Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 29 TN-A Bài 101-150: Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa
------------------------------------------
Tin mừng: Mt 22,15-21
15 Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy. 16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”
18 Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19 Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người một quan tiền. 20 Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây ?” 21 Họ đáp: “Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
------------------------------------------
Mục lục:
TN 29-A101: Ác ngầm – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn. 2
TN 29-A102: CỦA CESAR, TRẢ VỀ CESAR CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA.. 5
TN 29-A103: Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. 7
TN 29-A104: Nộp thuế hay không nộp thuế. 9
TN 29-A105: Chúa Nhật 29 TN A.. 11
TN 29-A106: Trả cách sòng phẳng. 14
TN 29-A107: Song hành. 16
TN 29-A108: Cái gì của Cêsar hãy trả cho.... 18
TN 29-A109: Xin Thầy cho biết ý kiến. 20
TN 29-A110: CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN.. 22
TN 29-A111: Sống có trách nhiệm.. 23
TN 29-A112: TÔI LÀ CÔNG DÂN NƯỚC TRỜI, HAY CÔNG DÂN TRẦN THẾ, HOẶC CẢ HAI?. 25
TN 29-A113: Bổn phận đối với Chúa và xã hội 29
TN 29-A114: Phải trả về cho ai?. 30
TN 29-A115: CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN, NĂM A.. 38
TN 29-A116: Hãy trả cho Xêda. 42
TN 29-A117: SCĐ CHÚA NHỰT XXIX THƯỜNG NIÊN A.. 43
TN 29-A118: SUY NIỆM CN 29 TN A.. 49
TN 29-A119: CỦA XÊ-DA TRẢ LẠI CHO XÊ-DA.. 51
TN 29-A120: Mọi sự là của Chúa, hãy trả Thiên Chúa. 53
TN 29-A121: THIÊN CHÚA và XÊ DA.. 55
TN 29-A122: Những câu hỏi giúp mọi người dễ hiểu bài tin mừng. 57
TN 29-A123: Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật XXIX TN A.. 70
TN 29-A124: Suy niệm của Nhóm Đồng Hành. 79
TN 29-A125: Chú giải của Noel Quesson. 80
TN 29-A126: Chú giải của Noel Quesson. 84
TN 29-A127: Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. 88
TN 29-A128: SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXIX- TN-A.. 90
TN 29-A129: Chúa Nhật 29 Thường Niên. 91
TN 29-A130: Thiên Chúa và Xê-da. 93
TN 29-A131: Trả về Chúa những gì thuộc về Chúa. 95
TN 29-A132: Công bằng. 98
TN 29-A133: Chân tường. 100
TN 29-A134: Trả Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa. 102
TN 29-A135: Chúa Nhật 29 Thường Niên. 105
TN 29-A136: Chúa Nhật 29 Thường Niên. 106
TN 29-A137: Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa. 110
TN 29-A138: Thiên Chúa. 113
TN 29-A139: Vấn nạn quyền bính dân sự. 116
TN 29-A140: Của Cê-da trả về cho Cê-da. 118
TN 29-A141: Những đòi hỏi của Tin Mừng. 120
TN 29-A142: Mầu nhiệm tuyển chọn. 122
TN 29-A143: Trả về Thiên Chúa. 124
TN 29-A144: Sở hữu - Trầm Thiên Thu. 127
TN 29-A145: Chúa Giêsu làm người ta biết chú tâm vào những gì quan trọng. 132
TN 29-A146: Của Xêda trả Xêda, của Thiên Chúa trả Thiên Chúa. 134
TN 29-A147: BẠN ĐANG SỐNG HAY CHẾT.. 136
TN 29-A148: LOAY HOAY CON THUYỀN TRUYỀN GIÁO.. 138
TN 29-A149: Của Xêda, trả cho Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa. 140
TN 29-A150: THUỘC VỀ THIÊN CHÚA.. 142
----------------------------------
Cổ Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước: TN 29-A101
Cổ Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ muốn cầu hoà với vua Kinh nước Sở nên đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua Kinh yêu nàng ta mê mệt đến nổi chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua đem cô gái về nước và lập làm vợ thứ.
Hoàng hậu nước Sở là Thịnh Tụ thấy vua thương cô gái cũng đem lòng quí mến chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi chơi đâu, nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy thế vua Kinh mừng lắm, có lần khen: “Hoàng hậu thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng thương mến như thế thì có gì khác nào con thảo biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui chủ mình”.
Hoàng hậu thấy vua không nghi ngờ gì nên một dịp kia mới bảo cô gái đẹp: “Đức vua thương yêu ngươi lắm, chỉ ghét có cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi lần trông thấy đức vua, ngươi che mũi lại thì chắc sẽ được yêu thương hơn nhiều”.
Nghe lời khuyên nên hễ vừa thấy đức vua, cô gái nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh mới dò thăm với hoàng hậu. Trước thì hoàng hậu trả lời “không biết” đến khi thấy vua cứ gặng hỏi, bà mới nói; “Thiếp nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi hôi khó ngửi, nên cứ phải che mũi thế đấy”.
Nghe vậy nhà vua nổi giận quát lên: “Thế thì xẻo ngay cái mũi của nó cho ta”.
Lập tức một tên lính cầm dao đi xẻo mũi cô gái, bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì phải thi hành ngay.
Ôi nham hiểm và thâm độc thay! Lòng bừng bừng ghen tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô bờ. Bên trong muốn xé nát người ta, nhưng bên ngoài vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng, bằng một mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ được hai “con nhạn”: tình địch bị cắt mũi, nhà vua mất người yêu. Thế mới hay tác hại kinh khủng của những kẻ khẩu tâm bất nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao găm.
Tội nghiệp nhà vua, vô tư đến nỗi tưởng lời nói của hoàng hậu là chân tình. Thấy người ta thuận ý thì đắc chí, khi nghe tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần suy xét, nên mắc vào cạm bẫy gian manh.
Hôm nay, một chiếc bẫy cũng được giương lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng người họ muốn gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.
Các ký lục biệt phái cùng nhóm người Hêrôđê giăng lên một chiếc bẫy. Họ chắc mẩm Chúa có chạy đường trời cũng không thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là “chúng tôi biết Thầy là người ngay chính”, nên chúng tôi tìm đến. Nào là “Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nên chúng tôi xin học hỏi. Nào là “Thầy không thiên tư tây vị ai”, nên thầy sẽ nói tất cả, chẳng sợ mất lòng người nào.
Thật ghê gớm! Lời ca tụng của họ ngầm bảo rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở miệng. Mà như thế ắt sẽ mắc quai.
Sau khi rào đầu chắn đuôi, họ mới giăng bẫy để Chúa bước vào: “Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu không im lặng thì câu trả lời chỉ còn là “có” hay “không”. Nhưng “có” cũng chết, mà “không” cũng hết sống. Vì khi trả lời “có”, lập tức Đức Giêsu bị ghép với phường thu thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp thuế hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem như bọn cấu kết với ngoại bang, thiếu tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng kính, đáng tôn.
Nhưng nếu Đức Giêsu nói “không”, ngay lập tức bọn theo phe Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần dấy loạn, dám chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên Ngài sẽ khó tránh khỏi án phạt đích đáng.
Một câu hỏi đơn sơ nhưng sao khó giải quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn không phức tạp cho bằng giải quyết lòng người. Phức tạp là vì người hỏi không mang chủ đích tìm một con đường hay một hướng đi cho đời, nhưng là để làm hại kẻ khác. Phức tạp còn là vì người hỏi không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có câu trả lời theo ý mình muốn.
Đừng tưởng chỉ có đời xưa người ta mới hỏi phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi!
Có người từng đặt vấn đề: “Con đi làm, bị chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính nhiều có tội không? Mình ‘ăn’ tiền chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ có sao không?” Có người lại thắc mắc: Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia đình đang biến thành hoả ngục, li dị hay ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng tại sao Giáo hội không cho phép?” Người khác còn nói: “Thời buổi này nuôi dạy con cái không dễ, nhưng sao Giáo quyền không cho ngừa thai như chính quyền cho phép? Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để đáp ứng lối sống và nhu cầu con người thời đại? Dường như lề luật của Chúa và Giáo hội làm nên xiềng xích trói buộc tự do và hạnh phúc con người?”
Thế đấy, xưa và nay không thiếu những câu hỏi “đơn sơ” như của biệt phái và bè Sađoc.
Nhưng một câu hỏi và cũng là câu trả lời căn bản nhất sẽ là: Tại sao người ta không chịu thay đổi lối sống cho phù hợp với những giá trị bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy sinh, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng sự sống, một vợ một chồng…, mà lại cứ đòi Chúa Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở thích và đam mê của con người? Tại sao không dùng những phương cách chính đáng để đạt đến mục đích tốt lành mà lại dùng những mục đích rất kêu để biện minh cho các hành động vô luân và bất nhân?
Thành ra vấn nạn không phải nơi Thiên Chúa nhưng là nơi con người. Thay vì “con vâng ý cha”, người ta lại cứ muốn “Cha theo ý con”. Vấn đề không phải là Thiên Chúa hay Giáo hội khắt khe, độc tài, thiếu cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là vì con người cứ cho mình hiểu biết hơn Thiên Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh. Thế rồi khi lên tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân lý, muốn tìm con đường đúng nhất hầu có được niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại phát xuất từ ích kỷ dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội lỗi. Chúng đến từ ý tưởng của thế gian chứ không phải từ Thiên Chúa.
Trong khi người ta hỏi Chúa Giêsu về chuyện thế tục, Ngài lại hướng họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp người ta nhận được mà không đến từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để đi đến Thiên Chúa, vượt qua vật chất để hướng về tâm linh là bổn phận cần thiết nhất trong đời con người.
Ước chi bao tâm tư mỗi ngày đời tôi sẽ luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình xây đắp nhân phẩm, tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an; cuộc sống sẽ chứa chan tin yêu hy vọng.
----------------------------------
Suy niệm của Lm. Phaolô Đoàn Thanh Phong
Thưa Anh Chị Em,
Nếu có dịp đến viện bảo tàng Manchester bên nước Anh, và khi đến ghé thăm khu trưng bày các: TN 29-A102
Nếu có dịp đến viện bảo tàng Manchester bên nước Anh, và khi đến ghé thăm khu trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rôma, ai cũng có thể nhìn thấy đồng tiền Denarius bằng bạc, trên có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Roma. Đây là đồng tiền được lưu hành trong nước Do Thái thời Chúa Giêsu. Trên đồng tiền này, có in hình Ce’sar Tiberius, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với dòng chữ: "Ce’sar Tiberio, con của thần Augusto" (cf. Tassin). Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có thể liên tưởng đến đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm Pharisêu và Herodes trong Tin Mừng hôm nay.
Thực ra, đây là 2 nhóm người khác nhau về nguyên tắc, về quan điểm sống. Nếu như những người thuộc nhóm Herodes chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế, như là phương cách bảo vệ chỗ đứng của mình trong bộ máy cai trị, thì trái lại, nhóm Pharisêu chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng. Bởi, họ không đón nhận thái độ của các Ce’sar Rôma luôn tự coi mình là thần minh, cho nên đối với họ, việc nộp thuế cho đế quốc được xem như một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì thế, không chỉ phải nộp thuế, mà ngay cả việc mang trong mình đồng tiền của kẻ ngoại bang đã là một hành vi bội giáo. Nhưng vì cùng mâu thuẫn, xung đột tư tưởng với Chúa Giêsu, nên họ sẵn sàng xóa bỏ nguyên tắc, quan điểm riêng, chấp nhận liên minh lại với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu bằng câu hỏi: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế Ce’sar không?”. Đây là một vấn đề mới nghe qua thật bình thường, nhưng sự thực lại không hề đơn giản. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trả lời rằng nên nộp thuế, thì chính Ngài đã nhìn nhận Ce’sar là Chúa của mình,Ngài sẽ trở thành một kẻ bội giáo, mất tín nhiệm với số đông quần chúng. Còn nếu Ngài trả lời rằng không nộp thuế, thì Ngài sẽ bị tố cáo là kẻ chống lại hoàng đế, chống lại chính quyền Rôma. Thật “tiến thoái lưỡng nan”, trả lời thế nào cũng khó. Thế nhưng, thật bất ngờ Ngài lại dùng đồng tiền hai mặt của Rôma để trả lời: "Của Ce’sar, trả về Ce’sar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17). Trả lời như thế, không những Chúa Giêsu thoát được cái bẫy thâm độc của những người đạo đức giả, mà còn khẳng định chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời sống, trong vũ trụ: "Phải trả cho Ce’sar đồng tiền mang hình ảnh và tên của Ce’sar thế nào, thì cũng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dáng hình của Thiên Chúa”. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng mỗi người luôn có hai bổn phận phải thực hiện giữa đời và trong đạo. Vì có đạo nào lại không ở trong đời và có đời nào lại không là của đạo. Một người Kitô hữu trong đạo cũng là công dân của một đất nước, cho nên cần phải chu toàn cả hai bổn phận thì mới đúng là người Kitô hữu đích thực, là công dân trong đất nước và cũng là công dân trong Nước Trời mai sau.
+ Sống giữa đời phải hiểu rằng: Quốc gia thì có luật pháp; Gia đình thì có gia pháp; Cộng đoàn thì có luật riêng của cộng đoàn. Vì thế, ai ai cũng phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận với đời, với xã hội. Cụ thể, gia đình Nagiarét, dù Mẹ Maria sắp đến ngày sinh con, nhưng họ vẫn tùng phục luật xã hội, phải rời miền Bắc trở về miền Nam. khi được lệnh trở về quê để khai báo hộ khẩu.
+ Sống trong đạo thì phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu luôn ưu tiên cho công việc của Chúa Cha. Nên khi hành hương ở hội đường, Ngài đã ở lại để giảng dạy giáo lý, qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: lo việc của Thiên Chúa thì hơn lo việc trần thế (x.Lc 2,46). Không chỉ Ngài đề cao việc của Cha Ngài, mà những người theo Ngài, Ngài cũng đòi hỏi rất gắt gao: "Kẻ nào đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14,26-27). Và cũng vì thế, mà Thánh Phaolô xác định: "Nếu tôi luôn luôn làm hài lòng mọi người, thì tôi không còn là môn đệ của Chúa Giêsu" (Gl 1,10). Nghĩa là, Ngài phải làm hài lòng Thiên Chúa trước, thì Ngài mới có khả năng làm hài lòng mọi người. Rõ ràng, với câu trả lời của Chúa Giêsu "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17), thì hai bổn phận đối với đời và đối với đạo, với Thiên Chúa, luôn cần phải đi song hành với nhau, không có sự loại trừ. Bởi vì, Đạo Công Giáo không phải là Đạo Duy Tâm mà là Đạo có: Có Chúa Kitô, có linh hồn và thể xác, có nhân tính và thần tính, có đời này và có đời sau.
Thưa Anh Chị Em,
Một trong những khuynh hướng tiêu cực nơi những người có tôn giáo đó là khuynh hướng phân chia đời sống thành nhiều phạm vi tách rời nhau: phạm vi ở phố chợ khác với ở gia đình, và lại càng khác với phạm vi trong khuôn viên nhà thờ, giáo xứ. Sự tách biệt ấy dễ làm nên những bộ mặt tương phản nơi người tín hữu: Ở nhà thờ là dung mạo rất đạo đức hiền lành và đơn sơ, nhưng bên ngoài pham vi nhà thờ, thì lại là một bộ mặt khác xấu xí hơn như người ta thường nói vui với nhau: Ơ nhà thờ thì hứa với Chúa thật nhiều và ra khỏi nhà thờ thì thất hứa với Chúa cũng thật nhiều. Vì vậy, cần phải hiểu rằng Thiên Chúa hiện diện - không chỉ ở trong một góc nào đó của nhà thờ khi cử hành phụng Vụ hay trong những buổi cầu nguyện sốt sắng. Chúng ta có thể gặp thấy Ngài ở mọi nơi, cả trong các sinh hoạt đời thường. Vì Thiên Chúa là Đấng Emmanuel – một Thiên Chúa ở với con người, nhưng quan trọng hơn, con người là nơi hình ảnh của Thiên Chúa được thể hiện tròn đầy nhất. Được tạo thành theo dáng hình Thiên Chúa, con người chỉ thực sự lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Chúa khi thể hiện đúng vai trò bổn phận của mình trong thế giới hôm nay và trong lòng Hội Thánh. Vì vậy, lắng nghe lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận của mình trong xã hội cũng như trong Giáo hội để có thể thống nhất trong phương cách thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa. Có như thế, chúng ta mới thực sự làm đúng như lời Chúa Giêsu mời gọi: “Của Cesar, trả về Cesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Amen.
----------------------------------
Cùng đích của cuộc sống con người là ăn tiệc cưới trong Nước Trời. Muốn ăn cưới thì phải sắm áo TN 29-A103 Luong
Cùng đích của cuộc sống con người là ăn tiệc cưới trong Nước Trời. Muốn ăn cưới thì phải sắm áo cưới. Trước tiên là "trả về cho Thiên Chúa" cái gì là của Thiên Chúa, là làm trọn bổn phận với Thiên Chúa. Là công bình. Là sắm áo cưới.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Có được phép nộp thuế cho Xêxa không? Người Do thái chống lại Rôma không nộp thuế. Nếu Đức Giêsu nói "nộp" là đi ngược, là có tội với dân tộc. Không nộp thì chóng lại Rôma là phản động. Câu hỏi khó. Nhưng không khó với Đức Giêsu.
- Cho ta xem đồng tiền nộp thuế....hình và huy hiệu là của ai? Họ đáp: của Xêxa. Người liền bảo họ: Của Xêxa hãy trả cho Xexa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Rất đơn giản. Là phép công bình. Không ai bắt bẻ được.
Bài Phúc Âm hôm nay chỉ nhằm một ý thôi: Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Là công bình. Nhưng người ta không công bình đối với Thiên Chúa. Họ giết người con thừa tự để cướp vườn nho. Mọi sự thành khó.
Của Xêxa trả cho Xêxa. Xêxa có gì? Có chăng là tên và huy hiệu. Tên và huy hiệu là của Xêxa thì để cho ông. Còn mạng sống và mọi sự của ông đều là của Chúa ban cho. Dù ông đã kiêu căng, ngạo mạng xưng mình là Augustô, là thần thánh tuyệt đối, loại bỏ Thiên Chúa, tôn mình lên thay thế Thiên Chúa. Rõ ràng là không của ông vì ông không làm chủ, không giữ được dù là một tí xíu. Thực tế chứng minh là ông đã mất tất cả dù ông đã hết sức cố gắng bám lấy để giữ lại. Nhưng lực bất tòng tâm. Caligula, con nuôi ông đã ám sát ông và đã tước lấy tất cả.
Còn Thiên Chúa. Người là Chủ Tể thật sự, tồn tại mãi mãi. Số phận của bao nhiêu Xêxa cũng đều vậy. Không khác tí nào, nói lên sự thật "Thiên Chúa mới là Chủ Tể" dù ai muốn xưng gì thì xưng nhưng đều là "rởm". Vậy mà người ta vẫn thích xưng mình nầy nọ.
Chúng ta tưởng là chúng ta có, chúng ta làm chủ! Nhưng hỏi: chúng ta có làm chủ mạng sống mình không? Sống chết không tuỳ chúng ta. Mọi cái chúng ta có đều không thựôc quyền làm chủ của chúng ta, còn mất lúc nào chúng ta không nắm chắc. Trời cho không thấy trời lấy chẳng hay mà.
Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa. Là lẽ công bình: Của ai thì trả cho nấy. Người ta không nhìn nhận trật tự nầy mới sinh rối.
Voltaire mỗi khi viết đều ký tên "EI" (Écrasons l"Infâme). Nhưng chính y bị tiêu diệt. Là bằng chứng cụ thể "không trả cho Thiên Chúa của Thiên Chúa" thì phải vậy.
Người ta chối bỏ Thiên Chúa để khỏi trả cho Thiên Chúa "của" Thiên Chúa.
Còn những người nhìn nhận Thiên Chúa thì chỉ biết xin thêm chứ không biết trả.
Cụ thể trả gì?
Thí dụ Chúa nhật, ngày của Chúa thì phải trả cho Chúa. Nhưng người ta có chịu đâu. Có trả thì trả bậy một chút vì mắc cả trăm thứ mắc! Mắc coi nhà, mắc hội phụ huynh, mắc phụ bầu cử... cứ mắc rồi "thưa cha con có bỏ Chúa nhật", xong, các lễ trọng, chầu MTC, kinh hôm kinh mai, học giáo lý, học kinh thánh, tham gia hội đoàn, quét nhà thờ, phụ việc nhà thờ, cho Chúa ăn, cho Chúa uống, việc bác ái,... hành hương ...
Có làm mới có công và có lý do để Chúa thưởng cho công bằng.
Những người đi tu hiến cả cuộc đời cho Chúa là trả nhiều nhất. Giáo dân thường thì làm quới chức, trùm, câu để nhiều thì giờ giúp việc nhà thờ...
Không biết trả cho Chúa thì Chúa không cho thêm mà còn lấy lại cái đã cho.
Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
----------------------------------
(Suy niệm của Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da, và trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22, 2).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu và nhóm Hêrôđê nêu lên một câu hỏi để chất TN 29-A104
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu và nhóm Hêrôđê nêu lên một câu hỏi để chất vấn Đức Giêsu về việc có phải nộp thuế cho Xê-da hay không. Họ đặt câu hỏi nhưng không phải thực lòng muốn Đức Giêsu chỉ dẫn xem phải thực hành nghĩa vụ mang tính luân lý này như thế nào, nhưng chỉ để gài bẫy Ngài. Họ đặt Đức Giêsu trước một tình huống tiến thoái lưỡng nan, không dễ trả lời. Từ khi người Rôma chiếm lãnh thổ Palestine năm 63 trước công nguyên, và đặt sự đô hộ tại đó, người Do Thái buộc phải nộp thuế hàng năm cho đế quốc tính theo đầu người đã kê khai, bất kể đàn ông, đàn bà hay nô lệ. Mỗi người một năm phải nộp một đồng Dina, nộp bằng tiền đúc Rôma, có in hình hoàng đế Tibêriô, ông vua đã trị vì từ năm 14 đến năn 37 sau công nguyên.
Thái độ của những người Do Thái đồng hương với Đức Giêsu đối với đế quốc Rôma rất khác nhau, tùy theo kế sách của họ phản ứng trước sự đô hộ như thế nào. Một số người thì muốn an phận, và chấp nhận nộp thuế để khỏi phiền hà, cho dù họ rất khó chịu. Một số khác bằng lòng nộp thuế vì họ coi nhà cầm quyền Rôma như là đại diện cho quyền bính của Thiên Chúa (xem Rm 13, 1-7; 1P 2, 13-17). Một số khác, theo phe thân vua Hêrôđê, sẵn lòng cộng tác với chính quyền Rôma, và được nhà nước bảo hộ trao ban những đặc quyền trong các tổ chức dân sự. Họ tự nguyện nộp thuế, không phản đối. Một số khác thì hoàn toàn tuyệt vọng, vì tiền thuế cao là một gánh nặng, khiến họ dễ lâm cảnh nợ nần, mất đất đai để sinh sống. Khi không còn tiền để trả nợ, họ sẽ bị bán làm nô lệ (Mt 18, 23-25). Còn một nhóm khác lại nhất quyết không chịu nộp thuế, vì họ nghĩ tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa (Lv 25,23). Một ít thành phần thì hoàn toàn cự tuyệt chống đối, và bất hợp tác với đế quốc trong bất cứ vấn đề gì. Cũng có một số người cực đoan, ngấm ngầm hình thành nhóm ái quốc, quyết nổi dậy cướp chính quyền bằng vũ lực, lật đổ sự cai trị của đế quốc. Sử gia Josephus có nêu tên một vài lãnh tụ cách mạng, cầm đầu nhóm nổi dậy vào đầu thế kỷ thứ nhất, trong đó có Guiđa người Galilê (Cv 5,37) người đã nổi dậy chống nền đô hộ, đương nhiên chống cả việc nộp thuế, nhưng cuộc nổi dậy bị thất bại.
Khi đưa ra câu hỏi hóc búa này để vặn hỏi Đức Giêsu, người Pharisiêu muốn hạ uy tín Ngài. Nêú Ngài cổ vũ việc nộp thuế, có nghĩa là Ngài thỏa hiệp với ngoại bang, với kẻ thù của dân tộc, như vậy dân sẽ không còn tin Ngài là một ngôn sứ nữa. Các sứ ngôn luôn rao giảng về đường lối Thiên Chúa đối kháng với đường lối cầm quyền của đế quốc, của Xê-da. Nếu chủ trương như thế, uy tín của Đức Giêsu sẽ không còn. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp thuế, Ngài tự đặt mình vào tình huống rất nguy hiểm vì sẽ bị nhà cầm quyền Rôma sờ gáy ngay lập tức.
Giữa hai trạng huống này, Đức Giêsu đã tìm ra một giải pháp. Đồng tiền thuộc về hoàng đế Xê-da, hãy trả về cho Xê- da. Rồi quay về Thiên Chúa, Ngài nói với đám đông, tất cả mọi sự phải quy hướng về Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên Chúa, phải trả về cho Thiên Chúa. Đối với những người tin, thì tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, không chừa cái gì. Thế rồi, Đức Giêsu phóng một tầm nhìn để tương đối hóa những quyền bính trần gian, khi Ngài nhấn mạnh rằng chỉ Thiên Chúa mới là Đấng tối cao, nắm quyền trên mọi sự. Câu trả lời khôn ngoan của Đức Giêsu khiến những kẻ chống đối và muốn gài bẫy Ngài rất kinh ngạc. Họ câm họng không nói được gì, và đợi chờ một dịp khác để bắt bí Ngài.
Trong Tin Mừng, những người chất vấn Đức Giêsu nêu ra câu hỏi không phải với dụng ý ngay chính và thật lòng. Họ chỉ muốn gài bẫy để ám hại Ngài. Dẫu sao, trình thuật cũng có thể gợi ý cho các Kitô hữu thời nay biết cách ứng xử, khi phải đối mặt với một chính quyền có những hành động đi ngược thánh ý của Thiên Chúa và thiết định những luật lệ về luân lý trái nghịch với lương tâm Công giáo.
Chúng ta có phải nộp thuế cho chính phủ hay không? Ví dụ có vài Kitô hữu như Đức Cha Raymond Hunthausen, Tổng Giám mục giáo phận Seatle trước đây, đã phản đối chính phủ về việc nộp thuế để có ngân sách trang bị vũ khí hạt nhân. Chúng ta có nên phản kháng không nộp thuế thu nhập cá nhân, như một động thái để chống chiến tranh, như ông Dorothy Day đã làm hay chăng? Hoặc chúng ta vẫn nộp thuế, nhưng khôn khéo vận động, bỏ phiếu hoặc tham gia vào những tổ chức bất bạo động để phản kháng ôn hòa những chính sách sai lầm của chính phủ?
Đức Giêsu mời gọi chúng ta quy hướng về nước Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Ngài trong câu trả lời về bổn phận đối với Thiên Chúa và đồng thời cũng phải chu toàn nghĩa vụ trần thế, mời gọi chúng ta trước tiên phải luôn hướng vọng về Thiên Chúa, và đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng trong cuộc đời chúng ta.
Ngài sẽ giúp chúng ta biện phân để biết ứng xử trong những trạng huống cụ thể của cuộc sống phức tạp ngày hôm nay.
----------------------------------
Người Pharisêu là những người giữ luật rất tốt. Họ giữ luật tỉ mĩ. Vì thế, ai không giống họ thì sẽ bị TN 29-A105
Người Pharisêu là những người giữ luật rất tốt. Họ giữ luật tỉ mĩ. Vì thế, ai không giống họ thì sẽ bị họ thanh trừ. Ngược lại, Chúa Giêsu là người sống cụ thể của luật bằng tình thương và lòng nhân ái. Điều này làm cho họ mất ảnh hưởng thậm chí là còn đe doạ quyền lợi của họ. Do đó, người Pharisêu càng thêm ghét Chúa Giêsu và họ tìm đủ mọi cách để loại trừ Ngài.
Hôm nay Phúc âm cho chúng ta thấy những người Pharisêu cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng họ không thể bắt bẻ được Ngài. Họ không thành công trong âm mưu của mình. Bởi vì Chúa Giêsu là Sự Thật. Ngài nói thật và làm thật. Ngài không thích gian dối. Khi đi rao giảng, gặp gỡ dân chúng, Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của những người Pharisêu bằng những lời lẽ thật nặng nề: "Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình!" (Mt 22, 18).
Những người pharisêu là người lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Mặt trong họ chống lại chính quyền Rôma đang cai trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị của mình. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính quyền La Mã thu thuế ở Palestine. Họ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?" (Mt 22, 17). Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Rôma bắt về tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và dân chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Ngài không trả lời không hay có nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: "Trả về Casarê cái gì của Casrê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa" (Mt 22, 21)
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu ngay Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con người (Ga 3, 27; 19, 11; 1Cr 4, 7)
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái nhất nước đến và hỏi: "tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ không tìm ra Ngài" Nhà thông thái thứ nhất trả lời; "Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm ra Ngài" Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: "Như thế không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương." Người thứ ba phản đối: "Như thế cũng không được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xúông đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người, không ai sẽ có thể tìm thấy Ngài cả!". Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người. Phần mình, con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, cái gì của Thiên Chúa và cái gì của Casarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các Tông Đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại.
Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng mình cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người nguyên tắc chung, và con người có bổn phận phải áp dụng nguyên tắc đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như diều răn ấy là; ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình" (Mt 22, 37-39)
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại nàykhông thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn lụât thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Thánh Gioan đã viết: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy... ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình" (1Ga 4, 20-21)
Một câu chuyện kể về bốn vị thiên thần chứng kiến việc sáng tạo vũ trị của Thiên Chúa. Thiên thần thứ nhất hỏi: "Tại sao Ngài đã tạo nên nó?" vị thứ hai nói: "Ngài đã tạo nên nó bằng cách nào?" vị thứ ba năn nỉ Thiên Chúa; "Xin Ngài hãy ban nó cho con" Sau cùng, vị thứ tư nói: "Thật là tuyệt diệu! Nào ta hãy đi và chăm sóc nó!" Câu hỏi thứ nhất: "Tại sao Ngài đã tạo nên nó?" là phương pháp của triết học. "Ngài đã tạo nên nó bằng cách nào?" là phương pháp của khoa học. "Xin Ngài hãy ban nó cho con" là phương pháp ích kỷ. "Nào ta hãy chăm sóc nó!" là phương pháp của tôn giáo nhận ra rằng tất cả mọi sự là của Thiên Chúa. Tất cả đất đai thuộc về Thiên Chúa, gồm cả bầu trời, nước non, loài vật và con người là của Thiên Chúa, gồm cả những người kiêu căng hay khiêm tốn; giàu sang hay nghèo hèn; Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền lực yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá con người.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta đã được kêu gọi để trung thành." Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa giúp chúng con sống ở đời này nhưng biết dùng mọi của cải mà làm sáng danh Chúa. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, có được phép nộp thuế cho Hoàng đế không?” (Mt 22,17)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Matthêu đã ghi lại một trong những câu nói của Chúa Giêsu TN 29-A106
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Matthêu đã ghi lại một trong những câu nói của Chúa Giêsu mang tính thách đố lớn nhất, khiến chúng ta tự hỏi “Thế thì chúng ta mắc nợ ai, và mắc nợ cái gì để phải trả cách sòng phẳng?” Câu trả lời của Chúa Giêsu, được dịch giả King James chuyển dịch rất nhẹ nhàng “Hãy trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Câu trả lời xem ra có vẻ giản đơn và đương nhiên phải làm như vậy. Tuy nhiên ẩn ý sâu xa thì không đơn giản chút nào. Thế những gì được cho là thuộc về Xêda, và không thuộc về Thiên Chúa?
Trong một đoạn văn khá hay nơi trình thuật của Isaia chương 45 (bài đọc thứ nhất), ngôn sứ cho thấy Thiên Chúa đã cắt đặt Ky-rô một người ngoại đạo thuộc xứ Ba Tư làm vua, và gọi ông ta là “người được xức dầu” (mashiach). Đó là một người lãnh đạo gốc dân ngoại giống như Xêda, nhân vật được nói tới hôm nay. Trong bản văn của Isaia, Thiên Chúa dùng Ky-rô như khí cụ của Ngài. Ngài nói về ông ta: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân suy phục nó. Ta tước khí giới của các vua”. Thiên Chúa còn nhấn mạnh thêm “Dù ngươi không biết Ta, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ đông sang tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, chẳng còn Chúa nào khác”. Ky-rô là công cụ mà Thiên Chúa sử dụng để biểu thị quyền năng thần thiêng nơi Ngài. Quyền lực mà Ky-rô có trong tay, không phải do tài cán hay sức lực nơi cá nhân ông, nhưng được vay mượn từ nơi Thiên Chúa. Đối với ngời Do Thái, họ vẫn xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa có quyền năng tối thượng trên mọi loài.
Vì vậy, một số người Pharisiêu và phái Hêrôđê hỏi Chúa Giêsu “Có phải nộp thuế cho Hoàng đế hay không?” Câu hỏi này là một cú đòn nham hiểm được tung ra để tấn công Ngài. Họ giả vờ nịnh hót, tâng bốc nhằm gài bẫy Ngài “ Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta”. Câu hỏi tung ra một chiêu rất độc, như một cái bẫy để hạ giá Đức Giêsu. Cái bẫy đó là gì? Hoặc là Đức Giêsu đồng thuận và cổ xúy việc nộp thuế cho đế quốc. Điều này sẽ gây bất bình trước cảm thức chung của người Do Thái. Hoặc Đức Giêsu chống lại việc nộp thuế, như phần đông người Do Thái vẫn có xu hướng như vậy, thì đó lại là một hành động tiềm ẩn nguy hiểm rất lớn trước sự cai trị khắc nghiệt của những người cầm quyền Rôma.
Đức Giêsu đã từng bị gài bẫy trước những câu hỏi được đưa ra, nhưng Ngài đã khôn khéo và dễ dàng đáp trả, ví dụ như khi các thượng tế và kỳ mục hỏi Ngài “Ông lấy quyền gì mà hành xử như thế (Mt 21, 23-27). Tuy nhiên, trước câu hỏi nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tỏ vẻ khó chịu khi phải trả lời. Có thể vì những người đặt câu hỏi có một dụng ý quá nham hiểm, cung điệu có vẻ tâng bốc và giả dối. Vì thế, trong câu trả lời, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi ngược lại để đánh đố họ. Việc Đức Giêsu nhắm đến, là họ phải trả lời , xem họ nghĩ gì về sự tương quan giữa Thiên Chúa và nhà cầm quyền, hay giữa Giáo hội và quyền bính trần thế.
Đức Giêsu nói với họ, những người giả vờ thắc mắc để gài bẫy Ngài, là “hãy đưa Ngài xem đồng tiền để nộp thuế. Họ trưng ra một đồng tiền đúc Denarius . Hình ảnh in trên đồng tiền là chân dung hoàng đế Tiberiô, kèm theo câu viết “Tiberiô Xê-da, con của Augustô, đấng thần linh”. Đồng tiền biểu thị phong thái rất cao ngạo, vì sự thần thánh được gắn cho Augustô và Tiberiô. Khi những người Pharisiêu và phái Hêrôđê xác nhận đồng tiền thuộc về Xê-da, Đức Giêsu trả lời họ: Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Vậy thì ai là chủ và là người có quyền, và có quyền trên cái gì? Vài học giả nghĩ rằng có một cách cắt nghĩa rất giản đơn. Đồng tiền in hình Hoàng đế , thì ông ta là chủ và có quyền trên đồng tiền đó. Đồng tiền thuôc về ông ta. Lý luận đơn giản là như thế. Nhưng chúng ta phải biết rằng, quyền lực của chính phủ, ngay cả một chính phủ ngoại bang như đế quốc Rôma, chỉ có thể tồn tại nhờ vào quyền lực tối cao phát nguyên từ chính Thiên Chúa. Nộp thuế là một phần nói lên sự tuân phục quyền bính trần thế. Một số học gỉa khác lại đưa ra tính cách thâm sâu và bí nhiệm nơi câu nói của Đức Giêsu. Ý nghĩa sẽ tùy thuộc vào thái độ chúng ta, khi chúng ta tin rằng mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa và phải quy hướng trọn vẹn về Ngài. Như vậy, Xê-da không sở đắc bất cứ một thứ quyền bính nào, cho dù đồng tiền có in hình ông, và người ta phải nộp thuế cho chính quyền Rôma, do ông cai trị. Dầu sao, trong cả hai tình huống, Đức Giêsu gắn trách nhiệm cho những kẻ chất vấn để gài bẫy Ngài, và tránh được cái bẫy được giăng ra. Không phải Ngài trực tiếp cổ xúy cho những đầu mục Do Thái giáo thuộc phái nhiệt thành, hay rơi vào cái bẫy để những người Rôma có thể đến bắt Ngài. Tuy nhiên, chúng ta phải động não về câu hỏi được Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hôm nay, cũng như ngày xưa Ngài đã hỏi ngược lại “Ai là người chủ của đồng tiền Denarius?”. Thực tế, nếu chúng ta suy xét thấu đáo và biết phân định một cách sâu xa, câu hỏi mang chở lời chất vấn “Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa cái gì? Thiên Chúa có thật sự là ông chủ, và có phải tất cả những gì chúng ta có đều thuộc về Ngài hay không?
Đồng tiền Denarius được Rôma sản xuất, thuộc về Rôma. Nhưng Rôma đã trịch thượng gắn mác Tiberius lên đó như một vị thần linh. Tính thần linh này chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Có lẽ trong câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài muốn nói cho chúng ta biết rằng, trong thế giới linh thánh, tiền bạc không phải là đơn vị để chúng ta giao dịch hay trao đổi. Vậy thì tiền bạc trần gian, chúng ta cứ trả lại cho trần gian, trong đó có những nhà cầm quyền ở trần gian này. Còn điều mà chúng ta phải trả cho Thiên Chúa, cho một mình Thiên Chúa là Đấng tối thượng , chính là sự tôn thờ và suy phục Ngài. Chúng ta suy phục và tôn thờ duy nhất một mình Thiên Chúa mà thôi, không mắc nợ ai điều này. Khi những gì thuộc về Xêda, và những gì thuộc về Thiên Chúa đối kháng nhau, chúng ta phải tuyệt đối quy thuận Thiên Chúa. Ngài là chủ nhân của tất cả. Ngài là Đấng duy nhất mà chúng ta phải luôn quy hướng về.
----------------------------------
"Của Xeda trả cho Xeda của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
Khi phân tích ngữ nghĩa của câu trong ngôn ngữ, người ta nhận thấy có nhiều câu đúng ngữ pháp nhưng TN 29-A107
Khi phân tích ngữ nghĩa của câu trong ngôn ngữ, người ta nhận thấy có nhiều câu đúng ngữ pháp nhưng ngữ nghĩa lại không rõ ràng. Nhà ngôn ngữ gọi chúng là câu mơ hồ nghĩa (arbitrary). Thí dụ câu "Ông lão nhìn đứa trẻ với cái kính hiển vi". Câu này có hai nghĩa. 1. Ông lão với cái kính hiển vi nhìn đức trẻ (cái kính của ông lão). 2. Ông lão nhìn đức trẻ mà nó đang có cái kính (cái kính của đứa trẻ).
Trong các phiên toà xét xử, thẩm phán hay luật sư bào chữa không được hỏi những câu mơ hồ như thế. Đai loại như "Anh không còn đánh vợ nữa phải không?". Trả lời còn thì rõ tội rồi. Còn trả lời không, nghĩa là trước đây có. Như vậy cũng không thoát tội.
Hôm nay, bọn Pharisêu đưa Đức Giêsu vào một tình cảnh nữa sống nữa chết như vậy. "Có được phép trả thuế cho Xeda không?". Trả lời không là chống đế quốc Lamã. Còn nói có thì ủng hộ ngoại bang, là đồ phản quốc. Thế nhưng, đâu đơn giản mà Đức Giêsu mắc lừa họ. Ngài đã trả lời họ bằng một câu không còn có thể bắt bẻ vào đâu được. Cái gì cũa Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa, của Xeda trả cho Xeda. Và qua cơ hội này, Ngài lưu ý cho mọi người một bài học. Mọi người đều phải có trách nhiệm với Thiên Chúa và với xã hội mà mình sinh sống.
Là một Kitô hữu, chúng ta có bổn phận với Thiên Chúa, với Giáo Hội là lẽ đương nhiên. Vì ngang qua Giáo hội ta hưởng ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta phục vụ cho Giáo Hội vì chúng ta thừa biết điều đó có lợi cho chúng ta. Đó không chỉ là một bổn phận mà còn là một quyền lợi. Quyền cai quản của chức tư tế cộng đồng mà ta nhận lãnh khi chịu phép Rửa Tội. Đây là một suy nghĩ trưởng thành của một người có trình độ.
Tuy vậy, số những người am tường đạo lý ấy vần còn quá ít trong Giáo hội. Tình trạng cha chung không ai khóc vẫn nhan nhãn mỗi ngày. Việc của Giáo Hội ư? Đã có hàng Giáo sĩ lo. Đâu phải trách nhiệm của tôi? Nếu có đóng góp thì kêu ca phàn nàn, tìm cách thoái thác. Không tránh được thì xem như việc đại từ thiện, rộng rãi, hy sinh vô bờ bến. Để rồi bắt người khác phải nhớ ơn, lưu dấu, phục vụ, trả lễ theo điều kiện này kia của mình. Hành động như thế quả thật không sinh ít lợi mà còn mắc thêm tội kêu ngạo. Bạn thật không hiểu rằng: Giáo Hội là Mẹ. Chúng ta múc lấy sinh lực từ Mẹ để lớn lên. Vậy thì hỗ trợ xây dựng Giáo hội là lẽ công bằng trước khi đó là hành vi bác ái.
Điểm thứ hai mà chúng ta cần phải quan tâm cho thấu đáo là trách nhiệm của một người công dân đối với đất nước, dân tộc mình. Từ "thuế" ở câu nói của người Pharisêu không đơn thuần là nộp thuế mà còn là bổn phận xây dựng xã hội, bảo vệ hoà bình, tuân thủ luật pháp. Ngoài những vị trí và những vai trò khác nhau của một cá nhân chúng ta không loại bỏ bổn phận là công dân của một đất nước, là thành viên của một cộng đồng dân tộc. Nếu loại bỏ hai yếu tố ấy ra khỏi một con người thì chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đồng con người. Do vậy, bản thân ta luôn gắn liền với sự thịnh, suy của dân tộc mình. Theo đó Giáo hội không cấm đóan con cái mình tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội. Nếu không nói là ủng hộ con cái mình trong tinh thần chân lý và sự thật tích cực dấn thân đề nhờ đời sống tốt đạo của mình mà góp phần cải biến xã hội, thánh hoá thế trần, đưa mọi người trở về Ánh Sáng chân thật. Chẳng phải đường hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là "Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc" đó sao? Chính Đức Giêsu đã làm gương mẫu cho chúng ta về vấn đề này. Cha mẹ Ngài theo lệnh vua mà trở về quê khai nhân khẩu (Lc 2,3-5). Ngài đã bảo Phêrô đi đóng thuế cho hai người (Mt 17,24-27). Theo gương Đức Giesu Giáo hội đã làm biết bao những việc để phát trển nhân sinh và con người.
Nói khác hơn, cả hai trách nhiệm trên đều đáng trân trọng và cần được duy trì. Hơn ai hết, Kitô hữu phải ý thức vấn đề này một cách sâu sắc hơn. Tuy nhiên để dung hoà được cả hai đòi hỏi chúng ta cần có sự khôn ngoan của Thánh Thần để trong hoạt động ta có được nhũng kết quả khả quan nhất.
----------------------------------
Anh chị em thân mến,
Đức TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 20. 09. 2008, trong bài phát biểu tại UBND TP. Hà nội, trước một cử TN 29-A108
Đức TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 20. 09. 2008, trong bài phát biểu tại UBND TP. Hà nội, trước một cử tọa khá đông người, Ngài đã nói: " Chúng tôi đi ra nước ngoài rất nhiều. Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét. Chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh..." Vậy mà hôm sau báo đài Việt Nam đã loan tin ầm lên, trong khi họ chỉ trích có một phần nhỏ câu nói của ngài: "Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam..." Thói đời là thế, khi người ta không ưa ai, muốn hạ bệ ai, nhất là khi người ta chẳng tôn trọng sự thật, chẳng sợ lương tâm gì cả... Câu chuyện hôm nay của Tin mừng cũng tương tợ thế, khi phái Pharisêu muốn gài bẫy để bắt bẽ Chúa Giêsu, cả muốn hạ bệ Người nữa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Có hai điểm chúng ta cần lưu ý:
* Câu hỏi của người Do thái: "chúng tôi có được nộp thuế cho người La mã không?" Phái Pharisêu cùng bàn mưu với phái Hêrôđê; họ tìm cách bắt bẽ Chúa Giêsu. Họ hỏi Người: "chúng tôi có phải nộp thuế cho La mã không?" Thực ra, họ ghét cay ghét đắng người Lamã và cả phái Hêrôđê.... Qua câu hỏi này, họ đặt Chúa trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Cái bẫy được gài rất chu đáo: Trả lời có cũng mắc bẫy, vì họ sẽ tố cáo Chúa không trung thành với hoàng đế. Trả lời không cũng dính luôn, vì nhóm pharisêu sẽ tố cáo Chúa không trung thành với dân tộc, muốn bán đứng quê hương mình. Họ nghĩ rằng thế nào Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi cái bẫy đã giăng. Nhưng họ không ngờ....!
* Câu trả lời của Chúa Giêsu: "Cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa." Trước cái bẫy đang chờ sẵn, Chúa Giêsu rất bình tĩnh, tự chủ, không khiêu khích, cũng không sợ sệt, Ngài bảo họ đưa đồng tiền cho xem và hỏi: hình và danh hiệu này là của ai? Họ trả lời: của Xêda. Chúa liền nói: "Vậy thì của Xêdahãy trả về cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Câu trả lời làm cho hai phe nhóm phải bĩ mặt, đầy kinh ngạc. Họ không ngờ câu trả lời đầy khôn ngoan và kỳ diệu của Chúa...
b/. Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì?
* Cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda: người Kitô hữu thuộc về Chúa, nhưng không ở ngoài guồng máy xã hội. Chúa xác định rõ rệt và tổng quát về vai trò của nhà nước, của các quyền bính xã hội trần thế. Triều đại Nuớc Thiên Chúa đã khai mở khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai, nhưng quyền bính trần thế vẫn còn cần thiết và chính đáng để duy trì và ổn định phát triển xã hội. Thiên Chúa hoàn toàn không lệ thuộc cũng không chống đối xã hội trần thế. Vì thế, CĐ Vatican II xác định: người kitô hữu có nhiệm vụ vừa tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vừa có bổn phận xã hội là một công dân góp phần xây dựng xã hội công bằng, thịnh vuợng và đầy tình thương (HC Lumen Gentium).
* Cái gì của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa: sứ mạng của Chúa đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, không phải là chính trị. Với sứ mạng tôn giáo, Chúa nhắc nhở mọi người có nghĩa vụ trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói vói Philatô: Nuớc tôi không thuộc về thế gian này; nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái... Những người chất vấn Chúa Giêsu muốn nhìn Chúa dưới góc độ chính trị, nhưng chính Chúa lại muốn họ thấy Chúa là con người của tôn giáo.
Câu chuyện: Vua Henri nước Anh đã có vợ rồi; nhưng vua muốn bỏ vợ mình để cuới bà Anne Boleyne. Vua buộc các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc vua làm là đúng. Sau vua tuyên bố ly khai với Tòa Thánh, và lập Anh giáo. Thomas More (1478-1535) quan chưởng ấn rất mực trung thành của nhà vua, đã không nhận ly khai với Tòa Thánh, để theo Anh giáo. Ông đã bị kết án. Đây chính là tấm gương can đảm, dám nói lên sự thật: cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ông bị hành quyết và đã trở thành một vị thánh.
Thánh Gioan Tẩy giả cũng thế, vì lời nói ngay thật đã phải chết dưới lưỡi đao oan nghiệt của vua Hêrôđê... Tất cả mọi điều này để minh chứng câu nói của Chúa Giêsu: cái gì của Xêda phải trả lại cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Là người công giáo, trong cuộc sống bình thường, chúng ta có can đảm sẵn sàng tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người, bằng lối sống ngay thật, không gian dối, không bè phái không? Sống trong xã hội, chúng ta vẫn phải có bổn phận tôn trọng luật pháp phần đời, nhưng vẫn luôn ý thức cuộc sống của ta là của Thiên Chúa, và ngày nào đó, ta phải trở về với Thiên Chúa không?
----------------------------------
Khi nói đến từ "bổn phận" thì tất chúng ta đều nghĩ ngay đến hai việc cần phải làm tròn, đó chính là bổn TN 29-A109
Khi nói đến từ "bổn phận" thì tất chúng ta đều nghĩ ngay đến hai việc cần phải làm tròn, đó chính là bổn phận với Chúa và với người đời. Nhưng trong thực tế không phải người ta không biết về điều này nhưng đôi khi họ cố tình quên hoặc cố tình không hiểu, để rồi họ thắc mắc xem bên nào trọng hơn, bên nào kém hơn. Chính câu trả lời của Chúa Giêsu hôm nay đã làm thõa mãn biết bao người, đã làm sụp đổ ý đồ bắt bẻ xấu xa của bọn Pharisêu: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng là Chúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Ngày hôm nay Giáo Hội tha thiết mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con vâng lời ca tụng những hồng ân Chúa ban, xin Chúa ban cho con nhiều sức mạnh để con vừa là tính hữu tốt, vừa là một công dân tốt, mải là một người sống "tốt đạo đẹp đời". Amen.
----------------------------------
Nộp thuế cho Chúa!
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 22:15-21)
Những người có kinh nghiệm chiến trường đều đồng ý rằng tình hình nguy hiểm nhất, đó là khi địch ở TN 29-A110
Những người có kinh nghiệm chiến trường đều đồng ý rằng tình hình nguy hiểm nhất, đó là khi địch ở trong bóng tối, còn mình ở ngoài ánh sáng. Vì thế quân mình phải luôn tỉnh thức. Với nhận định này, chúng ta có thể hiểu được tại sao Chúa Giê-su có thể ứng phó một cách mau lẹ và rất hữu hiệu trước những cái bẫy kẻ thù của Người giăng ra. Sau những dụ ngôn của Chúa Giê-su nhắm vào họ, các thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư “đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy”. Lần gài bẫy này, họ ở trong tối và đã điều nghiên kỹ càng, nắm chắc phần thắng. Còn Chúa Giê-su, không những Người ở ngoài ánh sáng mà còn là chính ánh sáng, Người đã dễ dàng hóa giải cái bẫy của họ. Vậy đâu là bí quyết của Người?
Kẻ thù của Chúa Giê-su đã sắp đặt kế hoạch gài bẫy. Mục đích của họ rõ ràng là “làm cho Chúa Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy”. Họ biết lời giảng của Chúa Giê-su là một lợi khí vô cùng mạnh mẽ, như dân chúng Ca-phác-na-um đã nhận xét: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền” và “lời của Người có uy quyền” (Mác-cô 1:27; Lu-ca 4:32). Họ đã rõ không dễ làm cho Chúa phải lỡ lời, nên họ họp nhau lại để “bàn bạc” kỹ lưỡng trước khi ra tay. Họ đã tìm được cách để Chúa Giê-su trả lời bất cứ cách nào cũng không thoát khỏi lỡ lời. Mưu mô của họ xem ra thật đơn giản, nhưng lại vô cùng thâm độc, với chỉ một câu hỏi thôi: “Xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” Quả là một câu hỏi tiến thoái lưỡng nan! Nếu Chúa trả lời “được phép”, lập tức họ sẽ tố cáo Người với dân chúng rằng: ông này là tên phản quốc, ủng hộ quân Rô-ma! Còn nếu Chúa trả lời “không được phép”, họ sẽ không ngần ngại lôi Người đến trước tòa tổng trấn Rô-ma để tố cáo Người âm mưu chống lại đế quốc! Họ còn mời những người phe Hê-rô-đê cùng có mặt với họ để sẵn sàng làm chứng cho họ.
Biết được ác ý của họ, Chúa Giê-su vẫn muốn giúp họ cởi bỏ cái mặt nạ đạo đức giả. Họ đâu có thực sự yêu nước thương nòi, mà chỉ muốn bảo vệ chỗ đứng của họ trước dân chúng, bằng cách hạ gục Chúa Giê-su. Chúa bảo họ đưa cho Người xem “đồng tiền nộp thuế” có hình và danh hiệu vua Xê-da, rồi kết luận chắc nịch: “Thế thì của Xê-da, hãy trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Thật là tương kế tựu kế! Phải nộp thuế cho đúng chỗ, đó là chân lý hết sức thâm thúy. Không phải bỗng nhiên mà Chúa Giê-su nảy ra ý tưởng này đâu. Nhưng chính Người đã suốt cuộc đời sống chân lý nộp thuế rồi. Người đã “nộp thuế” cho Thiên Chúa khi Người vâng lời Chúa Cha, trút bỏ vinh quang, đến trần gian để đem Tin Mừng cho nhân loại và “nói” tất cả những gì Chúa Cha muốn Người nói. Người đã “nộp thuế” cho chúng ta với một cái giá thật đắt, là hiến thân mình và chết khổ nhục trên thập giá, để chuộc chúng ta về cho Thiên Chúa. Bí quyết nộp thuế của Chúa Giê-su là nộp đúng chỗ và nộp đầy đủ không thiếu một xu! Với Chúa Cha, Người đã nộp hết, không giữ lại gì của Thiên Chúa để chấp nhận làm người phàm. Với nhân loại, Người đã chịu chết trần trụi trên thập giá và đổ ra giọt máu cuối cùng.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta không biết các thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư có học được bài học thấm thía hôm nay không, hay họ lại càng thêm căm hận Chúa Giê-su. Nhưng riêng đối với chúng ta thì đây thực là một nhắc nhở thật bổ ích. Chúng ta có bổn phận phải trả về cho Chúa tất cả những gì chúng ta nợ Người. Món nợ to lớn nhất là món nợ tình yêu. Món nợ này không thể trả bằng hiện kim hay bất cứ gì khác ngoài trái tim và tâm hồn chúng ta. Biết bao thứ Chúa ban cho chúng ta, từ sự sống, đức tin cho đến gia đình, cộng đoàn, Giáo Hội, xã hội… Tóm lại, nhìn đâu chúng ta cũng thấy mình nợ Thiên Chúa. Đôi tình nhân trên đời mới nợ nhau có cái công viên ghế đá, lá đổ ngoài sân hay chiều xưa bến cũ, mà đã không trả nổi rồi! Nhưng với Chúa, Người quảng đại lắm! Người chỉ xin chúng ta hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn nợ anh chị em, thì thánh Phao-lô theo lời Chúa dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”, đã bảo chúng ta chẳng nợ nhau gì ngoài món nợ bác ái mà thôi. Vậy chắc là chúng ta sẽ hăng say “nộp thuế” cho Chúa chứ!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
----------------------------------
Anh chị em thân mến.
Trong trận chiến nam bắc của Mỹ, có một người lính dũng cảm dưới thời của tướng Abraham Lincoln. TN 29-A111
Trong trận chiến nam bắc của Mỹ, có một người lính dũng cảm dưới thời của tướng Abraham Lincoln. Sau khi thống nhất đất nước, anh lính trẻ được đưa về phục vụ kề cận bên tổng thống. Hằng ngày anh ta đến văn phòng làm việc với bộ quần áo chỉnh tề, làm việc theo giờ giấc hẳn hoi, giữ mọi nghi lễ phép tắc của nơi làm việc. Đồng thời phải hoàn thành công việc theo mọi người đòi hỏi. Anh làm việc được mọi người thương yêu và kính trọng, vì sự nhiệt tình đồng thời còn là người của tổng thống. Nhưng anh ta cứ khó chịu vì công việc cứ lập đi lập lại hằng ngày. Với sức lực của một người trẻ, anh ta thấy công việc văn phòng dường như không thích hợp và có vẻ như vô ích cho anh. Một hôm anh gặp tổng thống và nói: "Xin hãy trao cho tôi một công việc như thế nào cũng được, khó khăn như thế nào tôi cũng không sợ, tôi sẵn sàng chết cho tổ quốc, chứ đừng dể tôi làm công việc nhàm chán này". Vị tổng thống bèn vỗ vai thân mật và nói với anh ta: "Anh muốn chết cho tổ quốc, chứ anh không muốn sống để phục vụ tổ quốc sao?"
Sau đó vị tổng thống bỏ đi, anh lính trẻ chắc cũng hiểu ra lời nói với anh, anh lo sống cho xứng đáng với trách nhiệm hiện tại để sống phục vụ cho tổ quốc.
Những người biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê họ họp nhau bàn tính để hại Chúa Giêsu. Họ là những người Do Thái đạo đức, họ đang trông chờ Đấng cứu thế. Vậy mà Đấng cứu thế ở bên họ, họ không chấp nhận, họ muốn loại trừ vì họ chỉ muốn sống theo như những gì mình muốn. Họ muốn sống đạo đức theo cách của họ, chứ không phải đạo đức như Thiên Chúa muốn. Họ đến bên Chúa Giêsu để hỏi về cách sống hiện tại, nhưng họ cũng không thuộc về hiện tại. Họ không chấp nhận được cái hiện tại mình đang sống, họ không chấp nhận được hoàn cảnh sống, họ không muốn thi hành những gì hoàn cảnh đòi buộc họ. Những người đó họ chỉ muốn thực hiện những gì theo ý riêng mình, họ không cần biết những gì họ muốn có hợp lý hay không.
Chúa Giêsu cho họ bài học về cuộc sống: "Của César hãy trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Ngài muốn nói với họ: họ đang dùng những gì mà trần thế ban cho họ, thì hãy chu toàn trách nhiệm mà trần thế đòi hỏi nơi họ, không được trốn tránh. Còn những gì của Thiên Chúa mà con người nhận biết được, thì cũng phải đền đáp cho xứng đáng với những gì họ nhận được từ Thiên Chúa. Nhưng họ cũng không chu toàn được.
Những người xưa là như thế. Còn những người của ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta; Thiên Chúa cũng cho mỗi người một địa vị, một hoàn cảnh sống, Thiên Chúa muốn mỗi người sống tốt trong hoàn cảnh địa vị của mình. Chúng ta nhìn lại xem: chúng đang là những người biệt phái, chúng ta đang tự hào mình là người đạo đức, nên tự cho mình cái quyền chê bai, chỉ trích người khác. Trân tráo hơn nữa, chúng ta còn cho mình một quyền hạn lớn lao hơn là bắt mọi người phải thi hành theo những gì mình gọi là đạo đức. Nếu người khác không chấp nhận thì làm đủ mọi cách để loại trừ và chê họ là quân vô đạo. Nhưng có khi nào chúng ta chịu nhìn lạixem, những gì mình nghĩ, mình muốn, đó có phải là những gì Thiên Chúa muốn không. Hay chúng ta chỉ đòi hỏi những gì không phải của hiện tại, không bằng lòng với những gì đang có; như vậy chúng ta giống như anh lính trẻ của vị tổng thống hoa kỳ: muốn chết cho tổ quốc, chứ không muốn sống để phục vụ tổ quốc.
Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của mình trong hiện tại, nhìn thấy được những gì mình cần phải làm, nhìn thấy được công việc mình phải chu toàn với tất cả trách nhiệm, để rồi bắt tay vào việc và hành động với tất cả trách nhiệm cần phải có. Khi đó chúng ta hoàn thành trách nhiệm những gì Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Khi đó chúng ta đang trả cho Thiên Chúa những gì là của Ngài. Nếu chúng ta nhận ra được những người chung quanh mình đang cần gì và không ngần ngại đáp ứng nhu cầu của họ, vì nhận ra Thiên Chúa nơi họ. Khi đó thật hạnh phúc cho chúng ta, vì lời của Chúa Giêsu: "của César hãy trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa" đang được thực hiện một cách trọn hảo nơi chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng và sức mạnh cho mỗi người, biết nhận ra trách nhiệm của mình đối với Chúa và với mọi người để biết thi hành cho tốt đẹp.
----------------------------------
Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong thế chiến thứ hai, người ta kể một câu chuyện như sau: Franz JaŠggerstatter sinh ra tại nước Áo. TN 29-A112
Trong thế chiến thứ hai, người ta kể một câu chuyện như sau:
Franz JaŠggerstatter sinh ra tại nước Áo. Anh được giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Trong cuộc sống, anh không có gì nổi trội, trình độ học vấn nơi anh chỉ là sơ cấp. Cuộc sống của anh trôi đi cách bình thường, nhưng thanh thản với nghề làm thuê theo hợp đồng. Sau đó anh lấy vợ và có với nhau 3 mặt con.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là sự trưởng thành trong cuộc sống thường nhật cũng như đời sống đức tin nơi anh.
Sự trưởng thành này đã đem lại cho anh một lập trường kiên định về việc trung thành với Luật Chúa được ghi khắc trong Lương Tâm.
Đang sống trong cảnh thanh bình thì thế chiến thứ hai ập đến. Anh cũng như nhiều thanh niên khác buộc phải đi lính cho đội quân Hitler. Tuy nhiên, Franz đã từ chối và trả lời những người thắc mắc rằng: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vì chính nghĩa. Nên, thật là sai lầm nếu tôi gia nhập quân đội. Điều này trái với Lương Tâm tôi!"; anh nói tiếp: "Tôi yêu dân tộc, và tôi yêu quê hương tôi. Nhưng có một luật lệ cao cả hơn, đó là Luật của Thiên Chúa. Và Luật của Thiên Chúa nói trong Lương Tâm tôi: cuộc chiến này phi nghĩa!".
Kết cục, anh bị bắt và cầm tù. Mọi người khuyên ngăn, kể cả vợ anh, họ nài nỉ anh xem xét lại... Nhưng không thể thay đổi được tư tưởng của anh, cuối cùng anh đã bị chém đầu vào ngày 9.8.1943.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cả cuộc đời của Franz là một cuộc chọn lựa giữa chính nghĩa và bất nhân. Giữa cái tạm bợ và vĩnh viễn. Giữa hạnh phúc và đau khổ... Franz đã đi theo đúng đường lối của Thiên Chúa là: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
1. Ý đồ của nhóm Pharisiêu và Hêrôđê với Đức Giêsu
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu bị hai nhóm Hêrôđê và Pharisiêu chất vấn Ngài về việc nộp thuế.
Kỳ thực thì hai nhóm này vốn từ lâu đã không đội trời chung, bởi vì nhóm Hêrôđê thì phò cho chính quyền Rôma, còn phe Pharisiêu thì trung thành với dân tộc và chống lại việc đô hộ trên đất nước họ. Tuy nhiên, ngàn năm một thủa, hôm nay cả hai nhóm, họ đều có chung một mục đích là trả thù Đức Giêsu.
Tại sao thế? Chuyện rất đơn giản là: Đức Giêsu được dân chúng mến phục vì những việc tốt lành, những bài giảng hấp dẫn, nhất là Ngài đã đứng lên tố cáo sự giả hình của nhóm Pharisiêu để bênh vực cho người nghèo, người thấp cổ bé họng không có tiếng nói... Vì thế, nhóm Pharisêu sợ mất uy tín với dân chúng. Họ không ngần ngại tận dụng mọi cơ hội để để thực hiện cho kỳ được mục tiêu của họ là loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi xã hội bằng cái chết. Còn nhóm Hêrôđê thì sợ tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu trên dân và vì thế, có nguy cơ bị lật đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma.
Để thực hiện được hành vi này, họ đã cấu kết với nhau để chung tay gài bẫy Đức Giêsu.
Điều mà họ đưa ra để nhờ Đức Giêsu giải quyết, chính là: “Có được phép nộp thuế cho vua César chăng?” Đây là một câu hỏi hóc búa, một tình huống đầy cam go, chẳng khác gì chuyện người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và họ nhờ Đức Giêsu phân xử. Họ đã dùng chiêu thức: “Nhất tiễn diệt song điêu” (một mũi tên, bắn hai đích). Đây là cái bẫy thâm độc. Nếu Chúa trả lời “có” thì nhóm Pharisiêu kết án Ngài phản quốc; còn nếu Người nói "không" thì phe Hêrôđê tố cáo Ngài phản động, chống tại chính quyền Rôma. Câu trả lời nào thì cũng đều sụp bẫy của chúng. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trả lời cách khôn ngoan, khiến họ không thể tìm cớ tố cáo Ngài được. Ngài nói: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Với câu trả lời trên, Đức Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy họ đã giăng sẵn, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ một bài học quan trọng, đó là: cần ý thức để biện phân đâu là những cái thuộc về Thiên Chúa và đâu là thuộc về con người. Bổn phận của con người phải có đối với Thiên Chúa là gì?
2. Sứ điệp Lời Chúa
Khi nói "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa". Đức Giêsu muốn nói đến sự lựa chọn của chúng ta. Sự phân định để lựa chọn cho đúng được đặt nền trên chính Lương Tâm nơi mỗi người.
Lương Tâm chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhờ Lương Tâm, chúng ta biết được điều thiện và điều bất toàn. Lương Tâm được ví như cái bánh lái của con tàu giữa biển khơi. Nếu không có bánh lái, con tàu sẽ không biết sẽ đi về đâu! Lương Tâm cũng giống như chiếc la bàn mà người thám hiểm đi trong rừng cần có để xác định hướng đi cho đúng. Nói cách khác, nhờ Lương Tâm chúng ta biết được điều gì nên làm và điều gì không nên. Vì thế, trong mọi tình huống, người Công Giáo phải ưu tiên cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo.
Vì vậy, chúng ta phải tôn trọng điều đúng phù hợp với luân lý Kitô Giáo và nội dung Tin Mừng. Tránh những điều nghịch với Lương Tâm và trái với đạo lý của Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội. Phải can đảm, nhất quyết không thể phó thác cuộc đời, công việc và mục đích cuối cùng của chúng ta cho César, nhất là Lương Tâm. Noi gương các thánh Tử Đạo, là những người đã nhất quyết trung thành với Thiên Chúa khi phải lựa chọn giữa sự sống và sự chết vì không luật lệ nào được chống lại Luật của Thiên Chúa!
3. Thực hành sứ điệp Lời Chúa
Ngày nay, giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta được mời gọi vừa tuân thủ những lợi ích quốc gia khi điều được ban bố đúng với Lương Tâm. Mặt khác, chúng ta phải có nghĩa vụ trung tín với Thiên Chúa qua Luật của Ngài được nghi khắc trong Lương Tâm.
Vì thế, cần có những nguyên tắc như sau:
- Luôn đồng hành với dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào
Thứ nhất, là người Công Giáo, chúng ta được mời gọi sống tinh thần: “là người Công Giáo tốt thì cũng là người công dân tốt” (Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16); Tuy nhiên, “lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực” (HĐGM VN).
Vì thế: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Vat II. Gaudium Et Spes, số 1). Thật vậy, khi được Chúa Thánh Thần hướng dẫn qua Lương Tâm, chúng ta đều có sự liên kết mật thiết với cuộc sống, con người và xã hội hiện thời mà ta được mời gọi để sống cùng và sống với.
Trong thực tế, có nhiều sự khác biệt rõ rệt, nhưng luôn tâm niệm rằng: dù sống nơi đâu, làm bất cứ việc gì, chúng ta đều chung một mục đích là phục vụ hạnh phúc cho con người và thăng tiến quê hương. Nếu đi ngược lại, ấy là lúc chúng ta đang phản bội quê hương, đất nước.
- Chỉ buộc vâng phục quyền bính trần thế khi điều được ban hành là đúng
Thứ hai, khi sống trong xã hội trần thế, chúng ta được mời gọi chu toàn nghĩa vụ của mình là một công dân trong một đất nước. Vì thế, chúng ta phải chung tay, góp sức với mọi thành phần, nhằm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp, trong sáng và lành mạnh hơn. Đã là công dân, mỗi người đều có bổn phận đóng thuế, tuân thủ những định luật đúng do một thể chế hợp pháp ban hành. Nhưng những điều lệ, luật định đó phải phù hợp với lẽ phải.
Vì thế, chúng ta luôn ủng hộ đường lối, chính sánh đúng. Tuy nhiên, tùy vai trò, hoàn cảnh thực tế, hẳn chúng ta sẽ không chấp nhận chính sách trái với luân lý Công Giáo! Bởi lẽ, điều này nghịch với Lương Tâm chân chính của một con người.
- Phải ưu tiên cách tuyệt đối cho Lề Luật của Thiên Chúa
Cuối cùng, người Kitô hữu có mục đích tối hậu là chính Thiên Chúa và sự sống đời đời mai hậu. Vì vậy, luật lệ mang tính tuyệt đối mà người Công Giáo phải thượng tôn và thi hành cách trung thành, đó chính là Luật của Thiên Chúa.
Là người Công Giáo, nhưng sống trong một xã hội dân sự, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải và định hướng bởi Lương Tâm nhằm biết làm lành, lánh dữ, nên trong mọi lựa chọn, phải lựa chọn Thiên Chúa và những căn tính thuộc về Ngài. Mặt khác, lựa chọn người nghèo; thấp cổ bé họng; những người không có tiếng nói phải là ưu tiên của chúng ta khi được chi phối bởi Luật Thiên Chúa. Khi lựa chọn như thế, hành động của chúng ta là phải yêu thương và nâng đỡ họ, nhằm giúp cho con người, xã hội và cuộc sống được công bằng, dân chủ, văn minh.
Xác định được như thế, chúng ta sẽ hiểu hơn về câu nói của Đức Giêsu: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con biết việc chúng con phải làm, ngõ hầu chúng con được bình an, hạnh phúc ngay trong xã hội trần thế. Xin cho chúng con biết lựa chọn những điều ưu tiên, tuyệt đối cho sự sống đời đời. Amen.
-------------------------------
Nói đến loài người, chúng ta không thể nào bỏ qua vấn đề bổn phận. Vì con người tồn tại được là nhờ ơn TN 29-A113
Nói đến loài người, chúng ta không thể nào bỏ qua vấn đề bổn phận. Vì con người tồn tại được là nhờ ơn Chúa và con người lớn lên nhờ có cha mẹ, tha nhân, xã hội chăm lo. Do đó, mọi người đều có bổn phận đối với Chúa và đối với đồng loại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho người Do thái cũng là cho chúng ta hiểu thêm về vấn đề này.
Để hiểu đúng lời Chúa Giêsu dạy, trước nhất, chúng ta hãy xét đến bối cảnh của đoạn Tin Mừng này: Đất nước Do thái trong cảnh đô hộ, do người Rôma cai trị, ngoài việc phải đóng góp riêng cho đền thờ như luật Chúa truyền, họ còn phải nộp thuế cho đế quốc. Người Do thái nói chung không chấp nhận sự đô hộ này và coi việc nộp thuế là điều sỉ nhục, vì là dấu họ bị nô lệ cho dân ngoại. Thực ra, việc nộp thuế cho Rôma là vấn đề phức tạp, phái Hêrôđê và biệt phái không đồng quan điểm với nhau trong chuyện này. Người Do thái yêu nước không thể chấp nhận việc nộp thuế mà chỉ làm vì ép buộc, còn những người thuộc phái Hêrôđê thì đồng ý với đế quốc Rôma. Cả hai nhóm này tuy không đồng quan điểm nhưng hôm nay vì muốn chống Chúa Giêsu nên họ cùng đến để dò xét và tìm cách bắt bẻ Người.
Khi Do thái còn nô lệ Rôma thì không thể trốn tránh việc nộp thuế! Nhòm Biệt Phái và Hêrôđê biết rõ là vấn đề này chưa thể giải quyết được nên đã đưa ra hỏi với ý gài bẫy Chúa Giêsu. Hiểu được thâm ý của họ, Ngài bảo họ: "Cho Ta xem đồng tiền nộp thuế! " Họ liền đưa cho Người một quan tiền. Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Họ đáp: "Của Xê-da." Bấy giờ, Người bảo họ: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." (x. Mt 22, 19-22) Một khi đã chấp nhận xài tiền tức là chấp nhận mặc nhiên quyền của Cêza nhưng những người này vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận. Ở đây, Chúa Giêsu vừa trả lời cho họ vừa muốn dạy họ phân định hai thực quyền khác nhau nhưng bổ túc nhau. Đó là:
Thế quyền có bổn phận điều hành, lo công ích xã hội, bảo đảm ổn định đời sống vật chất cho dân chúng. Người Do thái đã nhận sự điều hành này thì tất nhiên họ phải tuân theo những luật lệ chính đáng của chính quyền La mã.
Thần quyền vượt trên mọi quyền nhân loại, lo cho lợi ích đời đời của con người, con người phải tôn thờ, kính mến và tuân phục thiên Chúa qua những người đại diện Giáo hội.
Như vậy, sống trên đời này, con người có bổn phận tuân phục Chúa và những luật lệ hợp lý của xã hội nữa. Chúng ta không thể bỏ qua nhiệm vụ với xã hội khi sống đạo và khi lo bổn phận trần thế chúng ta không được đặt nhẹ bổn phận đối với Chúa. Chúng ta phải luôn tuân theo lời Giáo huấn của Chúa trong Giáo hội, giữ các giới răn, sống 8 Mối Phúc và năng lãnh các Bí tích.
Thế quyền có bổn phận lo an sinh và phát triển kinh tế, gìn giữ an ninh, bảo đảm trật tự xã hội cho chúng ta an ổn làm ăn sinh sống. Do đó, chúng ta có bổn phận đóng góp công sức cho xã hội theo lẽ công bằng và mưu ích hạnh phúc cho toàn xã hội trong đó có chúng ta.
Là những người con cùng một Cha, chúng ta đừng chỉ lo cho mình mà quên đi quyền lợi của người khác. Còn đối với chính mình, chúng ta biết lo nuôi xác thì cũng phải biết nuôi hồn cho tương xứng vì chúng ta là loài có xác và hồn. chúng ta phải sống sao để làm tròn bổn phận và đặt bổn phận vâng phục Chúa ưu tiên trên tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con hiểu đúng bổn phận của mình đối với Chúa và đối với trần thế. Xin cho chúng con biết thi hành bổn phận này trong cuộc sống để mưu cầu hạnh phúc cho chính mình cũng như cho tha nhân trong xã hội mình đang sống.
-------------------------------
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để thực hiện ý định của Ngài. Ngài dùng ngay cả vua ngoại TN 29-A114
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để thực hiện ý định của Ngài. Ngài dùng ngay cả vua ngoại đạo để giải thoát dân Ngài. Mọi sự đều ở trong tay Chúa. Chúa muốn thế nào thì được như vậy, không ai có thể phá bỏ được kế hoạch của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu sống trên trần thế có hai nhiệm vụ song song: nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và đối với Tổ quốc. Trên nguyên tắc, hai nhiệm vụ này độc lập với nhau, nhưng trong thực tế, khi thi hành những nhiệm vụ này, đôi lúc chúng ta gặp không ít khó khăn, đôi lúc làm cho chúng ta lo lắng. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào vừa phụng sự Thiên Chúa vừa phụng sự Tổ quốc mà không xung đột nhau ? Làm sao có thể sống tốt đạo đẹp đời một cách hài hoà trong cuộc sống hằng ngày ?
Chúa Giêsu cũng là một công dân của nước Do thái. Ngài cũng có lý lịch rõ ràng và một Tổ quốc để phụng sự. Ngài đã chu tòan nhiệm vụ của một người công dân của một nước bị trị (x. Mt 17,26; Lc 23,22) theo nguyên tắc “Của César thì trả cho César”. Chúng ta cũng phải theo cách sống của Chúa Giêsu: chu tòan nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và Tổ quốc. Dĩ nhiên, trong những trường hợp có sự va chạm giữa chính quyền và tôn giáo thì chúng ta hãy theo nguyên tắc này: không luật lệ nào được chống lại luật của Thiên Chúa, vì như thế là cũng phạm đến con người.
Nhiệm vụ của Kitô hữu là phải cầu nguyện và khôn khéo thế nào để tạo ra sự hòa hợp giữa Giáo hội và quốc gia để cả hai cùng phục vụ con người một cách tốt đẹp.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 45,1.46.6
Thiên Chúa có thể dùng bất cứ phương tiện nào để thực hiện ý định của Ngài: bằng chứng là Ngài đã dùng Cyrô, vua ngoại đạo, để giải thoát dân Ngài.
Theo lịch sử, năm 587 trước công nguyên, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, dân chúng bị bắt đi đầy. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba tư chiếm ngôi bá chủ. Năm 538, vua Ba tư là Cyrô, sau khi chiến thắng Babylon, đã ra sắc chỉ cho dân Do Thái được hồi hương.
Mặc dầu vua là người không biết Thiên Chúa nhưng Ngài đã dùng vua để thực hiện chương trình của Ngài. Chính vua Cyrô cũng không ngờ rằng ông là khí cụ của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa trao quyền cho ông. Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xúi lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Vì thế tiên tri Isaia đã không ngại gọi ông là “Đấng xức dầu của Thiên Chúa”.
+ Bài đọc 2: Tx 1,1-5b
Thánh Phaolô đã thành lập giáo đoàn Thessalonica vào năm 50 trong chuyến truyền giáo lần thứ hai . Trong khi gặp rất nhiều khó khăn: người Do Thái muốn ám hại, nên Ngài phải bỏ trốn trước khi hoàn thành việc đào tạo và tổ chức giáo đoàn. Khi được tin tốt về giáo đoàn non trẻ này, Ngài vô cùng sung sướng vì họ có một đức tin vững vàng, một lòng cậy trông và một đức ái sống động. Ngài viết thư này để khuyến khích họ và cảm tạ Chúa vì tất cả những thành quả mà giáo đoàn này đã thu lượm được: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi”.
+ Bài Tin mừng: Mt 22, 15-21
Bình thường nhóm biệt phái và nhóm Hêrôđê không thuận nhau vì, một đàng nhóm biệt phái là người ái quốc chống lại chính quyền Rôma đang đặt ách đô hộ trên quê hương họ; đàng khác nhóm Hêrôđê thì ủng hộ chính quyền Rôma để trục lợi. Hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau, nhưng hôm nay cùng liên minh với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu.
Họ chất vấn Chúa bằng một cầu rất hóc búa: “Có được phép nộp thuế cho César không”? Nếu trả lời “có” thì nhóm biệt phái cho Ngài là phản quốc vì tiếp tay với ngoại bang ; nếu trả lời “không” thì sẽ bị nhóm Hêrôđê tố cáo là Ngài phản động và chắc chắn Ngài sẽ bị chính quyền bắt giữ.
Nhưng, Chúa Giêsu giội cho họ một gáo nước lạnh khi trả lời: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã thoát khỏi cạm bẫy thâm độc của họ ; đồng thời dạy cho họ một bài học thực hành: có sự khác biệt giữa tôn giáo và chính trị. Tôn giáo không phải là để phục vụ cho chính trị, và chính trị cũng không để phục vụ cho tôn giáo.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Res clamat domino
Của đòi về chủ
I. BỐI CẢNH CÂU CHUYỆN
Từ trước tới nay chúng ta thấy Chúa Giêsu ở thế công. Ngài đã dùng ba dụ ngôn để chỉ trích những nhà lãnh đạo truyền thống Do Thái: dụ ngôn đứa con trai bất hiếu không chịu nghe lời cha, dụ ngôn người làm vườn gian ác đã giết đầy tớ vua, dụ ngôn tiệc cưới của nhà vua vì họ không đến dự.
Bây giờ chúng ta thấy họ đưa ra đòn phản công để đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm bằng một câu hỏi hóc búa, nhằm hai mục đích: một là bị nhà cầm quyền bắt, hai là mất uy tín với dân chúng vì là người phản quốc.
Cũng nên biết, chúng ta đang ở vào năm 30 dưới thời hoàng đế César Tiberius, và quân đội ông đang chiếm xứ Do Thái gây nhiều nhiễu nhương cho dân chúng, phong trào chống đối đang âm ỉ lan rộng. Họ có hai tầng lớp người lãnh đạo chống đối nhau: nhóm biệt phái ái quốc chống nhà cầm quyền và nhóm Hêrôđê thân chính quyền đô hộ để trục lợi. Bình thường, hai nhóm này chống đối nhau, nhưng hôm nay cùng nhau tìm phương thế ám hại Chúa Giêsu với một câu hỏi hóc búa về vấn đề nộp thuế.
Dân Do Thái phải nộp thuế cho chính quyền Rôma. Có ba thứ thuế:
– thuế điền thổ.
– thuế lợi tức.
– thuế thân.
Luật thuế thân qui định mọi người nam nữ từ 14 đến 65 tuổi đều phải đóng một denier, tương đương với lương công nhật của một người. Thuế ở trong câu hỏi đây là thuế thân.
Người dân các nước bị trị bao giờ cũng phải nộp thuế cho chính quyền bảo hộ. Năm 1920, ông Gandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh để tranh đấu cho nước được độc lập. Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền. Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát cảnh thực dân.
Vậy, Chúa Giêsu có theo đường lối của ông Gandhi không hay phải theo một đường lối nào để giải quyết cho ổn thỏa ? Câu trả lời xẩy ra như sau theo Tin mừng của Luca: “Hôm ấy, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôdê sai mấy môn đệ đến hỏi thử Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: “Có được phép nộp thuế cho César hay không” ?
Hỏi như vậy là họ đã đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm, mà triết học gọi là cái thế “luỡng đao luận”, nghĩa là con dao hai lưỡi, nói thế nào cũng chết: chối cũng chết mà nhận cũng chết. Nếu Chúa Giêsu bảo nên nộp thuế là lệ thuộc vào ngoại bang, là phản quốc, do đó mất uy tín với dân chúng. Nếu Chúa bảo là không thì bị liệt vào loại phản động, chống chính quyền, thế nào cũng bị bắt.
Nhưng Chúa Giêsu lại có một cách xử lý rất khéo léo, rất tinh vi: “Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Ngài một quan tiền. Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai” ? Họ đáp: “Của César”. Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của César, trả về cho César ; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa”.
II. BÀI HỌC CHÚA DẠY TA
1. Chúa Giêsu, một người công dân
Chúa Giêsu có một lý lịch rõ ràng. Ngài là một công dân Do Thái nên Ngài phải thi hành mọi nhiệm vụ đối với một công dân Do Thái đang bị người Rôma đô hộ. Bản thân Ngài sống như mọi người không có gì khác, cả gia đình Ngài cũng vậy. Kinh thánh cũng cung cấp cho chúng ta một số chi tiết chứng tỏ gia đình Thánh gia thất đã chu toàn nghĩa vụ công dân:
– Cha mẹ Ngài đã vâng lệnh nhà vua để về Belem khai hộ khẩu (Lc 2,4).
– Chính Ngài đã sai Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế cho mình và cho Phêrô nữa (Mt 17,26).
– Chính quyền ra lệnh bắt và giết Chúa, Ngài vẫn vui lòng tuân lệnh dù Ngài biết lệnh ấy bất công, mà chính Philatô, người lên án giết Chúa cũng phải nhận là Ngài vô tội (Lc 23,22).
Câu nói của Ngài: “Của César thì trả cho César” đã phản ảnh một cách hết sức trung thực những công việc Ngài đã làm, đúng như Thánh kinh đã viết về Ngài: “Chúa làm trước, rồi mới dạy người ta làm sau” (Cv 1,1).
2. Kitô hữu, một người công dân
Một người công dân phải có giấy khai sinh và có một hộ khẩu thường trú. Không ai ở trên trời rơi xuống, không ai sống lơ lửng trên không trung. Mỗi người phải có một quốc tịch, mặc dù có thể thay đổi được quốc tịch ấy. Đã là công dân của một nước nào thì phải chấp hành những luật lệ của nước ấy. Mọi công dân phải góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tránh những hành vi làm tổn thương đến Tổ quốc ấy.
Về điểm này, ta có bằng chứng về cách sống của những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Một tác giả vô danh hồi thế kỷ thứ ba đã viết trong tác phẩm “Thư gửi cho Diognetus” như sau:
“Người Kitô hữu không khác với những người khác về cư trú, về ngôn ngữ hay về lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ.
Họ ở rải rác trong các thành phố Hy lạp lẫn trong các thành của người Man di, tùy theo số phận dun dủi. Họ sống theo tập tục của kẻ bản xứ trong cách phục sức, ăn uống và cách sống, nhưng bộc lộ một thái độ sống khiến nhiều người cho là lạ lùng. Họ sống trong quê hương của họ mà như những kẻ ở đậu. Họ tuân thủ mọi cái chung như các công dân khác và chịu gánh nặng dường như ngoại kiều. Miền xa lạ cũng là quê hương của họ nhưng mọi quê hương chỉ là đất khách cho họ mà thôi. Họ cũng dựng vợ gả chồng như ai và sinh đẻ con cái, nhưng chẳng hề bỏ con. Họ đồng bàn nhưng chẳng đồng sàng”.
(Cap.V.VI PG 21173 B.117 C , Các Bài đọc 2 Mùa PS, tr 84)
Chúng ta phải khẳng định rằng trước khi là một Kitô hữu ta đã là người của một quốc gia nào đó, ví dụ, trước khi là người Công giáo, tôi đã là người Việt nam. Nhờ phép rửa tội, chúng ta trở thành người Việt nam công giáo. Giữa người công dân Việt nam và người công dân Công giáo Việt nam không có gì khác nhau, không có gì mâu thuẫn nhau. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người đều có bổn phận và quyền lợi như nhau đối với đất nước.
3. Tương quan giữa tôn giáo và chính trị
Vấn đề tương quan giữa tôn giáo và chính trị, giữa Giáo hội và quốc gia là một vấn đề tế nhị và đôi khi, thật gai góc, nhiều khi có nhiều lấn cấn. Chúng ta có thể đưa ra đây mấy nguyên tắc cho chúng ta hành xử trong đời sống thực tế không thể tránh được:
a) Nguyên tắc thứ nhất:
Xã hội dân sự và xã hội tôn giáo, quốc gia và Giáo hội là hai vấn đề độc lập với nhau. Dù là cả hai phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của con người ; nhưng quan điểm và cách hành động của họ vẫn khác nhau.
b) Nguyên tắc thứ hai:
Với tư cách là công dân, thành viên của một đoàn thể thế gian, người Kitô hữu phải chấp nhận sống theo luật lệ của đoàn thể đó và làm trọn bổn phận như đóng thuế, vâng phục chính quyền hợp pháp trong mọi việc mà chính quyền đòi hỏi. Người Kitô hữu sẽ dùng mọi phương tiện hợp pháp: bỏ phiếu, báo chí, nghiệp đoàn để góp phần xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo hơn.
c) Nguyên tắc thứ ba:
Người Kitô hữu cố giữ giá trị hướng thượng và tư cách tuyệt đối những quyền của Thiên Chúa, vì biết rằng khi những giá trị này bị xâm phạm thì con người cũng bị xâm phạm, nhất là kẻ hèn yếu. Chúng ta không bao giờ chấp nhận một luật lệ nào chống lại luật của Thiên Chúa. Người Kitô hữu cố gắng làm sao để tạo ra sự hoà hợp giữa Giáo hội và quốc gia, và như thế cả hai sẽ phục vụ tốt biết bao cho con người.
(Cf Cử hành Phụng vụ Chúa nhật , tr 215)
III. SỰ CHỌN LỰA CỦA CHÚNG TA
Người Kitô hữu chúng ta có hai quyền công dân đi đôi với nhau. Chúng ta là công dân của thế giới, tức trần thế này và công dân thiên quốc. Chúng ta phải phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, hai nhiệm vụ này phải đi sánh đôi. Như thế chúng ta kính trọng và tôn kính đối với những đòi hỏi của hai bên.
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để giúp ích cho con người và cho dân Chúa. Trong bài đọc thứ nhất, ta thấy Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Chúa. Như thế, dân Chúa đã phải tùng phục chính quyền trong những công việc về chính trị, mà không thể làm khác vì đó là đường lối của Thiên Chúa.
Thánh Phêrô trong thư thứ nhất đoạn 2 câu 17 đã bảo các Kitô hữu: “Hãy tôn kính Thiên Chúa và hãy kính trọng Hoàng đế”. Và trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 13, câu 1 và 7, thánh Phaolô bảo các Kitô hữu: “Hãy vâng phục các vị cầm quyền. Hãy nộp cho họ những gì các ngươi mắc nợ họ, hãy nộp thuế thân, thuế tài sản và hãy tỏ lòng kính trọng họ”.
Mong ước rằng hai loại quyền công dân này của chúng ta không bao giờ xung đột nhau. Tuy nhiên, lỡ có xẩy ra xung đột, thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết. Các Kitô hữu đã từng phải giải quyết như thế ngay từ thời Chúa Giêsu. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời kỳ đế quốc Rôma bách hại Giáo hội. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời trung cổ. Họ đã phải giải quyết như thế trong thế kỷ 16 và 17 khi hàng chục ngàn Kitô hữu phải chạy trốn sang Mỹ châu để giữ đạo mà không bị nhà nước can thiệp.
Có lẽ chúng ta có thể minh hoạ tất cả những điều trên bằng trường hợp của thánh Thomas More, vị thánh tử đạo người Anh. Robert Bolt đã làm nổi bật cuộc xung đột của More – liên quan đế những gì thuộc César và những gì thuộc về Thiên Chúa – trong cuốn sách nhan đề “A man for all seasons”(Người của mọi mùa).
Truyện: Thánh Thomas More
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 305).
Như thế, bài Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến hai bổn phận đi đôi với nhau của chúng ta. Chúng ta là công dân trần thế, đồng thời cũng là công dân Nước Trời. Chúng ta có bổn phận phải trung tín với cả hai Tổ quốc. Chúng ta hy vọng các bổn phận này không bao giờ xung đột nhau. Nhưng nếu lỡ có xung đột thì chúng ta phải giải quyết chúng giống như thánh Thomas More đã làm, nghĩa là không gây thương tổn cho Thiên Chúa hoặc cho lương tâm ta.
Cuộc sống của Kitô hữu tại thế là như vậy, chúng ta không thể làm khác được. Nhiều lúc chúng ta hay than vãn là chúng ta phải mang hai gánh trên vai: vừa phải chu toàn bổn phận ở đời lại vừa lo tròn nghĩa vụ trong đạo. Đối với những ai có tâm hồn đạo đức thánh thiện thì sự khó khăn đó không đến nỗi quá băn khoăn lo lắng ; trái lại, đối với những ai mang nặng ích kỷ trần tục nếu chẳng may đạo hay đời đòi hỏi phải chịu khó hy sinh làm một điều gì đó, tức khắc họ lên tiếng phàn nàn kêu trách và nại đủ lý do để từ chối.
Đây chính là vấn đề mà người biệt phái đã thắc mắc với Chúa và Chúa đã giãi bầy cho họ cũng như cho chúng ta hiểu để biết mà sống cho tốt đạo đẹp đời. Trong mọi trường hợp chúng ta phải đặt quyền lợi của Chúa trên hết, đôi lúc vì thế mà phải bị thiệt thòi. Lời Chúa vẫn còn yên ủi chúng ta khi chúng ta gặp phải những trường hợp éo le như thế: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì”.
Truyện: Mọi sự thuộc về Chúa
Hoàng đế Frédéric đi tham quan một trường học nhỏ miền quê. Đúng lúc học trò đang học môn địa lý. Vua hỏi một em nhỏ tuổi:
– Làng con ở đâu ?
– Tâu hoàng thượng, làng con ở trong nuớc Phổ.
– Nước Phổ ở đâu ?
– Tâu hoàng thượng, nước Phổ ở trong đế quốc Đức.
– Đế quốc Đức ở đâu ?
– Tâu hoàng thượng, đế quốc Đức ở trong châu Âu.
– Châu Âu ở đâu ?
– Tâu hoàng thượng, châu Âu ở trong thế giới.
– Thế giới ở đâu ?
Suy nghĩ một lát em bé dõng dạc trả lời:
– Tâu hoàng thượng, thế giới ở trong tay Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân tộc mình theo lời của Thomas Jefferson:
Lạy Thiên Chúa tối cao,
Ngài ban cho chúng con mảnh đất tốt tươi này làm gia nghiệp. Xin hãy chúc lành cho mảnh đất chúng con, xin hãy cứu chúng con khỏi bạo lực, và mọi đường lối xấu xa, xin hãy bảo vệ sự tự do của chúng con…
Xin ban thần trí khôn ngoan xuống trên những kẻ mà nhân danh Ngài, chúng con đã ủy thác quyền cai trị… Trong thời thịnh vượng, xin đổ tràn xuống lòng chúng con niềm tri ân, và trong ngày gian truân, xin đừng để niềm tin của chúng con vào Ngài bị suy giảm.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
-------------------------------
CHỌN LỰA
LỜI CHÚA: Mt 22, 15-21
Hôm nay Chúa Giê-su bị đặt vào một tình thế khó xử nếu Ngài trả lời đó là luật phải giữ, Ngài bị coi TN 29-A115
Hôm nay Chúa Giê-su bị đặt vào một tình thế khó xử nếu Ngài trả lời đó là luật phải giữ, Ngài bị coi là một người phản bội đối với sự nghiệp và tôn giáo Do Thái. Nếu Ngài nói nộp thuế không đúng luật, Ngài sẽ bị tố cáo chống lại Rô-ma. Trước sự thách thức như thế Chúa Giê-su chất vấn lại họ về lề luật, luật Do thái (luật đạo) và luật Roma (luật đời), và qua đó Người hỏi họ về đồng tiền thuế để dạy họ cách giữ luật thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa. Như Ngài đã khẳng định: “ Con Người đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để hoàn tất.” (x. Mt 5, 17-48).
Chúng ta biết rằng nhóm Biệt Phái tượng trưng cho tinh thần bất nhượng bộ về vấn đề tôn giáo. Họ quyết tâm bảo vệ sự tự do cho dân Chúa trước quyền bính Rô-ma tại Giu-đê, quyền bính này nằm trong tay tổng trấn mà đôi lúc, với sự hỗ trợ của binh lính, đã tỏ ra rất hà khắc. Còn nhóm Hê-rô-đê lại thân với Rô-ma, vì đế quốc nâng đỡ các quận vương xuất thân từ giòng tộc Hê-rô-đê Cả đang trị vì ở Galile và Pê-rê, nhóm chủ trương hợp tác với kẻ chiếm đóng vì sự hợp tác này có lợi cho họ. Như thế nên kế của họ rất độc, Đức Giê-su có ủng hộ hoàng đế hay chống lại đều có người tố cáo.
Câu hỏi: “Có được nộp thuế cho hoàng đế không?” Nếu Chúa Giê-su trả lời không là chuyện bình thường với những người chống lại hoàng đế. Đây là câu hỏi của người Biệt phái và cái gây vấn đề ở đây là sự nộp thuế.
Bẫy của câu hỏi này không nằm trong chính câu hỏi mà nằm trong cuộc tranh luận. Nếu Chúa Giê-su chấp nhận trả thuế thì dân chúng sẽ cho Ngài là một người phản quốc về phe đế quốc, bóc lột dân chúng. Nếu Ngài tuyên bố không nộp thuế, nhóm Hê-rô-đê sẽ phản ứng tức khắc và sẽ có cớ để tố Ngài với tổng trấn là nổi loạn, chống đối việc nộp thuế.
Câu trả lời của Chúa Giê-su rất khôn khéo khiến đối thủ của Ngài nhận ra ngay rằng Ngài không phải là đối thủ của họ và Ngài thấu suốt lòng họ, Ngài nói sự thật không vị nể ai.
Ngài yêu cầu họ đưa đồng tiền thuế ra cho Ngài xem và giải thích hình ở trên đồng tiền để buộc họ phải lộ rõ tính cách giả hình nơi họ: nói thì ra vẻ tẩy chay hoàng đế mà sống thì lại ủng hộ hoàng đế. Chúa Giê-su buộc họ phải trở về với chính mình, Họ sẽ thấy cái bẫy mà họ giăng cho người khác mắc thì chính họ lại rơi vào.
Câu trả lời của Chúa Giê-su hôm nay cho đối thủ của Ngài hiểu rõ hơn điều họ chất vấn Ngài. Nếu đồng quan ấy là của hoàng đế thì hãy đem nó trả lại cho hoàng đế. Câu này có ý nghĩa cho mọi người, cho người mắc nợ, cho người bóc lột lẫn người bị bóc lột. Đối với người mắc nợ, nợ ai thì phải trả cho người đó, mắc ơn thì phải đền ơn. Còn người bóc lột phải nhớ rằng lấy của ai thì phải trả cho người ấy. Nếu đế quốc và thực dân bóc lột những nước bị trị thì phải đem của cải trả cho họ.
Câu trả lời của Chúa Giê-su thật khôn khéo không có sự đối chọi giữa đòi hỏi của luật pháp quốc gia và luật của Thiên Chúa. Luật pháp thế gian có chỗ đứng của nó nhưng không được hất cẳng Thiên Chúa. Từ nguyên tắc này, chúng ta suy ra một chân lý bất hủ: người Ki-Tô Hữu có thể trung thành với luật thế trần nếu luật đó không hất cẳng luật Thiên Chúa.
Ngày nay mọi Ki-tô hữu đều là công dân của hai nước: Nước Thiên Chúa và nước trần gian.
Nước Thiên Chúa: Tôi thuộc về Nước Thiên Chúa vì Người tạo dựng nên tôi, cho tôi hiện hữu trên trần gian này. Tôi hiện hữu không phải như các loài thảo mộc vô tri vô giác hay như các động vật không có linh hồn. Chúa dựng nên tôi giống hình ảnh Chúa, có xác có hồn. Chúa nuôi dưỡng tôi bằng khí trời trong mát, bằng thảo mộc xanh tươi, bằng hoa trái tươi tắn, bằng động vật thơm ngon…Chúa trang bị cho tôi những nhu cầu cần thiết để làm cho đời tôi hạnh phúc. Hơn nữa Chúa còn quan phòng, gìn giữ tôi bằng hàng rào ơn Thánh và lề luật của Ngài để tôi sống trọn bổn phận làm con Thiên Chúa. Và khi kết thúc cuộc đời trần thế tôi được xum vầy cùng Ngài trong Nước Vĩnh Cửu ngập tràn hạnh phúc.
Những ơn cao trọng này đòi hỏi tôi phải sống trọn bổn phận của một công dân Nước Thiên Chúa. Tôi phải ưu tiên cho chọn lực này. Các Thánh tử đạo đã phải trả giá rất đắt khi phải chọn một trong hai.
Tuy vậy nhưng tôi còn sống trong dương gian này, tôi cũng phải chu toàn nghĩa vụ của nước trần gian, nơi tôi được sinh Ra và sinh sống. tôi mắc nợ nhiều lợi ích của quốc gia. Nhờ luật pháp mà tôi được sống hạnh phúc và bình an. Tôi mắc nợ những phục vụ công cộng như nước, ánh sáng, di chuyển. Tôi mắc nợ sự giáo dục, y tế và những thiện ích khác.
Những lợi ích này buộc tôi phải có nghĩa vụ đối với quốc gia. Nên luật đóng thuế thật chính đáng và người Ki-tô hữu phải kính trọng những quyền này. Họ phải là người công dân có trách nhiệm. Họ phải đóng góp phần mình để làm cho xứ sở mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Nếu họ không là một công dân tốt thì họ cũng không thể là Ki-tô hữu tốt được. Nên hôm nay Chúa trả lời cách thẳng thắn: “Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa. Của Xê-da trả về cho Xê-da.”
Trong nhiều trường hợp hai trách nhiệm này không trái ngược nhau. Nhưng là một Ki-tô hữu tốt chúng ta biết phải làm điều gì trước, điều gì sau.
Tuy nhiên, hai trách nhiệm này đôi khi không dễ dàng cho chúng ta chọn lựa. Câu trả lời của Chúa Giê-su chỉ là một nguyên tắc. Ngài không cho lý thuyết cách chi tiết về bổn phận đối với quốc gia hay chương trình hành động chi tiết cho sự liên hệ giữa Giáo hội và quốc gia, vì thực tế nó không luôn luôn dễ dàng để nói điều này thuộc về Xeda và điều kia thuộc về Thiên Chúa. Đời sống là một sự thống nhất nó không thể chia ra hai phần rõ ràng: Phần trần thế và phần tôn giáo.
Tuy nhiên, lịch sử cho chúng ta biết có nhiều sự chia rẽ giữa Giáo Hội và quốc gia vì quốc gia vượt quá thẩm quyền của mình. Khi Chúa nói hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da là một yêu sách chính đáng. Đôi khi người Ki-tô hữu bị đối đầu với một sự thật lưỡng nan là làm thế nào để là một ki-tô hữu trong thế giới này nơi mà luật pháp có thể phản đức tin. Tuy nhiên người ki-tô hữu thực sự sẽ tìm mọi cách phấn đấu để vừa là một công dân tốt của xứ sở mình và đồng thời cũng là công dân tốt của Nước Trời.
Câu trả lời của Chúa Giê-su thật tuyệt vời vì Ngài dạy phải chu toàn bổn phận của người công dân đồng thời cũng phải làm tròn bổn phận đối với Thiên Chúa.
Của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta có đều bởi Thiên Chúa. Tất cả những gì tốt lành, những gì không phải tội lỗi đều bởi Chúa ban cả thì có gì mà không phải trả cho Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã gắn nỗi bận tâm của con người vào với nỗi bận tâm của Thiên Chúa. Tương quan với con người muốn có nền tảng, muốn đúng hướng thì phải được xây dựng trên tương quan đúng với Thiên Chúa: Của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa.
Chúa Giê-su thật sự đang nói với chúng ta, Nước Trời ở bên kia thế giới: “ Nước Ta không thuộc về thế gian này.”( Ga 18,36). Chính vì thế mà thế gian này chỉ có giá trị khi nó phục vụ Nước Thiên Chúa. Tiền có giá trị thiêng liêng nếu nó dùng để chia sẻ. Quyền chính trị có giá trị nếu nó dùng để phục vụ. Và sức mạnh nhân loại chỉ có giá trị khi nó suy phục Thiên Chúa. Chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa: Trí khôn, thân xác, trái tim được tạo dựng cho vinh quang của Thiên Chúa. Tất cả phải được dùng để phụng sự Thiên Chúa. Nhưng đôi khi chúng ta có thể nghiêng về nước trần gian và hết mình, hết tình cho trần thế, quên bẵng Nước Thiên Chúa là Nước mà đáng lẽ chúng ta phải hiến thân trọn vẹn suốt đời.
Xin Chúa cho chúng ta biết chu toàn nhiệm vụ trần thế của mình đồng thời cũng phải đặt Nước Trời trên hết và trước hết.
Nữ tu Maria Faustina Lý Thị Báu
--------------------------------
Hãy trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa (Mt 22,21)
Bạn có nhìn thấy cái bẫy mà những người Pharisêu này đang giăng ra khi họ hỏi Chúa Giêsu rằng có TN 29-A116
Bạn có nhìn thấy cái bẫy mà những người Pharisêu này đang giăng ra khi họ hỏi Chúa Giêsu rằng có phải nộp thuế cho Xêda không? Nếu Chúa Giêsu nói rằng không phải nộp thuế, thì Ngài sẽ bị dán nhãn như một nhà cách mạng và là một mối đe dọa cho những người Rôma. Nếu Ngài nói rằng phải nộp thuế, Ngài sẽ bị coi như một kẻ cộng tác với thể chế đế quốc áp bức.
Chúa Giêsu đã hoàn toàn nhìn thấy cái bẫy (Mt 22,18). Thay vì để mình rơi vào cạm bẫy đó, Ngài đã cho họ một câu trả lời đơn giản nhưng sâu sắc – một câu hỏi vẫn luôn cật vấn chúng ta rằng chúng ta đang đứng ở đâu.
“Những gì thuộc về Thiên Chúa” là tất cả sự sáng tạo của Người: những cây cối và các thú vật trên mặt đất, các vì sao của bầu trời, biển và mọi thứ trong đó. Và dĩ nhiên, dân của Người – tất cả chúng ta. Như những ngôi sao chiếu sáng và mặt trăng tỏa sáng, như những chú chim ca hát và những cây cối nở hoa, chúng làm vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta là vương miện của sự sáng tạo của Thiên Chúa thì chúng ta càng phải làm vinh danh Chúa nhiều hơn nữa?
Đây là cách thế chúng ta trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa – bằng cách thờ lạy Người, bằng cách tuân theo các mệnh lệnh của Người và bằng cách đi ra khỏi mình để chăm sóc những con người đáng yêu của Người.
Còn về những gì thuộc về Xêda? Điều đó có nghĩa là đóng thuế để những người cảnh sát gìn giữ nền hòa bình, để những chiếc xe bus của trường học chạy đều đặn và để các thành phố có thể chăm sóc cho những người nghèo túng qua các chương trình xã hội? Vâng đúng như thế, và còn nhiều hơn nữa. Đó là lý do tại sao cách mà chúng ta “trả lại cho Thiên Chúa” nên ảnh hưởng đến cách chúng ta “trả lại cho Xêda”. Nó nên thúc đẩy chúng ta tìm thấy những cách thức để chăm sóc những người nghèo và vô gia cư, để thăm viếng những người bệnh tật và già yếu, và đỡ nâng những người đang cô đơn. Nó nên thúc đẩy chúng ta làm việc nhắm đến việc biến đổi các thị xã và các thành phố của chúng ta từng bước một. Nó nên thúc đẩy chúng ta chăm sóc người khác, chứ không chỉ trả phần thuế của chúng ta.
Như thế bạn có thể làm gì cho Xêda hôm nay?
“Này con đây, lạy Chúa. Xin hãy dạy con cách thế để biến đổi môi trường con sống”.
Theo the Word Among us
Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
----------------------------------
CHỦ ĐỀ: BỔN PHẬN ĐỐI VỚI THẾ QUYỀN VÀ THẦN QUYỀN
"Của Xêda trả về Xêda. Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa" (Mt 22,21)
Tín hữu có hai bổn phận, một đối với thế quyền và một đối với Thiên Chúa. Thiếu sót một trong hai TN 29-A117
Sợi chỉ đỏ: Tín hữu có hai bổn phận, một đối với thế quyền và một đối với Thiên Chúa. Thiếu sót một trong hai cũng đều là có lỗi.
- Bài đọc I: Vua Cyrô là người được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài.
- Đáp ca: Thiên Chúa mới là Vua thật trên các bậc vua chúa trần gian.
- Tin Mừng: Trả lời cho những người tìm cách bắt bẻ Ngài về việc nộp thuế cho vua Xêda, Đức Giêsu nhắc họ hãy lo chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa nữa: "Của Xêda hãy trả cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa".
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
"Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc", đó là phương châm mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đề ra cho mỗi người giáo dân Việt Nam.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn hai bổn phận đối với Chúa và đới với tổ quốc.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Vì ích kỷ, chúng ta không góp phần xây dựng xã hội và đất nước.
- Vì mải mê lo việc thế gian, chúng ta sao lãng bổn phận đối với Chúa.
- Lẽ ra vì có ánh sáng Tin Mừng hướng dẫn, chúng ta phải là một công dân gương mẫu, nhưng chúng ta chưa được như thế.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 45,1.4-6)
Bối cảnh lịch sử: Năm 587, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, bắt dân do thái đi đày. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba Tư dành ngôi bá chủ. Vua của Ba Tư lúc đó là Cyrô. Vừa mới chiến thắng Babylon xong, năm 538, Cyrô ra sắc chỉ cho dân do thái được hồi hương.
Mặc dù Cyrô là một người ngoại không hề thờ kính Thiên Chúa, nhưng ngôn sứ Isaia lại coi ông là người được Thiên Chúa dùng: chính Thiên Chúa trao quyền cho ông, Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xui lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Tóm lại, Cyrô là dụng cụ Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài. Vì thế, cuối đoạn trích này, Isaia nhấn mạnh: "Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác".
2. Đáp ca (Tv 95)
Tv này ca tụng Thiên Chúa với tư cách là Vua và Chúa tể duy nhất đích thực của muôn dân. So với Ngài, các vua chúa trần gian đều là hư ảo.
3. Tin Mừng (Mt 22,15-21)
Bình thường, phái Pharisêu và nhóm Hêrôđê không thuận nhau, bởi một bên (nhóm Hêrôđê) thì chạy theo chính quyền Rôma đang đô hộ xứ Palestine, còn bên kia (phái Pharisêu) thì chống lại quân đô hộ. Nhưng hôm nay hai nhóm này liên minh nhau để chất vấn Đức Giêsu nhằm tìm được cơ hội làm hại Ngài.
Vấn đề họ đem ra chất vấn Đức Giêsu là "Có được phép nộp thuế cho Xêda không ?" Đây là một cái bẫy thâm độc, vì nếu Đức Giêsu trả lời "Có" thì nhóm Pharisêu sẽ kết án Ngài là phản quốc ; còn nếu Ngài nói "không" thì nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài là phản động.
Với câu trả lời "Của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa", Đức Giêsu chẳng những không mắc bẫy họ, mà còn dạy lại họ một bài học: đừng chỉ mải mê lo chuyện chính trị, mà hãy lo chu toàn một bổn phận khác còn quan trọng hơn nhiều, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Tx 1,1-5b) (Chủ đề phụ)
* Từ Chúa nhựt này, bài đọc II được trích từ thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônikê. (Xin xem bài giới thiệu tổng quát về thư 1 Thêxalônikê, ngay sau bài này)
Thêxalônikê là một giáo đoàn non trẻ mà Phaolô rất lo lắng cho:
- Non trẻ: Phaolô thành lập giáo đoàn này vào năm 50 trong chuyến truyền giáo thứ hai. Nhiều người đã đón nhận Tin Mừng và lập thành một cộng đoàn sống động với đức tin cậy mến sốt sắng.
- Lo lắng: Nhưng Phaolô chỉ được ở với họ trong một thời gian ngắn (Cv 17,2 nói Phaolô ở với họ "3 ngày". Có lẽ "3 ngày" này không theo nghĩa đen, chỉ có ý muốn nói là trong một thời gian rất ngắn). Sau đó do những người do thái mưu hại, Phaolô phải trốn khỏi đó. Tuy Phaolô đã đi xa, nhưng rất lo lắng cho giáo đoàn non trẻ này trước những đòn tấn công của kẻ thù. Vì thế Phaolô gửi thư về khuyến khích họ.
Phần đầu của lá thư này là những lời chào hỏi và khuyến khích. Đặc biệt Phaolô khen ngợi đức tin, cậy và mến của họ: "Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Bổn phận công dân
"Có được phép nộp thuế cho Xêda không ?" Có nhiều từ trong câu hỏi này cần được giải thích thêm cho rõ:
- Thuế: không phải chỉ có ý nói tới việc đóng thuế, mà còn bao gồm tất cả những gì thuộc bổn phận công dân như: yêu nước, góp phần xây dựng đất nước, tuân thủ luật pháp, tùng phục chính quyền…
- Xêda: đối với hoàn cảnh lịch sử riêng thời Đức Giêsu thì Xêda chỉ chính quyền đang đô hộ đất nước do thái. Còn đối với hoàn cảnh chung của mọi thời thì chữ Xêda này nên được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ chinh quyền cách chung.
- Có được phép không: Động từ "được phép" ở thể thụ động, gián tiếp muốn hỏi Thiên Chúa có cho phép không.
Như thế ý nghĩa của câu hỏi này là: Theo ý Thiên Chúa thì người tín hữu có bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền không ?
Câu trả lời của Đức Giêsu "Của Xêda hãy trả cho Xêda" là nền tảng giáo lý về bổn phận công dân: người tín hữu của Chúa cũng là công dân của một đất nước, cho nên phải chu toàn mọi bổn phận công dân một cách đầy đủ và gương mẫu.
Không phải vì là thần dân của Vua Giêsu và là công dân của Nước Trời mà người tín hữu không còn bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền trần gian, bởi vì Nước Trời mà Vua Giêsu thành lập "không thuộc thế gian này" cho nên cũng không chống lại nước và chính quyền trần gian.
Chính Đức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân: cha mẹ Ngài đã vâng lệnh hoàng đế để về quê quán khai tên (Lc 2,3-5) ; Đức Giêsu bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (Mt 17,24-27).
2. Lợi riêng và ích chung
Người Việt nam nói chung và người tín hữu Việt nam nói riêng có một thiếu sót rất lớn, đó là không tích cực đóng góp cho lợi ích chung.
Những thể hiện: trốn thuế, gian lận để giảm thuế, ăn cắp của chung, không quan tâm giữ gìn tài sản chung của xã hội, ngại đóng góp để bảo trì hoặc tu sửa nhà thờ, không nhiệt tình góp "tiền rỗ" trong các thánh lễ…
Thiếu sót ấy có lẽ phát xuất từ một cách suy nghĩ rằng mình không có bổn phận gì đối với việc chung và ích chung. Từ suy nghĩ ấy, mỗi lần bỏ ra chút ít gì cho ích chung thì cho rằng đó là một việc thi ơn, một việc từ thiện.
Suy nghĩ ấy hoàn toàn sai. Góp phần cho ích chung không phải là việc tuỳ ý mà là bổn phận, không phải là bố thí mà là công bằng, bởi vì mình được thụ hưởng ích chung cho nên theo công bằng mình phải đóng góp vào đó.
Những công dân và tín hữu có trình độ suy nghĩ trưởng thành ở một số nước khác đều rất ý thức bổn phận này: đối với đất nước, họ quan tâm đóng thuế đầy đủ ; đối với Giáo Hội, mỗi lần dự lễ họ đều góp "tiền rỗ", thậm chí có người ít đi lễ mà cũng gởi tiền góp vào quỹ xứ đạo…
3. "Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
Vế thứ hai trong câu Đức Giêsu trả lời là một lời nhắc nhở cho những kẻ muốn gài bẫy Ngài. Họ đều là tín đồ do thái giáo nhưng họ mải mê lo chuyện chính trị, kẻ thì phò theo chính quyền Rôma, người thì chống lại. Họ lại còn muốn lôi Đức Giêsu vào vòng tranh chấp chính trị của họ nữa. Đang khi đó thì họ rất thờ ơ với bổn phận đới với Thiên Chúa. Bởi thế Đức Giêsu nhắc: việc chính trị thì cứ lo, nhưng đừng quên bổn phận đối với Thiên Chúa.
Ta thường nghe nói "tốt đời đẹp đạo". Xét cho cùng, một người tín hữu có "đẹp đạo" trước thì mới dễ "tốt đời" sau, bởi vì chính "đạo" vừa dạy vừa giúp ta cách sống tốt ở "đời".
4. Chuyện minh họa
a/ Ngày nay, hai chữ "chính trị" thường được hiểu theo nghĩa xấu, "làm chính trị" bị coi là một việc nguy hiểm, như những chuyện sau đây:
- Hai vợ chồng nhà kia sinh được cậu quí tử. Ngày cậu thôi nôi, một người bạn góp ý thử xem tương lai cậu ra sao. Họ đặt trên bàn một cây vàng, một cuốn Thánh Kinh. một chai rượu và xem cậu chọn cái gì. Nếu cậu chọn vàng thì tương lai sẽ là thương gia. Nếu chọn Thánh Kinh thì là linh mục. Nếu chọn chai rượu thì cuối cùng chỉ là anh chàng bét nhè.
Rồi họ đưa cậu vào. Cậu lấy cây vàng đút túi, kẹp cuốn sách vào nách và ôm chai rượu bước ra. Thấy thế, người chồng bảo vợ: "Tốt lắm ! Nhất định sau này nó sẽ là một nhà chính trị !"
- Ba người chết và về trời cùng ngày. Người thứ nhất là giáo hoàng, người thứ hai là linh mục và người thứ ba là một chính trị gia.
Thánh Phêrô dẫn họ vào thiên đàng: giáo hoàng và linh mục ở trong hai túp lều nhỏ, còn nhà chính trị gia vào tòa nhà lớn.
Cả linh mục và giáo hoàng cung kính hỏi xem tại sao hai tôi tớ trung thành như họ được hưởng cuộc sống hạnh phúc ở nơi không hấp dẫn, trong khi nhà chính trị được sống trong tòa nhà vĩ đại.
Thánh Phêrô trả lời: "Này các con, ở đây đã có nhiều linh mục và giáo hoàng. Nhưng đây là nhà chính trị đầu tiên của chúng ta".
b/ Nhưng tham gia chính trị và làm chính trị cũng là bổn phận công dân của người tín hữu. Sau đây là những tấm gương của một số tín hữu làm chính trị để phục vụ cho quyền lợi đồng bào và nhân loại:
- Dag Hammarskjold, Tổng thư ký Liên hợp quốc, chết trong một tai nạn máy bay năm 1961 đang lúc ông đi thăm vùng Trung Phi. Ông không nghĩ việc ông làm chính trị là phương tiện thăng tiến xã hội, mà là thi hành ơn gọi làm tín hữu của ông. Ông nói: "Thờ ơ trước sự ác còn tệ hơn chính sự ác nữa ; trong một xã hội tự do, kẻ phạm tội chỉ là một số ít, nhưng tất cả mọi người đều phải chịu trách nhiệm về tội phạm của họ" ; "Không một lối sống nào thỏa mãn hơn sống mà phục vụ vô vị lợi cho đất nước và nhân loại".
- Gandhi nói: "Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Đế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Đế".
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ. Người dựng nên trời đất muôn vật, và lúc nào cũng: quan tâm chăm sóc hết thảy mọi loài. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh luôn nhắc nhở các kitô hữu phải sống gương mẫu / tuân thủ luật pháp / mến yêu tổ quốc / sống hòa hợp với hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết luôn yêu mến tổ quốc của mình / và gương mẫu trong việc tuân giữ luật pháp.
2- Người kitô hữu có thể khác nhau về quốc gia / chủng tộc / ngôn ngữ / nhưng luôn hiệp nhất trong cùng một đức tin / đức cậy và đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các tín hữu luôn biết sống đoàn kết / thương yêu và nâng đỡ nhau / trong mọi tình huống của cuộc sống thường ngày.
3- Người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng / bổn phận đối với Chúa và đối với tổ quốc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chu toàn mọi trách nhiệm đối với Chúa / và làm tròn nghĩa vụ của một người công dân tốt / là mến yêu tổ quốc / và hiệp sức cùng đồng bào xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
4- Ngoài người mẹ ruột của mình / người kitô hữu có hai người mẹ thiêng liêng khác / đó là Hội Thánh và Đất nước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn làm tròn chữ hiếu với các bà mẹ này.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho chúng con một dày non sông gấm vóc, một tổ quốc hào hùng, một dân tộc quật cường, một đất nước nhiều tiềm năng về mọi mặt. Xin cho chúng con biết hết lòng yêu mến và bảo vệ tổ quốc chúng con. Chúng con cầu xin…
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Qua lời nguyện "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta chu toàn những bổn phận cả đối với cả trần thế lẫn đối với Chúa.
- Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con khôn ngoan biết trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em đã nghe giáo huấn của Chúa về hai bổn phận. Anh chị em hãy ra về và sống "đẹp đạo tốt đời".
----------------------------------
Suy niệm:
Lời Chúa hôm nay trình bày một chủ đề rất quan trọng và thiết thực: Kitô hữu có 2 bổn phận: một TN 29-A118
Lời Chúa hôm nay trình bày một chủ đề rất quan trọng và thiết thực: Kitô hữu có 2 bổn phận: một là bổn phận đối với xã hội trần thế; hai là bổn phận đối với Thiên Chúa: “Của Xêda, trả cho Xêda. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa”.
Thời Chúa Giêsu, nước Israel đang bị đế quốc La Mã đô hộ, thống trị. Những người biệt phái không hợp tác, chống lại đế quốc La Mã. Những người thuộc nhóm Hêrôđê thì nhiệt tình cộng tác với đế quốc; cả hai nhóm này đều chống đối Chúa Giêsu. Tuy đường lối chính trị khác nhau, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôđê đã hợp tác với nhau để tìm cách làm hại Chúa Giêsu, gài bẫy Chúa Giêsu. Lòng dạ họ ác độc và nham hiểm. Khi đặt câu hỏi với Chúa Giêsu không phải là thành tâm thiện chí muốn tìm hiểu, mà là gài bẫy Chúa Giêsu: “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”.
Câu hỏi rất nham hiểm, thâm độc, rất khó trả lời. Trên búa dưới đe, trả lời có cũng mắc bẫy, đàng nào cũng sa lưới, không thể thoát được. Nếu Chúa Giêsu trả lời có nộp thuế cho Xêda thì lập tức nhóm biệt phái sẽ kết án Chúa Giêsu là phản quốc, theo đế quốc Rôma phản lại dân tộc mình. Nếu Chúa Giêsu trả lời không nộp thuế cho Xêda, nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Đức Giêsu là phản động, chống lại hoàng đế Xêda. Lòng con người thật quả là độc ác “khẩu Phật tâm xà” và gian dối “Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”.
Hiểu được lòng dạ của họ, ý đồ xấu của họ. Đức Giêsu đưa ra lời giải đáp rất khôn ngoan và hợp lý. Chúa Giêsu nói với họ: “Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Đức Giêsu một quan tiền. Ngài hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai?”. Họ trả lời: “Của vua Xêda”. Đức Giêsu bảo: “Thế thì của Xêda, hãy trả cho Xêda, của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật tuyệt vời và đầy khôn ngoan để lại cho chúng ta một bài học quý giá và thực tế về cuộc sống làm người trong xã hội và làm con cái của Chúa. Đức Giêsu dạy chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta phải cho toàn nghĩa vụ của một người công dân trong một nước: đóng thuế, xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước, thi hành nghĩa vụ quân sự, phục vụ công ích… Đóng thuế là nghĩa vụ của người công dân. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng, đang sử dụng như nhà thương, trường học, đường xá, cầu cống, điện nước… đều do sự đóng góp của toàn dân trong một nước. Đóng thuế là công bằng đối với xã hội. Trốn thuế là bất công, là lỗi điều răn thứ 7: “Chớ lấy của người”.
Người Kitô hữu còn phải chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa: sống đạo tốt, thực hành lời Chúa, tuân giữ luật Chúa, làm cho Nước Chúa trị đến, phục vụ, bác ái với mọi người để xây dựng một nền văn minh tình thương trong xã hội hôm nay. Là Kitô hữu, chúng ta là công dân của Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa.
Bức thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 đã đưa ra đường hướng mục vụ của Giáo hội Việt Nam là “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” và “đồng hành với dân tộc Việt Nam”. Trước khi là người Công giáo, chúng ta là người Việt Nam.
Đức Giáo Hoàng Benêdictô XVI nhắn nhủ tín hữu Việt Nam nhân dịp các Đức Giám mục Việt Nam viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô năm 2009.
“Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích… Anh em phải chứng tỏ rằng là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”.
Sau cùng Kitô hữu phải ý thức mình vừa là công dân của Nước Trời, vừa là công dân trong một nước trần thế. Chúng ta phải chu toàn 2 bổn phận đối với thần quyền (đối với Thiên Chúa) và đối với thế quyền (đối với tổ quốc, quê hương), nghĩa là chúng ta phải tích cực, nỗ lực sống “tốt đạo, đẹp đời” trong cuộc sống hôm nay. Chúng ta chỉ có thể là Kitô hữu, khi chúng ta là công dân tốt trong một nước: “Của Xêda, trả cho Xêda. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa”.
LM Giuse Nguyễn Văn Nam
-------------------------------
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 22,15-21
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Chúa đến trần gian TN 29-A119 Dalat
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Chúa đến trần gian để rao giảng Nước Trời và đem lại hạnh phúc cho con người bằng tình thương vô biên của Ngài. Tuy nhiên, vì không đi theo đường hướng của những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó, đặc biệt là những người Pharisêu, bè phái Hêrôđê và nhiều nhóm khác, nên họ chống đối, căm thù Chúa Giêsu. Họ cho rằng Chúa đi ngược lại với chủ trương, đường hướng của họ. Do đó, họ tìm nhiều cơ hội để gài bẫy, nhằm tố cáo và bắt Ngài. Câu chuyện về việc nộp thuế cho Xê-da nói lên tính cách nham hiểm, độc ác của họ…
Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay đưa ra một câu chuyện rất thực tế, nhưng là một câu chuyện đầy nham hiểm, sâu độc của những người Do Thái chống đối Chúa Giêsu.Họ muốn khử trừ Ngài ra khỏi xã hội, đặc biệt họ muốn tìm cơ hội ngàn vàng để bắt Ngài và giết Ngài cho hả lòng căm tức của họ. Họ nói về vấn đề thuế. Đất nước nào, Quốc gia nào cũng có những qui định của luật pháp để nhân dân đóng thuế. Do đó, thuế là nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của mọi công dân phải hoàn thành. Đưa ra vấn đề nộp thuế không phải nhóm Pharisêu và bè phái Hêrôđê thương gì Chúa.Họ giăng cái bẫy để có cơ hội tố cáo Chúa Giêsu và khử trừ Chúa Giêsu. Do Thái lúc đó đang bị người La Mã đô hộ. Nên, nếu Chúa nói đóng thuế, những người chống đối Chúa sẽ tố cáo Ngài phản quốc, tiếp tục nối giáo cho giặc đô hộ thêm nước Do Thái.Nhưng, nói đừng đóng thuế, họ sẽ tố cáo Ngài xúi giục dân chúng chống lại người La Mã và muốn lật đổ Đế quốc Roma. Nói đóng và không đóng thuế cũng là một tội đối với họ. Cái bẫy họ giăng ra quả quá thâm độc. Tuy nhiên, Chúa thấu suốt lòng dạ nham hiểm, ác độc của họ, do đó, Ngài nói đem cho Ngài xem một đồng bạc. Ngài hỏi họ:” Hình và đồng tiền này là của ai ? “. Họ nói:” Đồng tiền này và hình này là của Xê-da “. Chúa Giêsu liền nói:” Của Xê-da hãy trả cho Xê-da.Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa “ ( Mt 22, 21 ). Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã không dấu diếm, tuy Ngài là Thiên Chúa, nhưng khi nhập thể làm người, Ngài đã nhận thế quyền của Xê-da, bởi vì hình trên đồng tiền là hình của Xê-da. Tuy nhiên, Xê-da hay Philatô hoặc vua Hêrôđê cũng chẳng có quyền gì trên Ngài, nếu Cha của Ngài từ trời cao không ban quyền ấy cho họ ( Ga 19, 11 ).
Quan điểm, chủ trương của Chúa Giêsu quả rất rõ ràng. Ngài không dạy con người làm sai, làm xằng, làm bậy. Khi biết rõ hình trên đồng tiền là hình của Xê-da, Chúa đã cho thấy “ nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm đóng thuế của mọi công dân trong bất cứ nước nào, quốc gia nào là hoàn toàn chính đáng. Không ai được trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm này.
Chúa nói hãy trả lại cho Xê-da quyền hành, địa vị, danh vọng, uy thế Hoàng đế mong manh, chóng qua đi của ông ta. Bởi vì ai “ đành mất mạng sống mình vì chân lý, vì Chúa thì sẽ tìm lại được sự sống vĩnh cửu, sự sống đời đời “.
Trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh của Ngài, vì Ngài là Đấng công minh, chính trực, nhân lành giầu lòng yêu thương và tha thứ. Hình ảnh của Thiên Chúa sẽ mãi mãi trường tồn vì Ngài là Đấng tự hữu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng chúng con được Thiên Chúa dựng nên, sau này chúng con sẽ về với Ngài là Đấng vĩnh cửu. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao quốc gia nào, nước nào cũng có luật đóng thuế ?
2.Tại sao Chúa lại nói:” Của Xê-da tra về cho Xê-da.Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa ?
3.Quan điểm của Chúa về vấn đề thuế ?
--------------------------------
(Mt 22, 15-22)
Dịp lễ Đức Mẹ La Vang, tháng 8 năm 2017 vừa qua. Khi đề cập đến tình hình tự do tôn giáo tại TN 29-A120
Dịp lễ Đức Mẹ La Vang, tháng 8 năm 2017 vừa qua. Khi đề cập đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Girelli nhận định rằng, tại một số tỉnh, nhà cầm quyền lo lắng và phàn nàn về người Công Giáo và các hành động của họ. Nhưng ngài khuyên nhà cầm quyền CSVN nên nhận thức rằng, Giáo Hội Công Giáo nên được xem như một điều tích cực, thay vì một điều có vấn đề đối với đất nước.
Trích câu nói thời danh của Chúa Giêsu rằng: "Trả cho Caesar những gì của Caesar, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa". Đức Tổng Giám Mục Leopoldo nói tự do tôn giáo không phải cái gì thuộc về các quan chức chính quyền, mà phải nằm trong tay của người dân. Ông kêu gọi "các Caesar Việt Nam hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.
Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa
Chúng ta khẳng định, Chúa Giêsu là Lời sống động của Thiên Chúa thế mà con người lại cố tìm để bắt lỗi Lời của Ngài! Con người nói: "Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa", nhưng vẫn cứ hỏi: "Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" (Mt 22, 17). Hỏi để mà hỏi, không phải để biết cho bằng gài bẫy. Thực tế nhóm Pharisiêu lại tự bẫy và trói chặt mình trong câu hỏi lưỡng nan ấy. Bằng cách từ chối đơn giản hóa vấn đề của đối phương, Chúa Giêsu đặt ra vấn đề căn bản mới và thiết yếu là: ai đứng vào vị trí Thiên Chúa?
Chính vì họ hỏi con đường của Thiên Chúa, "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy … dạy bảo đường lối Thiên Chúa" (Mt 22, 16), nên Người dẫn họ đi theo hướng đó, đây là tất cả giáo lý của Chúa. Thấu hiểu tâm tư của họ, Chúa bảo họ đưa cho xem đồng tiền, xem xong, thấy có khắc hình của một hoàng đế trên đồng tiền, họ khẳng định đó là hình của Cêsarê, Chúa nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê" ( Mt 22, 21).
Thực tế, người Do thái không nhận biểu tượng hình ảnh này, dù Cêsarê được biết đến là một hoàng đế tự cọi mình là thần đi chăng nữa, ông cũng chỉ là một con người. Theo Lời Chúa trong sách Sáng Thế, chỉ có Thiên Chúa làm ra con người giống hình ảnh Chúa cách sống động: "Chúng ta làm ra con người giống hình ảnh chúng ta và giống chúng ta" (St 1, 26). Hãy trả đồng tiền này cho chủ nhân của nó và hãy trả cho Thiên Chúa linh hồn chúng ta.
Linh hồn chúng ta thuộc về Chúa
Đồng tiền mang hình ảnh của Cêsarê, nhưng linh hồn chúng ta là chính hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thể theo thánh vịnh: " Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Người trên chúng tôi". (Tv 4, 7) ... Ánh tôn nhan Thiên Chúa là ánh của ân sủng ghi dấu trên chúng ta hình ảnh Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài, ánh tôn nhan Chúa còn là ấn tích được ghi trong trí chúng ta, chúng ta nhận biết ai đó nhờ khuôn mặt của người ấy, thì Thiên Chúa cũng nhận biết chúng ta nhờ tấm gương của lý trí. Nhưng lý trí này đã bị biến dạng do tội lỗi con người, vì tội lỗi khiến con người chống lại Thiên Chúa. Ân sủng Đức Kitô sửa chữa lại lý trí chúng ta. Đó là lý do tại sao thánh Tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Êphêsô rằng: " Hãy đổi mới tình thần " ( Ep 4, 23). Ánh sáng ở đây còn là ân sủng, nhằm phục hồi hình ảnh Thiên Chúa ghi khắc trong chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi đã khắc ghi vào con người hình ảnh giống Ngài. Con người giống Chúa Cha ở điểm trí nhớ, giống Chúa con ở trí hiểu, giống Chúa Thánh Thần ở chỗ biết yêu mến… khi tạo dựng, con người được dựng lên " giống hình ảnh Chúa" (St 1, 26). Hình ảnh trong sự nhận biết chân lý, tương tự trong nhân đức yêu thương. Ánh tôn nhan Thiên Chúa chính là ân sủng công chính hóa chúng ta và một lần nữa cho thấy hình ảnh được tạo ra. Ánh sáng này là tất cả những điều tốt đẹp nơi con người, được ghi dấu, như hình ảnh của nhà vua trên đồng tiền. Đó là lý do tại sao Chúa nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê" (Mt 22, 21). Điều này ý nói: phải trả cho Cêsarê hình ảnh của Caesar, trả cho Thiên Chúa linh hồn anh em, đã được điểm tô và ghi dấu ánh sáng tôn nhan Thiên Chúa. Chúng ta không thể trao cho Cêsarê linh hồn của chúng ta, nó luôn thuộc về Chúa.
Mọi sự là của Chúa
Lời Chúa Giêsu nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa"( Mt 22, 21) xác lập một sự khác biệt sâu xa giữa thiêng liêng với thế trần, làm nền tảng cho sự tìm kiếm của người kitô hữu trên mặt đất này. Con người là trung tâm và tột đỉnh của sự sáng tạo, phẩm giá con người hiện nay được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó, chúng ta phải phân biệt hai chủ quyền khác nhau của Thiên Chúa trên thế giới. Cêsarê và Chúa không ở cùng một cấp độ, Chúa là Đấng Sáng Tạo, Chúa tể trời đất, Cêsarê là hoàng đế, những ông cũng chỉ là một thụ tạo, một con người, ông phải phụ thuộc vào Chúa và cũng phải trả lẽ trước mặt Chúa, đây không phải là Thiên Chúa hoặc Cêsarê mà là Thiên Chúa và Cêsarê, mỗi vị trong cấp độ xứng hợp riêng của mình.
Vậy "Trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê" nghĩa là trả cho Cêsarê những gì chính Chúa muốn trao cho Cêsarê. Chúa thống trị trên tất cả kể cả Cêsarê, nên Thiên Chúa làm chủ quyền thiêng liêng Nước Chúa được thực thi trong Chúa Kitô qua Giáo hội của Người. Đương nhiên, Ngài làm chủ cả thế tục và thể chế chính trị mà Chúa thực hiện gián tiếp qua các quyền bính thế gian. Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã từng nói rõ với Philatô khi ông nói với Chúa: "Ông không biết rằng ta có quyền tha ông, mà cũng có quyền đóng đinh ông hay sao?" (Ga 19, 10) Chúa Giêsu đáp: "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho" (Ga 19, 11). Thánh Phaolô là người đầu tiên nhìn thấy hiệu quả của giáo huấn này nên viết: "Mọi người hãy phục tùng chính quyền bởi vì không có quyền bính nào mà không đến từ Chúa. Ai chống lại quyền bính thì chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra… đó là lý do tại sao anh em phải nộp thuế bởi vì chính quyền chịu trách nhiệm như những người phục vụ Chúa" (Rm13,1).
Trước khi vâng lời con người, chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa và lương tâm chúng ta. Đó cũng là nghĩa vụ của chúng ta phải nói với Cêsarê, cụ thể với quyền bính thế gian rằng, hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Đấng tạo thành trời đất và là chủ muôn loài, tất cả thuộc về Chúa, xin cho chúng con biết luôn hướng lòng về Chúa và tôn thờ Chúa là Chúa chúng con. Amen.
Antôn Nguyễn Văn Độ
--------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Mt 22,15-21
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy có nhiều câu chuyện thật đáng nực cười, và nhiều chuyện TN 29-A121
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy có nhiều câu chuyện thật đáng nực cười, và nhiều chuyện làm chúng ta suy nghĩ…Buồn vì sự có mặt của Chúa Giêsu đã khiến các người Pharisêu, các Thượng tế, Kỳ mục, Biệt phái tức tối, tìm đủ cách gài bẫy, ám hại Chúa Giêsu. Họ muốn trừ khử Ngài ra khỏi thế giới này, do đó, mọi việc làm, mọi câu nói của Chúa đều bị họ bẻ ngược lại, nghĩ xấu, ác ý đối với Chúa Giêsu. Câu chuyện về việc nộp thuế trong đoạn Tin mừng của thánh Matthêu cho chunhg1 ta hiểu sự nham hiểm, ác độc của những thành phần vừa nói…
Thuế là sinh hoạt của một quốc gia. Thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân trong một đất nước. Hầu như mọi nước trên thế giới đều có những loại thuế tùy theo pháp luật của nước đó qui định. Hầu như ngân sách quốc gia nào cũng dựa vào các loại thuế thu được. Và mọi người công dân đều có nghĩa vụ và bổn phận nộp thuế cho quốc gia, cho nước mình. Trường hợp của Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài lại khác bởi vì người Roma đang đô hộ đất nước Do thái. Do đó, nộp thuế là phản bội tổ quốc, nộp thuế là nối giáo cho đế quốc tiếp tục đô hộ nước Do thái. Lợi dụng cái nghịch lý mà đa số người Do thái lúc đó đang suy nghĩ, nhóm Pharisiêu liên kết với bè phái Hêrôđê tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu trong vấn đề nộp thuế. Gài bẫy Chúa Giêsu vì nhóm lãnh đạo tôn giáo, nhóm Pharisiêu và nhiều nhóm khác thù ghét Chúa Giêsu. Nếu Chúa nói: Không nộp thuế. Họ sẽ tố cáo với người Roma Chúa Giêsu đang xúi giục dân chúng làm loạn, phá rối trật tự trị an, phá rối Chính quyền vv…Nếu Chúa nói phải nộp thuế, họ sẽ tố cáo với người Do thái, Chúa đi theo đế quốc, phản bội lại tổ quốc, phản bội lại dân tộc của mình. Trả lời nộp hay không nộp cũng là mối nguy cho Chúa Giêsu và Ngài cũng bị mắc bẫy họ giăng ra. Tuy nhiên, như bài đọc I của ngôn sứ Isaia viết:” Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác, ngoài Ta ra, chẳng ai là Thiên Chúa…để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng ngoài Ta ra, chẳng có thần nào, Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác”. Chúa là Thiên Chúa chân thật, luôn hành động theo sự thật, chỉ bảo đường lối ngay chính, không tây vị ai, không xu nịnh người nào. Thiên Chúa vượt lên trên mọi sự tầm thường của trần gian. Chúa Giêsu đã không bị mắc bẫy mà đã khiến cho những người ác độc, nham hiểm phải câm miệng khi Chúa nói:” Của Xê Da, trả cho Xê Da; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa “ ( Mt 22, 21). Chúa Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xê Da, bởi vì hình trên đồng bạc là hình của Xê Da. Tuy nhiên, đối với Chúa thì Xê Da hay Philatô chẳng có quyền gì trên Ngài, nếu Đấng trên cao không ban quyền ấy cho Xê Da và Philatô ( Ga 19, 11 ).
Lập trường của Chúa Giêsu quả rất rõ ràng, Chúa không tây vị ai, Ngài luôn công minh chính trực, dạy đường lối ngay thẳng:” Của Xê Da, trả về cho Xê Da. Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa “ ( Mt 22,21 ). Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng khi bị người ta chất vấn:” có được phép nộp thuế cho Xê Da hay không ? “( Mt 22, 17 ). Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng đồng tiền này hình của ai, họ thưa:” Hình của Xê Da “. Chúa liền nói với họ câu hết sức bình thường, nhưng cương quyết làm cho họ im hơi, lặng tiếng vì Ngài nói rất chí lý, chính xác. Thực tế, Chúa dạy con người bài học rất chân thành và hết sức ý nghĩa: “ đã là người dân trong một nước, trong một quốc gia phải thi hành, vâng phục sự lãnh đạo của nước đó, quốc gia đó”. Chúa không bao giờ dạy con người làm xằng làm bậy, Chúa luôn dạy con người phải sống ngay lành, công chính như Cha trên trời là Đấng công chính.
Hình ảnh của Thiên Chúa đã họa lại nơi bản thân của người môn đệ Chúa. Bởi vậy, người môn đệ phải sống đời sống của Chúa, phải hành động, phải yêu như Chúa.Sách sáng thế ký viết:” Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Chúa “ ( St 1, 27 ).Con người là tác phẩm của Thiên Chúa. Do đó, người môn đệ Chúa phải luôn sống tốt thế giới do Thiên Chúa sáng tạo và phải làm cho thế giới luôn có sự an lành, yêu thương. Bởi Thiên Chúa chính là tình yêu như lời Thánh Gioan đã nói.
Xin mượn lời của Claire để kết luận bài chia sẻ này:” Để minh họa cho rõ đâu là điểmchính, Đức Giêsu cho người đi lấy một đồng tiền: một quan tiền trên đó có đúc hình Xê Da.Như Người đã làm với dụ ngôn đồng bạc, Đức Giêsu ví con người như một đồng tiên. Như trên đồng tiền có đúc hình của Xê Da, thì cũng vậy, con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa như thể được đúc với huy hiệu của Thiên Chúa, mang trên người mình dấu ấn của Thiên Chúa. Con người là icôn của Thiên Chúa. Điều thiết yếu là con người, vốn là hình ảnh của Thiên Chúa Hằng Sống, quy hướng về Thiên Chúa với tất cả tầm hồn “.
Hôm nay cũng là Chúa nhật truyền giáo, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta luôn biết nhiệt thành loan báo Tin Mừng vì còn biết bao nhiêu người chưa được nghe rao giảng, và chưa nhận biết Chúa bởi vì như lời Chúa phán:” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt “.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao những người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư, Đầu mục lại chống đối Chúa Giêsu ?
2.Chúa có cấm nộp thuế không ? Tại sao ?
3.Tiền ở đâu Chúa có để nộp thuế ?
4.Xê Da là ai ?
5.Chúa nói làm sao khi nộp thuế ?
------------------------------
Thế giới đang tôn thờ ai ? 2/ Biệt phái và phe Hêrôđê là những ai ? 3/ Họ hỏi Chúa điều gì ? TN 29-A122
1/ Thế giới đang tôn thờ ai ?
2/ Biệt phái và phe Hêrôđê là những ai ?
3/ Họ hỏi Chúa điều gì ?
4/ Chúa giê-su trả lời thế nào ?
5/ Lập trường của Chúa ra sao ?
6/ Bổn phận của người do thái là gì ?
7/ Tôn giáo và chính trị khác nhau thế nào?
8/ Đồng tiền Roma mang hình ảnh của ai ?
9/ Người công giáo nên làm gì ?
10/ Người Do thái phải nộp mấy loại thuế ?
11/ Nhiệm vụ của Chúa Giê-su là gì ?
12/ Những gì của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa, Tại sao ?
13/ Trần thế đã lôi kéo Chúa ra sao ?
14/ Chúng ta nên hiểu như thế nào ?
15/ Hiệu quả do Tin mừng mang lại là gì ?
16/ Bổn phận đời thường của người Kitô hữu là gì ?
17/ Ưu tiên của phúc âm là gì ?
18/ Chúa đã xử sự như thế nào ?
19/ Chúa Giê-su nhìn nhận sự việc như thế nào ?
20/ Tất cả quyền bính trên đời này là của ai ?
=> Hãy tìm câu trả lời từ bài “Tóm ý”.
Bài 1: ĐỪNG ĐẠP CHÂN VÀO MŨI NHỌN
1/ Trong bối cảnh văn hóa có nhiều thay đổi trong thế giới hôm nay, bài Tin Mừng mang ý nghĩa gì?
Thế giới đang chạy theo tôn thờ ông Thần Tài. Ông Thần vàng, đô la. Họ đang chạy theo chủ nghĩa thực dụng, vai trò tôn giáo mỗi lúc một mờ nhạt. Thánh đường chỉ là biểu tượng để cho người ta diễn tả một hình ảnh trang nghiêm, Thánh giá đeo nơi cổ cũng chỉ là kiểu thời trang độc đáo. Thì bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta tìm hiểu để đặt bậc thang giá trị của mỗi thứ vào đúng vị trí của nó.
2/ Âm mưu của biệt phái và phe Hêrôđê là gì? Đây là lần đầu tiên bọn biệt phái và phe Hêrôđê cấu kết với nhau tưởng là để mưu cầu điều gì đại sự, ai ngờ bọn họ chỉ nhằm loại bỏ con người của Chúa Giê-su bằng cách gài bẫy Chúa trước một vấn đề mà bọn họ cho rằng bài toán này Chúa Giê-su khó lòng mà giải được -> Đó là: Có được phép nộp thuế cho Cêsar hay không?.
3/ Khi đưa cái bẫy này, bọn chúng mong chờ điều gì? Khi nêu lên câu hỏi này, bọn biệt phái chỉ chờ câu trả lời “có” để ghép tội Chúa Giê-su là kẻ chống phá tôn giáo và một lòng đi với Đế Quốc. Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời là “không”, để xếp Ngài vào số những kẻ thù địch với chính quyền Đế Quốc. Dù trả lời có hay không thì phần thiệt hại đều nghiêng về Chúa Giê-su.
4/ Thái độ và cách đáp trả của Chúa Giê-su: Thật bất ngờ đến đáng cười khi Chúa Giê-su không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ và còn đẩy họ tới chỗ phải chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình. Chúa nói: Của Cêsar hãy trả cho Cêsar. Đây là một thực tế bởi vì họ tiêu dùng tiền Roma thì đương nhiên phải đóng thuế cho Roma. Quyền lợi và nghĩa vụ cần phải đi liền nhau, nộp thuế cho Cêsar là nghĩa vụ nên đâu có gì phạm thánh như là ý bọn biệt phái cố tình dàn dựng, nhưng là một hành động hợp lý với những con người có ý thức sống xã hội, mà muốn xã hội yên vui, ấm no, hạnh phúc thì họ phải đóng góp.
5/ Phản ứng của biệt phái và phe Hêrôđê thế nào? Cả hai đám người này đều cụt hứng. Bọn họ cứ tưởng sẽ chụp mũ được Chúa, và lôi Chúa vào cái bẫy chính trị nếu như Ngài dám phủ nhận quyền bính của Cêsar. Nhưng Chúa Giê-su lại muốn khẳng định mình trong cương vị tôn giáo, rất vui lòng khi biết chu toàn bổn phận công dân. Nên bọn họ chẳng thể nào ghép Ngài vào tội thỏa hiệp hay chống đối.
6/ Bài học mà Chúa Giê-su muốn dạy họ là gì? Vượt lên trên vấn nạn của cái kiểu chụp mũ thù địch, Chúa Giê-su còn đương nhiên mời gọi họ bước tới để chu toàn trách nhiệm tôn giáo đối với Thiên Chúa. Cho dù họ đang đứng trên lập trường nào thì họ cũng đều là những người Do Thái, phải kính mến Thiên Chúa và phải tuân giữ lề luật Moisen.
7/ Bổn phận trước hết của người Do Thái là gì? Bổn phận trước hết phải là bổn phận tôn giáo, của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa, qua đó Chúa Giê-su cũng đã xác quyết: Quyền tối thượng thuộc về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là chủ tể quyền năng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực. Thiên Chúa không tự đặt mình ngang hàng với Cêsar để tranh chấp hay bảo vệ quyền lợi của mình. Bởi vì việc nộp thuế hay không nộp thì cũng đâu có thêm bớt gì cho vinh quang của Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tuyệt đối chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa. Trong khi đó vẫn cứ an tâm nộp thuế cho Cêsar vì đương nhiên chúng ta cũng có bổn phận phải chu toàn bổn phận ở đời của một công dân.
8/ Nội dung lời Chúa Giê-su giải đáp: Chúng ta đương nhiên ngỡ ngàng thán phục cung cách trả lời của Chúa Giê-su mà còn phải thán phục hơn nữa với nội dung của lời giải đáp có sức làm nổ tung cái lối nhìn tù túng. Có thể nói được rằng: Chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, đấng đang nắm giữ linh hồn chúng ta, quyền năng của Ngài bao trùm mọi lĩnh vực. Bởi đạo chỉ đẹp hơn khi áp dụng vào môi trường đời, và đời chỉ tốt hơn khi được ở trong môi trường đạo.
9/ Qua cách trả lời của Chúa Giê-su, chúng ta nghiệm được điều gì? Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra một câu hỏi học búa. Không ngờ Chúa Giê-su trả lời thật khôn ngoan: Của Cêsar hãy trả cho Cêsar . Với câu trả lời này, Chúa minh định ra những điều quan trọng sau đây.
10/ Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị là hai đều luôn tách biệt nhau: Chính trị không thể trở thành tôn giáo, hoặc có thể bắt tôn giáo làm nô lệ cho mình, tôn giáo cũng không thể hòa nhập với chính trị để rồi đánh mất bản chất của mình.
11/ Thứ hai: Mỗi người có hai nhiệm vụ phải chu toàn: 1- Nhiệm vụ với quan quyền xã hội là -> Trả cho Cêsar những gì là của Cêsar ; 2- Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa -> Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của Hoàng Đế Cêsar , hãy trả lại cho ông. Những linh hồn con người là hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
12/ Để có được những đồng tiền mang hình ảnh Cêsar , con người đã phải làm gì? Để có được những đồng tiền mang hình ảnh Cêsar , người dân đã phải làm việc rất vất vả. Cũng thế, để linh hồn mang được hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải cố sức làm việc.
13/ Sự khác biệt giữa hai cách làm việc: Hai cách làm việc thật khác xa nhau, để chia sẻ phần nào quyền lực của Vua Chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách của Vua Chúa đó là tìm mọi cách để chiếm hữu của cải. Nếu muốn trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa, đó là yêu thương và cho đi.
14/ Điều minh họa rõ nét nhất cho tình yêu Thiên Chúa là gì? Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói đến bí tích Thánh thể, lòng trí tự nhiên hướng ta về bữa tiệc ly, về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. Qua đó chúng ta thấy được nhiều khía cạnh trong tình yêu Thiên Chúa.
****
Bài 2: TRÁCH NHIỆM GIỮA TÔN GIÁO VÀ TRẦN THẾ
15/ Bối cảnh câu chuyện Tin Mừng: Xứ Palestin vào thời Chúa Giê-su là một tỉnh của Đế Quốc La Mã. Như mọi tỉnh khác, ngoài đủ thứ thuế phải nộp người dân bị đô hộ còn phải nộp thêm một thứ thuế đặc biệt để tỏ dấu phục tùng Hoàng Đế. Giữa người Do Thái với nhau, có kẻ chủ trương nộp thuế, nhưng có những kẻ khác, điển hình là nhóm biệt phái nhiệt thành ,những người chống đối đế quốc, họ cho rằng bổn phận của họ vì lý do tôn giáo là phải từ chối không nộp thuế. Nên bọn người này rất được lòng dân.
16/ Một câu hỏi khó được đặt ra cho Chúa: Các kẻ đối nghịch với Chúa đặt ra cho Ngài một câu hỏi khó: Có nên nộp thuế cho Vua Cêsar không? Chính câu hỏi này là một cái bẫy. Họ tính toán rằng: Nếu Chúa Giê-su trả lời “không” Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền La Mã và sẽ bị bắt giam, nếu Ngài trả lời “có” Ngài sẽ làm mất lòng dân, dân sẽ loại bỏ Ngài. Trả lời kiểu nào thì họ cũng loại bỏ được Ngài, họ cũng thanh toán được Ngài.
17/ Chúa Giê-su giải quyết vấn đề như thế nào? Nhiệm vụ của Chúa Giê-su là mang nước Thiên Chúa từ Trời xuống và mong nó mau lan rộng ,còn đối với quyền lực trần thế Ngài muốn trả nó là những gì thuộc phạm vi trần thế cho người trần thế. Đồng thời Chúa Giê-su cũng muốn khẳng định rằng: Vương quyền của Thiên Chúa không thể đem so sánh hay gắn kết với những gì mà người đời thường lưu tâm đến như là quyền lực của một quốc gia.
18/ Chúa Giê-su muốn trả thứ gì cho Thiên Chúa? Để hiểu rõ vấn đề, chúng ta cần đi vào cách nhìn xuyên suốt của Chúa Giê-su và nhớ lại các hoàn cảnh thực thụ khi Ngài giảng dạy. Những gì mà Chúa Giê-su muốn trả về cho Thiên Chúa là phẩm giá của một con Thiên Chúa mà mỗi người đã nhận lãnh và vận mệnh sau này của mỗi chúng ta.
19/ Trần thế đã lôi kéo Chúa như thế nào? Sau việc Chúa hóa bánh ra nhiều, đám đông muốn phong vương cho Chúa. Chính các môn đệ cũng đã lâu ngày đặt tin tưởng vào một vương quyền trần thế. Chúa Giê-su đã không ngừng chống lại quan niệm sai lầm ấy của đám môn đệ.
20/ Điều Chúa Giê-su muốn công bố cho mọi người biết là gì? Đã nhiều lần Chúa công bố: Ngài là Người Tôi Tớ đau khổ, đã được các tiên tri báo trước nhưng không ai chịu tin. Sứ mạng của Chúa là nhằm khai trương Nước Thiên Chúa, do đó câu trả lời của Chúa Giê-su với nhóm biệt phái không nói rõ lên thái độ kháng cự hay không kháng cự đối với các quyền hành trần thế. Chúa Giê-su muốn chúng ta hiểu rằng: Chế độ trần thế của bất kỳ cộng đoàn nhân loại nào, cho dù là mang hình thức nào thì những con người đó cũng cần phải có những thứ để dâng lên cho Thiên Chúa. Ngoài ra họ còn phải dâng lên Thiên Chúa những hoạt động như là: thờ phượng, rao giảng Tin Mừng, thực hành các phép bí tích… từ đó đi ngang qua Người Tôi Tớ đau khổ để đi đến chiến thắng. Cuối cùng những công việc đó không phải là tách biệt với quyền hành thế gian, nhưng là đứng trên mọi thứ của thế gian.
21/ Công việc chính yếu của Phúc Âm là gì? Công việc chính yếu của Phúc Âm mà Chúa Giê-su muốn đạt tới là làm thay đổi tâm hồn con người. Ở mức độ quyền lực của xã hội, cũng có cơ cấu nâng đỡ, cũng có những điều gây khó khăn cho việc phổ biến và lan truyền Phúc Âm. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng: Việc thay đổi tâm hồn mỗi người cũng làm thay đổi tư duy của cả xã hội, nghĩa là cả hai cùng chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
22/ Bổn phận về phần đời của Kitô hữu là gì? Bổn phận của người Kitô hữu ở khía cạnh đời là góp phần xây dựng một trật tự xã hội tốt đẹp, gây thuận lợi cho việc phổ biến Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
23/ Chúng ta nên dành ưu tiên cho công việc nào? Câu hỏi được đặt ra là: Biến cải nội tâm hay cải tạo xã hội? Vì tâm hồn là một thửa đất là nguồn mạch để cho Phúc Âm đâm rễ / vì thế phần ưu tiên là dành để hoán cải phần tâm hồn luôn luôn. Khi ấy những người Kitô hữu nào muốn dấn thân cải tạo xã hội thì có thể thoát khỏi nguy cơ bị chọn làm theo những quy luật như là: Những nguyên tắc, những mục tiêu, những phương tiện thuộc về thế gian chớ không thuộc về Phúc Âm! Hơn nữa họ sẽ giúp ích cho thế gian bằng cách: Không tự giới hạn vào việc lặp lại những gì thế gian đã nói, nhưng họ vẫn đóng góp được cho sứ điệp riêng của Phúc Âm.
24/ Cách Chúa Giê-su thoát khỏi cửa tử: Nếu Chúa Giê-su bảo nộp chắc Ngài chẳng yêu nước thương dân, vì thứ thuế thân nộp cho Đế Quốc Roma thật là một điều ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo.
25/ Một cách trả lời khôn khéo: Cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng thuế, khi họ đưa cho Chúa xem hình đồng bạc có hình Cêsar những kẻ giương bẫy đã thú nhận họ đang dùng thứ tiền này và như thế là họ mặc nhiên nhìn nhận vương quyền của Cêsar. Chúa bảo: Hãy trả cho Cêsar những gì thuộc Cêsar. Ngài đương nhiên nhìn nhận sự độc lập nào đó của ông, ông có quyền điều hành Đế Quốc theo ý ông muốn. Đối với những người Do Thái, sử dụng bạc của Cêsar, Chúa Giê-su không hề ngăn cản họ nộp thuế cho ông ấy, nhưng Ngài cũng không buộc mọi người phải nộp thuế cho Cêsar, vì cũng có người coi việc nộp thuế thân cho Hoàng Đế Roma là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta phải tự hỏi: Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài không?
****
Bài 3: KẺ ĐƯỢC TẤN PHONG LẠI LÀ DÂN NGOẠI
26/ Vị ngôn sứ Isaia Đệ nhị đã nói gì với dân Do Thái vào thời lưu đày Babylon: Vị ngôn sứ này đã tìm cách an ủi đồng bào của mình. Họ chán nản nhụt khí trước cuộc lưu đày tưởng chừng như vô tận, ông hứa với họ là cuộc giải thoát đã đền gần, niềm hy vọng của ông là nhắm đến Vua Kyrô nước Ba Tư.
27/ Niềm hy vọng ấy được bắt đầu như thế nào? Vào năm 553 trước công nguyên Vua Kyrô đã thống nhất quyền lực BaTư sau khi đã chiến thắng Vua Astyage và Vua Mêđi, ông xuất quân đi chinh phục niềm tiểu á, tiến vào Babylon và chấm dứt thời thống trị của Đế quốc Babylon. Trước khi những cuộc chiến thắng ngoạn mục của Vua Kyrô vang dội khắp nơi, thì vị ngôn sứ này đã loan báo rằng: Ý định của Thiên Chúa là sẽ sử dụng Vua Kyrô để giải thoát cho Israel thoát khỏi ách lưu đày.
28/ Tại so dân Do Thái hoang mang? Họ hoang mang vì không thể tin rằng một vị vua ngoại giáo lại có thể giải thoát cho dân Israel. Họ hoang mang nên vị ngôn sứ đã phải xua tan thành kiến này bằng cách khẳng định: Đó là cách thức hành động của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ đã khẳng định rằng: Vua Kyrô đã được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến để ông Vua kia trở nên dụng cụ trung thành của Thiên Chúa.
29/ Thiên Chúa cầm lấy tay phải của vị vua là gì? Bản văn được trình bày như là cách Thiên Chúa phong vương cho vua Kyrô như là vị vua của Israel, mà Ngài đã tuyển chọn, và Chúa cầm lấy tay phải vua như là cách Ngài trợ giúp bảo vệ vua, cũng có ý nói lên rằng: Vị vua này sẽ chiến thắng mọi quân thù .
30/ Sấm ngôn đã nói gì về vua Kyrô? Thiên Chúa đi bên cạnh vua như một người bạn, ngài thúc giục vua xuất chinh chống lại Babylon, Ngài đặt dưới chân vua xứ sở Guti, Ngài công bố Kyrô là chúa tể muôn dân, không những trong kinh thánh mà các bản văn của niềm cận đông cũng đều ghi như thế.
31/ Mở toang các cửa thành là gì? Thiên CHúa hứa sẽ mở toang các cửa thành trước mặt vua, khiến cho không cổng thành nào có thể đóng kín. Ở đây có ý nói đến cổng thành Babylon làm bằng đồng danh tiếng, các cổng sẽ mở toang mà vua sẽ không tổn hao binh lực, có nghĩa là vua sẽ chiến thắng Babylon mà không cần phải giao chiến.
32/ Đức Chúa tuyển chọn vua Kyrô như thế nào? Ngài dẫn đưa vua Kyrô từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, Thiên Chúa gọi đích danh ông và trao phó cho ông một sứ mạng mà Kinh Thánh gọi điều này là một ơn gọi. Thiên Chúa vẫn ban cho ông một tước hiệu: Là Đấng được xức dầu, là người mục tử của Ta. Điều này được ngôn sứ trích dẫn ở một nơi khác, dù rằng vị vua này là người ngoại giáo và không hề biết Thiên Chúa.
33/ Vua Kyrô đã hành xử như thế nào? Ông hành xử như một vị tôi tớ được tuyển chọn, ông tỏ ra hào hiệp khi chiến thắng vua Međi là Astyage, ông đã để cho vua này được sống, khi chiến thắng Babylon, ông cũng đã hành xử như vậy (Vua Cresus). Ông không phá huỷ thành Babylon, ông còn tôn trọng tôn giáo của kẻ bại trận.
34/ Đức Chúa là Thiên Chúa của ai? Ngài là Thiên Chúa của dân Do Thái mà còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước. Thiên Chúa không lệ thuộc vào bất cứ quyền lực trần thế nào vì mọi quyền bính đều xuất phát từ ngài, cho nên dù họ không có ý thức về Ngài, thì ngài vẫn sử dụng họ như là một khí cụ trong chương trình cứu độ của Ngài.
35/ Chúa Giê-su đã nói gì với Philatô: Chúa nói: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Chúa không ban cho ngài” (Ga 19,11).
Bài 4: CẦN PHẢI CHU TOÀN HAI BỔN PHẬN
36/ Đại ý của bài Tin Mừng hôm nay là gì? Qua câu chuyện nộp thuế với những kẻ chống đối, Chúa Giê-su đã phân tích rõ bổn phận của mỗi người đối với thế quyền cũng như thần quyền, chúng ta phải chu toàn cả hai.
37/ Các lãnh đạo và đám biệt phái Do Thái đã cùng nhau chất vấn Chúa Giê-su và tìm mọi cách để bắt bẻ Chúa về vấn đề tôn giáo. Nhưng họ đã thất bại, nay lại lập mưu gán ghép Ngài vào một tội chính trị khi họ gài bẫy phỏng vấn Ngài về việc nộp thuế cho đế quốc Lamã.
38/ Đám người hôm nay muốn gài bẫy Chúa là những ai? Người biệt phái thì yêu nước và coi trọng lề luật. Họ muốn dò xét xem Chúa có làm sai luật và trái với lòng yêu nước không. Còn đám tay sai vua Hêrôđê thì làm theo lệnh của đế quốc Lamã. Hai nhóm này không đồng quan điểm và thường chống đối nhau. Nhưng khi Chúa Giê-su ra rao giảng thì họ lại coi Chúa Giê-su là kẻ thù chung vì thế họ mới họp nhau lại để mưu hại Chúa (Mc 3,6). Hôm nay họ đến hỏi vờ vịt mấy câu rồi bắt đầu cuộc phỏng vấn.
39/ Lòng dạ của những người này ra sao? Lòng dạ của những kẻ được sai đến thật là xảo quyệt. Đầu tiên họ dùng một lời khen để có ý đánh tan mọi nghi ngờ, một lời khen tôn kính nhưng hết sức giả dối (câu 18).
40/ Lời khen có ý nghĩa gì? Họ dùng tước hiệu thầy để chào Chúa, họ khen Chúa có lòng thành thật không hề bị ai chi phối. Đây là những đặc tính dùng để mô tả người công chính được thánh kinh mô tả nhiều lần (Cv10,34/Gc2,1-9/Cl 25). Tuy miệng thì khen nhưng lòng lại rất ác ý.
41/ Họ đưa ra một câu hỏi hóc búa như thế nào? Đây là một câu hỏi hóc búa, mà cũng là một câu gài hết sức nguy hiểm, vừa sắc như dao, lại vừa là liều thuốc độc. Vì là câu hỏi gài bẫy, nên Chúa trả lời kiểu nào cũng chết.
42/ Câu hỏi ấy mang ý nghĩa nào? Có được phép nộp thuế cho người Lama không? Lamã là đế quốc đang thống trị dân Do Thái, mà hoàng đế lại là người ngoại giáo, là kẻ thống trị nên việc nộp thuế không nằm trên bình diện chính trị mà lại được đặt trên bình diện tôn giáo.
43/ Một giả thuyết được đặt ra như thế nào đây? Nếu Chúa Giê-su trả lời là có nộp thuế thì Ngài không phải là người yêu nước thương dân, không muốn cho tổ quốc được độc lập, cũng không phải là Đấng cứu thế. Vì theo như kinh thánh thì Đấng Cứu Thế phải giải thoát dân tộc, khôi phục lại giang sơn. Như vậy thì Ngài không phải là Đấng cứu thế mà chỉ là kẻ tự xưng, đáng phải bị ném đá.
44/ Nếu Chúa Giê-su trả lời không thì sao? Thì ngay lập tức họ sẽ đi tố cáo với quan tổng trấn Lamã. Tất cả mọi người từ con nít đến người già đều coi thứ thuế này như là một nỗi ô nhục khi bắt dân chúng làm nô lệ cho Lamã. Cho nên nhóm những người yêu nước cấm các thành viên của mình không được nộp nhưng nhiều người bất lực nên đành phải nộp.
45/ Người Do Thái còn phải nộp loại thuế nào nữa? Họ còn phải nộp thuế tôn giáo là thứ thuế nộp cho đền thờ (Mt17,24-27).
46/ Sự thật mà đám người giả hình này là gì? Thứ nhất họ giả bộ băn khoăn trong lương tâm, nhưng thực ra họ đang mưu hại Chúa như là cách họ gài bẫy. Thứ hai, hằng ngày họ vẫn dùng tiền La mã trong thương mại hay nộp thuế. Như vậy đây cũng là cách họ mặc nhiên chấp nhận kiểu thống trị của người La Mã, Thế mà họ vẫn giả bộ như là đang chua xót lắm vậy. Như vậy những câu hỏi mà họ đưa ra không phải vì họ yêu nước thương nòi, nhưng là họ cố ý cho Chúa phạm lỗi để có cớ tố cáo.
47/ Câu trả lời của Chúa Giê-su minh chứng điều gì? Chúa Giê-su muốn đưa ra một việc làm cụ thể để minh chứng cho việc phải làm, đó là người Do Thái đã dùng tiền La mã tức là họ đã chấp nhận Cesare là vua của họ, cho nên ở đây Chúa muốn phân định ở hai thực quyền phải được tách bạch bằng hai bổn phận khác nhau, cho nên: “Của Cesare hãy trả cho Cesare”.
48/ Cesare nằm ở lãnh vực nào? Đây tượng trưng cho thế quyền, tiền thuế này dùng để chi trả cho các việc công ích và điều hành đất nước. Trong đời sống hiện tại của con người, nếu Do Thái chấp nhận quyền của hoàng đế Cesare thì đương nhiên họ cũng phải tuân thủ các điều luật chính đáng của hoàng đế.
49/ Thiên Chúa sẽ quản lý ở lãnh vực nào? Đây chính là thần quyền nên nó sẽ vượt trên mọi thứ quyền của nhân loại, liên quan đến việc phụng thờ Thiên Chúa và lo cho lợi ích đời sau của con người.
50/ Khi phân tích hai thứ quyền, chúng ta rút ra được điều gì? Chúa muốn nhắc người Do Thái cũng như mọi người chúng ta là: Khi lo lắng chu toàn bổn phận trần thế thì cũng không được quên bổn phận hệ trọng hơn. Đó là bổn phận của họ đối với Thiên Chúa.
Bài 5: CHÚ GIẢI
1/ Đoạn 22, câu 15: Khác với đoạn 21, câu 45 ở đây chỉ đề cập đến nhóm người Pharisêu. Có nghĩa là những người thuộc thượng hội đồng không còn chất vấn Chúa Giê-su nữa, nhưng là nhóm Pharisêu. Họ cùng nhau lên kế hoạch để đặt bẫy Chúa Giê-su về những gì Ngài nói. Họ từng nhiều lần thất bại khi công kích Chúa ,nên lần này họ tiếp cận Chúa cách kỹ lưỡng và tinh vi hơn.
2/ Đoạn 22, câu 16: Phe Hêrôđê là những người thuộc đảng phái chính trị đang ủng hộ triều đình Vua Hêrôđê. Những người này thân thiện với chính quyền Roma. Về mặt chính trị, họ lại có quan điểm hoàn toàn trái ngược với nhóm Pharisêu nhiệt thành ,họ nổi tiếng vì chủ nghĩa dân tộc. Tuy hai nhóm này không ưa gì nhau nhưng lại hợp lực để chống lại Chúa Giê-su. Bọn họ bắt đầu vào cuộc và âm mưu tạo ra cớ để làm Chúa Giê-su lỡ lời mắc bẫy ( câu 15).
3/ Cho dù Chúa Giê-su trả lời thế nào thì cũng phải đụng chạm một trong hai nhóm bọn họ. Một là Chúa Giê-su bị đám đông xa lánh, từ bỏ vì đã ủng hộ phe Hêrôđê , là phe Roma. Hai là Chúa Giê-su có thể bị xử tử nếu chống đối Roma.
4/ Họ dùng cách tán tụng dài dòng để mào đầu hầu mong làm Chúa Giê-su mất cảnh giác mà phản ứng xốc nổi, rồi bọn họ gắng gượng làm ra vẻ ta đây khiêm tốn, ngây thơ để xin ý kiến qua việc đề cao tính chân thật và độc lập của Người, họ hy vọng Chúa Giê-su sẽ nói những lời mang tính chống đối nhà cầm quyền Roma, hoặc sẽ xúc phạm đến dân tộc Do thái.
5/ Họ còn muốn dùng tài khua môi múa mép của mình, họ sẽ làm cho Đức Giê-su bối rối mà không dám phát biểu gì nữa! Cho nên dù là những lời họ nói về Đức Giê-su là thật, thì cũng chẳng qua chỉ để che dấu bộ mặt thù ghét của họ đối với Chúa. Chằng khác nào nụ hôn của Guida, những lời ngọt ngào của họ ở đây cũng chỉ là xảo trá, đầu môi để giúp họ đạt được mục đích của mình.
6/ Đoạn 22, câu 17: Có 3 loại thuế phổ biến được áp dụng vào thời Roma: a) Thuế điền thổ(tài sản, đất đai); b) Thuế cầu đường (thành thị, bến cảng); c) Thuế thân ( đánh vào các công dân trong đế quốc). Đây là loại thuế thân là loại thuế đóng cho Hoàng Đế biểu hiện sự tùng phục. Loại thuế này khiến cho những người tự cho mình là tự do, thì ghét cay, ghét đắng.
7/ Hơn nữa Đồng Denarius có khắc hình và danh hiệu hoàng đế nên thường đi ngược lại quan điểm tôn sùng ngẫu tượng. Chắc chắn những người nhóm nhiệt thành hay còn gọi là nhóm “Zealot” (dao găm) không đời nào chấp nhận đóng thứ thuế này, cho nên các người Pharisêu hôm nay hy vọng một câu trả lời của Chúa Giê-su sẽ nghiêng về phía họ, thì họ sẽ xúi người thuộc nhóm thân Hêrôđê đi tố cáo với tổng trấn (Lc 20,20). Còn nếu câu trả lời mà được lòng phe Hêrôđê, thì uy tín của Người là một vị thầy khả kính trước mặt bàn dân thiên hạ sẽ bị tổn hại nghiêm trọng.
8/ Đây là một cách hỏi bắt bí được sắp đặt sao cho người kia chỉ có thể trả lời có hoặc không và họ nắm chắc rằng: Chúa Giê-su sẽ sập bẫy.
9/ Đoạn 22, câu 18: Cho dù vẻ bề ngoài của họ cung kính, ngây thơ, khéo léo che đậy lòng hận thù của mình trước mắt người đời, nhưng với Chúa Giê-su thì không bao giờ. Chúa đã nhìn thấy lòng dạ hiểm độc của họ (Mt 9,4) (Ga 2,25) người đã lột trần bộ mặt thật của họ bằng cách hỏi thẳng: Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Quả thật họ đích thị là những kẻ đó.
10/ Đoạn 22, câu 19-20: Mức thuế thân là một đồng “Denarius” là một đồng bạc có khắc hình Hoàng đế: Ti Ceasar Divi Aug F Augustus, dịch nghĩa là: Tibêrí-ut César, con trai của Augustô thần thánh”. Người Do Thái kịch liệt phản đối những hình ảnh được chạm khắc trên đồng tiền này, vì với họ, làm như thế là vi phạm điều răn thứ hai. Trước đó không ai trong đám hoàng tộc Hêrôđê dám thực hiện điều này. Vua Hêrôđê Antipa (Cv12) là người đầu tiên dám làm điều đó, đồng tiền này cũng thể hiện sức mạnh của nhà cầm quyền.
11/ Nguyên tắc chung là:tầm ảnh hưởng của nhà vua sẽ được mở rộng đến đâu thì đồng tiền cũng sẽ lưu hành đến đó. Như vậy chuyện những kẻ chất vấn Chúa Giê-su đã sở hữu những đồng bạc này cũng đủ để trả lời chính câu hỏi đầu tiên của họ rồi .(câu 17)
12/ Đoạn 22, câu 21: Đồng Denarius là đơn vị tiền tệ đang lưu hành tại Giuđêa (Câu 19,20) nên Chúa Giê-su có lý khi bảo rằng: Hoàng Đế có quyền lấy những gì thuộc về Hoàng Đế, không chỉ có thuế má, mà còn tất cả những gì Hoàng Đế yêu cầu cách hợp lý nữa. Bằng quan điểm này Chúa Giê-su cho thấy Người không đồng tình với nhóm nhiệt thành “ Zealot” và công cuộc cách mạng của họ.
13/ Nếu Thiên Chúa cho phép dân ngoại nắm quyền một thời gian, thì hẳn là để họ thực thi ý định của Người. Hơn nữa, chính Thiên Chúa là Đấng quyết định khi nào thì thế lực cầm quyền đó phải chấm dứt, sau đó Nước Thiên Chúa mới được thiết lập.
14/ Vì thế việc tùng phục thế quyền cũng là thể hiện sự tuận phục Thiên Chúa (Rm 13,1-7), (1Pr 2,13-17). Tuy nhiên Đức Giê-su không dừng lại ở đây, câu trả lời của Chúa tiếp tục đẩy câu chuyện lên tới đỉnh điểm khi nói: Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa. Như vậy, nghĩa vụ của con người đối với chính quyền sở tại chỉ có thời hạn (Cv5,29) nhưng khi tuân phục trọn vẹn ý Thiên Chúa, người ta sẽ không bị chi phối bởi những sắc lệnh trái với luật Thiên Chúa mà Hoàng Đế Roma đã ban hành.
****
TÓM Ý
1/ Thế giới đang tôn thờ ai ?Thế giới đang chạy theo chủ nghĩa thực dụng, con người đang thờ vị vua danh lợi thú. Vai trò tôn giáo mỗi lúc càng mờ nhạt, chúng ta hãy tìm hiểu từng giá trị của mỗi thứ để đặt vào cho đúng chỗ của nó.
2/ Biệt phái và phe Hêrôđê là những ai ?Biệt phái và phe Hêrôđê, cả hai phe không thân thiện gì với nhau. Nhưng lần này họ cố gắng đứng chung với nhau để mưu hại cho bằng được Chúa Giê-su. Họ đưa ta một câu hỏi nan giải, khó lòng Chúa Giê-su có thể thoát được.
3/ Họ hỏi Chúa điều gì ?Một câu hỏi hóc búa: Có được phép nộp thuế hay không? Nếu Chúa trả lời “có” thì họ ghép Chúa vào tội phản quốc, và sẽ bị dân chúng ghét bỏ. Nếu Chúa trả lời “không” thì sẽ mang danh là chống chính quyền Roma, khó lòng thoát chết.
4/ Chúa giê-su trả lời thế nào ? Một câu trả lời bất ngờ:“Của Cêsar thì trả cho Cêsar!” Chúa Giê-su đưa ra một câu trả lời mang hai ý nghĩa: Nếu ai tiêu dùng tiền Roma thì phải nộp thuế cho Roma, nộp thuế là một nghĩa vụ. Vì muốn xã hội yên vui thì mỗi người phải có nghĩa vụ đóng góp.
5/ Lập trường của Chúa ra sao ? Chúa Giê-su đưa ra lập trường: Chúa muốn khẳng định mình trong cương vị tôn giáo và Ngài rất vui lòng để chu toàn bổn phận công dân. Người công giáo cũng phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận trần thế.
6/ Bổn phận của người do thái là gì ? Bổn phận của người Do Thái: Là bổn phận tôn giáo, của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa. Quyền Thiên Chúa là tối thượng; quyền năng Thiên Chúa bao trùm mọi lãnh vực, Thiên Chúa không tự đặt mình ngang hàng với Cêsar để tranh chấp hay bảo vệ quyền lợi của mình. Bởi nộp hay không nộp cũng đâu có thêm hay bớt gì cho vinh quang Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tuyệt đối chu toàn bổn phận với Thiên Chúa và đương nhiên chúng ta cũng có thể nộp thuế cho Cêsar để chu toàn bổn phận ở đời.
7/ Tôn giáo và chính trị khác nhau thế nào? Tôn giáo và chính trị là hai thứ tách biệt nhau: Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc có thể bắt tôn giáo làm nô lệ cho mình, tôn giáo cũng không thể hòa nhập với chính trị để rồi đánh mất bản sắc của mình.
8/ Đồng tiền Roma mang hình ảnh của ai ?Đồng tiền Roma mang hình ảnh Hoàng Đế, con người phải làm khó nhọc mới có được đồng tiền này. Cũng thế, linh hồn mang hình ảnh Thiên Chúa, thì linh hồn cũng phải ra sức làm việc mới có được hình ảnh Thiên Chúa trong linh hồn mình.
9/ Người công giáo nên làm gì ?Làm việc để có được đồng bạc, con người phải làm theo cách của trần gian là tìm mọi cách để chiếm hữu của cải. Nếu muốn trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
10/ Người Do thái phải nộp mấy loại thuế ?Ngoài các loại thuế phải nộp cho Đế Quốc, người dân Do Thái còn phải nộp một loại thuế đặc biệt là để tỏ dấu phục tùng Hoàng Đế. Giữa dân tộc Do Thái, có kẻ đồng ý nộp, có kẻ không chịu nộp như là nhóm biệt phái nhiệt thành này.
11/ Nhiệm vụ của Chúa Giê-su là gì ? Nhiệm vụ của Chúa Giê-su là mang Nước Trời cho người trần gian và mong nó mau lan rộng. Còn trong phạm vi quyền lực trần gian, Ngài muốn trả nó cho người trần thế, Chúa muốn khẳng định vương quyền của Thiên Chúa không thể gắn kết hay đem so sánh với quyền lực của một quốc gia.
12/ Những gì của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa, Tại sao ? Đây chính là phẩm giá của con người, là con Thiên Chúa và vận mệnh của mỗi người chúng ta sau này đều thuộc về Thiên Chúa và mỗi người là hình ảnh của Ngài.
13/ Trần thế đã lôi kéo Chúa ra sao ? Trần thế đã lôi kéo Chúa qua việc Chúa chữa bệnh và hóa bánh ra nhiều để rồi họ muốn tôn Chúa là Vua. Các Môn đệ cũng luôn đặt tin tưởng vào Chúa Giê-su một vương quyền như thế, Chúa Giê-su đã không ngừng chống lại quan niệm sai lầm ấy của các môn đệ.
14/ Chúng ta nên hiểu như thế nào ? Đã nhiều lần Chúa Giê-su công bố: Ngài là một Tôi Tớ đau khổ, đã được các tiên tri báo trước nhưng đâu có ai chịu tin. Do đó, câu trả lời của Chúa nói lên rằng: Cho dù chế độ nào của trần thế, của bất kỳ cộng đoàn nào thì những con người đó cũng cần phải có những thứ để dâng lên cho Thiên Chúa như là thờ phượng, rao giảng Tin Mừng, cử hành các bí tích…. Từ đó đi ngang qua Người Tôi Tớ đau khổ để đi đến chiến thắng, cuối cùng những công việc đó phải tách biệt ra khỏi quyền lực trần thế hay chính xác hơn, nó đứng trên mọi thứ của thế gian.
15/ Hiệu quả do Tin mừng mang lại là gì ?Công việc chính của Phúc Âm là làm thay đổi tâm hồn con người và cũng là cách để thay đổi tư duy của cả xã hội, cả hai cùng chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
16/ Bổn phận đời thường của người Kitô hữu là gì ? Bổn phận đời thường của người Kitô hữu là góp phần xây dựng một trật tự xã hội tốt đẹp, dọn đường thuận lợi cho việc phổ biến Tin Mừng.
17/ Ưu tiên của phúc âm là gì ?Tâm hồn là một thửa đất cho Phúc Âm đâm rễ, vì thế việc ưu tiên là dành để hoán cải tâm hồn. Những Kitô hữu muốn dấn thân cải tạo xã hội thì khó lòng thoát khỏi nguy cơ bị chọn làm theo những quy luật thế gian chớ không thuộc về Phúc Âm! Tuy vậy, họ vẫn có thể đóng góp cho sứ điệp riêng của Phúc Âm.
18/ Chúa đã xử sự như thế nào ? Nếu Chúa bảo nộp, thì có nghĩa là Ngài chẳng yêu nước, thương dân. Vì nộp thứ thuế này là công nhận Đế Quốc, là một một điều ô nhục. Nhưng nếu bảo đừng thì Ngài cũng không thể thoát khỏi án tử.
19/ Chúa Giê-su nhìn nhận sự việc như thế nào ? Khi họ đưa cho Chúa xem đồng bạc có khắc hình Cêsar , Đương nhiên Chúa nhìn nhận sự độc lập nào đó của Vua. Chúa không ngăn cấm việc nộp thuế cho Vua ấy. Nhưng Chúa cũng không buộc mọi người phải nộp, vì cũng có người coi việc nộp thuế cho Cêsar là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.
20/ Tất cả quyền bính trên đời này là của ai ? Giờ đây chúng ta mỗi người cũng phải tự trả lời câu hỏi: Có cái gì ngoài Thiên Chúa ra mà lại không phải là thụ tạo của Ngài không?
Giuse Luca / Trưởng Nhóm Kinh Thánh Emmaus
----------------------------------
Lm. Inhaxiô Hồ Thông.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên năm A nêu lên một vấn đề thật tinh tế: mối tương TN 29-A123
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên năm A nêu lên một vấn đề thật tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời. Trong cuộc tranh luận với nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Xa-đu-xê-ô, Đức Giê-su trả lời một vấn đề nan giải giữa nghĩa vụ của người công dân trần thế và nghĩa vụ của người công dân Nước Trời khi công bố rằng “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên năm A nêu lên một vấn đề thật tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời.
Is 45: 1, 4-6
Bài Đọc I trích từ sứ điệp an ủi của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị cho những người lưu đày ở Ba-by-lon, trong đó ông thoáng thấy vua Ba-tư là Ky-rô là lợi khí mà Thiên Chúa chọn để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ tại Ba-by-lon.
1Th 1: 1-5
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Đây là bản văn Tân Ước đầu tiên làm chứng về sức sống mãnh liệt của Hội Thánh tiên khởi, trong đó thánh nhân ca ngợi đức tin, đức mến và đức cậy của họ.
Mt 22: 15-21
Trong cuộc tranh luận với nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Xa-đu-xê-ô, Đức Giê-su trả lời một vấn đề nan giải giữa nghĩa vụ của người công dân trần thế và nghĩa vụ của người công dân Nước Trời khi công bố rằng “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Is 45: 1, 4-6)
Bản văn này là một trong nhiều sứ điệp an ủi mà vị ngôn sứ biệt danh I-sai-a đệ nhị ngỏ lời với những người lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ nầy, trên mười năm, từ 550 đến 539 trước Công Nguyên, đã tìm cách an ủi đồng bào của mình, họ nhục chí trước cuộc lưu đày tưởng chừng như vô tận nầy. Ông hứa với họ rằng Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ tại Ba-by-lon. Niềm hy vọng của ông nhắm đến vua Ky-rô, nước Ba-tư.
Vào năm 553 trước Công Nguyên, vua Ky-rô đã cất đi quyền thống trị của vua Mê-đi. Sau khi đã thống nhất quyền lực Mê-đi vào Ba-tư, ông xuất quân chinh phục miền Tiểu Á. Vào năm 539, ông tiến quân vào Ba-by-lon, chấm dứt thời kỳ thống trị của Đế Quốc Ba-by-lon. Ngay cả trước khi những cuộc chiến thắng ngoạn mục của vua Ky-rô vang dội khắp nơi, vị ngôn sứ lưu đày này đã loan báo rằng ý định của Thiên Chúa là sử dụng vua Ky-rô để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời tù đày tại Ba-by-lon.
1.Sấm ngôn của vị ngôn sứ.
Sấm ngôn này thật sự gây hoang mang. Phải chăng Đức Chúa nhờ đến một vị vua ngoại giáo để giải thoát dân Ít-ra-en? Vị ngôn sứ xua đi những thành kiến của những người lưu đày bằng cách khẳng định đó là cách hành xử của Thiên Chúa. Ông mạnh dạn quả quyết rằng vua Ky-rô đã được Đức Chúa tuyển chọn và thánh hiến để trở nên khí cụ trung thành của Ngài.
Phần đầu sấm ngôn được trình bày như một bản văn phong vương, đồng hóa vua Ky-rô với một vị vua của dân Ít-ra-en: Đức Chúa thánh hiến vị vua mà Ngài đã tuyển chọn, và “cầm lấy tay phải nó”, nghĩa là trợ giúp và bảo vệ vua, đảm bảo rằng vua sẽ chiến thắng mọi quân thù. Tất cả những diễn ngữ trong sấm ngôn nầy được gặp thấy không chỉ trong các bản văn Kinh Thánh nhưng cũng trong các bản văn miền Cận Đông. Người ta có thể đọc những dòng chữ được khắc trên một hình trụ: “Marduk (vị thần Ba-by-lon) tìm kiếm một lãnh tụ chí công vô tư mà thần có thể cầm tay. Đó là Ky-rô mà Ngài công bố là Chúa Tể muôn dân. Ngài đặt dưới chân vua xứ sở Guti, thúc dục ông xuất chinh chống lại Ba-by-lon, đi bên cạnh ông như một người bạn”.
Trong sấm ngôn của mình, vị ngôn sứ xác định rằng Đức Chúa hứa với vua Ky-rô một cuộc chiến thắng như thế nào khi gợi lên:
“Ta sẽ tước khí giới của các vua,
mở toang cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín” (Is 45: 1).
Cốt là các cổng thành danh tiếng bằng đồng của Ba-by-lon. Quả thật, các cổng thành mở toang đón tiếp vua Ky-rô mà ông không phải phí sức đánh chiếm. Ba-by-lon bị sụp đổ mà không cần phải giao chiến.
2.Đức Chúa, Chúa Tể của mọi biến cố.
Chính vì dân Ngài mà Đức Chúa dẫn đưa vua Ky-rô từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác:
“Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó” (45: 1)
Thiên Chúa “gọi đích danh vua”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh muốn nói rằng Thiên Chúa đã trao phó cho vua một sứ mạng. Ngài ban cho vua một tước hiệu: “người được xức dầu” (45: 1) dù vị vua ngoại giáo nầy không biết Ngài.
Quả thật, vua Ky-rô hành xử như một vị vua được Đức Chúa tuyển chọn. Vua tỏ ra mình hào hiệp: khi chiến thắng vua Mê-đi là Astyage, ông để cho vua nầy được sống và khi chiến thắng vua Ba-by-lon là Crésus, ông cũng hành xử như thế. Ông không gây bất kỳ thiệt hại nào đối với thành Ba-by-lon, bày tỏ lòng tôn kính tôn giáo của kẻ bại trận và nhất là giải thoát những dân tộc bị lưu đày tại Ba-by-lon trong số đó có dân Do thái. Dù thế nào, vị ngôn sứ quả quyết chính Đức Chúa là Chúa Tể của mọi quyền bính chính trị, chính Ngài ban quyền lực, chính Ngài hướng dẫn mọi biến cố:
“Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác;
chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (45: 5).
Sứ điệp của vị ngôn sứ thật rõ ràng. Đức Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái mà còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước. Ngài không lệ thuộc vào một quyền lực trần thế nào, trái lại mọi quyền bính đều xuất phát từ Ngài. Dù ý thức hay không, họ đều là khí cụ trong tay Ngài để thi hành chương trình cứu độ của Ngài. Đó cũng là câu trả lời của Đức Giê-su với tổng trấn Rô-ma là Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19: 11.
BÀI ĐỌC II (1Tx 1: 1-5)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Thánh nhân viết thư nầy từ Cô-rin-tô vào năm 51. Đây là bức thư đầu tiên của thánh nhân và đồng thời cũng là bản văn Tân Ước cổ kính nhất. Được viết chưa tới hai mươi năm sau cái chết của Đức Giê-su, bức thư nầy thật sự là một chứng liệu quý báu vén mở cuộc sống đức tin của Giáo Hội tiên khởi.
1.Lời chứng:
Phần đầu của bức thư cung cấp một lời chứng đáng chú ý về đức tin của Giáo Hội tiên khởi. Trước hết, đây là một trong những bức thư liên kết thường hằng nhất danh xưng “Thiên Chúa” với tước vị “Cha”: “Thiên Chúa là Cha” và “Thiên Chúa là Cha chúng ta”; tiếp đó, danh xưng “Chúa Giê-su Ki-tô”, nghĩa là Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a và là Chúa, một tước hiệu bao hàm thần tính và vinh quang của Ngài. Cựu Ước dành riêng tước hiệu “Chúa” nầy cho Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cuối cùng, quyền năng của Chúa Thánh Thần được bày tỏ ở nơi công cuộc loan báo Tin Mừng. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa là nét độc đáo của niềm tin Ki-tô giáo.
Mặc khác, ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, xuất hiện thuật ngữ “Hội Thánh” (“ecclesia”) được dùng để chỉ một cộng đoàn Ki-tô hữu: “Kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Trước tiên, thuật ngữ “Hội Thánh” mang nét nghĩa phàm trần: tại dân Hy lạp, thuật ngữ nầy chỉ Hội Đồng nhân dân. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất đã đặt trên môi miệng Đức Giê-su thuật ngữ nầy trong sách Tin Mừng Hy-lạp của mình (Mt 16: 18; 18: 17). Phải nói rằng để loan báo Giáo Hội tương lai của mình, Đức Giê-su thật ra đã sử dụng thuật ngữ Híp-ri và A-ram: “qahal”, một thuật ngữ chỉ “đại hội” trong sa mạc (Đnl 4: 9-13; 9: 10; 18: 16; 23: 2; 31: 30) hoặc cộng đồng phụng vụ của dân Thiên Chúa Cựu Ước (1Sb 13: 2; 28: 8; 2Sb 20: 3; 30: 1; Nkm 1: 12). Vả lại, hai thuật ngữ Do thái và Hy lạp cùng chia sẻ một thực tại bởi ngữ căn của chúng: trong khi thuật ngữ Do thái: “qahal”, bao hàm một khái niệm về một dân được Thiên Chúa kêu gọi, triệu tập thành dân riêng của Ngài dưới chân núi Xi-nai, thì thuật ngữ Hy lạp: “ecclesia”, phát xuất từ động từ “kaleô” ở thể thụ động (được kêu gọi) và tiếp đầu ngữ: “ex” (tách riêng ra). Cả hai được dùng để diễn tả cách chính xác thực tại Hội Thánh: không tự mình hình thành nên, nhưng được Thiên Chúa quy tụ lại thành dân riêng của Ngài.
Nếu thánh Phao-lô gọi các cộng đoàn Ki-tô hữu địa phương là Hội Thánh, thánh nhân luôn luôn hiệp nhất các cộng đoàn nầy vào Hội Thánh Mẹ, là Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hình thành nên một Hội Thánh duy nhất, mà thánh nhân sẽ gọi là “Thân Thể Đức Ki-tô”.
2.Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca:
Thê-xa-lô-ni-ca là thủ phủ miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai của Châu Âu mà thánh Phao-lô mang Tin Mừng đến. Thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê cũng thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a.
Thê-xa-lô-ni-ca là một thành phố cảng được hưởng một nền thương mại phồn vinh. Tên của thành phố được một trong các tướng lãnh của A-lê-xan-đê đại đế lấy tên vợ của mình là Thê-xa-lô-ni-ca đặt cho. Ở đây có một cộng đồng kiều bào Do thái sinh sống. Họ có một hội đường. Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca đã thuật lại tiến trình thành lập Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca nầy cách giản lược nhưng đầy gian nan (Cv 17: 1-9). Chính trong hội đường Do thái nầy mà thánh Phao-lô đã rao giảng trong ba ngày sa-bát liên tiếp.
Lời rao giảng của thánh nhân được vài người Do thái và một số đông người Hy-lạp hoan hỉ tiếp đón, trái lại gây phẩn nộ cho cộng đoàn Do thái ở đây. Họ gây náo loạn trong thành phố đến nổi thánh Phao-lô và bạn đồng hành của ngài là ông Xi-la buộc phải vội vã trốn khỏi thành phố ngay trong đêm ấy. Thánh Phao-lô trốn chạy đến Bê-roi-a và từ đó đến A-thê-na bằng đường biển. Lo lắng vì đã để lại một cộng đoàn non trẻ, đức tin chỉ vừa mới bén rễ, ấy vậy đã phải chịu nhiều phiền nhiễu rồi, thánh nhân khẩn khoản xin người môn đệ thân tín của mình là ông Ti-mô-thê trở lại Thê-xa-lô-ni-ca để ủy lạo những người Kitô hữu non trẻ nầy. Khi gặp lại thánh Phao-lô lúc đó ở Cô-rin-tô, ông Ti-mô-thê đem đến cho thánh nhân những tin tức đầy khích lệ: Hội Thánh non trẻ nhưng thật kiên vững trong đức tin. Vui mừng và an tâm, thánh Phao-lô viết thư thứ nhất nầy. Thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy cùng với thư gởi tín hữu Phi-líp-phê chất chứa những lời trìu mến nhất của thánh nhân.
3.Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê.
Theo thể thức thư tín vào thời đó, một hay nhiều người đồng ký tên vào một bức thư: “Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê”. Ông Xin-va-nô cũng được gọi Xi-la trong sách Công Vụ và sau nầy trở thành thư ký của thánh Phê-rô ở Rô-ma (1Pr 5: 12). Vào lúc nầy, ông thay thế ông Ba-na-bê ở bên cạnh thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân chia tay với Ba-na-bê ở Cô-rin-tô. Còn ông Ti-mô-thê là một trong những người đồng hành trung tín nhất của thánh Phao-lô. Chúng ta gặp thấy tên ông bên cạnh tên thánh Phao-lô trong sáu bức thư của thánh nhân.
4.Thiên Chúa là Cha chúng ta và Chúa Giê-su Kitô.
Tiếp đó là tên người nhận thư: “kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Chúng ta lưu ý việc chuyển từ danh từ số ít để chỉ tập thể: “Hội Thánh”, đến ngôi thứ hai số nhiều: “Chúc anh em được ân sủng và bình an”. Đây thật sự là điều hoàn toàn mới mẻ và có sức hấp dẫn của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, trong đó mọi người đều nhận ra nhau như anh chị em trong Thiên Chúa được tuyên xưng là Cha và trong Đức Giê-su Ki-tô được tuyên xưng là Chúa, tương phản với tổ chức cơ cấu của xã hội dân sự và thậm chí của Do thái giáo. Quả thật, chúng ta cũng gặp thấy danh xưng “anh chị em” cùng với biểu thức tiêu biểu của thánh Phao-lô: “trong Đức Giê-su Ki-tô” hay “trong Đức Ki-tô” không chỉ ngay từ những hàng đầu tiên của bức thư đầu tiên nầy, nhưng còn được lập đi lập lại thường hằng trong tất cả các bức thư khác của thánh nhân. Đây thật sự là danh xưng diễn tả mối tương quan thân thiết của thánh nhân với tất cả mọi Ki-tô hữu và đây cũng là biểu thức chủ chốt hình thành nên cuộc sống nội tâm của thánh nhân, cũng như tính năng động sứ vụ Tông Đồ của ngài.
Như vậy, thuật ngữ “Hội Thánh” tự nó nói lên cộng đồng Ki-tô hữu, trong đó mọi người, dù ở chức vụ nào, đều coi nhau như anh chị em, tránh được quan niệm Giáo Hội trước Công Đồng Vatican II theo đó Giáo Hội như gắn liền với các Đấng các Bậc mà bỏ qua một thành phần đông đảo và sinh động là Giáo Dân.
5.Ân sủng và bình an.
Lời chào mở đầu của bức thư liên kết lời chào của người Do thái: “bình an” (“shalom”) với lời chào của người Hy-lạp: “ân sủng” (“charis”). Thánh nhân sẽ sử dụng lời chào nầy trong tất cả các bức thư của ngài, ngoài trừ hai bức thư gởi Ti-mô-thê trong đó thánh nhân thêm vào “lòng thương xót”: “ân sủng, lòng thương xót và bình an”. Thật ra, sự liên kết của hai thuật ngữ: “bình an” và “ân sủng” nầy vốn đã hiện diện trong Do thái giáo rồi. Chúng ta gặp thấy như vậy trong sách Dân Số: “Nguyện xin Đức Chúa chúc phúc cho anh em… Nguyện xin Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em”. Lời nguyện chúc nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái ngoại thư như sách Hê-nốc 1: 4: “Nguyện xin Thiên Chúa ban cho anh em ân sủng và bình an”, cũng như trong các lời cầu nguyện của cộng đồng Qum-rân. Nhưng thánh Phao-lô đem lại cho lời cầu chúc nầy ý nghĩa phong phú của Ki-tô giáo như khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).
6.Cảm tạ Thiên Chúa.
Sau nầy, hầu như tất cả những bức thư của mình, thánh Phao-lô đều bắt đầu với lời “cảm tạ” hay “chúc phúc” theo cách thức Do thái. Trong thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy, thánh nhân đặc biệt khai triển lời cảm tạ: “Chúng tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa khi nghĩ đến anh chị em”. Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của mình khi biết rằng các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn một mực trung thành và vững mạnh bất chấp những phiền nhiễu mà những người Do thái gây ra cho họ.
7.Ba nhân đức đối thần.
Một lần nữa, một trong những lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như về phương diện thần học của bản văn Tân Ước đầu tiên nầy, đó là khám phá ở đây lời phát biểu ba nhân đức căn bản mà sau nầy sẽ được gọi là ba nhân đức đối thần: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những nghịch cảnh anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giê-su Kitô”. Ở đây cũng như ở Col 1: 4-5, thánh nhân trích dẫn ba nhân đức đối thần nầy theo cùng một trật tự: đức tin, đức mến và đức cậy, còn ở 1Cr 13: 13 theo một trật tự khác: đức tin, đức cậy và đức mến.
8.Chiều kích Ba Ngôi.
Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đa số đều xuất thân từ lương dân. Thánh nhân nhấn mạnh họ thuộc về dân Chúa chọn, cùng một tước hiệu như những người đồng đạo của họ là những người Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái. Từ đây, ơn tuyển chọn của Thiên Chúa mở rộng cho hết mọi người. Nhưng nhất là thánh nhân thán phục những thành quả đáng ngạc nhiên ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ không thể là hoa trái duy nhất do lời loan báo Tin Mừng của thánh nhân, nhưng trên hết do tác động của Chúa Thánh Thần.
Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan phàm nhân, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2: 1-4). Thật ra, đây là điều mà thánh nhân đã nói với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca rồi: “Khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng cho anh em , thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa” (1Tx 1: 5).
TIN MỪNG (Mt 22: 15-21).
Bài Tin Mừng nầy rất nổi tiếng được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Lời công bố của Đức Giê-su: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” đã được biện luận như một sự phân biệt giữa hai lãnh vực: đạo và đời. Biện luận nầy gợi lên nhiều áp dụng thực tiển khác nhau qua nhiều thế kỷ. Trong bối cảnh trực tiếp, lời công bố nầy được ghi ở giữa những cuộc tranh luận với nhóm Pha-ri-sêu vào những ngày cuối cùng sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem trước cuộc Tử Nạn của Ngài: “Nghe các dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ” (Mt 21: 45).
1.Âm mưu thâm độc:
Những người Pha-ri-sêu bàn mưu tính kế với nhau tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời để triệt hạ Ngài. Họ cấu kết với phe Hê-rô-đê, một đảng phái chính trị, được thiết lập từ Hê-rô-đê Cả, luôn luôn sát cánh với chính quyền Rô-ma với hy vọng rằng lần nầy có thể làm chứng tố cáo Đức Giê-su để có thể hãm hại Ngài.
Bằng cách rào trước đón sau, họ tán dương đức tính chí công vô tư của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Chữ “đường lối” là thuật ngữ tôn giáo. Thuật ngữ nầy có nguồn gốc trong các Thánh Vịnh, đặc biệt Tv 119 trong đó tác giả đề xuất hai con đường, một dẫn đến việc thực thi đức công chính và một dẫn đến sự hư vong. Bất chấp ác ý của họ được khôn khéo bọc trong những lời tâng bốc, lời khen ngợi này phải thật sự phản ảnh dư luận quần chúng về con người của Ngài qua lời nói cũng như hành động của Ngài, nếu không làm thế nào những lời này có thể trở nên cái bẫy được chứ. Cuối cùng, viện cớ soi sáng lương tâm của mình, họ đặt ra một câu hỏi gài bẫy: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da, hoàng đế Rô-ma hay không?”.
Phải nhận định hoàn cảnh đặc thù của miền Giu-đê vào thời đó miền Giu-đê. Kể từ khi vua Ác-khê-lao, con vua Hê-rô-đê Cả, bị hoàng đế Au-gút-tô truất quyền vào năm 6 Công Nguyên, miền Giu-đa đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền Rô-ma, đại diện tại chỗ là một quan Tổng Trấn Rô-ma, trong khi miền Ga-li-lê và những địa hạt phía Bắc vẫn dưới quyền cai trị của hai người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát và tiểu vương Phi-líp-phê. Ở miền Giu-đê, nhóm Nhiệt Thành khuyến cáo không được nộp thuế, vì đây là thái độ thuần phục chính quyền chiếm đóng; trong khi nhóm Sa-đu-xê-ô, hợp tác với chính quyền Rô-ma, ủng hộ việc nộp thuế; còn nhóm Biệt Phái giữ lập trường trung dung: họ không tán thành chủ trương bạo động của nhóm Nhiệt Thành cũng như thái độ cộng tác của nhóm Sa-đu-xê-ô. Vì thế, “nộp thuế hay không” là một vấn đề có tính thời sự. Nhưng các địch thủ của Ngài có ý định hoàn toàn khác: họ muốn đặt Ngài vào một vấn đề tiến thoái lưỡng nan để trừ khử Ngài.
Nếu trả lời “được phép”, Đức Giê-su sẽ đánh mất uy tín của Ngài đối với quần chúng, vì dân chúng đặt ở nơi Ngài niềm hy vọng giải phóng quốc gia khỏi ách đô hộ của đế quốc Rô-ma. Nếu trả lời “không được phép”, Ngài tự đặt mình đối đầu với chính quyền Rô-ma, và chắc chắn những người thuộc phe Hê-rô-đê thân chính quyền Rô-ma sẽ có cớ để tố cáo Ngài là phản động, là sách động quần chúng chống chính quyền đô hộ. Nhưng nếu như Ngài giữ thái độ im lặng, các đối thủ của Ngài có cớ để bài bác đức tính chí công vô tư của Ngài mà họ đã rào trước đón sau trước đó rồi.
2.Câu trả lời của Đức Giê-su
Nhưng Đức Giê-su không tránh né câu hỏi hóc búa nầy. Ngài yêu cầu họ cho Ngài xem “một quan tiền nộp thuế”. Lời đòi hỏi rất quan trọng, vì nó quyết định cho câu trả lời của Ngài. Chung quy có hai loại tiền tệ hiện hành ở Giê-ru-sa-lem. Đồng tiền chính thức của đế quốc Rô-ma mang hình và danh hiệu của Xê-da, hoàng đế Rô-ma. Mọi hình thức nộp thuế đều phải được quy định bằng đồng tiền chính thức nầy. Ngoài ra, còn có “tiền đền thờ” đặc thù của dân Do thái, được dành riêng cho các cách dùng trong phụng tự (đó là lý do tại sao có những người đổi tiền trong sân đền thờ). Cầm lấy một quan tiền mà họ trao cho Ngài, Ngài hỏi họ: “Hình và danh hiệu nầy là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da”. Ngài trả lời: “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.
3.Công dân trần thế và công dân Nước Trời:
Về phương diện lịch sử, đây là lần đầu tiên mà sự phân biệt giữa hai nghĩa vụ: người công dân trần thế và người công dân Nước Trời, được diễn tả cách rõ nét nhất. Đứng trước sự phân biệt ấy người ta dễ rơi vào hai thái cực: hoặc đặt nặng các giá trị công dân Nước Trời mà xem thường các giá trị công dân trần thế, hay quá chú tâm vào các giá trị công dân trần thế mà coi nhẹ những giá trị công dân Nước Trời.
Câu trả lời của Đức Giê-su “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” đặt người tín hữu trước hai nghĩa vụ phải chu toàn: công dân trần thế và công dân nước trời. Cả hai không hề loại trừ nhau, nhưng đồng hiện diện và ảnh hưởng hổ tương: tìm cách xây dựng Nước Trời qua việc cùng chung sức xây dựng trần thế bằng cách thăng tiến đời sống con người về phương diện vật chất lẫn tinh thần, thăng hoa những giá trị của con người, và nhất là làm cho mọi lãnh vực trần thế thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa để rồi cuối cùng dẫn đưa trần thế trở về với Thiên Chúa. Đó cũng là lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngay nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (“Vui Mừng và Hy Vọng”, 1).
Các đối thủ của Đức Giê-su nghĩ là đặt Ngài vào thế bí không có lối thoát, nhưng cuối cùng chính họ phải nhận ra rằng Ngài quán triệt vấn đề đến nổi họ phải kinh ngạc. Những kẻ muốn Ngài cứng họng chắc hẳn phải gặp thấy ở nơi câu trả lời của Ngài một giáo huấn rành mạch thấu tình đạt lý: một sự hiệp nhất cuộc đời của người tín hữa giữa công dân Nước Trời và công dân trần thế, bởi vì hai nghĩa vụ này hàm chứa một huấn lệnh quan trọng bậc nhất, một huấn lệnh làm nên chân tính của người Ki-tô hữu: mến Chúa và yêu người là một.
Lm. Inhaxiô Hồ Thông.
--------------------------------------
Chi Tiết Hay
Vào thời ấy, Pa lét tin là một lãnh thổ cai trị bởi đế quốc La Mã với Xê da là hoàng đế. Theo luật TN 29-A124
Vào thời ấy, Pa lét tin là một lãnh thổ cai trị bởi đế quốc La Mã với Xê da là hoàng đế.
Theo luật La Mã, mỗi người nam từ 14 đến 65 tuổi và nữ từ 12 đến 65 tuổi đều phải đóng thuế.
Phe Hêrôđê thân chính quyền La Mã, còn phe Pharisêu thân giáo quyền Do thái.
Dân Do thái không chấp nhận luật thuế má của La Mã. Nhóm quá khích cấm thành viên của họ đóng thuế, chống đối chính quyền thuộc địa và dùng bạo lực đối với người đi thu thuế.
Hai phe Pharisêu và Hêrôđê chống đối nhau, nhưng họ rủ nhau đi đến chất vấn Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài.
(c.17) Câu hỏi về xã hội chính trị được cố tình đặt ra để chờ một câu trả lời “có hay không”.
Một Điểm Chính
Để trả lời câu hỏi, “Có được phép trả thuế cho Xê da hay không?”, Chúa Giêsu đã trả lời khôn khéo theo luật công bằng và nhất là theo quyền uy tối thượng của Thiên Chúa.
Suy Niệm
Trong đời sống, khi đứng trước một hoàn cảnh khó xử, tôi phải làm gì để có được một quyết định khôn ngoan?
Tôi thường nghĩ đến sự công bằng đối với mọi người, còn đối với Chúa, tôi đã đáp trả lại tình yêu và ân sủng của Ngài như thế nào?
Tôi đặt Chúa trong cái tầm quan trọng nào trong đời sống của tôi?
Thiên Chúa xây dựng tôi theo hình ảnh Ngài. Tôi cảm nghiệm như thế nào về tình yêu sâu xa đó?
--------------------------------------
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời TN 29-A125
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự “nhất trí về đạo đức và xã hội” hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo “cánh hữu’ hay “cánh tả”, Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”
Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi’êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật… để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn… để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”.
Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời “có”, Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời “không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị… nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói “có” hoặc nói “không”, dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp: “Của Xê-da”.
Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: ‘Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời “Giáo Hội và Nhà Nước” đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…
Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da…
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa “dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị… như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa… Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của “Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: “Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da”, khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da… nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa…
Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội “không Thiên Chúa” cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa” là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. “Con người không chỉ sống bởi bánh”… bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo “hình ảnh của Thiên Chúa” “theo hình và hiệu của Thiên Chúa”, con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải “trả mình” trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa… và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.
--------------------------------
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn TN 29-A126
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự “nhất trí về đạo đức và xã hội” hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo “cánh hữu’ hay “cánh tả”, Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”
Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi’êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật… để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn… để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”.
Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời “có”, Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời “không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị… nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói “có” hoặc nói “không”, dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp: “Của Xê-da”.
Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: ‘Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời “Giáo Hội và Nhà Nước” đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…
Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da…
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa “dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị… như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa… Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của “Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: “Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da”, khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da… nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa…
Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội “không Thiên Chúa” cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa” là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. “Con người không chỉ sống bởi bánh”… bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo “hình ảnh của Thiên Chúa” “theo hình và hiệu của Thiên Chúa”, con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải “trả mình” trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa… và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.
--------------------------------
(Suy niệm của Sr Mai An Linh)
Tư tửơng xuyên suốt trong ba bài đọc hôm nay mà Mẹ Hội Thánh muốn thức tỉnh các Kitô hữu TN 29-A127
Tư tửơng xuyên suốt trong ba bài đọc hôm nay mà Mẹ Hội Thánh muốn thức tỉnh các Kitô hữu chúng ta đó là: phải có bổn phận tuân phục những vị lãnh đạo quốc gia vì họ là những người được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Người.(Is. 45,1.4-6), đồng thời phải tôn thờ Thiên Chúa là Đấng dựng nên chúng ta, đừng lẫn lộn thần quyền và thế quyền ” của Cêsarê hãy trả cho Cêsarê, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”(Mt.22,15-21), nên bài đáp ca đã khẳng định: chỉ có Thiên Chúa mới là vua thật trên các bậc vua chúa trần gian. Ước mong các tín hữu xác tín được điều ấy, với lòng tin, cậy, mến như Thánh Phaolô hằng cầu nguyện cho dân thành Thesalonica(1Tx.1,1-16).
Thật vậy, với lòng tin Ngôn sứ Isaia đã tin vua Cyrô là người được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Người, mặc dù ông là người ngoại. Thế nhưng người Biệt phái đã không nhận quyền của Rôma nên thường tỏ ra chống đối, họ kình chống với nhóm Hêrôdê, chạy theo chính quyền Rôma đang đô hộ Palestine. Thế nhưng hôm nay họ có chung một kẻ thù là Đức Giêsu nên họ liên minh với nhau để chất vấn Người, nhằm tìm những sơ hở của Chúa Giêsu mà hại Người.
Vấn đề họ đưa ra là: ” Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?”. Đây là cái bẫy thâm độc, Chúa Giêsu trả lời có cũng chết mà trả lời không cũng chết, nhưng với câu trả lời vô cùng khôn ngoan của Người “của Cêsarê hãy trả cho Cêsarê, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” đã làm cho họ chưng hửng, Người không bị mắc bẫy họ mà còn dạy họ: Là công dân thì phải chu toàn bổn phận đối với chính quyền, đồng thời cũng phải chấp hành bổn phận quan trọng hơn, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa.
Thế nhưng trước khi dậy họ như thế thì Chúa Giêsu đã lột trần bộ mặt thật của họ khi mắng ” đồ giả hình”, giả hình vì họ vừa khen Người lại vừa chăng bẫy Người. Và câu nói của Chúa Giêsu đã làm cho địch thủ nhận ra họ không thể là đối thủ của Người, và bậc thầy của họ cũng không thể là đối thủ. Cái hiểu hiện sinh ấy giúp họ nhận ra rõ hơn nữa con người của Đức Giêsu ” Ngừơi thấu suốt trong lòng họ, không đánh giá theo cái bên ngoài, Người nói thực không vị nể ai”.
Khi mắng xong thì Chúa Giêsu đòi xem đồng tiền thuế, đòi xem như thế để đòi buộc họ phài lộ rõ tính cách giả hình nơi họ: nói thì ra vẻ tẩy chay hoàng đế mà sống thì lại ủng hộ hoàng đế, vì dùng tiền của hoàng đế là ủng hộ, Chúa Giêsu đòi họ phải quay về chính họ. Họ sẽ thấy cái bẫy họ chăng cho người khác mắc, thì chính họ lại rơi vào. Họ tiếp tục dùng tiền của hòang đế thì họ phải nhận họ theo hòang đế, chứ nếu họ không dùng tiền của hòang đế thì đời họ sẽ ra sao? mà còn hỏi “được phép hay không được phép”
Nếu tất cả những gì là tốt lành, những gì không phải là tội lỗi đều là Chúa ban cả thì có gì mà không phải trả cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu đặt mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa, mà con người mang hình ảnh của Thiên Chúa nên thuộc về Thiên Chúa, phải trả con người lại cho Thiên Chúa. Chúng ta mắc nợ tình yêu đối với thì phải trả tình yêu cho Người.
Lạy Chúa, chúng con là những Kitô hữu khi được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và được gia nhập Nứơc Trời ở trần gian là Hội Thánh. Xin cho chúng con biết đặt đúng mức giá trị giữa hai thực tại siêu nhiên và tự nhiên, để dâng lên Thiên Chúa những gì của Ngài và trả cho trần thế những gì của trần gian.
--------------------------------------
Mt 22, 15-21
“Của Xêda trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”
Đây lại là một sự rạch ròi Chúa muốn chúng ta phân biệt rõ ràng. Đâu là trật tự của trần gian, và TN 29-A128
Đây lại là một sự rạch ròi Chúa muốn chúng ta phân biệt rõ ràng. Đâu là trật tự của trần gian, và đâu là trật tự của Nước Trời. Trật tự nào cũng là trật tự mà con người phải biết giá trị cho đúng cấp bậc của nó để đừng lẫn lộn chúng với nhau. Vì Xêda là Xêda và Thiên Chúa là Thiên Chúa.
Chúng ta cũng đã được Chúa Giêsu giải thích về vấn đề này trong các bài Tin Mừng như: Người thanh niên giầu có vì quá quý tiền bạc mà không thể đi theo Chúa Giêsu ; như bài nói về: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”, và “ai đã cầm cầy thì đừng ngoái lại đàng sau” ; hay “những người thu thuế và các cô gái điếm được vào Nước Trời trước các ông” vv… Chúng ta sẽ còn thấy nhiều bài khác nữa có ngụ ý này trong các sách Tin Mừng. Nên điều đáng suy nghĩ ở đây là chúng ta phải luôn tỉnh thức cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng cho biết việc phải làm, và việc không nên làm. Vì chỉ một sai lầm do những xúi giục rất tinh vi của bản thân hay của ma quỷ mà chúng ta rẽ sang con đường lầm lạc dẫn đến thiệt hại to lớn cho linh hồn, và làm chúng ta mất đi nhiểu thì giờ quý báu Chúa ban cho ở đời này để nhận ra những giá trị vô song sinh ích lợi cho linh hồn và cho việc cứu rỗi nhiều linh hồn. Hơn nữa chúng ta phải là ánh sáng và muối men cho đời để cộng tác vào ơn Cứu Chuộc mà Chúa muốn dành cho chúng ta tham gia vào với ơn Cứu Chuộc của Chúa Giêsu ngay ở đời này. Đối với chúng ta là những Kitô hữu chúng ta có bổn phận nhận biết sự rạch ròi giữa các giá trị của những trật tự tự nhiên và những trật tự của Nước Trời, vì chúng ta là những “tá điền khác để canh tác Vườn Nho của Chúa” thay cho những tá điền đã lấy những giá trị vật chất thấp hèn làm hơn những giá trị siêu nhiên vĩnh cửu, và tuyệt đối hữu ích hơn mọi giá trị tự nhiên và hay hư nát. Muốn được thế, chúng ta rất cần sự tỉnh táo và cậy nhờ vào ơn soi sáng của Chúa Thấnh Thần.
Vậy chúng ta phải biết biện phân những giá trị nào là chính đáng, và phải luôn đặt Thiên Chúa lên hàng đầu: không phải như ông Lêvi và ông Tư tế, vì hiểu sai luật Chúa mà bỏ qua việc yêu người như chính mình, mà Chúa đã dạy. Còn việc để kẻ chết chôn kẻ chết, lại có một ý nghĩa khác, đó là cho tình cảm đối với cha mẹ, còn hơn tình yêu cho Thiên Chúa. Còn việc cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, cũng chỉ vì tình cảm cho người thân mình đã bỏ lại, mà còn luyến tiếc. Chúa muốn tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa phải là Trên Hết, là Duy Nhất, và là Tất Cả…
Nư tu Marie Paulina- Rndm
------------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Khi Thượng Hội Đồng điệu Đức Giêsu ra trước mặt Philatô, họ tố cáo Ngài về tội sách động dân TN 29-A129
Khi Thượng Hội Đồng điệu Đức Giêsu ra trước mặt Philatô,
họ tố cáo Ngài về tội sách động dân chúng nổi loạn,
tội ngăn cản dân nộp thuế, và tội xưng mình là vua (Lc 23,1-2.5.14).
Philatô chẳng bao giờ tin vào những lời tố cáo ấy (Lc 23,4.14.22).
Đối với ông, Đức Giêsu chẳng hề phạm tội chính trị.
Dù Đức Giêsu có nói về Nước của Ngài,
nhưng Nước ấy lại không thuộc về thế giới này (Ga 18,36).
Cũng chẳng bao giờ Ngài nhận mình là vua
một cách minh nhiên (Mc 15,2; Mt 27,11; Lc 23,3; Ga 18,37).
Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài không chống lại chuyện nộp thuế.
Đế quốc Rôma cai trị xứ Giuđê từ năm 63 trước công nguyên.
Mọi người Do-thái trưởng thành phải nộp thuế thân cho họ.
Mỗi năm nộp một đồng tiền denarius, bằng một ngày lương.
Có một số người Do-thái phản đối mạnh mẽ chuyện nộp thuế,
vì đối với họ nộp thuế là tôn thờ các hoàng đế Rôma.
Nhóm Pharisêu cũng không ưng chuyện nộp thuế,
nhưng họ phản ứng nhẹ nhàng hơn, chứ không dùng bạo động.
Còn nhóm Hêrôđê vì thân với Rôma nên ủng hộ chuyện này.
Vậy mà hôm nay hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê
lại hợp lực để gài bẫy Đức Giêsu về chuyện nộp thuế.
Họ khéo léo nịnh Đức Giêsu là người nói thẳng, nói thật,
để Ngài bộc trực mà trả lời câu hỏi của họ (Mt 22,16):
“Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?”
Đây là câu hỏi nóng vào thời đó,
và cũng khá nham hiểm vì đưa Ngài vào thế kẹt.
Nếu trả lời được phép, thì Đức Giêsu là người chạy theo Rôma.
Nếu trả lời không được phép, thì Ngài là người chống đối đế quốc.
Đức Giêsu biết họ đang thử mình, nhưng Ngài thoát bẫy ra sao?
Ngài xin họ đưa cho Ngài một đồng tiền để nộp thuế.
Họ đem đến cho Ngài một đồng denarius,
trên đó có khắc hình và danh hiệu.
Khi biết đó là hình và danh hiệu của Xê-da, hoàng đế Rôma,
Đức Giêsu nói ngay một câu làm họ kinh ngạc:
“Của Xê-da trả lại cho Xê-da, của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”
Câu trả lời này đã làm Đức Giêsu thoát khỏi cái bẫy họ giăng.
Ngài không trả lời được phép hay không được phép,
nhưng khi nói “của Xê-da trả lại cho Xê-da”
Ngài có vẻ không phản đối chuyện nộp thuế cho Rôma,
và không coi đó là một tội phạm thượng.
Ngài còn đi xa hơn khi nói: “của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”
Cầu nguyện
Lời của Đức Giêsu đã được đưa vào sách Giáo lý Công giáo (số 2242).
“Của Xê-da trả lại cho Xê-da”:
mọi quyền hành hợp pháp đều đến từ Thiên Chúa,
nên ta phải tôn trọng, phục tùng và cộng tác (Rm 13,1-7; 1 Pr 2,13-17).
Chỉ khi quyền hành đó bị lạm dụng, đi ngược với đạo lý luân thường,
ngược với Lời Chúa dạy, với những đòi hỏi của lương tâm ngay thẳng,
chúng ta mới phải từ chối tuân theo.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
Chúng ta đang sống trong một thế giới cho phép làm nhiều điều,
như phá thai, ly dị, án tử hình, an tử, hôn nhân đồng tính…
nhưng chúng ta không buộc phải theo.
“Của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”
Nói cho cùng, không có gì lại không phải là của Thiên Chúa.
Mọi người, dù là ai, cũng đều mang hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27).
Mọi sự tôi có và mọi sự trên mặt đất là của Đấng Tạo thành.
Con người không được quyền lấy cắp của Ngài.
Bổn phận của chúng ta là trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài,
là chỉnh lại những hình ảnh của Ngài đã bị méo mó, dập nát.
là đưa mọi thụ tạo trên trái đất về với Ngài là nguồn cội.
Mong mọi người đều mang hình và danh hiệu Thiên Chúa trong tim.
CẦU NGUYỆN
Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa dối trá,
xin được sống chân thật đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc đam mê,
xin được sống hồn nhiên thanh khiết.
Giữa một thế giới thù hận dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách thức mới
để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỉ Kitô hữu
giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.
Chỉ mong Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.
-------------------------------
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có những giai đoạn, thần quyền và thế quyền hợp làm một TN 29-A130
Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có những giai đoạn, thần quyền và thế quyền hợp làm một. Điều này có nghĩa, Giáo Hội vừa có uy quyền đối với các tín hữu, vừa có quyền hành mang tính quyết định trong xã hội. Tình trạng này đem lại lợi ích không nhỏ cho Giáo Hội, nhưng cũng làm cho Giáo Hội mất đi tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng Sáng lập Giáo Hội. Mặt khác, đã là quyền hành chính trị thì bao giờ cũng có thủ đoạn âm mưu, bao giờ cũng có kẻ ủng hộ, người chống đối. Chính vì vậy, nếu Giáo Hội của Chúa Giêsu tham gia vào quyền lực chính trị, thì sẽ có nhiều kẻ thù. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phân biệt dứt khoát: Của Xê-da thì trả cho Xê-da, và của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Cần phân biệt rõ ràng thần quyền với thế quyền, để Giáo Hội mang gương mặt của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa cao sang đã trở nên khó nghèo vì chúng ta, đồng thời giúp Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình, là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu để loan báo Tin Mừng cứu độ.
Thiên Chúa là Chủ của lịch sử. Ngài vừa sáng tạo vũ trụ thiên nhiên và con người, vừa nâng đỡ điều khiển để vũ trụ tồn tại và xoay vần trong trật tự. Vua Ki-rô được coi như vị cứu tinh Chúa gửi đến để giải phóng người Do Thái khỏi ách lưu đày bên Babilon. Ngôn sứ Isaia (Bài đọc I), đã diễn tả việc Chúa chọn vua Ki-rô rất chi tiết: Ngài cầm lấy tay ông, cho ông một tước hiệu và ban cho ông sức mạnh với quyền năng. Với việc tuyển chọn vua Ki-rô, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là Cha của gia đình nhân loại. Mọi quyền hành đều từ Ngài mà đến và phải phục vụ lợi ích của con người. Những ai nắm quyền hành trong tay mà đi ngược lại với ý muốn của Thượng Đế và đàn áp bóc lột dân nghèo, thì quyền lực của họ không vững bền. Họ sẽ phải diệt vong. Sau này, Đức Giêsu tuyên bố với Philatô: Ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu không từ ơn trên ban cho.
Xê-da vừa là tượng trưng cho quyền bính thế gian, vừa diễn tả ảnh hưởng của vật chất trần thế. Cũng như những quyền lực trần gian có những lúc huy hoàng hùng mạnh, nhưng rồi cũng đến lúc phải suy thoái tiêu tan, vật chất trên đời có thể giúp con người làm được mọi sự, nhưng cũng có thể là chiếc bẫy làm cho con người gục ngã. Sống ở đời, cần phải biết phân biệt Xê-da với Thiên Chúa, để có một mối tương quan quân bình trong cách sử dụng và tích luỹ của cải.
Người tin Chúa không bị bứng khỏi thế gian, nhưng sống giữa thế gian. Họ sống ở đời này nhưng hướng về đời sau. Họ được mời gọi chung tay xây dựng cuộc sống xã hội nhân ái yêu thương, nhưng quê hương vĩnh cửu của họ lại ở trên trời. Chính vì vậy, người tín hữu phải biết phân biệt điều gì thuộc về Thiên Chúa và điều gì thuộc về thế gian. Họ không được phép để cho thế gian lôi kéo và nhấn chìm trong những ràng buộc đam mê đến nỗi họ đánh mất hạnh phúc Nước Trời. Trong giáo huấn của mình, Chúa Giêsu luôn đòi buộc những ai muốn theo Chúa phải chọn lựa dứt khoát, để xứng đáng trở thành môn đệ của Người. Hình ảnh người cầm cày còn ngoái lại đàng sau diễn tả những người bắt cá hai tay hay đức tin nửa mùa. Cũng vậy, những ai đã tin vào Chúa còn cậy dựa và những thế lực thần thiêng khác, thì không phải là môn đệ đích thực. Ngỏ lời với giáo dân cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, Thánh Phaolô khen ngợi lòng bác ái của họ. Một cộng đoàn được thúc đẩy bởi Đức tin, Đức cậy và Đức mến, dồi dào sức sống và nhiệt thành truyền giáo. Tình yêu thương và liên đới giữa cộng đoàn tín hữu đã làm toả lan sự thánh thiện và diễn tả hình ảnh sống động về Đức Giêsu, Đấng cứu độ trần gian. Tình liên đới và quảng đại của cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, là mẫu mực cho các cộng đoàn đức tin của chúng ta hôm nay.
Hôm nay là Chúa nhật thứ ba của tháng Mười, là ngày Truyền giáo. Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Mỗi người tín hữu, nhờ Bí tích Rửa tội, đều có bổn phận truyền giáo, tuỳ theo khả năng, trình độ và địa vị của mình. Lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh cho các môn đệ hai ngàn năm qua vẫn mang tính thời sự cấp bách. Cùng với lời cầu nguyện, mỗi chúng ta hãy làm toả lan sự thánh thiện qua đời sống hằng ngày của mình, để trình bày hình ảnh của Giáo Hội và hình ảnh của Đấng Cứu thế nơi trần gian. Noi gương Chúa Giêsu không mệt mỏi đi đến với mọi người, đem cho họ sự chữa lành và an ủi phần xác cũng như phần hồn, mỗi tín hữu cần ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, khởi đầu từ những người thân thuộc lân cận, rồi đến với những người không cùng niềm tin hay bất đồng quan điểm đang sống xung quanh chúng ta.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong những dụ ngôn mà chúng ta có dịp nói đến trong những Chúa Nhật vừa qua: Dụ ngôn hai TN 29-A131
Trong những dụ ngôn mà chúng ta có dịp nói đến trong những Chúa Nhật vừa qua: Dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân, dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử, chúng ta thấy mối căng thẳng giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giêsu càng ngày càng tăng. Nhóm nầy tìm hết mọi cách để hạ uy tín của Chúa Giêsu trước mặt dân chúng, và hôm nay họ tìm cách gài bẫy Ngài.
Nhóm Pha-ri-sêu và nhóm thân Hê-rô-đê không bao giờ hợp nhau, vì lập trường của họ thường đối chọi nhau. Nhưng đối với Chúa Giêsu, họ lại cấu kết với nhau, vì cả hai nhóm đều căm thù Chúa Giêsu và ganh tị với Ngài.
Trong xã hội mọi thời, chúng ta cũng thấy đầy dẫy những liên minh giữa những nước thù địch nhau, tranh chấp với nhau trước một kẻ thù chung. Giữa những phe phái và các nhóm cũng thế, cấu kết với nhau để diệt kẻ thù chung.
Họ đến với Chúa Giêsu, lời lẽ của họ ngọt ngào làm sao! “Thầy là người chân thật… không vì nể ai…”
Chúa Giêsu không thích dua nịnh. Hơn nữa, Ngài thấu suốt tâm tưởng của họ, Ngài thẳng thắn vạch trần sự điêu ngoa giả trá của họ: “Tại sao các ngươi lại thử tôi? Hỡi những kẻ giả hình!”
Ngài trả lời câu hỏi của họ không né tránh: “Hãy cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”.
Vào thời của Chúa Giêsu, người Do-thái sống dưới ách nô lệ của người Rô-ma. Họ phải sử dụng đồng tiền của Rô-ma, của kẻ thống trị. Họ phải nộp rất nhiều thứ thuế và xem đó như một ách nô lệ đang đè nặng trên vai họ. Họ âm thầm phản đối, nhưng vẫn phải nộp thuế. Trốn thuế, đối với người Rô-ma là một tội nặng phải vào tù.
Nhóm Pha-ri-sêu chống chính quyền Rô-ma, còn nhóm thân Hê-rô-đê thì lại thân chính quyền, nhưng lần này họ thỏa thuận với nhau để đánh gục kẻ thù chung của họ là Chúa Giêsu.
Họ đặt câu hỏi như một cái bẫy, như một gọng kềm, trả lời cách nào cũng bị mắc bẫy: “Thưa Thầy, xin Thầy cho biết ý kiến, có được phép nộp thuế cho vua Xê-da hay không?” Chỉ có một câu trả lời: nộp thuế hay không .
Nếu bảo nộp thuế, thì Chúa Giêsu sẽ bị dân chúng phản đối, vì đó là hành động đồng lõa với kẻ thống trị, bóc lột thường dân. Uy tín của Ngài sẽ bị tổn thương nặng nề trước mặt dân chúng. Còn nếu bảo đừng nộp thuế, thì phe Hê-rô-đê sẽ tố cáo với chính quyền Rô-ma và Ngài sẽ bị vào tù. Trả lời kiểu nào cũng thua.
Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, không ai có thể ràng buộc Ngài hay gài bẫy Ngài được. Ngài sẽ phải trả lời thế nào để thoát khỏi gọng kềm đang siết chặt quanh Ngài?
Nhiều người trong chúng ta thường xem câu trả lời của Chúa Giêsu là quá hợp lý, và Ngài đã làm câm miệng bọn người gian manh kia. Chúng ta không đặt vấn đề gì, nhưng cần phải hiểu tại sao Chúa Giêsu bảo nộp thuế mà mọi người đều đồng ý, và không có ai thắc mắc gì cả, kể cả nhóm Pha-ri-sêu? Đối với nhóm này, nộp thuế là nô lệ, là phản dân hại nước, sao họ không phản đối gì cả?
Câu hỏi của họ có tính cách dân sự và chính trị. Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tầm thường đó, Ngài đưa vấn đề về phương diện đạo đức, Ngài giải quyết vấn nạn bằng Luật Chúa. Ngài không nói ra, nhưng mọi người đều có thể hiểu là điều răn thứ bảy đòi buộc: “Của ai phải trả cho nấy”. Ngài hỏi: “Đồng tiền này của ai? Hình này là của ai?” Họ trả lời mà không biết Ngài đi đến đâu: “Của Xê-da”. “ Vậy, của Xê-da thì trả cho Xê-da”, đó là đúng Luật Chúa, không ai không biết điều đó và họ phải đồng ý thôi. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đó, Ngài đòi buộc họ đi xa hơn, lên cao hơn.
Cuộc sống của chúng ta thường đặt chúng ta vào những hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan” như thế. Cần phải chọn một giải pháp đúng, và phải chọn theo tiêu chuẩn của Chúa chứ không theo trần gian. Chúng ta là những kẻ tin Chúa, cho nên chúng ta vừa là công dân trần thế, vừa là công dân Nước Trời.
Hiện nay chúng ta đang sống trong một xã hội vô đạo. Con người hôm nay đa số là duy vật (duy vật thực hành) và một số người Công giáo đã sống theo làn sóng vô đạo đó. Tiền bạc, danh vọng và tiện nghi trở thành một thứ tôn giáo mới: thờ tiền. Đó là một thứ tôn giáo đang lan tràn nhanh chóng trong thế giới, trong mọi tầng lớp xã hội hiện nay.
Một số người Công giáo đã từ từ bỏ rơi Thiên Chúa để chạy theo “ông thần tài”.
Tôn giáo mới này hấp dẫn hơn và làm thỏa mãn những ước muốn vật chất của con người; vì “có tiền, mua tiên cũng được”. Ngay cả những người của Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ của “ông thần tài” này.
Chúa Giêsu khẳng định: “của Xê-da, hãy trả cho Xê-da, của Chúa hãy trả cho Chúa”.
Trả cho Chúa cái gì?
Chúng ta có gì để trả cho Chúa? Thực ra chúng ta không có gì để trả cho Chúa cả. Chúng ta trọn vẹn là của Chúa. Chúng ta được tạo nên và “có cái gì mà chúng ta không lãnh nhận?” (Thánh Phao-lô).
Chúng ta sẽ trả cho Chúa được gì?
Tất cả. Mọi sự của chúng ta là của Chúa ban, nhưng chúng ta có thể trả cho Chúa một thứ: Chúng ta phải trả cho Chúa tình yêu. Chúng ta mắc nợ Chúa một món nợ mà suốt đời chúng ta trả không hết: đó là nợ tình yêu.
Chúa không buộc chúng ta làm gì cho Ngài, vì Ngài không cần chúng ta. Ngài chỉ mong chúng ta hạnh phúc. Từ lúc Ngài quyết định: “Ta sẽ tạo nên con người giống hình ảnh Ta”, Ngài chỉ mong tạo nên một đứa con và đứa con đó sẽ hạnh phúc với Ngài và trong Ngài. Sách Sáng Thế đã vẽ ra cảnh sống thần tiên trong vườn địa đàng, và khi A-đam phản bội, Chúa không bỏ rơi con người trong vực sâu tội lỗi, nhưng Ngài cho chúng ta Người Con Một của Ngài… Và xuyên suốt quyển Kinh Thánh, chúng ta thấy gì? Chúng ta chỉ thấy tình yêu tràn ngập trên chúng ta, là những con người đáng ghê tởm.
“Của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Đó là những gì Thiên Chúa đang đợi chờ nơi chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ mong chúng ta sống cho tình yêu. Chúng ta được yêu thương trọn vẹn, hãy đáp trả lại bằng tình yêu trọn vẹn. Thực ra tình yêu của chúng ta chỉ như sương mờ ban mai, mau tan mau biến, nhưng bàn tay của Chúa luôn yêu thương dìu dắt. Thánh Thần Tình Yêu đã được ban cho chúng ta, nhờ đó chúng ta có thể gọi: “Abba”, (lạy Cha) với tất cả tâm tình con thảo.
Hơn nữa, Người Con Một yêu dấu của Chúa Cha đã đến với chúng ta, để nhờ Ngài, chúng ta đến với Chúa Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Chính nhờ Ngài, “Đấng đầy ân sủng và chân lý”, chúng ta được “hết ơn này đến ơn khác”, và trong Ngài, chúng ta yêu mến Chúa Cha như Ngài hằng mong ước. Như thế, chúng ta đáp trả tình yêu bằng tình yêu.
Hôm nay, nơi bàn thờ này, chúng ta thấy thực hiện trước mắt chúng ta, chương trình yêu thương của Chúa Cha. Ngài đã ban Con Một Ngài cho chúng ta, và tiếp tục ban đến tận thế. Nơi đây, chúng ta được yêu thương, được nuôi dưỡng, không phải bằng thứ của ăn hay hư nát, mà bằng Bánh ban sự sống.
Hãy làm như Chúa Giêsu đã nói: “Của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Chúng ta trả bằng chính Người Con Một của Ngài, và cùng với Người Con Cha yêu dấu ấy, chúng ta cũng hiến dâng tất cả cuộc sống, tất cả gánh nặng hôm nay, tất cả con tim nhỏ bé của chúng ta.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang)
Ai trong chúng ta cũng biết vụ thiên tai kép ở Nhật năm 2011. Năm ấy, một tình nguyện viên đi TN 29-A132
Ai trong chúng ta cũng biết vụ thiên tai kép ở Nhật năm 2011. Năm ấy, một tình nguyện viên đi làm công tác từ thiện kể lại rằng: “Khi trận động đất sóng thần xảy ra vài ngày, tôi được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc áo thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt của em thì chắc chẳng còn thức ăn nên mới lại hỏi thăm. Em kể khi đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, từ ban công lầu 3 của trường em nhìn thấy chiếc xe và cha bị nước cuốn trôi, nhiều khả năng đã chết. Nhìn thấy em nhỏ lạnh, tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người em nhỏ. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói". Cậu bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, cậu bé ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Cậu bé trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".
Công bằng là một trong bốn nhân đức nhân bản của Đạo Công Giáo: Khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ. Nhưng thế nào là công bằng? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Công bình là đức tính luân lý cốt tại một ý chí liên lỉ và vững chắc, quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với các công ích, như Lời Chúa dạy: “Các ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ trên trời (Cl 4,1)” (số 1807).
Cho nên, Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về đức ông bằng này: “Của Xê-da trả lại cho Xê-da, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21). Xê-da có gì mà trả? Xê-da tên và huy hiệu của một hoàng đế. Chúa Giêsu nói tên và huy hiệu là của Xê-da thì trả lại cho ông. Còn mạng sống và mọi sự của ông đều là của Chúa ban cho. Của Xê-da ở đây là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội gọi tắt là đức công bằng đối với tha nhân. Cho nên, đối với tha nhân, đức công bằng đòi ta phải trả về cho họ những quyền được sống, quyền có của cải… Cho nên, đức công bằng đòi buộc ta phải tôn trọng của cải, tiền bạc, danh dự, mạng sống của tha nhân. Bởi thế, ta không được lấy, không được giữ, không được làm thiệt hại những gì thuộc về người khác.
Còn của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa? Của Thiên Chúa là cái gì? Thưa là tất cả mọi sự, chính sự hiện hữu của ta, chính sự sống của ta, tất cả đều là quà tặng Thiên Chúa ban. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ và dựng nên ta, cứu chuộc ta. Cho nên, đức công bằng đòi ta phải biết ơn Thiên Chúa qua việc , tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen, suy tôn, thần phục và thờ phượng Ngài, “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi" (Lc 4, 8).
Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm công bằng của chúng ta rằng chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì? Thứ nhất, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa... khiến tâm thiện nơi con người thành tâm tà, tâm ác vì đức công bằng với Thiên Chúa, hỡi con người, hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa: con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là "nhân chi sơ tính bản thiện". Rồi, con người đã lạm dụng tự do để giết chết các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình, vì lẽ công bằng với Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Rồi nữa, con người đã đang tâm phá vỡ trật tự tự nhiên khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường, vì đức công bằng với Thiên Chúa, hỡi con người hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Thứ hai, chúng ta phải trả lại cho tha nhân những gì? Thưa, con người ngay nay đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, nghĩa mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi, vì đức công bằng với tha nhân, hỡi con người, hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn, lòng hiếu thảo mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Rồi, ngay nay nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân, vì đức công bằng với tha nhân, hỡi con người, hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thiên Chúa ban tặng qua vũ trụ vạn vật này.
Quả thật chúng ta đều đã phạm tội, vi phạm luật Chúa nên đáng bị hình phạt. Nhưng vì yêu thương con người nên Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu trên thập giá. Vâng, Thập Giá bày tỏ sự công bằng tuyệt đối của Thiên Chúa khi Ngài tha tội cho chúng ta để trọn sự công bằng theo luật của Chúa, nhưng cũng trọn vẹn tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta. Vì vậy, phương cách tốt nhất để chúng ta có được sự công bằng theo ý muốn của Thiên Chúa nơi mình đó là: từ bỏ tội lỗi và trở về với Chúa Kitô, tin vào Phúc Âm và rao truyền Phúc âm.
Chúng ta là con cái của Chúa nên được Ngài yêu thương hơn ai hết. Tuy nhiên, Thiên Chúa – Đấng Công Bình, không bao giờ chấp nhận tội lỗi hay một điều gì bất công. Chúa sẵn sàng sửa trị để chúng ta ăn năn, chứ không bỏ rơi chúng ta. Như người mẹ thương con có lúc phải đánh con để sửa trị, để dạy dỗ để người con mỗi lúc một tốt hơn chứ không đánh cho bỏ ghét. Thiên Chúa đối với chúng ta cũng vậy.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết dấn thân vào việc kiến tạo những công bằng đồi với Chúa và xã hội loài người qua việc Kính mến Chúa trên hết mọi sự sau lại yêu người như Chúa yêu ta vậy. Đây cũng là cách chúng ta loan truyền Tin Mừng cứu độ một cách nhanh nhất và hữu hiệu nhất trong cánh đồng truyền giáo hôm nay. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cuộc sống kẻ ít, người nhiều đều có kinh nghiệm bị dồn vào ngõ bí, dồn vào chân tường hầu như TN 29-A133
Cuộc sống kẻ ít, người nhiều đều có kinh nghiệm bị dồn vào ngõ bí, dồn vào chân tường hầu như không lối thoát. Hoàn cảnh đó gây lo lắng cho cá nhân và âu lo cho thân nhân, thân hữu. Bị dồn vào chân tường ít hay nhiều lệ thuộc vào hoàn cảnh sống và công việc người đó làm. Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng công khai cũng có kinh nghiệm bị người dồn vào chân tường. Hoàn cảnh trớ trêu này xảy ra không phải vì Ngài nói hay làm điều gì sai trái mà do ghen vì Ngài nổi tiếng hơn chúng, họ tức nên tìm cách chống đối. Căm thù vì giáo huấn của Ngài cắn rứt lương tâm họ, làm cho họ ăn không ngon, ngủ không yên, lương tâm dầy vò do những thủ đoạn xem ra tốt lành nhưng thật ra là những hành động ác độc, tội lỗi họ chủ trương nhằm thu lợi cho cá nhân. Thái độ của họ cho biết họ không những từ chối lắng nghe Chúa giảng dậy, kêu gọi họ thống hối mà còn chống lại giáo huấn của Đức Kitô. Một khi từ chối hay chống lại í kiến người khác có nghĩa là từ chối học từ người đó. Vì thế họ không học được những gì tốt đẹp, cao quí, tha thứ, yêu thương từ Đức Kitô. Thái độ kiêu ngạo này được thêm dầu bằng những cuộc họp kín với mục đích tìm cách hại Đức Kitô. Họ tin tưởng vào tài trí của nhóm gom lại sẽ thắng Đức Kitô dễ dàng vì thế họ họp kín dàn trận mong Đức Kitô sập bẫy. Cái bẫy họ giương ra xem có vẻ khiêm nhường nhưng thực tế không phải vậy bởi họ tính toán với nhau một câu hỏi mà trả lời đồng thuận thì bị trói chân tay mà trà lời bất đồng sẽ dẫn đến cái chết thảm. Họ muốn giết người nhưng không muốn tay mình vấy máu
Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dậy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết í kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không? Mat 22,16-17
Viên thuốc bọc đường này nhìn thì ngọt ngào bắt mắt nhưng nuốt vào sẽ là độc dược huỷ diệt toàn lục phủ, ngũ tạng. Đức Kitô biết rõ thâm í họ. Phần đầu của câu hỏi mang tính cách tôn giáo. Họ ca tụng Đức Kitô ngoài miệng nhưng trong lòng họ không tin điều họ nói ra. Nếu tin như những gì họ ca tụng Đức Kitô họ đã không tìm cách gài bẫy Ngài. Phần sau của câu hỏi lại dính đến chính trị đương thời và đó là mấu chốt của cái bẫy. Tất cã nhưng phần khác của câu nói chỉ trang trí, mong đánh lạc hướng người nghe. Theo họ nghĩ Đức Kitô không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ hai câu trả lời là thuận nộp thuế hoặc chống nộp thuế. Nếu Đức Kitô dậy là nộp thuế họ sẽ ghép Ngài vào hàng ngũ những người cộng tác với ngoại bang, cộng tác với quân xâm lược đế quốc Roma mà toàn dân đang oán hận. Nếu Đức Kitô trả lời là không nên đóng thuế họ sẽ mau mắn tố cáo với đế quốc là Đức Kitô không những chống lại nộp thuế mà còn xúi dân chúng làm loạn và như thế chính Đức Kitô chọn lựa tròng thòng lọng vào cổ mình do đế quốc Roma giết chết. Đức Kitô đã không sập bẫy nhưng còn mượn dịp chúng sốt sắng lắng nghe dậy cho chúng một bài học khác biệt về của cải chóng qua, mau tàn trần thế và của cải vĩnh cửu trên nước trời.
Ngài dậy chúng những gì thuộc về trần gian là của trần gian, những gì thuộc về Thiên Chúa là của Thiên Chúa. Thật là sai lầm khi so sánh của cải hư nát trần thế với của cải muôn đời tồn tại trên Thiên Quốc.
Đầu óc con người thường bị tư tưởng chính hướng dẫn và ngày đêm tư tưởng chính đó chỉ đạo, ảnh hướng tới lối sống, cách suy nghĩ của người đó. Thí dụ tù nhân sống trong trại khổ sai, thiếu dinh dưỡng nên ngày đêm cái tư tưởng đói khát hành hạ con người. Người đang khao khát tìm việc luôn nghĩ đến cách làm sao có việc, việc gì cũng được miễn là có việc rồi hãy hay. Chính trị gia mỗi lần xuất hiện trước công chúng quan tâm chính của họ không phải là nói những gì nhưng nói sao để được tiếng. Người không may mắc bệnh nan y luôn sốt sắng nghe đâu hay là cầu nơi đó. Tương tự như vậy nhóm chống đối Đức Kitô ngày đêm luôn tìm cách làm sao hạ được Ngài, càng sớm càng tốt, càng thê thảm càng mừng. Sau khi đóng đanh Đức Kitô vào thập giá nhóm chống đối họp nhau mở tiệc mừng. Cách nhìn về cuộc sống giữa nhóm chống đối và Đức Kitô quả khác biệt không cách nào hoá giải. Họ coi Đức Kitô như là đá tảng ngăn cản con đường họ đang tiến. Không lăn được tảng đá Kitô đi họ không thể thi hành được quỉ kế bóc lột kẻ khác. Đức Kitô trái lại coi sứ mạng của Ngài nơi trần gian là mang lại sự sống vĩnh cửu, giải thoát họ khỏi đam mê tội lỗi.
Ngài xác định Ngài đến để giải thoát nên mọi thế lực trần thế cố thể dồn Ngài vào chân tường đều thất bại. Riêng Ngài tự chọn làm tảng đá góc, nền tảng hạnh phúc muôn đời cho những ai bước theo con đường Ngài hướng dẫn, đó chính là xây nhà trên nền đá.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Câu trả lời của Đức Yêsu trong trường hợp đặc biệt đã trở thành tiêu chuẩn nhận định và sống TN 29-A134
Câu trả lời của Đức Yêsu trong trường hợp đặc biệt đã trở thành tiêu chuẩn nhận định và sống: “hãy trả cho Xêda điều thuộc Xêda, và trả cho Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.”
1. Mỗi người đều thuộc về Thiên Chúa
Có phải mọi người đều thuộc về Thiên Chúa, hay chỉ có một số người đặc biệt thôi? Người Do Thái nhận họ là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương cưng chiều, được Thiên Chúa giải phóng khỏi nô lệ Aicập; chính Thiên Chúa đã dẫn dắt họ qua những người được Ngài tuyển chọn và xức dầu. Kitô-hữu cũng nhận mình thuộc về Thiên Chúa, là con của Thiên Chúa và là những người được gọi để thừa kế cùng với Đức Kitô.
Lời Chúa trong sách tiên tri Ysaya gọi một vị vua nước ngoài là Kitô, tức người được Thiên Chúa xức dầu. Vua Xyrô là vị vua đã cho người Do Thái lưu đầy được trở về quê hương. Vua Xyrô đã hành xử theo lương tri, và như vậy vua đã làm theo thánh ý Thiên Chúa. Không phải chỉ có mình vua Xyrô, một người ngoại được là con của Thiên Chúa, nhưng tất cả những người ngoại cũng đều là con của Thiên Chúa. Với người Do Thái, chỉ có dân Do Thái là dân của Thiên Chúa, còn các dân tộc khác và cả các Kitô-hữu cũng là dân ngoại; nhưng với nhãn quan của sách tiên tri Isaya người ta có thể nói vua Xyrô và mọi người thuộc mọi dân tộc cũng đều là dân con của Thiên Chúa.
Con người là một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua biến cố Đức Yêsu chết trên thập giá, con người nhận ra giá trị cao quý của mình, vì nếu không quý giá thì tại sao Thiên Chúa đã phải nhập thể làm người, tại sao Đức Yêsu đã phải chết trên thập giá. Mọi người đều thuộc về Thiên Chúa, đều có Thiên Chúa là Cha. “Của Xêda trả cho Xêda, còn những gì thuộc Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa.”
2. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người mọi dân tộc
Mỗi người đều có Thiên Chúa là Cha. Chính Thiên Chúa tạo dựng mỗi người qua cha mẹ mình. Con cái không là điều hoàn toàn theo ý cha mẹ muốn, có những cặp vợ chồng muốn có con nhưng không có; có những cha mẹ muốn có người con gái nhưng lại sinh con trai. Con cái là hồng ân của Thiên Chúa, cho cha mẹ cũng như cho chính người con. Thiên Chúa là Cha, hiểu theo nghĩa như cha mẹ sinh con cái thì Thiên Chúa cũng tạo dựng mỗi người qua người cha người mẹ.
Mọi dân tộc đều do Thiên Chúa tạo dựng. Như một cha mẹ sinh con, nhưng chiều cao màu da mái tóc của mỗi người con cũng thường khác nhau; cũng vậy những dân tộc khác nhau đều do Thiên Chúa tạo dựng với những nét đặc biệt, tuy nhiên đều là anh em của cùng một Cha trên trời. Như cha mẹ yêu thương tất cả những người con mình sinh ra, Thiên Chúa cũng yêu thương mọi dân tộc. Dân Do Thái là một dân đặc biệt, vì qua dân Do Thái Thiên Chúa ngỏ lời với tất cả mọi người về tình yêu của Ngài đối với mọi dân tộc. Kinh Thánh tuy được viết qua dân Do Thái nhưng là lá thư tình Thiên Chúa viết cho tất cả con người của mọi dân tộc, như vậy mỗi dân tộc đều có quyền và có bổn phận phải đọc những lá thư tình yêu này.
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài muốn ngỏ lời với con người. Ngài đã chọn dân tộc Do Thái để ngỏ lời và diễn tả tình yêu của Ngài. Đức Yêsu, Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là một người Do Thái, nhưng Ngài là người của tất cả mọi người và của mọi dân tộc. Đức Yêsu là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Qua Đức Yêsu, con người biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, đã yêu con người đến độ ban Con Một Ngài cho con người. Không ai yêu con người bằng Thiên Chúa, không ai yêu “tôi” bằng Thiên Chúa, không ai tin “tôi” bằng Thiên Chúa, không ai hy vọng ở “tôi” bằng Thiên Chúa. Qua Đức Yêsu, con người hiểu biết về Thiên Chúa cách rất đặc biệt. Đức Yêsu là Lời Tuyệt Vời Thiên Chúa cho con người.
3. Mạng sống và tự do như những quà tặng
Con người của mọi thời đại đều bận tâm về những vấn đề rất cụ thể. Ngày xưa người ta cũng bận tâm về vấn đề nộp thuế, cũng bận tâm tìm ăn tìm mặc đến độ Đức Yêsu phải rao giảng “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời, còn những điều khác như cơm áo sẽ được ban thêm cho con người.” Hôm nay, câu trả lời của Đức Yêsu cho những người gài bẫy nhằm hại Ngài nhắc nhở con người về chân lý quan trọng: “hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.”
Điều thuộc Thiên Chúa là gì? Mạng sống con người, quà tặng Thiên Chúa ban cho mỗi người, cho cha mẹ, cho dân tộc, và cho con người. Mạng sống con người thuộc về Thiên Chúa. Một số người và một số nước không quý mạng sống, không đón tiếp hồng ân sự sống, nên xã hội của họ, dân tộc của họ đang ít đi, đang chết dần. Hiện tại, dân da đen châu Phi đang lan tràn ở châu Âu và châu Mỹ, vì tuy nghèo nhưng dân tộc này lại quý mạng sống. Họ sẵn sàng chấp nhận món quà Tạo Hoá ban cho họ. Một gia đình không có tiếng trẻ em, không có thế hệ trẻ, gia đình đó buồn chừng nào; cũng tương tự một nước không có nhiều người trẻ, nhìn chung quanh chỉ thấy người già, đất nước đó ảm đạm chừng nào. Một người suy nghĩ xa, sẽ thấy đất nước và dân tộc đó đi về đâu! Đó là tương lai của những dân tộc không quý trọng hồng ân sự sống mà Chúa ban và mời gọi họ đón nhận.
Tự do là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Con vật không có tự do, chỉ có con người hoặc thiên thần mới có tự do. Với tự do, con người có thể hoặc trở nên tuyệt vời hoặc trở nên đồi tệ. Tự do, như một con dao hai lưỡi; tuy vậy Thiên Chúa vẫn ban cho con người như một quà tặng vô cùng quý. Thiên Chúa ban tự do cho con người, và Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài tạo dựng mỗi người không hỏi ý kiến mỗi người vì lúc đó con người chưa hiện diện, nhưng Ngài không ép con người lên thiên đàng để chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Nếu Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người như vậy, con người cũng phải tôn trọng tự do của nhau. Cả những bậc cha mẹ cũng phải tôn trọng tự do của con cái khi chu toàn sứ mạng giáo dục con cái như Thiên Chúa trao phó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Điều gì nơi bạn thuộc Xêda và điều nào thuộc Thiên Chúa?
2. Một người ngoại được gọi là Đấng Kitô của Đức Chúa, điều này có nghĩa gì với bạn?
3. Có dấu chỉ nào cho thấy bạn thuộc về Thiên Chúa không?
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
CỦA CÉSAR TRẢ CHO CÉSAR, CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Tiền tệ là phương tiện trao đổi mua bán giữa con người với nhau trong đời sống xã hội. Để khẳng TN 29-A135
Tiền tệ là phương tiện trao đổi mua bán giữa con người với nhau trong đời sống xã hội. Để khẳng định quyền làm chủ của mình, thường mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng.
Đế quốc Rôma có đồng tiền riêng của mình. Đồng tiền này in hình các vị vua trong đế quốc.
César và các hoàng đế trong đế quốc Rôma cho in hình ảnh của mình trên đồng tiền, nhưng Thiên Chúa thì lại in hình ảnh của Ngài nơi muôn loài muôn vật, nhất là nơi con người (x. St 1,27). Điều đó cho thấy, César và các hoàng đế Rôma chỉ có quyền làm chủ trong đế quốc Rôma. Còn Thiên Chúa, thì làm chủ trời đất muôn loài muôn vật, kể cả loài người và trong đó có cả hoàng đế Rôma nữa.
“Cái gì của César thì hãy trả cho César và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Đồng tiền in hình của César thì hãy trả lại cho ông. Trời đất, muôn loài muôn vật và loài người in hình ảnh của Thiên Chúa thì hãy trả về cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy như vậy, khi những người biệt phái đến hỏi Ngài: “Thưa Thày, có được phép nộp thuế cho César không?”
Thật công bằng, chính đáng và phải đạo! Ngoài bổn phận phải vâng lời các vua chúa trần gian, Chúa Giêsu còn nhắc con người chúng ta còn phải vâng lời Thiên Chúa. Ngoài nghĩa vụ xây dựng trần thế, con người chúng ta còn phải có bổn phận xây dựng Nước Trời. Vì con người là xác hồn nhập thể, có sự sống đời này và sự sống đời sau…
Quả thật, con người là công dân trong một đất nước thì phải chu toàn nghĩa vụ, bổn phận của người công dân theo như luật pháp quốc gia đã định, một khi luật pháp ấy phù hợp với công ích, không trái ngược với lương tâm và phẩm giá của con người.
Con người cũng là công dân Nước Trời, được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, nên con người có bổn phận phải xây dựng Nước Trời và phải trả lẽ trước Thiên Chúa những gì con người đã lãnh nhận từ nơi Ngài. Từ vua quan cho đến thứ dân, ai cũng phải trả lẽ trước Thiên Chúa, không ai được miễn trừ. Cyrô vua Ba-tư, César hoàng đế Rôma, hay bất kể vua quan trần thế nào cũng thế thôi, tất cả đều phải thần phục Thiên Chúa, tất cả đều phải ra trước tòa Chúa mà chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm.
Lạy Chúa, mất những đồng tiền in hình ảnh của César, người ta tiếc xót, người ta ra công gắng sức tìm kiếm. Tìm lại được người ta vui mừng hớn hở, mời gọi mọi người đến chia vui (x. Lc 15,8-9).
Mất con người mang hình ảnh mình, Thiên Chúa cũng tiếc xót, Thiên Chúa cũng tìm kiếm như chủ chiên băng đèo lội suối đi tìm chiên lạc. Tìm lại được, Thiên Chúa cùng các thần thánh trên trời vui mừng và mở tiệc ăn khao (x. Lc 15,4-7).
Xin cho chúng con ở đời này, đừng bao giờ liều mình phạm tội làm méo mó và hoen ố hình ảnh Chúa nơi chúng con, nhưng xin cho chúng con biết chăm sóc, gìn giữ hình ảnh Chúa nơi chúng con luôn được trong sáng và nguyên vẹn, bằng một đời sống thánh thiện, mến Chúa yêu người và chu toàn bổn phận, để mai ngày chúng con xứng đáng ra trình diện trước tòa Chúa. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Biệt phái là một nhóm tín đồ Do Thái giáo, thông thạo Lề Luật, giữ luật cách nhiệm nhặt theo mặt TN 29-A136
Biệt phái là một nhóm tín đồ Do Thái giáo, thông thạo Lề Luật, giữ luật cách nhiệm nhặt theo mặt chữ, tự cho mình là thánh thiện, sống tách biệt với dân nghèo và dân ngoại. Họ tin linh hồn bất tử, tin có đời sau, tin các thiên thần. Nhưng cuộc sống của họ thường đối nghịch với Chúa Giêsu (x. Mc7,5; 8,11; 10,2; 12,13), có óc nệ luật (x. Lc 6,1-5), chi ly (x. Mt 23,23-24), tự cao tự đại (x. Mt 18, 11-12), và nhất là giả hình (x. Mt 23,3-6). Chính vì thế, nhiều lần Đức Giêsu đã tố cáo sự giả hình của họ, Ngài không ngần ngại ví họ như “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23). (x. Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN)
Bản chất giả hình của những người Biệt phái lại một lần nữa được họ thể hiện một cách rõ nét trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 22,15-21). Thật vậy, Thánh Mathêu cho chúng ta biết, họ dùng những lời ngon ngọt để nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào.” (Mt 22,16). Nội dung của những lời nói này không có gì sai, thậm chí còn rất đúng với bản chất vốn có của Đức Giêsu. Giá như họ nói những lời đó với một tấm lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng thì tốt biết mấy. Nhưng thực tế miệng họ nói những lời ngon ngọt như vậy không phải phát xuất từ lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng mà để che đậy ác ý của họ từ bên trong. Bởi vì, sau khi nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu, họ đưa ra một câu hỏi hết sức hóc búa để gài bẩy Ngài. Họ hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?”(Mt 22,7). Đúng là“miệng nam mô bụng bồ dao găm.” Với câu hỏi này, nếu Đức Giêsu trả lời “có” thì đồng nghĩa với việc Ngài ủng hộ chính quyền ngoại bang Rôma đang đô hội Nước Do Thái lúc bấy giờ, mà chính họ được coi là những người ái quốc đang chống lại chính quyền đó. Cho nên, Đức Giêsu sẽ bị chính họ và dân chúng lên án là kẻ phản quốc. Ngài sẽ mất uy tín với dân chúng. Ngược lại, nếu Đức Giêsu trả lời “không” thì Ngài sẽ bị liệt vào kẻ phản động, chống đối chính quyền, bị nhóm Hêrôđê lên án. Bởi vì nhóm Hêrôđê là những kẻ “cọng rắn cắn gà nhà”, họ ủng hộ chính quyền Rôma để trục lợi. Cho nên, chúng ta mới hiểu vì sao bình thường giữa nhóm Biệt phái và nhóm Hêrôđê hay chống đối nhau, thế mà hôm nay họ lại được nhóm Biệt phái mời đến để hợp tác chống lại Đức Giêsu.
Như thế, họ đã đưa Đức Giêsu vào cái thế “lượng đao luận”, nghĩa là trả lời cách nào cũng mắc bẫy của họ. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”. Sau khi nghe những lời tâng bốc và câu hỏi của họ đặt ra, Đức Giêsu đã tố cáo ý đồ thâm độc của họ và Ngài đưa ra giải pháp của mình, Ngài nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.” (Mt 22,18-21).
Câu trả lời của Đức Giêsu khiến họ chưng hửng, nhưng qua câu trả lời này cũng dạy cho họ và chúng ta một bài học: Mỗi người đều có bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa.
1. Bổn phận đối với Thiên Chúa
- Chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa: Người kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha, là Đấng dựng nên, cứu chuộc, quan phòng và muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Kinh thánh cũng dạy mọi người phải biết Kính sợ, yêu mến và biết ơn Thiên Chúa: Thật vậy, con người phải biết kính sợ Thiên Chúa: “Hỡi Israel, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em.” (x. Đnl 10,12); Con người phải biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến bằng cách tuân giữ các giới răn và lệnh truyền của Ngài: “Anh em phải đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc.” (x. Đnl 10,12-13); Con người phải biêt tạ ơn Thiên Chúa: “Hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1); “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1Tx 5,18); “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa” (x. 1Tx 2,13).
- Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: Thiên Chúa ban cho con người có tự do, nhưng con người đã lợi dụng tự do để cướp đi quyền làm chủ của Thiên Chúa: Con người cướp đi quyền làm chủ sự sống của Thiên Chúa để giết chết bao nhiêu mạng người: Vụ xả súng mới đây tại bang Las Vegas của Mỹ đã giết chết 59 người; vấn đề phá thai, an tử hằng năm giết chết hàng triệu người vô tội; Con người cướp đi quyền làm chủ thiên nhiên của Thiên Chúa: nạn phá rừng gây ra lũ lụt, dùng thuốc sâu, chất hóa học gây ô nhiễm môi trường; Con người cướp đi quyền làm chủ lương tâm, không còn nghe theo tiếng lương tâm để làm lành lánh dữ nên gây ra biết bao nhiêu tội ác; Con người cướp đi quyền sở hữu của Thiên Chúa qua sự quản lý của Giáo hội về các vấn đề như: đất đai, cơ sở tôn giáo; Người của Thiên Chúa như các giám mục, linh mục, tu sỹ bị hành hung, đánh đập, giết chết nhiều nơi trên thế giới…Đức Giêsu nói: “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mt 22,21).
2. Bổn phận đối với Tổ quốc
Mỗi người đều có một tổ quốc, có quyền công dân. Đi liền với quyền lợi là bổn phận đối với tổ quốc của mình. Bổn phận trên hết và trước hết là nộp những khoản thuế hợp pháp cho nhà nước. Thời Chúa Giêsu, người Do thái bị đế quốc Rôma đô hộ, nên họ đang tiêu dùng tiền Rôma. Vì tiêu dùng tiền của Rôma nên đương nhiên họ phải nộp thuế cho đế quốc Rôma. Đây là một hành động hợp lý mang tính xã hội. Chính gia đình Thánh gia và cụ thể là chính Đức Giêsu cũng đã từng chu toàn nghĩa vụ công dân của mình. Kinh thánh cho biết: Thánh Giuse và Mẹ Maria đã vâng lệnh nhà vua trở về Bêlem để kê khai hộ khẩu (x. Lc 2,4); Đức Giêsu đã sai Phêrô đi câu cả để lấy tiền nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô (x. Mt 17,26); dù biết lệnh bất công nhưng Ngài vẫn để cho chính quyền bắt Ngài (x. Lc 23,22). Thánh Phaolô dạy: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính.” (Rm13,7)
Ngoài ra, nếu chính quyền là hợp pháp và làm đúng với nghĩa vụ của họ thì buộc lòng người dân phải vâng phục và kính nể. Thánh Phêrô đã từng bảo các kitô hữu rằng: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua.” (1Pr 2,17). Thánh Phaolô thì bảo các Kitô hữu: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13,1). Chính trong bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Ngài, nên việc làm của vua Cyrô chính là đường lối của Thiên Chúa. Vì vậy, dân Chúa phải tùng phục nhà vua.
3. Phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa
Nếu những khi bổn phận đối với Tổ quốc đi ngược lại với bổn phận đối với Thiên Chúa thì phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa hơn. Bởi vì, người kitô hữu không thể làm những điều trái với giáo huấn của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và kể cả giáo huấn của Giáo hội. Chính Thánh Phêrô và các Tông đồ đã khẳng định rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Câu chuyện của Thánh Thomas More sau đây là mẫu gương cho mỗi người kitô hữu chúng ta:
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr.305).
Tóm lại, mỗi người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng phải chu toàn, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Nhưng khi phải lựa chọn một trong hai thì cần ưu tiên bổn phẩn đối với Thiên Chúa hơn. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết tránh thói giả bình của Biệt phái và sự thông đồng ác ý của nhóm Hêrôđê. Đồng thời, xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Amen.
-------------------------------
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau ba dụ ngôn (21,28-32; 22,33-41 và 22,1-14) liên quan trực tiếp đến các lãnh đạo tôn giáo TN 29-A137
Sau ba dụ ngôn (21,28-32; 22,33-41 và 22,1-14) liên quan trực tiếp đến các lãnh đạo tôn giáo: thượng tế, kỳ lão (21,23) và người Pharisêô (21,45), Matthêô trình bày bốn tranh luận giữa Chúa Giêsu với những người nầy trong phần còn lại của chương 22: 1/ Người Pharisêô và nhóm người Hêrôđê và việc nộp thuế cho Cêsarê (cc. 15-22), 2/ Người Sađucêô và sự sống lại (cc. 23-33), 3/ Người Pharisêô và điều răn trọng nhất (cc. 34-40), 4/ Người Pharisêô và nguồn gốc Đức Kitô (cc. 41-46). Từ logos, “lời”, (22.15 và 46) đóng khung phần nầy. Người Pharisêô, xuất hiện trong tranh luận thứ nhất và cuối cùng, đã tìm cách đặt bẫy Chúa Giêsu trong lời nói (c. 15), chính họ đã không thể nói lời nào. Họ đã không thể bắt bẻ những câu trả lời của Ngài; do đó không còn dám đặt vấn đề với Ngài nữa (c. 46).
Tranh luận đầu tiên là việc nộp thuế cho Cêsarê (22,15-22). Về mặt nội dung, đoạn nầy liên hệ về chủ đề với các dụ ngôn trên, cách riêng với dụ ngôn “Các tá điền vườn nho” (21,33-46): nộp/trả cho Thiên Chúa hoa trái/phần thuộc về Ngài. Có thể phân chia bố cục đoạn nầy như sau: Dẫn nhập (c. 15); tranh luận về việc nộp thuế (cc. 16-21); kết luận (c. 22).
Dẫn nhập (c. 15)
Người Pharisêô vẫn giữ ý định bắt Chúa Giêsu (x. 21,46). Matthêô cho thấy điều nầy ngay trong câu dẫn nhập (c. 15). Trước tiên, họ “bàn mưu”. Cụm từ nầy chỉ được dùng cho những người lãnh đạo. Họ chỉ “bàn mưu” để làm hại và giết Chúa Giêsu (12,14; 22,15; 27,1.7; 28,12). Ở đây họ bàn mưu “đặt bẫy Ngài trong lời nói”. Matthêô dùng động từ pagideuō, “đặt bẫy” thay vì anreuō trong Mc 12,13. “Đặt bẫy trong lời nói”, pagideusōsinen logō, nghĩa là người ta đặt ra một vấn nạn nào đó để cho người trả lời có thể bị tố cáo ngược lại căn cứ vào một vài lời nói trong câu trả lời của họ. Ở những chỗ khác, những người nầy đặt cho Chúa Giêsu những câu hỏi để “thử” Ngài, peirazō, nghĩa là để biết Ngài suy nghĩ gì hoặc phán đoán như thế nào (x. 16,1; 19,3; 22,35). Trong ngữ cảnh của đoạn nầy, động từ peirazō, trong câu Chúa Giêsu tố cáo thâm ý của họ (c. 18), có nghĩa tương tự như động từ pagideusōsin.
Tranh luận về việc nộp thuế (cc. 16-21)
Phần chính của trình thuật nầy có thể phân chia làm hai: – Lời khen ngợi và câu hỏi về việc nộp thuế (cc. 16-17), – Lời tố cáo và câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 18-21). Cả hai bên, các đồ đệ của người Pharisêô và Chúa Giêsu, đều có nhận xét về nhau trước khi đặt câu hỏi và câu trả lời. Qua những lời nầy, Matthêô cho thấy sự tương phản giữa hai bên.
Lời khen ngợi và câu hỏi về việc nộp thuế (cc. 16-17)
Trước tiên, Người Pharisêô gọi Ngài là “Thầy” (c. 16); cách gọi nầy chỉ thấy trong các trình thuật tranh luận ở chương 22 nầy (22,16.24.36) và ở 12,38; nơi khác họ gọi Ngài là “Thầy của các anh (các môn đệ) (9,11). Tiếp đến, Ngài là “Đấng chân thật”, alēthēs, Ngài “dạy đường lối của Thiên Chúa trong sự thật”, alētheia; ở đây có một cấu trúc đối đảo nhỏ: a. “Thầy” – b. “chân thật” – c. “đường lối của Chúa” – b’. “sự thật” – a’. “dạy”; cấu trúc nầy nhấn mạnh ở “đường lối của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu là thầy, là Đấng chân thật, vì Ngài dạy “đường lối của Thiên Chúa”; Gioan Tẩy giả được nói là “đến trong sự công chính” (21,32). Sau cùng, Ngài “không bận tâm người nầy người nọ, vì Ngài không nhìn vẻ bên ngoài”, nghĩa là Ngài không thiên vị; phẩm tính nầy của Thiên Chúa được áp dụng cho Ngài (x. Đnl 10,17; Cv 10,34; Rom 2,11; Giacôbê 2,9). Vậy họ xem Chúa Giêsu, ít là cách bên ngoài và qua những lời nầy, như là người của Thiên Chúa.
Người Pharisêô đặt với Chúa Giêsu câu hỏi về việc nộp thuế cho hoàng đế. Thuế nầy tính theo đầu người, được thu ngang qua các cuộc kiểm tra dân số (Lc 2,1-5; Cv 5,37). Mỗi năm là một đồng bạc (E. Schürer, The History of the Jewish People in the Age of Jesus Christ, ed. by G. Vermes – F. Millar, Edinburgh, 1973 -, 1, pp. 399–427). Vấn đế nộp thuế được đặt ra trong tương quan với lề luật của Thiên Chúa; exestin có nghĩa là “được phép”, “đúng luật”. Mỗi lần đặt ra vấn đề “được phép/đúng luật”, người Pharisêo thường cho là không đúng luật. (12,2.10; 19,3; 22,17). Ở đây Chúa Giêsu đã không trả lời “có” (x. 12,2.10.12), mà cũng không trả lời “không” (x. 19,3). Nếu Ngài trả lời “có”, sẽ có người phản đối Ngài, vì nhiều người Do thái chống lại việc nộp thuế, như Giuđa người Galilê (x. Josephus, Bell, 2-118). Nếu Ngài trả lời “không”, họ có thể tố cáo Ngài là người nổi loạn. Chúa Giêsu trả lời theo cách của Ngài, chứ không đi vào trong cái bẫy “có” hoặc “không” của người Pharisêô.
Nhận xét và câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 18-21)
Các câu 18-21 trình bày giải đáp của Chúa Giêsu. Tên của Chúa Giêsu, Iēsous, được đưa vào ngay đầu câu để đối lại với tên của nhóm người Pharisêô và Hêrôđê (c. 16). Họ đến hỏi chuyện nộp thuế cho hoàng đến, Chúa Giêsu nói thêm trách nhiệm cá nhân đối với Thiên Chúa.
Câu 18 trình bày nhận xét của Chúa Giêsu về người Pharisêô.Ngài nhận ra lòng “xấu xa”, ponēria, nơi họ (c. 18). Những điều họ nhận xét về Ngài rất đúng, nhưng vì những lời ấy phát xuất từ ý đồ “bàn mưu đặt bẫy”, nên đó là những lời bất lương, và “xấu xa” của họ là không có sự chân thật nơi mình.
Các câu 19-21 giải đáp câu hỏi về nộp thuế. Trước tiên, Ngài yêu cầu, bằng câu mệnh lệnh, người ta đưa cho Ngài một đồng tiền nộp thuế (c.19a). Rồi Ngài đặt câu hỏi và để họ trả lời (cc. 20-21a). Hình ảnh trên đồng tiền là của hoàng đế Tiberius (A.D. 14-37), với hàng chữ bằng tiếng Latinh: Augustus Ti(berius) Caesar Divi Aug(usti) F(ilius), “Tiberius Caesar, con thần linh Augustus”. Các chi tiết nầy muốn nói là đồng tiền nầy thuộc về Cêsarê, và khi người ta dùng đồng tiền nầy để đóng thuế, thì tiền thuế sẽ thuộc về ông, “Của Cêsarê trả lại cho Cêsarê” (c. 21a). Với khẳng định nầy, việc đóng thuế cho Cêsarê không trái với lề luật của Thiên Chúa (x. Rm 13,1-7; 1Ph 2,13.17).
Chúa Giêsu đã không dừng lại ở khẳng định nầy. Trong các cuộc tranh luật về lề luật, Chúa Giêsu thường không dừng lại ở “được phép/đúng luật, exestin” hay không. Ngài thường hành động vượt trên lề luật dựa vào lý do ưu tiên cho con người và Thiên Chúa (12,6; 12,11-12; 19,6). Trường hợp nầy cũng thế, tuy chỉ là tranh luận trên lý thuyết, Ngài đặt việc nộp thuế cho Cêsarê trong tương quan với Thiên Chúa. Câu trả lời quyết định của Ngài gồm hai vế đối nhau (c. 21), trong đó “Thiên Chúa”, có mạo từ xác định, đối lại với “Cêsarê”. Động từ apodidōmi, “trả lại” được dùng một lần chung cho cả hai vế. Cấu trúc nầy cho thấy nếu phải đóng thuế cho vua chúa trần gian, thì cũng phải làm điều nầy cho Thiên Chúa và làm một cách tuyệt đối, vì Thiên Chúa vượt trên hết mọi vua chúa, vương quốc trần gian (x. 4:10). Động từ apodidōmi được dùng nhiều lần trong tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Matthêô cho thấy nhiều lần Thiên Chúa “trả lại” cho con người (6,4.6.18; 16,27; 20,8), trong khi đó, không một lần nào thấy con người làm điều nầy cho Thiên Chúa (18,25.34); điều nầy được nói cách hiển nhiên hơn trong dụ ngôn tá điền vườn nho (21,41). Bởi đó, Chúa Giêsu kêu gọi “Hãy trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”.
Vậy Chúa Giêsu, vị Thầy “dạy đường lối của Thiên Chúa” (c. 16), đã chỉ cho người Pharisêô thấy điều họ phải làm đối với Thiên Chúa là “trả lại cho Thiên Chúa phần thuộc về Thiên Chúa” (c. 21b); Ngài cũng đã làm tương tự đối với ma quỉ (4,7.10).Trong dụ ngôn tá điền vườn nho, Ngài nói điều nầy bằng dụ ngôn (21,34.43). Người Pharisêôđã không chịu lắng nghe mà hoán cải (x. 2146). Ở đây, Ngài khẳng định với họ trực tiếp và rõ ràng.
Kết luận (c. 22)
Trình thuật kết thúc với nhận xét của thánh sử (c. 22). Phản ứng của người Pharisêô là “kinh ngạc”, “sững sờ”, thaumazō; ở đây được hiểu theo nghĩa của Is 52,15: “Cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại,được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ”. Câu trả lời quyết định của Chúa Giêsu đã làm cho người Pharisêô kinh ngạc. Họ nghe điều họ không chờ đợi và nghĩ tới. Sự kinh ngạc làm họ phải nín lặng (x. 22,46), và “bỏ” Chúa Giêsu mà đi. Hành động của họ được mô tả như hành động của ma quỉ là “bỏ Ngài mà đi” sau khi “thử” Ngài (4,7) mà không thành công (4,11).
Người Pharisêôđem chuyện nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê đến với Chúa Giêsu. Ngài nói thêm việc “nộp thuế” cho Thiên Chúa. Bổn phận bắt buộc và không thể gỡ mình ra được nầy rơi ngược lại trên họ, và làm cho họ hiểu rằng họ đã không trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Thiên Chúa đã mạc khải cho dân biết về thần tính của Người, tiên tri Isaia ghi: Ta là Chúa và TN 29-A138
Thiên Chúa đã mạc khải cho dân biết về thần tính của Người, tiên tri Isaia ghi: Ta là Chúa và chẳng còn Chúa nào khác: Ngoài Ta ra không có Thiên Chúa nào nữa, Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta (Is 45, 5). Không phải tự nhiên mà loài người có thể nhận biết rõ về Thiên Chúa. Trải qua muôn thế hệ, con người vẫn còn lần mò đi tìm kiếm về nguồn chân, thiện, mỹ. Trên thế giới còn rất nhiều người chưa nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa. Khái niệm về một Đấng Tối Cao hay Thượng Đế rất là đa dạng. Mỗi tôn giáo có các quan niệm khác nhau về Thượng Đế. Các niềm tin tôn giáo cổ thời lưu lại cho chúng ta một kho tàng quí báu trong công việc suy tư tìm kiếm nguồn cội. Hình như có bao nhiêu tôn giáo là có bấy nhiêu cách giải thích về sự hiện hữu của Tạo Hóa.
Niềm tin của con người rất phức tạp và đa dạng, chúng ta có thể phân chia niềm tin làm nhiều ngành: Niềm tin đa thần (Polytheism), niềm tin Phiếm Thần (Pantheism) và niềm tin Độc Thần (Monotheism), còn gọi là Nhất Thần Giáo. Tín ngưỡng Đa Thần phát sinh từ lòng khao khát, sự sợ hãi các hiện tượng thiên nhiên và những cảm tính về một thế giới linh thiêng nào đó. Niềm tin Đa Thần cũng có thể bắt nguồn từ truyện thần thoại miêu tả những nhân vật có hình tướng lạ thường, phi thường và siêu phàm. Trong lịch sử cổ đại, đa số các nền văn hóa đặt niềm tin vào nhiều thần linh và quyền lực thiên nhiên. Các vị thần được con người tôn phong danh hiệu. Họ tin rằng những vị thần này cai quản và độ trì cho con người trong những lãnh vực khác nhau trong đời sống. Những người thuộc Đa Thần Giáo không có khái niệm về một vị thần tối cao, duy nhất tự hữu và hằng hữu.
Độc Thần Giáo là niềm tin vào một Đấng Tối Cao duy nhất. Niềm tin khởi nguồn từ tổ phụ Abraham được xem là tôn giáo Độc Thần. Họ tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và con người phải phụng thờ Ngài. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, nguồn kiến thức chủ yếu là độc thần giáo. Niềm tin này được chính Thiên Chúa mạc khải cho cha ông, các tổ phụ, các tiên tri và dân riêng. Đạo Do-thái Giáo đặt căn bản niềm tin chủ yếu về Độc Thần. Người Do-thái dùng từ Giavê, Elohim, Chúa, Thiên Chúa, nhưng họ không chấp nhận Đấng Messia (Chúa Giêsu) là Chúa. Chúng ta phân biệt một chút: Chúa Giavê là niềm tin của Do-thái Giáo, Allah của Hồi Giáo và Thiên Chúa (Ba Ngôi) của Kitô Giáo. Đạo Hồi Giáo trình bày xác tín về độc thần giáo. Họ đặt trọn niềm tin vào Đấng Allah duy nhất và qua một tiên tri là Mohamad. Tính duy nhất của Đấng Allah là giáo lý căn cốt của niềm tin.
Kitô Giáo tin vào Thiên Chúa tạo dựng toàn thể vũ trụ và tiếp tục bảo tồn vũ trụ trong mọi nơi và mọi lúc. Khái niệm miêu tả Thiên Chúa là một thực thể tối cao, nguyên nhân đệ nhất, vĩnh tồn và siêu nhiên. Chúng ta đọc trong sách Sáng Thế Ký: Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm chủ các biển, chim trời, gia súc, tất cả mặt đất và mọi giống bò dưới đất (Stk 1, 26). Giải thích của Kitô Giáo, dựa vào Lời Chúa mạc khải, các giáo phụ lập luận về giáo lý: Thiên Chúa phán: ‘Chúng Ta…’, nói về Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi riêng biệt: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa.
Chúng ta tìm hiểu sơ qua về quan niệm của những người hữu thần và vô thần. Thuyết Hữu Thần (Theism) cho rằng Thiên Chúa vừa siêu nhiên và vừa hiện hữu nội tại. Thần Giáo (Deism) miêu tả Thiên Chúa siêu nhiên và là một vị thần mơ hồ và xa cách. Vô Thần (Atheism) không tin có Thượng Đế hoặc thiếu niềm tin rằng: Có Thượng Đế, đồng nghĩa với Phi Thần Luận (Nontheism). Có khoảng 2% dân số thế giới là người vô thần. Người Vô Thần có thái độ hoài nghi tất cả những gì thuộc tôn giáo và tín ngưỡng. Họ đòi hỏi mọi thứ phải có bằng chứng thực nghiệm và không tin có sự tồn tại của thần thánh. Thuyết vô thần khẳng định quan điểm thần thánh không tồn tại và phủ nhận mọi thứ siêu nhiên. Đạo Phật Giáo (Buddhism) và Ấn Độ giáo (Hinduism) không đòi hỏi niềm tin vào một vị Thiên Chúa cá thể. Con người chưa có sự thống nhất về các khái niệm vô thần.
Dân Do-thái sống giữa một thế giới đa thần. Giữa muôn hình vạn trạng của các niềm tin và văn hóa, họ đã dễ dàng bị nhiễm những tư tưởng về cách sống tự nhiên và tự do phóng khoáng. Nhiều khi họ chạy theo các dân tộc chung quanh thờ kính những vị thần mà họ không hiểu biết. Thí dụ: thần Baal, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và cũng chẳng cảm thông được gì. Các thần chỉ là gỗ đá vô cảm, vô tài và vô năng. Thiên Chúa yêu thương dân mà Ngài đã chọn. Chúa sai các tiên tri để hướng dẫn và qui tụ dân về một mối cùng tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Lịch sử dân Do-thái là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa mạc khải: Để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác (Is 45, 6).
Bài phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện các nhà lãnh đạo tôn giáo muốn gài bẫy bắt bẻ Chúa Giêsu cả về đạo lẫn đời liên quan vấn đề nộp thuế: Khi ấy, các người Biệt Phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói (Mt 22, 15). Chúa Giêsu thấu tỏ sự lật lừa không ngay thẳng trong lòng của họ. Chúa Giêsu đã trả lời cho họ một cách khôn ngoan tuyệt đối: Vậy cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa (Mt 22, 21). Câu trả lời không chỉ cho những người Biệt Phái ngày xa xưa, nhưng cho chính chúng ta ngày hôm nay đây. Chỉ có hai đối tượng, Thiên Chúa và con người. Vậy cái gì là của Thiên Chúa? Nếu xét cho tận cùng, tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa. Từ sự sống, khả năng, thời gian, không gian, nguồn vốn và cả con người đều phát sinh từ Thiên Chúa. Chúng ta thuộc về Chúa trọn vẹn cả xác lẫn hồn. Cái gì là của Cêsarê, có nghĩa là của con người trần thế? Chúng ta mắc nợ nhau vì sự hỗ tương. Chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Chúng ta có trách nhiệm đối với xã hội, với chính quyền, với quốc gia dân tộc và với nhau. Đóng thuế là một bổn phận và nghĩa vụ của người công dân để giúp bảo trì cuộc sống an sinh xã hội.
Chúng ta sống trên đời để tìm nhận biết thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em để cùng được chung hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Con người là một loài thụ tạo cao quí nhất, nhưng không thể sống độc lập một mình. Thượng đế an bài mọi sự cách lạ lùng trong vũ trụ. Muốn sinh tồn, con người phải gắn kết với môi trường thiên nhiên chung quanh. Tâm linh hướng về Đấng Tối Cao để thờ lạy và cảm tạ. Thánh Phaolô đã cầu nguyện trong tâm tình tạ ơn: Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng (1Thess 1, 2). Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu, Thiên Chúa đã chia sẻ sự sống và tạo dựng con người giống hình ảnh của Chúa. Giữa Thiên Chúa và loài người có một sợi giây liên kết sâu đậm trong tình yêu: Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Thiên Chúa yêu mến (1Thess 1, 4).
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin Chúa mở lòng mở trí để chúng con biết trả lại cho Chúa những gì thuộc về Chúa. Chúng con tạ ơn Thiên Chúa đến muôn ngàn đời.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của... Câu nói của chúa Giêsu năm nào đã làm cho nhiều người Pharisêu TN 29-A139
“Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Câu nói của chúa Giêsu năm nào đã làm cho nhiều người Pharisêu và nhóm người phe Hêrôđê là những người đầy dã tâm đang tìm mọi cách hãm hại Người phải chưng hửng. Thoặt nghe câu chuyện chúng ta dễ nghĩ đến sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Phải nhận rằng Người đã tài tình thoát khỏi cái thế tiến thoái lưỡng nan do bởi cái bẫy hiểm độc của nhóm Pharisêu và phe Hêrôđê, những người vốn không thích nhau, thì nay lại hợp sức giăng ra. Tuy nhiên, nhân câu chuyện thú vị này và nhất là qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta có được một cái nhìn chuẩn mực hơn về vấn nạn quyền bính trong các xã hội dân sự.
Con người là hữu thể có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội là một trong những yếu tố nền tảng làm nên con người. Không ai là một hòn đảo. Kinh Thánh khẳng định: “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Cái không tốt ở đây không chỉ liên hệ đến phẩm tính mà còn liên hệ đến căn tính, nghĩa là liên hệ đến hữu thể “người”. Nói nôm na là nếu “ở một mình” thì không thể thành người đúng nghĩa. Một vài sự kiện về các trẻ bé lạc trong rừng sâu như một minh chứng rõ ràng. Dù sau đó khi được phát hiện và đưa về thì “người rừng” rất khó hòa nhập với xã hội loài người. Quyền bính có ra là do yêu cầu của tính xã hội. Đã là hai người thì tất yếu có kẻ trên, người dưới. Đã là tập thể thì phải có người đứng đầu để lãnh đạo. Một tập thể mà không có người chỉ huy thì chuyện tan rã là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Không có người lãnh đạo thì sẽ dẫn đến tình trạng hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế sự hiện hữu của quyền bính là điều tất yếu cần thiết. Vị trí quan trọng và thiết yếu của quyền bính được nhìn nhận do bởi vai trò của nó. Quyền bính có ra là để gìn giữ xã hội ổn định trong trật tự, công bằng; xây dựng công ích; bảo vệ kẻ cô thân, yếu thế, người bất hạnh; tạo điều kiện cho mỗi người và mọi người hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại, phát triển và nên hoàn thiện.
Theo viễn kiến này và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa muốn có sự hiện hữu của quyền bính trong xã hội dân sự. Và sự hiện hữu của quyền bính là trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, khi Người dựng nên nhân loại mang tính xã hội. Như thế chúng ta có thể nói không sợ sai lầm rằng quyền bính là một trong những công trình của Thiên Chúa, nghĩa là do Thiên Chúa làm nên.
Những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Xêda là một hình thức quyền bính của xã hội dân sự thời phong kiến xưa. Xêda là hoàng đế của La mã hoặc bất cứ vị hoàng đế của nước nào cũng đều thuộc về Thiên Chúa. Ngày nay, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Quốc Hội, Tòa án…cũng là quyền bính xã hội và chúng đều thuộc về Thiên Chúa. Vì thuộc về Thiên Chúa thì những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Hoàng đế Kyrô khi ra sắc chỉ cho dân Do Thái bị lưu đày trước đây được hồi hương và tái thiết Đền thờ thì đã được ngôn sứ Isaia nhìn nhận như là người được Thiên Chúa tuyển chọn. Hoàng đế Kyrô còn được gọi là người được xức dầu vì ông đã thực thi thánh ý Thiên Chúa (x.Is 45,1).
Chúng ta cần phân biệt sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.
Xét quyền bính như là một cơ cấu tổ chức điều hành một tập thể xã hội hay tôn giáo thì nó thật chính đáng và hợp lý. Tuy nhiên hình thức quyền bính này cũng cần phải được chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của con người và xã hội để phục vụ cách hữu hiệu ngày mỗi hơn. Chẳng hạn như cơ cấu quyền bính loại hình quân chủ chuyên chế không thể nào thích hợp với con người và xã hội hôm nay. Nhiều hình thái cơ cấu, tổ chức không chỉ cần phải được đổi mới mà thậm chí còn phải bị thay thế bằng hình thái khác. Có thể nói rằng với đà phát triển của nhân loại như hôm nay thì những hình thái quyền bính mang tính độc tài, chuyên chế không còn lý do để hiện hữu.
Xét những con người nắm quyền bính thì trước hết chúng ta cần xem xét cách thức họ nắm giữ quyền hành có hợp pháp không, nghĩa là có minh bạch và công bằng không. Chúng ta dễ nhận ra cách thức xem ra được gọi là khá công bằng hiện nay để xây dựng công quyền đó là “phổ thông đầu phiếu”. Và dù được tổ chức bầu bán công khai thì cũng cần phải xét xem việc bầu bán ấy có tiến hành trong sự tự do và công bằng hay không. Thực tế đã có đó những cuộc bầu bán tuy là công khai những chỉ là một thứ hình thức hợp pháp hóa sự độc quyền, vì chưa bầu mà thiên hạ đã biết những ai sẽ đắc cử và sẽ đảm nhận vai vế gì trong hệ thống công quyền.
Kế đến chúng ta cần xem xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền bính như đã nói trên, đó là xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô thế…, thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay thế.
Giáo Hội không làm thay việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn, nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo hội Công giáo chỉ cấm hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL Đ.287.2 ; Đ.672). Còn với tín hữu giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.
“Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Có thể khẳng định rằng thể chế nào, nền công quyền nào hay người nắm quyền lực nào mà không “thuộc về Thiên Chúa” thì đang bị Thần dữ chi phối. Thần dữ vốn là tên sát nhân và là cha của sự gian dối thì “thành quả” của nó chính là sự chết chóc, bạo lực và hận thù (x.Ga 8,44). Chính vì thế để làm phát triển nền văn minh tình thương và sự sống thì mọi Kitô, dù là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, theo cách thế của mình, đều có bổn phận làm cho các cơ chế công quyền và những người nắm quyền “thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là hiện hữu, vận hành và thi hành quyền bính phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Để được vậy, thiết nghĩ không gì hơn chúng ta cần tích cực can đảm bảo vệ công lý và làm chứng cho sự thật trong tình yêu. Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đang có chương trình phổ biến và học tập “Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo”. Mong sao chương trình này không dừng lại ở phạm trù truyền đạt kiến thức mà được hiện thực hóa bằng việc làm cụ thể, rõ ràng.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Maria Hải Dương CRM)
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết bổn phận của chúng ta là phải vâng phục TN 29-A140
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết bổn phận của chúng ta là phải vâng phục quyền bính. Nhóm Biệt Phái và Hêrôđê gài bẫy Ngài bằng một câu hỏi: Có phải nộp thuế cho Cê-da không?
Người Do Thái quan niệm đóng thuế như vậy chỉ làm cho thế lực ngoại bang trên dân tộc thêm vững mạnh. Nếu Chúa đồng ý, Ngài sẽ bị kết án là hợp tác với người Rôma. Nếu không đồng ý, Ngài sẽ bị tố cáo chống đối nhà cầm quyền Rôma. Thực vậy, đối với người Do Thái thời Chúa Giêsu: từ chối nộp thuế là chống lại Rôma, còn chịu nộp thuế là công nhận quyền bính hoàng đế ngoại bang và ngoại đạo. Trong khi người Do Thái vẫn cứ phải nộp thuế và giao dịch bằng đồng tiền Rôma với hình hoàng đế Cê-da và chữ Cê-da thần thánh. Trong khi người Do Thái không thờ ngẫu tượng, ở đây lại là ngẫu tượng sống .
Chúa trả lời: những gì của Cê-da trả về cho Cê-da, những gì của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu không có ý dạy ta phân biệt đạo đời. Quan điểm của Chúa Giêsu không dạy ta từ chối dấn thân, tham gia chính trị, vì ta không thể phụng thờ Thiên Chúa nếu chúng ta không dấn thân phục vụ anh chị em. Dấn thân vào đời không phải để thống trị ai, nhưng là theo gương Đức Giêsu đã hiến dâng cả mạng sống để mở ra một tương lai hoà bình, tình thương và công lý cho con người. Chúa Kitô muốn đưa Thiên Chúa vào trong cuộc sống thường ngày của con người. Chính Ngài cũng chia sẻ kiếp sống con người qua hình ảnh con bác thợ mộc, và rồi làm những phép lạ để cứu chữa con người cả hồn xác. Ngài không cho đó là chuyện trần thế, không liên quan gì đến Thiên Chúa. Ngài chỉ muốn trả lại cho Cê-da: thuế má, sự tùng phục luật công bình. Ngoài ra không còn gì khác. Nói cách khác, Ngài không muốn biến con người trở thành một ngẫu tượng, được coi ngang hàng với Thiên Chúa.
Là công dân, người tín hữu được kêu mời chu toàn nghĩa vụ đóng góp cho quốc gia những tài lực, nhân lực như công ích đòi hỏi, cũng như trách nhiệm đóng thuế, vì đó là nghĩa vụ người công dân. Vì một khi người dân đón nhận những lợi ích xã hội thì họ phải có bổn phận đóng góp. Đây chính là vấn đề tình liên đới nhân loại. Thêm vào đó, người tín hữu cũng phải cầu nguyện cho những nhà lãnh đạo quốc gia, biểu lộ lòng tôn kính biết ơn đối với nhà cầm quyền, vì quyền bính đến từ Thiên Chúa. Tất cả những sự liên hệ với chính quyền phải thực sự trở nên con đường dẫn tới sự thánh thiện. Thế nên, việc đóng thuế, quyền bầu phiếu, tham gia những tổ chức công ích phải là nghĩa vụ không riêng gì của ai. Đối lại, chính quyền phải lo cho lợi ích người dân, mà không trục lợi cá nhân mình. Chính quyền cũng phải biết tôn trọng luật tự nhiên, và lo cho quyền lợi dân chúng, bao gồm việc bảo vệ sự sống ngay từ trong bụng mẹ tới lòng đất, bảo vệ nền tảng hôn nhân truyền thống gia đình một nam một nữ, bảo vệ quyền tự do tôn giáo, phát huy quyền lợi cha mẹ, và đẩy mạnh việc giáo dục trẻ em cách thích ứng.
Chúa Kitô tuyên bố: của Cê-da hãy trả cho Cê-da, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa. Bình luận về lời Chúa Kitô, Thánh Augustinô nói với chúng ta, và cũng như lời kết cho bài suy niệm hôm nay: "Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta trả lại hình ảnh Người cho Người, hình ảnh mà theo đó chúng ta đã được tạo dựng nên. Đó là điều Người muốn nói với người Do Thái khi hỏi: có được phép nộp thuế cho Cê-da hay không?... Cũng như Cê-da tìm hình tượng mình trên đồng tiền thế nào thì Thiên Chúa cũng tìm hình tượng mình trong linh hồn chúng ta như vậy. Cê - da đòi bạn trả gì? Trả hình ảnh lại cho ông. Chúa đòi bạn trả lại gì? Trả lại dung mạo của Người. Nếu mất đồng tiền làm bạn phải than khóc vì bạn đã đánh mất hình tượng Cê-da thì khi mất hình ảnh Chúa trong lòng bạn, bạn gây xỉ nhục cho Chúa biết mấy".
Xin Đức Mẹ, Đấng hằng suy niệm và ghi nhớ Lời Chúa trong tâm hồn, giúp chúng con luôn giữ gìn hình ảnh Chúa trong tâm hồn chúng con. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Vì tin theo Chúa Kitô và sống theo những điều Ngài giảng dạy, chúng ta trở thành môn đệ của TN 29-A141
Vì tin theo Chúa Kitô và sống theo những điều Ngài giảng dạy, chúng ta trở thành môn đệ của Ngài, được mệnh danh là "Kitô hữu", như sách Tông Đồ Công Vụ ghi: "Chính tại Antiokia, lần đầu tiên các môn đệ được gọi là kitô hữu" (CV 12,27).
Tuy nhiên, dù đã theo Chúa Kitô, được rửa tội, trở nên phần tử cửa Giáo Hội, và là "những công dân Nước Trời", chúng ta vẫn sống trong xã hội, vẫn là công dân của một quốc gia nào đó, với những bổn phận dân sự phải thi hành, những đóng góp phải chu toàn, và nhất là với những luật lệ đôi khi trái với các nguyên tắc Phúc Âm.
Chính vì thế, với hai tư cách "công dân Nước Trời" và "công dân trần thế", chúng ta thường có những lẫn lộn phức tạp nhiều khi khó phân biệt, có những dằng co khó giải quyết, được bên này thì mất bên kia: tốt đời mà không đẹp đạo, tốt đạo lại hỏng đời, nhất là khi những đòi hỏi của hai bên trái ngược nhau. Sư lẫn lộn và dằng co này nhiều khi trở thành những thách thức lớn lao hoặc những cạm bẫy khó tránh. Câu truyện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng...
Ngày nay trong xã hội chúng ta cũng đầy dẫy thách thức cà cạm bẫy như thế:
- Vấn đề ly dị hôm nay đã trở thành "bình thường và quen thuộc". Trong những gia đình ly dị, có một số là Công Giáo. Tôi sẽ cố gắng giữ vững lập trường của một kitô hữu, trung thành với luật Chúa, hay tôi nên chạy theo các trào lưu trần tục của xã hội?
- Nếu cần thì cứ phá thai. Hàng ngày có biết bao vụ giết thai nhi trong các nhà thương hay tại những địa điểm có tên là "Kế hoạch hóa gia đình" (Parenthood Plans). Chỉ vì không muốn có thêm một đứa con, chỉ vì danh dự cá nhân hoặc gia đình, tôi nên quyết định thế nào? Phải giữ giới răn "Thứ năm chớ giết người", hay quyết định phá hủy một thai nhi vô tội do chính huyết nhục của tôi tạo thành?
- Tôi cần tiền mua chiếc xe. Tôi sẽ cống gắng làm lụng và để dành tiền trong thời gian lâu dài, hay sẽ đến một cơ quan chính quyền khai rằng mình bệnh tật, dù tôi rất khỏe mạnh?
Trước những vẫn đề như thế, chúng ta có thể chạy theo các trào lưu xấu của xã hội và những lợi ích bất chính, đánh mất lập trường của một kitô hữu, hay quyết định gắn bó với giáo huấn của Chúa... Đứng bên này hay bên kia là quyền tự do của mỗi người. Nhưng nếu muốn trở thành những môn đệ đích trung thành và những Kitô hữu đích thực của Chúa, chúng ta cần sáng suốt và can đảm, và luôn nhắc nhở cho mình lời Chúa Kitô: "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?" Lời này của Đức Kitô phải trở thành châm ngôn cho cuộc sống đức tin của chúng ta, một châm ngôn đã thực sự tạo thành sức mạnh vô cùng lớn lao nơi các thánh Tử Đạo Việt Nam. Đúng vậy, thánh Phạm Khắc Khoan (1771- 1840) khi được hỏi: "Ông có muốn sống không?", đã trả lời: "Sống thì ai không ham..., nhưng nếu sống mà phải bỏ Chúa tôi, thì tôi không ham". Thánh Trần Văn Trung, trước giờ chết, đã mạnh dạn nói lên lập trường của mình: "Tôi là người theo đạo Công Giáo, tôi sẵn sàng đi đánh quân địch nước nhà, nhưng bắt tôi bỏ đạo, thì không bao giờ tôi chịu". Khi bị dụ dỗ, thánh Nguyễn Huy Mỹ cương quyết đáp: "Bẩm quan, tôi biết đạo Công Giáo là đạo thật, nên tôi không thể bỏ được, và không bao giờ dám chà đạp Thánh Giá Chúa tôi".
Ước gì trong cuộc sống này, khi luôn cố gắng trở thành những công dân yêu nước thực sự, chúng ta luôn sáng suốt và cam đảm tranh đấu cho tư cách "công dân Nước Trời" của mình, dù phải đương đầu với những khó khăn và phải mất đi tư cách công dân trần thế.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chủ đề: Mầu nhiệm tuyển chọn.
Được sinh vào đời, mỗi người có ơn gọi đặc thù phù hợp với hoàn cảnh của mình. Cái đó gọi TN 29-A142
Được sinh vào đời, mỗi người có ơn gọi đặc thù phù hợp với hoàn cảnh của mình. Cái đó gọi là mầu nhiệm tuyển chọn.
Đường lối của Chúa khác biệt suy nghĩ phàm nhân. Người hành động bởi tình yêu nhân hậu, đòi kẻ được chọn đáp trả cũng bằng tình yêu.
Câu chuyện giữa Chúa Giê-su và Phê-rô trên bờ biển hồ Gililêa minh chứng hồng ân tuyển chọn của Chúa.
Ngược với Chúa, con người hành động dựa trên lợi nhuận, nên khi lựa chọn, cắt đặt ai cho một vị trí chức quyền, luôn đòi điều kiện. Lối tuyển chọn nhân sự của con người gây nên bất ổn, tiêu cực, kéo lùi sự thăng tiến đời sống cộng đồng.
Những nhận định trên được xem như sự dọn đường, mở lối vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm mầu nhiệm tuyển chọn thần linh qua những cách thức rất đa dạng không giống những tiêu chuẩn loài người.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, tường thuật việc Chúa chọn Kyrô, vị vua thuộc hàng dân ngoại, làm người giải phóng Israel khỏi kiếp nô lệ, lưu đày bên Babylon.
Chúa tỏ ra thân tình, quan phòng, săn sóc đặc biệt: cầm tay dẫn đi, xức dầu, ban vinh quang danh dự, giầu sang phú quý, mặc dầu ông không biết Người.
Việc tuyển chọn Kyrô nhằm trao cho ông sứ vụ phục vụ lợi ích của dân Chúa.
Công việc ông làm thật đáng khen trước mặt Chúa và người đời: ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái hồi hương, cung cấp lương thực, tài chánh cho dân trở về tái thiết đền thờ Jerusalem, đốc thúc thực hiện công trình tái thiết thành và đền thờ trong thời gian sớm nhất.
Chúa gọi Kyrô là “bầy tôi của Chúa”, một tước hiệu danh dự cao quý, vì lẽ, được phục vụ Chúa là một hồng ân Chúa ban.
Là dân ngoại, nhưng ông đã vâng lời thực thi ý muốn của Chúa, mặc nhiên trở nên “con yêu quý của Chúa”, đã góp phần làm cho Danh Cha vinh hiển, cho Nước Cha trị đến.
Qua việc tuyển chọn Kyrô, mạc khải cho biết: “Thiên Chúa không thiên tư, tây vị, bất cứ ở đâu, ai kính sợ Người và thực hành đức công chính, đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Mầu nhiệm tuyển chọn của Chúa làm chứng hai điều:
Thứ nhất: Thiên Chúa là Cha hết thảy mọi người. Ngài điều khiển, cắt đặt mỗi người vào vị trí riêng, để họ phát huy tốt, hoàn thành ý muốn của Chúa, nhằm đem lại lợi ích cho chính đương sự và mưu cầu hạnh phúc cho cộng đoàn.
Thứ hai: Chọn và được sai đi là huyền nhiệm, là hồng ân, để không ai tự phụ cho rằng mình xứng đáng với ân huệ Chúa ban. Người đời có thể đánh giá người này, người kia không xứng đáng, nhưng Chúa lại tín nhiệm, chỉ đòi nơi họ sự khiêm tốn và tình yêu thương.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc phác họa chân dung Chúa Giê-su, Đấng được Cha tuyển chọn và sai đến, làm Đấng cứu chuộc thế gian. Người đã sống trọn thân phận con người như chúng con, ngoại trừ tội lỗi, đã loan Tin Mừng cho người nghèo khó, sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, niềm hân hoan cho người sầu khổ trong tâm hồn.
Giê-su đã thực hiện ý muốn của Cha bằng con đường thập giá: dang tay chịu chết, hầu phá hủy sự chết, và khơi nguồn sự sống.
Cuộc đời và hoạt động của Người nơi trần gian chỉ vì một mục đích: loan báo Tin Mừng Chúa Cha. Và vì vâng lời, Giê-su cứ đường lối Chúa mà đi, không lả lướt theo quan điểm phe nhóm, ngay cả những thù địch của Ngài cũng phải nhìn nhận: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta” (Mt 22, 16).
Là Thầy dạy chân lý, Giê-su dạy chúng ta phải phân biệt rõ ràng, minh bạch: cái gì của Thiên Chúa và thứ nào là của thế gian: “Của Xê-da, trả về cho Xê-da, của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21).
Đối chiếu cuộc đời với lệnh truyền của Chúa, chúng ta thấy mình không minh bạch: hay lẫn lộn và còn cố ý lẫn lộn.
Thái độ ngạo mạn, khinh thường anh em, gian dối bất công khi thi hành nhiệm vụ Chúa trao là lẫn lộn trầm trọng giữa của Chúa và của cải trần gian.
Sự lẫn lộn biến chúng ta thành kẻ gian phi, trở nên đồ rác rưởi trong mắt người khác. Hậu quả bi thảm là cản ngăn tha nhân vào Nước Trời và gây ác cảm với người chưa tin.
Vậy phải tính sao đây?
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, khuyến khích chúng ta sống công chính theo đấng bậc và ơn Chúa ban.
Trước hết là tình liên đới hiệp thông trong cộng đoàn dân thánh. Hiệp thông trong lời cầu nguyện và trong hy tế tạ ơn.
Kế đến, quan tâm đến nhau, đến nhu cầu khẩn thiết của anh chị em mình. Cảm thông được sự vất vả, thiếu thốn của anh chị em, nhất là những người hiến mình phục vụ Tin Mừng.
Cuối cùng, khuyến khích nhau sống niềm hy vọng, kiên trì trong đức tin, mạnh mẽ trong đức cậy, nhiệt thành trong đức mến, bởi biết rằng, ngày Đức Kitô ngự đến sẽ ban thưởng hạnh phúc Nước Trời cho tất cả những ai sống và phục vụ trong yêu thương, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thật tốt đẹp và hạnh phúc biết bao! Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Chiến dịch diệt chim sẻ (Đả ma tước vận động) là một trong những hành động đầu tiên trong kế TN 29-A143
Chiến dịch diệt chim sẻ (Đả ma tước vận động) là một trong những hành động đầu tiên trong kế hoạch Đại Nhảy Vọt của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1958 đến năm 1962. Bốn loại con vật cần phải bị diệt trừ đó là chuột, ruồi, muỗi và chim sẻ.
Chiến dịch được Mao Trạch Đông, chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung hoa phát động. Chim sẻ bị liệt kê vào trong danh sách vì chúng ăn hạt thóc lúa, gây thiệt hại cho nông nghiệp. Theo quyết định thì tất cả các nông dân tại Trung Quốc nên đập gõ nồi, niêu và rượt đuổi chim sẻ khiến chúng sợ sệt bay đi. Ổ chim sẻ bị phá, trứng bị đập vỡ, các chim con trong tổ bị giết chết. Chim sẻ bị giết được chất thành đống cao như ngọn núi nhỏ trên đồng ruộng.
Mùa vụ năm sau được khá hơn năm trước, vì không còn chim sẻ, nhưng họ đã quên đi một sự thật là chim sẻ ăn châu chấu. Sau đó châu chấu tràn ngập vùng miền quê phá nát mùa màng và kéo theo sau là một nạn đói xảy ra tại Trung Quốc.
Tháng tư năm 1960 Viện Hàn Lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (United States National Academy of Sciences) nêu lên vấn đề là chim sẻ ăn côn trùng nhiều hơn là ăn hạt thóc. Mao Trạch Đông chỉ nói là: "Hãy quên nó đi", và ra lệnh ngưng diệt chim sẻ. Vào lúc đó thì quá trễ vì số lượng châu chấu đã bùng nổ ngoài tầm kiểm soát. Từ năm 1959 đến 1961, có đến 30 triệu người chết đói trong Nạn Đói Lớn ở Trung Quốc.
Cũng đáng ghi nhận là có nhiều nhân tố ngoài nạn châu chấu tràn ngập nông thôn ngoài tầm kiểm soát vào thời đó. Một trong các nhân tố gây ra nạn đói là việc tập thể hóa ruộng đất ở nông thôn.
Ngày 19 tháng 6 năm 1998, một bích chương ở Đại học Nông nghiệp Tây Nam tại Trùng Khánh có dòng chữ như sau: "Hãy diệt bốn loại con vật gây hại." Một chiến dịch tương tự cũng được thấy vào mùa xuân năm 1998 tại Bắc Kinh. Lần này thì không ai đáp lời kêu gọi cho loại chiến dịch kiểu đó. (Wikipedia)
Trong thiên nhiên luôn có các loài thiên địch như chim chóc, sâu bọ, giun dế, vi sinh,… có nhiệm vụ cân bằng sinh thái, để môi trường luôn phát triển bền vững. Tiêu diệt những thiên địch là phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên, thì môi trường sẽ bị hủy diệt, gây nên những hệ quả tàn khốc, như đất đai bị sói mòn, thảm thực vật biến dạng, suy thoái, cạn kiệt, kéo theo lũ lụt và sa mạc hóa. Vậy hãy trả lại thiên nhiên tươi tắn nguyên thủy cho Thiên Chúa. Ngài đã tạo dựng cho con người thụ hưởng những môi trường tự nhiên, hỗ tương, đa dạng, phong phú, những cảnh quan hùng vĩ, ngoạn mục, thân thiện và hữu ích cho cuộc sống lành mạnh.
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay thuật lại âm mưu của nhóm Pharisiêu và nhóm thân Hêrôđê gài bẫy Đức Giêsu. Trả lời nộp thuế cho César, hay không cũng đều bị kết án. Nhưng Người khôn ngoan không những tránh sập bẫy, mà còn răn dạy một bài học chí tình, chí lý: “Của César, trả về César, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
Của César, trả về César
Trong lần thứ ba cám dỗ nơi hoang mạc, quỷ đem Đức Giêsu lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Đức Giêsu liền nói: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 3, 8-10).
Lần này, nhân chuyện đóng thuế cho Roma, Đức Giêsu phán của César thì hãy trả về César. Vậy của César chính là vinh hoa lợi lộc, giàu sang, phú quý, của cải, tiền bạc, chức tước, quyền lực, danh giá, như Satan đã từng cám dỗ Đức Giêsu.
Không phải Đức Giêsu khuyên hoàn toàn từ bỏ tiền bạc của cải vật chất, mà Người muốn tín hữu khôn ngoan dùng làm phương tiện, mua lấy tình người, nhân ái, bác ái và phục vụ, cũng như ký thác vào tài khoản ngân hàng Thiên Quốc, để lấy lợi tức sống đời đời. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9).
“Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó trên đầu; của cải làm bệ chân con, nếu con đứng lên nó.” (Đường Hy Vọng, số 407)
Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa
Khi tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Người đã đặt vào lòng dạ con người lương tâm, trí khôn, và nhất là Tình Yêu, bộc lộ qua tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh đệ, tình bạn, tình đôi lứa và tình người. Vậy phải trả về Thiên Chúa những gì Người đã trao phó, đầu tư cho từng người. Đó là đạo đức, khôn ngoan, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Trả lại Chúa tất cả những gì tốt đẹp mà Chúa đã tín nhiệm gửi gắm, đầu tư cho từng cá nhân phát triển, sinh lợi, gặt hái nhiều hoa thơm trái ngọt.
Từ vốn liếng căn bản đó, Thiên Chúa mong đợi mỗi người phát triển phong phú hơn. Mỗi người được giao một vài nén bạc làm vốn liếng, phải trả về Thiên Chúa cả gốc lẫn lãi, phải sinh lời gấp năm gấp mười, gấp trăm. Chắc chắn Người sẽ vui mừng, hoan hỷ, khen ngợi, ban thưởng cho gấp bội lần: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" (Mt 25, 21)
Trả lại Thiên Chúa công ơn sinh thành, dưỡng dục, nuôi nấng, vì cha mẹ, thầy giáo, chính là những người thay mặt Thiên Chúa nuôi dạy. Trả lại Thiên Chúa những lời giáo huấn của các Chủ Chiên, Linh mục, tu sĩ, giáo dân đã hướng dẫn, chỉ bảo, răn dạy, khuyên nhủ, cũng như ban các Bí Tích, giúp kẻ liệt, từ khi sinh ra đến khi xuôi tay nhắm mắt.
Trả lại Thiên Chúa hồng ân cứu độ do chính Đức Chúa Con đã xuống trần, rao giảng, chịu nạn, chịu chết, và đã sống lại, chỉ vì Ngài muốn giải thoát con người khỏi kiếp đọa đầy. Làm sao có thể trả được cho Thiên Chúa những công ơn vĩ đại vô cùng, vô song, vô tận, nếu không khiêm nhường, cúi đầu, đấm ngực ăn năn thống hối trở về hằng ngày, vì những lỗi lầm, tội lỗi, vô ơn bạc nghĩa, chất chồng liên tục lâu nay. Cùng trở nên nhân chứng của Đức Giêsu cho mọi người.
“Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Vì không phải của con, chính là của Chúa trao cho con sử dụng, của người nghèo.” (Đường Hy Vọng, số 414)
Lạy Chúa Giêsu, xin soi sáng cho chúng con biết đâu là của thế gian, đâu là của Chúa. Tuy tất cả mọi thứ tốt lành đều là của Chúa, từ Chúa ban phát, mà chúng con cứ lầm tưởng là của công sức chúng con thu vén, làm lợi. Kính xin Chúa cho chúng con luôn nhận thức tất cả những gì tốt lành là của Chúa, để chúng con luôn cố gắng sinh lợi gấp chục, gấp trăm dâng lên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết dùng của cải đúng đắn, hữu ích, để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu. Xin giác ngộ chúng con luôn nhớ công ơn cứu chuộc và những hồng ân hằng ngày của Chúa, để chúng con luôn dâng lời tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa. Amen.
-------------------------------
Không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là quyền làm chủ. Đó là quyền cơ bản nhất của TN 29-A144
Không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là quyền làm chủ. Đó là quyền cơ bản nhất của mỗi con người. Về tài chính, người ta còn có “quyền sở hữu chéo” (ngân hàng này sở hữu ngân hàng khác, doanh nghiệp này sở hữu một doanh nghiệp khác,... mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp – khái niệm này xuất hiện từ thập niên 1980).
Thiên Chúa ban cho chúng ta thời gian và quyền tự do, chúng ta được quyền sở hữu đó, nhưng chúng ta không làm chủ mà chỉ quản lý. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Thật vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho” đó thôi. Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người” (Gv 3:12-14). Vấn đề quan trọng là người nào đó có tài năng mà còn “biết kính sợ Chúa” hay không, có biết khiêm nhường hay không. Ảo tưởng là “chết chắc”!
Đức Chúa phán với kẻ Ngài đã xức dầu là vua Kyrô: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (Is 45:1). Ngài giải thoát ai, người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, vậy chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham và được thừa kế (Gl 3:29). Mà những ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài (Ga 8:47). Đó mới là vấn đề!
Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45:4-6). Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác”. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài. Và thật diễm phúc, chúng ta đã nhận ra điều này, để rồi chúng ta đang tôn thờ Ngài và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài. Cũng như dân Ít-ra-en, chúng ta được trở nên dân riêng của Ngài.
Trước đó, Thiên Chúa cũng đã động viên và xác nhận với dân Ít-ra-en: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1). Ngài cũng đang nói với chúng ta như vậy. Dân Ít-ra-en là “vật sở hữu” của Thiên Chúa, chúng ta cũng thế. Ngày nay cũng có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như Dân Riêng vậy, thuộc quyền sở hữu của Ngài. Ai dám liều mạng mà “đụng chạm” đến những gì của Chúa thì “kẹt lắm” đấy!
Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi (x. Gv 3:1-12). Vâng, tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết” (Tv 49:13), chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn (Tv 102:25). Biết mình hữu hạn, biết Chúa vô hạn, để mà hết lòng tôn thờ và tán tụng Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi chúng ta: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1).
Việc chúng ta ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta (Kinh Nguyện Thánh Thể). Ca tụng Chúa không chỉ là trách nhiệm và bổn phận của chúng ta mà còn là niềm hạnh phúc cho chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao” (Tv 96:3-5). Ca tụng Chúa khi chúng ta may mắn, đó là điều dễ dàng, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi cuộc đời chúng ta không “xuôi chèo mát mái”, đó mới là điều khó thực hiện nhưng lại có giá trị cao.
Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi thứ (vật chất và tinh thần) mà chúng ta cứ tưởng là “điều dĩ nhiên”, chúng ta không biết tạ ơn thì thôi, lại còn “so đo” vì cứ thưởng mình không được may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình, không phải Ý Chúa. Quả thật, Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:7-10).
Thiên Chúa sở hữu tất cả, chúng ta chẳng có gì. Vả lại, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Vậy vì cớ gì mà chúng ta lại không tôn vinh và không tạ ơn Thiên Chúa? Có ai đau khổ bằng ông Gióp? Thế mà trong lúc đau khổ đến tột cùng, mất hết mọi vật sở hữu, từ của cải tới con cái, nhưng ông Gióp vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Thiên Chúa đã nói với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1:8). Một tấm gương to lớn và sáng chói để chúng ta soi vào. Cũng chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ. Còn lâu thật là lâu chúng ta mới có thể “xách dép” chạy theo Thánh Gióp. Thật vậy, vác thập giá đâu có sướng, đâu có nhàn, không thể cứ tà tà mà vác!
Bổn phận chúng ta không chỉ phải biết tạ ơn và cầu nguyện cho mình mà còn phải tạ ơn và cầu nguyện cho người khác, đồng thời còn phải biết cảm ơn nhau. Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1 Tx 1:2-3). Tình liên đới Kitô giáo thật tuyệt vời!
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em” (1 Tx 1:4-5). Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Thêxalônica nhưng cũng là nói với chính chúng ta – mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận, mỗi tu viện, mỗi chủng viện,...
Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện. Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người. Luật giúp con người sống tốt hơn và giúp duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, cứng ngắc theo “chữ đỏ”. Tương tự, tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên. Trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia, tức là có thể “làm luật”.
Trình thuật Mt 22:15-21 nói về việc sở hữu. Một hôm, những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê, ông vua nham hiểm và hèn nhát. Quả thật, họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22:16-17). Đó là những người “miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm”. Kinh khủng thật!
Tuy nhiên, vải thưa không thể che mắt thánh! Chúa Giêsu biết tỏng họ có ác ý, nên Ngài nói thẳng: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!”. Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu trách mắng thẳng mặt và nguyền rủa, thế mà họ vẫn cứ trơ trơ. Họ thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp tỉnh queo: “Của Xêda”. Trơ trẽn thật đấy! Bấy giờ, Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22:21). Cái gì của ai thì trả cho người đó. Câu trả lời của Chúa độc đáo quá! Nghe vậy, họ ngạc nhiên lắm, nhưng đành lẳng lặng bỏ đi!
Cái gì của người khác, tức là không thuộc quyền sở hữu của mình, chớ có “mong muốn” hoặc rờ tới. Điều mà Thiên Chúa đã nghiêm cấm trong Thập Giới: “Chớ lấy của người” và “chớ tham của người” (Giới Răn thứ bảy và thứ mười). Thế nhưng có một số người có khái niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh”. Nguy hiểm quá! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng cần phải biết phân biệt rạch ròi: Cái gì thuộc về trần tục, và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn để rồi râu ông nọ lại đem cắm cằm bà kia. Vâng lời quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa, nếu khoản luật đó hợp với công bình và bác ái.
Thánh Phaolô nói về nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm” (Rm 13:3-5). Ở đây là “lương tâm ngay lành”. Cũng nên lưu ý loại “lương tâm chai cứng”, lệch lạc, không đủ mức phân biệt phải hoặc trái. Loại lương tâm này rất nguy hiểm, vì mất cảm thức tội lỗi. Những người thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo) giết người dã man vì họ cho đó là “điều chính nghĩa” (sic!). Thậm chí họ còn hành hạ cả các trẻ em vô tội. Mới đây, có khoảng 70.000 trẻ em bị hành hạ dã man. Niềm tin tôn giáo của họ lệch lạc nên họ bất nhân quá!
Thánh Phaolô đã dặn dò đệ tử Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người” (Tt 3:1-2). Những mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ, dù theo thể phủ định hoặc xác định!
Tất cả là phù vân. Mọi thứ sẽ qua đi. Ngay cả những gì sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta là nhân đức. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là “công trạng”, vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Có Chúa là có tất cả, Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas rất khôn ngoan khi cầu xin: “Con chỉ muốn Chúa thôi!”. Đó là điều duy nhất mà mỗi chúng ta phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi!
Hôm nay là ngày Khánh nhật Truyền giáo, ngày cổ vũ ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến, nói đơn giản là “ơn gọi đi tu”. Ngày Thế giới Truyền Giáo được Đức Piô XI khai sinh từ năm 1926, và theo truyền thống thường rơi vào Chúa Nhật áp chót của tháng 10, năm nay là ngày 19-10-2014. Hôm nay cũng là ngày tuyên Chân phước cho ĐGH Phaolô VI (triều đại giáo hoàng từ 21-6-1963 tới 6-8-1978), người được mệnh danh là “Giáo hoàng Trầm tư”.
Trong sứ điệp Khánh nhật Truyền giáo năm nay, ĐGH Phanxicô chia sẻ: “Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo này, tôi nghĩ đến các Giáo hội địa phương. Đừng bao giờ để mình mất đi niềm vui của việc loan báo Tin mừng! Tôi mời gọi anh chị em hãy chìm mình trong niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng lên niềm ơn gọi và sứ mạng của anh chị em. Tôi thúc bách mỗi người trong anh chị em nhớ lại, như thể anh chị em đang thực hiện một cuộc hành hương nội tâm, ‘mối tình đầu’, mối tình mà Đức Chúa Giêsu Kitô đã sưởi ấm con tim anh chị em, không phải để nhớ nhung, nhưng là để luôn ở lại trong niềm vui. Các môn đệ của Chúa đã luôn ở lại trong niềm vui khi họ ở với Ngài, thực thi ý Ngài và chia sẻ với người khác đức tin, niềm hy vọng và đức ái tin mừng”. Và ngài nhắc nhở thêm: “Hãy hướng về Mẹ Maria, mẫu gương loan báo tin mừng khiêm nhường và với trọn niềm vui, chúng ta hãy dâng lên lời cầu nguyện của chúng ta để Giáo hội có thể trở nên mái nhà cho tất cả mọi người, một người mẹ cho tất cả mọi dân tộc và có thể sinh ra một thế giới mới”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết nhận thức đúng đắn về niềm tin và quyền sở hữu của chúng con. “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa” (Tv 74:16), “trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa” (Tv 89:12), chúng con chẳng có gì, xin triệt tiêu tính kiêu ngạo trong chúng con và đổ vào trái tim chúng con đầy “máu yêu thương” để chúng con NÊN MỘT (Ga 17:20-23) theo Tôn Ý Con yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Trong bài Tin mừng của Chúa nhật XXIX Thường niên hôm nay, chúng ta nghe một đoạn Lời TN 29-A145
Trong bài Tin mừng của Chúa nhật XXIX Thường niên hôm nay, chúng ta nghe một đoạn Lời Chúa mà nhiều người dùng để biện minh cho việc đóng thuế hay tán thành việc tách biệt tương quan giữa Giáo hội và nhà nước. Thay vào đó, thánh Matthêu có lẽ chỉ cố gắng chứng minh khả năng lập luận của Chúa Giêsu cũng như cách làm làm nổi bật những vấn đề quan trọng.
Bài Tin mừng bắt đầu với việc những người Pharisêu âm mưu chống lại Chúa Giêsu. Lúc này nơi Tin mừng Matthêu Chúa Giêsu đã có nhiều cuộc trao đổi và đối chất, trong đó Ngài phê phán những người Pharisêu và các nhà lãnh đạo Do Thái khác. Hôm nay chúng ta nghe một phần đáp trả của những người Pharisêu khi họ cố gắng gài bẫy để Chúa Giêsu nói những gì có thể kết án và gây nguy hiểm cho Ngài.
Những người Pharisêu đã sai các môn đệ của họ cùng với những người thuộc phe Hêrôđê là những người ủng hộ Hêrôđê Antipa đến chất vấn Chúa Giêsu. Họ không ngớt khen ngợi sự chân thành, khả năng giảng dạy và sự vô tư không vị nể của Chúa Giêsu. Sau đó, họ đặt câu hỏi là việc nộp thuế cho hoàng đế có hợp pháp hay không. Chúa Giêsu ngay lập tức chỉ ra ý định thâm độc của họ: “Bọn người giả hình, các người gài bẫy Ta làm gì?”
Lý do tại sao đây là một câu hỏi mang tính thách đố đó là câu trả lời của Chúa Giêsu có thể khiến cho những nhóm khác nhau trong dân Do Thái thất vọng và có thể dùng để chống lại Ngài. Nếu Chúa Giêsu nói dân không nên nộp thuế, thì sẽ làm phe theo Hêrôđê tức giận vì quyền lực của Hêrôđê phụ thuộc vào mối quan hệ của ông với hoàng đế Rôma. Nếu Ngài nói rằng dân nên đóng thuế thì những người theo nhóm nhiệt thành vốn chống đối sự chiếm đóng của người Rôma sẽ tức giận về điều này.
Chúa Giêsu cẩn thận tránh cái bẫy họ đặt ra bằng cách hỏi họ về hình ảnh và danh hiệu trên đồng tiền dùng đóng thuế. Họ trả lời rằng đó là hình và danh hiệu của hoàng đế. Đồng tiền mà họ đưa ra có thể mang hình Cêsarê Tiberius, là hoàng đế cai trị khi Chúa Giêsu đã trưởng thành. Sau đó, Chúa Giêsu tuyên bố: “cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
Phần đầu của câu trả lời này thật khôn ngoan. Chúa Giêsu khẳng định rằng tiền do hoàng đế ban hành, vì vậy việc đóng một phần như tiền thuế chỉ là trả lại tiền cho chủ nhân của nó. Câu trả lời có suy nghĩ và an toàn của Chúa Giêsu có thể sẽ không làm tức giận những người ủng hộ hoặc chống đối việc đóng thuế. Nhưng Chúa Giêsu cũng thêm phần sau của câu trả lời có tính thách thức hơn: tầm quan trọng của việc dâng cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Chúa Giêsu không nói rõ đó là những gì; nhưng vì sự sống bắt nguồn Thiên Chúa, và con người được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài, Chúa Giêsu có thể nhắc nhớ những người nghe về lời mời gọi hiến dâng việc làm và cuộc sống của họ cho Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc với lời tuyên bố của Chúa Giêsu, nhưng câu tiếp theo cho thấy Chúa Giêsu đã đảo ngược thử thách này một cách hiệu quả : “Khi nghe điều này, họ vô cùng kinh ngạc và bỏ Người đi” (Mt 22,22). Phản ứng sửng sốt của họ cho thấy những người Pharisêu và người thuộc phe Hêrôđê nhận ra ngụ ý trong câu nói đầy thách thức của Chúa Giêsu. Tương tự, cú sốc của họ chứng tỏ khả năng của Chúa Giêsu gợi lên cho người ta biết tập trung vào những vấn đề quan trọng hơn là tìm cách biện minh cho bản thân.
Có lẽ thánh Matthêu không muốn đòi hỏi sự tách rời Hội thánh và nhà nước. Đây không phải là khái niệm quen thuộc trong bối cảnh của thánh Matthêu, và tốt nhất là không nên đưa ý tưởng này trở lại Palestin thời thế kỷ thứ nhất. Thay vào đó, thánh Matthêu mô tả Chúa Giêsu là người thông minh và biết kích thích tư duy, cho thấy khả năng của Ngài biết nhận ra và tránh rơi vào cạm bẫy, đồng thời chuyển trọng tâm sang vấn đề cách thức con người sống và đối xử với nhau.
Nguồn tin:
https://www.americamagazine.org/faith/2020/09/18/jesus-brings-whats-important-focus
-------------------------------
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXIX Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn TN 29-A146
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXIX Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Chúa các chúa, Vua muôn vua, vì thế, Chúa là Đấng rất đáng chúng ta tôn thờ và phụng sự. Chúng ta tôn thờ Chúa như thần dân đối với Vua trong Vương Quốc của Người, và chúng ta phụng sự Chúa như con thơ đối với Cha hiền trong Nhà của Người. Do đó, chúng ta không chỉ xin ơn trung tín: để tuân giữ những gì Chúa truyền dạy, mà còn phải xin cho mình có lòng quảng đại: để làm hơn cả những gì luật dạy, mà đáp lại tình phụ tử bao la cao cả của Người.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ hôm nay, Chúa phán với ngôn sứ Isaia rằng: Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Thiên Chúa cao cả quyền năng, muốn làm gì là Chúa làm nên: Đức Chúa đã cầm lấy tay phải vua Kyrô để bắt các dân tộc suy phục ông, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách hôm nay, Thiên Chúa đã can thiệp để cứu thoát Dân của Người, khi cất nhấc cô Étte lên ngôi hoàng hậu thay cho bà Vátti, đúng như lời Thánh Vịnh 112 nói: Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất? Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý.
Bởi vì Thiên Chúa là Đấng rất đáng chúng ta tôn thờ và phụng sự, nên trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 95, vịnh gia đã kêu gọi chúng ta: Hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Tuy Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng, Người không phải là một ông chủ hà khắc, trái lại, Người luôn tỏ lòng yêu thương đối với con cái mình, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh đã cho thấy: Chúng ta cầu nguyện với Đấng đã biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta xin. Thiên Chúa chúng ta không cần chúng ta tỏ ý muốn của chúng ta cho Người biết, vì Người không thể không biết, nhưng, Người muốn dùng việc cầu nguyện để kích thích lòng khao khát của chúng ta, hầu chúng ta có thể lãnh nhận ơn Người sẵn sàng ban cho, như ngôn sứ Giêrêmia đã nói: Các ngươi hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho gặp; đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhậm lời các ngươi. Chính Ta biết kế hoạch Ta sẽ làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.
Tâm tình chính đáng và phải đạo mà chúng ta dành cho Thiên Chúa, chính là: lòng tin, lòng mến, và lòng trông cậy chúng ta đặt nơi Người. Khi chúng ta dám can đảm sống như các tín hữu Thêxalônica trong bài đọc hai của Thánh Lễ hôm nay: làm việc vì lòng tin, khó nhọc vì lòng mến, và kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa, sống như thế, chúng ta sẽ cho mọi người thấy: chúng ta sống trong thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian: Giữa thế gian, chúng ta chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm sáng tỏ lời ban sự sống như câu Tung Hô Tin Mừng của ngày lễ hôm nay mời gọi.
Chúng ta sống tương quan với Đấng Sáng Tạo và với các thụ tạo của Người ở hai chiều kích: công bình và bác ái. Hội Thánh dạy chúng ta có hai cách ăn năn tội: cách chẳng trọn và cách trọn; “cách chẳng trọn” là không phạm tội vì sợ hình phạt hỏa ngục, còn “cách trọn” là vì lòng yêu mến Chúa.
“Của Xêda, trả về Xêda”, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin ơn trung tín để chúng ta trung thành tuân giữ nghĩa vụ của một công dân trong Nước Chúa: thờ phượng Chúa và sống công bình với tha nhân. “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin ơn quảng đại để chúng ta sẵn sàng dấn thân làm hơn cả những gì luật buộc, hầu đáp đền tình yêu vô bờ mà Chúa dành cho chúng ta, bởi vì, Người là Cha nhân hậu, hằng luôn yêu thương chăm sóc chúng ta; và chúng ta phải yêu thương tha nhân, bởi vì, chúng ta đều là anh chị em của nhau, con cùng một Cha trên trời.
“Của Xêda”, đồng tiền có in hình ảnh của Xêda, tức những gì thuộc về thụ tạo của Thiên Chúa, “Của Thiên Chúa”, nén vàng có in hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Người. Tất cả là của Thiên Chúa, Người đã ban cho chúng ta cách nhưng không. Do đó, những gì chúng ta nhận được từ Thiên Chúa, hay từ các thụ tạo của Người là tha nhân và thiên nhiên vạn vật xung quanh chúng ta, thì theo lẽ công bình và những đòi hỏi của tình yêu, chúng ta cũng phải có những tâm tình, thái độ hồi đáp tương xứng và còn hơn thế nữa, để giữa một thế giới tăm tối bị bao bọc bởi những bất công, hận thù, chia rẽ, chúng ta chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm sáng tỏ lời ban sự sống như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.
-------------------------------
Lm. Jos. DĐH.
Tất cả những ai tham gia trên các phương tiện giao thông, đều thuộc câu thành ngữ: an toàn là TN 29-A147
Tất cả những ai tham gia trên các phương tiện giao thông, đều thuộc câu thành ngữ: an toàn là bạn, tuy nhiên, đường bộ, đường thuỷ, hay đường hàng không, vẫn chỉ mang tính an toàn tương đối. Hầu hết những học sinh sinh viên đều có sẵn một khái niệm, học, hiểu, không phải mang lại hạnh phúc cho mình, nhưng còn làm rạng danh gia đình, dòng tộc, đất nước, khi mỗi người trân trọng ân tình ân nghĩa mà thực hành nơi cuộc sống. Truyền thống tốt đẹp được “cài đặt” nơi mỗi người: sợ dài dòng lý thuyết, thực tế hơn, hiểu, hiết, … chưa đủ, mà ta phải áp dụng vào các tương quan xã hội ; sẵn sàng, … chưa đủ, nói chung, mọi người họ còn ngóng trông ta hành động.
Truyền giáo, không cũ, không xưa, lời quả quyết “thiêng liêng” đó, gắn liền với người kitô hữu, ít là từ khi ta ý thức trí khôn là gì, và ta đang sống những điều kiện có sẵn của mình thế nào ? Từ kinh nghiệm bản thân, cùng với bài học quý báu từ sách vở, người khôn ngoan sẽ cảm nhận: khi nằm xuống, những gì ta xài, … đã mất, những gì ta tích cóp, không sử dụng, người khác xài, có phải ta chỉ đem theo được … những gì đã cho, đã cống hiến ? Tự do suy nghĩ, tự do làm điều ưa thích, nhưng không ai chấp nhận bạn tự coi mình là “cái rốn” của vũ trụ này. Lệnh truyền rõ ràng, sứ mạng cụ thể: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân làm phép rửa cho họ: nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, …”.
Tin Thầy Giêsu quyền năng, ý thức đem tin vui, tin mừng Đức Giêsu Kitô, cho anh chị em, làm phép rửa cho muôn dân, nhất định phải là sứ mạng, là trách nhiệm của Hội Thánh, không phải là của riêng các vị có chuyên môn, bậc giáo sĩ, người tài giỏi, lắm của nhiều tiền. Người trẻ hôm nay rất mạnh mẽ khi nói: tiền bạc phân minh, ái tình sòng phẳng ; con thầy, vợ bạn, gái cơ quan, chớ dây vào sẽ tan hoang ! Kitô giáo, vẫn luôn khơi dậy sự tự do nơi người tín hữu, bạn có nghe, có hiểu, có tin: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ? mỗi người phải trả lời, tôi đang sống hay chết ? Đấng là Thầy, là Chúa, sẽ kiên nhẫn đợi chờ các học trò của Ngài rõ ràng hơn về nghĩa, về tình, về khả năng hiểu biết, hầu chứng minh tôi thật sự đang sống.
Bạn đang âm thầm sống gương sáng đức tin cho gia đình giáo xứ, cho hàng xóm láng giềng, đang mạnh mẽ hô to, gào lớn, phải chung tay góp sức làm việc truyền giáo ? Bạn yêu giáo hội, thương kẻ túng thiếu nghèo hèn, hoặc trái tim đang rạo rực từ việc nhỏ bé nhất, hoặc nhiệt huyết tông đồ của bạn như đèn sắp hết dầu, Đấng là Thầy là Thiên Chúa cứu độ, Ngài biết bạn là đủ. Nếu được tham gia một gợi ý, bạn có dám trấn an người anh chị em mình: đừng quan tâm người khác nói gì, đang nghĩ bạn còn sống hay chết, bởi Thầy Giêsu biết bạn là ai, bạn đáng yêu, bạn là đối tượng lòng thương xót Chúa, hãy tự tin, hãy sống cậy trông. Cuộc đời vẫn mặc nhiên cho rằng: người nông cạn tin vào may mắn, người sâu sắc tin vào nhân quả, ở trong Đức Kitô, bạn sẽ hiểu: sống trung thực từ việc bé nhỏ hàng ngày, sức mạnh và tình yêu thật đáng quý là ở đó.
Bạn đang sống, đang làm công việc bổn phận với một ý thức trách nhiệm, có phải như thế là bạn đang hiệp thông truyền giáo không ? Trước hết, xã hội sẽ chứng minh cho bạn thấy tính hợp lý: nét quyến rũ của một người, không phải ở gương mặt, hay dáng vẻ bên ngoài, mà là trái tim và cách cư xử, cách sống yêu thương của bạn. Rồi trên hết, Đấng Kitô sẽ khơi gợi lên trong bạn sức mạnh và tình yêu đến từ đâu, hạnh phúc thật, niềm vui thật, khi lòng trí ta xác tín: “Thầy sẽ ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế”. Vâng, bạn là ai, bạn đang tỉnh hay say, đang sống hay chết, đang cùng giáo hội làm việc truyền giáo ? Thầy Giêsu không quan tâm ta là linh mục tu sĩ, trẻ thơ hay cụ già, Ngài muốn mong ta thấy cuộc sống này mang một thông điệp: quay về hướng mặt trời, bạn sẽ không thấy bóng tối.
Người cha trắc nghiệm 3 đứa con, nhằm giáo dục chúng như sau: chúng con có biết tại sao Chúa Giêsu không ở mãi trần gian này truyền giáo, mạc khải về tình yêu cứu độ cho nhân loại, mà Chúa lại uỷ thác cho 12 học trò đầy giới hạn ? Trả lời hay có thưởng. Đứa lớn thưa cha, theo con Chúa muốn nhắc các môn đệ, các con đã học thì phải hành. Xin vỗ tay. Em út xin thưa: mắt thường không ai thấy sự hiện của Chúa, nhưng mắt đức tin, Chúa vẫn ở trần gian như đã nói: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Vỗ tay). Đứa con thứ trả lời, thưa cha, nếu Chúa không cần các học trò, không cần mỗi người tín hữu truyền giáo, hẳn Chúa không đến trần gian làm gì ! Ba câu trả lời của chúng con thật là chí lý, cha hy vọng chúng con đã hiểu và sẽ sống tốt bổn phận và trách nhiệm của mình với gia đình, với giáo hội. Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.
-------------------------------
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Có người bạn già nói với tôi: nghe nói muốn truyền giáo phải thành lập Giáo hội cơ bản. Giáo hội TN 29-A148
Có người bạn già nói với tôi: nghe nói muốn truyền giáo phải thành lập Giáo hội cơ bản.
Giáo hội cơ bản là gì? – Tôi hỏi
Là giáo hộ sơ khai họ quy tụ nhau để hằng tuần nghe Lời Chúa và chia sẻ bữa ăn huynh đệ với nhau. – người bạn trả lời.
Oh, tưởng gì chứ giáo hội cơ bản ấy Giáo phận đã làm từ khi thành lập rồi. Lúc dầu di cư năm 1954 vào đây các cha cũng phải quy tụ họ lại rồi lo cho họ ăn, rồi tổ chức thành cộng đoàn giáo xứ với vài chục hộ cho tới nay có nhiều giáo xứ đã đông đúc trên 20 – 30 ngàn giáo dân rồi – tôi nói
Truyền giáo theo đúng tinh thần của Chúa Giê-su là quy tụ và sai đi. Chúa Giê-su đã đến trần gian và quy tụ các tông đồ thành một cộng đoàn huynh đệ. Sau khi ban Chúa Thánh Thần cho các ông, Chúa Giê-su đã sai các ngài ra đi loan báo Tin mừng. Trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 28 các câu 16 và 18 tới 20 viết rằng: “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến… Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,16.18-20).
Do đó, truyền giáo là quy tụ và sai đi như một tiếp nối giữa thế hệ này với thế hệ khác để tin mừng được lan tỏa khắp mọi nơi. Riêng Giáo phận Xuân Lộc không có những vùng ngoại biên để sai đi, nhưng vẫn có hơn 60 phần trăm anh chị em lương dân sống chung trong các xứ đạo. (người Công giáo chiếm 35 % tổng số dân trong tỉnh Đồng Nai). Việc truyền giáo đòi hỏi cấp bách của Gíao phận lúc này là đời sống chứng nhân của cộng đoàn. Một cộng đoàn xứ đạo hiệp nhất yêu thương sẽ là lời chứng hùng hồn cho Tin mừng.
Nhiều người tới giờ vẫn còn ao ước thành lập những Giáo hội cơ bản như thời giáo hội sơ khai. Đây là cái nhìn non kém của người truyền giáo. Cộng đoàn giáo hội sơ khai là cộng đoàn quy tụ và sống bác ái. Thế nên, Giáo phận Xuân Lộc đã quy tụ thành rất nhiều hội đoàn, và tổ chức thành 5 giới bàn bạc trong các cộng đoàn giáo xứ. Điều quan trọng của các nhà truyền giáo là tổ chức để các cộng đoàn đã quy tụ này từ giáo xứ, các giới đến các đoàn thể biết sống yêu thương và lan tỏa tình yêu thương ấy để muôn dân thấy ky tô giáo là đạo của yêu thương.
Cộng đoàn giáo hội sơ khai cũng chỉ là quy tụ với nhau trong hội trường để nghe lời Chúa và chia sẻ của ăn với nhau để không ai đói khổ trong cộng đoàn. Và như thế, chúng ta đã qua được thời kỳ quy tụ thành cộng đoàn, và chúng ta còn quy tụ thành nhiều cộng đoàn lớn nhỏ với nhiều đặc sủng khác nhau. Điều này cũng mang lại nhiều thành quả cho việc loan báo Tin mừng trong môi trường sống của các xứ đạo. Rất nhiều anh em lương dân được sống đùm bọc trong một xứ đạo hay một đoàn thể đầy yêu thương đã khiến họ cảm động và tin theo Chúa. Rất nhiều xứ đạo khi dựng lều cư ngụ trên mảnh đất Xuân Lộc này vào năm 1954 chỉ vài chục hộ gia đình Công Giáo mà nay hầu như chỉ tăng chứ không có chỗ nào giảm, có xứ đạo tăng đến vài chục ngàn tín hữu.
Và như thế, việc truyền giáo của chúng ta đã và đang thành công và làm cho vùng đất Đồng Nai trở thành một vùng đất người Công Giáo chiếm tỉ lệ cao nhất trong cả nước. Đây là thành quả truyền giáo đáng tự hào của Giáo phận. Chính trong thập niên 1980 đầy khó khăn của thế sự, nhưng với ơn Chúa soi dẫn Giáo phận Xuân Lộc đã nhanh chóng quy tụ thành các giới để sống tin mừng yêu thương. Và nhờ sự quy tụ này mà các thành phần trong giáo hội được củng cố đức tin và trở thành nam châm lôi kéo nhiều người trở thành ky-tô hữu. Chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho cánh đồng truyền giáo Giáo phận Xuân Lộc luôn được bội thu vì con số tín hữu mỗi ngày một gia tăng. Chúng ta không cần băn khoăn thành lập những cộng đoàn giáo hội sơ khai mà hãy duy trì những cộng đoàn đầy yêu thương sẵn có để mang lửa yêu thương thắp sáng cho trần gian. Hãy cùng nhau làm cho cộng đoàn xứ đạo, cộng đoàn các giới, các đoàn thể luôn là dấu chỉ tình yêu thương và hiệp nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất chính là hiệu kỳ quy tụ muôn dân nên một trong tình yêu Chúa.
Thế nên, điều cần nơi Giáo phận Xuân lộc chính là duy trì và làm thăng tiếng những cộng đoàn các giới, các đoàn thể sẵn có để chính nơi đây họ làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa bằng đời sống hiệp nhất yêu thương, và qua họ muôn dân sẽ thấy và ngợi khen Thiên Chúa. Amen.
-------------------------------
Jorathe Nắng Tím
Căng thẳng giữa Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Pharisêu ngày càng trầm trọng và hầu TN 29-A149
Căng thẳng giữa Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Pharisêu ngày càng trầm trọng và hầu như hết thuốc chữa. Nhóm này thường xuyên cùng giáo quyền Do Thái tấn công Đức Giêsu. Nhưng hôm nay, những người Pharisêu giả hình và độc ác ấy quyết định “tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mt 22,15), khi họ “cùng đi với những người phe Hêrôđê” là vua Do Thái đang trị vì, để cùng với người của Nhà Nước, dựa vào thế lực của chính quyền quyết tâm gài cho bằng được Đức Giêsu sập bẫy chính trị, hầu có cớ cáo gian, truy tố, lên án, triệt hạ Ngài như tội phạm chính trị : xúi dân nổi loạn, làm mất trật tự chung.
Ý đồ gài Đức Giêsu vào tội chính trị : kêu gọi dân chống chính quyền bảo hộ Rôma thật qúa rõ. Cũng như bao nhiêu vụ việc lừa đối phương vào vòng lao lý trong trò chơi tranh giành quyền lực, ảnh hưởng chính trị, các người Pharisêu đã xử dùng cùng một thủ đọan “xông hương, bốc thơm đối thủ” để đưa Đức Giêsu vào chỗ chết khi nói với Ngài : “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dậy đường lối của Thuên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta” (Mt 22,16).
Có lẽ không lời nào ngọt ngào, hợp lý, xứng đáng hơn cho vị đại Ngôn Sứ là Đức Giêsu ; không ngôn từ nào trân trọng, cung kính hơn trước “Người được Thiên Chúa sai đến” ; không hái độ nào khiêm hạ, vâng phục, ngoan ngùy hơn đối với “Đấng giảng dậy có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7,29) mà nhóm Pharisêu và những người đi theo họ dành cho Đức Giêsu. Nhưng mưu hèn, kế bẩn của họ đã bị Đức Giêsu lật tẩy bẽ bàng : “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!” (Mt 22,18).
Họ thử Đức Giêsu để có bằng chứng tố cáo Ngài với chính quyền đế quốc Rôma đang cai trị họ, vì họ biết Ngài khó thoát khỏi cạm bẫy cực kỳ tinh vi họ sắp giăng ra. Tuy cung giọng đầy khiêm tốn của môn đệ đến thỉnh ý Thầy, nhưng thực ra họ đã nắm chắc phần thắng, vì nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ rơi vào một trong hai câu trả lời đều nguy hiểm trước câu hỏi “bẫy” của họ : “Xin Thầy cho biết ý kiến : có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22,17).
Là con dân một đất nước bị ngoại bang thống trị, người Do Thái phải nộp thuế cho đế quốc Rôma mà Xêda là đại đế, nên nếu trả lời “phải nộp thuế cho Xêda”, Đức Giêsu sẽ bị chụp mũ là tay sai đế quốc, phản nước hại dân, bưng bô cho ngoại bang, và tất nhiên Ngài sẽ bị dân chúng kịch liệt khinh bỉ, lên án, tẩy chay, trong khi Ngài xưng mình là “Đấng Thiên Chúa sai đến cho nhà Ítraen” (x. Mt 15,24). Nhưng nếu trả lời “không nộp thuế cho Xêda”, Đức Giêsu sẽ bị ghép tội xúi dân chống lại nghiã vụ nộp thuế cho chính quyền đế quốc đang thống trị, và với tội danh này, chắc chắn Ngài sẽ bị truy tố và lãnh án nặng nề từ phiá chính quyền Rôma.
Ngày nay trong xã hội chúng ta đang sống cũng có rất nhiều người lợi dụng hoàn cảnh chính trị phức tạp, tế nhị như tiền đề cho những mưu hèn kế bẩn để hại người, chẳng khác gì đám Pharisêu đã gài Đức Giêsu vào một thế cờ khó gỡ, một cạm bẫy khó thoát thân năm xưa.
Thực vậy, khi trả lời “Của Xêda, trả về Xêda ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, Đức Giêsu không chỉ làm ngỡ ngàng đám Pharisêu và những người đi theo họ với âm mưu hãm hại Ngài, khi “vô hiệu hoá đòn phép nham hiểm, ác độc » của họ, mà còn nhắc họ nhớ đến một nghiã vụ thiêng liêng rất quan trọng, đó là trung thành với một Thiên Chúa duy nhất theo Giao Ước của Thiên Chúa với các tổ phụ của họ, mà ngôn sứ Isaia không ngừng kêu gọi, cảnh báo : “Ta là Đức Chúa, không con chúa nào khác ; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (Is 45,5).
Sở dĩ Đức Giêsu nhấn mạnh : “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, vì lúc bấy giờ, các đại đế của đế quốc Rôma bắt đầu coi mình là thần thánh, và bắt buộc dân chúng thực hành các nghi thức thờ lậy đại đế như một thiên chúa. Đó là lý do những Kitô hữu ở thế kỷ thứ nhất đã bị bắt bớ, hành hình vì từ chối thực hành nghi thức tế tự các đại đế, do trung thành với niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Đây cũng là một vấn đề khá phức tạp trong các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, khi các tín hữu bị giằng co giữa đòi hỏi phải tôn trọng quyền bính chính trị và bổn phận tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Tuy thế, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thêxalônica được coi là tài liệu Kitô giáo cổ xưa nhất, thánh Phaolô đã chỉ nói đến đức tin, đức ái, đức trông cậy của các tín hữu, mà không đề cập đến áp lực căng thẳng giữa chính trị và đức tin, khi ngài viết : “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1 Tx 1,3).
Xin Chúa cho chúng ta ơn khôn ngoan trong mọi thời thế, hoàn cảnh, ở đó các thế lực chính trị thường tạo nên những căng thẳng làm chúng ta mất đi niềm xác tín : hạnh phúc đích thực là được tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, Đấng mà các dân nước phải bái thờ, run sợ, bởi “Chúa thiết lập địa cầu… Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng…, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 95,10.13).
-------------------------------
Bông hồng nhỏ
Của Xêda trả về Xêda; của Thiên.... Lắng nghe lời Chúa Giêsu, ta tự hỏi lòng mình: trong cuộc TN 29-A150
“Của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22, 21b). Lắng nghe lời Chúa Giêsu, ta tự hỏi lòng mình: trong cuộc đời của ta, điều gì thuộc về “Xêda” và điều gì thuộc về Thiên Chúa? Đã rất lâu rồi, ta đã bước đi trong sự nhập nhằng giữa hai con đường khác biệt: con đường của những điều thuộc về Thiên Chúa và con đường của những điều thuộc về thế gian. Những bước đi thiếu dứt khoát ấy đã tác động mạnh mẽ trên cuộc đời ta.
Nhìn lại những bước chân ấy, ta đã thấy rõ hình bóng Thiên Chúa, bàn tay Người đã đặt trên ta. Người đã đặt để ta đến trong cuộc đời này. Vì thế, ta thuộc một gia đình, thuộc về một dân tộc, thuộc một quốc gia. Ta đã sinh ra và lớn lên trong thế gian, đón nhận cả những góc sáng- tối của cuộc đời này, nó phủ trên cuộc đời ta những mảng màu sáng tối. Có khi, những góc tối trong cuộc đời này đã giúp ta khao khát ánh sáng. Ta khao khát được ở trong ánh sáng của Thiên Chúa. Rồi cũng có những khi ánh sáng của Chúa chiếu vào lòng ta, cho ta thấy những chỗ chưa hay, chưa đẹp, ta nhột nhạt và đau đớn nữa. Ánh sáng của Lời đã chiếu sâu vào trong tâm hồn ta, cắt tỉa ta, uốn nắn ta. Những con người mà Thiên Chúa đã dẫn đến với ta, để họ cùng bước đi với ta trên một chặng đường nào đó, và cả những biến cố buồn vui trong cuộc đời, những đau khổ…, tất cả đều có giá trị khi ta đặt chúng dưới cái nhìn đức tin: Thiên Chúa muốn ta được lớn lên.
Thế gian đã cưu mang ta và vì thế, theo một cách thức nào đó, ta thấy mình thuộc về thế gian. Thuộc về thế gian phải chăng là một điều không tốt? Khi ta biết mình thuộc về Thiên Chúa, ta không chối bỏ những gì mà thế gian này mang lại cho ta: những kiến thức học được từ học đường, từ công ty, từ việc giao tiếp với mọi người… Nhìn xa hơn, rộng hơn, cao hơn và sâu hơn nữa, ta chợt nhận ra một điều: tất cả những gì ta nhận lãnh từ thế gian này chính là những điều Thiên Chúa đã dành sẵn cho ta. Người muốn ta được lớn lên, được thuộc về một gia đình, thuộc về một dân tộc, thuộc về một quốc gia. Khi ta lớn lên, đồng nghĩa với việc ta đón nhận trên đôi vai mình trách nhiệm xây dựng gia đình, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Hơn hết, Thiên Chúa muốn ta trở thành một chứng nhân Tin Mừng. Là một ngôn sứ của Thiên Chúa, ta phải luôn luôn có được cảm thức thuộc về Thiên Chúa.
Khi ta biết mình thuộc về Thiên Chúa, ta cảm nhận rõ ràng một lời mời gọi tha thiết và đầy dứt khoát của Thầy Giêsu: hãy ra đi loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (x.Mc 16, 15). Nếu chỉ mải mê thu góp những gì ở đời này, ta sẽ chỉ nhận lại được những gì chóng qua và mau tàn. Tiền tài, danh vọng, tiếng tăm, tất cả sẽ biến tan như làn khói một khi ta nằm buông tay xuống. Thế nhưng, khi ta hết lòng theo đuổi những giá trị của tin Mừng là lòng bác ái, vị tha, yêu thương như Chúa Giêsu mời gọi, điều ta nhận lại chính là tình yêu Thiên Chúa tràn ngập trong tâm hồn, niềm bình an sâu thẳm của Thiên Chúa sẽ kéo ta bước qua khỏi những gian nan, khốn khó và hiểm nguy, tình yêu Thiên Chúa sẽ giữa chặt ta khỏi bàn tay hiểm độc của kẻ thù là Satan. Cuộc đời ta là của Thiên Chúa, ta được Thiên Chúa sinh ra, được Con của Người cứu chuộc bằng giá máu châu báu, được lửa tình yêu của Thánh Thần thiêu đốt. Hãy biết trả lại cho thế gian những gì thuộc về nó và hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Những gì cuộc đời này mang đến cho ta, ta hãy dừng lại, nhận định để chọn lựa đón nhận hay từ chối chúng, hãy hỏi lòng mình: Đó có phải là điều đẹp lòng Chúa không? Thiên Chúa muốn tôi làm gì? Trong thinh lặng của tâm hồn, ta hãy nghe Lời Thiên Chúa nói.
Lạy Chúa Giêsu rất yêu mến! Con thuộc về Người. Xin Chúa nhận lấy tâm tình con dâng Chúa mỗi ngày:
“Và từ đó con xin đi theo Ngài
Dù trần ai qua bao nhiêu nghi ngại
Vẫn vẹn câu thề dâng hiến…
Nguyện đời con luôn hăng say trung thành
Làm muối ướp cho nhân gian an lành
Vững lòng theo Ngài
Suốt đời con này, Ngài ơi”
(Bài hát “Dâng hiến đời con” Sáng tác: Dương Đình Nhu).
Con tạ ơn Chúa! Amen.
------------------------------