Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 29 TN-A Bài 51-100: Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa
------------------------------------------
Tin mừng: Mt 22,15-21
15 Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy. 16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”
18 Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19 Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người một quan tiền. 20 Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây ?” 21 Họ đáp: “Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
------------------------------------------
Mục lục:
TN 29-A51: Của Thiên Chúa thì hãy trả lại cho Thiên Chúa. 2
TN 29-A52: YÊU NÊN GHEN ! 5
TN 29-A53: TRẢ LẠI CHO CHÚA.. 8
TN 29-A54: NỘP THUẾ CHO XÊDA.. 10
TN 29-A55: BỔN PHẬN ĐỐI VỚI THẾ QUYỀN VÀ THẦN QUYỀN.. 15
TN 29-A56: MỘT LÁ PHIẾU - Lm Mark Link, SJ. 21
TN 29-A57: THIÊN CHÚA VÀ XÊ DA - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR.. 23
TN 29-A58: CẢNH CÂU CHUYỆN. 25
TN 29-A59: Chúa là chủ của thời gian - Lm. Ansgar Phạm Tĩnh. 31
TN 29-A60: TRẢ CHO XÊDA VÀ TRẢ CHO THIÊN CHÚA.. 35
TN 29-A61: TRẢ LẠI CHO NGUỜI - Lm. Nguyễn Khoa Toàn. 37
TN 29-A62: CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN - Rev. John Trần Khả. 40
TN 29-A63: MỘT THIÊN CHÚA, MỘT TỔ QUỐC... 43
TN 29-A64: CHÚA NHẬT 29 MÙA THƯỜNG NIÊN - John Nguyễn. 45
TN 29-A65: LÀM CHỨNG LÀ CHU TOÀN TRÁCH NHIỆM... 48
TN 29-A66: Chúa Nhật 29 Thường Niên A.. 49
TN 29-A67: MỘT LỰA CHỌN - Lm. Đỗ vân Lực, OP. 52
TN 29-A68: TRẢ VỀ THIÊN CHÚA – Manna. 55
TN 29-A69: CÂU HỎI VỀ CHÍNH TRỊ - Lm. Giuse. Nguyễn Cao Luật, OP. 57
TN 29-A70: HÃY TRẢ LẠI THIÊN CHÚA NHỮNG GÌ CỦA NGƯỜI 61
TN 29-A71: Của Xê-da, trả về Xê-da. 69
TN 29-A72: CẦM NHẦM ! 70
TN 29-A73: ÔI VẬT VÔ TRI CŨNG CÓ HỒN.. 74
TN 29-A74: Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 77
TN 29-A75: Độc lập tinh thần và phục vụ chính trị. 79
TN 29-A76: Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An. 80
TN 29-A77: Suy niệm của Charles E. Miller. 83
TN 29-A78: Tôn giáo và chính trị 84
TN 29-A79: Của Caesar trả cho Caesar, Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa. 86
TN 29-A80: Chú giải của Noel Quesson. 90
TN 29-A81: Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 94
TN 29-A82: TỪ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG CHÚA GIÊSU LÁI SANG CHUYỆN TÂM LINH.. 100
TN 29-A83: NỘP THUẾ CHO XÊDA.. 105
TN 29-A84: Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa. 111
TN 29-A85: CỦA CÉSAR HÃY TRẢ CHO CÉSAR CỦA THIÊN CHÚA HÃY TRẢ CHO THIÊN CHÚA.. 112
TN 29-A86: MỘT LỰA CHỌN.. 114
TN 29-A87: Lệnh của con người và thánh ý Thiên Chúa. 117
TN 29-A88: CHÚA NHẬT 29 QUANH NĂM... 121
TN 29-A89: CHÚA NHẬT 29 QUANH NĂM... 124
TN 29-A90: CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN.. 127
TN 29-A91: CỦA XÊDARÊ HÃY TRẢ CHO XÊDARÊ CỦA THIÊN CHÚA HÃY TRẢ CHO THIÊN CHÚA.. 129
TN 29-A92: GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI 131
TN 29-A93: Thiên Chúa và Caesar 133
TN 29-A94: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. 135
TN 29-A95: CỦA CAESAR, CỦA THIÊN CHÚA.. 138
TN 29-A96: HAI TRONG MỘT, HAY MỘT THÀNH HAI 141
TN 29-A97: Mọi sự là của Chúa, hãy trả Thiên Chúa. 142
TN 29-A98: Nộp thuế. 144
TN 29-A99: Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà. 145
TN 29-A100: Trả nợ cuộc đời 149
------------------------------------------
Nhiều người không biết rằng Thiên Chúa là chủ của thời gian. Họ cũng không biết rằng tất cả: TN 29-A51
Nhiều người không biết rằng Thiên Chúa là chủ của thời gian. Họ cũng không biết rằng tất cả những thời giờ mà họ đang có là thuộc về Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa là Ðấng đã tạo dựng nên mặt trời với mặt trăng, Ngài đã ra lệnh là hết thảy được tạo thành (Tv 148:5).
Một số đông khác thì không biết hay không nhận thức rằng tất cả mọi thứ họ đang có như: trí khôn, sự thông minh, tài năng, sức khoẻ … là của Thiên Chúa, và đến từ Thiên Chúa "Thiên Chúa có cả khôn ngoan lẫn sức mạnh, mưu lược cũng như tài thông hiểu đều thuộc về Người” (Job 12:13).
Và còn có rất nhiều người, trong đó có bạn và tôi, quên mất rằng những gì chúng mình đang có như địa vị, bằng cấp, nghề nghiệp, khả năng chuyên môn, của cải, tài sản và cả mạng sống … là của Thiên Chúa và tất cả đều thuộc về Ngài. “Chúng ta hãy để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất. .. và thống trị mặt đất’” (Gen 1:28-29).
Nếu bạn ý thức và nhận ra được rằng thời gian, trí khôn, tài năng, của cải, tài sản vật chất và cả mạng sống của bạn là của Thiên Chúa và mọi sự thuộc về Ngài thì bạn hãy nhớ “trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa!” (Mt 22:21).
Thiên Chúa ban cho bạn và tôi 24 giờ đồng hồ một ngày, 168 giờ trong một tuần lễ, 8,760 giờ trong một năm. Tôi hỏi thật bạn, bạn đã trả lại cho Thiên Chúa bao nhiêu phần trăm? Bạn đã trả lại cho Thiên Chúa bao nhiêu phút mỗi ngày, bao nhiêu giờ mỗi tuần qua những việc lành thánh, đạo đức, lo cho phần linh hồn và đời sống thiêng liêng được 10%, 5%, 3%, 1% hay chỉ 0.5% ?
Thiên Chúa đã cho tôi và bạn trí thông minh, sức khoẻ và những cơ hội tốt để có việc làm trong các công xưởng, nhà máy, xí nghiệp … Nhờ ơn của Thiên Chúa bạn mới có thể trở thành bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá, luật sư, giáo sư, kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật; hay là chủ nhân nhà hàng, tiệm sửa xe, tiệm nail, tiệm vàng, tiệm giặt ủi, tiệm may… Bạn đã dành ra 10% thu nhập của bạn để trả lại cho Thiên Chúa hay chỉ trả cho Ngài 0.5-1 %?
“Mỗi năm [các ngươi] phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì [các ngươi] gieo, những gì mọc lên ngoài đồng…. lúa mì, rượu mới, dầu tươi … những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của [các ngươi] … Nếu đường quá dài khiến [các ngươi] không thể đem thuế thập phân đến được … [các ngươi] hãy đổi lấy bạc, cầm trong tay và đi tới … [nộp cho các] thầy Lê-vi ở trong các thành của [các ngươi]” (Đnl. 14:22-27).
Bạn đừng bao giờ quên Lời của Chúa Giêsu nói với chúng mình trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay “… của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa!” (Mt 22:21).
Bạn hãy trả lại cho Thiên Chúa 10% thôi! Một phần mười thời gian mỗi ngày (160 phút) của Thiên Chúa bằng cách tham dự Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, cầu nguyện, lần hạt Mân Côi, thăm viếng người già nua, bịnh tật, giúp đỡ cho những công việc chung của cộng đoàn và của giáo xứ. Ðược như vậy thì tôi tin rằng bạn đã thi hành rất tốt bổn phận của người công dân Nước Trời rồi.
Thiên Chúa truyền lệnh bạn và tôi phải đóng thuế thập phân (tithe) cho Giáo Hội của Ngài. Nhưng tôi nghĩ, chỉ cần bạn đóng góp 5% thôi, cho giáo xứ, cho những chương trình cứu trợ, cho những cuộc quyên góp giúp nạn nhân bão lụt, thiên tai, động đất… thì cũng quý hóa lắm rồi!
Giáo luật hiện hành số 222 quy định rằng: “Các tín hữu có bổn phận chu cấp cho các nhu cầu của Giáo Hội, để Giáo Hội có sẵn những gì cần thiết hầu xử dụng vào việc phụng thờ Thiên Chúa, các công tác tông đồ và bác ái và việc trợ cấp xứng đáng cho các thừa tác viên. Các tín hữu [cũng] có bổn phận cổ võ công bằng xã hội cũng như dùng tài sản riêng tư để giúp đỡ những người nghèo, theo lệnh truyền của Thiên Chúa.”
Khi bạn và tôi biết trả lại cho Thiên Chúa 10% của những giờ khắc qua những công việc đạo đức, cầu nguyện, tham dự thánh lễ.
Khi tôi và bạn trả lại cho Thiên Chúa 5% của số lương thu nhập hàng tháng, biết cống hiến những tài năng về âm nhạc, hội họa và tri thức của bạn trong những hoạt động của giáo xứ, cho những công việc thiện nguyện và bác ái của Giáo Hội thì chúng mình đang “trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.”
Khi bước vào trong cuộc đời này bạn và tôi chỉ có hai bàn tay trắng. Khi từ giã cõi đời này thì chúng mình cũng chỉ trắng tay ra đi mà thôi (Job 1:21).
Nếu chúng mình không khéo quản lý những tài sản Chúa trao phó thì một ngày nào đó, Chúa sẽ nói với tôi và bạn "Ta nghe người ta nói gì về ngươi đó? Công việc quản lý của ngươi, ngươi hãy tính sổ đi, vì từ nay ngươi không được làm quản lý nữa!”(Lc 16:2)
Đừng quá tham lam chỉ biết thủ cho mình và không biết trả lại cho Thiên Chúa, nếu không, Ngài sẽ nói với bạn và tôi rằng: “Đồ ngốc! Nếu đêm nay, [Ta] đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi để dành đó sẽ về tay ai?” (Lc 12:20).
Thời gian, sức khỏe, trí tuệ, tài năng, của cải, tài sản và mạng sống nữa, tất cả là “của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa,” xin bạn đừng bao giờ quên! Ðừng khư khư giữ lấy những gì không thuộc về bạn!
Lm. Ansgar Phạm Tĩnh
phamtinh@yahoo.com
LM. Ansgar Phạm Tĩnh
--------------------------------------
(Is 45,1.4 – 6; 1Th 1, 1-5b; Mt 22,15 –21)
Một đứa bé ghen với em mình khi bố mẹ đều dành hết tình cảm cho thằng cu Tí mới sinh. Một em bé: TN 29-A52
Một đứa bé ghen với em mình khi bố mẹ đều dành hết tình cảm cho thằng cu Tí mới sinh. Một em bé khóc thét lên khi mẹ bế một em bé khác… Lớn hơn một chút là ghen với đứa bạn học cùng lớp khi nó được thầy cô quý mến hơn hay được nhiều bạn bè mến mộ hơn. Khi đến tuổi trưởng thành rồi thì ghen với người yêu với người bạn đời khi họ có biểu hiện không chung thủy. Thậm chí khi làm cha làm mẹ rồi họ vẫn còn ghen. Ghen với đứa con nhỏ mới sinh khi “thằng nhóc” dành hết sự quan tâm của vợ, ghen… với con dâu, nhiều bà mẹ có cảm giác mất con trai.
Ghen, một "phẩm chất" cố hữu của tình yêu đôi lứa, một điều nghe đã quá đỗi bình thường nhưng lại không hề cũ trong mọi thời đại.
"Phẩm chất" này đã tồn tại lâu đời, như một thực tại khách quan trong ý thức hệ của con người từ lúc sinh ra và có thể còn tồn tại mãi mãi cùng với cuộc sống.
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ. Bất cứ một sự chia sẻ nào cũng làm cho tình yêu trở nên không trọn vẹn và mất đi sự thiêng liêng của thứ vốn có tính bền vững vĩnh cửu trong đời sống tinh thần của con người.
Khi đã đem lòng yêu ai, người ta chỉ muốn người ấy chỉ là của riêng mình. Một cách tuyệt đối. Theo đó, những người yêu chưa hết mình, theo kiểu nửa vời hoặc những kẻ tính toán, hẳn nhiên không thể có cái "ghen nồng nàn", đáng yêu, đẹp đẽ như một người có sự trao gửi tuyệt đối về tư tuởng và hành động đối với người mình yêu.
Lời ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe đã gợi lại cho chúng ta về hình ảnh của một Thiên Chúa ghen tuông. “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác”.
Lời ngôn sứ ấy đã tả về một Thiên Chúa phải nói là quá ghen tương “chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta”. Nếu ai nghe Đức Chúa nói câu này cũng sẽ rất sốc. May mà câu nói này nó đặt trong bản văn Kinh Thánh và có đầu có đuôi, có nguyên nhân chứ không Đức Chúa cũng bị các phương tiện truyền thông cắt đầu cắt đuôi và sẽ “cảnh cáo” là người không xứng đáng là công dân Nước Trời chứ huống hồ gì là Chúa của Nước Trời. Mà cũng đúng thôi, nghe qua sốc thật. Nhưng, chúng ta hãy bình tình, ngồi lại với nhau đọc lại, nhìn lại lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa thực thi cho dân Ngài thì chúng ta sẽ hiểu rõ văn mạch của đoạn này. Cũng thế ! nếu chúng ta đọc lại toàn bộ bản văn phát biểu của Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, tâm tình, thao thức của Ngài, chúng ta sẽ hiểu được Ngài muốn nói gì.
Tại sao Đức Chúa lại phán như thế ? Không phải tự nhiên mà Ngài phán như thế ! Chúng ta, khi nhìn lại lịch sử cứu độ thì chúng ta thấy Đức Chúa có ý và có lý chứ không phải là không không mà Đức Chúa nói như thế.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã tạo nên trời đất muôn vật, tạo nên con người có nam có nữ và Ngài cũng không quên thiết lập mối quan hệ, mối tương quan và nói đúng hơn là mối tình với con người. Thế nhưng, chẳng bao lâu thì ông bà nguyên tổ đã sa ngã, đã phạm tội và đã đánh mất đi cái tình yêu tinh tuyền tự ban đầu. Và cứ tiếp tục như thế, Thiên Chúa đã yêu thương con người nhưng hình như con người cứ cố tình ngoảnh mặt làm ngơ và khước từ cái tình yêu ấy. Không từ bỏ, không đoạn tuyệt, Thiên Chúa vẫn một lòng chờ đợi lòng chai dạ đá của con người sẽ thay đổi nhưng chờ mãi vẫn không thấy.
Qua miệng của các ngôn sứ, Thiên Chúa đã nhiều lần ngon ngọt có, răn đe có nhưng lòng dạ của con người cứ trơ trơ ra vậy.
Qua Môsê, người trung gian giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa đã phán: "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. Ngươi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi. (Tl 6,6-12)
Hơn một lần Môsê đã cảnh báo: “Nếu các ngươi thực sự vâng nghe những mệnh lệnh Ta truyền cho các ngươi hôm nay, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, và phụng thờ Người hết lòng hết dạ, thì Ta sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa, mưa đầu mùa và mưa cuối mùa, và các ngươi sẽ thu hoạch lúa mì, rượu mới và dầu tươi của các ngươi. Ta sẽ cho cỏ mọc trong cánh đồng của các ngươi, cho súc vật của các ngươi ăn. Các ngươi sẽ được ăn và được no nê. Anh em hãy ý tứ kẻo lòng anh em bị quyến rũ mà bỏ đi phụng thờ những thần khác và sụp xuống lạy chúng, vì Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh em, Người sẽ đóng cửa trời: sẽ chẳng còn mưa, đất sẽ không còn trổ sinh hoa trái, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất tốt tươi mà Đức Chúa ban cho anh em. Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài.”. (Tl 11,13-21).
Thiên Chúa, vì lẽ quá yêu thương con người nên Ngài đã lập một giao ước tình yêu với con người, thế nhưng con người cứ ngoảnh mặt đi với tình yêu ấy.
Chắc có lẽ chúng ta không thể nào quên được cái sự kiện khi mà Môsê lên núi để đàm đạo với Chúa thì ở dưới núi, dân chúng đã đúc bò vàng … chưa hết, dân chúng sau này còn đi theo thần ngoại bang để rồi ngày hôm nay, chúng ta được nghe Isaia cảnh báo.
Tưởng chừng Cựu Ước là kinh nghiệm lớn chuyện tình giữa con người và Thiên Chúa nhưng con người thời Tân Ước cũng thế ! Cũng chạy theo không biết bao nhiêu là thần khác để rồi ngày hôm nay khi những người Pharisiêu và những người muốn Chúa mắc bẫy đã chửi thẳng vào mặt họ: "Hỡi những kẻ giả hình ! Người còn nói với họ: "của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." Nói như thế, Ngài muốn nói với Pharisiêu, những người thử Ngài và thậm chí ngay cả những người chúng ta rằng những gì của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa.
Vâng ! Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, chúng ta phải sống sao cho ra con cái Thiên Chúa chứ đừng sống theo kiểu người đời. Thánh Phaolô hơn một lần đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này ! Chúng ta, hôm nay có cơ hội để nhìn lại mình xem chúng ta sống như thế nào ? Chúng ta có sống với tư cách là con cái Thiên Chúa hay không hay là chúng ta sống theo tư cách của người đời.
Chúng ta phải nhớ một điều rằng, qua trang sách Isaia Thiên Chúa có cái thái độ gì đó mà ta nôm na gọi là ghen ! Tại sao ghen ! Tại vì yêu quá nên ghen và khi con người quay lưng thì Thiên Chúa cảnh báo.
“Chúa có tình yêu cao vời vợi,
tình vượt cao hơn ngàn vì sao
mãi mãi luôn bao la, muôn đời con cảm tạ tình Cha
Mãi mãi Chúa là cha nhân ái, là mẹ hiền nuôi sống con”.
Chúng ta vẫn thường hát như vậy nhưng tình ta và tình Chúa như thế nào ? Ta có khá hơn những người dân trong thời Cựu Ước, chúng ta có khá hơn luật sĩ, biệt phái thời Tân Ước hay không ? Hình như nó chẳng khá hơn mà nó còn tệ hơn nữa. Chúa thường hay trách móc biệt phái và luật sĩ nhưng thử hỏi chúng ta có giữ luật Chúa bằng họ không ? Nếu so sánh thì chúng ta khác quá xa. Tình Chúa thì vẫn còn còn tình của ta với Chúa nó nhạt nhạt làm sao đấy.
Tình ta và Chúa đã nhạt thì tình con người làm gì mà mặn được ?
Nhìn vào thực trạng đời sống mỗi người chúng ta ngày hôm nay nó làm sao đó để rồi cuộc đời nó cũng làm sao đó. Xã hội nó làm sao đó, gia đình nó làm sao đó, thành viên trong gia đình nó làm sao đó để rồi cái tình, cái nghĩa giữa con người ngày hôm nay nó cũng không được đong đầy. Chúng ta thấy nó nhợt nhạt nhưng chúng ta cứ lờ đi, chúng ta không nhắc nhở nhau để sống với nhau chung tình chung thuỷ hơn.
Thật sự ra mà nói, có yêu mới có ghen chứ chẳng ai dại đi ghen khi không yêu. Chúa quá yêu nên Chúa mới ghen và nhắc chúng ta không có thần nào khác ngoài Chúa. Chúng ta ngày hôm nay thì quá sức tưởng tượng, chúng ta chạy theo đủ thứ thần hết: tiền, tình, dục, danh, vọng … chúng ta làm thế làm sao mà Chúa không ghen được ?
Còn gia đình, nó cứ nhợt nhợt với nhau làm sao đó. Chúng ta nhìn lại mình, xem mình có yêu chồng, yêu vợ, yêu con cái, yêu thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn mình chưa ?
Nguyện xin Chúa là vua của tình yêu đổ đầy con tim chúng ta tình yêu nồng nàn để chúng ta yêu Chúa, yêu anh chị em đồng loại hơn.
Anmai, CSsR
--------------------------------------
"Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?" (Mt.22:17)
Bạn thân mến !
Đó là câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi mà người Pharisêu đã nêu lên để lập mưu gài bẫy Đức: TN 29-A53
Đó là câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi mà người Pharisêu đã nêu lên để lập mưu gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Ðức Giêsu bảo phải nộp thuế, chắc hẳn Ngài chẳng yêu nước yêu dân tí nào. Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng nộp, chắc chắn Ngài sẽ bị tố cáo. "Hãy cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng thuế " (Mt.22:19). Khi đưa cho Ðức Giêsu đồng bạc có hình Xê-da, những kẻ lập mưu gài bẫy Đức Giêsu đã thú nhận họ đã dùng thứ tiền này, và như thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền bính của Xê-da.
Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là của Xê-da, Ðức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: "Vậy hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da".
Khi trả lời người Pharisêu như vậy, chẳng những Ðức Giêsu không bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội này để đi lên một bình diện cao hơn: "Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa" (Mt.22:21). Ðây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan tâm. Chúng ta tự hỏi: có cái gì xung quanh ta mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình và tên ông, và cũng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh của Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó.
Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St. 1:26). Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa. Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi con người.
Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng con người cho Ngài, là nhìn nhận quyền bính của Ngài trên đời ta. Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món quà Ngài đã ban tặng.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi suy tư về hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người và cuộc sống của tôi, hình ảnh đó có rõ ràng hay đã mờ nhạt? Có lớp bụi nào che khuất khuôn mặt của Chúa nơi con người và cuộc sống của tôi không? Tôi phải làm gì, phải sống ra sao để hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện sống động nơi con người và cuôc sống của tôi .
Thiên Chúa hằng yêu thương tôi, Ngài dựng nên tôi giống hình ảnh của Ngài… Về phần của tôi, tôi đã cảm nghiệm như thế nào về tình yêu sâu xa đó?
***
Lạy Cha, có những người bạn trẻ thích xăm hình lên người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể thao hay điện ảnh. Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu thích.
Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của Cha: Cha quảng đại mở ra để chia sẻ hạnh phúc thần linh, Cha khiêm tốn tôn trọng tự do của con người, Cha yêu thương đến nỗi dám trao hiến Người Con Một chí ái, Cha bao dung tha thứ trước những tâm hồn hoán cải, Cha luôn tận tụy làm việc để nâng đỡ cả thế giới…
Ước gì người ta nhận biết Cha trên trời, khi gặp chúng con ở dưới đất. Ước gì người ta đọc thấy tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con cái của Cha. Amen.
(Trích R. Veritas)
--------------------------------------
Mátthêu 22,15-21
Đức Giêsu không muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng.
Lm PX. Vũ Phan Long, ofm
I. Ngữ cảnh
Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do-thái, các tranh luận được bố trí thành bốn bậc với: TN 29-A54
Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do-thái, các tranh luận được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và được đặt tên như sau:
1- [K]hokmâh (“sự khôn ngoan”): đây là một tranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những bản văn pháp luật;
2- Haggadâh (“truyện ký”): đây là một lối giải thích các băn văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn với nhau;
3- Bôrut (“sự tầm thường”): đây là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành một trò hề;
4- Derek ‘erets (“đường đất”): đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của đời sống luân lý.
Mt đã trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo lược đồ này, nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào cuối cuộc đối chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu (x. c. 42):
1- [K]hokmâh:22,15-22,
2- Bôrut: 22,23-33;
3- Derek ’erets: 22,34-40,
4- Haggadâh: 22,41-46.
Ba tranh luận đầu được gợi lên bởi ba nhóm đại diện Do-thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần Đức Giêsu lại đưa họ đến một câu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ động đặt rõ ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ trong Đền thờ, và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.
II. Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (22,15);
Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (22,16-17);
Câu trả lời của Đức Giêsu (22,18-21):
lật mặt nạ bằng nhận định mở đầu (c. 18),
lật mặt nạ bằng cách dùng đồng tiền nộp thuế (cc. 19-21a),
giáo huấn quan trọng nhất của Đức Kitô: tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).
III. Vài điỂm chú giẢi
- người Pharisêu … người thuộc phe Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan nhượng về tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước chính quyền Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc nâng đỡ các tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.
- người chân thật … chẳng vị nể ai (16): Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng: trung thành với Lề Luật và không cả nể, thiên vị.
- được phép … hay không (17): “Đưọc phép” (exestin) [và “không được phép”] là công thức tiêu biểu của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi “được phép không?” thường được người tín hữu Do-thái đặt ra cho mình và cho các kinh sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa, tức dưới ánh sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi không được đặt ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.
- nộp thuế (17): Ngoài nhiều khoản thu được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường, thuế quan…), các tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để bày tỏ sự thuần phục. Người Do-thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá Khích thì buộc phải coi việc từ chối nộp như một bổn phận tôn giáo.
- đồng tiền nộp thuế (19): Người Do-thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan (dênarion).
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (15)
Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền thờ, các thượng tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục trong dân (21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến lượt những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này những người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để chống một kẻ thù “chung”.
* Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (16-17)
Ở đây những người thuộc phe Hêrôđê, liên minh với các lực lượng xâm lăng, được mời đến làm chứng về một câu trả lời hẳn là sẽ vụng về của Đức Giêsu. Ở Mc 12,14-15, câu hỏi của họ vừa có tính lý thuyết (“có được phép nộp thuế?”) vừa thực tiễn (“chúng tôi có phải nộp thuế?”); ngược lại trong Mt, câu hỏi chỉ có tính lý thuyết (như ở Lc 20,20-26). Thật ra câu hỏi của họ hết sức nham hiểm. Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi ngờ, là một lời khen hết sức giả hình (c. 16): họ chào Người là “Thầy” (Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí công vô tư của Người. Từ đó, họ xin Người ban giáo huấn về một vấn đề phức tạp; họ “nhả chất độc ra” (c. 17): một câu hỏi dứt khoát và đột ngột: “có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Nếu trả lời “có”, Đức Giêsu sẽ khiến dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế quốc; và người Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người trước mặt dân chúng. Còn nếu trả lời “không”, Người sẽ bị coi là chống chính quyền Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo Người là người muốn phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học, bởi vì các nhóm Do-thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như một kiểu thờ ngẫu tượng, mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh hoàng đế hoặc các biểu hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền thờ để khỏi làm giảm thiểu vương quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn Philatô) đã tìm cách làm như thế để hạ nhục người Do-thái, các vị này đã gặp phải sự phản ứng và chống đối gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt Thành) dứt khoát không nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không đặt vấn đề về lý thuyết hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái độ trung dung; họ đã chấp nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu rất nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: “có được nộp thuế hay không?”. Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (18-21)
Trước tiên, Đức Giêsu lật mặt nạ của họ bằng nhận định mở đầu: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ đạo đức giả” (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù khờ. Họ đã mở đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết tìm kiếm chân lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan, để hại Người. Họ đáng bị gọi là “những kẻ đạo đức giả” theo hai nghĩa: trước tiên, bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến một vấn đề thời sự; kế đó, bởi vì khi sử dụng đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận quyền của Hoàng đế từ lâu rồi.
Kế đó, dù câu hỏi được đặt ở bình diện lý thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời (“Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”, c. 19). Nếu họ cũng như mọi người Do-thái có trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất kính, ngẫu tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có một giải pháp cho vấn đề. Tại sao khi dùng đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy náy bao nhiêu, mà bây giờ “trả về Xêda” (nộp thuế) thì họ lại áy náy đến thế? Nếu có vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp thuế. Trong lãnh vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.
Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá câu hỏi được đặt ra: chỉ có một điều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể làm ngay khi phải sống dưới ách đô hộ, đó là “trả về Thiên Chúa”, điều thuộc về Người (c. 21b). Đây là điều Người đã không ngừng nói đến kể từ khi ra đi hoạt động: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33. Xem Bài giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai trật tự khác nhau là Quốc gia và Họi Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau, cũng không biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so với các vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế, chứ không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh né, vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào đúng chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa. Các quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa thì đã được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi của Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.
+ Kết luận
Thật ra, Đức Giêsu không muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể có những xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn nói rằng xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người nào thật sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những giới hạn của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).
V. GỢi ý suy niỆm
1. Chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại lời người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan tính giả hình, để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người không uốn cong các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về thời cơ hoặc nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga 14,6). Đức Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay sự khôn ngoan loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là “ánh sáng cho thế gian” dẫn đưa chúng ta (Ga 8,12), để chúng ta khỏi đi trong bóng tối. Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1 Tm 2,3-6), nên không bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh xã hội của con người (x. Ga 3,28).
2. Thiên Chúa vẫn dành chỗ cho Hoàng đế. Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn các quy định của Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản thân thì thuộc về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của mình. Thiên Chúa đòi hỏi một điều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho Xêda, Người đòi hỏi một điều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân con người, cách tuyệt đối và trọn vẹn (“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng…”).
3. Quyền dân sự nằm trong bình diện trần thế, là bình diện phải lê thuộc các thực tại của bình diện tôn giáo. Ở trong bình diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho chính quyền Rôma chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7). Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn các bổn phận tôn giáo để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong quốc gia. Chúng ta là công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy tại một quê hương trần thế.
Lm PX. Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc", đó là phương châm mà Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đề ra cho mỗi TN 29-A55
"Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc", đó là phương châm mà Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đề ra cho mỗi người giáo dân Việt Nam.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn hai bổn phận đối với Chúa và đới với tổ quốc.
II. GỢi ý sám hỐi
Vì ích kỷ, chúng ta không góp phần xây dựng xã hội và đất nước.
Vì mải mê lo việc thế gian, chúng ta sao lãng bổn phận đối với Chúa.
Lẽ ra vì có ánh sáng Tin Mừng hướng dẫn, chúng ta phải là một công dân gương mẫu, nhưng chúng ta chưa được như thế.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I Is 45,1.4-6
Bối cảnh lịch sử: Năm 587, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, bắt dân Do Thái đi đày. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba Tư dành ngôi bá chủ. Vua của Ba Tư lúc đó là Cyrô. Vừa mới chiến thắng Babylon xong, năm 538, Cyrô ra sắc chỉ cho dân Do Thái được hồi hương.
Mặc dù Cyrô là một người ngoại không hề thờ kính Thiên Chúa, nhưng ngôn sứ Isaia lại coi ông là người được Thiên Chúa dùng: chính Thiên Chúa trao quyền cho ông, Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xui lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Tóm lại, Cyrô là dụng cụ Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài. Vì thế, cuối đoạn trích này, Isaia nhấn mạnh: "Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác".
2. Ðáp ca Tv 95
Tv này ca tụng Thiên Chúa với tư cách là Vua và Chúa tể duy nhất đích thực của muôn dân. So với Ngài, các vua chúa trần gian đều là hư ảo.
4. Tin Mừng Mt 22,15-21
Bình thường, phái Pharisêu và nhóm Hêrôđê không thuận nhau, bởi một bên (nhóm Hêrôđê) thì chạy theo chính quyền Rôma đang đô hộ xứ Palestine, còn bên kia (phái Pharisêu) thì chống lại quân đô hộ. Nhưng hôm nay hai nhóm này liên minh nhau để chất vấn Ðức Giêsu nhằm tìm được cơ hội làm hại Ngài.
Vấn đề họ đem ra chất vấn Ðức Giêsu là "Có được phép nộp thuế cho Xêda không?" Ðây là một cái bẫy thâm độc, vì nếu Ðức Giêsu trả lời "Có" thì nhóm Pharisêu sẽ kết án Ngài là phản quốc; còn nếu Ngài nói "không" thì nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài là phản động.
Với câu trả lời "Của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa", Ðức Giêsu chẳng những không mắc bẫy họ, mà còn dạy lại họ một bài học: đừng chỉ mải mê lo chuyện chính trị, mà hãy lo chu toàn một bổn phận khác còn quan trọng hơn nhiều, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa.
3. Bài đọc II Tx 1,1-5b (Chủ đề phụ)
* Từ Chúa nhựt này, bài đọc II được trích từ thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônikê.
Thêxalônikê là một giáo đoàn non trẻ mà Phaolô rất chăm lo:
Non trẻ: Phaolô thành lập giáo đoàn này vào năm 50 trong chuyến truyền giáo thứ hai. Nhiều người đã đón nhận Tin Mừng và lập thành một cộng đoàn sống động với đức tin cậy mến sốt sắng.
Lo lắng: Nhưng Phaolô chỉ được ở với họ trong một thời gian ngắn (Cv 17,2 nói Phaolô ở với họ "3 ngày". Có lẽ "3 ngày" này không theo nghĩa đen, chỉ có ý muốn nói là trong một thời gian rất ngắn). Sau đó do những người Do Thái mưu hại, Phaolô phải trốn khỏi đó. Tuy Phaolô đã đi xa, nhưng rất lo lắng cho giáo đoàn non trẻ này trước những đòn tấn công của kẻ thù. Vì thế Phaolô gửi thư về khuyến khích họ.
Phần đầu của lá thư này là những lời chào hỏi và khuyến khích. Ðặc biệt Phaolô khen ngợi đức tin, cậy và mến của họ: "Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi".
IV. GỢi ý giẢng
1. Bổn phận công dân
"Có được phép nộp thuế cho Xêda không?" Có nhiều từ trong câu hỏi này cần được giải thích thêm cho rõ:
Thuế: không phải chỉ có ý nói tới việc đóng thuế, mà còn bao gồm tất cả những gì thuộc bổn phận công dân như: yêu nước, góp phần xây dựng đất nước, tuân thủ luật pháp, tùng phục chính quyền...
Xêda: đối với hoàn cảnh lịch sử riêng thời Ðức Giêsu thì Xêda chỉ chính quyền đang đô hộ đất nước Do Thái. Còn đối với hoàn cảnh chung của mọi thời thì chữ Xêda này nên được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ chính quyền cách chung.
Có được phép không: Ðộng từ "được phép" ở thể thụ động, gián tiếp muốn hỏi Thiên Chúa có cho phép không.
Như thế ý nghĩa của câu hỏi này là: Theo ý Thiên Chúa thì người tín hữu có bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền không?
Câu trả lời của Ðức Giêsu "Của Xêda hãy trả cho Xêda" là nền tảng giáo lý về bổn phận công dân: người tín hữu của Chúa cũng là công dân của một đất nước, cho nên phải chu toàn mọi bổn phận công dân một cách đầy đủ và gương mẫu.
Không phải vì là thần dân của Vua Giêsu và là công dân của Nước Trời mà người tín hữu không còn bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền trần gian, bởi vì Nước Trời mà Vua Giêsu thành lập "không thuộc thế gian này" cho nên cũng không chống lại nước và chính quyền trần gian.
Chính Ðức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân: cha mẹ Ngài đã vâng lệnh hoàng đế để về quê quán khai tên (Lc 2,3-5); Ðức Giêsu bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (Mt 17,24-27).
2. Lợi riêng và ích chung
Người Việt Nam nói chung và người tín hữu Việt Nam nói riêng có một thiếu sót rất lớn, đó là không tích cực đóng góp cho lợi ích chung.
Những thể hiện: trốn thuế, gian lận để giảm thuế, ăn cắp của chung, không quan tâm giữ gìn tài sản chung của xã hội, ngại đóng góp để bảo trì hoặc tu sửa nhà thờ, không nhiệt tình góp "tiền rỗ" trong các thánh lễ...
Thiếu sót ấy có lẽ phát xuất từ một cách suy nghĩ rằng mình không có bổn phận gì đối với việc chung và ích chung. Từ suy nghĩ ấy, mỗi lần bỏ ra chút ít gì cho ích chung thì cho rằng đó là một việc thi ơn, một việc từ thiện.
Suy nghĩ ấy hoàn toàn sai. Góp phần cho ích chung không phải là việc tuỳ ý mà là bổn phận, không phải là bố thí mà là công bằng, bởi vì mình được thụ hưởng ích chung cho nên theo công bằng mình phải đóng góp vào đó.
Những công dân và tín hữu có trình độ suy nghĩ trưởng thành ở một số nước khác đều rất ý thức bổn phận này: đối với đất nước, họ quan tâm đóng thuế đầy đủ; đối với Giáo Hội, mỗi lần dự lễ họ đều góp "tiền rỗ", thậm chí có người ít đi lễ mà cũng gởi tiền góp vào quỹ xứ đạo...
3. "Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
Vế thứ hai trong câu Ðức Giêsu trả lời là một lời nhắc nhở cho những kẻ muốn gài bẫy Ngài. Họ đều là tín đồ Do Thái giáo nhưng họ mải mê lo chuyện chính trị, kẻ thì phò theo chính quyền Rôma, người thì chống lại. Họ lại còn muốn lôi Ðức Giêsu vào vòng tranh chấp chính trị của họ nữa. Ðang khi đó thì họ rất thờ ơ với bổn phận đới với Thiên Chúa. Bởi thế Ðức Giêsu nhắc: việc chính trị thì cứ lo, nhưng đừng quên bổn phận đối với Thiên Chúa.
Ta thường nghe nói "tốt đời đẹp đạo". Xét cho cùng, một người tín hữu có "đẹp đạo" trước thì mới dễ "tốt đời" sau, bởi vì chính "đạo" vừa dạy vừa giúp ta cách sống tốt ở "đời".
4. Chuyện minh họa
a/ Ngày nay, hai chữ "chính trị" thường được hiểu theo nghĩa xấu, "làm chính trị" bị coi là một việc nguy hiểm, như những chuyện sau đây:
Hai vợ chồng nhà kia sinh được cậu quí tử. Ngày cậu thôi nôi, một người bạn góp ý thử xem tương lai cậu ra sao. Họ đặt trên bàn một cây vàng, một cuốn Thánh Kinh. một chai rượu và xem cậu chọn cái gì. Nếu cậu chọn vàng thì tương lai sẽ là thương gia. Nếu chọn Thánh Kinh thì là linh mục. Nếu chọn chai rượu thì cuối cùng chỉ là anh chàng bét nhè. Rồi họ đưa cậu vào. Cậu lấy cây vàng đút túi, kẹp cuốn sách vào nách và ôm chai rượu bước ra. Thấy thế, người chồng bảo vợ: "Tốt lắm! Nhất định sau này nó sẽ là một nhà chính trị!"
Ba người chết và về trời cùng ngày. Người thứ nhất là giáo hoàng, người thứ hai là linh mục và người thứ ba là một chính trị gia.
Thánh Phêrô dẫn họ vào thiên đàng: giáo hoàng và linh mục ở trong hai túp lều nhỏ, còn nhà chính trị gia vào tòa nhà lớn.
Cả linh mục và giáo hoàng cung kính hỏi xem tại sao hai tôi tớ trung thành như họ được hưởng cuộc sống hạnh phúc ở nơi không hấp dẫn, trong khi nhà chính trị được sống trong tòa nhà vĩ đại.
Thánh Phêrô trả lời: "Này các con, ở đây đã có nhiều linh mục và giáo hoàng. Nhưng đây là nhà chính trị đầu tiên của chúng ta".
b/ Nhưng tham gia chính trị và làm chính trị cũng là bổn phận công dân của người tín hữu. Sau đây là những tấm gương của một số tín hữu làm chính trị để phục vụ cho quyền lợi đồng bào và nhân loại:
- Dag Hammarskjold, tổng thư ký Liên hợp quốc, chết trong một tai nạn máy bay năm 1961 đang lúc ông đi thăm vùng Trung Phi. Ông không nghĩ việc ông làm chính trị là phương tiện thăng tiến xã hội, mà là thi hành ơn gọi làm tín hữu của ông. Ông nói: "Thờ ơ trước sự ác còn tệ hơn chính sự ác nữa; trong một xã hội tự do, kẻ phạm tội chỉ là một số ít, nhưng tất cả mọi người đều phải chịu trách nhiệm về tội phạm của họ"; "Không một lối sống nào thỏa mãn hơn sống mà phục vụ vô vị lợi cho đất nước và nhân loại".
- Gandhi nói: "Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Ðế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Ðế".
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ. Người dựng nên trời đất muôn vật, và lúc nào cũng: quan tâm chăm sóc hết thảy mọi loài. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh luôn nhắc nhở các kitô hữu phải sống gương mẫu / tuân thủ luật pháp / mến yêu tổ quốc / sống hòa hợp với hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết luôn yêu mến tổ quốc của mình / và gương mẫu trong việc tuân giữ luật pháp.
2. Người kitô hữu có thể khác nhau về quốc gia / chủng tộc / ngôn ngữ / nhưng luôn hiệp nhất trong cùng một đức tin / đức cậy và đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các tín hữu luôn biết sống đoàn kết / thương yêu và nâng đỡ nhau / trong mọi tình huống của cuộc sống thường ngày.
3. Người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng / bổn phận đối với Chúa và đối với tổ quốc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chu toàn mọi trách nhiệm đối với Chúa / và làm tròn nghĩa vụ của một người công dân tốt / là mến yêu tổ quốc / và hiệp sức cùng đồng bào xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
4. Ngoài người mẹ ruột của mình / người kitô hữu có hai người mẹ thiêng liêng khác / đó là Hội Thánh và Ðất nước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn làm tròn chữ hiếu với các bà mẹ này.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho chúng con một dày non sông gấm vóc, một tổ quốc hào hùng, một dân tộc quật cường, một đất nước nhiều tiềm năng về mọi mặt. Xin cho chúng con biết hết lòng yêu mến và bảo vệ tổ quốc chúng con. Chúng con cầu xin...
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
----------------------------------
Trước đây không lâu, bà Ann Landers có đăng một lá thư của độc giả trong mục thư tín và đã: TN 29-A56
Trước đây không lâu, bà Ann Landers có đăng một lá thư của độc giả trong mục thư tín và đã khiến nhiều người phải suy nghĩ. Lá thư ấy của một người ở Missouri báo động về tình trạng ngày càng gia tăng số người sống ở Hoa Kỳ nhưng không sử dụng quyền bỏ phiếu của mình.
Họ bào chữa rằng, "Lá phiếu của tôi chẳng đáng kể, sao lại phải đi bầu?" Và vì những người này không muốn bỏ phiếu nên họ cũng không thực sự lưu tâm đến các vấn đề và các ứng cử viên.
Lá thư này tiếp tục trích dẫn một bài viết trong cẩm nang bầu cử. Tựa đề của bài là "Một Lá Phiếu Quan Trọng Như Thế Nào?" Tôi xin chia sẻ một vài thí dụ về sự quan trọng của một lá phiếu trong lịch sử quốc gia chúng ta. Nếu không có một lá phiếu trong năm 1776, ngôn ngữ chính thức của Hiệp Chủng Quốc đã là tiếng Đức chứ không phải tiếng Anh.
Nếu không có một lá phiếu trong năm 1845, tiểu bang Texas đã không thuộc về Hiệp Chủng Quốc. Nếu không có một lá phiếu trong năm 1876, Rutherford Hayes đã không đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Không cần phải nói nhiều; vấn đề thì rất rõ ràng. Khi một người sử dụng quyền bầu cử của mình, lá phiếu ấy sẽ tạo nên sự khác biệt lớn lao.
Điều từng đúng với Hoa Kỳ thì cũng đúng với các quốc gia khác trên thế giới. Chỉ một lá phiếu đã giúp ông Oliver Cromwell kiểm soát toàn thể Anh Quốc năm 1645. Chỉ một lá phiếu đã khiến Vua Charles I của Anh Quốc bị xử tử vào năm 1649. Chỉ một lá phiếu đã thay đổi toàn thể nước Pháp từ chế độ quân chủ sang chế độ cộng hòa vào năm 1875.
Vào năm 1923, Adolf Hitler trở nên lãnh tụ Đức Quốc Xã bởi một lá phiếu.
Hãy nghĩ xem, nếu không có một lá phiếu ấy, sáu triệu người Do Thái đã không bị chết trong cuộc diệt chủng tồi tệ nhất lịch sử. Hãy nghĩ xem, nếu không có một lá phiếu ấy, Thế Chiến II, với tất cả những đau thương tang tóc, có lẽ đã không xảy ra. Không cần phải nói nhiều. Vấn đề thì hiển nhiên một cách tang thương. Có thể nói, một lá phiếu có thể thay đổi cả thế giới.
Bài Phúc Âm hôm nay chất chứa một thông điệp quan trọng cho mỗi một Kitô Hữu. Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ rằng chúng ta có hai tư cách công dân. Chúng ta là công dân của hai thế giới: công dân ở mặt đất và công dân của nước trời. Và vì tính cách công dân song đôi ấy, chúng ta có trách nhiệm đối với cả hai thế giới: đối với Thiên Chúa và đối với nhà cầm quyền.
Hai trách nhiệm này như hai mặt của một đồng tiền. Thiếu chu toàn bổn phận của một công dân, có thể nói, đưa đến việc sao nhãng bổn phận của một Kitô Hữu. Chúng ta có trách nhiệm thật lớn lao để giúp nền hành chánh trong nước đừng rơi vào tay của các nhà lãnh đạo ích kỷ và không xứng đáng.
Nói về trách nhiệm này, Thánh Phêrô viết trong Thư I: "Hãy vinh danh Thiên Chúa và tôn trọng vua" (1 Phêrô 2:17). Và tương tự Thánh Phaolô cũng viết cho tín hữu ở Rôma: "Mọi người phải tôn trọng nhà cầm quyền... Vậy hãy trả những gì anh chị em còn thiếu họ; hãy nộp thuế cá nhân và thuế bất động sản, và hãy tỏ lòng tôn trọng và vinh danh họ" (Rom 13:1, 7).
Điều này đưa chúng ta đến một điểm quan trọng sau cùng. Điều gì sẽ xảy ra khi tính cách công dân song đôi khiến chúng ta ở vào tình trạng xung đột giữa Thiên Chúa và quốc gia? Chúng ta hy vọng là điều này sẽ không bao giờ xẩy ra. Nhưng nếu có, chúng ta phải giải quyết sự xung đột trong một phương cách mà chúng ta không thể làm thiệt hại trách nhiệm chính yếu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Người tín hữu Kitô đã từng thi hành điều này trong lịch sử.
Trong thời La Mã họ đã phải thi hành điều ấy khi hàng ngàn Kitô Hữu chấp nhận cái chết hơn là thờ cúng hoàng đế.
Trong thế kỷ 17, họ đã thi hành điều ấy khi hàng ngàn Kitô Hữu Âu Châu phải di cư sang Hoa Kỳ để sống đức tin. Và trong thời đại ngày nay vẫn còn những Kitô Hữu thi hành điều ấy.
Hãy nghĩ đến trường hợp của ông Franz Jaeggerstatter, một nông dân người Áo có ba con nhỏ. Trong những thập niên 1930, ông đã chống đối Hitler khi Đức Quốc Xã xâm lăng nước Áo và Hitler tổ chức một cuộc bầu cử giả mạo để chứng tỏ rằng họ đã đồng ý với hành động của Hitler. Ông Jaeggerstatter là người duy nhất trong làng chống đối Hitler. Và khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1939, ông Jaeggerstatter từ chối không gia nhập đạo quân của Hitler. Ngay cả khi được cho phục vụ trong thành phần không trực tiếp chiến đấu, ông cũng từ chối.
Sau cùng, vào ngày 2 tháng Tám 1943, ông đã bị bắt và bị xử tử. Ông Jaeggerstatter có hai bổn phận, một đối với Thiên Chúa và một đối với quê hương ông. Khi các bổn phận này xung đột trong lương tâm, ông đã chọn trung thành với bổn phận chính yếu: đối với Thiên Chúa. Và vì thế, trong Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về hai bổn phận đối với Thiên Chúa và với quê hương.
Chúng ta hy vọng bổn phận song đôi này không bao giờ xung đột trong lương tâm của chúng ta. Nhưng nếu điều đó xảy ra, chúng ta phải giải quyết như ông Jaeggerstatter đã làm, không làm thiệt hại đến bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Hãy kết thúc với lời cầu nguyện của Tổng Thống Thomas Jefferson cho quê hương chúng ta:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Ngài đã ban cho chúng con phần đất này để làm di sản...Xin chúc lành cho quê hương chúng con...Xin gìn giữ chúng con khỏi những xung đột...và khỏi mọi phương cách xấu xa.
Xin hãy bảo vệ sự tự do của chúng con...Xin ban Thần Khí khôn ngoan cho những người mà vì danh Chúa chúng con giao phó quyền cai trị cho họ...Khi được thịnh vượng xin lấp đầy tâm hồn chúng con với lời tạ ơn, và khi gặp khó khăn xin đừng để sự tín thác của chúng con vào Ngài bị thất bại.
Lm Mark Link, SJ
----------------------------------
Mt 22,15-21
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy người Pharisiêu, biệt phái và nhiều người Do: TN 29-A57
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy người Pharisiêu, biệt phái và nhiều người Do thái thời Chúa Giêsu luôn chống đối Người và tìm cách gài bẫy để bắt bớ Người. Điều đó nói lên biệt phái, thượng tế và Pharisiêu không muốn sự có mặt của Chúa Giêsu. Họ tìm cách khử trừ Chúa Giêsu. Câu chuyện nộp thuế cho Xê Da hôm nay mà đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu trình bày đã nói lên sự nham hiểm, ác độc của nhóm Pharisiêu và bè nhóm Hêrôđê.
THUẾ VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI DÂN:
Thuế là sinh hoạt của một quốc gia. Thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân trong một đất nước. Hầu như mọi nước trên thế giới đều có những loại thuế tùy theo pháp luật của nước đó qui định. Hầu như ngân sách quốc gia nào cũng dựa vào các loại thuế thu được. Và mọi người công dân đều có nghĩa vụ và bổn phận nộp thuế cho quốc gia, cho nước mình. Trường hợp của Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài lại khác bởi vì người Roma đang đô hộ đất nước Do thái. Do đó, nộp thuế là phản bội tổ quốc, nộp thuế là nối giáo cho đế quốc tiếp tục đô hộ nước Do thái. Lợi dụng cái nghịch lý mà đa số người Do thái lúc đó đang suy nghĩ, nhóm Pharisiêu liên kết với bè phái Hêrôđê tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu trong vấn đề nộp thuế. Gài bẫy Chúa Giêsu vì nhóm lãnh đạo tôn giáo, nhóm Pharisiêu và nhiều nhóm khác thù ghét Chúa Giêsu. Nếu Chúa nói: Không nộp thuế. Họ sẽ tố cáo với người Roma Chúa Giêsu đang xúi giục dân chúng làm loạn, phá rối trật tự trị an, phá rối Chính quyền vv…Ngộ giả chúa nói phải nộp thuế, họ sẽ tố cáo với người Do thái, Chúa đi theo đế quốc, phản bội lại tổ quốc, phản bội lại dân tộc của mình. Trả lời nộp hay không nộp cũng là mối nguy cho Chúa Giêsu và Ngài cũng bị mắc bẫy họ giăng ra. Tuy nhiên, như bài đọc I của ngôn sứ Isaia viết:” Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác, ngoài Ta ra, chẳng ai là Thiên Chúa…để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng ngoài Ta ra, chẳng có thần nào, Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác”. Chúa là Thiên Chúa chân thật, luôn hành động theo sự thật, chỉ bảo đường lối ngay chính, không tây vị ai, không xu nịnh người nào. Thiên Chúa vượt lên trên mọi sự tầm thường của trần gian. Chúa Giêsu đã không bị mắc bẫy mà đã khiến cho những người ác độc, nham hiểm phải câm miệng khi Chúa nói:” Của Xê Da, trả cho Xê Da; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa “ ( Mt 22, 21 ). Chúa Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xê Da, bởi vì hình trên đồng bạc là hình của Xê Da. Tuy nhiên, đối với Chúa thì Xê Da hay Philatô chẳng có quyền gì trên Ngài, nếu Đấng trên cao không ban quyền ấy cho Xê Da và Philatô ( Ga 19, 11 ).
CHÚA DẠY CON NGƯỜI. NHÂN LOẠI VÀ MỖI NGƯỜI BÀI HỌC GÌ?:
Lập trường của Chúa Giêsu quả rất rõ ràng, Chúa không tây vị ai, Ngài luôn công minh chính trực, dạy đường lối ngay thẳng:” Của Xê Da, trả về cho Xê Da. Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa “ ( Mt 22,21 ). Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng khi bị người ta chất vấn:” có được phép nộp thuế cho Xê Da hay không ? “( Mt 22, 17 ). Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng đồng tiền này hình của ai, họ thưa:” Hình của Xê Da “. Chúa liền nói với họ câu hết sức bình thường, nhưng cương quyết làm cho họ im hơi, lặng tiếng vì Ngài nói rất chí lý, chính xác. Thực tế, Chúa dạy con người bài học rất chân thành và hết sức ý nghĩa: “ đã là người dân trong một nước, trong một quốc gia phải thi hành, vâng phục sự lãnh đạo của nước đó, quốc gia đó”. Chúa không bao giờ dạy con người làm xằng làm bậy, Chúa luôn dạy con người phải sống ngay lành, công chính như Cha trên trời là Đấng công chính.
NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA PHẢI LÀM GÌ ĐỂ ĐÁP TRẢ TÌNH THƯƠNG VÔ BIÊN CỦA CHÚA ?:
Hình ảnh của Thiên Chúa đã họa lại nơi bản thân của người môn đệ Chúa. Bởi vậy, người môn đệ phải sống đời sống của Chúa, phải hành động, phải yêu như Chúa.Sách sáng thế ký viết:” Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Chúa “ ( St 1, 27 ).Con người là tác phẩm của Thiên Chúa. Do đó, người môn đệ Chúa phải luôn sống tốt thế giới do Thiên Chúa sáng tạo và phải làm cho thế giới luôn có sự an lành, yêu thương. Bởi Thiên Chúa chính là tình yêu như lời Thánh Gioan đã nói.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa. Nên, con người không được phá vỡ hình ảnh của Thiên Chúa nghĩa là sống ích kỷ, bon chen, gian lận, lường gạt. Hãy sống như thánh Phaolô viết:” Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Sống sự sống của Thiên Chúa là luôn mở rộng tâm hồn, luôn quảng đại sống với tha nhân, giúp tha nhân sống lành, sống tốt. Và đó chính là sự đáp trả tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Chúa Giêsu đã dạy người môn đệ Chúa thế nào về luật thuế ?
Pharisiêu và nhóm đồ đệ của Hêrôđê muốn làm gì Chúa ?
Chúa nói:” Của Xê Da trả về cho Xê Da và của Chúa trả về cho Chúa “ nghĩa là làm sao ?
Chúa dạy nhân loại bài học gì ?
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
------------------------------
Từ trước tới nay chúng ta thấy Chúa Giêsu ở thế công. Ngài đã dùng ba dụ ngôn để chỉ trích: TN 29-A58
Từ trước tới nay chúng ta thấy Chúa Giêsu ở thế công. Ngài đã dùng ba dụ ngôn để chỉ trích những nhà lãnh đạo truyền thống Do thái: dụ ngôn đứa con trai bất hiếu không chịu nghe lời cha, dụ ngôn người làm vườn gian ác đã giết đầy tớ vua, dụ ngôn tiệc cưới của nhà vua vì họ không đến dự.
Bây giờ chúng ta thấy họ đưa ra đòn phản công để đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm bằng một câu hỏi hóc búa, nhằm hai mục đích: một là bị nhà cầm quyền bắt, hai là mất uy tín với dân chúng vì là người phản quốc.
Cũng nên biết chúng ta đang ở vào năm 30 dưới thời hoàng đế César Tiberius, và quân đội ông đang chiếm xứ Do thái gây nhiều nhiễu nhương cho dân chúng, phong trào chống đối đang âm ỉ lan rộng. Họ có hai tầng lớp người lãnh đạo chống đối nhau: nhóm biệt phái ái quốc chống nhà cầm quyền và nhóm Hêrôđê thân chính quyền đô hộ để trục lợi. Bình thường, hai nhóm này chống đối nhau, nhưng hôm nay cùng nhau tìm phương thế ám hại Chúa Giêsu với một câu hỏi hóc búa về vấn đề nộp thuế.
Dân Do thái phải nộp thuế cho chính quyền Rôma. Có ba thứ thuế:
- thuế điền thổ.
- thuế lợi tức.
- thuế thân.
Luật thuế thân qui định mọi người nam nữ từ 14 đến 65 tuổi đều phải đóng một denier, tương đương với lương công nhật của một người. Thuế ở trong câu hỏi đây là thuế thân.
Người dân các nước bị trị bao giờ cũng phải nộp thuế cho chính quyền bảo hộ. Năm 1920, ông Gandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh để tranh đấu cho nước được độc lập. Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền. Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát cảnh thực dân.
Vậy, Chúa Giêsu có theo đường lối của ông Gandhi không hay phải theo một đường lối nào để giải quyết cho ổn thỏa ? Câu trả lời xẩy ra như sau theo Tin mừng của Luca:
“Hôm ấy, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôdê sai mấy môn đệ đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật cứ sựï thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến:”Có được phép nộp thuế cho César hay không” ?
Hỏi như vậy là họ đã đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm, mà triết học gọi la cái thế “luỡng đao luận”, nghĩa là con dao hai lưỡi, nói thế nào cũng chết: chối cũng chết mà nhận cũng chết. Nếu Chúa Giêsu bảo nên nộp thuế là lệ thuộc vào ngoại bang, là phản quốc, do đó mất uy tín với dân chúng. Nếu Chúa bảo là không thì bị liệt vào loại phản động, chống chính quyền, thế nào cũng bị bắt.
Nhưng Chúa Giêsu lại có một cách xử lý rất khéo léo, rất tinh vi:”Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Ngài một quan tiền. Người hỏi họ:”Hình và danh hiệu này là của ai” ? Họ đáp:”Của César”. Bấy giờ, Người bảo họ:”Thế thì của César, trả về cho César ; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa”.
II. BÀI HỌC CHÚA DẠY TA.
1. Chúa Giêsu, một người công dân.
Chúa Giêsu có một lý lịch rõ ràng. Ngài là một công dân Do thái nên Ngài phải thi hành mọi nhiệm vụ đối với một công dân Do thái đang bị người Roma đô hộ. Bản thân Ngài sống như mọi người không có gì khác, cả gia đình Ngài cũng vậy. Kinh thánh cũng cung cấp cho chúng ta một số chi tiết chứùng tỏ gia đình Thánh gia thất đã chu toàn nghĩa vụ công dân:
Cha mẹ Ngài đã vâng lệnh nhà vua để về Belem khai hộ khẩu {Lc 2,4).
Chính Ngài đã sai Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế cho mình và cho Phêrô nữa (Mt 17,26).
Chính quyền ra lệnh bắt và giết Chúa, Ngài vẫn vui lòng tuân lệnh dù Ngài biết lệnh ấy bất công, mà chính Philatô, người lên án giết Chúa cũng phải nhận là Ngài vô tội (Lc 23,22).
Câu nói của Ngài:”Của César thì trả cho César” đã phản ảnh một cách hết sức trung thực những công việc Ngài đã làm, đúng như Thánh kinh đã viết về Ngài:”Chúa làm trước, rồi mới dạy người ta làm sau” (Cv 1,1).
2. Kytô hữu, một người công dân.
Một người công dân phải có giấy khai sinh và có một hộ khẩu thường trú. Không ai ở trên trời rơi xuống, không ai sống lơ lửng trên không trung. Mỗi người phải có một quốc tịch, mặc dù có thể thay đổi được quốc tịch ấy. Đã là công dân của một nước nào thì phải chấp hành những luật lệ của nước ấy. Mọi công dân phải góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tránh những hành vi làm tổn thương đến Tổ quốc ấy.
Về điểm này, ta có bằng chứng về cách sống của những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Một tác giả vô danh hồi thế kỷ thứ ba đã viết trong tác phẩm “Thư gửi cho Diognetus” như sau
“Người Kitô hữu không khác với những người khác về cư trú, về ngôn ngữ hay về lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ.
Họ ở rải rác trong các thành phố Hy lạp lẫn trong các thành của người Man di, tùy theo số phận dun dủi. Họ sống theo tập tục của kẻ bản xứ trong cách phục sức, ăn uống và cách sống, nhưng bộc lộ một thái độ sống khiến nhiều người cho là lạ lùng. Họ sống trong quê hương của họ mà như những kẻ ở đâu. Họ tuân thủ mọi cái chung như các công dân khác và chịu gánh nặng dường như ngoại kiều. Miền xa lạ cũng là quê hương của họ nhưng mọi quê hương chỉ là đất khách cho họ mà thôi. Họ cũng dựng vợ gả chồng như ai và sinh đẻ con cái, nhưng chẳng hề bỏ con. Họ đồng bàn nhưng chẳng đồng sàng”.
(Cap.V.VI PG 21173 B.117 C, Các Bài đọc 2 Mùa PS, tr 84)
Chúng ta phải khẳng định rằng trước khi là một Kitô hữu ta đã là người của một quốc gia nào đó, ví dụ, trước khi là người Công giáo, tôi đã là người Việt nam. Nhờ phép rửa tội, chúng ta trở thành người Việt nam công giáo. Giữa người công dân Việt nam và người công dân Công giáo Việt nam không có gì khác nhau, không có gì mâu thuẫn nhau. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người đều có bổn phận và quyền lợi như nhau đối với đất nước.
3. Tương quan giữa tôn giáo và chính trị.
Vấn đề tương quan giữa tôn giáo và chính trị, giữa Giáo hội và quốc gia là một vấn đề tế nhị và đôi khi, thật gai góc, nhiều khi có nhiều lấn cấn. Chúng ta có thể đưa ra đây mấy nguyên tắc cho chúng ta hành xử trong đời sống thực tế không thể tránh được:
a) Nguyên tắc thứ nhất:
Xã hội dân sự và xã hội tôn giáo, quốc gia và Giáo hội là hai vấn đề độc lập với nhau. Dù là cả hai phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của con người ; nhưng quan điểm và cách hành động của họ vẫn khác nhau.
b) Nguyên tắc thứ hai:
Với tư cách là công dân, thành viên của một đoàn thể thế gian, người Kitô hữu phải chấp nhận sống theo luật lệ của đoàn thể đó và làm trọn bổn phận như đóng thuế, vâng phục chính quyền hợp pháp trong mọi việc mà chính quyền đòi hỏi. Người Kitô hữu sẽ dùng mọi phương tiện hợp pháp: bỏ phiếu, báo chí, nghiệp đoàn để góp phần xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo hơn.
c) Nguyên tắc thứ ba:
Người Kitô hữu cố giữ giá trị hướng thượng và tư cách tuyệt đối những quyền của Thiên Chúa, vì biết rằng khi những giá trị này bị xâm phạm thì con người cũng bị xâm phạm, nhất là kẻ hèn yếu. Chúng ta không bao giờ chấp nhận một luật lệ nào chống lại luật của Thiên Chúa. Người Kitô hữu cố gắng làm sao để tạo ra sự hoà hợp giữa Giáo hội và quốc gia, và như thế cả hai sẽ phục vụ tốt biết bao cho con người.
(Cf Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr 215)
III. SỰ CHỌN LỰA CỦA CHÚNG TA.
Người Kitô hữu chúng ta có hai quyên công dân đi đôi với nhau. Chúng ta là công dân của thế giới, tức trần thế này và công dân thiên quốc. Chúng ta phải phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, hai nhiệm vụ này phải đi sánh đôi. Như thế chúng ta kính trọng và tôn kính đối với những đòi hỏi của hai bên.
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để giúp ích cho con người và cho dân Chúa. Trong bài đọc thứ nhất, ta thấy Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Chúa. Như thế, dân Chúa đã phải tùng phục chính quyền trong những công việc về chính trị, mà không thể làm khác vì đó là đường lối của Thiên Chúa.
Thánh Phêrô trong thư thứ nhất đoạn 2 câu 17 đã bảo các Kitô hữu:”Hãy tôn kính Thiên Chúa và hãy kính trọng Hoàng đế”. Và trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 13, câu 1 và 7, thánh Phaolô bảo các Kitô hữu:”Hãy vâng phục các vị cầm quyền. Hãy nộp cho họ những gì các ngươi mắc nợ họ, hãy nộp thuế thân, thuế tài sản và hãy tỏ lòng kính trọng họ”.
Mong ước rằng hai loại quyền công dân này của chúng ta không bao giờ xung đột nhau. Tuy nhiên, lỡ có xẩy ra xung đột, thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết. Các Kitô hữu đã từng phải giải quyết như thế ngay từ thời Chúa Giêsu. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời kỳ đế quốc Rôma bách hại Giáo hội. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời trung cổ. Họ đã phải giải quyết như thế trong thế kỷ 16 và 17 khi hàng chục ngàn Kitô hữu phải chạy trốn sang Mỹ châu để giữ đạo mà không bị nhà nước can thiệp.
Có lẽ chúng ta có thể minh hoạ tất cả những điều trên bằng trường hợp của thánh Thomas More, vị thánh tử đạo người Anh. Robert Bolt đã làm nổi bật cuộc xung đột của More – liên quan đế những gì thuộc César và những gì thuộc về Thiên Chúa – trong cuốn sách nhan đề “A man for all seasons”(Người của mọi mùa).
Truyện: thánh Thomas More
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 305)
Như thế, bài Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến hai bổn phận đi đôi với nhau của chúng ta. Chúng ta là công dân trần thế, đồng thời cũng là công dân Nước Trời. Chúng ta có bổn phận phải trung tín với cả hai Tổ quốc. Chúng ta hy vọng các bổn phận này không bao giờ xung đột nhau. Nhưng nếu lỡ có xung đột thì chúng ta phải giải quyết chúng giống như thánh Thomas More đã làm, nghĩa là không gây thương tổn cho Thiên Chúa hoặc cho lương tâm ta.
Cuộc sống của Kitô hữu tại thế là như vậy, chúng ta không thể làm khác được. Nhiều lúc chúng ta hay than vãn là chúng ta phải mang hai gánh trên vai: vừa phải chu toàn bổn phận ở đời lại vừa lo tròn nghĩa vụ trong đạo. Đối với những ai có tâm hồn đạo đức thánh thiện thì sự khó khăn đó không đến nỗi quá băn khoăn lo lắng ; trái lại, đối với những ai mang nặng ích kỷ trần tục nếu chẳng may đạo hay đời đòi hỏi phải chịu khó hy sinh làm một điều gì đó, tức khắc họ lên tiếng phàn nàn kêu trách và nại đủ lý do để từ chối. Đây chính là vấn đề mà người biệt phái đã thắc mắc với Chúa và Chúa đã giãi bầy cho họ cũng như cho chúng ta hiểu để biết mà sống cho tốt đạo đẹp đời. Trong mọi trường hợp chúng ta phải đặt quyền lợi của Chúa trên hết, đôi lúc vì thế mà phải bị thiệt thòi. Lời Chúa vẫn còn yên ủi chúng ta khi chúng ta gặp phải những trường hợp éo le như thế:”Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì”.
Truyện: Mọi sự thuộc về Chúa.
Hoàng đế Frédéric đi tham quan một trường học nhỏ miền quê. Đúng lúc học trò đang học môn địa lý. Vua hỏi một em nhỏ tuổi:
- Làng con ở đâu ?
- Tâu hoàng thượng, làng con ở trong nuớc Phổ.
- Nước Phổ ở đâu ?
- Tâu hoàng thượng, nước Phổ ở trong đế quốc Đức.
- Đế quốc Đức ở đâu ?
- Tâu hoàng thượng, đế quốc Đức ở trong châu Âu.
- Châu Âu ở đâu ?
- Tâu hoàng thượng, châu Âu ở trong thế giới.
- Thế giới ở đâu ?
Suy nghĩ một lát em bé dõng dạc trả lời:
- Tâu hoàng thượng, thế giới ở trong tay Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân tộc mình theo lời của Thomas Jefferson:
Lạy Thiên Chúa tối cao,
Ngài ban cho chúng con mảnh đất tốt tươi này làm gia nghiệp. Xin hãy chúc lành cho mảnh đất chúng con, xin hãy cứu chúng con khỏi bạo lực, và mọi đường lối xấu xa, xin hãy bảo vệ sự tự do của chúng con...
Xin ban thần trí khôn ngoan xuống trên những kẻ mà nhân danh Ngài, chúng con đã ủy thác quyền cai trị... Trong thời thịnh vượng, xin đổ tràn xuống lòng chúng con niềm tri ân, và trong ngày gian truân, xin đừng để niềm tin của chúng con vào Ngài bị suy giảm. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
------------------------------
Mt 22,15-21
Tội nghiệp! Có nhiều người không biết rằng Thiên Chúa là chủ của thời gian. Họ cũng không biết rằng: TN 29-A59
Tội nghiệp! Có nhiều người không biết rằng Thiên Chúa là chủ của thời gian. Họ cũng không biết rằng tất cả những thời giờ mà họ đang có là thuộc về Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa là Ðấng đã tạo dựng nên mặt trời với mặt trăng, Ngài đã “ra lệnh là hết thảy được tạo thành” (Tv 148:5).
Ðáng thương thay, một số đông cũng không biết hoặc không nhận thức rằng tất cả mọi thứ họ đang có như: trí khôn, sự thông minh, tài năng, sức khoẻ … là của Thiên Chúa, và đến từ Thiên Chúa "Thiên Chúa có cả khôn ngoan lẫn sức mạnh, mưu lược cũng như tài thông hiểu đều thuộc về Người” (Job 12:13).
Tội nghiệp hơn nữa, còn có rất nhiều người, trong đó có bạn và tôi, quên mất rằng những gì chúng mình đang có như địa vị, bằng cấp, nghề nghiệp, khả năng chuyên môn, của cải, tài sản và cả mạng sống … là của Thiên Chúa và tất cả đều thuộc về Ngài. Chính Thiên Chúa đã cho “con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất... và thống trị mặt đất’” (Gen 1:28-29).
Ước chi, tất cả nhân loại đều ý thức và nhận ra được rằng thời gian, trí khôn, tài năng, của cải, tài sản vật chất và cả mạng sống của họ là của Thiên Chúa và mọi sự thuộc về Ngài. Nhờ vậy, người ta mới nhớ “trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa!” (Mt 22:21).
Khi mới sanh ra mình có chi?
Trần truồng như nhộng, xương với bì
Mạng sống, trí khôn là của Chúa
Của Ngài trả Ngài, tiếc làm chi?
Thiên Chúa ban cho bạn và tôi 24 giờ đồng hồ một ngày, 168 giờ trong một tuần lễ, 8,760 giờ trong một năm. Tôi hỏi thật bạn, bạn đã trả lại cho Thiên Chúa được 10% phần trăm (160 phút) mỗi ngày chưa? Hay là bạn chỉ trả lại cho Chúa được 1% qua việc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật?
Bạn hãy trả lại cho Thiên Chúa 10% thôi! Một phần mười thời gian mỗi ngày chỉ có 160 phút của Thiên Chúa bằng cách tham dự Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, cầu nguyện, lần hạt Mân Côi, thăm viếng người già nua, bịnh tật, giúp đỡ cho những công việc chung của cộng đoàn và của giáo xứ, chu toàn những công việc bổn phận với Chúa, trong Chúa và vì Chúa.
Bạn có biết rằng khi tôi và bạn: Tâm sự với Chúa khi thức giấc, trước khi đi ngủ, khi lái xe đi làm, khi chờ tại bến xe bus, khi nấu ăn, hút bụi, rửa chén, khi lao động, khi gặp phiền muộn, khi hạnh phúc, lúc bị thử thách...
Tham dự thánh lễ, học hỏi Kinh Thánh, đọc và suy niệm Lời Chúa, lần hạt Mân Côi, đọc sách thiêng liêng, học hỏi Giáo Lý...
Tham dự những giờ Chầu Thánh Thể, đến thăm viếng Nhà Tạm trước và sau thánh lễ...
Là những lúc chúng mình đang kết hiệp và thuộc về Thiên Chúa. Ðó cũng chính là những lúc chúng mình đang trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Càng kết hiệp với Thiên Chúa nhiều bao nhiêu, bạn và tôi càng trả lại cho Ngài nhiều bấy nhiêu!
Thiên Chúa đã cho tôi và bạn trí thông minh, sức khoẻ và những cơ hội tốt để có việc làm trong các công xưởng, nhà máy, xí nghiệp … Nhờ ơn của Thiên Chúa bạn mới có thể trở thành bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá, luật sư, giáo sư, kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật; hay là chủ nhân nhà hàng, tiệm sửa xe, tiệm nail, tiệm vàng, tiệm giặt ủi, tiệm may… Bạn đã dành ra 10% thu nhập của bạn để trả lại cho Thiên Chúa hay bạn chỉ trả cho Ngài 1 % hay chỉ 0.5%? Lại tiền!!! Có thể bạn đang càm ràm khi nghe tôi nói đến chuyện... tiền! Xin bạn hãy bình tĩnh đọc tiếp. Nói có sách, mách có chứng!
Trong sách Ðệ Nhị Luật có ghi rằng: “Mỗi năm [các ngươi] phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì [các ngươi] gieo, những gì mọc lên ngoài đồng…. lúa mì, rượu mới, dầu tươi … những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của [các ngươi] … Nếu đường quá dài khiến [các ngươi] không thể đem thuế thập phân đến được … [các ngươi] hãy đổi lấy bạc, cầm trong tay và đi tới … [nộp cho các] thầy Lê-vi ở trong các thành của [các ngươi]” (14:22-27).
Giáo luật hiện hành số 222 cũng quy định rõ ràng: “Các tín hữu có bổn phận chu cấp cho các nhu cầu của Giáo Hội, để Giáo Hội có sẵn những gì cần thiết hầu xử dụng vào việc phụng thờ Thiên Chúa, các công tác tông đồ và bác ái và việc trợ cấp xứng đáng cho các thừa tác viên. Các tín hữu [cũng] có bổn phận cổ võ công bằng xã hội cũng như dùng tài sản riêng tư để giúp đỡ những người nghèo, theo lệnh truyền của Thiên Chúa.”
Thiên Chúa truyền lệnh cho mọi công dân phải đóng thuế thập phân (tithe) 10% cho Giáo Hội của Ngài. Nhờ vào sự đóng góp của các tín hữu, Giáo Hội mới có phương tiện để điều hành những công việc và phát triển những công việc truyền giáo. Bạn đừng tưởng Giáo Hội giàu có lắm, không cần đến sự đóng góp của bạn! Bạn lầm rồi!
Giáo Hội cũng giống như một quốc gia, cũng cần phải có tiền để bảo trì và phát triển mọi mặt. Nhưng tôi nghĩ, chỉ cần bạn trả lại cho Ngài 5% thôi. Bạn hãy trả lại cho Thiên Chúa 5% thu nhập của bạn qua việc đóng góp trong giáo xứ, (ngân quỹ điều hành mọi công việc trong giáo xứ nhờ vào sự đóng góp của bạn: niên liễm, collections, fundraising...), cho những chương trình cứu trợ, cho những chương trình quyên góp giúp nạn nhân bão lụt, thiên tai, động đất…! Nếu bạn làm như vậy thì bạn cũng đang làm tròn bổn phận của một người công dân của Thiên Quốc rồi!
- Khi bạn và tôi biết trả lại cho Thiên Chúa 10% của những giờ khắc qua những công việc đạo đức, cầu nguyện, tham dự thánh lễ.
- Khi tôi và bạn trả lại cho Thiên Chúa 5% của số lương thu nhập hàng tháng, biết cống hiến những tài năng về âm nhạc, hội họa và tri thức của bạn trong những hoạt động của giáo xứ, cho những công việc thiện nguyện và bác ái của Giáo Hội thì chúng mình đang “trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.”
Xin bạn đừng quên rằng khi bước vào trong cuộc đời này bạn và tôi chỉ có hai bàn tay trắng. Khi từ giã cõi đời này thì chúng mình cũng chỉ trắng tay ra đi mà thôi (Job 1:21).
Nếu chúng mình không khéo quản lý những tài sản Chúa trao phó thì một ngày nào đó, Chúa sẽ nói với tôi và bạn "Ta nghe người ta nói gì về ngươi đó? Công việc quản lý của ngươi, ngươi hãy tính sổ đi, vì từ nay ngươi không được làm quản lý nữa!”(Lc 16:2)
Đừng quá tham lam chỉ biết giữ cho mình và không biết trả lại cho Thiên Chúa nh ững gì thuộc về Ngài. Kẻo một ngày Ngài sẽ nói với bạn và tôi rằng: “Đồ ngốc! Nếu đêm nay, [Ta] đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi để dành đó sẽ về tay ai?” (Lc 12:20).
Thời gian, sức khỏe, trí tuệ, tài năng, của cải, tài sản và mạng sống nữa, tất cả là “của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa,” xin bạn đừng bao giờ quên! Ðừng khư khư giữ lấy những gì không thuộc về bạn!
Thời gian của Chúa xin chớ quên!
Trí khôn, bằng cấp, lẫn kim tiền
Tất cả của Chúa, phải hoàn trả
Hoang phí, bị phạt đừng có rên!
Lm. Ansgar Phạm Tĩnh
------------------------------
Lm. Trần Bình Trọng
Is 45:1,4-6; 1Tx 1:1-5; Mt 22:15-21
Nhóm người Pharisêu trong Phúc âm hôm nay kết cấu với nhóm Hêrôđê để đưa Chúa vào cuộc: TN 29-A60
Nhóm người Pharisêu trong Phúc âm hôm nay kết cấu với nhóm Hêrôđê để đưa Chúa vào cuộc tranh chấp chính trị. Nhóm Pharisêu thuộc giáo phái của Do thái giáo. Họ hay phê bình chỉ trích những lời nói và hành động của Chúa, cho rằng Chúa đi ra ngoài tập tục của tiền nhân. Và Chúa cũng thường cảnh giác họ, gọi họ là bọn giả hình vì họ giữ đạo mà thiếu tâm tình bên trong. Nhóm người Pharisêu lại hậm hực vì phải trả thuế cho chính phủ ngoại bang là người La mã. Ðây là loại thuế nhân danh, tính theo đầu người: đàn ông từ 14 tới 65 tuổi, cũng như đàn bà từ 12 tới 65. Còn nhóm Hêrôđê là những người phò đế quốc La mã và do đó phò cả chính sách của vua Hêrôđê. Trước khi đưa Chúa vào tròng, họ tỏ ra nịnh bợ trước đã như khen Chúa là người chân thật và không thiên vị (Mt 28:16).
Thế rồi họ đặt câu hỏi với Chúa: Có được phép nộp thuế cho Xêda không? (Mt 22:17). Câu hỏi có vẻ đơn sơ, nhưng ngụ ý của họ lại khác. Nếu Chúa trả lời có, nghĩa là phải nộp thuế cho Xêda thì Người sẽ bị coi là phản động và mất thế giá trước mặt người Do thái thời bấy giờ vì họ muốn thoát khỏi quyền lực của vua ngoại bang. Nếu Chúa trả lời không, nghĩa là không cần nộp thuế cho Xêda, phe Hêrôđê sẽ tố cáo với nhà chức trách La mã là chống chính quyền ngoại bang. Chúa biết rõ thâm ý của họ nên dùng chính đồng tiền nộp thuế có hình Xêda để giải thích cho họ. Chỉ vào hình Xêda trên đồng tiền, Chúa bảo họ: Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa (Mt 22:21).
Ở đây Chúa phân biệt hai phạm vi thế quyền và thần quyền. Thế quyền và thần quyền tách biệt nhau, nhưng có liên hệ với nhau. Chúa muốn họ cũng vâng phục thế quyền để duy trì trật tự và lợi ích công cộng. Thế quyền cũng bắt nguồn bởi Thiên Chúa như lời Thánh kinh dạy là mọi quyền bính trên trời dưới đất đều bởi Thiên Chúa. Trong bài trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa đã dùng vua Ba tư ngoại giáo là Kyrô, người được sức dầu, để thống trị đế quốc Babylon, đem dân tộc Chúa chọn trở về khỏi ách lưu đầy (Is 45:1). Công đồng Vaticanô II nói về những liên hệ giữa thế quyền và thần quyền như sau: Tuỳ theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác lành mạnh, cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn (Gaudium et Spes # 76). Dựa vào lời Chúa dạy thì Thiên Chúa và Xêda, hay nói cách khác, thần quyền và thế quyền, đều có những đòi hỏi nơi người công dân. Bằng cách bảo nộp thuế cho Xêda, Chúa bảo toàn quyền hợp pháp của Xêda để duy trì trật tự và ích lợi chung cho xã hội loài người. Mặc dầu là chính phủ thuộc địa, nhưng trong giai đoạn thuộc địa đó, chính quyền thuộc địa cũng cung ứng được những tiện ích nào đó cho người dân.
Người công dân trách nhiệm thì tuân hành luật lệ hợp pháp của quốc gia để duy trị trật tự và lợi ích công cộng. Ðóng thuế là phương tiện giúp chính phủ bảo toàn an ninh và an sinh xã hội. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong việc nộp thuế đền thờ để người khác khỏi vấp phạm, mặc dù cắt nghĩa theo luật đền thở thì Chúa được miễn. Chúa bảo ông Phêrô: Con hãy ra biển thả câu, con cá nào bắt được trước tiên thì hãy mở miệng nó ra, lấy một đồng bạc về mà nộp xuất thuế của Thày và của con (Mt 17:27). Tuân giữ luật dân sự, Mẹ Maria và thánh Giuse đã làm cuộc hành trình về Bêlem, để khai sổ nhân danh theo lệnh hoàng đế Augúttô (Lc 2:1-7).
Việc tuân giữ luật pháp dân dự giả thiết rằng luật pháp đó dựa theo và phù hợp với luật Thiên Chúa. Còn khi mà luật pháp dân dự đi ngược lại luật Thiên Chúa, thì người công giáo theo tiếng lương tâm ngay thẳng phải bày tỏ lập trường. Người công giáo gồm cả hàng giáo sĩ, có hai quyền công dân: công dân nước trần thế và công dân nước Trời. Là người công dân của nước trần thế, người công giáo cần đóng thuế và tuân hành luật pháp công bình của quốc gia, xã hội. Ngoài ra dựa theo lời Chúa dạy, Giáo hội cũng khuyến khích người công giáo, với tư cách là công dân của một quốc gia, tham gia vào guồng máy chính trị của xã hội. Tuy nhiên tập thể Giáo Hội, cũng như hàng giáo sĩ, thành phần ưu tú của Giáo hội, không chủ trương tham chính, cũng không đem chính trị đảng phái vào Giáo hội bởi vì Giáo hội là một thực thể siêu việt, đứng trên mọi thể chế chính tri. Giáo hội mang tính chất trường tồn, còn đảng phái cầm quyền chỉ có tính chất giai đoạn, nay còn mai mất khi có việc đổi chủ. Công Ðồng Vaticanô II khẳng định về Giáo hội và thể chế chính trị như sau: Giáo hội không cách nào bị đồng hoá với một cộng đoàn chính trị và cũng không cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa là bảo đảm cho tính cách siêu việt của con người (Gaudium et Spes # 76).
Khi Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II viếng thăm Mỹ Châu, Ngài cảnh giác một linh mục là thành viên Hạ viện ở một quốc gia Bắc Mỹ và một linh mục bộ trưởng chính phủ tại một quốc gia ở Trung Mỹ rằng nếu muốn tiếp tục làm linh mục thì phải bỏ việc tham chính. Hai vị đã tuân theo lời Ðức Thánh Cha. Lí do là vì tham chính là làm chính trị. Mà làm chính trị đôi khi phải thủ đoạn và ma giáo. Mà ma giáo và thủ đoạn thì không phù hợp với chức vụ linh mục. Ngoài ra để thu hút phiếu của nhóm nọ nhóm kia, linh mục làm chính trị có thể ủng hộ lập trường nào đó, đi ngược lại đường lối của Giáo hội.
Là công dân nước Trời, người công giáo có bổn phận trả cho Thiên Chúa những gì thuộc Thiên Chúa. Ta trả cho Thiên Chúa bằng việc thờ phượng, tin yêu mến Chúa và tuân giữ giới răn Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc góp của xây dựng, sửa sang và dọn dẹp nhà Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc tông đồ để mở mang nước Chúa hầu làm vinh danh Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc bác ái, phục vụ và giúp đỡ tha nhân, hình ảnh của Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho biết phân định thần quyền và thế quyền: Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa đã đến dạy bảo loài người phân định giữa thần quyền và thế quyền. Xin cho luật pháp các quốc gia được phản ảnh luật Chúa. Còn những nhà làm luật chưa nhận biết Chúa, xin cho luật pháp họ đạo đạt được phản ảnh luật tự nhiên đã được ghi khắc trong lương tâm chính trực của họ. Cũng xin dạy con biết tuân giữ luật pháp công chính hầu cho trật tự và tiện ích công cộng được bảo đảm. Và xin dạy con biết tuân hành luật Chúa để mối liên hệ giữa Chúa và con được tăng triển. Amen.
Lm. Trần Bình Trọng
------------------------------
Chiếc phi cơ của hãng hàng không Đức Lufthansa đưa đoàn hành hương Harvest đáp xuống phi: TN 29-A61
Chiếc phi cơ của hãng hàng không Đức Lufthansa đưa đoàn hành hương Harvest đáp xuống phi truờng St Petersburg. Gió nhè nhẹ vào một buổi chiều mùa thu tại thành phố mà khí hậu rất khắc nghiệt mùa Đông đã khiến cho Napoléon và Hitler thân bại danh liệt làm tôi khẽ rùng mình. Nhìn qua khung cửa, lác đác một vài máy bay quân sự của Không Lực Nga khiến tôi không thể không liên tưởng đến phi truờng Tân Sơn Nhất.
Có chút gì giông giống hao hao! Và có chút gì ghê ghê lành lạnh chạy dài từ gáy xuống cột sống lưng. Từ Frankfurt qua St Petersburg chỉ cách hơn một giờ bay mà cơ hồ như tôi đã sống qua hai thế giới. “Thiên Đuờng Cộng Sản đây ư?” tôi tự hỏi lòng mình. Đã gần 90 năm từ khi Lênin với Cách Mạng Tháng Muời lật đổ chế độ Nga Hoàng, chẳng có mấy đổi thay ở những phần đất cộng sản thiên đuờng này!
Mà làm sao có thể đổi thay khi bao nhiêu nhân, vật lực đuợc tế sống thiêu thân cho những mộng đồ vuơng bá? “Làm sao có cách mạng khi không có máu đổ đầu rơi,” Lênin đã lạnh lùng tuyên bố ngay sau khi cướp chính quyền biện hộ cho những tham vọng rồ dại điên cuồng mà đã đưa thế giới gần bên bờ vực thẳm.
Ngồi trên xe buýt rảo qua một vài con phố chính truớc khi về khách sạn, lòng trí tôi miên man với muôn vàn suy nghĩ. Nếu hạnh phúc là đạt đuợc ước mơ đêm ngày ấp ủ thì quả thật tôi đã hạnh phúc đến vô cùng. Có ai đó bảo rằng “thấy Venice rồi chết!” Những với tôi, thấy nuớc Nga rồi chết và bây giờ nếu có chết tôi cũng đã phần nào mãn nguyện lắm rồi. Nghe có vẻ buồn cuời nhưng kể từ lúc có chút trí khôn, và nhất là kể từ khi chủ nghĩa đại đồng nhuộm đỏ phía nam vĩ tuyến 17, tôi vẫn hằng đan dệt một mộng ước rất đỗi tầm thường nhưng có lúc đã tưởng chừng như vô vọng là một ngày nào đó tôi sẽ đến phần đất bao la này của thế giới -quê hương của những vĩ nhân như Tolstoy, Dostoevsky, Solzhenitsyn nhưng cũng là nơi sinh ra những thiên tài đốn mạt nhất của lịch sử con người: Lenin, Stalin, Khrushchev.
Nhưng mộng uớc có vẻ tầm thường kia bắt nguồn từ lời nhắn gửi của Mẹ Fatima cho toàn thế giới: “Hãy cầu xin cho nước Nga đuợc trở lại.” Sao lại không Trung Quốc? Sao lại không Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ? Sao lại không một quốc gia nào khác mà chỉ lại Nga Sô!!? Câu hỏi này đã gậm nhấm tim tôi từng tháng từng ngày. Và tôi gắng thực hiện một ngày khi cơ hội đến.
Và cơ hội đến khi công ty Harvest nhờ tôi làm Tuyên Uy cho chuyến hành hương mang tên “Catholic Heartland”. Và khi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ gần Công Truờng Đỏ ngay tại thủ đô Mạc Tư Khoa, tôi đã không thể che giấu nỗi xúc động tột cùng. Mà làm sao không xúc động hả Trời khi một thuyền nhân trốn thoát chế độc Cộng Sản lại giờ đây đứng giữa nơi khai sinh thế giới đại đồng. Rồi lại được tế lễ tạ ơn Chúa đất trời ngay tại chốn mà nhiều năm qua dân tộc Nga đã bị ru ngủ bởi chiêu bài “tôn giáo là thuốc phiện”.
“Their spirit is broken, and we in the West should come here and heal their broken spirit,” một bà giáo sư người Anh chua chát nói với tôi sau một buổi cơm chiều. Tôi lặng người qua nhận xét này. Rồi gẫm lại những gì đã thấy đã nghe gần qua một tuần sống trong cái nôi của chủ nghĩa cộng sản đại đồng, tôi mới dần hiểu tại sao mệnh lệnh của Mẹ Fatima là phải luôn cầu nguyện để nuớc Nga đuợc trở lại.
Mà nuớc Nga chỉ có thể trở lại khi mỗi chính chúng ta trở lại. Khi mỗi chính chúng ta can đảm quay ngược đuờng về, trả lại cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê, và dâng cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
Quay ngược đuờng về! Như đứa con hoang đàng trong bức tranh tuyệt tác của Rembrandt tại Bảo Tàng Viện St Petersburg. Đến Nga mà không xem tận mắt
tuyệt tác bất hủ này thì quả là một thiếu sót cực kỳ. Rembrandt đã lột trần trọn vẹn sự xung đột liên lĩ giữa Thiên Chúa và Cêsarê qua bàn tay và khuôn mặt của người cha và ánh mắt ghen tuơng nảy lửa của nguời con trai trưởng. Trả lại cho Thiên Chúa một lòng thứ tha vô bờ bến. Và hãy mạnh dạn trả lại trả hết cho Cêsarê những dục vọng bất chính cùng những ích kỷ giả dối đê hèn.
Tôi đã cầu xin đuợc can đảm trở lại như người con trai thứ đã trở lại để nước Nga đuợc trở lại. Tôi đã cầu xin đuợc biết dũng cảm hy sinh như cha Thánh Maximilian Kolbe đã dũng cảm hy sinh. Đến trại tù tập trung Auschwitz nơi Maximilian đã chết để ánh sáng chân lý đuợc muôn đời toả sáng, tôi không khỏi ngậm ngùi. Cêsarê đã hiện rõ nét qua nhũng tham vọng cuồng dại của Hitler và đám đồ tề Đức Quốc Xã, nhưng Thiên Chúa cuối cùng đã khải hoàn vinh thắng sau những đớn đau thịt xác ngất trời. Than ôi! Sao con nguời có thể dã man tàn ác như thế với con nguời!
Lynn Johnston đã viết là “bản tuyên ngôn sâu xa ý nghĩa nhất thuờng đuợc diễn tả trong sự im lặng khôn cùng.” Sư im lặng khôn cùng đến rợn người tại trại tâp trung Auschwitz đã là tiếng chuông cảnh tỉnh cho toàn nhân loại là không thể trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Cêsarê. Và cũng không thể trả cho Cêsarê những gì thuôc về Thiên Chúa.
Nói một cách khác, con nguời đuợc sinh ra giống hình ảnh Thiên Chúa và đời sống và nhân phẩm mỗi nguời phải đuợc tuyệt đối tôn trọng trong bất cứ xã hội, hoàn cảnh và thể chế chính trị nào. Đã sống qua và đã là nạn nhân cộng sản, nhưng khi nhìn từng rừng tóc bạch kim, khi đi qua những phòng hơi ngạt, tôi cảm thấy lạnh người. Kinh khiếp quá! Ghê rợn quá! Những Cêsarê thời đại đã trả lại cho Thiên Chúa sự tàn ác vuợt quá mức sức tưởng tượng và lòng tha thứ bác ái con người.
Từ phòng biệt giam đến những dụng cụ tra tấn mà tuởng chừng như chỉ có thể xảy ra trong thần thoại hoang đường, Maximilian đã sống. Không một bút mực nào có thể diễn tả nỗi đớn đau thịt xác mà cha thánh đã chịu luỵ hy sinh, nhưng như lời Dolores Ibarruri tả, Maximilian đã “thà chết trên đôi bàn chân mình hơn là sống mọp qùy chân gối!” Và Maximilian đã trả về cho Thiên Chúa điều mà Nguời muốn trên thập giá năm xưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Trận chiến giữa Thiên Chúa và Cêsarê, giữa thiện và ác, giữa nô lệ và tự do, giữa tốt và xấu, giữa ánh sáng và bóng tối đã, đang và sẽ không bao giờ chấm dứt cho đến ngày tận thế cáo chung. Còn sống là còn tranh đấu. Còn sống là còn tin. Vào Đấng là Đường. Là Sự Thật. Và Sự Sống. Và vào chính chúng ta.
Marcel Proust đã viết rằng “cuộc lữ hành khám phá thật sự không phải là nhìn những cảnh tượng mới nhưng là nhìn bằng đôi mắt mới.” Đôi mắt mới để trả về cho Thiên Chúa nhũng gì thuộc về Nguời. Bây giờ và cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt
Lm. Nguyễn Khoa Toàn
----------------------------------
Khi những người biệt phái dùng tên của Cêsarê để đưa vào cuộc tranh luận với Đức Giêsu có: TN 29-A62
Khi những người biệt phái dùng tên của Cêsarê để đưa vào cuộc tranh luận với Đức Giêsu có nghĩa là họ đã mánh lới để đưa Ngài vào bẫy nguy hiểm chính trị: "Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Đứng trước vấn nạn này, Đức Giêsu bị đặt vào một thế không thể thắng. Nếu nói là cứ đóng thuế cho Cêsarê thì Ngài sẽ bị coi là đồng hạng với những người phản quốc; và nếu nói là không nên đóng thuế cho Cêsarê thì Ngài bị ghép vào tội xúi bảy người khác làm loạn chống lại hoàng đế La Mã. Biết là họ không có thiện ý, Ngài đã khiển trách họ là những kẻ giả hình. Ngài bảo họ đưa cho Ngài xem đồng tiền nộp thuế. Trên đồng tiền có khắc hình ảnh của Cêsarê. Ngài hỏi họ, "Hình tượng và danh hiệu này của ai?" Họ trả lời là của Cêsarê; và Ngài nói với họ, "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê", và ngài nói thêm, "Cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa." Đức Giêsu đã nghiêm chỉnh cho biết là họ có trách nhiệm đối với chính quyền và trách nhiệm đối với Thiên Chúa. Họ sống với hai chế độ: Chế độ nước trời và chế độ trần thế.Thiên Chúa và Cêsarê đều có quyền trên họ, cả hai thần quyền và thế quyền không loại trừ nhau.
Hình Tượng và Danh Hiệu Này Của Ai?
Đây chính là câu hỏi không những làm cho những người biệt phái phải suy nghĩ, nhưng chính chúng ta cũng phải suy nghĩ. Đồng bạc có khắc hình và danh hiệu của Hoàng đế La Mã. Do đó Đức Giêsu nói "Của Cêsarê thì hãy trả về cho Cêsarê." Thuộc địa và những người sống trong thuộc địa cũng như hệ thống tiền tệ thuộc về Hoàng đế La Mã. Những người sống và xử dụng hệ thống tiền tệ đó phải nộp thuế cho Hoàng đế La Mã. Nhưng Đức Giêsu lại nói thêm, "Cái gì của Thiên Chúa thì trả về cho Thiên Chúa". Điều này nói lên rằng khi Ngài hỏi hình tượng và danh hiệu này của ai thì Ngài cũng nhắc cho những người hỏi Ngài và cho chúng ta biết rằng hình ảnh của Cêsarê được khắc ghi trên đồng bạc thì trả về cho Cêsarê, nhưng hình ảnh của Thiên Chúa đã được khắc ghi trong linh hồn, con tim và thân xác con người chúng ta thì phải trả nó về cho Thiên Chúa. Lời sách Sáng Thế Ký đã ghi rõ, khi Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài đã nói, "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta" (1:26). Như vậy chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Và đó chính là lý do tại sao Đức Giêsu đã kết luận những gì của Thiên Chúa thì hãy trả về cho Thiên Chúa. Chúng ta không những chỉ thuộc quyền và có trách nhiệm đối với đất nước và chính quyền trần thế mà thôi. Trái lại chúng ta và tất cả mọi chính quyền còn thuộc quyền và có trách nhiệm đối với Thiên Chúa.
Tiên tri Isaiah trong bài đọc thứ nhất đã nói về vua Cyrô. Ông thờ thần riêng của xứ sở ông. Ông thi hành chính sách ông nghĩ ra, và lo làm những gì có lợi nhất cho ông. Ông không biết gì về Thiên Chúa của dân Do thái. Nhưng Thiên Chúa đã biết rõ ông và dùng ông làm khí cụ để giải cứu dân của Ngài. Giúp họ trở về quê hương và tái thiết đền thờ Giêrusalem cho họ. Thánh Phaolô trong bài đọc hai, đã gởi thư chào hỏi các tín hữu thuộc giáo đoàn Thessalonica. Ngài đã cảm tạ Thiên Chúa cho họ. Đức tin, lòng trông cậy và tinh thần yêu thương của họ là công việc của chính Đức Kitô và Thần khí của Đức Kitô. Họ thuộc về Đức Kitô. Họ hoạt động dưới sự chỉ đạo của Chúa Thánh Thần. Mỗi người đã được tuyển chọn bởi Thiên Chúa và nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần. Họ thuộc về một tổ chức tinh thần, là thành phần của Thân Thể Đức Kitô. Do đó chúng ta không được quên rằng chúng ta không những chỉ là công dân của một đất nước trần thế, nhưng chúng ta cũng là công dân của cả nước trời dưới quyền thống trị của Đức Kitô. Và như thế chúng ta có trách nhiệm với cả hai.
Trả Cho Cêsarê Những Gì Thuộc Về Cêsarê
Cyrô và Cêsarê là hình ảnh đại diện cho chính quyền đời trong xã hội con người. Tất cả mọi người đều thuộc về một xã hội và được hưởng những quyền lợi cũng như những sự phục vụ của xã hội đó mang lại cho họ. Và do đó họ phải có trách nhiệm đóng góp xây dựng xã hội đó. Khi Đức Giêsu nói, "Của Cêsarê thì hãy trả về cho Cêsarê" có nghĩa là không ai được quyền trốn tránh trách nhiệm đóng góp của mình cho xã hội. Hầu hết chúng ta đang thi hành điều này hàng ngày. Khi đi mua sắm hay đổ xăng xe chúng ta đều phải trả tiền thuế cho mỗi mặt hàng. Mỗi tháng chúng ta phải trả tiền ga, điện, nước, tiền điện thoại. Hàng năm chúng ta phải trả tiền thuế nhà, thuế đất, thuế lợi tức. Ở Hoa Kỳ cứ vào ngày 15 tháng tư hàng năm là tất cả mọi công dân phải có trách nhiệm khai và nộp thuế cho chính phủ. Sống ở Hoa Kỳ chúng ta xài tiền Dollars, và ai cũng thích kiếm được nhiều dollars. Chúng ta có trách nhiệm phải đóng thuế không được miễn trừ. Tuy nhiên hình như khi phải đóng thuế thì nhiều người lại cố tìm mọi cách để trì hoãn hoặc trốn tránh. Làm như thế là phản lại tinh thần của Đức Giêsu đã dạy. Theo như lời của Ngài thì đóng thuế là một trách nhiệm nghiêm chỉnh của mọi công dân. Trong một quốc gia mà tất cả mọi người dân ý thức được trách nhiệm của mình để đóng thuế cách nghiêm chỉnh thì chính quyền sẽ có phương tiện để phát triển và phục vụ cho đời sống của người dân được an ninh và trật tự. Trái lại nếu người dân cứ tìm cách gian lận trốn thuế thì chính phủ không thể làm việc hữu hiệu được. Người dân cũng có bổn phận phải tham gia vào đời sống chính trị, bầu cử và chọn lựa những người thanh liêm chính trực vào làm việc trong chính quyền để phục vụ lợi ích chung. Đây chính là ý nghĩa mà Đức Giêsu muốn nói, "Của Cêsarê thì hãy trả về cho Cêsarê."
Trả Cho Thiên Chúa Những Gì Thuộc Về Thiên Chúa
Vấn đề không phải chỉ đơn giản là trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê, nhưng chúng ta còn phải trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Là những Kitô hữu, chúng ta được đưa vào một cộng đoàn xã hội thiêng liêng. Mỗi người chúng ta chính là đồng bạc của Nước Trời. Trên đồng bạc đó có khắc ghi hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta hỏi mình xem hình ảnh của Thiên Chúa khắc ghi nơi chúng ta có còn sáng tỏ hay đã bị phai mờ? Nếu chúng ta là đồng bạc có khắc ghi hình ảnh của Thiên Chúa thì điều đó có nghĩa là tất cả mọi sự nơi chúng ta là của Thiên Chúa và chúng ta phải trả nó về cho Thiên Chúa. Thánh Ignatiô Loyola được ơn nhận biết Thiên Chúa là chủ quyền trên ngài nên đã viết lên lời kinh tận hiến như sau: "Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí khôn và ý chí của con. Tất cả những gì con có và làm chủ, Chúa đã cho con tất cả. Con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin Chúa xử dụng hoàn toàn theo tôn ý. Lạy Chúa, xin hãy ban cho con Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa. Đối với con như thế là đủ."
Chúng ta có đọc lên được lời kinh tận hiến như thế đối với Chúa hay không? Mới đây một người bạn E-mail cho tôi suy tư sau đây làm chúng ta phải suy nghĩ thêm:
Thật Kỳ Lạ
Thật kỳ lạ khi thấy tờ $100 có giá trị quá lớn khi bỏ vào giỏ trong nhà thờ, nhưng lại quá nhỏ khi đưa nó đi chợ mua sắm.
Thật kỳ lạ khi thấy một tiếng đồng hồ trong nhà Chúa thì quá lâu mà một tiếng đồng hồ xem đấu bóng rổ thì qua đi thật nhanh.
Thật kỳ lạ khi ở nhà Chúa hai tiếng đồng hồ thì thấy lâu, nhưng nếu xem xinê thì lại quá lẹ.
Thật kỳ lạ khi cầu nguyện thì chẳng biết nói gì, nhưng khi nói chuyện với bạn thì chẳng hết chuyện để nói.
Thật kỳ lạ vì chúng ta thấy rất hồi hộp khi trận đấu bóng phải kéo dài thêm mấy phút phụ trội, nhưng lại càm ràm khi một bài giảng được kéo dài hơn mọi khi.
Thật kỳ lạ vì chúng ta thấy khó khăn để đọc một đoạn Kinh Thánh, nhưng lại rất dễ dàng đọc hàng trăm trang tiểu thuyết.
Thật kỳ lạ khi thấy nhiều người thích ngồi những hàng ghế đầu khi đi dự những buổi đại nhạc hội hay các trận đấu bóng, nhưng lại tìm ngồi ở những hàng ghế cuối ở thánh đường.
Thật kỳ lạ khi chúng ta cần phải có hai hay ba tuần lễ trước để sắp xếp thời giờ cho những công việc nhà Chúa, nhưng lại dễ dàng thích ứng thời giờ cho những chương trình khác trong chớp nhoáng ở phút chót.
Thật kỳ lạ sao thấy quá khó khăn để nhớ một đoạn Kinh thánh hầu có thể thuật lại cho người khác, nhưng lại rất dễ dàng để hiểu và nhớ những lời 'đàm tiếu dèm pha ' để kể cho người khác nghe.
Thật kỳ lạ sao chúng ta dễ tin những gì báo chí đăng tải nhưng lại nghi nan đặt vấn đề những gì Kinh Thánh dạy.
Thật kỳ lạ sao ai cũng muốn lên Thiên đàng nếu họ không phải tin, không phải suy nghĩ, không phải nói hay làm gì cả.
Thật kỳ lạ khi có thể gởi các câu "tiếu lâm" qua hệ thống Email và nó sẽ được chuyền đi thật nhanh, nhưng khi gởi những gì liên quan đến Thiên Chúa thì người ta lại suy nghĩ cẩn thận xem có nên gởi đi chia sẻ với người khác hay không.
Rev. John Trần Khả
----------------------------------
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Mt 22, 15-21
Có thể nói Giêrusalem là nơi chứng kiến không ít những xách nhiễu của giới lãnh đạo: TN 29-A63
Có thể nói Giêrusalem là nơi chứng kiến không ít những xách nhiễu của giới lãnh đạo Dothái cũng như phía chính quyền Rôma gây ra cho Chúa Giêsu. Tưởng rằng những dụ ngôn Chúa Giêsu đã dùng làm cho các thượng tế và kỳ mục Dothái “câm miệng không nói được gì”, những thủ lãnh của các phe nhóm khác lấy đó làm bài học răn mình. Nhưng không, họ lại càng giận dữ và cố tâm hại Người. Chúng ta biết người Pharisêu và nhóm Hêrôđê không ưa thích gì nhau, nhưng giờ đây, để đạt được mục đích nhằm hại Chúa Giêsu, họ không ngại liên minh với nhau, bàn kế lập mưu hầu đưa Chúa vào “tròng”. Tin mừng hôm nay đề cập đến trục liên minh ma quỷ này và chúng ta hãy xem Chúa Giêsu hoá giải nó như thế nào.
Pharisêu được xem là những người mẫu mực về đường nhân đức. Vào thời Chúa Giêsu, họ rất được kính trọng bởi lối sống đạo đức của họ. Chuyên chăm suy niệm Lời Chúa, cầu nguyện và tuân giữ lề luật cách tỉ mỉ vốn được xem là “thế mạnh” của nhóm này. Nếu nhóm Pharisêu chỉ đơn thuần chú trọng vào lãnh vực tôn giáo thì nhóm Hêrôđê, trái lại, tập trung vào đường lối chính trị. Họ lập thành những Fans chính trị để ủng hộ gia đình Hêrôđê cũng như kết thân với chính quyền Rôma. Chính vì thế, để tạo sức mạnh hầu có thể chống lại Chúa Giêsu - người mà họ biết nếu đứng riêng rẽ sẽ không có kết quả, họ quyết định liên minh với nhau nhằm bày mưu hãm hại Chúa Giêsu.
Quả không sai. Liên minh ma quỷ này đưa vấn đề rất ư nhậy cảm vào thời bấy giờ đó là vấn đề nộp thuế cho hoàng đế Caesar. Vì đây là dạng “ yes- no question”, nên bọn liên minh này rất đắc chí, họ nghĩ rằng đàng nào Chúa Giêsu cũng sập bẫy, và như thế, họ tha hồ đánh trống khua chiêng để lên án. Thật thế, cái bẫy họ giăng ra thật ác nghiệt. Chúa Giêsu trả lời “yes” cũng chết mà “no” cũng chết. Nếu Người trả lời “yes”, nghĩa là chấp nhận chuyện nộp thuế cho Caesar, vô hình trung, Người chấp nhận sự xâm lược của quân Rôma, hợp thức hoá sự hiện diện của họ trên mảnh đất linh thánh mà Giavê đã ban cho cha ông họ. Và đây là cái cớ để phe nhóm Pharisêu hô toáng lên rằng Giêsu là tên phản quốc, đi ngược lại lợi ích của dân tộc Dothái. Còn nếu Chúa Giêsu trả lời “no”, thì khỏi phải bàn nữa, Người đang chống lại hoàng đế, nhóm Hêrôđê sẽ không bỏ lỡ cơ hội tấu trình lên chính quyền Rôma, quy kết Người vào tội phản động, chống lại triều đình.
Mỉa mai thay, kẻ giăng bẫy chính là kẻ sập bẫy. Chúa Giêsu trả lời cho họ bằng một yêu cầu buộc họ phải thi hành. Chúng ta biết, dân Dothái thời Chúa Giê-su bị thống trị bởi đế quốc Rôma. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bằng bạc, một đồng cân nặng 3,8 g và tương đương với 0, 875 quan vàng. Mặt phải của đồng tiền in đầu hoàng đế Tibêriô đội vòng nguyệt quế với dòng chữ: Tiberius Caesar Augustus, Divi Augusti Filius (Hoàng đế Tibêriô Augustô- con của thần August). Mặt trái của đồng tiền là hình hoàng hậu Livia hay thần chiến thắng trên một cỗ xe tứ mã với Tư tế Pontif. Và, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy nét châm biếm khôi hài của câu chuyện này chính ở chỗ kẻ đưa và giải thích huy hiệu trên đồng bạc Rôma không ai khác chính là những người thuộc nhóm Pharisêu -những người chống đối đến cùng sự hiện diện của hoàng đế và quân đội Rôma. Bọn người này một mặt rêu rao chống lại hoàng đế, nhưng những đồng tiền có huy hiệu hoàng đế từ trong túi họ chảy ra là bằng chứng tố cáo bộ mặt đạo đức giả của họ.
“Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Khi trả lời như thế, Chúa Giêsu cách nào đó minh định rằng, nước Thiên Chúa không đến để cạnh tranh với nước của Caesar, và việc Người đến thế gian này cũng không phải để chiếm lấy ngai vàng của Caesar. Caesar là của Caesar; Thiên Chúa là của Thiên Chúa, rất rõ ràng minh bạch. Khi trả chính trị về đúng vị trí vốn có của nó, loại bỏ chủ nghĩa tôn thờ, xem nó như bậc thần thánh, Chúa Giêsu muốn rằng đường lối chính trị tuy có những giá trị và trách nhiện riêng biệt nhưng không vì thế đứng ở thế đối lập với đường lối của Tin mừng; trái lại, nó cần phải được ánh sáng Tin mừng soi dẫn để luôn bước đi theo sự hướng dẫn của chân lý, nhằm đem lại những lợi ích thật sự cho cuộc sống nhân sinh- nơi mà nó được cắt đặt lên để thay mặt Thiên Chúa lãnh đạo. Cũng vậy, là con cái Thiên Chúa, hơn ai hết chúng ta là những công dân thuộc về một tổ quốc, một đất nước nhất định. Thế nên chúng ta cũng có bổn phận và trách nhiệm xây dựng vương quốc trần thế này mặc dù đó không phải là cùng đích vĩnh cửu. Chúa Giêsu hơn ai hết cũng đã trở nên một công dân gương mẫu khi Người cùng như cha mẹ đã chu toàn mọi nghĩa vụ công dân. Không thể có một tín hữu tốt nếu trước đó không là một công dân tốt đối với đất nước, gia đình và xã hội.
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhìn lại trách nhiệm của mình đối với Thiên Chúa, đối với gia đình và xã hội. Chúng ta có một Thiên Chúa để tôn thờ, nhưng đồng thời chúng ta cũng có một tổ quốc để dấn thân phục vụ. Ước gì thông qua những nghĩa vụ của một công dân trần thế, chúng ta loan báo và chuẩn bị cho đời sống của một công dân Nước Trời mai sau.
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
----------------------------------
1. Tình trạng hai «bản tịch» của Đức Giê-su
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự xung đột giữa hai «bản tịch» của Đức Giê-su cũng như của mọi: TN 29-A64
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự xung đột giữa hai «bản tịch» của Đức Giê-su cũng như của mọi Ki-tô hữu có quê hương dân tộc, nghĩa là vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức «giáo tịch», vừa là người dân của một đất nước, tức «quốc tịch». Ngài cũng như chúng ta, vừa phải yêu mến Thiên Chúa và có những bổn phận tôn giáo (như thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, hành xử theo lương tâm
), vừa phải yêu quê hương đồng bào và có nghĩa vụ đối với đất nước của mình (như tôn trọng pháp luật, đóng thuế, quân dịch
). Hai thứ trách nhiệm này thường phù hợp với nhau, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp chúng xung đột nhau: trung thành với tôn giáo thì có vẻ như phản bội đất nước, và ngược lại.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê hợp nhau đặt bẫy Đức Giê-su. Người Pha-ri-siêu là phe chủ trương trung thành với Do Thái giáo và đất nước Do Thái, vì thế, họ âm thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn phe đảng Hê-rốt là người của Hê-rô-đê An-ti-pa - tiểu vương miền Ga-li-lê - chủ trương ủng hộ chính sách đô hộ của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống đối nhau kịch liệt: người Pha-ri-siêu coi phe Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản quốc; còn phe Hê-rô-đê là tay sai của đế quốc, tìm cách giết chết từ trong trứng nước những mầm mống chống lại đế quốc trong dân Do Thái.
Điều rất lạ là trong bài Tin Mừng này hai phe chống đối nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại Đức Giê-su, bằng cách đặt Ngài vào một trường hợp thật khó xử là sự xung đột giữa hai «bản tịch» ấy. Họ chất vấn Ngài: «Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?» Trả lời thế nào Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói «được phép», Ngài sẽ bị người Pha-ri-siêu lên án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng thời chống lại Thiên Chúa mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo «không được» thì người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền Rô-ma vì tội tuyên truyền phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng Đức Giê-su đã trả lời họ một cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài được, đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai «bản tịch» trên. Đó là «của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa».
2. Thần quyền hợp với thế quyền bách hại Đức Giê-su
Người mang hai «bản tịch» như thế bị chi phối rất nhiều bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo và thế quyền bên đất nước, xã hội. Lý tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan tâm đến những thiện ích chung của mọi người để cùng cộng tác với nhau, mưu lợi ích và hạnh phúc cho toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho mọi người dân, mọi tín đồ. Nhưng tại nhiều quốc gia, thần quyền và thế quyền chống đối nhau, nhất là khi hai bên có những quan điểm căn bản ngược lại nhau. Chẳng hạn khi thế quyền chủ trương vô tôn giáo, hoặc nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn giáo đó là quốc giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào thế bị bạc đãi. Lúc đó, những người dân hai «bản tịch» bị ngược đãi ấy bị buộc phải chọn một bên và bỏ một bên một cách thật đau lòng. Đau lòng là vì họ chẳng muốn bỏ một bên nào, bên nào cũng hết sức thân thiết với họ. Họ lâm vào thế kẹt: hễ trung thành với tôn giáo thì bị nhà nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì bị tôn giáo kết án.
Nhưng cũng có những trường hợp thần quyền và thế quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột người dân vốn thấp cổ bé miệng, như trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần quyền có thể trở thành công cụ của thế quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng thế của nhau để áp bức người dân, để cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp với nhau, bênh vực hay tương nhượng lẫn nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành động sai trái, bất chấp quyền lợi chung của đất nước, tôn giáo, hay người dân.
Thần quyền cũng như thế quyền đều được lập nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và của các tín đồ. Thần quyền còn nhằm phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các quốc gia và các tôn giáo, cũng như cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy: không phải lúc nào thần quyền và thế quyền cũng đi đúng mục đích của mình. Nhiều trường hợp họ theo đuổi những mục đích cá nhân hay tập thể nhỏ của họ. Thiết tưởng các Ki-tô hữu chân chính, tức những môn đệ đích thực của Đức Giê-su, cho dù hoạt động trong thần quyền hay thế quyền, cũng luôn luôn đặt quyền lợi của Thiên Chúa, của đất nước, của tôn giáo và của dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh bản thân, quyền lợi cá nhân cũng như tập thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả ấy. Nếu không thì càng giữ chức vụ cao, họ càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự ác, và đương nhiên chức vụ cao ấy sẽ là nhân duyên tạo nên sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho họ.
3. Áp dụng nguyên tắc của Đức Giê-su
Là tín đồ của một tôn giáo trong một đất nước, chúng ta có hai «bản tịch» với hai loại nghĩa vụ: một là đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người; hai là đối với quốc gia, xã hội. Người Ki-tô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn chừng nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo và đời cùng đồng quan điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó, cả hai thế lực đều là những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh lệnh của những thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa ra nguyên tắc: «Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua» (1Pr 2,16). Đối với nhà nước phục vụ ích lợi chung như thế, thánh Phao-lô nói: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt» (Rm 13,1-2). Đó chính là áp dụng lời của Đức Giê-su: «Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa», nghĩa là nghĩa vụ thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa vụ ở bên nấy.
Tuy nhiên, lý tưởng trên nhiều khi không xảy ra, lúc đó người dân hai «bản tịch» sẽ gặp nhiều khó khăn. Là người Ki-tô hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con người lên trên hết. Và kế đó là phải phân biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của hai thế lực đạo, đời ấy. Chủ trương và động lực của hai thế lực này không phải luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và lương tâm con người. Hai thế lực ấy vốn là bề trên, là bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân phục. Đức vâng phục Ki-tô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng nào chúng ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, thì dù bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải tuân phục. Vì «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Nếu ta biết ý của bề trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt vâng lời là ta đã phạm tội đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì hùa theo giới lãnh đạo tôn giáo giết Đức Giê-su và các ngôn sứ, mà hậu quả là nước Do Thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.
Điều quan trọng là chúng ta phải thực hành thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện qua lương tâm ngay thẳng và được giáo dục của mình, bất chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay thương mại hay gì gì khác nữa. Chúng ta không chủ trương làm chính trị hay thương mại, mà chỉ chủ trương làm theo thánh Thiên Chúa hay lương tâm. Không thể vì một bổn phận nào đó mang ý nghĩa chính trị hay thương mại mà chúng ta có quyền miễn làm theo thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm. Trước những xung đột như thế, hãy tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên Chúa hay theo ý muốn của con người?
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế gian đầy phức tạp, việc sống theo ý muốn của Cha không phải là đơn giản, vì rất nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, chúng con phải biết nguyên tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao nhất mà Kinh Thánh mặc khải cho, chính là: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29), hay «Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời mà thôi» (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ nguyên tắc ấy qua lương tri và lương tâm của con. Amen.
John Nguyễn
----------------------------------
Lm. An Phong, OP
Mt 22,15-21
Người Do Thái muốn gài bẫy để kết tội Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu trả lời nộp thuế cho Hoàng: TN 29-A65
Người Do Thái muốn gài bẫy để kết tội Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu trả lời nộp thuế cho Hoàng đế, họ cho rằng Chúa phản bội quê hương; nếu Chúa Giêsu không nộp thuế cho Hoàng đế, họ sẽ trình với lính Rôma.
Nhưng Chúa Giêsu không muốn đồng hóa công trình cứu độ của Ngài với một chế độ chính trị hay với một cách thức giải quyết khôn khéo nào. Ðối với Chúa Giêsu, điều quan trọng hơn là mang lại ơn cứu độ cho con người.
Do đó, Chúa Giêsu nhắc nhở điều quan trọng hơn hết là trả về Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa. Ngài để lại cho con người quyền lợi và trách nhiệm phải suy tính cách thức hành động của mình; Ngài chỉ yêu cầu một điều thôi: Cùa Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa".
Thiên Chúa có thể sử dụng vua Kitô, một vì vua ngoại giáo, để thực hiện chương trình của Ngài (Bài đọc I); Ngài cũng có thể sử dụng những con người, những sự vật, những công việc trần gian để kêu gọi con người trở về cùng Ngài. Nếu người kitô hữu, đặc biệt là người giáo dân, có những trách nhiệm của mình với cuộc đời, họ có thể "trả cho Xêda điều thuộc về Xêda" bằng cách chu toàn nghĩa vụ của mình; và như thế là đã "trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa".
Nếu một người cha tận tâm với trách nhiệm gia đình, anh đang "trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa". Nếu một người mẹ hết lòng yêu thương và giáo dục con cái: chị ta đang "trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa". Một công nhân ý thức trách nhiệm của mình, hoàn thành nhiệm vụ được giao phó, người công nhân đó đã "trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa". Nếu đứa con biết sống xứng đáng với công ơn cha mẹ, chăm chỉ học hành, làm việc, sống hiếu thảo, người con đó đã "trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa".
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con đón nhận được tình yêu thương lớn lao của Chúa nơi bí tích này: Ðể chúng con nhận ra sứ vụ cao quí Chúa đã trao phó; sứ vụ làm chứng cho tình yêu của Chúa. Ðể chúng con biết trung tín với trách nhiệm Chúa đã trao cho chúng con; trách nhiệm xây dựng cuộc sống này; Và để chúng con luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn; vì chúng con được làm con cái Chúa và làm anh chị em với nhau.
Lm. An Phong, OP
----------------------------------
Mt 22,15-21
Nhiều người sống như chỉ có đời này mà thôi. Họ không cần luân lý. Ngoài vòng lễ giáo trở thành: TN 29-A66
Nhiều người sống như chỉ có đời này mà thôi. Họ không cần luân lý. Ngoài vòng lễ giáo trở thành nếp sống thời đại. Hạnh phúc cá nhân là ưu tiên số một. Tất cả trở thành phương tiện. Mọi giá trị tinh thần phản lại hạnh phúc đó đều bị loại trừ. Nằm sâu trong thâm tâm họ là niềmï xác tín:
Thượng Đế chết rồi còn lại ta,
Còn cụm tre xanh trái đất già.
(Huy Cận)
Đã đến lúc phải nhìn vào những hiện tượng xã hội đáng ái ngại hôm nay để thấy Lời Chúa quan trọng tới mức nào trong nếp sống và suy tư của chúng ta.
CAO TAY ẤN
Đức Giêsu phải trực diện với một vấn đề khó xử: "Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không ?" (Mt 22:17) Khó xử vì hoàn cảnh dân Chúa lúc đó đang bị đặt dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma. Lòng dân căm thù đế quốc. Những người Pharisêu vẫn tự hào đứng về phía dân quyết không đội trời chung với bọn tay sai đế quốc như phe Hêrôđê. Vậy mà họ vẫn không ngần ngại cấu kết với nhau trong âm mưu hạ bệ uy tín Đức Giêsu. Nhưng vỏ quit dầy có móng tay nhọn. Đức Giêsu đã khéo léo tránh cạm bẫy. Người không trả lời trực tiếp vấn nạn họ nêu lên.
Chính nhờ cách tránh né thông minh như thế, Đức Giêsu nêu bật một khuôn vàng thước ngọc cho hậu thế. Thay vì trả lời, Đức Giêsu lại chất vấn bọn người nham hiểm và giả hình đó. Họ đã bị sập bẫy khi Chúa như truyền lệnh: "Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi" (Mt 22:19). Họ đã ngoan ngoãn đưa ra đồng tiền đó. Nhìn thẳng vào mặt họ, Chúa hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây ?" (Mt 22:20) Họ ngây thơ trả lời: "Của Xêda" (Mt 22:21). Đến đây mọi sự vẫn bình thường, chưa có gì đặc biệt. Nhưng khi Chúa hạ giọng: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mt 22:21), mới thấy phân thắng bại và khiến "họ ngạc nhiên" (Mt 22:22)
Họ ngạc nhiên vì Đức Giêsu không dừng lại ỡ lãnh vực chính trị, nhưng mở rộng tới chiều kích tôn giáo. Thiên Chúa và thế quyền không nằm trên một bình diện. Trái lại Thiên Chúa siêu vượt và bao trùm toàn thể vũ trụ. Thế quyền chỉ là một điểm nhỏ trong vũ trụ bao la đó. Nhưng con người luôn phải đặt trước một lựa chọn giữa nhiều giá trị khác nhau. Chính vì thế con người dễ lệ thuộc hoàn cảnh và chìm vào bến mê. Trần thế với bao quyền lực hào nhoáng có thể làm con người lãng quên nguyên ủy cuộc sống là chính Thiên Chúa.
Thiên Chúa có những quyền lợi bất khả xâm phạm. Quyền lợi ấy in sâu vào tâm khảm con người. Bởi đó khinh thường quyền lợi đó, thế quyền xâm phạm tới chính con người. Thực tế Thiên Chúa không có những quyền lợi đối nghịch với con người. Con người là chi trước một Thiên Chúa vô cùng giàu có như vậy? Con người có chi mà không bởi Thiên Chúa ? Chỉ tại con người tự thần thánh hóa mới lầm tưởng mình ngang bằng Thiên Chúa. Thực tế nhiều khi con người cố tạo ra những mâu thuẫn giả tạo để phục vụ cho quyền lợi ích kỷ và mau qua mà thôi.
Bởi thế ngang qua những mâu thuẫn hôm nay, chúng ta thử phân tích để thấy con người đã biết trả về Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa hay chưa. Hình như tâm trí con người ngày càng xa ý thức về quyền lợi Thiên Chúa trong cuộc sống và cảnh vực của mình. Bởi đó những xáo trộn mới vượt ngoài tầm kiểm soát của con người.
NHU CẦU TÔN GIÁO
Quyền lợi Thiên Chúa chính là đối tượng khát vọng tôn giáo của con người. Nhưng hình như nhiều người làm lơ trước nhu cầu lớn lao đó. Bởi đó vô thần đã thành hiện tượng. Thái độ lãnh đạm với tôn giáo đã phổ biến khắp Aâu Mỹ. Chính công đồng Vatican 2 đã phải thốt lên: "Ngày nay, càng ngày càng có nhiều người bỏ không thực hành đạo nữa" (MV, s.7). Bên Pháp tác giả Serge Lafitte ghi nhận trong vòng 8 năm từ 1986 đến 1994, số người tự nhận có tín ngưỡng nhưng không theo tôn giáo tăng từ 15% tới 23%, số người không tín ngưỡng tăng từ 14% tới 19%, mặc dầu ‘số người tự xưng vô thần thực sự không gia tăng. Tình trạng bên Đông Đức càng thê thảm: 70% không hề được rửa tội, và đại đa số 30% dân chúng theo Tin Lành nhưng không sống đạo bao nhiêu, chỉ có 5% Công giáo (trích Trần Đức Anh:1999).
Quyền lợi Thiên Chúa ở đâu trong xã hội với những con người như thế ? Năm 1985, Rôma còn cho thấy hiện tượng lãnh đạm với tôn giáo nổi bật tại Ý (59%), Pháp (25%). Ngay tại nước Ý chỉ có 15%, Pháp 16%, Quebec 38% người Công giáo đi lễ Chúa nhật (Dictionary of Fundamental Theology:897-898) Tại sao có những hiện tượng ấy ?
Người lạc quan nhất cũng không thể không thấy vấn đề trầm trọng. Những gì thuộc về Thiên Chúa đang bị cướp mất khỏi vòng tay Thiên Chúa chăng ? Phong trào tục hóa đã thành công trong việc trục xuất Thiên Chúa khỏi lòng người rồi hay sao ? Lạnh đạm với tôn giáo phải chăng chỉ là một thái độ cá nhân hay đã trở thành một hiện tượng văn hóa ?
Nếu chỉ là một thái độ cá nhân, nó qua đi rất mau. Vì năm 1950, chính nhà tâm lý học Carl Gustav Jung đã nói: "Trong số tất cả các bệnh nhân của tôi, từ tuổi trung niên, nghĩa là sau 35, dứt khoát người nào cũng có một thái độ tôn giáo" (Paul Cardinal Poupard:1989). Nghĩa là rất hiếm người giữ mãi một thái độ lãnh đạm tôn giáo. "Người ta đang có khuynh hướng trở lại với một đời sống đầy ắp những giá trị tôn giáo, một ước muốn tái khám phá cội nguồn tôn giáo." (Paul Cardinal Poupard:1989) Chính vì thế chúng ta không vội bi quan trước những cảnh quyền lợi Thiên Chúa đang bị xâm phạm. Bao lâu con người còn là con người, Thiên Chúa vẫn là một nhu cầu không thể thiếu vắng trong cuộc đời. Nói khác, "nhu cầu cần có Thiên Chúa đang tái sinh trong tâm hồn con người" (Paul Cardinal Poupard:1989).
Nhưng nếu thái độ lãnh đạm tôn giáo đã ăn sâu vào văn hóa, vấn đề trở thành trầm trọng hơn nhiều. Lúc đó con người như chìm ngập vào trong một môi trường không còn nghe thấy khát vọng chân lý trong lòng, không còn những bận tâm tôn giáo, hoàn toàn chìm ngập trong tiếng động của máy móc, hay tiếng nhạc buồn nôn. Con người không còn giờ suy nghĩ về những hoạt động của mình. Bởi đó, như Didier Piveteau đã nói: "Tất cả mọi nỗ lực nhằm thức tỉnh giới trẻ và truyền lại cho họ các giá trị đều vô hiệu. Chúng ta tìm cách trả lời cho họ những vấn đề họ không bao giờ hỏi." (Dictionary of Fundamental Theology:900) Nghĩa là lãnh đạm với tôn giáo trở thành mốt thời đại. Người ta hãnh diện vì mình sống ngoài vòng chi phối của tôn giáo, không cần đi lễ hay sống theo những đòi hỏi luân lý v.v.
Trước những khó khăn như thế, chắc chắn phải huy động trên một quy mô rộng lớn hơn mới mong trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Hơn lúc nào hết giáo dân cần được học hỏi nhiều hơn về nhu cầu tinh thần của thời đại và cần đào sâu hơn kiến thức về Thiên Chúa và Hội Thánh. Cần xét lại đường lối mục vụ để đáp ứng kịp thời nhu cầu tinh thần thời đại. Làm như thế mới giựt lại quyền lợi cho Thiên Chúa, vì quyền lợi Thiên Chúa chính là hạnh phúc con người vậy.
Lm. Đỗ vân Lực, OP
----------------------------------
Mt 22,15-21
Thế giới hôm nay vẫn chưa phân thành những ranh giới rõ rệt. Các thế lực còn tranh chấp để: TN 29-A67
Thế giới hôm nay vẫn chưa phân thành những ranh giới rõ rệt. Các thế lực còn tranh chấp để giành dân lấn đất. Phải chăng Thiên Chúa cũng đang tranh giành ảnh hưởng trên phần đất nhân loại ?
AI BẪY AI ?
Dưới cái nhìn của những người Pharisêu, Ðức Giêsu xuất hiện như một đối thủ lợi hại. Chính vì thế, họ không ngớt "tìm cách làm cho Ðức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy." (Mt 22:15) Họ khéo léo che phủ cái bẫy bằng miếng mồi hấp dẫn. Trước hết, họ toa rập với phe Hêrôđê mở miệng ca bài "con cá" (Mt 22:16) với Chúa. Tài đóng kịch thật tuyệt vời khi họ cố mang dáng vẻ những người tầm sư học đạo: "Xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộ thuế cho Xêda hay không ?" (Mt 22:15)
Trả lời kiểu nào cũng chết. Có hay không cũng đều mắc mưu nhóm Pharisêu hay Hêrôđê, đại diện cho dân tộc và đế quốc. Kết quả có thể mắc tội phản quốc hay phản loạn. Ðức Giêsu đã thấy rõ tất cả đường đi nước bước của những mưu mô quỷ quyệt đó. Trò chơi đó không qua mắt Người dễ dàng như bọn Biệt Phái và Hêrôđê mơ tưởng. Ðức Giêsu đã thoát hiểm trong gang tấc. Người chứng minh cho họ thấy tất cả cá tính siêu việt khi nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hởi những kẻ đạo đức giả !" (Mt 22:18) Bị đánh trúng tim đen, họ ngoan ngoãn chui vào bẫy chính mình đã trương lên. Lần lượt họ đã đưa quan tiền và trả lời những câu hỏi liên qua tới việc nộp thuế. Còn chính câu trả lời của Chúa lại chẳng đáp ứng chút nào tới nỗi bận tâm của họ. Họ đành câm họng, không dám đặt vấn đề thêm nữa.
Còn dám nói gì nữa khi nghe Ðức Giêsu dõng dạc trả lời: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." (Mt 22:21) Hai lãnh vực phân biệt, nhưng không tách biệt. Nói khác, không ai có thể vẽ một đường ranh rõ rệt cho hai lãnh vực đó. Lý do vì "Ðức Chúa Vua Cả thống trị khắp địa cầu," (Tv 47:3) trong đó có đế quốc Rôma của hoàng đế Xêda. Tuy thế, vẫn cần có những phân biệt cần thiết cho sinh hoạt xã hội. Những vi phạm và lạm dụng đã sinh ra bao tai hoạ cho nhân loại.
Làm sao phân biệt "của Xêda" và "của Thiên Chúa" ? Lịch sử chỉ là cuộc tranh đấu để phân biệt hai lãnh vực đạo đời đó. nhiều người đã hoa mắt trước châm ngôn "tốt đời đẹp đạo". Thực tế đó chỉ là cái bẫy ! Nhiều người đã mắc bẫy quá ư dễ dàng. Chỉ vì quyền lợi riêng, họ đã dễ dàng thoả hiệp với đời. Chính Chúa khẳng quyết: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được." (Lc 16:13; Mt 6:24.) "Tiền của" là một thứ tà thần thống trị mọi lãnh vực "đời", trong đó có thế quyền. Thoả hiệp chỉ là một hành động hèn nhát !
Làm sao có thể tránh được hành động hèn nhát đó ? Chính "Ðức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu cám dỗ." (Mt 4:1; Mc 1:12-13; Lc 4:1-13) Cuộc chiến thắng dựa trên sức mạnh Lời Chúa, "là thần khí và là sự sống." (Ga 6:63) Chính thánh Phaolô đã xác quyết về sức mạnh đó: "Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần và một niềm xác tin sâu xa." (1 Tx 1:5b) Nhờ Thần Khí, thánh nhân đưa một lời khuyên chí lý: "Anh em đừng mang chung một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính ? Làm sao ánh sáng lại dung hoà được với bóng tối ? Làm sao Ðức Kitô lại hoà hợp được với Xatan ? Làm sao Ðền Thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được ? Vì chính chúng ta là Ðền Thờ của Thiên Chúa hằng sống." (2 Cr 6:14-16)
THỰC TẾ
Rõ ràng không thể thoả hiệp. Cũng không thể san bằng Thiên Chúa với bất cứ thế lực nào. Người ta cứ tưởng Giáo hội là một thế lực chính trị, đang tranh giành ảnh hưởng quần chúng. Bởi đó, mới đây sau khi thống kê dân số Việt Nam vượt trên 80 triệu, nhà nước Việt Nam cho biết trong số đó có 60 triệu người vô thần. Còn lại 20 triệu chia cho 5 tôn giáo khác. Ðúng là phản ánh não trạng đấu tranh giai cấp và dành giựt quyền lợi. Giữa một xã hội với những não trạng như thế, người Kitô hữu phải có cái nhìn và lựa chọn như thế nào ?
Con người luôn ở trong thế lựa chọn. Nhiều khi rất quyết liệt và khó khăn kinh khủng. Mỗi lựa chọn đều ảnh hưởng tới cuộc sống. Nhất là giữa đức tin và những đòi hỏi thực tế. Chẳng hạn trước những phong trào trần tục hoá hôm nay, làm sao gia đình có thể giữ vững những giá trị Kitô giáo ? Nhìn về Giáo hội Chilê, ÐGH lên tiếng báo động hiện đang có những nỗ lực hợp pháp hoá việc phá thai và ly dị tại quốc gia Châu Mỹ La Tinh này. Ðời sống gia đình "ngày nay đang đối đầu với nhiều khó khăn tại Chilê." (ÐGH Gioan Phaolô II: CWNews 15.10.2002) Giữa những khó khăn đó, chắc chắn các gia đình đang phải lựa chọn giữa lương tâm và quyền lợi trước mắt. Trước những trào lưu "khoái lạc chủ nghĩa và những tầm thường của cuộc sống" làm thế nào các bạn trẻ có thể có những lựa chọn sáng suốt và can đảm, nếu đời sống thiêng liêng không được chăm sóc đặc biệt nhờ các bí tích ? (ÐGH Gioan Phaolô II: CWNews 15.10.2002)
Không phải chỉ có Giáo hội tại Châu Mỹ La Tinh. Khắp nơi các Kitô hữu luôn phải đối đầu với những vấn đề và những lựa chọn, có khi ngay trong cơ cấu nội bộ. Chẳng hạn, Giáo Hội Ðức đang gặp thử thách ngay trong thói quan liêu của Giáo hội. ÐHY Joachim Meisner, tổng giám mục giáo phận Cologne bên Ðức, thúc đẩy các nhân viên trong cơ chế Giáo Hội Công Giáo hãy quay về "gặp gỡ đích thân Ðức Kitô" và cảnh cáo rằng thói quan liêu của Giáo hội đang có nguy cơ làm lu mờ đức tin. (Zenit 10.10.2002) Như vậy, chính khi làm việc phục vụ Giáo hội, các tín hữu cũng phải lựa chọn giữa thói quan liêu cơ chế hay con người như một giá trị Tin Mừng. Thực tế có nhiều người sẵn sàng hi sinh giá trị Tin Mừng để bảo vệ cơ chế Giáo hội. Ðó là một cám dỗ lớn lao. Bởi đó, theo ÐHY Meisner, "các cấu trúc, mệnh lệnh, qui chế và các nhân viên" trong Giáo hội đang có nguy cơ "làm hoang mang đức tin." (Zenit 10.10.2002) ÐHY tỏ ra quan ngại về đức tin yếu kém của các cộng sự viên giáo dân trong Giáo hội. Thực tế đó không chỉ tìm thấy nơi Giáo hội Ðức. Nhiều Giáo hội non trẻ cũng đang sa lầy. Ðức tin yếu kém không thể hướng dẫn các nhân viên có những lựa chọn sáng suốt.
Trái lại, nếu có một đức tin sâu xa và vững chắc, các nhân viên, nhất là các vị lãnh đạo Giáo hội có thể tìm được nhiều cơ hội làm chứng cho Ðức Kitô. Chẳng hạn, mới đây, ÐGH Gioan Phaolô II và Thượng Phụ Teoctist, Giáo Chủ Romania, đã ký một Tuyên Cáo Chung cam kết tìm kiếm sự hiệp nhất Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo. Bản Tuyên Cáo nhấn mạnh: "Phúc âm hoá không thể dựa trên tinh thần cạnh tranh, nhưng trên sự tương kính và cộng tác, biết nhìn nhận tự do của mỗi người có quyền sống theo xác tín riêng, tôn trọng việc họ theo đạo riêng." (Zenit 13.10.2002) ÐGH nhìn nhận các Giáo Hội Chính thống "được kêu gọi đảm trách sứ mệnh truyền giáo nơi các quốc gia mà họ đã bám rễ lâu đời. Giáo hội Công Giáo chỉ muốn giúp đỡ và cộng tác với anh em trong sứ mệnh này mà thôi." (Zenit 13.10.2002) Ðây là một biến cố, đánh dấu một bước tiến rất quan trọng sau một quá trình đối thoại và những lựa chọn đúng đắn. Chắc chắn lựa chọn này sẽ ảnh hưởng lâu dài và sâu xa đến Giáo hội toàn cầu.
Lm. Đỗ vân Lực, OP
----------------------------------
LỜi Chúa: Mt 22, 15-21
15 Một hôm, những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Ðức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. 16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê, đến nói với Ðức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?" 18 Nhưng Ðức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19 Ðưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!" Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. 20 Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" 21 Họ đáp: "Của Xêda". Bấy giờ, Người: bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Suy NiỆm
Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?" Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi. Nếu Ðức Giêsu: TN 29-A68
"Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?" Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi. Nếu Ðức Giêsu bảo phải nộp, ắt Ngài chẳng yêu nước yêu dân. Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng nộp, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo. "Cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng thuế." Khi đưa cho Ðức Giêsu đồng bạc có hình Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này,
và như thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da. Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là của Xê-da, Ðức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: "Vậy hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da" Ngài nhìn nhận một sự độc lập nào đó của ông. Ông có quyền điều hành đế quốc của ông như ông muốn.
Ðối với người Do Thái sử dụng đồng bạc của Xê-da, Ðức Giêsu không hề ngăn cản họ nộp thuế cho ông ấy, như sau này có kẻ tố cáo (x. Lc 23,2). Nhưng Ngài cũng không buộc mọi người phải nột thuế cho Xê-da,
vì có người coi việc nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Chẳng những Ðức Giêsu không bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: "Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa." Ðây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan tâm. Chúng ta tự hỏi: có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (x. St 1,26).
Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai được khinh miệt phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự trong sáng của lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa. Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài trên đời ta. Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món quà Ngài đã tặng.
Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa (x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp với ý Ngài, cũng là phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người. Chúng ta có chiếm đoạt điều gì của Thiên Chúa không? Hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi rõ hay mờ nhạt? Có lớp bụi nào che khuất khuôn mặt Chúa nơi tôi? Ước gì tôi đọc được tên Thiên Chúa, tên Ðức Giêsu trên những người tôi gặp, những biến cố tôi sống mỗi ngày.
GỢi Ý Chia SẺ
Bạn nghĩ gì về những điểm giống nhau và khác nhau giữa quyền của quốc gia và quyền của Hội Thánh?
Theo bạn, đâu là giới hạn của những quyền này?
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người nhiều khi đã bị che lấp và những hình ảnh khác đã chiếm chỗ. Theo bạn, đâu là những hình ảnh khác đang in dấu trên con người hôm nay?
CẦu NguyỆn
Lạy Cha,
có những người bạn trẻ thích xăm hình lên người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể thao hay điện ảnh. Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu thích.
Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của Cha: Cha quảng đại mở ra để chia sẻ hạnh phúc thần linh, Cha khiêm tốn tôn trọng tự do của con người, Cha yêu thương đến nỗi dám trao hiến Người Con Một chí ái,
Cha bao dung tha thứ trước những tâm hồn hoán cải, Cha luôn tận tụy làm việc để nâng đỡ cả thế giới.
Ước gì người ta biết Cha trên trời, khi gặp chúng con ở dưới đất. Ước gì người ta đọc thấy tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.
Manna
----------------------------------
Mt 22,15-21
Cái bẫy khôn khéo
Một cái bẫy ! Thánh Mát-thêu quả quyết rõ ràng như vậy. Những người Pharisêu thấy rằng khó có thể: TN 29-A69
Một cái bẫy ! Thánh Mát-thêu quả quyết rõ ràng như vậy. Những người Pharisêu thấy rằng khó có thể bắt lỗi Ðức Giêsu về bất cứ điều gì, nên họ bàn bạc với nhau và đưa ra một câu hỏi rất khôn khéo, vừa có tính cách luật pháp vừa có tính thời sự, để dổn Ðức Giêsu vào thế bí và như vậy Người sẽ lỡ lời.
Họ đến gặp Ðức Giêsu, lời lẽ cung kính, nhìn nhận Người là vị giải thích lề luật cách chân thật, và nêu ra một vấn đề có liên quan đến việc thành hình các đảng phái khác nhau trong dân Ít-ra-en. Ðó là vấn đề có hay không nên nộp thuế cho thế lực ngoại bang đang cai trị đất nước.
Câu hỏi đúng là một cái bẫy và được đặt ra theo quan điểm luật pháp: có được phép không. Quan điểm này không phải là tình cờ: đây chính là yếu tố tạo nên những cái nhìn khác nhau về tôn giáo, bởi vì không thể có thái độ nửa vời và cũng không thể ngả theo ngoại bang. Do đó, câu trả lời cũng rất khó: ngả theo phía này là làm cho phía kia tức giận.
Quả thế, nếu Ðức Giêsu đồng ý với việc nộp thuế tức là Người đã chấp nhận quan điểm của người Xa-đu-xê, những người cộng tác với quân chiếm đóng và đang được hưởng nhiều lợi lộc. Còn nếu Người nói rằng không được nộp thuế, tức là Người ủng hộ phái Pharisêu, những người cho rằng chỉ có một thứ thuế duy nhất và hợp lý đó là phần dâng trích nộp cho Ðền Thờ. Thái độ này sẽ dẫn đến một tình trạng nguy hiểm và có thể bị tố cáo là phản loạn. Trớ trêu thay, đây chính là điều các địch thủ của Ðức Giêsu sẽ nêu ra khi tố cáo Người tại toà án.
Trước câu hỏi đầy mưu mẹo như thế, Ðức Giêsu làm gì ? Các bản văn Tin Mừng đều cho thấy Người không trực tiếp trả lời câu hỏi, trái lại Người tố cáo thái độ giả hình của những người chất vấn: "Tại sao các ông lại gài bẫy tôi ? Các ông thật là giả hình."
Người ta có cảm tưởng Ðức Giêsu tránh né cuộc đối đầu. Thật ra, Người biết rõ ý định nằm phía sau câu hỏi và câu hỏi chẳng đem đến lợi ích nào. Người ta muốn nêu ra một vấn đề có vẻ gai góc để cho mình quyền đánh lừa Thiên Chúa. Họ không hề có ý lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa. Họ không muốn nghe lời chỉ bảo phải làm gì và làm như thế nào. Ý định của họ là muốn dựa vào câu trả lời của Ðức Giêsu để bắt bẻ Người và minh chứng Người không phải là Ðức Ki-tô.
Như thế, thái độ của Ðức Giêsu cho thấy một vấn đề khác, nghiên trọng hơn và cũng hấp dẫn hơn: đó là con người vẫn muốn đưa Thiên Chúa vào bẫy, vẫn muốn đánh lừa Thiên Chúa với những tính toán nhỏ mọn, tầm thường của mình.
Cai quản hay là phục vụ
Cái bẫy do nhóm Pharisêu giăng ra đã không có tác dụng. Ðức Giêsu đã hoà giải điều khúc mắc do các thù địch nêu ra mà chẳng đả động gì đến thái độ hợp tác với ngoại bang, cũng chẳng khơi dậy tinh thần ái quốc như một số người mong muốn.
Câu trả lời của Ðức Giêsu đưa những người chất vấn đến một thái độ khác là phải trở về với vấn đề nền tảng: "Của Xê-da, trả về cho Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa."
Lối phân biệt giữa Thiên Chúa và Xê-da nhắc lại một hành động tương tự trong công trình sáng tạo: Thiên Chúa đã tách đất ra khỏi nước và ánh sáng khỏi bóng tối. Lối phân biệt này gạt bỏ việc pha trộn giữa chính trị và tôn giáo ; nó giải thoát con người khỏi tình trạng hoang vu, hỗn độn, theo diễn tả của sách Sáng Thế.
Việc nộp thuế là một bỗn phận thuộc lãnh vực chính trị và kinh tế ; và Thiên Chúa không can thiệp vào lãnh vực này. Khi trao cho con người quyền cai quản mặt đất, Thiên Chúa không bó buộc họ phải điều hành theo một kỹ thuật nào nhất định. Trái lại, điều Thiên Chúa đòi hỏi là khi cai quản mặt đất, con người biết duy trì mối tương quan đúng đắn với Thiên Chúa.
Giữa Thiên Chúa và Xê-da, chẳng có gì phải chọn lựa, nhưng phải cẩn thận kẻo lầm lẫn. Thiên Chúa không phải là Xê-da, và Xê-da không phải là Thiên Chúa. Chính xác tín này sẽ giúp mỗi người đạt tới sự tự do đích thực. Họ phải luôn suy nghĩ, tìm kiếm để hoàn thành sứ vụ họ được mời cộng tác là cai quản mặt đất, đổng thời cũng phải suy nghĩ để luôn giữ được khoảng cách cần thiết, tránh việc coi những quyền bính trần gian là tuyệt đối.
Trước hết, phải "... trả cho Xê-da...", bởi vì con người là thành phần của mặt đất. "Ai muốn làm thiên thần là biến mình thành súc vật" (Pascal). Trong cuộc sống của con người trên mặt đất, có những quyền bính cần được tôn trọng và có những trách nhiệm phải thi hành, không ai có thể trốn tránh. Tuy nhiên có một nguy cơ rất lớn đó là người ta dễ trở thành bạo chúa hơn là trở thành tôi tớ. Chính vì vậy, Hội Thánh chống lại việc thần thánh hoá quyền bính, nhưng vẫn thánh hiến người thi hành quyền bính.
Ðó cũng là ý nghĩa việc xức dầu cho các vua thời Cựu Ước. Quyền lực có thể đổi hướng, trở thành chuyên chế, cần phải biết giới hạn. Ðối với người được trao quyền cai quản, việc xức dầu có mục đích vừa nhắc đến nguổn gốc vừa cho thấy giới hạn của quyền bính. Những người nắm quyền chỉ có thể thi hành cách hợp pháp khi biết noi theo hình ảnh gương mẫu là Ðức Ki-tô: phục vụ, loại trừ điều ác và trao tặng sự sống.
Sau đó, phải " ... trả cho Thiên Chúa", bởi vì con người cũng là con cái Thiên Chúa, họ phải trở nên hình ảnh của Người. Họ được tạo dựng, không phải theo hình ảnh bằng bạc, hay hình ảnh của một con người, nhưng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, quyền bính chính trị đúng đắn là giúp mỗi người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa, như họ đã được tạo dựng. Họ không phải chỉ là một thụ tạo bình thường, họ có một mục đích rõ rệt: "có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa" (x. Rm 14,8). Họ phải luôn sống khiêm tốn qua việc sẵn sàng phục vụ người khác, đổng thời cũng luôn khiêm tốn mở rộng tâm hổn trước Nước Trời đang đến.
Chỉ một câu hỏi và một câu trả lời
Không thể kết luận rằng Tin Mừng không nói gì đến thái độ của người Ki-tô hữu trước các thực tại chính trị. Thật ra, Tin Mừng nói đến vấn đề này rất nhiều, không phải chỉ trong bài Tin Mừng này.
Tin Mừng luôn nói đến vấn đề nhập thể: Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người trong một đất nước, vào một thời đại và những hoàn cảnh cụ thể. Ðiều này cho thấy mỗi Ki-tô hữu đang sống trong những điều kiện nhất định, họ phải thuộc về thời đại của mình.
Thiên Chúa cũng luôn nhắc nhở các Ki-tô hữu về sự thống nhất giữa lời nói và hành động, giữa điều họ nói và việc họ làm. Họ phải cố gắng thực hành điều này, bao nhiêu có thể. Ðây là một mệnh lệnh nghiêm khắc mà những ai đang dấn thân vào các hoạt động trần thế phải luôn suy niệm và tìm cách thực hiện.
Tin Mừng cũng nêu lên vấn đề là làm cho mọi thực tại liên hệ đến con người được biến đổi nhờ tình yêu, một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa, một tình yêu có tính cách sáng tạo. Ðây lại không phải là mục đích của các hoạt động công cộng ?
Ðúng thế, Tin Mừng nêu lên nhiều vấn đề, một mặt thúc đẩy các hoạt động chính trị, mặt khác giúp cho trần gian khỏi rơi vào tình trạng phi lý, khỏi những mưu đổ làm hạ giá con người. Tuy vậy, cũng phải nhận rằng Tin Mừng không nói gì đến các lựa chọn riêng tư. Mỗi người phải tự tìm kiếm, khám phá, nỗ lực, đổng thời cũng hiểu rằng không có một giải pháp nào có giá trị bền vững và thực hiện trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng ...
Cũng cần phải nói thêm rằng, câu hỏi quan trọng nhất con người đặt ra cho Thiên Chúa là cuộc sống và số phận của họ, thì Ðức Giêsu đã trả lời bằng chính cuộc sống, cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người. Với nhóm Pharisêu, Người đã không nói gì, nhưng với nhân loại đang đợi chờ một dấu chỉ, Người đã bày tỏ Thập Giá và sự Phục Sinh. Các câu hỏi khác đều bắt nguổn từ câu hỏi này, và các câu trả lời khác đều phải hướng tới câu trả lời này.
Lm. Giuse. Nguyễn Cao Luật, OP
----------------------------------
- Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
(Ys 45,1.4-6; 1Th 1,1-5b; Mt 22,15-21)
I. Phúc Âm: Mt 22, 15-21
"Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
II. Suy NiỆm:
Nhiều người đọc bài Tin Mừng hôm nay sung sướng về thái độ khéo léo của Chúa đã khiến kẻ muốn TN 29-A70
Nhiều người đọc bài Tin Mừng hôm nay sung sướng về thái độ khéo léo của Chúa đã khiến kẻ muốn gài bẫy Người phải lủi thủi ra đi. Nhưng không lẽ chúng ta là tín hữu của Chúa cũng chỉ nhìn thấy như vậy sao? Hay là chúng ta còn phải nhận ra có gì khác nữa trong bài Tin Mừng? Vậy chúng ta hãy theo sư phạm của phụng vụ, nhờ bài Cựu Ước để đi vào bài Tin Mừng và đọc bài Thánh Thư như là kết luận khuyên nhủ của Lời Chúa hôm nay.
A. Hãy Biết Khám Phá Ra Hành Ðộng Của Thiên Chúa
Bài Cựu Ước hôm nay nằm trong phần II của sách Isaia. Có thể gọi đây là sách II Isaia. Và chủ trương trong sách này là an ủi Israel, vì Thiên Chúa sắp thương cứu họ ra khỏi cảnh lưu đày Babylon.
Vì bất trung, con cái Israel đã mất Nước. Yêrusalem bị tàn phá; vua-dân một phần lớn bị còng sang Babylon lưu đày. Ở đây ràng rã nhiều chục năm, con cái Israel ngậm đắng nuốt cay. Bản tính vốn thích ca hát, nhưng họ đã treo đàn trên cây dương liễu ở bờ sông Babylon và chẳng cò phấn khởi gì để hát lên những giọng thánh ca. Isaia được Thiên Chúa sai đến với họ. Vừa giải thích cho họ hiểu nguyên do tội lỗi của cảnh lưu đày này, ông vừa an ủi khuyên bảo họ thống hối ăn năn trở về với Thiên Chúa để Người lại xót thương. Và thay mặt Chúa ông tuyên sấm có ngày được giải phóng, hồi hương và xây dựng lại Yêrusalem. Hôm nay ông đặc biệt trỏ cho mọi người thấy: ơn cứu chuộc đã ló dạng đàng chân trời. Babylonia không còn yên thân nữa. Tướng quân Kyrô, người Batư đang xua quân bách chiến bách thắng.
Nhưng Kyrô là người thế nào đối với con cái Israel? Isaia hôm nay bạo dạn quá chừng! Ông tuyên bố cho con cái Israel biết: Kyrô là người của Thiên Chúa. Ông được Người xức dầu. Chính Người đang cầm tay dắt ông và chỉ bảo cho ông phải đánh bên đông dẹp bên tây như thế nào. Không phải sức mạnh của ông đang bách chiến bách thắng; nhưng đó là bàn tay của Thiên Chúa đang dùng ông để làm những việc oanh liệt như vậy. Và Người làm thế, chỉ vì Yacob và Israel. Người dùng cả kẻ không biết Người. Người chọn Kyrô là dân ngoại, vì chính Người là Yavê, là Thiên Chúa, không ai khác nữa. Ngoài Người ra, thần linh không đâu có.
Isaia quả thật đã táo bạo. Ông nói những lời phi thường. Xưa nay không thể tưởng tượng có những điều như thế. Con cái Israel vẫn tin như đinh đóng cột: Yavê là Chúa riêng của họ, ở trong đất của họ và chỉ ở với họ. Người có thể bênh vực họ đối với dân ngoại và do đó có thể ảnh hưởng trên dân ngoại. Nhưng không thể nào tưởng tượng được có ai trong dân ngoại lại được Người tuyển chọn, xức dầu và đặt làm người lãnh đạo Dân riêng của Người. Vì thế bài Isaia hôm nay là mạc khải mới mẻ và lớn lao. Không chắc con cái Israel bấy giờ đã đón nhận. Thế nên khi họ được giải phóng và hồi hương nhờ các chiến thắng của Kyrô, họ như tỉnh như mê, không ngờ rằng Thiên Chúa lại thực hiện các lời hứa kiểu như vậy. Họ cứ nghĩ rằng phải là một người Dothái sẽ được chọn, phải là một người thuộc dòng dõi Ðavít sẽ được xức dầu, để trở thành vị cứu dân. Nay Dân được cứu nhờ bàn tay của một người dân ngoại! Có lẽ khi sự việc xảy ra rồi có người mới tin vào lời sách Isaia hôm nay. Có lẽ đúng hơn bấy giờ mới có người đọc được thời sự như thế để viết nên bài Kinh Thánh này.
Ðã được mạc khải như vậy, chúng ta ngày nay có còn chậm tin như con cái Israel ngày trước không? Chúng ta đã quen nhìn hành động của Thiên Chúa trong khắp cả trời đất và trong lịch sử loài người chưa? Ðó là thước đo mức độ nhận thức của chúng ta về sự bao la và đồng thời sâu xa của Thiên Chúa. Ðó là biết ca tụng Người trong toàn cõi địa cầu. Và không làm công việc này là giảm bớt vinh quang của Thiên Chúa, không phải đối với Người nhưng đối với chính mình chúng ta.
Và một cái nhìn rộng lớn như vậy cũng mở rộng luôn cảm nghĩ của chúng ta về người khác, nhất là những người không cùng tôn giáo với mình. Thiên Chúa cũng ban ơn cho họ vì chính Người đã dựng nên họ. Khi họ phát triển tài năng và thành công trong những việc tốt đẹp, họ đem lại vinh quang cho Ðấng Tác Thành họ và cho Ðấng đang cai trị hoàn vũ "vừa cương vừa nhu". Họ là những người Chúa chọn ở cương vị của họ. Họ là bạn của ta nếu không muốn gọi là ân nhân của ta trong viễn tượng mở rộng Nước Chúa. Thế nên những tâm hồn thiện chí, những bàn tay xây dựng xã hội, những người đem lại hạnh phúc cho đồng bào, phải được ta quý mến, ngưỡng mộ và bắt chước. Chúng ta phải giúp đỡ họ, cộng tác với họ và yêu mến họ. Chúng ta phải thấy bàn tay của Thiên Chúa đang dẫn đưa lịch sử các dân tộc của họ. Chúng ta phải biết đọc lịch sử bằng con mắt đức tin. Cũng như chúng ta phải quý hóa các hành động xây dựng lịch sử như vậy.
Lúc bấy giờ đọc lại Thư Chung của Hội nghị Giám mục Việt Nam năm 1980 về nghĩa vụ người Công giáo phải đoàn kết với đồng bào để xây dựng Tổ quốc, và xem lại lời Ðức Thánh Cha Yoan-Phaolô II khuyên nhủ chúng ta tăng thêm lòng yêu Nước và nhiệt tình xây dựng quê hương, chúng ta mới thấy những lời ấy thật là đạo đức và thấm đầy tinh thần đức tin. Chúng ta sẽ hăng hái đi theo phương hướng mà Giáo Hội đã mở ra trước mắt chúng ta. Chúng ta sẽ không chỉ thờ Chúa bằng kinh kệ và bí tích, nhưng bằng cả cuộc sống, cuộc sống thực tế của người Việt Nam ở giữa đồng bào Việt Nam.
Tuy nhiên cũng đừng lẫn lộn tất cả. Và đây là bài học chúng ta có thể rút ra theo đoạn Tin Mừng hôm nay.
B. Hãy Trả Lại Thiên Chúa Những Gì Của Người
Biệt phái bây giờ bàn mưu để làm Chúa lỡ lời mắc bẫy. Họ sai môn đồ hợp cánh với phe Hêrôđê đến chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Ai cũng biết Biệt phái không ưa người Rôma đang đô hộ nhà Yuđa. Còn phe Hêrôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được nhiều đặc quyền. Một mình đối nghịch với Chúa trong lãnh vực tôn giáo, Biệt phái không làm gì được Người. Họ muốn nhờ đến cánh tay chính quyền để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. Họ muốn lẫn lộn những bình diện khác nhau, giữa đạo và đời.
Nhưng câu trả lời của Chúa đã làm họ cụt hứng và bẽ bàng. Người đã phân biệt đâu ra đấy. Người nói: hãy trả của hoàng đế cho hoàng đế, và của Thiên Chúa cho Thiên Chúa. Có người sẽ rút ra kết luận: đạo là đạo, đời là đời. Nhưng có đạo nào không ở trong đời và có đời nào không là của đạo? Bài sách Isaia ở trên đã nói Thiên Chúa điều khiển trời đất và lãnh đạo các dân tộc: Người dùng các ngôn sứ trong dân Israel nhưng cũng không từ chối dùng Kyrô xứ Batư để giải phóng Dân Người.
Người ta cũng sẽ thiếu phân biệt khi muốn vơ tất cả vào đạo đến nỗi tưởng các Giám mục phải là người đứng đầu tỉnh. Nhưng lịch sử đã cho thấy thời đại Trung cổ của Kitô giáo cũng không hoàn toàn đẹp đẽ và cũng chẳng lý tưởng gì. Ngày nay thường có một quá khích ngược lại, đề cao đời đến nỗi tục hóa đạo và cho như thế là nhất.
Thiết tưởng ngoài Hội Thánh ra, không ai nên độc quyền giải thích Lời Chúa. Câu nói của Người hôm nay không phải là cách ngôn được đem ra áp dụng ở bất cứ hoàn cảnh nào mà không để ý đến mạch văn. Ở đây Chúa Yêsu đang đứng trước Biệt phái và phe nhóm Hêrôđê. Người phải trả lời họ. Người phải dạy dỗ họ. Thế mà dù quan điểm khác nhau về chính trị, họ đều là những người tin Thiên Chúa và kính Luật Môsê. Nói đơn sơ đi, họ là người có đạo. Do đó Chúa đang nói với người có đạo.
Những người này dù thích hoàng đế hay không cũng đang dùng tiền hoàng đế và trong thực tế vẫn nộp thuế cho hoàng đế. Họa chăng có ai đang mưu đồ một cuộc nổi dậy chính trị thời bấy giờ mới không muốn nộp thuế. Như vậy, kể là quái ác khi đặt Chúa Yêsu trước câu hỏi: có phải nộp thuế cho hoàng đế không? Kẻ hỏi đã đặt Người ra ngoài bình diện công dân và muốn Người phải đương đầu với hoàng đế, lựa chọn hoặc đi theo hoặc chống lại hoàng đế. Nhưng hoàng đế là ai đối với Người? Hoàng đế không nằm trong tay Thiên Chúa sao? Con Thiên Chúa giáng trần cứu thế không phải để làm một lựa chọn như vậy. Sứ mạng của Người là đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa. Ðó là sứ mạng tôn giáo, chứ không phải chính trị.
Thế nên câu trả lời của Chúa nhằm làm nổi bật chân lý ấy lên. Người ta phải thấy Người giữ vai trò tôn giáo. Người nhắc lại cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa và trả của Thiên Chúa cho Thiên Chúa. Kẻ chất vấn muốn nhìn Người dưới góc độ chính trị; Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo. Và người có tôn giáo làm hết các nghĩa vụ công dân.
Chắc chắn đây là vấn đề lớn. Người ta phải đọc cả các sách Tin Mừng và phải hiểu cả cuộc đời của Chúa Yêsu và hoàn cảnh lịch sử của Hội Thánh lúc sơ nguyên, để biết ý nghĩa và giá trị của Lời Chúa. Tuy nhiên gương Chúa để lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là không bao giờ được quên tham chiếu về Thiên Chúa trong bất cứ công việc và hoàn cảnh nào. Và đó cũng là bài học của đoạn sách Isaia, cũng là thái độ và giáo huấn của thánh Phaolô trong bài thư hôm nay nữa.
C. Hãy Tạ Ơn Thiên Chúa Cho Con Người
Thessalônikê là giáo đoàn có vinh dự được thánh Phaolô biên thư cho trước hết. Và từ đó người mới có thói quen viết thư cho các giáo đoàn. Thessalônikê được nghe Phaolô giảng trong ba ngày sabbat liên tiếp (Cv 17,1-2). Có một số người trở lại tin theo lời giảng. Nhưng người Dothái ghen. Họ gây rối loạn trong thành để đổ tội cho phe Phaolô tuyên truyền chống lại các chỉ thị của hoàng đế. Anh em tín hữu vội buộc Phaolô phải tránh đi. Người đến Bêrê. Nhóm Dothái cũng chạy theo, ráo riết muốn đổ tội cho người như vậy. Buộc lòng anh em tín hữu phải ép người đi xa hơn. Nhưng người không nỡ bỏ đàn chiên vừa thành lập. Người gửi Timôthê tới Thessalônikê để xem tình hình thế nào. Người môn đệ trở về, đem những tin lạc quan vui mừng. Ðó là cớ để Phaolô bắt đầu thảo bức thư hôm nay.
Kẻ chống đối Phaolô muốn biến người thành một con người phản loạn, hay chính trị, chống lại hoàng đế Rôma. Nhưng rõ ràng ở đây theo gương Chúa, Phaolô chỉ là con người làm việc tôn giáo. Người toàn chất tôn giáo nên độc giả của thư Thessalônikê chỉ thấy mình đang đứng trước một người Tông đồ của Ðức Yêsu Kitô. Người nhìn mọi người dưới ánh sáng đức tin, thấy rõ Thiên Chúa tuyển chọn họ để họ nghe Tin Mừng. Họ đã đón nhận lời giảng không như lời của loài người, nhưng như Lời của Thiên Chúa. Và đức tin, đức mến và đức cậy đã triển nở trong đời sống của họ, khiến nghĩ đến họ Phaolô hằng tạ ơn Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã hành động nơi họ như vậy.
Phaolô nhắc lại cho chúng ta bài học của sách Isaia. Người theo gương Chúa Yêsu trả của Thiên Chúa cho Thiên Chúa, mặc cho ai cứ cho hoàng đế là lớn. Người khuyến khích chúng ta biết nhìn tất cả trong đức tin.
Chúng ta cũng cần đức tin này để tham dự Thánh lễ. Lịch sử ơn cứu độ được tái hiện giữa chúng ta để chúng ta xác tín lòng thương của Thiên Chúa đối với loài người. Người không bỏ rơi nhân loại, nhưng luôn đi vào lịch sử và hiện diện trong lịch sử để biến tất cả nên ích cho con cái Thiên Chúa. Ðặc biệt Người đã sai Con của Người đến làm Ðấng Cứu Thế khi kêu gọi loài người trở về với Thiên Chúa và trả của Thiên Chúa cho Thiên Chúa. Nhưng cuối cùng chẳng có gì chẳng phải là của Thiên Chúa, nên con người có đức tin thấy tất cả đều thuận lợi cho mình. Họ thi hành tốt các phận sự ở đời và không sao nhãng các nghĩa vụ tôn giáo. Nói đúng hơn họ thấy tất cả đều là nghĩa vụ tôn giáo vì việc đạo cũng như việc đời họ đều phải làm mới có thể đẹp lòng Thiên Chúa, Ðấng bao gồm tất cả và đang sinh động tất cả. Nhưng họ biết phải có Lời Chúa và Mình Thánh Chúa mới có đủ ánh sáng và sức mạnh để đi trên đường đời. Và vì thế, sau khi suy niệm Lời Chúa, chúng ta hãy sốt sắng cử hành mầu nhiệm Thánh Thể.
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
*****
BÀI ĐỌC THÊM
Giáo Lý vỀ ThÁnh Phaolô
Thánh Phaolô vÀ CÁC Tông ĐỒ KHÁC(tiếp)
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý mới thứ sáu của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô trong buổi Triều Yết Chung ngày 1-10-2008 tại Sảnh Đường Phaolô VI.
Đức Thánh Cha đã giải thích hai biến cố trong cuộc đời thánh Phaolô chứng minh cho thấy thánh nhân tôn trọng các tông đồ khác, nhưng cũng tự do đối với tông đồ Phêrô và các tông đồ khác: đó là trong dịp tham dự Công Đồng đầu tiên tại Giêrusalem và trong vụ đụng độ với Phêrô và Barnaba tại Antiokia, như được kể lại trong thư gửi tín hữu Galát chương 2. Liên quan tới Công Đồng triệu tập tại Giêrusalem Đức Thánh Cha nói:
Mỗi Công Đồng và Công Nghị của Giáo Hội là ”biến cố của Thần Khí” và bao gồm các vấn đề khẩn thiết của toàn thể dân Chúa. Những ai đã có vinh dự tham dự Công Đồng Chung Vaticăng II đều kinh nghiệm được điều này. Chính vì thế khi cho tin về Công Đồng đầu tiên của Giáo Hội diễn ra tại Giêrusalem, thánh sử Luca đã mở đầu thư các Tông Đồ quyết định gửi cho các giáo đoàn Kitô hải ngoại như sau: ”Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định...” (Cv 15,28). Chúa Thánh Thần hoạt động trong toàn Giáo Hội cầm tay hướng dẫn các Tông Đồ dấn thân trên các nẻo đường mới để thực hiện các dự án của Người: chính Người là tác nhân chính trong việc xây dựng Giáo Hội.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định rằng Công Đồng Giêrusalem diễn ra trong một thời điểm có căng thẳng lớn trong lòng Giáo Hội khai sinh. Nó liên quan tới vấn đề có phải xin các anh em ngoài do thái tin theo Chúa Giêsu Kitô chịu phép cắt bì, hay để cho họ được tự do không phải tuân giữ luật lệ Môshê, cần thiết để là người công chính, và nhất là các luật lệ thanh tẩy phụng tự, các thực phẩm trong sạch và ô uế và ngày sabát.
Công Đồng Giêrusalem cũng được thánh Phaolô nhắc tới trong chương 2 thư gửi tín hữu Galát. Sau 14 năm kể từ cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô phục sinh trên đường đến thành Damasco, Phaolô đã cùng Barnaba và Tito từ Antiokia về Giêrusalem. Trong dịp này thánh nhân đã trình bầy cho các Tông Đồ Tin Mừng sự tự do khỏi Luật Lệ (x. Gl 2,6). Dưới ánh sáng cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô phục sinh, thánh nhân hiểu rằng các luật về cắt bì, ăn uống và ngày nghỉ thứ bẩy như dấu chỉ sự công chính, không cần thiết đối với các anh chị em ngoại giáo theo Kitô giáo: Chúa Kitô là sự công chính của chúng ta và tất cả những gì phù hơp với Người đều ”công chính”. Trong thư thánh nhân cũng cho biết là Tin Mừng của sự tự do khỏi Luật Lệ đã được các Tông Đồ Giacôbê, Kepha và Gioan, ”các cột trụ” của Giáo Hội, thừa nhận bằng cách bắt tay thánh nhân và Barnaba như dấu chỉ sự hiệp thông giáo hội trong Chúa Kitô (x. Gl 2,9). Nếu đối với thánh Luca Công Đồng Giêrusalem diễn tả hoạt động của Chúa Thánh Thần, thì đối với Phaolô nó diễn tả việc thừa nhận định đoạt sự tự do được chia sẻ giữa tất cả mọi tham dự viên: tự do khỏi các bó buộc của việc cắt bì và lề luật: ”Chúa Kitô đã giải phóng chúng ta để chúng ta được tự do” khỏi ách nô lệ. Hai kiểu miêu tả Công Đồng Giêrusalem đều có cùng yếu tố chung là hoạt động giải phóng của Chúa Thánh Thần, ”vì ở đâu có Thần Khí Chúa, thì ở đó có tự do”, như thánh Phaolô sẽ viết trong thư thứ II gửi tín hữu Côrintô (x. 3,17).
Tuy nhiên như thấy rõ trong các thư của thánh Phaolô, sự tự do Kitô không đồng nghĩa với sự phóng đãng hay muốn làm gì thì làm. Nó hiện thực trong sự phù hợp với Chúa Kitô và vì thế trong việc phục vụ tha nhân, đặc biệt là những anh chị em cần được trợ giúp nhất. Do đó thánh Phaolô kết thúc với lời các Tông Đồ nhắn nhủ ngài và Barnaba là đừng quên người nghèo (Gl 2,10). Mỗi Công Đồng nảy sinh từ Giáo Hội và trở về với Giáo Hội: trong dịp đó là chú ý tới người nghèo, là các anh chị em Kitô của giáo đoàn Giêrusalem. Trong thư thứ II gửi tín hữu Côrintô (cch. 8-9) và trong phần kết thư gửi giáo đoàn Roma (Rm 15) thánh Phaolô cho thấy sự trung thành của người với các quyết định đã chín mùi trong Công Đồng.
Sáng kiến quyên góp để trợ giúp các Kitô hữu nghèo Giêrusalem đã là một sáng kiến hoàn toàn mới mẻ trong các hoạt động tôn giáo: nó không bắt buộc nhưng tự do và tự phát. Mọi giáo đoàn do Phaolô thành lập bên Tây phương đều tham dự việc quyên góp. Đức Thánh Cha giải thích giá trị to lớn của sáng kiến này như sau:
Thánh Phaolô cho cử chỉ chia sẻ này giá trị to lớn, đến độ ít khi ngài gọi nó là cuộc quyên góp, mà đối với ngài nó là việc ”phục vụ”, là ”phước lành”, là ”tình yêu thương”, là ”ân sủng”, và còn hơn thế nữa nó là ”phụng vụ” (2 Cr 9). Thật là điều đáng kinh ngạc, khi từ cuối cùng này trao ban cho việc quyên góp tiền bạc một gía trị phụng vụ: một đàng nó là cử chỉ phụng vụ hay ”phục vụ”, do một cộng đoàn dâng lên cho Thiên Chúa, đàng khác nó là hành động của tình yêu thương đối với dân Chúa. Tình yêu thương dành cho người nghèo và phụng vụ của Chúa gắn liền nhau, yêu thương người nghèo là phụng vụ. Cả hai chiều kích đều hiện diện trong mọi phụng vụ do Giáo Hội cử hành và sống. Tự bản chất nó chống lại việc tách rời giữa phụng tự và cuộc sống, giữa lòng tin và việc làm, giữa lời cầu nguyện và tình bác ái đối với tha nhân. Như thế Công Đồng Giêrusalem nảy sinh để giải quyết vấn đề liên quan tới các anh chị em ngoại giáo theo Kitô giáo, bằng cách lựa chọn sự tự do khỏi việc cắt bì và tuân giữ các điều Luật buộc, và giải quyết vấn đề mục vụ khẩn thiết lấy trọng tâm là lòng tin nơi Chúa Giêsu Kitô và tình yêu thương đối với các anh chị em nghèo của giáo đoàn Giêurusalem và của toàn Giáo Hội.
Biến cố thứ hai chứng minh cho sự tự do nội tâm của thánh Phaolô là vụ đụng độ với thánh Phêrô tại Antiokia, liên quan tới việc dùng bữa chung giữa tín hữu Kitô gốc do thái và các anh chị em ngoại giáo.
Ban đầu Kepha ngồi ăn chung với các anh chị em ngoai giáo theo Kitô giáo. Nhưng khi thấy vài Kitô hữu thân cận với Giacôbê, ”người anh em của Chúa” tới, thì Kepha và Barnaba bắt đầu tránh không dùng bữa chung với họ nữa, vì sợ gây vấp phạm cho những người này, là những người tiếp tục tuân giữ luật về thực phẩm trong sạch. Sự lựa chọn này gây chia rẽ sâu đậm giữa các Kitô hữu gốc ngoại giáo và các Kitô hữu gốc do thái, và nó đe dọa sự hiệp nhất và tự do của Giáo Hội. Nó khiến cho Phaolô mạnh mẽ tố cáo sự giả hình của Phêrô và các tín hữu do thái khác: ”Nếu anh là người Do thái mà còn sống như dân ngoại, chứ không như người Do thái, thì làm sao anh lại ép dân ngoại phải xử sự như người Do thái? (Gl 2,14). Thật ra các lo lắng của hai phía khác nhau. Đối với Phêrô và Barnaba việc tách rời người ngoại giáo diễn tả một kiểu bảo vệ và không gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong khi đối với Phaolô nó diễn tả một hiểu lầm nguy hiểm đối với ơn cứu độ đại đồng nơi Chúa Kitô, được cống hiến cho dân ngoại cũng như cho người do thái. Nếu việc công chính hóa được hiện thực chỉ nhờ lòng tin nơi Chúa Kitô, nhờ sự đồng hình đồng dạng với Người, mà không do công việc làm của Lề Luật, thì việc tuân giữ thực phẩm trong sạch khi cùng chia sẻ bữa ăn với nhau đâu có còn ý nghĩa gì nữa? Chắc chắn các viễn tượng của Phêrô và Phaolô đã khác nhau: đối với Phêrô là đừng mất các anh em Do thái đã tin nhận Phúc Âm, đối với Phaolô là đừng giảm thiểu giá trị đại đồng cái chết của Chúa Kitô cho tất cả mọi người.
Tuy nhiên vài năm sau đó, khi viết thư cho tín hữu Roma Phaolô đã đứng trước một trường hợp tương tự, và ngài khuyên các tín hữu có lòng tin mạnh mẽ đừng dùng thực phẩm ô uế để đừng đánh mất hay gây vấp phạm cho các người yếu đuối: ”Tốt nhất là đừng ăn thịt, uống rượu, và tránh những gì có thể gây cớ cho anh em mình vấp ngã” (Rm 14,21). Như thế vụ xảy ra tại Antiokia đã là một bài học cho cả Phêrô lẫn Phaolô. Chỉ có đối thoại chân thành, cởi mở cho sự thật của Tin Mừng mới có thể hướng dẫn con đường của Giáo Hội mà thôi: ”Thật thế, Nước Thiên Chúa không phải là chuyện đồ ăn thức uống, nhưng là công chính, bình an hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17).
Đó cũng là bài học cho chúng ta: hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn khi tìm sống sự tự do trong lòng tin nơi Chúa Kitô, được cụ thể hóa nơi việc phục vụ tha nhân. Chỉ như thế chúng ta mới thật sự tự do và diễn tả được nõi tủy của Luật Lệ mến Chúa yêu người.
V ĐTC Bênêđictô XVI
Chuyển ngữ Linh Tiến Khải
----------------------------------
Tin mừng: Mt 22, 15-21.
“Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
Bạn thân mến,
Trước câu hỏi xiên xỏ bởi tâm hồn ác độc của những người Pha-ri-siêu cố ý để hãm hại mình, Chúa: TN 29-A71
Trước câu hỏi xiên xỏ bởi tâm hồn ác độc của những người Pha-ri-siêu cố ý để hãm hại mình, Chúa Giê-su đã nói một câu “nhớ đời” làm cho họ câm miệng không thực hiện được âm mưu của mình, Ngài nói: “của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Một câu nói khẳng định và phân biệt rạch ròi giữa những gì là của Thiên Chúa và những gì thuộc về thế gian.
“Của Xê-da, trả về cho Xê-da”
Xê-da đại diện cho tất cả những gì của thế gian, tức là vật chất, danh vọng và xác thịt, là sự hưởng thụ khoái lạc do vật chất danh lợi đem đến. Chúa Giê-su đã phân biệt rạch ròi đâu là của Xê-da và đâu là của Thiên Chúa, để cho những người Pha-ri-siêu kiêu ngạo hiểu rằng: nên nộp thuế để làm tròn bổn phận của một người dân thuộc về hoàng đế Xê-da, và đồng thời Ngài cũng cho họ biết rằng, họ chính là dân được Thiên Chúa tuyển chọn để giữ lề luật cha ông, họ cũng thuộc về Thiên Chúa. Hãy trả lại cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da, đó chính là thì hành nghĩa vụ và bổn phận của một công dân trong đất nước của mình.
“Của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa”
Của Thiên Chúa chính là sự chân thật, công bằng, yêu thương, bởi vì Thiên Chúa là Đấng chân thiện mỹ và thánh.
Trả lại cho Thiên Chúa sự chân thật, khi mà bạn và tôi vì miếng cơm manh áo mà –ít nữa là một lần- đã bóp méo sự thật bằng những bằng chứng giả dối để đánh lừa mọi người. Trả lại cho Thiên Chúa sự công bằng, khi mà bạn và tôi đã dùng quyền hạn của mình để chèn ép bất công, xét xử bất công, ngôn luận bất công với những người anh em chị em của mình. Hãy trả lại cho Thiên Chúa tình yêu của Ngài, bởi vì có nhiều lần chúng ta đối xử hận thù với tha nhân và với anh chị em chúng ta vì tranh giành ảnh hưởng lợi lộc cá nhân...
Bạn thân mến,
Xét cho cùng thì Xê-da không có gì cả, cái ông ta có hiện tại chỉ là của toàn dân, của những đời vua trước, rồi sẽ có một ngày ông ta sẽ tay trắng ra đi về cõi vô tận, cái gọi là “của Xê-da” không còn nữa, mà là của người khác. Nhưng “của Thiên Chúa” thì luôn tồn tại và hiện hữu, bởi vì vũ trụ này là do Ngài tạo thành mà có, cho nên, ngay cả Xê-da cũng là của Thiên Chúa.
Có nhiều lần trong cuộc sống bạn và tôi phân vân giữa bổn phận của một công dân trần thế và công dân Nước Trời, thì nên làm thế nào đây để đẹp cả đôi bên, bởi vì không thể theo bên này mà từ chối bên kia, bởi vì cả hai bổn phận ấy đều ở nơi con người của bạn và tôi.
Cứ theo lời dạy của Chúa Giê-su: “Của Xê-da trả về cho Xê-da” bạn và tôi cứ chu toàn bổn phận của một người công dân trần thế, tức là nộp thuế, nghĩa vụ, và đem hết sức mình xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng, yêu thương và chân thật, bởi vì “công bằng, yêu thương, chân thật” chính là của Thiên Chúa, thực hành những điều ấy trong cuộc sống chính là “của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa” vậy.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
-----------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
--------------------------------
Báo chí Việt Nam đầu tháng 10 này nói rất nhiều về hiện tượng “cầm nhầm” của tuổi teen: TN 29-A72
Báo chí Việt Nam đầu tháng 10 này nói rất nhiều về hiện tượng “cầm nhầm” của tuổi teen: “Tôi rất ngạc nhiên khi có những em trai em gái ăn mặc rất sành điệu, đi xe tay ga xịn mà vẫn thỉnh thoảng “cầm nhầm” những cái chun buộc tóc hay bút bi chỉ đáng giá vài nghìn”, một chủ shop trên đường Đê La Thành, Hà Nội, không khỏi ngạc nhiên.
Không ai không khỏi tò mò bởi hình ảnh khá nổi được dán trên tường ngay lối vào shop thời trang One More cho Teens số 527 Trần Khát Chân hay những tấm biển “nhắc nhở” của một số cửa hàng mỹ phẩm trên dọc tuyến phố Hàng Đào, Hà Nội. Đó là những lời cảnh tỉnh, là những hình ảnh méo mó xộc xệch của các bạn đang trong độ tuổi “ô mai” bị bắt quả tang lấy trộm chiếc khăn hay thỏi son có giá vài chục nghìn bạc ! ( Báo Giáo Dục Online ).
Một thói quen xấu phát xuất từ môi trường giáo dục gia đình và trường học có quá nhiều thiếu sót và yếu kém. Điều chúng ta muốn nói hôm nay là “thái độ cầm nhầm” ấy cũng thường xuyên xảy đến trong đời sống đạo các tín hữu Công Giáo cả ở hàng Giáo Sĩ, Tu Sĩ và Giáo Dân: người ta sẵn sàng theo Lời Chúa Giêsu, song cũng hsuc mau mắn “trả về cho Chúa” ngay, vì khó lòng “cầm nhầm” ( mà cũng chẳng mấy ai muốn “cầm nhầm” ), trong khi “của Xêda” thì khó khăn lắm thay: nếu không bị “cầm nhầm” thì cũng hết sức “bịn rịn”, quyến luyến với chúng. Sự bịn rịn quyên luyến là do “của Xêda’ gắn bó mật thiết với ta, hay đúng hơn: ta quá gắn bó với chúng.
“Tu quoque,fili !” ( cả con nữa ư, Brutus ? ). Đó là tiếng kêu ngạc nhiên và đau đớn của một người lẫy lừng cả trên chiến trường lẫn trên chính trường, khi dần dần ông trở thành kẻ nắm trọn quyền lực trong tay và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông: dân Rôma yêu chuộng tự do dân chủ, muốn cho Xêda ( César ) hiểu và và muốn ông “nhận lại” những gì thuộc về họ, nhưng với cái giá máu là hai mươi ba nhát dao đâm, mà người kết thúc lại là con nuôi Brutus của ông.
Sau khi ông chết, chế độ Tam Hùng đặt ông lên vị trí thần thánh, nhưng mục đích chỉ là lợi dụng cái chết của ông để kích động sự ủng hộ cuồng nhiệt của dân chúng và loại bỏ những người và những phe chống đối. Cuối cùng Octavianus đã thắng và trở thành hoàng đế đầu tiên của Rôma, với cái tên César-Augustus, điều mà Xêda hằng mơ ước và đã thất bại.
Tham vọng chính là “những gì của Xêda” !
Ở trang 197 cuốn sách do Ngài mới viết “Render unto Caesar” ( Hãy trả về cho Xêda ), Đức Tổng Giám Muc Chaput nói: “Những gì đòi hỏi tín hữu Công Giáo phải làm cho tổ quốc mình ư ? Câu trả lời là: Đừng nói dối ! Nếu chúng ta nói chúng ta là người Công Giáo, chúng ta cần phải chứng minh điều đó”. Phụ đề của cuốn sách là “Phục vụ Quốc Gia bằng việc sống các Niềm Tin Công Giáo của chúng ta trong đời sống chính trị”.
Khác biệt duy nhất giữa Lời Chúa và lời thế gian, đó là: Lời Chúa là Lời Chân Lý, phát xuất từ Chân Lý và dẫn con người sống theo chân lý để tìm được Chân Lý; trong khi lời thế gian là lời dối trá, phát xuất từ mưu mô tranh quyền đoạt vị, bá quyền, vụ lợi và chất chứa hận thù, mưu mô, độc ác.
Ngày nay, ở chính trên quê hương Việt Nam này, nói dối không chỉ thành thói quen, một phản ứng “tự nhiên” không còn làm nhiều người đỏ mặt bối rối, mà còn thành một căn bệnh và tệ hại hơn nữa, trở thành cái “mốt” ( lắm khi còn được coi là “thời thượng” ): vợ dối chồng, con cái dối cha mẹ, cấp trên cấp dưới dối nhau, trò dối thầy và thầy dối trò, chính quyền dối gạt dân và dân cũng hành xử chẳng thua kém.
Não trạng nói dối sở dĩ phổ biến, là vì nó được hiểu và được coi là một mô thức giúp tồn tại “bền vững” giữa những dối trá. Người nói thật, sống thật, chỉ rước họa vào thân, dễ dàng được dán ngay nhãn hiệu “Don Quichotte”, ”quân tử Tàu” ! Hãy nhìn những người nắm trong tay độc quyền xuất bản, độc quyền báo chí truyền thông, cho ra hàng triệu sản phẩm văn hoá dơ bẩn dâm ô, rồi phủi tay đùn đẩy trách nhiệm. Những món ăn tinh thần sa đoạ tận cùng đang hủy hoại tâm hồn và thể xác của các thế hệ tương lai đất nước, khắc ghi vào cuộc đời thanh thiếu niên những vết bẩn không có một thứ gì có thể tẩy xóa đi được, đối với họ chỉ là “phản cảm” !
Dối trá chính là “những gì của Xêda” !
Đặc điểm của tham vọng và dối trá, là chúng trở nên những yếu tố giúp các thế lực đen tối, xấu xa, vô liêm sỉ mau chóng liên kết với nhau. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã: mỗi phe đều tìm cái lợi cho riêng mình, và sẵn sàng chung sức để làm cho sự dữ, làm cho điều ác lan tràn khắp nơi, tiêu diệt không thương xót những ai cản trở tham vọng và dối trá của chúng. Chúng đều là “đặc sản” của Xatan !
Tâm địa xấu xa đen tối biến những gì tốt đẹp mà Thiên Chúa dựng nên và ban cho loài người: sắc đẹp, thể lực, tiền bạc, trí tuệ… trở nên xấu xa và phục vụ cho tham vọng và dối trá của những hạng người ấy. Cùng những điều ấy ( sắc đẹp, thể lực, đia vị, tiền bạc, trí tuệ... ) ở những người tốt, những người sống theo tinh thần Tin Mừng, sẽ làm cho chúng trở thành “những gì là của Chúa”, giúp ích cho mọi người, nhất là đích nhắm cuối cùng là để tôn vinh cảm tạ Thiên Chúa.
“Những gì của Chúa” ấy là phương tiện giúp ta thêm điều kiện tiến về Nước Trời. Vì vậy, nếu không sống đúng tinh thần Phúc Âm, nếu không rèn luyện lương tâm ngay thẳng, thì việc “cầm nhầm” của Xêda thành của Thiên Chúa và ngược lại, là điều rất khó tránh khỏi. Chúa Giêsu đã đưa ra thách đố không dễ chút nào cho con người: chỉ có thể chọn thờ hoặc Thiên Chúa hoặc thần Mamôn ! Không có tham vọng và dối trá, không có chỗ cho thần Mamôn ! Với tham vọng và dối trá, không có chỗ cho Thiên Chúa và Nước Trời !
Hãy cùng suy gẫm một số ý tưởng trong cuốn “Render unto Caesar” của Đức Cha Charles Joseph Chaput (gốc người da đỏ ở Kansas, Tu Sĩ Dòng Thánh Phanxicô, làm Tổng Giám Mục Giáo Phận Denver, Colorado, Hoa Kỳ - Ảnh kèm theo,):
“Chúng tôi Kitô hữu, ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Chúng tôi thuộc về Thiên Chúa và nhà ở chúng tôi là Thiên Đàng. Song chúng tôi có mặt ở nơi đây ( thế gian ) vì một lẽ: để thay đổi thế giới, vì lợi ích của thế giới, nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Công việc này thuộc về chúng tôi. Sẽ chẳng ai làm việc ấy thay cho chúng tôi. Nếu nghĩ rằng chúng tôi có thể hoàn thành công việc đó mà không cần động chân tay vào các luật lệ, những cấu trúc, những chính sách công, các điều kiện và các nguyên nhân gốc rễ làm kéo dài bất công trong đất nước chúng tôi, thì đúng là ảo tưởng” ( Render unto Caesar, trang 46 )
“Giáo Hội không khẳng định quyền thống trị của cải trần thế. Nhưng Giáo Hội có mọi quyền – thực chất là một nhiệm vụ – tham gia quyền bính thế tục và yêu cầu những ai đang sử dụng quyền bính ấy phải sống những đòi hỏi của công bình. Trong ý hướng này, Giáo Hội Công Giáo không thể đứng yên, chưa bao giờ đứng yên và sẽ không bao giờ đứng ngoài chính trị. Chính trị kéo theo việc hành xử quyền lực. Việc sử dụng quyền lực có một dung đạo đức và những hậu quả về con người. Và thiện ích cũng như định mệnh của con người chính là điều quan tâm và thẩm quyền đặc biệt của Cộng đồng Kitô Giáo” ( Render unto Caesar, trang 217 – 218 )
Mọi tín hữu, vì thế, đều có chung một sứ mệnh: mang Chúa Giêsu Kitô đến cho thế gian và mang thế gian về cho Chúa Giêsu Kitô ( x. Render unto Caesar, trg 43 ). Đó cũng chính là điều Giáo Hội nhắc nhở tín hữu Công Giáo trong dịp Chúa Nhật Truyền Giáo hôm nay.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, TCCNĐĐY số 124
--------------------------------
“Những ngày nắng mới, những hoàng hôn
tình yêu sau trước đều như vậy
những thoáng vui, xen những nỗi buồn.”
( dẫn từ thơ Hồ Dzếnh )
Vô tri vật hôm trước, là bạc tiền – bạc bẽo của người đời. Thương yêu tình hôm nay, là tình người: TN 29-A73
Vô tri vật hôm trước, là bạc tiền – bạc bẽo của người đời. Thương yêu tình hôm nay, là tình người ta tặng gửi, đến muôn người. Vô tri bạc tiền của hoàng đế, ta trao trả những gì của hoàng đế. Yêu thương tình Chúa ta ghi nhận, như trình thuật thánh sử gửi tín hữu Đạo Chúa, rất hôm nay.
Trình thuật hôm nay, ghi lại thách thức mà hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo, những Pha-ri-sêu thời trước, đã lập mưu cho người hội ý Chúa, như bẫy cạm tạo cớ bắt giam Ngài.
Khi lựa lời mềm mỏng, rất nịnh nọt để làm đề tài hội ý, nhóm Pharisêu, Luật Sĩ đi thẳng vào vấn nạn đặt ra với Chúa: “được phép nộp thuế cho hoàng đế, có nên không ?” ( Mt 22, 17 ) Thật ra, câu hỏi thoạt tưởng-như-là-đơn-giản, được bọn người này cân nhắc biến thành đề tài nóng bỏng, có bẫy giăng.
Palestin là thuộc địa Rôma lúc ấy rất xôn xao, xáo trộn. Xáo trộn, vì người Do Thái, tuy thù ghét đám thực dân Rôma, chuyên hà hiếp dân đen; nhưng họ cũng thù ghét cả tính bạo tàn, thiếu đạo đức còn hơn tâm tính vô thần, trâng tráo, của bọn quan lại tay sai cùng xứ. Nắm yếu điểm, nhóm Pharisêu vẫn tự cho mình là những người yêu nước, luôn nghĩ rằng: không nên đóng thuế cho bọn người thống trị. Trong khi đó, đám người nịnh bợ, lại coi việc hợp tác với Rôma, là chuyện “đôi bên đều có lợi”, nào mất mát gì.
Và, cạm bẫy đây nằm ở điểm: nếu Chúa trả lời không nên đóng thuế cho bất cứ ai, thì Ngài cũng chỉ làm hài lòng nhóm Pharisêu. Nhưng làm thế, tức là Ngài đã tạo cớ để họ dựng chuyện tố cáo là Ngài vừa xúi dân làm bậy, mà giăng bắt. Còn, nếu Chúa xúi giục dân cứ nộp thuế, thì Ngài cũng chỉ làm vừa lòng đám nịnh bợ vua, thôi. Làm như thế, Ngài sẽ để mất niềm tin nơi dân tình. Bởi người Do Thái lâu nay vẫn tin chỉ có Chúa, là Vị Thủ Lãnh tối cao của họ, thôi. Là dân đen, mọi người đều có bổn phận đóng thuế cho vị đại diện Chúa, bằng của lễ dâng tiến nơi đền thờ. Chỉ như thế.
Bài đọc 1, Ngôn Sứ Isaia đã viết: Vua Kyrô, bậc minh quân quyền cao chức trọng thời buổi trước, vẫn buộc dân Do Thái chỉ tùng phục, mỗi nhà vua. Và, vua cha vẫn được thần dân coi như cánh tay mặt, của Đức Chúa.
Trình thuật hôm nay, Chúa nghe hỏi đã biết lòng dạ bọn người gian ác chỉ muốn gài bẫy để Ngài rơi vào tròng, khó xử sự. Thế nên, Ngài đã yêu cầu cho trưng dẫn hình tiền và giòng chữ, khắc ghi trên đó. Quả thật, hình tiền lẫn danh hiệu đều đã ghi: “Tibêriô Xêda, con của Thượng tế Augustô”. Xêda, không chỉ là hoàng đế thống trị không gian địa cầu ở nơi ấy, thôi. Nhưng, ông còn là đấng thần thiêng/linh thánh, mọi người dưới trướng phải tôn sùng. Tôn và sùng kính Xêda, còn có nghĩa: ta phải trung thành với quyền bính tập trung trong Đạo. Đó, chính là đề tài mà mọi Kitô hữu thời bấy giờ, đều phải quan tâm.
Với Pharisêu và đám người nịnh bợ, tôn sùng Xêda, tức là chấp nhận tôn thờ ngẫu thần, như người ngoại. Với phần đông Kitô hữu, đây là chuyện nghiêm trọng, về tín lý. Thế nên, nhiều vị đã chấp nhận tử đạo chứ nhất mực không chịu cúi đầu trước lệnh bài Đạo của hoàng đế. Và hôm nay, nhiều vị hoàng đế tân thời vẫn đang tạo nhiều thử thách khiến tín hữu ta chấp nhận tử vì đạo, chọn lấy cái chết.
Điều này khiến ta nhớ đến các vị đã và đang âm thầm sống đạo, rất kiên tâm. Các vị, nhất quyết không chịu thuần phục quyền bính thế trần, chỉ nhằm trấn-áp đặt để mọi quyền uy trần thế lên đầu lên cổ, người dân lành. Và chuyện như thế, vẫn xảy đến suốt nửa thế kỷ qua, ở Trung Quốc.
Nhưng nay, với câu đáp trả để đời “Hãy trả lại cho Xêda, những gì của Xêda. Của Thiên Chúa, trả về cho Chúa.” ( Mt 22, 21 ), ta có lý để xử sự cho đúng cách. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu câu đáp của Chúa theo nghĩa của những người bất mãn, không chấp nhận quyền bính thế trần, theo kiểu bọn người khủng bố, vô chính phủ. Ngược lại, làm thế cũng không phải để quyền bính thế trần có lý do lấn áp thần quyền. Tức, chiều hướng coi uy quyền của mình là tuyệt đối. Rất độc tài. Toàn trị. Không ai được coi mình có quyền như Ông Trời, bắt mọi người kính trọng mình như Trời con, đấng thế tử.
Qua cung cách nào đó, chúng ta là thần dân của hai vương quốc: dân riêng của quyền uy chính trị, rất thế trần. Đồng thời, ta còn là thần dân của Vương Quốc Nước Trời. Như Chúa nói, ta buộc phải trung thành với cả hai. Bởi lẽ, ta vẫn còn là thần dân của chính quyền dân dã, chốn thế trần. Thời nay, rất ít người bằng lòng chia sẻ điện nước và lợi lộc tư riêng của mình, cho mọi người. Nhưng, có dịch vụ công cộng quyền thế khác, vẫn cung cấp nền giáo dục, y tế, các phúc lợi, bệnh viện, đường xá cho mọi người. Từ người thất nghiệp, cho chí bậc cao niên, hoặc người tật nguyền.
Rõ ràng là, các dịch vụ công ích như thế cần được tiếp tục cải thiện để có thể tạo được hỗ trợ hợp tác, từ người dân. Ta vẫn làm những việc công ích, bằng cách đóng thuế thu nhập, hoặc bán buôn. Dịch vụ. Thật sự, thuế má không là ác thần/sự dữ. Nhưng, ở chế độ công minh chính trực, đó là cách đóng góp thực tiễn để ta có thể tạo các dịch vụ tạo phúc lợi biến thành những việc cho không, có ích. Chế độ nào, có hệ thống thuế má công minh, mới tạo sự giàu mạnh cho cộng đoàn ta chung sống. Có như thế, mọi người mới có thể tiếp cận các dịch vụ mà họ cần; ngõ hầu sống đúng phẩm giá con người.
Thật ra, có nhiều cách giúp ta thể hiện một xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Tốt và lành, để nhờ đó ta đóng góp được nhiều thứ; tạo được chất lượng cho cuộc sống, của cộng đoàn. Tốt và lành, để thực hiện điều Chúa khuyên răn: “hãy trả cho Xêda, những gì của Xêda”. Tiếc thay, nhiều người lại trích dẫn câu của Chúa theo hướng: “cha chung chết không ai khóc”, cứ lấy của chung mà làm tư lợi cho riêng mình, hoặc gia đình mình; mà chẳng nghĩ cách cho lại người khác. Cho chung mọi người.
Đằng khác, với cộng đoàn Nước Trời, có khi chẳng hề thấy xảy ra xung đột giữa “Xêda” và Nhà Chúa. Có thể là như thế. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng vậy. Đôi lúc, có vị lợi dụng dựa Lời Chúa để chỉ khích bác hành động của một số lãnh đạo trong chính quyền, bên ngoài. Hoặc, chỉ để chống lại thái độ “bất hoạt động” của chính quyền, nào đó. Rất nhiều lần, ta cũng phải biết từ chối giữ luật lệ, do chính phủ nào đó đề ra. Như, luật kỳ thị, phân biệt chủng tộc ở Nam Phi thời trước. Tại Hoa Kỳ, cả người da trắng lẫn da mầu, vẫn vi phạm luật kỳ thị đặt ra, ở một số tiểu bang. Nhân danh sự thật, sự công bình và phẩm giá con người, họ không còn chọn lựa nào khác.
Cũng nên nhận ra rằng, khi thực sự yêu quê hương và dân mình, có thể chúng ta cũng phải có lập trường vững mạnh chống chọi lại giới cầm quyền về một số vấn đề. Dĩ nhiên, trong trường hợp đó, nhà cầm quyền sẽ coi những người này thuộc thành phần bội phản, đe doạ sự ổn định của đất nước. Nhưng những người có lòng quan tâm thật tình như thế, lại là những người biết tỏ ra yêu thương đất nước mình hơn đám được gọi là “đa số thầm lặng” , rất nhiều.
Trình thuật hôm nay cho thấy rõ, chúng ta có hai bổn phận: bổn phận đối với đất nước hoặc vùng đất của mình và với Chúa. Ở nơi nào, mà cả hai quyền bính được thuận hoà, thì sẽ không có xung đột. Nhưng hễ nơi nào có những lối hành xử bất nhân và vô luân, đi ngược lại phảm giá và quyền lợi của dân chúng, chắc chắn nơi ấy sẽ xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, đôi khi tranh chấp không phải là điều tệ. Trái lại, vì là xung đột có sáng tạo nên xã hội của ta mới tiến tới.
Nếu chúng ta luôn hành xử theo đường lối chính đáng, có sáng tạo, như Thánh Phaolô viết: “tức là biết nói lên được sự thật trong yêu thương” ( Ep 4, 15 ), thì vương quốc do con người dựng xây, sẽ trở thành Vương Quốc Nước trời. Đúng như vị tử đạo, một thời nổi tiếng là thành phần bất đồng chính kiến, thánh Thomas Moore có nói: “Là bầy tôi của Vua cha, nhưng phải là tôi tớ Chúa trước đã.”
Trong hân hoan đón nhận lập trường Chúa khuyên dạy, ta cùng hát lên lời ca vui hôm nào:
“Bạn hỡi, vang lên lời ước thiêng liêng
Chúc non sông hoà bình, hoà bình
Ngày máu xương thôi tuôn rơi, ngày ấy quê hương yên vui
đợi anh về trong chén tình đầy vơi.” ( Phạm Đình Chương – Ly Rượu Mừng )
Vẫn cứ hân hoan. Và cứ mừng. Mừng trong chén tình đầy vơi. Có quê hương an bình hài hoà, để mà sống. Với, Vương Quốc Nước Trời, “tình yêu sau trước đều như vậy”. Có nắng mới. Có hoàng hôn. Có cả “vật vô tri”, nay có hồn. Hồn, của những thương yêu. Sung mãn. Hài hoà.
Lm. PHAN ĐỖ THỤC LINH, MAI TÁ diễn dịch
--------------------------------
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn: TN 29-A74
Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa, nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:
Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo, hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César, vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để hình mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa, đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa, đó là yêu thương và cho đi.
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết, mà chẳng một lời oán thán.
Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ, mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể, để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.
Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.
Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?
2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?
3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?
--------------------------------
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Xứ Pa-lét-tin vào thời Chúa Giêsu là một tỉnh của đế quốc La mã. Như mọi tỉnh khác, ngoài: TN 29-A75
Xứ Pa-lét-tin vào thời Chúa Giêsu là một tỉnh của đế quốc La mã. Như mọi tỉnh khác, ngoài đủ thứ thuế còn nộp thêm một sắc thuế đặc biệt để tỏ dấu phục tùng Hoàng đế. Giữa những người Do thái có kẻ chủ trương nộp thuế; kẻ khác, những người phái Nhiệt thành –những người kháng chiến đương thời, coi như bổn phận tôn giáo phải từ chối không nộp thuế. Những người phái Nhiệt thành rất được lòng dân. Các kẻ đối nghịch với Chúa Giêsu đặt cho Ngài câu hỏi sau: Có nên nộp thuế cho vua Cê-sa không? Câu hỏi ấy là một cái bẫy. Họ đã tính toán nếu Chúa Giêsu trả lời không, Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền La mã và sẽ bị bắt giam; nếu Ngài trả lời có, Ngài sẽ làm mất lòng dân, dân sẽ loại bỏ Ngài. Dầu thế nào họ cũng thanh toán được Ngài. Như các trường hợp tương tự, thường Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời vượt quá câu hỏi. Vấn đề thật đối với Ngài là gì? Việc Nước Thiên Chúa đến và lan rộng. Đối với quyền hành trần thế, Ngài trả những gì thuộc phạm vi nó trên mặt trần thế, đồng thời khẳng định rằng vương quyền Thiên Chúa không liên kết gì với thực tại ở đời mà người ta gọi là Quốc gia. Đối với Thiên Chúa, Ngài trao trả những gì thuộc về Thiên Chúa, phẩm giá và định mệnh con người: Người ta đã bình luận nhiều về lời Chúa Giêsu “Trả cho Cê-sa những gì thuộc về Cê-sa và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Để hiểu rõ cần đi vào cách nhìn của chính Chúa Giêsu và nhớ lại các hoàn cảnh thực thụ khi Ngài giảng dạy.
1) Xã hội chung quanh lôi kéo muốn tôn vinh Ngài làm vua trần thế. Sau việc hoá bánh ra nhiều, đám đông muốn phong vương cho Ngài. Chính các môn đệ lâu ngày tin tưởng vào một vương quyền trần thế. Chúa Giêsu đã phải không ngừng chống lại quan niệm sai lầm ấy của những người đi theo. Nhiều lần Ngài công bố mà không ai hiểu rằng Ngài là “Người tôi tớ đau khổ” được các tiên tri báo trước và sứ mạng Ngài nhằm khai trương Nước Thiên Chúa. Do đó câu Ngài trả lời cho những người Biệt phái vượt quá bình diện một thái độ kháng cự hay không kháng cự một quyền hành trần thế. Chế độ trần thế của bất kỳ cộng đoàn nhân loại nào, dầu có mang hình thức nào, con người trong đó cần phải có thể dâng cho Chúa những gì thuộc về Chúa và việc phục vụ phải dâng cho Thiên Chúa (thờ phượng, rao giảng, Phúc âm, các phép bí tích..) đi qua trung gian Người Tôi Tớ đau khổ và chiến thắng, không phải tách biệt các quyền hành thế gian này nhưng đứng trên chúng.
2) Nhưng như vậy phải nói Phúc âm muốn bất biến chính trị hay sao? Vấn đề đang bàn luận sôi nổi. Trong căn bản có thể nói công việc chính yếu của Phúc âm là thay đổi tâm hồn, Ở mức độ các cơ cấu xã hội. Dĩ nhiên có một số cơ cấu nâng đỡ hay gây khó khăn cho công việc của Phúc âm. Việc biến cải cá nhân và việc thay đổi xã hội ảnh hưởng lẫn nhau. Bổn phận chính trị của Kitô hữu do đó là góp phần xây dựng một trật tự xã hội thuận lợi cho Phúc âm. Phải dành ưu tiên cho việc nào? Biến cải nội tâm hay cải tạo xã hội? Vì tâm hồn là một nguồn mạch và vì Phúc âm đâm rễ trong tâm hồn, ưu tiên được dành cho cố gắng thường trực hoán cải tâm hồn. Khi ấy người Kitô hữu nào dấn thân cải tạo xã hội thoát nguy cơ chọn làm quy luật hành động những nguyên tắc, những mục tiêu và phương tiện thuộc về thế gian chớ không thuộc về Phúc âm. Hơn nữa sẽ giúp ích cho thế gian bằng cách không tự giới hạn vào việc lập lại những gì thế gian nói, nhưng đóng góp được sứ điệp riêng của Phúc âm.
--------------------------------
CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng:
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy: TN 29-A76
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng điên nào mà chẳng biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho". Đức Phật liền nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận đâu nhé". Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp: "Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi." (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167)
Câu chuyện trên là một minh họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua bài Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt phái bàn mưu để làm cho Đức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel, còn phe Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức Giêsu. Một mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. "Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay không?" Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế. Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt, Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va danh hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là "của Xêda" Đức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Đức Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án (Mt 12, 37).
Sứ mạng của Đức Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi bật chân lý ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn nhìn Đức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.
Một cuộc đối thoại giữa thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc đối thoại với Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ muôn thưở. Đức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.
Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người.
Những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.
Mỗi người Kitô hữu luôn hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha thứ, khiêm tốn phục vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.
--------------------------------
HÃY DÂNG CHO THIÊN CHÚA NHỮNG GÌ LÀ CỦA THIÊN CHÚA
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nếu Đức Giêsu phải qua một cuộc kiểm tra trong trường học ngày hôm nay, thì Ngài sẽ không Vượt: TN 29-A77
Nếu Đức Giêsu phải qua một cuộc kiểm tra trong trường học ngày hôm nay, thì Ngài sẽ không Vượt Qua nổi. Ngài không bao giờ trả lời một câu hỏi, hay ít nhất là không trả lời trực tiếp. Một số người cũng giống như thế. Các bạn hỏi họ: “Bạn thế nào?”. Và họ trả lời: “Cám ơn bạn vì đã hỏi”. Đó không phải là một câu trả lời.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay Chúa Giêsu đã bị hỏi là để chu toàn Lề Luật có trả thuế cho đế quốc hay là không? Một câu trả lời có hay là không đủ để trả lời cho câu hỏi này. Thay vào đó, Chúa Giêsu đã làm cho đối thủ của Ngài phải đưa cho Ngài đồng bạc Rôma, tiếp đến Người đòi hỏi họ phải đưa ra chính kết luận của họ. Chúa Giêsu có một lý do đúng đắn trong việc không đưa ra một câu trả lời trực tiếp bởi vì những người hỏi Ngài không chân thành; họ cũng đặt bẫy trong câu hỏi của họ. Nếu Ngài trả lời có, phải chu toàn Lề Luật đóng thuế thì người Pharisiêu sẽ tố cáo Ngài phản bội lại những người đồng hương Do Thái, xứ sở của chính Ngài. Mặt khác nếu trả lời không, họ sẽ có thể bắt Ngài bởi chống lại người Rôma.
Từ bài học đồng bạc, không ngạc nhiên gì khi Chúa Giêsu đã nói với họ hãy trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Còn hơn là ngạc nhiên và ngay cả bị sốc nữa, khi Chúa Giêsu nói thêm hãy trả cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa. Điều đó giông như là nói với cổ động viên bóng đá nhiệt thành rằng đừng quên xem một số trò chơi trên TV, nếu một người nào đó cho anh một vé chơi trò chơi hãy bảo đảm rằng anh sẽ đi. Loại trò chơi đó đối với một người cổ động viên bóng đá là một chuyện dư thừa. Vì những người Pharisiêu cũng gần giống như thế nếu nói với họ hãy trao cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa thì không chỉ là dư thừa nhưng đúng là một sự nhục mạ.
Ý của Chúa Giêsu thì không cố ý nhục mạ họ, nhưng là thách đố họ. Không nghi ngờ gì họ đã trả thuế cho đế quốc cai trị họ. Những người Rôma làm điều đó bằng cưỡng bách, bằng bạo lực nếu cần thiết. Nhưng Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta bất cứ điều gì. Ngài tìm kiếm sự phục vụ, trao ban một cách tự do. Trên tất cả Ngài yêu cầu một tình yêu mà tình yêu đó phải thành thật và không ích kỷ, giống như tình yêu của Ngài hướng đến chúng ta. Những người cố ý gài bẫy Chúa Giêsu trong bài giảng của Ngài, tin rằng tôn giáo là một cái gì nhỏ bé hơn qua việc giữ luật bên ngoài. Họ nghĩ rằng tôn giáo như xây một bức tường, cứ đặt những viên gạch với nhau thì bức tường sẽ được dựng lên. Họ không nhận ra rằng với cái vẻ đạo đức bên ngoài đã đặt nên một bức tường giữa họ với Thiên Chúa, và giữa Thiên Chúa với dân của Người. Họ cũng thành công trong việc cô lập chính họ khỏi những đòi hỏi cần quảng đại trong việc lạy Thiên Chúa hoặc trong việc phục vụ đồng loại, những kẻ đang có nhu cầu cần giúp đỡ.
Những thách đố đối với chúng ta là gì? Chúng ta có trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa không? Chúng ta có xứng đáng được khen ngợi như thánh Phaolô đã khen ngợi tín hữu Thessalonica: “Chúng tôi đã kiên bền, chú ý… Còn anh em có chứng minh đức tin của anh em, khổ nhọc trong tình yêu, và trình bày cách kiên bền trông cậy vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta không?”.
Chứng mình đức tin của chúng ta: nó có nghĩa là sống theo một cách mà mọi người biết chúng ta là người Công giáo, những người thực thi tôn giáo của chúng ta một cách nghiêm chỉnh và sẵn lòng chịu những điều khác nữa. Lao nhọc trong tình yêu: đó là nhận biết chúng ta phải thực hiện theo cách của mình như chúng ta tử tế với những người khác, chúng ta tự nguyện thăm viếng đau ốm hoặc đi mua sắm đồ hco những người không thể đi được. Trình bày niềm hy vọng kiên bền vào Đức Kitô: Thách đố này là sống cuộc sống của chúng ta không theo cảm tính, như Thiên Chúa không hiện diện bởi vì chúng ta một là được thúc đẩy bởi cái vĩnh cửu còn không chỉ là do những giá trị thế lực.
Chúa Giêsu cảm thấy không cần thiết để trả lời những câu hỏi của người Pharisiêu nhưng chúng ta sẽ nồng nhiệt và sẵn lòng trả lời với một lòng sốt sắng khi Người hỏi: “Các con có sẵn lòng trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa không?”.
--------------------------------
Nếu Thầy chống nộp thuế thì Thầy chống lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế,: TN 29-A78
- Nếu Thầy chống nộp thuế thì Thầy chống lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế, thì Thầy chống lại Thiên Chúa.
Để làm hại Chúa Giêsu, người ta giăng một cái bẫy buộc Ngài phải rơi vào đó. Đất nước đang sống dưới sự chiếm đóng của Rôma và người Do thái biến đều đó thành một vấn đề tôn giáo. Cho nên đó là điều Tin Mừng muốn làm cho chúng ta suy nghĩ: tôn giáo và chính trị.
Những người theo Hêrôđê là những người hợp tác và rình mò Chúa Giêsu có lời nào bất cẩn nhằm tố cáo Ngài là người xách động. Nhưng những người Pharisêu, và thực tế là toàn thể dân Do thái, ghét người Rôma và xem họ là những kẻ đàn áp và là dân ngoại. Đóng thuế, tức là công nhận phục tùng một vị hoàng đế ngoại đạo. Như thế chẳng phải là chống lại Thiên Chúa hay sao? Thầy tự xưng là Đấng Cứu Thế, Thầy không thể chấp nhận điều đó, Thầy không ủng hộ việc đóng thuế chứ?
Chúa Giêsu bẻ gẫy cái bẫy kết hợp đó: các ngươi đang sử dụng tiền của César, các ngươi chấp nhận tình cảnh đất nước bị chiếm đóng, do đó, “hãy trả cho César những gì thuộc về César”, nhưng các ngươi đừng trộn lẫn điều này bất cứ như thế nào với đức tin của các ngươi vào Thiên Chúa.
Cho nên Chúa Giêsu phân biệt tôn giáo với chính trị. Không như người ta thường làm bằng cách cắt cuộc sống ra làm hai: một bên là lãnh vực của César, chính trị, và bên kia là lãnh vực của Thiên Chúa, tôn giáo. Không, tôn giáo và chính trị khác hẳn nhau, tuy nhiên chúng chồng chéo lên nhau.
Hẳn có hai lãnh vực, hoặc đúng hơn là nhiều lãnh vực. Trước hết là lãnh vực của Thiên Chúa là lãnh vực bao trùm tất cả. “Hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là: các ngươi hãy xem tất cả trong cuộc sống của các ngươi liên quan đến Thiên Chúa như thế nào. Ai cũng có quyền có quan điểm. Cho nên phải “trả lại cho Thiên Chúa” tất cả những gì chúng ta làm trong chính trị cũng như trong tất cả. Đó là ánh sáng rõ ràng về các vấn đề “đức tin và chính trị” và về bao nhiêu vấn đề khác nữa.
Bởi vì bên trong quyền tối thượng hoàn toàn cuả Thiên Chúa, có biết bao nhiêu là lãnh vực trong đó chúng ta phải thực thi tự do của chúng ta: cuộc sống cá nhân, gia đình, xí nghiệp, xã hội. Không có vấn đề sống tất cả những cuộc sống đó một cách độc lập với Thiên Chúa. Cũng không có vấn đề ràng buộc Ngài với sự chọn lựa của chúng ta, trong khi tuyên bố rằng thái độ chính trị này là thái độ chính trị duy nhất của người Kitô hữu chẳng hạn. Trước kia, người ta dễ dàng nghĩ rằng bỏ phiếu cho cánh hữu là “vì Thiên Chúa”; ngày nay, đúng hơn là ngược lại, và đây là cũng sai nốt. Dầu sao thì cũng có cám dỗ lớn lao trong việc đặt Thiên Chúa vào trong những đề cương bầu cử hoặc trong nhiệt tình chính trị. Không, đó là César chứ không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn thuộc về cánh hữu hay cánh tả nữa.
Nhưng cám dỗ ngược lại cũng xấu: tìm cách thoát ra để gần Chúa, xa rời mọi sự dấn thân tập thể. Thế là chúng ta trốn tránh yêu thương anh em chúng ta, bởi vì phần lớn nhờ hoạt động chính trị mà chúng ta có thể thăng tiến công bằng xã hội và chất lượng cuộc sống. Ở kỹ trong nơi ấm áp, đọc kinh, và để cho người ta làm bất cứ điều gì trong nước thì đó không phải là đạo đức mà là ích kỷ.
Người ta đã sử dụng câu trả lời của Chúa Giêsu theo nhiều cách. Tôi nghĩ rằng đây là nguyên tắc phát xuất từ đó cho phép từ chối sự tách biệt hoàn toàn giữa đức tin và chính trị trong khi tránh được sự tập hợp các khuynh hướng: không có một nền chính trị nào có thể ràng buộc Thiên Chúa, nhưng tất cả các nền chính trị đều phải trả lẽ cho Ngài.
--------------------------------
** Bối Cảnh Đoạn Tin Mừng:
Đế quốc Rôma thống trị xứ Palestin từ năm 63 trước Chúa giáng sinh và đã đặt nền cai trị rất vững: TN 29-A79:
Đế quốc Rôma thống trị xứ Palestin từ năm 63 trước Chúa giáng sinh và đã đặt nền cai trị rất vững chắc tại đất nước này. Họ cũng đặt vua Hêrôđê là người Do Thái để đại diện Rôma cai trị dân. Nhưng dân Do Thái lại chia ra nhiều phe: Phe Hêrôđê và những người thuộc nhóm Sađucêô thì ủng hộ việc đóng thuế cho Rôma để củng-cố địa vị và tài sản. Phe Pharisêô thì bất đắc dĩ phải nộp thuế, nhưng trong lòng không muốn tuân phục. Còn phe thứ ba, thuộc nhóm những người yêu nước quá khích thì hoàn toàn tẩy chay việc đóng thuế cho đế quốc Rôma mà họ coi là dân ngoại, không có quyền chi trên dân của Chúa!
Dân Do Thái lại gồm 3 loại người:
- Công Dân Rôma là những người có quốc tịch Rôma (như Thánh Phaolô...)
- Người tự do là những người dân thường. Chúa Giêsu thuộc nhóm người tự do.
- Người nô-lệ.
Theo luật Rôma, tất cả mọi người cả nam cũng như nữ từ 14 tới 65 tuổi, hàng năm phải đóng thuế cho Rôma 1 đồng bạc DENARIUS. Đồng bạc. Đồng DENARIUS được đúc bằng bạc, nặng 3,8g. Đồng DENARIUS đã được đế quốc Rôma dùng từ năm 268 trước Chúa Giáng Sinh và mãi tới năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn tiếp tục dùng trong đế quốc Rôma. Đồng bạc được khắc hình các hoàng đế Rôma, thời Chúa Giêsu, thì hình và hiệu trên đồng DENARIUS là hình và hiệu của hoàng đế Tibêriô, ông cai trị từ năm 31 trước Chúa giáng sinh và băng hà năm 14 sau Chúa giáng sinh.
Câu hỏi nham hiểm:
Với bối cảnh trên, sau khi 2 nhóm Pharisêô và Sađucêô đã thất-bại trong việc cấu kết lại với nhau để cật-vấn Chúa Giêsu nhiều điều, mục đích để hại Chúa, nhưng Chúa đã khiến bọn họ phải “Câm Họng!”, nên lần này, chúng cấu-kết với nhóm Hêrôđê, nhóm III thiên về chính trị, ủng hộ đế quốc Rôma để gài bẫy hầu có thể kết án tử cho Chúa Giêsu. Chúng đến với Chúa Giêsu với bề ngoài rất cung kính, muốn tìm hiểu con đường Công Chính để noi theo. Họ lễ phép thưa: “Thưa Thầy!” –(RABBI là tiếng học trò thưa với thầy) “Chúng tôi biết Thầy là người Công Chính, không tây vị ai, Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?” (Mt 22:17).
Đây là câu hỏi vô cùng nham hiểm, nhưng dưới bề ngoài rất chân thành, vô tội, muốn biết sự thật để sống theo Sự Thật, nhưng với dã tâm của chúng, chúng nghĩ rằng: chắc chắn sẽ đưa Chúa vào gọng kìm, không thể thoát được! Đây là miếng mồi nhìn thoáng qua rất dễ nuốt, nhưng bên trong là lưỡi câu sắc bén, đầy nguy hiểm! Bởi vì: Nếu Chúa trả lời: “NÊN nộp thuế thì những người Do Thái yêu nước sẽ nghĩ rằng Chúa về phe với Rôma hà hiếp dân và do đó sẽ chẳng ai tôn kính, nghe lời dạy của Chúa nữa! Còn nếu Chúa trả lời: “KHÔNG NÊN nộp thuế cho Caesar! Thì nhà cầm quyền sẽ liệt Ngài vào số những người phản loạn và sẽ không tránh được án tử hình!
Đứng trước cạm bẫy vô cùng nguy hiểm mà những người thù ghét Chúa giăng ra, Chúa Giêsu thấu rõ dã tâm quỷ quyệt của chúng, nên, trước khi trả lời, Chúa thẳng tay vạch mặt nạ đáng tởm của chúng. Ngài nghiêm nghị phán: “Hỡi bọn giả hình! Các ngươi gài bẫy Ta làm chi?” (Mt 22: 18) Thật xấu hổ cho bọn người nham hiểm muốn giăng bẫy hại Chúa!
Đoạn Chúa bảo: “Hãy đưa cho Ta đồng tiền!”, đoạn Chúa hỏi họ: “Hình và hiệu này là của ai?”. Chúng trả lời: “Của Caesar”. Chúa trả lời thẳng thắn, không cần úp mở:
“CỦA CAESAR thì trả cho Caesar,
của THIÊN CHÚA thì trả cho Thiên Chúa!” (Mt 22:21)
Câu trả lời của Chúa Giêsu trở thành thời danh và trở thành nguyên-tắc cho Sự Công Bằng cho toàn nhân loại noi theo! Thần quyền và thế quyền là hai phương diện hoàn toàn khác nhau. Con người trần thế, vì có xác, có hồn nên cần chu toàn các luật lệ trần thế cũng như về Thiên-Luật. Tuy nhiên, vì Thiên Chúa là Chủ-Tể Tối Cao, Đấng vượt trên mọi loài trên trời dưới đất, nên Thiên Luật phải được tuyệt đối chấp hành.
CỦA CAESAR:
Các nhân luật: Chẳng hạn như luật của Liên Bang, luật tiểu bang, luật giao thông, luật thuế vụ, luật của thành phố... nói chung: Những luật đem lại công ích cho nhân loại, cho dân tộc, chúng ta phải chấp hành. Tuy nhiên, những luật trái với Đạo Lý, trái Công Bằng, chẳng hạn: những luật cho phép phá thai, hôn nhân đồng tính hay an-tử... là những luật trái với đạo đức thì các công dân không bao giờ được phép làm. Đặc biệt là những luật chống lại Thiên Chúa thì không bao giờ được tuân theo, vì đó là phản loạn với Đấng Tạo Hoá, Đấng đã tạo dựng, gìn giữ và bang trợ hết thảy muôn loài muôn vật!
** Của Caesar: Đó là những gì CỦA NGƯỜI KHÁC như: Tiền bạc, sản nghiệp, tiếng khen, nghề nghiệp... hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của cá nhân đó, người khác hoàn toàn không có quyền tiêu dùng, làm hao hụt hay lấy đi trái với ý rõ ràng của chủ của. Phạm quyền sở hữu, bất cứ bằng cách nào đều là tội Lỗi Đức Công Bằng!
** Của Caesar: Cũng nên để ý về VIỆC ĐÓNG THUẾ cho chính phủ. Mọi công dân trong nước đều được hưởng những tiện nghi công cộng như: đường xá, trật tự an ninh, cứu hoả, nhà thương, bưu điện... Tất cả những chi phí đó đều lấy từ tiền đóng thuế của toàn dân. Trong khi những người khác đóng thuế mà ta không đóng, thì đó là tội lỗi Đức Công Bằng!... Có người có gia tài to lớn, có 2, 3 nhà cho thuê, nhưng lại cho người khác đứng tên để được hưởng TRỢ CẤP NGƯỜI GIÀ... thì đó cũng là tội lỗi Đức Công Bằng!
CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa là Chủ Tể muôn loài, muôn vật, nhờ Ngài, muôn loài được tạo dựng, bảo trì và nuôi dưỡng. Ngài nắm giữ mọi vận mạng các quốc gia, dân tộc. Do đó chỉ mình Thiên Chúa mới xứng đáng nhân loại tôn thờ và yêu mến. Mình Thiên Chúa vì thế có Quyền Tối Thượng, Quyền Tuyệt Đối, quyền vượt trên mọi quyền trần gian, không ai được hành động trái với Thánh luật của Chúa.
Riêng con người, chúng ta được Thiên Chúa vô vàn trân quý và “Sáng tạo giống hình ảnh của Người” (Sáng Thế Ký 1:27). Vì thế, nhân loại mọi nơi, mọi thời đại, tất cả, dù da trắng, da vàng, da đen, mọi ngôn ngữ chủng tộc đều là CON THƯỢNG ĐẾ, và do đó, chúng ta vô cùng Hạnh Phúc vì được Thiên Chúa yêu thương, bang trợ và dẫn đưa về tới Bến Bờ Phước Hạnh Vô Biên trong vương quốc của Chúa là Gia Nghiệp mà Cha Thiên Thượng đang dành sẵn cho tất cả các con yêu của Ngài.
Đã là con, chúng ta có bổn phận phải hết lòng hiếu thảo, yêu mến và tuân theo Thánh Chỉ của Cha. Hơn nữa, chúng ta cần chân nhận rằng: Tất cả những gì chúng ta có, đều bởi Cha chúng ta: Linh hồn, thân xác, sức khoẻ, tài năng, cơ hội, địa vị, thời giờ... tất cả đều bởi Cha Thiên Thượng mà có. Và do đó, chúng ta hãy trả lại cho Cha chúng ta để tỏ lòng suy tôn, tùng phục Thánh Ý của Cha. Sống như thế mới trọn đạo con thảo đối với Cha!
** Chúng ta hãy lắng đọng tâm tư xem chúng ta có TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA những gì thuộc về Thiên Chúa, hay chúng ta nghĩ rằng những thứ đó hoàn toàn do chúng ta mà có được!
Sách NHỊ LUẬT dạy “phải dâng Thiên Chúa ít nhất 10% mọi hoa lợi của chúng ta” (Nhị Luật 14:22-27):
Thời giờ: Chúng ta mỗi ngày đã dùng mấy phút để tôn vinh, ca ngợi Chúa?
Về sức khoẻ, tài năng... chúng ta có dùng để làm vinh danh Chúa hay chỉ để lo cho thân xác???
Linh hồn và thân xác... chúng ta có dùng toàn thể con người từ ý tưởng, lời nói, việc làm để tôn vinh Chúa hay chỉ để phục vụ cho thân xác của riêng ta??
Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa: Chúng ta được phước hạnh và bổn phận phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, thì đó mới hoàn thành bổn phận được Thiên Chúa yêu thương và tạo thành và sẽ được chung hưởng Phước Lộc Vô Tận mai sau với Ngài!
** CHÚA GIÊSU CÓ CHẤP HÀNH LUẬT TRẦN THẾ KHÔNG?
Mặc dầu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng phàm, đáng lẽ Ngài không cần và không buộc phải chấp hành các luật trần thế, bởi vì Ngài vượt trên tất cả các vua chúa trần gian, nhưng Ngài vẫn nêu gương tuân phục:
Cha Mẹ của Chúa Giêsu đã tuân lêựnh hoàng đế để trở về Bethlêhem để khai sổ nhân đinh (Lc 2:4)
Chính Chúa Giêsu đã truyền cho ông Phêrô đi đánh cá để nộp thuế cho Ngài và cho ông Phêrô (Mt 17:26)
Mặc dầu chính Tổng-trấn Philatô- người kết án tử cho Chúa Giêsu- đã xác-nhận Ngài hoàn toàn vô tội... Thế nhưng chính Chúa Giêsu thì hoàn toàn không một lời phản-đối! Ngài chấp nhận chịu chết do bản án bất-công đó! (Lc 23:22)
** GƯƠNG THÁNH THOMAS MORE
Thánh Thomas More bên nước Anh vị thủ lãnh các quan trong triều, rất được Vua Henri VIII kính phục và thương mến. Tuy nhiên, vua muốn xin Toà Thánh để ly-dị bà hoàng-hậu Catherin D’Aragon nhưng Toà Thánh không thể chấp nhận vì trái với luật Chúa. Vua liền cưới bà vợ khác và bắt tất cả quần thần phải ký vào văn bản chấp nhận hành động của vua, ai không tuân thì bị giết chết. Thánh Thômas More nhất định không làm theo mệnh lệnh của nhà vua nên bị xử tử.
Thánh Thomas More đã yêu mến và tuân theo luật Chúa hơn lệnh của Đức Vua. Ngài đã chứng tỏ tình yêu trung kiên với Thiên Chúa xứng đáng triều thiên vinh quang các Thánh Tử Đạo
--------------------------------
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau,....... Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời: TN 29-A80
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự "nhất trí về đạo đức và xã hội" hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo "cánh hữu' hay "cánh tả", Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”
Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi'êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật... để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn... để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?".
Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời "có", Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời "không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị... nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói "có" hoặc nói "không", dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?". Họ đáp: "Của Xê-da".
Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: 'Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời "Giáo Hội và Nhà Nước" đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…
Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da...
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa "dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị... như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa... Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của "Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: "Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da", khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da... nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa...
Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội "không Thiên Chúa" cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa" là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. "Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. "Con người không chỉ sống bởi bánh"... bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo "hình ảnh của Thiên Chúa" "theo hình và hiệu của Thiên Chúa", con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải "trả mình" trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa... và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.
--------------------------------
NỘP THUẾ CHO HOÀNG ĐẾ
CÂU HỎI GỢI Ý
Phải đặt đoạn này trong toàn bộ các chương 21-23 như thế nào? 2. Có lạ lùng không khi hai: TN 29-A81
1. Phải đặt đoạn này trong toàn bộ các chương 21-23 như thế nào?
2. Có lạ lùng không khi hai phe Biệt phái và Hêrôđê hợp tác chặt chẽ với nhau ở đây?
3. Phải chăng tiếng kêu "Thầy" có một cách dùng đặc biệt trong Mt?
4. "Cạm bẫy" mà các kẻ đối thoại với Chúa Giêsu giăng ra cho Người đúng ra là gì?
5. Biệt phái có phải là "giả hình" chỉ vì đã giả vờ khen Chúa Giêsu không? Phải chăng họ cũng không sống giả hình trong chính vấn đề nộp thuế?
6. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá câu hỏi do địch thủ Người đặt ra ở chỗ nào?
*****
1. Trong vụ tranh tụng diễn ra tại Đền thờ giữa Chúa Giêsu và các địch thủ Người: thượng tế và ký lục (20,18; 21, 15), thượng tế và niên trưởng trong dân (21, 23), thượng tế và Biệt phái (21, 45), chúng ta đã thấy điểm tranh chấp dần dần xác định: lai lịch của Con Đavít và nguồn gốc quyền bính của người hay, nói cách tương đương, bản chất của Nước Thiên Chúa. Các dụ ngôn đã cho thấy sự cấp bách phải chọn lựa, đồng thời vẫn còn để cho cơ hội hối cải về sau (21, 32; 21, 45).
Bây giờ đến bốn cuộc tranh luận móc nối nhau theo chiều hướng đi lên. Chúng xem ra được xếp đặt theo một lược đồ thông dụng của các giáo sĩ:
- Hokmâh (sự khôn ngoan): một cuộc tranh luận về phép xử thế nhân cơ hội một vấn đề pháp luật (22,15-22).
- Haggadâh (lời chú giải): một dịp giải thích các đoạn Kinh Thánh có vẻ mâu thuẫn (22,41-46).
- Bôrut (điều thô tục): một cuộc tranh luận nhắm chế nhạo một niềm tin (22, 23-33).
- Dérèk érèts (con đường thế): một tranh luận về các nguyên tắc căn bản của đời sống luân lý (22,34-40).
Tuy nhiên Mt đổi thứ tự cổ truyền bằng cách đặt haggadâh vào phần cuối của cuộc tranh chấp để cho thấy cuộc tranh chấp tiến đần đến câu hỏi sau cùng của Chúa Giêsu.
Ba cuộc tranh luận đầu tiên được khỏi xướng do ba nhóm đại diện cho Do thái giáo chính thức, họ muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu bằng chính lời nói của Người (cc.15 và 35) về những vấn đề càng lúc càng quan trọng: việc nộp thuế cho hoàng đế vấn đề chia rẽ phe cánh Hêrôđê, nhóm Biệt phái và đảng Nhiệt thành; kẻ chết sống lại; vấn đề bị phái Sađucêô chối bỏ; điều răn lớn nhất: mốl bận tâm của những người Do thái chăm chú giữ luật là nhóm Biệt phái. Các vấn đề này được đặt ra cho một Rabbi, một "Thầy" (didaskale: cc. 6. 27. 36), tước hiệu cho thấy sự hiểu biết của họ về Chúa Giêsu đến mức độ đâu, nhưng Người, cứ mỗi lần như vậy, lại dẫn họ đến một vấn đề căn để hơn. Và sau cùng Người đi bước trước bằng cách đặt rõ cho họ vấn đề nêu lên do sự có mặt của Người giữa họ trong Đền thờ, khiến họ bị bắt buộc phải chọn lập trường tối hậu.
2. Đoạn ngắn này bao gồm âm mưu của địch thủ Chúa Giêsu (c. 15), cuộc toan tính của họ bên Người (16, 17) và câu Người trả lời cho họ (18- 21): trọng tâm của trình thuật nằm trong lời phán quyết sau cùng, cái lời lưu giữ với những hạn từ rành rẽ một giáo huấn quan trọng của Chúa Kitô. Đưa ra nhân một cuộc tranh luận với các tiến sĩ Luật, công thức này quả nổi bật trong khung cảnh đó.
Câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu là một câu hỏi hóc búa, nhằm mục đích hại Người hoặc trước dân chúng, hoặc trước quyền bính dân sự. Như ta biết, nhóm Biệt phái tượng trưng cho tinh thần bất nhượng bộ về vấn đề tôn giáo và một cách chính thức tượng trưng cho những người quyết tâm bảo vệ sự tự do của dân Chúa tước quyền bính Rôma tại Giuđêa, quyền bính này nằm trong tay một tổng trấn mà đôi lúc, với sự hỗ trợ của binh lính, đã tỏ ra rất hà khắc. Còn nhóm Hêrôđê lại thân với Rôma, vì đế quốc nâng đỡ các quận vương xuất thân từ giòng tộc Hêrôđê Cả đang trị vì ở Galilê và Pêrê (Hêrôđê Antipas) hoặc Auranitide, Gaulanitide, Batanée, Tratronitide và lturée (philíp). Nhóm chủ trương hợp tác với kẻ chiếm đóng vì sự hợp tác này có lợi cho họ.
Các lời nói của những kẻ được sai phái thật sảo quyệt. Câu đầu tiên, rất dài, với dụng ý đánh tan mọi ngờ vực, là một lời khen đầy tôn kính giả vờ đối với Chúa Giêsu (c. 18). Họ chào Người với tước hiệu Rabbi. Họ khen Người thành thật. Có thẩm quyền và bất thiên vị. Họ năn nỉ xin Người phán một lời để giải quyết một vấn đề phức tạp mà họ không thể nào đồng ý với nhau. Sau câu xã giao rườm rà và thơn thớt ấy là đến một liều thuốc độc (c. 17), một câu hỏi sắt như dao và bất ngờ: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?".
Ngoài các loại thuế gián thâu đánh trên mọi công dân của đế quốc (thuế thông lưu, thuế thương chính, thuế kế sản và thuế mại vật), các tỉnh còn phải nộp cống thuế (tributum) cho nhà vua; cùng với việc kiểm tra, cống thuế này là dấu chỉ rõ ràng nhất của việc lệ thuộc; người Do thái ghét thứ thuế đó lắm và đảng Nhiệt thành coi việc từ chối nộp nó là một bổn phận tôn giáo. Tại Giuđêa, nó đã được giòng tộc Séleucos thiết lập từ lâu và được người Rôma duy trì dưới hai hình thức là thuế điền thổ (tributum soli) và thuế thân (tributum capitis) mà nhiều nhân viên có nhiệm vụ thâu dưới sự kiểm soát của các quan chức chuyên môn là các tổng trấn, được đặt đứng đầu mỗi khu vực tài chính.
Thành thử câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu hàm chứa một lưỡng đao: nếu Người chấp nhận nguyên tắc trả thuế thì dân chúng sẽ xem Người như một tên Do thái gian, một người bạn của Rôma và nhóm Biệt phái sẽ có cơ hội đạp đổ uy tín của Người trên dân chung. Nếu tuyên bố chống nộp thuế, nhóm Hêrôđê sẽ phản ứng tức thì và sẽ có cớ để làm Người bị tổng trấn lên án bằng cách trình bày Người như một tên phá rối trật tự chung. Cổ võ việc chống đối nộp thuế điều mà chính Người sẽ thực sự bị gán ghép trong vụ xử án trước tòa Philatô sau này. (x Lc 23, 2).
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm ba yếu tố:
1. Trước tiên Người tuyên bố rằng mình không phải là kẻ dễ bị lừa gạt. Người biết mình bị giăng bẫy và biết các kẻ đối thoại (đều nham hiểm và tà tâm).
2. Người trả đũa một cách khéo léo bằng cách hỏi vặn lại. Vì những kẻ nói với Người đều đã trả lời, qua các sự kiện, cho chính câu hỏi họ nêu lên. Chúa Giêsu bắt buộc họ tỏ ra cho thấy là họ đang mang trong mình đồng tiền của đế quốc (người Do-thái không được quyền đúc tiền bằng đồng đỏ hay bằng bạc mà chỉ bằng đồng thau, những thứ ít giá trị này không được dùng để nộp thuế thân hoặc thuế điền thổ). Theo lời Người yêu cầu họ liền đưa ra một đồng quan. Đồng quan chính là thứ tiền dùng nộp thuế. Ngoài ra, đồng này lại còn được khắc hình và tên của hoàng đế tại vị (lúc ấy là Tibêriô). Làm thế, Chúa Giêsu muốn ngầm hỏi họ rằng tại sao họ ngại ngùng khi phải trả lại cho hoàng đế (qua việc nộp thuế) đồng tiền có nguồn gốc Rôma và ngoại giáo ấy hơn là khi nhận nó với cùng thế giá của hoàng đế trong các giao dịch bán buôn của họ? Nếu đã có một vấn đề thì từ lâu họ đã giải quyết bằng cách chấp nhận rồi. Trong lãnh vực tiền tệ, họ đã tự nhận mình lệ thuộc hoàng đế Rôma.
3. Bấy giờ Chúa Giêsu mới đi xa hơn câu hỏi được đặt: Nói cho cùng, chỉ có một điều quan trọng mà người ta có thể thực hiện cách hoàn toàn ngay dưới ách thống tn của ngoại bang, đó là trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Điều này, Người không ngừng nói từ khi bắt đầu hoạt cộng và cả Tin Mừng đầy dấy: hãy tìm kiếm Thiên Chúa trước hết mọi sự hãy tìm Nước Trời và sự công chính của Nước ấy trước tiên... Nếu ta thực sự quan tâm đến điều đó, thì mọi vấn đề khác đầu trở thành phụ thuộc, không quan yếu; cơm ăn, áo mặc và công lý dưới trần gian (x. 5, 39-42). Tuy thế, câu nói này không muốn thiết lập hai trật tự khác biệt mà mỗi thứ sẽ là một điều quy chiếu tối hậu: Giáo Hội và quốc gia, và lại càng không muốn đề cao thái độ tùng phục hoàng đế. Nó chỉ đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng thôn. Các vấn đề liên quan tài hoàng đế đến sau các vấn đề liên hệ tới Nước Trời. Người ta đã đặt vấn đề nộp thuế cho Chúa Giêsu, nhưng lại không hỏi gì Người về những đòi hỏi của Thiên Chúa. Người đã chẳng tìm cách tránh né vấn đề vì có thể gây nên nguy hiểm cho bản thân. Người chỉ đặt lại mọi sự vào đúng chỗ của chúng khiến các địch thủ không còn cách nào theo đuổi câu chuyện, chẳng còn biết làm sao để đun sôi cuộc tranh luận lên. Quyền lợi của hoàng đế đã không bị động chạm, nhưng nhất là quyền lợi của Thiên Chúa đã được đề cao. Người ta có thể hoàn toàn thỏa mãn các yêu sách của Thiên Chúa mà vẫn nộp thuế cho hoàng đế. Chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà con người phải yêu mến hết sức lực mình (x. 22, 37)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Họ sai đến với Người môn đồ của họ": một câu khó hiểu: trong Tin Mừng (và hầu như trong văn chương Do thái), người ta chỉ đề cập đến "môn đồ của Biệt phái" ở đây và ở Mc 2, 13 thôi; trong "môn đồ" hàm chứa giả thuyết có một tôn sư, thế mà các người Biệt phái không dạy dỗ bao giờ, trừ ra một số trong bọn họ là Ký lục. Phải chăng Biệt phái đã sai môn đồ của những ký lục như thế. Điều đó rất có thể. Một Biệt phái đứng tuổi mà lại đi hỏi về vấn đề nộp thuế thì chắc chắn không phải là chuyện tự nhiên và có thể làm cho Chúa Giêsu nghi ngờ, vì lập trường của họ về vấn đề này đã quá rõ đối với dân chúng Palestine.
"Thầy": Trong Mt, các môn đồ chẳng bao giờ dùng tiếng Thầy khi nói với Chúa Giêsu, nhưng dùng danh xưng “Ngài" (Kyrie); chỉ có các Ký lục, Biệt phái, phe Saducêô (8, 19; 9, 11; 12, 38; 22, 16. 25. 36) cũng như những người thu thuế (17, 24) và chàng thanh niên giàu có (19, 16) sử dụng thôi. Giuđa, người duy nhất trong đám 12, hai lần dùng danh xưng, "Thầy" (26, 25.49), trong mà Chúa Giêsu yêu cầu tránh trong cộng đoạn huynh đệ (23, 7- 8).
“Chúng tôi biết...": Lời khen lớn nhất tặng cho một rabbi, nghĩa là một kẻ cắt nghĩa Lề luật cho đời sống hằng ngày, là khen họ trung thành với Lề luật (cách dịch của BJ và Nguyễn Thế Thuấn: "ngay thật” (franc) và “chân thành" (franchise) kể ra quá yếu, cách của Osty hay hơn: "Chúng tôi biết Thầy là người chân thật và Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa trong chân lý") và không thiên vị ai; các giáo sĩ đương thời hay nhắc đi nhắc lại hai yêu sách này. Sau Cựu ước, Tân ước thường tố cáo tội thiên tư, những thói trọng người theo địa vị và giai cấp xã hội (Cv 10, 34; Gc 2, 1.9; Rm 2,11; Ep 6. 9; Cl 3, 25...).
"Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?": Kiểu nói đặc thù này của Mt (12, 24. 10. 12; 14, 4; 19, 3; 20, 15; 27, 6) là câu hỏi mà người Do thái mộ đạo luôn luôn tự đặt cho mình và là câu mà các giáo sĩ có nhiệm vụ giải đáp trong cả ngàn nố lương tâm nêu lên cho cuộc sống thường nhật; nó có ý nghĩa quy thần: trước mắt Thiên Chúa, nghĩa là dưới ánh sáng của lề luật có được phép nộp thuế không? thành thử câu hỏi không được đặt ra trong phạm vi dân luật hay chính trị, vì trong trường hợp đó, nó sẽ được phát biểu: "Có được phép không nộp thuế chăng?"
"Đồ giả hình": Các người đối thoại với Chúa Giêsu giả hình trong hai chuyện. trước hết là họ làm bộ như rất quan tâm đến một vấn đề thời sự trong lúc chỉ cốt đặt nó ra để làm cho Chúa Giêsu lúng lúng. Thứ đến là khi sử dụng đồng quan ("đồng tiền của hoàng đế") trong các giao dịch thương mại của họ, họ đã mặc nhiên thừa nhận quyền bính của hoàng đế từ lâu rồi.
"Hãy trả cho hoàng đế": câu trả lời này chứa đựng một thẩm định tích cực và tổng quát về vai trò của Nhà nước trong đường hướng của một vài giáo thuyết Do thái đương thời cho rằng những người làm lớn nhận lãnh quyền bính từ nơi Thiên Chúa (Đn 2,21; 2,37-38; Cn 8, 15-16; Ga 19,11; Rm 13,1-7). Triều đại của Thiên Chúa đã được khai mào, tuy nhiên các triều đại của thế gian này vẫn còn hành xử quyền bính cách chính đáng luỵ chỉ tạrn thời. Đối với các quyền bính chính trị, thì Chúa Giêsu, trong toàn bộ Tin Mừng, đã tỏ ra một thái độ chung chung là hoàn toàn không lệ thuộc, nhưng cũng chẳng chống đối. Cách sống của Kitô hữu đầu tiên, như được mô tả trong Công vụ sứ đồ và các thánh thư, cũng nằm trong chiều hướng ấy.
KẾT LUẬN
Qua câu trả lời, Chúa Giêsu không phân định ranh giới giữa hai phạm vi hay hai lãnh vực trong đó Thiên Chúa và hoàng đế sẽ làm chúa tể trong những gì liên quan đến mình. Người chẳng có ý bảo rằng sự vâng phục nhà nước có thể được quan niệm một cách độc lập với sự vâng phục Thiên Chúa. Người không phủ nhận việc có thể xảy ra những tranh chấp giữa Thiên Chúa và hoàng đế và có nhiều trường hợp cần phải chọn lựa giữa việc vâng lời Thiên Chúa và vâng lời người ta (x Cv 4, 18-20). Người chỉ bảo sự xung đột này chẳng có ở nơi mà Biệt phái muốn thấy. Kẻ nào thực sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm mong đợi Nước Trời và sự công chính của nó, thì có thể thừa nhận tính cách chính đáng và đồng thời những giới hạn của quyền lợi hoàng đế. Sở dĩ Biệt phái đã đặt câu hỏi, là vì họ không lấy làm quan trọng sự hiện hữu của họ trong thế giới của hoàng đế cũng như sự hiện hữu của Thiên Chúa mà thế giới của hoàng đế cũng lệ thuộc vào. Chính vì Chúa Giêsu đích thực là vua các vua và Chúa các chúa (1Tm 6,15) mà mệnh lệnh của người: hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế..." làm cho việc tùng phục quyền bính thế gian này có một ý nghĩa, một nội.dung ki tô giáo: "Anh em hãy vì Chúa là tùng phục mọi thể chế trong nhân loại hãy hành động như tôi tớ của Thiên Chúa" (1 Pr 2, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta có thể lấy lại, nhưng phải gột rửa khỏi mọi ý hướng mỉa mai trong đó, lời Biệt phái khen ngợi Chúa Giêsu, một lời thật xứng hợp cho Người Chúa Giêsu là Đấng chân thật: Người không để cho những đòi hỏi của sự thật hay của luân lý tùy thuộc vào những toan lính "xu thời", chỉ cốt mưu sự thánh công; người nói thẳng thắn trước mặt địch thủ; câu trả lời của Người là có hoặc không (2Cr 1, 18-20), tùy như sự việc đúng hay sai, tốt hay xấu; Người tự xác định chính mình là Sự thật (Ga 14,6). Chúa Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa không phải luật Môisen (Ga 1,17) cũng chẳng phải sự khôn ngoan nhân trần (1Cr 2,1-16) của các triết gia hay nhà luân lý định hướng cuộc đời chúng ta nhưng là giáo huấn Chúa Giêsu; Người là ánh sáng mà chúng ta phải theo để khỏi lạc đường; Người cũng đã xác định mình là "ánh sáng thế gian" (Ga 8, 12) và quả quyết rằng "ai theo Ta, không phải bước đi trong tăm tối” Chúa Giêsu chẳng thiên vị ai: Người là Cứu Chúa của mọi người (x.1Tm 2, 3-6); đối với Người, những khác biệt về chủng tộc phái tính, gốc tích và địa vị xã hội không quan trọng (Gl 3, 28). Với Người, mỗi người là một cá vị độc đáo.
2. Mối bận tâm lớn của Chúa Giêsu, trong câu Người trả lời là biểu lộ tính cách siêu việt và tuyệt đối của những quyền lợi Thiên Chúa. Trước đòi hỏi nộp thuế, Người không chối từ, trái lại còn nhìn nhận việc ấy có tính cách chính đáng. Nhưng Người lại nêu lên một đòi hỏi còn sâu xa hơn, triệt để hơn, của một trật tự hoàn toàn khác hẳn: người ta phải trả cho Chúa không phải một vật nào đó, nhưng là chính bản thân của mình.
3. Thành thử quyền bính dân sự chỉ chuyên trách trong trật tự trần thế là trật tự lệ thuộc vào những thực tại của trật tự tôn giáo. Trong phạm vi này, mà Chúa Giêsu không muốn xác định rõ hơn, Người đã nhìn nhận rằng việc người Do thái nộp thuế cho chính quyền rôm đương thời không có gì là vô luân và phạm thánh cả. Dù chẳng xác quyết bổn phận nộp thuế xem ra Người vẫn giả thiết nó như một hậu quả của tính cách chính đáng của thuế má; nhưng Người không, đi sâu vào trong các quan điểm này, những quan điểm mà thánh Phaolô sẽ minh giải về sau: "Nợ gì với ai hãy trả cho người ấy: sưu cho kẻ đòi sưu, thuế cho kẻ đòi thuế" (Rm 13, 6-7).
4. Kiểu nói: “Hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế" muốn diễn lả những đòi buộc của đời sống cộng đồng trong số những đòi buộc của đời sống luân lý. người Ki-tô hữu không thể nào tự miễn cho mình những bổn phận đối với quốc gia và trong quốc gia, lấy cớ là chỉ thực hiện những bổn phận thuần túy tôn giáo. Việc vấn tâm của chúng ta do đó phải xét đến các bổn phận của người công dân. Vì dù là công dân của Nước Trời (Pl 3, 19-20), chúng ta cũng là công dân của một quê hương trần thế mà chúng ta mang trách nhiệm về trong mức độ quê hương ấy đòi chúng ta phải dấn thân phục vụ (Cv 21,39: Phaolô, công dân thành Tarsê; Cv 16, 37-39 và 22, 25-29; Phaolô, công dân Rôma).
5. Thánh Phaolô nói rõ mọi quyền bính đều từ Thiên Chúa mà ra, và ta phải tùng phục chính quyền trong những gì thuộc địa hạt của nó, không những vì sợ hãi và vì lợi ích, nhưng còn vì bổn phận lương tâm (Rm 13,1-7; Tt 3, 1). Ngài cũng khuyên nhủ cầu nguyện cho các nhà đương quyền, để hòa bình được ngự trị trong thế gian (1Tm 2, 1-4).
--------------------------------
Suốt ba năm Loan Báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã giảng dạy, chia sẻ rất nhiều nhưng đặc biệt: TN 29-A82
Suốt ba năm Loan Báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã giảng dạy, chia sẻ rất nhiều nhưng đặc biệt là những câu trả lời tuyệt vời Lái Sang Tâm Linh rất tài tình, nhẹ nhàng và tự nhiên – luôn luôn khiến người nghe phải sửng sốt và có một số người giật mình đặt lại vấn đề nơi chính lòng mình.
Câu chuyện thứ nhất
Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người:
"Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! "
Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? " (Lc 2:46-49)
Chúng ta thấy đó, Đức Maria đang than thở pha lẫn một chút trách móc về nỗi khổ của “cha con và mẹ đây ” ở trần gian, cậu bé Giêsu đã lập tức Lái Sang Tâm Linh khi nói về “Cha con ở trên trời ” một cách ngon lành… đến nỗi ngay cả Thánh Giuse và Đức Maria cũng không hiểu nổi.
Câu chuyện thứ hai
"Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư?
Đức Giêsu thừa biết họ nghĩ rằng: Ngài là con ông thợ mộc nhà quê Giuse và bà Maria đơn sơ mộc mạc, quê ỏ Nazaret. Nhưng Ngài liền Lái Sang Tâm Linh qua việc xác quyết rằng:
Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi."
Từ quan niệm con người nhân loại, Ngài đột ngột Lái Sang Tâm Linh khi xác tín Ngài từ Chúa Cha mà đến và chính Chúa Cha đã sai Ngài đến.
Câu chuyện thứ ba
Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy! "
Nhưng Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? "
Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi."
Lại một cách Lái Sang Tâm Linh tài tình. Đang nói chuyện về người mẹ trần gian, Đức Giêsu lập tức LÁI SANG tình trạng anh chị em, mẹ trong lãnh vực Tâm Linh..
Và đây cũng chính là điều rất tuyệt vời để mỗi người chúng ta đặt lại vấn đề cho chinh tâm hồn mình: Hiện nay tôi đã là anh chị em của Đức Giêsu, là mẹ của Đức Giêsu chưa??
Nếu chưa, rõ ràng là tôi chưa đọc và sống Lời Chúa.. chưa nhận ra sự hiện diện sống động của Đức Giêsu trong lòng… Tôi không thể sinh Đức Giêsu trong lòng người khác nếu trong lòng tôi chưa nhận ra Đức Giêsu ngay trong tâm mình!!! Tất nhiên sinh ở đây không có nghĩa là trước kia họ không có Đức Giêsu trong lòng.. Ngài vẫn hiện diện. Tiếc một điều là người ta không nhận ra Ngài. Nhưng nhờ việc chúng ta chia sẻ cảm nghiệm của mình mà người ta nhận ra Đức Giêsu hiện diện trong họ. – Nói theo kiểu Phaolô: Chúng ta đã sinh Đức Giêsu nơi người khác…và chính lúc đó chúng là cũng là mẹ Tâm-Linh-Đích-Thực của Đức Giêsu.
Câu chuyện thứ tư
Si-môn thưa rằng: Thưa thầy, chúng tôi đã làm suốt đêm không bắt được chi hết; dầu vậy, tôi cũng theo lời thầy mà thả lưới. Họ thả lưới xuống, được nhiều cá lắm, đến nỗi lưới phải đứt ra…..
Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng Si-môn rằng: Đừng sợ chi, từ nay trở đi, ngươi sẽ nên tay đánh lưới người.
Đoạn, họ đem thuyền vào bờ, bỏ hết thảy mà theo Ngài.
Cũng vậy, từ chuyện làm ăn kiếm sống bằng nghề lưới cá..nghe có vẻ nặng mùi trần gian với cơm áo gạo tiền… Đức Giêsu đã lập tức Lái Sang Tâm Linh qua việc mời gọi các ông tham gia vào việc việc đánh lưới người – đó chính là Loan Báo tin Mừng cho muôn dân.
Câu chuyện thứ năm
Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? "
Nhưng Đức Giê-su thấu suốt lòng xảo trá của họ, nên Người nói: "Cho tôi coi một quan tiền! Quan tiền này mang hình và danh hiệu của ai đây? "
Họ đáp: "Của Xê-da."
Người bảo họ: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."
Theo tôi, đây là một cách Lái Sang Tâm Linh rất tuyệt vời. Đang nói chuyện có vẻ rất xa vời: Đóng thuế, liên quan tới luật pháp và liên quan tới chính trị nữa.
Nếu Đức Giêsu nói phải đóng thuế, ngài sẽ bị khép tội “Do Thái gian” – vì chịu chấp nhận làm tay sai cho quân xâm lược Roma.
Nếu Đức Giêsu nói không đóng thuế thì sẽ bị bọn Do Thái ton hót với Philatô ghép vào tội Phản động, chống lại chính quyền Roma lúc bấy giờ.
Thế mà chỉ cần một câu trả lời đơn giản, câu chuyện lập tức được LÁI SANG TÂM LINH, vừa thóat khỏi cái bẫy nguy hiểm mà quan trọng hơn: vừa khiến cho người nghe phải suy tư đặt lại vấn đề Tâm Linh của mình.
Tôi thuộc về Xê-da – tức là thuộc về thế gian hay tôi thuộc về Thiên chúa???
Nếu tôi thuộc về Thiên chúa tại sao tôi suốt ngày cứ chạy theo chuyện thế gian, suy nghĩ, nói năng, hành động, phản ứng… rập khuôn theo kiểu thế gian???
Nếu tôi thuộc về Thiên Chúa sao tôi không cảm nhận tôi là con yêu dấu của Ngài??
Sao tôi không thấy mình đồng hình đồng dạng với Ngài??
Sao tôi không sống kết hiệp với Ngài nhiều phút giây hàng ngày trong tình trạng thức tỉnh sáng suốt của thần Khí Thiên Chúa ngay trong tâm mình?
Câu chuyện thứ sáu
Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy."
Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
Người phụ nữ ra vẻ thách thức Đức Giêsu làm sao Ngài có nước giếng Giacóp để uống cho đỡ khát…
Đức giêsu lập tức Lái Sang Tâm Linh bằng cách giới thiệu một thứ nước mới: Nước hằng sống. Đây cũng là dịp chúng ta đặt lại vấn đề: Tôi đã rước Chúa – ăn Mình Máu Thánh Chúa cả ngàn lần rồi…nhưng tôi đã cảm nhận Chúa là nguồn sống đời đời ở trong tôi chưa??? Tôi đã thực hiện và cảm nghiệm được Lời chúa nhắn nhủ trong tin Mừng Gioan chưa?
"Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống." Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận.”
Nhờ đón nhận Ngài vào lòng qua bí tích Thánh Thể, tôi có thể cảm nhận dòng nước hằng sống – dòng nước Thần Khí đang tuôn chảy trong tôi…và tôi sống nhờ chính nguồn sống Thần Khí Thiên Chúa trong tôi – tôi đã lột xác con người cũ để từ nay sống một cuộc sống dồi dào của con người mới - con người mang sức sống Thần Khí trong tâm mình.
Câu chuyện thứ bảy
Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? " Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."
Đám đông đang láo nháo và hối thúc Đức Giêsu đồng ý hay phản đối đề nghị của họ, nhưng Đức Giêsu lập tức Lái Sang Tâm Linh bằng cách xoáy ngay vào tâm hồn họ, bắt họ phải xét lại chính tâm hồn mình xem họ trong sạch tinh tuyền hay cũng đầy tì ố, tội lỗi..Cuối cùng, kẻ trước người sau, từ già tới trẻ đi sạch, không còn một mống…Vì ai cũng thấy mình đáng bị ném đá y như người phụ nữ ngoại tình…
Hiện nay, Mỗi lần chúng ta muốn ném đá kẻ khác bằng đủ mọi cách: nói xấu, nói hành, hạ nhục, làm mất danh dự..người ta..là mỗi lần Lời Chúa lại âm thầm nhắc nhở ta: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."
Xin lưu ý nho nhỏ:
Xin cần phân biết nói xấu để hạ nhục với ý đồ gian ác…
Khác với tố giác để tìm sự công bằng cho người bị hại và thức tỉnh người lỗi phạm. Khi làm việc này người tố giác không bị tức giận, ghen ghét xen vào. Họ như người ngoài cuộc phân tích vấn đề với những bằng chứng xác thực. Vì thế, họ không rơi vào trường hợp cố tình ném đá người khác.
Câu chuyện thứ tám
Ông Phi-la-tô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao? "
Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."
Ông Phi-la-tô nói với Người: "Sự thật là gì? "
Đối với Philatô, vua tượng trưng cho uy quyền tối thượng trên trần gian này. Chính vì thế Philatô hỏi với giọng khinh miệt: Ông là vua sao?
Đức Giêsu liền Lái Sang Tâm Linh qua việc xác quyết Ngài là vua nhưng không phải là vua xưng hùng xưng bá một phương. Trái lại, Ngài làm vua với một sứ mệnh rõ ràng: làm chứng cho SỰ THẬT – CHÂN LÝ. Ai muốn khám phá ra chân lý, hãy nghe lời Ngài trong Kinh Thánh và sống kết hiệp nên một với Ngài.
Tóm lại, qua những lời giảng dạy, chia sẻ và Lái Sang Tâm Linh, chúng ta có thể đặt lại vấn đề cho chính lòng mình để khám phá ra những ánh sáng giúp mình sống đạo ngày càng dồi dào, bình an và hạnh
--------------------------------
(Mátthêu 22,15-21 – CN XXIX TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Tiếp sau phân đoạn 21,23–22,14 về các dụ ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức: TN 29-A83
Tiếp sau phân đoạn 21,23–22,14 về các dụ ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức Giêsu đánh bại các đối thù trong các cuộc tranh luận tại Đền Thờ. Có thể gọi đây là các “truyện về tranh luận”. Nét tiêu biểu của các truyện này là người tường thuật không quan tâm đến lập trường của các đối thủ của Đức Giêsu. Ông thường cho thấy: hoặc các đối thủ giăng một cái bẫy bằng câu hỏi hiểm độc (cc. 15-22), hoặc câu hỏi của họ tạo ra cơ hội cho một câu trả lời (cc. 34-40). Nếu có nói đến lập trường của họ, thì chỉ nói rất ngắn gọn (cc. 23.42), vì cần phải nói ra cho cuộc tranh luận. Các đối thủ của Đức Giêsu được mô tả giống như các diễn viên ranh ma nhưng thừa thãi.
Hình thái của bốn truyện cũng có đặc tính của cuộc tranh luận tại lớp học, trong đó các học trò đặt câu hỏi cho thầy (22,16.24.36). Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do Thái, các tranh luận nhà trường được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và được đặt tên như sau:
1- [K]hokmâh (“sự khôn ngoan”): đây là một tranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những bản văn pháp luật;
2- Haggadâh (“truyện ký”): đây là một lối giải thích các băn văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn với nhau;
3- Bôrut (“sự tầm thường”): đây là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành một trò hề;
4- Derek ‘erets (“đường đất”): đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của đời sống luân lý.
Chúng ta có thể cho rằng tác giả Mt đã trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo lược đồ này, nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào cuối cuộc đối chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu (x. c. 42):
1- [K]hokmâh:22,15-22,
2- Bôrut: 22,23-33;
3- Derek ’erets: 22,34-40,
4- Haggadâh: 22,41-46.
Ba tranh luận đầu được gợi lên bởi ba nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần Đức Giêsu lại đưa họ đến một câu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ động đặt rõ ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ trong Đền thờ, và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (22,15);
2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (22,16-17);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,18-21):
a) lật mặt nạ bằng nhận định mở đầu (c. 18),
b) lật mặt nạ bằng cách dùng đồng tiền nộp thuế (cc. 19-21a),
c) giáo huấn quan trọng nhất của Đức Kitô: tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).
Bài đọc phụng vụ bỏ câu kết của cuộc tranh luận (c. 22).
3.- Vài điểm chú giải
- người Pharisêu … người thuộc phe Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan nhượng về tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước chính quyền Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc nâng đỡ các tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.
- người chân thật … chẳng vị nể ai (16): Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng: trung thành với Lề Luật và không cả nể, thiên vị.
- được phép … hay không (17): “Được phép” (exestin) [và “không được phép”] là công thức tiêu biểu của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi “được phép không?” thường được người tín hữu Do Thái đặt ra cho mình và cho các kinh sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa, tức dưới ánh sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi không được đặt ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.
- nộp thuế (17): Ngoài nhiều khoản thu được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường, thuế quan…), các tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để bày tỏ sự thuần phục. Người Do Thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá Khích thì buộc phải coi việc từ chối nộp như một bổn phận tôn giáo.
- đồng tiền nộp thuế (19): Người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan (dênarion). Chẳng hạn, đồng quan của hoàng đế Tibêriô có một bên là hình cái đầu hoàng đế, bên kia là hình bà Livia, mẹ của hoàng đế, được coi như nữ thần hòa bình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (15)
Câu 15 mở đầu cho toàn phân đoạn (cc. 15-46). Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền Thờ, các thượng tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục trong dân (21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến lượt những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này những người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để chống một kẻ thù “chung”.
Hôm nay nhóm Pharisêu nhắm rút được một tuyên bố (logos) của Đức Giêsu, để lời ấy trở thành một cái bẫy hại Người.
* Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (16-17)
Ở đây những người Pharisêu sai các môn đệ của họ (thật ra người Pharisêu không có môn đệ, mà là các kinh sư) cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê mà gài bẫy Đức Giêsu. Ở Mc 12,14-15, câu hỏi của họ vừa có tính lý thuyết (“có được phép nộp thuế?”) vừa thực tiễn (“chúng tôi có phải nộp thuế?”); ngược lại trong Mt, câu hỏi chỉ có tính lý thuyết (như ở Lc 20,20-26). Thật ra câu hỏi của họ hết sức nham hiểm. Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi ngờ, là một lời khen hết sức giả hình (c. 16: captatio benevolentiae): họ chào Người là “Thầy” (Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí công vô tư của Người. Thật ra, Đức Giêsu đúng là như thế, nhưng nơi môi miệng của những sứ giả do người Pharisêu thù nghịch gửi đi, các lời của họ rỗng tuếch và không lương thiện. Từ đó, họ xin Người ban giáo huấn về một vấn đề phức tạp; họ “nhả chất độc ra” (c. 17): một câu hỏi dứt khoát và đột ngột: “có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Nếu trả lời “có”, Đức Giêsu sẽ khiến dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế quốc; và người Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người trước mặt dân chúng. Còn nếu trả lời “không”, Người sẽ bị coi là chống chính quyền Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo Người là người muốn phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học, bởi vì các nhóm Do Thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như một kiểu thờ ngẫu tượng, mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh hoàng đế hoặc các biểu hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền Thờ để khỏi làm giảm thiểu vương quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn Philatô) đã tìm cách làm như thế để hạ nhục người Do Thái, các vị này đã gặp phải phản ứng chống đối gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt Thành) dứt khoát không nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không đặt vấn đề về lý thuyết hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái độ trung dung; họ đã chấp nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu rất nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: “có được nộp thuế hay không?”. Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (18-21)
Trước tiên, Đức Giêsu lật mặt nạ của họ bằng nhận định mở đầu: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ đạo đức giả” (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù khờ. Họ đã mở đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết tìm kiếm chân lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan, để hại Người. Họ đáng bị gọi là “những kẻ đạo đức giả” theo hai nghĩa: trước tiên, bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến một vấn đề thời sự; kế đó, bởi vì khi sử dụng đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận quyền của Hoàng đế từ lâu rồi.
Kế đó, dù câu hỏi được đặt ở bình diện lý thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời (“Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”, c. 19). Nếu họ cũng như mọi người Do Thái có trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất kính, ngẫu tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có một giải pháp cho vấn đề. Tại sao khi dùng đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy náy bao nhiêu, mà bây giờ “trả về Xêda” (nộp thuế) thì họ lại áy náy đến thế? Nếu có vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp thuế. Trong lãnh vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.
Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá câu hỏi được đặt ra: chỉ có một điều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể làm ngay khi phải sống dưới ách đô hộ, đó là “trả về Thiên Chúa”, điều thuộc về Người (c. 21b). Đây là điều Đức Giêsu đã không ngừng nói đến kể từ khi ra đi hoạt động: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33. Xem Bài giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai trật tự khác nhau là Quốc gia và Hội Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau, cũng không biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so với các vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế, chứ không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh né, vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào đúng chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa. Các quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa thì đã được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi của Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.
+ Kết luận
Thật ra, Đức Giêsu không muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể có những xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn nói rằng xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người nào thật sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những giới hạn của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại lời người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan tính giả hình, để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người không uốn cong các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về thời cơ hoặc nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga 14,6). Đức Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay sự khôn ngoan loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là “ánh sáng cho thế gian” dẫn đưa chúng ta (Ga 8,12), để chúng ta khỏi đi trong bóng tối. Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1 Tm 2,3-6), nên không bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh xã hội của con người (x. Ga 3,28).
2. Thiên Chúa vẫn dành chỗ cho Hoàng đế. Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn các quy định của Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản thân thì thuộc về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của mình. Thiên Chúa đòi hỏi một điều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho Xêda, Người đòi hỏi một điều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân con người, cách tuyệt đối và trọn vẹn (“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng…”).
3. Quyền dân sự nằm trong bình diện trần thế, là bình diện phải lê thuộc các thực tại của bình diện tôn giáo. Ở trong bình diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho chính quyền Rôma chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7). Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn các bổn phận tôn giáo để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong quốc gia. Chúng ta là công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy tại một quê hương trần thế.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 22:15-21)
Nếu chúng ta coi câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay như một cuộc chiến giữa nhóm Pha-ri-sêu: TN 29-A84
Nếu chúng ta coi câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay như một cuộc chiến giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giê-su thì không phải là quá lời! Đúng vậy, trước hết chúng ta hãy xem nhóm Pha-ri-sêu bày binh bố trận ra sao. “Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê”. Pha-ri-sêu muốn thêm quân viện trợ, liên minh với những người phe Hê-rô-đê là những người phò chính quyền Rô-ma. Thật là điều mỉa mai, vì để chống lại Chúa Giê-su, họ đã liên kết với cả kẻ thù của họ. Mục đích chuyến đi này của họ là “tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy”.
Họ đến gặp Chúa Giê-su, vờ vĩnh nịnh bợ tôn vinh Người là bậc Thầy và là người chân thật. Rồi họ giương bẫy bằng một câu hỏi không đàng nào trả lời: Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Quả thực là một câu hỏi thâm độc, vì nếu trả lời có thì Chúa Giê-su sẽ bị nhóm Pha-ri-sêu lên án là ủng hộ chính phủ ngoại bang Rô-ma; còn nếu trả lời không thì phe Hê-rô-đê sẽ tố cáo Người chống chính quyền Rô-ma và Người sẽ gặp rắc rối! Phen này họ cầm chắc cái thắng trăm phần trăm.
Nhưng sự khôn ngoan loài người làm sao dám đọ với đức khôn ngoan của Thiên Chúa. Trước hết Chúa Giê-su vạch mặt tà ý của họ. Người không ngại nói thẳng cho họ biết họ là “những kẻ đạo đức giả”. Rồi Chúa bảo họ đưa cho Người xem đồng tiền, hỏi họ hình và danh hiệu trên đồng tiền là của ai. Ngay sau khi họ trả lời là của Xê-da, Chúa lập tức đưa ra một nguyên tắc luân lý rõ ràng: “Thế thì của Xê-da, trả về cho Xê-da; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa”. Chúa Giê-su đã phân biệt hai bổn phận rõ ràng, bổn phận đối với chính quyền và bổn phận đối với Chúa. Vì người ta có cả hai bổn phận ấy, nên phải chu toàn cả hai bổn phận.
Bổn phận công dân của chúng ta đã do pháp luật quy định rõ ràng và nếu chúng ta lỗi phạm thì sẽ bị trừng phạt. Còn bổn phận đối với Chúa là tùy theo lương tâm và phải được chu toàn do lòng yêu mến Chúa. Chúng ta là những người mắc nợ Chúa thật nhiều. Nợ vì Chúa đã dựng nên chúng ta. Tất cả những gì chúng ta là và chúng ta có đều là do Chúa ban cho. Chúa đã ban cho chúng ta tất cả, chỉ để đổi lấy tình yêu của chúng ta, tình yêu mến Chúa và tình yêu thương anh chị em. Vì thế Chúa dạy chúng ta: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mát-thêu 22:37,39). Nói khác đi, tình yêu là của Thiên Chúa và còn là chính Thiên Chúa, cho nên chúng ta nợ tình yêu thì cũng phải trả về Tình Yêu.
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” là chân lý nhắc nhở chúng ta thật nhiều điều. Giống như những người đầy tớ được ông chủ trao cho một số nén bạc để sinh lợi, hoặc như những người tá điền canh tác vườn nho để đem lại hoa lợi cho chủ, chúng ta cũng được Chúa ban cho những tài năng để làm lợi ích cho bản thân, gia đình, cộng đồng và Giáo Hội. Chúa muốn thu hoa lợi, tức là những gì thuộc về Người. Nhưng liệu chúng ta có làm sinh lợi để trả về cho Chúa không? Đó chính là câu hỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Chúng ta là “của Thiên Chúa”, thuộc về Thiên Chúa, cho nên chúng ta phải được “trả về cho Thiên Chúa”. Người đã lấy Máu Chúa Ki-tô đổ ra trên thập giá để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cho chúng ta được làm con cái Người. Vậy thì không có lý gì chúng ta để cho tội lỗi trả chúng ta về cho ma quỷ được!
“Trả về Thiên Chúa” là việc diễn ra suốt cuộc đời chúng ta. Càng trở nên giống Chúa Ki-tô, chúng ta càng trở thành của Thiên Chúa nhiều hơn. Đáp lời kêu gọi “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”, chúng ta sống lý tưởng nên thánh, đó là chúng ta đang để cho mình thuộc về Thiên Chúa. Mức cuối cùng của tiến trình “trả về Thiên Chúa” chính là khi chúng ta được hoàn toàn kết hiệp với Chúa trên thiên đàng vậy.
Lm. Đaminh Trần đình Nhi
----------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 22,15-21
Trong cuộc sống rao giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu thường không trả lời trực: TN 29-A85
Trong cuộc sống rao giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu thường không trả lời trực tiếp các vấn nạn của những người đương thời đặt hỏi Ngài. Chúa luôn dùng dụ ngôn để trả lời gián tiếp các câu hỏi mà các đối thủ hỏi Ngài. Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã không những thoát khỏi bẫy của những người Pharisêu: “ Có được phép nộp thuế cho César hay không ? “ ( Mt 22,17 ). Ngài bất ngờ cho họ thấy:” Của César, trả cho César. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa “ ( Mt 22,21 ).
Đồng bạc mà Chúa Giêsu cầm trên tay. Bắt buộc họ phải trả lời hình ở đồng bạc là hình César. Trực tiếp, họ phải hiểu việc của họ. Họ hỏi Chúa Giêsu là để giăng bẫy cố ý làm cho Ngài bị sụp. Nếu Chúa trả lời phải nộp thuế theo lề luật, những người pharisêu sẽ tố Ngài là phản bội những người đồng hương Do Thái, nhưng nếu nói không được nộp thuế, Chúa Giêsu lại rơi vào bẫy là phản lại Đế Quốc Roma. Từ bài học đồng bạc, Chúa Giêsu đã thẳng thắn nói với những người Pharisêu rằng của César, trả lại cho César. Và Ngài cũng dứt khoát cho họ hay cái gì thuộc về Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa bởi vì quyền hành mà con người có được, quyền César có không phải tự ông mà có, nhưng Chúa đã thẳng thắn cho Philatô hay:” Ngài chẳng có quyền gì trên tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài “ ( Ga 19, 11 ).
Chúa Giêsu khi nói điều đó, Ngài không có ý nhục mạ họ, coi thường họ, nhưng là thách đố họ. Hình và nhãn hiệu trên đồng bạc là của César, do đó, đóng thuế cho César là điều phải lẽ. Nếu không họ sẽ ghép tội, sẽ cưỡng bách bằng bạo lực, bằng pháp luật nếu cần thiết. Chúa Giêsu không áp lực, không cưỡng bách con người, Ngài luôn yêu thương con người và Ngài luôn muốn cứu vớt con người. Chúa đến để kiện toàn lề luật, chứ không phải để phá hư lề luật. Chúa đến ban bình an, chứ không phải đem lại sự bất ổn, sự tranh chấp vv…Chúa yêu thương và quy tụ mọi người. Chúa là tình yêu. Nên, chính cái chết trên thập giá đã kéo, đã quy tụ mọi người lại với Ngài. Thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Thessalonica rằng:” Chúng tôi đã kiên tâm, bền chí…Còn anh em có chứng minh đức tin của anh em, khổ nhọc trong tình yêu, và trình bày cách kiên vững niềm cậy trông vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta không?”
Con người chúng ta một cách nào đó đã quên hình ảnh Thiên Chúa tạo dựng nên mình. Trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa là điều chính đáng bởi vì Ngài đòi chúng ta trả lại cho Ngài sự trong trắng vẹn tuyền khi Ngài tạo dựng con người. Tội lỗi đã làm con người đánh mất sự vẹn tuyền trắng trong ấy. Con người đã phá vỡ cảnh hùng vĩ của vũ trụ, của bầu trời khi phá rừng, phá núi, khi làm cho môi trường đầy ô nhiễm vv…Con người phá vỡ sự xinh đẹp của Thiên Chúa khi sống tội lỗi, ly dị, phá sự sống, sinh hoạt đồng tínhluyến ái, phá vỡ cảnh đầm ấm của gia đình.
Thiên Chúa đã ban cho con người tài nguyên thiên nhiên, cảnh đẹp tuyệt vời…Con người được Thiên Chúa trao phó việc trông coi vũ trụ, làm giầu tài nguyện. Nếu con người không giữ được vẻ trinh nguyên của thế giới, của vũ trụ, của bầu trời, thì một cách nào đó, con người đã phản bội và không làm tốt hình ảnh của mình và vũ trụ, thế giới mà Chúa đã tạo dựng, và trao phó.
Thiên Chúa luôn luôn chăm sóc con người bằng một tình yêu vô vị lợi, tình yêu mà Ngài đã thể hiện qua cái chết trên thập giá:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa,
Vì Ngài đáp lời con,
Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.
Xin gìn giữ con như thể con ngươi,
Dưới bóng Ngài, xin thương che chở ( Tv 16, 6-8 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tạo cho chúng con một tấm lòng trung tin và quảng đại để chúng con nhiệt thành phụng sự Chúa
( Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật XXIX thường niên, năm A ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Câu hỏi của nhóm Pharisêu với Chúa Giêsu về việc đóng thuế, có thật không ?
2.Tại sao Chúa không trả lời trực tiếp câu hỏi của nhóm Pharisêu ?
3.Người Pharisêu có chân thành với Chúa Giêsu không ?
4.Tại sao Chúa lại nói: “ Của César trả cho César và của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa ? “.
5.Ông bà nghĩ sao về câu nói của Chúa Giêsu ?
------------------------------
Cho tới nay, thế giới vẫn chưa phân thành những ranh giới rõ rệt. Các thế lực còn tranh chấp: TN 29-A86
Cho tới nay, thế giới vẫn chưa phân thành những ranh giới rõ rệt. Các thế lực còn tranh chấp để giành dân lấn đất. Phải chăng Thiên Chúa cũng đang tranh giành ảnh hưởng trên phần đất nhân loại ?
AI BẪY AI ?
Dưới cái nhìn của những người Pharisêu, Đức Giêsu xuất hiện như một đối thủ lợi hại. Chính vì thế, họ không ngớt “tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy.” (Mt 22:15) Họ khéo léo che phủ cái bẫy bằng miếng mồi hấp dẫn. Trước hết, họ toa rập với phe Hêrôđê mở miệng ca bài “con cá” (xc. Mt 22:16) với Chúa. Tài đóng kịch thật tuyệt vời khi họ cố mang dáng vẻ những người tầm sư học đạo (xc. Mt 22:17).
Trả lời kiểu nào cũng chết. Có hay không cũng đều mắc mưu nhóm Pharisêu hay Hêrôđê, đại diện cho dân tộc và đế quốc. Kết quả có thể mắc tội phản quốc hay phản loạn. Đức Giêsu đã thấy rõ tất cả đường đi nước bước của những mưu mô quỷ quyệt đó. Trò chơi đó không qua mắt Người dễ dàng như bọn Biệt Phái và Hêrôđê mơ tưởng. Đức Giêsu đã thoát hiểm trong gang tấc. Người chứng minh cho họ thấy tất cả cá tính siêu việt khi nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hởi những kẻ đạo đức giả !” (Mt 22:18) Bị đánh trúng tim đen, họ ngoan ngoãn chui vào bẫy chính mình đã trương lên. Lần lượt họ đã đưa quan tiền và trả lời những câu hỏi liên qua tới việc nộp thuế. Còn chính câu trả lời của Chúa lại chẳng đáp ứng chút nào tới nỗi bận tâm của họ. Họ đành câm họng, không dám đặt vấn đề thêm nữa.
Còn dám nói gì nữa khi nghe Đức Giêsu dõng dạc trả lời: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mt 22:21) Hai lãnh vực phân biệt, nhưng không tách biệt. Cần có những phân biệt cần thiết cho sinh hoạt xã hội. Những vi phạm và lạm dụng đã sinh ra bao tai hoạ cho nhân loại.
Làm sao phân biệt “của Xêda” và “của Thiên Chúa” ? Lịch sử chỉ là cuộc tranh đấu để phân biệt hai lãnh vực đạo đời đó. nhiều người đã hoa mắt trước châm ngôn “tốt đời đẹp đạo”. Thực tế đó chỉ là cái bẫy ! Nhiều người đã mắc bẫy quá ư dễ dàng. Chỉ vì quyền lợi riêng, họ đã dễ dàng thoả hiệp với đời. Chính Chúa khẳng quyết: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được.” (Lc 16:13; Mt 6:24) “Tiền của” là một thứ tà thần thống trị mọi lãnh vực “đời”, trong đó có thế quyền. Thoả hiệp chỉ là một hành động hèn nhát !
Làm sao có thể tránh được hành động hèn nhát đó ? Chính “Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu cám dỗ.” (Mt 4:1; Mc 1:12-13; Lc 4:1-13) Cuộc chiến thắng dựa trên sức mạnh Lời Chúa, “là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Chính thánh Phaolô đã xác quyết về sức mạnh đó: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần và một niềm xác tin sâu xa.” (1 Tx 1:5b) Nhờ Thần Khí, thánh nhân đưa một lời khuyên chí lý: “Anh em đừng mang chung một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công chính lại liên kết được với sự bất chính ? Làm sao ánh sáng lại dung hoà được với bóng tối ? Làm sao Đức Kitô lại hoà hợp được với Xatan ? Làm sao Đền Thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được ? Vì chính chúng ta là Đền Thờ của Thiên Chúa hằng sống.” (2 Cr 6:14-16)
THỰC TẾ
Rõ ràng không thể thoả hiệp. Cũng không thể san bằng Thiên Chúa với bất cứ thế lực nào. Người ta cứ tưởng Giáo hội là một thế lực chính trị, đang tranh giành ảnh hưởng quần chúng. Bởi đó, mới đây sau khi thống kê dân số Việt Nam vượt trên 80 triệu, nhà nước Việt Nam cho biết trong số đó có 60 triệu người vô thần. Còn lại 20 triệu chia cho 5 tôn giáo khác. Đúng là phản ánh não trạng đấu tranh giai cấp và dành giựt quyền lợi. Giữa một xã hội với những não trạng như thế, người Kitô hữu phải có cái nhìn và lựa chọn như thế nào ?
Con người luôn ở trong thế lựa chọn. Nhiều khi rất quyết liệt và khó khăn kinh khủng. Mỗi lựa chọn đều ảnh hưởng tới cuộc sống. Nhất là giữa đức tin và những đòi hỏi thực tế. Chẳng hạn trước những phong trào trần tục hoá hôm nay, làm sao gia đình có thể giữ vững những giá trị Kitô giáo ? Nhìn về Giáo hội Chilê, ĐGH lên tiếng báo động hiện đang có những nỗ lực hợp pháp hoá việc phá thai và ly dị tại quốc gia Châu Mỹ La Tinh này. Đời sống gia đình “ngày nay đang đối đầu với nhiều khó khăn tại Chilê.” (ĐGH Gioan Phaolô II: CWNews 15.10.2002) Giữa những khó khăn đó, chắc chắn các gia đình đang phải lựa chọn giữa lương tâm và quyền lợi trước mắt. Trước những trào lưu “khoái lạc chủ nghĩa và những tầm thường của cuộc sống” làm thế nào các bạn trẻ có thể có những lựa chọn sáng suốt và can đảm, nếu đời sống thiêng liêng không được chăm sóc đặc biệt nhờ các bí tích ? (ĐGH Gioan Phaolô II: CWNews 15.10.2002)
Không phải chỉ có Giáo hội tại Châu Mỹ La Tinh. Khắp nơi các Kitô hữu luôn phải đối đầu với những vấn đề và những lựa chọn, có khi ngay trong cơ cấu nội bộ. Chẳng hạn, Giáo Hội Đức đang gặp thử thách ngay trong thói quan liêu của Giáo hội. ĐHY Joachim Meisner, tổng giám mục giáo phận Cologne bên Đức, thúc đẩy các nhân viên trong cơ chế Giáo Hội Công Giáo hãy quay về “gặp gỡ đích thân Đức Kitô” và cảnh cáo rằng thói quan liêu của Giáo hội đang có nguy cơ làm lu mờ đức tin. (Zenit 10.10.2002) Như vậy, chính khi làm việc phục vụ Giáo hội, các tín hữu cũng phải lựa chọn giữa thói quan liêu cơ chế hay con người như một giá trị Tin Mừng. Thực tế có nhiều người sẵn sàng hi sinh giá trị Tin Mừng để bảo vệ cơ chế Giáo hội. Đó là một cám dỗ lớn lao. Bởi đó, theo ĐHY Meisner, “các cấu trúc, mệnh lệnh, qui chế và các nhân viên” trong Giáo hội đang có nguy cơ “làm hoang mang đức tin.” (Zenit 10.10.2002) ĐHY tỏ ra quan ngại về đức tin yếu kém của các cộng sự viên giáo dân trong Giáo hội. Thực tế đó không chỉ tìm thấy nơi Giáo hội Đức. Nhiều Giáo hội non trẻ cũng đang sa lầy. Đức tin yếu kém không thể hướng dẫn các nhân viên có những lựa chọn sáng suốt.
Trái lại, nếu có một đức tin sâu xa và vững chắc, các nhân viên, nhất là các vị lãnh đạo Giáo hội có thể tìm được nhiều cơ hội làm chứng cho Đức Kitô. Chẳng hạn, mới đây, ĐGH Gioan Phaolô II và Thượng Phụ Teoctist, Giáo Chủ Romania, đã ký một Tuyên Cáo Chung cam kết tìm kiếm sự hiệp nhất Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo. Bản Tuyên Cáo nhấn mạnh: “Phúc âm hoá không thể dựa trên tinh thần cạnh tranh, nhưng trên sự tương kính và cộng tác, biết nhìn nhận tự do của mỗi người có quyền sống theo xác tín riêng, tôn trọng việc họ theo đạo riêng#.” (Zenit 13.10.2002) ĐGH nhìn nhận các Giáo Hội Chính thống “được kêu gọi đảm trách sứ mệnh truyền giáo nơi các quốc gia mà họ đã bám rễ lâu đời. Giáo hội Công Giáo chỉ muốn giúp đỡ và cộng tác với anh em trong sứ mệnh này mà thôi.” (Zenit 13.10.2002) Đây là một biến cố, đánh dấu một bước tiến rất quan trọng sau một quá trình đối thoại và những lựa chọn đúng đắn. Chắc chắn lựa chọn này sẽ ảnh hưởng lâu dài và sâu xa đến Giáo hội toàn cầu.
Lm. Đỗ Vân Lực, OP
------------------------------
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is 45,1.4-6: (1) Đức Chúa phán với kẻ Người đã xức dầu: «Ta đã cầm lấy tay phải ngươi để bắt các dân tộc suy phục ngươi».
· 1Tx 1,1-5b: (5) Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa.
Nộp thuế cho Xêda
(15) Bấy giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. (16) Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê, đến nói với Đức Giêsu rằng: «Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. (17) Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?» (18) Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: «Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! (19) Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!» Họ liền đưa cho Người một quan tiền. (20) Người hỏi họ: «Hình và danh hiệu này là của ai đây?» (21) Họ đáp: «Của Xêda». Bấy giờ, Người bảo họ: «Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa». (22) Nghe vậy, họ ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Người trong tập thể, trong xã hội hay giáo hội… phải vâng phục bề trên mình. Điều đó đúng hay sai?: TN 29-A87
1. Người trong tập thể, trong xã hội hay giáo hội… phải vâng phục bề trên mình. Điều đó đúng hay sai? Đúng tuyệt đối hay có luật trừ? Khi nào có luật trừ?
2. Đức Giêsu có khi nào không tuân hành luật Môsê không? Các tông đồ có luôn luôn vâng lời các nhà lãnh đạo Do Thái giáo không? Tại sao? Các Ngài theo nguyên tắc nào?
Suy tư gợi ý:
1. Bối cảnh bài Tin Mừng
Nước Do Thái thời Đức Giêsu là một nước bị đế quốc Rôma đô hộ. Dân Do Thái phải đóng thuế cho đế quốc. Về vấn đề này, trong nước có hai khuynh hướng chính trị đối lập, thậm chí thù nghịch nhau:
– Phe Hêrốt (quốc doanh) là phe thân chính quyền, chủ trương ủng hộ đế quốc để đế quốc bảo vệ ngai vàng và quyền cai trị của mình. Phe này chủ trương bắt dân đóng thuế cho đế quốc. Trong tôn giáo, phái Sađốc (các tư tế thường thuộc phái này) cũng theo lập trường chính trị này.
– Phe dân chúng (yêu nước) là phe đứng về phía nhân dân và tôn giáo. Phe này không muốn tùng phục đế quốc xâm lược, và thường tìm cơ hội để nổi dậy dành lại độc lập cho đất nước. Vì thế, họ chủ trương chống lại việc nộp thuế. Trong xã hội có phái Zêlốt, và trong tôn giáo có phái Pharisêu đứng về phe này.
Người dân nào theo phe Hêrốt thì bị dân chúng oán ghét, tẩy chay. Còn ai đứng về phe dân chúng thì bị chính quyền để ý, gây khó dễ. Do đó, chủ trương nộp thuế hay không là một vấn đề rất nhạy cảm đối với dân chúng. Vì thế, để âm mưu gài bẫy Đức Giêsu hầu hại Ngài, những người Pharisêu đã đặt vấn đề với Ngài, buộc Ngài phải tuyên bố lập trường về vấn đề nhạy cảm này. Đức Giêsu biết âm mưu thâm độc của họ: (1) Nếu Ngài trả lời nên nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng tẩy chay, họ sẽ không thèm nghe giáo huấn của Ngài nữa; (2) Ngược lại, nếu Ngài trả lời không nên nộp thuế, thì phe Hêrốt sẽ có cớ để tố cáo Ngài chống lại pháp luật; (3) Nếu Ngài không trả lời, thì Ngài chứng tỏ mình không có lập trường, là người dốt nát, Ngài sẽ bị mất uy tín của một đạo sư. Cách nào thì cũng đều gây rắc rối cho Ngài. Nhưng Ngài đã trả lời một cách rất khôn ngoan, hợp lý, vừa thoát khỏi bẫy của những kẻ muốn hại Ngài, vừa đưa ra được một nguyên tắc soi sáng cho con người, nhất là cho các Kitô hữu phải sống trong một tình thế xã hội phức tạp tương tự như xã hội thời Ngài. Thật vậy, con người trong một xã hội luôn luôn bị giằng co bởi uy quyền của thế lực trần tục và đòi hỏi của lương tâm, của thánh ý Thiên Chúa, v.v… Thật khó xử.
Sau khi bắt họ xác định hình trên đồng tiền là của ai, và họ trả lời là của Xêda thì Ngài trả lời: «Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa». Với câu trả lời này, âm mưu của họ thất bại.
2. Hai nguyên tắc đúng nhưng đôi khi đối nghịch nhau
Trong các tập thể, ta thường phải dưới quyền và tuân phục người lãnh đạo tập thể ấy. Trong gia đình có cha mẹ, trong xã hội có chính quyền các cấp, trong Giáo Hội có giáo quyền. Tất cả những người lãnh đạo ấy đều là con người, họ có thể ra lệnh đúng với thánh ý Thiên Chúa, mà cũng có thể ngược lại với thánh ý Ngài. Nếu lệnh của họ phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, thì không có vấn đề, người Kitô hữu phải vâng phục họ. Không vâng phục họ chính là không vâng phục Thiên Chúa. Nhưng nếu lệnh của họ đi ngược lại thánh ý Ngài như đã từng xảy ra biết bao lần trong lịch sử, thì ta sẽ lâm vào tình trạng xung đột nguyên tắc hay xung đột bổn phận, rất khó xử. Có hai nguyên tắc đôi khi xung đột nhau:
– Một đằng phải vâng phục người lãnh đạo, vì họ là đại diện cho Thiên Chúa, và vì quyền họ nắm trong tay đến từ Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Cần thiết phải phục tùng họ, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm» (Rm 13,1-2.5; x.1Pr 2,13-14.17b).
– Một đằng «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Thánh Phêrô đã nói thế để phản đối giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái khi họ cấm ông không được rao giảng Tin Mừng.
3. Vấn đề đặt ra
Một tập thể, một đất nước, một giáo hội… luôn luôn phải có người lãnh đạo, nếu không thì sẽ lâm vào tình trạng «vô chính phủ», rất hỗn loạn và thật tai hại. Người xưa nói: «Nhất nhật vô vương đảo huyền thiên hạ» (một ngày không vua, thiên hạ đại loạn), «Nước một ngày không thể không vua» (Đại Việt sử thi). Nếu có người lãnh đạo mà người dưới không tuân phục, thì cũng mất trật tự, không ổn định, tập thể không thể tồn tại hay phát triển được. Người lãnh đạo thường tài đức hơn người, nên lệnh truyền của họ thường phản ảnh đúng thánh ý Thiên Chúa. Vì thế, trên nguyên tắc, Kitô giáo chủ trương con người phải vâng phục bề trên của mình. Chủ trương này thật hợp tình hợp lý.
Nhưng đã là con người thì đều có tự do đối với lương tâm, đồng thời cũng rất yếu đuối và hay thay đổi. Trong mỗi thời điểm, họ có thể làm theo lương tâm, theo thánh ý Thiên Chúa, mà cũng có thể không làm theo lương tâm mà làm theo lợi ích riêng tư của họ. Do đó có rất nhiều trường hợp lệnh trên không phù hợp với lẽ phải, đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa, bất lợi cho lợi ích chung. Rất nhiều người lãnh đạo khi được đưa lên nắm quyền thì là người rất tài đức, xứng đáng được mọi người tuân phục. Nhưng khi nắm quyền hành trong tay một thời gian, họ liền bị biến chất, vì quyền hành có khả năng tha hóa con người. Người Pháp có câu: «Le pouvoir corrompt par nature» (quyền hành tự bản chất làm hư hỏng con người).
Trường hợp Sa-un trong Cựu ước là một điển hình (1Sm 9,15-17). Khi Sa-un được Thiên Chúa chọn làm vua Do Thái thì ông là người xứng đáng. Nhưng sau đó ông bị biến chất nên đã bị Thiên Chúa truất phế để lập Đavít lên thay thế (1Sm 28,16-18). Thật vậy, biết bao người lãnh đạo ban đầu giống như một minh quân, nhưng cầm quyền lâu năm lại biến thành bạo chúa. Chính vì thế trong các xã hội dân chủ, người lãnh đạo tập thể luôn luôn có một nhiệm kỳ nhất định. Người lãnh đạo nào vẫn giữ được tài đức thì có thể được tái nhiệm thêm một nhiệm kỳ nữa. Không ai được giữ chức lãnh đạo vô thời hạn cả. Đó là một nguyên tắc xã hội thật sáng suốt và khôn ngoan, phù hợp với tình trạng dễ thay đổi của con người. Những tập thể chủ trương ‘ai lãnh đạo là lãnh đạo suốt đời’ thì tập thể ấy thường bị thoái hóa theo thời gian.
Vậy, trong một tập thể, như gia đình, cộng đoàn, xã hội hay giáo hội, ta phải theo nguyên tắc nào? phải vâng phục ai? nhất là khi lệnh của người lãnh đạo không phù hợp với lẽ phải, với lương tâm, với thánh ý Chúa?
4. «Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa»
Qua câu nói của Đức Giêsu, ta thấy cần phải phân biệt những gì thuộc lãnh vực trần tục, và những gì thuộc lãnh vực lương tâm. Hai lãnh vực này có thể phân biệt rõ ràng, điều đó không có nghĩa là chúng hoàn toàn độc lập với nhau, hay không có sự bao trùm lên nhau. Những gì hoàn toàn thuộc lãnh vực trần tục, không liên quan đến lương tâm, thì ta phải hoàn toàn tuân phục người lãnh đạo. Chẳng hạn nhà nước buộc người dân đến tuổi trưởng thành phải làm căn cước, hay khi kinh doanh, bán nhà, bán xe phải đóng thuế, v.v… hoặc khi Giáo Hội buộc các tín hữu muốn kết hôn phải trình sổ rửa tội, phải rao ở nhà thờ, v.v… thì ta phải tuân phục. Nhưng trong những việc liên quan đến lương tâm, thì ta phải làm theo lương tri và lương tâm đúng đắn của mình. Không thể lấy lý do luật nhà nước hay luật Giáo Hội để làm ngược lại ý muốn của Thiên Chúa được phản ảnh qua lương tri và lương tâm mình. Chính Đức Giêsu đã bất chấp luật sabát của Môsê – tức luật tôn giáo – để làm theo đòi hỏi của tình yêu đại đồng (x. Mt 12,1-8; 12,9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Phêrô đã bất chấp lệnh cấm của giới lãnh đạo tôn giáo để làm theo đòi hỏi của Thiên Chúa là rao giảng Tin Mừng (x. Cv 5,27-33). Các thánh tử đạo trên thế giới đã trung thành với Thiên Chúa bất chấp lệnh cấm đạo của chính quyền.
Mục đích của đức vâng phục Kitô giáo là để thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Khi nào sự vâng phục không phải là thực hiện thánh ý Thiên Chúa thì không còn là nhân đức nữa. Nếu vâng lời bề trên để thực hiện một tội ác thì chẳng những không công phúc gì, mà còn mang tội đồng lõa nữa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, sống đạo của Cha trong xã hội con người thật khó! Vì con người có luật của con người, và Thiên Chúa có luật của Thiên Chúa, hai luật này con đều phải tôn trọng, nhưng đôi khi lại trái ngược nhau. Lúc đó con biết làm theo luật nào? Nhiều khi con đã nhân danh luật của con người, của tôn giáo, để khỏi phải làm theo đòi hỏi của lương tâm, của tình yêu. Làm như thế có đúng không? Có đẹp lòng Cha không? Xin hãy cho con đủ tình yêu và can đảm để sống đúng ý Cha.
Joan Nguyễn Chính Kết
18-9-2005
------------------------------
(Mát-thêu 22: 15-21)
Được kêu gọi vào Giáo Hội, Nước Thiên Chúa ở trần gian, Ki-tô hữu phải sống đức tin của: TN 29-A88
Được kêu gọi vào Giáo Hội, Nước Thiên Chúa ở trần gian, Ki-tô hữu phải sống đức tin của người con cái Chúa, nhận biết tình yêu cứu độ của Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, sống giữa trần gian, Ki-tô hữu bị những cơ chế xã hội chi phối và lôi cuốn, nhiều khi làm cho họ biến dạng, không còn là một thành phần xứng đáng của dân Chúa nữa. Vì thế, để tiếp nối chủ đề về Giáo Hội, Phụng vụ Lời Chúa chọn bài Tin Mừng với một câu truyện hết sức quen thuộc: có nên nộp thuế cho Xê-da không? Câu nói bất hủ và chân lý ngàn đời của Chúa Giê-su “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” đã trở thành nguyên tắc sống cho Ki-tô hữu mọi thời mọi nơi, nhất là khi họ phải đối phó với những khó khăn trong lãnh vực trần thế. Vậy Chúa Giê-su muốn ám chỉ những gì là của Xê-da và những gì là của Thiên Chúa?
a) “Của Xê-da, trả về Xê-da”
Khi nói hãy trả về cho ai những gì của họ là ta muốn nói đến quyền lợi. Quyền lợi bao gồm tất cả những gì gắn liền với căn tính và chức phận của một người hay một tập thể. Nếu ta là công dân của một nước, trừ khi quyền công dân ấy bị hạn chế hay tước bỏ, ta sẽ được hưởng tất cả những quyền đã được quốc gia ấy dành cho ta, thí dụ được quyền bầu cử, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận... và những phúc lợi do chính phủ ấn định, như vấn đề an sinh, giáo dục... Cũng thế, đối với một quốc gia, ta có những bổn phận phải phục vụ tất cả những gì là quyền lợi chính đáng của quốc gia mình, như tôn trọng luật pháp, tuân giữ luật lệ, nộp thuế, làm nghĩa vụ...
Xê-da là vua người Rô-ma và người thay mặt cho một đế quốc. Lúc ấy vùng đất Pa-lét-tin nằm dưới quyền cai trị của đế quốc Rô-ma, thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô. Trong việc buôn bán, người Do-thái vẫn sử dụng đồng tiền do chính phủ Rô-ma đúc, trên đó có hình và danh hiệu của hoàng đế. Làm như vậy, đương nhiên dân Do-thái đã nhìn nhận quyền lợi của một đế quốc, cho dù đế quốc ấy áp đặt quyền bính trên họ. Do đó, việc nộp thuế là một bổn phận người Do-thái phải đáp ứng quyền lợi của đế quốc thống trị họ nếu quyền lợi này là chính đáng. Khi trả lời “của Xê-da, hãy trả về Xê-da”, Chúa Giê-su chỉ nêu lên nguyên tắc chung, chứ Người không đi xa hơn để xác định quyền lợi của Xê-da có chính đáng hay không.
Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã giúp ta hiểu thêm khía cạnh không chính đáng trong quyền lợi của Xê-da khi Người bảo những kẻ đến thử thách Người hãy đưa cho Người coi đồng bạc Rô-ma. Trên mặt đồng bạc là hình và danh hiệu hoàng đế Rô-ma. Nhưng không chỉ là một danh hiệu bình thường, mà là danh hiệu có mang chữ thần linh, vì hoàng đế Rô-ma tự coi mình là thần linh và bắt mọi người phải tôn thờ ông như là Thượng đế. Vậy khi Chúa Giê-su nhắc nhở những kẻ đến thử thách Người về việc hoàng đế Rô-ma đòi cho mình quyền ngang hàng với Thiên Chúa, thì Người cũng gợi cho họ nhớ đến bổn phận phải thờ phượng duy một Thiên Chúa mà thôi. Xê-da có quyền đòi họ phải nộp thuế cho đế quốc của ông, nhưng Xê-da không có quyền bắt mọi người phải thờ lạy ông như Thiên Chúa.
Trong cuộc sống Ki-tô hữu, ta có thể gặp thấy khuôn mặt Xê-da dưới nhiều hình thái. Tất cả những gì lôi cuốn ta chối bỏ quyền lợi của Thiên Chúa đều là những gì cám dỗ ta đừng thờ phượng một mình Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa và nhìn nhận Người là Thiên Chúa của ta, ta sẽ lấy những cái khác để làm Thiên Chúa của ta. Nói khác đi, những gì đáng lẽ ta phải trả về Thiên Chúa thì ta lại đem trả về Xê-da, và như thế ta đã vi phạm quyền lợi của Thiên Chúa.
b) “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”
Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng, còn ta là tạo vật do Người dựng nên. Do đó, ta có những bổn phận đối với Người, như đã được xác định trong Mười điều răn. Nhưng có lẽ đặc biệt trong trường hợp này và trong mạch văn của những dụ ngôn nói về Nước Thiên Chúa, ta phải hiểu cụm từ “của Thiên Chúa” có nghĩa là chính Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô là Con Thiên Chúa được sai đến với nhân loại để thiết lập Triều Đại Thiên Chúa và thi hành sứ mệnh cứu chuộc. Lời giảng và những việc làm của Chúa Giê-su đã chứng minh cho sứ mệnh của Người. Ông Gio-an Tẩy giả đã làm chứng cho Người. Người phải được nhân loại tiếp nhận. Thế mà “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11). Thiên Chúa ban cho ta Chúa Ki-tô, để nhờ và trong Chúa Ki-tô ta được làm con cái Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Vậy làm con cái Thiên Chúa là điều ta phải làm. Khi ta tự ý chối bỏ lời gọi làm con cái Chúa là ta đã không trả về Thiên Chúa những gì thuộc về Người. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định điều này với những kẻ chối bỏ Người: “Ai thuộc về Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa” (Ga 8:47). Hơn nữa, chính Thiên Chúa Cha đã phán với các môn đệ Chúa Giê-su. “Và kìa có tiếng từ đám mây phán rằng: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người’” (Mt 17:5). Ý của Chúa Cha là muốn ta phải vâng nghe Con Một Người. Vậy khi ta nghe lời Chúa Giê-su dạy bảo và thi hành những điều Người dạy là ta thi hành thánh ý Chúa Chúa Cha và trả về cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi đã có những thiếu sót nào trong bổn phận đối với quốc gia? Trốn thuế? Không đóng góp gì cho việc xây dựng cộng đồng nơi tôi đang sống? Bất cần luật lệ? Lái xe ẩu?...
Trong những bổn phận đối với Giáo Hội, tôi có khi nào hỏi Giáo Hội muốn tôi làm gì cho Giáo Hội không? Tôi có thực sự ý thức vai trò của mình trong lòng Giáo Hội, hay chỉ là kẻ đứng bên lề?
Có khi nào tôi bỏ qua lề luật Chúa để tuân giữ lề luật của xã hội không? Lấy một thí dụ cụ thể chứng tỏ tôi đã không trả về Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã ban cho tôi tất cả những gì quý giá nhất của Người, tức là Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người. Người dạy tôi hãy tiếp nhận và làm môn đệ Chúa Ki-tô. Vậy tôi đã đáp lại lời gọi của Thiên Chúa như thế nào?
Cầu nguyện
“Lạy Cha,
con phó mình con cho Cha,
xin hãy làm nơi con
mọi sự đẹp ý Cha,
Cha làm chi mặc lòng, con cũng cảm ơn Cha.
Con sẵn sàng luôn luôn,
con nhận lãnh tất cả,
miễn ý Cha được làm trọn trong con,
trong tất cả muôn loài Cha tạo dựng.
Con chẳng ước muốn chi khác nữa.
Lạy Cha là Chúa Trời con,
con phó thác linh hồn con trong tay Cha,
con dâng hồn con cho Cha.
Lạy Cha,
với tất cả tình yêu của lòng con,
vì con mến Cha và vì mến Cha,
nên con thấy cần phải hiến thân con,
phó trót mình con trong tay Cha,
không do dự đắn đo,
nhưng vô cùng tin cậy,
vì Cha là Cha của con. A-men”.
(Lời nguyện của Anh Charles de Foucauld, sáng lập dòng Tiểu Đệ)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Ngày 14-10-2005
--------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: 1 Thê-xa-lô-ni-ca 1: 1-5b
Thư 1 Thê-xa-lô-ni-ca có hai phần. Phần nhất (chương 1-3) là lời tạ ơn Thiên Chúa vì cộng đoàn: TN 29-A89
Thư 1 Thê-xa-lô-ni-ca có hai phần. Phần nhất (chương 1-3) là lời tạ ơn Thiên Chúa vì cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca sống gương mẫu trong đức tin, cậy và mến. Phần hai (chương 4-5) là huấn dụ luân lý, nhắc nhớ tín hữu những điều Phao-lô đã dạy dỗ họ và khích lệ họ tiếp tục sống thánh thiện, chờ ngày Chúa quang lâm.
a) Từ Phi-líp-phê đến Thê-xa-lô-ni-ca
Về lịch sử hành trình truyền giáo của thánh Phao-lô, Thê-xa-lô-ni-ca, thủ phủ tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, là cộng đoàn được ngài thiết lập sau khi ngài rời Phi-líp-phê. Nhưng ở đây chúng ta để ý tới cách Phụng vụ Lời Chúa trích dẫn thư thánh Phao-lô, vừa nói lên tiếp nối lịch sử truyền giáo của ngài, lại vừa nói lên sự liên tục dòng tư tưởng và giáo lý của ngài.
Thực vậy, trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô trưng lên những khía cạnh khác nhau của đời sống luân lý gương mẫu, lấy Đức Ki-tô làm mẫu mực. Ngài còn đi xa hơn, mời gọi tín hữu hãy bắt chước ngài như ngài đã bắt chước Đức Ki-tô. Cũng theo chiều hướng bắt chước, làm gương (xem cc. 7-8), trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô muốn nêu lên gương sáng của cộng đoàn này để trình bày thêm một khía cạnh nữa của đời sống Ki-tô gương mẫu, đó là:
"Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin,
những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến,
và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi" (1 Tx 1:3).
Đây là lần đầu tiên Kinh Thánh và Tân Ước nói đến bộ ba đức tin, đức cậy và đức mến. Đặc biệt ở đây, thánh Phao-lô không nói đến đức tin, cậy, mến như là những ý niệm trừu tượng, nhưng là những thể hiện sống động qua những việc làm, những gánh vác khó nhọc và những chịu đựng kiên nhẫn. Như thế ngài đã phác họa một cuộc sống biểu trưng của người Ki-tô hữu, gồm những đức tính cần thiết cho việc chờ đợi Đức Ki-tô tái lâm.
b) Sống đức tin, lòng trông cậy và lòng mến yêu
Chờ đợi Chúa quang lâm là thời gian để chúng ta thể hiện một cuộc sống theo mẫu mực Đức Ki-tô, nghĩa là phải lấy ba đức tính tin, cậy, mến làm cơ sở cho lối sống của mình. Lòng tin, mến và trông cậy sẽ là động lực cho tất cả tư tưởng, hành động và việc làm của chúng ta. Những đức tính ấy còn là những tiêu chuẩn nói cho người ta biết chúng ta có phải là công dân của Nước Ít-ra-en Mới hay không. Hơn nữa, vì không biết thời gian chờ đợi Chúa quang lâm sẽ kéo dài tới bao lâu, nên những đức tính ấy cũng cần thiết để giúp chúng ta trung thành chờ đợi cho đến cùng.
Nhưng tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã căn cứ vào đâu mà có được lòng tin, cậy, mến như vậy? Thánh Phao-lô đã cho chúng ta câu trả lời ngay sau khi ngài tuyên dương họ: Vì họ là những người được Thiên Chúa thương mến và tuyển chọn, được lãnh nhận Tin Mừng cứu rỗi của Đức Ki-tô, có quyền năng của Thánh Thần, và niềm xác tín sâu xa (cc. 4-5).
Qua những lớp giáo lý, chúng ta đều biết các nhân đức tin, cậy và mến là những nhân đức đối thần, nghĩa là lấy Thiên Chúa làm đối tượng, từ nơi Người là nguồn gốc phát sinh niềm tin, cậy và mến nơi chúng ta. Hiểu như thế, chúng ta không lạ khi thấy thánh Phao-lô đã diễn tả lòng tin, cậy, mến của tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có được là do từ nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói khác đi, vì nhận thức mình được Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương, cứu chuộc và dẫn dắt theo đường lối của Người, nên tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca mới đáp trả nghĩa cử của Thiên Chúa bằng cách biểu lộ lòng tin của họ qua việc làm, biểu lộ lòng mến của họ qua những gánh vác khó nhọc, và biểu lộ lòng cậy trông của họ qua những kiên nhẫn chịu đựng.
c) Những tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hôm nay
Không phải cá nhân chúng đã tụ họp lại làm thành Giáo Hội, nhưng là chính Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô, đã thương mến, tuyển chọn và quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Thiên Chúa đã ban cho mọi phần tử trong Giáo Hội Người một đời sống mới, tức là sống theo Thần Khí của Người nơi Đức Ki-tô Giê-su. Do đó, toàn thể Giáo Hội ấy phải sống đức tin vào Đức Ki-tô là Chúa, đức mến đối với anh chị em (xem 4:9-12) và niềm hy vọng vững vàng rằng Đức Ki-tô sẽ trở lại trong vinh quang.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi nghe nhắc rất nhiều đến đức tin, cậy và mến. Nhưng tôi đã hiểu thế nào về ba nhân đức tối quan trọng này? Những soi sáng của thánh Phao-lô giúp tôi hiểu thêm được những gì?
Chia sẻ một số việc làm trong đời sống thường ngày phản ảnh đức tin của tôi. Một số gánh vác khó nhọc nhờ động lực yêu thương. Và một vài kiên nhẫn chịu đựng vì hy vọng.
Thánh Phao-lô tạ ơn Thiên Chúa về đời sống gương mẫu của tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Ngài dạy tôi bài học nào?
Cùng toàn thể Giáo Hội, tôi chờ đợi Đức Ki-tô quang lâm, nhưng với thái độ nào? Có đúng như thánh Phao-lô nói lên ở đây không? Tôi cần phải thay đổi thái độ chờ đợi ấy ra sao?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài về "Tin, Cậy, Mến".
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
--------------------------------
NHỮNG CON NGƯỜI TRONG CUỘC SỐNG CHÚNG TA
Điều hiển nhiên là trong cuộc sống, chúng ta luôn luôn có một nhận định về mỗi người chúng ta: TN 29-A90
Điều hiển nhiên là trong cuộc sống, chúng ta luôn luôn có một nhận định về mỗi người chúng ta chung sống hay gặp gỡ. Đó là những Kyrô, những người Thessalonica, những Caesar mà Lời Chúa đã nói đến.
Đối với mỗi con người, có thể bị coi là ngoại bang xa lạ (như Kyrô), cũng có thể bị coi là những con người mọn hèn với qúa khứ tối tăm (như dân Thessalônica), cũng có thể chỉ là những kẻ cường hào ác bá, những hoàng đế đầy tham vọng (Caesar). Có lẽ trong muôn một, chúng ta chỉ thấy một số qúa ít ỏi những con người đã góp phần cho cuộc đời mình. Chúng ta thường cảm thấy chỉ là "kẻ xa lạ" ngay giữa những cộng đoàn đông đảo và ồn ào. Chúng ta có thể cảm nghiệm được sự căng thẳng trong lòng ta thật tương ứng với những gì Israel cảm nghiệm khi sống trong sự đe dọa xâm lăng của vua Kyrô thời Isaia "Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa", của Israel trong vòng kềm kẹp của đế chế Rôma có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? của những tín hữu Thessalonica trong cảnh túng cực nghèo khó giữa một thành thị dân ngoại sa hoa. Dường như cũng như chúng ta, Israel thời nào cũng chẳng gặp được một người góp phần xây dựng cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Và cũng như họ, lòng ta chất chứa buồn, và oán hận thù ghét.
PHẢI CÓ CÁI NHÌN CỦA THIÊN CHÚA
Những mặc cảm trong cuộc sống mỗi ngày theo tác giả thánh vịnh đáp ca, là do cái nhìn của chính mình, đã chạy theo qúa nhiều thần tượng: "chư thần các nước thảy đều hư ảo" Và tác giả khuyên chúng ta:
"Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa,
và thờ lạy CHÚA uy nghiêm thánh thiện."
Khi đến với Chúa, nhìn theo cách nhìn của Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra rằng:
Ngay với Kyrô thì:
"Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,
Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu,
dù ngươi không biết Ta."
Với Caesar thì:
"của Xê-da, trả về Xê-da"
Và với dân Thessalonica, tất cả đều:
"là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em"
Theo đó, mọi người đi vào đời sống chúng ta, đều là bằng chứng của quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta. Mọi sự, mọi người trở nên thân thương và bạn hữu. Một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ về thế giới xung quanh mình.
"Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa."
Sự thật ấy được Đức Giêsu trình bày trong câu trả lời thật tuyệt mỹ "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." Nơi mỗi con người, mỗi sự vật không phải là một thực tại cô độc trong chính nó, nhưng là một thực thể hàm chứa nhiều tương quan nội tại: trong đó có tương quan với Thiên Chúa, và với tha nhân. Những tương quan không chỉ là được thêm vào, nhưng là những tương quan cấu thành nên phẩm giá và sự hiện hữu của nó. Nơi mỗi con người và mỗi sự vật đều mang dấu ấn Tình Yêu "cho đến cùng" của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Hãy trả mỗi người và mỗi sự về cho Tình Yêu ấy. Và đó là tất cả Sự Thật nơi Đức Giêsu. Một Sự Thật mà chỉ có những ai yêu mến mới khám phá ra được và mới đón nhận tương xứng. Sự Thật mà Ngài đã được sai đến để làm chứng, sự thật ấy liên quan đến mỗi người và hết mọi người, là điều Phaolô cũng đã nói về ông: "Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là Đấng đã yêu thương tôi và phó nộp mình vì tôi".
Vì Sự Thật ấy, mỗi khi nhớ đến, nhắc đến mỗi người anh chị em, chúng ta bị đòi hỏi phải tuân theo một quy luật mà Thánh Tông Đồ nhắc đến trong đầu thư gửi tín hữu Thessalonica: nhìn mọi người "ở trong Thiên Chúa Cha, và trong Chúa Giê-su Ki-tô." Và chúng ta không quên là theo Thánh Phaolô Đức Giêsu "đã phó nộp mình" vì mỗi người, cho mỗi người. Việc "phó nộp" này là gì nếu nó đã không bao hàm trong nó những tội lỗi, những tham vọng, những bất xứng, những thiếu sót... và biến đổi tất cả trong vinh quang Sự Sống Lại.
Vì vậy hãy cùng với tác giả Thánh Vịnh:
"Hát lên mừng CHÚA một bài ca mới,
hát lên mừng CHÚA, hỡi toàn thể địa cầu!
Hát lên mừng CHÚA, chúc tụng Thánh Danh!
Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ,
kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển,
cho mọi nước hay những kỳ công của Người."
Đây cũng chính là lời mời gọi và nội dung của Sứ Điệp Truyền Giáo trong ngày Lễ Cầu Nguyện cho công việc Phúc Âm Hóa các dân tộc hôm nay vậy.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
--------------------------------
Ngày 20/10 Chúa Nhật Truyền Giáo
Mt 22,15-21
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Câu hỏi của biệt phái và Pharisiêu đối với Chúa Giêsu là một câu vấn nạn rất hóc búa có ý giết người: TN 29-A91
Câu hỏi của biệt phái và Pharisiêu đối với Chúa Giêsu là một câu vấn nạn rất hóc búa có ý giết người,chứ không phải chỉ để tìm hiểu và cho biết lập trường của Chúa Giêsu.Đây là câu hỏi cực kỳ nham hiểm của người Do Thái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu.Tuy nhiên,Chúa Giêsu đã hoàn toàn thấu suốt lòng dạ của người Do Thái,nên Ngài đã trả lời một cách thông suốt,không ai có thể bắt bẻ được Chúa Giêsu.
LẬP TRƯỜNG CỦA CHÚA GIÊSU
Có hiểu bối cảnh lịch sử thời Chúa Giêsu sống tại quê hương Do Thái,người ta mới đọc ra được ý đồ đen tối của người Do Thái, nhất là nhóm biệt phái và Pharisiêu luôn tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu nhằm tìm sơ hở của Chúa mà bắt bớ và giao nộp Chúa.Hồi Chúa Giêsu sống,nước Ít-ra-en bị lệ thuộc Đế quốc Roma.Về hành chánh,dân Ít-ra-en có vua riêng là Hêrôđê,nhưng bên cạnh đó có quan tổng trấn Philatô khuynh loát mọi việc trong nước.Về tiền tệ,dân Ít-ra-en được lưu hành những đồng tiền nhỏ chỉ có giá trị tương đối,hữu hạn,còn đồng tiền bạc có giá trị lưu hành trong nước thì do người La Mã phát hành.Về mặt tôn giáo,người Roma để cho người Do Thái được tự do tôn thờ Thiên Chúa Giavê ở trong đời sống và ở ngoài xã hội.Dân Do Thái bất mãn với chính sách cai trị hà khắc của người La Mã,nhưng không dám ra mặt chống đối vì lo sợ cho số phận,bị tù tội và bị khó khăn trong cuộc sống.Khi hỏi Chúa Giêsu có nên đóng thuế cho người Roma không,nhưng người chất vấn Chúa Giêsu mang hai tâm trạng chính trị và tôn giáo.Trả lời cứ nộp thuế,người Do Thái sẽ cho Chúa Giêsu không có lòng yêu nước mà chỉ hướng tới ngoại lai.Còn trả lời đừng nộp thuế,họ sẽ tố cáo Chúa Giêsu chống lại quyền hành của người Roma.Chúa Giêsu thấu suốt lòng nham hiểm của họ,nên Ngài bảo họ đưa cho Ngài xem một đồng bạc đang lưu hành.Chúa Giêsu nhìn hình nhân và chữ khắc trên đó,rồi hỏi:Hình và hiệu này là của ai? Họ trả lời là của Xêdarê.Chúa Giêsu bảo:của Xêdarê,trả về cho Xêdarê,của Chúa,trả về cho Chúa.Chúa Giêsu có ý bảo họ rằng đồng tiền các ông đang giữ,đang lưu hành có hình,hiệu của Xêdarê,nghĩa là các ông nhận quyền cai trị của Roma,vậy hãy nộp thuế theo luật pháp trong nước.Đối với người Pharisiêu khi đưa ra vấn nạn về nộp thuế, họ đã mập mờ,hàm hồ để hưởng lợi và bắt bẻ Chúa . Lập trường của Chúa rất rõ ràng,những gì thuộc trần thế,con người phải thi hành theo trần thế,nhưng có bổn phận khác nữa cao cả và quí hóa,hoàn toàn thiêng liêng,ai cũng có nghĩa vụ,bổn phận phải tôn trọng.
MỌI NGƯỜI PHẢI THỰC THI Ý CHÚA
Người Kitô hữu luôn phải biết phân biệt đâu là nghĩa vụ trần thế,đâu là nghĩa vụ thiêng liêng.Đối với Chúa Giêsu,Ngài đã phân biệt rất rạch ròi hai bình diện trần thế và thiêng liêng.Thuế ở trần gian con người phải có bổn phận chu toàn theo luật pháp,nhưng đối với Thiên Chúa,con người lại có bổn phận đối với Người.Của Xêdarê,trả cho Xêdarê,của Thiên Chúa,trả cho Thiên Chúa. Đây là điều rất quan trọng vì con người không chỉ sống ở trần gian mà họ còn có nghĩa vụ lớn lao là phục vụ cho nước Chúa .Chúa nói:"của Xêdarê,trả cho Xêdarê,của Thiên Chúa,trả cho Thiên Chúa",Chúa muốn mọi người luôn thực thi ý Chúa trong mọi sự dù công việc đó thuộc về trần thế. Chưa thực hiện được những điều đó,con người chưa trả cho Chúa những gì phải trả cho Ngài.
Ngày hôm nay cũng là ngày Truyền giáo,Chúa kêu gọi mọi người hãy ra đi loan báo Tin Mừng vì sứ mạng truyền giáo Chúa trao phó cho các môn đệ,cho Giáo Hội cũng là trao phó cho mọi người thực hiện ở muôn thời. Giáo Hội là truyền giáo,nên mọi người cũng phải ý thức sứ mạng truyền giáo của mình.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1.Anh chị hiểu sao câu của Chúa Giêsu:
của Xêdarê, trả cho Xêdarê,
của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa?
2.Thế nào là truyền giáo ?
--------------------------------
Những người thuộc đảng Herođê gài bẫy Chúa về việc nộp thuế; những người thuộc phái Sadoc: TN 29-A92
Những người thuộc đảng Herođê gài bẫy Chúa về việc nộp thuế; những người thuộc phái Sadoc chất vấn Chúa về sự sống lại, đều bị thất bại; hôm nay nhóm Pharisiêu, là những kẻ tự hào là những thầy thông luật, lại dùng luật để đặt vấn đề với Chúa và hy vọng sẽ thắng được Ngài; nhưng rồi chúng ta thấy khi đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, là tất cả đều phải câm miệng trước sự khôn ngoan và tài đối đáp của Ngài; khiến bọn họ phải kinh sợ hơn nữa khi thấy Ngài thấu suốt tâm tư và vạch trần những âm mưu của họ.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI NHẤT
Như chúng ta được biết, trong thời Chúa Kitô sống tại Palestine, bộ luật của Maisen mà người Do Thái phải tuân giữ gồm có 613 khoản: 365 khoản cấm không được làm và 248 khoản buộc phải làm.
Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, họ sai một luật sĩ thượng thặng trong bọn, đến hỏi thử Chúa: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa trả lời: "Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất". Rồi Chúa lại nói tiếp: "Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Sau cùng, Chúa đã quả quyết: "Toàn thể lề luật và các lời tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn đó". Cũng như chúng ta đọc trong kinh 10 Điều Răn: "Mười điều răn ấy tóm về 2 điều này mà chớ, trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen".
Tại sao Chúa lại nhấn mạnh đến giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, là vì Chúa thừa biết họ là những người tự hào, huyênh hoang công phúc việc lành họ đã làm, để chứng minh họ là những kẻ phụng sự yêu mến Thiên Chúa; nhưng họ lại sống ngược với tinh thần của Chúa, như chúng ta vừa nghe lời Chúa truyền trong sách Xuất Hành: "Không được ức hiếp khách ngoại kiều, khinh dể và làm hại cô nhi quả phụ; đặt lời ăn lãi quá mức với kẻ túng nghèo thiếu thốn!"
II. BÁC ÁI LÀ THƯỚC ĐO LÒNG MẾN CHÚA
Thấu hiểu giáo huấn của Chúa, các nhà tu đức đã quả quyết rất đúng rằng: "Bác ái huynh đệ là thước đo lòng kính mến Chúa". Thánh Gioan đã chẳng quả quyết: "Những ai cho mình là kẻ kính mến Thiên Chúa, mà lại thù ghét anh chị em mình, đó chỉ là những kẻ nói dối". Vì ngài lý luận: "Không yêu thương anh chị em mình là những kẻ mình xem thấy, mà lại nói là kính mến Thiên Chúa, Đấng mình không xem thấy sao được?"
Chính Chúa Kitô cũng đã xác nhận giáo thuyết này khi Ngài quả quyết: "Bao lâu các con làm những việc thiện này cho một trong những người anh chị em hèn mọn này là các con làm cho chính Ta". Chúa lại hứa trọng thưởng trong ngày chung thẳm, cho những ai thương giúp tha nhân, cũng như họ đã thương giúp chính Chúa.
Trong cuốn John Brown's Body, tác giả Stephen Benet thuật truyện một Đại Úy của chiếc tầu chuyên chợ nô lệ. Stephen viết: "Đại Úy có vẻ sốt sắng và đạo đức. Ông đọc kinh mỗi ngày, nhưng ông lại không quan tâm gì về việc bán người nô lệ là một việc bất công". Nếu có dịp giao tiếp tại nhiều cộng đoàn hay Giáo Xứ, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều người có vẻ rất sốt sắng, đạo đức còn hơn cả ông Đại Úy thuyền trưởng chuyên buôn bán người nô lệ chúng ta vừa nghe: Họ đọc kinh như pháo rang, không bỏ Thánh Lễ nào, có ngày Chúa Nhật dự cả 2, 3 lễ, các giờ chầu, các cuộc cung nghinh hay bất cứ một việc đạo đức nào không bao giờ thấy họ vắng mặt. Thế nhưng, ai lỡ làm điều gì phật lòng họ thì họ không thể tha thứ được, họ hờn giận từ năm này sang năm kia; ngay cả con cái trong nhà, họ cũng nguyền rủa, chửi bới và từ rẫy. Hễ thấy một chướng tái gai mắt nào, chẳng hạn thấy một cô, một cậu nào có vẻ cao bồi, áo quần "new way", tóc tai bù xù, là họ đã kết tội là: "Đồ mất dạy, đồ quỉ sứ, thế mà chúng nó còn dám lên rước Chúa à!"
III. MỘT TẤM GƯƠNG BÁC ÁI CAO CẢ
Maria Goretti sinh năm 1890 và chết vì bảo vệ đức trinh khiết năm lên 12 tuổi. Goretti là con thứ ba trong gia đình 7 anh chị em. Vì bố chết sớm, mẹ phải đi làm thuê để nuôi các con, Goretti mặc dầu mới lên 9 tuổi, đã phải săn sóc các em và dọn dẹp nhà cửa thay mẹ. Khi lên 11 tuổi, Goretti được chịu lễ lần đầu. Liền sau đó, Goretti phải trải qua một cơn thử thách vô cùng nặng nề về đức trinh khiết. Alexandro, một thanh niên hàng xóm, say mê sắc đẹp của Goretti và ép Goretti phạm tội. Vì Goretti yêu mến Chúa hết lòng, nên đã chống lại Alexandro và nói với y: "Không được làm thế, vì đó là tội trọng mất lòng Chúa". Alexandro nổi giận và đâm Goretti nhiều nhát dao khiến Goretti phải quần quoại trong vững máu. Goretti được cấp tốc đưa vào bệnh viện cấp cứu, và sau 24 giờ, Goretti đã từ trần trong hương thơm thánh thiện. Khi Goretti gần chết, Linh Mục đưa Mình Thánh Chúa đến cho em lãnh nhận như của Ăn Đàng. Ngài hỏi em cũng cùng một lời mẹ em đã hỏi trước: "Goretti, con có tha cho Alexandro, kẻ thù của con như Chúa đã tha thứ cho kẻ thù của Chúa trên Thánh Giá không?" Goretti thưa: "Thưa Cha, con đã tha cho Alexandro và con hứa sẽ cầu nguyện cho Alexandro được ơn ăn năn thống hối". Alexandro bị vào tù. Rồi sai khi tỏ dấu hối cải, anh đã được tha. Anh còn được một ơn cao cả hơn nữa, là anh đã xin vào giúp việc trong tu viện Dòng các Cha Capuscim cho đến chết. Đó là ơn mà Goretti, vị Thánh đã được Đức Thánh Cha Pio XII tôn phong lên Bậc Hiển Thánh của Giáo Hội năm 1950 cầu bầu cho.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta không coi ai là kẻ thù, trái lại còn biết nhận thấy Chúa ở nơi tha nhân. Nếu tha nhân làm mích lòng chúng ta, chúng ta nhận ra đó là những phương tiện Chúa dùng để có dịp cho chúng ta lập công. Không những thế, chúng ta còn cầu nguyện, giúp đỡ, đoán ý lành, tha thứ và làm ơn cho những kẻ làm phiền lòng chúng ta theo gương Chúa, Đức Mẹ và các Thánh đã từng thương yêu và tha thứ cho những kẻ thù ghét làm khốn mình nữa.
Hơn nữa, chúng ta còn có nhiệm vụ rao giảng Đức Bác Ái thương yêu của Chúa cho kẻ khác, để chinh phục họ về cho Chúa bằng chính đời sống Bác Ái yêu thương của chúng ta, đúng như lời Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy làm việc thiện để người ta thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5:16).
Lm. Minh Vận, CMC
--------------------------------
Các người biệt phái và thông luật không dám dùng võ lực để bắt Chúa, vì thế họ tính đến chuyện TN 29-A93
Các người biệt phái và thông luật không dám dùng võ lực để bắt Chúa, vì thế họ tính đến chuyện dùng mưu mẹo. Để đạt mục đích, họ tạo thêm vây cánh. Họ chọn một số đồ đệ sắc sảo, tức là những người theo học với các thầy ký lục hay tiến sĩ luật. Họ còn mời thêm những người thuộc phái Hêrôđê. Nhóm này theo một con đường chính trị rộng rãi, muốn đem văn minh Hy Lạp vào mọi cơ cấu xứ Palestin, vì thế họ rất được các nhà cầm quyền Lamã nể vì. Về phương diện tôn giáo họ theo phái Sađốc, từ lâu rồi họ liên kết với các nhà thông luật để chống lại Chúa Giêsu. Họ đặt một câu hỏi rất hóc búa: Có nên nộp thuế cho Caesar không?
Caesar là vua Lamã, tất cả xứ Palestin đều thuộc quyền Lamã, nên phải cúng tiền và đóng thuế. Người Do Thái tranh luận ráo riết liệu có nên nộp thuế cho người ngoại giáo chiếm quyền không? Nhận nộp thuế có khác chi phủ nhận quyền lợi tối cao của Thiên Chúa, là Đấng đã thương nhận cai tri dân Ngài. Nộp thuế có khác chi từ chối những đòi hỏi của quyền hành Đấng cứu thế. Đàng khác chính quyền Lamã rất nghi kỵ. Palestin còn vua nào khác ngoài Caesar.
Câu hỏi của họ là một con dao hai lưỡi. Nếu bảo rằng phải nộp thuế thì họ sẽ kết án là vong bản, còn nếu bảo rằng không thì sẽ bị kết án là phản loạn. Chúa Giêsu biết ý họ nên bảo: Hãy đưa cho Ta xem đồng tiền nộp thuế. Đó là đồng tiền được lưu hành, trên mặt có khắc chữ hoàng đế Caesar. Người Do Thái đã dùng đồng tiền này một cách không áy náy, như vậy là một việc đã rồi. Họ nhận Caesar là vua của họ. Vì thế Chúa bảo: Của Caesar hãy trả cho Caesar. Qua lời đó, Chúa dạy phải nộp thuế nhưng cùng một trật Chúa đòi cái thái độ ấy không được mâu thuẫn với quyền lợi của Thiên Chúa. Vì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Và như vậy, Chúa phân biệt rõ ràng, một quyền của Thiên Chúa gọi là thần quyền và một quyền khác gọi là thế quyền. Cho đến nay nhiều người vẫn lẫn lộn hai thứ quyền đó: Tôn giáo với quê hương, thế quyền với thần quyền, nay Chúa phân tách rõ ràng không phải trái ngược nhau mà còn bổ túc cho nhau. Cả hai quyền cùng lo cho lợi ích con người. Thần quyền giúp ích cho phần hồn, thế quyền giúp ích cho phần xác. Xác hồn tuy hai mà là một. Con người chỉ là người khi có hồn và xác. Hai quyền đều chỉ phục vụ cho con người, hướng con người về với Thiên Chúa. Sự lẫn lộn rất tai hại, nhưng đồng thời sự thiếu thỏa hiệp cũng không kém tai hại, vì cả hai đều bởi Thiên Chúa và cùng đi tới một mục đích đó là lợi ích của con người.
Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày nay cũng muốn nói rõ những nhận định của mình về các vấn đề con người như: Văn hoá, kinh tế, xã hội, hoà bình. Trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng, Công đồng Vatican II cũng đã xác quyết như thế. Là người Công giáo, chúng ta cũng cần có những nhận định đúng đắn về những sự kiện xảy ra theo tinh thần Phúc Âm, để có thể sử dụng khôn khéo và tích cực. Tuy nhiên cần noi theo gương Chúa Giêsu, luôn luôn là dấu chỉ của sự hiệp nhất và cố gắng dung hoà cũng như tạo được sự tốt đời đẹp đạo.
--------------------------------
Vấn đề lợi dụng mạc khải
Trong ba bài Phúc Âm ba tuần trước, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mà nói với thành phần lãnh đạo: TN 29-A94
Trong ba bài Phúc Âm ba tuần trước, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mà nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái là các trưởng tế và kỳ lão, để nói cho họ biết rằng họ là người con nói làm theo ý cha song thực tế lại không, họ là nhóm tá điền bất lương sát hại con trai của chủ vườn nho để cướp đoạt gia tài của người con này, và họ là thành phần được mời đến dự tiệc cưới của vua song chẳng những đã từ chối không thèm mà còn sát hại cả người được sai đi mời nữa. Để phản ứng lại những chỉ trích của Chúa Giêsu, thành phần lãnh đạo hầu như theo phái Pharisiêu này đã làm gì? Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này (và tuần sau) đã và sẽ cho thấy rõ điều ấy. Riêng bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Thánh ký Mathêu, ngay sau câu kết thúc bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, liền cho biết phản ứng của họ như sau: “Những người Parisiêu bỏ đi và bắt đầu bày mưu để gài bẫy Chúa Giêsu trong lời nói”. Bằng cách nào? Thánh Mathêu trình thuật tiếp: “Họ sai các môn đồ của họ, có cả đám người của quận vương Hêrôđê đi theo, đến với Người mà nói: ‘Thưa Thày, chúng tôi biết Thày là một con người chân chính và thực sự dạy sống theo đường lối của Thiên Chúa… Vậy xin Thày cho chúng tôi biết Thày nghĩ thế nào về trường hợp này. Đó là vấn đề nộp thuế cho hoàng đế là việc hợp pháp hay chăng?’”
Đây là một câu hỏi rất thâm độc và nham hiểm có liên quan đến chính trị, mà nếu trả lời không khéo chắc chắn sẽ dính bẫy. Nếu trả lời nộp thuế là việc hợp pháp thì sẽ bị tố cáo là phản quốc, không thể chối cãi được, vì đã có sự chứng kiến của những người thuộc nhóm quận vương Hêrôđê hiện diện ở đó lúc bấy giờ. Nếu trả lời là không hợp pháp thì sẽ bị tố cáo là “xui dân làm loạn, chống lại việc nộp thuế cho Cesar” (Lk 23:2) như họ đã thực sự vu oan tố cáo Chúa Giêsu sau này trước tổng trấn Philatô để sát hại Người. Thế nhưng, theo đường lối tỏ mình tuyệt vời của Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng, nơi nào càng tối tăm, ánh sáng càng cần phải chiếu tới, và nơi nào càng tối tăm thì ánh sáng càng rạng ngời. Trường hợp của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cũng thế. Chúa Giêsu đã lợi dụng mưu đồ gian trá tối tăm của nhóm người Pharisiêu để mạc khải cho riêng thành phần chất vấn Người cũng như cho chung dân chúng và các môn đệ của Người có thể đang ở đấy bấy giờ một chân lý hết sức quan trọng liên quan đến phần rỗi đời đời của con người. Đó là vấn đề “hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa, và hãy trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”.
Vấn đề sử dụng tỏ mình
Thật vậy, câu trả lời vô cùng khôn khéo này của Chúa Giêsu không phải chỉ để làm cho âm mưu của nhóm Pharisiêu hoàn toàn thảm bại, làm cho họ bị dân chúng và các môn đệ của Người cười vào mặt, mà chính là để dạy cho họ cũng như cho tất cả những ai nghe Người bấy giờ và sau này rằng con người cần phải chu toàn cả nhiệm vụ của một người công dân trần thế lẫn nhiệm vụ của một người công dân Nước Thiên Chúa. Vấn đề sâu xa ở đây là dân Do Thái không muốn bị ai cai trị cả, như Đế Quốc Rôma bấy giờ đang đô hộ họ, nghĩa là họ không muốn đóng thuế cho Cêsa, họ chỉ muốn đóng thuế cho Đền Thờ, tức cho Thiên Chúa Giavê của họ mà thôi, như có lần họ đã đặt vấn đề đóng thuế đền thờ với Chúa Giêsu, Đấng đã sai Phêrô đi bắt cá ở hồ để lấy đồng tiền trong miệng nó mà đem nộp thuế đền thờ cho cả hai thày trò (x Mt 17:24-27).
Thế nhưng, thực tế cho thấy, họ chỉ đóng thuế đền thờ theo thói lệ bề ngoài, theo lề luật buộc phải giữ vậy thôi, về tinh thần, họ vẫn không thực sự “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Thật vậy, vấn đề Chúa Giêsu trả lời cho vấn nạn có âm mưu của nhóm người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nếu để ý, sẽ thấy có liên hệ đến ba dụ ngôn Người đã nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong Phúc Âm ba tuần trước. Ở chỗ, thành phần lãnh đạo Do Thái nói chung, trong đó có những người thuộc nhóm Pharisiêu, như Nicôđêmô chẳng hạn (x Jn 3:1), đã là người con chỉ làm theo ý mình, “vâng con đi”, mà thực tế không làm theo ý cha, tức họ đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”; hay họ đã là bọn tá điền làm vườn nho cho chủ nhưng không sinh hoa lợi cho chủ như ý chủ muốn, lại còn sát hại các thừa sai của chủ, kể cả người con trai duy nhất của chủ, tức họ đã thực sự không “trả về cho Thiên Chúa nhưng gì của Thiên Chúa”; hoặc họ đã là những người được chính thức mời đến dự tiệc cưới của vua, song đã từ chối không chịu đến dự, thậm chí còn ra tay sát hại những đầy tớ của vua sai đi mời họ, tức là họ cũng đã không chịu “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”.
Phải chăng, chính vì họ đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, mà Ngài đã để họ bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, như họ đã nhiều lần chịu những cảnh như vậy trong giòng lịch sử cứu độ của họ? Thế nhưng, trong chính những lúc như vậy, chính lúc bị ức hiếp, họ mới nhớ đến Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể cứu thoát họ, và họ mới thấy lầm lỗi của mình, mới thấy rằng mình đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Để rồi, sau khi họ nhận lỗi và kêu cầu Thiên Chúa, tức “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, Ngài mới ra tay cứu thoát họ. Dù sao, trước mắt dân Do Thái, hay bất cứ một dân tộc nào khác, đế quốc vẫn là một cái gì bất nhân, bất hợp pháp, nhất định cần phải lật đổ và loại trừ. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là chủ của lịch sử loài người, Ngài có thể sử dụng hay lợi dụng tất cả mọi biến cố lịch sử, mọi con người lịch sử để thực hiện ý định vô cùng trọn lành và sâu nhiệm của Ngài trong lịch sử và cho lịch sử. Những lời Chúa phán qua miệng Tiên Tri Isaia trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật tuần này đã cho thấy rõ điều ấy. “Vậy Chúa phán cùng vị được Ngài xức dầu là Cyprus, kẻ đã được Ta cầm lấy bàn tay phải, bắt các dân qui phục hắn, làm cho các vua chúa phải cung phụng hắn, mở các cửa ra cho hắn vào, không cài khóa cổng môn”.
Vấn đề đức tin tuân phục
Phải, Thiên Chúa có quyền sử dụng hay lợi dụng bất cứ một nhân vật lịch sử nào, trong một thời điểm nào đó, để thực hiện ý định toàn năng của Ngài trong lịch sử, tức để hoàn tất dự án lịch sử cứu độ bất biến của Ngài. Điển hình là hoàng đế Ba Tư Cyprus trên đây, một vị hoàng đế (năm 545 BC) được Giavê Thiên Chúa dùng để sau khi cho ông chiếm được Babylon (năm 539 BC), đã truyền lệnh cho phép dân Do Thái bị lưu đầy được hồi hương xây lại Đến Thờ và Thành Thánh của họ (x 2Chr 36:22f; Ezr 1:1-4). Đó là lý do, trong phần hai của bài đọc một hôm nay, Thiên Chúa đã mạc khải ý định của Ngài với vị hoàng đế công cụ này như sau: “Vì Giacóp tôi tớ của Ta, vì Yến Duyên người được Ta tuyển chọn, mà Ta đã gọi đích danh ngươi, ban cho ngươi một danh hiệu, cho dù ngươi chẳng hề biết Ta. Ta là Chúa, không còn ai khác, không có Chúa nào ngoài Ta cả. Mặc dù ngươi không hề biết Ta, bản thân Ta cũng đã ẵm lấy ngươi, để từ lúc mặt trời mọc lên cho tới khi lặn xuống con người ta có thể nhận biết rằng không có Chúa nào ngoài Ta”.
Nếu “không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa mà ra, và tất cả mọi quyền bính đều do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13:1), thì, sau khi xác tín như thế, Vị Tông Đồ Dân Ngoại liền khẳng định: “Bởi thế, người nào chống lại quyền bính là chống lại mệnh lệnh của Thiên Chúa” (Rm 13:2). Đó là lý do, theo ý nghĩa của lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này “của Cêsa hãy trả cho Cêsa” tức là phải tỏ ra tôn kính và tuân phục đế quốc. Tuy nhiên, các nước bị đô hộ tỏ ra tôn kính và tuân phục đế quốc trần gian chính trị không phải chỉ vì sợ đế quốc, một chế độ tự bản chất bất nhân chắc chắn sẽ không thể nào tồn tại với thời gian, như lịch sử cho thấy, mà là tôn kính và tuân phục chính Thiên Chúa, Đấng làm chủ lịch sử, Đấng đã phán “ngoài Ta không còn Chúa nào khác”, chứ đừng nói tới Hitle, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot v.v. những con người cũng chết như bao nhiêu triệu người họ đã tán sát. Ở đây, chắc chắn Chúa Kitô không có ý nói con người bị đô hộ không được phép chống lại những bất công gian ác của đế quốc, cả đế quốc cộng sản cũng như tư bản, nhưng Người chỉ có ý dạy con người hãy chấp nhận mọi sự theo ý Đấng Tối Cao, hãy nhìn tất cả mọi biến chuyển lịch sử bằng con mắt đức tin, và hãy phản ứng bằng nhận thức thần linh.
Vấn đề truyền bá phúc âm
“Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” là ở chỗ này. Như thế có nghĩa là, chính khi con người “trả cho Cêsa những gì của Cêsa”, thì đồng thời con người cũng thực hiện và chu toàn việc “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Hay nói ngược lại, nói một cách thực tế hơn, hãy “trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, tức hãy tin vào Ngài, con người mới có thể “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”. Bằng không, như thực tế cho thấy, có những chính trị gia Công Giáo nói riêng và Kitô hữu nói chung, một khi “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” thì họ không còn gì để “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” nữa, thậm chí làm hại đến tất cả những gì Ngài trao cho họ, như việc họ phò quyền tự quyết tuyệt đối pro-choice, chứ không phò quyền sự sống pro-life, nơi quốc hội cũng như trong đời sống hôn nhân gia đình của mình. Ngược lại, thực tế cũng không thiếu những trường hợp cho thấy, chính khi con người “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” thì họ lại quên hay không muốn “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”, như trường hợp được Thánh Gioan Tông Đồ nhắc nhở: “Ai nói rằng ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối” (1Jn 4:20). Gương điển hình nhất của việc “trả về cho Cêsa những gì thuộc về Cêsa, trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” là gương của một Thiếu Nhi Giêsu 12 tuổi đã ở lại nhà Cha trên trời của Người nhưng sau đó cũng đã trở về Nazarét vâng phục cha mẹ trần gian của Người (x Lk 2:49, 51).
Đến đây chúng ta đã thấy được bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này liên quan đến Chứng Từ Giáo Hội là chủ đề của toàn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh ra sao. Đó là vấn đề truyền bá phúc âm hóa, tức vấn đề đã được Thánh Phaolô nói với Kitô hữu Thessalonica trong bài đọc thứ hai Chúa Nhật tuần này, đó là “việc rao giảng phúc âm đã cho thấy không phải chỉ là vấn đề thuần túy ngôn từ mà là vấn đề quyền năng; một việc rao giảng trong Chúa Thánh Thần và bởi việc hoàn toàn xác tín mà ra”. Tóm lại, có nghĩa là, chỉ khi nào con người sống đức tin thuần túy, hoàn toàn biết “dâng lên Chúa vinh quang và vinh dự”, như câu họa của bài Đáp Ca Chúa Nhật tuần này, bấy giờ họ mới có thể thực sự “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” nơi tất cả “những gì của Cêsa trả cho Cêsa” họ thực hiện trong cuộc sống trần gian của họ qua mọi hoàn cảnh họ sống.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
--------------------------------
Của Caesar, của Thiên Chúa”. Có lẽ bạn cũng như tôi đã nghe nhiều lần về câu nói này của Chúa: TN 29-A95
“Của Caesar, của Thiên Chúa”. Có lẽ bạn cũng như tôi đã nghe nhiều lần về câu nói này của Chúa Giêsu. Và tùy vào hoàn cảnh, câu nói ấy được diễn nghĩa cho phù hợp mỗi lãnh vực và mỗi vấn đề.
Của Caesar. Ông thì có bao nhiêu của cải, và của cải ấy hiện nay ở đâu: bất động sản hay động sản. Hoặc những của cải ấy trị giá bao nhiêu. Thật vậy, đế quốc Rôma của ông ta nay cũng không còn nữa. Vương quốc của ông, thần dân của ông, và cả chính ông cũng đã trở thành lịch sử. Người đời họa lắm mới nhớ tới ông, chẳng hạn như hôm nay qua trích đoạn Tin Mừng mà Giáo Hội vừa lập lại.
Còn Thiên Chúa? Dĩ nhiên là hết mọi sự chúng ta có: sự sống, tài năng, sức khỏe, tiền bạc, và toàn thể vũ trụ, trên trời, dưới đất. Tất cả đều là của Thiên Chúa. Đúng vậy, sự sống của bạn và của tôi. Chúng ta được sinh ra vào đời, và mang theo mình những ơn gọi khác nhau, và được đặt định vào thế gian với những hoàn cảnh, trường hợp khác nhau. Chúng ta lớn lên, học hành, làm việc, và sinh hoạt. Trong mọi cảnh ngộ, cuộc sống của chúng ta đều nằm trong quan phòng của Thiên Chúa, như Ngài đã nói: “Tóc trên đầu chúng con đã được đếm hết” (Mt 10:30). Rồi tất cả những sự việc xẩy ra trên vũ trụ này có liên quan đến vận mệnh bạn và tôi. Tất cả cũng đã được Thiên Chúa cân đo, và an bài.
Cốt lõi câu nói trên của Chúa Giêsu, do đó, nằm ở chỗ Kitô hữu chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa tâm linh trong chủ ý phân biệt giữa của cải thiêng liêng và của cải vật chất. Giữa thế gian và Thiên Thiên Chúa. Ngoài ra, chẳng có ai làm chủ được vũ trụ này, và thế giới này, ngoại trừ chính Chúa. Tất cả đều là của Chúa.
1. Khi Chúa Giêsu phân chia ranh giới giữa Thiên Chúa và Caesar: “Của Caesar trả cho Caesar, và của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa” (Mt 23:21), Ngài không có ý nhắm đến một ý nghĩa vật chất. Ngài không hạ mình so sánh Thiên Chúa và Caesar. Nhưng chỉ muốn nhắm đến ý nghĩa quyền lực và thế giới vật chất với quyền lực và thế giới tinh thần. Giữa những cái thuộc về vật chất và giữa những cái thuộc về Thiên Chúa. Và Ngài muốn con người phải nhận rõ giá trị cũng như những giới hạn và quyền lợi này.
Ngài muốn con người phải biết cái gì thuộc về Thiên Chúa để ca tụng, yêu mến và tôn thờ Ngài. Cũng như Ngài muốn con người phải biết những gì thuộc về thế gian để đừng bận tâm, lo lắng, và chôn bám vào thế giới vật chất. Đồng thời, do nhận biết giới hạn và quyền lợi của những gì thuộc về thế giới hữu hình này, con người càng có lý do để cảm tạ Đấng đã ban tặng mình những thứ đó như một ân huệ phát xuất từ tình thương của Ngài. Dù sở hữu cái gì trên mặt đất này đi nữa, thì tất cả cũng chỉ là: “Phù hoa nối tiếp phù hoa, của đời hết thảy chỉ là phù hoa”. Khi xuôi tay nhắm mắt, gia tài cuối cùng của mỗi người cũng chỉ là một nấm mộ.
Sự nhận thức rõ ràng này không làm cho con người mất đi sự tự do hưởng dùng cũng như làm chủ những của cải vật chất, là những thứ mà Thiên Chúa ban tặng cho con người do lòng yêu thương của Ngài, để con người hưởng dùng cách chính đáng như những phương tiệc cần thiết cho cuộc sống. Nhưng chỉ là một nhắc nhở con người về Đấng là chủ tể mọi loài trong đó có con người.
2. Nhận biết những giá trị của vật chất, đưa đến ý niệm giúp con người sống bình an và thanh thản với cuộc đời bằng tinh thần “nghèo” Phúc Âm. Một tinh thần mà chính Chúa Giêsu đã chúc phúc trong lời chúc phúc đầu tiên khi Ngài khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó” (Mt 5:3).
Thái độ sống không lụy vì vật chất ấy sẽ đưa con người đến nguồn phúc ân là tâm hồn bình an, và thanh thản không bị vấn vương, chôn bám vào vật chất. Từ tâm hồn và nếp sống bình an, con người sẽ khám phá ra sự quan phòng và lòng thương yêu của Thiên Chúa luôn luôn có đó để nâng đỡ, và ban ơn cho con người. Không lo lắng, băn khoăn. Không đau khổ vì của cải vật chất. Không bị cơn ác mộng tiền bạc làm hoảng sợ. Đó là một hồng phúc.
3. Trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar, và trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, như thế, không chỉ gồm ý nghĩa đơn thuần của việc nhận thức được những giá trị khác biệt giữa vật chất và tinh thần, giữa thế gian và Thiên Chúa. Sự nhật thức này còn dẫn ta đến một nhận thức tối hậu vai trò Thiên Chúa như chủ nhân của hết mọi của cải trần gian, để từ đó dẫn con người đến ý niệm biết chia sẻ và sẳn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Đây là điều bác ái Công Giáo đòi hỏi mỗi khi con người nhận ra những nhu cầu cần thiết của anh chị em mình, và điều mà mình có thể và có khả năng chia sẻ. Bởi vì, do ý thức tất cả là của Chúa ban, và con người có bổn phận sở hữu những của cải vật chất và tinh thần ấy như ý Thiên Chúa, nên việc chia sẻ, giúp đỡ, và bác ái với anh chị em là một hành động thực tế đi liền với lòng biết ơn và thâm tín về giới hạn của mình.
Tóm lại, khi Chúa Giêsu bảo ta phải trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar và trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, Ngài đã bằng cách nói so sánh trên đưa chúng ta về với giá trị ơn gọi đích thực của mình, ơn gọi là con Thiên Chúa, và đồng thời, nhắc chúng ta phải sống đúng với ơn gọi ấy. Đã là con Thiên Chúa thì con người còn phải sợ hãi, lo lắng gì. Vì tất cả là của Chúa. Trên trời, dưới đất là của Ngài. Ngài tạo dựng và ban cho con người. Và như vậy, con người có lý do gì mà hãnh diện về những gì mình có. Phải bơn chải để thu tích những cái không thuộc về mình. Và phải hoang mang sợ hãi khi không có những điều này.
Tuy nhiên, để sống với nhận thức ấy, con người chỉ cần phải can đảm từ bỏ đi những mối bận tâm, lo lắng, và sự thu hút bởi của cải vật chất. Những thứ ấy không những làm cho con người mất đi ý niệm vai trò con Thiên Chúa của mình. Ngược lại, kéo ghì con người xuống hố sâu của tham lam, ích kỷ; nhất là sự tôn sùng vật chất coi như chúa tể.
Sống thanh thản, sống phó thác, và sống đơn sơ không lệ thuộc vào vật chất, đó là một ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho những ai biết và: “Trả về cho Caesar những gì thuộc về Caeser, và trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (Mt 23:21).
T.s. Trần Quang Huy Khanh
--------------------------------
Mt 22, 15-21
Không chớp. Mắt cứ mở to ánh lên sự lo lắng. Tôi nhìn đăm đăm vào Chúa. Có cái bẫy gài ngang: TN 29-A96
Không chớp. Mắt cứ mở to ánh lên sự lo lắng. Tôi nhìn đăm đăm vào Chúa. Có cái bẫy gài ngang dưới chân Ngài. Tiến cũng chết, mà lùi cũng chết. “Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Xêda không?” Cái bẫy nằm ở đấy. Trả lời rằng có, sẽ bị ném đá. Vì như thế là phản bội lại dân tộc. Trả lời rằng không, sẽ bị vào tù. Vì như vậy là chống lại chính quyền. Những người gài bẫy đang mở cờ trong bụng. Bởi chiến thắng cầm chắc trong tay.
Rất thanh thản, Chúa bảo đưa đồng tiền cho Chúa coi. Đồng tiền có hình và danh hiệu của Xêda. Câu trả lời mở ra một ý thức quan trọng. Mỗi người đều có hai trách nhiệm cùng lúc: một là trách nhiệm với Chúa, Đấng tạo dựng nên mình. Hai là trách nhiệm đối với xã hội. Không phải chỉ những người Kitô hữu, mà tất cả mọi người. Như đồng tiền chỉ có một nhưng lại có hai mặt. Vì thế, phải thi hành hai trách nhiệm ấy cùng một lúc. Không chỉ giữ điều này mà bỏ điều kia. Việc xây dựng Nước Chúa là điều phải làm. Nhưng đồng thời cũng phải hoàn thành nghĩa vụ xây dựng xã hội.
Nhưng có một điều cần lưu ý: tuy cùng phải lo hai trách nhiệm, nhưng hai trách nhiệm ấy không cân xứng bằng nhau. Vì cái gì của Chúa phải trả cho Chúa. Chết rồi! Ta nợ Chúa từ bàn chân đến đỉnh đầu. Từ hơi thở đầu đời, đến cả thân xác diệu kỳ của ta. Nợ Chúa từ mảnh đất ta đang đứng, đến giọt nước mưa tưới mát cuộc đời. Nợ Chúa từng sợi nắng trong, đến từng làn gió mát… Và nhất là, nợ Chúa từ cánh tay quan phòng, đến hồng ân cứu rỗi mà Chúa đã đánh đổi bằng cả mạng sống mình. Nếu phải hoàn trả sòng phẳng công bằng, ta phải trả lại cho Chúa tất cả. Nếu có còn chăng, để trả lại cho Xêda những gì của ông ấy, phải chăng là những quyết định nông nổi, dại khờ, là những u mê, lạc lối. Chính vì thế, khi đi xây dựng trần đời, người ta phải đi theo đường lối của Chúa và không được làm ngược lại với lời dạy của Ngài.
Câu hỏi gợi ý:
1* Hãy bước lên cân, bạn thuộc về Chúa, hay về Xêda?
2* Bạn thử nghĩ coi: trong con người bạn, cái gì là của bạn làm ra?
Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
----------------------------------
(Mt 22, 15-22)
Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người: TN 29-A97
Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.
Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa
Chúng ta khẳng định, Chúa Giêsu là Lời sống động của Thiên Chúa thế mà con người lại cố tìm để bắt lỗi Lời của Ngài! Con người nói: "Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa", nhưng vẫn cứ hỏi: "Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" (Mt 22, 17). Hỏi để mà hỏi, không phải để biết cho bằng gài bẫy. Thực tế nhóm Pharisiêu lại tự bẫy và trói chặt mình trong câu hỏi lưỡng nan ấy. Bằng cách từ chối đơn giản hóa vấn đề của đối phương, Chúa Giêsu đặt ra vấn đề căn bản mới và thiết yếu là: ai đứng vào vị trí Thiên Chúa?
Chính vì họ hỏi con đường của Thiên Chúa, "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy … dạy bảo đường lối Thiên Chúa" (Mt 22, 16), nên Người dẫn họ đi theo hướng đó, đây là tất cả giáo lý của Chúa. Thấu hiểu tâm tư của họ, Chúa bảo họ đưa cho xem đồng tiền, xem xong, thấy có khắc hình của một hoàng đế trên đồng tiền, họ khẳng định đó là hình của Cêsarê, Chúa nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê" ( Mt 22, 21).
Thực tế, người Do thái không nhận biểu tượng hình ảnh này, dù Cêsarê được biết đến là một hoàng đế tự cọi mình là thần đi chăng nữa, ông cũng chỉ là một con người. Theo Lời Chúa trong sách Sáng Thế, chỉ có Thiên Chúa làm ra con người giống hình ảnh Chúa cách sống động: "Chúng ta làm ra con người giống hình ảnh chúng ta và giống chúng ta" (St 1, 26). Hãy trả đồng tiền này cho chủ nhân của nó và hãy trả cho Thiên Chúa linh hồn chúng ta.
Linh hồn chúng ta thuộc về Chúa
Đồng tiền mang hình ảnh của Cêsarê, nhưng linh hồn chúng ta là chính hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thể theo thánh vịnh: " Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Người trên chúng tôi". (Tv 4, 7) ... Ánh tôn nhan Thiên Chúa là ánh của ân sủng ghi dấu trên chúng ta hình ảnh Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài, ánh tôn nhan Chúa còn là ấn tích được ghi trong trí chúng ta, chúng ta nhận biết ai đó nhờ khuôn mặt của người ấy, thì Thiên Chúa cũng nhận biết chúng ta nhờ tấm gương của lý trí. Nhưng lý trí này đã bị biến dạng do tội lỗi con người, vì tội lỗi khiến con người chống lại Thiên Chúa. Ân sủng Đức Kitô sửa chữa lại lý trí chúng ta. Đó là lý do tại sao thánh Tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Êphêsô rằng: " Hãy đổi mới tình thần " ( Ep 4, 23). Ánh sáng ở đây còn là ân sủng, nhằm phục hồi hình ảnh Thiên Chúa ghi khắc trong chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi đã khắc ghi vào con người hình ảnh giống Ngài. Con người giống Chúa Cha ở điểm trí nhớ, giống Chúa con ở trí hiểu, giống Chúa Thánh Thần ở chỗ biết yêu mến… khi tạo dựng, con người được dựng lên " giống hình ảnh Chúa" (St 1, 26). Hình ảnh trong sự nhận biết chân lý, tương tự trong nhân đức yêu thương. Ánh tôn nhan Thiên Chúa chính là ân sủng công chính hóa chúng ta và một lần nữa cho thấy hình ảnh được tạo ra. Ánh sáng này là tất cả những điều tốt đẹp nơi con người, được ghi dấu, như hình ảnh của nhà vua trên đồng tiền. Đó là lý do tại sao Chúa nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê" (Mt 22, 21). Điều này ý nói: phải trả cho Cêsarê hình ảnh của Caesar, trả cho Thiên Chúa linh hồn anh em, đã được điểm tô và ghi dấu ánh sáng tôn nhan Thiên Chúa. Chúng ta không thể trao cho Cêsarê linh hồn của chúng ta, nó luôn thuộc về Chúa.
Mọi sự là của Chúa
Lời Chúa Giêsu nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa"( Mt 22, 21) xác lập một sự khác biệt sâu xa giữa thiêng liêng với thế trần, làm nền tảng cho sự tìm kiếm của người kitô hữu trên mặt đất này. Con người là trung tâm và tột đỉnh của sự sáng tạo, phẩm giá con người hiện nay được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó, chúng ta phải phân biệt hai chủ quyền khác nhau của Thiên Chúa trên thế giới. Cêsarê và Chúa không ở cùng một cấp độ, Chúa là Đấng Sáng Tạo, Chúa tể trời đất, Cêsarê là hoàng đế, những ông cũng chỉ là một thụ tạo, một con người, ông phải phụ thuộc vào Chúa và cũng phải trả lẽ trước mặt Chúa, đây không phải là Thiên Chúa hoặc Cêsarê mà là Thiên Chúa và Cêsarê, mỗi vị trong cấp độ xứng hợp riêng của mình.
Vậy "Trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê" nghĩa là trả cho Cêsarê những gì chính Chúa muốn trao cho Cêsarê. Chúa thống trị trên tất cả kể cả Cêsarê, nên Thiên Chúa làm chủ quyền thiêng liêng Nước Chúa được thực thi trong Chúa Kitô qua Giáo hội của Người. Đương nhiên, Ngài làm chủ cả thế tục và thể chế chính trị mà Chúa thực hiện gián tiếp qua các quyền bính thế gian. Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã từng nói rõ với Philatô khi ông nói với Chúa: "Ông không biết rằng ta có quyền tha ông, mà cũng có quyền đóng đinh ông hay sao?" (Ga 19, 10) Chúa Giêsu đáp: "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho" (Ga 19, 11). Thánh Phaolô là người đầu tiên nhìn thấy hiệu quả của giáo huấn này nên viết: "Mọi người hãy phục tùng chính quyền bởi vì không có quyền bính nào mà không đến từ Chúa. Ai chống lại quyền bính thì chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra… đó là lý do tại sao anh em phải nộp thuế bởi vì chính quyền chịu trách nhiệm như những người phục vụ Chúa" (Rm13,1).
Trước khi vâng lời con người, chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa và lương tâm chúng ta. Đó cũng là nghĩa vụ của chúng ta phải nói với Cêsarê, cụ thể với quyền bính thế gian rằng, hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Đấng tạo thành trời đất và là chủ muôn loài, tất cả thuộc về Chúa, xin cho chúng con biết luôn hướng lòng về Chúa và tôn thờ Chúa là Chúa chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ (TGP. Hà Nội)
----------------------------------
Thời bấy giờ, dân Do Thái đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Lamã. Có những kẻ cộng tác: TN 29-A98
Thời bấy giờ, dân Do Thái đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Lamã. Có những kẻ cộng tác với đế quốc, thì ủng hộ việc nộp thuế. Nhưng cũng có những người muốn lật đổ ách thống trị, thì chống đối việc nộp thuế, bởi vì làm như thế chẳng khác nào nối giáo cho giặc.
Trong một bối cảnh như vậy, câu hỏi có nên nộp thuế cho César hay không, quả là một cái bẫy. Trả lời là có thì mất lòng dân. Còn trả lời là không thì sẽ bị kết án là chống đối nhà nước. Trước hết Chúa Giêsu bảo họ đưa cho mình xem đồng tiền La mã. Hành động này đẩy họ vào cái thế phải trả lời cho chính câu hỏi đã nêu ra, bởi vì mang trong người đồng bạc La mã là chấp nhận những sự ràng buộc của La mã. Tiếp đến hình và chữ ký trên đồng tiền này đã đem lại cho Chúa Giêsu một câu trả lời đầy lý tưởng: Của César hay trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Với câu trả lời này, Chúa Giêsu không nề nhằm mục đích đưa ra nền tảng cho một học thuyết chính trị, cũng không hề có ý định tách biệt thế giới làm hai. Một thuộc về César, một thuộc vê Thiên Chúa. Ngài để việc này tuỳ cá nhân quyết định vì mỗi người phải giải quyết về những đối nghịch giữa Thiên Chúa và trần gian.
Là người Kitô hữu, chúng ta có hai quyền công dân đi đôi với nhau, sở dĩ như vậy vì chúng ta là công dân của hai thế giới, đó là thế giới trần gian và thế giới thiên quốc. Như vậy, chúng ta phải tôn trọng những đòi buộc của mỗi bên. Chính vì thế mà trong bức thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Hãy vâng phục các vị cầm quyền, hãy nộp cho họ những gì chúng ta mắc nợ. Mong rằng giữa hai quyền công dân này không bao giờ xảy ra những xung đột, nhưng luôn đi song song và bổ túc cho nhau, vì đạo chỉ đẹp khi ở trong đời và đời chỉ tốt khi ở trong đạo.
Còn nếu chẳng may xảy ra xung đột thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết: Vâng phục Thiên Chúa hơn vâng phục loài người. Đó là cách thức đã từng được người Kitô hữu giải quyết trong dòng lịch sử, mỗi khi có những cấm cách và bách hại xảy đến.
Vua Henri VIII nước Anh đã kết hôn hợp pháp, nhưng rồi ông xin Đức Giáo Hoàng huỷ bỏ cuộc hôn nhân hợp pháp ấy. Vì không có nền tảng chính đáng, Đức Giáo Hoàng đã từ chối. Và thế là ông ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một bản tuyên bố đồng ý chấp nhận hành động của ông. Nhiều người đã ký, nhưng Thomas More thì từ chối. Nhà vua yêu cầu Thomas More ý vào nếu không sẽ bị tống giam và khép vào tội phản loạn, nhưng Thomas More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận. Một đối với Thiên Chúa và một đối với nhà vua. Và khi chúng chống đối nhau, ngài không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc trung thành với lề luật của Thiên Chúa.
Bởi vì, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất, phải chiếm địa vị số một trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng ta.
----------------------------------
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
CỦA XÊ-DA, TRẢ VỀ XÊ-DA; CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Những người biệt phái và những người thuộc phe Hê-rô-đê âm mưu gài bẫy hãm hại Chúa Giêsu: TN 29-A99
Những người biệt phái và những người thuộc phe Hê-rô-đê âm mưu gài bẫy hãm hại Chúa Giêsu. Khởi đầu, họ đưa ra những lời mật ngọt để dụ Người đi vào cạm bẫy: "chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai..." rồi tiếp đó, xô Chúa Giêsu vào tròng: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?"
Trả lời đằng nào cũng mắc nạn. Nếu bảo rằng: được phép, thì người Do-Thái sẽ vin vào đó mà kết án Chúa Giêsu là người ủng hộ đế quốc Rô-ma, phản bội đồng bào; nếu bảo không thì họ sẽ tố giác Người với chính quyền Rô-ma với tội danh là xúi dân đừng nộp thuế.
Chúa Giêsu biết ngay mưu đồ thâm độc của họ, Người lách khỏi cạm bẫy cách tài tình khi đề nghị họ cho Người xem đồng tiền nộp thuế và yêu cầu họ trả lời hình và hiệu trên đồng tiền đó là của ai. Họ trả lời: "của Xê-da". Chúa Giêsu mượn cơ hội đó để nêu lên cho mọi người một nhận định đáng quan tâm suy nghĩ: "của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
* * *
1. Mọi sự đều là của Chúa, nếu Người lấy đi, ta chẳng còn gì
Mọi thứ chúng ta có đều là của Chúa ban. Nếu Chúa cất đi những gì Chúa ban, thử hỏi chúng ta còn lại được gì?
Chúng ta hãy nghe lại chuyện ông Gióp để hình dung xem khi Chúa lấy lại những gì Chúa trao thì con người còn lại những gì.
"Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông...
Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên Chúa. Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác.
Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa như vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ tay rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!
Thiên Chúa chấp thuận để cho Satan thử thách lòng trung tín của ông Gióp đối với Người.
Vậy là một ngày kia, đang khi các con trai con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người đưa tin đến cho ông Gióp rằng:
- Trong lúc bò của ông đang cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn dùng gươm giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Người nầy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (Gióp 1, 6-22).
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta biết rằng: mọi sự ta có đều là của Chúa tạm ứng cho ta hưởng dùng, nếu mai đây Chúa đòi lại thì chúng ta không khác gì ông Gióp: trần trụi, chơ vơ, chẳng còn gì!
Nhờ đôi mắt Chúa ban, chúng ta được nhìn thấy vẻ huy hoàng của thế giới; nếu Chúa lấy đi, chúng ta thành kẻ mù loà. Đôi chân nầy cũng là ân huệ Chúa ban, nhờ đó chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi đâu mình muốn; nếu Chúa lấy đi, chúng ta trở thành người tàn phế. Nhờ hơi thở Chúa ban, chúng ta còn tồn tại đến hôm nay; nếu Chúa cất đi, chúng ta tắt hơi sau năm phút. Nhờ ánh sáng mặt trời Chúa ban, chúng ta được sưởi ấm và được sống; nếu Chúa lấy đi, chúng ta sẽ chết cóng vì lạnh sau nửa tiếng đồng hồ... Chúa ban cho chúng ta tất cả, chúng ta là những kẻ mắc nợ Ngài trong tất cả những gì chúng ta có.
Ngoài những món quà vật chất còn có vô số ân huệ thiêng liêng, mà ân huệ lớn nhất là Thiên Chúa Cha đã trao ban cho ta ngay cả Con Một của Người để mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu khổ hình và chịu chết thay cho chúng ta.
Ngoài ra chúng ta cũng mang nợ xã hội rất nhiều: Thợ hồ xây nhà cho ta ở; thợ mộc đóng bàn ghế cho ta dùng; thợ may cung cấp cho ta quần áo che thân; thầy giáo cho ta tri thức và văn hoá; cha mẹ sinh ra, nuôi dạy chúng ta được khôn lớn như ngày hôm nay...
2. Hãy đền đáp công ơn Thiên Chúa vì những ân huệ Người ban tặng cho ta.
Trong tương quan xã hội, người Việt Nam có truyền thống đáp nghĩa đền ơn rất chu đáo. Bánh ít đưa đi, bánh dì đưa lại. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Hôm nay có dịp nhận quà mừng của người khác, mai đây người ta không quên đáp lại bằng một quà mừng tương xứng.
Nợ người đời tuy ít mà người ta còn lo đáp đền sòng phẳng, huống là những món nợ rất lớn đối với Thiên Chúa toàn năng.
Thầy giảng Anrê Phú Yên là một vị thánh tử đạo rất trẻ, là học trò của cha Đắc Lộ. Thầy được lãnh bí tích rửa tội năm 15 tuổi, được đào tạo và trở thành giáo lý viên năm 17 tuổi và đến năm 19 tuổi thì bị quan quân bắt bớ.
Thầy vui lòng được chết để làm chứng cho Tin Mừng và cho Chúa Kitô. Ước vọng của thầy là muốn dâng hiến trọn vẹn cuộc đời để đền đáp lại ân tình của Chúa. Ước vọng đó được thầy diễn tả qua câu nói: "Đem mạng sống đáp đền mạng sống, lấy tình yêu đáp trả tình yêu." Thiên Chúa đã yêu thầy vô cùng thì thầy cũng đáp lại bằng tình yêu thật lớn. Thiên Chúa đã chết cho thầy thì thầy cũng muốn dâng hiến mạng sống thầy cho Chúa. Đó cũng là nội dung lời dạy trong Tin Mừng hôm nay: hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người.
Cùng nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta không vô ơn và tự phụ khi nhận được rất nhiều ân huệ của Thiên Chúa nhưng biết dâng hiến tất cả những gì Chúa ban, từ thời giờ, sức lực, trí tuệ đến tài năng, của cải và trọn cuộc sống chúng ta để báo đền vô vàn hồng ân Thiên Chúa.
------------------------------------------
– Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện kể rằng: có một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới: TN 29-A100
Có một câu chuyện kể rằng: có một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng giàu sang. Khi đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự, nhưng vẫn mang dáng dấp quê mùa với bộ đồ đã bạc màu, cũ kỹ. Sợ khách chê cười và xem thường mình, cô con gái không dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Dù rằng, cô vẫn biết bà mẹ nhà quê rất tủi thẹn, nhưng cô vẫn lạnh lùng làm ngơ. Cô con gái đã đánh mất lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Cô là loại người vong ân bội nghĩa. Cô đã phạm tội bất hiếu khi đang tâm không nhìn nhận công đức của mẹ đã dành cho cô: "chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, tất bật nuôi con cho tới khi trưởng thành". Những loại người như vậy thường bị người đời kết án, tẩy chay, xem thường...
Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm chúng ta. Của Xê-za hãy trả về cho Xê-za, của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa. Của Xê-za có thể là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay có thể là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội. Của Thiên Chúa chính là con người phải lệ thuộc vào Thiên Chúa vì sự sống là của Thiên Chúa ban, và còn được Ngài ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Của Thiên Chúa còn là những kỳ quan thiên nhiên mà Thiên Chúa đã quan phòng xếp đặt cho có thời, có lúc để nuôi dưỡng con người. Chính vì thế mà có ai đó nói rằng: con người sinh ra đã mang kiếp nợ trần. Con người đã mang ơn khi vào trần gian nên phải trả nợ cho hết cuộc đời. Trả nợ Thiên Chúa và trả nợ tha nhân.
Vậy, chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì?
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa. Đó chính là con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là "nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng đáng tiếc, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa... khiến con người trở thành "chó sói của con người" như lời của Saint paul Sart đã từng thốt lên trong chua chát!
Hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Nhưng đáng tiếc, con người đã lạm dụng tự do để bức tử các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình.
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Nhưng đáng tiếc, con người đã đang tâm phá vỡ khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường...
Hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, tình mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi.
Hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thượng Đế ban tặng qua vũ trụ vạn vật. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trả lại cho Thiên Chúa sự trong trắng tâm hồn của con người là hình ảnh ban đầu mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Hãy trả lại cho tha nhân không chỉ là quyền được sống mà còn được sống dồi dào trong sự tôn trọng tự do của nhân quyền giữa người với người, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc . . .
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi giá trị đang mai một và đảo ngược. Ngay thẳng thật thà thì bị coi là ngu khờ dại dột... "Lương tâm không bằng lương tháng". Một xã hội mà dối trá đang ngự trị khắp nơi mà có ai đó nói trong cay đắng rằng: xã hội hôm nay đang tiến từ thời kỳ đồ đá, đồ đồng sang thời kỳ "đồ đểu"! Một xã hội mà Cái TÔI lên ngôi Thượng Đế nên có quá nhiều những thị phi. Con người hôm nay đang lừa dối lòng mình và lừa dối tha nhân khi nói rằng: không có Thiên Chúa, không có thần linh. Chết là hết... Vì vậy mà người ta luôn đang tâm làm hại lẫn nhau, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa để dễ dàng làm ngược với lương tri con người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết nhận ra sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban và được nuôi dưỡng trong tình yêu thương của đồng loại, để rồi mỗi người chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tri ân Thiên Chúa và cảm tạ tha nhân. Amen.
------------------------------------------