thách ghê gớm: cuộc đối đầu với các vị lãnh đạo cao nhất về tôn giáo của đất nước. Ông sẽ mạnh mẽ lên tiếng làm chứng: "Anh em đã giết chết Đấng khơi nguổn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết." (Cv 3,15). Chẳng có ai ban sức mạnh cho ông, ngoại trừ Thánh Thần của Thiên Chúa. Tất cả đã được trao cho các môn đệ, cho ông Phêrô.
Ít lâu sau, một cuộc khủng hoảng xảy ra: Có nên từ bỏ Giu-đa giáo không? Câu trả lời không dễ dàng và cũng không có ngay được. Dường như chính Đức Giêsu đã không giới hạn sứ vụ của Người nơi đoàn chiên Ítraen. Cuối cùng, Hội Thánh đã can đảm tiến lên phía trước: "Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định..." (Cv 15,28).
Tiếp đó là cuộc đụng đầu với bộ máy cầm quyền ở Rô-ma, rồi với cuộc xâm lăng của dân man-di, việc tiếp xúc với những nền văn minh xa lạ. Mỗi lần lại là những vấn đề mới.
Nhìn chung chỉ khi nào vượt lên khỏi sự sợ hãi, lúc ấy Hội Thánh mới ý thức được rằng Tin Mừng không phải là một kho tàng để cất giữ, nhưng là một hạt giống cần được gieo xuống, một vườn nho phải sinh hoa trái, một nắm men phải dậy lên, một cuộc phiêu lưu cần mạo hiểm, một số vốn phải sinh lời, và cuối cùng, một trách nhiệm phải chu toàn cho đến ngày ông chủ trở về.
Như thế, ông chủ đi vắng, nhưng ông đã tin tưởng vào các gia nhân. Ông đã trao toàn bộ tài sản của ông cho họ. Bổn phận của họ là làm lợi thêm để khi ông trở về, ông sẽ tính sổ và ban thưởng.
"... nhưng ông sẽ trở về"
Ông chủ ra đi khá lâu và cuộc thử thách vẫn kéo dài. Người ta có cảm tưởng rằng ông không trở về, hay là ông đã chết rồi.
Nhưng không, ông sẽ trở về, vào giờ phút không ngờ. Không ai biết được lúc nào ông chủ trở về. Chính vì vậy, Đức Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải sẵn sàng, phải tỉnh thức trong khi chờ đợi.
Rồi đến lúc ông chủ trở về và đòi các gia nhân tính sổ. Những người đã sử dụng vốn liếng ông đã trao để sinh lợi, ông ban tặng phần thưởng xứng đáng. Riêng với người đem cất kỹ nén vàng ông đã trao, ông xử phạt. Tại sao thế? Anh đã không sinh lợi thêm, nhưng ít ra vẫn bảo toàn nén vàng, không suy suyển, mất mát. Thật ra, anh ta không phải là người bất lương; không sinh lợi thêm không có nghĩa là ăn cắp. Vậy, anh không làm điều bất công, không lỗi đức công bằng, tại sao anh lại bị quở trách và bị xử phạt?
Ông chủ quở trách anh, không phải vì anh đã phạm tội làm trái lẽ công bằng, nhưng tại vì anh đã cư xử trái ngược với sự tín nhiệm ông đặt nơi anh. Thái độ đáng bị khiển trách của anh, không phải là không làm lợi thêm cho ông chủ, nhưng chính là không dám làm. Lý do anh đưa ra để bào chữa cho thái độ của mình: anh sợ ông chủ "là một người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi". Anh đã tính toán và nghĩ rằng tốt hơn cả là không nên liều. Anh đã nghĩ sai về ông chủ, anh đã hồ nghi. Tội của anh là ở chỗ đó.
Và ông chủ đối xử với anh như anh đã nghĩ về ông. Anh sợ ông, anh nghi ngờ ông, anh nghĩ ông là người hà khắc; vậy ông xử với anh như anh nghĩ. Ông đã quở trách anh là bất tài, là vô dụng, thu lại nén vàng đã giao và hơn nữa, còn giam anh vào nơi tối tăm.
Như thế, khi ông chủ tính sổ, thái độ tin tưởng hay hồ nghi sẽ là mức độ để ban thưởng hay xử phạt. Anh gia nhân được giao một nén chỉ nghĩ đến sự hà khắc của ông chủ, nên anh bị phạt, còn những người khác lại nghĩ đến lòng đại lượng của ông chủ, và họ đã sống theo đó, nên được ban thưởng. Càng tính toán kỹ, người ta lại trở về tay trắng, còn khi tin tưởng, người ta được tràn trề, vượt quá lòng mong ước.
Đây là một thử thách lớn với con người, kể từ thời A-đam. Người ta vẫn có thói quen coi Thiên Chúa như một vị bạo chúa hơn là một người cha đầy tình yêu thương, Đấng đã thiết lập "giao ước" với con người, sau khi họ phạm tội. Đây cũng là ý nghĩ của những người biệt phái và kinh sư: họ nghĩ rằng chỉ có họ là người công chính, còn người khác thì không. Họ chẳng yêu mến gì Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn an toàn và thu lợi về cho mình. Vì vậy, đương nhiên họ cũng hiểu Đức Giêsu muốn ám chỉ họ khi kể dụ ngôn này.
Như vậy, chắc chắn ông chủ sẽ trở về. Ông sẽ ban thưởng cho người yêu mến ông, sống xứng đáng với lòng tín nhiệm của ông, ai sống ngược lại, sẽ bị xử phạt.
Mỗi người có vị trí riêng
Một cách gián tiếp, dụ ngôn này đặt nền cho sự tự do của chúng ta. Nhờ bí tích thanh tẩy, mỗi người đã đón nhận những nén vàng, và phải sinh lợi thêm. Mỗi người đều có trách nhiệm phát huy sáng kiến để làm tăng thêm những nén vàng. Tự do cũng đồng nghĩa với dám liều. Thiên Chúa không muốn chúng ta sống như những người nô lệ, nhưng là như những người tự do, tức là biết quyết định về đời sống hiện tại cũng như tương lai của mình.
Trong thời gian chờ đợi ngày Chúa trở lại, mỗi người chúng ta sẽ sử dụng, điều hành mọi sự không phải như là tài sản của riêng mình, nhưng là của Đấng Sáng Tạo. Việc sử dụng tốt nhất chính là cộng tác tích cực vào việc xây dựng Nước Thiên Chúa. Chúng ta sẽ không phân bì, tính toán mình nhận được nhiều hay ít, nhưng hiểu rằng mỗi người có những nén vàng, có vai trò và trách nhiệm riêng của mình. Thiên Chúa tín nhiệm mỗi cá nhân và giao cho mỗi cá nhân một vị trí đặc biệt, có thể nói mạnh rằng, không ai giống ai. Điều cần thiết là mỗi người phải hoàn thành "vai trò lịch sử" của mình; bởi vì, vào ngày Chúa trở lại, Người đòi mỗi người phải tính sổ, phải trả lời về những nén vàng mình đã nhận.
Để được như thế, chắc chắn chúng ta phải vượt ra khỏi ý nghĩ cho rằng Thiên Chúa là người hà khắc, trái lại phải sống với Người như với một người cha đầy tình âu yếm. Thái độ này sẽ khơi dậy lòng tin để dám thoát ra khỏi sự an toàn cá nhân, kể cả việc tỉ mỉ tuân giữ Lề Luật, và vươn tới tinh thần tự do, tinh thần của những người dám đưa ra sáng kiến và đảm nhận trách nhiệm của mình.
Thiên Chúa vắng mặt, nhưng Người đã tín nhiệm chúng ta, Người mong muốn chúng ta tỉnh thức và đảm nhận tương lai của mình. Chúng ta không có quyền coi thường hay hồ nghi sự tín nhiệm đó, không có quyền ngủ yên trong hiện tại, nhưng nhận ra đó là một vinh dự để nỗ lực hướng tới tương lai, đợi ngày Người trở lại và tính sổ.
Chắc chắn rằng dụ ngôn mười trinh nữ hướng tới thời cuối cùng, tương tự như các dụ ngôn trong đoạn TN 33-A68
Chắc chắn rằng dụ ngôn mười trinh nữ hướng tới thời cuối cùng, tương tự như các dụ ngôn trong đoạn trước và tiếp liền sau dụ ngôn này (chủ nhà, người đầy tớ trung tín, những nén vàng). Các dụ ngôn này có một ý nghĩa rõ ràng và được nhắc đi nhắc lại, đó là sự tỉnh thức. Người ta không biết giờ nào Chúa sẽ đến, và rất có thể Người sẽ "đến trễ", nên phải chuẩn bị sẵn sàng và kiên trì trước mọi tình huống.
Riêng về dụ ngôn mười trinh nữ, có lẽ không nên để ý đến những chi tiết có vẻ như giả tạo của câu chuyện: dụ ngôn không phải là một phóng sự hay một bài mô tả phong tục đám cưới, đúng và đủ mọi tình tiết. Trái lại, nên chú ý đến bài học của dụ ngôn, đó là sự khôn ngoan, biết phòng xa.
Điều dễ nhận thấy trong dụ ngôn này là bài học về sự "tỉnh thức". Bài học này làm người đọc liên tưởng đến lời cảnh giác của thánh Phaolô: "ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2). Trong mười trinh nữ đi đón chàng rể, có năm cô khôn và năm cô dại.
Các cô khôn là những người biết phòng xa và chuẩn bị đầy đủ, cũng giống như người xây nhà trên đá (Mt 7,24), hay người quản gia biết chăm sóc gia nhân lúc vắng chủ (Mt 24,45). Các cô là hình ảnh của những người biết "lắng nghe và thi hành" những lời Đức Giêsu nói, những người có óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại của cuộc sống, kèm theo một ý chí cương quyết hành động.
Ngược lại, các cô dại là những cô không biết dự trữ phòng xa, không biết trù liệu trước hoàn cảnh bất trắc. Các cô là hình ảnh tiêu biểu cho những người lơ là, thiếu đầu óc thực tế, thiếu phán đoán, gây ảnh hưởng tai hại đến cuộc sống, nhất là đời sống vĩnh cửu.
Quả thật, các cô khôn đã chuẩn bị dầu đèn đầy đủ, lại còn mang theo bình dầu dự trữ, đề phòng trường hợp phải chờ đợi lâu. Các cô đã được vào dự tiệc cưới, như là phần thưởng cho thái độ sẵn sàng của mình. Trong khi đó, các cô dại, đã không mang dầu, lại còn mất thời giờ chạy đi mua, nên trở về quá trễ và không được vào dự tiệc cưới. Các cô đã bị ngăn lại, vì đèn của các cô hết dầu, và các cô đến quá trễ: dựa theo lời thánh Âu-gút-ti-nô, các cô đã thiếu điều quan trọng là dấu chỉ tình yêu và đã không sẵn sàng đáp ứng trước tình yêu.
Người ta có thể ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao các cô khôn lại xử sự có vẻ như thiếu đức ái, đó là không giúp đỡ chị em mình đang gặp khó khăn. Thật ra, ở đây không chú trọng đến đức bác ái, nhưng muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa mỗi người phải chịu trách nhiệm về tự do và hạnh kiểm của mình, không được nông nỗi nhẹ dạ. Hơn nữa, sự kiện các cô trinh nữ phải chờ đợi lâu và chú rể chậm đến có thể cho thấy rằng lòng thương xót được gia hạn thêm một thời gian dài, rất dài, và đến một ngày, giai đoạn này sẽ chấm dứt. Thời gian chờ đợi có kéo dài thêm gợi lên tính cách nghiêm trọng của lời mời, đồng thời cũng bao hàm ý nghĩa: Đấng Cứu Thế không phải là sản phẩm theo sự suy đoán của con người. Đàng khác, nên hiểu thời gian này như một hồng ân được ban tặng để mỗi người kịp sửa chữa những thiếu sót và sai lầm của mình. Mỗi người đều có cơ hội để đáp ứng bằng chính tình yêu của mình.
Và như vậy, dụ ngôn không chỉ nói đến sự tỉnh thức. Hay nói cách khác, tỉnh thức chính là phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc lữ hành ""trên mặt đất đầy đau thương, bi tráng và kỳ diệu này"" (Chúc thư của ĐGH Phao-lô VI). Mỗi người phải mang theo đèn, và phải dự trữ dầu, nguổn đem lại ánh sáng, tức là phải có lòng hiếu khách, phải có tình yêu và niềm vui (ý nghĩa của dầu theo Kinh Thánh). Không có dầu, ngọn đèn sẽ tắt, người ta sẽ chìm trong tối tăm, và không được vào dự tiệc cưới.
Giữ ngọn đèn luôn cháy sáng
Nếu có ai được mời đi gặp một nhân vật họ vẫn mong đợi, hẳn là họ sẽ chuẩn bị rất kỹ càng, có khi tỏ ra nóng nảy, bồn chồn. Nếu họ vốn là người thờ ơ, hẳn họ sẽ phải thu xếp để có mặt đúng giờ, có khi còn đến sớm hơn giờ hẹn. Nếu nhân vật được mong đợi lại là người có khả năng làm thay đổi cuộc đời, thì người ta lại càng náo nức chờ đợi, và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn.
Chàng rể trong dụ ngôn chính là Đức Giêsu. Với lòng yêu thương vô bờ, Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người trọn vẹn vận mạng của tất cả nhân loại cũng như của mỗi người. Người đã đến trần gian để dẫn đưa nhân loại đến tham dự sự sống và niềm vui vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Chính Người đang đến gặp nhân loại và nhân loại phải tiến về với Người, bởi vì Người là sự sống, sự sống đời đời. ""Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô."" (Ga 17,3)
Chàng rể có thể đến trễ, nhưng người ta vẫn phải chờ đợi, vẫn phải sẵn sàng. Ngọn đèn của mỗi người luôn phải có đủ dầu để đi đón chàng rể. Người ta có thể ngủ quên, nhưng vẫn có thái độ sẵn sàng: khi nghe tiếng kêu vào lúc nửa đêm, họ cũng đủ dầu đèn để đi đón chàng rể và dự tiệc cưới.
Như thế, dầu đèn chính là khát vọng tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng này cần được nuôi dưỡng để khỏi phai tàn trong cuộc chờ đợi. Các cô trinh nữ đi đón chàng rể, lúc khởi đầu tất cả đều vui mừng. Nhưng trong lúc chờ đợi, năm cô đã để cho lòng nhiệt thành của mình nguội dần, và khi chàng rể đến, các cô đâm bối rối, khát vọng của các cô đã tắt lịm. Có biết bao cuộc gặp gỡ đã bị vỡ tan bởi vì ngọn đèn khát vọng đã tắt ngúm.
Đúng vậy, đôi khi cuộc chờ đợi có thể kéo dài và biến thành một thử thách khắc nghiệt, nhất là với những người phải bước đi trong đêm tối, tiến bước rất lâu với cảm tưởng rằng không bao giờ gặp được chàng rể mình vẫn ước mong. Thật ra, tình trạng này là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn khoét sâu tâm hồn con người, để rồi ngày mai hay một lúc nào đó, Người sẽ bước vào. Phần con người, họ phải nuôi dưỡng lòng nhiệt thành bằng lòng tin, bằng việc cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ không để cho kẻ chờ đợi Người phải thất vọng.
Sự nghèo khó nội tâm
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào."
Đây là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong suốt diễn từ loan báo ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Ở đây, Đức Giêsu đã bày tỏ rõ ràng Người là Đấng Cứu Thế trước khi Người chịu khỗ nạn và phục sinh.
Người mong muốn chúng ta chờ đón Người, và không được bỏ cuộc; Người mong muốn chúng ta chuẩn bị dầu đèn để khi Người trở lại, mặc dù bất thình lình, và chúng ta đang thiếp ngủ, chúng ta sẵn sàng đến gặp Người như Người cũng nhận ra chúng ta.
Phải chuẩn bị dầu đèn! Đây là một trách nhiệm nhưng chúng ta hãy yên lòng: Nếu Thánh Thần sử dụng dầu, thì chính Người cũng sẽ quan tâm không để chúng ta thiếu dầu.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện bà goá ở Xa-rơ-phát: "vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán" (1 V 17,16). Bà goá này đã đặt tất cả niềm tin vào vị sứ giả của Thiên Chúa, nên vò dầu của bà đã không cạn.
Thật vậy, khi phục vụ Thiên Chúa và người khác, chúng ta vẫn phải khôn ngoan, dự phòng, nhưng cũng cần phải nhớ rằng sự khôn ngoan đích thực và cao cả nhất chính là sự nghèo khó trong tâm hồn, là lòng tin tuyệt đối, là xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn, sự mỏi mệt của chúng ta. Chính Người vẫn bao bọc chúng ta trong tình yêu thương của Người để chúng ta luôn trở thành ánh sáng cho thế giới, thành anh em của mọi người, thành người cứu vớt những gì đã hư mất và thành chứng ta sống động của niềm vui.
Giếng nước trong khu vườn, ngọn đèn tạo ánh sáng, kho báu trong ngăn tủ, Man-na trong Hòm Bia. Lạy Chúa, Ngài là Chúa của con.
Vào Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, chúng ta đang tiến gần tới Mùa Vọng, Chúa Giêsu kể TN 33-A69 Dalat
Vào Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, chúng ta đang tiến gần tới Mùa Vọng, Chúa Giêsu kể cho chúng ta một dụ ngôn khác về ngày phán xét.
Câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không : “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.
Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoanh nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể chủ nhân của anh không quay trở lại, hoặc như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm.
Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy những môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa gửi đến mỗi người chúng ta lời khuyên về cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.
Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26) diễn tả nỗi sợ sự rủi ro là thứ đã bóp nghẹt sự sáng tạo và sự phong nhiêu của tình yêu. Vì nỗi sợ rủi ro trong tình yêu sẽ bóp nghẹt chúng ta. Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân.
Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Chúa không chú ý tới số lượng ơn ban, mà chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x.Mt 25, 21.23). Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Câu Chúa Giêsu nói : “Người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi” (Mt 25,29), rõ ràng không phải là một câu châm ngôn về tiêu dùng. Nó chỉ có thể được hiểu ở mức độ của tình yêu và lòng quảng đại. Và quả thật, nếu chúng ta tương xứng với những món quà tin cậy của Thiên Chúa trong sự giúp đỡ của Ngài, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm rằng, Ngài là Đấng ban phát nhiều hơn điều chúng ta ao ước cầu xin.
Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. Dụ ngôn này khuyến khích chúng ta không được che giấu niềm tin và sự thuộc về Chúa Kitô của chúng ta, không được chôn vùi Lời Chúa, nhưng phải để nó lan truyền trong đời sống của chúng ta. Phải làm như thế. Phải làm cho những tài năng, những món quà, những ân ban mà Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta, đến được với tha nhân, lớn lên, và kết trái, cùng với chứng tá của chúng ta.
Ông chủ nói với người đầy tớ : “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)
Đừng nghĩ đơn giản rằng ơn Chúa ban chỉ là những tài năng, sức khoẻ và những điều kiện xem ra thuận lợi theo cái nhìn của con người. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng nói “Tất cả là hồng ân”. Như thế, nén bạc Chúa trao còn là : thời giờ ; môi trường ta đang sống ; những chung sống với ta v.v....
Chúng ta hãy cầu xin Chúa trợ giúp để mỗi người biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao, trung thành với ơn Chúa qua những bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến, với tất cả nhiệt tâm. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ -----------------------------------
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, hình ảnh người vợ đảm đang sau khi chu toàn bổn phận được TN 33-A70
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, hình ảnh người vợ đảm đang sau khi chu toàn bổn phận được hưởng “những thành quả tay nàng làm ra”, và hình ảnh các người đầy tớ trung thành đã làm cho những yến bạc ông chủ giao được sinh lợi nên họ được vào hưởng niềm vui của chủ, cả hai đều mang lại cho chúng ta một sứ điệp về tương lai vĩnh cửu: nếu ta trung thành với Chúa ở đời này, ta sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên thiên đàng. Lời Chúa vào cuối năm phụng vụ tiếp tục chủ đề về tứ chung: chết, phán xét, thiên đàng và hỏa ngục.
Trước hết bài trích sách Châm Ngôn để lại cho chúng ta một gương mẫu sống. Đoạn Kinh Thánh mô tả một người vợ đảm đang. Trong nhà, nàng làm cho chồng “hết dạ tin tưởng” nhờ đã chăm lo đầy đủ cho mọi người và đem lại hạnh phúc cho họ. Nàng chăm chỉ làm việc với thái độ vui vẻ. Ngoài xã hội, nàng “rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng”. Động lực nào đã giúp nàng chu toàn bổn phận? Đó là vì nàng luôn “kính sợ Đức Chúa”. Lòng yêu mến Chúa đã thúc đẩy nàng làm mọi sự tốt đẹp và để lại những thành quả “đáng cho người đời ca tụng”. Dĩ nhiên bài đọc không chỉ nhắm đến những người vợ, mà là một biểu tượng áp dụng cho mọi người. Hết mọi người trên đời này đều phải chu toàn bổn phận trong bậc sống của mình, từ giáo hoàng cho đến người giáo dân, từ tổng thống cho đến em học sinh. Những “thành quả” đích thực của cuộc đời chúng ta không chỉ là danh vọng, giàu có, thậm chí cả đến hạnh phúc gia đình ở đời này, nhưng là hạnh phúc chúng ta được hưởng với Chúa ở đời sau! Khi chết, chúng ta bỏ lại mọi sự và chỉ có thể mang theo một thành quả duy nhất là phúc thiên đàng. Nhưng thành quả này lại tùy thuộc vào những việc tự tay chúng ta làm khi còn sống. Người vợ đảm đang đã tự tay làm việc. Người đầy tớ đã tự tay làm cho những yến bạc sinh lợi. Không ai có thể làm thay cho chúng ta. Rồi Chúa sẽ căn cứ vào những việc tự tay ấy mà ban thành quả là phúc thiên đàng cho chúng ta.
Nếu bài đọc 1 nhấn mạnh đến đức tính cần cù và lòng kính sợ Thiên Chúa của người vợ đảm đang, thì bài Tin Mừng dường như đề cao lòng trung thành của các đầy tớ tốt của ông chủ. Sự khác biệt về số bạc ông chủ giao cho các đầy tớ nói lên sự khác biệt tài năng và bổn phận của họ. Điểm chung là với tài năng Chúa ban, ai cũng có bổn phận trở nên hữu ích nếu họ biết tận dụng những tài năng ấy. Hơn nữa Chúa cũng không đòi hỏi ai quá những gì họ được trao ban. Một giáo dân bình thường không cần phải có bằng cấp tiến sĩ thần học mới được vào thiên đàng! Người ta không làm thánh theo những điều kiện dành cho người khác, nhưng là đáp lại lời triệu gọi chung: Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn hảo (Mát-thêu 5:48). Chúa giống như ông chủ muốn “thu được cả vốn lẫn lời”. Người trao cho chúng ta “vốn” thì việc Người thu “lời” là điều đương nhiên. Mà “lời” ấy cũng là dành cho chúng ta thôi!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Tận thế là ngày Chúa đến tính sổ với chúng ta và đem chúng ta về để hưởng “thành quả” chúng ta đã chuẩn bị trong những ngày sống trên trần gian. Khi nào là giờ Chúa đến, chúng ta không biết được. Nhưng có một điều chắc chắn chúng ta phải làm, là sẵn sàng. Thánh Phao-lô mô tả sự sẵn sàng như thái độ của các con cái ánh sáng. Ngài lập lại lời Chúa Giê-su về “ngày của Chúa” là cái chết hoặc ngày tận thế sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm không ai biết được. Không biết thì phải sẵn sàng là thượng sách. Nhưng sẵn sàng thế nào? Ngài trả lời: Dễ thôi, chúng ta là con cái sự sáng thì đừng ngủ mê như những kẻ “thuộc về đêm”, mà “hãy tỉnh thức và sống tiết độ”. Đừng ngủ mê trong cuộc tìm kiếm tiền tài, danh vọng hay những thú vui trần gian. Đừng ngủ mê để khỏi rơi vào cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ tội lỗi. Ngoài ra, gương sáng của người vợ đảm đang trong sách Châm Ngôn và của các đầy tớ làm sinh lợi những nén bạc được giao phó trong bài Tin Mừng dạy chúng ta bài học cần cù làm việc, kính sợ Chúa và trung thành trong bổn phận. Chúa Nhật tới là lễ kính Chúa Giê-su Ki-tô, Vua vũ trụ và cũng là tuần cuối cùng năm Phụng vụ. Nếu ví cuộc đời ta như một năm phụng vụ thì Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở ta về lời mời của Chúa: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của Chủ anh!”
Giữa những toan tính bon chen của cuộc sống hằng ngày, vào lúc cuối năm, Phụng vụ nhắc chúng TN 33-A71
Giữa những toan tính bon chen của cuộc sống hằng ngày, vào lúc cuối năm, Phụng vụ nhắc chúng ta đừng quên tính sổ với Chúa, để “kết toán” những gì chúng ta đã sống, đã hành động, đồng thời đừng quên ơn mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa. Những ơn đó cũng chính là số vốn mà Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Có những người sử dụng ơn Chúa ban một cách siêng năng và sinh lợi gấp nhiều lần, nhờ vậy mà được ban thưởng; nhưng cũng có những người biếng nhác, chẳng chịu làm gì, để rồi bị chúc dữ và chịu án phạt. Vào lúc năm cùng tháng tận, chúng ta cần suy xét cuộc đời, nhờ đó, xác định hướng đi, với hy vọng đạt tới hạnh phúc vào lúc cuối cuộc đời.
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào ngữ cảnh một chuỗi những bài giảng về cánh chung, tức là ngày tận thế. Chúa Giêsu đã giáo huấn bằng 5 dụ ngôn liên tiếp, đó là dụ ngôn về đại hồng thủy (Mt 24,37-42); về kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43-44); về người đầy tớ trung tín (Mt 24,45-51); về mười cô trinh nữ (Mt 25,1-13). Như vậy, dụ ngôn những nén bạc (Mt 25,14-30) là dụ ngôn cuối cùng của chuỗi dụ ngôn này, trước khi Chúa nói về cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).
Thật hiếm thấy tác giả Tin Mừng dùng ngôn ngữ của thương mại để diễn tả giáo huấn của Chúa Giêsu. Nên lưu ý, trong tiếng Anh và tiếng Pháp, chữ “Talent” vừa có nghĩa là “yến bạc” hoặc đơn vị tiền tệ, vừa có nghĩa là “tài năng”. Một tác giả đã nghiên cứu lịch sử và lượng giá một “Talent” hay một yến bạc thời Chúa Giêsu tương đương với thu nhập của 15 năm đối với một người lao động bình thường. Dụ ngôn muốn nói với chúng ta, những gì chúng ta có được, kể cả tài năng và của cải, đều là Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Sẽ đến lúc chúng ta phải tường trình về cách sử dụng những tài năng và của cải đó.
Ông chủ trong dụ ngôn vừa khôn ngoan và vừa quảng đại. Ông khôn ngoan vì biết khả năng của mỗi đầy tớ. Ông quảng đại vì không hề ra điều kiện buộc phải sinh lợi bao nhiêu với số vốn đã trao. Ông chủ chính là hình ảnh Thiên Chúa. Ngài ban cho chúng ta những yến bạc, những tài năng để chúng ta sinh lợi. Người ban nhiều hay ít là tùy theo khả năng của mỗi người. Chúa trao cho chúng ta sức khỏe, trí thông minh, hoàn cảnh gia đình, bạn bè và những điều kiện thuận lợi. Đó là vốn liếng chúng ta được nhận từ Chúa và chúng ta có bổn phận phải sinh lợi. Sau khi trao phó của cải cho các đầy tớ, ông chủ đi xa lâu ngày. Thiên Chúa cũng dường như vắng bóng trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta không nhìn thấy Ngài. Nhưng chắc chắn có ngày Ngài đến để thanh toán sổ nợ với chúng ta. Người Kitô hữu tin rằng đó là lúc sau hết của cuộc đời con người. Khi ấy, Thiên Chúa sẽ đến gặp gỡ chúng ta và chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa về số vốn được trao.
Người đầy tớ thứ nhất và thứ hai được ông chủ khen là “tài giỏi và trung thành”, vì họ đã làm lợi gấp đôi số vốn được trao. Khi tuyên bố: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”, ông chủ đã đưa anh từ địa vị đầy tớ lên ngang hàng với ông chủ, không còn phân biệt “chúa-tôi” nữa. Nói cách khác, nhờ sự trung thành và cần mẫn, hai người đầy tớ đã thoát khỏi thân phận nô lệ mà trở nên như con cái của ông chủ, được cho hưởng niềm vui và vinh quang. Đây cũng là mạc khải Kitô giáo về ý nghĩa và phẩm giá con người. Những ai tin vào Chúa Giêsu và thực hành giáo huấn của Người sẽ trở nên những nghĩa tử của Thiên Chúa. Sau khi kết thúc cuộc sống đời này, họ được đón nhận vào nhà Chúa để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Họ không còn phải than khóc, buồn sầu, nhưng được hưởng niềm vui trọn vẹn mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến và phụng sự Ngài.
Thân phận của người đầy tớ thứ ba thì lại không được như thế. Anh bị ông chủ mắng là “vô dụng, xấu xa và biếng nhác”. Anh không thật tâm với ông chủ. Bằng chứng là mặc dù anh chịu ơn ông chủ, nhưng trong đầu óc của anh luôn nghĩ xấu về chủ mình. Những nhận định của anh về ông chủ vừa thiếu thiện chí vừa mang tính vu khống: “Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi…”. Tại sao lại nói ông chủ là người “gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” trong khi chính ông chủ đã trao tận tay anh ta một yến bạc để làm vốn? Hơn nữa, trong khi hai người đầy tớ trước rất tự tin nói với ông chủ: “Ông đã trao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, thì anh đầy tớ lười nhác này lại nói với ông chủ: “Của ông vẫn còn nguyên đây này!”. Cách nói “Nén bạc của ông” và “Của ông vẫn còn nguyên” ở câu 25 cho thấy người đầy tớ xấu xa và lười nhác chưa bao giờ coi số vốn đó là như của mình, để rồi anh quan tâm làm cho sinh lợi. Anh là người vô trách nhiệm và thiếu thiện chí. Một điều nhỏ nhất anh có thể làm được mà anh cũng bỏ không làm, đó là đem gửi số bạc đó vào ngân hàng để hưởng lợi. Anh đáng khiển trách không phải vì đã làm điều xấu, nhưng vì anh biếng nhác không chịu làm gì. Hơn thế nữa, anh còn có lối suy nghĩ không tốt về chủ mình, người chủ đã tin tưởng trao vốn cho anh một yến bạc, dù biết khả năng anh khiêm tốn. Hình phạt cho anh đã rõ ràng và thích đáng: anh bị tước mất một yến bạc được trao phó và bị tống ngục. Ngục giam ở đây được trình bày như một nơi tăm tối và khóc lóc, là nơi thiếu vắng tình yêu. Đó chính là cách diễn hỏa ngục theo niềm tin của Do Thái giáo.
Siêng năng là một đức tính cần thiết trong đời sống Đức Tin cũng như trong đời sống xã hội. Tác giả sách Châm ngôn diễn tả sự siêng năng qua chân dung một người phụ nữ đức hạnh. Nàng biết miệt mài làm việc trong gia đình. Nơi nàng, người chồng đặt niềm tin tưởng hoàn toàn. Nàng luôn biết quan tâm đến những người xung quanh, mang cho họ niềm vui và nụ cười (Bài đọc I). Đó là vẻ đẹp nội tâm, vượt xa những vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài.
Siêng năng cũng mang một khuôn mặt khác là tỉnh thức. Vâng, chúng ta cần tỉnh thức, vì cuộc sống này chính là một cuộc chờ đợi không ngừng. Chúa sẽ đến vào giờ chúng ta không ngờ, ngay cả lúc người ta nghĩ là yên ổn và an bình. Hãy tỉnh thức và sống tiết độ, đó là lời khuyên của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thessalonica (Bài đọc II). Đó cũng là thông điệp mà Giáo Hội gửi đến chúng ta trong những ngày cuối năm này.
Bốn điều mà thế hệ trẻ nên suy gẫm:
– Thất bại là gì? Bỏ cuộc là thất bại lớn nhất. – Kiên cường là gì? Một khi bạn đã kinh quan gian khó, uất hận và thất vọng, chỉ khi đó bạn mới hiểu được kiên cường là gì. – Nghĩa vụ của bạn là: Siêng năng hơn, chăm chỉ hơn, và tham vọng hơn người khác. – Chỉ kẻ ngu muội mới dùng miệng để nói. Người thông minh dùng trí óc, và người sáng suốt dùng trái tim (Samuel Johnson).
Booker T. Washington là một người Mỹ da đen rất nổi danh. Ông là một giáo sư lỗi lạc, một văn TN 33-A72
Booker T. Washington là một người Mỹ da đen rất nổi danh. Ông là một giáo sư lỗi lạc, một văn sĩ nổi tiếng và là một nhà cách mạng xã hội tên tuổi. Lúc mới 16 tuổi, Booker phải đi bộ gần 500 miles, từ căn nhà nô lệ của cậu tới đại học Hampton Virginia, để xin ghi danh theo học. Nhưng vì nạn kỳ thị mầu da, đơn của cậu đã bị bác bỏ. Cậu đành xin làm lao công trong trường, để sống qua ngày: Quét dọn nhà, giặt chăn mền, quần áo, cắt cỏ, đổ rác và các việc tầm thường nhỏ mọn khác.... Nhưng cậu làm mọi việc rất chu đáo đến nỗi ông Giám Đốc phải lưu ý và ca ngợi; rồi sau cùng, đã cho cậu một chỗ nội trú để học. Vừa theo học, cậu vừa tiếp tục làm việc trong trường, để sinh sống và có tiền trang trải học phí.
Sau cùng, nhờ lòng trung tín làm mọi việc nhỏ mọn tầm thường hằng ngày, ông đã trở thành một giáo sư nổi tiếng và đã sáng lập một viện đại học mang danh Tuskegge ở Alabama, lãnh đạo cả một khối người da đen cho đến khi ông từ trần năm 1915.
I. MỘT CÔNG TRÌNH ĐIÊU KHẮC GIÁ TRỊ
Một công trình điêu khắc rất giá trị, đã được nhiều nghệ thuật gia và biết bao người thán phục và ca ngợi, đó là pho tượng tổ phụ Maisen của điêu khắc gia Michael l'Angle. Pho tượng diễn tả được sự uy nghiêm cao cả của Thánh Tổ Phụ, sau khi được Chúa ban đặc ân thị kiến và truyền công bố 10 Giới Luật của Chúa cho Dân Riêng của Người. Pho tượng được trạm trổ bằng những đường nét thật tỉ mỉ và tài tình, đã trở nên sống động dường như người thật, đến nỗi đã làm cho nhà điêu khắc Michael L'Angle phải sửng sốt cầm búa nện vào chân tượng quát lớn tiếng: "Hãy nói đi!"
Pho tượng tổ phụ Maisen đã trở thành một công trình điêu khắc nổi danh, là do lòng trung tín với biết bao công lao tỉ mỉ luyện tập và kinh nghiệm trong nhiều năm của nhà nghệ thuật.
II. MỘT NHÀ THỦ LÃNH CHÚA CHỌN
Qua dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay, người nào được Chúa đặt làm thủ lãnh và ủy thác những sứ mạng quan trọng, những công việc lớn lao, Chúa cũng đòi người đó phải có lòng trung tín, tỉ mỉ chu toàn những nhiệm vụ tầm thường hằng ngày dù là những công việc nhỏ mọn tầm thường nhất.
Thực nghiệm trong cuộc sống, một nhà thủ lãnh lành nghề, cũng cần phải được từng trải và có kinh nghiệm trong mọi công việc; từ những việc nhỏ mọn đến những việc lớn lao; từ những việc tầm thường tới những việc cao trọng, để biết tổ chức công việc quản trị cách khoa học, với sự quán xuyến bao quát, phân chia nhiệm vụ cho những người thuộc quyền cách xứng hợp và công bằng, hợp với khả năng, thời giờ và hoàn cảnh, bằng tất cả một nghệ thuật dụng người. Ngoài ra, nhà thủ lãnh còn cần phải có tấm lòng quảng đại, hào hiệp, một tình yêu thương luôn nhân từ, bao dung và tha thứ theo gương Chúa Kitô, Đấng đã thực hiện, giáo huấn và truyền dạy chúng ta noi theo bắt chước.
Mỗi người chúng ta, đều được Chúa tuyển chọn, trao phó cho một trọng trách tùy theo khả năng và địa vị của mỗi người. Để chu toàn các trọng trách đó, Chúa đòi chúng ta phải trung tín như lời Chúa truyền: "Nếu con biết trung tín trong những việc nhỏ mọn, thì Ta sẽ đặt con làm những việc lớn hơn" (Mt 25:23).
III. MỘT VỊ THÁNH CỦA THIÊN CHÚA
Để sống xứng đáng với ơn gọi cao cả làm con Thiên Chúa, và đạt tới đích thánh thiện như lệnh Chúa truyền: "Chúng con hãy nên Thánh, vì Ta là Thánh". Chúa ban cho mỗi người chúng ta một số vốn, để chúng ta sinh lời cho Chúa tùy theo khả năng mỗi người. Chúa không đòi chúng ta phải làm được những việc lớn lao như được ơn biết nguyện ngắm cao siêu, ơn nói tiên tri, ơn thấu biết tâm hồn người ta, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, cho kẻ què đi được, người câm nói được, kẻ đã chết được sống lại.... Chúa cũng không đòi chúng ta phải làm được nhừng việc lớn lao cho vinh danh Chúa, sáng danh Giáo Hội như xây dựng được nhiều Thánh Đường, các trường đại học, các viện cô nhi, bệnh viện, các cơ quan từ thiện để thương giúp các người nghèo khó, xấu số, bất hạnh bị đời bỏ rơi....Trái lại, Chúa chỉ đòi chúng ta trung tín làm trọn hảo các việc nhỏ mọn tầm thường hằng ngày theo mhiệm vụ của mỗi người... Chúa cũng không đòi chúng ta phải làm được những việc quá sức, vượt khả năng, ngoài địa vị, chức phận, môi trường và hoàn cảnh hoặc ngoài lãnh vực chúng ta đang sống. Nghĩa là Chúa chỉ cần chúng ta trung tín làm mọi việc thông thường hằng ngày một cách khác thường vì lòng yêu mến Chúa thiết tha, là chúng ta có thể đạt tới đích thánh thiện như Chúa mong muốn.
Chị Thánh Terexa Hài Đồng là một mẫu gương, Chị đã không làm được một việc gì có vẻ lớn lao hiển hách khi còn sinh thời; mà trái lại, Chị chỉ làm những việc tầm thường hằng ngày trong phạm vi tu viện của Dòng Kín Carmelo; nhưng sau khi tữ giã trần gian, Chúa đã ân thưởng Chị bằng cách ủy thác cho Chị sứ mạng chỉ huy, hướng dẫn từng đoàn đông đảo các linh hồn bé nhỏ đi vào con đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của Tin Mừng, như một phương thế hữu hiệu giúp đạt tới đích thánh thiện như Chúa đã truyền dạy.
Tại sao Chị Thánh Terexa được Chúa ân thưởng và đặt Chị lên địa vị cao trọng như thế? Chính vì Chị Thánh đã biết trung thành chu toàn làm các việc nhỏ mọn tầm thường hằng ngày với tình yêu mến Chúa bao la và với lòng khiêm tốn sâu thẳm. Đúng như lời Chúa đã phán: "Vì con đã trung tín trong những nhỏ mọn, nên Cha đã đặt con làm những việc lớn bao trọng đại" (Mt 25:23).
Kết Luận
Booker Thomas Washington đã đạt thành công trên trường đời là vì ông đã biết trung tín làm các việc nhỏ mọn tầm thường hằng ngày.
Điêu khắc gia Michael L'Angle đã hoàn thành công trình điêu khắc nổi danh là pho tượng Thánh Tổ Phụ Maisen, được biết bao người ca ngợi là do ông đã biết trung tín tỉ mỉ luyện tập hằng ngày.
Đon Bosco, Phanxico Salesio... đã trở thành các vị Chủ Chăn, các nhà giáo dục, các vị linh hướng khôn ngoan trừng trải làm vinh danh Chúa và Giáo Hội... Thánh Nữ Terexa Hài Đồng trở nên một vị Thánh Tiến Sĩ Giáo Hội đã từng lôi cuốn biết bao linh hồn theo Chị đi vào Đường Thơ Ấu của Tin Mừng.
Còn chúng ta, tại sao chúng ta lại không nên Thánh và làm được những việc như các ngài đã làm, để tôn vinh danh Chúa và làm cho Chúa được hài lòng?
SỬ DỤNG THỜI GIAN NHƯ MỘT MÓN QUÀ THIÊN CHÚA ÂN BAN
Khi ngồi đọc, suy gẫm về Lời Chúa hôm nay, tôi chợt hồi tưởng những buổi chia sẻ, hội thảo TN 33-A73
Khi ngồi đọc, suy gẫm về Lời Chúa hôm nay, tôi chợt hồi tưởng những buổi chia sẻ, hội thảo và hàn thuyên với các bạn trẻ đã, đang đồng hành với tôi trên chuyến lữ hành dài xa tít tắp của cuộc đời này. Thật một sự trùng hợp ngẫu nhiên, đề tài của ngày hôm ấy cũng chính là chủ đề của các bài đọc trong Phụng Vụ hôm nay: tôi phải sử dụng thời giờ và tài năng của tôi thế nào cho đẹp lòng Chúa và có ích cho cộng đoàn cũng như bản thân?
Trước hết, chúng ta phải xác tín một điều rằng: Thiên Chúa hằng tín trung, trao ban mọi ơn sủng cần thiết cho tất cả mọi người, theo nhu cầu và bậc sống của mỗi người. Thiên Chúa chẳng hề hối tiếc khi phải trao ban sự sống, tự do, và chính Con Một Người cho chúng ta hầu chúng ta nhận biết kế hoạch yêu thương và dấn thân bước theo Ngài. Chẳng phải những ai luôn đặt niềm tín thác vào Chúa và xây dựng lòng tín thành nơi tha nhân là người tín trung hay sao? Duyên dáng, sắc sảo sẽ tàn phai, nhưng lòng kính sợ Chúa và niềm thành tín sẽ lưu truyền và được ca tụng (x. Cn 31, 30).
Tiếp đến, nói cho cùng, mọi tài năng, thành đạt, tài nghệ, sở trường, v.v... của chúng ta đều là hồng ân và ơn sủng của Chúa trao ban. Vì thế chúng ta phải có thái độ cảm tạ, biết ơn, nhận biết và trao ban phục vụ. Trên thực tế, nhiều người trong chúng ta thường có quan niệm hạn hẹp về tài năng Chúa ban chỉ vỏn vẹn gói trọn trong những lãnh vực như: nghệ thuật, âm nhạc, ẩm thực, lãnh đạo, quản lý, hành chính, dẫn giải, hùng biện, v.v...mà quên đi một điều khá quan trọng đó là tài sử dụng thời giờ một cách hữu ích, và sinh ích lợi cho phần hồn chúng ta. Phải chăng điều này quá tầm thường đến nỗi chúng ta chẳng cần lưu tâm đúng mức? Chúng ta là con cái của sự sáng, của ban ngày, chúng ta không thuộc về ban đêm và tối tăm (x. 1Tx 5, 5). Với lời nhắn nhủ ấy của Thánh Phao-lô, chúng ta ý thức được rằng: tài năng, ân sủng Chúa ban cho chúng ta không phải để ‘cất giữ’ hay ‘trưng cất trong tủ kính’, hoặc bị chôn vùi trong niềm kiêu hãnh, thói tự cao tự đại của cái tôi; hơn nữa, tính e ngại, sợ dèm pha, tiếng chê bai gần xa khiến chúng ta ‘giả điếc, làm ngơ’ trước tiếng mời gọi chia san, trao ban, phục vụ. Tài năng của chúng ta tiên vàn chính là hồng ân Chúa ban, kế đến là sự nỗ lực, rèn luyện, phát huy với lòng khiêm tốn nhận biết. Vì thế, tài năng không phải để phô trương, phô diễn, hay ‘cất giữ trong viện bảo tàng của lòng mình’, mà tài năng phải được chia san, chia sẽ với lòng hân hoan, và khiêm tốn phục vụ vì ‘ai được lãnh nhận một cách nhưng không thì trao ban nhưng không’ (x. Mt 10, 8). Tóm lại, tài năng chính là hồng ân của Chúa ban và cũng là trách nhiệm chia san của người được lãnh nhận.
Hơn nữa, ai trong chúng ta cũng có tài năng cả, có thể là tài năng đã chớm nở, phát triễn, sinh hoa kết quả; hoặc tài năng chưa được phát hiện ra vì lối suy nghĩ của bản thân trói buộc mà không thể nhận ra tài năng Chúa trao ban cho bản thân! Nhưng dù gì đi chăng nữa, ai cũng có tài năng sử dụng thời gian, sử dụng phương tiện, tiền bạc, v.v...hầu làm sáng danh Chúa và sinh ích lợi cho cộng đoàn, gia đình, cho bản thân. Như hai người đầy tớ tốt lành trong đoạn Phúc Âm hôm nay đã biết sử dụng thời gian, tài năng, đã tín trung trong việc nhỏ, và được ông chủ giao cho công việc trọng đại (x. Mt 25, 20-23), ước gì mỗi chúng ta cũng biết khiêm nhường chu toàn trách nhiệm trao ban, chia san và phục vụ cộng đoàn với lòng hân hoan, cảm mến.
Để kết thúc bài chia sẽ này, tôi xin mượn lời của Đức Cố Hồng Y Tôi Tớ Chúa Phan-xi-cô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giải bày về tài năng sử dụng thời gian cho việc trao ban, dâng hiến và phục vụ anh chị em như một lời nguyện cầu tha thiết (x. Niềm Vui Sống Đạo):
Hãy dùng thời gian để suy nghĩ, vì đó là nguồn mạch của sức mạnh. Hãy dùng thời gian để chơi đùa, vì đó là bí mật, của tuổi xuân trường cửu. Hãy dùng thời gian để đọc sách báo, vì đó là nguồn mạch của kiến thức. Hãy dùng thời gian để yêu và được yêu, vì đó là hồng ân của Thiên Chúa. Hãy dùng thời gian để chọn bạn hữu, vì đó là đường hạnh phúc. Hãy dùng thời gian để tươi cười, vì đó là âm nhạc của tâm hồn. Hãy dùng thời gian để trao tặng, vì đời quá vắn để sống ích kỷ. Hãy dùng thời gian để mang Tin Mừng, vì đó là sứ mạng cao cả của bạn. Hãy dùng thời gian để cầu nguyện, vì đó là sức mãnh liệt nhất trên quả đất này.
Chủ đề: Trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc lớn. Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Chuyện kể rằng: Tại một nước ở vùng Trung Đông xa xôi, có một vị vua tuổi đã xế chiều, tính việc TN 33-A74
Chuyện kể rằng: Tại một nước ở vùng Trung Đông xa xôi, có một vị vua tuổi đã xế chiều, tính việc nhường ngôi. Sau nhiều năm suy nghĩ, bàn hỏi, vua cho gọi các chàng trai tuấn tú, thông minh tới hoàng cung công bố cách thức chọn người kế vị.
Vua trao cho mỗi chàng trai một gói hạt giống nhỏ và căn dặn: “Các khanh về gieo và chăm sóc những hạt giống hoa này. Ai có chậu hoa đẹp và nhiều cây nhất sẽ được chọn làm vua”.
Tất cả đều cố gắng chăm sóc. Các chậu hoa muôn màu khoe sắc. Ngày hội lớn đã tới, mỗi người mang theo chậu hoa của mình đặt vào vị trí chỉ định. Chờ đợi, hồi hộp, lo lắng, hy vọng...
Vua cùng ban giám khảo tỉ mỉ xem từng chậu hoa và ghi chép..., đến cuối hàng, vua ngạc nhiên thấy một chậu chỉ có đất. Chăm chú quan sát chậu đất không hoa. Chàng trai bật khóc trình bày: “Con nhận gói hạt giống của vua ban, đã cẩn thận đọc kỹ chỉ dẫn gieo trồng, tuân thủ độ ẩm và dinh dưỡng, nhưng chờ mãi chẳng thấy hạt nảy mầm và đây là kết quả sự thất bại của con: chậu không hoa”.
Chàng trai bị mọi người mỉa mai ngây ngô, khờ dại!
Trở về lễ đài vua tuyên bố: “Chàng trai, chủ nhân của chậu không hoa, đạt giải nhất, là người thắng cuộc, xứng đáng ngôi thiên tử”.
Mọi người ngỡ ngàng sầm xì to nhỏ!
Vua giải thích: “Chàng trai này coi sự trung thực hơn tất cả, nên xứng đáng thừa kế ngai vàng”.
Lý do: tất cả các gói hạt giống trước khi phân phát, vua đã cho luộc chín để không thể nảy mầm. Các chậu có hoa là do các cậu đã lấy hạt giống khác thay vào. Chỉ một người trọng sự thật nên giữ nguyên, vì thế chậu chỉ có đất, không có hoa mới là thật.
Chàng trai trung tín trong việc nhỏ, chắc chắn là người trung tín khi được trao trọng trách. Vua quyết định đưa cậu vào hoàng cung và truyền ngôi cho. Câu chuyện của vị vua kén người kế vị mở lối chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay, vốn nhấn mạnh trên sự trung tín: “Ai trung thành trong việc nhỏ, cũng sẽ trung thành trong việc lớn, hãy vào hưởng sự vui mừng với chủ” (Mt 25, 21).
Bài đọc I, trích sách châm ngôn, là những sưu tập lời dạy của tiền nhân Israel. Sách thánh ca ngợi người phụ nữ đoan trang, đảm đang, chu toàn bổn phận người nội trợ trong một gia đình.
Sự ấm êm, hạnh phúc trong gia đình tùy thuộc rất nhiều nơi người vợ này. Các đức tính nhân bản cao quý được đề cao: trung tín, hiếu khách, chỉn chu trong mọi việc tạo nề nếp, ngăn nắp, gọn gàng cho ngôi nhà xinh xắn ngập tràn ánh sáng và tiếng cười.
Cung cách đối nhân xử thế của nàng dịu dàng, tinh tế, quảng đại, xót thương, sẻ chia đáng được mọi người ca ngợi. Người vợ như thế làm vui lòng chồng và làm cho danh giá gia đình nâng cao.
Tuy nhiên, bài sách Châm Ngôn, trích đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, còn mang ý quan trọng hơn nhiều. Người vợ được đề cập ở đây còn là hình bóng Giáo Hội, hiền thê của Đức Kitô.
Sự gắn bó giữ Đức Kitô và Hội Thánh được xem như một cuộc hôn nhân nhiệm mầu. Đức Kitô yêu thương Hội Thánh, hiến mình vì Hội Thánh, cốt để tạo nên một Hội Thánh xinh đẹp về mọi phương diện, xứng đáng làm bạn trăm năm của Chiên Con.
Phần Hội Thánh yêu mến, phục tùng Đức Kitô trong mọi sự.
Bởi vậy, nếu người vợ làm vẻ vang người chồng như sách Châm Ngôn ca ngợi, thì hơn gấp bội, Hội Thánh, nhờ sự trung tín và tình yêu nồng nàn, đã và đang làm vinh danh Chúa mọi nơi, mọi thời.
Hội Thánh ấy vừa là mẹ và cũng là mỗi người chúng ta, đã và đang sống ơn gọi kitô hữu của mình cách hoàn hảo, là những bằng chứng hùng hồn cho thế giới hôm nay về một tình yêu luôn lớn hơn dành cho Chúa và cho tha nhân.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, nhấn mạnh lòng trung tín đối với sứ vụ được ủy thác. Trung tín trong công việc được trao phó với lòng yêu mến làm Chúa được vui và kể họ là “đầy tớ tín trung trong việc nhỏ, cũng trung tín trong việc lớn, hãy vào hưởng sự vui mừng với chủ” (Mt 25, 21).
Hơn nữa, trong tư cách là Ngôi Lời Nhập Thể, sự kết hợp giữa thiên tính và nhân tính nơi con người Giê-su được nhìn nhận là cuộc hôn nhân nhiệm mầu đích thực. Nhân tính của Chúa Giê-su hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, trở nên người Con yêu quý, đẹp lòng Cha mọi đàng.
Do sự vâng phục, Đức Giê-su tôn vinh Cha dưới đất và được Cha tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, bằng cách phục sinh và đặt Người trên ngai vinh hiển bình đẳng với Thiên Chúa Cha.
Dụ ngôn người đầy tớ tín trung vừa tuyên đọc, trước hết phải được áp dụng cho Chúa Giê-su, rồi đến những kẻ thuộc về Chúa, vẫn đang sống niềm hy vọng trong khi cặm cụi thi hành thánh ý Cha.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, coi hiền thê của Chiên Con, là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày.
Thái độ tỉnh thức, sẵn sàng đợi chờ Chúa đến, thuộc diện những quản gia tín trung, quán xuyến mọi việc trong nhà cách hài hòa chu đáo, đáng khen. Họ là những người được ca tụng như hiền thê đức hạnh, đáng giá hơn trân châu, ngọc bảo bội phần, khiến phu quân nào cũng tự hào, trân trọng, giữ gìn.
Phần thưởng tích cực dành cho lòng trung tín là được mời gọi vào hưởng sự vui mừng với chủ muôn đời.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa dạy chúng ta điều căn bản của đời sống kitô: làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn, trong đó có chính linh hồn mình. Sự tín trung chu toàn bổn phận là yếu tố cần để lượng định thái độ lắng nghe và thực thi ý Chúa.
Luôn sống như con cái ánh sáng, con cái của ban ngày, nghĩa là một đời sống minh bạch không gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa và người đời.
Thánh Phê-rô từng căn dặn: “Sống giữa dân ngoại, anh em hãy có một hạnh kiểm lương hảo, ngõ hầu, trong khi họ nói xấu anh em dường thể bọn gian phi, nhưng do việc lành họ chứng kiến, họ phải tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm” (1P 2, 12).
Bởi vậy, nếp sống tốt lành thánh thiện của người môn đệ, vừa đem đến thiện hảo cho cá nhân, gia đình, xã hội, vừa làm đẹp lòng Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
Người ta thường nói: "Có gan làm giàu", hoặc "Phi thương bất thành phú". Tuy nhiên, thực tế TN 33-A75
Người ta thường nói: "Có gan làm giàu", hoặc "Phi thương bất thành phú". Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải hết mọi thương gia đều trở thành triệu phú và cũng lắm kẻ vì có gan nên mới trắng tay, tan gia, bại sản... Do đó, khi đọc dụ ngôn ông chủ trao tiền bạc cho các đầy tớ trước khi đi xa để khi về có thể thu lại cả vốn lẫn lời, tôi mãi băn khoăn tự hỏi không biết ông chủ sẽ đối xử như thế nào nếu một trong các đầy tớ của ông đến thưa rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, tôi dùng một nửa để mua cổ phiếu - stock - và giao nửa kia cho người đổi bạc, nhưng bây giờ stock và bạc đang bị xuống giá cho nên số tiền của ông bị lỗ mất 3 nén và chỉ còn được có 2 nén thôi..." Theo tự nhiên thì chắc ông sẽ phạt người đầy tớ này rất nặng, vì đối với người không sinh lợi được, tức là huề vốn, mà ông đã phạt nặng đến nỗi phải khóc lóc nghiến răng thì đối với người bị thua lỗ chắc còn thê thảm hơn bội phần.
Lời-lỗ là chuyện đương nhiên và rất thường tình trong lãnh vực buôn bán, đổi chác. Trước khi kết thúc Năm Phụng Vụ, Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại xem một năm qua với biết bao hồng ân Thiên Chúa trao ban, chúng ta đã đi đến đâu trên bước đường theo Chúa, qua dụ ngôn các nén bạc. Và hiển nhiên, ai trong chúng ta cũng biết Chúa muốn dùng dụ ngôn này để ám chỉ đến cuộc sống của mỗi người với những tài năng Ngài ban tặng khi sinh chúng ta vào đời. Không nhiều thì ít, mỗi người chúng ta đều có những ưu khuyết điểm riêng. Hay nói cách khác, sinh ra cũng một kiếp người nhưng có kẻ trời ban cho lắm tài, có người đếm đi đếm lại may ra được một hoặc hai năng khiếu. Do đó, cơ hội để mỗi người lập thân cũng rất chênh lệch nhau. Có kẻ buôn đâu lời đó nhưng cũng có người hễ đụng đến là chỉ có thua với lỗ. Có người sinh ra đã là thiên tài hoặc được ăn học ngay từ thuở nhỏ nhưng lại có lắm kẻ suốt đời cũng chẳng nắm bắt được cơ hội để đến trường. Và các tài năng, cơ hội hay hoàn cảnh gặp phải trong đời chính là những nén bạc Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, kẻ nhiều người ít, để có thể chu toàn ơn gọi của riêng mình.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng vì vậy mà vội kết án Thiên Chúa là đấng bất công. Trái lại, Ngài vẫn mãi là Thiên Chúa rất công bằng, vì cách đối xử của Ngài khác với lối thưởng phạt tự nhiên của con người. Thiên Chúa không thưởng phạt theo mức độ thành công hay thất bại của con người nhưng chỉ xét đến sự cố gắng của chúng ta mà thôi. Kẻ được ban cho nhiều thì cũng sẽ phải trả lại nhiều. Do đó, sau khi đã cố gắng hết mình để đầu tư các tài năng Chúa ban vào việc tiến thân và mưu cầu lợi ích cho tha nhân nhưng chẳng may chúng ta thất bại hay chỉ thành công được tí chút, Ngài cũng sẵn sàng dang rộng đôi tay ôm chúng ta vào lòng và âu yếm gọi chúng ta là những đầy tới tốt lành và trung tín. Chính vì vậy mà thánh Phaolô đã có lần nhắn nhủ dân thành Galata là "mỗi người hãy nên xem xét việc làm của chính mình... chứ đừng so sánh với người khác" (Gl 6:4). Cho nên, qua bài Phúc âm hôm nay, tuy không nói thẳng ra, nhưng Chúa Giêsu ngầm nhắn nhủ chúng ta: "Muốn trở thành đầy tớ tốt lành trung tín của Ngài thì phải liều mạng". Liều mạng để giữ lòng kính sợ Chúa (bài đọc 1), liều mạng để luôn sẵn sàng tỉnh thức và điều độ (bài đọc 2), và sau cùng là liều mạng dám sử dụng bất cứ tài năng nào Chúa ban cho để vươn lên và giúp đỡ tha nhân cùng nhận biết, tin tưởng và mến yêu Thiên Chúa. Đó là kết quả mỹ mãn nhất mà Thiên Chúa hằng hy vọng khi trao ban các nén bạc cho chúng ta.
Trước hết, tài năng cần được phát hiện Cần luôn tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa đến trong giờ TN 33-A76
Trước hết, tài năng cần được phát hiện Cần luôn tỉnh thức để sẵn sàng đón Chúa đến trong giờ chết của mỗi người và trong ngày tận thế chung của nhân loại. Chỉ những ai biết chu toàn nhiệm vụ làm gia tăng các nén bạc Chúa ban, mới chứng tỏ là người đầy tớ trung tín của Thiên Chúa, xứng đáng được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau. Còn những kẻ không thực thi lòng mến Chúa yêu người sẽ bị phạt “khóc lóc nghiến răng” trong hỏa ngục muôn đời.
CHÚ THÍCH:
- C 15: + Nén bạc: là một đơn vị tiền tệ có giá trị tương đương với 6.000 quan tiền, tương đương 6.000 ngày công lao động. Đây là một số tiền rất lớn, nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa. Người trao các nén bạc là tài năng, trình độ học vấn, của cải vật chất và địa vị xã hội… cho mỗi người. Số nén bạc được trao năm nén, hai nén và một nén, ám chỉ các ân huệ và tài năng được ban nhiều ít tùy theo khả năng mỗi người.
- C 18: + Đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ: Đây là thái độ tiêu cực và vô trách nhiệm của người đầy tớ được trao cho một nén. Những ai không sử dụng các tài năng và của cải Chúa ban để làm sáng danh cho Chúa tức là đã đem chôn giấu nén bạc được trao phó cho mình sinh lợi.
- C 29: + Phàm ai có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi: Ai tin vào Đức Giêsu và dùng ơn Chúa ban để làm vinh danh cho Chúa và phục vụ cho phần rỗi tha nhân sẽ được Thần Chân Lý giúp hiểu biết chân lý và sẽ ngày nên hoàn thiện hơn. Còn những kẻ không yêu mến Chúa, thể hiện qua việc không muốn làm lợi các nén bạc được Chúa trao, thì sẽ không được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
- C 30: Khóc lóc nghiến răng: Một kiểu nói diễn tả các hình phạt của những kẻ không có lòng tin yêu Chúa. Họ sẽ bị chung số phận với ma quỷ trong hỏa ngục đời đời, nơi sẽ chỉ còn đau khổ oán than và thù hận.
CÂU HỎI: 1) Nén bạc là gì? Giá trị thế nào? Ám chỉ điều gì? 2) Thái độ đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ là hành động của hạng người nào? 3) Câu “Phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” có ý nghĩa gì? 4) Kiểu nói “Khóc lóc nghiến răng” ám chỉ người bị sa hỏa ngục phải chịu những hình phạt nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21).
2. CÂU CHUYỆN: Hãy làm mọi việc với hết khả năng.
Sau khi đến thăm gia đình của một cô bạn cùng lớp vừa bị tai nạn xe cộ chết thảm, cô bé Lin-đa liền trở về nhà mình. Cha cô đã nổi giận khi biết con vừa đến thăm viếng tang gia. Ông trừng mắt nhìn em và hỏi: “Tại sao con lại đến nhà tang gia vào lúc này?” Lin-đa trả lời: “Thưa ba, con đến là để giúp đỡ gia đình bạn ấy”. Ông bố lại hỏi: “Nhưng con thì làm được việc gì để giúp đỡ gia đình nhà họ?” Lin-đa đáp: “Ba ơi, con chẳng giúp gì được cho gia đình bạn ấy cả. Con chỉ biết chạy đến ôm lấy mẹ của bạn ấy mà khóc, và mẹ bạn ấy cũng ôm con và cùng khóc với con”. Câu trả lời của Lin-đa đã làm cho cha cô hiểu ra rằng: Tuy em không làm được gì nhiều cho tang gia, nhưng em đã làm mọi điều hợp với khả năng và vừa tầm tay của em để an ủi bà mẹ đang đau khổ vừa mất đứa con thân yêu.
Còn bạn thì sao? Giả như gặp hoàn cảnh tương tự, Bạn có biết cảm thông với nỗi đau của tang gia và thể hiện tình thương cách cụ thể bằng việc đến thăm hỏi cầu nguyện và an ủi họ không?
3. SUY NIỆM:
1) Bổn phận làm gia tăng các nén bạc Chúa trao:
Dụ ngôn nói lên một sự thật trong đời sống đức tin của mỗi tín hữu chúng ta. Thiên Chúa ban cho mỗi người các nén bạc là các ơn lành và tài năng như: sức khỏe, khôn ngoan, tiền bạc, tài năng âm nhạc, hội họa, cắt may v.v… Kẻ được ơn này, người được ơn khác. Nhưng tất cả mọi người đều phải làm phát sinh các ơn lành và tài năng ấy cho Chúa và tha nhân. Ai được trao ban nhiều thì sẽ bị đòi lại nhiều, còn người được trao ban ít thì sẽ bị đòi lại ít hơn.
Như vậy, chúng ta không có toàn quyền làm chủ các ơn huệ tài năng mình có mà chỉ được quản lý chúng theo thánh ý Chúa muốn mà thôi.
2) Quan niệm về đạo đức theo dụ ngôn những yến bạc
Điều chúng ta cần lưu tâm là người được một nén tuy không hề làm điều gì ác, không làm mất mát hay thiệt hại gì cho ông chủ, thế mà bị ông chủ phạt, bị “quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25,30). Anh ta bị phạt vì đã được chủ giao cho một yến bạc, nhưng không làm lợi ra được thành một yến khác vì đã cất kỹ nó vào một chỗ. Suy nghĩ về dụ ngôn này này khiến chúng ta phải thay đổi ít nhiều quan niệm về đạo đức. Chúng ta thường tưởng rằng hễ mình không làm điều gì ác thì mình là người vô tội, công chính. Nhưng không phải thế. Theo tinh thần của dụ ngôn, một khi đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa mà ta lại không dùng ân huệ đó để tạo lợi ích cho Thiên Chúa và tha nhân, thì ta trở thành kẻ có tội, cho dù ta không hề làm một điều gì thất đức cả. Đó là ý nghĩa của cụm từ “những điều thiếu sót” trong kinh Cáo Mình: “Tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”. Ít ai quan tâm tới tội phạm do thiếu sót. Nhưng rất có thể trong cuộc đời ta, những tội lớn nhất, nhiều nhất của ta và vì đó mà ta bị luận phạt nhiều nhất lại là thứ tội này. Dù là tội gì, thì căn bản của tội vẫn là do thiếu tình yêu.
3. Đạo đức không chỉ là tránh làm điều ác
Cũng vậy, trong bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng, những kẻ bị kết án không phải chỉ là những người đã từng làm điều ác, mà còn là biết bao người không hề làm một điều gì ác. Lý do khiến họ bị kết án chính là: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25,42-43). Chữ “Ta” trong câu này chính là Đức Giêsu được hiện thân thành tha nhân của ta, nhất là những kẻ nghèo hèn bé mọn. Như vậy, theo Đức Giêsu, người không làm điều gì ác chưa phải là người đạo đức, tốt lành, giống như biết bao Kitô hữu đang quan niệm. Thật vậy, nhiều Kitô hữu, kể cả trí thức, người dạy giáo lý, hễ cảm thấy mình không làm điều ác thì liền nghĩ mình vô tội, thậm chí còn tự hào mình đạo đức nữa.
Nguyên tắc đạo đức chung của con người là “tránh ác, hành thiện”. Nếu ta chỉ tránh điều ác nhưng không cố gắng làm điều thiện, thì ta mới thực hiện được một phần rất nhỏ của nguyên tắc ấy thôi. Vì tránh ác thì tương đối dễ, còn hành thiện trong những trường hợp mà lương tâm đòi buộc thì đòi hỏi phải hy sinh, vất vả hơn rất nhiều. Tránh ác hay không làm ác thì không cần nhiều khả năng, vì làm một điều gì đó thì mới cần tới khả năng chứ không làm thì cần gì khả năng? Thật vậy, một trẻ nhỏ, một con vật, có khả năng gì đâu, thế mà chúng vẫn có thể không làm điều gì ác cả. Thiên Chúa đã ban cho ta mỗi người một số khả năng là để ta làm điều thiện, nhất là để làm theo những đòi hỏi của tình yêu trong lòng ta. Nếu khả năng Thiên Chúa ban cho ta mà ta không chịu dùng để làm những điều ích lợi, thì ta sẽ chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Do đó, nhiều khi ta tưởng mình vô tội, tưởng mình đạo đức khi thấy mình chưa hề nhúng tay làm điều gì ác. Nhưng rất có thể Thiên Chúa vẫn kết án ta là tội lỗi, chỉ vì ta đã không làm những gì mình phải làm. Tuy nhiên, hai người cùng ít làm điều thiện y như nhau, người nào có nhiều khả năng hơn thì tội người ấy lớn hơn.
4. Càng nhiều khả năng, trách nhiệm càng lớn
Vì thế, người có nhiều khả năng, nhiều điều kiện để làm điều thiện, thì càng phải ý thức trách nhiệm của mình. Thông thường, càng nhiều khả năng, nhiều tài, nhiều của, càng có địa vị cao, chức vụ lớn, càng trí thức, càng giỏi giang, càng được suy tôn, thì ta càng cảm thấy sung sướng và hãnh diện trước mặt người đời, nhất là trước những người kém cỏi hơn mình. Nhưng khi đọc dụ ngôn này, ta càng cảm thấy run sợ trước trách nhiệm của ta. Trong quá khứ, có biết bao trường hợp ta phải ra tay, phải hành động, phải can thiệp, phải cứu giúp, phải lên tiếng bênh vực, phải nói lên sự thật, phải minh oan, phải khuyên can… mà ta đã không làm gì cả, đang khi ta có thể làm những điều ấy tốt hơn và hữu hiệu hơn ai hết. Thậm chí ta có sứ mạng hay trách nhiệm hành động hay can thiệp. Tệ hơn nữa, ta không hề cảm thấy mình có lỗi gì cả, vẫn cứ tự hào mình vô tội, mình đạo đức, và chẳng thấy cần hối hận điều gì. Chỉ vì ta thấy mình không hề làm điều gì gian ác! Dụ ngôn này cho thấy quan niệm như thế là sai lầm!
Điều ngăn trở khiến ta không muốn là điều thiện, điều cần thiết hoặc ích lợi cho tha nhân, cho xã hội, đó chính là ta thiếu tình yêu. Tình yêu chính là yếu tố thiết yếu nhất của đạo đức, của sự thánh thiện. Chính tình yêu làm ta nên giống Thiên Chúa hơn bất kỳ điều gì khác, vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8.16). Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm cốt yếu của đạo đức hay thánh thiện là ở một điều gì khác: kẻ thì bảo hệ tại việc giữ luật lệ cho hoàn hảo, người cho rằng hệ tại việc cầu nguyện nhiều, kẻ khác cho rằng hệ tại làm điều này điều nọ… Thật ra, tất cả những việc tốt ấy chỉ có giá trị để giúp chúng ta thực thi đức ái. Thánh Phaolô đã xác định điều ấy: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).
Ngày nay có một số người cho rằng Thiên Chúa bất công khi để xảy ra tình trạng: Người thì “bát ăn bát để”, kẻ lại “khố rách áo ôm”. Người thì cao sang quyền quý “lên xe xuống ngựa”, kẻ lại phải chịu “làm thân trâu ngựa” cho người ta cưỡi. Có cô gái vừa “đẹp người” lại vừa “đẹp nết” được nhiều kẻ đón người đưa, đang khi có cô “sinh ra nhằm ngôi sao xấu” nên chẳng ai thèm để ý đoái hoài… Đức Giêsu đã gián tiếp trả lời cho vấn nạn nói trên qua dụ ngôn “những nén bạc” trong Tin Mừng hôm nay. Điều quan trọng là hãy bằng lòng với những gì mình đang có và sử dụng tối đa những ném bạc là các phương tiện trong tầm tay để chu toàn việc bổn phận trong gia đình và ngoài xã hội. Tội trộm cướp giết người là một trọng tội đáng bị trừng phạt đời này và đời sau, nhưng ng cả việc không sử dụng tài năng của cải Chúa ban để “làm sáng danh Chúa và vì phần rỗi các linh hồn” cũng là một trọng tội đáng bị phạt loại ra khỏi Nước Trời.
Vậy mỗi ngày tôi có biết cảm tạ Chúa về những hồng ân vật chất tinh thần Chúa ban hay không? Tôi quyết tâm làm gì cụ thể để làm lợi nén bạc Chúa giao, tức là sử dụng chúng để phục vụ Chúa và tha nhân cách tốt nhất?
4. THẢO LUẬN:
Một bộ phận không nhỏ tín hữu nói rằng: “Tôi rất bận với việc bổn phận phải lo kiếm tiền cho gia đình… nên đâu có thời giờ năng tới nhà thờ đọc kinh cầu nguyện hằng ngày, hoặc gia nhập hội đoàn đi làm các công tác bác ái phục vụ như những người rảnh rỗi được!” Bạn có đồng ý với câu nói chữa mình của họ không? Tại sao?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Con xin cảm tạ Chúa muôn ngàn lần, vì con đã nhận được biết bao ơn lành Chúa ban. Về vật chất: Con luôn có việc làm ổn định; Con được cha mẹ sinh ra lành lặn và tốt đẹp hơn nhiều người; Con được sống trong môi trường gia đình gia giáo đạo đức… Về tinh thần: Con đã được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa ngay từ khi mới sinh và được cha mẹ cho học hành đầy đủ. Nhất là con được Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Xin cho con biết không ngừng tạ ơn Chúa. Nhất là xin cho con biết sử dụng các ơn Chúa ban để làm cho “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. - Lạy Chúa. Xưa khi Mẹ Maria vừa được khen là “có phúc, vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói” (x Lc 1,45), thì lập tức Mẹ đã dâng lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Rồi từ đó, cuộc đời của Mẹ trở thành một bài ca “Xin vâng” theo thánh ý Thiên Chúa (x. Lc 1,38), và luôn “ngợi khen cảm tạ tình thương của Người”. (x. Lc 1,46.49). Còn chúng con: Cuộc đời chúng con hiện vẫn còn nhiều gian nan đau khổ. Xin Chúa giúp chúng con cũng biết “xin vâng theo thánh ý Chúa” như Mẹ khi xưa. Xin cho chúng con biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để “làm vinh danh cho Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Xin cho chúng con biết bắt tay làm những gì có thể hơn là ngồi đó mà than thân trách phận, như câu người ta thường nói: “Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối!”. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Tương lai của mỗi người vô cùng phong phú: kẻ yếu hèn sẽ nói hạnh phúc là điều không thể ! Người TN 33-A77
Tương lai của mỗi người vô cùng phong phú: kẻ yếu hèn sẽ nói hạnh phúc là điều không thể ! Người sợ hãi sẽ nói, tình yêu thật là điều tôi chưa nghe, chưa hiểu ! Với người dũng cảm, mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời, đều là cơ hội. Bạn có tin vào tương lai không, hãy hành động, đó là cơ hội, vì ngay cả khi tiền tài của bạn tựa non cao, giầu sang cùng phú quý, cũng chẳng mua được “tình” ? Cuộc sống hiện tại, đúng là cơ hội dành cho ta: thành đạt, có danh có phận, có quả phúc. Đã gọi là cơ hội, không thể chậm trễ, ví như: trâu chậm uống nước đục ; trăng đẹp sao sáng về đêm khuya, nhưng không phải đêm nào cũng có “sao băng”. Được sinh ra làm người, lẽ nào bạn không có ước mơ, ít là ước muốn làm người tốt, người hữu ích ?
“Các con hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ”. Đó là sự thật, là một tương lai đáng sợ cho những ai sống hời hợt, khi theo Đức Giêsu làm môn đệ ! Vì tinh thần thì lanh lẹ, xác thịt lại yếu đuối: bạn chấp nhận là hèn yếu, hay mang trái tim “thỏ đế”, là hiền nhân quân tử, hoặc vì yêu, vì tín thác Đấng là Thầy là Chúa ở trong bạn ? Câu trả lời của mỗi người phải là: có hay không mùa đông mới biết, giầu nghèo, 30 tết mới hay ! Các Thánh tử đạo Việt Nam có cơ hội để chọn lựa, có tự do minh chứng về một tình yêu thật, các ngài không để vụt tắt điều kỳ diệu được nên giống Thầy: thử thách càng to, hạnh phúc càng lớn.
Con người tự nhiên lý luận rằng: luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi, câu thành ngữ có sức thuyết phục tới đâu, tuỳ thời gian, mức độ và hoàn cảnh mỗi người sẽ tự trả lời. Về phương diện siêu nhiên, con người yếu đuối mỏng giòn, ai đủ bình chân như vại khi nghe Đức Giêsu nói: “các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền, và vua chúa, vì Thầy, để làm chứng cho họ, cho dân ngoại được biết”. Cha ông chúng ta có cơ hội để thăng quan tiến chức, được ăn sung mặc sướng, không phải đau đớn thể xác, không phải chết, nhưng tại sao các ngài từ chối ? Các ngài còn cảm thấy vui, khi nói: đối với tôi, bị bắt vì đạo Chúa là một hồng ân. (Phêrô Tự). Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa là đạo thật. (Têphanô Vinh).
Hãy học cách lắng nghe, cơ hội có thể gõ cửa rất khẽ khàng. (Frank Tyger). Các thánh tử đạo chắc chắn không phải vì dốt, vì dại khờ, không biết né tránh khổ đau sự chết, lịch sử ghi nhận các ngài vì yêu, vì ước muốn được nên Một Tình Yêu Ba Ngôi. Xã hội văn minh, không ai lấy dạ tiểu nhiên để đo lòng người quân tử, nhất là đụng đến các vị anh hùng dân tộc. Ra khỏi gia đình, bạn sẽ nghe rất nhiều âm vang khác lạ: đừng bao giờ hỏi cha mẹ đã nuôi dạy, đã đầu tư cho bạn thế nào, nhưng hãy tự suy xét, bạn có thương yêu cha mẹ, đã sống chữ hiếu chữ thảo đến đâu rồi ? Tiếng nói của các chuyên gia vẫn vô cùng thiết thực: hoàn cảnh sống của bạn có thể nghèo, hèn, có thể bẩn, hôi, nhưng bạn không được hèn nhát, vì tổ tiên dòng tộc của các bạn là anh hùng quân tử.
Là con cháu của các thánh tử đạo, là môn đệ của Đức Giêsu, dù điều kiện, hoàn cảnh, của ta không thuận lợi, nhưng cơ hội vẫn rộng mở: giầu 30 tuổi chớ mừng, khó 30 tuổi xin đừng vội lo. Cơ hội để thành tài, trở nên người hữu ích, là có thật, như lời Chúa Giêsu nói: “khi người ta bắt nộp các con, các con đừng lo nghĩ phải nói gì, vì chưng, không phải các con nói, nhưng chính Thánh Thần của Cha nói trong các con”. Cơ hội tiếp nối truyền thống của tiền nhân, là có sức mạnh và tình yêu Chúa, là để Thánh Thần mách bảo đường đi nước bước, dẫn đến chân lý vẹn toàn. Tình yêu thật, khôn ngoan thật, cũng là cơ hội “thành nhân, thành người hùng tài” theo truyền thống đức tin như Chúa Giêsu diễn tả: “vì Danh Thầy, các con sẽ bị người đời ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ”.
Các thánh tử đạo Việt Nam không giầu tiền của, không bận tâm đến lý lẽ thế gian, nhưng các ngài có sức mạnh của tình yêu, có đủ ý chí tự do, hầu chứng minh với con cháu: thành người, thành danh, thành tài, là nhờ bởi tình yêu Đức Kitô. Nếu thế gian cho rằng: không gì quý hơn mạng sống, ở trong Đức Kitô, hẳn người tín hữu sẽ đủ khôn để nói: không gì quý hơn sự thuỷ trung với ơn gọi nên người tốt, nên muối men cho gia đình, xã hội. Chí khí trung kiên của tiền nhân đã thể hiện được tính anh hùng, các ngài sẽ còn hiệp thông và chuyển cầu cho con cháu biết liên đới sống mầu nhiệm đức tin: không hổ thẹn với trời đất, không vô ơn với bậc sinh thành. Cho dù khó khăn gian khổ còn đó, nhưng kinh nghiệm và phúc lộc của tiền nhân vẫn đang nhắc bảo: bao lâu bạn chưa bỏ cuộc, cơ hội thành người hữu ích, thành môn đệ Đức Kitô là sự thật. Amen.
Vào những Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về TN 33-A78
Vào những Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về giờ chết, về biến cố Con Người thình lình đến “như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Kinh Thánh trình bày ngày cánh chung dưới hai dạng : dạng thứ nhất như tai họa hình phạt sụp đổ trên những người tội lỗi, dạng thứ hai như cuộc gặp gỡ con người với Thiên Chuá, Đấng xét xử công bình nhưng rất bao dung, nhân từ, giầu lòng thương xót mà Tin Mừng Mátthêu đề cập đến trong Chúa Nhật này.
Đó là cuộc gặp gỡ Đức Giêsu. Tuy là cuộc gặp gỡ mang tính quyết định, nhưng Đức Giêsu không xuất hiện như quan toà nghiêm khắc, “bới lông tìm vết” để trừng phạt, nhưng như ông chủ tốt lành và “biết điều” đã đánh giá công trạng của đầy tớ trên khả năng sinh lợi vốn liếng đã nhận.
Ông chủ tốt lành ấy đã trao cho các đầy tớ mỗi người một số nén bạc khác nhau, và điều mong uớc duy nhất của ông là các đầy tớ không bỏ quên hay coi thường những nén bạc “vốn liếng” được trao ban ấy, nhưng tìm cách sinh lợi tùy theo khả năng riêng mỗi người.
Ở đây chúng ta thấy : ông chủ đã không cho đồng đều các đầy tớ cùng một số lượng vốn liếng, nhưng rất khác nhau : người thì năm nén bạc, người khác hai, người chỉ có một, vì khả năng sinh lợi Thiên Chúa ban cho mỗi người không giống nhau, không cùng độ lượng, nhưng tất cả đều chung một đòi hỏi là phải sinh lời.
Vì thế, lòng ganh ghét khi thấy người khác tài giỏi, khéo léo hơn mình là điều thật vô lý, vì như một thân thể, mỗi chi thể có vai trò, nhiệm vụ khác nhau, như tất cả chúng ta không có cùng sứ vụ trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều quy về lợi ích chung của Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô.
Vấn đề được Đức Giêsu đặt ra với mỗi người ở đây chính là chúng ta đã làm gì với ơn huệ Thiên Chúa đã ban trên hành trình dương thế?
Có rất nhiều ơn huệ, nhưng tất cả đều xuất phát từ Đức Giêsu và quy hướng về Đức Giêsu, nên việc sinh lời các ơn huệ được ban cũng phải nằm trong qũy đạo của Đức Giêsu. Nói cách khác, chúng ta nhận vốn liếng để kinh doanh “Danh Thiên Chúa, Ý Thiên Chúa, Nước Thiên Chúa”. Mà “danh Thiên Chúa” là Thiên Chúa Tình yêu ; “Ý Thiên Chúa” là mọi người yêu mến Thiên Chúa, và yêu thương anh em như chính mình ; “Nước Thiên Chúa” là mái ấm hạnh phúc, là gia nghiệp đời đời dành cho những ai sống yêu thương. Và bởi “Thiên Chúa là Tình Yêu”, nên tất cả những nén bạc nhận được từ Thiên Chúa đều là những nén bạc Tình Yêu.
Những nén bạc tình yêu ấy là khả năng yêu thương Thiên Chúa ban cho mỗi người và đòi hỏi phải sinh lời khi phát triển khả năng yêu thương ấy để “yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em” vừa là lệnh truyền của Thiên Chúa, vừa là tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để đánh giá công tội của mỗi người ở buổi gặp gỡ đời đời với Thiên Chúa, mà không một ai sẽ được chuẩn chước, miễn trừ.
Thực vậy, bài đọc thứ nhất trích từ sách Châm Ngôn nói về người đàn bà hoàn hảo, người vợ tuyệt vời : “Nàng qúy giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc, chứ không gây tai hoạ cho chồng… Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ, và đưa tay cứu kẻ khốn cùng… Chồng nàng được tiếng thơm nơi cổng thành khi ngồi cùng với hàng kỳ mục trong dân… Con nàng đứng lên ca ngợi nàng có phúc, chồng nàng cũng tấm tắc ngợi khen… Hãy để cho nàng hưởng những thành qủa tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm” (Cn 31,10-12. 20. 23.28.31).
Chọn hình ảnh người đàn bà đáng yêu, người vợ đáng qúy và đặt vào bên cạnh bài Tin Mừng “những nén bạc” đã không là điều ngẫu nhiên, nhưng nằm trong ý của Giáo Hội với chủ đích nói lên khả năng yêu thương là nén bạc qúy giá vô cùng Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, và mỗi người phải sinh lợi cho Thiên Chúa, vì hạnh phúc của chính mình, khi sống giới luật Yêu Thương trong cuộc sống trần gian.
Và bài đọc hai, khi nhắc đến “tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày” (1 Tx 5,5), thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy bước đi trên hành trình yêu thương, khi trang bị cho mình “áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8), để khi Chúa đến, không ai trong chúng ta phải hụt hẫng, ngỡ ngàng, vì còn say sưa, mê ngủ…
Như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã một đời yêu mến Chúa và các linh hồn, một đời phụng sự Chúa và phục vụ chị em trong nhà với tình yêu tha thiết, nồng nàn, chúng ta nài xin Chúa đổ tràn tình yêu của Ngài trong trái tim cằn cỗi, chật hẹp của chúng ta, để mỗi ngày chúng ta biết yêu thương nhiều hơn, phục vụ anh em ân cần, tận tụy hơn, bởi đến ngày giờ Chúa gọi, hành trang duy nhất đáng được Chúa xót thương khi đến trình diện trước tôn nhan Ngài sẽ chỉ là những Nén Bạc Tình Yêu đã được sinh lợi.
Khi yêu, người ta có rất nhiều cách để bày tỏ tình yêu với người mình yêu. Yêu mến Thiên Chúa TN 33-A79
Khi yêu, người ta có rất nhiều cách để bày tỏ tình yêu với người mình yêu. Yêu mến Thiên Chúa, ta cũng khao khát được diễn tả tình yêu của mình. Thiên Chúa yêu ta, Người đã xuống thế làm người, chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc ta. Yêu mến Chúa, ta sẽ làm gì đây?
Hôm nay, nghe Thầy Giêsu kể chuyện về những đầy tớ được chủ trao cho các nén bạc, ta ngẫm về cuộc đời của mình. Những đầy tớ được chủ trao cho nén bạc, mỗi người tùy theo khả năng mà được lãnh nhiều hay ít, họ đã cố gắng làm ăn sinh lời. Ông chủ khen họ là đầy tớ trung thành, cho họ được vào chung hưởng niềm vui của chủ. Nhưng, có một người, một người đã lười biếng không chịu làm ăn sinh lời, anh đem chôn giấu số bạc chủ trao. Anh bị quở trách, bị tước mất số bạc đã được trao cho và bị đẩy vào chỗ tối tăm. Ta là ai trong hai hạng người ấy?
Chúa Giêsu đã nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 17). Con người làm việc để có của ăn nuôi sống mình, xây dựng quê hương xứ sở mình. Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài thánh hóa công việc và mặc cho nó một tinh thần mới. Con người làm việc không phải chỉ để có cơm bánh hằng ngày nhưng vượt lên trên những giá trị tự nhiên ấy, làm việc là để tôn vinh Thiên Chúa và để bước vào chung hưởng hạnh phúc đời sau với Ngài. Bởi thế, khi các đầy tớ được chủ trao cho những nén bạc, lập tức, người lãnh năm yến đi làm ăn và sinh lời được năm yến khác, người lãnh hai yến cũng đã sinh lời được hai yến khác. Cả hai người này đều được ông chủ tán thưởng: “Khá lắm! Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25, 21. 23). Những tháng ngày làm việc gian khổ, lao nhọc, những giọt mồ hôi và nước mắt cùng bao công khó của họ đã được bù lại bằng niềm hạnh phúc tuyệt vời. Có một người được lãnh một nén bạc, anh đã đi chôn giấu số bạc ấy với hy vọng nó sẽ không bị thất thoát. Điều gì làm cho anh lo sợ đến nỗi phải giấu số bạc ấy đi? Anh lo sợ thất bại hay vì quá biếng nhác. Anh thiếu tin tưởng vào chủ của mình, không yếu mến chủ. Với anh, ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi (x. Mt 25, 24). Anh đã trả lại cho ông chủ những gì anh nhận được. Hành động của anh chẳng hề đẹp lòng ông chủ. Anh bị quở trách là người tồi tệ và biếng nhác. Thật đáng buồn thay!
Thiên Chúa đã ban cho ta những nén bạc nào? Những gì ta đang có: khả năng yêu thương của trái tim, trí tuệ, sức khỏe, thời gian,… đều là những nén bạc Chúa trao. Mỗi lần ta yêu thương ai, ta muốn trao cho người đó rất nhiều thứ. Ta có thể trao hiến cả bản thân ta nữa. Thiên Chúa yêu thương ta, Ngài đã trao cho ta những hồng ân tuyệt vời. Ngài đã trao ban cho ta những khả năng để ta có thể dùng tất cả những khả năng ấy để đem lại hạnh phúc cho mình và người khác. Hạnh phúc của ta không phải chỉ mình ta tận hưởng nhưng ta chỉ thật sự hạnh phúc khi được cùng người ta yêu chia sẻ những niềm vui nỗi buồn và cả những thành công hay thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã cùng ta chia sẻ kiếp người, Ngài đã tặng ban chính mình Ngài cho ta. Nếu ta chưa mở tâm hồn để đón Ngài ngự đến trong ta, Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi, Ngài gõ của lòng ta luôn luôn. Ta có nghe thấy lời Ngài thúc giục trong nội tâm mình không? Đừng lo lắng hay sợ hãi! Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, “Chúa là Đấng chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (x. Tv 102, 9-10). Thế nhưng, có những khi ta tận hưởng tất cả những gì Chúa trao như thể ta đã chẳng hề nhận lãnh của ai cái gì, cứ như thể, tất cả đều do công sức mình bỏ ra. Yêu Chúa, ta hãy sống theo lời Chúa dạy. Ta có nhận ra, chính lúc ta yêu thương anh chị em mình, phục vụ anh chị em bằng tài năng và tất cả tình yêu trong ta, với một tình yêu vô vị lợi thì ta sẽ thu được một khoản lời tuyệt vời không? Chính lúc ta yêu thương như Chúa dạy, ta đã chẳng yêu thương bằng trái tim của riêng mình mà chính Chúa Giêsu đang hành động trong ta. Hãy tin tưởng rằng: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể chịu được hết” (Pl 4, 13).
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã sửa dạy con. Con xin lỗi Chúa, vì từ bấy lâu nay con đã chỉ chạy theo ý riêng con mà lơ là với thánh ý Chúa. Cái tôi “vĩ đại” của con luôn làm cho con lạc xa Chúa. Con xin Chúa hãy kéo con về bên lòng Chúa, cho con nhận ra lỗi lầm của con, để con không sợ hãi mà chôn giấu những nén bạc Chúa trao nhưng gắng sức làm việc, cộng tác với ơn Chúa. Xin cho con luôn biết “lấy tình yêu để đền đáp Tình Yêu” theo gương mẫu của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Con tạ ơn Chúa! Amen.
Khi kinh doanh hay buôn bán một sản phẩm gì, chúng ta luôn tính đến tiền lời. Tiền lời của mỗi TN 33-A80
Khi kinh doanh hay buôn bán một sản phẩm gì, chúng ta luôn tính đến tiền lời. Tiền lời của mỗi sản phẩm có thể lên gấp hai, gấp năm nhưng cũng có lúc thua lỗ. Điều ấy tùy vào khả năng của mỗi người. Vậy khả năng đó từ đâu mà có?
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nén bạc mà kể cho các môn đệ rằng: “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ” (Mt 25,14-18). Như vậy, khả năng mỗi người đang dùng là một ơn Chúa ban. Chúa ban cho người này năm khả năng, người kia hai khả năng và người nọ một khả năng. Những khả năng đó có thể là khả năng âm nhạc, khả năng ngoại ngữ, khả năng kinh doanh hay các khả năng khác. Chúng ta được tự do sử dụng những khả năng đó. Có không ít người đã thành công trong cuộc sống từ những khả năng đó, nhưng họ đã thất bại trong các mối tương quan. Bởi, họ dùng những khả năng đó để vun vén, quy hướng về mình. Cũng có những người biết dùng những khả năng mình có để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Nhiều khi, họ cảm thấy mệt và chẳng ai biết đến, nhưng họ vẫn có được niềm vui và bình an trong tâm hồn. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu đang chờ đợi khi giao những khả năng cho chúng ta. Ngài lấy làm vui khi mọi người biết tận dụng và phát huy khả năng của mình để sinh ích cho anh em mình. Ngài sẽ ban thưởng và cho họ vui hưởng niềm vui chung với Ngài trên Nước Trời (x. Mt 25, 21-23). Trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ đã viết: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác” (1Pr 4,10). Như vậy, ơn riêng Thiên Chúa ban được sinh ích thật sự khi chúng ta biết dùng mà phục vụ người khác.
Nhìn lại chính mình, tôi đang được Chúa ban cho những khả năng, ơn riêng nào? Chúa đang chờ đợi tôi điều gì? Tôi đã và đang thực hiện khả năng Chúa ban ra sao? Những khả năng ấy đem lại cho tôi điều gì?
Lạy Chúa, Chúa là Đấng Thiện Hảo. Ngài có quyền trao ban khả năng cho chúng con. Xin cho chúng con biết sử dụng các khả năng Chúa ban để mưu ích cho anh em mình. Như thế, những khả năng Chúa ban mới thật sự sinh lời và đem lại hạnh phúc cho chúng con. Amen.
Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành. Muôn loài muôn vật đều do bởi Ngài mà ra. Ngài tiếp tục cho TN 33-A81
Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành. Muôn loài muôn vật đều do bởi Ngài mà ra. Ngài tiếp tục cho chúng ta là những thụ tạo được cộng tác vào công trình sáng tạo khi cho chúng ta có cơ hội được lao động. Qua dụ ngôn “Những yến bạc”, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy dùng số bạc Chúa trao để sinh lời tùy theo khả năng riêng của mỗi người.
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Ngài yêu thương khi dựng nên ta và cứu chuộc ta cách lạ lùng qua giá máu của Con Yêu Dấu. Ngài yêu thương, cứu độ ta không theo cách chung chung nhưng rất cá vị. Tình yêu ấy được diễn tả cách cụ thể khi Ngài tin tưởng trao ban cho chúng ta những nén bạc để từ số vốn đó, chúng ta sinh lời thêm tùy khả năng riêng. Khi trao ban nén bạc cho chúng ta, Thiên Chúa có vẻ không công bằng. Ngài trao cho người này năm nén, người kia hai nén, người nọ một nén (x.Mt 25,15). Rõ ràng là mỗi người được trao số bạc khác nhau. Nhưng nếu nhìn như vậy để nói Thiên Chúa không công bằng thì không phải. Thiên Chúa yêu ta cách rất riêng. Vì rất riêng nên Ngài biết rõ chúng ta có cá tính như thế nào, khả năng gì đề từ đó giao số vốn cho từng người. Số vốn của mỗi người tuy khác nhau nhưng tất cả đều được mời gọi làm sao cho số vốn sinh lời tùy theo khả năng riêng. Chúng ta biết rằng, một ly nước có thể tích một lít thì nó chỉ có thể chứa được một lít nước, còn ly kia có thể tích năm lít thì sức chứa của nó sẽ là năm lít. Cả hai đều nhận nước nước đầy tràn theo sức chứa của mình. Chúa trao nén bạc cho mỗi người chúng ta cũng theo cách hiểu đó. Điều quan trọng là khám phá ra nén bạc Chúa trao để nỗ lực sinh lời.
Nén bạc Chúa trao Chúa trao tuy khác nhau về số lượng nhưng tất cả đều được lấy ra từ số vốn của Ngài. Bổn phận của chúng ta là tra tay làm việc ngay. Thái độ vui vẻ tra tay làm việc của người vợ trong sách Châm ngôn (31,13) rất đáng cho ta học hỏi. Với số vốn được trao, chúng ta cũng hãy vui vẻ làm việc hầu có thể sinh thêm lời. Đó là cách thức chúng ta có thể làm vui lòng Ngài. Mỗi người hãy cứ luôn tin tưởng và nỗ lực hết mình, phần còn lại đã có Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mình không thể làm gì có ích. Không ai là người vô dụng, chỉ có những người lười biếng mà thôi. Chúng ta cũng đừng bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa để rồi sợ hãi đem chôn số bạc ấy xuống đất. Nếu hiểu sai về Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm sai ý Ngài. Một khi đã trao cho ta những nén bạc thì Thiên Chúa đã rất thương và tin tưởng ta, Ngài biết ta làm được. Mỗi ngày sống mở ra là những nén bạc Thiên Chúa trao vào tay ta để ta cộng tác, để ta sinh lời. Nén bạc đó có thể là thời gian, sức khỏe, khả năng, gia đình, bạn bè, công việc ta đảm nhận… Từ bây giờ, mỗi người hãy biết quý trọng tất cả những gì Thiên Chúa ban để làm cho cuộc sống thêm tươi đẹp, thêm tình yêu thương và đầy ắp sự hiện diện của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa chúng con thờ! Chúng con xin chân thành cảm tạ Chúa vì đã luôn tin tưởng, yêu thương, quan tâm đến chúng con. Xin cho chúng con biết vui vẻ làm việc vì đó là cơ hội để chúng con cộng tác vào công trình sáng tạo của Chúa, đó cũng là cách chúng con làm cho nén bạc Chúa trao được sinh thêm nhiều lợi nhuận. Nhờ đó, chúng con được hưởng “niềm vui của Chủ mình” trong ngày sau hết. Amen.
Thiên Chúa nhân lành, công bằng và không thiên tư. Ngài tạo dựng chúng ta thì Ngài dành phần TN 33-A82
Thiên Chúa nhân lành, công bằng và không thiên tư. Ngài tạo dựng chúng ta thì Ngài dành phần riêng cho mỗi người, không phải người được nhiều, kẻ được ít, mà Ngài biết rõ ai có thể làm gì thì Ngài ban cho đủ “vốn” để làm, nhưng là để sinh lợi cho người khác chứ không phải bo bo giữ lấy. Đừng ghen ăn tức ở như nhóm Pharisêu, Sađốc, kinh sư, luật sĩ,…
Bất cứ ai cũng được Thiên Chúa cấp vốn, nghĩa là ai cũng có tài này hay tài nọ, không ai hơn hoặc kém, nhưng cần cộng tác và cố gắng hết mình. Albert Einstein phân biệt: “Sự khác biệt giữa kẻ ngu xuẩn và thiên tài là thiên tài biết giới hạn của mình. Kẻ ngu xuẩn nào cũng có thể khiến mọi thứ trở nên to hơn, phức tạp hơn và bạo lực hơn. Cần có thiên tài – và nhiều dũng khí – để biến chuyển ngược lại. Người trí thức giải quyết rắc rối, bậc thiên tài ngăn chặn rắc rối.” Còn Thomas Edison xác định: “Thiên tài là một phần trăm cảm hứng và chín mươi chín phần trăm mồ hôi.”
Tất cả là do ơn Chúa, kể cả thời gian, chúng ta chỉ quản lý – vừa là quyền vừa là trách nhiệm. Kinh Thánh nói: “Bản thân chúng ta, cùng với ngôn từ, với toàn bộ trí tuệ và tài năng, tất cả đều nằm trong tay Thiên Chúa.” (Kn 7:16) Người tài năng thường được tỏa sáng trong im lặng, còn kẻ kém cỏi thường tự lan tỏa bằng âm thanh.
Cuộc sống có những chữ T gây ra nhiều phiền toái – Tình, Tiền, Tội, Tù, vì 4 T đó mà có thể Tử. Phần riêng có tốt và có xấu: “Chúa đổ mưa tai họa xuống đầu ác nhân; lửa đỏ, diêm sinh và gió nóng là phần riêng của chúng trên đời.” (Tv 11:6) Đó là phần riêng cho ác nhân, theo luật công bằng chứ Thiên Chúa chẳng ghét bỏ ai. Ở hiền thì gặp lành, nhưng đôi khi người hiền lành lại hay vướng “cái eo” đau khổ, phần riêng đó chỉ để bụng mà thôi: “Nỗi đắng cay chỉ riêng lòng mình biết, niềm hân hoan đâu chia sẻ được với người ngoài.” (Cn 14:10)
Chúa Giêsu dạy từ bỏ mình, quên mình chứ không quên người khác, hy sinh tư lợi vì lợi ích chung – công ích. Thánh Phaolô cho biết: “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người.” (2 Cr 9:10-13) Thực hiện công ích là thực thi Đức Ái, sống vì người khác là thể hiện lòng thương xót.
Trong Giáo huấn Xã hội Công giáo, công ích là một trong bốn nguyên tắc chính: [1] Nhân phẩm, [2] Công ích, [3] Bổ trợ, [4] Liên đới. Nói về công ích, có thể chúng ta cảm thấy xa lạ, nhưng thật ra rất gần gũi, vì công ích được phát xuất từ gia đình, mà gia đình lại chính là nền tảng của xã hội. Thật vậy, Kinh Thánh nói: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai họa cho chồng. Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc.” (Cn 31:10-13) Tiền tuyến luôn cần hậu phương. Người vợ âm thầm làm việc, với đủ thứ việc “không tên,” các việc lặt vặt mà không nhỏ, rất cần thiết để tạo nên Tổ Ấm, duy trì hạnh phúc thực sự trong gia đình.
Phụ nữ được Thiên Chúa ban cho tính cách độc đáo lắm: “Nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.” (Cn 31:19-20) Cái tính nết đã đặc biệt rồi, mà cái tâm cũng khác lạ. Thật tốt lành. Nàng dịu hiền vì nàng là phụ nữ. Quả thật, nét dịu dàng rất cần ở phụ nữ, ca dao đã đặt vấn đề: “Có ai bán cái dịu dàng, tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên.” Lời này như nhắc nhở chị em nào chưa dịu dàng đủ mức thì cố gắng thêm.
Phái nào cũng cần nét duyên dáng, đặc biệt rất cần đối với nữ giới, nhưng không nên yểu điệu quá hóa kiểu cách, phản tác dụng, vì Kinh Thánh nói: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng. Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm.” (Cn 31:30-31) Nét duyên dáng tâm linh mới thực sự cần thiết, nhưng giáo dân hoặc tu sĩ đều có dạng “chảnh” đặc trưng.
Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền là “tam giác sống” ai cũng có. Ngày nay, cả đời và đạo không còn nhìn phụ nữ như thời quân chủ, mà có tầm nhìn sâu rộng hơn về vị trí nhất định của nữ giới. Kinh Thánh nói: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái, và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.” (Tv 128:1-3) Hình ảnh gia đình hạnh phúc được mô tả rõ nét. Thánh Vịnh này rất quen thuộc vì thường được dùng làm đáp ca trong các lễ cưới, đặc biệt là lễ Thánh Gia – gương mẫu cho các gia đình.
Đó cũng là hình ảnh Giáo Hội luôn đầy tràn hồng ân Thiên Chúa. Thánh Vịnh ca ngợi: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:4-6) Đó là hạnh phúc thực sự đáng mơ ước, vì hạnh phúc đó chính là Ơn Thánh do Thiên Chúa trao ban.
Trong cuộc sống đời thường, người ta nhắc nhở: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng!” Nhắc nhở mà là cảnh báo, rất cần thiết, bởi vì con người dễ ảo tưởng mà tự mãn. Ma quỷ rất mưu mô xảo quyệt luôn tìm mọi thủ đoạn để giành lấy linh hồn chúng ta, nó gài bẫy chúng ta bằng sự ảo tưởng để tạo thói kiêu ngạo. Được người ta khen khi chúng ta làm được điều gì đó “có vẻ hay” một chút, chúng ta rất dễ “lên mặt,” cứ tưởng mình là “cái rốn” của vũ trụ, cứ tưởng mình có đầy bụng chữ, rồi coi thường người khác. Xã hội Việt Nam ngày nay có nhiều “giáo sư, tiến sĩ” hợm mình kiểu như vậy. Thảo nào cụ thi hào Nguyễn Du đã khuyến cáo: “Có tài mà cậy chi tài, chữ TÀI liền với chữ TAI một vần.” (Truyện Kiều, câu 3247-3248) Và cụ xác định: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.” (Truyện Kiều, câu 3252) Chữ Tài thiếu dấu huyền hóa chữ Tai, nghĩa là có TÀI chưa đủ mức thì hóa TAI. Việt ngữ vô cùng độc đáo!
Chuyện xa lân la chuyện gần, chuyện gần phân vân chuyện xa. Về ngoại hình, đối với cả nữ và nam, khi tự thấy mình có ngoại hình “coi được” một chút là đã “chảnh” lắm rồi, cộng thêm “giỏi” một chút nào đó nữa thì mức độ càng tăng thêm. Thậm chí ngay cả khi làm công việc đạo đức, từ thiện, công ích,… người ta cũng “dám” lấy ngoại hình của mình mà “lấn át” người khác. Chính mình “chảnh” mà lại không nghĩ vậy, quên rằng “sắc đẹp là những cánh hoa hồng sẽ bị thời gian tỉa dần.” Ý tưởng nông cạn như thế thì nguy hiểm vô cùng! Hãy học thuộc lòng câu Kinh Thánh này: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.” (Cn 31:30) Cố gắng đè bẹp “cái tôi” xuống.
Mọi thứ có liên quan lẫn nhau – từ cái nhỏ tới cái lớn, từ điều đơn giản tới điều phức tạp, từ chỗ xa tới chỗ gần, phong cách tiệm tiến và lung khởi. Thánh Phaolô căn dặn: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’ thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.” (1 Tx 5:1-3) Ý tưởng tỉnh thức này luôn xuất hiện trong Công giáo, bất kỳ thời điểm nào, đặc biệt là mùa Chay, mùa Vọng, mùa Cầu Hồn và cuối năm.
Cố gắng tỉnh thức là sống khôn ngoan, biết sống khôn ngoan là biết sống trong đức ái – một trong ba nhân đức đối thần quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Thánh Phaolô giải thích: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.” (1 Tx 5:4-6) Có cái này thì có cái kia, không có cái kia thì chẳng có cái nọ. Tính liên đới lạ lùng lắm.
Chúa Giêsu đã từng so sánh và xác định: “Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng.” (Lc 16:8) Cái “khôn ngoan” ở đây không phải là một lời khen, mà là lời cảnh báo và chê trách. Khôn ngoan ở đây là khôn lỏi, khôn ranh, ma mãnh, mưu mô, xảo quyệt,… Ngày nay gọi là “đểu,” không là “đểu giả” mà “đểu thật,” đểu chính hiệu.
Trình thuật Mt 25:14-30 (≈ Lc 19:12-27) đề cập dụ ngôn “những yến bạc.” Khi sắp đi xa, ông chủ gọi đầy tớ đến để giao phó của cải. Người này được ông trao cho năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Sau đó, người lãnh năm yến đi làm ăn buôn bán, sinh lời được năm yến khác, và người lãnh hai yến sinh lời được hai yến khác, còn người lãnh một yến đi đào lỗ để chôn giấu. Một thời gian sau, ông chủ về tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.
Mọi người lần lượt tính sổ. Người lãnh năm yến tiến lại và đưa năm yến khác, người lãnh hai yến cũng tiến lại và đưa hai yến khác. Ông chủ khen hai người này: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Hạnh phúc nhãn tiền, sự công bằng chính đáng.
Rồi người lãnh một yến cũng tiến lại và phân bua: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Ông chủ thẳng thắn và nghiêm nghị nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Nơi tối tăm đó chẳng phải là nơi hang động âm u hoang vắng, thiếu ánh sáng, cũng chẳng phải là chốn Luyện Hình, mà chính là Hỏa Ngục. Đúng là dốt mà chảnh, ngu mà kiêu. Đã kém cỏi mà không dám nhận, còn đổ lỗi cho người khác. Loại người này cũng thấy xuất hiện thường xuyên trong xã hội Việt Nam ngày nay. Theo báo Thanh Niên, mỗi năm Việt Nam mất 2.500 ha rừng, thế nên lũ lụt xảy ra dữ dội hơn, nhưng giới hữu trách lại biện hộ với các lý do rất ngớ ngẩn, thậm chí là ngu xuẩn.
Phàm nhân chúng ta chỉ là thụ tạo, là đầy tớ của Chủ Nhân Thiên Chúa. Mỗi chúng ta đều được Ngài trao cho đồng đều: Nhân vị, nhân phẩm, nhân quyền, và sự tự do. Ngài trao cho mỗi người khác nhau về số nén, loại nén, và kiểu nén. Nhưng vấn đề quan trọng là chúng ta có sinh lời hay không, tức là làm lợi cho chính mình và tha nhân. Nếu chỉ làm lợi cho mình thì là ích kỷ, muốn lên Thiên Đàng một mình cũng là ích kỷ. Chúng ta như bức tượng được nhà điêu khắc tạo ra, không có quyền than phiền bất cứ điều gì đối với nhà điêu khắc.
Chắc chắn không ai là kẻ bất tài hoặc vô dụng, người có tài này, kẻ có tài kia; người giỏi trong lĩnh vực này, kẻ giỏi trong lĩnh vực khác. Có tài để cộng tác với Thiên Chúa chứ không phải là để vinh danh mình. Hơn người khác về lĩnh vực nào đó thì đừng vội ảo tưởng được Thiên Chúa “ưu tiên” hoặc “cưng” hơn. Vĩ nhân Pythagore (570-495 trước công nguyên) nhận định: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại.” Ông là một thiên tài vĩ đại (triết gia, nhạc sĩ, chính trị gia, nhà đạo đức học, nhà toán học, nhà siêu hình học,…), nhưng ông rất sợ thói kiêu ngạo. Thế thì chúng ta là gì mà dám vênh váo tự đắc chứ? Vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn.
Thật chí lý khi biết nhận diện chính mình và khiêm nhường, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thật vậy, những gì chúng ta lãnh nhận không phải để sở hữu riêng mà phải làm vì lợi ích chung. Chúa Giêsu khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Quả thật, bài học khiêm nhường chỉ có thể học được ở Trường Siêu Đẳng của Thầy Giêsu mà thôi.
Lạy Thiên Chúa chí thánh, xin tạ ơn Ngài ban phần riêng cho chúng con, mỗi người mỗi khác, để chúng con cộng tác và bổ túc lẫn nhau. Xin ban ơn khôn ngoan để chúng con sinh lời theo đúng ý Ngài, và xin giúp chúng con nhận biết mình bé nhỏ và kém cỏi, bất túc và bất trác. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
[*] Giáo huấn Xã hội Công giáo cho biết: “Công ích được hiểu như là những điều kiện xã hội cho phép mọi người đạt đến trọn vẹn tiềm năng con người và nhận ra nhân phẩm của mình.” Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nguyên tắc công ích cho thấy nhu cầu về các cơ cấu quốc tế để có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân và gia đình vượt ra khỏi ranh giới quốc gia và khu vực. Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn về sự xuống cấp của xã hội. Cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến các dạng suy thoái về công ích, từ đó có thể dẫn tới các hệ lụy khác gây ảnh hưởng xấu.
Dụ ngôn quà tặng, hay tài năng xác định tất cả những gì tốt lành con người có đều là của Chúa TN 33-A83
Dụ ngôn quà tặng, hay tài năng xác định tất cả những gì tốt lành con người có đều là của Chúa ban. Đó có thể là khôn ngoan, trí thông minh, nghệ thuật ca múa, kịch nghệ, sức khoẻ và ngay cả đời sống. Tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Ngài mong đợi con người phát triển những tài năng đó, trước hết để nuôi thân và quan trọng hơn hết làm sáng Danh Chúa qua phục vụ đồng loại là Dân Chúa. Thiên Chúa không mong đợi con người lập những kì công vĩ đại, nhưng qua việc bác ái đơn giản, Thiên Chúa biến những việc đơn giản, nhẹ nhàng đó thành kì công, vĩ đại, mang lại ích lợi cho dân Ngài. Mọi tham vọng mong đạt được thành quả ngoài giới hạn khả năng con người đều là những việc làm vô bổ. Tham vọng đó không đến từ Thiên Chúa mà do khao khát riêng của con người. Cố gắng chứng minh Thiên Chúa không hiện hữu là một tham vọng hoài công, ngoài khả năng con người. Bởi nếu không có Ngài, sẽ chẳng có ta và khả năng hạn hẹp của ta không thể nào hiểu được tình yêu của Ngài.
Chân thành, thành tín dẫn ta đến gặp Chúa. Ẩn nấp sau bất trung và gian dối là đường dẫn đến diệt vong. Chân thành, thành tín là đường ngay thẳng, tốt lành. Chúng là ánh sáng soi sáng tâm trí ta, là đường lành hướng dẫn ta hành động công chính và là đường lối của Thiên Chúa. Kêu gọi dân chúng tiết kiệm khi về hưu dưỡng, người ta nói ‘Thành công vĩ đại có nguồn gốc từ thành công nhỏ’. Chân thành, thành tín trong việc nhỏ tiếp sức niềm tin lớn là tinh thần bài đọc hôm nay.
Dụ ngôn kể vị chủ kia trước khi đi xa gọi gia nhân đến trao của cải của ông cho họ coi sóc. Mỗi gia nhân nhận được tuỳ theo khả năng cuả họ. Thời gian chủ trở về không xác định, nhưng việc chủ trở về là chắc chắn. Hai gia nhân đầu yêu mến chủ và sẵn sàng phục vụ hết khả năng mình. Họ thành công trong việc làm lợi cho chủ. Điều này cho biết chủ đánh giá xác thực tài năng của hai gia nhân. Chủ rất vui và trao cho họ thêm nhiều hơn nữa để họ tiếp tục làm lợi cho chủ. Người gia nhân còn lại tin vào phán đoán của nguời khác cho chủ là ‘Người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tôi sợ, chôn giấu yến bạc của ông. Của ông, xin trả lại ông’. c.25. Người gia nhân này đâu biết khi anh ta phê phán chủ anh cách hà khắc lại là phê phán chính bản thân anh. Lời phê phán vay mượn này không phải do anh biết về chủ mà nghe người ta nói về chủ và anh tin vào điều đó. Bởi đặt niềm tin sai chỗ nên anh hành động sai. Sợ hãi về chủ làm tê liệt chí khí anh. Chính sợ hãi làm cho con người anh ra hèn nhát, yếu đuối, sợ không dám mạo hiểm. Hy sinh, mạo hiểm là thực tế trong cuộc sống. Không thật sự hy sinh, sao có tình yêu thật. Không dám mạo hiểm, không việc gì được thực hiện. Ông chủ muốn gia nhân học mạo hiểm từ ông bởi khi giao tài sản cho gia nhân là một mạo hiểm lớn. Ông chủ đã đi con đường mạo hiểm đó tiến đến thành công.
Gia nhân thành tính luôn làm việc hết khả năng, dù chủ ở gần hay khi khuất mặt, họ vẫn chăm chỉ làm việc vì họ không coi mình là người làm thuê mà làm việc của chủ như việc của chính họ, bởi hành động của họ được hướng dẫn bởi con tim chân thành. Gia nhân bất trung ghét công việc nhưng lại thích quyền hành. Đối xử với người khác bằng quyền lực là dấu chỉ của yếu kém, bất tài nên dùng quyền lấn át người khác. Dùng quyền xử tệ với nhau làm cho gánh nặng cuộc đời trở nên nặng nề. Chủ thưởng cho gia nhân thành tín và phạt nặng gia nhân bất trung. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết dùng tài năng Chúa ban để làm sáng Danh Chúa qua phục vụ tha nhân.
Theo thông lệ được sử sách ghi lại ở những nước miền Cận Ðông như Ai Cập, Át-sua và Pa-lét-tin TN 33-A84
Theo thông lệ được sử sách ghi lại ở những nước miền Cận Ðông như Ai Cập, Át-sua và Pa-lét-tin, thì khi một người giàu có trẩy đi xa nhà và dài hạn, họ thường giao tài sản cho những đầy tớ tín cẩn, ít hay nhiều, tuỳ theo khả năng của mỗi người (1). Dụ ngôn trong Phúc âm hôm nay kể lại người đầy tớ nhận được năm yến bạc biết ông chủ mong mình đầu tư để kiếm lời và anh ta đã làm lời được năm yến nữa. Người nhận được hai yến, mặc dù ít hơn, cũng đầu tư để sinh lời. Theo tỉ lệ phần trăm, thì người đầy tớ làm lời thêm hai nén, cũng thành công như người đầy tớ sinh lời thêm năm yến. Cả hai người cùng cố gắng đầu tư để sinh lời cho những nén bạc của chủ, và do đó được ơn nghĩa với chủ. Tại sao hai người đầy tớ đầu tư đều được lời gấp đôi như vậy? Thưa là thế này. Vào thời đó mà người ta cho vay tiền trong thời gian dài hạn, thì được lãi xuất rất cao (2) .
Còn người đầy tớ chôn vùi một yến bạc của chủ có đủ khả năng để làm việc nhỏ được trao phó. Tuy nhiên, khi nhận được yến bạc, anh ta đã đem chôn cất đi. Anh ta chỉ nói lí do là sợ hãi vì ông chủ hà khắc và còn là người keo kiệt nên mới đem chôn yến bạc của chủ để có thể trả lại tiền vốn nguyên vẹn cho chủ, không lời cũng không lỗ. Vì lười biếng và thiếu tinh thần trách nhiệm, anh ta đã bị ông chủ sa thải và trách phạt. Những lí do khác nữa mà anh ta không nói ra có thể là bất mãn với chủ vì chủ chỉ trao có một yến bạc, hoặc là anh ta ganh tị với các bạn đầy tớ vì họ nhận được nhiều hơn. Có những học giả thánh kinh coi người đầy tớ biếng nhác là tượng trưng cho nhóm người kinh sư và Pharisêu. Họ là những người thông luật, nhưng lại câu nệ vào việc giữ luật một cách hẹp hòi và đóng cửa lòng lại trước tiếng gọi của Chúa và coi thường tha nhân.
Cũng như người chủ mong người đầy tớ dùng những yến bạc đã được trao phó để làm lời, Thiên Chúa cũng muốn người ta dùng của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban để làm vinh danh Chúa. Chúa không đòi người ta phải trả nhiều hơn quá mức họ dã nhận được. Chúa chỉ đòi người ta trách nhiệm về của cải, tài năng và ân huệ đã được trao phó và sinh lợi theo tỉ lệ: nhận nhiều phải trả nhiều, nhận ít trả ít. Người được trao hai yến bạc sinh lời được hai yến nữa cũng được ông chủ khen thưởng là tài giỏi và trung thành (Mt 25:23) và còn được chủ hứa trao thêm và cho hưởng niềm vui của chủ như người nhận được năm yến mà làm lợi thêm năm yến nữa. Còn người không chịu dùng tài năng bé nhỏ mà chủ ban thì không có cơ hội phát triển cho nên tài năng bị cùn nhụt đi. Ðó chính là lời Chúa phán: Phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy đi (Mt 25:29).
Bài học mà Chúa muốn dạy ta trong dụ ngôn hôm nay là tầm quan trọng của việc đầu tư vào đời sống thể chất, tinh thần và thiêng liêng. Theo thánh Phaolô thì mỗi người nhận được những ân huệ thiêng liêng khác nhau của Chúa: Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được thần khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ; người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ (1Cr 12:8-10).
Mỗi người còn nhận được những của cải vật chất và tinh thần. Có người có đầu óc thông minh, sáng tạo. Có người có khiếu về thể thao, âm nhạc. Có người có tư cách cao đẹp về bản ngã, nhân vị. Người khác có đời sống thiêng liêng cao sâu, có thể gợi cảm thiêng liêng nơi người tiếp súc. Ðiều quan trọng là người ta cần khám phá ra những của cải, tài năng và ân huệ mình có và tìm cách phát triển để làm lợi cho nước Chúa ở trần gian. Việc tìm cách phát triển của cải, tài năng và ân huệ là để làm vinh danh Chúa và phục vụ nhân loại chứ không nhằm mục đích chỉ để khoe khoang. Có tài năng mà người ta có thể không biết vì họ không chịu xử dụng. Khi dùng những tài năng mà mình có, người khác mới biết để mà phê phán và đánh giá. Khi được người khác đánh giá tích cực về tài năng của mình thì mình lại càng có hứng đề tự đào luyện hầu có thể phát triển thêm về tài năng của mình. Thơ của Hàn Mặc Tử lúc đầu chưa đặc sắc lắm. Tuy nhiên khi gặp những nguồn thi hứng khác nhau, thơ của chàng thư sinh trở thành bay bướm và được độc giả tán thưởng và ngưỡng mộ. Rồi một biến cố đến cho bản thân làm đảo lộn cuộc đời của tác giả. Bệnh cùi khiến Hàn Mặc Tử phải điên loạn, làm thay đổi cái nhìn về cuộc sống. Cuối cùng tìm được nguồn an ủi thiêng liêng từ nơi Thiên Chúa và Ðức Nữ Maria, Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật với tâm tình tin yêu phó thác và dâng hiến cuộc đời trong việc phục vụ đồng loại bằng những vần thơ rung cảm do nguồn cảm hứng siêu nhiên.
Như vậy thì mỗi người đều có số vốn để đầu tư: vốn về vật chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Câu hỏi ta cần đề cập đến hôm nay là mỗi người đã dùng của cải, tài năng, ân huệ Chúa ban như thế nào? Mỗi người cần nhìn vào chính mình để tìm ra khoảng cách giữa tài năng mình có và công việc mình hoàn thành. Cũng như người chủ kì vọng vào các đầy tớ đầu tư vốn được trao phó để sinh lời cho ông, Thiên Chúa cũng muốn ta dùng của cải, tài năng và ân huệ Chúa trao ban để sinh lợi cho nước Chúa. Mỗi người tuỳ theo cơ hội, hoàn cảnh và điều kiện có thể, được gọi để dùng những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban một cách khôn ngoan và với tinh thần trách nhiệm hầu làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ đồng loại.
Lời nguyện xin cho biết đầu tư vào của Chúa ban:
Lạy Chúa, Chúa là nguồn mạch mọi tạo vật trên trời dưới đất. Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho mỗi người chúng con số vốn vật chất, tinh thần và thiêng liêng để đầu tư vào đời sống. Xin dạy con biết bằng lòng chấp nhận những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban. Xin đừng để con bao giờ phàn nàn kêu trách Chúa. Và xin dạy con biết trung thành đầu tư vào số vốn mà Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại. Amen.
LỜI CHÚA: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21). CÂU CHUYỆN: 1) HÃY LÀM MỌI VIỆC VỚI HẾT KHẢ NĂNG.
Sau khi đến thăm gia đình của một cô bạn cùng lớp vừa bị tai nạn xe cộ, cô bé Lin-đa trở về nhà. Cha cô đã nổi giận khi biết con gái vừa đến thăm tang gia của bạn. Ông trừng mắt nhìn Lin-đa và hỏi: “Tại sao con lại đến nhà người ta vào lúc này ?” Lin-đa trả lời: “Thưa ba, con đến là để giúp đỡ cho gia đình bạn ấy”. Ông bố lại hỏi: “Nhưng con thì làm được việc gì để giúp đỡ gia đình nhà họ ?” Lin-đa đáp: “Ba ơi, con chẳng giúp gì được cho gia đình bạn ấy cả. Con chỉ biết chạy đến ôm chầm lấy mẹ của bạn ấy mà khóc, và mẹ bạn ấy cũng ôm con vào lòng và cùng khóc với con”. Câu trả lời của Lin-đa đã làm cho cha cô hiểu ra rằng: Tuy Lin-đa không làm được gì nhiều cho tang gia, nhưng em đã làm tất cả những gì trong khả năng và tầm tay của mình để an ủi bà mẹ đang đau khổ vì vừa bị mất đứa con thân yêu.
2) LỜI TRĂN TRỐI CỦA MỘT NGƯỜI LÚC SẮP CHẾT:
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Một thời gian ngắn trước khi máy bay rơi xuống vách núi nổ tung thì hành khách đã được phi hành đoàn thông báo cho biết máy bay họ đang đi đã bị mất điện và sắp bị rơi. Hành khách có vài phút để viết mấy lời từ biệt người thân.
Khi các nhân viên cấp cứu đến nơi máy bay bị rớt thì họ đã tìm thấy một cuốn lịch bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong đó, người thương gia đã ghi lại mấy hàng chữ run rẩy như sau: “Máy bay sắp bị rơi rồi… tôi buồn quá!”. Trang tiếp viết cho con cái : “Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ cho mẹ các con”. Những hàng chữ run rẩy trong cuốn lich bỏ túi nói trên của một người biết mình sắp chết. Cái chết đã bất chợt đến mà không báo trước như tên trộm lúc đêm tối.
3) HÌNH ẢNH VỀ CUỘC PHÁN XÉT CHUNG:
Vào lễ Giáng sinh 1541, khi mở tấm màn che bức tranh khổng lồ của họa sĩ MICHEL-ANGELO về ngày phán xét chung, nhiều người chiêm ngưỡng đã phải rùng mình khiếp sợ, vì khuôn mặt của Chúa Giê-su không còn mang vẻ hiền lành của một Mục tử nhân lành, mà đã biến thành một vị Thẩm phán oai nghiêm công thẳng. Trong bức tranh, đã có hơn 300 hình ảnh nhỏ ghép lại: nào là hình các thánh Tông đồ, các thánh Tử đạo, các thánh Tiến sĩ, các Đức Giáo hoàng, những người giáo dân… Theo tiếng kèn thiên sứ, hết mọi người chết đều trỗi dậy và ra khỏi mồ để chịu phán xét chung. Có những hình ảnh về cha mẹ đang âu yếm khi gặp lại con cái; Hình bạn bè gặp nhau tay bắt mặt mừng… Thế nhưng, trong ánh mắt của mọi người đều biểu lộ một nỗi sợ hãi vì số phận đời đời của họ sắp được ấn định.
Đức Giê-su đã tiên báo về ngày cùng tận của thành Giê-ru-sa-lem ám chỉ về ngày tận thế. Vào năm 70 sau Công Nguyên, dân Do thái nổi loạn chống lại Đế quốc Rô-ma. Tướng Titus đã mang quân đến vây hãm thành nhiều ngày liền và họ triệt đường nước và lương thưc. Cuối cùng thì thành đã bị thất thủ và bị đốt cháy tàn phá “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”.
Cũng vậy, trong ngày tận thế khi Chúa Ki-tô tái lâm sẽ phán xét chung toàn nhân loại. Khi ấy mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của mỗi người đều bị phơi bày trước nhan Chúa.
Điều cần là mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức cầu nguyện và làm lợi các tài năng Chúa ban, để được Chúa khen ngợi ban thưởng Nước Trời đời đời như sau : “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
SUY NIỆM: 1) TỈNH THỨC BẰNG LỐI SỐNG ĐƠN SƠ NHỎ BÉ NHƯ THÁNH NỮ TÊ-RÊ-SA:
– Tuy không làm được những việc lớn lao, nhưng Tê-rê-sa đã sống tinh thần “con thơ phó thác”, yêu mến cậy trông vào Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Thế mà ngày nay chị đã được Hội Thánh tôn lên hàng đại thánh và được hằng triệu con tim ngưỡng mộ học tập.
– Tuy không đi giảng Tin Mừng và không rửa tội được cho ai, nhưng nhờ lời cầu nguyện kèm theo sự hy sinh hãm mình cho việc truyền giáo, mà chị thánh đã được đánh giá như một vị thánh đi truyền giáo hữu hiệu, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.
– Tuy không để lại những tác phẩm lớn lao uyên bác như thánh Tô-ma A-qui-nô, nhưng Tê-rê-sa vẫn được tôn lên hàng tiến sĩ, là thầy dạy của Hội Thánh về đức tin.
Như vậy, không nhất thiết phải giàu sang, có địa vị cao và tài năng vượt trội, chúng ta mới có thể làm được những việc lớn lao. Vì đối với Thiên Chúa, ai càng nhỏ bé khiêm hạ sẽ được Ngài tôn lên.
2) TỈNH THỨC BẰNG VIỆC QUÊN MÌNH PHỤNG SỰ CHÚA VÀ THA NHÂN:
– Trong cuộc sống, bạn có biết mỉm cười để cảm thông với tha nhân không ? bạn có sẵn sàng làm những việc trong tầm tay của mình như: dọn một tách cà phê vào buổi sáng cho bố, đi chợ nấu cơm dọn dẹp nhà cửa giúp cho mẹ, động viên các em học bài ở nhà, giúp bạn bè vượt khó với hết khả năng của mình… Mỗi buổi tối chúng ta hãy tự hỏi mình: “Trong ngày hôm nay tôi đã sử dụng nén bạc Chúa trao thế nào ?”
– Ngày nay có nhiều người cho rằng Thiên Chúa bất công khi để xảy ra tình trạng: người thì “bát ăn bát để”, đang khi nhiều kẻ khác lại phải bị “khố rách áo ôm”. Người thì cao sang quyền quý “lên xe xuống ngựa”, đang khi nhiều kẻ phải “làm thân trâu ngựa” cho người ta cưỡi. Có những cô gái vừa “đẹp người” lại vừa “đẹp nết” nên được nhiều kẻ đón người đưa, đang khi nhiều cô khác lại “sinh ra nhằm ngôi sao xấu” nên chẳng ai thèm đoái hoài… Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho vấn nạn trên qua dụ ngôn “những nén bạc” trong Tin Mừng hôm nay. Điều quan trọng là hãy bằng lòng với những gì mình đang có và biết dùng những tài năng đó để làm lợi cho Chúa.
– Trộm cướp giết người là trọng tội đáng bị trừng phạt đời sau, nhưng tội không sử dụng tài năng của cải Chúa ban để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi các linh hồn cũng là một trọng tội bị loại khỏi hạnh phúc Nước Trời.
– Hôm nay tôi sẽ sử dụng những của cải và tài năng Chúa ban thế nào để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân?
THẢO LUẬN: Một số khá đông tín hữu nghĩ rằng: “Tôi rất bận với công việc bổn phận lo kiếm tiền nuôi gia đình, nên không có giờ cầu nguyện, dự lễ hằng ngày hoặc làm các việc bác ái truyền giáo như các linh mục tu sĩ được”. Bạn có đồng ý với câu nói chữa mình nói trên không ? Tại sao ?
NGUYỆN CẦU: LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xưa khi Mẹ Ma-ri-a khi được khen là “có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói” (x Lc 1,45), thì Mẹ đã dâng lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Rồi từ đó, cuộc đời của Mẹ trở thành một bài ca “Xin vâng” thánh ý Thiên Chúa (x. Lc 1,38), và luôn “ngợi khen cảm tạ tình thương của Người”.(x Lc 1,46.49). Cuộc đời chúng con ở trần gian hôm nay vẫn còn nhiều gian truân đau khổ. Xin Chúa giúp chúng con cũng biết “xin vâng” ý Chúa như Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để “làm vinh danh cho Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Xin cho chúng con biết ra tay làm việc hơn là chỉ biết ngồi đó mà kêu trách số phận như người ta thường nói: “Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối !”.
Trong xã hội hôm nay, mọi sự đều có thể biến thành hàng hóa, mọi công việc đều mang tính thương TN 33-A86
Trong xã hội hôm nay, mọi sự đều có thể biến thành hàng hóa, mọi công việc đều mang tính thương mại, kể cả trong lãnh vực tâm linh. Con người ngày càng trở nên so đo tính toán thiệt hơn trong mối tương quan xã hội. Qua hình ảnh của một xã hội thương mại, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: hãy biết sinh lợi thiêng liêng để đem lại ích lợi lâu bền, tức là phần rỗi linh hồn. Tự bản tính, con người sống trên đời phải lo làm ăn kiếm sống. Có những người đôn đáo suốt đời mà vẫn tay trắng, vì thiếu cần cù, khôn ngoan hoặc thiếu đức độ. Tiền nhân dạy: “Có đức mặc sức mà ăn”. Điều này có nghĩa, trong công việc làm ăn, phải lấy đức làm đầu. Bởi lẽ “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Người tính không bằng trời tính. Con người mưu mô, tính toán theo những tham vọng của mình, nhưng Trời lại có cách tính khác. Vì vậy, những ai tưởng mình “lấy tay che được mặt trời” sẽ bị thất bại. Người phụ nữ được diễn tả trong sách Châm ngôn, là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng, đầy đủ mọi tiêu chuẩn: công, dung, ngôn, hạnh như truyền thống Việt Nam chúng ta. Còn hơn thế nữa, người phụ nữ nay chăm chỉ làm việc và kính sợ Chúa, đồng thời biết dùng của cải mình làm ra để giúp những kẻ khó nghèo. Đây là nét làm cho bà đáng kính trọng và đáng ca tụng, vì đức hạnh không hệ tại ở nhan sắc bề ngoài. Hình ảnh này không chỉ diễn tả những người phụ nữ nội trợ, mà là mẫu mực cho hết thảy chúng ta. Vì trong cuộc sống này, lao động thuộc bản tính của con người. Lao động lương thiện, với tâm tình mến Chúa và quảng đại chia sẻ cho người nghèo sẽ đem lại cho chúng ta muôn vàn phúc lộc. Đó cũng là một cách sinh lợi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta được phong phú. Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường phàn nàn về những điều chưa hài lòng trong cuộc sống. Ít khi chúng ta nghĩ đến những điều tốt đẹp Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cũng hay so sánh mình với những người khá giả hơn mình, mà ít khi dừng lại để thấy mình còn hơn rất nhiều người xung quanh. Người hạnh phúc là người cảm nhận những niềm vui nho nhỏ ngay giữa cuộc sống còn bộn bề những gian nan. Người bất hạnh chỉ nhìn thấy những điều tiêu cực hoặc chỉ chú trọng đến những điều không hài lòng. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhìn lại cuộc đời mình để thấy những điều tốt đẹp, đồng thời, xem lại cách sử dụng những vốn liếng Chúa ban như thế nào. Đức tin nói với chúng ta: vốn liếng Chúa ban cho chúng ta là sức khỏe, gia đình, của cải, con cái, công việc, bạn bè và môi trường sống. Chúng ta đã làm gì để cho số vốn ấy sinh lời? Nếu mỗi người sống trên trần gian đều được Chúa trao cho một phần tài sản nào đó để quản lý và sinh lợi, thì có lúc Ngài sẽ tính sổ với chúng ta về cách quản lý và sử dụng của cải đã được trao phó. Bài Tin Mừng Thánh Luca phần nào phác họa khung cảnh ngày tận thế, tức là lúc Chúa xét xử con người. Lưu ý đoạn Tin Mừng này được đặt trong ngữ cảnh những bài giảng của Chúa Giêsu nói về ngày cánh chung, tức là ngày phán xét. Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta, giống như người kinh doanh thanh toán sổ sách vào cuối năm xem việc làm ăn buôn bán lỗ lãi thế nào. Ngài dựa trên khả năng của mỗi người để trao vốn cho họ: người nhiều thì được trao năm nén bạc, người hai nén và người khác chỉ có một nén. Việc trao vốn này cho thấy không ai trong chúng ta dựa trên khả năng kém cỏi hay đời sống nghèo nàn của mình mà biện minh cho sự lười biếng. Chúa muốn chúng ta sinh lợi, tùy khả năng của mình. Ngài không đòi người đã được trao hai nén phải sinh lợi giống như người được trao năm nén. Đến thời điểm chung cục của cuộc đời, mỗi người đều phải thanh toán sổ sách với Chúa, bất luận nghèo hay giàu, văn minh hay lạc hậu, trí thức hay bình dân. Lý luận của người thứ ba cho thấy sự biếng nhác và thiếu thiện chí của anh: “Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ mà đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại cho ông”. Người này đã quên thân phận đầy tớ của mình. Anh ta vừa lười biếng, vừa vu khống chủ là “một người keo kiệt”. Anh bị ông chủ mắng là “xấu xa và biếng nhác”. Anh không thật tâm với ông chủ. Bằng chứng là mặc dù anh chịu ơn ông chủ, nhưng trong đầu óc của anh luôn nghĩ xấu về chủ mình. Tại sao lại nói ông chủ là người “gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” trong khi chính ông chủ đã trao cho anh ta một nén bạc để làm vốn? Hơn nữa, trong khi hai người đầy tớ trước rất tự tin nói với ông chủ: “Ông đã trao cho tôi năm (hai) nén, tôi đã gây lời được năm (hai) nén khác đây”, thì anh đầy tớ lười nhác này lại nói với ông chủ: “Của ông vẫn còn nguyên đây này!”. Anh đầy tớ xấu xa và lười nhác chưa bao giờ coi số vốn đó là như của mình, để rồi anh quan tâm làm cho sinh lợi. Một điều nhỏ nhất anh có thể làm được mà anh cũng bỏ không làm, đó là đem gửi số bạc đó vào ngân hàng để hưởng lợi. Anh đáng khiển trách không phải vì đã làm điều xấu, nhưng vì anh lười biếng không chịu làm gì. Hình phạt cho anh đã rõ ràng và thích đáng: anh bị tước mất một nén bạc được trao phó và bị tống ngục. Ngục giam ở đây được trình bày như một nơi tăm tối và khóc lóc, là nơi thiếu vắng tình yêu. Đó chính là cách diễn hỏa ngục theo niềm tin của Do Thái giáo. Không chỉ chờ đến ngày tận thế hay ngày lâm chung mới thanh toán sổ sách với Chúa, vì Chúa đến không biết vào ngày nào giờ nào. Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta như thế, đồng thời Ngài kêu gọi chúng ta hãy luôn sẵn sàng, đừng mê ngủ, kể cả khi mọi người xung quanh cho rằng yên ổn và an toàn. “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”. Đây là những lời ngọt ngào ông chủ nói với người đầy tớ đã biết khôn ngoan làm cho vốn được trao sinh lợi. Ước chi đây cũng là lời Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta kết thúc hành trình cuộc đời để về gặp gỡ Đấng là Cha và là Cội Nguồn của muôn vật muôn loài.
Trên con đường về với Chúa, những nén bạc Chúa trao là những khả năng để đáp lại tiếng Chúa TN 33-A87
Trên con đường về với Chúa, những nén bạc Chúa trao là những khả năng để đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Với một đòi hỏi: “Ai được giao nhiều sẽ bị đòi nhiều” (Lc 12, 47), để suy nghĩ về những nén bạc.
Đôi khi, giống như hai người lữ hành trên đường Emmau, đi bên cạnh Chúa, chỉ nghe như những câu chuyện dọc đường. Thấy ấm lòng, nhưng không mặn mà tha thiết. Như người có một nén chẳng đầu tư vào đâu được cả, giữ lấy bên mình. Hành trình có lẽ xa và mệt nhọc, dù chặng đường không xa. Giống như cuộc đời kéo dài lê thê trong đau khổ và buồn chán. Những chặng đường chiều vàng cuộc đời mà chưa tìm kiếm được gì, tay vẫn trống không, lòng vẫn trĩu nặng. Xin Chúa tỏ hiện mỗi khi lòng chúng con trĩu nặng vì buồn chán khi chưa tìm được chính Chúa!
Đôi khi hành trình cũng giống như người thất vọng khi thất bại sau những ngày đầu tư. Trở về với nghề đánh cá cũ khi khởi nghiệp thất bại. Vẫn không đánh bắt được gì sau những đêm miệt mài đánh lưới. Đói khổ, buồn nản, kiệt sức vì mòn mỏi, bao lần bỏ vốn, bao lần mất cả. Xin Chúa ban lại niềm tin đã bị xói mòn sau những lần ngã quỵ, thất vọng!
Đôi khi đồng bạc Chúa trao lại bị cướp mất. Kẻ cướp vẫn ngạo mạn xây những biệt phủ từ đồng tiền lấy được từ sức lao động người khác. Những con người làm ra được những nén bạc khác, không đủ sống và đối mặt nhiều thử thách bất công, bóc lột, sống tạm, ăn tạm những thực phẩm nhiễm độc… Nén bạc Chúa trao làm ra được đã khó, nhưng lại bị tước đoạt trước khi đem về trình diện. Những nén bạc đau thương! Xin Chúa là Đấng đã từng bị tước đoạt cho chúng con không bị tước đoạt mất Chúa.
Đôi khi những nén bạc lại như người con hoang đàng đem đi tiêu xài phung phí. Những nén bạc đánh đổi những niềm vui phù phiếm, giả tạo. Trắng tay rồi mới thấy tiếc nuối và bắt đầu lại từ chốn khốn cùng. Xin Chúa thứ tha những lầm lỗi để chúng con trở về với lòng Chúa xót thương!
Đôi khi không cần nén bạc nào vẫn tìm được những nén bạc khác. Như Giuđa bán Chúa lấy ba mươi đồng bạc. Có những đồng tiền kiếm được khi bán đứng người anh chị em, những đồng bạc kiếm được qua việc làm gian dối, chế biến thực phẩm bẩn, làm hàng giả… Xin cho chúng con biết làm những việc chân chính phuc vụ Chúa qua anh chị em!
Đôi khi những nén bạc được trao vào những người biết sinh lợi và giữ được nó trong sạch, không nhiễm bẩn. Những nén bạc quý giá đem về dâng Chúa thật quý giá. Những nén bặc mua được Nước Trời, mua được hạnh phúc đời này và đời sau. Làm sao tìm được những nén bạc đó? Cần có Chúa, cần có cố gắng sống với Chúa, bên Chúa và sống với anh chị em thân tình như Chúa yêu thương.
Xin dạy chúng con làm lợi được những nén bạc mà Chúa đã trao, một cách chân chính và ngay thẳng, xây dựng được tình người, làm cho xã hội công bằng hơn, xứng đáng đem về dâng Chúa.
Đứng trước một cơ hội, con người thường có hai cách chọn lựa: hoặc là mau mắn chớp lấy cơ TN 33-A88
Đứng trước một cơ hội, con người thường có hai cách chọn lựa: hoặc là mau mắn chớp lấy cơ hội, hoặc là lo sợ mình không thể nào hoàn thành được nên từ chối cơ hội. Hôm nay, Thầy Giêsu kể về dụ ngôn những yến bạc. Những ai cật lực làm việc, biết sinh lời những nén bạc Chúa ban sẽ được hưởng niềm vui, hạnh phúc; còn kẻ nào biếng nhác, lo sợ mà chôn dấu yến bạc sẽ phải trả lẽ.
Ta lững thững trên con đường quen thuộc mỗi ngày. Ta không được vui, thậm chí là thất vọng về chính mình khi đã thất bại. “Đổ gãy”, đó là tình trạng hiện tại của ta. Chiều buồn, tiếng chuông nhà thờ ngân vang hối thúc tâm hồn ta tìm lại niềm vui, sự an bình cho tâm hồn. Tiếng chuông hay tiếng Chúa gọi ta tìm về, để nhận ra chính mình và dám đứng lên, bắt đầu lại? Tiếng chuông đã dứt rồi nhưng trong tâm hồn ta vẫn vọng mãi một tiếng gọi mời tha thiết: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 28-29).
Vào gặp Chúa nơi ngôi nhà nguyện ấm cúng, ánh đèn chầu cho ta nhìn rõ hơn ngôi Nhà Tạm. Ta thủ thỉ cùng Chúa Giêsu Thánh Thể: “Xin ngự đến tâm hồn con! Lạy Chúa! Xin lấy tình yêu bao la của Chúa mà khỏa lấp lỗi lầm con đã phạm. Xin tăng thêm nghị lực cho tâm hồn con. Vâng, con đã thất bại.”
Lần mở trang Tin Mừng, Lời Chúa là dụ ngôn những yến bạc. Ta đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi lần lại đọc chậm rãi hơn. Có ba người đầy tớ được ông chủ giao cho những yến bạc, tùy vào khả năng riêng của mỗi người. Họ đã có cách hành xử khác nhau khi sử dụng những yến bạc chủ trao. Người đã lãnh năm yến và người lãnh hai yến đều mau mắn đem số bạc đi làm ăn buôn bán và đã gây lời được một số tiền khác; còn người lãnh một yến suy trước tính sau rồi lo sợ nên chôn dấu số bạc ấy đi. Ta là ai trong hai hạng người ấy? Vì sao ta thất bại để rồi thấy mình như đã bị “đổ gãy”? Người đầy tớ dại khờ trong dụ ngôn không còn cơ hội để làm lại từ đầu. Còn ta thì sao? Chúa vẫn ban cho ta có cơ hội đứng lên để bắt đầu lại. Người mời ta hãy nhận ra những ân huệ ta được nhận lãnh nhưng không. Đó là thời gian, sức khỏe, tri thức, nhận thức,…và còn nhiều ân huệ khác nữa mà ta phải khám phá để gắng sức sinh lời.
Chúa vẫn yêu ta nhiều lắm nhưng tại sao ta vẫn còn phạm tội? Suốt một thời gian dài như thế, ta thấy thất vọng về chính mình. Ta đã chẳng xứng đáng với tình yêu Chúa ban. Nghĩ thế rồi, ta cứ mãi lo sợ về những tội đã phạm và vì nghĩ mình không có khả năng khắc phục, ta từ chối tình thương của Chúa. Chẳng phải là trong chính lúc ấy, ta đem số bạc Chúa ban mà chôn xuống đất đi đó sao. Ta không xứng đáng với tình yêu Chúa ban, điều đó quả là một sự thật hiển nhiên. Chúa thì yêu thương vô cùng, cao cả vô cùng, còn ta chỉ là một tội nhân. Nhưng lạ lắm, có một cô gái điếm kia đã cúi mình dưới chân Chúa mà khóc. Chị ấy chẳng có gì khác ngoài tình yêu để dâng Chúa. Người ta khinh thường chị, hắt hủi chị và loại trừ chị nhưng Thầy Giêsu không làm thế. Thầy biết rõ tình trạng của chị và Thầy đã tha thứ cho chị vì chị đã yêu mến nhiều. Chị yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. (x. Lc 7, 36-50).
Có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện. Người Pharisêu thì đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi (Lc 18, 11-13). Phải rồi, Thầy Giêsu vẫn dạy ta hãy học với Thầy sự hiền lành và khiêm nhường. Dù ta bất xứng nhưng Chúa yêu thương những ai biết quay trở về với tình thương xót của Chúa. Nhìn lên Chúa Giêsu Thánh Thể, ta thấy lòng mình được bình an hơn. Thầy Giêsu yêu thương những kẻ tội lỗi có lòng sám hối ăn ăn. Kiêu ngạo chỉ dẫn ta đi xa rời tình thương của Chúa.
Lạy Chúa! Những nén bạc Chúa đã trao vào tay con là hồng ân nhưng không. Xin Chúa cho con biết nhận ra những ân huệ Chúa ban cho con và giúp con gắng sức sinh lời. Xin Chúa vực con lên để con vươn mình đứng dậy, để con không quá thất vọng khi gặp thất bại, không kiêu căng tự mãn khi được thành công. Xin cho con hiểu rằng, chính những giới hạn nơi bản thân con cũng là một cơ hội để con biết cậy dựa vào tình thương Chúa nhiều hơn. Amen.
Những người nông dân nghèo, họ có được cơ hội vay tiền không lấy lãi để kinh doanh giúp gia TN 33-A89
Những người nông dân nghèo, họ có được cơ hội vay tiền không lấy lãi để kinh doanh giúp gia đình có đời sống ổn định hơn. Nhưng đến kỳ hạn, họ vẫn phải hoàn lại số tiền đã vay. Hôm nay, chúng ta được nghe dụ ngôn “nén bạc” như những gì diễn ra trong cuộc sống mỗi người. Chính những nén bạc này Thiên Chúa ban cho mỗi người tùy vào năng lực mà họ đã lãnh nhận.
Yến bạc được giao Ông chủ sắp đi xa. Ông gọi các đầy tớ đến giao của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tùy vào khả năng của đầy tớ. (Mt 25, 14-15). Ông là chủ, xung quanh là các đầy tớ. Theo thời gian năm tháng, ông quan tâm và yêu thương họ, nên ông biết rõ khả năng của từng người. Một ông chủ mà không quan tâm các đầy tớ thì sẽ không biết rõ tài năng của họ. Bởi thế, ông đã tin tưởng giao tài sản cho họ. Người khôn ngoan và nhanh nhẹn, ông giao năm yến. Người cẩn thận, ông giao hai yến và người nhỏ bé, ông giao một yến. Rồi ông an tâm ra đi trong niềm tin vào các đầy tớ. Một ông chủ không chỉ yêu, tin tưởng mà còn cho đầy tớ cơ hội phát huy năng lực của mình.
Yến bạc được sinh lời Khi ông chủ vừa đi, lập tức người lãnh năm yến và người hai yến liền ngồi xuống tính toán làm cách nào với số yến bạc ấy. Còn người một yến lại đi chôn xuống đất. (Mt 25, 16-18). Ba con người với hai hành động khác nhau. Người năm yến và người hai yến tuy sợ và lo lắng nhưng can đảm lao mình vào cuộc chơi, còn người một yến sợ quá nên tìm cách an toàn hơn là không làm gì. Qua đó, chúng ta thấy được có những con người chăm chỉ, biết vượt lên nỗi sợ, đối diện với tất cả để phát huy tài năng của mình. Mặt khác, họ là các đầy tớ biết ơn và thấy được tình yêu thương, sự tin tưởng của chủ mà cố gắng đền đáp công ơn ấy. Còn kẻ không biết sinh lời là kẻ chỉ biết nghĩ đến mình, sống cho mình, không quan tâm đến người khác. Nơi họ cũng không có ý chí, hy sinh vượt qua khó khăn. Qủa thực, những gì ta muốn có thì phải nỗ lực vượt qua sự yếu đuối và nỗi sợ hãi của bản thân.
Thừa hưởng yến bạc Không có gì là không thể. Qủa thực sau một thời gian, ông chủ về cũng là lúc họ phải thanh toán sổ sách. Người năm yến giao cho ông chủ năm yến khác và người hai yến cũng vậy, khiến ông chủ rất đỗi vui mừng mà cho hưởng niềm vui của ông chủ. Còn người một yến bị khinh chê và bị quăng ra chỗ tối tăm (Mt 25, 19-30). Điều tuyệt vời nơi ông chủ là ông chỉ lấy lại số yến bạc được giao ban đầu nơi các đầy tớ, phần còn lại ông cho họ hưởng trọn những yến bạc ấy. Vâng, ba người cùng trong một khoảng thời gian để sinh lời yến bạc nhưng chỉ có hai người thực hiện, người kia thì đã làm việc gì trong thời gian ấy. Có bài hát rằng: “Mẹ đi vắng, mẹ đi vắng, con sang chơi nhà bạn í a”. Lẽ nào, ông cũng đi làm những việc mà ông thích cho thỏa sức. Không ai biết rõ. Điều mà vui hơn cả là những người đẹp lòng ông chủ, bây giờ cùng hưởng niềm vui với ông chủ; cùng ngồi đồng bàn và vui cười thỏa thuê với ông chủ. Còn kẻ không vâng lời ông chủ mất hết tất cả. Thật hạnh phúc cho những ai thi hành ý chủ và khốn thay cho những kẻ không biết ý chủ.
Ngày cánh chung
Với dụ ngôn yến bạc, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ngày phán xét của mỗi người là như vậy. Khi còn sống ở trần gian, Ngài cho mỗi người những yến bạc tùy vào khả năng từng người. Đến ngày phán xét, Ngài cũng chỉ hỏi chúng ta đã sự dụng yến bạc ấy thế nào? Chúng ta phải hiện diện trước mặt Ngài và trình bày tất cả những gì đã làm với yến bạc ấy, mặc dù Ngài đã biết rõ. Chính Ngài cũng thưởng phạt chúng ta dựa vào những việc làm ở trần gian. Cao cả và tuyệt vời hơn là Ngài muốn những yến bạc sinh lời nơi chúng ta sẽ được trao cho mọi người xung quanh, chứ không làm riêng cho mình. Bởi vậy, dù có giỏi, thành công thế nào mà không biết khiêm nhường, tự hạ thì cũng trở về số không.
Lạy Chúa, hạnh phúc nào cho đủ bằng hạnh phúc ở trong nhà Chúa. Xin cho mỗi người chúng con liên lỉ không ngừng sinh lời những yến bạc Chúa trao và biết trao ban chia sẻ cho mọi người. Nhờ đó, chúng con được hưởng trọn niềm vui trong ngày phán xét cùng Thiên Chúa. Amen.
Chủ ông sửa soạn đi xa, Gọi mời đầy tớ, vô nhà nhận công. Ông trao đầy tớ bạc đồng, Người này TN 33-A90
Chủ ông sửa soạn đi xa, Gọi mời đầy tớ, vô nhà nhận công. Ông trao đầy tớ bạc đồng, Người này năm nén, lợi trông số tiền. Kẻ kia hai nén nhận liền, Người sau một nén, tự nhiên thấy buồn. Tùy theo năng khiếu bán buôn, Có người sinh lợi, tiền muôn bạc vàng. Lâu sau ông chủ về làng, Cùng nhau tính sổ, sẵn sàng lo toan. Người nào trung tín hân hoan, Chủ thương đãi ngộ, hiền ngoan ở đời. Vui mừng vào hưởng Nước Trời. Tín trung việc nhỏ, xin mời thăng quan. Hai người lãnh nén trao ban, Sinh lời đấu bạc, sẻ san công hầu. Kẻ lười chôn dấu từ đầu, Không gieo không gặt, lấy đâu sinh lời. Khốn thay vô dụng trong đời, Nghiến rằng lãnh phạt, giam nơi khổ hình.
Các nén bạc được trao ban cho các đầy tớ một cách nhưng không. Mỗi người lãnh nhận tùy theo lòng tốt của ông chủ. Trong bài dụ ngôn kể rằng: Chủ trao cho người mười nén, kẻ năm nén và có người chỉ có một nén. Chủ muốn mỗi người hãy sinh lợi theo khả năng của mình.
Chúa ban cho mỗi người có khả năng khác nhau. Khác nhau để bù đắp cho nhau. Mỗi cá nhân có bổn phận góp sức vào việc chung. Xây dựng một xã hội muôn màu, muôn sắc và đa dạng. Nhìn thế giới chung quanh, chúng ta hiểu được sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa Tối Cao. Chúng ta có muôn ngàn các công nghệ, nghề nghiệp, chuyên môn và khả năng phát triển không giới hạn của con người trong mọi ngành nghề. Tất cả những khả năng đó đều là quà tặng nhưng không từ Thiên Chúa.
Của cải được ban phát để làm vốn là kho tàng châu báu trong mỗi con người. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng tại sao ông chủ không chia đồng đều, mà lại có kẻ nhiều người ít. Đây chính là sự quan phòng và tính toán chu đáo của chủ. Biết rằng mỗi người chúng ta không ai giống ai. Mỗi cá nhân có khả năng riêng biệt. Thiên Chúa quan phòng trao ban cho mỗi người một món quà. Món quà nhiều hay ít không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng món quà đó để làm lợi thêm hay không.
Đã lãnh nhận quà làm vốn, mỗi người có bổn phận sinh lợi. Chúng ta đã lãnh nhận sự sống với linh hồn, trí khôn, thân xác và mọi tài năng. Chúng ta hãy sử dụng những khả năng, thời gian và của cải của chúng ta để góp phần xây dựng đời sống xã hội và giáo hội. Đừng đem tài năng nhỏ mọn chôn vùi.
Ai làm lợi nhiều, Chúa sẽ ban thêm, thêm dư dật, thêm niềm vui và thêm hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta.
Trách nhiệm là phần việc được giao và phải làm xong, gọi là bổn phận, nếu kết quả không tốt thì TN 33-A91
Trách nhiệm là phần việc được giao và phải làm xong, gọi là bổn phận, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả. Mức độ trưởng thành của một con người dựa vào tinh thần trách nhiệm của họ đối với người khác và với chính mình.
Nữ chính khách Anna Eleanor Roosevelt (1884–1962) nói: “Về lâu về dài, chính chúng ta sẽ định hình bản thân con người chúng ta và cuộc sống của chúng ta. Quá trình đó không bao giờ kết thúc cho tới khi ta chết. Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”. Elbert Hubbard (1856–1915, triết gia và tác gia, Hoa Kỳ) nhận định: “Responsibility is the price of freedom” (Trách nhiệm là cái giá của sự tự do). Một cách nhận định chí lý!
Đối với Kitô giáo, Thiên Chúa trao cho mỗi người một phần việc riêng theo ơn gọi của mình, đó chính là Nén Trách Nhiệm mà ai cũng phải cố gắng hoàn thành một cách xuất sắc nhất. Trách nhiệm có liên quan các vấn đề khác: [1] Nhân phẩm, [2] Công ích, [3] Bổ trợ, [4] Liên đới. Đó là bốn nguyên tắc chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Công ích là ích lợi chung, đồng thời cũng là trách nhiệm chung của mọi người.
Về vấn đề công ích, Giáo huấn Xã hội Công giáo cho biết: “Công ích được hiểu như là những điều kiện xã hội cho phép mọi người đạt đến trọn vẹn tiềm năng con người và nhận ra nhân phẩm của mình”. Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nguyên tắc công ích cho thấy nhu cầu về các cơ cấu quốc tế để có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân và gia đình vượt ra khỏi ranh giới quốc gia và khu vực. Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn về sự xuống cấp của xã hội. Cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến các dạng suy thoái về công ích, từ đó có thể dẫn tới các hệ lụy khác.
Đề cập công ích, Thánh Phaolô nói: “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người” (2 Cr 9:10-13). Thực hiện công ích cũng là thực thi Đức Ái vậy.
Thật thú vị và ý nghĩa khi công ích được phát xuất từ gia đình, mà gia đình lại chính là nền tảng của xã hội. Kinh Thánh nói: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng. Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc” (Cn 31:10-13). Tiền tuyến luôn cần hậu phương. Người vợ âm thầm làm việc, với biết bao việc “không tên”, nhưng các “việc nhỏ” đó lại rất cần thiết để duy trì hạnh phúc gia đình, khả dĩ tạo nên Tổ Ấm.
Quan phòng và tiền định, Thiên Chúa đã phú cho nữ giới có tính cách đặc biệt: “Nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng” (Cn 31:19-20). Cái tính đã đặc biệt rồi, mà cái tâm cũng khác lạ: Hy sinh, nhịn nhục, chịu đựng,… Nàng dịu hiền vì nàng là phụ nữ. Quả thật, nét dịu dàng rất cần ở phụ nữ, ca dao đã đặt vấn đề như lời nhắc nhở nữ giới: “Có ai bán cái dịu dàng, tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên”.
Nam giới cần cứng rắn, nữ giới cần dịu dàng. Nét duyên dáng rất cần, nhưng đừng yểu điệu quá hóa kiểu cách, phản tác dụng, vì Kinh Thánh nói: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng. Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm” (Cn 31:30-31). Nét duyên dáng tâm linh mới thực sự cần thiết, nhất là đối với các phụ nữ là Kitô hữu – cả giáo dân và nữ tu. Giáo dân có dạng “chảnh” của giáo dân, tu sĩ có dạng “chảnh” của tu sĩ.
Thiên Chúa cho chúng ta làm người nên Ngài cũng trao ban cho những thứ cần thiết để sống. Ai cũng có nhân vị và nhân phẩm. Ngày nay, cả đời và đạo không còn nhìn nữ giới bằng “nửa con mắt” như trước, theo kiểu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nhưng đã có tầm nhìn sâu rộng hơn về vị trí của họ. Kinh Thánh cho biết: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái, và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Hình ảnh gia đình hạnh phúc được mô tả rõ nét, phụ nữ có vị trí nhất định, khó có thể thay thế. Thánh Vịnh này rất quen thuộc vì thường được dùng làm đáp ca trong các lễ cưới, đặc biệt là lễ Thánh Gia.
Gia đình là hình ảnh của Giáo hội luôn đầy tràn hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Vịnh gia xác định và cầu chúc: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:4-6). Niềm hạnh phúc như vậy là niềm hạnh phúc đáng mơ ước, vì hạnh phúc đó chính là nhờ hồng ân của Thiên Chúa!
Có một câu nhắc nhở người ta thường nói: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng!”. Lời cảnh báo rất cần thiết, bởi vì con người dễ ảo tưởng mà tự mãn. Khi nghèo, người ta biết thương nhau, nhưng khi giàu, người ta dễ xa nhau. Ma quỷ rất mưu mô và xảo quyệt, nó tìm cách giành lấy linh hồn của chúng ta nên nó dùng chính sự kiêu ngạo để gài bẫy chúng ta. Được người ta khen ngợi khi chúng ta làm được điều gì đó “hay ho” một chút, chúng ta rất dễ “lên mặt”, cứ tưởng mình là “cái rốn” của vũ trụ, cứ tưởng mình có cả một bụng chữ, rồi coi thường người khác. Thảo nào cụ thi hào Nguyễn Du đã khuyến cáo: “Có tài mà cậy chi tài, chữ TÀI liền với chữ TAI một vần” (Truyện Kiều, câu 3247-3248). Và cụ nhắn nhủ: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI” (Truyện Kiều, câu 3252). Những mẫu tự T mang ý nghĩa khác nhau, T tốt và T tồi. Cái Tôi thật đáng ghét biết bao!
Tương tự, về ngoại hình đối với nữ giới (kể cả nam giới), khi thấy mình có ngoại hình chỉ “coi được” một chút là đã “chảnh” lắm rồi, cộng thêm “giỏi” một chút nào đó nữa thì mức độ càng tăng thêm. Thậm chí ngay cả khi làm công việc đạo đức, từ thiện, công ích,… người ta cũng “dám” lấy ngoại hình của mình mà “đè bẹp” người khác. Chính mình “chảnh” mà lại không nghĩ là mình “chảnh”, và họ quên rằng “sắc đẹp là những cánh hoa hồng sẽ bị thời gian tỉa dần”. Vì nông cạn mà ảo tưởng, thật là nguy hiểm vô cùng! Hãy đọc lại và ghi nhớ câu Kinh Thánh này: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân” (Cn 31:30).
Lỗ nhỏ có thể làm đắm thuyền. Cái tật nhỏ có thể dẫn tới cái tội to. Từ những cái đơn giản dẫn tới những cái phức tạp, từ những cái nhỏ dẫn đến những cái lớn, từ những cái xa dẫn tới những cái gần, hoặc ngược lại, tiệm tiến và lung khởi. Thánh Phaolô căn dặn: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’, thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được” (1 Tx 5:1-3). Ý tưởng tỉnh thức thường xuyên xuất hiện trong Phúc Âm, bất kỳ thời điểm nào, nhưng đặc biệt vào thời điểm cuối năm Phụng Vụ, Mùa Vọng và Mùa Chay.
Sống tỉnh thức là sống khôn ngoan, biết sống khôn ngoan là biết sống vì công ích, và công ích có liên quan đức ái – một trong ba nhân đức đối thần quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Rất hợp lý. Thánh Phaolô giải thích: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy TỈNH THỨC và SỐNG TIẾT ĐỘ” (1 Tx 5:4-6).
Chúa Giêsu cũng đã có lần so sánh và xác định: “Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng” (Lc 16:8). Cái “khôn ngoan” ở đây không phải là một lời khen, mà là một lời cảnh báo và chê trách. Khôn ngoan ở đây là khôn ranh, ranh ma, ranh mãnh, mưu mô, xảo quyệt. Ngôn ngữ bình dân ngày nay gọi là “đểu”, họ không “đểu giả” mà “đểu thật” đấy!
Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn “những yến bạc” (Mt 25:14-30, tương đương Lc 19:12-27). Khi chủ nhân sắp đi xa, ông gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải. Ông trao cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi…
Được giao nhiều hay ít không phải để phân bì, mà vấn đề là trách nhiệm – nhận ít thì trách nhiệm ít và bị đòi ít, nhận nhiều thì trách nhiệm nhiều và bị đòi nhiều (Lc 12:48). Tác giả sách Giảng Viên xác định: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1:18).
Dụ ngôn cho biết rằng người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ về tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.
Giờ G đã điểm. Chủ nhân đã trở về. Trước tiên, người đã lãnh năm yến tiến lại gần, và đưa năm yến khác. Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại và đưa hai yến khác. Chủ nhân nói với hai người này: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”.
Cuối cùng, người đã lãnh một yến cũng tiến lại và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”. Chủ nhân thẳng thắn và nghiêm nghị nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Chủ nhân nói đúng quá, thế nên anh ta đành câm miệng. Nơi tối tăm mà anh ta phải vào chẳng phải là hang động âm u hoang vắng, thiếu ánh sáng, cũng chẳng phải là chốn Luyện Hình, mà chính là Hỏa Ngục – vương quốc của Luxiphe!
Tất cả chúng ta đều là các thụ tạo, là các đầy tớ của Chủ nhân Thiên Chúa. Mỗi chúng ta đều được Ngài trao cho đồng đều: Nhân vị, nhân phẩm, nhân quyền, quyền tự do, và có thể có thêm một vài năng khiếu nào đó. Mỗi người được Ngài trao cho số nén, loại nén, và kiểu nén khác nhau. Nhưng vấn đề quan trọng là chúng ta có sinh lời hay không, tức là thể hiện vì công ích – lợi ích cho chính mình và tha nhân. Chỉ làm lợi cho mình hoặc tha nhân thì đều là ích kỷ. Muốn lên Thiên Đàng một mình cũng là ích kỷ. Chúng ta như bức tượng được nhà điêu khắc tạo ra, bức tượng không có quyền than phiền bất cứ điều gì đối với người đã tạo ra nó!
Chắc chắn không ai là kẻ bất tài, người này có tài này, người khác có tài khác; người này giỏi trong lĩnh vực này, người khác giỏi trong lĩnh vực khác. Không có nông dân thì chúng ta lấy gì mà ăn? Không có thợ xây thì chúng ta lấy gì mà ở? Có bất cứ tài gì (dù là tài vặt) cũng là để cộng tác với Thiên Chúa chứ không phải là để vinh danh mình. Hơn người khác về lĩnh vực nào đó thì đừng tưởng mình “ngon” hơn, được Thiên Chúa “ưu tiên” hơn hoặc “cưng” hơn. Là một vĩ nhân nhưng Pythagore (570-495 trước công nguyên) vẫn sống khiêm nhường, và ông nhắc nhở chúng ta: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Ông là một thiên tài vĩ đại (triết gia, nhạc sĩ, chính trị gia, nhà đạo đức học, nhà toán học, nhà siêu hình học,…), nhưng ông rất sợ thói kiêu ngạo. Thế thì chúng ta có gì mà dám tự tôn hoặc khinh người khác chứ? Chúng ta chỉ có một thứ duy nhất: Tội lỗi.
Thật vậy, ông Gioan đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Ôi chao, thế thì cái mà chúng ta lãnh nhận không phải để sở hữu riêng mà phải thực hiện vì công ích. Đức khiêm nhường là bài học phải học suốt đời, và chỉ có thể học được ở tại Trường-Học-Thầy-Giêsu, vì Ngài đã khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Biết khiêm nhường thì sẽ dễ dàng sinh lời Nén Trách Nhiệm mà Thiên Chúa đã giao phó.
CN XXXIII Thường niên (năm A, 19-11-2017), là ngày Giáo hội cử hành Ngày Vì Người Nghèo lần thứ nhất với chủ đề “yêu thương bằng hành động chứ không bằng lời nói suông” (Love not in word but in deed). Đó là lời nhắc nhở thực hành đức ái một cách cụ thể, bởi vì vẫn có rất nhiều người nghèo trên thế giới ngày nay, đồng thời cũng nhắc nhở về dụ ngôn “Người Phú Hộ và Ladarô” (Lc 16:19-31). Chia sẻ với người nghèo là “Nén Trách Nhiệm” mà Thiên Chúa trao cho tất cả mọi người.
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp con biết khôn ngoan sinh lời những gì Ngài đã trao ban cho con, xin canh chừng “cái tôi” của con để con làm tất cả vì vinh danh Ngài mà thôi, và xin giúp con biết khiêm nhường như một đầy tớ vô dụng. Xin tiếp tục thương xót con dù con đã dám làm bận mắt Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
SINH LỜI” là cụm từ “kinh doanh”, bởi vì, kinh doanh chủ đích là kiếm lời, nếu kinh doanh không TN 33-A92
“SINH LỜI” là cụm từ “kinh doanh”, bởi vì, kinh doanh chủ đích là kiếm lời, nếu kinh doanh không lời, thì không còn là kinh doanh nữa. Vì thế, mục đích kinh doanh là để kiếm lới, ( ngoài mục đích từ thiện).
Vậy, hôm nay đây, Lời Chúa trong (Mt 25, 14 -30), cũng cho chúng ta một ý niệm “SINH LỜI”, nhưng việc sinh lời nầy là sinh hoa kết trái ơn ích thiêng liêng, chứ không phải là sinh lời vật chất. Đời sống vật chất muốn duy trì, thì cũng phải “kiếm lời”, kiếm lời chân chính, kiếm lời phải chăng. Kiếm lời chân chính là kiếm lời bởi sự lao động của chúng ta, như người ta thường nói : “Có làm thì mới có ăn…”.
Lời Chúa trong ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay cho chúng ta một ý tưởng” Sinh Lời vì Nước Trời”.
Theo đó, Nước Trời là một việc “ SINH LỜI” trên Thiên Quốc. Điều nầy thật hợp lý, bởi vì, không ai “sinh lời” cho chúng ta. Đời sống thiêng liêng, Thiên Chúa ban cho mỗi người, tùy theo nhu cầu và năng lực, nhưng khi được đón nhận phải biết sinh lời tùy theo “số vốn “ đã được nhận lãnh ban đầu.
Tình yêu của Thiên Chúa là ân sủng hằng ngày Chúa ban cho chúng ta, ít nhiều chúng ta được lãnh nhận, không phải so đo, nhưng tùy “Lòng Xót Thương” bởi Thiên Chúa. Mặc nhiên, ai lãnh nhiều thì phải sinh lời nhiều, ai lãnh ít thì sinh lời ít. Thiên Chúa không bao giờ bất công khi giao ít , mà đòi nhiều, cũng như Thiên Chúa không lấy đi số lời mà chúng ta đã sinh lợi. Thiên Chúa luôn cho thêm và đong đầy cách hào phóng cho chúng ta. Vì sự công bằng nơi Thiên Chúa là tuyệt đối, bởi vì “số lời” mà chúng ta làm ra, Thiên Chúa luôn ban thêm cho chúng ta.
Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay tuy dài, nhưng rất dễ hiểu, quy luật công bằng luôn “đòi trả lẽ”. Nếu được đón nhận ân sủng siêu nhiên mà không biết “SINH LỜI”, thì ơn ích ấy không phát sinh hoa trái.
Khởi đi từ Bài Đọc I hôm nay (Cn 31, 10 -13, 19 – 20. 30 -31) chúng ta thấy, gương người phụ nữ nhân đức, chăm lo công việc gia đình thật là chỉnh chu, quán xuyến tươm tất. Hình ảnh người vợ hiền đức không phải nói lên nghĩa đen mà thôi, song nó còn miêu tả được hình ảnh “ Người Mẹ hiền Giáo Hội”, hằng ngày quán xuyến việc gia đình một cách chu đao. Như vậy, Giáo Hội được mệnh danh là Mẹ hiền, có nghĩa là như người phụ nữ giỏi giang chăm lo việc gia đình, măc nhiên người phụ nữ nầy phải hiền đức, chăm sóc , quản cai rất mực hiền lương.
Vậy, GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM được Giáo Hội mừng kinh hôm nay, cho chúng ta điều gì. Chắn chắc không phải là “cái chết” thể xác mà thôi, mà là “SỰ SỐNG BẤT DIỆT”.
Vâng, “Đầu rơi, máu chảy” không phải là yếu tố để “ tôn thờ”, nếu chúng ta tôn thờ việc đầu rơi , máu chảy, thì chúng ta “tôn thờ sự chết”, như vậy không phù hợp với tinh thần Kitô giáo. Vì, Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, mặc nhiên chúng ta phải “TÔN THỜ SỰ SỐNG “ và sống vĩnh hằng.
Thực tế, chúng ta thấy, không phải “thù giết thù”, mà nhiều lúc “ bạn giết bạn”. Như vậy, nếu ở thế gian không có sự Hiện Hữu của Thiên Chúa, thì không có “bạn hữu ”, và như vậy tất không tồn tại sự sống.
Như vậy, nếu việc sống Đạo mà dẫn đến cái chết không thôi, thì chẳng còn ai dám sống Đạo làm gì nữa. Qủa thật, qua cái chết, CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM đang sống Đạo cách phi thường. Bởi vì : “Nếu Hạt Lúa gieo xuống lòng đất không thối đi, không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình…” . Vâng, vì thế “TỬ ĐẠO” là “SINH LỜI” theo Tin Mừng.
Nhưng, việc Tử Đạo của các ngài cũng rất hiếm hoi, không phải ai muốn cũng được, mà là do bởi Thiên Chúa trao ban cho các ngài “Những nén bạc sinh lời”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng giàu lòng xót thương, Xin thương ban cho những ai được lãnh nhận ân sủng bởi Thiên Chúa, thì họ biết siêng năng, can đảm sinh lời hầu mưu ích cho chính họ, để Lời Chúa không mai một đi cách uổng phí, trái lại được sinh lời để muôn đời trông thấy mà ngợi khen Thiên Chúa trên trời. Vì việc sinh lời thiêng liêng không phải Chúa lấy lại, nhưng ban thêm cho họ./. Amen.
Bắt đầu dụ ngôn những nén bạc, Đức Giêsu nói: “ Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa TN 33-A93
Bắt đầu dụ ngôn những nén bạc, Đức Giêsu nói: “ Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải của mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi.” Và “ sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và thanh toán sổ sách với họ.”Trong thời gian ông chủ đi vắng, các đầy tớ đã làm gì với số nén bạc được giao?
Ông chủ ấy là Đấng Tạo Hóa. Ngài ban cho con người những nén bạc về đời sống, trí tuệ, tài năng khác nhau…Hơn ai hết, ông biết rõ khả năng của từng người đầy tớ của mình; vì thế, khi giao của cải cho các đầy tớ, ông đã không giao đồng đều cho mỗi người, nhưng giao tùy khả năng của từng người. Điều quan trọng đối với ông là sự nổ lực của mỗi người tùy theo khả năng của mình.
Những nén bạc mà Thiên Chúa giao cho nhân loạilà Tin Mừng Cứu Độ, là lòng thương xót vô biên, là lòng tha thứ bao dung của Thiên Chúa với con người, là những ân huệ Ngài đã ban cho mỗi người trong cuộc sống, là những năm tháng của cuộc đời mỗi người. Tất cả chúng ta không ai hoàn toàn đồng đều với nhau về mọi mặt. Thiên Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy theo khả năng riêng của mỗi người. Chính nhờ lòng nhiệt tình đáp lại những gì Thiên Chúa đòi hỏi bằng lòng tin yêu Ngài mà những đầy tớ đã được Thiên Chúa khen là đầy tớ tài giỏi và trung thành.
117 vị thánh tử đạo Việt Nam, không phải là những bậc tài trí xuất chúng, cũng không phải là những người giàu sang phú quý, nhưng đều là những người bình thường trong xã hội, là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với tổ quốc và nhân dân, nhưng đã phải chịu tử hình vì không chối bỏ đức tin: Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ, đã chịu trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, vào ngày 23/10/1883 tại Huế, triều vua Minh Mạng.Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu phủ họ Đầu Nước, tỉnh Anh Giang, đã bị bắt và hy sinh vì Chúa tại Châu Đốc, ngày 31/7/1859. Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ công giáo gương mẫu; vì sốt sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo, nên đã bị bắt và chịu nhiều cực hình nên kiệt sức và chết rũ tù ngày 12/7/1841 v.v…Rồi có những giáo xứ ở Quảng Trị, bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Phanrang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống… Những nén bạc đức tin và lòng yêu mến Thiên Chúa nơi các ngài đã sinh lời được năm hay hai nén khác. Đúng như lời Đức Giêsu nói: “ Phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.”
Thời gian ông chủ đi vắng cũng là lúc chúng ta sống cuộc sống của mình ở thế gian này. Đó là nén bạc thời gian của sự sống. Sau một thời gian lâu dài, lúc trở về, ông cho gọi các đầy tớ đến để kết toán sổ sáchcũng là lúc chúng ta lìa cõi thế này để về với Chúa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Thêxalônica đã kêu gọi phải tỉnh thức canh phòng để chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Thức tỉnh canh phòng là phải làm hết sức mình để thưc hiện những chỉ thị của Chúa: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.”( 1 Tx 5:5-6)
Cuộc sống của mỗi người là một quà tặng của Thiên Chúa ban. Chúng ta sinh lợi được bao nhiêu từ những nén bạc cuộc đời của chúng ta để làm quà tặng cho Thiên Chúa hay lại đem chôn giấu đi! Được khen là “ đầy tớ tài giỏi và trung thành” hay bị nguyền rủa là “đầy tớ tội tệ và biếng nhác” là tùy thuộc vào những nổ lực sinh lời từ những nén bạc Tin Mừng Cứu Độ, lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa và những ân huệ Ngài ban bằng đức tin, lòng mến và phục vụ Thiên Chúa và con người.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXXIII/TN-A – Mt 25, 14-30) trình thuật dụ ngôn “Những yến bạc” TN 33-A94
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXXIII/TN-A – Mt 25, 14-30) trình thuật dụ ngôn “Những yến bạc”. Dụ ngôn kể câu chuyện ông chủ cấp vốn làm ăn cho những đầy tớ. Vì đã biết rõ khả năng từng người, nên “Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người.” Điều này cho thấy ông chủ không hề bắt ép một ai phải làm việc quá sức của mình. Đến khi ông chủ tính sổ thì kết quả làm ăn của mỗi người mỗi khác (“người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.” – Mt 25, 16-18).
Duy chỉ có tên đầy tớ thứ ba thì đã không chịu làm ăn mà còn đem chôn giấu số bạc; để rồi khi tính sổ thì nói thẳng vào mặt chủ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Điều đó cho thấy ngay từ trong tư tưởng, tên đầy tớ thứ ba đã không tin tưởng vào ông chủ, không những đã lười biếng không chịu làm ăn, mà còn bày tỏ thái độ chống đối lại bằng lời lẽ hỗn xược. Nếu chẳng vậy, ông chủ đã không nặng lời gọi hắn là “đầy tớ tồi tệ và biếng nhác!” Bị án phạt “quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” là điều tất nhiên. Vậy là lại thêm một bằng chứng cụ thể đặt ra cho người tín hữu, đó là vấn đề căn cơ, nền tảng của Ki-tô Giáo: Đức Tin. Nói đến đức tin là phải nói đến mối liên hệ giữa tư tưởng với lời nói (“Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” – Rm 10, 10), đồng thời còn phải làm sao cho lời nói đi đôi với việc làm, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Chúa nhật hôm nay cũng là lễ kính trọng thể các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Hơn ai hết, các ngài đã hiểu rất rõ ràng các ngài hiện diện trên trái đất này chính là một đặc sủng, một quà tặng tuyệt đối vô song Thiên Chúa đã ban tặng, và khi đón nhận ơn gọi Ki-tô hữu chính là lúc các ngài được Người cấp vốn làm ăn. Người có thể gọi các ngài về bất cứ lúc nào để tính sổ coi các ngài đã sử dụng số vốn được trao ấy ra sao. Hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, các Thánh Tử Vì Đạo đã tuyệt đối tin tưởng, sống và hành động hết mình cho lý tưởng mình đã khám phá được với một ý chí sắt đá, dù cho còng trói tay, gươm kề cổ cũng không chùn bước, cuối cùng đã hy sinh cả mạng sống; đó là phẩm hạnh tuyệt hảo của các ngài. Và hôm nay chính là kỷ niệm ngày các ngài được chính thức “hưởng niềm vui của Chủ” nơi cõi phúc trường sinh.
Quả thực, “Một số Ki-tô hữu ngay từ thời sơ khai đã được gọi và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng tình yêu ấy cách hùng hồn trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ bách hại mình. Khi tử vì đạo, người môn đệ đồng hóa với Thầy mình, Ðấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới, và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu; Giáo hội coi việc tử vì đạo đó như một ân huệ lớn lao và một bằng chứng cao cả về đức ái.” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 42). “Đạo“ là con đường, chính con đường Thập Giá (Đạo Thập Giá) là món quà vô giá Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, mà các Thánh Tử Vì Đạo đã sống để được nên “đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Ki-tô”. Chính Thánh Tử Vì Đạo VN Tê-ô-pha-nô Ven đã nói với bọn quan quyền bách hại Đạo Chúa về món quà vô giá (Đạo Thập Giá) đó: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về Đạo Thập Giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hoá đến độ tôi phải bỏ Đạo mà mua?” (Điệp ca Ca vịnh 3, Kinh Chiều II, Lễ kính CTTĐ/VN). Sự sống đời này dù quý hoá tới đâu cũng không thể so sánh với quà tặng Đạo Thập Giá được, đó là điều hiển nhiên.
Càng suy niệm, càng thấy lời dậy của Thánh Phê-rô là xác thực: “Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.” (1Pr 4, 12-14). Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã “thật có phúc”, vì “cùng được vui mừng hoan hỷ” khi “vinh quang của Đức Ki-tô tỏ hiện”. Đó là quà tặng vô giá mà chỉ những người “thật có phúc” mới biết trân trọng chu toàn ý muốn của Người Chủ đã trao tặng. Vì thế, chỉ trong ba thế kỷ (từ thế kỷ XVI tới XIX) đã có trên 130.000 Ki-tô hữu VN vui mừng đón nhận quà tặng (là cây Thập-Tự-Kitô-hữu), kiên cường vác cây thập-giá-đời-mình mà theo Đức Ki-tô, để rồi anh dũng đổ máu ra nhuộm thắm cây Hồng-Thập-Tự. Và trong số ấy, Giáo hội đã tuyên phong 117 vị lên bậc hiển thánh.
Suy niệm bài Tin Mừng thì thấy mọi sự đã rõ ràng: Các Thánh Tử Vì Đạo được cấp vốn, các ngài đã làm ăn sinh lợi đúng như ý muốn của Ông Chủ. Tuy nhiên, khi coi lại bài đọc 1 (Cn 31, 10-13.19-20.30-31), tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Vấn đề chủ yếu trong Thánh lễ CN XXXIII/TN-A (mừng kính các Thánh Tử Vì Đạo VN) thì có liên quan gì tới “Người Vợ Đảm Đang”? Ngay từ Cựu Ước, đã nhiều lần Hội Thánh được mô tả như một phụ nữ hay trinh nữ (2Sm 1, 24; 1V 1, 2-4; Is 16, 1; Is 61, 4-5; Is 62, 11; Dc 2, 14; Hs 2, 12; Xp 3, 14…); sang đến Tân Ước cũng vậy (Mt 21, 5; Mt 25, 1-7; Ga 12, 15; 2 Cr 11, 2; Gl 3, 27…); không những thế, chính Đức Giê-su Thiên Chúa cũng coi Giáo hội là hiền thê của Người. Vì thế, qua bài đọc 1 (trích sách Châm ngôn), Phụng vụ muốn nói với tất cả Giáo hội: hãy cố gắng trở thành người vợ đảm đang, tức là nhiệt tình thi hành tốt sứ mệnh của mình. Nói cách khác, bài sách Châm ngôn muốn nhắc nhở trước hết với những ai có trách nhiệm lãnh đạo từ Giáo hội toàn cầu đến Giáo hội địa phương (Giáo phận, Giáo xứ): Họ phải tỏ ra đảm đang (như người vợ trong gia đình) để cộng đoàn Dân Chúa được hoàn hảo.
Ngoài ra, nếu coi các Thánh Tử Vì Đạo đã kinh doanh với số vốn do Thiên Chúa cấp được lời lãi như vậy, thì cũng chẳng khác gì các ngài là hạt giống tốt được Người Gieo Giống đem gieo và đã trổ sinh “hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.” (Mt 13, 9). Nói cách khác, máu của các Thánh Tử Vì Đạo là hạt giống trổ sinh Giáo hội, nhờ đó, “Giáo hội trong mỗi khúc quanh của lịch sử vẫn bén rễ sâu qua lời chứng của các vị tử vì đạo.” (Tông sắc Mầu nhiệm Nhập thể “Incarnationis Mysterium”, số 13). Và vì thế, “Ðối với các tông đồ và những vị tử vì đạo của Chúa Ki-tô, là những chứng nhân cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo hội luôn tin rằng, các ngài liên kết với chúng ta khắng khít hơn trong Chúa Ki-tô: với lòng yêu mến đặc biệt, Giáo hội tôn kính các ngài cùng Ðức Trinh Nữ Maria và các Thánh Thiên Thần, và sốt sắng nài xin các ngài trợ giúp và cầu bầu cho.” (Hiến chế “Lumen Gentium”, số 50).
Mừng lễ các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam, người Ki-tô hữu phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải noi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào. Nói cách cụ thể, thì người có đức tin phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy (tức là Thần Khí Ðức Ki-tô ở trong bản thân mình) để sống đời sống chứng tá ngay trong môi trường xã hội nơi mình cư ngụ. Để được như vậy, cần phải mang sự chết của Người trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ. Chỉ có như vậy mới đi vào được đường lối của các Thánh Tử vì Đạo và theo các ngài cho đến tận cùng hành trình thực thi sứ vụ làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Ấy cũng bởi vì muốn nên giống các ngài hoàn toàn (để được đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô), thì không những phải biết sống như các ngài mà còn phải biết chết như các ngài. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam).
Cộng tác trong trường hợp này mang í nghĩa cùng chung nhau làm một công việc tốt lành. Xứ TN 33-A95
Cộng tác trong trường hợp này mang í nghĩa cùng chung nhau làm một công việc tốt lành. Xứ đạo thiếu cộng tác giữa giáo dân và cha xứ là một xứ đạo thiếu sinh động. Thiếu sinh hoạt xã hội, nghèo nàn sức sống giữa các đoàn thể và vắng bóng sinh hoạt bác ái là một xứ đạo nghèo tinh thần, kém sức sống, thiếu chiều sâu. Đời sống tâm linh toàn xứ nghèo nàn, hầu như trống rỗng. Khi các thành viên trong xứ cùng chung nhau cộng tác sinh hoạt xứ sẽ sầm uất, sức sống tâm linh trong xứ dồi dào và đời sống linh hoạt hẳn lên. Quí khách đến thăm xứ cảm nhận ngay được tinh thần đầm ấm, lòng hiếu khách của xứ. Tất cá các kì quan thế giới do bàn tay con người tạo nên, tồn tại đến ngày nay, chúng đều có chung một điểm đó là do sự cộng tác của nhiều bàn tay, khối óc kết hợp lại. Cộng tác chung giữa các tín hữu làm cho đời sống tâm linh vững mạnh khi họ chia sẻ hiểu biết về tình yêu Chúa và thực hành tình yêu đó trong cuộc sống hàng ngày trong xứ và trong gia đình. Sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa được củng cố, gắn bó bằng tình yêu chân thành cộng tác.
Phúc Âm hôm nay dường như đưa ra ba cấp bậc trong cộng tác: Đó là cộng tác cách tích cực, kế đến là cộng tác tuỳ hứng và cuối cùng là không quan tâm. Cộng tác cách tích cực khi người đó dành ưu tiên cho công việc chung và dùng hết khả năng của mình để cùng làm việc với người khác. Cộng tác tích cực được chủ khen thưởng và giao cho trách nhiệm lớn hơn bởi gây được lòng tin với chủ. Mat 25,20
Cộng tác tuỳ hứng là trường hợp cộng tác khi gặp hoàn cảnh huận lợi; trường hợp cộng đoàn cần sự giúp đỡ lại dưa lí do chính đáng từ chối bởi đời sống tâm linh thiếu chiều sân. Người chủ nhắc đến việc đơn giản nhất là gởi tiền vào ngân hàng lấy lời cũng là một cách cộng tác, dù là cộng tác tiêu cực. c.27
Không quan tâm là tín hữu có danh nhưng không phẩm chất. Người đó trở thành Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy và đời sống tâm linh không được nuôi dưỡng nên nó vẫn sống trong tình trạng phôi thai. Chôn vùi lòng tin nơi Thượng Đế. c 25
Cộng tác chung thường là phải từ bỏ í riêng, í cá nhân để đón nhận í chung của cộng đoàn. Họ sống trong hy vọng bởi cộng tác chung luôn mang lại thành quả và đó là thành quả chung, niềm vui chung của mọi người. Phúc Âm còn cho biết cộng tác chung chính là kiến tạo, làm giầu đời sống tâm linh cho chính mình. Điều này thể hiện khi ông chủ nói với các người cộng tác. Đầy tớ trung thành, đáng khen; hãy vào hưởng gia nghiệp dành sẵn cho các ngươi bởi ngươi đã trung tín trong việc nhỏ nên đáng hưởng niềm hạnh phúc muôn đời dành cho kẻ tín trung. c. 23
Đời sống tâm linh Kitô hữu thiếu hạnh phúc nếu họ thiếu cộng tác, sinh hoạt chung trong đời sống cộng đoàn bởi cộng đoàn là môi trường giúp họ sống hạnh phúc, là nơi giúp họ thể hiện tình bác ái, tương trợ lẫn nhau, là nơi tình yêu Chúa thể hiện cụ thể qua hành động bác ái, yêu thương. Gia đình thiếu cộng tác chung trong cầu nguyện, trong sinh hoạt hàng ngày biến mái ấm gia đình thành nhà trọ, biến các thành viên thành ốc đảo cô đơn và tình cảm gia đình trở nên lạnh nhạt. Khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy Kitô hữu nhận ba nhiệm vụ chính đó là chức tư tế, tiên tri và vương giả. Ba chức vụ này thể hiện qua đời sống cầu nuyện hàng ngày, bác ái và yêu thương tha nhân. Kitô hữu cần thể hiện nhiệm vụ đó bằng cách sống và tích cực cộng tác chung với nhau, không phải sống lẻ loi, đơn bóng mà cộng tác chung vai sát cánh làm việc giữa đời và giữa cộng đoàn. Như thế mới làm sáng danh Chúa và sinh ích cho tha nhân. Cộng đoàn tích cực hỗ trợ sinh hoạt đoàn thể, làm việc chung với nhau là cộng đoàn biết đón nhận yêu thương và ban phát yêu thương. Khi có quí khách đến cộng đoàn họ nhận ngay ra tâm tình chào đón nồng ấm đó. Bởi có cộng tác, có yêu thương nên người trong cộng đoàn hưởng được hoa quả của bác ái, lòng nhân và lòng mến từ đó cảm thông trong đối xử và yêu mến trong lối sống. Cộng đoàn thiếu cộng tác sẽ rời rạc, nhạt nhẽo và đó không phải là cộng đoàn Kitô hữu đích thực mà Đức Kitô kêu gọi. Kitô hữu thiếu cộng tác chung trong cộng đoàn sẽ có đời sống nội tâm nghèo nàn và nếu có thì cũng là đời sống nội tâm lạc loài, không phải đời sống nội tâm tác động bởi Thánh Thần Chúa.
Theo truyền thống các nước Cận Đông, những ông chủ giàu có, trước khi đi xa thường giao tài TN 33-A96
Theo truyền thống các nước Cận Đông, những ông chủ giàu có, trước khi đi xa thường giao tài sản cho các đầy tớ của mình. Số lượng tài sản được giao ít hay nhiều tùy thuộc vào khả năng của từng người. Đó là nội dung dụ ngôn “những nén bạc” mà chúng ta vừa nghe Thánh Mathêu tường thuật lại. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho chúng ta biết: Ông chủ chính là Thiên Chúa; các nén bạc là những tài năng Thiên Chúa trao ban cho con người; thời gian ông chủ trẩy đi phương xa là thời gian con người được sống trên trần gian; lúc ông chủ trở về và tính tỉnh sổ là lúc Thiên Chúa phán xét con người. Mỗi người phải trả lẽ về cách sử dụng những nén bạc mà Thiên Chúa trao phó. Thiên Chúa sẽ thưởng hay phạt con người giống như ông chủ đã làm với ba đầy tớ trong dụ ngôn.
Thật vậy, con người do Thiên Chúa tạo dựng nên. Những gì con người có đều do Thiên Chúa trao ban: thân xác, linh hồn, khả năng, thời gian và tất cả những gì con người được sở hữu. Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người rằng: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7). Lãnh nhận rồi, chúng ta phải trở thánh người quản lý trung tín và khôn ngoan, nghĩa là chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ và sinh lãi cho Chúa.
Trước hết, chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ thân xác: Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6.19). Vì thế, chúng ta phải gìn giữ thân xác trong sạch, khỏe mạnh như: tắm rửa sạch sẽ, ăn uống điều độ, khám sức khỏe định kỳ, chọn công việc phù hợp, làm việc có giờ giấc, không được hủy hại thân xác bằng những trò chơi không lành mạnh hay say sưa rượu chè, không được tự ý đi tìm cái chết. Ngoài ra, chúng ta còn phải phát triển trí thông minh, phát triển những khả năng của thân xác bằng cách chăm chí học hành, trau dồi kiến thức, thể dục thể thao…Vì “một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể tráng kiện”.
Tiếp đến, chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ linh hồn: Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, linh hồn chúng ta được sạch tội Tổ Tông truyền và các tội riêng (nếu có). Đồng thời, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, giống hình ảnh Thiên Chúa, được sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Nhưng sống trong thế gian, linh hồn chúng ta phải đối diện với các chước cám dỗ: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Để khỏi phải sa chước cám dỗ, chúng ta cần phải cương quyết chiến đấu với ba thù, cần phải sống tiết độ và tỉnh thức. Thánh Phêrô dạy: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). Để gìn giữ linh hồn trong trắng và ân sủng của Chúa khỏi bị tàn lụi, chúng ta phải dứt khoát với tội lỗi. Đức Giêsu mời gọi: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa Hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào Hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào Hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9,43.45.47-48). Ngoài ra, để được gắn bó với Chúa luôn, chúng ta cần phải suy gẫm và sống Lời Chúa, lãnh nhận các Bí tích và siêng năng cầu nguyện.
Thứ ba, chúng ta phải dùng khả năng và thời gian Chúa ban để chu toàn bổn phận: Đó là những bổn phận gắn liền với ơn gọi làm người; những bổn phận gắn liền với ơn gọi làm con Thiên Chúa; những bổn phận theo đấng bậc mình như: linh mục, chủng sinh, tu sĩ, vợ chồng, cha mẹ, con cái, ban hành giáo, giáo lý viên, học sinh, các trưởng ban đoàn…Chúng ta chu toàn các bổn phận đó không chỉ ở khía cạnh “quản lý” mà còn ở khía cạnh “sinh lãi”. Chẳng hạn, cha mẹ không chỉ có trách nhiệm quản lý con cái mà còn phải giúp con cái phát triển về thể dục, trí dục và đức dục. Cũng vậy, cha xứ không chỉ giúp cho con chiên giữ đạo mà còn giúp họ sống đạo và truyền đạo nữa.
Như vậy, tùy theo vai trò, đấng bậc, chức vụ của mỗi người để quản lý hay sinh lãi những gì Chúa trao ban. Đức Giêsu đã nói: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12,48).
Tóm lại, khi chúng ta cố gắng dùng những khả năng và thời gian Chúa ban để gìn giữ thân xác và linh hồn, chu toàn bổn phận làm người, làm con Thiên Chúa và bổn phận của đấng bậc mình thì chắc chắn ngày sau hết Chúa sẽ nói với chúng ta như đã nói với người đầy tớ thứ nhất và thứ hai : “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” (Mt 25,21). Trái lại, nếu chúng ta sống lười biếng, không chịu dùng khả năng và thời gian Chúa ban để quản lý hay sinh lợi những gì mình có thì chúng ta cũng sẽ bị án phạt giống như người đầy tớ thứ ba: “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25,30).
Lạy Chúa, chúng con biết rằng Chúa không chú trọng đến khả năng, chức vụ hay công việc của chúng con nhưng Chúa cần sự cố gắng của mỗi người. Chúa cần chúng con đón nhận cuộc sống của mình, đón nhận hoàn cảnh sống của mình và sống tốt trong hoàn cảnh đó. Vậy, xin Chúa giúp chúng con ý thức và làm theo ý Chúa muốn, để khi Chúa đến tính số, chúng con vui mừng vì được Chúa ban thưởng. Amen.
Theo phong tục Việt Nam, thường khi con gái đi lấy chồng, bố mẹ luôn có quà hồi môn cho con TN 33-A97
Theo phong tục Việt Nam, thường khi con gái đi lấy chồng, bố mẹ luôn có quà hồi môn cho con, để con tự tin bước đi trong cuộc sống mới, hay trước lúc lìa đời, cha mẹ thường viết di chúc để chia tài sản cho con cái. Còn người Cha nhân ái của chúng ta trên trời, Người cũng có tài sản dành cho mỗi người chúng ta khi Người cho chúng ta hiện hữu nơi trần gian. Chúng ta có thể thấy rõ điều ấy trong “dụ ngôn những nén bạc” (x. Mt 25, 14-30). Những của cải chúng ta được nhận là thời gian, sức khỏe, tài năng, kinh nghiệm sống, vốn liếng, tri thức,…
Thiên Chúa là Đấng công minh, Người ban cho chúng ta những nén bạc khác nhau tùy khả năng mỗi người. Điều đặc biệt, Người cho chúng ta được tự do sử dụng: “Ông đưa cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng mỗi người. Rồi ông đi xa” (Mt 25, 15). Có người nói rằng tại sao Chúa không cho ai cũng giống nhau, đỡ phải ghen tỵ, tranh giành, thêm nhiều tội. Đó là những suy nghĩ theo kiểu của con người. Còn Thiên Chúa, Người biết những điều gì là thực sự tốt nhất và cần thiết nhất cho từng người. Điều quan trọng là mỗi người có biết, có nhận ra, và làm phong phú những nén bạc Người trao mà thôi. Thật vậy, nếu ai cũng là giáo viên thì ai là học trò? Ai cũng làm kinh doanh thì ai làm người nông dân, là người thợ sản xuất?!… Thiên Chúa đặt mỗi người chúng ta vào trong những hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau: người làm nghệ sĩ, người làm nông dân, làm bác sĩ, làm phi công,… Như vậy, xã hội của con người mới trở nên phong phú, hữu dụng, toàn diện và tốt đẹp; con người sống tương quan với nhau trong sự tôn trọng, hiệp nhất yêu thương.
Những nén bạc Chúa trao cho mỗi người rất nhiều, nhưng dường như chúng ta đang chôn giấu nén bạc ấy trong sự thất vọng, chán nản. Chúng ta trì trệ trong sự mặc định cho bản thân: Tôi là như thế rồi, số của tôi đã được định sẵn, cố gắng làm gì cho phí công tốn sức rồi cũng chẳng đi đến đâu… Chúng ta không dám thử sức, phấn đấu, làm với hết khả năng. Những ông bố say rượu, cờ bạc vẫn chứng nào tật đấy, chẳng chịu làm ăn, gánh vác trách nhiệm gia đình, tối ngày say xỉn ; những học sinh, sinh viên chưa dám cố gắng hết sức để trau dồi thi thức… Như thế, chúng ta đang tiêu tốn biết bao của cải Chúa ban, mà mãi chúng ta chưa thăng tiến, giống như người đầy tớ nhận được một yến (x. Mt 25, 14-30). Anh ta sợ thất bại, anh tự ti vì anh có một yến ít hơn người khác, anh không làm gì cả và chôn giấu nó. Thật đáng buồn.
Bên cạnh đó, vẫn có những người dù có ít nén bạc nhưng vẫn thành công, điển hình anh Nick Vujicic, người Úc. Tuy anh là người khuyết tật, nhưng anh đã vượt lên trên tất cả để trở thành doanh nhân, thành người diễn thuyết tài giỏi, đặc biệt, anh trở thành người truyền cảm hứng cho người khác.
Mỗi người đừng chôn giấu nén bạc Chúa ban nữa, nhưng ngay từ bây giờ, hãy làm cho nó sinh lời trong từng ngày sống. Chúng ta hãy bắt đầu từ công việc nhỏ nhất như: đọc một cuốn sách, nghe một bài hát, tập quan tâm đến một người nào đó,….Chắc chắn bạn sẽ nhận được rất nhiều điều thú vị mà bạn chưa từng nghĩ tới. Điều quan trọng chúng ta hãy ra sức làm hết bổn phận và trách nhiệm, đặt hết tình yêu vào trong từng công việc mình làm.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho con rất nhiều nén bạc. Xin cho con luôn nỗ lực khám phá những nén bạc Chúa ban cho con, cố gắng cộng tác với ơn Chúa ban để sinh lời ra những nén bạc khác. Xin cho những nén bạc ấy không chỉ làm giàu cho chính con, mà còn hữu ích cho tha nhân, xây dựng xã hội trong yêu thương và hiệp nhất. Đặc biệt, vào ngày sau hết, những nén bạc con đã làm sinh lời mua được hạnh phúc Nước Trời cho chính con. Amen.
Mang thân phận người, ai chẳng đi theo quy trình: sinh lão bệnh tử, và chúng ta vẫn hiểu: sông có TN 33-A98
Mang thân phận người, ai chẳng đi theo quy trình: sinh lão bệnh tử, và chúng ta vẫn hiểu: sông có khúc, người có lúc, vì thế hãy chấp nhận cuộc sống có vui, có buồn, cho dù một số vị đang cố gắng tìm cách né tránh những khó khăn khổ đau đang xảy đến. Hãy lạc quan bởi đấng bậc sinh thành cả một đời hy sinh vì con vì cháu, gia tài các ngài để lại không đơn thuần chỉ là vật chất, nhưng trĩu nặng tình yêu thương. Hãy hy vọng tâm ý của các bậc làm cha mẹ luôn mong mỏi: con hơn cha nhà có phúc, hoặc hy sinh đời bố củng cố đời con, là sự thực. Hãy tin, bậc tiền bối của chúng ta còn lưu truyền một sức mạnh thiêng liêng hầu tiếp sức nâng đỡ con cháu: con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.
Có thể nói, ai sống ở trên đời mà chẳng mơ ước hạnh phúc, mơ được trường sinh bất tử, vì thế nếu không sợ khổ đau, không sợ chết, đó là chuyện lạ. Nếu là người ngoài cuộc, sẽ khó hiểu biết bao, tại sao cha ông chúng ta “không sợ máu chảy đầu rơi”, dù các ngài có cách thoát chết. Đức Giêsu năm xưa có nhắn gởi các môn đệ một sự thật: “người đời sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ, nhưng các con đừng sợ, chính Thánh Thần sẽ trợ giúp các con”. Rồi sau đó, cả Thầy-trò đều bị thế gian ghét bỏ, loại trừ, dù Thầy-trò Đức Giêsu không phạm pháp hay đứng dậy chống đối nhà cầm quyền, tất cả chỉ vì yêu nhân loại.
Giáo hội Việt Nam chúng ta hôm nay mừng kính Các Thánh Tử Đạo, gương chứng nhân đức tin của các ngài đã trổ sinh bông hạt. Dù mắt thường chúng ta không thấy, nhưng bằng mắt đức Chúa vẫn đang ban ơn, ban điều kiện để con cháu cùng phát huy truyền thống sống đạo, giữ đạo. Cách chung chung, đạo làm người được khơi dạy sống chữ tình, chữ hiếu ; hãy theo Thầy, đó là đạo làm con Chúa, mọi người đều được hiểu, phải biết sống giới luật mến Chúa yêu người. Hãy theo Thầy, có thể nhiều người không còn xa lạ với khái niệm nói và làm là nguyên nhân dẫn tới thành công hoặc thất bại, nói khoác lác hay làm bâng quơ không thể đưa đến hạnh phúc thật.
Đức Giêsu không rao giảng một giáo lý đau khổ, không chủ trương một đạo luật yêu thương đến độ im lặng để kẻ gian ác bắt bớ tiêu diệt cách vô cớ. Đức Giêsu kêu gọi những ai theo Chúa làm môn đệ, thì hãy theo Thầy, hãy tin Thầy, vì Thánh Thần sẽ nói, sẽ hướng dẫn và nâng đỡ tất cả những ai sống đạo luật yêu thương. Sống đạo hay sống niềm tin vẫn là một cuộc chiến không ngơi nghỉ giữa thiện và ác, tội và phúc, giữa cái tốt và cái xấu ; tin Chúa, theo Chúa, phải thực hành niềm tin, phải sống khác với thế gian đã là đang chiến đấu rồi. Tiền nhân của chúng ta xưa kia chắc chắn không phải là những người vô hồn vô cảm, ai nói sao làm vậy, ai xúi bậy cũng làm theo, nhưng các ngài rất khôn ngoan khi cậy dựa vào tình yêu, vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Hãy theo Thầy, hãy sống theo truyền thống đức tin của tiền nhân: cha anh hùng, con sẽ hảo hán, dù có lả lướt mỹ từ một chút cũng nên biết lắm: cha là núi, mẹ là sông, anh em hiếu thuận, gia tộc an vui. Chúng ta có quyền tự hào vì dòng máu đức tin của các ngài đã tưới gội lênh láng khắp quê hương đất nước, vì tình yêu Đức Kitô, gương anh dũng sống đạo các ngài đã góp phần xây dựng Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Khi nói đến tình yêu lứa đôi, người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp, đến hương vị hạnh phúc, còn nhắc tới tử đạo, người ta thường nghĩ tới máu me, bạo lực, chết chóc xảy ra. Khi nói đến những tín hữu theo Thầy Giêsu, chúng ta luôn được mời gọi để sống chọn lựa, và chọn Chúa sẽ bị thế gian loại trừ, đó là sự thật, là điều mà chúng ta sẽ tiếp tục minh chứng đức tin.
Hãy theo Thầy, tin Thầy, có thể gian lao khốn khó ở hiện tại hoặc hạnh phúc ở tương lai chưa rõ ràng, nhưng theo Thầy thì phải vác thập giá, phải đối diện với thế gian đầy ganh ghét là không sai, nhưng chúng ta chiến đấu và chiến thắng là nhờ sức mạnh của Chúa. Theo Thầy, tin Thầy Giêsu, không có nghĩa là tất cả phải chịu đóng đinh thập giá, chịu chết tù tội hay chết chém để được xếp vào hàng ngũ tử đạo, nhưng người theo Chúa đều phải sống đức tin và đức ái, dù máu không chảy, đầu không rơi. Trong tình đồng loại, người ta có thể chia sẻ cơm áo cho nhau vì yêu thương, trong ơn cứu độ, Đức Giêsu dám từ bỏ ý riêng, vâng phục thánh ý Chúa Cha chết thập giá, biến đổi thân xác Ngài làm của ăn nuôi người trần thế.
Tham sống sợ chết, có thể là bình thường vì chúng ta mang thân phận người yếu hèn, nhưng mỗi người vẫn có tự do để suy nghĩ về cách sống đức tin hiện tại của mình, chúng ta có sợ cái chết vô nghĩa không ? Hãy theo Thầy, tin Thầy, người kitô hữu sẽ hiểu đâu là hạnh phúc thật, đâu là bình an thật, đâu là cuộc sống có ý nghĩa nhất, thưa đó là cuộc đời có đức tin và đức ái, có đủ tình Chúa và tình người. Chết già, chết bệnh, chết vì tai nạn, chết vì dám bênh vực đức tin kitô giáo, chết vì yêu Chúa và Hội Thánh, cũng đều gọi là chết. Hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, nhờ lời lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mỗi chúng ta vừa đủ khôn ngoan để chu toàn bổn phận và trách nhiệm theo Chúa làm môn đệ, tiếp tục truyền thống đức tin của tiền nhân. Amen.
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn 10 cô trinh nữ cầm đèn TN 33-A99
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn 10 cô trinh nữ cầm đèn dầu đi đón chàng rể, trong số 10 cô trinh nữ này, có 5 cô dại khờ và 5 cô khôn ngoan, để dạy chúng ta phải luôn sẵn sàng chuẩn bị tỉnh thức đón lúc Chúa đến. Trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta nghe dụ ngôn về những nén bạc. Chúng ta thấy cả ba người đầy tớ trong dụ ngôn đều được chủ trao cho một số vốn. Người thứ nhất được chủ trao cho 5 nén bạc, người thứ hai 2 nén, và người thứ ba 1 nén. Người thứ nhất và người thứ hai nhận biết sự tín nhiệm của ông chủ, cố gắng tìm cách để sinh lợi cho chủ và được chủ khen là những đầy tớ trung thành. Còn người thứ ba cũng tỏ ra hiểu trách nhiệm, nhưng vì không hoàn toàn tín nhiệm chủ, hay nghĩ rằng được ít hơn 2 người kia, cho nên không cố gắng đầu tư làm lời cho chủ. Chúng ta thấy anh đã không làm mất vốn của chủ, nhưng dưới con mắt của ông chủ như thế thì không xứng đáng, vì thế anh bị chủ gọi là “tên đầy tớ vô dụng.”
Có một câu hỏi rất quan trọng cho chúng ta là: Tại sao Chúa kể cho chúng ta nghe dụ ngôn này? Hay nói một cách khác: Ý nghĩa của dụ ngôn là gì? Ông chủ đi xa là ai? Ai là những người đầy tớ? Những nén bạc ám chỉ điều gì? Ông chủ đi xa là chính Chúa Giê-su. Sau khi phục sinh, Người đã về trời và sẽ trở lại trong ngày tận thế để phán xét. Những người đầy tớ là tất cả chúng ta, ông bà anh chị em và tôi. Những nén bạc ám chỉ những ơn lành hồn xác Chúa ban, đó là cuộc sống, đức tin, cộng đoàn giáo xứ, gia đình, con cái, trí khôn, tài năng, thời giờ, tiền bạc, của cải, và nhiều thứ khác nữa. Trong lúc đi xa, Chúa kỳ vọng và mong ước chúng ta sử dụng những ơn lành để xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Người.
Trong kho truyện cổ tích của Ấn Độ, có một câu truyện về một đôi vợ chồng vừa lười lại vừa bướng bỉnh. Một hôm hai vợ chồng đang ngồi ăn cơm tối, thì bỗng trời nổi gió mạnh, như ngày hôm nay ở Tulsa chúng ta đây. Gió thổi mạnh vào ga-ra và làm cho cánh cửa vào nhà mở tung ra. Thấy thế chồng nói với vợ: – Bà ra đóng cửa ga-ra lại đi kẻo gió lạnh thổi vào nhà. Người vợ lắc đầu nói: – Ông ra mà đóng. Người chồng không chịu thua, nên đáp trả: – Bà ra mà đóng.
Thế là hai vợ chồng cứ ngồi ở đó lừa cho nhau về việc đi đóng cửa. Thấy việc không ổn, người chồng bỗng nảy ra một ý kiến. Anh nói với vợ: – Bây giờ hễ ai lên tiếng trước thì người đó phải ra đóng cửa ga-ra, bà có chịu không? Người vợ đồng ý. Từ lúc đó, cả hai vợ chồng, chẳng ai nói với ai lời nào nữa. Họ đã giữ im lặng cho đến lúc đi vào phòng ngủ. Thế là cửa ga-ra và cửa vào nhà đêm đó bỏ ngỏ. Vì nhà không đóng cửa, nên đêm đó con chó của hàng xóm đã vào nhà dọn hết sạch những thức ăn ở dưới bếp mà họ đã để dành cho ngày hôm sau.
Sáng hôm sau, lúc vừa từ giường đi ra, cả hai vợ chồng đều chưng hửng vì mọi thứ để ăn sáng đã bị dọn sạch. Nhưng vì chợt nhớ đến điều đã cam kết với nhau tối hôm trước, nên chẳng ai nói với ai lời nào. Sau khi làm vệ sinh cá nhân buổi sáng, hai vợ chồng thấy không còn gì ăn sáng, thế là người vợ lặng lẽ xách giỏ đi chợ. Còn chồng thì ngồi đó chờ ăn sáng và nghĩ cách là làm sao để cho vợ anh phải lên tiếng trước mình. Đang lúc ngồi suy nghĩ thì có một anh thợ hớt tóc dạo đi ngang qua. Anh vẫy tay và chỉ vào đầu mình. Anh thợ hớt tóc vào chào chủ nhà, nhưng chủ nhà chẳng nói một lời nào. Anh thợ hớt tóc nghĩ có lẽ chủ nhà bị câm điếc, vì thế không cần chờ ý kiến của chủ nhà, anh thợ hớt tóc lấy đồ nghề ra hớt tóc cho chủ nhà.
Thấy bộ mặt dễ ghét và lạnh lùng của chủ nhà, nên anh thợ hớt tóc nẩy ra một ý nghĩ thay vì hớt tóc đàng hoàng, anh lại chỉ hớt một bên, còn bên kia vẫn để nguyên. Nhìn vào gương, thấy mái tóc của mình như thế, chủ nhà giận dữ trố mắt nhìn chứ chẳng nói năng gì. Anh thợ hớt tóc bắt đầu đâm lo, vì anh nghĩ rằng có lẽ người này đã bị ma quỉ ám nhập gì đó. Thế là anh vội vã cuốn gói chạy đi mất.
Khi anh thợ hớt tóc đi khỏi rồi thì người vợ đi chợ về. Vừa bước chân vào nhà, thấy đầu tóc chồng quá dị hợm và buồn cười, nên buột miệng hỏi: – Ông làm sao thế, có khùng không? Ngay lúc ấy người chồng phá lên cười một cách đắc thắng. Anh nói với vợ: – Thế là từ nay công việc đóng cửa ga-ra là phần của bà đó nhá, vì bà đã lên tiếng trước tôi mà. Chỉ vì lười biếng và bướng bỉnh mà cả hai vợ chồng kia đã mất hết đồ ăn sáng hôm ấy, và người chồng phải chịu mang một cái đầu tóc quái gở.
Ông bà anh chị em thân mến. Mỗi người đều được Chúa ban cho một số vốn để sinh sống. Vốn ấy là sức khỏe, thời gian, khả năng… Bổn phận của chúng ta là làm sao để số vốn đó sinh lời, để khi chết hay đến ngày phán xét ra trước tòa Chúa, chúng ta trao lại cho Chúa cả vốn lẫn lời. Đối với Chúa, năm nén, hai nén, hay một nén, điều đó không quan trọng nhưng Chúa muốn mỗi chúng ta phải biết làm sao cho những nén bạc ấy sinh lời. Chúng ta đừng so đo với người khác về khả năng Chúa ban cho, cũng đừng kiêu căng vì người khác ít khả năng hơn mình.
Nén bạc Chúa trao cho chúng ta nói lên rằng chúng ta không phải là đầy tớ nhưng là người cộng tác với Chúa để mở mang, xây dựng Nước Chúa. Chúa không đòi hỏi điều gì quá sức chúng ta. Chúa chỉ muốn chúng ta có lòng bác ái, hy sinh và quảng đại, vì thế chúng ta phải biết dùng hết khả năng mình mà làm sinh lời những nén bạc Chúa trao. Vấn đề là chúng ta có lắng nghe và thực hành những điều Chúa dạy hay không mà thôi.
Chúng ta tạ ơn Chúa vì đã yêu thương, tín nhiệm và trao cho chúng ta những nén bạc. Xin Chúa giúp chúng ta cố gắng biết dùng hết khả năng mình mà đầu tư, làm cho những nén bạc ấy sinh lời, để ngày chúng ta đến đứng trước tòa Chúa phán xét, chúng ta được lắng nghe lời dịu dàng của Chúa: “con hãy vào mà hưởng niềm vui hạnh phúc của chủ con.”