Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 30 TN-A Bài 51-100: Điều răn trọng nhất
------------------------------------------
Tin mừng: Mt 22,34-40
34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. - 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: “ Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”
------------------------------------------
Mục Lục:
TN30-A51. Mến Chúa yêu người 2
TN30-A52. Yêu thương. 4
TN30-A53. Yêu thương. 6
TN30-A54. YÊU.. 8
TN30-A55. ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT - Lm. PX Vũ Phan Long, ofm.. 9
TN30-A56. MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI 13
TN30-A57. GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT - Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 15
TN30-A58. Giới Răn Cao Trọng Nhất 20
TN30-A59. YÊU THƯƠNG LÀ TRUYỀN GIÁO.. 24
TN30-A60. TÌNH YÊU LÀ LẼ SỐNG. . . ? - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 25
TN30-A61. ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT.. 27
TN30-A62. GIỚI LUẬT THỨ NHẤT VÀ TRÊN HẾT.. 31
TN30-A63. ĐỜI CHỈ ĐẸP - Lm. Đỗ Vân Lực, OP. 32
TN30-A64. TÌNH YÊU NHƯ TRÁI PHÁ - Lm. Đỗ Vân Lực, OP. 35
TN30-A65. ĐIỀU RĂN NÀO TRỌNG NHẤT ?. 38
TN30-A66. MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI - Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP. 41
TN30-A67. THỜI XƯA ĐÃ CÓ NHÂN ĐẠO.. 43
TN30-A68. GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG.. 51
TN30-A69. YÊU CHÚA YÊU NGƯỜI. Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 53
TN30-A70. Anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa. 57
TN30-A71. LÀM SAO ĐỂ YÊU THƯƠNG THA NHÂN NHƯ CHÍNH MÌNH?. 63
TN30-A72. BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 30 TN A.. 65
TN30-A73. Mến Chúa yêu người 69
TN30-A74. Hai Giới Răn Quan Trọng. 70
TN30-A75. Lòng mến, luật trên mọi luật. 73
TN30-A76. Mến Chúa và yêu người. 77
TN30-A77. Trò chơi hòa bình. 78
TN30-A78. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI 81
TN30-A79. Sự liên kết giữa hai điều răn trọng nhất 83
TN30-A80. Mến Chúa yêu người chỉ còn là một điều luật duy nhất 85
TN30-A81. CHÚA NHẬT 30 QUANH NĂM... 89
TN30-A82. CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – 2002. 92
TN30-A83. CHÚA NHẬT 30 QUANH NĂM... 93
TN30-A84. GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG.. 95
TN30-A85. ĐIỀU RĂN NÀO LỚN NHẤT ?. 97
TN30-A86. Chúa là Thiên Chúa…... 102
TN30-A87. MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI 105
TN30-A88. CHỈ CÓ MỘT GIỚI RĂN.. 107
TN30-A89. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu. 109
TN30-A90. Lý do của tình yêu. 110
TN30-A91: Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long. 111
TN30-A92: TÌNH CHÚA TÌNH NGƯỜI 116
TN30-A93: LUẬT THIỆN HẢO.. 119
TN30-A94: PHẢI YÊU MẾN THIÊN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ.. 123
TN30-A95: Mến Chúa yêu người 126
TN30-A96: Giới răn tối thượng. 127
TN30-A97: Điều răn quan trọng nhất 129
TN30-A98: Tình yêu là tất cả. 131
TN30-A99: Yêu. 133
TN30-A100: Con người hay Robot?. 135
------------------------------------------
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là: TN30-A51
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố, nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né… Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà. Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra. Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế, chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, …..
----------------------------------
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà: TN30-A52
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng,:Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là:”Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
----------------------------------
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục: TN30-A53
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một người mẹ và một người cha thực sự yêu thương nhau, do đó em biết được tình yêu là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ một cách an toàn, do đó em biết được sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và những lời cầu nguyện của em đã được lắng nghe, do đó em biết được đức tin là gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm vui là gì. Em yêu anh”.
Tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một niềm vui không giống như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường cũng có những giây phút cảm thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và quên mình vì Thiên Chúa và tha nhân.
Niềm vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã được thăng hoa và phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”. Đó chính là tìm an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.
Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.
Tôi rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được chia sẻ với hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.
Thời Giáo Hội sơ khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là dường nào!” Theo một truyền thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho cộng đoàn và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”.
Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau, đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những người Kitô hữu bằng tình yêu thương của chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm toàn thân con để con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con, để những người con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện diện trong con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta).
----------------------------------
Minh Sư rất thích thú với những phát minh mới mẻ. Khi nhìn thấy một chiếc máy tính nhỏ nằm: TN30-A54
Minh Sư rất thích thú với những phát minh mới mẻ. Khi nhìn thấy một chiếc máy tính nhỏ nằm gọn trong túi áo, ngài rất đỗi ngạc nhiên.
Về sau ngài nói như mỉa mai: "Nhiều người xem ra rất thích thú khi sở hữu những chiếc máy tính cỏn con đó, nhưng trong túi của họ không có gì đáng để tính cả! "
Thời gian sau, một khách hành hương hỏi ngài đã dạy cho đệ tử điều gì, Minh Sư trả lời: "Phải biết đặt đúng những ưu tiên: thà có tiền hơn là được đếm tiền; thà có kinh nghiệm hơn là biết định nghĩa về kinh nghiệm; thà được yêu hơn là được hiểu biết về tình yêu "
(Anthony de Mello, trích trong “One Minute Wisdom” )
***
Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (30 TN A) cũng nhắc đến chữ YÊU: "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.” (Mt.22:37). Và đó cũng là câu trả lời cho những người Pharisêu khi họ hỏi thử Đức Giêsu: “Trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn quan trọng nhất” ( Mt. 22:36)
Tất cả điều răn của Kitô giáo được tóm gọn trong một chữ YÊU. Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4:8). Chính vì tình yêu mà Ngôi Hai con một Thiên Chúa đã đến thế gian, mặc lấy thân phận con người, sống như con người và chết cho con người được sống… Tất cả chỉ vì một chữ YÊU
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy lấy tình yêu đáp trả tình yêu. Hãy yêu mến Thiên Chúa , không phải với một tình yêu hời hợt nửa vời, nhưng là tình yêu với cả con tim của ta, với cả linh hồn và thân xác của ta …Khi yêu là lúc ta mạnh dạn bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Tình yêu cứ vẫy gọi trước mặt. Tình yêu giúp ta mạnh dạn bước đi mà không biết mệt mỏi, không còn sợ hãi nữa … Và nếu một khi ta giới hạn tình yêu cũng là lúc ta bóp chết tình yêu.
Lời Chúa hôm nay đã liên kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu tha nhân: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt.22:39). Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai điều răn lớn nhất, quan trọng nhất và không thể tách rời nhau. Tình yêu tha nhân là thước đo tình yêu Thiên Chúa. Vì nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (1Ga.4:20)
Lời Chúa hôm nay cũng là một nhắc nhở cho tôi phải suy xét về lối sống của mình. Như ánh sáng của ngọn đèn luôn luôn có đó, khi tôi đến gần ngọn đèn, tôi được ánh sáng chiếu soi. Hơi ấm của ngọn lửa cũng luôn luôn có đó, khi tôi đến gần ngọn lửa, tôi được sưởi ấm. Tương tự như vậy, khi tôi đến gần Thiên Chúa, tôi được tình yêu của Ngài bao bọc che chở. Vì Ngài là tình yêu nên tình yêu của Ngài luôn luôn có đó cho tôi hưởng nhờ. Gần Ngài tôi được hạnh phúc vì tôi được sống và được bao bọc bởi tình yêu. Xa Ngài, tôi sẽ phải sống trong u sầu thất vọng và đen tối vì thiếu vắng tình yêu.
Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra đôi ba phút ngắn ngủi cùng nhau đi vào lòng mình để tìm gặp khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài ở nơi đâu trong cuộc sống của tôi ? Ngài là ưu tiên thứ mấy trong những ưu tiên cần thiết của cuộc đời tôi ? Và tôi có thực sự yêu mến Ngài không? Còn người anh em thân cận với tôi nữa … Lời nói nào tôi đã nói với họ ? Cung cách và lối cư xử nào tôi đã dành cho họ ? Tôi có nhìn thấy khuôn mặt của Chúa nơi người anh em thân cận với tôi không ? Ngài ở đâu ? Ngài ở nơi đâu ?
***
Lạy Chúa, đã nhiều lúc con nghĩ rằng: ”Con phải yêu mến chúa để cho Chúa được vui, cho Chúa được hạnh phúc”. Nhưng không phải thế, con đã nghĩ sai vì nếu con không yêu mến Chúa là con bị thiệt thòi và mất mát: thiệt thòi cho niềm vui trong cuộc sống hôm nay và mất mát hạnh phúc trong cuộc sống đời đời mai sau …Xin cho con luôn khắc ghi trong lòng để thực thi lời nhắn nhủ mời gọi của Chúa trong Tin Mừng hôm nay: Yêu Chúa và mến thương tha nhân như chính mình, Amen.
(Linh Xuân Thôn)
--------------------------------
Mátthêu 22,34-40
I. NgỮ cẢnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về: TN30-A55
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do-thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do-thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do-thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do-thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk 3).
- yêu mến hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy-lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người.
- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là một thành ngữ tiêu biểu để diễn tả ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh. Vậy từ nay, người ta không còn phải lo lắng giữ 248 điều buộc và tránh 365 điều cấm nữa!
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do-thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” Người (c. 35). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật không chỉ có tính cách lý thuyết nhà trường, nhưng cũng diễn tả một nhau cầu thực tế.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ leb Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái dộ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Luật Môsê, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
Lm. PX Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Mt 22,34 – 40
Cái kỳ diệu của đạo công giáo vẫn là luật “mến Chúa và yêu Người”. Đó là cốt lõi Tin Mừng của: TN30-A56
Cái kỳ diệu của đạo công giáo vẫn là luật” mến Chúa và yêu Người “. Đó là cốt lõi Tin Mừng của Chúa Giêsu. Điều nghịch lý của đạo Chúa Giêsu thiết lập là phải yêu như Chúa yêu, và yêu cả kẻ thù nữa. Thánh Augustinô đã viết một câu rất ý nghĩa:” Vâng, hãy yêu đi, rồi anh muốn làm gì thì làm “. Tình yêu giải phóng con người khỏi luật lệ, nhưng cũng đồng thời giúp con người chu toàn luật lệ một cách xuất sắc.
TIN MỪNG HÔM NAY MUỐN NÓI GÌ ?:
Cốt lõi Tin Mừng của Chúa Giêsu vẫn là yêu thương. Không hiểu được cái chính yếu, cái cốt lõi của Tin Mừng Chúa, của đạo do Người thiết lập, người môn đệ của Chúa vẫn chưa hiểu gì về Chúa cũng như những lời dạy của Người. Lề luật hay nói nôm na giới răn lớn nhất của Kitô giáo là “ Mến Chúa, yêu Người “. Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay muốn nói lên sứ điệp rõ ràng nhất và chính yếu nhất của đạo công giáo. Chúa Giêsu đã trả lời cho những người thông luật Do thái:” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi “. Đó là điều răn trọng nhất, và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là:” ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình “ ( Mt 22, 37-39 ). Người môn đệ của Chúa luôn phải hiểu rõ điều răn thứ nhất trong thập giới của Thiên Chúa:” thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”. Đó là giới răn thực quan trọng vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên trời đất, muôn loài và tác tạo nên con người. Bởi thế, con người phải biết ơn Người và thờ phượng, kính mến Người. Tuy nhiên, đạo của Chúa Kitô đòi hỏi con người phải vươn xa hơn nữa, vươn tới mọi người để yêu thương mọi người như Chúa đã yêu, không loại trừ ai ngay cả kẻ thù. Đó là cái kỳ diệu của đạo công giáo. Nếu nói yêu mến Chúa mà không yêu thương người thì chưa phải là người có đạo, chưa phải là người của nước Thiên Chúa.
MẾN CHÚA, YÊU NGƯỜI LÀ MỘT GIỚI LUẬT:
Nếu đã nói mến Chúa mà không yêu người thì vẫn chưa phải là Kitô hữu. Người môn đệ Chúa thường đeo thánh giá hay vì dấu thánh giá hàng ngày là dấu hiệu được mời vươn lên tới Thiên Chúa để kính mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Và người môn đệ Chúa cũng được mời gọi vươn tới mọi người để yêu thương họ kể cả kẻ thù nữa. Như thế, mến Chúa yêu Người chỉ là một giới răn mà thôi. Bởi vì, nói mến Chúa mà không yêu tha nhân là người nói dối, nói láo mà thôi. Hai giới gồm tóm thành một giới răn. Đó là cái mầu nhiệm của đạo công giáo. Mến Chúa đã khó mà yêu người lại càng khó hơn. Tuy nhiên, thực hành được hai giới răn mến Chúa yêu Người mới là điều Chúa muốn người môn đệ Chúa thực hiện và sống.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Thường chúng ta yêu những người có thiện cảm với chúng ta dễ hơn những người ghen ghét chúng ta. Chính vì thế, chúng ta chỉ có thể yêu thương những người khác như chính mình khi chúng ta tránh làm thương tổn đến những tình cảm, những quyền lợi của họ, khi chúng ta không đè bẹp họ, chà đạp họ. Chúng ta chỉ có thể yêu thương những người khác khi chúng ta biết nghĩ đến những người già yếu, những người neo đơn, những người nghèo đói, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng. Chúng ta chỉ có thể yêu thương người khác như chính mình khi chúng ta biết hy sinh xả kỷ, biết phục vụ cách vô vị lợi những người đang gặp thử thách, đang gặp gian nan, đang chờ bàn tay nhân ái, và tấm lòng quảng đại của chúng ta trợ giúp.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Giới răn“ Mến Chúa “ và “ Yêu Người “. Hai giới răn ấy giới răn nào trọng hơn ?
2. Cốt lõi của Tin Mừng là gì ?
3. Tại sao Chúa lại dạy chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù nữa ?
------------------------------
I. BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái: TN30-A57
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?
Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật. Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm. Các điều đó chia làm trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng:”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Chúa Giêsu còn thêm:”Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Luật này trích ở sách Lêvi 19,18. Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao qúi và vô cùng hấp dẫn. Tất cả mọi điểm khác trong luật hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.
Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18). Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40 ; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43). “Như chính mình”: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.
II. NÓI VỄ CHỮ YÊU.
1. Chưa có một định nghĩa thoả đáng.
Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận. Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni”: yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Còn rất trừu tượng.
Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Nó đến với ta một buổi chiều.
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Theo thánh Phaolô thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Thánh Gioan tông đồ thì nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình . Đại khái: **Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu).
* Yêu là đau khổ.
* Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24 ; Mc 10,52).
* Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11).
* Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tinh chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức Mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).
Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói:”Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,1-13).
2. Yêu trong thực hành.
Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne:”Yêu mến Chúa là gì ? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là:”Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
(GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU.
1. Tình yêu và hy sinh.
Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.
Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết rong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến...
Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế.(cf Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu,tr 62)
2. Thánh giá là biểu tượng tình yêu.
Theo Phúc âm chữ “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá. Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu ? Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được. Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307)
3. Tình yêu trong phục vụ.
Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết: thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em. Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tour chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài:”Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25,36).
Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói:”Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.
Truyện: Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể:”Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói:”Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư :”Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con” (Ga 15,34). Và Ngài đã yêu mến chúng ta đến mức chịu chết vì chúng ta. Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7): khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công.
Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại ; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
Thánh Augustinô khuyên:”Ama et fac quod agis”: yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng, Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con. Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa, Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân, Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
-------------------------------
Rev. John Trần Khả
Một người phụ nữ người trẻ tuổi đến văn phòng giáo xứ xin gặp tôi để nói chuyện. Chị kể, "Thưa: TN30-A58
Một người phụ nữ người trẻ tuổi đến văn phòng giáo xứ xin gặp tôi để nói chuyện. Chị kể, "Thưa cha đã từ lâu con không biết nhà thờ là gì. Hồi còn nhỏ con cũng đã được rửa tội và con còn nhớ là mình có đi tham dự các lớp học về đạo và Kinh thánh ở nhà thờ ngày Chúa nhật. Nhưng con chỉ nhớ được có nhiêu đó thôi."
Sau khi nghe chị nói được một lúc thì chị nhìn tôi và hỏi, "Thưa cha, bây giờ con phải làm gì nếu con muốn trở nên một phần tử trong giáo xứ của cha?"
Điều tôi nghĩ đầu tiên trong đầu là, "Cô ta muốn gia nhập giáo xứ để làm gì?" "Để làm đám cưới chăng?" "Cô đã rửa tội ở nhà thờ hay giáo phái nào?" "Cô đã xưng tội rước lễ và chịu phép thêm sức chưa?" "Cô có sống trong địa hạt của giáo xứ không?" "Cô phải ghi danh gia nhập giáo xứ!" "Cô phải thường xuyên đi lễ và đóng góp mỗi Chúa Nhật..."
Nhưng rồi tôi cảm thấy những điều này không phải là câu trả lời thỏa đáng. Như vậy thì cái gì là điều kiện để cho một người trở thành phần tử của gia đình Kitô giáo?
Giả như có người đến hỏi bạn về điều kiện để gia nhập giáo xứ và trở nên một phần tử trong giáo xứ của bạn thì bạn trả lời cho họ như thế nào? Các giáo xứ và cộng đoàn của chúng ta dùng tiêu chuẩn nào và đòi hỏi các phần tử phải có những điều kiện gì để họ được coi là thành phần của giáo xứ hay của cộng đoàn? Thiết tưởng chúng ta có thể tìm được giải đáp qua lời Chúa Giêsu nói với những người Biệt phái.
Giới Răn Cao Trọng Nhất
Những người Biệt phái cử một nhà thông luật đến hỏi Chúa Giêsu, "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Vì luật Do thái có tới những 613 khoản; 365 khoản luật cấm và 248 khoản luật dạy những điều phải thực hành. Do đó những người Biệt phái đã nghĩ rằng đây là câu hỏi khó khăn và phức tạp không ai có thể trả lời được. Chính họ cũng bối rối không phân biệt rõ ràng luật nào là quan trọng hơn và luật nào là quan trọng nhất. Và như thế họ nghĩ rằng nếu hỏi chúa Giêsu thì Ngài cũng sẽ bị bí và mất uy tín trước đám đông. Nhưng họ lầm vì họ không biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Chúa của lề luật. Ngài đã trả lời thật chính xác, "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi... Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó."
Đây là đoạn Phúc âm rất quen thuộc với chúng ta. Quá quen thuộc đến độ chúng ta cảm thấy nhàm chán chẳng có gì mới lạ để mà suy nghĩ. Chúng ta nói, biết rồi khỏi cần phải suy. Suy nghĩ như thế là chúng ta lầm to. Chúng ta không thể đồng hóa sự quen thuộc với hiểu biết. Nghe nhiều và rất quen thuộc không có nghĩa là chúng ta đã hiểu thấu đáo, đã sống và thực hành điều Chúa Giêsu dạy. Chúng ta cần chú tâm nghe kỹ và xét mình xem chúng ta đã hiểu và sống được như thế nào đối với lời của Chúa Giêsu:
Kitô hữu phải làm gì? Kitô hữu phải yêu.
Kitô hữu phải yêu ai? Kitô hữu yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.
Kitô hữu phải Yêu như thế nào? Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.
Yêu tha nhân như yêu chính mình.
Vấn đề nguy hiểm trong việc sống đạo là chúng ta có thể dễ bị lầm lẫn và quên đi đối tượng chính yếu của tôn giáo.
Các thần học gia có thể quá chú trọng đến việc phân tích và định nghĩa giáo thuyết và tín lý. Những chuyên gia về Kinh Thánh có thể quá chú trọng đến việc chú giải và diễn giải ý nghĩa các câu thánh kinh. Đời sống giáo xứ có thể quá lưu tâm đến các sinh hoạt hội đoàn, các chương trình và các cuộc hội hè thảo luận. Chúng ta có thể dành nhiều nỗ lực và thời giờ vào việc quảng cáo, cổ động và khuếch trương nhiều hoạt động thuộc về tôn giáo. Chúng ta nhiệt thành và sốt sắng cử hành những nghi thức tôn giáo, nhưng lại quên đi không chú tâm đến đối tượng và phẩm tính thiết yếu của việc sống tinh thần tôn giáo.
Chính vì những lý do đó mà có hiện tượng phân cách giữa tôn giáo và đời sống hàng ngày. Việc ghi danh gia nhập hay đóng góp tiền hàng tuần hay hàng tháng, tham gia các tổ chức sinh hoạt giáo xứ, tuân giữ những khoản luật này hay điều lệ kia đều không phải là những điều kiện thiết yếu và quan trọng nhất để làm cho một người trở nên phần tử trong gia đình Kitô hữu. Có tất cả những điều kiện này mà không có tình yêu Thiên Chúa và tha nhân thì những việc làm tôn giáo của chúng ta chỉ là những tư cách giả dối, những cử chỉ dị đoan bụt thần.
Phẩm Tính Thiết Yếu
Khi Chúa Giêsu tóm lược hai giới răn quan trọng nhất của lề luật có nghĩa là Ngài nói cho chúng ta biết rằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân là một phẩm tính thiết yếu và quan trọng nhất không thể thiếu nơi mỗi người Kitô hữu. Chính phẩm tính này làm cho chúng ta trở nên Kitô Hữu chân thực. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn có nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa trên hết và trước hết mọi sự. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải dấn thân trọn vẹn cho Thiên Chúa không giới hạn và không giữ lại bất cứ cái gì. Yêu Thiên Chúa như thế nói lên rằng chúng ta muốn làm trọn bổn phận của một thụ tạo tôn thờ Đấng Tạo Dựng nên mình. Chúng ta muốn dấn thân hoàn toàn cho Ngài, và không cho phép bất cứ một thụ tạo nào ngồi vào chỗ ưu tiên đó. Yêu Thiên Chúa như thế là chúng ta thiết lập cho đời sống chúng ta một hệ thống giá trị đúng thứ tự ưu tiên. Nếu chúng ta dành sự ưu tiên này cho Thiên Chúa thì đời sống chúng ta sẽ có hiệu quả khác thường.
Kinh nghiệm thấy rằng chúng ta xác định giá trị đời sống của chúng ta bởi những gì chúng ta quý yêu. Chúng ta được phong phú hóa hay bị hủ hóa băng hoại cũng tùy thuộc ở đối tượng chúng ta yêu thương. Nếu chúng ta lấy Thiên Chúa làm đối tượng tình yêu tuyệt đối, hàng đầu và vững bền thì tình yêu Thiên Chúa sẽ trở nên sức mạnh ảnh hưởng, chi phối và hướng dẫn tất cả các thứ tình yêu khác nơi chúng ta: Tình yêu đối với vợ hay chồng, đối với con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè và tất cả những người khác chung quanh chúng ta. Tình yêu ưu tiên của chúng ta dành cho Thiên Chúa sẽ làm tăng chất lượng và thêm sâu đậm cho các thứ tình yêu khác nơi chúng ta. Và khi đó chúng ta mới có thể yêu tha nhân như chính mình.
Yêu Thiên Chúa mà không yêu tha nhân thì đó là một tình yêu điên cuồng mê tín không bảo chứng. Yêu tha nhân mà không yêu Thiên Chúa thì đó chỉ là một tình yêu nhân bản vô thần. Thánh Gioan Tông Đồ đã nói cách thâm tín rằng, "Người nào nói yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói xạo. Vì người nào không yêu thương anh chị em mình là những người họ trông thấy thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa Đấng họ không trông thấy. Những ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến cả tha nhân" (1 Gio 4:20- 21).
Nhận Định - Suy Tư
Trong bài đọc thứ nhất, Thiên Chúa truyền cho Môsê phải dạy dân chúng biết thương yêu những khách ngoại kiều và các cô nhi quả phụ là những người yếu thế. Bài đọc thứ hai, thánh Phaolô đã khen ngợi các Kitô hữu Thessalonica vì tinh thần sống đạo của họ đã trở nên gương mẫu cho những cộng đoàn Kitô hữu khác. Như vậy chúng ta và các cộng đoàn Kitô hữu Công Giáo Việt Nam thì sao?
Các cộng đoàn Kitô hữu Công Giáo Việt Nam chúng ta thường nhấn mạnh rất nhiều đến các nghi lễ phụng vụ, đến các tổ chức hội đoàn, sinh hoạt, rước kiệu, đại hội, dâng hoa, ngắm đứng, học kinh bổn, giáo lý, đọc kinh, đền tạ, hành hương, xin lễ, xin khấn v. v... Đây là những phương diện chúng ta bày tỏ niềm tin của chúng ta đối với Thiên Chúa trong việc thờ phượng rất tốt đẹp không chê được. Chúng ta đã và đang biểu diển niềm tin đến nỗi hàng Giáo Phẩm Hoa Kỳ cũng phải khen ngợi. Nhưng chúng ta cũng cần phải xét mình xem các giáo xứ, các cộng đoàn Kitô hữu Công Giáo Việt Nam, cũng như mỗi cá nhân người Công Giáo Việt Nam chúng ta đã và đang làm được những gì để chứng tỏ lòng yêu thương tha nhân của chúng ta? Nhiều người trong chúng ta rộng rãi đóng góp và chia sẻ khi có những dịp lạc quyên đặc biệt như giúp nạn nhân bão lụt, giúp trại cùi, hay thỉnh thoảng nếu có người đến xin giúp đỡ. Nhưng nếu không ai đến xin, hay lạc quyên thì chúng ta có thường xuyên quan tâm đến người nghèo, và những người kém may mắn không? Chúng ta có được bao nhiêu hội từ thiện? Được mấy giáo xứ có những chương trình tương tế xã hội? Được mấy giáo xứ chính thức dành riêng một ngân quỹ hàng năm để lo việc tương tế xã hội giúp đỡ người nghèo? Nếu chúng ta chỉ nhấn mạnh đến việc xây dựng sửa sang "nhà thờ" mà quên đi khía cạnh chia sẻ trong yêu thương với những người nghèo, những người yếu thế, và kém may mắn hơn trong xã hội thì e rằng chúng ta chưa biểu dương được phẩm giá của người Kitô hữu Công Giáo Việt Nam.
Một Câu Truyện
Mỗi lần có người ra hay vào là gió lạnh lại thổi tạt qua cái cửa kiếng tự động ở bệnh viện. Một bà cụ già đứng dựa vào chiếc gậy bằng sắt bạc phía bên trong cửa, đưa mắt nhìn ngong ngóng ra lối xe chạy ở ngoài.
Tôi đứng phía sau bà cụ để chờ cô con gái ra ngoài bãi đậu để lấy xe đi về. Chúng tôi đến thăm người dì bị đau nặng. Lúc đó tôi thấy chiếc xe taxi mầu vàng trườn tới cổng. Mặt bà cụ sáng lên và bà bắt đầu bước ra cửa miệng mừng rỡ, "May quá! Tôi đã chờ đợi khá lâu rồi!" Chiếc xe taxi đậu trước cửa, và vừa lúc đó thì một cặp vợ chồng trẻ hơn, chạy nhanh qua mặt tôi và bà cụ đang đi ra phía xe taxi. Đôi vợ chồng đó đã tới trước, mở cửa xe taxi và nhảy vội vô ngồi vào trong xe, rồi chiếc xe phóng đi khỏi cửa bệnh viện.
Cô con gái của tôi ngồi trong xe đã nhìn thấy cảnh đó. Con tôi liền quay cửa xe xuống và hỏi tôi, "Má ơi, hỏi xem nhà bà ấy ở đâu?" Bà cụ không ở xa chúng tôi lắm. Và bà đã vui mừng nhận lời lên xe của chúng tôi. Bà nói là bà đến thăm người em của bà bị ung thư. Bà đã ở bệnh viện suốt cả ngày. Khi chúng tôi bỏ bà xuống trước cửa nhà của bà, con gái tôi đã xuống xe để đỡ bà cụ, mở cửa nhà cho bà, và còn mang cả mấy cái thùng rác rỗng đang nằm chắn lối đi để đem đặt chúng về đúng chỗ. Không gì làm cho cha mẹ sung sướng hơn khi nhìn thấy con cái của mình làm được những nghĩa cử tốt lành như vậy. Cả ngày hôm đó lòng tôi đã ca vui.
(Medard Laz. Love Adds a Little Chocolate. "A Heart That Sings"" p. 57)
Thiên Chúa cũng vui mừng sung sướng khi thấy chúng ta là những con cái của Ngài biết kính tôn yêu mến Ngài và có những nghĩa cử nhân ái yêu thương với người khác như thế.
Rev. John Trần Khả
----------------------------------
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
Mt 22,34-40
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con: TN30-A59
Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đầng. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối. Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
----------------------------------
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: “Sự văn minh đích: TN30-A60
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: “Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống”. Thế nhưng, “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang bóc lột chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giê-su khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giê-su dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giê-su.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
----------------------------------
John Nguyễn
1.Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Ki-tô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và: TN30-A61
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều «bì phu», điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề luật: «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy». Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo «kiểu Pha-ri-siêu» đã bị Đức Giê-su tố cáo: «Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23); «Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà» (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành «những kẻ dẫn đường mù quáng» (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Ki-tô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
2.Hai điều răn tóm lại thành một điều răn:«yêu thương»
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu», đối tượng của động từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai mà một», tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giê-su đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: «Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta», và «mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta».
Tại sao thế? Vì con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: «ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra» (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Ki-tô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8); «Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (13,9-10); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình"» (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương nữa: «Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt» (Dt 10,24).
3.Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là «yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn». Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giê-su, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai: «yêu người thân cận như chính mình». Đức Giê-su đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi:
«Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha».
John Nguyễn
----------------------------------
Mt 22,34-40
Lm. An Phong, OP
Nếu tình cờ có ai hỏi: "Đối với bạn, điều gì quan trọng nhất?"; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả: TN30-A62
Nếu tình cờ có ai hỏi: "Ðối với bạn, điều gì quan trọng nhất?"; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người sẽ cho rằng đó là chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận trách nhiệm, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó là sống trong sạch; vì quả thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời với đầy những ám ảnh về những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…
Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công bằng. Bởi lẽ phải có công bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình yêu. Một xã hội công bằng, đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.
Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác nữa cho câu hỏi này; cũng như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới răn trọng nhất.
Ðức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng nhất trong một giới luật: "Mến Chúa, yêu người". Tất cả những câu trả lời khác đều tốt, nếu chúng thể hiện được lòng "mến Chúa yêu người"; và sẽ chẳng là gì nếu chúng không xuất phát từ lòng "mến Chúa yêu người". Có thể chúng ta đã coi trọng chuyện "nhà thờ nhà thánh" hơn là quan tâm đến một người hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật, nhưng lại so đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là "mến Chúa yêu người" được.
Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở, đón nhận. Mở lòng ra với Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng ra với Chúa để chu toàn những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng đại đón nhận anh chị em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ, méo mó vì những chấp nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.
Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như sau: "Ðức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7).
Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng Mến; nhưng lòng Mến lại được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu thương;
và vì tình yêu đó,
Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa yêu.
Xin cho chúng con
cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.
Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương
mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.
Lm. An Phong, OP
----------------------------------
Tình yêu vẫn là bản trường ca bất tận. Tình yêu là điểm con người gặp gỡ Thiên Chúa, tha nhân: TN30-A63
Tình yêu vẫn là bản trường ca bất tận. Tình yêu là điểm con người gặp gỡ Thiên Chúa, tha nhân và tạo vật. Không có tình yêu, đời còn gì đáng sống ? Tương giao con người sẽ vô nghĩa. Tình yêu đã thành nguồn hứng bất tận cho bao nhiêu thi ca, tiểu thuyết. Không ai có thể cưỡng lại sức thu hút mãnh liệt của tình yêu. Tình yêu chi phối tất cả, khiến ta có thể "nhìn cò ra quạ". Bởi đó, sau những sai lầm, người ta mới kêu lên:
Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở,
Tình hết vui khi đã vẹn câu thề. (Xuân Diệu)
Nếu thế phải chăng cuộc đời toàn những xấu xa, không gì đáng nói. Nhưng không. Chúa muốn chúng ta thấy nét tươi đẹp tuyệt vời của tình yêu con người khi được đặt ngang hàng với tình yêu Thiên Chúa.
CHIỀU KÍCH TÌNH YÊU
Tình yêu ở đây không dừng lại khía cạnh tình cảm. Trái lại, đó là việc "trung tín với giao ước, một vấn đề của lòng muốn và hành động" (The New Jerome Biblical Commentary:1990). Đó cũng là mối bận tâm lớn lao của người Do thái. Họ tìm cách xem Đức Giêsu có thông minh, có thể tổng hợp các lề luật cha ông hay không. Bởi đấy họ tìm cách "thử Người"(Mt 22:35): "Thưa Thày, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?" (Mt 22:36) Lần này Người không tìm cách luồn lách, nhưng trả lời thẳng: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Mt 22:34; Đnl 6:5). Một đòi hỏi như thế không thể kiếm thấy trong phạm vi tự nhiên. Tình yêu Thiên Chúa đòi hỏi tuyệt đối. Chính vì thế Đức Giêsu đã mạc khải bản tính Thiên Chúa của mình khi đòi môn đệ phải từ bỏ mọi sự mà theo Thày. Tình yêu Thiên Chúa có một chiều kích vô giới hạn.
Nhưng tình yêu Thiên Chúa không bay bổng trên không trung, trái lại rất thực tế. Người ta chỉ có thể sống tình yêu Thiên Chúa khi cụ thể hóa tình yêu đó bằng tình yêu tha nhân. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đặt tình yêu Thiên Chúa ngang tầm với tình yêu tha nhân. Cả hai đều quan trọng như nhau. Người Do thái đã không đặt nặng vấn đề như thế. Trái lại Đức Giêsu coi tình yêu tha nhân rất quan trọng. Không yêu tha nhân tức là không yêu Thiên Chúa. Quả thực "Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được ?" (1 Ga 3:17)
Nhưng khác với tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân chỉ đòi hỏi ở mức độ "như chính mình" (Mt 22:39) mà thôi. Ở đây hé lộ cho chúng ta thấy không yêu được chính mình, cũng không thể yêu tha nhân. Nhưng yêu chính mình như thế nào ? Đó mới là vấn đề. Nhiều người tưởng Kitô giáo cấm yêu chính mình. Thực tế tình yêu chính mình rất chính đáng. Tình yêu chính mình trở thành chuẩn mức đo lường tình yêu tha nhân. "Tình yêu chính mình rất quan trọng trong cuộc sống con người. Tình yêu đó giúp hoàn thành bản thân một cách chính đáng" (The New Dictionary of Catholic Social Thought:1994). Ngược lại nhiều người nghĩ cuối cùng tất cả phải nhắm tới phần rỗi cá nhân. Bởi vậy họ "giản lược tình yêu tha nhân vào một hình thức tế nhị của tình yêu chính mình … Đôi khi các Kitô hữu nói họ yêu tha nhân để hoàn thành ơn gọi của mình" (The New Dictionary of Catholic Social Thought:1994).
Tuy thế, tình yêu đó phải nhường bước trước đòi hỏi tình yêu Thiên Chúa. Bởi vậy Đức Giêsu mới nói: "Ai muốn theo Thày, phải từ bỏ chính mình"(Mt 16:24). Nhiều khi người ta có thểø yêu tha nhân hơn chính mình, như trường hợp thánh Maximilien Kolbe. Đó là mức độ anh hùng. Nhưng tất cả chỉ vì "tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng tôi" (2Cr 5:14).
TÌNH YÊU TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
Từ ngàn xưa, lề luật đã "nhấn mạnh tới việc đối xử công bình và quan tâm tới phúc lợi của ngoại kiều" (Roland J. Faley:1994, x.Xh 23:9; Lev19:33; Đnl 23). Người nghèo trong cộng đoàn cũng được bảo vệ tối đa (Xh 22:24-26), vì Thiên Chúa đứng về phía người nghèo. Thiên Chúa "vốn nhân từ" (Xh 22:26), sẵn sàng nghe và đáp ứng tiếng họ kêu cứu (x.Xh 22:26)
Thế giới ngày nay, nghèo khó bao trùm ba phần tư nhân loại. Bởi đó hơn lúc nào, đức ái Kitô giáo phải có một chiều kích toàn cầu và qui mô hơn. Nhưng không được quên "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta," (Rm 5:5) trong Đức Giêsu Kitô. Đó là động lực khiến mọi người hiệp nhất trong công cuộc bác ái như một chứng từ sống động cho tình yêu Thiên Chúa. Chính từ niềm tin đó, Hội Thánh đủ sức mạnh góp phần xây dựng thế giới. Kang Moon-kyu, người Hàn Quốc, cho rằng "các cộng đoàn đức tin là những tác nhân tiềm tàng tạo biến đổi mạnh mẽ, vì họ có thể nhân bản hóa xã hội, góp phần xây dựng các giá trị cốt lõi của xã hội dân sự và cổ vũ cho công lý" (VietCatholic: 20/10/1999).
Nếu không bắt nguồn từ Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa, công cuộc bác ái "cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng" (1Cr 13:1). Rất may Đức Giêsu đã nêu cao giới răn mến Chúa như là "điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu" (Mt 22:38). Lòng yêu mến tha nhân, mặc dù quan trọng như điều răn thứ nhất, cũng chỉ là phản ảnh và là kết quả của nỗ lực sống điều răn thứ nhất mà thôi. Thượng Hội Đồng Giám mục Âu châu báo động: ngày nay "cám dỗ nghiêm trọng là cám dỗ sống dường như thể không có Chúa Kitô nữa" (ĐHY Tettamanzi:1999). Nếu chỉ có chiều kích nhân bản, tình yêu không thể làm chứng cho Chúa Kitô. Nhưng nếu chỉ giới hạn trong chiều kích thiêng liêng, tình yêu Kitô trở thành một thứ hột xoàn trong tủ kính. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu liên kết hai mặt của thực tại tình yêu trong một hòa điệu tuyệt vời: "Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy" (Mt 22:39).
Nếu thực sự sống trong tình yêu, chúng ta không thể kỳ thị. Trong Đức Giêsu không còn phân biệt văn hóa, chủng tộc, giàu nghèo, nam nữ, địa vị, giai cấp v.v (x.Gl 3:28). Con người ngày nay quá ích kỷ. Ích kỷ dưới mọi hình thức: cá nhân, gia đình, tập thể, cộng đoàn, đảng phái, quốc gia v.v. Chính vì thế chúng ta cần cầu xin Thánh Linh đem công lý và hòa bình đến cho nhân loại, một nhân loại tràn ngập số lượng thông tin, nhưng vẫn xa cách như bao giờ.
Xác tín vào sứ điệp của Đức Giêsu như một giải pháp hoàn hảo và toàn diện, chúng ta không sợ trực diện với những thách đố thời đại. Những đối lực hôm nay chỉ tìm được hòa giải trong Đức Giêsu Kitô, vì nơi Người kiện toàn hai chiều kích vĩ đại của tình yêu: Thiên Chúa và con người. Đời chỉ đẹp khi tìm thấy hai chiều kích vĩ đại đó trong tâm hồn và giữa những tương giao muôn mặt hôm nay.
Lm. Đỗ Vân Lực, OP
----------------------------------
Mt 22, 34-40
Tình yêu là nguồn hạnh phúc lớn nhất, nhưng cũng gặp nhiều thách đố nhất. Tình yêu không: TN30-A64
Tình yêu là nguồn hạnh phúc lớn nhất, nhưng cũng gặp nhiều thách đố nhất. Tình yêu không thể ép buộc, nhưng tại sao Ðức Giêsu lại muốn trở thành một mệnh lệnh ?
TÌNH YÊU
Tình yêu là một sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Bởi thế, chỉ một mình Thiên Chúa mới hiểu nổi tình yêu. Khi chất vấn Ðức Giêsu về tình yêu, "một người thông luật trong nhóm (Pharisêu)" (Mt 22:35) đã nhằm trúng đối tượng. Mặc dù câu trả lời chỉ nhắc lại những gì nói trong Luật Môsê và sách các ngôn sứ, nhưng cho thấy chiều cạnh mới khi đặt hai đối tượng tình yêu bên cạnh nhau: Thiên Chúa và con người (x. Mt 22:37-40).
Nếu tình yêu không có khả năng nâng cao con người, chắc chắn Ðức Giêsu không đưa vào tình yêu một cái nhìn mới mẻ như thế. Chính tình yêu đem lại cho con người địa vị cao cả trong vũ trụ. Nhưng tại sao tình yêu có khả năng đó? Làm sao nâng cao tình yêu ?
Trước hết, chính tình yêu phải tuân theo một kỷ luật thật nghiêm ngặt. Thiên Chúa luôn luôn phải là đối tượng cao cả nhất: "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất." (Mt 22:37-38) Thiên Chúa phải chiếm chỗ cao cả nhất và sâu thẳm nhất trong tâm hồn con người. Chỉ Thiên Chúa mới xứng đáng với địa vị đó, vì chỉ một mình Người mới có thể tạo dựng và cứu độ con người.
Chính đối tượng cao cả đó sẽ nâng cao tình yêu. Từ đó tình yêu có thể nâng cao con người lên khỏi vũ trụ. Mặc dù Thiên Chúa vô hình, nhưng con người vẫn có thể tìm thấy tình yêu của Người qua những dấu vết trong vũ trụ và tâm hồn. Con người dễ bị sức mạnh vật chất lôi cuốn vào những đam mê bất tận. Bởi vậy, tình yêu đối với Thiên Chúa luôn mang tính sám hối: "Anh em hãy từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa." (1 Tx 1:9) Cuộc hoán cải luôn mang d ng dấp chia ly.
Chìm ngập trong vũng lầy vật chất, làm sao con người có thể yêu Thiên Chúa tối cao? Yêu Thiên Chúa như bước vào cõi siêu việt, như trải qua một cuộc lột xác đau đớn. Con người bị xé rách vì những khủng hoảng lớn lao. Từ thái cực này chuyển sang thái cực kia, con người phải có một ý chí mãnh liệt mới có thể lựa chọn Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là một đối tượng chỉ nằm trong "Luật Môsê và sách các ngôn sứ", mặc dù con người được kêu gọi phải yêu mến Người "hết trí khôn". Thiên Chúa cũng khơng phải là đối tượng của những tình cảm ướt át, mặc dù phải yêu Chúa "hết lòng". Chính Thánh Linh sẽ đem cho lòng tin yêu sức mạnh đó.
Không có gì can đảm hơn "khi tin nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban." (1 Tx 1:6) Chính khi bị thách đố như thế, con người có thể vận dụng toàn thân "để phụng sự Thiên chúa hằng sống, Thiên chúa thật." (1 Tx 1:9) Tất cả sức sống và sự thật về Thiên chúa đều mạc khải rõ ràng trong biến cố "người Con một Thiên chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, tức là Ðức Giêsu, Ðấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến." (1 Tx 1:10) Như thế, không những tạo nên sự sống, nhưng tình yêu Thiên chúa còn trả lại sự sống cho nhân loại. Do đó, dù sống giữa những thử thách lớn lao, người tín hữu vẫn tràn trề niềm hi vọng "chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến" (1 Tx 1:10) trong vinh quang. Chính niềm hi vọng đó khiến con người có thể nhìn Thiên chúa như đối tượng tình yêu cao cả nhất.
Thực tế tình yêu Thiên chúa tìm được chiều cạnh sống động nơi tương quan nhân loại. Lý do vì Thiên chúa và con người chỉ là hai mặt của một đồng tiền hạnh phúc. Chính Ðức Giêsu quả quyết: "Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình." (Mt 22:39) Ðó là điều kiện thực tế giúp con người thực hiện bổn phận đối với Thiên chúa. Thật vậy, "bất cứ ai sống cho Thiên chúa, đều quyết chí sống trong tình yêu." (Brother Roger of Taizé: 5/1995) Chính Thiên chúa đặc biệt lưu ý tới thân phận những người xấu số, nghèo khổ (x. Xh 22:20-26). Tiếng họ kêu sẽ thấu tới Trời Xanh: "Nó mà cầu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ." (Xh 22:26) Người khơng thể bưng tai bịt mắt trước những bất công. "Lạy Chúa là sức mạnh của con ; Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Ðấng giải thoát" (Tv 17:2-3a) người nghèo khổ khỏi mọi cơ chế bất công, nơi phường gian ác lợi dụng để khai thác đồng loại.
THỜI ÐIỀM
Ðụng tới con người là đụng tới Thiên chúa. Bởi thế, Giáo hội không thể làm ngơ trước những nỗi thống khổ của con người. Ai có thể đếm hết những đau khổ trên trần gian ? Riêng trong lãnh vực tôn giáo bao cảnh tang thương đã diễn ra. Chẳng hạn, mới đây tại Kontum, cao nguyên Trung phần và tỉnh Sơn La Việt nam biết bao người Công giáo bị bách hại. Nhân quyền bị chà đạp. Tự do tôn giáo hoàn toàn chỉ là những hàng chữ chết trong hiến pháp. Bởi thế, sau cuộc họp thường niên, từ 12 đến 17 tháng 10 năm 2002, Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã mạnh mẽ tố cáo: "Các viên chức chính quyền đã vô nhà tín hữu đập phá bàn thờ và ảnh tượng, tịch thu sách vở và các tràng chuỗi Mân côi. Họ bắt các tín hữu phải ký giấy thề hứa bỏ đạo, vàphải ngưng công tác dạy giáo lý và truyền bá Phúc âm." (Zenit 21/10/2002)
Giáo hội Việt nam đang can đảm bước kịp bước tiến của Giáo hội toàn cầu. Chính khi mạnh mẽ tố cáo như thế, Giáo hội đang làm chứng Thiên chúa "là khiên mộc, là Ðấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ" (Tv 17:3b) cho những ai đặt tất cả niềm tin tưởng nơi Người. Dù khi tranh đấu hay khi làmviệc bác ái "để mưu ích cho anh em" (1 Tx 1:5c) khắp thế giới, Giáo hội không giới hạn việc mục vụ vào "chiều kích nhất thời hay trần tục." (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 21/10/02) ÐGH nhắc nhở "công cuộc bác ái do Giáo hội thực hiện, nhất là giữa người nghèo, không thể giản lược công cuộc có tính cách vật chất hay chính trị. Nếu không công bố chân lý Phúc âm, công cuộc đó sẽ vô nghĩa. Công cuộc bác ái không bỏ mặc anh em trong sự tăm tối về chân lý. Ðem nguồn nhân lực phục vụ người nghèo hay thăm viếng người đau khổ mà không loan truyền cho họ Lời cứu độ, thì đó không phải là công cuộc bác ái. Sứ mệnh Giáo hội là Phúc âm hoá muôn dân," (Zenit 21/10/02) tức làm cho nhân loại "quay về với Thiên chúa, để phụng sự Thiên chúa hằng sống, Thiên chúa thật." (1 Tx 1:9)
Hoàn thành sứ mệnh đó, Giáo hội sẽ cho mọi người thấy đâu là quyền năng Thiên chúa trong việc đem lại hạnh phúc đích thực cho nhân loại. Nhưng sứ mệnh đó không được thực hiện riêng rẽ nơi từng cá nhân, nhưng trong sự hợp tác giữa các tín hữu. Hơn nữa, họ cần phải nhận thức "lương tâm tín hữu phải đưa ra quyết phù hợp với các tiêu chuẩn do Thiên chúa mạc khải và quyền bính Giáo hội đề nghị."(ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 21/10/02) Nhưng tất cả cũng chẳng đi tới đâu, nếu nguồn sống Giáo hội không bắt nguồn từ Bí tích Thánh thể, "suối nguồn phát sinh và trung tâm qui tụ toàn thể đời sống Kitô hữu" (ÐGH Gioan Phaolô II: Zenit 21/10/02) để thực hiện "điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất." (Mt 22:37)
Lm. Đỗ Vân Lực, OP
----------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Mt 22,34-40
Ðiên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Ðức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước: TN30-A65
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Ðức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Ðức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Ðức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm-, nay được Ðức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: "yêu mến Thiên Chúa và người thân cận." Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Ðức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Ðức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Ðức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Ðức Ki-tô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Ðức Giêsu không nói: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể", nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi."Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình ?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi "Bài giảng trên núi", trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được". (Mt 10,39) ? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Ðấng Cứu độ, Ðấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá ? Toàn là những chuyện điên rồ !
Nên nhớ rằng, Ki-tô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Ki-tô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Ki-tô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Ki-tô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Ðấng mà "tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta."(Is 55,8). Ðó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.
Từ "và" đến "trong"
Vào thời Ðức Ki-tô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Ðức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa "hay là" yêu mến người thân cận ? Nên theo chủ trương chiều dọc "hay là" chiều ngang ? Ðó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Ðức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Ðức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, "cũng giống điều răn ấy".
Ðiều răn thứ hai này "cũng giống" điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng "lớn" như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn ; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Ðức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói "hay là", nhưng phải nói "và". Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực ; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, "và" sẽ biến thành "trong": con người yêu mến Thiên Chúa "trong" người thân cận, và yêu mến người thân cận "trong" Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt ?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất - Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
----------------------------------
Mt 22,34-40
Bài Tin Mừng kể lại một cuộc đấu lý giữa Chúa Giêsu và những người thù nghịch chống đối: TN30-A66
Bài Tin Mừng kể lại một cuộc đấu lý giữa Chúa Giêsu và những người thù nghịch chống đối Ngài. Cuộc đấu lý này do nhóm luật sĩ đặt ra, họ hỏi Chúa điều răn nào hay điều luật nào là quan trọng nhất ?
Vào thời Chúa Giêsu, bộ luật của Do Thái gồm 613 điều. Trong số này có 365 điều tiêu cực, cấm không được làm, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 điều tích cực, truyền phải làm, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ, thì điều luật nào cũng quan trọng, bỏ một điều là bỏ cả lề luật.
Thế nhưng trong thực tế, chẳng ai có thể giữ được tất cả 613 điều. Vì thế, người ta phải tìm xem điều luật nào quan trọng hơn để phấn đấu tuân giữ triệt để, còn điều luật nào ít quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy. Và người ta không nhất trí với nhau khi lượng giá các điều luật, nhất là không nhất trí điều luật nào là quan trọng nhất. Vì thế, ông luật sĩ hỏi Chúa Giêsu để biết quan điểm của Chúa ra sao ?
Chúa đã trả lời thế nào ? Trước hết, Chúa trích dẫn Kinh Thánh, sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Đó là điều thứ nhất và quan trọng nhất. Rồi Chúa lại trưng dẫn sách Lê-vi: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Đó là điều thứ hai, quan trọng không kém điều thứ nhất.
Như vậy, Chúa Giêsu đã cho biết: điều luật quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa yêu người. Ông luật sĩ hỏi điều răn nào quan trọng nhất, nghĩa là chỉ có một, vậy mà Chúa Giêsu lại nói tới hai: mến Chúa và yêu người. Vậy phải hiểu thế nào ? Đúng, đó là hai điều răn, nhưng chỉ là một nhân đức có liên quan mật thiết với nhau, đó là đức bác ái. Hay nói khác đi, đây là hai mặt hay hai đối tượng của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một là bỏ cả hai: ai mến Chúa phải yêu người, và ai yêu người tất nhiên sẽ mến Chúa. Ngược lại, ai không yêu người, không thể nói mến Chúa, và ai không mến Chúa tất nhiên không yêu người. Không ai có thể nói rằng: tôi chỉ lo yêu mến Chúa mà thôi, vì Ngài là Đấng trọn hảo. Tôi khó yêu người hay tôi chỉ yêu một số người đáng yêu mà thôi, bởi vì con người thì gian ác, lừa lọc, thấp hèn. Những lý luận đó không chấp nhận được, vì một tình yêu không trọn vẹn nơi con người thì tình yêu ấy cũng không trọn vẹn nơi Thiên Chúa.
Đàng khác, mến Chúa và yêu người không phải là hai điều răn mới, vì đã được ghi từ lâu trong Cựu Ước. Điều mới mẻ ở đây là Chúa Giêsu đặt hai điều răn từ hai nơi khác nhau lại bên cạnh nhau, và “táo bạo” hơn, đặt ngang hàng: yêu người cũng như yêu Chúa. Thông thường ai cũng nghĩ mến Chúa quan trọng hơn yêu người, và cần mến Chúa trước rồi mới yêu người sau. Nhưng ở đây Chúa Giêsu không muốn tách biệt hai tình yêu, bởi vì chính Ngài đã làm công việc kết hợp. Vì thế, điều răn quan trọng nhất là luật yêu: yêu Chúa và yêu người. Sau đây là hai điều chúng ta cần suy nghĩ và ghi nhớ.
Thứ nhất, điều răn yêu thương phải là hơi thở, phải là lối sống của người Ki-tô hữu. Tình yêu Chúa được sưởi ấm ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân gặp gỡ, giao tiếp trong cuộc sống. Tình yêu tha nhân cũng là mực thước để kiểm nghiệm tình yêu của chúng ta đối với Chúa trung thực đến độ nào. Cách sống đầy đủ của chúng ta phải gồm cả hai vế: mến Chúa và yêu người, không thể bỏ vế nào được. Sở dĩ phải nói như thế vì ngày nay khá nhiều người vô tình hay hữu ý hiểu sai đi. Có những người cho rằng đi lễ không ích lợi bằng ở nhà giúp đỡ người khác, hoặc đi lễ có ích lợi gì khi không sống được tình bác ái.
Có những người tuy không chủ trương theo nghĩa lý thuyết, nhưng cách sống lại nói lên điều ngược lại: siêng năng đi lễ, thậm chí hằng ngày nữa, nhưng lại sống quá ích kỷ, quá tham lam, quá xấu với những người chung quanh. Cả hai thái độ đó đều sai, vì không có lòng yêu Chúa đích thực nào mà lại không có lòng yêu tha nhân là hình ảnh Chúa, và cũng không có lòng yêu thương đích thực nào mà không phát xuất từ lòng yêu Chúa. Nếu không thực hiện đồng thời cả hai thì không phải là tình yêu đích thực.
Điều thứ hai, yêu Chúa có thể nói: dễ hơn, vì Chúa dễ yêu lắm. Ai yêu Chúa cũng được, và yêu Chúa hết lòng, hết sức. Còn yêu người: khó hơn. Làm sao có thể thương yêu một người vừa mới làm thiệt hại của cải, vừa mới xúc phạm đến danh dự của ta ? Làm sao có thể yêu được người vừa mới công khai nói hành nói xấu mình ? Sự thù hận, giận ghét nhiều khi lại thường xuyên có mặt ngay trong một mái nhà, nơi những người ruột thịt sống chung. Người ta có thể dễ dàng bố thí cho những người nghèo khổ, dễ dàng bày tỏ tình thương đối với những người không quen biết, thế nhưng người ta cũng rất sẵn sàng loại nhiều người ở gần ra khỏi đối tượng tôi phải yêu, đó là cha mẹ, ông bà, vợ chồng, con cái, anh chị em..v.v..Không thiếu gì cảnh cha mẹ bị con cái đối xử tệ bạc, vợ chồng, anh chị em cãi nhau, chửi bới nhau, đánh lộn nhau.
Hôm nay, mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta đã sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh như thế nào ? Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt, nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống rất lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác, nhưng trong gia đình thì lại rất thiếu sót. Cũng thế, chúng ta hãy suy nghĩ xem: tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt, ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không ? Chúng ta hãy nhớ: tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Yêu người, yêu thương nhau là chứng tích cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau, thì không ai đánh giá sai lầm về đạo của chúng ta.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
----------------------------------
- Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
(Xh 22,21-27; 1Th 1,5c-10; Mt 22,34-40)
I. Phúc Âm: Mt 22, 34-40
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
II. Suy NiỆm:
Mọi người đều biết, các giới răn của đạo ta quy về hai việc mến Chúa và yêu người. Nhưng muốn biết: TN30-A67.
Mọi người đều biết, các giới răn của đạo ta quy về hai việc mến Chúa và yêu người. Nhưng muốn biết phải mến Chúa thế nào và yêu người làm sao thì phải dựa vào Thánh Kinh. Những bài đọc Thánh Kinh hôm nay cũng nói về hai điều đó. Tuy là những bài viết ở những thời đại khác nhau và đã xưa rồi; nhưng suy nghĩ, chúng ta càng nhận thấy tính cách trường cửu của Lời Chúa.
Bài sách Xuất hành đưa chúng ta trở về thời Cựu Ước xa xưa. Chúng ta sẽ ngạc nhiên về tính cách nhân đạo của nếp sống đạo đức thời bấy giờ. Và chúng ta sẽ hiểu bối cảnh của bài Tin Mừng hơn để nhận ra uy tín của Ðức Kitô khi khẳng định về luật mến Chúa yêu người. Cuối cùng thư Phaolô sẽ cho chúng ta thấy gương sáng của một giáo đoàn biết đón nhận và thi hành Lời Chúa.
A. Trước Hết, Thời Xưa Ðã Có Nhân Ðạo
Chúng ta thường nghĩ rằng ngày xưa người ta chỉ biết lấy mắt trả mắt, răng đền răng. Hơn nữa chúng ta còn dám so sánh và cho rằng ở những thời đại xa xưa của Abraham, Môsê và Ðavít, người ta chỉ cư xử với nhau bằng luật rừng, chứ không thể cư xử với nhau theo tình bác ái. Bài sách Xuất hành hôm nay khiến chúng ta phải dè dặt hơn.
Dĩ nhiên đây không phải là những luật đã được ban bố vào thời Xuất hành. Người ta quen lấy những luật ở những thời đại về sau đem cắm vào những thời đại trước và đặt nơi môi miệng của nhà luật pháp trứ danh là Môsê để chúng được thêm uy tín. Tuy nhiên chúng vẫn căn cứ vào biến cố Xuất hành như ta thấy ở ngay câu đầu tiên trong bài đọc hôm nay.
Chúa truyền cho dân: "Khách cư ngụ, ngươi không được ngược đãi và áp bức nó, vì các ngươi đã là khách cư ngụ ở đất Aicập". Và Người dạy không được ức hiếp mẹ góa con côi, kẻo nó kêu lên Người thì khí nộ Người bốc lên làm cho người ta rơi vào cảnh vợ góa con côi.
Chúng ta thử đặt các lệnh truyền này vào thời đại của chúng cách đây ít nhất cũng phải gần 3,000 năm. Ðó không phải là nhân đạo và văn minh sao? Nhất là luật tiếp theo. Phải cho vay mà không được lấy lãi. Ðược giữ vật thế chân để tránh sự lạm dụng, nhưng những đồ cầm đó phải trả lại trước khi mặt trời lặn, kẻo đêm lạnh người nghèo không có áo làm mền.
Thật, ngày xưa đã có những luật không cho phép người ta bóc lột nhau. Nhưng ở đây không phải chỉ có vấn đề nhân đạo, mà còn có cơ sở đạo đức. Chúa dạy dân phải giữ các lệnh truyền bác ái, không phải vì mọi người là đồng loại, hoặc vì phải nhớ lại hồi trước dân đã từng là nạn nhân của nhiều sự bóc lột, nhưng nhất là vì Thiên Chúa là Ðấng lân tuất. Người luôn luôn xót thương và bênh vực những kẻ khó nghèo và yếu thế. Người chống lại bóc lột. Người đòi cho mọi người được bình đẳng vì tất cả đều là hình ảnh của Người. Người ta muốn đẹp lòng Người thì phải săn sóc đến tha nhân. Người không tách rời lòng đạo đức và tình đồng loại. Người không đồng hóa hai vấn đề mến Chúa và yêu người; nhưng Người chỉ chấp nhận những lòng mến Chúa đồng thời cũng thương người.
Ý định của Thiên Chúa thì rõ rệt như vậy; nhưng thường khi người ta lại không thi hành. Ngay ở trong Dân Chúa, bất công xã hội và bóc lột những kẻ yếu hèn là chuyện không hiếm hoi. Các tiên tri của Chúa phản ứng mạnh mẽ, nhưng cho đến thời Chúa Yêsu vẫn còn có những khuynh hướng pháp luật muốn tách rời hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Thậm chí người ta còn muốn căn cứ vào lòng mến Chúa để coi nhẹ bổn phận thương người. Ðọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay chúng ta sẽ thấy như vậy.
B. Cả Hai Giới Răn Ðều Quan Trọng
Mở đầu, thánh Matthêô đã cho chúng ta thấy bầu khí tranh chấp đố kỵ của thời Ðức Yêsu. Người theo Biệt phái, kẻ theo Sađốc phái. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ gặp nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội, cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản: 248 lệnh truyền và 365 điều cấm. Nhưng khoản nào trọng hơn khoản nào và khoản nào quan trọng hơn hết? Ðó là vấn đề sôi bỏng. Tùy theo người ta nghiêng về phụng vụ hay xã hội, về Ðền thờ hay về đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ Biệt phái hay Sađốc phái, thái độ dè dặt hay hợp tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Ðức Yêsu. Lập trường của Người rất quan trọng, vì dân chúng sẽ tùy đó mà biểu lộ cảm tình với phe nào. Nhưng tuyên bố lập trường ấy ra cũng thật nguy hiểm cho Người. Phe đối địch sẽ có thêm chứng cớ để tiêu diệt Người.
Tuy nhiên đó chỉ là những suy tính của người ta. Ðã nhiều lần họ gài bẫy Người. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Ðược hỏi ý kiến về giới răn trọng nhất. Người trả lời như hết mọi người Dothái đạo đức: Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, và hết lòng trí ngươi. Ðó là câu trong sách Thứ luật (6,5), là kinh nguyện hằng ngày của Dân Chúa. Nhưng Ðức Yêsu không dừng lại ở đó. Người còn nói tiếp: Ðó là giới răn thứ nhất. Thứ đến cũng quan trọng như vậy, là ngươi phải thương đồng loại như chính mình. Người không đồng hóa hai việc mên Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, nhưng quan trọng như nhau; và vì thế không được sao nhãng nhiệm vụ nào. Nét độc đáo trong câu trả lời tức là lập trường của Ðức Kitô là ở chỗ đó. Người ta vẫn nói phải mến Chúa và thương người, phải có thiên đạo và nhân đạo. Nhưng thông thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ rời nhau, những bổn phận không liên lạc gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong Ðền thờ và không thương người ngoài xã hội hoặc thương người nơi xã hội nhưng lại không mến Chúa trong Ðền thờ. Nhất là người ta quen coi thương người là thứ yếu sánh với nhiệm vụ phải mến Chúa.
Ðối với Ðức Kitô thì không được như vậy. Phải thương người cũng như mến Chúa. Ưu tiên là mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Sau này thánh Yoan sẽ giải thích: không thể có lòng mến Chúa vô hình nếu không thương người hữu hình (1Yn 4,20). Và khi dạy phải thương người như chính mình, Ðức Yêsu không có ý bảo phải thương mình trước, hay cũng phải thương cả tha nhân nữa. Câu nói của Người có nghĩa rằng: phải thương người hết mình như đã mến Chúa hết linh hồn.
Cuối cùng một nét độc đáo nữa trong câu trả lời của Ðức Yêsu là: tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người ấy. Và như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể mọi lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa và yêu người.
Vấn đề tranh chấp xưa nay giữa các phe nhóm đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng nhưng nhóm nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn Lề luật. Nói đúng ra phe nhóm nào cũng đã lầm lạc. Khi đã không coi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa và thương người như nhau, người ta đã làm mất quân bình, gây ra lệch lạc trong đời sống. Ðức Yêsu đã mang ơn cứu độ đến. Ai đón nhận thì phải mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Thái độ đó, một phần nào chúng ta có thể nhìn thấy nơi giáo đoàn Thessalônikê của thánh Phaolô, mà bài thư hôm nay như muốn nói lên.
C. Một Gương Thực Hành
Có thể nói đây là những đoạn văn đầu tiên của bộ sách Tân Ước. Phaolô đã viết bức thư này trước hết vào khoảng năm 51, tại nhà Aquila sau khi Timôthê đã mang mực và da thuộc đến. Lần đầu tiên biên thư cho một giáo đoàn, nên Phaolô có một thái độ trịnh trọng đạo đức, và hầu như phụng vụ nữa.
Người tạ ơn Chúa vì sự sống đạo nơi giáo đoàn ấy. Giáo đoàn Thessalônikê vừa bắt chước Chúa vừa bắt chước các Tông đồ. Họ sống kết hợp với Chúa nhưng cũng kết hợp với các Tông đồ vì họ đã thấy các Tông đồ đến lo việc của Chúa ở nơi họ nhưng đồng thời đã tỏ ra đầy tinh thần phục vụ họ. Mến Chúa và yêu người không phải là hai phận sự tách biệt, nhưng cũng quan trọng như nhau và phải tiến hành đồng đều. Chính vì vậy mà tiếng tăm của giáo đoàn này đã bay đi khắp nơi và Thessalônikê đã trở thành giáo đoàn gương mẫu. Mọi nơi đều ca ngợi họ về hai điểm: đón nhận Lời Chúa cũng như đón nhận các Tông đồ. Họ vừa mến Chúa vừa thương người, vừa kết hợp với Chúa vừa hiệp nhất với nhau.
Cảm động và chân thật hơn nữa là thái độ đón nhận này quả thật rất siêu nhiên, vì là đón nhận giữa bao nỗi gian truân, nhưng lại hoan hỷ trong Thánh Thần. Ðiều này làm chứng Tin Mừng mà Phaolô đem đến không phải là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa. Dân Thessalônikê đón nhận không phải vì thấy đó là lời lẽ khôn ngoan xác thịt, nhưng là Lời có sức mạnh của Thần Khí. Họ phải lướt thắng nhiều khó khăn để đón nhận và đón nhận vui vẻ. Thế nên họ thật đã tham dự vào mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa. Họ đã lãnh nhận được chính ơn cứu độ của mầu nhiệm thập giá. Phaolô đánh giá việc họ đón nhận là việc bắt chước Chúa Yêsu và các Tông đồ; bởi vì khi đón nhận Lời Chúa trong gian truân mà vui vẻ thì rõ ràng người ta đã bắt chước các Tông đồ trong việc dạn dĩ rao giảng Lời Chúa giữa ngăn cấm và đe dọa. Nói cách khác, lòng mến Chúa và thương người nơi giáo đoàn Thessalônikê không theo lẽ thế gian nhưng tựa vào sức mạnh của Thánh Thần. Ðó là nếp sống đạo chân thật vì hoàn toàn siêu nhiên. Phaolô có lý do để hãnh diện vì nếp sống đạo ấy. Người tạ ơn Chúa thật là phải lẽ. Và người không nói sai khi tuyên bố đó là nếp sống phải trở nên gương mẫu cho mọi giáo đoàn.
Chúng ta nghĩ sao về các lời Kinh Thánh ấy? Chúng ta đã thâm tín tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người. Ðó vẫn là hai việc khác nhau: không thể coi mến Chúa là thương người; và cũng không được coi thương người là mến Chúa. Nhưng đó là hai việc quan trọng như nhau; phải thi hành cả hai, phải quý cả hai như một; phải kết hiệp với Chúa và đồng thời cũng phải hợp nhất với mọi người.
Giáo xứ chúng ta có được như giáo đoàn Thessalônikê không? Gặp gian truân, khó khăn, chúng ta có "bắt chước" Chúa và các Tông đồ không? Có giữ đạo và đời không? Có vừa làm tốt đời và đẹp đạo không? Biết đâu những lời trong bài sách Xuất hành không đang còn có giá trị khẩn trương? Chung quanh chúng ta có những đồng bào mới đến. Những anh chị em ấy có được lập tức đón nhận như đồng bào ruột thịt không? Những cảnh mẹ góa con côi cũng không hiếm ở giữa chúng ta. Và chắc chắn nhiều người đang lâm cảnh vay mượn và cần giúp đỡ. Lòng nhân đạo khi gặp khó khăn có vươn lên được nhờ sự giúp đỡ của đức tin không?
Các tín hữu ở Thessalônikê đã nhờ việc "bắt chước" Ðức Kitô mà có một nếp sống đạo chân thực và tốt đẹp. Giờ đây, Ðức Kitô đến hiện diện trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh nơi bàn thờ. Chúng ta muốn tham dự vào mầu nhiệm của Người. Nhưng việc tham dự này chỉ chân thật khi chúng ta quyết tâm bắt chước cuộc đời của Ðức Kitô. Chúng ta sẽ làm chứng mình đã tham dự thánh lễ chân thật, nếu sau khi về nhà, chúng ta sẽ sống tốt cả hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Chúng ta sẽ là Kitô hữu tốt khi chu toàn các bổn phận đối với cả đạo và đời. Xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta.
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
BÀI ĐỌC THÊM:
Giáo Lý vỀ ThÁnh Phaolô
Chúa Kitô phỤc sinh, nỀn tẢng giáo huẤn cỦa thánh Phaolô
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý mới thứ chín của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô trong buổi Triều Yết Chung ngày 22-10-2008 tại Sảnh Đường Phaolô VI.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha Biển Đức đã đề cập tới giáo huấn của thánh Phaolô về Chúa Kitô phục sinh trong mầu nhiệm cứu độ. Thật thế Chúa Giêsu Kitô phục sinh được nâng cao trên mọi danh hiệu là trung tâm mọi suy tư của thánh nhân. Đối với thánh tông đồ Chúa Kitô là tiêu chuẩn lượng định các biến cố và sự vật, là tiêu đích mọi cố gắng loan báo Tin Mừng của người, là nỗi đam mê lớn lao nâng đỡ bước chân truyền giáo của thánh nhân trên các nẻo đường thế giới. Đó là một Chúa Kitô sống động, ”Đấng đã yêu thương tôi và đã chết vì tôi” (Gl 2,20), tôi có thể nói chuyện với Người, vì Người lắng nghe tôi và trả lời tôi: đây thực là nguyên lý giúp hiểu thế giới và tìm ra lối đi trong dòng lịch sử.
Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Ai đã đọc các bút tích của thánh Phaolô thì biết rõ thánh nhận không lo lắng kể lại các sự kiện riêng rẽ trong cuộc đời của Chúa Giêsu, cả khi chúng ta có thể nghĩ rằng trong các bài giáo lý thánh nhân đã kể lại nhiều điều về Đức Giêsu thời trước lễ vượt qua hơn là những gì thánh nhân viết trong các thư, gồm những lời cảnh cáo tín hữu trong các trường hợp cụ thể. Chủ ý mục vụ và thần học hướng tới chỗ xây dựng các cộng đoàn mới nảy sinh, do đó thánh nhân tập trung tất cả chú ý váo việc loan báo Đức Giêsu Kitô là Chúa đang sống và hiện diện giữa các tín hữu. Từ đây phát xuất ra đặc thái chính trong nền kitô học phaolô, khai triển sâu rộng mầu nhiệm với một nỗi lo lắng chính xác duy nhất: đó là loan báo Đức Giêsu Kitô là Chúa, loan báo Đức Giêsu sống động và giáo huấn của Người, và nhất là loan báo thực tại nòng cốt cái chết và sự sống lại như là tột đỉnh cuộc sống trên trần gian của Người và như là gốc rễ sự phát triển tiếp theo đó của lòng tin kitô, của toàn thực tại Giáo Hội. Đối với thánh tông đồ sự sống lại không phải là một biến cố riêng rẽ tách rời khỏi cái chết: Đấng Phục sinh vẫn luôn luôn là Đấng trước đó đã bị đóng đanh. Cả khi đã sống lại Người vẫn mang các vết thương: cuộc khổ nạn hiện diện nơi Người và chúng ta có thể nói như Pascal rằng Người đau khổ cho tới ngày tận thế, tuy vẫn là Đấng đã sống lại và dang sống với chúng ta và cho chúng ta. Sự đồng hóa này của Đấng Phục sinh với Đức Kitô chịu đóng đanh, thánh Phaolo đã hiểu trong biến cố gặp gỡ Người trên đường đến thành Damasco: trong lúc đó Người mặc khải cho thánh nhân một cách rõ ràng rằng Đấng Bị Đóng Đanh là Đấng Phục Sinh và Đấng Phục Sinh là Đấng Bị Đóng Đanh, Đấng đã hỏi Phaolo: ”Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9,4). Phaolô đang bắt bớ Đức Kitô trong Giáo Hội, và khi đó hiểu rằng thập giá là ”một chúc dữ của Thiên Chúa” (Dt 21,23) nhưng là hiến tế cứu chuộc chúng ta.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: khi chiêm ngắm bí mật dấu ẩn của Đấng Bị Đóng Đanh Phục Sinh và qua các khổ đau mà Chúa Kitô sống trong bản tính nhân loại của Người (chiều kích trần gian), thánh Phaolô lần lên cho tới cuộc sống vĩnh cửu, trong đó Chúa Kitô là một với Thiên Chúa Cha (chiều kích trước thời gian). Thánh nhân viết: ”Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận đươc ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Hai chiều kích của cuộc sống vĩnh cửu: trước kia bên Thiên Chúa Cha và biến cố Chúa nhập thể xuống trần, đã đươc báo trước trong Kinh Thánh Cựu ước, trong gương mặt của sự Khôn Ngoan. Trong các sách khôn ngoan của Cựu Ước chúng ta tìm thấy vài văn bản ca tụng vai trò của Sự Khôn Ngoan có trước việc tạo dựng thế giới. Chẳng hạn Thánh Vịnh 90: ” Ngay cả khi đồi núi chưa được dựng nên, địa cầu và vũ trụ chưa được tạo thành, Ngài vẫn là Thiên Chúa, từ trước muôn thuở cho đến muôn đời” (TV 90,2), hay văn bản sách Châm Ngôn tả sự Khôn Ngoan tạo dựng: ”Giavê đã dựng nên ta như tác phẫm đầàu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất. Ta đã được tấn phong từ đời đời, từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất” (Cn 8,22-23). Sách Khôn Ngoan cũng viết: ”Từ chân trời này, Đức Khôn Ngoan vươn mạnh tới chân trời kia, cai quản mọi loài thật tốt đẹp” (Kn 8,1).
Các văn bản của nền văn chương khôn ngoan khi nói về cuộc sống từ đời đời của Đức Khôn Ngoan, cũng đề cập tới biến cố Đức Khôn Ngoan hạ thấp xuống trần và cắm lều sống giữa con cái loài người. Và như thế chúng ta đã nghe vang vọng các lời trong Phúc Âm thánh Gioan nói tới cái lều của thịt xác Chúa. Người đã tạo ra một cái lều trong Cựu Ước là đền thờ, là phụng tự theo Lề Luật Do thái Torah. Nhưng từ quan điểm của Tân Ước chúng ta có thể hiểu đó chỉ là hình ảnh diễn tả trước cái lều thực tế và có ý nghĩa hơn là thịt xác Chúa Kitô. Trong các văn bản cựu ước chúng ta cũng thấy rằng việc Đức Khôn Ngoan hạ mình xuống thế cũng kéo theo khả thể bị khước từ. Khi khai triển nền kitô học, thánh Phaolô đã nhắc tới viễn tượng này của các văn bản khôn ngoan: thánh nhân nhận biết nơi Đức Giêsu sự khôn ngoan vĩnh cửu đã có từ đời đời, sự khôn ngoan xuống thế và tạo ra cho mình một căn lều giữa chúng ta, và như thế thánh nhân có thể miêu tả Chúa Kitô như là ”quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1, 24,30). Cũng thế, thánh nhân minh giải rằng cũng giống như Đức Khôn Ngoan, Chúa Kitô có thể bị khước từ, đặc biệt từ phía những người thống trị thế giới này (x. 1 Cr 2,6-9), đến độ có thể tạo ra trong các chương trình của Thiên Chúa một hoàn cảnh hoàn toàn mâu thuẫn: thập giá biến thành con đường trao ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
ức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Có một sự phát triển sau này của chu kỳ các văn bản khôn ngoan trông thấy Đức Khôn Ngoan tư hạ vì chúng ta để rồi được cất nhắc lên cao, mặc dù bị khước từ. Đó là văn bản nổi tiếng trong thư gửi tín hữu Philiphê (x. Pl 2,6-11). Đây là một văn bản cao đẹp nhất của toàn Kinh Thánh Tân Ước. Đa số các nhà chú giải đều đồng ý cho rằng văn bản này đã được sáng tác trước thư gửi tín hữu Philiphê. Sự kiện này rất quan trọng, vì nó có nghĩa là kitô giáo do thái trước thánh Phaolô đã tin nơi thiên tính của Đức Giêsu. Nói cách khác, lòng tin nơi thiên tính của Đức Giêsu không phải là một sáng chế hy lạp, nảy sinh ra lâu năm sau cuộc sống dương thế của Đức Giêsu, một sáng chế lãng quên nhân tính của Người để thần thánh hóa Người. Chúng ta thấy trên thực tế Kitô giáo do thái tiên khởi đã tin nơi thiên tính của Đức Giêsu; còn hơn thế nữa, chính các Tông Đồ trong những thời điểm quan trọng cuộc sống của Thầy mình, các vị đã hiểu rằng Người là Con Thiên Chúa, như thánh Phêrô đã nói tại Cesare Philiphê: ”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Thư gửi tín hữu Philiphê bao gồm ba đoạn minh giải các thời điểm chính trong cuộc đời Chúa Kitô: sự hiện hữu từ đời đời của Người, sự tự hạ của con Thiên Chúa và cái chết vâng phục: “Đức Giêsu Kitô vồn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trị địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhận, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Đoạn thứ ba loan báo lời đáp trả của Thiên Chúa đối với sự tự hạ của Con mình: đó là siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt hơn muôn ngàn danh hiệu” (2,9). Sự tự hạ của Con Thiên Chúa trái ngược với yêu sách của Adam muốn ngang hàng với Thiên Chúa, và trái ngược với yêu sách của những người muốn xây tháp Babel chọc lên tới trời, và ngang hàng với Thiên Chúa.
Nhưng sự kiêu căng đó kéo theo sự tự hủy: không thể lên tới trời, tới hạnh phúc đích thật và tới Thiên Chúa như thế được. Cử chỉ của Con Thiên Chúa hoàn toàn ngược lại: tình yêu hiện thực, tình yêu của Thiên Chúa hiện thực không phải với sự kiêu căng, nhưng với lòng khiêm tốn. Sáng kiến tự hạ khiêm tốn triệt để của Chúa Kitô thực sự diễn tả tình yêu của Thiên Chúa. Và tiếp theo đó là biến cố nâng lên trời, Thiên Chúa kéo chúng ta lên với tình yêu của Người.
Có nhiều văn bản khác trong các thư của thánh Phaolô đề cập tới biến cố Con Thiên Chúa hiện hữu từ đời đời và xuống thế. Và Đức Khôn Ngoan được đồng hóa với Chúa Kitô (1 Tm 2,5)
Trong thư gửi tín hữu Côlôxê Chúa Kitô được định tính như là ”trưởng tử giữa mọi loại thụ tạo” (1,15-20), xuống thế để lôi kéo chúng ta và biến chúng ta trở thành đàn em đông đủc của Người. Thư gửi tín hữu Ephexô giới thiệu chương trình cứu độ của Thiên Chúa: nơi Chúa Kitô Thiên Chúa muốn thâu tóm mọi sự (Ep 1,23). Chúa Kitô gồm tóm mọi sự và dẫn đưa chúng ta tới với Thiên Chúa. Việc đi lên và đi xuống của Người mời gọi chúng ta tham dự vào sự khiêm hạ của Người, nghĩa là yêu thương tha nhân để cũng được chia sẻ vinh quang của Người và trong Người trở thành con cái Thiên Chúa.
V ĐTC Bênêđictô XVI
Chuyển ngữ Linh Tiến Khải
----------------------------------
Đ.Ô. Phêrô Nguyễn Văn Tài
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy": TN30-A68
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
***
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.
Đ.Ô. Phêrô Nguyễn Văn Tài
***
Lạy Chúa,
Ước gì con có thể yêu Chúa
Bằng một trái tim sốt mến,
Dứt khoát hiến dâng!
Ước gì con biết yêu Chúa vì Chúa
Và ở lại trong tình yêu Chúa
Như những nhà thần bí lớn đã biết yêu Chúa...
Chớ gì con có thể đồng thời yêu anh em
Bằng một trái tim nhân từ, niềm nở thủy chung,
Vì Chúa, vì anh em,
Mà vẫn đơn sơ, chân thành,
Ân cần săn sóc, hoà mình với họ,
Luôn sẵn sàng yêu mỗi người,
Yêu mọi người, xem tất cả là Dân Chúa.
Chớ gì con biết yêu anh em
Như Chúa yêu họ, như Chúa yêu con....
Song lạy Chúa, đâu có dễ như vậy
Đối với trái tim phàm hèn con,
Bao giờ cũng chứa đầy tự ái,
Có lúc lạnh lùng như sắt đá,
Có lúc quá trớn bồng bột..
Jean Dozolme
--------------------------------
Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho: TN30-A69
Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại. Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa; có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em? Họ cũng thất bại. Chưa chịu thua. Lần này như bài Phúc Âm thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu. Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất? Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả.Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào lớn nhất? Lớn nhất tức là quan trọng nhất. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.
Chúa Giêsu đã trả lời rất xuất sắc: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hềt lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Dnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.
Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.
Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.
Yêu người thân cận như chính mình, điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy.
Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.
-Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.
-Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.
-Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.
-Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.
-Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quãng đại.
Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu, yêu Chúa và yêu người. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Có câu chuyện kể rằng: Một ông vua kia có một thư viện rất lớn, trong đó lưu trữ rất nhiều sách vở quý giá như một kho tàng trí thức của nhân loại. Nhà vua muốn đọc tất cả các sách, nhưng không sao đọc được như ý muốn. Một hôm vua cho triệu tập các nhà bác học, các thầy dạy đạo lại để yêu cầu họ tóm gọn lại tất cả các sách thánh hiền thành một ngàn quyển thôi. Nhưng sau đó, vua vẫn thấy số đó là nhiều, nên yêu cầu họ tóm lại thành một trăm. Nhưng rồi vẫn thấy còn nhiều, vua yêu cầu họ tóm lại các tư tưởng thánh hiền trong một quyển mà thôi. Các nhà thông thái đều bối rối, không biết phải tóm ra sao, vì tất cả các sách thánh hiền đều đã được thu gọn vào nhiều chủ điểm tinh hoa nhất trong một trăm cuốn, không thể tóm gọn hơn được nữa. Trong lúc đang bế tắc, thì một cụ già thông thái đã đứng lên phát biểu: "Thưa quý vị, phàm ở đời thì hai điều quan trọng nhất là tín và nghĩa. Đây là mục đích của tất cả các sách thánh hiền xưa cũng như nay. Tín là sự tin tưởng dành cho Ông Trời và nghĩa là cách ăn ở có trước có sau dành cho người đời. Nói cách khác, đó là lòng mến Chúa và đức yêu người. Hai điều này là bản tóm lược toàn bộ Thánh Kinh. Như vậy Thánh Kinh là cuốn sách hay nhất và là bản tóm của tất cả các sách thánh hiền xưa nay". Nghe vậy, toàn thể những người hiện diện đều đồng ý. Còn bạn, bạn có thấy Thánh Kinh là sách dạy chúng ta về lòng mến Chúa và yêu người đầy đủ và có giá trị nhất hay không ? Bạn nên có thái độ nào đối với Lời Chúa trong Thánh Kinh, để nhờ đó, chúng ta có thể sống được tình mến Chúa yêu người ?
Đức Cha Giuse Võ Đức Minh là Đại diện HĐGM Việt Nam tại Thượng HĐGM thế giới lần thứ 13 về Lời Chúa. Trong bài tham luận sáng ngày 11-10-2008, ngài nói:
”Lời Chúa giúp khám phá chân dung đích thực của Chúa Giêsu Kitô, hiện thân tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, qua mầu nhiệm thập giá. Do kinh nghiệm đau thương mà Giáo Hội của Chúa Kitô tại Việt Nam cảm nghiệm, mầu nhiệm Thánh Giá không những trở nên gần gũi với đời sống thường nhật, nhưng còn là nhân tố thiết yếu qui tụ dân Chúa. Vốn thừa hưởng nền văn hóa ngàn năm về việc ”tôn kính tổ tiên” biểu lộ lòng hiếu thảo của dân tộc chúng tôi, các tín hữu Công Giáo, để cử hành lễ giỗ của người thân trong gia đình, thường lấy hứng từ Bữa Tiệc Ly, từ cuộc Thương Khó, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, gương của Chúa đánh động sâu xa tâm hồn người Việt Nam. Các trình thuật về những thử thách mà các Tổ Phụ và Ngôn Sứ, đặc biệt là ông thánh Gióp trong Cựu Ước, và của Đức Mẹ Maria, thánh Giuse và các thánh tông đồ trong Tân Ước đã chịu đựng, tiếp tục nâng đỡ đức tin của các tín hữu Công Giáo.
Lời Chúa, sinh động trong dòng lịch sử Giáo Hội của Chúa Kitô tại Việt Nam, đã trở thành nguồn hy vọng cho các tín hữu bị bách hại. Kinh nghiệm của các vị Tử Đạo và các thế hệ các vị chủ chăn, tu sĩ và giáo dân, là một bằng chứng hùng hồn. Để diễn tả chân lý đó, ĐTC Biển Đức 16, trong thông điệp Spe salvi, đã trích dẫn đích danh hai người Việt Nam, đó là thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, và ĐHY rất đáng thương tiếc Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận”.
Trong bài phát biểu sáng 14-10-2008 tại Thượng HĐGM thế giới, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, đã đề cao sự nâng đỡ của Lời Chúa cho các tín hữu Công Giáo tại Việt Nam, giữa các cơn thử thách, bách hại.
Trước sự hiện diện của ĐTC và 241 nghị phụ, Đức cha nói:
Giáo Hội tại Việt Nam, một trong những Giáo Hội bị thử thách nặng nề nhất vì các cuộc bách hại đẫm máu và liên tục. Bị đẩy vào trong một lịch sử dệt bằng hận thù, chiến tranh ý thức hệ và những hạn chế kỳ thị, các tín hữu Công Giáo chúng con ngày càng xác tín rằng chỉ có Lời Chúa mới có thể giữ chúng con ở lại trong tình thương, trong an vui, hiệp thông và bao dung.
Con cũng đau lòng mà thưa với ĐTC và các nghị phụ rằng cho đến nay Việt Nam chiếm hàng đầu về các vụ phá thai. Nhưng điều đáng nói là thảm trạng này đã khơi lên nơi các tín hữu Công Giáo phong trào ”bênh vực sự sống”: họ đi tìm các bào thai bị phá trong các nhà thương, rửa tội cho các bào thai ấy nếu còn sống thoi thóp, và thành lập các nghĩa trang để an táng. Ban đầu, hành động này bị chính quyền và các vị lãnh đạo nhà thương coi là tội ác, khiến cho các tín hữu Công Giáo phải hành động bí mật. Nhưng nay, tuy nhà chức trách chưa cho phép, nhưng họ để cho làm. Vài nhà làm điện ảnh đã quay thành những phim tài liệu và các ký giả ca ngợi việc làm ấy của các tín hữu Công Giáo trên các cơ quan truyền thông. Tại sao có sự tiến bộ như vậy? Thưa vì người ta nhận rõ hơn chứng tá của các tín hữu Công Giáo, những người sống Lời Chúa, và dưới ánh sáng của Lời ấy, họ tôn trọng sự sống.
Lời Chúa là sự sống cho con người mọi nơi và mọi thời. Xin dâng lên Chúa những tâm tình cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.
Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn rộng mở.
Lạy Chúa là Thần Khí sự sống và là tình yêu,
Xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống,
để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp cao quý
và biết ghét những điều đê tiện xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống,
để mỗi giây phút sống,
con đều cảm nhận đựơc niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa sự sống vào tình yêu
để từng giây phút yêu,
con đều làm cho đời sống thêm giá trị.
Cuối cùng,
xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một,
để sống là yêu và yêu là sống,
vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống
cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen
--------------------------------
Phaolô Phạm Xuân Khôi
Chú giải Thánh Thư Chúa Nhật XXX TN – A (1 Tx 1, 5c-10)
Trong bài Thánh Thư tuần trước, Thánh Phaolô nói đến quyền năng của Chúa Thánh Thần trong việc: TN30-A70
Trong bài Thánh Thư tuần trước, Thánh Phaolô nói đến quyền năng của Chúa Thánh Thần trong việc rao giảng Tin Mừng đồng thời nhắc cho các tín hữu Thêxalônica rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và việc họ đáp trả tình yêu này bằng ba nhân đức Tin, Cậy và Mến như thế nào. Bài đọc tuần này tiếp tục phần mở đầu của Thư Thứ Nhất của Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônica. Trong đó ngài cám ơn họ vì sự tiếp đãi nồng hậu họ đã dành cho ngài. Đồng thời ngài ca ngợi họ về việc họ noi gương các ngài làm tông đồ bằng gương sáng thay vì bằng lời nói. Nhờ họ đã sống đạo một cách gương mẫu như thế mà Lời Thiên Chúa được lan ra khắp vùng, tạo điều kiện dễ dàng cho các Tông Đồ khi đi rao giảng.
5c - Khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em.
Trong câu này Thánh Phaolô nhắc lại cách ngài đã sống và cư xử với mọi người khi còn ở Thêxalônica. Một vị tông đồ chân chính là người sống những điều mình rao giảng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Câu này không những thích hợp cho các tông đồ, như các linh mục, mà còn cho tất cả những ai có nhiệm vụ giáo huấn người khác, kể các cha mẹ, các thầy cô, các Giáo Lý viên và các bậc huynh trưởng. Chúng ta không mong con cái mình chân thật nếu chính mình lại nói dối. Chúng ta không hy vọng học sinh vâng lời chúng ta khi chính mình lại chống đối bề trên. Chúng ta không mong giáo dân đạo đức khi chủ chăn nguội lạnh. Chúng ta không mong gì con cái yêu Chúa khi cha mẹ yêu tiền hơn Chúa. Chúng ta không mong có học sinh tốt khi thầy cô xấu….
Câu 6 - Và anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân, với lòng hân hoan trong Thánh Thần,
Anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa – Thánh Phaolô không nói rằng noi gương Chúa trước rồi mới noi gương chúng tôi, mà ngài đặt gương của chúng tôi trước gương của Chúa. Thật ra gương của chúng ta cũng là gương của Chúa vì chúng ta là công cụ Chúa dùng để mọi người thấy Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tấm gương phản chiếu hình ảnh Chúa cho mọi người. Ngày nay người ta không còn trực tiếp gặp Đức Kitô nữa, nhưng gặp Người qua các Kitô hữu. Nếu hình ảnh của Chúa nơi chúng ta bị lu mờ hay méo mó thì người khác cũng thấy Chúa lu mờ hay méo mó qua chúng ta. Thánh Phaolô nhiều lần nhắc nhở các tín hữu phải theo gương ngài. “Chính anh em biết rằng anh em phải theo gương chúng tôi; chúng tôi đã không sống vô kỷ luật khi ở giữa anh em. Chúng tôi cũng đã không ăn bánh của ai mà không trả tiền, nhưng chúng tôi đã vất vả khổ cực làm việc đêm ngày để không trở nên gánh nặng cho ai trong anh em. Không phải là vì chúng tôi không có quyền, nhưng là làm gương để anh em noi theo chúng tôi” (2 Th 3:7-9).
Ngày nay có bao nhiêu mục tử dám nói với giáo dân hay Giáo Lý viên nào dám nói với học viên của mình: “Anh em, hãy cùng nhau bắt chước tôi, và để tâm đến những ai sống theo gương mà anh em thấy nơi chúng tôi” (Ph 3:17) không?
Chỉ có một cách duy nhất để làm gương cho người khác là chúng ta phải noi gương Chúa: khiêm nhường, hiền lành, vâng phục Thánh Ý Chúa Cha. Noi gương Chúa là nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” cùng “yêu người như yêu chính mình” (x. Mt 22:37,39). Có như thế lời khuyên các tín hữu Do Thái của thánh Tông Đồ mới thật sự có hiệu quả: “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo anh em, là những người đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy đi theo đức tin của họ, bằng cách suy nghĩ đến kết quả của đời họ” (Dt 13:7).
Đã nhận lời rao giảng giữa bao gian truân – Th
Nghe Lời Chúa như là trò tiêu khiển thì rất dễ. Đó là lý do tại sao có nhiều người nghe những mục sư gảng đạo trên truyền hình có tài ăn nói hấp dẫn như Joe Osteen mà không chán. Đó là lý do tại sao có một số linh mục dùng tòa giảng làm nơi kể chuyện tiếu lâm. Đó là lý do tại sao có một số linh mục không dám nói về những vấn đề luân lý vì sợ chướng tai giáo dân. Đó là lý do ngày nay người ta nói rất nhiều về tình yêu của Thiên Chúa và hầu như không đả động gì đến sự công thẳng của Ngài. Chấp nhận lời Thiên Chúa là chấp nhận một cuộc đổi đời, là chấp nhận trở thành một người mới trong Đức Kitô. Là chấp nhận “vác thập giá mình hằng ngày mà theo Người” (x. Mt 10:38; 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23; 14:27). Chấp nhận Lời Chúa là chấp nhận mọi gian truân và đau khổ, kể cả cái chết; là chấp nhận “chịu Phép Rửa trong cái chết của Đức Kitô”, là “cùng được mai táng với Người và kết hợp với Người trong cái chết” (x. Rom 6:3-5). Khi chấp nhận Lời Chúa, các tín hữu Thêxalônica đã bị người ta vu oan và bách hại (x. Cv 17:5-6). Khi chấp nhận Lời Chúa, chúng ta chấp nhận từ bỏ tiền tài, danh vọng và mọi thú vui tạm bợ, coi mình như đã chết cho tội lỗi, và đang sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô (Rom 6:11). Vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta sống để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Khi đặt vật chất làm cứu cánh là chúng ta bỏ Chúa mà quay về thờ tà thần.
Với lòng hân hoan trong Thánh Thần – Lòng hân hoan hay niềm vu chính là một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gal 5:22-23). Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta niềm vui giúp chúng ta chấp nhận Tin Mừng một cách vô điều kiện, và thắng vượt bất cứ trở ngại nào chúng ta gặp phải trên đường theo Chúa. Thánh Goan Kim Khẩu viết: “Một người có thể vui mừng dù bị đánh đập nếu họ chấp nhận những điều ấy vì Đức Kitô. Một đặc tính của niềm vui này của Chúa Thánh Thần là tạo ra một niềm vui không thể cầm hãm được ngay cả trong những đau khổ và lo buồn…. Theo lẽ tự nhiên của các biến cố thì đau khổ không tạo ra niềm vui: vui là một đặc ân dành cho những ai chấp nhận chịu đau khổ vì Đức Chúa Giêsu Kitô; đó là một trong những điều tốt lành mà Chúa Thánh Thần ban cho” (Bài Giảng về 1 Thexalônica).
Câu 7-8 - đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia. Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa.
Trong việc sống Đức Tin ai cũng cần những mẫu gương. Thánh Phaolô và các cộng sự viên của Ngài làm gương cho các tín hữu Thêxalônica. Đến lượt họ, họ đã trở thành gương mẫu cho tất cả những ai tiếp xúc họ. Thêxalônica là một trung tâm thương mại và truyền thông quan trọng của người Hy Lạp trong vùng Macêđônia và Akaia. Trong số các Kitô hữu ở thành này có nhiểu người thế giá, kể cả nhiều phụ nữ quý phái (x. Cv 17:4). Chính nhờ danh tiếng và ảnh hưởng, đặc biệt là gương sáng của họ mà Kitô giáo được phát triển mạnh mẽ trong những vùng này.
Trong việc truyền giáo, chúng ta không cần rước sách linh đình, quảng cáo rầm rộ hoặc xây cất những cơ sở đồ sộ, nhưng trước hết và trên hết cần có đời sống gương mẫu. Cần có một Đức Tin thật vững mạnh vào Thiên Chúa. Cần có một lòng mến Chúa nồng nàn và yêu người tha thiết bằng việc làm. Truyền đạo mà không sống đạo thì truyền đạo để làm gì? Truyền đạo phải đi đôi với sống đạo thì việc truyền đạo mới có hiệu quả. Vì thế nhiệm vụ chính của các linh mục, các Giáo Lý viên và cha mẹ Công Giáo là lo vun trồng đời sống Đức Tin và Đức Ái của những người Thiên Chúa trao cho mình trước. Còn những việc khác phải coi là thứ yếu.
Chính qua đời sống gia đình và xã hội của chúng ta mà Lời Chúa được lan ra. Nếu đời sống của một Kitô hữu được lời Chúa biến đổi thì chính người ấy sẽ trở thành Lời sống động của Chúa hoạt động giữa thấ gian. Nếu mỗi gia đình Công Giáo sống đạo như các tín hữu Thêxalônica thì xã hội sẽ được biến đổi trong Chúa Thánh Thần. Nếu mỗi giáo xứ thật sự sống như các cộng đồng tín hữu thời Hội Thánh sơ khai (x. Cv 2:42-47) thì Hội Thánh sẽ lan tràn khắp nơi.
Câu 9 - Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật,
Chúng ta thấy Thánh Tông Đồ vui mừng ra sao khi thấy việc rao giảng của ngài làm cho người ta bỏ tà thần mà trở về với Thiên Chúa. Tà thần đây có nghĩa là tất cả những gì người ta coi là cứu cánh của đời họ như tiền tài, danh vọng, thú vui…. Việc Phúc Âm hóa là giúp người ta bỏ chúng mà trở về với Thiên Chúa. Đó chính là toàn thể mục đích của việc rao giảng Tin Mừng. Ngày này có một số thần học gia cho rằng không cần truyền giáo, mà nếu có truyền giáo thì mục đích chính không phải là kêu gọi người ta trở về với Thiên Chúa. Quan niệm này sai lầm tận gốc. Nếu không cần trở về với Thiên Chúa thì Đức Kitô phải chết để làm gì? Đức Thánh Cha Phaolô VI nói “Đối với Hội Thánh, việc truyền giáo có nghĩa là đem Tin Mừng đến cho mọi tầng lớp nhân loại, và qua ảnh hưởng của nó biến đổi nhân loại từ bên trong cùng canh tân nó” (Evangelii nuntiandi, 18). Còn ĐTC Gioan Phaolô II nói rằng dạy Giáo Lý “có hai nhiệm vụ là làm cho Đức Tin ban đầu được trưởng thành, và giáo dục các môn đệ chân chính của Đức Kitô bằng cách cung cấp cho họ một sự hiểu biết sâu xa và có hệ thống hơn về Con Người và sứ điệp của Đức Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Catechesi Tradendae, 19). Vì thế truyền giáo rất quan trọng, và việc tiếp tục dạy Giáo Lý để giúp giáo dân biết sống Đức Tin là điều thật cần thiết. Người Việt Nam thường quan niệm rằng học Giáo Lý là việc của trẻ em mà thôi, còn người lớn thì không cần. Chính vì thế mà nhiều người trong chúng ta có thói quen giữ đạo hình thức chứ không thật sự sống Đức Tin. Cần phải có những lớp đào luyện giáo dân trưởng thành trong các cộng đoàn và giáo xứ Việt Nam để thay đổi não trạng này và giúp người Việt Nam sống đạo thật sự. Chỉ khi đó các mục tử mới thật sự làm tròn bổn phận Chúa trao phó cho mình.
Câu 10 - để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, "Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại", là Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.
Khác với các tôn giáo khác kể cả Do Thái giáo, sứ điệp Kitô giáo là sứ điệp hy vọng trong Đức Kitô và mong đợi Đức Kitô. Hai điểm căn bản của giáo huấn Kitô Giáo được xác nhận trong câu này. Đó là Đức Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng đã sống lại từ cõi chết và sẽ trở lại để phán xét mọi người.
Điểm thứ nhất là Đức Kitô đã đến chịu nạn chịu chết và sống lại để giải thoát chúng ta và biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: “Chúa Giêsu, chính Ngài, đã chịu chết trên Thánh Giá, mang lại cho chúng ta những gì hoàn toàn khác: một cuộc gặp gỡ với Chúa của các chúa, một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, và qua đó gặp gỡ một niềm hy vọng còn mạnh hơn những cơ cực của kiếp nô lệ, một niềm hy vọng, do đó, thay đổi cuộc sống và thế giới tự bản chất bên trong” (Spe Salvi, 4).
Điểm thứ nhì là Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Người ta sợ chết và phán xét vì họ không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta không sợ vì chúng ta có Thiên Chúa, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Gặp gỡ Thiên Chúa chính là niềm hy vọng của chúng ta. “Từ thời xa xưa, viễn ảnh của sự Phán Xét đã ảnh hưởng đến các Kitô hữu trong đời sống hàng ngày như một tiêu chuẩn để sắp xếp trật tự cho đời sống hiện tại của họ, như những lời réo gọi trong lương tâm của họ, và đồng thời như niềm hy vọng vào công lý của Thiên Chúa. Đức tin vào Chúa Kitô không bao giờ chỉ nhìn lui lại phía sau hay nhìn lên trên, mà cũng luôn luôn nhìn về phía trước về giờ phán xét mà Chúa luôn nhắc nhở. Việc nhìn về phía trước này làm cho Kitô hữu thấy được tầm quan trọng của hiện tại” (Spe Salvi, 41).
Cơn thịnh nộ sắp đến – là một lời nói bóng gió về hình phạt dành cho những người tội lỗi. Ngày nay nhiều người cho rằng không có Hỏa Ngục vì Thiên Chúa là Đấng Nhân Lành, Ngài sẽ không nỡ lòng phạt ai trong Hỏa Ngục đời đời. Lý luận như thế là tự lừa dối mình. Vì nhân lành, Thiên Chúa muốn cho mọi người được lên Thiên Đàng. Ngài không bắt ai phải xuống Hoả Ngục hết. Nhưng vì tôn trọng sự tự do của chúng ta Ngài cũng không ép ai phải lên Thiên Đàng cả. Khi còn sống Thiên Chúa để cho chúng ta tự do lựa chọn hoặc làm con cái Ngài hoặc theo ma quỷ chống lại Ngài. Và chúng ta phải chịu trách nhiệm về dự chọn lựa của mình trong ngày sau hết.
Kết Luận
Sở dĩ Hội Thánh phát triển vững mạnh qua nhiều kỷ nguyên bởi vì các Thánh Tông Đồ đã noi gương Chúa Giêsu trong khi rao giảng Tin Mừng. Gương của các ngài ảnh hưởng đến các tín hữu, và gương của các tín hữu ảnh hưởng đến môi trường họ đang sống. Những mẫu gương này tạo thành những phản ứng dây chuyền, như một vết dầu loang làm cho Lời Chúa lan tràn khắp nơi. Ngày nay ở nhiều nơi vết dầu này chỉ còn hời hợt bên ngoài mà không còn cường độ vì thiếu những mẫu gương Đức Tin sống động, nhất là của các mục tử và các tông đồ giáo dân. Nếu đời sống của mỗi linh mục, của mỗi tín hữu, trở thành những chất xúc tác của Đức Tin để tạo ra những phản ứng dây chuyền mạnh mẽ mới của Tin Mừng thì chúng ta sẽ có thể biến đổi và canh tân nhân loại từ bên trong như ĐTC Phaolô VI đã nói ở trên.
Lạy Chúa xin giúp con sống Đức Tin để biến đời sống của con thành một lời rao giảng âm thầm cho những người chung quanh con. Amen.
Câu hỏi để thảo luận
Bạn có dám hãnh diện nói với những người bạn đã phục vụ như Thánh Phaolô rằng “anh em biết tôi sống thế nào khi còn ở giữa anh em” không? Bạn cảm thấy thế nào về cách cư xử của bạn khi phục vụ trong quá khứ? Điều gì làm bạn ân hận nhất? Điều gì làm bạn hãnh diện nhất?
Trong việc tông đồ, cái gì là ưu tiên một của bạn?
Bạn hy vọng gì trong khi phục vụ? Điều gì làm bạn thất vọng nhất?
--------------------------------
Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu: TN30-A71
Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều vị, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.
Chúa Kitô đã khẳng định: Người hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” ( Mt 22,38 ). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng tạo thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục đấng tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.
Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng tạo thành mọi sự mà còn là Cha chí ái. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người làm người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.
Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.
Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mớ có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…( x. Mt 5,43-48 ).
Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sư thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có nước chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ: Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa ( x.1Ga 4,20 ).
Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. ( vd: đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…)
Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây ? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con…Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi ? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu ? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa ? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.
Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha ( x. Ga 14,9 ). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người ( x. Ga 14 23-24 ).
Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta ( x. Ga 15,12 ). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.
Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em., chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung ( x. Mt 25,31-46 ).
Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa - yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
------------------------------
Chúng con thân mến!
Lời Chúa chúng con vừa nghe nói về luật yêu thương. Ai trong chúng con trong nhà có máy vi tính TN30-A72
Lời Chúa chúng con vừa nghe nói về luật yêu thương.
Ai trong chúng con trong nhà có máy vi tính, chúng con giơ tay lên cho cha coi.
Chúng con sử dụng mày vi tính bao giờ chưa?
Ai trong chúng con đã vào trang mạng Google giơ tay cho coi. Google là một trang mạng tuyệt vời. Chúng con thử vào trang mạng Google rồi chúng con thử đánh vào hộp tìm kiếm từ tình yêu xem nó cho kết quả như thế nào. Ngày hôm nay 22 tháng 10 năm 2017 cha vào thử trong vòng 0,51 giây máy cho cha kết quả khoảng từ tình yêu đã được sử dụng đến 55.700.000 lần. Tiếng Anh Love khoảng 7.970.000.000 lần. Nếu tìm kiếm thêm một chút thì cha thấy Vàng có khoảng 151.000.000 kết quả (Gold: khoảng 3.210.000.000 (1,03 giây), và tiền thì được khoảng 220.000.000 kết quả trong vòng 0,57 giây (money 2.750.000.000 kết quả (0,55 giây)
Như vậy thì cha thấy từ tình yêu đối với người Việt mình thì không bằng vàng và tiền. Nhưng với người ngoại quốc thì từ Love được nhiều người quan tâm hơn, con số lên đến 7.970.000.000 kết qủa, nhiều hơn cả Gold và Money.
Tại sao lại có sự khác biệt như thế chúng con?
Theo cha thì có lẽ những người Tây phương đã giầu có nên họ cần love hơn là Gold và money. Còn người Việt chúng ta vì còn phải sống nghèo nên vẫn còn luẩn quẩn với những gì cụ thế nhất là tiền và vàng.
Hôm nay nhân có câu hỏi của một người Luật sĩ: "Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào là quan trọng nhất?"(Mt 22,36), Chúa Giêsu đã trả lời ngay: "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy"(Mt 22,37-40).
Luật yêu thương của Chúa gồm hai vế: Thứ nhất là mến Chúa. Thứ hai là yêu người.
1. Trước hết là mến Chúa. Tại sao vậy? Tại vì Thiên Chúa là Chúa của mọi loài. Ngài dựng nên và là Chúa yêu thương mọi loài. Thiên Chúa còn là chủ tể, là đấng duy nhất cao cả, không ai có thể sánh bằng. Ngài là nguồn mạch sự sống và là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Nhưng thử hỏi làm sao mà biết được Chúa yêu thương? Cha kể cho chúng con một thí dụ.
Chúng con hãy đặt tay lên ngực của chúng con xem, đặt và chỗ trái tim. Trái tim người bình thường đập 72 lần/phút tức 103.680 lần trong 1 ngày.
Mỗi lần tim đập, nó bơm được 0,143 lít máu đi khắp cơ thể, tức là một phút nó bơm được 10 lít máu, 1 giờ được 615 lít, 1 ngày được 14.725 lít máu.
Nếu trái tim không làm việc thì chúng con có sống được không? Cha hỏi ai làm cho trái tim làm việc không ngừng nghỉ vậy? Làm việc suốt cả ngày lẫn đêm không nghỉ ngơi một tí nào. Lạ thật! Ai làm vậy chúng con?
Rồi chúng con đưa tay lên thử bịt mũi lại xem sao. Chúng con thấy gì? Ồ! không được thở! Không được thở thì sao? "Tịch" là chết chứ làm sao.
Bình thường chúng con thở 23.000 lần một ngày, hít vào khoảng 12.000 lít không khí, khoảng 2400 lít oxy. 12.000 lít không khí! Chúng con đã thấy cái thùng phi bao giờ chưa? Mỗi thùng phi chứa được 200 lít. Như vậy 12.000 lít là 60 thùng phi không khí mỗi ngày. Cha hỏi chúng con ai cho mình không khí để mình thở vậy. 60 thùng phi chứ đâu phải ít. Chúng con đã thấy mấy người kiệt sức người ta phải thờ bằng oxy chưa. Cha không biết giá mỗi bình oxy như vậy là bao nhiêu. Nếu mỗi ngày chúng con phải bỏ tiền ra mua 2400 lít tức là 12 thùng phi oxy để thở thì chắc là không chịu nổi. Vậy cha thử hỏi ai cho chúng ta mỗi ngày 12.000 lít hay 60 thùng phi không khí trong đó có 2400 lít oxy để thở vậy? Gia đình chúng con đã bao giờ phải bỏ tiền ra mua không khí để thở chưa? Không có không khí để thở, chỉ trong vòng 6-7 phút mình tiêu đời rồi! Ai cho vậy chúng con?
- Chúa cho.
Chúa chẳng bắt chúng ta trả một xu nào!
Tại sao Chúa cho như thế? Vì Chúa thương.
Chúng con hãy nghe thêm một câu chuyện nữa.
Chuyện kể rằng một hôm kia có chàng thanh niên vào rừng đốn củi. Đến trưa nhọc mệt, anh ta nằm nghỉ dưới gốc một cây đa cổ thụ, nhìn lên cành lá rườm rà, song quả đa nhỏ xíu. Anh nghĩ sao cây thì khổng lồ mà trái nó thì nhỏ xíu. Tôi mà là ông Trời, tôi cho nó mang trái lớn như trái bí và lá to như lá chuối, như thế mới cân xứng. Trong lúc đó thì thân cây bí yếu ớt mà phải mang trái lớn, cây thuốc không cứng rắn mà phải mang lá to như tấm phên. Quả ông Trời thiếu khôn ngoan! Hay là không có ông Trời, mọi vật đo ngẫu nhiên mà có chăng?
Miên man nghĩ như vậy, anh thiếp ngủ lúc nào không hay. Đang lúc ngủ say, một cơn gió lớn thổi mạnh làm rớt xuống giữa sống mũi anh một quả đa. Anh giật mình thức giấc, vừa xít xoa vừa nghĩ:
- May quá! Phải chi trái đa lớn như trái bí thì kể như bữa nay ta tận số rồi! Hèn chi người ta nói: Trái dừa rớt bao giờ cũng tránh người!
Chúa còn yêu thương chúng ta bằng sự quan phòng của Người nữa'
Hãy biết cảm tạ Thiên Chúa và yêu thương Người luôn luôn.
2. Tiếp đến là yêu người. Chúa bảo: “Yêu người như chính mình”.
Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà biết được, nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu người là bằng chứng yêu mến Chúa. Như vậy mến Chúa yêu người chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.
Tình yêu đối với mọi người cho chúng ta thấy tình yêu đối của mình đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước mời gọi những người đàn ông ưu tú đến để ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người”.
Một thanh niên thấy mình có điều kiện nhưng khổ nỗi anh quá nghèo đến mức không có áo quần tươm tất, cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày được quần áo và lương thực cần thiết.
Khi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá nên ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh:
- Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương . . .
Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên:
- Thế ra bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?
- Đúng vậy.
Anh ta ngạc nhiên hỏi:
- Sao bệ hạ làm thế ?
- Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng “mến Chúa yêu người” không.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống luật yêu thương của Chúa để chúng ta được xứng đáng với tình yêu Chúa dành cho chúng ta mỗi ngày.
Chúng con hãy sống yêu thương như Chúa dạy, chúng con sẽ thấy mình hạnh phúc.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
-------------------------------
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của: TN30-A73
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.
-------------------------------
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng: TN30-A74
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó". (Mt 22, 34-40).
Để được kiện toàn hai giới răn của Thiên Chúa, mà cả hai giới răn không dễ gì để mà giữ, không dễ gì để mà làm đẹp lòng Thiên Chúa được khi bản tánh con người thường thích đi ngược lại những gì Thiên Chúa dậy, nên tôi thiết nghĩ việc quan trọng nhất là chúng ta luôn siêng năng tìm đến với Thiên Chúa để cầu nguyện, để xin cho được ơn của Chúa Thánh Thần đến và lưu lại trong tâm hồn và trái tim yếu đuối luôn sa ngã của chúng ta, trong cuộc sống ngày lại ngày này! Chúa Thánh Thần sẽ đến khi chúng ta thật lòng, khẩn thiết, van nài, và mong muốn được Ngài luôn ngự trị trong tâm hồn và trong tâm trí của chúng ta, giúp chúng ta biết đón nhận những gì Ngài chỉ bảo và hướng dẫn rất cần thiết cho linh hồn đời đời của chúng ta.
Thoạt tiên ta nghe Lời Chúa dậy là: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất". Chúng ta cứ tưởng là dễ làm và dễ theo, nhưng trong thực tế Thiên Chúa có được bao nhiêu anh chị em là yêu Chúa đến hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn? Mà chúng ta lại không yêu tiền bạc hơn, danh lợi hơn, sức khoẻ, sắc đẹp, để có được phương tiện mà yêu hơn những thú vui sa đọa nơi thế trần? Bởi nếu chúng ta thật sự yêu Chúa như sự mong muốn của Thiên Chúa, thì chúng ta phải giữ đạo cho nên chứ, thưa phải không? Như tôi chẳng hạn, cuối tuần khi nghĩ đến phải đi Lễ thì lòng tôi cảm thấy như mắc nợ với Chúa làm sao ấy! Khi cả tuần lễ tôi phải đi làm mệt mỏi, không kể những giờ (OT) mà tôi muốn làm thêm để kiếm thêm tiền mua sắm cho bằng với những chị em bạn? Có rất nhiều khi tôi phải kiếm cớ để không phải đi nhà thờ và xin Chúa thứ lỗi cho tôi, và những lần có dịp để đi xưng tội thì tôi cũng muốn cố gắng lắm đến để xin Chúa tha thứ tội cho tôi vì những lần cố tình bỏ Lễ Chúa Nhật.
Tôi càng yêu Chúa tôi trên hết mọi sự trên đời của tôi là khi đừng ai biết tôi là con Thiên Chúa hay đạo Công Giáo khi tôi có dịp đi dùng bữa bên ngoài hay trong nhà hàng cùng với anh chị em ngoại giáo của tôi. Tôi sẽ tránh hết sức không muốn làm Dấu Thánh Giá trước mặt họ, mà tôi chỉ dám thầm thì trong bụng thôi, xin Chúa tha thứ tội, và thông cảm cho tôi để cho tôi được sống hòa đồng cùng mọi người, vì tôi không muốn làm cho họ khó chịu!?.
Rồi thì lậy Chúa là Thiên Chúa con yêu vô cùng! Trong dịp mùa bầu cử sắp đến đây bao nhiêu người trong cùng nơi con làm việc, hầu như họ đều sẽ bỏ phiếu cho đảng dân chủ, tuy biết họ ủng hộ cho việc phá thai, nhưng con cũng không dám nói lên tiếng nói để bênh vực cho những gì mình tin, mà phải hùa theo họ. Vì con biết nếu con bênh vực cho những gì mình tin, thì họ sẽ lên án và chỉ trích con là dân đạo đức giả, vì những gì đã xẩy ra cho các linh mục trước đây! Nên Lậy Chúa con có yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn con đấy chứ! Nhưng con chỉ dám yêu Chúa trong âm thầm trong tận cõi lòng của con thôi!
À, mà con cũng xin thưa và khoe cùng với Chúa là con cũng rất ư là siêng năng công việc Nhà Chúa, như con có gia nhập vào Ca Đoàn để hát cho Chúa nghe mỗi Thánh Lễ nè! Con hát hay lắm! Nên con rất cố công để đi tập hát mỗi tuần để một mình con hát cho Chúa nghe thôi! Tiếng hát của con khi cất lên sẽ bảo đảm vượt trội và át tiếng hát của mọi người. Con hát chỉ mình Chúa nghe thôi Chúa nhé! Rồi con cũng cố gắng vào thử mấy hội đoàn khác nữa nhưng con thấy không thích hợp, bởi vào hội đoàn mà chẳng thấy lợi ích gì cho con cả! Phải như vào mà giúp ích gì hay có lợi cho (business) công việc thương mại của con, chứ không thì thà con ra mở cửa tiệm chứ vào hội đoàn làm gì!? Phải không thưa Chúa!? Vừa mất thời giờ và công sức của con. Bởi có người mách bảo con rằng vào gia nhập hội đoàn rất có lợi cho việc buôn bán vì là nơi có nhiều người tụ họp.
Đấy thưa Chúa! Chúa có thấy con yêu Chúa nhiều lắm không? Yêu Chúa đến hết lòng, hết linh hồn, hết cả trí khôn con. Con yêu Chúa mà con đang lợi dụng Chúa. Con yêu Chúa đến đỗi con đã bán Chúa. Con yêu Chúa đến đỗi Chúa phải chịu bao nhiêu nhục nhã, bao nhiêu cực hình, khổ hình, và con đã treo Chúa trên Cây Thập Tự Giá. Và con còn tiếp tục yêu Chúa bằng cách con lại tiếp diễn 14 chặng đàng Thánh Giá trong cuộc đời hiện tại ngày lại ngày tội lỗi của con.
Xin Ba Ngôi Thiên Chúa tha thứ tội cho con và cho tất cả anh chị em con.
Giới Răn thứ hai Chúa dậy: "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Đây mới là giới răn mà không mấy ai trong anh chị em chúng con giữ được Chúa ơi! Làm sao mà chúng con yêu thương nhau được khi mà tánh ích kỷ của chúng con đã cấy sẵn và ăn sâu trong lòng dạ của chúng con rồi!. Một lời nói mà chúng con còn chẳng ai nhường cho ai được hơn, vì có phải lời nói của chúng con là quan trọng là phải được mọi người chú ý, lắng nghe, và phải được cho là đúng. Ai nói khác hơn và ngược lại thì người ấy bảo đảm sẽ bị loại và sẽ nhận được bao nhiêu khốn khổ sau đó nhất là thành phần "xếp" của chúng con! Lẽ thường tình là như vậy, phải không thưa Chúa!? Cho nên chúng con luôn luôn phải sống bè phái là để mong được an phận, để được trưng dụng, để hy vọng ăn được những bánh vụn của đàn anh chị hất xuống, để được cơ may qua những mánh mung mà đàn anh chị chê không nhận, và là để được cuộc sống thơ thới và khoẻ hơn khi mình biết sống nịnh hót, chìu lòn, học những gian xảo. ... mà trong một thế giới đầy ảo tưởng nay còn mai mất này. ... khi chúng con không để Chúa làm trung tâm điểm trong cuộc đời phù du của chúng con.
Sự tham lam của con và của anh chị em chúng con, đến độ đã làm chết biết bao nhiêu người, từ chất độc pha trong sữa cho các em nhỏ bú, từ trong những bao cà phê pha sẵn, từ sự rút rỉa tham lam của những người làm cầu, từ những chất độc được bỏ vào những cái kẹo cho con nít ăn, và còn nhiều nhiều lắm Chúa ơi! Sự tham lam làm giầu của những anh chị em không có tình người này, đã muốn vơ vét càng nhiều càng tốt, để khi ra đi không kịp một lời trăn trối, không kịp một kinh ăn năn đền tội, không kịp chạy đến cùng Thiên Chúa luôn xót thương để linh hồn còn được cứu vớt.
Lậy Chúa, lậy Thiên Chúa chúng con!
Chúng con xấp mình phủ phục thờ lậy Thiên Chúa là Thiên Chúa đầy quyền năng và hằng hữu. Chúng con tất cả là con người tội lỗi chẳng đáng được Thiên Chúa xót thương, nhưng vì sự Phục Sinh vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô đã gánh tội trần gian và để cứu độ chúng con. Xin cho chúng con luôn cố gắng sống được như ông thu thuế tội lỗi xưa kia, đứng cuối nhà thờ mà đấm ngực ăn năn chừa cải tội lỗi của mình. Xin Chúa cũng ban cho chúng con tấm lòng luôn biết thương xót của Chúa đối với tha nhân và được như bà già góa kia đã biết cúng dâng tất cả những gì mình có cho Chúa và được Chúa khen thưởng. Chúng con không ít thì nhiều nếu biết chia sẻ thì thế giới ắt phải được hạnh phúc và no đủ hơn thay vì chỉ biết mua sắm vũ khí để giết chết lẫn nhau Chúa ơi!
Tuyết Mai
------------------------------
Chúa nhật 30 thường niên (Xh 22,21-27; 1Th 1,5c-10; Mt 22,34-40)
Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương quan trong cuộc sống, có thể nói: TN30-A75
Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương quan trong cuộc sống, có thể nói ra hay không nói ra nhưng bên dưới tình cảm, tương quan nó có một khế ước nào đó. Có thể khế ước đó được nói lên chỉ bằng lời, bằng miệng thôi nhưng cũng có những khế ước được lập ra bằng văn tự hẳn hoi chứ nếu không thì người ta sẽ không lấy gì làm bằng chứng được khi một trong hai bên vi phạm cái khế ước được đưa ra.
Chúng ta thấy, từ thuở ban đầu khi tạo dựng trời đất và con người đầu tiên, ngầm bên dưới tình cảm của Thiên Chúa dành cho con người đó có một khế ước: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết." (Xh 1,14-17)
Cái gì cũng được ăn, được hưởng dùng cả nhưng trái của cây biết thiện ác thì không được ăn vì ăn vào thì sẽ chết ! Ađam - Eva đã không giữ được cái khế ước đấy nên rồi đã bị Thiên Chúa trách phạt. Trớ trêu thay là tưởng chừng kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ là kinh nghiệm cho con cháu nhưng chúng ta thấy sau này trong hành trình lịch sử cứu độ con người đã vi phạm không biết bao nhiêu là khế ước.
Sau đó, chúng ta thấy, qua Môsê cũng như các ngôn sứ, Chúa muốn nói cho con người quá nhiều điều, quá nhiều luật.
Khi thấy dân chúng sống trong cảnh lầm than, đô hộ, áp bức, Thiên Chúa chạnh lòng thương, đã không vô tâm vô tình để cho dân sống như vậy và Thiên Chúa qua bàn tay Môsê cứu dân. Sau khi cứu dân khỏi nô lệ thì Thiên Chúa qua Môsê đã ban giới luật cho dân như xưa với ông bà nguyên tổ vậy. Sau 3 tháng rời khỏi Ai cập, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã gặp Môsê trên núi và báo cho ông chuẩn bị cho dân chúng để nhận khế ước giữa Thiên Chúa và dân. Không phải đón nhận một cách không không nhưng phải có một sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc là: phải giữ cho khỏi nhiễm uế, quần áo phải giặt giũ cho sạch. Trong cuộc thần hiện trong tiếng sấm sét, tiếng tù và, ánh lửa và núi bốc khói Thiên Chúa đã ban thập điều cho dân.
Bên cạnh thập điều ấy còn có giải thích các luật về bàn thờ, về giết người, về đánh đập, gây thương tích, trộm thú vật và rồi đến luật về người ngoại kiều, về mẹ goá con côi như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất.
Sau đó, dân chúng tiếp tục cuộc lữ hành trong sa mạc tiến về đất hứa. Tưởng chừng có người đi theo kè kè bên cạch, làm trung gian với Thiên Chúa thì dân sẽ trung tín với những giao ước mà Thiên Chúa trao cho dân nhưng ngay tại núi Khô-rếp dân đã phạm luật. Môsê đã báo cho dân chúng biết rằng từ ngày ra khỏi Ai-cập thì dân đã phản nghịch chống lại Đức Chúa. Sự phản nghịch ấy đã làm cho Đức Chúa nổi giận muốn tiêu diệt dân nhưng Đức Chúa đã không nỡ làm điều ấy. Môsê đã van xin với Đức Chúa: "Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này (Xh 9,26.27)
Môsê vô cùng đau đớn, vô cùng bức xúc trước những tội lỗi, những sự thất tín bất trung của dân và ông đã phải thốt lên rằng: Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc? (Xh 10, 12.13)
Nhìn cách hành xử của dân, chúng ta thấy tội nghiệp cho cái thân già của ông Môsê. Nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần mệt mỏi với cái dân cứng đầu cứng cổ nhưng vì ý thức vai trò và nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao nên Môsê tiếp tục cuộc hành trình với đám dân cứng đầu cứng cổ này.
Đã hơn một lần, Môsê phải nài nỉ dân: “Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài. Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, thì Đức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em. Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. Khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em tới đất mà anh em đang vào chiếm hữu, anh em sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em”. (Xh 11,18-32)
Tất cả những luật qua miệng Môsê và các vị trung gian của Thiên Chúa đưa ra đều nhắm một điều là đến quyền lợi của con người, tình thương cho con người. Chắc có lẽ Môsê thương dân nên ông đã truyền lại cũng như giải thích luật quá nhiều, luật nhiều quá đã làm cho con người phải học, phải nhớ vất vả.
Đó là thời Cựu Ước. Vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu có khi gọi là Môsê mới, đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người thì lại khác. Thời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu thấy các biệt phái, luật sĩ giữ những luật đó quá sức tỉ mỉ nhưng chỉ giữ bề ngoài chứ tinh thần và tinh tuý của luật thì lại không. Nhiều biệt phái, pharisêu, luật sĩ xét nét Chúa từng ly từng tý. Các ông đã canh chừng Chúa còn hơn là công an theo dõi Toà Giám Mục Hà Nội. Họ canh Chúa Giêsu nào là không chịu rửa tay trước khi dùng bữa, chữa bệnh trong ngày Sabát, các môn đệ bứt gié luá ăn ngày Hưu Lễ … và họ còn bắt bẻ Chúa nhiều điều: nào là “ông ấy là ai mà dám tha tội vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội” … Họ không nhận ra Chúa Giêsu là đấng trung gian mới, đấng sửa lại những lầm lỗi, những đổ nát giữa tình con người và tình Chúa. Hơn một lần, Chúa đã nói cho họ biết nhưng họ dường như không nghe, Chúa nói là Chúa không hề huỷ bỏ lề luật của Môsê nhưng là kiện toàn lề luật.
Trang Tin Mừng hôm nay nhiều người biệt phái và luật sĩ đến chất vấn Chúa về lề luật và Chúa nói thẳng vào mặt họ là tất cả các giới răn mà Môsê đưa ra thì giới răn trọng nhất đó là mến Chúa và yêu người. Đúng như vậy, tất cả các giới luật mà Môsê đưa ra đều nhắm vào Thiên Chúa và con người.
Thánh Giacôbê đã nhắc nhớ chúng ta: “Yêu thương là chu toàn lề luật”. Thế đấy ! Bao nhiêu lề luật đưa ra không luật nào quan trọng bằng luật của lòng mến. Thánh Phaolô cũng đã nhắc chúng ta: Hiện nay cả ba đức: đức tin, đức cậy và đức mến nhưng đức mến là quan trọng hơn cả.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu nói thẳng cho những người Pharisêu và những người thông luật cũng chính là Chúa nói với mỗi người chúng ta. Trong đời sống thường nhật, đôi khi chúng ta quá vụ vào các khoản luật nhưng đã đánh mất đi cái cốt lõi, cái tinh tuý, cái chất của luật đó chính là lòng mến, là tình yêu.
Ngày hôm nay, đời sống gia đình, đời sống xã hội người ta dùng quá nhiều luật mà quên đi cái luật lòng mến. Ra đường, lúc nào cũng kẹt xe. Tại sao ? Tại ai ai cũng muốn mình được ưu tiên, mình đi nhanh hơn người khác để rồi lấn vạch, lấn tuyến, vượt đèn đỏ … cuối cùng kẹt xe. Quan trọng là họ đã không giữ được lòng mến, lòng bác ái với nhau nên nó mới xảy ra như vậy.
Gia đình cũng vậy, cộng đoàn cũng thế, người ta đưa ra quá nhiều luật với nhau. Bất cứ cái gì người ta cũng đưa ra luật nhưng người ta không chịu đưa ra lòng mến để cư xử với nhau.
Hơn thế nữa, Thánh Phaolô qua thư thứ nhất của Ngài gửi cộng đoàn Thessalônica cũng là gửi cho mỗi người chúng ta: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm.Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Thes 1,5-8). Thế đấy ! Ngài mời gọi chúng ta mặc lấy áo giáo là đức tin và đức mến. Trong tất cả mọi giới răn, tất cả mọi lề luật chẳng có luật nào cao trọng cho bằng luật của lòng mến.
Nguyện xin Chúa Giêsu là vua của tình yêu, của lòng mến đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài thêm tình thương, lòng mến trên mỗi người chúng ta để chúng ta là ánh sáng, là chứng nhân giữa cuộc đời đầy hơn thua, hận thù, ghen ghét này.
Anmai, CssR
------------------------------
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy: TN30-A76
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một: TN30-A77
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:
- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
- Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.
- Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.
------------------------------
Những người thuộc đảng Herođê gài bẫy Chúa về việc nộp thuế; những người thuộc phái: TN30-A78
Những người thuộc đảng Herođê gài bẫy Chúa về việc nộp thuế; những người thuộc phái Sadoc chất vấn Chúa về sự sống lại, đều bị thất bại; hôm nay nhóm Pharisiêu, là những kẻ tự hào là những thầy thông luật, lại dùng luật để đặt vấn đề với Chúa và hy vọng sẽ thắng được Ngài; nhưng rồi chúng ta thấy khi đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, là tất cả đều phải câm miệng trước sự khôn ngoan và tài đối đáp của Ngài; khiến bọn họ phải kinh sợ hơn nữa khi thấy Ngài thấu suốt tâm tư và vạch trần những âm mưu của họ.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI NHẤT
Như chúng ta được biết, trong thời Chúa Kitô sống tại Palestine, bộ luật của Maisen mà người Do Thái phải tuân giữ gồm có 613 khoản: 365 khoản cấm không được làm và 248 khoản buộc phải làm.
Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, họ sai một luật sĩ thượng thặng trong bọn, đến hỏi thử Chúa: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa trả lời: "Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất". Rồi Chúa lại nói tiếp: "Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Sau cùng, Chúa đã quả quyết: "Toàn thể lề luật và các lời tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn đó". Cũng như chúng ta đọc trong kinh 10 Điều Răn: "Mười điều răn ấy tóm về 2 điều này mà chớ, trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen".
Tại sao Chúa lại nhấn mạnh đến giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, là vì Chúa thừa biết họ là những người tự hào, huyênh hoang công phúc việc lành họ đã làm, để chứng minh họ là những kẻ phụng sự yêu mến Thiên Chúa; nhưng họ lại sống ngược với tinh thần của Chúa, như chúng ta vừa nghe lời Chúa truyền trong sách Xuất Hành: "Không được ức hiếp khách ngoại kiều, khinh dể và làm hại cô nhi quả phụ; đặt lời ăn lãi quá mức với kẻ túng nghèo thiếu thốn!"
II. BÁC ÁI LÀ THƯỚC ĐO LÒNG MẾN CHÚA
Thấu hiểu giáo huấn của Chúa, các nhà tu đức đã quả quyết rất đúng rằng: "Bác ái huynh đệ là thước đo lòng kính mến Chúa". Thánh Gioan đã chẳng quả quyết: "Những ai cho mình là kẻ kính mến Thiên Chúa, mà lại thù ghét anh chị em mình, đó chỉ là những kẻ nói dối". Vì ngài lý luận: "Không yêu thương anh chị em mình là những kẻ mình xem thấy, mà lại nói là kính mến Thiên Chúa, Đấng mình không xem thấy sao được?"
Chính Chúa Kitô cũng đã xác nhận giáo thuyết này khi Ngài quả quyết: "Bao lâu các con làm những việc thiện này cho một trong những người anh chị em hèn mọn này là các con làm cho chính Ta". Chúa lại hứa trọng thưởng trong ngày chung thẳm, cho những ai thương giúp tha nhân, cũng như họ đã thương giúp chính Chúa.
Trong cuốn John Brown's Body, tác giả Stephen Benet thuật truyện một Đại Úy của chiếc tầu chuyên chợ nô lệ. Stephen viết: "Đại Úy có vẻ sốt sắng và đạo đức. Ông đọc kinh mỗi ngày, nhưng ông lại không quan tâm gì về việc bán người nô lệ là một việc bất công". Nếu có dịp giao tiếp tại nhiều cộng đoàn hay Giáo Xứ, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều người có vẻ rất sốt sắng, đạo đức còn hơn cả ông Đại Úy thuyền trưởng chuyên buôn bán người nô lệ chúng ta vừa nghe: Họ đọc kinh như pháo rang, không bỏ Thánh Lễ nào, có ngày Chúa Nhật dự cả 2, 3 lễ, các giờ chầu, các cuộc cung nghinh hay bất cứ một việc đạo đức nào không bao giờ thấy họ vắng mặt. Thế nhưng, ai lỡ làm điều gì phật lòng họ thì họ không thể tha thứ được, họ hờn giận từ năm này sang năm kia; ngay cả con cái trong nhà, họ cũng nguyền rủa, chửi bới và từ rẫy. Hễ thấy một chướng tái gai mắt nào, chẳng hạn thấy một cô, một cậu nào có vẻ cao bồi, áo quần "new way", tóc tai bù xù, là họ đã kết tội là: "Đồ mất dạy, đồ quỉ sứ, thế mà chúng nó còn dám lên rước Chúa à!"
III. MỘT TẤM GƯƠNG BÁC ÁI CAO CẢ
Maria Goretti sinh năm 1890 và chết vì bảo vệ đức trinh khiết năm lên 12 tuổi. Goretti là con thứ ba trong gia đình 7 anh chị em. Vì bố chết sớm, mẹ phải đi làm thuê để nuôi các con, Goretti mặc dầu mới lên 9 tuổi, đã phải săn sóc các em và dọn dẹp nhà cửa thay mẹ. Khi lên 11 tuổi, Goretti được chịu lễ lần đầu. Liền sau đó, Goretti phải trải qua một cơn thử thách vô cùng nặng nề về đức trinh khiết. Alexandro, một thanh niên hàng xóm, say mê sắc đẹp của Goretti và ép Goretti phạm tội. Vì Goretti yêu mến Chúa hết lòng, nên đã chống lại Alexandro và nói với y: "Không được làm thế, vì đó là tội trọng mất lòng Chúa". Alexandro nổi giận và đâm Goretti nhiều nhát dao khiến Goretti phải quần quoại trong vững máu. Goretti được cấp tốc đưa vào bệnh viện cấp cứu, và sau 24 giờ, Goretti đã từ trần trong hương thơm thánh thiện. Khi Goretti gần chết, Linh Mục đưa Mình Thánh Chúa đến cho em lãnh nhận như của Ăn Đàng. Ngài hỏi em cũng cùng một lời mẹ em đã hỏi trước: "Goretti, con có tha cho Alexandro, kẻ thù của con như Chúa đã tha thứ cho kẻ thù của Chúa trên Thánh Giá không?" Goretti thưa: "Thưa Cha, con đã tha cho Alexandro và con hứa sẽ cầu nguyện cho Alexandro được ơn ăn năn thống hối". Alexandro bị vào tù. Rồi sai khi tỏ dấu hối cải, anh đã được tha. Anh còn được một ơn cao cả hơn nữa, là anh đã xin vào giúp việc trong tu viện Dòng các Cha Capuscim cho đến chết. Đó là ơn mà Goretti, vị Thánh đã được Đức Thánh Cha Pio XII tôn phong lên Bậc Hiển Thánh của Giáo Hội năm 1950 cầu bầu cho.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta không coi ai là kẻ thù, trái lại còn biết nhận thấy Chúa ở nơi tha nhân. Nếu tha nhân làm mích lòng chúng ta, chúng ta nhận ra đó là những phương tiện Chúa dùng để có dịp cho chúng ta lập công. Không những thế, chúng ta còn cầu nguyện, giúp đỡ, đoán ý lành, tha thứ và làm ơn cho những kẻ làm phiền lòng chúng ta theo gương Chúa, Đức Mẹ và các Thánh đã từng thương yêu và tha thứ cho những kẻ thù ghét làm khốn mình nữa.
Hơn nữa, chúng ta còn có nhiệm vụ rao giảng Đức Bác Ái thương yêu của Chúa cho kẻ khác, để chinh phục họ về cho Chúa bằng chính đời sống Bác Ái yêu thương của chúng ta, đúng như lời Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy làm việc thiện để người ta thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5:16).
Lm. Minh Vận, CMC
------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 22:34-40)
Thất bại trong âm mưu gài bẫy để bắt lỗi Chúa Giê-su, nhóm Pha-ri-sêu muốn lợi dụng Người: TN30-A79
Thất bại trong âm mưu gài bẫy để bắt lỗi Chúa Giê-su, nhóm Pha-ri-sêu muốn lợi dụng Người, kéo người vào phe của mình với mục đích để chống lại phái Xa-đốc! Tin Mừng Mát-thêu ghi lại chi tiết này. Mác-cô thay đổi chi tiết này đi một chút. Còn Lu-ca vì viết sách Tin Mừng cho độc giả là gốc Dân ngoại nên ngài đặt câu chuyện trong bối cảnh vị kinh sư đi tìm lối sống hoàn thiện, xin Chúa Giê-su giúp ông biết phải làm gì để được sống đời đời. Như vậy, theo Mát-thêu, mục đích vị kinh sư hỏi Chúa Giê-su về điều răn trọng nhất trong Luật chỉ là tìm lợi cho phe nhóm mình mà thôi. Tuy nhiên Chúa Giê-su cũng nhân cơ hội này lập lại cho họ và cho mọi người chúng ta biết về tầm quan trọng của sự liên kết không thể tách biệt giữa hai điều răn mến Chúa và yêu người.
Diễn tả sự liên kết mật thiết giữa hai điều răn ấy, Chúa Giê-su nói: “Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn thứ nhất” và “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Như thế, điểm thứ nhất nói lên sự liên kết, đó là vì cả hai điều răn giống nhau, giống nhau về nhiều điểm, thí dụ về tầm quan trọng hoặc về cách thức yêu mến. Cả hai điều răn đều quan trọng vì chúng nói lên những đối xử căn bản và cần thiết của con người: yêu mến Thiên Chúa theo mối tương quan chiều dọc và yêu thương anh chị em theo mối tương quan chiều ngang. Về cách thức yêu mến Thiên Chúa, chúng ta phải yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Về cách thức yêu thương tha nhân, chúng ta phải yêu thương họ như chính mình. Hai cách thức tuy được mô tả bằng những ngôn từ khác nhau, nhưng nói lên cùng một ý tưởng. Nói khác đi, cả hai điều răn đều dạy chúng ta phải yêu mến bằng tất cả con người của mình.
Điểm thứ hai nói lên sự liên kết mật thiết giữa hai điều răn, đó là vì tất cả Luật Mô-sê và sách Ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy. Đúng vậy, tất cả Luật Mô-sê và sách các ngôn sứ đều lấy Thiên Chúa và con người làm đối tượng. Nội dung Luật Mô-sê và sách các ngôn sứ cùng nói về mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thí dụ Cựu Ước quảng diễn Mười điều răn thì đã có ba điều về tương quan con người với Thiên Chúa và bảy điều về tương quan con người với nhau, nghĩa là tất cả Cựu Ước nói về hai đề tài là mến Chúa và yêu người.
Trả lời vị kinh sư bằng cách nêu lên tầm quan trọng của sự liên kết giữa hai điều răn căn bản như thế, Chúa Giê-su chắc chắn đã không đáp ứng nguyện vọng của nhóm Pha-ri-sêu muốn kéo Người về phe họ để chống lại phái Xa-đốc. Bởi vì sau khi trả lời, chúng ta không thấy Chúa đưa ra lời khuyên nào như Người đã làm trong tường thuật của Mác-cô và Lu-ca.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Điều nguy hiểm và cũng thường gặp thấy trong đời sống Ki-tô hữu là chúng ta tách biệt hai điều răn mến Chúa yêu người. Sự tách biệt này gây ra hậu quả là nhiều khi chúng ta đọc kinh xem lễ thật là ngoan đạo, nhưng trong cuộc sống hằng ngày và cách đối xử với người khác chúng ta lại là một con người hoàn toàn khác! Do đó, việc Chúa Giê-su liên kết chặt chẽ hai điều răn ấy quả thực là một nhắc nhở và cảnh giác để chúng ta đừng làm điều này mà quên điều kia. Mến Chúa phải là động lực và gương mẫu để chúng ta yêu thương anh chị em, và đổi lại, yêu thương anh chị em là phương thức để chúng ta nói với Chúa rằng vì Chúa dạy chúng ta yêu thương anh chị em nên chúng ta vâng lời Chúa mà thực hành để tỏ lòng yêu mến Người.
Nếu Chúa Giê-su đã nói lên tầm quan trọng như nhau của hai điều răn ấy, thì liệu chúng ta có dám tin rằng chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn chúng ta không? Có lẽ đây cũng là điều chúng ta nên suy nghĩ và xét lại lối sống yêu thương anh chị em của chúng ta: Có bao giờ tôi yêu thương tha nhân với tất cả lòng chân thành của tôi, hết cả khả năng và tất cả sự quan tâm của tôi, tức là cùng một mức độ như tôi yêu mến Chúa không? Tôi có hiểu rằng yêu thương anh chị em như thế là yêu mến chính Chúa trong anh chị em không?
Lm. Đaminh Trần đình Nhi
------------------------------
ĐỌC LỜI CHÚA
· Xh 22,20-26: (20) Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. (21) Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. (22) Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu.
· 1 Tx 1,5c-10: (5) Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa.
· TIN MỪNG: Mt 22,34-40
Điều răn trọng nhất
(34) Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng, thì những người Pharisêu họp nhau lại. (35) Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: (36) «Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?» (37) Đức Giêsu đáp: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. (38) Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. (39) Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (40) Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
600 điều luật của Cựu Ước bao gồm đủ mọi khía cạnh: thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện, thực: TN30-A80
1. 600 điều luật của Cựu Ước bao gồm đủ mọi khía cạnh: thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện, thực hành các nghi thức tôn giáo, giữ mình trong sạch, yêu thương và đối xử tốt với tha nhân, v.v… Nếu chưa biết lập trường của Đức Giêsu, thì theo quan niệm tự nhiên của ta, ta cho khía cạnh nào là quan trọng nhất?
2. Theo tinh thần của Đức Giêsu, điều quan trọng nhất trong đời sống Kitô hữu là gì? Bạn có cùng quan niệm như Ngài không? Bạn đã thật sự sống theo quan niệm ấy chưa?
3. Sống đạo mà không phân biệt được điều nào cốt yếu và điều nào phụ thuộc, nên cứ lấy chính làm phụ, lấy phụ làm chính, thì kết quả thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Bối cảnh bài Tin Mừng
Người Pharisêu xếp loại các điều luật được ghi trong Cựu Ước thành khoảng 600 điều. Và các luật sĩ thường tranh cãi với nhau trong việc xếp theo thứ tự ưu tiên những điều luật quan trọng nhất. Họ không đồng ý với nhau về vấn đề này, vì phái này đặt nặng khía cạnh này, phái khác đặt nặng khía cạnh khác. Có người chủ trương coi việc thờ phượng Thiên Chúa là quan trọng nhất. Có người coi việc sống trong sạch, không nhiễm uế là quan trọng nhất. Có người coi việc giữ thật nhiệm nhặt các giới luật Môsê là quan trọng nhất. Có người coi việc cầu nguyện với Thiên Chúa là quan trọng nhất. V. v… Vì thế, một luật sĩ đã đem vấn đề này ra hỏi Đức Giêsu: «Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?» và Ngài đã trả lời họ rằng có hai điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
2. Ta coi điều gì là quan trọng nhất trong đời sống Kitô hữu?
Câu trả lời của Ngài phải khiến chúng ta xét mình lại, và đặt lại vấn đề: trong đời sống Kitô hữu hay tu đức của ta, ta đặt chuyện gì là quan trọng nhất? Ta có theo Đức Giêsu, Thầy của ta, coi hai giới luật ấy là quan trọng nhất không? Rất có thể trong thực tế đời sống ta đã không cùng một lập trường với Ngài, điều này bất lợi cho việc phát triển tâm linh của ta, làm ta sống đạo theo kiểu người Pharisêu xưa: điều chính yếu nhất thì ta coi nhẹ, còn những điều phụ thuộc thì ta lại đặt nặng (Mt 23,23). Người Pharisêu dạy dỗ dân chúng đã lấy điều chính làm điều phụ, lấy điều phụ làm điều chính, nên Đức Giêsu đã gọi họ là «quân dẫn đường mù quáng!» (Mt 23,24; x.15,24).
Đức Giêsu đã đặt tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân là quan trọng nhất, và coi tất cả những chuyện khác là nhẹ hơn. Điều đó không có nghĩa là Ngài chủ trương bỏ đi những điều phụ thuộc (Mt 23,23b).
3. Đức Giêsu kết hợp hai điều răn quan trọng ấy thành một
Theo Đức Giêsu, không có sự tách biệt giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân. Đối với Ngài, hai tình yêu này chỉ là một tình yêu duy nhất: nghĩa là hễ đã yêu Thiên Chúa thì tất nhiên phải yêu tha nhân. Không thể yêu Thiên Chúa mà lại không yêu tha nhân. Thánh Gioan cũng nói: Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà lại không yêu tha nhân thì đó là kẻ nói dối (x.1Ga 4,20). Thánh nhân còn nói rất mạnh: «Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ: phàm ai không sống công chính thì không thuộc về Thiên Chúa; ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy» (1Ga 3,10). Nghĩa là ai không yêu thương anh em mình thì người ấy không thuộc về Thiên Chúa (x.1Ga 3,14b; 4,7-8).
Đức Giêsu cũng từng nói với những người Pharisêu: «Giả như Thiên Chúa là Cha của các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến» (Ga 8,42). Câu này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Một khi chúng ta đã nhận Thiên Chúa là Cha, thì ắt nhiên chúng ta phải yêu thương đồng loại là anh em của mình, vốn là hình ảnh và là hiện thân của Thiên Chúa giữa chúng ta. Có ai thật sự yêu cha mẹ mà lại không yêu những người anh em cùng sinh ra từ một khúc ruột với mình không?
Gương của Đức Giêsu cho thấy: Ngài thờ phượng Thiên Chúa và thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa bằng cách yêu thương nhân loại và xả thân cho nhân loại. Hành động chết cho nhân loại vì yêu thương họ chính là cách thờ phượng Thiên Chúa cao cả nhất của Ngài. Đối với Ngài, thờ phượng yêu mến Thiên Chúa và thương yêu nhân loại chỉ là một tình yêu, một hành động duy nhất, không phải là hai tình yêu hay hai hành vi tách biệt. Còn chúng ta, nhiều khi chúng ta tách biệt hẳn việc thờ phượng Thiên Chúa khỏi việc yêu thương tha nhân. Chúng ta không ngờ rằng đó là một thứ rối đạo thực hành từ căn bản. Rối đạo về lý thuyết không trầm trọng bằng rối đạo trong thực hành. Thật thế, biết bao người thờ phượng Thiên Chúa một cách chăm chỉ, sáng lễ chiều kinh, nhưng sống chẳng có tình có nghĩa với đồng loại chút nào. Đúng ra, theo tinh thần Đức Giêsu, sống tình nghĩa, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân, yêu thương những người nghèo khổ đói rách, mới là cách thờ phượng Thiên Chúa đúng đắn nhất.
Thiên Chúa muốn chúng ta yêu mến Ngài hơn là muốn chúng ta thờ phượng tôn vinh Ngài. Mà yêu mến Ngài thì không gì đúng bằng việc yêu thương tha nhân, là những hiện thân cụ thể của Ngài trước mắt chúng ta. Không phải là vô ý mà Ngài nói rằng ngày tận thế, Ngài chỉ phán xét theo một tiêu chuẩn duy nhất, là chúng ta đã đối xử với tha nhân, nhất là những người bé mọn, nghèo khổ như thế nào (x. Mt 25,31-46). Cũng không phải vô tình mà Ngài chỉ đưa ra duy nhất có một điều răn: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Điều đó có nghĩa là Ngài muốn nhấn mạnh sự quan trọng của việc yêu thương nhau, và muốn chúng ta tập trung vào điều răn này.
Trong tinh thần đó, thánh Phaolô đã tóm gọn toàn bộ lề luật của Thiên Chúa vào một luật duy nhất: Yêu tha nhân. Ngài viết: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Mọi điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Rm 13,8-9). Chúng ta cần nhận ra tính cách mạng trong lời của ngài. Nếu Đức Giêsu và thánh Phaolô không quả quyết như thế, thì người phàm như chúng ta không ai dám nghĩ như vậy. Đó chính là một chân lý quan trọng, mới mẻ, đầy soi sáng, buộc chúng ta thay đổi nếp suy nghĩ cố hữu của mình.
4. Cần cách mạng lối sống đạo và cách loan báo Tin Mừng
Trong cuốn «Người Mục Tử Cộng Đồng hướng về tương lai» (1996) và bài «Con đường đi tới của Giáo Hội Việt Nam hôm nay» (9-2005) của Lm Nguyễn Ngọc Sơn, linh mục cho rằng: Tỷ lệ người Công giáo Việt Nam so với số dân kể từ năm 1933 đến nay, chưa bao giờ quá 8% và đang có hướng giảm. Nếu dân số Công giáo Việt Nam giảm hoặc chỉ gia tăng theo tỷ lệ gia tăng dân số hằng năm, ta có thể nói rằng việc truyền giáo không đạt được kết quả tốt đẹp. Hơn nữa, tỷ lệ người Công giáo Việt Nam lại đang giảm dần. Vậy có thể nói đến một sự thất bại trong hoạt động rao giảng Tin Mừng không? Vì thế, các mục tử cũng như mọi người trong cộng đoàn Dân Chúa Việt Nam cần phải suy nghĩ lại về cách sống và cách loan báo Tin Mừng của mình, để xem còn có sức thu hút anh em ngoài Kitô giáo và làm phát triển Giáo Hội Việt Nam không?
Trong một giáo phận vào năm 1993 có gần nửa triệu giáo dân, hơn 400 linh mục,409 tu sĩ nam,2.086 tu sĩ nữ, chưa kể chủng sinh và mấy ngàn tập sinh, đệ tử, thử hỏi mỗi người trong số ấy đã giúp cho một người trở lại đạo Chúa hằng năm chưa? Điều đó mời gọi chúng ta suy nghĩ về cách rao giảng cũng như về việc đổi mới đời sống chứng nhân của mình. Giáo phận… có gần 200 nhà thờ đầy ắp giáo dân trong các buổi sinh hoạt phụng vụ. Nhưng chúng vẫn không thu hút được nhiều anh em lương dân trở về với Đức Kitô. Nói lên những điều này làm chúng ta thật đau lòng, nhưng để chứng minh rằng những giờ kinh lễ, các trường học, hội đoàn, tổ chức từ thiện và hoạt động bác ái chưa phải là yếu tố quyết định cho sự thành công trong hoạt động truyền giáo… điều đó giúp chúng ta nhận ra rằng cần phải thay đổi phương cách rao giảng Tin Mừng. Nếu chúng ta thay đổi được cách sống đạo và truyền đạo, chúng ta mới có thể thu hút được nhiều anh em lương dân gia nhập đàn chiên Chúa. Chúng ta không thể rao giảng Tin Mừng, dạy giáo lý và rửa tội theo phương cách hiện nay. Nhiều người Tây Phương không còn muốn giữ đạo nữa chỉ vì thấy đạo quá xa cách với đời, trong khi đó lại gia nhập các giáo phái nhỏ biết lưu tâm tới cuộc sống. Xã hội Việt Nam cũng sẽ tiến tới tình trạng dị ứng với những «nghi lễ - kinh sách - lề luật» của đạo nếu những người mục tử không tìm ra những phương thế mới để biểu lộ Tin Mừng trong cuộc sống.
Và phương cách mới ấy không gì khác hơn là trở về với tinh thần của Đức Giêsu: coi việc mến Chúa yêu người là chính yếu nhất, lấy việc yêu thương và hy sinh cho tha nhân là cách đúng đắn nhất để yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa. Cần phải nhấn mạnh và quan trọng hóa điều chính yếu này lên, đồng thời bớt quan trọng hóa những thứ phụ thuộc khác.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, đọc bài Tin Mừng này con thấy con đã đi sai đường rồi. Con đã coi nhẹ điều mà Đức Giêsu cho là quan trọng nhất, là mến Chúa và yêu người, đồng thời cứ đặt nặng những điều phụ thuộc khác. Xin cho con biết thay đổi cách suy nghĩ của con để trở về sống đúng với tinh thần Tin Mừng của Ngài.
Joan Nguyễn Chính Kết
19-9-2005
------------------------------
(Mát-thêu 22: 34-40)
Mặc khải tình yêu là tột đỉnh sứ mệnh của Chúa Giê-su, nhưng đồng thời cũng là cốt tủy của: TN30-A81
Mặc khải tình yêu là tột đỉnh sứ mệnh của Chúa Giê-su, nhưng đồng thời cũng là cốt tủy của sứ điệp Tin Mừng cho người Ki-tô hữu phải thể hiện trong đời sống. Bài Tin Mừng hôm nay nói về điều răn yêu mến, mến Chúa và yêu anh chị em, được Phụng vụ Lời Chúa sử dụng ở cuối năm Phụng vụ hẳn phải mang một ý nghĩa đặc biệt. Đoạn Tin Mừng đã quá quen thuộc đối với ta nên có lẽ ta ít lưu tâm. Nhưng khi nhìn vào vị trí của đoạn Tin Mừng trong năm Phụng vụ, ta sẽ nhận ra Lời Chúa muốn nói với ta về gương mẫu yêu thương là chính Chúa Ki-tô và con đường để ta đến với Tình Yêu vĩnh cửu là sống yêu thương.
a) Hai điều răn mến Chúa và yêu người được liên kết và thể hiện nơi Chúa Ki-tô
Tinh thần câu nệ lề luật của người Pha-ri-sêu đã đi tới mức tính toán hơn thiệt, phân chia thành những điều lớn nhỏ và do đó việc tuân giữ lề luật được đo lường theo những mức độ lớn bé ấy. Lề luật không còn là phương tiện hướng con người đến với Thiên Chúa, nhưng đưa con người quay lại với chính mình để tự mãn với khả năng tuân giữ của họ. Nói khác đi, con người đã làm nô lệ cho lề luật và không còn tuân giữ lề luật vì lòng yêu mến nữa. Đó là điều Chúa Giê-su cố gắng thuyết phục người Pha-ri-sêu và cũng là đề tài Người thường tranh luận với họ.
So sánh đoạn Tin Mừng Mát-thêu 22:34-40 với những đoạn của Mác-cô 12:28-31 và Lu-ca 10:25-28, ta nhận thấy một khác biệt trong cách trình bày câu truyện. Câu trả lời “cả hai điều răn mến Chúa yêu người đều quan trọng như nhau” đã được phát biểu trong cả ba sách Tin Mừng. Nhưng trong Mát-thêu, người trả lời là Chúa Giê-su, còn trong Mác-cô và Lu-ca, người trả lời là vị kinh sư (cũng gọi là nhà thông luật). Sự khác biệt này nói lên mục đích thánh sử muốn nhắm tới. Mác-cô và Lu-ca muốn nhắm tới Ki-tô hữu, nhắn nhủ họ phải sống yêu thương, qua lời khích lệ của Chúa Giê-su: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12:34) và “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10:28). Mát-thêu chú trọng tới Chúa Giê-su, trình bày Người như là gương mẫu tuyệt hảo đã sống trọn vẹn hai điều răn trọng nhất, với lời giải thích của Chúa Giê-su: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:40).
Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ là tất cả những gì Chúa Giê-su sẽ thể hiện. Thánh Mát-thêu thường lập đi lập lại câu “Để ứng nghiệm Lề Luật và lời các ngôn sứ” sau những việc làm hoặc biến cố của Chúa Giê-su. Như thế, cách nói “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” cũng được hiểu rằng Chúa Giê-su đã chu toàn tuyệt hảo hai điều răn ấy.
Thử hỏi trong nhân loại, có ai yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” như Chúa Giê-su không? Chắc chắn là không, vì Chúa Giê-su yêu mến Thiên Chúa Cha đến nỗi đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có ai yêu mến tha nhân như Chúa Giê-su đã yêu mến nhân loại không? Chắc chắn là không, vì Chúa Giê-su đã sẵn sàng thí mạng sống mình vì anh chị em đồng loại với Người. Như thế, Chúa Giê-su không chỉ phát biểu hai điều răn ấy liên kết với nhau và đều là quan trọng nhất mà thôi, mà chính Người đã thực hiện sự liên kết ấy bằng chính cuộc sống của Người.
b) “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”
Lời Chúa Giê-su nhắn nhủ nhà thông luật trong đoạn Tin Mừng Lu-ca phải là mệnh lệnh dành cho mọi Ki-tô hữu. Cuộc sống yêu thương đã đưa Chúa Giê-su tới cái chết, nhưng sau đó Người đã sống lại từ cõi chết và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Sống trong vinh quang vĩnh cửu là kết quả của yêu mến. Chúa Giê-su trở thành con đường yêu thương đưa Thiên Chúa đến với con người, đưa con người đến với nhau và đưa con người đến với Thiên Chúa. Con đường tình yêu là tuyến giao thông ba chiều, nhưng cuối cùng đều quy tụ về đích điểm là Thiên Chúa, Tình Yêu vĩnh cửu.
Lời nhắn nhủ “cứ làm như vậy là sẽ được sống” là lời mời gọi ta nhìn vào Chúa Giê-su như mẫu sống. “Như vậy” là như thế nào? Chúa Giê-su đã nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi anh chị em mình là nhân loại và Chúa Giê-su cũng đã nhìn thấy anh chị em mình nơi trái tim của Thiên Chúa. Cho nên nếu Chúa Cha “đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một”, thì Chúa Giê-su cũng sẵn sàng vâng phục và chết trên thập giá vì những người được Chúa Cha yêu thương. Chúa Giê-su đã yêu mến Thiên Chúa với hết cả con người mình thế nào, thì Người cũng yêu mến ta đến nỗi hiến thân chịu chết trên thập giá như vậy. Do đó, “như vậy” có nghĩa là ta cũng phải nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em và nhìn thấy anh chị em trong tình yêu của Chúa. “Như vậy” còn nói lên mức độ yêu mến của Chúa Giê-su, tức là ta cũng phải mến Chúa yêu người bằng tất cả con người ta, phải yêu mến không điều kiện và phải yêu mến cả những kẻ thù nữa.
Tột đỉnh và cốt tủy của lề luật là yêu mến. Nhưng ta cần có một gương mẫu sống động nói cho ta biết thế nào là yêu mến hết mình. Ta không những nghe lời giảng của Chúa, mà còn nhìn vào những việc Người làm để biết rằng yêu mến “như vậy” là điều ở trong tầm tay ta chứ không phải là điều không thể làm được.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Gần cuối năm Phụng vụ, sứ điệp Tin Mừng lên tới cao điểm là nói về lòng yêu mến. Vậy tôi có ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa Giê-su liên kết và thực hiện hai điều răn mến Chúa yêu người không?
Trong ngày phán xét riêng của tôi và ngày phán xét chung, Vua Giê-su sẽ căn cứ vào việc tôi sống yêu thương anh chị em như thế nào để quyết định cho số phận tương lai vĩnh cửu của tôi (Mt 25:31-46). Vậy tôi có chuẩn bị cho ngày ấy không?
Tôi có khi nào tập nhìn thấy Chúa nơi anh chị em mình không? Hay tôi chỉ nhìn thấy những khuyết điểm và tiêu cực nơi họ?
Tôi thử nhận định lòng mến Chúa yêu người của tôi xem ở mức độ nào?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 3)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
-------------------------------
Anh chị em rất thân yêu,
Khi ban giới luật yêu thương, cách riêng yêu thương người nghèo, Thiên Chúa đã nại tới lý do: TN30-A82
Khi ban giới luật yêu thương, cách riêng yêu thương người nghèo, Thiên Chúa đã nại tới lý do "Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ". Và đấy chính là điểm độc sáng của Mạc Khải. Chắc chắn là trong mọi tôn giáo đều dạy người ta yêu thương, nhưng với lý do thuần túy nhân bản. Sự khác biệt này đòi hỏi Dân Chúa không ngừng phải để cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa thúc đẩy và tác động.
Theo thánh Phaolô, chính Lời Chúa đã mạc khải trọn vẹn Lòng Thương Xót của Người, và vì thế đời sống người Tin trước hết là "đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban". Từ đó người tín hữu Thessalonica đã có một nếp sống chan hòa yêu thương nên gương sáng cho toàn vùng Tiểu Á. Cuộc sống để nói lên lòng "từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa., để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Ðức Giê-su". Vì thế, có thể nói không phải là Ðức Ái Cứu Ðộ, nếu không là dấu chỉ của lòng tin vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Và vì theo Lời Chúa, được nói ra trong cuộc sống của Ðức Giê-su, thì lòng Thương Xót của Thiên Chúa luôn luôn mới mẻ và phong nhiêu, làm ngỡ ngàng mọi con người: chúng ta thấy trong Tin Mừng luôn luôn nói đến những thái độ kinh ngạc của đủ mói thứ hạng người: từ trẻ mục đồng trong đêm Belem, cho đến người lính dưới chân Thánh Giá ở đồi Can-Vê, ở mọi nơi, mọi thời, người ta luôn phãi kinh ngạc, nhiều khi đến hãi sợ khi bị bắt chộp bởi lòng thương xót tức thời của Thiên Chúa. Chính tính cách mới mẻ này thúc đẩy, những người tin thấy rằng không bao giờ được phép dừng lại trong cuộc sống yêu thương. Yêu thương không dừng lại ở chỗ là phẩm chất của cuộc sống, nhưng yêu thương là để có thể đến cùng Thiên Chúa. Và đó là điều Chúa Giê-su nói trong kết luận của bài Tin Mừng: " Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy."
Vì Ðức Ái của những người tin là chính hành trình nên một với Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót, mà Ðức Ái là nhân đức đối thần vậy. Theo đó, Ðức Ái không hệ tại ờ những việc làm từ thiện, nhưng hệ tại ở sự bộc lộ chính mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa cho muôn loài muôn vật. Ðiều ấy đòi hỏi người tín hữu phải bắt đầu đời sống yêu thương trong sự chiêm niệm, cầu nguyện.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
-------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: 1 Thê-xa-lô-ni-ca 1: 5c-10
Bài đọc hôm nay tiếp tục lời nguyện tạ ơn của thánh Phao-lô về đời sống Ki-tô gương mẫu nơi: TN30-A83
Bài đọc hôm nay tiếp tục lời nguyện tạ ơn của thánh Phao-lô về đời sống Ki-tô gương mẫu nơi anh chị em tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong đoạn trước, ngài đã nêu cao gương sống đức tin, cậy, mến của họ. Thư của ngài thường theo cùng một khuôn mẫu: trong các lời nguyện tạ ơn, ngài giới thiệu những đề tài sẽ được khai triển sau đó. Vậy phần tiếp theo lời nguyện tạ ơn trong 1 Tx là chủ đề bắt chước gương lành và sau đó là chủ đề Đức Ki-tô sẽ quang lâm.
a) Bắt chước gương sáng của Phao-lô
Chúng ta đã quen thuộc với chủ đề bắt chước gương lành từ khi suy niệm thư gửi tín hữu Phi-líp-phê. Thánh Phao-lô mời gọi tín hữu hãy bắt chước ngài như ngài đã bắt chước Đức Ki-tô. Tuy nhiên, trong thư 1 Tx có thêm một điều mới mẻ: nhờ bắt chước thánh Phao-lô, tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã trở nên gương mẫu cho các tín hữu khác trong tất cả miền Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a (Hy-lạp).
Vậy tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã bắt chước điều gì nơi Phao-lô? Chính thánh Tông đồ đã trả lời: họ đã "đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban" (c. 6). Điểm giống nhau giữa Phao-lô và tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca là tất cả đều từ bỏ nếp sống cũ để quay về với Đức Ki-tô, tiếp nhận Tin Mừng của Người. Khoảng năm 36, trên đường đi Đa-mát để lùng bắt Ki-tô hữu, Phao-lô đã gặp Chúa hiện ra và trao cho ngài sứ mạng làm Tông đồ các dân ngoại. Phao-lô đã "đón nhận lời Chúa." Lời Chúa hoặc Lời là thuật ngữ Tân Ước dùng để chỉ Tin Mừng. Lúc ấy Phao-lô chính là người đang làm cho các Ki-tô hữu phải gian truân, thì hẳn hơn ai hết ngài sẽ hiểu thế nào là gian truân nếu tiếp nhận Đức Ki-tô. Sau đó, khi thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, Phao-lô chấp nhận mọi gian truân, nguy hiểm muôn bề, miễn là Chúa Ki-tô được rao giảng (Pl 1:18). Nhưng đón nhận Tin Mừng trong mọi nỗi gian truân mà không được gì khác, thì sức loài người chẳng ai làm nổi. Sở dĩ Phao-lô làm được là vì cùng lúc ấy ngài cảm nhận được "niềm vui do Thánh Thần ban." Như thế Phao-lô đưa ra một định đề: đón nhận lời Chúa (= Tin Mừng) giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban. Nói khác đi, việc đón nhận Tin Mừng luôn luôn đặt chúng ta vào tình trạng phải đối phó với mọi thứ gian truân, nhưng đồng thời cũng đem lại cho chúng ta niềm vui sâu xa là hồng ân của Thánh Thần.
Theo gương thánh Phao-lô, tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã làm một cuộc trở về với Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người. Để tiếp nhận Đức Ki-tô và Tin Mừng, họ phải "từ bỏ ngẫu tượng" và đặt lòng tin vào Thiên Chúa. Điều này không dễ chút nào. Kinh nghiệm truyền giáo tại nhiều nước châu Á cho chúng ta thấy Tin Mừng khó được tiếp nhận là vì người ta không muốn bị "mất gốc," bị mang tiếng là "bất hiếu" với ông bà tổ tiên... Thánh Phao-lô đã không sợ mất cái gốc Pha-ri-sêu hoặc bị mang tiếng phản bội truyền thống Do-thái giáo, nhưng "những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi... so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi" (Pl 3:7tt).
b) Làm gương cho mọi tín hữu khác
Được tiếp nhận Đức Ki-tô và Tin Mừng, lối sống của anh chị em tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca thay đổi hoàn toàn. Thay vì đặt lòng tin vào ngẫu tượng, vào của cải tiền bạc và sự giàu có, từ nay họ đặt hết lòng tin vào Thiên Chúa. Họ phá bỏ mọi chướng ngại, để cho việc sống Tin Mừng thể hiện qua việc làm và để cho "lời Chúa đã vang ra" chứ không bị bưng bít. Thay vì sống ích kỷ, chỉ lo cho mình, từ nay họ biết hướng về công cuộc truyền giáo của Hội Thánh, tiếp đón và nâng đỡ các vị truyền giáo. Thay vì sống theo triết thuyết của văn minh Hy-lạp là hưởng lạc, không tin vào sự sống đời sau, từ nay họ sống thái độ đầy hy vọng và lạc quan chờ đợi Chúa Ki-tô quang lâm. Tất cả những thay đổi lớn lao để trở về với Tin Mừng đã giúp cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca "nên gương cho mọi tín hữu ở miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a," và dĩ nhiên cho cả chúng ta hôm nay nữa.
c) Đặt lại vấn đề của chúng ta hôm nay
Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: "Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em" (1:5c). Vấn đề đã được thánh Phao-lô đặt ra và các tín hữu đã giải quyết bằng cách nhận ra lối sống của ngài rồi bắt chước. Nhưng cùng một vấn đề đó được đặt ra cho chúng ta hôm nay, liệu chúng ta có một giải đáp không? Chúng ta nhìn lại lối sống của chính mình, rồi chúng ta tự hỏi: lối sống ấy có thực sự là tiếp nhận Tin Mừng và thực sự mưu ích cho anh chị em tôi không? Liệu chúng ta có dám đành mất mọi sự để được lợi Đức Ki-tô và can đảm phá bỏ nơi chúng ta mọi chướng ngại ngăn cản lời Chúa vang ra ở tất cả những nơi chúng ta đang sống không? Chúng ta có đặt việc mưu ích cho anh chị em như một lý tưởng quan trọng của đời Ki-tô hữu không? Nghĩa là chúng ta có sống mối quan hệ với những anh chị em Ki-tô hữu khác, với Hội Thánh địa phương và toàn cầu, với những anh chị em khác tôn giáo... không? Và sống thế nào?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Sử dụng những gợi ý trong điểm "Đặt lại vấn đề của chúng ta hôm nay."
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc một lời nguyện truyền giáo hoặc hát bài Lời nguyện Truyền giáo.
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
-------------------------------
Mt 22,34-40
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Con người vốn sinh ra đã muốn yêu và muốn được yêu. Một đứa bé khi mở mắt chào đời đã cất: TN30-A84
Con người vốn sinh ra đã muốn yêu và muốn được yêu. Một đứa bé khi mở mắt chào đời đã cất tiếng khóc oe oe, đứa bé muốn mọi người yêu nó.Khuynh hướng yêu nẩy mạnh trong con người. Con vật chỉ có cảm giác chứ không hề có tình yêu như con người. Nhân loại có văn minh thật đấy, nhưng con người không thể phát minh được tình yêu. Chúa Giêsu đã chỉ ra cho nhân loại thấy rằng " Kính Chúa và yêu người" là giới luật không thể tách rời được.
THẾ NÀO LÀ KÍNH CHÚA HAY MẾN CHÚA ?
Thiên Chúa ngay từ đầu đã tác tạo nênn Adam và Eva. Đây là cuộc đối thoại đầu tiên giữa con người và Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người một cách tuyệt đối, đến nỗi Ngài thường xuyên xuất hiện, đàm đạo, trò chuyện với con người. Để gắn chặt tình nghĩa giữa Thiên Chúa và con người, Ngài ra giới luật cấm con người không được ăn trái cây biết sự lành, sự dữ. Đây là cuộc thử thách lớn lao
đặt con người phải chọn lựa hoặc mến Chúa hoặc thù nghịch với Chúa. Sự khước từ là chối bỏ tình yêu Thiên Chúa, bất tuân phục lời Thiên Chúa. Sự thật, việc ăn trái cây không có nghĩa lý gì, nhưng nó đánh giá con người có mến Chúa hay nghi ngờ tình thương của Chúa. Quả vậy, khi ăn trái cây biết sự lành, sự dữ, con người đã đi ngược lại với giới luật của Thiên Chúa:" Thờ phượng và kính mến Chúa trên hết mọi sự ". Lịch sử của địa đàng đã tiên báo và làm sống lịch sử thánh của Chúa. Thiên Chúa đã chọn Abraham để trở nên bạn tâm giao của Chúa( Stk 18, 17 ). Abraham đã được ơn quí giá ấy vì Ông đã đáp trả lại tình thương vô biên của Chúa, không dám cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Môisen cũng đã giữ được sự kết hợp mật thiết với Chúa từ khi được gọi cho tới khi ông về với Chúa. Thiên Chúa mời gọi các ngôn sứ để qua các Ngài công bố tình thương của Chúa cho các dân tộc. Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái để họ ca tụng tình yêu của Chúa, tên Ngài, luật và sự khôn ngoan của Ngài. Có khi họ đã phải hy sinh cả mạng sống để chứng minh cho tình thương của Chúa.
Lịch sử thánh được trải rộng qua mọi thế hệ, để mãi mãi con người không ngừng ca tụng sự yêu thương của Chúa.
YÊU NGƯỜI
Song song với giới luật mến Chúa, giới răn yêu người cũng là một trong hai điều luật bổ túc cho nhau. Thời Cựu Ước sách Lêvi 19, 18 đã viết: " Ngươi phải yêu mến người lân cận như chính mình ngươi ". Nếu nhãn quan Do Thái đặt ngang hàng tình yêu huynh đệ với những giới răn khác, thì nhãn giới Kitô giáo lại đặt nó vào địa vị trung tâm, địa vị then chốt chủ yếu: " Ai không yêu anh em mình là kẻ mình thấy thì sẽ không yêu được Thiên Chúa, Đấng mình chẳng thấy. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta yêu mến con cái Chúa "( 1Ga 4, 20t ; 5, 2 )." Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con " ( Ga 13, 34t ). Tình yêu là huynh đệ, là hiệp thông, là ơn huệ của Chúa Cha ban cho con người đến nỗi không yêu thương là sống trong vương quốc của tà thần. Yêu Chúa và yêu người là hai giới răn quan trọng bổ túc chặt chẽ cho nhau đến nỗi yêu Chúa mà không yêu người là kẻ nói láo. Ta hãy noi gương Chúa dậy:" Cứ dấu này mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ Thầy: đó là tình yêu các con trao cho nhau" ( Ga 13, 35 ).
GỢI Ý CHIA SẺ:
Anh chị nghĩ gì về giới luật mến Chúa, yêu người ?
2. Tình yêu anh chị có bôi sáp không ?
-------------------------------
(Suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật XXX Thường niên A- Mt 22: 34-40)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Trong Kitô Giáo hoặc Công Giáo, Đức Ái hay Tình Yêu là một vấn đề nòng cốt và bao la sâu: TN30-A85
Trong Kitô Giáo hoặc Công Giáo, Đức Ái hay Tình Yêu là một vấn đề nòng cốt và bao la sâu thẳm, không giấy mực nào có thể diễn tả đầy đủ và trọn vẹn. Nó có một ý nghĩa rất đặc biệt, đặc thù của Kitô giáo, không thể hiểu và biểu lộ nó một cách thông thường như người đời thường tình biểu lộ. Chúng ta cần phải có Ân Sủng Chúa xâm nhập hướng dẫn chúng ta đi vào cốt lõi của tình yêu ấy. Chúa nhật hôm nay, bài Tin Mừng và các Bài Đọc đều hướng về loại Tình Yêu ấy.
Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG CHÚA NHẬT HÔM NAY
Bài đọc I hôm nay theo sách Xuất Hành (Xh.22: 20-26) và câu chuyện thánh Mathew nói về giới răn lớn nhất (Mt.22: 34-40) đã cho chúng ta biết cách xử sự thế nào là yêu Chúa và yêu người. Bài đọc sách Xuất Hành nói đến một vài điều luật đặc biệt của người Do Thái liên quan đến những người góa bụa, mồ côi và nghèo khổ. Thiên Chúa nhắc nhở dân Ngài là chính họ đã có lần là những người xa lạ trên phần đất của người ngoại quốc. Đối với những người xa lạ, góa bụa, mồ côi và nghèo đói thì chúng ta phải tỏ ra nhân ái và có lòng trắc ẩn xót thương. Nếu không, chính Thiên Chúa sẽ trừng phạt những kẻ hành sử sai trái và bảo vệ những người cô thế không ai giúp đỡ.
Thiên Chúa phán xét nghiêm khắc những kẻ có thái độ và hành động tiêu cực đối với tha nhân, đặc biệt đối với người nghèo, những kẻ xa lạ, những kẻ bất hạnh thiếu may mắn và những kẻ khác biệt với chúng ta. Niềm tin thật sự, lòng yêu Chúa và tình liên đới giữa chúng ta với Chúa Kitô được đánh giá qua cung cách chúng ta đối sử với tha nhân. Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta phải ăn năn thống hối và xin tha thứ vì những thái độ tiêu cực của chúng ta đối với tha nhân, cũng như cung cách chúng ta đối sử với họ.
CÁC KINH SƯ THỬ CHÚA GIÊSU.
Bài Phúc Âm hôm nay (Mt.22: 34-40) chứa đựng lời kinh căn bản của dân Do Thái khi họ tuyên xưng đức tin của họ: «Hãy nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa, chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất» (Tl 6: 4). Là Kito hữu, chúng ta tuyên xưng đức tin trong lúc thờ phượng bằng kinh Tin Kính thì người Do Thái tuyên xưng đức tin của họ bằng lời kinh Shema trong hội đường thờ phượng của họ. Lời kinh Shema là bản tóm tắt cả một tôn giáo: «Hãy nghe đây, hỡi dân Israel, Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất; và các ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa, Chúa các ngươi với hết tâm hồn, hết trí không và hết sức lực của các ngươi ».
Song song với đoạn Phúc âm thánh Mathew (Mt 22: 34-40) là đoạn phúc âm thánh Marco (Mc12: 28-34) nói về cuộc đối thoại giữa chúa Giêsu và một kinh sư là người đã khen chúa Giêsu đối đáp và trả lời ông quá hay trong một cuộc tranh luận trước kia, thì Chúa Giêsu đã nói với ông ta là « Ông không xa nước Trời lắm đâu ». Sau này thánh Mathew đã khai triển rộng thêm câu chuyện đó.
Cái trí thức của dân Pharisiêu là sự thông hiểu về luật. Họ coi đó như là tổng hợp mọi sự khôn ngoan, cái uyên bác thực sự và duy nhất. Vị thế của kinh sư trong cộng đồng người Do Thái là một địa vị lãnh đạo được kính nể. Câu hỏi của một học giả đưa ra hỏi Chúa Giêsu, «điều răn nào là điều răn lớn nhất và quan trọng nhất?», thoáng nghe thì xem ra rất là thành thật.
Thầy dạy về kinh Torah là những kinh sư và rabbi thì luôn luôn tranh luận về sự quan trọng tương đối của các giới răn trong Cựu Ước. Kinh sư là những học giả và những nhà trí thức của Do Thái giáo. Dân Pharisiêu phân định ra 613 điều răn trong sách Torah[1]. Trong số 613 điều thì 248 điều gọi là tích cực, buộc mọi người « phải làm », và 365 điều gọi là tiêu cực, buộc mọi người « không được làm ». Cốt lõi của câu hỏi « Điều răn nào là quan trọng nhất trong tất cả những điều răn đó » đã đặt Chúa Giêsu vào một khoảnh khắc giáo huấn quan trọng khi Chúa « bị họ thách đố ».
Để trả lời họ, chúa Giêsu đã nêu sách Thứ Luật (Tl 6: 4-5) và những câu kinh trong Shema mà dân Do Thái thường đọc hàng ngày. Mặc dù bị hỏi có một điều, nhưng Chúa Giêsu đã đáp lại hai điều. Trong khi nối kết 2 điều với nhau, chúa Giêsu đã đi vượt qua và xa hơn cả câu hỏi mà chúng đặt ra cho chúa, đồng thời nối kết điều răn thứ nhất và lớn nhất là «Yêu Chúa» với điều răn thứ hai là điều phải «yêu thương tha nhân»: « Ngươi sẽ không oán thù, không hiềm ghét dân tộc ngươi. Nhưng ngươi phải yêu mến người hàng xóm như chính ngươi vậy » (Lv19:18). Hai giới răn này chính là nguyên khởi của mọi lề luật và lời ngôn sứ. Chúa Giêsu đã không bỏ qua những điều răn khác mà còn cắt nghĩa thêm rõ ràng như sau: «Tất cả mọi luật lệ và lời ngôn sứ đều dựa trên hai giới răn này ». Điều đặc biệt và hứng thú là những vị « học giả » đố thử Chúa đã đồng ý với chúa Giêsu và tỏ ra thán phục Ngài không một hậu ý thù hằn và chễ riễu gì.
KHÔNG THỂ YÊU CHÚA MÀ KHÔNG YÊU THƯƠNG THA NHÂN….
Yêu Chúa và yêu người tức chu toàn lề luật không phải là tư tưởng nguyên thủy của chúa Giêsu. Nó đã có trong Kinh Thánh của người Do Thái ngay từ lúc khởi đầu. Tuy nhiên, chúa Giêsu là người đầu tiên và duy nhất đã xác nhận như vậy. Chúa Giêsu đã dạy là chúng ta không thể yêu Chúa mà không yêu tha nhân. Khuyến khích tình yêu tha nhân phát khởi từ lòng yêu thương Chúa. Tình yêu Chúa được thể hiện và trở nên vững mạnh là do tình yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân không chỉ là loại tình yêu đòi hỏi bởi tình yêu Chúa, một sự kiện toàn phát sinh ra từ đó, mà –theo một cảm nhận nào đó- nó là điều kiện tiên thiên của tình yêu Chúa. Không thể có tình yêu Chúa thực sự, nếu trong đó, tự nó không phải là tình yêu tha nhân. Tình yêu Chúa phải biểu lộ được căn tính của nó qua việc kiện toàn nó trong tình yêu tha nhân.
GIÁO HUẤN CỦA MAISEN VÀ CỦA CHÚA GIÊSU
Ông Mai Sen truyền dạy trong kinh Shema (coi Tl 6:5; Lv 19:34), Chúa Giêsu tái xác nhận trong Tin Mừng hôm nay là: Tất cả mọi điều răn được tóm gọn trong tình yêu Chúa và tình thương yêu, tử tế với tha nhân. Mỗi khi người Do Thái đọc kinh Shema Israel và chúng ta là người Kitô hữu, khi hồi tưởng lại những điều răn lớn, thứ nhất và thứ hai là chúng ta, nhờ ân sủng của Chúa, đến sát gần nhau hơn. Bất cứ khi nào chúng ta làm dấu Thánh Giá, là chúng ta đang vẽ kinh Shema trên thân thể chúng ta như chạm vào đầu, trái tim và hai vai là chúng ta yêu cầu chúng phụng sự Thiên Chúa vậy.
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Qua ánh sáng Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử suy gẫm về hai bản văn. Bản văn thứ nhất số #42 trong ÁNH SÁNG MUÔN DÂN (Lumen Gentium), hiến chế Tín Lý về Hội Thánh của công đồng Vatican II.
Thiên Chúa là Tình Yêu, «ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa và Chúa ở trong họ». Nhưng, Thiên Chúa đổ tràn tình yêu của Ngài xuống tâm hồn chúng ta qua Chúa Thánh Linh, là đấng đã đưọc Thiên Chúa ban cho chúng ta. Vậy thì quà tặng thứ nhất và cần thiết nhất là là tình yêu, nhờ đó chúng ta có thể yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân vì Thiên Chúa. Thực ra, để cho tình yêu, như là hạt giống có thể nảy mầm và sinh hoa kết trái trong tâm hồn, mỗi người tín hữu đều phải ước mong được nghe lời Chúa và chấp nhận ý muốn của Ngài, và phải hoàn thành điều mà Thiên Chúa đã khởi đầu bằng chính hành động của chúng ta nhờ ân sủng của Chúa giúp đỡ. Những hành động này là việc sử dụng các phép bí tích, đặc biệt là Phép Mình Thánh Chúa, thường xuyên tham dự vào tác động thánh của Phụng Vụ, thực hành đọc kinh cầu nguyện, ăn chay hãm mình, quên mình cứu người, phục vụ những người anh em huynh đệ một cách sống động và liên tục thực hành mọi nhân đức. Đối với Đức Ái, vì nó là nhịp cầu nối kết sự toàn bích và trọn vẹn của lề luật, nên nó chi phối trên tất cả mọi phương cách để đạt tới sự thánh thiên và cho ta sự sống thực với cùng phương cách đó. Chính Đức Ái dẫn đưa chúng ta đến mục đích cuối cùng của đời ta. Chính tình yêu Chúa và tình thương yêu tha nhân đã thể hiện người môn đệ đích thực của chúa Kitô.
LÀ KITÔ HỮU KHÔNG PHẢI LÀ KẾT QUẢ CỦA MỘT CHỌN LỰA LUÂN LÝ…
Bản văn thứ hai là lời mở đầu của Tông Thư năm 2005 của Đức Benedicto XVI: Thiên Chúa là Tình Yêu / Deus Caritas Est, được tóm gọn rất tuyệt diệu trong bài Tin Mừng hôm nay:
Là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa luân lý hay một tư tưởng siêu vời nào đó, nhưng là «một bắt gặp với một biến cố, một con người đã đưa ra một cuộc sống mới, một chân trời mới với một hướng đi nhất định». Để hiểu biết trọng điểm của tình yêu, niềm tin của người Kitô hữu đã giữ lại cái cốt lõi của niềm tin của dân Israel, đồng thời tạo cho nó một chiều sâu và bề rộng mới. Người Do Thái đạo đức cầu nguyện hàng ngày với lời kinh trong sách Thứ Luật, nó diễn tả sự hiện hữu của trái tim họ: « Hãy nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa, là Chúa ngươi, là Chúa duy nhất; ngươi sẽ yêu Thiên Chúa là Chúa ngươi với hết tâm hồn, hết trí khôn và hết tâm sức của ngươi » (Tl 6: 4-5). Chúa Giêsu đã kết hợp thành một huấn giới đơn thuần hai giới răn Yêu Chúa và Yêu Người đã nói trong sách Levi: « Ngươi hãy yêu tha nhân như yêu chính mình vậy »(Lv19:18 ; coi Mc12:29-31). Bởi vì Thiên Chúa là người đầu tiên đã thương yêu chúng ta (coi1Ga 4:10), cho nên tình yêu bây giờ không còn là môt «mệnh lệnh», mà là đáp ứng của một quà tặng tình yêu, nhờ nó mà Chúa Giêsu đến gần kề với chúng ta.
LỜI KẾT:
CHÂN PHƯỚC TÊRESA THÀNH CALCUTTA
Thời nay, nói đến tình yêu mà không nói đến mẹ Teresa thì là một thiếu sót. Mới đây có những cuộc tranh luận khá lâu giữa những người Công Giáo tốt lành. Họ dựa vào những vấn đề công lý xã hội trong Giáo Hội mà tuyên xưng là ngôn sứ. Trong khi họ nắm chặt lấy một số hình ảnh mẫu mực lớn về công lý xã hội trong truyền thống Công Giáo như là Tổng Giám mục Oscar Romero và Dorothy Day, thì họ lại hoàn toàn tiêu cực về Mẹ Teresa thành Calcutta. Họ tuyên bố Mẹ Teresa chưa bao giờ đề cập đến «sự ác có hệ thống» của thời đại chúng ta. Họ nói rằng Mẹ Teresa không bao giờ thể hiện những chỉ trích thực sự có tính ngôn sứ rồi cho rằng Mẹ đơn giản chỉ là hình ảnh mẫu mực an toàn cho một Giáo Hội mà đa số là nam giới!
Điều nổi bật của Mẹ Teresa và các đệ tử của mẹ, khiến chúng ta rất thán phục là khi họ nói về yêu Chúa, thương người và «chia sẻ sự nghèo khó», họ đã coi thường những lý luận của nhiều tổ chức, định chế và cơ quan của thời nay, chỉ thích phô trương những chương trình cho người nghèo có tính cách chính trị thay vì hiệp thông xâu xa với từng cá nhân nghèo khổ. Những đại diện và cơ dụng của loại hiệp thông này đã bị loại bỏ và không còn thích hợp nữa.
Những điều mà Giáo Hội đang tìm kiếm nơi các thánh nhân không phải chỉ là những thành quả tốt -như giải thưởng Hòa Bình Nobel và những giải thưởng quốc tế khác- mà còn phải có chứng minh chắc chắn và hiển nhiên là các ứng viên làm thánh hay chân phước đã được biến đổi, từ bên trong lẫn bên ngoài, nhờ ân sủng của Chúa và thể hiện được tình yêu Chúa và yêu người một cách xâu sa.
Các bạn có bao giờ nhìn thấy tấm danh thiếp của Mẹ Teresa không ? Nó không giống bất cứ một tấm đanh thiếp thường tình nào khác. Trên mặt danh thiếp đó, có ghi mấy hàng chữ như sau:
Hoa trái của sự Yên Lặng là CẦU NGUYỆN.
Hoa Trái của Cầu Nguyện là NIỀM TIN
Hoa Trái của Niềm Tin là TÌNH YÊU
Hoa Trái của Tình Yêu là PHỤC VỤ
Hoa Trái của Phục Vụ là AN BÌNH.
Xin Chúa chúc phúc cho Bạn.
Mẹ Teresa.
Chúng ta không thấy trên danh thiếp này Địa Chỉ, Số Phone, Imeo, số FAX. Chúng ta cũng không cần biết bất cứ một dấu hiệu nào để liên lạc với Mẹ, bởi vì Mẹ luôn luôn có mặt với tất cả chúng ta trong sự hiệp thông với các thánh. Chớ gì chân phước Teresa thành Calcutta dạy bảo cho chúng ta cách thức yêu Chúa và yêu người trong tình hiệp nhất và hòa điệu yêu thương.
Chúng ta có luôn luôn hiện diện và sẵn sàng tiếp nhận mọi ý kiến của tha nhân, của giáo dân, của những người anh em huynh đệ, của những kẻ nghèo hèn, đau khổ, bất hạnh, bị áp bức…..cần được minh oan, giúp đỡ và chia sẻ, ủi an… ?
Fleming Island, Florida
Oct.25, 2011
NTC
----------------------------------
Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, về nội dung, có thể nói làm sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Am: TN30-A86
Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, về nội dung, có thể nói làm sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước. Đó là lý do, Giáo Hội không chọn đọc đoạn Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước về vấn đề kẻ chết sống lại để trả lời cho nhóm Sađucê, một vấn đề không trực tiếp liên quan đến ý nghĩa sâu xa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và Chúa Nhật tuần này. Thật vậy, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước Chúa Giêsu đã lợi dụng vấn đề “trả thuế cho Cêsa có hợp lý hay chăng?”, do nhóm đồ đề của phái Pharisiêu đặt ra để gài bẫy lời nói của Người, để kêu gọi chung tất cả mọi người và riêng thành phần chất vấn Người rằng: “Hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Qua câu trả lời làm cho mọi người ngỡ ngàng này, Chúa Giêsu chẳng những đã kêu gọi riêng thành phần chất vấn Người và chung dân tộc Do Thái của họ là hãy vì Chúa mà nộp thuế cho Cêsa, tức hãy hàng phục Cêsa là nhân vật Thiên Chúa duy nhất của họ đã muốn dùng để kéo họ về với Ngài, vì thực tế họ đã không “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, những gì Thiên Chúa muốn chứ không phải những gì họ nghĩ ra, những gì theo ý riêng của họ. Trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước tôi đã chia sẻ vấn đề dân Do Thái này như sau:
“Thật vậy, vấn đề Chúa Giêsu trả lời cho vấn nạn có âm mưu của nhóm người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nếu để ý, sẽ thấy có liên hệ đến ba dụ ngôn Người đã nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong Phúc Âm ba tuần trước. Ở chỗ, thành phần lãnh đạo Do Thái nói chung, trong đó có những người thuộc nhóm Pharisiêu, như Nicôđêmô chẳng hạn (x Jn 3:1), đã là người con chỉ làm theo ý mình, ‘vâng con đi’, mà thực tế không làm theo ý cha, tức họ đã không ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’; hay họ đã là bọn tá điền làm vườn nho cho chủ nhưng không sinh hoa lợi cho chủ như ý chủ muốn, lại còn sát hại các thừa sai của chủ, kể cả người con trai duy nhất của chủ, tức họ đã thực sự không ‘trả về cho Thiên Chúa nhưng gì của Thiên Chúa’; hoặc họ đã là những người được chính thức mời đến dự tiệc cưới của vua, song đã từ chối không chịu đến dự, thậm chí còn ra tay sát hại những đầy tớ của vua sai đi mời họ, tức là họ cũng đã không chịu ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’”.
Vậy, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã vạch rõ lý do tại sao họ đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, và đã xác định rõ cho chung con người, nhất là cho riêng dân Do Thái, biết những gì họ cần phải “trả về cho Thiên Chúa”, và họ phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” bằng cách nào. Vấn đề của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, qua câu trả lời của Chúa Giêsu cho nhóm Pharisiêu thông luật, đó là vấn đề kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình và yêu thương nhau như bản thân mình, một vấn đề cốt lõi của tất cả lề luật và các lời tiên tri, như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối bài Phúc Âm. Vậy nếu thành phần Pharisiêu nói riêng và dân Do Thái nói chung lại hết sức để ý đến lề luật và cặn kẽ tuân giữ từng điều luật của Thiên Chúa thì họ phải là những người đã kính mến Thiên Chúa hết bản thân của họ cũng như đã yêu thương tha nhân như bản thân của họ? Thế mà, theo Chúa Giêsu, Đấng thấu suốt lòng trí con người, họ chỉ là những kẻ tôn thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ hoàn toàn xa cách Ngài (xem Mathêu 15:8), đúng như người con thưa với cha “vâng con đi” rồi lại không đi trong dụ ngôn cha kêu gọi hai con trai đi làm vườn nho cho ông. Điều Thiên Chúa muốn họ trả về cho Ngài đây không phải là môi miệng của họ, mà là tấm lòng của họ, không phải là việc làm bề ngoài của họ mà là lòng họ tin tưởng nhận biết Ngài, ở chỗ kính mến Ngài “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai Chúa Nhật tuần này, Thánh Phaolô đã nói đến việc “bỏ những ngẫu tượng mà quay về cùng Thiên Chúa, để phụng sự Ngài là Thiên Chúa hằng sống chân thật…”
Và chính vì họ không thực lòng kính mến “Chúa là Thiên Chúa” của họ như thế mà họ chẳng những đã không thể “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, mà còn không thể “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” nữa. Tức là họ như tông đồ Phêrô nhìn tất cả mọi sự theo tự nhiên, theo phán đoán trần gian chứ không theo Thần Linh (xem Mathêu 16:23), và họ như tông đồ Gioan phản ứng hoàn toàn theo tự nhiên, những gì không hợp với họ (như đế quốc Rôma chẳng hạn) đều là kẻ thù của họ, cần phải loại trừ (xem Marco 9:38). Chẳng những thế, vì chỉ tìm mình hơn tìm Chúa, không “trả về cho Thiên Chúa” đúng như những gì của Thiên Chúa và như Thiên Chúa muốn, nên họ cũng đã không “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”, tức cho tha nhân những gì của tha nhân, trái lại, họ đã khinh thường, hà hiếp, bóc lột chính anh em mình, như trường hợp người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện bộc phát đối với người thu thuế ở cuối đền thờ bấy giờ (xem Luca 18:11), những hành động được Sách Xuất Hành trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật tuần này liệt kê cấm không được làm. Có thể nói, nếu con người biết “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” là họ đồng thời cũng “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Hay nói cách khác, một khi họ yêu thương tha nhân như bản thân mình là chứng tỏ họ đã “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, đã tỏ ra “yêu Chúa là Thiên Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” của họ.
Như thế, con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” là chính tấm lòng của mình, và trả về cho Ngài bằng cách “yêu thương tha nhân như bản thân mình”. Thế nhưng, chỉ khi nào con người biết “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” con người mới có thể vừa “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” vừa “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” mà thôi. Thế nhưng, vấn đề ở đây là tại sao con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”? Hay tại sao con người phải “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồm và hết trí khôn”? Nếu không phải tại vì “Chúa là Thiên Chúa”!
Đúng thế, theo tiến trình Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái thì vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “là Đấng vô hình” (Col 1:15), đã tự ý tỏ mình ra trong lịch sử loài người, cách riêng cho một dân tộc được Ngài tuyển chọn là dân Do Thái. Bằng cách đã tự động lập giao ước với tổ phụ của họ là Abraham và đã giữ trọn những gì Ngài đã hứa với con cháu của ông (xem Luca 1:55), một giao ước và lời hứa đã được nên trọn nơi Đức Kitô Thiên Sai Con Ngài (xem Heb 1:2), Người Con Ngài đã làm đám cưới cho, như dụ ngôn của bài Phúc Âm hai tuần trước. Phải, Người Con này “đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), đã nên một với loài người, đã cưới lấy nhân tính loài người, như vợ chồng nên một thân thể với nhau, nhờ đó hết mọi người không trừ ai, kể cả Do Thái lẫn Dân Ngoại, đã được mời đến tham dự bữa Tiệc Cưới Thần Linh ấy, một Tiệc Cưới mà thực phẩm Tân Ước tuyệt hảo được thiết đãi nhưng không là chính Mình Máu của Con Thiên Chúa, làm cho khách dự tiệc “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10). Chính vì Thiên Chúa đã yêu nhân loại chúng ta trước một cách nhưng không và vô cùng như vậy mà chúng ta phải kính mến Ngài (xem 1Jn 4:19), bằng chính tình Ngài yêu thương chúng ta. Vì “Chúa là Thiên Chúa” đã yêu thương chúng ta vô cùng bằng chính con tim nhân loại của Con Ngài, thì chúng ta cũng chỉ có thể trả lại cho vị “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16) toàn thiện toàn ái này một cách cân xứng bằng con tim nhân loại của Đấng đã dạy chung Giáo Hội Nhiệm Thể của Người cũng như riêng thành phần môn đệ của Người rằng “Các con hãy yêu nhau như Thày đã yêu các con” (Jn 13:34;15:12).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
----------------------------------
“Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”.
Ở nơi có tình yêu, tôi không những thấy và có Đức Chúa Trời, mà hơn nữa yêu thương còn: TN30-A87
Ở nơi có tình yêu, tôi không những thấy và có Đức Chúa Trời, mà hơn nữa yêu thương còn chính là “giới răn riêng” mà Chúa Giêsu đã truyền dậy cho những ai muốn làm môn đệ của Ngài: “Ta ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau” (Gioan 13:34).
Trích đoạn Tin Mừng hôm nay nói rất rõ về giới luật yêu thương này, và Ngài đã liên kết nó với tình mến mà con người phải dành cho Ngài: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi. Đấy là giới luật trọng đại nhất. Giới luật thứ hai cũng giống như thế: “Ngươi phải thương yêu anh em ngươi như chính mình ngươi”. Tất cả các tiên tri và lề luật đều gồm tóm trong hai giới luật này” (Mt 23:37-40). Tình yêu đã trở nên căn tính và cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu.
Mến Chúa là yêu người. Yêu người là mến Chúa. Những gì Chúa Giêsu vừa nói đã đem đến một kết luận thực hành này, đó là: không thể yêu mến Thiên Chúa, nếu không thương yêu tha nhân. Và cũng không thể nào thương yêu tha nhân được, nếu không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Nhưng câu hỏi được đặt ra là phải chăng yêu anh chị em mình là yêu mến Thiên Chúa. Hay ngược lại, hễ nói mình yêu mến Thiên Chúa là tôi cũng đã yêu thương tha nhân?
1. Yêu tha nhân chưa hẳn đã là yêu Chúa: Như ý nghĩa của Bài Ca Đức Ái: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”. Hoặc như Chúa Giêsu đã nói về sự liên hệ mật thiết giữa hai giới luật thương yêu. Tình yêu qua lăng kính Tin Mừng mang hai đối tượng: Thiên Chúa và con người.
Điều này khác với cái nhìn thông thường của con người khi nghĩ và nói về tình yêu. Theo đó, con người thường diễn tả tình yêu của mình qua đối tượng mình yêu, và trong cách thức tỏ bày tình yêu ấy, con người cũng nói lên nhu cầu được yêu của mình. Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài hướng hẳn tình yêu và đối tượng tình yêu của con người về với Thiên Chúa và tha nhân. Và do đó, Ngài kể như ai đó đã yêu Ngài, nếu họ thương yêu anh chị em mình. Tuy vậy, không phải hễ ai đó nói mình yêu một người nào đó, là tự nhiên cũng yêu Thiên Chúa, vì có bao nhiêu đối tượng và bao nhiêu cách thức tỏ bày tình yêu của con người không hề phát xuất từ Thiên Chúa, cũng không mô phỏng và phản ảnh tình yêu Thiên Chúa. Và vì thế cũng không phải là yêu Thiên Chúa.
- Yêu người, thương người vì người đẹp, dễ mến, tài giỏi, học thức, có địa vị.
- Yêu người, thương người vì người nhẫn nại, chịu đựng, và dễ dãi với tôi.
- Yêu người, thương người vì người có nhiều tiền của, giầu sang, và rộng rãi với tôi.
- Yêu người, thương người vì người yêu và thương tôi.
Những hình thức yêu thương trên tuy có mô phỏng và nói lên phần nào tính chất và vẻ đẹp của tình yêu, nhưng yêu như thế chưa phải là yêu Chúa, và chưa khám phá ra Ngài trong đối tượng của tình yêu. Chúa Giêsu ở giữa, nhưng với những hình thức yêu thương ấy, tôi chưa thực sự yêu Ngài như Ngài đã yêu, đáng yêu và phải được yêu. Nói một cách rõ ràng hơn, những đối tượng tình yêu trên chỉ quy về con người, và tính ích kỷ của chính tôi. Đó là yêu mình, đó là được yêu chứ không phải là yêu. Vì yêu thật là phải cho đi chứ không nhận lại, nhất là yêu như Chúa yêu càng đòi buộc tôi phải quên mình đi nhiều hơn nữa, đến mức độ mà như Chúa Giêsu nói là “hết lòng, hết linh hồn, và hết tâm trí”.
2. Yêu Chúa chưa hẳn đã là yêu tha nhân: Cũng một cách tương tự như tôi yêu tôi. Tôi đi tìm cái tôi của mình qua hình ảnh, đối tượng, và cách thức diễn tả tình yêu của mình. Nhiều lúc tôi cứ tưởng là mình đã hết lòng yêu tha nhân vì một vài cử chỉ lòng mến mà tôi dành cho Thiên Chúa. Và với những hành động ấy, tôi đã hoàn tất giới luật yêu thương của Ngài.
Tôi nói mình có lòng yêu mến Thiên Chúa, sốt sắng kính mến Đức Mẹ, qua việc siêng năng đến thánh đường dự lễ, lần hạt, và rước sách. Tôi tham gia mọi hội đoàn, đoàn thể, và sinh hoạt rất hăng say trong mọi lãnh vực Công Giáo Tiến Hành. Nhưng đó có phải là tôi đã yêu mến Thiên Chúa và kính mến Đức Mẹ thật không? Và qua tình yêu mến, cách thức diễn tả lòng sùng mộ ấy, tôi đã chu toàn đức ái đối với anh chị em mình chưa?
Cũng như tình yêu và lối diễn tả tình yêu đối với tha nhân, tình mến đối với Thiên Chúa cũng đã bị tính ích kỷ, và tư lợi của tôi chi phối. Tôi thường ngày vẫn đọc nhiều lần: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, nhưng chỉ xin Chúa tha cho số nợ mà tôi mắc với Ngài, còn việc tha thứ cho anh chị em thì tôi vẫn không tha.
Tôi đọc: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội”, nhưng nếu có ai đó bảo cho tôi biết mình thật sự có tội, lập tức người đó gặp sự chống đối, khó chịu, và thù ghét của tôi ngay. Đối với tôi, chỉ có Đức Mẹ mới là người cầu cho tôi là kẻ có tội. Và tội làm sao, tội như thế nào thì đã có Chúa tha.
Nhiều khi tôi đi đền tạ Trái Tim Chúa, Mẫu Tâm Mẹ, nhưng chính là đi đền tạ trái tim của tôi. Vì nếu chồng tôi, vợ tôi, con tôi, hoặc bất cứ ai đó cần đến sự hiện diện của tôi, cần tôi nghỉ một buổi đền tạ để giúp đỡ và săn sóc những nhu cầu của họ, lập tức tôi thấy bất mãn và khó chịu ngay. Như vậy là tôi đi tìm đền tạ trái tim tôi chứ không phải là đền tạ trái tim Chúa hay trái tim Mẹ. Vì một buổi chầu đền tạ thật sự phải dẫn tôi đến lòng bác ái, và việc chu toàn trách nhiệm.
3. Yêu Chúa là yêu tha nhân: Tóm lại, để tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa cũng là tình yêu đối với tha nhân, và tình yêu tha nhân của tôi cũng là tình yêu đối với Thiên Chúa, tôi cần phải rất thực tế và phân biệt rõ ràng đâu là đối tượng và đâu là cách thức thực hành.
Chúa Giêsu qua trích đoạn Tin Mừng trên, Ngài đưa ra hai đối tượng: Thiên Chúa và con người. Và Ngài cũng đã đưa ra một phương thức thực hành là tình yêu. Nhưng dường như giữa hai đối tượng ấy, Ngài muốn con người chú tâm vào tha nhân, vì chính Ngài đã nói: “Ta ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau” (Gioan 13:34). Đối với Thánh Gioan Tông Đồ, thì “Nếu anh chị em tôi thấy đây mà không yêu được, thì làm sao yêu Chúa là đấng mà mình không thấy”. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại liên kết mến Chúa và yêu người thành một giới răn. Tha nhân là những người mà chúng ta hằng ngày gặp gỡ. Qua tha nhân, con người tìm gặp Thiên Chúa.
Về cách thế thực hiện thì dù là đối với Thiên Chúa hay đối với tha nhân vẫn là những hành động cụ thể mà qua đó tôi cần phải quên mình, phải hy sinh, và đôi khi phải chết đi, ít là trong tinh thần. Thí dụ, tha thứ cho một người làm mất lòng mình. Giúp một người đang cần một bữa ăn. An ủi một người đang cần lời khích lệ, ủi an của mình. Nhất là tránh không làm gì thiệt hại đến tha nhân dù tinh thần hay vật chất. Chỉ khi tôi làm những việc ấy với một lòng yêu mến, lúc đó tôi mới có thể nói được mình thực sự yêu mến Thiên Chúa và thực hiện giới luật yêu thương của Ngài. Mến Chúa và yêu người.
T.s. Trần Quang Huy Khanh.
----------------------------------
Mt 22, 34-40
Ai sinh ra cũng khóc. Phải chăng, đấy là một báo hiệu cuộc đời là bể khổ. Đời ai mà chả chứa đầy nỗi: TN30-A88
Ai sinh ra cũng khóc. Phải chăng, đấy là một báo hiệu cuộc đời là bể khổ. Đời ai mà chả chứa đầy nỗi khổ. Người giàu cũng khóc là thế. Nhưng trong tất cả những nỗi khổ ấy, nỗi khổ to lớn nhất là không được một ai yêu và cũng chẳng có ai để yêu. Thế là mình vô duyên, mình cô đơn tận cùng. Như thế, con người sinh ra, đứng đằng sau nỗi KHÁT SỐNG, là nỗi khát lớn nhất, thì ước vọng sôi sục là KHÁT YÊU.
Yêu và được yêu, là ước vọng chảy trong tất cả mọi mạch máu và mọi chi thể con người. Con người ở bất cứ nơi đâu, bất cứ màu da nào cũng đều thế cả. Thiên Chúa dựng nên con người như thế và Ngài thừa biết điều ấy. Ngài cũng muốn mọi người hãy sống cho và trong tình yêu. Vì tình yêu là điều diệu kỳ nhất trong tất cả mọi điều diệu kỳ. Nhưng yêu ai, yêu như thế nào mới đúng cách và mới đem lại hạnh phúc. Bởi vì đã có vô vàn người đã phải đau khổ vô cùng vì tình yêu.
Tình yêu chân chính không có nửa vời. Yêu nửa vời chưa phải là tình yêu chân thật. Cho nên, để tình yêu đúng hướng và sâu sắc, thì đối tượng căn bản thứ nhất phải yêu là Thiên Chúa. Bởi Ngài là cội nguồn của tình yêu. Tất cả mọi tình yêu thương có trên trái đất đều bắt nguồn từ Ngài. Và vì Ngài là Đấng Vô Cùng: vô cùng về quyền phép, về thánh thiện, về khôn ngoan. Cho nên ta phải yêu Ngài cho xứng với phẩm giá vô cùng của Ngài, là hết sức, hết lòng và hết trí khôn. Cũng bởi vì Ngài là cội nguồn của Chân, Thiện, Mỹ. Không một tạo vật nào có thể so sánh. Mọi vẻ đẹp ở trần gian đều là một mảnh bé nhỏ phản ánh vẻ đẹp của Ngài. Cho nên, phải yêu Ngài bằng tất cả những gì mình có.
Sau đó, là đối tượng phải yêu con người. Vì con người chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Vả nữa, mỗi người đều là tác phẩm của Ngài tạo nên. Cho nên, phải yêu người khác bằng tất cả trái tim trọn vẹn tình yêu. Với bản thân thì đối tượng mình quý nhất là chính mình. Ai cũng nâng niu bản thân mình. Vì thế, Chúa bảo mình phải yêu người khác như chính mình yêu mình. Một giới răn yêu duy nhất nhưng phân biệt chứ không phân chia thành hai.
Câu hỏi gợi ý:
1* Bạn nghĩ xem, Chúa đứng ở chỗ nào trong đời bạn?
2* Bạn có bao giờ trong thấy bóng dáng của Chúa nơi người khác không?
Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
------------------------------
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.: TN30-A89
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36). Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema, kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5). Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39). “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó. Hai điều răn được gói trong một động từ yêu. Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ. Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực, nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ. Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần. Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm. Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó. Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm. Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ. Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình. Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân. Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng. Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình, mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác, trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống. Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu, “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20), đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.” Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình. Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35). Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù, một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng. Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa. Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)
-------------------------------
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình".
Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ ngôn đời thường" của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện: TN30-A90
Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ ngôn đời thường" của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:
Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: "xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây". Người ăn xin ngước mặt đáp: "ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi".
Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi - sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.
Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu..., bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận "nó mất hết tính người". Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.
Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. "Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương"(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, "với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau"( Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa - là đường, là sự thật, và là sự sống.
Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa - Đấng yêu thương.
-------------------------------
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác: TN30-A91
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.
-------------------------------
Malala Yousafzai đã được trao giải Nobel Hòa Bình vào hôm thứ sáu, 10.10.2014 cùng với ông Kailash: TN30-A92
Malala Yousafzai đã được trao giải Nobel Hòa Bình vào hôm thứ sáu, 10.10.2014 cùng với ông Kailash Satyarthi cho những nỗ lực tranh đấu chống lại sự áp bức đối với trẻ em và quyền của giới trẻ, trong đó có quyền được giáo dục.
Malala Yousafzai, người Pakistan, năm nay 17 tuổi là người trẻ nhất trong lịch sử được vinh dự nhận giải Nobel Hòa Bình trong danh sách những người nhận giải nổi tiếng như Martin Luther King Jr., Nelson Mandela and Mẹ Têrêsa thành Calcutta.
Hai năm trước đây Malala Yousafzai bị quân khủng bố cực đoan Taliban bắn vào đầu và cổ bởi vì những tranh đấu của cô đòi quyền được giáo dục cho các em gái nhỏ ở Pakistan. Sau khi hồi phục từ cuộc giải phẫu, Malala đã mở rộng phạm vi chiến dịch vận động ra thế giới bên ngoài và trở thành tiếng nói đi đầu cho quyền được giáo dục của các trẻ em phái nữ.
Từ khi mới 11 tuổi, Malala Yousafzai đã bắt đầu có những buổi trả lời phỏng vấn và chuyển tải những thông điệp của cô về sự quan trọng của giáo dục đối với các bé gái. Lúc bấy giờ Taliban đã chiếm đóng thành phố của cô và đe dọa sẽ phá hủy toàn bộ những trường lớp dành cho nữ sinh và ngăn cấm các bé gái đến trường.
"Mặc dù tuổi còn rất trẻ, Malala Yousafzai đã tranh đấu trong nhiều năm cho quyền được đến trường của trẻ em gái. Cô là tấm gương chứng minh rằng trẻ em và thế hệ trẻ cũng có thể đóng góp để cải thiện hoàn cảnh của chính mình. Và Malala đã làm điều đó trong những điều kiện vô cùng nguy hiểm. Qua cuộc tranh đấu hào hùng của cô, cô đã trở thành phát ngôn viên hàng đầu cho quyền của trẻ em gái được học hành." Ủy ban Nobel đã tuyên bố.
Malala Yousafzai hiện đang theo học tại Birmingham, Anh Quốc và cô nhận được tin thắng giải Nobel Hòa Bình vào sáng thứ sáu khi đang ở trong lớp hóa học. Phát biểu cảm tưởng về giải thưởng, Malala nói rằng cô không tin là cô xứng đáng với giải Nobel Hòa Bình. Tuy nhiên, cô xem đây là một khích lệ lớn lao để cô tiếp tục và biết rằng cô không cô đơn trên con đường tranh đấu của cô.
"Đây chỉ là bước khởi đầu, trẻ em trên toàn thế giới cần đứng dậy cho những quyền của mình mà không phải chờ đợi ai khác," cô nói. ( Theo CNN & USA Today ).
Cô bé Malala Yousafzai tuy tuổi nhỏ nhưng đã chín chắn trưởng thành, ý thức tranh đấu cho nữ quyền, mặc dù nguy hiểm đe dọa tính mạng. Cô can đảm xả kỷ, xả thân cho lý tưởng phụ nữ bình quyền. Phải có một tình yêu tha nhân cháy bỏng, cô mới có thể kiên trì dấn thân. Điều không phải ai cũng dễ dàng làm được, dù có thừa lợi thế hơn cô bé.
Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố hai giới răn quan trọng nhất. Đó là mến Chúa, yêu người. Tuy vắn tắt, đơn giản nhưng thực hiện không hề dễ.
Khi con người bị đột biến gien
Trong sáng, thành thật, dễ thương, trẻ thơ là hình ảnh Đức Giêsu muốn nhắn nhủ, gửi đến những ai mong được hưởng Ơn Cứu Rỗi, được vào Nước Trời. Nhưng dù lên non tìm động hoa vàng đi nữa, chắc mấy ai có thể cải lão hoàn đồng, khi cái tâm vẫn còn lục dục, thất tình, tham sân si ?
Vốn nhân chi sơ tính bản thiện, trẻ thơ sống hồn nhiên, vô tư, ngay lành trong tình yêu của ông bà, cha mẹ, anh chị em. Thiên Chúa đã đặt dấu ân Tình Yêu trên bản sao của Ngài.
Tiếc thay dấu ấn đó phai mờ dần, khi con người lớn lên, chịu ảnh hưởng thói xấu, gian trá, lưu manh, háo lợi, háo danh, háo chức, háo quyền lực của bá tánh, của môi trường xã hội.
Khi này lương tâm hạ cấp thê thảm. Lương tâm không bằng lương bổng ! Thay vì làm con thơ yêu thương của Thiên Chúa, lại cam phận nô lệ cho ba thù, xác thịt, thế gian và ma quỷ, mà Thánh Phaolô đã phải chua xót thốt lên: “Họ chẳng phục vụ Đức Kitô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính cái bụng của mình !” ( Rm 16, 18 ).
Tình yêu trong sáng chấp cánh bay đi, chỉ còn tình hận, tình phụ và tình thù. Con người bị đột biến gien, bị văn minh sự chết cấy sinh tử phù dở sống dở chết, cấy gien tự hoại, tự hủy, như Cty Monsanto cấy gien vô sinh vào hạt giống ( GMO ), để độc quyền cung cấp giống thực vật, động vật đã đăng ký bản quyền.
Khi Đấng Cứu Thế đến giải thoát con người
"Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" ( Ga 15, 12 ). Đây chính là lệnh truyền, cũng như điều răn của chính Đức Giêsu phán dạy. Ngôn hành hiệp nhất, Người đã yêu thương con người, đến giảng dạy và chứng mình lời nói bằng chính cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại để giài thoát con người khỏi kiếp nô lệ và cái chết đời đời.
Người đem Tình Yêu cao quý, sáng ngời, nóng bỏng, đến đốt cháy sự chết, gian tà, kiêu căng, hợm hĩnh, xa hoa, giả hình. Tình Yêu xóa tan hận thù, đố kỵ, chia rẽ, để tất cả thương yêu, hiệp nhất với nhau và với Người. “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta” ( Ga 17, 20 – 21 ).
Nên một với Đức Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Người, thì con người sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương con người.
Khi con người biết yêu mến Thiên Chúa, tôn thờ, ngợi khen và cảm tạ, cũng là lúc biết sám hối, thành khẩn tìm về với Ngài, mong muốn Ngài luôn hiện diện trong thế giới đang ra sức chổi bỏ Ngài, từ khước và vô ơn bạc nghĩa với Ngài.
“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” ( Mt 22, 39 ).
Thắm đậm Tình Yêu Thiên Chúa, con người mới mở rộng cõi lòng đến với tha nhân, mới có thể yêu tha nhân như chính mình. Mới biết đem đến tha nhân những tinh túy Tình Yêu, tình người, lòng bác ái, tình yêu thương, đùm bọc, che chở, chia sẻ và giúp đỡ tận tình.
“Vì yêu thương, ta sẵn sàng hy sinh tất cả:
“Để thế gian biết Đức Chúa Cha yêu Thầy và Thầy yêu mến Đức Chúa Cha, chúng ta hãy chỗi dậy và ra đi” ( Đường Hy Vọng, số 159 ).
Lạy Chúa, xin gột rửa trái tim chúng con nên trong sạch, tẩy đi những dấu vết, hoen ố, tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng, đam mê xác thịt, thế gian, để chúng con xứng đáng đón rước Tình Yêu đại lượng cao cả của Thiên Chúa.
Xin Chúa cải hóa chúng con trở lại con người chân chính, nguyên thủy mà Chúa đã yêu thương tạo dựng, để chúng con luôn biết kính yêu Chúa, tôn thờ và cảm tạ Chúa mãi, cũng như biết yêu thương tha nhân chân tình.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy dỗ, nhắc nhủ chúng con ngày càng thêm mến Chúa, yêu Chúa qua những bổn phận và trách nhiệm hằng ngày, trở nên chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa giữa tha nhân. Kính xin Mẹ nâng đỡ, hướng dẫn chúng con yêu thương tha nhân như chính Chúa vậy. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
-------------------------------
Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và ban hành luật pháp. Tác giả Thánh Vịnh cho biết kinh nghiệm: TN30-A93
Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và ban hành luật pháp. Tác giả Thánh Vịnh cho biết kinh nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” ( Tv 19, 8 ). Thánh Phaolô so sánh rất mạnh và độc đáo: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” ( 1 Cr 1, 25 ). Phải thực sự có niềm tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận này.
Công Giáo mệnh danh là Đạo Yêu Thương, có luật gồm 10 điều khoản – gọi là Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa ( đối thần ) và đối với tha nhân ( đối nhân ). Mười điều nhưng tóm lại chỉ là hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai điều khoản ấy “rút gọn” chỉ còn một điều: YÊU. Nói ngắn gọn cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu, hoặc Luật Tình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay là luật Hai-Trong-một.
Ngoài Mười Điều Răn do Thiên Chúa ban qua Môsê, Giáo Hội còn có Sáu Điều Răn. Cả 16 điều đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, ba điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, bảy điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người khó lắm”. Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức Tin không có hành động là Đức Tin chết” ( Gc 2, 17 và 26 ). Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối” ( x. 1 Ga 2, 4; 1 Ga 4, 20 ). Yêu thương liên quan công lý.
Chỉ một chữ YÊU, rất ngắn gọn, không còn ngắn hơn được nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài”. Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào ! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa !” ( Lc 11, 28 ). Phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm. Có yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời Thiên Chúa.
Như đã nói, chữ Yêu tương quan chữ Thập. Chữ Thập có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân ( cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt, ... ), và hướng đến với các linh hồn. Tuyệt vời biết bao ! Cũng vậy, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Không ai có thể giả bộ được. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng độc đáo lắm !
Luật vị nhân sinh. Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” ( Gl 3, 24 ).
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút” ( Xh 22, 20 – 23 ).
Luật pháp phải bao hàm tình yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé”, nhưng phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật pháp không thể theo kiểu “luật rừng”, mà phải nghiêm minh như quân luật: Quân pháp bất vị thân. Nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình” – nghĩa là Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm. Không dễ đâu đấy ! Ai làm được vậy mới đáng tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn giống Đức Giêsu Kitô.
Luật Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ” ( Xh 22, 24 – 26 ). Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, là Thiên Luật, là Thánh Luật, chứa đầy Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo vô cùng !
Được sống trong luật thiện hảo như vậy thì thật hạnh phúc. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh phải thốt lên: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” ( Tv 18, 2 – 3 ). Tác giả Thánh Vịnh xác nhận và chia sẻ: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng, muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù” ( Tv 18, 4 ).
Chúng ta cũng đã và đang nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Hãy cùng tác giả Thánh Vịnh xưng tụng Ngài khi chúng ta xác tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế ! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi” ( Tv 18, 47 – 48 ). Nhờ đó, chắc chắn Thiên Chúa lập tức quên hết tội lỗi của chúng ta và âu yếm ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm Ngài.
Thánh Phaolô chia sẻ tâm sự: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia” ( 1 Tx 1, 5 – 7 ). Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức có quyền, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” ( vừa “mới” vừa “lạ” ) để rồi làm khổ người khác. Có “quyền” thì đừng “hành” người khác, mà phải phục vụ mới đúng luật ( x. Mt 20, 26 – 28; Mc 10, 43 – 45 ).
Thánh Phaolô bộc bạch thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” ( 1 Tx 1, 9 – 10 ). Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như Thánh Phaolô cũng đã xác nhận trước đó: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa” ( 1 Tx 1, 8 ).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay ( Mt 22, 34 – 40 ) nói về “điều răn trọng nhất” ( tương tự Mc 12, 28 – 34 và Lc 10, 25 – 28 ) liên quan chữ YÊU. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật chữ YÊU.
Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp nhau lại – nhóm này “không tin có sự sống lại” nên chuyên tìm cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà không được. Lần này, có một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?” Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Xađốc đành cắn răng và ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi !
Nói đi nói lại, nói tới nói lui, nói trước nói sau, nói ngang nói dọc,... nói kiểu nào hoặc theo hướng nào thì cũng chỉ để “diễn giải” chữ YÊU mà thôi. Thiên Chúa là tình yêu ( 1 Ga 4, 8 và 16 ) nên luật của Ngài là Luật Yêu. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô thì phải “giữ trọn vẹn lề luật” ( Gl 5, 3 ). Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao ? Thánh Gioan cho biết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” ( 1 Ga 4, 8 ). Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” ( Rm 13, 10 ).
Liên quan Luật Yêu, Thánh Bênađô nói: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ”. Mức độ yêu là “yêu vô hạn” – không tính toán, không so đo, không phân bì, yêu như điên. Các thánh đều đã yêu “tới bến” và hóa điên rồ vì yêu Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn làm thánh, chúng ta cũng phải có “máu yêu” như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – loại máu này y học không hề biết vì không đủ trình độ để phát hiện.
Quả thật, còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu. Thánh Tiến Sĩ Tommaso d’Aquino ( Tôma Aquinô ) xác định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta”.
Lạy Thiên Chúa, xin thương giúp chúng con chân nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con khả dĩ nhận biết chính mình để chúng con yêu mến Ngài hết lòng và yêu thương tha nhân thật lòng, bằng cả con người của chúng con. Xin hướng dẫn chúng con đi theo Đường Chân Lý của Ngài ( Tv 25:5 ). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
-------------------------------
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ: TN30-A94
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do Thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kể các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình.
Lại vì là người thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này là trọng đối với nhóm này nhưng lại là thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất ?"
Hai điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị quy lỗi là thiên về phe này, chống lại nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bẫy họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Người vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta có được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" ( Mt 22, 37 ). Câu luật này trích trong sách Đệ Nhị Luật 6, 5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì thay đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" ( Mt 22, 39 ). Luật này trích ở sách Lêvi 19, 18, có khác ở chỗ thay vì nói yêu kẻ khác thì Chúa bảo yêu đồng loại: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình".
Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận: "Toàn thể Lề luật và sách các Ngôn Sứ đều tóm lại trong hai giới răn đó" ( Mt 22, 38 ). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm đến ba đối tượng phải yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất" ( Mt 22, 37 – 38 ).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi "yêu mến là chu toàn cả Lề luật" ( Rm 13, 10 ). Nhưng tình yêu có hai vế: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác...
Trước hết, khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Vì Thiên Chúa "là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta " ( x. Tv 17, 2 – 3 ), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết tất cả mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: "Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất" ( Mt 22, 38 ).
Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, nhưng phải yêu kẻ khác như yêu như chính mình, tại sao vậy ? Đối tượng thứ hai là "kẻ khác" Chúa phán: "Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" ( Mt 22, 39 ).
Theo quan niệm của Người Do Thái lúc bấy giờ thì "tha nhân" là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ ( x. Lv 19, 18 ). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người ( x. Mt 25, 40 ). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật "hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", Người có ý dạy phải thương yêu tất cả mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau ( Mt 25, 40 ), không những thế, lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa ( Mt 5, 43 ). Và yêu như thế nào ? "Yêu như chính mình ngươi".
Chúa có truyền dạy chúng ta phải yêu chính mình không ? Thưa, Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì chẳng ai lại ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất chính mình khi ngả theo sự ác.
Ngay khi Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, cũng chính là Người truyền cho chúng ta phải yêu chính bản thân mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu chính mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu mà chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình", Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình xem mình có yêu "kẻ khác" hay không ? Chúa Giêsu xem tình yêu "kẻ khác" như "mệnh lệnh của Người," mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. "Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em" ( Ga 15, 12 ). Nhiều người đã đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của sự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới các "việc bác ái", các việc "phải làm" cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó chỉ là làm phúc, là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc, nghĩa là người ta phải yêu trước !
Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là "không giả vờ," tức là, phải chân thật, nghĩa đen, "không giả hình" ( Rm 12, 9 ); Thánh Phêrô thì bảo người ta phải yêu "với một con tim trong sạch" ( 1 Pr 1, 22 ). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dấp gì với tình yêu: đó là tô điểm đánh bóng chính mình, để ra vẻ là một người chuyên làm điều thiện, để mai mốt được lên thiên đàng, và có khi chỉ để trấn an một lương tâm đã bị nhiễm cái xấu.
"Như chính mình" Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
-------------------------------
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng của bọn biệt phái đối với TN30-A95 Luong
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng của bọn biệt phái đối với Chúa Giêsu. Họ không ngừng tìm cách giăng những cái bẫy để hại Ngài. Họ đã bắt lỗi Ngài trong các việc Ngài làm. Đồng thời họ còn muốn bắt lỗi Ngài trong các lời Ngài nói. Vì giáo huấn của Ngài luôn đi ngược lại với những điều họ giảng dạy, nên họ đã cố gắng tìm cách đưa Ngài trở về với con đường mòn họ đã vạch ra và muốn mọi người noi theo. Họ muốn Chúa Giêsu lặp lại chính những điều họ thường giảng dạy. Họ hỏi Ngài về điều răn trọng nhất. Làm sao có thể nói khác điều luật dạy: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Nếu như Ngài dừng lại ở đây thì có lẽ họ đã toại nguyện, bởi vì Ngài dạy như họ đã dạy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói thêm: Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất. Giống ở đây không có nghĩa là hai giới răn là một và có thể hoán đổi cho nhau, mà muốn nói đến tầm quan trọng ngang nhau của hai giới răn. Giới răn thứ hai đó là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi, nghĩa là yêu thương kẻ khác một cách trọn vẹn, một cách hết lòng. Đây chính là nét độc đáo của Chúa Giêsu. Điều Ngài muốn khẳng định ở đây không phải là việc mến Chúa và yêu người, bởi vì những tư tưởng này cũng khá quen thuộc trong Cựu Ước, nhưng chính là việc Ngài đặt hai giới răn này gắn chặt với nhau, cũng có một tầm quan trọng ngang nhau, và hơn thế nữa, theo Ngài thì toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn này.
Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã làm cho kẻ thù của Ngài phải sửng sốt. Nhưng sự sửng sốt này, thay vì lay tỉnh họ, đặt họ trong tư thế sẵn sàng tìm hiểu cái mới trong giáo huấn của Chúa, thì đã làm cho họ thêm chai cứng và thêm quyết tâm trong ý định triệt hạ Ngài. Một cách nào đó có thể nói rằng tình yêu giữa con người với con người là công việc của con người, thế nhưng đây lại là một nỗi bận tâm lớn của Thiên Chúa, bởi vì chính Ngài đã đặt tình yêu này thành mệnh lệnh, thành giới răn và Ngài không ngần ngại tự đặt mình làm trọng tài lo việc thực thi giới răn này: Nếu các ngươi hà hiếp cô nhi quả phụ, làm phiền lòng khách ngoại kiều, bắt người nghèo khó vay tiền phải chịu lãi nặng, họ sẽ kêu thấu đến ta và chính ta sẽ nghe tiếng họ kêu van, sẽ nổi cơn thịnh nộ và sẽ dùng gươm giết chết các ngươi.
Người Kitô hữu vào mọi thời đã đón nhận giới luật yêu thương đồng loại như là một trong hai giới răn quan trọng nhất của Kitô giáo. Mến Chúa yêu người đó là tất cả chương trình sống của người tín hữu. Những công việc chúng ta quen gọi là bác ái từ thiện như giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay gặp phải tai ương đã từng là những hình thức quen thuộc để thực thi giới luật yêu thương.
-------------------------------
– Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân TN30-A96
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
1. Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2. Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều ....?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu TN30-A97
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất” (Mt 22,36).
Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận TN30-A98
Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận văn bằng một câu đơn giản được không. Cũng tương tự, khi các sinh viên thuyết trình một đề tài gì, tôi luôn bắt các em phải tóm tắt đề tài đó bằng một câu ngắn. Nếu các em không làm được điều này, chứng tỏ các em chưa nắm bắt được nội dung những gì các em sẽ trình bày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu, trong lề luật giới răn nào quan trọng nhất. Họ muốn Đức Giêsu tóm tắt những điều luật bằng một câu giản đơn. Câu chuyện được thánh Matthêu kể lại hôm nay là giai thoại thứ ba trong bốn giai thoại được thánh ký ghi lại nơi chương 22. Những đầu mục Do Thái giáo đưa ra những cái bẫy nhằm bắt bẻ Đức Giêsu. Trình thuật này khác với những câu chuyện mà Luca hay Marcô ghi lại (xem Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28). Trong Luca hay Marcô, những câu hỏi đưa ra phát xuất từ sự chân thành chứ không phải mang tính gian dối hay giảo quyệt, và Chúa Giêsu đã trả lời với những huấn dụ rất khẳng quyết.
Nơi trình thuật Matthêu, câu hỏi mà những người biệt phái nêu ra để thử Đức Giêsu được diễn bày theo hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất, các giới răn đều quan trọng và mọi người phải tuân giữ. Nếu Đức Giêsu chỉ nhấn mạnh đến một giới răn, và tỏ ra khinh suốt đối với những điều khoản khác, họ sẽ bắt bẻ Ngài. Vả lại, theo dạng thức thứ hai, những người biệt phái thử xem Chúa Giêsu có tài năng giống với những thầy dạy đương thời nổi tiếng khác hay không, bởi vì những kinh sư Do thái rất dễ tóm tắt các điều luật. Ví dụ, thầy Rabbi tên là Hillel, đã tóm tắt các giới răn như sau “Những gì bạn ghét bỏ, không muốn người ta làm cho mình, bạn cũng đừng làm cho người khác (Sabb 31a). Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra một định thức tương tự để tóm kết các điều luật “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình, anh em hãy làm cho họ, và đây là lề luật, là lời các ngôn sứ (Mt 7,12). Ở đây, Đức Giêsu cũng hé mở một khía cạnh khác của cùng một vấn đề: Đó là phải thực thi tình yêu dành trao cho Thiên Chúa.
Giới lệnh “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, cũng đã được nói tới trong sách đệ nhị luật (Dnl 6, 4-9), tức sách Shema, mà những người Do Thái mỗi ngày vẫn phải đọc đi đọc lại hai lần. Phải yêu mến Thiên Chúa với trọn vẹn con người mình. Yêu mến với tất cả cõi lòng, tức là thể hiện những tình cảm sâu xa nhất. Yêu mến với hết linh hồn, tức là tình yêu phát nguồn từ căn rễ mọi sức sống nơi ta. Đồng thời cũng phải yêu mến với tất cả ý thức và sức lực của mỗi người. Giới lệnh yêu thương tha nhân cũng được trích dẫn từ sách Lêvi 19,18 nói về những điều luật thánh thiêng. Giới lệnh này muốn minh thị rằng cách biểu tỏ cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa chính là thương yêu đồng loại. Thực sự đây không phải là hai giới răn, nhưng chỉ là hai khía cạnh của một thực tại duy nhất: đó là Tình yêu.
Đoạn văn này không nói một cách minh nhiên, như nhiều đoạn văn khác trong Kinh Thánh, khi muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu đối với Thiên Chúa luôn phải được đặt vào chỗ tối thượng nơi ta. Trước khi chúng ta có thể diễn bày tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với cận nhân, thì chính Thiên Chúa đã đi bước trước, đã gợi lên sáng kiến để giúp ta am tường về tình yêu Ngài. Khi chúng ta trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống thật sung mãn và ngập tràn tình yêu Ngài, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ biết cách đáp trả tình yêu đó, và dàn trải tình yêu như thế cho mọi người. Khi tình yêu linh thánh của Thiên Chúa chiếm ngự nơi chúng ta, chúng ta dễ dàng quy phục Ngài và chúng ta sẽ tự hỏi giống như tác giả Thánh vịnh đã diễn tả “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”(Tv 116,12). Câu trả lời rất giản đơn: Tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đó hướng đến cả hai đối tượng bất khả phân: Thiên Chúa và tha nhân.
Ngày nay, với cảm thức sâu xa về một thế giới đại đồng rộng khắp, chúng ta xem tất cả mọi tạo vật chung quanh đều là những cận nhân cần được yêu mến. Chúng ta có thể gồm tóm ngay cả việc yêu thương chính mình vào phạm trù này, cho dù theo não trạng của thế giới Kinh thánh, điều đó khá xa lạ. Họ không hiểu yêu thương chính mình, theo cách diễn đạt ý niệm sống cá nhân chủ nghĩa, nhưng theo họ, ý niệm này trải rộng trước hết đến gia đình riêng của họ, đến một đoàn thể, hay một tổ chức tôn giáo nào đó mà họ tham gia. Họ luôn phải lệ thuộc vào người khác, trong khi vẫn luôn phải khẳng định chính mình. Chúng ta biết giới răn lớn nhất là yêu thương, nhưng trong thực tế, điều này không dễ dàng thực hiện. Thánh Augustinô đã khuyên mời chúng ta “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm – Ama et fac quod vis (Trích bài giảng thứ 7 về thơ thứ nhất của Thánh Gioan). Khi bị vặn hỏi về sự hiểu biết và thực hành giới răn của Thiên Chúa như thế nào, Đức Giêsu đã trả lời cho những biệt phái, để họ biết rằng giới răn đó không phải chỉ được Ngài công bố trên môi miệng một cách lý thuyết, nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta cần phải sao chép lại cách thực hành đó trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay.
-------------------------------
Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ TN30-A99
Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ được gồm tóm lại trong hai điều là "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống quá khắc khe nên "Nhất cử nhất động", con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ "cọng tóc ra làm tư" đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối". Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
------------------------------------------
– Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn TN30-A100
Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: "Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý."
Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang "vò đầu bứt tóc" không biết làm sao có thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến "những cỗ máy vô tình" biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội - bệnh vô cảm.Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán.
Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người "không dại gì" và cũng chính "nhờ" những người "không dại gì" đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.
Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình yêu trong hành động của mình.
Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với công việc của mình.
Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm, lạnh lùng vì thiếu tình yêu.
Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh nhàn chán mà phải đặt tình yêu của mình vào hành vi thờ phượng Chúa hết lòng. Yêu người không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà phải biết chạnh lòng xót thương trước những đau thương mà anh chị em mình đang trải qua.
Như thế tình yêu là lẽ sống, là vẻ đẹp của đời ky-tô hữu. Không có tình yêu thì mọi hành vi thờ phượng của người tín hữu chỉ là Robot. Không có tình yêu thì người ky-tô không thể sống chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời. Cuộc đời cần tình yêu như trái đất cần mặt trời để tạo nên vẻ đẹp của vạn vật muôn màu. Cuộc đời thiếu tình yêu như đêm tối lạnh lùng cô liêu. Cách đây mấy hôm tôi đi thăm một trại tâm thần. Tôi nghe thấy họ đang đọc kinh. Họ hát. Họ đứng yên lặng cả gần 200 con người mặc dù họ bị bệnh tâm thần. Tôi ngạc nhiên sao họ lại thuộc kinh đến thế! Nhưng nhìn kỹ tôi thấy họ vô hồn. Họ đứng đó môi mấp máy chỉ ú ớ theo lời kinh của máy ghi âm phát ra mà thôi!
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh với chúng ta phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự là đặt việc thờ phượng Chúa và thi hành ý Chúa trên mọi giá trị của cuộc sống. Yêu tha nhân như chính mình là “nếu mình muốn người khác làm cho mình điều gì thì hãy làm cho họ như vậy”. Đây là hai mệnh đề trong một giới răn yêu thương mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành. Vì khi tạo dựng Chúa đã không tạo dựng chúng ta thành những Robot mà tạo dựng chúng ta có trái tim, có tự do để thăng tiến về hành vi yêu thương.
Xin cho chúng ta biết thăng tiến bản thân khi biết nồng vào những công việc của mình bằng tình yêu nồng nàn. Một tình yêu với Chúa nồng nàn để có thể kính mến Chúa trên hết mọi sự. Một tình yêu với tha nhân thẳm sâu để có thể chia sẻ, cảm thông với nhau trong mọi vui buồn. Amen.
------------------------------------------