Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 13-A Bài 51-100: Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy. ----------------------------- Phúc Âm: Mt 10, 37-42: “Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy”.
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về TN 13-A51
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân Người và Phêrô đã minh nhiên tuyên xưng tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Câu trả lời vang lên như một điểm tới và như hoa quả của hoạt động trước đây của Đức Giêsu. Đồng thời câu trả lời cũng là tiền đề cho nhiệm vụ mà Người sẽ ký thác cho Phêrô. Toàn bản văn là chứng từ duy nhất về lập trường lạ lùng và về uy quyền của Đức Giêsu.
Đây cũng là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo các đau khổ và sự sống lại của Người. Cuối cùng, ngay sau đoạn văn này, bài tường thuật tập trung vào đề tài cuộc Khổ Nạn (x. 17,22-23; 20,17-19). 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần: 1) Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (16,13-16): a) Ý kiến của dân chúng (cc. 13c-14), b) Ý của của các môn đệ (đại diện là Simôn Phêrô) (cc. 15-16); 2) Tuyên bố về tư cách của Phêrô (16,17-19); 3) Kết: Lệnh cấm (16,20). Bản văn này có một chức năng quan trọng trong toàn tác phẩm. Không những nó nhắc lại các ký ức ở 14,2.5 (c. 14), 14,33 (c. 16) và 13,16-17 (c. 17), mà còn đặc biệt gợi tới bản văn căn bản nói về mạc khải của Con Người, 11,25-27. Bản văn này mở đầu không những cho 18,18 (c. 19b.c) và cho 23,13 (c. 19a), nhưng đặc biệt cảnh mạc khải trước Thượng Hội Đồng ở 26,61-64).
Bản văn này cũng liên kết chặt chẽ với đoạn 16,21-28, để tạo thành một cấu trúc chuyển hoán:
a) cc. 13-15; b) cc. 16-19 c) c. 20 c’) cc. 21-22 b’) cc. 22-23 a’) cc. 24-28 3.- Vài điểm chú giải
- Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (16): Khi so với câu tuyên xưng ngắn ngủi trong Mc (8,29), các nhà chú giải có nhiều ý kiến về bản văn Mt: (a) Mt đã tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu (Benoît); (b) Mt chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà thôi; (c) Mt đã nối dài lời tuyên xưng là để tránh những âm vang quân sự chính trị của danh hiệu Mêsia (Viviano). Cũng khó mà chọn hẳn ý kiến nào, bởi vì cũng rất có thể lời tuyên xưng lúc đầu chỉ nói về Đấng Mêsia (như Mc 9,29 và Lc 9,20), đã được “đọc lại” dưới ánh sáng cuộc Phục Sinh và diễn giải theo chiều hướng một lời công bố về thần tính của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, chúng ta hoàn toàn có thể và phải hiểu theo nghĩa này.
- không phải phàm nhân (17): dịch sát là “thịt và máu”. Đây là một kiểu nói Híp-ri để chỉ các tài nguyên của con người tự nhiên, các sức lực riêng của con người - Phêrô, nghĩa là Tảng Đá (18): Ta hiểu được kiểu chơi chữ này do biết từ A-ram gốc là kepha ở nam tính.
- Hội Thánh (18): Từ ngữ Hy Lạp ekklêsia chưa có tất cả ý nghĩa định chế như từ ngữ “Hội Thánh” sau này. Do đó, từ Hội Thánh dù được dùng để dịch từ ekklêsia, không cung cấp ý nghĩa nguyên thủy cho từ ekklêsia. Hầu chắc ekklêsia dịch từ cụm từ Híp-ri qahal Yhwh, mà Bản LXX diễn ra là ekklêsia tou theou (x. Cv 7,38). Cộng đoàn Kitô hữu là Israel chân chính đã nên hiện thực (x. 10,1.5), là cuộc quy tụ dân tuyển chọn của thời cuối cùng.
- chìa khóa Nước Trời (19): Ta nhớ đến Is 22,22 trong đó nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong sách Kh (3,7), chính Đức Giêsu tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đavít. “Nước Trời” là một công thức Mt song song với ekklêsia của câu trước. Đây vẫn là một thực tại duy nhất nhưng nhìn theo những trương độ khác. Nước Trời vượt quá các biên cương (lịch sử) của ekklêsia; đây không phải là một định chế mà là sự thể hiện ơn cứu độ.
- ràng buộc và tháo cởi (19): Đây là ngôn ngữ của các trường phái kinh sư. “Ràng buộc hoặc tháo cởi” có nghĩa là đảm nhận một nhiệm vụ ngăn cấm hoặc cho phép về những điểm còn gây tranh cãi trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng có nghĩa là tuyên bố một giáo thuyết là đúng hay sai lạc, một kiểu thực hành luân lý là hợp pháp hay không hợp pháp. Họa hoằn lắm công thức này mới có nghĩa là loại trừ khỏi cộng đoàn hoặc nhận vào lại. 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (13-16)
Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu không xin các môn đệ cho ý kiến về Bài Giảng trên núi hoặc về phần nào đó của công trình Người; Người hỏi họ là họ nghĩ gì về bản thân Người. Câu hỏi đã cho thấy rằng đối với Đức Giêsu, điểm này có tầm quan trọng quyết liệt. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết rõ ràng về Người và một lời tuyên xưng đức tin không mập mờ vào Người. Tất cả ý nghĩa củasự hiểu biết này tuỳ thuộc Người là ai. Ở tại trung tâm, ta không thấy lời loan báo về Người, nhưng có bản thân Người.
Ngay dân chúng cũng có một ý kiến cao trọng về Người, nhưng không nhận ra vị trí đặc biệt của Người. Nếu Người chỉ là một ngôn sứ, thì Người là một ngôn sứ giữa biết bao vị khác: trước Người, đã có nhiều vị đến rồi, và sau Người sẽ có thể có nhiều vị khác đến nữa. Ngược lại, Phêrô nhận biết tư cách của Đấng hoàn toàn đặc biệt đối với loài người và tương quan của Đấng hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa. Trong tư cách Mêsia, Đức Giêsu là Vị Vua và Mục Tử duy nhất, cuối cùng và vĩnh viễn của dân Israel, đã được Thiên Chúa cử đến để ban cho dân này và toàn thể nhân loại sự sống dồi dào. Trong tư cách là Con, Người sống với Thiên Chúa một tương quan duy nhất, với đặc điểm là sự hiểu biết hỗ tương và sự bình đẳng với nhau (x. 11,27). Vị Thiên Chúa ấy là vị Thiên Chúa hằng sống, vị Thiên Chúa duy nhất chân thật và thực hữu, là sự sống nơi chính mình, đã tạo thành mọi sự sống và đã chiến thắng sự chết bằng quyền lực của Ngài. Là Đức Vua và Mục Tử, Thiên Chúa phải dấn thân phục vụ sự sống của dân Ngài. Phêrô nhận biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia có liên hệ mật thiết với chính quyền lực sự sống, với Thiên Chúa hằng sống. * Tuyên bố về tư cách của Phêrô (17-19)
Do lời tuyên xưng ấy, Simôn được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết ấy (“mạc khải”, apekalypsen. Xem 11,27; 17,5); sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4,18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên. Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng một tên mới và loan báo một nhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1,42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là một sáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc một người có quyền thế có thể ban một tên mới cho một người đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (x. St 17,5.15; Ds 13,16; 2 V 24,17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với một nhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói một cuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông một tên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Nhiệm vụ này được mô tả với ba hình ảnh. (1) Phêrô là tảng đá, trên đó Đức Giêsu sẽ xây dựng Hội Thánh Người (c. 18). Hội Thánh, cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu, diễn tả cùng một lời tuyên xưng như Phêrô, ở đây được ví với một tòa nhà. Đức Giêsu sẽ dựng lên tòa nhà, nhằm quy tụ các tín hữu Người. Nền móng của tòa nhà này là đích thân Phêrô, như một con người sống, đã được Thiên Chúa ban cho lời tuyên xưng chân thật. Ông phải cung cấp sự chắc chắn và bền bỉ cho cộng đoàn các tín hữu. Với cộng đoàn này, Đức Giêsu hứa ban cho sự bền bỉ trường tồn: quyền lực sự chết và sự tàn tạ sẽ không chạm tới cộng đoàn này được.
Với hình ảnh (2) các chìa khóa (c. 19), Đức Giêsu không muốn nói rằng Phêrô được giao cho nhiệm vụ giữ cửa trời, nhưng được đặt như là người quản lý thay mặt chủ nhà và hành động theo sự ủy quyền của ông chủ (x. Is 22,22). Trong cộng đoàn các tín hữu, ông phải hành động thay cho Đức Chúa; (3) ông phải ràng buộc và tháo cởi (c. 19b); thậm chí ông có quyền và có nhiệm vụ tuyên bố điều gì bị cấm và điều gì được phép đón vào trong cộng đoàn Hội Thánh. Trong Bài Giảng trên núi và trong các giáo huấn khác, Đức Giêsu chỉ bận tâm tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa và trình bày cho thấy những cách sống cần thiết để được vào Nước Trời (x. 5,20; 7,21). Phêrô phải tiếp tục nhiệm vụ này. Giáo huấn của ông đòi hỏi đến mức có thể loại trừ khỏi cộng đoàn những ai không theo và có thể đưa trở lại cộng đoàn những ai hối lỗi. Đức Giêsu không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu, nhưng ban cho cộng đoàn này một người lãnh đạo có uy quyền lớn lao. * Kết: Lệnh cấm (20)
Niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Nhất là trong Mc (“Thầy là Đức Kitô”) và trong Lc (“Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”), niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào một quan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Do đó đến cuối Đức Giêsu đã buộc các ông phải im lặng, không được nhắc đến các khẳng định ấy (Mc 8,30; Lc 9,21). TM Mt cũng có lệnh cấm tương tự, bởi vì một lời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho một đức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo Thương Khó (x. 16,22). + Kết luận
Do sự kiện là qua trung gian Phêrô, các tông đồ khám phá ra ý nghĩa của danh xưng huyền bí “Con Người” và nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia siêu việt, các ông đã tách ra khỏi những người Do Thái không tin, các ông đã trở thành phần “Dư tồn” từng được các ngôn sứ loan báo và hứa sẽ được nhận ơn cứu độ. Từ đó, Đức Giêsu có thể giao phó cho Phêrô quyền “ràng buộc” và “tháo cởi”. Do một sự hạ cố đầy ưu ái của Thiên Chúa, quyền chìa khóa này dựa trên đức tin của Phêrô, vừa là người có tội vừa là người có đức tin. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Hội Thánh, cộng đoàn các tín hữu, vẫn thuộc về Đức Kitô; chính Người quy tụ, xây dựng, điều khiển, còn Phêrô là tảng đá trên đó các yếu tố khác nhau của Hội Thánh được thu gom lại và kết cấu hài hòa. Nhưng chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng. Trong Hội Thánh trần thế, là con đường đưa tới Nước Trời, không phải mọi sự đều tinh trong hoặc đã hoàn tất. Phêrô có vai trò phục vụ sự biện phân. Chính ông phê phán là các thành viên Hội Thánh đang sống phù hợp với dự định của Đức Kitô hay không.
2. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô không cần qua Hội Thánh, bảo rằng mình có thể trực tiếp tự mình gặp Đức Giêsu không cần nhờ đến Giáo Hội, là liều lĩnh. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải ra cho chúng ta.
3. Quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, trở thành môn đệ của Người, chứ không phải là quyền sinh sát trên đoàn chiên. Quyền này được trao ban để phục vụ sự sống, chứ không phải để ép buộc đoàn chiên phải đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của riêng mình. Quyền bính là phương tiện phục vụ sự tăng trưởng (auctoritas, do động từ augere có nghĩa là “làm lớn lên”).
4. Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì con trẻ sinh ra trong máng cỏ, con người chịu đóng đinh trên đồi Sọ, đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.
5. Trong buổi tiếp kiến ngày 7-6-2006, Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI đã dạy: “Anh là Phêrô, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy… Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì; trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Ba ẩn dụ Đức Giêsu vận dụng rất rõ ràng: Phêrô sẽ là nền móng, đá tảng, trên đó tòa nhà Hội Thánh dựa vào; ngài sẽ có chìa khóa Nước Trời để mở ra hay đóng lại cho người nào mà ngài thấy dường như là đúng; cuối cùng, ngài có thể cầm buộc hoặc tháo cởi, theo nghĩa là ngài có thể quy định hoặc cấm đoán điều gì ngài nghĩa là cần thiết đối với đời sống Hội Thánh, hiện là và vẫn là Hội Thánh của Chúa Kitô.
Sau cuộc Phục Sinh, ta cũng thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16,7; Ga 20,2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Vài trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20,3-10), ghi dấu sự nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh… Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc 22,31t)…
Việc đặt vị trí tối thượng của Phêrô vào khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, vào lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Cuộc Vượt Qua của Chúa, cho thấy thêm nữa ý nghĩa tối hậu của vị trí trí tối thượng ấy: cho mọi thời, Phêrô phải là người gìn giữ sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải đưa đến sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải quan tâm để tấm lưới đừng bị rách (Ga 21,11) và nhờ thế, sự hiệp thông phổ quát có thể trường tồn. Chỉ nhờ ở cùng với nhau, chúng ta mới ở với Đức Kitô, là Chúa của mọi người. Như thế trách nhiệm của Phêrô là bảo đảm sữ hiệp thông với Đức Kitô bằng tình bác ái của Đức Kitô, bằng cách đưa đến chỗ thực hiện tình bác ái này trong đời sống mỗi ngày. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho vị trí tối thượng của Phêrô, được ký thác cho những con người nghèo hèn, có thể được thực thi theo nghĩa nguyên thủy như Chúa muốn, và như thế để cỏ thể ngày càng được nhận biết theo nghĩa đúng dắn bởi các anh em chưa hoàn toàn hiệp thông với chúng ta”.
Trang Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Giêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người TN 13-A52
Trang Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Giêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì Người.
Ta thấy các tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn để trở nên những sứ giả của lòng thương xót Chúa. Họ còn được Chúa dặn dò phải vững tin ở sự quan phòng đầy tình thương và quyền năng của Chúa, để không sợ hãi trước bất cứ thế lực trần gian nào và kiên trung chu toàn sứ vụ đã được Chúa trao ban. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ cho các tông đồ biết, vì được chính Chúa kêu gọi, tuyển chọn và sai đi để thực hiện sứ vụ của chính Ngài nên họ thực sự là những ngôn sứ của giao ước mới. Và vì thế, tiếp đón họ cũng là tiếp đón chính Chúa Kitô và tiếp đón chính Thiên Chúa.
Có thể nói nội dung bài Tin Mừng hôm nay xoay quanh một chữ YÊU. Và các môn đệ Đức Giêsu được mời gọi phải làm cho tình yêu mình dành cho Thầy sinh những quả ngọt trái lành như đã được liệt kê lần lượt trong bản văn.
Trước hết, tình yêu cho hoa trái đầu tiên của nó là sự phân rẽ xem ra cay nghiệt hơn cả việc đối đầu và loại trừ như đã thấy trong các cuộc xung đột hay chiến tranh, đó là sự phân rẽ giữa cha mẹ với con cái và với người thân trong nhà. Điều này đau đớn khác nào cắt từng khúc ruột mỗi người.
Ta thấy tình yêu đòi sự ưu tiên xem ra quá sức người, đó là phải đặt Chúa lên trên cả đấng sinh thành và dưỡng dục mình. Tiếp theo đó, tình yêu đòi phải mở cửa lòng tiếp nhận không chỉ chính Chúa, mà là những người được Chúa sai đến, rồi lại cả những người nghèo hèn bé nhỏ.
Người yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét” đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu can, để có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.
Như lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ trong tin mừng hôm nay, khi chúng ta tiếp đón các tông đồ và các giáo huấn của các ngài, chúng ta tiếp đón chính Chúa Kitô và giáo huấn của Ngài. Các tông đồ của Chúa Kitô ngày nay chính là các giám mục--những người kế vị các tông đồ ngày xưa--có sự thông hiệp trọn vẹn với đức giáo hoàng, đấng kế vị Thánh Phêrô và là Vị Ðại Diện Chúa Kitô làm Ðầu Hữu Hình của Hội Thánh ở trần gian. Trong sự hiệp thông với đức thánh cha và các đức giám mục, tất cả các linh mục, phó tế vàø mọi tín hữu trong Hội Thánh cũng được thông dự vào sứ vụ của các tông đồ theo những mức độ và chiều kích khác nhau tùy đấng bậc mình để phục vụ và xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Khi tỏ lòng kính yêu và vâng phục các vị thẩm quyền đang phục vụ Hội Thánh, chúng ta thực sự tỏ lòng kính yêu và vâng phục chính Chúa Kitô và được lãnh nhận tất cả những phúc lộc Thiên Chúa dành cho những tín hữu chân thực của Người. Trái lại, phủ nhận hay chống đối Huấn Quyền của Hội Thánh cũng là phủ nhận và chống đối Chúa Kitô và giáo huấn của Người. Ðây cũng là điều Ðức Cha Nguyễn Văn Thuận đã ân cần khuyên nhủ chúng ta trong tác phẩm Ðường Hy Vọng của ngài: "Suốt đời con hãy ghi lòng tạc dạ: luôn luôn kính trọng người của Hội Thánh, bí tích của Hội Thánh, chỉ thị của Hội Thánh, phụng vụ của Hội Thánh. Chúa sẽ chúc lành cho con" (# 266).
Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy.
Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.
Những đòi hỏi này của tình yêu dễ khiến tôi, bạn và anh chị mệt mỏi, dễ đặt ta vào tình cảnh nghi vấn, hoang mang không biết yêu như thế có ổn chăng, không biết mình có thể trung thành với đường yêu này đến bao giờ, dẫu rằng tâm ta vẫn thiện đủ để khát mong yêu Chúa, lòng ta vẫn sáng đủ để chọn cho mình một đối tượng và một cách yêu đúng đắn giữa muôn vàn sắc màu và cung bậc của tình yêu trong thời đại này.
Thật vậy, đáng lẽ ra, đã yêu thì phải nên một, đã thương thì phải đoàn kết. Đàng này, yêu lại gây chia lìa. Đơn giản là vì cách yêu của Chúa không như kiểu yêu phàm trần, vì lối yêu của Chúa là đường đẹp, đường thánh nhưng chẳng mấy ai thích đi. Đây chính là gốc rễ của chia rẽ và giáo gươm.
Thêm vào đó, còn những thách đố không hề nhỏ, đó là thách đố từ việc chỉ vì yêu Chúa mà nếu cần, ta lại phải sẵn sàng đặt tình cảm gia đình sang một bên mà dấn bước cho lòng mến Chúa, phải ngưng lo cho cha mẹ mà chu toàn bổn phận với Chúa.
Những nghịch lý trên khiến ta cảm nhận từ đáy lòng mình chút gì đó xót đau, khiếp khủng, thậm chí oan ngang mà không phải ai cũng có thể vượt qua.
Nếu yêu Chúa, ta có dám đứng một mình khi mọi người đứng ở phía đối diện chăng? Đó là lúc tất cả chọn oán thù mà ta lại muốn yêu thương. Đó là lúc ta muốn giữ lại bào thai trong bụng mình mà cha mẹ hoặc người chồng bắt ta phải phá. Đó là lúc ta chọn đến nhà thờ mà mọi người muốn ở nhà xem đá bóng. Đó là lúc ta muốn cất lên lời kinh tạ ơn sau một ngày mệt nhọc mà con cái ta lại muốn bật máy karaoke để giải trí.... Dám đứng một mình là đồng nghĩa với việc chấp nhận sự phân rẽ, chấp nhận sự đối đầu, chấp nhận bị loại trừ,...
Bước theo Đức Giêsu: hoặc là một cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là một cuộc bước theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.
Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh TN 13-A53
Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh của một khách sạn nhỏ ở thành phố Philadelphia của Mỹ và hỏi thuê phòng. Họ ghé vào tránh bão và hy vọng có thể mướn được căn phòng trọ qua đêm.
Tiếp đón họ là một chàng trai có nụ cười rất dễ mến. Chàng trai giải thích rằng trong thành phố của họ đang có ba hội nghị lớn nên tất cả các phòng đều đã có người thuê. Chàng trai ngập ngừng một lát rồi nói tiếp:“Nếu thời tiết tốt, tôi sẽ gửi hai vị đến một khách sạn khác, nhưng làm sao tôi có thể để một đôi vợ chồng đáng mến như hai vị ra ngoài trong trời mưa gió như thế này vào lúc một giờ khuya được? Hai vị có thể ở tạm trong phòng của tôi được không? Nó không phải là phòng sang trọng gì cho lắm, nhưng nó cũng gọn gàng và sạch sẽ. Vì tôi phải trực vào khoảng thời gian này nên tôi có thể nghỉ ngơi ở đây cũng được. Xin ông bà đừng ngại.”
Cặp vợ chồng rất biết ơn và nhận lời trọ lại trong căn phòng đó của anh. Chàng nhân viên nhìn cặp vợ chồng già và mỉm cười với họ, và họ cũng mỉm cười lại với anh.
Nhiều năm sau đó, khi chàng trai trẻ dường như đã quên câu chuyện này, thì bất ngờ, anh nhận được một lá thư kèm cặp vé máy bay. Lá thư là từ cặp vợ chồng già. Họ nhắc lại đêm mưa bão hôm đó với lòng biết ơn sâu sắc cùng lời mời cậu đến thăm New York.
Chàng trai trẻ có đôi chút ngạc nhiên. Cả đêm đó, cậu không ngủ được và nằm suy nghĩ ngẩn ngơ: có lẽ ngày mai họ sẽ dẫn mình đi thăm thành phố một vòng và dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng nào đó chăng? Nhưng nghĩ lại, cậu thấy mọi thứ có vẻ hơi quá, vì chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ thôi, liệu có cần phải tới mức như vậy không?
Sáng hôm sau, cậu đáp máy bay xuống New York. Cặp vợ chồng già có vẻ như đã đứng đợi cậu ở đó từ lâu. Họ mỉm cười, vẫy tay chào từ xa và đón cậu lên một chiếc xe sang trọng. Sau khi đi qua vài con phố, cặp vợ chồng già đưa cậu tới góc ngã tư đại lộ Fifth Avenue, người chồng đưa tay chỉ tòa nhà tráng lệ mới xây ở đó – một cung điện toàn bằng đá đỏ với những ngọn tháp cao vươn thẳng trên nền trời xanh, rồi nói với chàng trai: “Đây là tòa khách sạn mà tôi xây cho cậu, và tôi hy vọng cậu có thể quản lý nó”.
“Ông không đùa đấy chứ?” – Cậu ngỡ ngàng.
“Không. Đây là một đề nghị hoàn toàn nghiêm túc”, người chồng già trả lời bằng một giọng chắc nịch với nụ cười thấp thoáng trên môi.
Công trình tráng lệ kia chính là khách sạn nổi tiếng Waldorf Astoria – nơi tụ họp của tầng lớp quý tộc lớn của New York vào thời điểm đó. Đây cũng là nơi mà các nhân vật cao cấp trên toàn thế giới thường xuyên lui tới để nghỉ ngơi, đặc biệt là các Tổng thống Mỹ khi họ đang còn tại chức.
Người đàn ông già trong câu chuyện này chính là William Waldorf Astor của dòng họ Astor, một trong những gia đình giàu có nhất ở New York vào thế kỉ đó. Còn chàng trai tốt bụng kia chính là George Charles Boldt – vị giám đốc đầu tiên của khách sạn này! (Nguồn: daikynguyenvn.com).
Thái độ đầy ắp tình người của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây, phần nào giúp chúng ta hiểu sứ điệp của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay. Ở bài đọc I, trích sách các vua quyển thứ hai kể lại rằng, trên con đường đi thi hành sứ mạng, tiên tri Êlisa đi ngang qua Su-nêm và được một phụ nữ sang trọng mời ở lại dùng bữa tại nhà bà. Mỗi lần lưu lại đây, tiên tri Êlisa được bà đón tiếp một cách chu đáo. Không những thế, bà còn coi vị Tiên tri như một Đấng Thánh đến từ Thiên Chúa và muốn dọn cho vị Tiên tri một nơi ở xứng đáng trong nhà của mình. Bà nói với chồng rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó” (2V 4,9-10). Sự hiếu khách của bà đã làm cho tiên tri Êlisa hết sức cảm kích. Vì thế, khi biết vợ chồng bà đã già mà chưa có con, Êlisa đã khẩn cầu cùng Chúa, và lời khẩn cầu của Ngài đã được Thiên Chúa chấp nhận. Tiên tri Êlisa nói với bà rằng: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai” (2V 4,16).
Cùng một sứ điệp ấy, sau khi đòi buộc các môn đệ và những ai muốn theo Ngài phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên cả cha mẹ và mạng sống của mình, bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập tới việc Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta thể hiện lòng hiếu khách bằng sự đón tiếp và giúp đỡ. Chắc chắn, Ngài mong muốn chúng ta đón tiếp và giúp đỡ hết mọi thành phần trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, khỏe mạnh hay ốm đau, bạn hay thù, chủng tộc hay màu da. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ mời gọi chúng ta đón tiếp ba thành phần sau:
Thứ nhất, đón tiếp các môn đệ: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy.” (Mt 10,40). Chính Đức Giêsu đã đồng hóa mình với các môn đệ, cũng như Ngài tự đồng hóa mình với Chúa Cha. Có lẽ cũng vì sự đồng hóa đó mà trong thực tế chúng ta thấy, từ thời Đức Giêsu cho đến hôm nay, các môn đệ và các đấng kế vị Ngài đi đâu cũng được đón tiếp một cách trân quý. Đặc biệt, ở Việt Nam chúng ta, các Giám mục, linh mục, tu sĩ, những người làm việc nhà Chúa đi bất cứ nơi đâu cũng được người giáo dân yêu mến, và đón tiếp một cách trang trọng như là đón tiếp chính Chúa vậy. Ở cuối đoạn Tin mừng, Đức Giêsu còn cho biết: “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”(Mt 10,42). Những kẻ bé mọn ở đây không chỉ hiểu là các môn đệ của Chúa, mà còn là những nạn nhân của cường quyền, bạo lực, những người đang phải chịu cảnh đói khát, trần truồng, bệnh tật, hay tù đày(x. Mt 25,35-36). Như vậy, giúp đỡ kẻ bé mọn chính là giúp đỡ các môn đệ, giúp đỡ kẻ bé mọn tức là giúp đỡ chính Đức Giêsu.
Thứ hai, đón tiếp các tiên tri: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri.”(Mt 10,42). Các “tiên tri” ở đây được hiểu là các kitô hữu. Đặc biệt là các kitô hữu được giao nhiệm vụ thi hành một tác vụ nào đó trong Giáo hội: nhiệm vụ dạy giáo lý; nhiệm vụ làm việc bác ái; nhiệm vụ loan báo Tin mừng cho dân ngoại…Họ có thể gặp khó khăn hay bị bách hại trong khi thi hành nhiệm vụ. Họ có thể phải chạy trốn “từ thành này qua thành khác”. Những lúc như thế, họ cần đến sự đón tiếp và chở che của mọi người. Vì vậy, nếu ai đón tiếp họ, nhất là trong những lức nguy hiểm như thế thì chắc chắn sẽ được Chúa ghi công, được Chúa trao “phần thưởng của tiên tri.”
Thứ ba, đón tiếp những người công chính: Đây là thành phần được tôn trọng trong cộng đoàn Giáo hội. Họ là những tấm gương phản chiếu lối sống mẫu mực: mẫu mực trong đời sống gia đình; mẫu mực trong đời sống cộng đoàn; mẫu mực trong đời sống bác ái yêu thương; mẫu mực trong đời sống đức tin... Vì vậy, họ xứng đáng để được mọi người đón tiếp và tôn trọng. Cho nên, Đức Giêsu mới nói: ai đón tiếp họ thì sẽ được đón nhận phần thưởng của người công chính (x. Mt 10, 41).
Như vậy, lòng hiếu khách không chỉ là một đức tính thiết yếu, một việc bổn phận “cho khách độ nhà” mà còn mang lại cho chúng ta những phần thưởng cao quý. Từ mẫu gương hiếu khách của chàng trai tốt bụng trong câu chuyện trên đây đến mẫu gương hiếu khách của người phụ nữ giàu sang tại Su-nêm và những giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính mình để xét xem: Tôi có lòng hiếu khách không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những kẻ bé mọn là hiện thân của Chúa không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ những sứ giả của Chúa không?
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chu toàn bổn phận “cho khách độ nhà”, biết sống quảng đại, sẵn sàng đón tiếp và giúp đỡ các sứ giả của Chúa, nhất là những kẻ bé mọn. Nhưng trước hết, xin cho chúng con có lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Một buổi tối, vừa khi từ Marốc trở về, Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc TN 13-A54
Một buổi tối, vừa khi từ Marốc trở về, Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi Châu.Người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy mười tuổi.
Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần hỏi:
- Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc lạ quá. Vậy cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?
Câu hỏi ấy như một luồng điện giựt, khiến anh bất động. Từ bao lâu nay, chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: “Anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Charles de Foucauld lục soát tâm hồn mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng phù phiếm. Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ nghèo nàn của mình. Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Sau đó anh từ bỏ tất cả, xin vào dòng khổ tu. Rồi ít lâu sau, anh lại xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.
Một ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng rên của một người Hồi giáo. Nhớ đến gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi, anh có thể giam mình cầu nguyện giữa lúc có những người anh em đang rên rỉ trong đau thương, thất vọng được chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của nhưng người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn hơn cả.
Những năm cuối đời, Charles de Foucauld sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người cùng khổ. Và anh đã chia sẻ tới giọt máu cuối cùng của anh khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện vào đầu tháng 12 năm 1916. Ngày nay, các Tiểu đệ và Tiểu muội của Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh. Các anh chị ấy sống giữa người ngheo nhất trong xã hội. Tất cả cuộc sống và sự hiện diện âm thầm của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Một Kitô hữu chân chính cũng đều phải tự hỏi: “Tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”. Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng cho Chúa Giêsu đang tiếp tục đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày: “Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha chưa?”. Bởi vì trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói: “Ai đón tiếp Đấng đã sai Thầy”… “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
Người Kitô hữu chúng ta thường đề cao việc đọc kinh, cầu nguyện, những việc làm cho Chúa mà coi những việc làm cho tha nhân, nhất là những việc nhỏ nhặt tầm thường, như cho anh em một ly nước lã, là những việc làm chẳng có ý nghĩa và giá trị nào. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì không như vậy, đón tiếp một em nhỏ, cho người thấp kém trong xã hội dù chỉ một ly nước lã, cũng là một việc làm đáng được ân thưởng trên trời. Lý do giản dị là Chúa đã tự đồng hoá mình với những kẻ mọn hèn (x. Mt 25,40-45).
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ân cần tiếp đón anh em. Tin Mừng nói đến Chúa Giêsu như một người khách mà người ta niềm nở đón tiếp hay là thờ ơ xua đuổi. Ngài đến cách riêng với những người bị loại trừ, những người tội lỗi, để có dịp kêu gọi họ trở lại, như tại nhà ông Matthêu (Mt 9,10-18) và ông Giakêu (Lc 19,5-10). Ngài đến với gia đình quen thân của hai chị em Matta và Maria (Lc 10,38-42), cung chỉ để nói lên một điều cần thiết là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. ngài đến như một người khách lạ đến khuấy động lòng người, đặt lại mọi vấn đề. Vì thế, Thánh Gioan nói: “Ngài đến trong nhà Ngài mà các gia nhân Ngài đã không tiếp đón Ngài” (Ga 1,11). Vì thế chúng ta phải ân cần tiếp đón người anh em trong niềm tin, người hành khất đến gõ cửa, người hèn mọn không ai nghĩ tới, người lạc loài, không cửa không nhà, những người ấy chính là Ngài. Những người anh em ấy có thể là những người ở ngay đường phố, cùng chung cư, hàng xóm. Cũng có thể là những người trong gia đình, nhưng chúng ta đã cố tình quên họ trong cảnh sống cô đơn, goá bụa, già cả cua họ… Tiếp đón họ là tiếp đón Chúa.
Câu chuyện người thiếu phụ ở Sunêm được kể lại trong bài đọc thứ nhất là một mẫu gương tiếp đón niềm nở, vô vụ lợi. Bà đã tiếp đón Ngôn sứ Êlisê, người của Thiên Chúa, và đã tạo điều kiện cho ông thi hành sứ mạng. Vì thế, bà được Thiên Chúa thưởng công. “Ai tiếp đón một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lành phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính”.
Anh chị em thân mến,
Được mời gọi đi theo Chúa Giêsu, chúng ta phải quyết định chọn lựa. Chỉ có sự chọn lựa tình yêu Chúa Giêsu mới cho phép chúng ta xứng đáng được gọi là môn đệ của Ngài. Một khi đã chọn lựa Ngài thì phải đặt tất cả tình cảm gia đình, tình yêu tự nhiên tuỳ thuộc vào Ngài, đi sau tình yêu đối với Ngài. Khi chọn lựa như thế chúng ta sẽ khong tránh được các mất mát, từ bỏ, hy sinh. Tuy nhiên, Thiên Chúa không để cho những kẻ theo Chúa phải thiệt thòi. Ngài sẽ đền bù, một sự đền bù vượt quá sự mong đợi. Trước mặt Thiên Chúa không có gì bị bỏ quên, dù mot bát nước lã cũng được đền bù xứng đáng. Vì thế, chúng ta đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình không trung thành bước theo Chúa Giêsu.
Anh Charles de Foucauld đã từ bỏ tất cả để đi theo Chúa Giêsu và để làm một cai gì cho Chúa Giêsu, anh đã từ bỏ mình để sống cho anh em, nhất là cho những người nghèo hèn, nhỏ bé. Chúng ta hãy quan tâm làm một cái gì cho Chúa Giêsu bằng cách tiếp đón Ngài đang đến với chúng ta trong bí tích Thánh The để tình yêu của Ngài thúc đẩy chúng ta tiếp đón những người anh em nghèo hèn, nhỏ bé, cũng là những anh em của Chúa Giêsu và là hiện thân của Chúa Giêsu vậy.
Đây là những lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Và đây là đoạn TN 13-A55
Đây là những lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi sai các môn đệ đi rao giảng. Và đây là đoạn cuối cùng. Nhưng đoạn này là một tổng hợp nhiều lời Chúa nói trong những hoàn cảnh khác nhau, được gom lại, vì thế không ăn khớp với nhau cho lắm, nhưng mỗi lời Chúa nói đều là những bài học cho chúng ta.
“Ai yêu mến cha mẹ… con cái hơn Thầy, người ấy không xứng đáng với Thầy”. Chúa muốn cho thấy rằng người môn đệ của Ngài phải dành trọn tình yêu của mình cho Ngài. Ngài phải là trung tâm của cuộc sống. Không thể so sánh với một ai ở trần gian. Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tuyệt đối, là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Chúng ta đọc đi đọc lại câu nói đó rất nhiều lần, nhưng chúng ta có để ý đến đó không? Yêu mến Chúa hết lòng là thế nào? Khi yêu nhau, chúng ta luôn nhớ nhau, nhớ không phút nào ngơi, lòng trí chúng ta luôn hướng tới người yêu. Yêu mến Chúa hết lòng thì lòng trí chúng ta chỉ nghĩ đến một mình Chúa. Chúa trở thành niềm thương nhớ không nguôi của chúng ta. Đi đâu cũng nhớ, làm gì cũng nhớ. Tình yêu của chúng ta được đo bằng thương nhớ. Chúng ta có nhớ Chúa không?
Yêu mến Chúa hết sức là gì? Nhìn vào thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy ngài yêu mến như thế nào. Ngài đã không ngơi nghỉ, loan báo Chúa Giêsu cho mọi người không mỏi mệt. Ngài chỉ sống cho một mình Chúa. Chúng ta không rao giảng như ngài, nhưng nếu chúng ta yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ làm gì cũng làm cho Chúa, làm vì yêu mến Chúa chứ không chỉ làm việc vì tiền, vì lợi lộc. Dùng tất cả sức lực để làm cho Chúa được yêu thương hơn.
Chúa không cấm chúng ta yêu thương con cái, bạn bè, trái lại Ngài dạy chúng ta phải yêu thương nhau nhưng không thể yêu hơn Chúa. Ngài phải là ưu tiên tuyệt đối. Tình yêu loài người chỉ là tạm thời, ngắn ngủi, tình yêu Chúa luôn bền vững muôn năm. Không thể nào so sánh Thiên Chúa với con người. Thế nhưng, chúng ta có yêu mến Chúa không? Chúa đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự, không phải vì Ngài cần tình yêu của chúng ta. Tình yêu của chúng ta có lợi gì cho Chúa đâu! Chỉ vì Ngài quá yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta hạnh phúc, và chỉ có Ngài mới giúp chúng ta hạnh phúc và hạnh phúc thật, hạnh phúc muôn đời.
Muốn đạt đến hạnh phúc tuyệt vời đó, Chúa đòi hỏi chúng ta vác thập giá của mình. Chúa Giêsu đã vác thập giá của Ngài trước. Ngài chấp nhận vác thập giá và chết trên thập giá đó vì yêu thương chúng ta. Có ai đã dám yêu thương chúng ta như Ngài không? Đối với Ngài, thập giá là dấu hiệu của tình yêu tuyệt đối của Ngài. Ngài vác thập giá chính là gánh lấy tội lỗi của chúng ta, gánh lấy án phạt thay cho chúng ta. Chúng ta vác thập giá là để yêu mến Ngài, đáp trả lại tình yêu của Ngài. Thập giá của chúng ta là những lao nhọc hằng ngày, là gia đình, là bệnh hoạn, là tất cả cuộc sống vất vả nhọc mệt của chúng ta. Chúng ta chưa đến nỗi phải đổ máu. Hãy can đảm gánh lấy mọi cực phiền lao nhọc vì yêu mến Ngài chứ không chỉ là chịu đựng, rên siết. Vả lại, chúng ta không vác thập giá một mình đâu. Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối, mỏng giòn, Ngài đã hứa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài không để chúng ta mồ côi, Ngài đến với chúng ta. Ngài đến bằng một phương tiện rất nhỏ bé, là một tấm bánh. Ngài bảo chúng ta ăn lấy Ngài để Ngài có thể đồng hóa với chúng ta, trở thành một với chúng ta, lao nhọc với chúng ta, vui buồn với chúng ta. Ngài đến để biến tất cả cuộc sống chúng ta thành yêu thương như Ngài. Với Ngài, chúng ta dấn thân vào cuộc sống, không phải với sự chán buồn bi quan, nhưng với can đảm và niềm vui. Chúa đến đồng hành với chúng ta, chia sẻ mọi lao nhọc buồn lo cho chúng ta, chúng ta có chấp nhận đồng hành với Ngài không?
Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng TN 13-A56
Chúa Giêsu hôm nay cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh và từ bỏ nữa. “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 37).
Nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Chúa Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải yêu Chúa hơn cha mẹ, con cái.. Có người đặt câu hỏi: Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Chúa Giêsu, người ta phải dành hết tình yêu đối với Chúa, người theo phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Chúa Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Chúa Giêsu, nên Ngài thêm: “Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó” (Mt 10, 38-39).
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”t (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: "Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại" (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Người ta hỏi: Chúa Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.
Không phải ngẫu nhiên Chúa Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Chúa Giêsu không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).
Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh) “Ai không vác thập giá, thì không xứng với Thầy. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”
I. Ngữ cảnh Phụng vụ Lời Chúa
Cộng đoàn chúng ta đang suy niệm bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Matthêu nói đến TN 13-A57
Cộng đoàn chúng ta đang suy niệm bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Matthêu nói đến vấn đề “Ra đi loan báo Tin Mừng” (Mt 10, 5-42). Sau khi tuyển chọn 12 Tông đồ, Đức Giêsu đào tạo rồi sai các ngài đi. Nhưng trước khi đi, Người dạy một số điều: các ngài ra đi phải nói những gì, và nhất là phải sống làm sao. Những cuộc bách hại sẽ đến, nhưng đừng sợ, và hơn nữa, phải chấp nhận những khó khăn đến từ nhiều phía, ngay cả trong gia đình.
Bài Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay (Mt 10, 37-42) là phần cuối của bài giảng về sứ mạng Tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Tin Mừng. Do đó, người môn đệ phải từ bỏ mình vác thập giá đi theo Chúa và ai tiếp đón người môn đệ là tiếp đón Chúa.
1. Người môn đệ phải ưu tiên chọn lựa Đức Giêsu (10, 37-39)
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy hệ quả của bước đường đi theo Chúa. Theo Chúa người môn đệ phải chấp nhận thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp chống đối. Người nhận xét rằng người ta sẽ không đồng ý với nhau về Ngài: Kẻ theo, người chống, sẽ có những bất hòa, đoạn tuyệt, những đấu tranh khắp nơi trên thế giới và ngay cả bên trong các gia đình, vì Ngài và giáo huấn của Ngài.
Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa người môn đệ phải đích thân chọn lựa, và phải đặt tình yêu Chúa Kitô trên ngay cả những liên hệ, những tình cảm thân thiết nhất, trên mọi liên quan gia đình, trên chính mạng sống mình nữa: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy... Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được”.
Ở đây, Chúa Giêsu không có ý dạy sự bất hiếu, bất kính với cha mẹ trong gia đình. Người chỉ muốn nói rằng đứng trước ý muốn của Thiên Chúa, công việc của Thiên Chúa, bản thân Ngài, mọi giá trị khác và mọi người khác đều phải xuống hàng thứ yếu.
Khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy”.
Đây phải hiểu là sự xứng đáng hiện sinh. Ai không đoạn tuyệt với những liên hệ thân thương nhất để đi theo Chúa Giêsu thì đã tự làm cho mình nên bất xứng với Người.
2. Tiếp đón các Tông đồ là đón tiếp Đức Giêsu
Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để những môn đệ phải thất vọng. Chính Chúa Giêsu, kết thúc bài giảng thừa sai bằng một lời hứa khác thường cho những kẻ được sai đi cũng như những kẻ đón tiếp họ: “Ai đón tiếp một tiên tri sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; ai đón tiếp người công chính sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; ai đón tiếp kẻ rao giảng sẽ nhận được phần thưởng cho kẻ rao giảng”.
Ở đây, Chúa Giêsu đã dùng từ “ngôn sứ” và “người công chính” để ám chỉ các Tông đồ. Như vậy, các Tông đồ được coi là ngang hàng với các ngôn sứ và các người công chính thời Cựu ước.
Vì thế, tiếp đón các Tông đồ được coi như là tiếp đón Đức Giêsu, và đón tiếp Đức Giêsu thì cũng như tiếp đón chính Thiên Chúa, Đấng đã sai phái Đức Giêsu. Mười hai Tông đồ là những sứ giả của Đức Giêsu, còn Đức Giêsu thì được Thiên Chúa cử đi. Nguồn mạch tối hậu của mọi sứ vụ là chính Thiên Chúa, Đấng đồng thời là chủ mùa gặt, và là Đấng sai phái các thợ gặt.
Mặc dù, ra đi loan báo Tin Mừng, các môn đệ phải chấp nhận đời sống truyền giáo trong nếp sống nghèo khó và khiêm tốn, nhưng Đức Giêsu đã đồng hóa mình với họ, vì qua họ, Người đến với loài người và nói với loài người. Từ nay họ thực sự là người của Thiên Chúa. Ai đón nhận họ tức là đón nhận chính Đức Kitô. Cả phần thưởng cho việc đón tiếp cũng dựa trên sự liên kết ấy giữa các cuộc sai phái.
Người môn đệ đã vì Người mà chấp nhận những rạn nứt và thập giá thì cũng được đồng hóa với người trong ân thưởng.
II. Người Kitô hữu sống gắn bó với Đức Kitô
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lắng nghe tiếng Chúa hôm nay, nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho và đồng thời, vừa ý thức được trách nhiệm Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống như Chúa nhiều hơn.
Xin Chúa ban cho chúng ta tình thương, cho chúng ta được biết đặt Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người và cho chúng ta được càng ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn, để chúng ta được đồng hóa với Chúa: “Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Tất cả mỗi người chúng ta là con đường để giúp anh chị em đến với Chúa Giêsu Kitô và đến với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu thế nào là tình yêu tận hiến của Ngài, để luôn biết sống quảng đại dấn thân cứu sống anh em mình mà không sợ hy sinh hay hiểm nguy. Xin Chúa Thánh Thể bổ sức cho chúng con.
Trong đoạn Phúc Âm này, chúng ta dừng lại câu: “Ai cố giữ sự sống mình sẽ bị mất, ai mất TN 13-A58
Trong đoạn Phúc Âm này, chúng ta dừng lại câu: “Ai cố giữ sự sống mình sẽ bị mất, ai mất sự sống mình vì Ta, sẽ tìm thấy”. Các sách dậy khôn ngoan của Do Thái giáo vào thời Đức Kitô có chứa nhiều câu tương tự, nhưng Chúa thêm vào đó hai chữ mà đối với người Do Thái thật quá lẽ: “vì Ta”. Nói cách khác, Đức Kitô tự đặt mình làm giá trị tuyệt đối, xứng đáng cho người ta hy sinh mạng sống. Một cách điềm tĩnh, bằng những lời đơn giản và sáng sủa, Chúa Giêsu tự đặt làm mục đích đáng giá của đời sống. Người nào về Ngài, tức là quy hướng về Thiên Chúa. Theo ngôn ngữ thần học có thể nói, Chúa Giêsu ấn định sự đồng nhất giữa “quy hướng về Thiên Chúa” và “quy hướng về Chúa Kitô”. Có thể nói hơn nữa rằng: người Kitô hữu chỉ có thể chọn Thiên Chúa làm trung tâm cuộc sống của mình, nếu quyết định đặt Đức Kitô làm tâm điểm. Mất và tìm thấy ở đây có nghĩa gì?
1) Ai cố giữ sự sống mình sẽ bị mất. Tại sao? Sự sống ở đây là gì? Đó là sự sống của con người trong tình trạng tội lỗi đã phó mặc cho những khuynh hướng tự nhiên tách lìa khỏi Thiên Chúa, con người xa lìa suối nguồn tạo ra mình, làm cho mình nên có, ban sự sống cho mình. Con người mang trong mình một khuynh hướng ngược lại với sáng tạo và sự sống, nghĩa là quay về hư không và sự chết. Con người hướng dẫn đến đến chỗ đánh mất cả bản thể lẫn sự sống của mình. Nhưng con người không thể tự do sáng tạo nên bản thân. Vậy khi có theo những khuynh hướng của cuộc sống tách lìa khỏi Thiên Chúa có được hậu quả gì? Hậu quả là sự tàn phá các nối kết nội tâm đến độ sự đau khổ chính lại là ước ao vô vọng đạt đến một hư vô không thể đạt. Con người mất sự sống đáng lẽ mình được sống và không thể tiêu huỷ sự sống đang dày vò mình. Có lẽ ở đây phải nói đến chữ đáng sợ là hoả ngục. Dĩ nhiên những gì xảy ra trước đó nằm trong phạm vi một tự do hoàn toàn sáng suốt và những quyết định hoàn toàn hữu trách, nhưng hai điều kiện ấy mãi mãi là điều kiện của Thiên Chúa.
2) May thay Chúa cống hiến cho chúng ta một viễn ảnh tích cực. Ai mất sự sống mình vì Ta sẽ tìm thấy. Mất sự sống mình bắt đầu ở chỗ nào? Ở tác động tin vào Đức Kitô. Khi tự hiến lòng tin cho Đức Kitô, ta từ bỏ tiện nghi của những giới hạn thông thường của trí khôn, ta chấp nhận vượt quá, chịu lao mình và một khoảng trống trí thức. Nhưng trong khoảng trống ấy có ánh sáng hiểu biết chờ đợi chúng ta, tuy không phải là sự tỏ tường đối với trí khôn, nhưng vẫn là một gặp gỡ đối với “tấm lòng”, nghĩa là đối với khả năng cảm biết trong thâm sâu của bản thể chúng ta, nó giúp chúng ta có thể đón nhận Chân Lý vô biên. Đặt lòng tin vào Đức Kitô giả thiết là tự ý bỏ đi một số điều mà thánh Phaolô kể ra trong thơ gởi tín hữu Côlôsê: tính ích kỷ, tà dâm, tự phụ, kiêu ngạo, cuộc sống duy vật (Col 3,5-8). Mất sự sống mình vì Đức Kitô cũng có thể có nghĩa là các Kitô hữu thà từ bỏ của cải trần gian, còn hơn là chối bỏ Thiên Chúa, khi mà xã hội đối nghịch với Thiên Chúa ra tay bắt bớ họ. Việc ngày không phải chỉ xảy ra trong quá khứ, đó là một việc thời sự, một biến cố đương thời. Ngày nay có nhiều Kitô hữu chịu mất mát nhiều sự, có khi cả mạng sống mình, chứ không bỏ đức tin. Chúng ta chấp nhận “mất sự sống chúng ta” vì Đức Kitô ở điểm nào để tìm thấy sự sống ưu đẳng?
Con vật sống theo bản năng. Con người có lý trí, nên con người khác con vật khi sống theo lý TN 13-A59
Con vật sống theo bản năng. Con người có lý trí, nên con người khác con vật khi sống theo lý trí hướng thiện. Trong cuộc sống, con người được mời gọi lựa chọn để sống tốt mỗi ngày; điều này hàm chứa quyết định chọn Thiên Chúa trên hết, dù rõ ràng hay mặc nhiên.
1. Chọn lựa giữa con người và Thiên Chúa
Đức Yêsu nói: “Ai yêu cha mẹ hay con cái hơn Ta thì không xứng với Ta. Ai không vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta thì không xứng với Ta”. Đức Yêsu đòi người ta phải chọn Ngài trên tất cả, cho dù người đó phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và cha mẹ, anh chị em, con cái, hay vợ chồng của họ. Hơn thế nữa, Đức Yêsu còn đòi người ta phải chọn Ngài trên cả chính bản thân và sự sống họ nữa: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai sẵn sàng mất sự sống vì Ngài thì sẽ tìm lại được”.
Giữa con người và Thiên Chúa, con người phải chọn Thiên Chúa. Điều răn thứ nhất dạy: “thờ phượng Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự”. Chọn tạo vật, cho dù tạo vật đó là chính mình, cũng là tôn thờ ngẫu tượng. Khi chọn Thiên Chúa trên tất cả, con người không đánh mất chính mình, nhưng là sống ơn gọi làm người trọn vẹn hơn. Thiên Chúa luôn luôn là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài luôn muốn điều tốt cho con người, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc thật. Chọn Ngài, là chọn sự sống đích thực, là chọn hạnh phúc đích thực.
Có những điều con người chủ quan thấy là tốt cho mình, nhưng khách quan điều đó không tốt thực cho con người. Trí khôn hữu hạn của con người làm sao so sánh với quyết định khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa!
2. Thiên Chúa yêu thương con người qua trung gian hữu hình
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã luôn ở với con người. Ngay khi con người phạm tội và trốn tránh Thiên Chúa, Ngài vẫn đi tìm và nối lại tương quan với con người bằng việc tra vấn họ. Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa vẫn chọn một con người cụ thể để nói với con người, chẳng hạn qua các tiên tri. Bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy Thiên Chúa yêu thương bà Shumen và chồng bà qua tiên tri Elisha. Tiên tri báo trước bà sẽ có con vào “ngày này năm sau”. Hành vi của bà Shumen đối với tiên tri diễn tả tâm tình và thái độ của bà đối với Thiên Chúa. Bà đã dành phòng cho tiên tri, nuôi cơm tiên tri. Thiên Chúa qua tiên tri Elisha “đáp trả” tấm lòng chân thành của bà, bằng việc cho bà có con như bà ước nguyện.
Qua những cặp vợ chồng son, người ta nhận ra con cái là hồng ân của Thiên Chúa. Mỗi người được chào đời, hàm chứa người đó được cha mẹ chấp nhận và yêu thương. Những người con “chết trong dạ mẹ” do hành vi từ khước tình yêu của người cha người mẹ đối với người con đó, và cũng là hành vi từ khước tình yêu Thiên Chúa dành cho người người cha người mẹ đó. Đã đành nuôi dưỡng một người con tốn nhiều tiền của công sức, nhưng bù lại Thiên Chúa cũng cho người cha người mẹ được an ủi qua những người con. Ai không yêu thương cụ thể qua hy sinh chấp nhận con cái, người đó không yêu thương và cộng tác với Thiên Chúa trong hành vi tạo dựng.
Bài Tin Mừng hôm nay Đức Yêsu nói: “nếu một người giúp người nghèo chỉ một chén nước lã, họ cũng được thưởng công”. Ở một chỗ khác, tin mừng Matthêu cho thấy: ai làm cho một trong những người nghèo khó nhất, cũng là làm cho Thiên Chúa, và ai không làm cho những người nghèo khó là không làm cho Thiên Chúa. Không chỉ có các tiên tri là hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng cả những người nghèo đều là hiện diện của Thiên Chúa. Không yêu thương người nghèo, là không yêu thương Thiên Chúa. Không chấp nhận người con “còn trong bào thai trong dạ mình” là không chấp nhận Thiên Chúa.
3. Đức Yêsu Con Thiên Chúa
Đức Yêsu yêu thương con người. Ngài thương cảm dân chúng bơ vơ không người chăm sóc như chiên cừu không người chăn. Người chăn chiên có nhiệm vụ bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ và dẫn đàn chiên tới suối nước trong lành. Đức Yêsu yêu thương con người và là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Nếu chỉ là người như bao người khác, Đức Yêsu không được phép đòi người ta phải chọn Ngài trên những người thân yêu như cha mẹ, anh chị em, con cái. Thực sự Đức Yêsu đã đòi hỏi điều này, và như vậy, người ta hiểu Ngài là Đấng đặc biệt, hơn chỉ là một con người. Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, Ngài là Thiên Chúa theo một nghĩa nào đó, và các nhà thần học diễn tả Ngài là Thiên Chúa Con.
Đức Yêsu đã tới để làm chúng ta thành con người mới. Ngài tới mang niềm hy vọng cho con người trong cuộc đời dương thế nhiều phong ba bão tố. Ngài là nguồn hy vọng của Kitô-hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Trong cuộc sống hằng ngày, tiêu chuẩn lựa chọn của bạn là gì?
(Lợi: tiền bạc, công việc? Danh: tiếng khen, kính phục? Quyền lực? Điều thiện hảo: tốt lành cho người ta và cho mình?)
2. Bạn có đồng ý quan điểm chỉ cần làm việc thiện giúp người chứ không cần tham dự các bí tích không? Xin trình bày và bảo vệ quan điểm của bạn.
3. Phải chăng Thiên Chúa đòi con người chọn Ngài trên tất cả, là Ngài ích kỷ?
4. Chọn Thiên Chúa trên tất cả, có làm suy giảm hạnh phúc của con người không? Tại sao?
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ - Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Với ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta có thể suy nghĩ nhiều điều về đời sống của người môn TN 13-A60
Với ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta có thể suy nghĩ nhiều điều về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa Yêsu. Ðó cũng là đời sống của chính chúng ta, xét về mặt đạo đức thiêng liêng. Chúng ta đã thực thụ trở thành môn đệ Chúa Yêsu khi cùng chịu mai táng và sống lại với Người trong bí tích Rửa tội, như bài Thánh thư hôm nay nói. Từ ngày đó chúng ta không ngừng phải vác Thập giá hàng ngày để đi theo Người, nhưng đồng thời cũng nhận được vinh dự của người môn đệ đi theo Thầy, như Người đã hứa trong bài Tin Mừng. Và trong Hội Thánh luôn có những Ngôn sứ muốn sống triệt để ơn gọi làm Môn đệ của Chúa như Êlisê ngày trước mà bài sách các Vua còn kể lại nhiều mẩu truyện rất ý nghĩa. Chúng ta thử đọc về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa, tức cũng là ơn gọi của chính chúng ta.
A. Chúng Ta Ðã Trở Thành Môn Ðệ
Ðoạn thư Rôma hôm nay được chọn để đọc một cách long trọng đặc biệt trong Canh thức Phục sinh. Chúng ta nên dùng để suy nghĩ mỗi khi có nghi thức Rửa tội. Nhưng bất cứ khi nào tự hỏi về ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta cũng có thể đem đọc để thấy rõ mình đã trở nên môn đệ của Chúa như thế nào.
Vẫn biết ơn Chúa kèm theo lời rao giảng Tin Mừng đã ban nhân đức tin cho chúng ta. Chúng ta đã bắt đầu đi theo Chúa ngay từ khi chúng ta để Lời Chúa và tình yêu của Người lôi cuốn chúng ta. Có thể nói được chúng ta đã là tín hữu của Chúa vì chúng ta đã tin Người có lời ban sự sống cứu độ chúng ta. Một phần nào chúng ta đã là môn đệ của Chúa rồi, vì theo Thánh Kinh người môn đệ luôn để tai nghe Lời Chúa. Tuy nhiên, chưa có hành vi nào xác nhận chúng ta là tín hữu và môn đệ. Phải đợi đến ngày chúng ta chịu phép Rửa nhân Danh Chúa Yêsu Kitô.
Phép Rửa này độc nhất vô nhị. Không thể so sánh với một nghi lễ tôn giáo nào, kể cả phép rửa của Yoan Tẩy giả. Thánh Kinh nói rõ và chính Yoan đã khẳng định: "Tôi rửa trong nước; còn Người rửa trong Thánh Thần". Do đó đây không phải là biểu tượng và lễ nghi, nhưng là hoạt động của Thánh Linh. Sức mạnh của Thiên Chúa làm việc thật sự trong Hội Thánh dội nước trên con người. Nước chảy trên đầu không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tội lỗi. Và việc chịu phép Rửa không phải chỉ là một nghi lễ phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Có hoạt động thật sự của Thiên Chúa trong việc dội nước và làm nghi lễ này. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay nói: Chúng ta đã chịu phép Rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu mai táng với Người. Chúng ta cùng chết với Người trong cái chết xóa sạch tội lỗi mà Người đã chịu trên thập giá. Vì chấp nhận muốn cùng chết với Người cho tội lỗi như vậy mà chúng ta được tha tội và nước dội trên đầu chúng ta có sức mạnh thanh tẩy tâm hồn. Thế nên mọi người lớn, khi chịu phép Rửa tội, đều phải có lòng thống hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Và tất cả chúng ta, khi muốn ý thức lại ơn trở thành môn đệ và tín hữu của Chúa đều phải tuyên xưng lại ý chí muốn chết cho tội lỗi và các khuynh hướng xấu xa. Không có việc muốn kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội lỗi dù người ấy có lòng thống hối ăn năn và chịu rửa như nhiều người dưới thời ông Yoan Tẩy giả. Mọi hành vi thú nhận tội lỗi và ăn năn thống hối của con người đều không làm cho con người được khỏi tội. Chỉ có lòng từ bỏ tội lỗi trong tinh thần kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm tử nạn cứu thế của Người mới mang lại ơn thanh tẩy tâm hồn.
Vì sao vậy?
Vì mọi lễ đền tội mà loài người dâng lên đều bất xứng và không được chấp nhận nếu không tựa vào lễ hy sinh đền tội mà Người Con Chí Ái của Thiên Chúa đã dâng lên khi Người chịu chết trên Thập giá. Thiên Chúa đã tỏ ra ưng thuận lễ dâng này khi cho Con Người sống lại từ kẻ chết. Người đã chết vì tội lỗi loài người, thì khi phục sinh Người trong sự chết này, Thiên Chúa đã tỏ ra chấp nhận tha thứ hết mọi tội lỗi cho loài người chúng ta. Sự sống lại của Con Thiên Chúa là ơn tha thứ tội lỗi vậy. Người ta được ơn tha thứ tội lỗi không phải khi kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong sự chết của Người nhưng là khi được cùng Người sống lại trong sự phục sinh của Người. Không thể tách rời việc cùng chịu mai táng với Ðức Kitô và việc cùng Người sống lại, vì sự chết của Người chỉ có giá trị cứu thế khi Thiên Chúa phục sinh Người từ kẻ chết. Thế nên chết đi cho tội lỗi là việc của con người, nhưng ban ơn thanh tẩy đổi mới tâm hồn là ơn của Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa hoạt động và ban Thánh Thần cho con người khi họ chấp nhận chết đi cho tội lỗi trong mầu nhiệm Tử nạn cứu thế của Ðức Yêsu Kitô. Nhờ và trong bí tích Rửa tội, con người tội lỗi cũ kỹ đã chết đi để Thánh Thần tạo dựng con người mới sạch tội và thánh thiện trong Con Thiên Chúa.
Như vậy lễ nghi Rửa tội không phải chỉ là nghi thức phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Và Nước Rửa tội không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tâm hồn. Nhưng thật sự Thiên Chúa hành động trong lễ nghi này. Người dùng Thánh Thần để mai táng tội lỗi trong sự chết của Ðức Kitô và để tạo dựng con người mới trong sự phục sinh của Người. Có một biến đổi thật sự nơi người chịu phép Rửa. Từ thân phận một kẻ xa lạ thù địch với Thiên Chúa, con người nhờ ý chí kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Người, trở nên tạo vật mới đối với Thiên Chúa, không những sạch tội mà còn thánh thiện vì đã đồng hình, đồng dạng, đồng hóa với Con Thiên Chúa. Chúng ta không còn thuộc về thế giới tội lỗi nữa, nhưng đã được đưa sang Nước sáng láng của Chúa Yêsu Kitô phục sinh. Người đang sống sự sống mới và ban sự sống mới ấy cho hết thảy những ai sống trong Nước của Người.
Như vậy việc trở nên tín hữu và môn đệ của Người thật là vô thường, không thể dùng nghi thức xã hội nào để so sánh được. Trong mọi nghi thức xã hội công nhận một môn sinh hay môn đệ, chỉ có sự công nhận có thể nói là bề ngoài, không thay đổi gì bản chất con người môn đệ. Còn ở đây, trong bí tích Rửa tội, có sự biến đổi, tạo dựng thật sự, khiến một kẻ trước đây là tội nhân nay trở nên công chính; trước đây là xa lạ, thù địch, nay là nghĩa tử và là con cái Thiên Chúa; trước đây ở ngoài Ðức Kitô, nay là Kitô hưũ và kết hiệp với Người như cành với thân cây, như chi thể với thân thể.
Ai hiểu như vậy mà không quý trọng ơn của bí tích Rửa tội? Ai thấy như thế mà không xác tín về nội dung của ơn làm môn đệ của Ðức Kitô? Chúng ta hết thảy đã trở thành môn đệ của Người khi chịu phép Rửa tội. Chúng ta phải sống ơn gọi môn đệ ấy thế nào đây?
B. Ðòi Hỏi Và Vinh Dự Của Môn Ðệ
Bài Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Yêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì Người.
Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy. Tuy nhiên luận lý như trên hãy còn quá đơn giản. Chúng ta chưa hiểu bản chất con người đòi hỏi như vậy là ai. Không phải Người đã yêu và làm cho môn đệ như vậy nên Người đòi môn đệ phải yêu và phải làm như thế. Thực ra khi tuyên bố những đòi hỏi kia, Ðức Yêsu Kitô chưa nộp mình chịu chết cho môn đệ và môn đệ chưa thấy Người vác Thập giá đi trước để bảo mình phải vác khổ giá đi sau. Ðức Yêsu đã đưa ra những đòi hỏi tuyệt đối, không phải nhân danh sự chết của mình cho những người mình yêu thương, nhưng nhân danh bản tính Thiên Chúa ở nơi mình và vì mình là Thiên Chúa. Và Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi một cách tuyệt đối như vậy. Mọi sự, mọi người và nhất là sự sống đều là của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người có quyền đòi chúng ta phải dâng tất cả lại cho Người, nhất là khi hiến dâng đây, chúng ta không những không mất mát mà còn được lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn.
Ðó là ý tưởng của Lời Chúa tiếp theo. Người tuyên bố: Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại. Ðừng vội kết luận rằng sự hy sinh của người Kitô hữu cuối cùng vẫn có tính cánh vụ lợi và tính toán. Vẫn biết có lần Chúa Yêsu đã trả lời cho Phêrô khi ông này lên tiếng: "Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy". "Qủa thật, Người nói, không ai bỏ nhà cửa, hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này... và sự sống đời đời trong thời sẽ đến" (Mc 10,28-31). Nhưng nếu đọc kỹ, đọc hết mọi lời của Chúa, chúng ta sẽ thấy Người đã mau lẹ chuyển từ bình diện tự nhiên sang bình diện siêu nhiên, từ những sự ở đời này sang những thực tại vô hình. Những hy sinh mà người môn đệ phải chịu rất là thực tế, còn phần thưởng dành cho họ vẫn đòi hỏi một niềm tin. Thế nên không thể nói đến sự hy sinh của họ không thoát khỏi vòng danh lợi. Ngược lại chính để thoát khỏi vòng danh lợi giam hãm con người trong vũ trụ vật chất chóng qua mà họ chấp nhận hy sinh để đạt được những giá trị và chân lý mà cùng lắm những giá trị đời này chỉ là hình ảnh.
Ở đây chúng ta không cần suy tư triết học. Chúng ta ý thức rõ ràng Chúa Yêsu Kitô đòi người môn đệ phải dám hy sinh tất cả cho Người để chứng tỏ tình yêu tuyệt đối đối với Người và để minh chứng Người thật là Thiên Chúa. Và khi hy sinh như vậy họ tìm được sự sống.
Trong khi ấy họ đẹp lòng Thiên Chúa đến nỗi Người sẵn sàng thưởng công cho những ai có một cử chỉ tốt lành nào đó đối với họ, dù chỉ cho họ một bát nước lã mà thôi. Với lời hứa này Người khuyến khích mọi người yêu mến các môn đệ của Người, cho dù họ thật bé mọn trước mặt thế gian. Và như thế chúng ta có thể tạm kết luận về bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Yêsu tuyên bố rõ ràng là người môn đệ đi theo Người phải có lòng yêu mến Người đến nỗi sẵn sàng hy sinh đến cả mạng sống vì Người. Và điều này phù hợp với lời thư Phaolô hôm nay nói: người môn đệ hãy tự kể mình như đã chết cho tội lỗi và nay sống cho Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Ðó là nếp sống mới, nếp sống của người môn đệ đối với Thiên Chúa. Còn đối với nhau họ được vinh dự như là "báu vật" của Người đến nỗi ai làm cho họ việc gì tốt đều không mất phần thưởng trên Nước Trời. Từ đó họ phải sống bác ái phục vụ nhau như thế nào!
C. Những Bậc Thang Giá Trị
Bài sách các Vua có thể dùng để nói về việc phục vụ này. Quả vậy, bà lớn ở thành Shunem nọ đúng là "người đã đón tiếp một vị tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, nên đã lãnh phần thưởng của nhà tiên tri". Bà là người sang trọng. Bà thấy tiên tri Êlisê đến thăm thành mình. Bà mời ông quá bộ đến ở tại nhà bà vì bà là con người đạo đức, nghĩ rằng Thiên Chúa đã cho mình có của thì mình phải phục vụ những "người của Thiên Chúa", tức là các môn đệ đặc biệt của Người. Và hiểu rằng nhà tiên tri có nhiều dịp qua lại Shunem, bà bàn với chồng phải trang bị cho người một phòng đặc biệt dành riêng và ở trên gác cao để người được tự do giao tiếp với Thiên Chúa. Bà ta thật tế nhị và am hiểu các đòi hỏi của đời sống một tiên tri: không thể để người chung đụng với phàm tục. Thái độ và cử chỉ của bà thật quý hóa. Nhà tiên tri mủi lòng, và muốn thưởng công. Ông hứa cho bà sẽ sinh con trong tuổi già của người chồng.
Chắc chắn đó là phần thưởng quá mức mong đợi đối với hai người. Nhưng câu nói của bài Tin Mừng hôm nay như muốn so sánh và bảo chúng ta rằng: đó chỉ là phần thưởng của một tiên tri cho một việc lành đối với nhà tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa cho người làm phúc cho môn đệ của Người một bát nước lã, còn đáng trông đợi hơn nhiều!
Nhưng chúng ta cũng có thể đọc câu truyện trên về phía nhà tiên tri để thấy Êlisê cũng là hình ảnh người môn đệ đi theo Chúa. Ông như không có gia cư và không bám vào đâu cả. Ông sống cho Thiên Chúa và luôn đi làm theo ý của Người. Người ta thấy rõ ông đã thoát tục, chết cho thế gian này nên bà lớn kia khi rước ông vào nhà đã dọn cho ông một phòng riêng biệt và ở trên gác cao, để ông xa tránh phàm tục và sống cho Thiên Chúa. Chắc chắn ông thông thạo các việc của Người, nhưng khi muốn khen thưởng người đã có công đối với mình, ông phải nhờ đến ý kiến của người tiểu đồng đi theo. Anh này gần các thực tại thế gian này hơn. Anh biết gia đình chủ nhà đây đang cần gì hơn hết. Nhà tiên tri cho gọi bà chủ. Bà này lên đứng ở ngoài cửa để vẫn kính trọng nhà tiên tri là người đã thuộc về Thiên Chúa. Và nhà tiên tri đã thưởng công cho bà.
Như vậy, ngay từ thời Cựu Ước, người ta đã ý thức rằng đời sống của con người sống cho Thiên Chúa phải như đã chết đi cho thế gian và tội lỗi. Ðó là giáo lý của bài Thánh thư và của bài Tin Mừng. Tuy nhiên đây không phải là sự chết mất mát, từ bỏ và tiêu hủy những giá trị chân thật. Nhà tiên tri sống cho Thiên Chúa nhưng vẫn quan tâm đến hạnh phúc của người khác và nhất định muốn chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân. Khi nói chết cho thế gian, chúng ta chỉ có ý nói đến việc chết cho tội lỗi và những sự xấu xa, để tỉnh táo và đầy đủ hơn đối với những việc lành phải làm.
Vậy, nếu trong thánh lễ sắp cử hành đây chúng ta muốn nhắc lại việc Chúa Yêsu chịu chết để hủy diệt tội lỗi nơi chúng ta, thì chịu lấy Mình Thánh Người để nuôi sống mình chúng ta phải quyết tâm sống cho Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tỏ ra muốn yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người; mà chúng ta cũng phải làm đầy đủ mọi nghĩa vụ đối với tha nhân và xã hội. Việc thi hành tốt mọi phận vụ ấy không bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa đâu. Chính những việc làm như vậy chứng tỏ chúng ta là môn đệ tốt của Người. Nhờ các bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta cứ suy nghĩ thêm về ơn gọi, đời sống, đòi hỏi cũng như vinh dự của người môn đệ đi theo Chúa, để đời sống chúng ta mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn.
--------------------------------------------
TN 13-A61: Theo Chúa
Nghe Chúa giảng, người ta đã trầm trồ khen ngợi: - Chưa từng có ai nói hay như Ngài. Hơn nữa TN 13-A61
Nghe Chúa giảng, người ta đã trầm trồ khen ngợi:
- Chưa từng có ai nói hay như Ngài.
Hơn nữa Ngài còn đòi hỏi người ta phải hy sinh. Đúng thế, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự, kể cả những tình cảm vừa hợp pháp lại vừa thiêng liêng nhất:
- Ai yêu cha mẹ hơn ta, thì không xứng đáng với ta.
Có nghĩa là Ngài luôn luôn phải chiếm vị trí ưu tiên, phải chiếm chỗ nhất trong trái tim và cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Mặc dù chúng ta phải thảo kính cha mẹ, nhưng trong những trường hợp xung khắc, Đức Kitô phải luôn luôn phải là nhân vật số một.
Tiếp theo Chúa Giêsu đã xác định:
- “Ai không vác thập giá mà theo ta, thì cũng chẳng xứng đáng với ta”.
Thập giá mà chúng ta phải vác lấy trong cuộc sống, không chỉ là những bắt bớ, những cấm cách về đức tin, mà còn là tất cả những khổ đau, những buồn phiền chúng ta gặp phải . Ngài còn nói tiếp:
- “Ai tìm kiếm sự sống thì sẽ mất, còn ai vì ta mà mất sự sống thì sẽ tìm thấy được nó”.
Thoạt nghe qua, chúng ta thấy lời xác quyết ấy thực là vô lý, nhưng nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy nó thật sâu xa, thật thấm thúy… Sự sống ở đây bao gồm hai ý nghĩa, đó là sự sống phần xác, sự sống đời này và sự sống vĩnh cửu, sự sống đời sau.
Đây quả thực là một niềm an ủi khích lệ lớn cho chúng ta khi gặp phải những bắt bớ, những cấm cách, những khó khăn vì đức tin. Thực vậy, ai luôn chiều theo bản thân và miệt mài tìm kiếm những vui thú cho mình thì sẽ mất đi sự sống vĩnh cửu.
Trái lại, ai từ bỏ mình và những vui thú xác thịt, nghĩa là săn sàng chịu chết vì Đức Kitô thì sẽ tìm thấy được sự sống vĩnh cửu và niềm hạnh phúc nước trời ở đời sau, cũng như sẽ tìm thấy niềm vui mừng và sự bình an ngay từ đời này.
Không ai trên trần gian này hạnh phúc cho bằng các thánh, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
- “Tôi ngập tràn niềm vui giữa những thử thách”.
Hãy vào những nhà dòng khổ tu với một nếp sống khắc khổ và chúng ta sẽ thấy được những khuôn mặt chan hòa niềm vui.
Trái lại, bước chân vào những chốn ăn chơi, chúng ta chỉ thấy những khuôn mặt thất vọng và trống rỗng. Có những người đã tự tử ngay trên tiền bạc và danh vọng của mình.
Trong khi đó, các thánh là những người đã chết với nụ cười bình an trong tình thương của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã hy sinh cho Chúa những gì trong cuộc sống bình thường của chúng ta?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa đòi hỏi chúng con phải từ bỏ mình, có nghĩa là phtừ bỏ những tư tưởng, những lời nói và những việc làm, khi chúng đi ngược lại với những điều Chúa đã truyền dạy. Đồng thơi Chúa bảo chúng con phải vác thập giá mình hằng ngày. Thập giá đời thường của chúng con, đó chính là những hy sinh gian khổ, những bực bội buồn phiền, những mệt mỏi vất vả chúng con gặp phải trong cuộc sống. Tất cả đã kết thành cây thập giá đời thường Chúa muốn chúng con vác lấy để bước theo Chúa. Có từ bỏ mình và chấp nhận thập giá, chúng con mới thực sự trở thành những người môn đệ của Chúa.
Nếu hôm nay có một linh mục, giám mục, hồng y, hay giáo hoàng đến thăm gia đình bạn trong TN 13-A62
Nếu hôm nay có một linh mục, giám mục, hồng y, hay giáo hoàng đến thăm gia đình bạn trong tư cách một người thân, hoặc người bạn, thì tôi sẽ định cho những vị ấy uống gì? Rượu mạnh, rượu chát, trà quí, cà phê hảo hạng, nước ngọt, hoặc nước lọc. Tôi nghĩ là tất cả. Tất cả những gì là quí giá, đắt tiền, ngon, lành, và bổ. Lý do đơn giản, vì không những họ là một người bạn, người thân, mà còn là người bạn, người thân có địa vị cao cả trong giáo hội. Một cách tương tự, nếu một người bạn thân của gia đình tôi là bộ trưởng, tổng trưởng, thủ tướng, tổng thống, thì cách thức đón tiếp cũng mang một hình thức trang trọng như vậy.
Ngược lại, nếu cũng là một người bạn, mà là người tầm thường. nghèo khổ, và thường ngày vẫn quen nhau thì sao? Thì thế nào cũng xong, nước lã đun sôi, hoặc nước trà bình thường thôi. Ở đây, thì lý do đơn giản là, chỗ quen biết, và bạn bè bình dân lâu năm.
Cũng là một người bạn, cũng là một hình thức thăm viếng, nhưng có hai lối cư xử, đón tiếp, mà sự cách biệt ấy không gì khác, chỉ là vì cái địa vị của một người. Chính vì nhìn nhau bằng cặp mất “địa vị” như vậy, cho nên đức tin của tôi không trưởng thành, và không phát triển. Và cũng vì lối nhìn ấy, mà Chúa Giêsu cũng bị tôi đối xử một cách bất công, nếu không muốn nói là coi thường, và rẻ rúng. Vì có bao giờ “chúng tôi có bao giờ thấy Chúa khát mà cho uống đâu” (Mt 25:37). Nhưng rồi Chúa Giêsu đã trả lời cho những kẻ hỏi ngài, người lành cũng như kẻ dữ: “Khi các ngươi làm việc ấy cho một kẻ bé nhỏ trong anh em ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta” (Mt 25:40).
Những anh em bé nhỏ của Chúa. Thật khó mà tưởng tượng được, một người nghèo đói, tàng tật, vất vưởng đầu đường xó chợ kia lại là chính Chúa. Và cũng chính vì Chúa như thế, nên ít người đã nhận ra ngài. Vì chỉ có ngài mới có thể nói với tôi: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì qủa thật, thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42).
Thì ra thế, bát nước cho một người bé mọn vì Chúa sẽ chẳng mất phần thưởng. Và kẻ bé mọn thì chung quanh tôi có đầy: Những người tàng tật tinh thần và thể xác. Những người nghèo đói tình thương và cơm bánh. Những người bị bõ rơi và quên lãng. Những người bị hà hiếp và chèn ép. Những trẻ thơ không cha mẹ, không người thân thuộc. Những cô nhi và quả phụ. Những nạn nhân chiến tranh và lòng thù ghét của đồng loại. Tóm lại, những người mà Chúa Giêsu bảo là bạn hữu của Chúa thì không hiếm. Nhưng cái khó là làm sao nhận ra họ, nhận ra họ là chứng nhân, là kẻ được Chúa sai đến với mình. Vì bao lâu không nhìn ra cái ấn tín chứng nhân nơi họ, không nhìn ra ý nghĩa của lần gặp gỡ với họ, tôi sẽ không nhận ra họ, và cũng không bao giờ chấp nhận cái sứ vụ của người sai họ đến với mình.
Không nhận ra họ, và không nhận ra sứ vụ của họ, là chối bỏ người sai họ. Như việc người ta chối bỏ môn đệ của Chúa. Trường hợp ấy, làm gì có nước mà cho uống, vì đã không coi họ như những người thân thiện, những đại diện của đấng đã sai họ, làm gì tôi có thể vui lòng và tiếp đón họ.
Thật vậy, ai cũng biết rằng tự nó, bát nước lã không đem lại công trạng để được tưởng thưởng. Nó cũng chẳng có lý do được phần thưởng đời đời như thánh Mátthêu đã ghi trong bối cảnh của ngày chung thẩm, trong đó một trong những lý do người lành được thưởng vì đã cho một người bé mọn một bát nước lã. Cũng như một trong những lý do kẻ dữ phải đọa đầy, vì đã từ chối không cho anh chị em nhỏ bé mình một ly nước khi họ khát (xem Mt 25:46).
Nhưng lý do để người lãnh thưởng và kẻ bị chúc dữ vì những bát nước là vì đã cho “những kẻ bé nhỏ nhất trong anh em ta” và “vì họ là môn đệ ta”. Thái độ đón tiếp ấy, cái nhìn tâm linh ấy là những gì Chúa Giêsu muốn được nhìn thấy trong sinh hoạt của tôi, và trong cách cư xử, đối đãi hằng ngày với nhau của tôi. Đây là một cái nhìn xuyên thấu tâm hồn, phát xuất từ đức tin và đức mến hành động. Điều mà có thể làm cho chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu trong những anh chị em chung quanh mình. Không phải vì cái vỏ bên ngoài, hay địa vị xã hội, hoặc giáo hội, mà là người đó là hình ảnh, là hiện thân, là sứ giả của Chúa Giêsu. Cũng với lối nhìn ấy, chúng mới có thể tiếp đón mọi người đến với tôi thường ngày, và nhìn ra họ là “sứ giả”, là môn đệ được sai tới từ Thiên Chúa đến với tôi trong bối cảnh này, trong tình huống ấy, và trong thời điểm ấy. Nhận ra họ, và qua họ nhìn thấy Chúa, lúc ấy, tôi sẽ đón tiếp họ và qua họ, đón tiếp Chúa.
Như vậy, khi Chúa Giêsu lấy đơn vị một bát nước, và một người anh em hèn mọn nhất, để đo lường và cân nhắc thái độ đón tiếp của tôi dành cho nhau, cũng như tình cảm mà tôi dành cho anh chị em mình là như nhắn gửi tôi rằng, trong hoàn cảnh nào, và trong bất cứ ai, thì Chúa Giêsu vẫn có mặt, và đến với tôi. Ngài đến không chỉ để ban thưởng, mà còn để xin tôi, mong đón nhận nơi tôi một lời an ủi, một nụ cười thông cảm, và một ánh mắt yêu thương. Như một người đang đi đường nhận được bát nước giải khát vậy.
Chúa Giêsu cần an ủi không? Và Chúa Giêsu cần được khuyến khích không? Có chứ. Chúa Giêsu đã chẳng nói với các Tông Đồ trong vườn Cây Dầu: “Các con hãy ở đây và thức với thầy”. Và người nói với người thiếu phụ Samaritanô: “Cho tôi uống với” (Gioan 4:7). Đây là một mời mời gọi, lời mở ra từ cõi lòng Thiên Chúa, Ngài muốn trao ban cho nhân loại cái cơ hội để tiếp cận và gần gữi Ngài. Nước thì làm gì mà Ngài không có. Ngài muốn ăn gì, uống gì mà không có. Và điều này đã phản ảnh lời mà Ngài đã nói với thiếu phụ Samaritanô bên giếng nước Giacob: “Nếu chị biết ơn Thiên Chúa và người đang nói với chị là ai, hẳn chị sẽ xin người ban nước hằng sống cho” (Gioan 4:10).
Chúa xin mà là Chúa cho. Ngài chỉ muốn tạo cơ hội cho con người nhận ra Ngài, tiếp nhận Ngài, và đón Ngài vào nhà mình. Bằng mọi cách, Ngài muốn cho con người hiểu Ngài yêu thương con người, và chỉ cần một đáp trả rất nhỏ mọn thôi, như cho người bạn mình một bát nước vì Ngài, Ngài cũng mủi lòng, cũng cảm động, và cũng ghi ơn. Tiền bạc thì tôi không có. Hạt xoàn thì tôi không có. Vàng bạc thì tôi không có. Nhưng chẳng lẽ tôi không có lấy một bát nước cho người nghèo quang mình. Và chỉ cần bằng một lòng yêu mến, kính trọng, và thái độ khiêm nhường là tôi thấy Chúa ở ngay bên mình: “Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì qủa thật, thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 25:42).
Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu được cấu tạo trên năm bài giảng của Đức Gỉêsu, kết hợp với TN 13-A63
Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu được cấu tạo trên năm bài giảng của Đức Gỉêsu, kết hợp với năm giai đoạn “Ký thuật”
Dĩ nhiên, đây là những tổng hợp mà Mát-thêu tập họp từ các yếu tố thường được tìm thấy trong các văn cảnh khác trong sách Luca và Mác-cô. Ngày hôm nay chúng ta đọc phần cuối của "Bai giảng về các Tông Đồ”, "bài giảng thứ hai trong soạn thảo của Mát-thêu. Ơ đây, Đức Giêsu cho các Tông Đồ mà Người đã bổ nhiệm" để thay thế Người. (Mt 10, 1.2.5-11,1) những chỉ thị cho việc tông đồ. Đó là những phán quyết theo mẫu câu nói, vô cùng mạnh mẽ... nghịch lý, gọt giũa nhu những câu châm ngôn, mà một khi đã nghe, người ta không còn quên được. Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy.
Những lời này cứng rắn không thể trạng! Những lời thiếu tình người có thể bị hiểu sai, ở một thời đại mà cha mẹ rất khó chịu vì những quan hệ khó khăn với con cái như thời đại chúng ta. Có vẻ như Đức Giêsu khuyên con cái không yêu cha mẹ chúng! Giới răn thứ tư của Thiên Chúa vẫn là một giới răn thiêng liêng: "Thảo kính cha mẹ?". Chính Đức Giêsu đã làm gương về sự vâng lời và trung tín tế nhị đối với Mẹ Người (Lc 2,50; Ga 19,26). Người cũng nhắc lại rằng sự giúp đỡ cụ thể cha mẹ cũng vượt qua trước "của lễ dâng trong Đền Thờ" (Mt 15,3-6). Vậy Đức Giêsu muốn nói gì bằng những lời cứng rắn mà Người phát biểu ở đây? Một cách chính xác, Đức Giêsu quan niệm về bổn phận thiêng liêng nhất, và nói với chúng ta một cách mạnh mẽ nhất, rằng người ta phải yêu mến Người hơn tất cả những người đáng yêu nhất, những người mà chúng ta phải yêu nhiều nhất. Theo Đức Giêsu, trở thành tín hữu, đôi lúc có thể gấy ra sự chống đối của những người thân yêu nhất của chúng ta. Lúc đó, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Người hơn. Và chúng ta biết rõ ở thời đại chúng ta điều đó rất thường xảy ra. Tin Mừng đề nghị chúng ta một sự chọn lựa dứt khoát dẫn đến sự dấn thân trọn vẹn cho một quan niệm sống. Vì sự chọn lựa ấy triệt để nên nó làm cho người ta không sống như trước đây, Đức Giêsu thường trở thành một nguyên nhân của những sự bất hòa ngay trong những gia đình đoàn kết nhất bởi tình cảm tự nhiên. Qua bản văn cổ này được viết ra từ 2000 năm nay, cuộc xung đột ấy không mới mẻ như người ta tưởng. Lạy Chúa, xin giúp chúng con trung tín với Chúa dù với giá máu của trái tim con.
Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.
Câu thứ hai này hoàn toàn song song với câu trên: sau mối quan hệ của con cái đối với cha mẹ... giờ đây là mối "quan hệ của cha mẹ đối với con cái...” Đức Giêsu đòi hỏi vị trí hàng đầu trong tình yêu của chúng tạ; Yêu sách này không thể chấp nhận được, không thể hiểu được, nếu Người không phải Thiên Chúa! Trong tất cả những vị sáng lập các tôn giáo, Đức Giêsu là người duy nhất nói như thế, những vị khác nói rằng: "phải yêu mến Thiên Chúa. Còn tôi, tôi chỉ là người phát ngôn của Thiên Chúa". phải, trong mọi tôn giáo, người ta đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự. Nhưng ở đây chính là Đức Giêsu. Táo bạo biết bao? Anh hãy ghi nhận chữ Thầy (Tôi) không ngừng được lặp lại trong các công thức đó: không xứng với Thầy"... "không xứng với Thầy" Vậy Thầy là ai?”
Vào thời đại chúng ta, chúng ta nhạy cảm với sự hiệp nhất của những tình yêu. Chúng ta thường nói rằng khi yêu thương những người khác là chúng ta yêu mến chính Thiên Chúa. Và thật vậy? Theo chiều hướng này, sự liên đới của chúng ta là chính và được Thiên Chúa mong muốn. Và thật thảm hại nếu chúng ta sử dụng những công thức của Tin Mừng ấy để biện minh cho sự thiếu tình yêu thương của chúng ta, sự co quắp của chúng ta trên những lợi ích cá nhân, sự bất lực ích kỷ của chúng ta không chịu đựng, dung thứ như những người thân yêu. Vả lại, yêu cha mẹ, yêu con cái còn đi xa hơn khung cảnh gia đình chật hẹp. Đó cũng là thừa nhận cội rễ di truyền, địa phương, văn hóa, xã hội: dù muốn hay không, chúng ta là con cái và cha mẹ… chúng ta phụ thuộc và chúng ta tạo ra sự phụ thuộc! Chúng ta là thành phẩm của một "môi trường", một "thời đại Nhưng các sự liên đới ấy dù rất quan trọng, không thể trở thành một cái cớ biện minh cho việc chúng ta không đi theo Đức Giêsu. Biết bao thanh niên hoặc biện minh sự bỏ đạo của họ, bằng sư bỏ đạo của mọi người xung quanh họ!
Ai yêu "môi trường" của mình hơn cả Thầy không xứng với Thầy.
Ai yêu bạn bè mình hơn chính Thầy không xứng với Thầy.
Ai yêu hoàn cảnh, nghề nghiệp của mình hơn chính Thầy không xứng đáng với Thầy.
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy.
Đó là cấp độ thứ ba của nấc thang từ bỏ: trên hết là phải từ bỏ chính mình. Sự ám chỉ thập giá ấy làm chúng ta nghĩ rằng hẳn Đức Giêsu không bao giờ đề nghị những sự hy sinh như thế nếu Người đã không sống chúng trước tiên. Mọi thập giá được chúng ta vác... là một thập giá "đi theo" Đức Giêsu. Bạn đang đau khổ... bạn đi theo sau thập giá của Người.
Vác thập giá của mình! Chúng ta có thể bị cám dỗ làm cho cách diễn đạt ấy mất hết sức mạnh và sự khốc liệt của nó. Đối với Mát-thêu, vấn đề không phải là một hình ảnh sùng đạo, một ngôn ngữ quy ước để nói về những hy sinh nho nhỏ của đới sống. Vào thời đại của Đức Giêsu, sự đóng đinh thập giá vẫn là hình phạt dành cho những kẻ nô lệ, hình phạt tàn ác và ô nhục nhất trong các cực hình Người bị kết án phải hứng chịu sự giận dữ của quần chúng, hấp hối trong sự đau đớn khủng khiếp dưới sự chứng kiến của đám đông. Xem ra Đức Giêsu có thể đã thấy những kẻ bị đóng đinh, trước khi chính Người cũng bị đóng đinh? Ở Pa-lét-tin, vùng đất mà người La Mã chiếm đóng đó là cách xử tử thông thường. Một sử gia của thời đó đã thuật lại rằng khi Hê-rô-đê cả chết, thủ lãnh của đạo quân La Mã, Varus đã ra lệnh đóng đinh cùng một lúc hai ngàn người Do Thái! Thập giá không còn là một vật để thờ phượng hay để điểm trang!
Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được.
Đây còn là một lời tuyên bố mà bề ngoài như nói ngược lại tất cả những gì thế giới hiện đại đòi hỏi: Ngày nay, sự tìm tòi cao nhất là để "tự thực hiện" bản thân, “phát triển mình", "tự thể hiện mình": Còn Đức Kitô đề nghị chúng ta "mất. mạng sống mình" để "theo Người"!
Tuy nhiên, nếu chúng ta chịu suy nghĩ một chút thì bên trên sự đụng chạm ban đầu, chúng ta khám phá trong tư tưởng của Đức Giêsu một trong những luật căn bản của đời sống chúng ta. Một người không có khả năng từ bỏ mình vì người khác thì người đó không có khả năng yêu thương. Kinh nghiệm hiện sinh hàng ngày của chúng ta cho chúng ta khám phá rằng "phải đánh mất mình đi" để thật sự phát triển trong tình yêu người khác. Vả lại, nghịch lý ấy chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng Phục Sinh, chính Đức Giêsu đã sống nghịch lý đó trước tiên. Đánh mất sự sống... để chiếm lấy sự sống!
Lời của Đức Giêsu không có đặc tính gì là thích tự hành hạ mình, tiêu cực, buồn bã; đó là một lời tích cực và vui tươi Vấn đề là phải chiếm lấy". Đức Giêsu đề nghị chết cho chính chúng ta để thật sự sống. "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10). Vậy, đây không phải là một sự bàng hoàng dũng cảm của thuyết hư vô và dù ít dù nhiều cũng là sự tự tử, mà đây là tình yêu thương mỗi ngày đòi hỏi chúng ta phải đánh mất mình vì những người khác... và là sự phát triển cao thượng nhất! Không hề phá hủy con người, sự hy sinh từ bỏ tạo thành những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất. Chỉ cần nghĩ đến Charles de Foucault, Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta, Martin Luther Kinh và nhiều người khác!
Còn nếu co quắp vào tính ích kỷ nhỏ bé của mình, sự phát triển của cá nhân mình thì như Đức Giêsu đã nói đó là phương tiện chắc chắn nhất làm hỏng cuộc đời mình. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được lời Chúa và ban cho chúng con sức mạnh để sống lời ấy. Thánh Phaolô đã nói "được rửa tội" chính là chịu đóng đinh với Đức Kitô để sống với Người" (Rôm 6,6-8) Và mỗi thánh thể nhắc chúng ta rằng Đức Giêsu đã "nộp sự sống của Người".
Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Đoạn văn bắt đầu bằng những lời này là phần kết luận của "Bài giảng về các Tông Đồ". Và thật ra chúng ta luôn ở trong cùng một luồng tư tưởng: luôn là vấn đề của lòng yêu thương... và yêu thương dưới hình thức đơn giản nhất là đón tiếp người khác.
Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì ngườ ấy là ngôn sứ thì sẽ được lãnh nhận phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ, ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
Thế giới hiện đại này có vẻ đề cao sự phát triển cá nhân kể cả bằng sự đè bẹp những người khác (ví dụ như trong việc phá thai và nhiều hoàn cảnh khác...) cũng thế giới ấy đã tìm thấy công thức tàn bạo: "Tha nhân là hỏa ngục!"
Còn Đức Giêsu đề cao lòng hiếu khách, cởi mở, đón tiếp chúng ta có dành cho người xa lạ một chỗ khiêm tốn nơi bàn ăn của chúng ta không? Người khách được đón tiếp vào nhà chúng ta là một sự hiện diện của Đức Chúa. Hỡi vị khách xa lạ, hãy nói cho chúng tôi nghe điều bí mật của bạn.
Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương.
Đó là một ơn thường gặp nhất mà người ta có thể thực hiện ở mọi lúc dù khi quá nghèo và người ta không có gì để cho ngoài tính cách của sự đón tiếp Đức Giêsu đã gợi ra ba loại thành viên của cộng đoàn:
Các ngôn sứ, các người công chính và các kẻ bé nhỏ! Hai loại người trên đã được tôn kính trong đạo Do Thái. Nhưng Đức Giêsu còn thêm những "kẻ bé nhỏ", những "môn đệ bình thường", những người mà người ta luôn -liều lĩnh bỏ quên họ để chỉ quan tâm đến các Kitô hữu siêu hạng các chiến sĩ đức tin, các người dấn thân cao cả? Trong một thế giới rất dễ dành mất tình người và lại luôn đi tìm những môi trường mới cho sự hiệp thông nhân loại, lời mời gọi Đức Giêsu luôn có giá trị. Các kỹ thuật viên của mọi hệ thống, các chuyên gia về "nhóm năng động", các người nhiệt thành truyền bá các ý thức hệ xứng đáng... đều phải tìm cách thực hiện động tác đơn giản cho người đang khát một chén nước: chỉ là một chén nước lã! Biểu tượng cho tương quan con người đơn giản nhất. Tin Mừng xem ra không đơn giản. Đức Giêsu cảnh báo sự dửng dưng và vô tâm của chúng ta. Tha nhân! Người khác! Kẻ bé nhỏ nhất.
Ðó là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ đầy mặt đất, bốn đứa trẻ của gia đình ông bà Mặc Ðăng TN 13-A64
Ðó là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ đầy mặt đất, bốn đứa trẻ của gia đình ông bà Mặc Ðăng Nghinh (Mc Donald) bị bó cẳng, không ra ngoài chơi được, nên cãi lộn, trêu chọc và phá hỏng đồ chơi của nhau. Chúng làm thế chỉ vì hiếu động nhưng cũng có màn gay cấn. Chẳng hạn, từ phòng khách bà mẹ nghe rõ mồn một:
- Con mụ kia! Của tôi mà!
- Không phải đâu anh "phệ"! Tôi dành được trước mà.
Giáng sinh mới qua có mấy ngày mà lũ trẻ đã om sòm cãi nhau về những đồ chơi chúng nhận được vào dịp lễ.
Bà Nghinh sực nghĩ tới một sáng kiến để giúp bọn trẻ thực sự sống ơn bình an và hoà giải mà Chúa Giáng sinh mang lại. Nhiều năm trước, bà nội có kể cho bà nghe về một phong tục Giáng sinh cổ truyền. Người ta đã giúp trẻ em khám phá ra ý nghĩa đích thực của Giáng sinh qua một trò chơi độc đáo.
Vậy người mẹ đã tập hợp bốn đứa nhóc lại và hỏi: các con có muốn chơi trò chơi Giáng sinh mới không? Ðiều cần thiết là phải giữ bí mật. Ai có thể chơi môn chơi bí mật này?
- Con! Ðức (Eric) mau miệng nói trước.
- Con có thể giữ bí mật hơn anh ấy, Bé Hiền cướp lời anh. Nó tên là Hiền mà chẳng hiền chút nào. Lúc nào cũng muốn gây gỗ với anh lớn hơn nó một tuổi.
Hai đứa nhỏ nhất cũng huà theo tuy chưa rõ chuyện ất giáp ra sao: Con cũng làm được - Con cũng làm được.
Người mẹ giải thích:
- Ðược rồi, đây là nội dung trò chơi: chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh lại vào ngày 25 tháng Giêng sắp tới, và sẽ chuẩn bị cho Hài Nhi Giêsu một máng cỏ êm ái nhất thế giới để Hài Nhi Giêsu ngủ ngay ở đây trong căn nhà của chúng ta. Chúng ta sẽ chất rơm đầy máng cỏ giúp tạo hơi ấm để Hài Nhi có thể ngủ ngon. Và đây là ý nghĩa của trò chơi. Mỗi cọng rơm đặt vào máng cỏ tượng trưng cho một việc tốt chúng ta làm cho một người nào đó, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh. Càng nhiều việc tốt, máng cỏ càng có nhiều cọng rơm và Hài Nhi Giêsu càng được êm ấm. Ðiều phải giữ kín là: chúng ta không được kể cho ai biết việc tốt đó được thực hiện cho bất cứ ai.
Bé Hiền là người đầu tiên thắc mắc: "Làm thế nào mà Chúa Hài Ðồng Giêsu biết đó là giường của Ngài?"
Người mẹ trả lời: Ngài sẽ biết thôi, Ngài sẽ nhận ra tình yêu chúng ta đặt nơi máng cỏ nhờ sự êm ái máng cỏ.
- Nhưng chúng ta sẽ làm việc tốt cho ai? Ðó là thắc mắc của Ðức, đứa lớn nhất. Người mẹ trả lời: Ðơn giản thôi, chúng ta sẽ thực hiện việc tốt cho nhau. Mỗi tuần, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh đó, chúng ta sẽ để tất cả tên chúng ta trong chiếc mũ này, cả tên của mẹ và tên của bố. Rồi mỗi người sẽ rút một tên và làm việc tốt cho người đó trong cả tuần.
Nhưng đây mới là điều khó: Chúng ta không được cho ai biết tên người rút được và phải cố gắng làm nhiều điều tốt cho người mình rút được tên. Mỗi khi làm một việc tốt, chúng ta sẽ đặt một cọng rơm vào máng cỏ.
Bé Hiền cau mày nói: Nhưng nếu con rút phải tên người con không thích thì sao? Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy
Người mẹ suy nghĩ một chút rồi nói: Con có thể dùng những cọng rơm lớn hơn dành cho việc việc tốt con làm cho người đó, vì việc tốt loại đó được thực hiện cách khó khăn. Dĩ nhiên những cọng rơm lớn sẽ mau làm đầy máng cỏ. Thế rồi vào đêm Giáng sinh, Hài Nhi Giêsu sẽ cảm thấy êm ái biết bao khi Ngài nằm trên máng cỏ với những cọng rơm bự chất chứa nhiều tình yêu loại đó! Mẹ cho rằng Chúa Hài Ðồng sẽ rất vui vẻ khi ta bày tỏ tình yêu dành cho Ngài.
Vấn đề được nêu lên là "Ai sẽ làm máng cỏ?" Vì Ðức lớn nhất và là đứa duy nhất được phép sử dụng dụng cụ, nên nó xuống ngay nhà hầm và hí hoáy thực hiện công trình mà nó lấy làm hãnh diện. Trong hai giờ đồng hồ từ nhà hầm vang lên tiếng lưỡi cưa xèn xẹt, rồi tiếng búa đập trên đinh. Một lúc lâu, tất cả đều im bặt không còn tiếng động nữa. Cuối cùng, Ðức trèo lên nhà với chiếc máng cỏ trong tay. Nó cười toe:
- Ðây rồi, chiếc máng cỏ đẹp nhất thế giới! Con làm có một mình đấy nhé!
Mọi người đều đồng ý và bà Nghinh có thể tiến hành trình bày trò chơi Giáng sinh của bà: Bây giờ chúng ta cần những cọng rơm.
Thế là năm mẹ con lên xe. Bà Nghinh lái xe tới một mảnh đất bỏ hoang đầy cỏ dại. Bây giờ là cuối tháng mười hai, cỏ đã khô và ngả sang màu vàng trông giống như rơm. Chỉ trong chốc lát chiếc hộp bằng các tông nơi thùng xe chứa đầy cọng cỏ khô giống như rơm.
Sau bữa cơm tối, ai nấy trong bàn ăn đều rút thăm lấy một mảnh giấy đã gập lại trong đó có ghi tên một người trong gia đình gồm hai bố mẹ và bốn con.
Bé Hiền rút trước, lập tức nó khúc khích cười. Tiếp theo là Lan rút ngay miếng giấy bố nó đã viết khiến bố nó che miệng tủm tỉm cười. Ðến lượt hai ông bà rút thì cả hai đều nghiêm túc không tỏ thái độ. Út Minh là người duy nhất chưa biết đọc, nên bố nó phải đọc thầm lá thăm vào tai nó. Ðức là người rút thăm cuối cùng. Người ta thấy rõ nét mặt nó tỏ ra không hài lòng. Nó nhét cái tên vào túi áo, không nói gì.
Tuần lễ sau, nhiều bất ngờ xảy ra. Dưới nhà hầm, có người đã quét sạch mạt cưa thay cho Ðức. Còn bé Hiền đánh răng rồi về phòng thì thấy phòng mình đã được dọn dẹp tươm tất. Nơi nhà bếp có ai đã lau quét tươm tất khi bà Nghinh ra cổng lấy thư về. Mỗi buổi sáng bố hỏi: Giày của bố đâu rồi? Không ai trả lời cả, nhưng trước khi đi làm, bố lại thấy đôi giầy của mình đã được đánh bóng và để vào chỗ cũ.
Dáng dấp của phần thưởng không bị mất
Bà Nghinh để ý thì thấy những thay đổi quan trọng hơn xảy ra trong tuần: Lũ trẻ không trêu chọc nhau hoặc đánh lộn nhau nhiều như trước. Ðôi khi có nổ ra cuộc tranh cãi, nhưng bỗng im bặt không vì một lý do rõ ràng. Ngay cả bé Hiền và Ðức cũng tỏ ra hoà hoãn với nhau hơn. Thực ra, lũ trẻ đều có những nụ cười bí mật và đôi khi bật thành tiếng khúc khích.
Bốn tuần lễ "Mùa Vọng" (theo trò chơi) đầy những bất ngờ mà bất ngời cuối cùng là do bé Ðức. Nó liên tục rút phải tên bé Hiền nên nó dứt khoát muốn bỏ nhà ra đi để cho mọi người ăn lễ Giáng sinh đó xong mới về. Mẹ phải tìm đủ cách thuyết phục, Ðức mới đổi ý. Ðức đã đặt nơi máng cỏ cọng rơm cuối cùng, loại bự!
Câu chuyện vừa kể giúp làm sáng tỏ phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo (Mt 10,1-42). Ở phần chót của bài giảng này, điều được nhấn mạnh là từ bỏ (cc 37-39) và phần thưởng (cc 40-42).
Bài giảng về sứ mạng truyền giáo đã lần lượt dạy các môn đệ về việc phải làm (cc 5-15) về tình hình thù địch phải đối phó (cc. 16-25) về niềm tin tưởng vào Thiên Chúa cần được duy trì (cc. 26-33).
Bây giờ để kết thúc, Ðức Giêsu đòi các môn đệ trong bối cảnh tình yêu mà ai cũng dễ dàng nghiệm thấy được, đó là bối cảnh gia đình. Nhưng ở phần cuối này, Ðức Giêsu còn đòi các môn đệ phải xác định rõ mối tình lớn lao hơn mối tình đối với cha, với mẹ, với con trai, con gái của mình (c.37). Ở đây Ðức Giêsu chỉ nhẹ nhàng ám chỉ về tình yêu của "Ðấng đã sai Thầy" (c.40). Ðó là Ðấng không xa lạ với các môn đệ vì Ngài ở thâm sâu nơi cõi lòng họ: chính Ngài dạy họ phải nói gì khi bị điệu ra trước vua chúa quan quyền (c.18). Thực ra chính "Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em" (c.20). Thiên Chúa đã yêu ta trước (x. 1Ga 4,10). Trước khi ta biết yêu thương là gì thì Thiên Chúa đã lo để ta có cha có mẹ luôn ứng trực săn sóc và vỗ về, để ta tồn tại và nên người. Nay Thiên Chúa còn phái Ðức Kitô, Con của Người đến cứu ta khỏi tội (Mt 1,21). Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Ðức Kitô, Ðấng hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu (x. Ga 13,13). Nào Ngài chẳng có quyền đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ và con cái ta sao?
Phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo nhắc nhở ta về điều cơ bản của bài giảng, đó là niềm tin. Các môn đệ đại diện cho chính Ðức Giêsu, nên đón nhận họ không những là đón nhận chính Ðức Giêsu, nhưng còn là đón nhận Ðấng phái Ðức Giêsu đến trần gian để cứu chuộc muôn người. Sẽ có phần thưởng xứng hợp dành cho những ai đón nhận các ngôn sứ, các thánh nhân và cả các tín hữu Kitô bình thường.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ vì ai mà bọn trẻ của gia đình bà Nghinh từ bỏ mình? Bạn có thấy dáng dấp về phần thưởng chúng nhận được ngay trong bầu khí bình an của gia đình chăng? Phần thưởng ấy sẽ như thế nào sau này theo niềm tin của bạn?
2. Bạn hiểu thế nào về câu nói "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được? (c.39). Bạn có thấy các thánh tử đạo minh hoạ điều vừa nói chăng?
C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy…: Ở đây Đức Giê-su tỏ ý “ghen TN 13-A65
- C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy…: Ở đây Đức Giê-su tỏ ý “ghen tương” giống như sự ghen yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en trong thời Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19; 32,16-21). Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu phải được dành riêng cho Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su mà còn quá quyến luyến với gia đình, thì chẳng xứng đáng với tình yêu của Người. Kẻ nào không nhìn nhận sự tối thượng của Người cũng không thể làm môn đệ của Người được. Sở dĩ Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, vì Người chính là Thiên Chúa làm người, đến để chịu chết đền tội thay cho loài người.
HỎI: Với đòi hỏi như thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt, có thể bị người đời kết tội là bất hiếu?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vì chính Đức Giê-su là một người con hiếu thảo: Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu bầu của Đức Mẹ, để làm phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước khi tắt thở trên cây thập giá, Người trối Đức Mẹ làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông đem ngài về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Người (x. Ga 19,25-27). Người dạy người ta về sự thực hành cách cụ thể giới răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được đặt sau Thánh Ý Chúa Cha (x. Lc 2,49). Mẹ và anh em của Người chính là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3,33-35). Trong câu này, Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng: khi cần phải chọn một trong hai tình yêu dành cho cha mẹ và dành cho Đức Giê-su, thì môn đệ phải biết đặt tình yêu trung thành với Người trên tình yêu dành cho cha mẹ.
- C 38: + Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy: Lúc đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức Giê-su do muốn được lợi lộc vật chất (x. Mt 19,27-30), được địa vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người lại không chiều theo ý họ, mà đòi họ phải đi con đường hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ mình, vác thập gia mình hàng ngày mà theo chân Người” (x. Mt 16,24).
- C 39: + Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất…: Giữa hai sự sống tự nhiên và siêu nhiên, thì môn đồ phải biết chọn sự sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo tìm sự sống thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để khỏi bị giết chết, thì họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên ở đời sau. Ngược lại, nếu họ bằng lòng chịu chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu nhiên sau này.
- C 40: + Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy…: Ở đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là: “Kẻ được sai đi đồng hóa với người đã sai mình”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su, cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Người. Sự đón tiếp ở đây là phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.
- C 41: + Ai đón tiếp một ngôn sứ… một người công chính: Có người nghĩ rằng: Ngôn sứ và công chính đồng nghĩa với tông đồ, nên ai tiếp đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và người công chính, thì sẽ được phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện nay lại cho rằng: Thời Giáo hội sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ tông đồ, còn người công chính thì không phải chức vụ, nhưng là người có lối sống công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ… cho bậc công chính: Đức Giêsu áp dụng nguyên tắc: “Người được sai đi đồng hóa với Đấng sai mình”, để nói rằng: kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ được phần thưởng giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính sẽ được, là sự sống và được sự sống đời đời.
- C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này…: Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông đồ thừa sai. + Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu: Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của các môn đệ, thì cũng sẽ được thưởng giống như các ngài sẽ được ở đời sau.
SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy (Mt 10,38).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Chấp nhận thập giá để sống vui.
Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một gia đình quý tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quý tộc đến dạm hỏi, và được cha mẹ cho phép, cô tìm đến một đan viện có lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền quý giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn thử thách ơn gọi của cô nên đã cố ý trình bày những luật lệ khắt khe của đan viện về nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp: “Bây giờ con còn muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi?”. Cô đáp: “Thưa mẹ, con chỉ còn một thắc mắc này là: Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không?”. Mẹ bề trên trả lời: “Con đừng lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói: “Thế thì thưa mẹ, con sẵn sàng xin vào tu viện, vì con chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì theo con nghĩ: Nếu mọi nơi mọi lúc con đều nhìn thấy thánh giá Chúa, đều thấy Người đang cùng chịu đau khổ với con, thì con hy vọng có thể chịu đựng được mọi đau khổ”.
2) Chu toàn bổn phận đối với gia đình trước khi đi theo Chúa:
Vào năm 1994 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi đau khổ: Chỉ trong một tháng, người cha và chị cả trụ cột nuôi gia đình lần lượt bị chết, khiến cho bà mẹ và bốn đứa con thơ dại hết sức lo lắng cho tương lai gia đình.
Lúc đó em Mác-đa-la mới được 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn. Thấy mẹ lo buồn, em thường an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải đợi tới lúc khôn lớn mà ngay từ lúc đó, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã bỏ học để ngồi vào guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã làm để kiếm tiền hằng ngày nuôi gia đình.
Một hôm, tình cờ người bác họ là cha Bandenla đến chơi và khi biết hoàn cảnh của Mác-đa-la, cha đã hứa phụ giúp nhu cầu vật chất của gia đình và giúp học phí sách vở cho Mác-đa-la đến trường học. Sau hơn mười năm chăm chỉ đèn sách, chị đã tốt nghiệp và trở thành một giáo viên giỏi dạy ở trường làng để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm. Đến ngày sinh nhật thứ 30, Mác-đa-la đã dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn mà mẹ hằng mong ước. Chị âu yếm thưa với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con tặng mẹ, con chỉ xin mẹ cho phép con được tận hiến cuộc đời còn lại để theo ơn Chúa kêu gọi phụng sự Người”.
Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời Chúa phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến mà trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Cuối cùng chị đã được Hội Thánh tôn phong lên bậc chân phước để mọi người tôn kính và học tập noi gương.
3) Ai không đón tiếp tha nhân là đã từ chối đón chính chúa Giêsu:
Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần lượt hơn một chục căn nhà, nhưng chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị đã được cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân đã bị hoại tử vì chịu giá lạnh trong một thời gian quá lâu.
Có điều đáng nói là các căn nhà chị đến gõ cửa đêm hôm ấy, mọi người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gõ cửa. Mọi người đều là các tín hữu sống tại vùng quê hiền hòa, nhưng không một ai chịu ra mở cửa, vì sợ có thể sẽ bị kẻ cướp vào nhà trấn lột!
4) Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được:
Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, SADHU và một người bạn cùng nhau đi du lịch qua một miền núi phía Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến họ phải rất vất vả để chống trả với cơn bão tuyết.
Bấy giờ họ thấy một người đàn ông bị lạnh cóng đang nằm thoi thóp bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại cứu giúp người gặp nạn, nhưng anh bạn kia lại không đồng ý vì cho rằng nguyên việc làm sao để cứu mạng mình lúc này cũng đã khó khăn vất vả lắm rồi, và anh ta cương quyết bỏ đi. Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân cho người sống dở chết dở ấy. Sau đó với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và tiếp tục đi qua vùng bị bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia dần hồi sinh và cả hai dìu nhau đi tiếp. Đi khoảng mươi dặm, cả hai kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết vì bị lạnh cóng đang nằm bên vệ đường. Họ càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra đó không ai khác hơn là anh bạn đã cùng đi với Sadhu trước đó.
Hành động yêu thương xả thân cứu người của Sadhu đã minh chứng cho lời Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Anh bạn của Sadhu do đã cố giữ mạng sống của mình nên cuối cùng đã bị mất mạng, còn Sadhu do liều mất mạng vì tha nhân nên đã được cứu. Đó là điều nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua và dạy các tín hữu noi theo. Người đã sẵn lòng chịu chết thập giá rồi sống lại vinh quang, để dạy chúng ta hãy đi con đường yêu thương: hy sinh mạng sống mình vì lòng mến Chúa yêu người, và chắc ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.
5) Chia sẻ giúp đỡ người nghèo là làm cho chính Chúa:
Mác-tanh thành Tua (Martin de Tour) là một mẫu gương về đức bác ái cụ thể. Bấy giờ Mác-tanh là người đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như một vị thánh mà không do chịu tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo sắp chấm dứt. Trước đó chưa có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài.
Mác-tanh đã nêu cao chân lý: yêu thương tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su. Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh đang ngồi trên lưng ngựa đi tuần tra thì gặp một người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị rét run vì quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh liền thương cảm cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đã nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới cắt cho người ăn xin. Mác-tanh nghe Người phán: “Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lý, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
3. SUY NIỆM:
1) Đón tiếp tha nhân là đón tiếp chính Đức Giêsu.
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
- Người khác là ai?: Giăng Pôn Sát (Jean Paul Sartres) một triết gia hiện sinh vô thần đã nói: “Hỏa ngục chính là người khác!”. Đây là một câu nói hận đời, trái ngược với tinh thần yêu thương của Đức Giê-su. Vì đối với các tín hữu chúng ta thì người khác chính là hiện thân của Đức Giê-su như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhưng người khác là ai? Họ không phải là một người trừu tượng, nhưng là những người sống bên chúng ta. Họ là La-da-rô nghèo đói đang ở cửa nhà chúng ta. Họ là những người yếu đuối, già cả neo đơn, là những người vô gia cư, vô nghề nghiệp. Có thể họ cũng là một người trong gia đình ta, một người hàng xóm hay ở cùng một đường phố với chúng ta. Họ có thể là hỏa ngục hay là thiên đàng của ta tùy theo cái nhìn của ta đối với họ.
- Lòng hiếu khách: Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra đón ánh nắng ban mai. Rồi từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất hiện. Qua các cánh cửa, người ta phát hiện ra gã. Thế là từng nhà dọc theo xóm, vội vã đóng và chốt cửa lại, kéo rèm che cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất đến từng nhà gõ cửa, nhưng không ai ra mở cửa. Cảm thấy nhục nhã buồn tủi, gã lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gã vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi cửa nhà lại được mở toang đón nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ ra mặt vì như vừa thoát khỏi sự quấy rầy của một kẻ không mời mà đến.
Hoạt cảnh trên đây vẫn thuờng xảy ra đó đây là do lòng ích kỷ của con người. Người ta thường chỉ mở cửa nhà và cửa lòng để đón mời một số người nào đó trong gia đình ruột thịt, các người bạn thân quen, đồng nghiệp, hay những kẻ mà họ hy vọng sẽ đem lại cho mình lợi lộc… và họ sẵn sàng khép cửa lại khi gặp một người lạ, nhất là những kẻ dáng vẻ nghèo nàn.
- Chúng ta phải làm gì đối với họ?: Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà họ sẽ thành niềm vui mang lại hạnh phúc hay trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta: các chủ quán ở Bê-lem xưa đã từ chối đôi vợ chồng nhà quê nghèo khó là Giu-se và Ma-ri-a, nhưng họ lại không ngờ mình đã từ chối đón nhận Đấng Cứu Thế trong đêm Người giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu đã mở rộng cửa nhà đón tiếp Đức Giê-su và đã được ơn cứu độ (x. Mt 9,10; Lc 19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đã được Người dạy cho biết điều cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42). Hai môn đệ làng Em-mau nhờ mời vị khách bộ hành vào tạm trú trong nhà, mà các ông đã nhận ra Đức Giê-su phục sinh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang hiện thân trong những người đau khổ nghèo đói, những kẻ đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gõ. Ai mở cửa đón rước Người, thì Người sẽ vào trong nhà linh hồn của họ và ngồi vào bàn dùng bữa tối thân tình với họ.
XÉT MÌNH: Tôi thường có thái độ thế nào đối với những kẻ mình không ưa hay những khách lạ không mời mà đến? Tại sao người ta đóng cửa nhà hay cửa lòng với những người nghèo đói ăn xin? Khi các người làm tông đồ đến nhà, tôi có niềm nở đón tiếp và cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng của họ hay không?
2) Tình yêu đối với Đức Giêsu.
- Gương vác Thánh Giá:
Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT (Arthur Blessit) đã khởi đầu một cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới. Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm vất vả, ông đã lập được một kỷ lục thế giới về đi bộ, khi vượt qua một quãng đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, ngang qua nhiều quốc gia. Sau này ông đã thuật lại chuyến đi ấy như sau: “Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã từng bị dã thú như voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì bị nghi là làm gián điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…” Động lực thúc đẩy ông làm được việc phi thường ấy là tình yêu mến Chúa Giê-su. Ông muốn mang thánh giá đến mọi nơi trên thế giới, như lệnh Người truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
- Phải vác thập giá nào?
Đức Giê-su mời mọi người hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường thập giá là con đường chính Đức Giê-su đã đi chịu chết. Đây là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở Na-da-rét, là đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, là đường lo buồn trong vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, chịu đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá lên đồi Can-vê; là đường chịu đóng đinh và chết nhục nhã như một tên đại gian ác. Nhưng con đường đó lại là điều kiện để vào vinh quang phục sinh, như ba lần Người đã báo trước (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19).
Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con đường thập giá của Người. Thập giá mà chúng ta vác không phải là cây gỗ thập giá của Đức Giê-su, nhưng là những gánh nặng việc bổn phận đối với gia đình xã hội và Giáo hội, là đòi hỏi phải từ bỏ của cải vật chất, quyền hành, là những người mà chúng ta tuy không ưa, nhưng vẫn phải sống chung một nhà. Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi với tính tự nhiên, Người bị lo buồn sợ hãi trước Giờ Tử Nạn, nhưng Người đã can đảm chấp nhận vâng theo ý Chúa Cha (Mt 26,39). Chỉ vì yêu mến Cha mà Người sẵn sàng từ bỏ ý riêng để chấp nhận khổ hình thập giá. Cũng vậy, chỉ khi nào ta thực sự yêu mến Chúa Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân theo Chúa trên con đường thánh giá, và mới dám hiến mạng sống mình vì mến Chúa và yêu tha nhân.
- Phải yêu Chúa thế nào?
Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ Người phải dành trọn tình yêu cho Người: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nếu Đức Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và nếu Người đã không chịu chết vì yêu loài người trước, thì chắc Người không dám đòi môn đệ phải hy sinh như vậy. Từ ngày Đức Giê-su về trời đến nay, có biết bao vị thừa sai tông đồ đã dám sống đến cùng tình yêu mà Đức Giê-su đòi hỏi ấy. Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng Lời Chúa, nhưng còn là thông truyền đức tin và tình yêu Chúa cho người khác; Là giới thiệu Đức Giê-su cho tha nhân nhận biết, tôn thờ, yêu mến cậy trông vào Người. Muốn làm được điều này thì chính chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa nơi bản thân và sẵn sàng dâng cả cuộc đời để đáp lại tình yêu ấy. Ước gì chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết mọi người, mọi vật, chấp nhận bỏ đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để tình yêu Chúa ngày một lớn lên khi ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân.
4. THẢO LUẬN: 1) Ta cần từ bỏ những gì và phải vác thập giá nào để nên môn đệ của Chúa? 2) Theo kinh Cải Tội Bảy Mối, muốn bỏ một tật xấu như tự kiêu, bủn xỉn, mê đắm xác thịt, hay giận hờn, say xỉn, ghen ghét, lười biếng… Ta phải tập những nhân đức đối nghịch nào?
5. LỜI CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng: biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).
- Lạy Chúa. Xin nhận lấy tất cả tâm tư tình cảm và ước muốn của con, tất cả những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy đều do Chúa đã ban cho con, thì hôm nay con lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa ban ơn cứu độ. Được như vậy là con đã thỏa mãn lắm rồi.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa nói với chúng ta về TN 13-A66
Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa nói với chúng ta về hai điều cần thiết cho tất cả chúng ta. Đó là việc theo Chúa và việc đón tiếp nhau trong cuộc sống hằng ngày.
A. Cha hỏi chúng con: Chúng con có muốn theo Chúa hay không?
- Dạ thưa có.
Rất đúng! Ai trong chúng ta mà lại chẳng muốn theo Chúa.
Không ai ai mà lại không muốn theo Chúa hết. Thế nhưng muốn theo Chúa, chúng ta phải làm gì? Đây chúng con hãy nghe chính Chúa nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”.
Cha thú thật với chúng con khi đọc lại những lời này của Chúa, nhiều lúc cha cũng cảm thấy rất sợ. Để được theo Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta nhiều quá: Chúa đòi phải hy sinh và từ bỏ quá nhiều.
Cha tự hỏi tại sao Chúa đòi hỏi như vậy? Chúa không thấy khi đòi hỏi khó khăn như thế thì sẽ chẳng có ai dám theo Chúa hay không!
Nghĩ thì nghĩ như vậy nhưng khi nhìn lại thực tế thì cha lại thấy khác. Thực tế thì lại có rất nhiều người muốn theo Chúa. Có rất nhiều người. Ho theo Chúa rất can đảm. Họ rất vui mừng theo Chúa. Dường như họ không biết sợ là gì. Họ còn cảm thấy rất vui khi được từ bỏ và hy sinh vì Chúa.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra:
Thánh Giáo phụ Basilio bị điệu ra tòa án Roma trước mặt Hoàng đế:
- Người bỏ đạo, ta sẽ ban cho chức cao lộc hậu.
- Lời dạy bảo của bệ hạ chỉ dạy dỗ được trẻ con. Kinh Thánh tôi dạy khác hẳn, nên thà chết hơn lìa bỏ đấng Kitô.
- Ngươi không biết trẫm là ai sao?
- Tôi không tuân lệnh bệ hạ đâu.
- Ngươi không biết ta có quyền ban chức tước cho ngươi sao?
- Chức tước bổng lộc có thể thay đổi như chính bệ hạ.
Thấy không thể lay chuyển lòng thánh nhân vua đe tịch thu tài sản, tra tấn tù tội và giết.
- Tâu bệ hạ tôi chẳng có gia tài cho bệ hạ tịch biên. Lưu đày chăng? Tôi có quê thiên đàng. Tra tấn ư? Tôi sẵn sàng chịu vì Chúa. Giết tôi ư? Càng sớm về trời.
- Ngươi thật điên cuồng!
Tôi mong được điên mãi như thế này.
Hoàng Đế và triều thần phải thua cuộc trước đức tin của Basilio.
B. Việc đón tiếp nhau trong cuộc sống hằng ngày.
Đây chúng con hãy nghe chính Chúa nói: “ Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”(Mt 10,40-42)
Đón tiếp - Tiếp đón là việc Chúa rất yêu thích. Hơn nữa Chúa còn hứa ban phần thưởng cho những ai làm việc này.
a. Thánh Kinh có ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp lòng Chúa và rất dễ thương.
* Thí dụ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18);
* Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I);
* Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
b. Hơn nữa Chúa còn coi việc đón tiếp anh em, đón tiếp các sứ giả của Chúa, đó tiếp các ngôn sứ, đó tiếp người công chính...như là đón tiếp chính Chúa. Việc đón tiếp đó có phí tốn dù chỉ là một bát nước lã thì Chúa cũng không quên.
Chúa hứa với một người đàn bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bài rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Rồi bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh được, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Rồi bà ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Trong giấc mơ bà thấy Chúa đến và nói với bà: “Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta đi”.
Sau khi được Thiên Chúa kêu gọi, Apraham đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa và đến cắm lều trên vùng đất Chúa hứa ban cho dòng dõi ông.
Một hôm, ông đang đứng trước cửa lều thì một người ăn xin rách rưới đến xin ông bố thí. Động lòng trắc ẩn, tổ phụ Apraham mời người vào và làm tiệc thiết đãi.
Trước khi ngồi bàn tiệc, ông mời người ấy cùng dâng lời chúc tụng và cảm tạ Chúa. Nhưng vừa nghe nói đến Chúa, anh ta liền mở miệng nói những lời lộng ngôn xúc phạm đến Ngài.
Apraham nổi giận, túm cổ người ăn xin và tống ra khỏi lều.
Đêm ấy, khi Apraham quỳ gối cầu nguyện, ông nghe tiếng Chúa phán:
- Này Apraham, ngươi có biết không, người anh xin ấy đã nhục mạ Ta suốt 50 năm rồi đó. Vậy mà mỗi ngày Ta vẫn ban lương thực cho hắn. Còn ngươi. ngươi không thể yêu thương và cho hắn một bữa ăn sao?
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đến mặc khải cho chúng ta là một người Cha yêu thương tất cả mọi con cái mình.
Không những Ngài chỉ yêu thương những đứa con hiếu thảo, mà còn yêu cả những đứa con bất hiếu, ngỗ nghịch, bởi chúng có một chỗ đặc biệt trong trái tim Ngài. Ngài là Đấng cho mặt trời mọc lên, cho mưa rơi xuống trên người lành cũng như kẻ dữ. Vì tất cả đều là con cái của Ngài.
Khi mặc khải cho chúng ta về Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cũng hãy nên hoàn thiện như Thiên Chúa, Cha chúng ta, nghĩa là yêu thương tất cả, không loại trừ ai.
Bài Tin Mừng hôm nay có thể chia này thành 2 phần tương đối rõ rệt: * Phần đầu (các câu 37-39) TN 13-A67
Bài Tin Mừng hôm nay có thể chia này thành 2 phần tương đối rõ rệt:
* Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ.
* Phần sau (các câu 40- 42) dạy về sự tiếp đón.
A. Về sự từ bỏ
1. Có nhiều loại từ bỏ
- Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
- Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào?
- Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
2. Xét như thế thì Chúa muốn chúng ta từ bỏ để được nên tốt hơn.
Người ta kể lại rằng: khi nhà danh họa Léonard de Vinci đem bức tranh nổi tiếng của mình là bức tranh vẽ Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly ra trưng bày cho mọi người thưởng lãm. Đây là một bức tranh rất đẹp. Chúa Giêsu ở giữa và chung quanh là các môn đệ của Người. Lúc triển lãm bức tranh, tác giả cố ý núp ở một chỗ trong một phòng kín có ý để quan sát. Ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy điểm thu hút sự chú ý của mọi người không phải là khuôn mặt của chúa Giêsu mà là cánh hoa ông vẽ bên góc bức họa. Ngay lập tức ông đã nhận ra sự sai lầm của mình đó là đã thêm một cánh hoa vào bức tranh làm cho người xem bị phân tâm không còn chú ý tới trọng tâm của bức tranh là Chúa Giêsu nữa. Ông liền lấy cọ bôi bỏ cánh hoa đó. Và sau đó thì mọi người xem đều dán chặt mắt vào khuôn mặt Chúa Giêsu.
Việc bỏ cánh hoa là việc rất nên. Chính vì thế mà Léonard de Vinci đã đạt được uớc nguyện của mình.
Đàng khác vấn đề mất và được ở trên thế gian này có gì là tuyệt đối đâu.
Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm chia buòn vì sự rủi ro đó. Ông đáp:
- Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may.
Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ thêm được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn nên đến chúc mừng. Ông nói:
- Chưa hẳn được ngựa là may đâu.
Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cỡi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được.
Sống theo chúa Giêsu là đặt Ngài làm trọng tâm của cuộc sống, nhìn thấy Ngài trong mọi sự. Đó là bí quyết của các thánh. Chúa Giêsu không chỉ là bậc Thầy, vạch ra một con đường cho người khác đi theo. Ngài còn tự xưng mình là con đường duy nhất, Ngài đòi hỏi con người phải đi theo Ngài một cách tuyệt đối, nghĩa là vì Ngài sẵn sàng từ bỏ tất cả và từ bỏ tức khắc: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy... không xứng với Thầy... Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất... (x. Mt 10,37.39). Đi theo chúa, bỏ tất cả, hiến mạng sống làm gia nghiệp đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã kể ra trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta.
Đi theo chúa Giêsu cũng có nghĩa là sống thế nào để mọi người nhìn vào đều thấy được gương mặt của Ngài. Một cuộc sống như thế đòi nhiều hy sinh từ bỏ, cũng như nhà họa sĩ sẵn sàng bôi bỏ một cánh hoa để thu hút sự chú ý của khán giả vào gương mặt của Chúa Giêsu. Cũng thế, người môn đệ của Chúa luôn sẵn sàng tháo gỡ và dứt bỏ mọi thứ vướng bận để chỉ sống cho Chúa và làm cho mọi người nhận ra gương mặt của Chúa qua cuộc sống của chính mình” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày” - tập II).
B. Vần Đề Thứ hai về sự tiếp đón
1. Thánh Kinh đã ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương.
a. Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18);
b. Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I);
c. Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
2. Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì?
Là sự sống: Một đứa con cho cặp vợ chồng già, hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:
- Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khách và đáp ứng theo khả năng của mình.
- Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bài rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Rồi bà ngủ lúc nào không biết. Trong giấc mơ bà thấy Chúa đến với Ngài nói: “Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta”.
Thánh Phaolô nói: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi TN 13-A68
Thánh Phaolô nói: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi”. Thật vậy, Lời Chúa không hơn không kém là một Tin Mừng. Tin Mừng không có nghĩa là ru ngủ, nhưng là lời thôi thúc. Chúa Giêsu đến trần gian không phải là để tạo nên những con người yếu ớt, nhưng là những người con Thiên Chúa.
Sự không nhân nhượng của Tin Mừng không có nghĩa là Thiên Chúa Toàn Năng bắt buộc mọi người tốt xấu phải bằng lòng với tất cả sự đòi hỏi của Ngài, nhưng là một Tình Yêu dẫn tới một tình yêu triển nở hơn. Thánh Bênadô nói “Thiên Chúa đòi hỏi được yêu, vì Ngài biết rằng tất cả những ai yêu Ngài sẽ hạnh phúc bằng chính tình yêu đó”. Chúa Giêsu muốn Ngài được ưu tiên hoàn toàn và tuyệt đối, cũng là để mở cho chúng ta một con đường hạnh phúc đích thực
Người Dothái đạo đức rất dễ hiểu sự đòi hỏi căn bản này, vì ngày nào họ cũng đọc kinh nguyện: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng. Anh em em phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như lúc thức dậy”.
Lẽ đương nhiên, Chúa Giêsu cũng là người Dothái đạo đức và Ngài còn nhắc chúng ta phải giành quyền ưu tiên đó cho một mình Thiên Chúa. Phải chăng Ngài cũng là một Thiên Chúa ghen tương?
Phải chăng người đàn ông đã có vợ lại đi bỏ vợ mình, hoặc người cha phải bỏ con mình, hay là người con gái phải ghét cha mẹ để theo Chúa Kitô?
Yêu Chúa Kitô không có nghĩa là phải ngất xỉu chỉ vì lời mời gọi của Ngài. Một người con gái trẻ có thể xúc động trước bạn trai của mình hơn là khi tham dự Bí tích Thánh Thể và rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta có thể nói được rằng người con gái đó yêu bạn trai mình hơn Chúa Kitô không? Yêu Chúa Kitô, trước hết không phải là một việc làm cảm tình, nhưng là thực thi thánh ý Ngài. Ưu tiên cho Ngài, chính là làm điều Ngài muốn trước hết, và ý Ngài muốn cũng là chúng ta phải yêu người mình yêu, yêu mến cha mẹ, con cái… Thánh nữ Teresa Lisieux nói: “Lạy Chúa, Chúa biết đó, con đã không bao giờ ước ao mến Chúa mà lại không khát khao hạnh phúc nào khác”.
“Ưu tiên cho Chúa Kitô” sẽ làm triển nở và biến đổi đời sống nhân bản của chúng ta hơn. Càng ưu tiên cho Chúa Kitô tất cả, chúng ta càng tràn đầy hơn. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Bạn muốn cứu lấy mạng sống của bạn ư? Đúng, bạn rất có lý! Nhưng để làm điều này, bạn phải cho đi mạng sống bạn trước đã ”.
Khi giành ưu tiên tất cả cho Chúa Kitô, Chúa Kitô sẽ không tạo nên trong chúng ta những thần tượng. Vấn đề ở đây, không phải là để chúng ta ghét những người chung quanh, nhưng là để chúng ta đừng coi họ như những thần tượng, và đừng tỏ tình yêu mến họ một cách tuyệt đối. Nhiều bạn trẻ hôm nay yêu nhau đến nỗi lý tưởng hoá người mình yêu, coi người mình yêu như là lẽ sống duy nhất cho mình: “Anh là tất cả của em, anh chỉ sống cho em mà thôi”. Với não trạng như vậy, liệu khi người mình yêu chết đi, lúc đó họ sẽ trở nên cái gì cho nhau, có phải là tất cả cho nhau nữa không?
Nhiều cha mẹ quá nuông chiều yêu thương con cái, coi con cái như là thần tượng, giành cho con cái tất cả và không dám quở phạt hoặc trách móc con cái. Con cái tưởng mình như là ông vua bà chúa và cuối cùng trở thành đứa con hư đốn, để lại sự đau khổ triền miên cho cha mẹ.
Không giành ưu tiên cho Chúa Kitô, chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng thần tượng hoá chính mình và thần hoá một con người nào đó. Khi thất vọng về chính mình và về người mà mình thần tượng hoá đó, cuối cùng một thảm hại ê chề sẽ ập đến.
Khi đặt Chúa Kitô là trên hết trong đời sống chúng ta, tất cả những tình cảm khác đương nhiên sẽ tìm được chỗ của nó. Tình yêu trên hết mà chúng ta giành cho Chúa Kitô cho phép chúng ta không rơi vào chủ nghĩa thần tượng hoá bất cứ một ai hoặc lạnh lùng thờ ơ đối với tha nhân.
Càng đặt Chúa Kitô là trên hết trong đời sống, chúng ta càng trở nên Chúa Kitô hơn cho người khác. Như Chúa Kitô là hình ảnh của Chúa Cha, thì người tín hữu chúng ta cũng phải trở nên những kitô khác.
Tin Mừng có thể làm chúng ta chưng hửng vì những lời đòi hỏi của Chúa quá gắt gao, nhất là những lời nghịch lý mà chúng ta thường gặp: Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất. Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó. Phúc cho những ai khóc lóc.
Thực ra những lời nói này của Chúa Kitô cho chúng ta ý nghĩa đích thực của Tin Mừng. Chúng ta không có thể nhốt con người vào trong những định nghĩa quá đơn giản được. Con người là vô tận vì giống hình ảnh của Thiên Chúa. Con người vô tận này chỉ có thể tới gần nhau bằng những con đường đối kháng và nghịch lý. Tin Mừng tỏ ra cho chúng ta một vị Thiên Chúa hiện hữu vừa quyền năng, lại vừa dễ bị thương tổn, vừa đòi hỏi chúng ta nhưng cũng vừa yêu say đắm chúng ta, vừa sáng láng nhưng cũng lại vừa huyền nhiệm. Ngài nói với con người về con đường thập giá để dẫn con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
Trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dạy “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng TN 13-A69
Trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dạy “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37); “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy” (Mt 10,40)...
Nếu nhìn Thầy Giêsu như bao vị thầy, giáo sư hay tôn sư khác thì lời dạy của Ngài quả là khó nghe, quá đáng. Một lương dân mà nghe như vậy thì lắc đầu ngao ngán bỏ đi vì không thể chấp nhận một người đòi mình yêu người đó hơn cả cha mẹ. Một cách tương tự, một người vẫn khăng khăng không cho con cái theo đạo vì sợ con cái bỏ ông bỏ bà.
Nhưng nếu nhìn thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người thì Lời Chúa hôm nay vang vọng lại lệnh truyền của Chúa cho dân Israel và được Chúa Giêsu nhắc lại. Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12,29-31).
“Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”, dĩ nhiên có nghĩa là yêu hơn cả cha mẹ. Vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa thì Ngài đương nhiên đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài hết lòng hết sức, yêu mến hơn cả cha mẹ.
Tuy nhiên, cái hay cái tuyệt vời, trong giáo huấn của bài Tin Mừng hôm nay đó là một Thiên Chúa làm người, có thân xác linh hồn như chúng ta, lại muốn đồng hóa với những môn đệ Ngài, và cũng muốn đồng hóa mình với những người bé mọn. Đón tiếp các môn đệ của Ngài cũng là đón tiếp chính Ngài; đón tiếp những kẻ bé mọn cũng là đón tiếp Ngài. Và khi đón tiếp Ngài như vậy cũng có nghĩa là đón tiếp chính Đấng đã sai Ngài, tức là đón tiếp Thiên Chúa Cha. Cái hay, cái tuyệt vời ở chỗ Yêu Chúa lại được thực hiện qua yêu tha nhân.
Trong thực tế, thực hiện được giáo huấn này của Chúa Giêsu, tuy vậy, cũng không dễ. Có thể dễ khi ta đón tiếp một Giám mục, một linh mục, một tu sĩ, nhưng không dễ gì đón tiếp những kẻ bé mọn, không dễ gì đón tiếp những kẻ khác màu da sắc tộc, không dễ gì đón tiếp kẻ bất đồng ý kiến, kẻ tội lỗi...
Một ngày Chúa Nhật ở Pari bên Pháp, một cộng đoàn các sơ thường xuyên có một linh mục già đến dâng lễ vào lúc 4 giờ chiều. Vào ngày đó vị linh mục vì đau yếu nên không thể đến dâng lễ được, vì thế ngài nhờ một linh mục người Nigeria da đen, là một người bạn tình cờ đến thăm ngài, đến cộng đoàn dâng lễ thay ngài. Lúc 4 giờ kém 5 vị linh mục người Nigeria đến cổng tu viện và bấm chuông.
Theo thói quen ở Pari vào thời ấy, ngài mặc thường phục chứ không mặc áo giáo sĩ. Chị nữ tu giữ cổng nhanh nhẹn mở cổng vì nghĩ rằng cha đến làm lễ. Nhưng khi thấy một người Phi Châu, da đen, sơ không kịp để cho người này nói được câu nào, mà sơ vội nói như xua đuổi ngay: “Xin lỗi tôi không có gì để giúp ông. Chúng tôi sắp dâng lễ ngay bây giờ. Khi khác ông hãy tới.” “Cám ơn sơ”, vị linh mục Nigeria nói và quay lưng đi.
Vài phút sau đó chuông điện thoại reng ở nhà vị linh mục già. Đó là điện thoại các sơ gọi. Các sơ nói rằng họ đang đợi cha đến để làm lễ nhưng chưa thấy tới, xin cho biết lúc nào cha đến. Và họ được vị linh mục già trả lời rằng: “Ngài đã đến, nhưng các sơ đã nói với ngài rằng hãy đi và ngày khác hãy đến”.
Giống như vị nữ tu, tuy vẫn ý thức rằng cần phải sống yêu thương, cần phải đón nhận tha nhân, không được kỳ thị… nhưng chúng ta cứ vẫn chưa làm được.
Chúng ta vẫn chưa làm được vì sao?
Đó là bởi vì con người chúng ta vẫn thường thấy mình là đúng là tốt và thấy người khác là sai, là dở, là vô lý, là vô đạo đức... Và vì thế mới cảm thấy bực mình, mới giận, mới phê bình chỉ trích. Ngoài ra, chúng ta còn thấy người khác làm ta bị hại, bị mất mát…
Ví dụ một người mẹ chồng chỉ thấy nàng dâu lười biếng chỉ lo son phấn; một người vợ chỉ thấy chồng là người vô trách nhiệm; một người chỉ thấy chị hàng xóm tham lam hà tiện… Nếu chỉ thấy như vậy, thì làm sao tâm hồn mình thư thái bình an được, mà ngược lại thấy mình đang chịu đựng một gánh nặng, chịu một bức xúc cho đến một ngày nó bùng ra, rồi cải vả, rồi phê bình chỉ trích, cải vả, oán ghét lẫn nhau.
Chúng ta cần nhớ lại Lời Chúa dạy: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”, “và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi . . ., thì người đó không mất phần thưởng đâu.”
Đúng hơn, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một cái nhìn đổi mới về tha nhân. Với cái nhìn này, thì người khác, không chỉ là một người cho tôi những điều lợi này hay mang đến cho tôi điều hại kia; người khác không chỉ là dễ yêu hay dễ ghét theo xét đoán bình thường nữa; người khác không chỉ là đúng đắn hay vô lý nữa; là đạo đức hay tội lỗi nữa…, mà người khác chính là Đức Giêsu đang hiện diện. Khi đón tiếp tha nhân thì cũng là đón tiếp chính Chúa. Và do đó cái nhìn về tha nhân là cái nhìn kính trọng và yêu mến. Họ như là một hồng ân Chúa ban cho ta. Ta yêu mến họ cũng có nghĩa là ta yêu mến Thiên Chúa.
Hạnh phúc cho những ai khi sống tri ân và cảm tạ. Đây là sứ điệp của các bài đọc Lời Chúa. Bởi TN 13-A70
Hạnh phúc cho những ai khi sống tri ân và cảm tạ. Đây là sứ điệp của các bài đọc Lời Chúa. Bởi vì suy cho cùng, dù bất cứ ai, giàu-nghèo, địa vị cao sang-thấp hèn; tất cả những gì mà họ có và lãnh nhận được đều là ơn ban; do đó thật là hợp lý khi chúng ta sống đáp trả với tâm tình tri ân cảm tạ, biết quảng đại và chia sẻ những ơn ban này.
Bài đọc 1 từ sách các Vua cho thấy một người phụ nữ giàu có đã sống quảng đại với người của Thiên Chúa-Tiên tri Êlisê. Khi tiếp đón một người khách lạ, bà đã đi bàn bạc với chồng mình, để có những điều kiện đặc biệt nhất cho khách, sau đó bà đã không ngần ngại để dành cho Êlisê những điều kiện tốt nhất như phòng, giường, bàn, ghế…, điều mà đáng ra bà phải dùng cho chính mình hay cho thuê để lấy lợi tức. Điều tốt lành ở đây là bà đã ý thức và nhận ra rằng, vị khách này không làm việc cho lợi ích của bản thân, mà ông làm vì thánh ý Chúa, làm cho lợi ích của anh chị em. Đây là hành động của lòng biết ơn và tri ân đối với người của Thiên Chúa. Chính khi đón nhận được sự quảng đại của người phụ nữ này, Tiên tri cũng đã cầu xin ơn Chúa và đã hứa ban ơn Thánh cho bà, một người son sẻ chưa có con.
Bài đọc 2, Thánh Phaolo mời gọi chúng ta, hãy nhìn lại những hồng ân mà chúng ta đã lãnh nhận được để sống cảm tạ Chúa và sống trọn vẹn với ơn gọi của mình. Hồng ân mà chúng ta đã lãnh nhận là gì? Đó là Bí tích Thánh Tẩy-Bí tích sự sống. Đây là hồng ân được làm con cái của Thiên Chúa, hồng ân này là cửa ngõ-con đường mở ra để dẫn tới tất cả các ơn lành khác mà Chúa sẽ ban cho. Qua Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được chia sẻ với Đức Kitô Giêsu sự sống, cái chết và Phục sinh của Ngài. Đức Kitô đã đón nhận tình yêu thương từ Chúa Cha, do đó, nên Ngài đã vâng phục hoàn toàn với Thánh ý Chúa Cha trong cuộc khổ nạn; đây là hành động tự hiến, hành động yêu thương. Cực hình và tử nạn không phải là hình phạt, nhưng là tâm tình cảm tạ tri ân, đáp đền với hành động của yêu thương. Đồng thời Chúa muốn trao ban những gì tốt nhất cho con người. Điều tốt nhất đó chính là ơn cứu độ, sự sống đích thực, tình yêu thương, sự tha thứ …và trên hết là ban ơn Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Thật vậy, nhắc nhớ về hồng ân của Bí tích cao trọng này, để giúp chúng ta sống tri ân và cảm tạ.
Tin mừng hôm nay chính Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại về ơn gọi của chúng ta là gì? Chúng ta đang làm gì, làm cho ai và vì ai? Vì thông thường, ai trong chúng ta cũng sẽ làm mọi chuyện vì lo cho ích lợi của bản thân, của gia đình và những người thân yêu. Thế nhưng, Tin mừng hôm nay chính Chúa Giêsu mời gọi: những ai yêu cha mẹ, con cái và ngay cả yêu chính mạng sống của mình hơn Chúa thì không xứng đáng với Ngài. Như vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta trong tất cả mọi sự và trên hết; kính mến Chúa phải là vị trí ưu tiên số một và là hàng đầu. Tại sao lại như vậy, ai có thể làm được điều mà Chúa Giêsu muốn chăng? Xem ra điều Chúa mời gọi và dạy quá nghịch lý? Nhưng suy xét cho thấu đáo, chúng ta sẽ thấy đây là lời dạy đầy khôn ngoan và tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng ta. Vì căn tính của tình yêu dành cho Chúa là ở chỗ này. Ai đón tiếp và làm cho một trong những kẻ bé mọn này vì danh Chúa, tức là chúng ta đã làm cho Chúa và dành tình yêu cho Chúa. Thật là đúng khi chúng ta làm mọi việc vì lòng mến Chúa thì chính Chúa sẽ ban ơn giúp sức; chính những lúc đó không phải chúng ta làm với sức của mình, nhưng Chúa ban ơn nâng đỡ và hành động qua chúng ta. Thánh Terexa HĐ. Giêsu là mẫu gương rất tuyệt vời cho chúng ta trong cách sống này. Vì trong bất cứ mọi công việc, hành động, hay suy nghĩ, Terexa luôn bắt đầu: “Lạy Chúa, con làm việc này vì yêu mến Chúa, và vì muốn cứu rỗi các linh hồn”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch của tình yêu, xin ban cho chúng con sức mạnh của tình yêu Chúa, để trong mọi sự chúng con luôn biết chọn Chúa, sống tín thác cho Chúa qua tha nhân với tâm tình cảm mến-tri ân. Nhờ đó mà chúng con trở nên những người được Chúa chúc phúc. Amen.
Một số nơi đã trở lại với các sinh hoạt như Thánh lễ chung, các trường học Công giáo được mở TN 13-A71
Một số nơi đã trở lại với các sinh hoạt như Thánh lễ chung, các trường học Công giáo được mở cửa trở lại bắt đầu năm học tiếp theo hoặc năm học mới. Tuy nhiên, mọi thứ không thể như trước kia! Và khi bài suy niệm này đến với anh chị em, có thể tình hình dịch bệnh được kiểm soát!
Nhưng dù gì chăng nữa, việc sống đạo, tuân giữ giới răn yêu thương, làm việc bác ái vẫn tiếp diễn như chính hơi thở của chúng ta. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta một lần nữa “kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, người ấy không mất phần thưởng đâu” (Mt 10, 42). Vậy đối với bản tôi, ai là ‘người bé mọn’ và hành động cho ‘một bát nước lã’ với danh nghĩa là môn đệ có nghĩa gì?
Trong một lớp giáo lý nọ, một em chạc tuổi lớp 3 liền giơ tay phản ứng, muốn trình bày cho chị giáo lý viên đứng lớp vừa cắt nghĩa xong đoạn Tin mừng trên, em đơn sơ hỏi: dạ thưa cô, nhà em không có nước lã, thế thay vì cho người khác một bát nước lã, em cho họ uống coca-cola được không ạ? Chị giáo lý viên nhoẽn miệng cười và nói: nếu được vậy thì tốt quá!!!
Thiết nghĩ, đôi lúc chúng ta cũng có suy nghĩ như em nhỏ trong câu chuyện này mỗi lúc làm việc tốt lành, thánh thiện; tuy vậy chúng ta nên tìm ra ý Chúa muốn nói với mỗi chúng ta trong đoạn Tin Mừng hôm nay một cách thấu đáo có thể nhất.
Trước hết, ‘người bé mọn’ chẳng phải chỉ ám chỉ đến những người có thân hình, dáng vóc bé nhỏ như các trẻ em, những ai suy dinh dưỡng, thiếu ăn thiếu mặc; mà ‘người bé mọn’ này có thể là chúng ta đang cần sự chia sẻ, đang cần tình thương, lòng quan tâm, ‘người bé mọn’ này cũng có thể là những người trong gia đình của chúng ta, không hẳn chỉ nhắm tới ai đó ngoài kia đang cần sự giúp đỡ của chúng ta mà thôi. Hơn nữa, ‘người bé mọn’ này là những người thấp cổ bé miệng, chẳng có địa vị, bị xã hội vứt bỏ, bị bỏ mặc trong gia đình, bị bạn bè cô lập…tất cả những ai đang gặp khó khăn, trắc trở, cần đến bàn tay đỡ nâng, đón nhận của chúng ta, cần đến ánh mắt yêu thương đầy lòng cảm mến, cần đến cử chỉ bỏ mình chia san của chúng ta. Và mỗi khi chúng ta làm gì tốt lành cho ‘người bé mọn’ này cũng chính làm cho chính Chúa, như Chúa đã từng nói trong dụ ngôn ngày cánh chung “kẻ nào làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 40) và ngược lại, “kẻ nào không làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, cũng đã không làm cho chính Ta” (x. Mt 25, 45). Tương tự điều mà người phụ nữ giàu sang vùng Su-nêm đã nhận ra và đón tiếp nồng hậu tiên tri Ê-li-sha khi ông ghé đến trọ, “bà ấy nói với chồng: này ông! tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một vị thánh nhân của Thiên Chúa…” (x. 2V 4, 9). Thật sự, bà đã nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi tiên tri Ê-li-sha, và tất cả mọi việc bà cất công chuẩn bị, bà chia sẻ với tiên tri (người của Thiên Chúa) cũng chính là làm cho Thiên Chúa, “ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).
Và đây là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ đến động lực mỗi khi làm việc bác ái (hay nói theo ngôn từ xã hội: làm việc từ thiện) đó là: tôi đang làm vì lòng mến hay chỉ muốn phô trương? tôi đang làm với danh nghĩa môn đệ của Chúa, hay chỉ muốn phô diễn, giới thiệu danh tánh của nhóm-công ty-tập đoàn của tôi? tôi đang làm đơn giản vì sống giới răn yêu thương, hay muốn cho người khác biết tôi thánh thiện nhường bao và mọi người nên học đòi nơi tôi? Những tư tưởng này ít nhiều diễn ra trong chúng ta. Lắm lúc nó lẫn lộn, khiến chúng ta rối bời không biết đâu là động lực đúng đắn, đâu là điều Chúa muốn mỗi lúc chúng ta sống bác ái.
Thật sự, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải cho đi những gì sang trọng, quý giá cho bằng việc chia san mọi sự nhỏ nhoi và thông thường, nhưng với cả tấm lòng của một người môn đệ đúng nghĩa! Mẹ Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta đã từng cảm nghiệm sâu sắc qua lời này: ‘chúng ta không thể làm nên những việc vĩ đại trong đời, nhưng chúng ta có thể thực hiện những điều nhỏ nhoi với lòng mến lớn lao’ ("In this life we cannot do great things. We can only do small things with great love.”). Nếu chúng ta đối chiếu giữa ‘bát nước lã’ (nội dung chia sẻ/chia san) với hành vi ‘làm với danh nghĩa là môn đệ’ (động lực chia sẻ/chia san), thì chúng ta có thể nhận ra: Chúa không quá chú trọng đến nội dung chia san, cho bằng động lực sẻ chia! Giả như Chúa đòi hỏi chúng ta phải cho ‘người bé mọn’ một lon coca-cola, một chai nước khoáng, một bình nước trái cây…hay thứ gì đắt giá, thì chúng ta có thể kêu trời than đất vì không có khả năng; nhưng đây Chúa chỉ mong mỗi chúng ta cho đi một bát nước lã (một thứ có thể quá bình thường, ai trong chúng ta cũng có thể có hằng ngày, dẫu không có nhiều thì ít!) nhưng với tâm tình của một người môn đệ đích thật của Ngài, cụ thể: là người yêu mến Chúa trên hết mọi sự, hơn cả tình cảm ruột rà, máu mủ, và trung thành vác thập giá mình mà bước theo Chúa mỗi giây phút trong đời (x. Mt 10, 37-38).
Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít thời giờ ngắn ngủi này trở về với lòng mình, nhìn sâu vào con người chúng ta hầu xét mình: mỗi lúc tôi làm bác ái với tâm thế như thế nào? làm với tâm tình như Chúa đã mong muốn tôi làm hay chưa? v.v…
Lạy Chúa, tuy Chúa chẳng cần Lời con ca tụng ân cần ngày đêm! Nhưng được tụng ca êm đềm Con được gần Chúa, ấm êm cõi lòng. Chân thành con thơ ước mong Sống đời bác ái chẳng trông đáp đền Dẫu rằng cuộc sống lênh đênh Ngài luôn tha thiết cạnh bên con hiền. Amen! Lm. Xuân Hy Vọng
Các bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật XIII Thường niên hôm nay nêu bật những lợi ích của đức TN 13-A72
Các bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật XIII Thường niên hôm nay nêu bật những lợi ích của đức tin vào Thiên Chúa. Các bài đọc cũng cho thấy những rủi ro cũng như những đòi hỏi đi kèm với người môn đệ.
Trong bài đọc thứ nhất, một “người phụ nữ giàu có” tỏ lòng hiếu khách với ngôn sứ Êlisa. Nhận ra ông là người của Thiên Chúa, bà mời ông dùng bữa và ngay cả chuẩn bị cho ông một căn phòng có sẵn đồ dùng khi ông có dịp ghé thăm. Nơi những câu mà bài đọc không trích đọc (các câu 12-13), Êlisa cảm kích trước sự quảng đại của bà, đã gợi ý can thiệp để bà có sự giúp đỡ về chính trị và quân sự, nhưng bà từ chối và cho rằng bà đang sống ở giữa dân, những người thân thuộc với bà. Giêkhadi, tôi tớ của Êlisa, cho biết người phụ nữ này có chồng đã già và không có con trai, khiến có thể nghĩ rằng bà không thể mang thai. Êlisa báo trước rằng bà sẽ được bế con trai, và sau bài đọc hôm nay trình thuật tiếp tục với việc bà hạ sinh đứa trẻ kỳ diệu này. Đứa trẻ lớn lên nhưng rồi lại đột ngột qua đời. Người phụ nữ đến nhờ vị ngôn sứ giúp đỡ, và cuối cùng ông đã hồi sinh con trai bà.
Có nhiều bài học qua câu chuyện này. Đặc biệt, trình thuật dạy chúng ta về lòng hiếu khách, sự kiên trì và lòng biết ơn. Người phụ nữ thật tốt bụng với Êlisa mà không hề mong ông đáp đền gì. Đổi lại, Êlisa bày tỏ lòng biết ơn và giúp bà được thụ thai. Tuy nhiên, bà đã cảm nghiệm sự mất mát của đứa con và đã kiên trì cầu xin Êlisa hồi sinh con trai của bà. Bài Tin mừng hôm nay cũng vang vọng những chủ đề về lòng hiếu khách và quyền năng của ngôn sứ.
Cũng như trong Chúa nhật XII Thường niên, bài Tin mừng hôm nay trích từ diễn từ về sứ vụ (Mt 10,1-11,1) trong đó Chúa Giêsu tiên báo những gì mà các môn đệ sẽ trải qua khi họ rao giảng Tin mừng. Chúa Giêsu tuyên bố “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ.” (Mt 10,40-41). Sứ điệp này cho thấy trước một số người trên thực tế sẽ từ chối các Tông đồ và sứ điệp Tin mừng. Chúa Giêsu làm nổi bật giá trị của việc chấp nhận Tin mừng. Việc cởi mở đón tiếp các môn đệ Đức Giêsu sẽ giúp người ta đón nhận Đức Kitô, và qua Ngài để đón nhận Cha trên trời. Hơn nữa, Chúa Giêsu liên kết các hành động ngôn sứ, như những hành động kỳ diệu của Ngài gợi lại những gì mà Êlisa và Êlia đã làm, với việc đón nhận phần thưởng.
Ngoài những phúc lợi trên, Chúa Giêsu còn đưa ra những yêu cầu và những quyết định khó khăn mà các môn đệ của Ngài sẽ phải đối mặt. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai theo Ngài phải yêu Ngài hơn chính cha mẹ và con cái của họ. Tương tự như vậy, họ phải “vác lấy thập giá của mình”, bao hàm hành động hy sinh bản thân. Chúa Giêsu thậm chí còn ám chỉ đến việc tử đạo khi khẳng định rằng những ai chịu từ bỏ mạng sống mình vì niềm tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời, một ý tưởng cũng xuất hiện trong bài đọc thứ hai trích từ thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Phần thưởng của việc đón nhận Tin mừng thật tuyệt vời, nhưng những đòi hỏi cũng thật nặng nề. Chúa Giêsu muốn các môn đệ nhận ra đầy đủ những hàm ẩn nơi quyết định đức tin của họ. Niềm tin thì không thụ động hay dễ dàng. Đó là một sự dấn thân tích cực đối với Thiên Chúa và cộng đoàn. Dâng hiến chính bản thân mình cho Chúa sẽ đưa đến cuộc sống hy sinh vì người khác. Chúa Giêsu cho thấy trước những công việc của người môn đệ chân chính và mời gọi họ noi gương Ngài, trong khi nhận ra những lợi ích và những thách thức mà họ có thể gặp phải.
Lời Chúa: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 13 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy, nhờ Bí tích Thánh tẩy TN 13-A73
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 13 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy, nhờ Bí tích Thánh tẩy người Kitô hữu được tham dự vào sứ mệnh Tông đồ của Chúa Kitô. Vì thế, chúng ta phải biết trân quý tiếp đón các sứ giả của Chúa:
Bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi,
Ngôi Hai xuống thế cứu người trần gian.
Tông đồ được gọi thông ban,
Nguổn ơn cứu thế tuôn tràn khắp nơi.
Mến yêu kính trọng những người,
Được Ngài sai đến khắp nơi mọi thời.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta bước đi theo Chúa mỗi ngày trên con đương khổ giá. Đồng thời biết bắt chước bà Sunam khiêm tốn, sẵn sàng giúp đỡ tiếp đón các sứ giả của Chúa như những vị thánh. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con bước đi trên con đường khổ giá, là đường dẫn đến hạnh phúc Nước Trời. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa dạy chúng con ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy và là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đã hứa ai cho một trong những kẻ bé mọn dù chỉ một ly nước lã, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Trong xã hội, thành ngữ “Tôn sư trọng đạo” xuất phát từ quan điểm của Nho giáo đã trở thành truyền thống đạo lý mang đậm nét giá trị nhân văn của dân tộc Việt nam xưa và nay. ‘Tôn sư’ có nghĩa là sự đề cao vai trò và vị trí của người thầy. Thầy được coi là thần tượng thiêng liêng, là “khuôn vàng thước ngọc” của đạo đức, nhân cách để môn sinh noi theo thầy mà trở thành người có tài đức. ‘Trọng đạo’ nghĩa là đề cao việc học vấn, xem việc học vấn và kiến thức là quan trọng. Đạo có nghĩa là Đường, là Chân lý mà thầy truyền giảng. Vì thế, “Tôn sư trọng đạo” nói lên sự trân quý vai trò của thầy và sự hiếu kính của môn sinh trước chân lý thầy truyền dạy. Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ chúng ta phải biết trân quý và hiếu kính tiếp đón các sứ giả của Chúa để xứng đáng trở nên môn đệ Người: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Thưa anh chị em, Tông đồ có nghĩa là người được sai đi, là sứ giả của Chúa. Bài đọc 1 hôm nay trích sách Các Vua quyển thứ hai thuật lại rằng, Ngôn sứ Êlisê trên đường đi thi hành sứ vụ đã ghé thăm nhà một người đàn bà ở Sunam. Bà này đã tỏ ra sự hiếu kính và tiếp đón vị sứ giả của Chúa, vì bà coi Êlisê là vị thánh của Thiên Chúa. Bà nói với chồng bà rằng: “Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cây đèn để mỗi khi đến, ông ở đó”. Được sự đồng ý của chồng, bà đã dọn cho vị Ngôn sứ một căn phòng ở trên lầu với đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào Ngôn sứ Êlisê cũng có thể đến trú ngụ. Đáp lại lòng thành kính của họ, Ngôn sứ Êlisê đã cầu khẩn Thiên Chúa ban tặng cho bà một đứa con vì bà hiếm muộn và chồng bà đã già. Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Êlisê nói với bà: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai”. Bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy địa vị cao quý hơn của các Ngôn sứ: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Như thế, người Tông đồ của Chúa được kính trọng như Chúa Giêsu và còn hơn thế nữa, như Đấng đã sai Người, tức là Thiên Chúa. Để xứng đáng với địa vị cao cả này, người Tông đồ phải thuộc trọn về Chúa Kitô, phải nhìn nhận quyền tối thượng của Người trong mọi tương quan với tha nhân, kể cả cha mẹ, anh chị em, của cải và với bản thân. Chúa Giêsu còn đặt trọng tâm của sự liên kết này qua người nghèo và mời gọi người Tông đồ hãy làm cho mối liên hệ này được trở nên sống động hơn: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Như thế, Thiên Chúa không chịu thua trước lòng quảng đại của con người và Ngài sẽ trả ơn gấp bội phần.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Với Lời Chúa hôm nay chúng ta nhận ra rằng, người Tông đồ đã được đồng hoá với Chúa Giêsu. Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta rằng, chúng ta đã được tái sinh trong phép rửa tội, chúng ta phải chết đối với tội lỗi để sống cho Thiên Chúa. Đức tin mà chúng ta được đón nhận phải đưa chúng ta vào trong sự sống mới của Chúa Giêsu, mà sự sống mới của Chúa Giêsu chính là vâng lời Chúa Cha tuyệt đối và yêu con người đến cùng. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống cho Chúa, biết bắt chước bà Sunam khiêm tốn, sẵn sàng giúp đỡ tiếp đón các sứ giả của Chúa như những vị thánh. Sự đón tiếp này có tầm quan trọng và ngoài việc đón tiếp, còn cần đến sự vâng phục. Chính Chúa Giêsu đã “vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá”.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết trân quý và hiếu kính tiếp đón các sứ giả của Chúa để chúng ta xứng đáng trở nên môn đệ của Người. Xin cho chúng ta bước đi trên con đường khổ giá, là đường dẫn đến hạnh phúc Nước Trời. Amen.
Hôm nay Giáo Hội đề nghị cho chúng ta suy nghĩ một đoạn Tin Mừng khá phức tạp vì có nhiều TN 13-A74
Hôm nay Giáo Hội đề nghị cho chúng ta suy nghĩ một đoạn Tin Mừng khá phức tạp vì có nhiều vấn đề được thánh Matthêu gom lại với nhau, nhưng liên can đến đời sống của những người loan báo Tin Mừng.
Người loan báo Tin Mừng không thể thương cha mẹ, con cái hơn Chúa. Đó là một điều kiện xem ra hơi lạ lùng nhưng đó là một điều kiện cần thiết. Chúa không cấm chúng ta yêu thương cha mẹ anh em, Chúa đã ra luật là phải hiếu thảo với cha mẹ. Luật đó vẫn được áp dụng trong Giáo Hội và trong các xã hội ngoại giáo người ta vẫn đòi buộc con cái phải hiếu thảo đối với cha mẹ. Nhưng vấn đề là yêu thương cha mẹ hơn Chúa. Chúa phải là trên hết. Chúa Giêsu là người con lý tưởng của Mẹ Maria. Ngài đã vâng phục Mẹ Maria suốt ba mươi năm, nhưng khi cần phải làm những gì Chúa Cha dạy bảo, Ngài không ngần ngại để mẹ ở nhà và bước ra thi hành sứ vụ.
Giáo Hội dạy chúng ta cầu nguyện và hằng ngày chúng ta vẫn đọc: “Con kính mến Chúa hết lòng hết sức, trên hết mọi sự”. Điều răn nầy đã có trong Cựu Ước: “Nghe đây, hỡi Itraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em…” Chúng ta phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, hơn cả cha mẹ anh em, vì Chúa là người cha đầu tiên của chúng ta, chính Ngài tạo nên chúng ta trước chứ không phải cha mẹ. Vì thế yêu mến Chúa hơn cha mẹ là một điều tự nhiên chứ không lạ lùng gì. Vì thế, ai yêu cha mẹ con cái hơn Chúa là không xứng đáng với Chúa, nghĩa là không xứng đáng làm môn đệ Chúa. Chúa không cấm chúng ta yêu thương cha mẹ anh em, nhưng cha mẹ anh em không trọng hơn Chúa. Chúa có quyền đòi hỏi chúng ta tuyệt đối, vì Chúa là nguồn sống, là hạnh phúc của chúng ta. Ngoài Chúa, không gì có thể làm cho chúng ta hạnh phúc. Những người bám vào của cải đời nầy, thường thất vọng vì mọi sự qua đi, và cái chết đang rình chờ.
Chúa có quyền đòi hỏi tuyệt đối vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng. Không có Ngài thì cũng không có gì cả. Ngài là cùng đích của cuộc đời. Sống trên trần gian nầy để làm gì nếu không có Ngài?
Theo Chúa, đó là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến hạnh phúc mà trần gian nầy không thể có. Nhưng Chúa đòi hỏi một điều kiện hết sức gắt gao đó là vác thập giá theo Ngài, bỏ mạng vì Ngài. Chàng thanh niên giàu có mong ước theo Chúa, nhưng anh không thể bỏ đi gia tài trần gian của anh. Chúng ta có thể đáng giá anh chàng đó là không đủ can đảm, nhưng chúng ta dám không? Các tông đồ theo Chúa vẫn còn mơ ước ngồi chỗ nhất. Phêrô, đứng trước một đứa đầy tớ cũng không dám nhận mình là môn đệ Thầy. Chúng ta cần đặt lại vấn đề: “Chúng ta có yêu mến Chúa thật không? Nếu chúng ta yêu mến Chúa, thì sẽ phải làm gì?” Chúa không thể chấp nhận những người theo Chúa nửa vời, theo Chúa mà vẫn giữ mọi quyền lợi riêng tư, theo Chúa mà đòi hỏi những lợi lộc vật chất, theo Chúa mà không có cây thập giá trên vai.
Chúa Giêsu dám đi tới cùng, dám chết cho bạn hữu, thì chúng ta cũng phải dám liều mạng cho Ngài, không phải đưa đầu cho người ta chém, nhưng là dám dâng hiến đời mình để loan truyền tình yêu, sống cho tình yêu, dám liều mất mạng sống cho Ngài. Sống cho tình yêu cũng là đón tiếp anh em, những người gặp khó khăn trong cuộc sống, đón tiếp như đón tiếp Chúa.
Chúa Giêsu dám đi tới cùng, tới thập giá, tới cái chết đau thương tột cùng, và hôm nay vẫn tiếp tục sống cho mọi người, trở thành tấm bánh hằng sống cho mọi người. Tình yêu của Ngài là vô tận. Ngài tiếp tục cuộc sống trần gian của Ngài trong mỗi người chúng ta. Chúng ta còn đòi hỏi Ngài làm gì hơn cho chúng ta? Hãy nhìn vào Ngài và bước đi theo Ngài với thập giá trên vai. Đó là con đường dẫn đến sự sống vĩnh hằng và hạnh phúc. Mất tất cả để được tất cả, vì Chúa không bao giờ bỏ qua những gì chúng ta làm cho Ngài dù chỉ là một ly nước lả. Ăn lấy Ngài, chúng ta trở thành một thân thể với Ngài và với nhau. Yêu thương nhau trong Ngài để tình yêu của Ngài được lan rộng trong mọi tâm hồn và trong thế giới quanh ta.
Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ. Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít TN 13-A75
Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ. Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến. Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:
“Con thuyền đi qua để lại sóng. Đoàn tàu đi qua để lại tiếng. Đoàn người đi qua để lại bóng. Tôi không đi qua tôi để lại gì ?”
Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất. Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình. Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua. Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên mãn. Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết, muốn gửi gấm qua những vần thơ này ? Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận. Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái. Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao. Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6). Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý. Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa, như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10). Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn. Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý. Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ. Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống, vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý. Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài. Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó. Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa. Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài. Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc. 37-38). Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo, người ấy mới xứng đáng với Thầy. Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy, người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39). Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy, nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa? Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước. Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô, tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác. Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy: “Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.”
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ. Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống. Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất. Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con. Xin làm cho con thật đầy ắp, để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn có chỗ trong con. Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi. Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống. Amen.
Một số độc giả, nhất là những độc giả ngoài Kitô giáo, có thể cảm thấy “sốc” khi đọc Bài Tin TN 13-A76
Một số độc giả, nhất là những độc giả ngoài Kitô giáo, có thể cảm thấy “sốc” khi đọc Bài Tin Mừng hôm nay: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thày, thì không xứng đáng với Thày…”. Có lẽ nào Đức Giêsu lại dạy những điều ngược đời, trái với luân thường đạo lý. Để hiểu nội dung và sứ điệp của Lời Chúa, chúng ta phải xác định vị trí của đoạn Tin Mừng này trong ngữ cảnh những bài giảng của Đức Giêsu về truyền giáo. Người đưa ra những điều kiện, những yêu sách mà những ai muốn làm môn đệ của Người phải chấp thuận. Đối với những ai muốn đi theo Đức Giêsu, họ phải vượt qua mọi thứ rào cản. Những rào cản này có thể là quan niệm về một cuộc sống an phận, có thể đó là của cải tiền bạc, nhưng cũng có thể đó là những mối liên hệ rất thân thiết. Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả sự hy sinh đối với những ai muốn làm môn đệ của Người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể khám phá ra quy luật “Cho đi, tức là lãnh nhận” được thể hiện qua những cặp từ mang ý nghĩa rát sâu sắc như sau:
– Ai tìm thì sẽ mất; ai chịu mất thì sẽ tìm lại được: ngược hẳn với quan niệm thông thường. Ở đây Đức Giêsu muốn nói đến sự dấn thân của người môn đệ. Khi sẵn sàng cho đi thì sẽ tìm được chính bản thân mình. Sự ích kỷ (tức là chỉ tìm chính bản thân mình, đặt mình làm chuẩn mực cho người khác) thì sẽ làm cho con người lâm vào tình trạng vong thân, đánh mất chính mình.
– Ai đón tiếp thì chính mình sẽ được đón tiếp: khái niệm “đón tiếp “ ở đây được hiểu rộng hơn quan niệm thông thường. Đón tiếp là cộng tác, là sẻ chia, là thông cảm, là đón nhận. Đón tiếp một người nào còn là sự quảng đại đối với người đó. Đức Giêsu đã đồng hóa với những người bé mọn đến nỗi ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Người. Người còn hiện diện nơi những môn đệ, nơi những người được sai đi, để rồi mỗi khi chúng ta đón tiếp người môn đệ là đón tiếp Chúa. Hơn thế nữa, họ được vinh hạnh đón tiếp chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Con mình đến trần gian.
– Ai giúp người khác thì bản thân mình sẽ được giúp đỡ: sự giúp đỡ được nêu trong Tin Mừng chỉ đơn giản là một bát nước lã, là điều ai cũng có thể làm được. Ấy vậy mà món quà tưởng chừng như vô giá trị ấy lại có ý nghĩa trước mặt Chúa và xứng đáng nhận phần thưởng. “Của cho không quan trọng bằng cách cho”, một bát nước lã đã trở thành quà tặng có giá trị, vì nó được trao tặng với cả tâm hồn, với tình mến yêu và lòng chân thành. Người đàn bà tại thành Sunêm đã quảng đại đón tiếp Ngôn sứ Êlisê (Bài đọc I). Chính nhờ sự đón tiếp đó mà Bà và gia đình đã được thưởng công. Bà đã sinh con vào lúc tuổi già xế bóng. Việc sinh con đã đem lại cho bà niềm vui, vì đó là điều bà mong ước. Bà đã đón tiếp Ngôn sứ với cả tấm lòng và sự quảng đại.
Khi cho đi, mình được nhận lãnh, khi tha thứ, mình được thứ tha, khi mến yêu, mình được yêu mến. Đó là triết lý sống của Thánh Phanxicô Khó Khăn đã được thể hiện qua Kinh Hòa Bình quen thuộc. Triết lý ấy, rất đơn sơ mà sâu sắc, rất dễ dàng thực hiện mà đem lại hiệu quả thiết thực. Triết lý sống này đã thấm đượm tinh thần của Tin Mừng. Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta điều đó: Người đã cho đi, đã yêu mến, đã thứ tha để làm gương cho chúng ta.
Chúng ta được mời gọi để sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu. Chân lý này được gói gọn trong lời Chúa đã nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. “Vác thập giá”, đó chính là con đường chúng ta đang đi. Đó chính là những biến cố đang xảy đến trong cuộc sống hằng ngày. Đó cũng là niềm vui nỗi buồn hòa quyện trong cuộc sống để làm nên những lời tôn vinh Thiên Chúa, khi chúng ta đón nhận những biến cố ấy với tâm tình của Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu đã cùng thập giá để tôn vinh Chúa Cha. Thánh Phaolô đã gọi những hy sinh của người tín hữu là “chết đi cùng với Đức Kitô” (Bài đọc II). Đây là cốt lõi Đức tin của người công giáo: những ai cùng chết với Chúa Kitô sẽ được sống lại với Người. Mỗi ngày, chúng ta được mời gọi sống ơn gọi của Bí tích Thanh Tẩy, tức là chấp nhận để cho những nết xấu chết dần trong ta và để ơn sủng của Chúa lớn mãi trong tâm hồn.
Chúng ta đang tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong tháng Sáu này. Thánh Tâm Chúa đã mở ra để trở nên nguồn ân sủng cho nhân loại, cách riêng cho các tín hữu. Xin Thánh Tâm Chúa trở nên trường học về lòng hy sinh và tình yêu mến cho mỗi chúng ta.
Người đời cho rằng ai khéo “giữ mạng sống mình” thì sẽ được an ninh trường thọ; còn ai “liều TN 13-A77
Người đời cho rằng ai khéo “giữ mạng sống mình” thì sẽ được an ninh trường thọ; còn ai “liều mất mạng sống mình” thì sẽ phải hư vong. Thế mà Chúa Giê-su nói ngược lại: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.”
Tại sao Chúa dạy như thế?
Qua những lời trên đây, Chúa Giê-su đề cập đến hai lối sống: Một là sống vì mình, hai là sống vì Chúa.
1. Sống vì mình
Hậu quả của lối sống vì mình là hư vong, là mất mát… như lời Chúa nói: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất.”
Cuộc đời của hai nhân vật sau đây giúp ta hiểu rõ giáo huấn này của Chúa Giê-su hơn.
- Nhân vật thứ nhất
Chúa Giê-su nói: "Một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: "Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu! Rồi ông ta tự bảo: "Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Bấy giờ, ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”
Rồi Chúa Giê-su kết luận: “ Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó" (Lc 12, 16-21).
Như thế, kẻ nào sống vì mình, chỉ biết chăm lo cho mạng sống mình ở đời này mà không biết thu tích cho đời sau, thì đó là người dại dột, vì rốt cuộc sẽ mất hết, chẳng còn gì. Đúng như lời Chúa nói: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất.”
- Nhân vật thứ hai
Chúa Giê-su tiếp: "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no (nhưng chẳng ai cho). Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và rồi phải chịu cực hình trong âm phủ.”
Từ chốn đau thương khốn khổ này, người giàu khẩn thiết van xin tổ phụ Áp-ra-ham sai La-da-rô bố thí cho ông ta chỉ một giọt nước thôi… mà cũng không thể được.
Qua nhân vật này, Chúa Giê-su một lần nữa cho ta biết : Nếu chỉ biết sống vì mình, cứ chăm lo “giữ lấy mạng sống mình” mà không biết chia sẻ cho người túng thiếu, thì không những sẽ đánh mất tất cả những gì mình có, mà còn phải chịu đọa đày trong hỏa ngục mai sau (Lc 16, 19-26).
Như vậy, dù “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?” (Lc 9,25).
2. Sống vì Chúa
Thành quả của việc sống vì Chúa là đạt tới hạnh phúc vĩnh viễn đời sau như lời Chúa nói: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.”
Nếu những anh thuyền chài trên biển hồ Ga-li-lê cách đây 2.000 năm không đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su và dấn bước theo Ngài, liều mất mạng sống vì Ngài, thì họ chỉ là những con người vô danh tiểu tốt, chẳng làm nên danh phận gì, chẳng được ai biết đến… Tuy nhiên, vì họ đã dấn thân theo Chúa Giê-su, sẵn sàng sống chết vì Ngài nên đã lập nên kỳ công vĩ đại và được muôn người kính mến.
Ngoài ra, rất nhiều thanh niên nam nữ thiện chí khác trên khắp thế giới từ xưa tới nay như Phan-xi-cô Xa-vi-e, Phan-xi-cô Át-xi-di, mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta… đã sẵn sàng “liều mất mạng sống” vì Chúa Giê-su nên các ngài được tôn vinh mãi đến muôn đời.
Lạy Chúa Giê-su, Hôm nay, Chúa đưa ra cho chúng con hai chọn lựa, một là sống vì mình, tức là sống ích kỷ, hưởng thụ, chỉ biết lo cho bản thân mình mà không quan tâm phục vụ người khác để rồi phải hư mất đời đời; hai là sống vì Chúa, tức là sống quảng đại, sẵn sàng cống hiến thời giờ, công sức, khả năng… của mình nhằm phục vụ người khác để rồi được sống đời đời trên thiên quốc… Đây là một chọn lựa khó khăn.
Xin cho chúng con dứt khoát chọn sống vì Chúa, quyết tâm sống quảng đại, hy sinh, phục vụ… không quyến luyến danh vọng, không tiếc nuối của cải đời này, vì “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?”.
Trong các quốc gia vùng Cận Đông, khi một khách lỡ đường hay từ xa đến viếng thăm, chủ nhà TN 13-A78
Trong các quốc gia vùng Cận Đông, khi một khách lỡ đường hay từ xa đến viếng thăm, chủ nhà phải tiếp đón họ cách niềm nở, chu đáo, và chân thành. Ngày nay, nhiều người bị chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ thống trị, nên họ rất miễn cưỡng tiếp khách, và không kiên nhẫn đủ để chờ khách ra đi. Nhiều người đá chó, mắng mèo, chửi con để đuổi khách về sớm. Có người đặt câu hỏi: Hiếu khách như nào là đủ? Việt-nam có câu tục ngữ có thể làm chỉ nam trong việc tiếp khách: “Thương người như thể thương thân.” Nếu ta muốn được đối xử như nào khi đến nhà người khác, hãy đi bước trước và đối xử với người khác như vậy. Hơn nữa, khi một người rộng lượng cho đi, họ sẽ được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm. Nhiều tác giả trong Tân Ước vẫn căn dặn các tín hữu phải tập luyện và thi hành đức tính này (Rom 12:13; 1 Tim 5:10; Heb 13:2; 1 Pet 4:9).
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy những ví dụ của việc hiếu khách và những đền đáp cụ thể. Trong bài đọc I, người phụ nữ thành Shunamite rộng lượng tiếp đón ngôn sứ Elisha, dù chẳng biết ông là ai. Bà không chỉ dọn bữa, nhưng còn sửa dọn một phòng với đầy đủ vật dụng cần thiết cho ngôn sứ khi ông đi ngang qua. Cảm kích vì lòng hiếu khách của Bà, ngôn sứ đã dùng uy quyền của Thiên Chúa để cho Bà có một người con trai trong lúc tuổi già. Trong bài đọc II, vì Đức Kitô đã đối xử với chúng ta như một thượng khách, chúng ta cũng phải đáp lại bằng cách giũ sạch các thói hư tật xấu trong cái chết của Ngài, để rồi cùng được sống lại với Ngài trong vinh quang. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đòi người môn đệ của Ngài phải hy sinh, từ bỏ, và vác Thập Giá theo Ngài; đồng thời phải luôn biết mở rộng tâm hồn để tiếp đón và giúp đỡ tất cả những ai cần đến, vì tất cả những gì một người làm cho tha nhân là anh làm cho chính Ngài (Mt 25).
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.”
1.1/ Tinh thần hiếu khách của người phụ nữ Shunamite: Như đã nói trong phần nhập đề, tinh thần hiếu khách là một điểm son của các quốc gia vùng Cận Đông. Điều này được ghi nhận nhiều lần trong Cựu Ước: Abraham tiếp đón 3 người khách tại Mamre (Gen 18:1-13); ông Lot tiếp đón hai sứ thần của Thiên Chúa tại Sodom (Gen 19:1-11); người phụ nữ tiếp ngôn sứ Elijah (1 Kgs 17:1-15). Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người bạn phải kiên nhẫn phiền hà hàng xóm ban đêm để xin bánh dù bị từ chối ban đầu, để dẫn chứng việc phải kiên nhẫn cầu nguyện (Lk 11:5-8). Một trong những lý do con người phải hiếu khách là có thể họ đang tiếp đón những sứ giả của Thiên Chúa gởi đến mà họ không biết (Heb 13:2). Hơn nữa, nếu một tín hữu đọc những lời của Chúa Giêsu trong Matthew 25, họ phải hiếu khách vì đây là tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để phán xét con người.
Người phụ nữ thành Shunamite là một người giàu có. Bà không chỉ dọn bữa cho ngôn sứ cho Elisha mỗi khi ông đi qua Shunamite; nhưng còn dọn riêng cho ông một căn phòng để ở. Bà nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.”
1.2/ Tinh thần hiếu khách của Bà được đền bù xứng đáng: Cảm kích về sự hiếu khách của Bà, ngôn sứ Elisha đã dùng quyền Thiên Chúa để ban cho Bà một người con trai trong khi cả hai vợ chồng Bà đều đã cao niên. Ông Elisha loan tin vui cho Bà: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai.” Điều này không lạ lắm nếu một người tin Thiên Chúa vẫn đang quan phòng mọi sự trong trời đất, và Ngài có uy quyền làm được mọi sự.
2/ Bài đọc II: Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô.
2.1/ Ý nghĩa của bí-tích Rửa Tội: Theo thánh Phaolô, bí tích Rửa Tội có tác động chính: Khi một người được dìm mình trong nước là họ được cùng mai táng với Đức Kitô; và khi họ trồi lên khỏi mặt nước là họ được cùng sống lại với Ngài. Ngài cũng cắt nghĩa thêm về hai tác động này: Khi dìm mình xuống nước là các tín hữu lột bỏ con người cũ với đầy những tội lỗi và đam mê xấu xa; khi trồi lên là các tín hữu mặc lấy Đức Kitô với sự thánh thiện và tràn đầy ơn thánh của Người.
Vì Đức Kitô đã hy sinh chịu chết để thánh hóa chúng ta, chúng ta cũng phải chết với Người. Chết đây không phải là cái chết thể lý; nhưng là chết cho tội lỗi và mọi tính hư nết xấu trong người. Hơn nữa, không phải chỉ chừa tội, người tín hữu còn phải tập sống nhân đức; nếu không, các tội xưa lại tái phát, và người tín hữu lại dần dần trở lại nếp sống khi chưa được Rửa Tội.
2.2/ Người tín hữu phải biết đáp trả tình yêu hy hiến của Đức Kitô: Đã nhận ơn là phải biết đền ơn. Người tín hữu không chỉ nhận ơn nhưng là ơn cứu tử để được sống muôn đời; vì thế, người tín hữu không thể để sự hy sinh xương máu của Đức Kitô dành cho họ ra vô hiệu. Trái lại, họ phải cố gắng luyện tập nhân đức để càng ngày họ càng trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Trong tiến trình trở nên thánh thiện, người tín hữu không làm việc một mình vì họ đã được Đức Kitô ban tặng Chúa Thánh Thần và 7 quà tặng của Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn họ để nhận ra sự thật, ban sức mạnh để vượt qua những yếu đuối xác thịt, và bảo vệ họ khỏi muôn điều nguy hại. Điều cần là họ phải cộng tác với Chúa Thánh Thần để mưu cầu ích lợi cho riêng họ và cho mọi người.
Vì thế, thánh Phaolô khuyên các tín hữu: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô.”
3/ Phúc Âm: Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.
3.1/ Người môn đệ phải yêu mến Thiên Chúa hơn hết mọi người: Tại sao Thiên Chúa đòi con người phải yêu Ngài trên hết tất cả: cha mẹ, vợ chồng, con cái? Lý do đơn giản vì Ngài yêu thương chúng ta hơn hết tất cả những người đó. Thiên Chúa không những tạo dựng hồn xác và thế giới cho con người sinh sống, Ngài còn cho Con Một nhập thể để đền tội cho con người, để con người có thể sống hạnh phúc muôn đời bên Ngài. Thiên Chúa đã từng so sánh tình yêu trổi vượt của Ngài dành cho con người: Cho dù cha mẹ của ngươi có quên ngươi đi nữa, Ta cũng sẽ không quên ngươi (Isa 49:15). Rất nhiều người sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đã phải thốt lên: Quả thật! Không ai yêu tôi bằng Thiên Chúa. Lịch sử Cựu Ước đầy dẫy những tấm gương con người dám hy sinh cha mẹ như ngôn sứ Elisha (1 Kgs 19:19-21); hy sinh con trai duy nhất như tổ phụ Abraham, bà mẹ của Samuel (Gen 22:1-9; 1 Sam 1:27-28); hy sinh con gái như thủ lãnh Jephthah (Judg 11:30-35).
Tình yêu chân thành đòi phải biểu tỏ ra bằng hành động, chứ không phải chỉ bằng lời nói yêu thương. Thánh Anrê Phú Yên, tuy còn trẻ, nhưng đã thấu hiểu tình yêu của Đức Kitô dành cho ngài; nên đã can đảm thốt lên những lời sau đây trước khi tử đạo: “Phải lấy tình yêu đáp trả lại tình yêu, và phải lấy mạng sống đáp trả lại mạng sống.” Có một sự nghịch lý trong cách sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa và theo tiêu chuẩn của con người. Con người tìm bảo vệ mạng sống bằng bất cứ giá nào; trong khi Đức Kitô dạy: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” Và Ngài mặc khải cho chúng ta một ví dụ: “Amen! Amen! Thầy nói với anh em, nếu hạt giống rơi xuống đất không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ trổ sinh nhiều hạt giống khác.” Vì thế, nếu một người chịu hy sinh chết cho mình để sống cho người khác, người đó mới thực sự sống và làm cho tha nhân được sống; ngược lại, nếu một người chỉ biết ích kỷ sống cho mình, họ sẽ bị cô đơn và cũng chẳng giúp cho ai được sống.
3.2/ Các Kitô hữu phải có tinh thần hiếu khách và thương người: Chúa Giêsu liệt kê 3 loại người mà các Kitô hữu phải đón nhận với tinh thần hiếu khách.
(1) Chúa Giêsu đồng hóa mình với người môn đệ: Động từ “dékomai” mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Ý nghĩa căn bản là tiếp nhận hay đón nhận nếu là một đồ vật hay một sứ điệp. Nếu là một người, động từ có nghĩa đón tiếp một người với lòng hiếu khách. Đón tiếp một con người khác với tiếp nhận một món hàng, vì con người có nhân phẩm và phải được đối xử tương xứng với phẩm giá con người.
Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta một chân lý quan trọng: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy.” Người môn đệ là người được Đức Kitô sai đi cách chính thức. Theo cách thức ngoại giao, ai tiếp nhận người môn đệ hay sứ điệp của người môn đệ là tiếp nhận chính Đức Kitô; ngược lại, ai từ chối không tiếp nhận người môn đệ hay sứ điệp của người môn đệ là từ chối chính Đức Kitô. Chúa Giêsu đi xa hơn nữa: “và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Đức Kitô được Thiên Chúa sai đi, và là người ngang hàng với Thiên Chúa; vì thế, ai tiếp nhận người môn đệ là tiếp nhận chính Thiên Chúa.
(2) Chúa Giêsu đồng hóa với ngôn sứ và người công chính: Nhiều người hỏi chúng tôi: Nếu con ủng hộ vào công việc cha đang làm, chúng con sẽ được hưởng những gì? Đây là câu trả lời từ Chúa Giêsu: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.” Nói một cách cụ thể hơn, nếu người ngôn sứ cứu vớt được một linh hồn, người giúp cho ngôn sứ có phương tiện hoạt động cũng được hưởng phần thưởng của một linh hồn được cứu vớt.
(3) Chúa Giêsu đồng hóa với người nghèo: Sau cùng, Chúa Giêsu tóm gọn trong đức bác ái căn bản của Kitô Giáo: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” Chúng ta không thể làm được gì cho Thiên Chúa vì Ngài đã có tất cả; nhưng Ngài kể tất cả những gì chúng ta làm cho anh/chị/em cần đến, là chúng ta làm cho chính Ngài. Trong chương 25 của Tin Mừng Matthew, Chúa Giêsu giải thích điều này cách rõ ràng nhất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy học tinh thần hiếu khách của người xưa để chào đón và lo mọi sự chu đáo cho tất cả những ai dừng chân ghé lại thăm nhà của chúng ta. Đừng để bất cứ một ai ghé thăm chúng ta một lần rồi không bao giờ trở lại nữa.
– Đức Kitô đã chết cho chúng ta và Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta trong Nhà của Cha Ngài, rồi sẽ trở lại đón chúng ta để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đấy. Chúng ta hãy báo đáp công ơn của Ngài cách xứng đáng bằng cách sống thánh thiện và thương yêu mọi người.
– Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân, Thiên Chúa kể là làm cho chính Ngài. Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để giúp đỡ và hy sinh mọi sự cho tha nhân. Hãy làm tất cả với một tình yêu chân thành.
Vào đêm canh thức bế mạc đại hội giới trẻ thế giới 2013 tại Brazin, Anh Felipe Passos, 23 tuổi TN 13-A79
Vào đêm canh thức bế mạc đại hội giới trẻ thế giới 2013 tại Brazin, Anh Felipe Passos, 23 tuổi, khuyết tật chia sẻ về cuộc đời anh như sau: khi tham dự đại hội giới trẻ, tại Madrid năm 2011, anh quyết tâm sẽ ở khiết tịnh cho đến khi kết hôn và làm việc chăm chỉ để nhóm cầu nguyện của anh có thể tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới tại Rio de Janeiro. Với một ít tài sản, Felipe và bạn bè đã bắt đầu tiết kiệm tiền bằng cách làm việc vất vả. Vào ngày 11-1-2011, hai thanh niên bước vào nhà của anh với vũ trang, để cướp số tiền mà nhóm anh đã tích góp được với rất nhiều hy sinh. Felipe vì cố gắng giữ lại khoản tiết kiệm của nhóm nên anh bị bắn một phát chí tử. Anh chết lâm sàng, nhiều lần tim ngừng đập, bác sĩ lắc đầu bó tay. Anh đã hôn mê, phải thở qua ống thông mũi, trong khi đó cộng đoàn của anh hy sinh cầu nguyện cho anh. Và khi anh tỉnh lại, điều đầu tiên anh làm là xin được rước Thánh Thể và sau khi lãnh nhận, anh hồi phục nhanh chóng. Nhưng rồi sau đó, cuộc đời anh Felipe gắn liền với chiếc xe lăn, và anh tuyên bố: “Đây là Thánh giá của tôi, Thánh giá mà Chúa gửi đến, để tôi có thể gần Ngài hơn, để sống cởi mở hơn với ân sủng và tình yêu của Ngài”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Trước hết chúng ta cần phải hiểu thập giá của mình là gì? Có phải là cây thập giá của Chúa Giêsu khi xưa vác không? Chắc chắn là không rồi, thập giá mình đây là: nếu là những người có gia đình thì thập giá ấy chính là những khó khăn, gian nan khốn khổ về vật chất cũng như tinh thần trong hoàn cảnh gia đình mình. Chẳng hạn, làm ăn thất bại, cơm áo gạo tiền, con cái hoang đàng, vợ ngoại tình, chồng say sỉn, cờ bạc hay có chồng mà không có con như phụ nữ giàu sang trong bài đọc một kể… Rồi nếu là ông là bà, thì thập giá ấy chính là sự cô đơn tuổi già, con cái bỏ rơi, đủ thứ bệnh tật. Nếu là những học sinh, sinh viên hay bạn trẻ chưa lập gia đình, thập giá ấy chính là chuyện bài vở thi cử, bằng cấp, tìm kiếm việc làm, và rồi đối đầu với bao cám dỗ làm suy bại con người và trí óc tuổi trẻ. Rồi những người đi tu, thập giá ấy chính là đau khổ trong việc giữ đức khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Và cuối cùng là nhưng người khuyết tật hay bệnh nhân, thập giá là những chiếc xe lăn, những cặp nạn và những cơn đau xé lòng do căn bệnh gây nên. Chúng ta sẽ nói rằng những thập giá này tuy vô hình nhưng quá nặng làm sao chúng ta vác nỗi theo Chúa!
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta cũng đã gặp những thập giá còn nặng nề và đáng sợ hơn chúng ta nhiều, ấy nhưng các Ngài đã vui lòng chọn và vác thập giá đến hơi thở cuối cùng. Các Ngài chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các Ngài còn thực sự đóng đinh chính xác mình vào thập giá để minh chứng cho đức tin bằng cuộc tử đạo. Cuộc đời các Ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết, các thánh tử Đạo Việt Nam xác tín Đức Tin của mình rằng: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Các ngài nghiệm rằng tình yêu dành cho Chúa mạnh hơn cả sự chết, vì dù có chết cũng được Chúa cho sống. Anh Felipe sau khi rước Thánh Thể Chúa anh đã tin vững vàng rằng Chúa là nguồn bình an và hạnh phúc nhất và chỉ đức tin mạnh mẽ vào Chúa anh mới có thể đón lấy và vác thập giá của mình là chiếc xe lăn để anh có thể gần Chúa hơn, để sống cởi mở hơn với ân sủng và tình yêu của Ngài.
Nhà thần học cha Arialdo Beni nói rằng: “Đức tin là vấn đề ý chí hơn là lý trí. Đức tin là tiếng xin vâng đáp lời đề nghị và lời hứa của Chúa. Đức tin là phó thác, tín nhiệm và trung thành dù cuộc sống có chết đi, là cố gắng toàn diện”. Vì vậy, nếu chúng ta tin và yêu Chúa một cách hời hợt, những thập giá ấy trở thành khổ giá, chúng làm cho ta sờ lòng nãn chí, thật vọng dễ dàng bỏ thập giá đời ta, bỏ Chúa, bỏ tha nhân và bỏ chính mình là tự tử. Còn nếu chúng ta tin và yêu Chúa một cách chân tình và thật sự, những thập giá kia là thánh giá đời ta vì thập giá ấy có Chúa vác cùng ta, có Chúa nâng đỡ ta và có Chúa giúp ta đi đến đỉnh vinh quang để được cứu độ. Cho nên, chúng ta phải vinh dự và hạnh phúc sống với, sống cùng thánh giá để được Chúa ban ân sủng dồi dào ngay đời này và ban triều thiên đời sau. Ngược lại, nếu chúng ta xấu hổ, tủi hờn, buồn khổ vì những thập giá này, chúng ta cảm thấy đời mình sau đắng cay biết là ngần nào vì thiếu vắng Chúa, thiếu vắng tha nhân và mất linh hồn thì nào có ích chi. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng: “Tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế”.
Chúa Giêsu hôm nay khẳng định rằng “Ai muốn theo Tôi, thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Vâng, cái từ bỏ mà Chúa nói ở đây, đó là bỏ cái tôi kiêu ngạo, cái mặc cảm, cái sợ hãi của mình để khiêm tốn và can trường vui lòng chấp nhận vác lấy giá đời ta theo Chúa trong tin yêu và phó thác vào lòng thương xót Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu nói rằng ai không mến thánh giá thì không thể làm môn đệ và là con cái Chúa. Ai xấu hổ thánh giá thì khốn cho người ấy vì Chúa cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy. Trong đời, ai không muốn sướng, ai cũng muốn giữ mạng sống mình, ai cũng muốn thoát khổ chứ ai muốn khổ bền vững. Nhưng Thánh Phaolô nói rằng khốn khổ, gian truân, đói rách, bệnh họan, khuyết tật, chết chóc là chuyện xảy ra thường tình và thường ngày với chúng ta. Ấy vậy, đừng vì những thử thách ấy mà chúng ta bỏ tha nhân, bỏ chính mình, bỏ Chúa và tình yêu của Ngài. Chính lúc ấy chúng ta càng theo Chúa, tin Chúa, nương tựa vào Chúa xót thương chúng ta sẽ được cứu và bình an vì Chúa đã trải qua nó và toàn thắng nó.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta nhìn thấy Thánh giá Chúa gửi đến chúng ta hầu noi gương các Thánh, biết chấp nhận vác Thánh giá đời mình để làm chứng cho Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót luôn ban ân sủng và tình yêu của Ngài làm cho đời ta bình an và hạnh phúc dù có khó khăn gian khổ. Amen.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người đã lên tiếng thán phục Chúa Giêsu, tôn thờ kính TN 13-A80
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người đã lên tiếng thán phục Chúa Giêsu, tôn thờ kính mến Ngài nhưng lại không dám bước theo Người bởi vì theo Ngài là theo đường thương khó, con đường khó mà thương ai dám theo. Họ giống như một em bé ngồi xem xiếc. Em há hốc miệng ngạc nhiên và khâm phục người đi thăng bằng trên sợi dây mong manh. Khi người ấy nhìn xuống và hỏi:
- Em có tin rằng tôi có thể vác em mà đi trên sợi dây này không?
Em không ngần ngại trả lời:
- Chắc chắn là ông không làm được.
Thế nhưng, khi người ấy nói với em:
- Vậy em hãy lên đây và tôi sẽ vác em mà đi trên dây. Nghe vậy, em bé liền sợ hãi và từ chối lời mời gọi, vì theo em, nó thật là nguy hiểm.
Với chúng ta cũng thế. Nhiều người trong chúng ta luôn nói rằng mình tin Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người hoặc có bước theo Chúa, thì chỉ bước theo trong một mức độ nào đó mà thôi, chẳng hạn, theo Người đến bên thập giá, chứ không dám theo Người đến độ đóng đinh mình vào thập giá. Vì chưng, có những lúc trong cuộc sống, đau khổ và thử thách xảy ra như muốn vùi dập chúng ta, khiến chúng ta bị cám dỗ chối bỏ Chúa, khước từ thập giá và không bước theo Người nữa. Trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm sao đây?
Trước hết, chúng ta hãy thầm nhủ rằng chính Chúa Giêsu cũng đã từng có những lúc cảm thấy thập giá của mình như nặng quá sức. Chẳng hạn trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu, Người đã cầu nguyện: Xin Cha cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Chúa mà thôi và rồi cuối cùng Người đã chấp nhận thập giá cho đến hết hơi lên đến đỉnh Canvê và chiến thắng vinh quang trong sự sống lại vinh hiển của Ngài. Đó, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, thế mà Người đành thú nhận với bản thân và với thế gian rằng mình không đủ sức vác nỗi thập giá, huống nữa là chúng ta. Nhưng với ơn Chúa và quyết tâm thi hành Thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu đã vác thập giá đến cùng không bỏ cuộc, không tuyệt vọng. Bởi đó, chúng ta phải khiêm nhường noi gương Người, vác thập giá đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta trong mọi hoàn cảnh vì Chúa Giêsu hôm nay đã quả quyết rằng: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Vì vậy, trong mọi khó khăn thử thách, chúng ta hãy kêu xin Chúa phù trì đỡ nâng và giúp đỡ chúng ta vì Người đã biết thế nào là sức nặng của thập giá, thế nào là lảo đảo và té ngã khi vác thập giá, chắc hẳn Người sẽ đồng hành, chia sẻ và ban ơn trợ giúp cho chúng ta, vì như Lời Chúa hứa ban: "Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2Cr 12,9).
Con đường của các môn đệ theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh là con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình”, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333). Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Vác thập giá mà theo” (Mt 10, 38). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, đây là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo”. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân.
Người ta hỏi: Chúa Giêsu có thích khổ đau và thập giá không? Không, Chúa Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích, nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là hy sinh và từ bỏ để sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cho nên, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ: “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình với CHÚA, với chính mình và với tha nhân.
Quyết định theo Chúa Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Chúa Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma: “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).
Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có Chúa là sức mạnh để chúng con vác thập giá của mình tiến bước theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 10,37-42 nằm trong văn mạch của diễn từ Chúa Giêsu dành cho các môn đệ (10,5-42). Trong TN 13-A81
Đoạn 10,37-42 nằm trong văn mạch của diễn từ Chúa Giêsu dành cho các môn đệ (10,5-42). Trong diễn từ lớn nầy Ngài chỉ dẫn cho họ phải làm gì khi đi thi hành sứ vụ (10,5-15), chuẩn bị cho họ về sự bắt bớ (10,16-25), đòi hỏi họ không sợ hãi mà loan báo tin mừng (10,26-36) và đặt Ngài trên mọi tương quan thân thiết nhất (10,37-39), và sau cùng loan báo cho họ phần thưởng dành cho họ (10,40-42).
Yêu Mến Chúa Giêsu Trên Hết (10,37-39)
Đoạn nầy gồm ba câu bàn về ba tương quan khác nhau của môn đệ: với gia đình (c. 37), với thập giá (c. 38) và với mạng sống mình (c. 39). Cả ba câu đều qui chiếu về Chúa Giêsu và Ngài đòi hỏi người môn đệ phải chọn Ngài trên tất cả: “yêu mến hơn Tôi”, “không xứng đáng với Tôi” (c. 37), “… đi theo sau Tôi”, “không xứng đáng với Tôi” (c. 38), “vì Tôi” (c. 39). Đoạn nầy đóng khung bởi “Tôi” trong “hơn Tôi” (c. 37) và “vì Tôi” (c. 39), chỉ Chúa Giêsu.
Yêu mến Chúa Giêsu hơn người thân trong gia đình
Câu 37 gồm hai phần song song. Một bên là cha mẹ và bên kia là con cái. Đây là các tương quan gia đình căn bản và thân thiết nhất. Cụm từ “hơn Tôi”, “không xứng đáng với Tôi” và động từ phileō, “yêu thương” được lập lại ở mỗi bên. Chúa Giêsu, “Tôi”, đặt mình so sánh với cha mẹ, và con cái của người môn đệ. Ngài đòi hỏi Ngài được yêu thương hơn những người nầy. Giới từ huper, “trên”, chỉ sự cao trọng hơn một ai đó. Chúa Giêsu là “Thầy” của các môn đệ, nên Ngài phải được yêu thương hơn (x. 10,24). Trong các câu trước, Chúa Giêsu đã đòi hỏi các môn đệ không xấu hổ mà làm chứng cho Ngài trước mặt người đời (10,32tt), thì đây Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ yêu mến Ngài hơn tất cả, ngay cả đối với những người thân thiết nhất trong gia đình. Khi có sự “chống đối” trong gia đình vì Chúa Giêsu, phải chọn Ngài trên hết và trước hết (x. 10,35). Azios, “xứng đáng”, chỉ tính cách phù hợp, tương xứng. Chỉ khi nào người môn đệ yêu mến Chúa Giêsu hơn những người khác, họ mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài, và tình yêu ấy mới xứng với Ngài (x. 22:8).
Vác thập giá theo Chúa
Câu 38 cũng dùng cụm từ “không xứng đáng với Tôi” như câu trên khi Chúa Giêsu nói về việc vác thập giá và đi theo sau Ngài. Động từ lambanō, “nhận” ở đây có đối tượng là một điều gì đó hay một người nào đó đến từ Thiên Chúa: lãnh nhận nhưng không (10,8), thập giá (10,38), tiên tri, người công chính (10,41). Điều đầu tiên Chúa Giêsu đòi hỏi là biết lãnh nhận thập giá từ Thiên Chúa (x. 16,24). Động từ akoloutheō “đi theo”, đôi khi thêm giới từ opisō, “sau”, chỉ việc đi theo để làm môn đệ của Chúa Giêsu (4,19. 20tt; 8,22; 9,9). Hai hành vi “nhận lấy thập giá” và “đi theo” Chúa Giêsu làm nên sự xứng đáng của người môn đệ của Chúa Giêsu (x. 27,32).
Từ bỏ mạng sống vì Chúa
Câu 39 có cấu trúc đối đảo: a- Ai tìm mạng sống mình, b- Mất mạng sống mình, b’ Ai liều mất mạng sống mình – vì Tôi – , a’ Tìm được mạng sống mình. Yếu tố quan trọng nhất trong cấu trúc nầy là heneken emou, “vì Tôi”, nằm ở trung tâm. Nó chỉ động lực của việc liều mất mạng sống. “Vì Chúa Giêsu” là động lực đúng đắn nhất để liều mất mạng sống. Việc liều mất mạng sống mà Chúa Giêsu nói đây nằm trong bối cảnh của sự bắt bớ vì Chúa (5,11; 10,18). Vậy nếu vì Chúa mà mất mạng sống, thì cũng “nhờ Chúa” mà tìm lại được mạng sống (x. 16,25).
Phần Thưởng Dành Cho Người Đón Tiếp (10,40-42)
Sang phần nầy, Matthêô dùng đại danh từ ngôi thứ hai số nhiều “các con”, humas (c. 40) / humin (c. 42); từ đóng khung phần nầy. Đối tượng giáo huấn của Chúa Giêsu là dân chúng. Đoạn nầy gồm ba câu chia làm hai phần, và mỗi phần gồm ba yếu tố: – Sự đón tiếp (c. 40); – Phần thưởng (cc. 41-42).
Sự đón tiếp (c. 40)
Ba yếu tố “các con” – “Tôi” – “Đấng đã sai Tôi” gắn liền mật thiết với nhau bởi động từ “đón tiếp”. Sự liên kết nầy có được bởi chỉ có một việc sai đi. Môn đệ là những người được Chúa Giêsu sai đi (x. 10,16; 11,10; 15,24; 21,1tt), và Chúa Giêsu bởi Chúa Cha, “Đấng đã sai Tôi” (x. 15,24; 21,37). Như thế sứ vụ của người môn đệ bắt nguồn từ Chúa Cha do việc họ tham dự vào sứ vụ của Chúa Giêsu; do đó họ được đón tiếp như chính Chúa Giêsu và Chúa Cha. Như thế có sự đồng hoá giữa Chúa Giêsu và các môn đệ bởi sự tham dự của họ.
Phần thưởng (cc. 41-42)
Hai câu nầy gồm ba phần: tiên tri, người công chính và môn đệ. Động từ “đón tiếp” còn được dùng ở đây; như thế nó liên kết câu nầy với câu trên. Xét theo văn mạch khi Chúa Giêsu nói đến việc đón tiếp các “tiên tri”, “người công chính”, “môn đệ”, Ngài ám chỉ các môn đệ của Ngài.
Tước hiệu “tiên tri” (14,5; 21,11; 26,46) và “người công chính” (27,19) trước tiên dành cho Chúa Giêsu. Ngài chọn lựa và sai các môn đệ đi làm sứ vụ với tư cách hay danh nghĩa của Ngài, nên họ cũng được gọi là “tiên tri”, người công chính” hay “môn đệ” của Ngài. Cụm từ “vì danh nghĩa”, eis onoma, được lập lại ba lần, có nghĩa là người nầy làm tiên tri vì được Chúa tuyển chọn và sai đi, và họ được đón tiếp vì người ta nhận biết họ là tiên tri của Chúa. Như thế một cách nào đó, Chúa Giêsu tiếp tục đồng hoá chính Ngài với các môn đệ. Việc nầy chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi Chúa Giêsu đã liên kết các môn đệ của Ngài trong sự bắt bớ của họ với “các tiên tri đến trước họ” (5,12). Trong câu 13,17, Chúa Giêsu xem các môn đệ của Ngài như là “các tiên tri và người công chính” vì họ được thấy và nghe những điều mà các tiên tri và người công chính trước đây đã ước ao không được. Sau nầy Ngài cũng nói đến việc sai “các tiên tri” của Ngài đến giữa người Do thái (23,34). Như thế, các môn đệ của Chúa Giêsu được xem như “các tiên tri” và “người công chính” của thời Ngài.
Sau cùng nói đến phần thưởng dành cho người đón tiếp các môn đệ của Chúa Giêsu. Đấng ban phần thưởng chính là Thiên Chúa (x. 6, 4.6.18). Phần thưởng dành cho các tiên tri như thế nào, thì phần thưởng cho người đón tiếp họ cũng được như vậy. Các tiên tri chịu bắt bớ sẽ được phần thưởng lớn lao trên trời (5,12), và người công chính được vào hưởng “sự sống đời đời” (25,46). Vậy lần nữa nhờ việc liên kết với Chúa Giêsu mà các môn đệ nhận được danh nghĩa tiên tri và người công chính, và những ai tiếp đó họ, thì được Chúa Cha ân thưởng.
Liên kết với Chúa Giêsu cũng là liên kết với Chúa Cha và sự sống đời đời. Với các môn đệ, sự liên kết nầy còn cần thiết hơn nữa bởi bản chất và những đòi hỏi của sứ vụ, tương quan bản thân và cả phần thưởng dành cho họ. Liên kết với Chúa Giêsu quyết định sự sống đời đời với Thiên Chúa như là phần thưởng.
“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Kính thưa Anh Chị em,
Một trong những chủ đề của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là đón tiếp, con người đón TN 13-A82
Một trong những chủ đề của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là đón tiếp, con người đón tiếp Thiên Chúa, Thiên Chúa tiếp đón con người; và ở đâu có đón tiếp, ở đó có niềm vui; ở đâu có niềm vui, ở đó có an bình.
Bài đọc thứ nhất, sách Các Vua kể chuyện thời Cựu Ước, hai ông bà của một gia đình sang trọng đón tiếp thầy trò ngôn sứ Êlisê và này, người của Chúa báo tin vui cho họ, “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai”; Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu thời Tân Ước thì nói rõ hơn, đối tượng được đón tiếp chính là Thiên Chúa, “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Lần dỡ các trang Thánh Kinh, chúng ta chứng kiến bao cuộc đón tiếp đem lại niềm vui và bình an. Từ cuộc đón tiếp những người khách lạ giữa sa mạc ở cụm sồi Mamrê của Abraham, hoặc cuộc đón tiếp sứ thần của Manoac mẹ Samson thời các thẩm phán cho đến cuộc đón tiếp Êlisê thời các vua… chúng ta thấy niềm vui và bình an là một điều gì đó luôn luôn xảy đến cho các gia đình. Và này, một cuộc tiếp đón khác, giản dị nhất nhưng cũng trọng đại nhất vốn mang đến một niềm vui lớn nhất không chỉ cho một gia đình son sẻ nhưng cho cả đại gia đình nhân loại phong nhiêu là cuộc đón tiếp sứ thần Gabriel của một thiếu nữ Giuđê có tên là Maria; ở đó, cũng một lời hứa tương tự, “Này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Và Giêsu đó chính là hoàng tử bình an và niềm vui cho con người mọi thời. Đến lượt Ngài, Ngài lại sai các môn đệ mình ra đi loan báo tin mừng bình an đó, rằng, Thiên Chúa là tình yêu; rằng, Người yêu thương con người đến đời đời.
Thế nhưng, một điều chúng ta đừng bao giờ quên, vì Thiên Chúa là tình yêu nên Người là Đấng luôn luôn đi bước trước. Người đón tiếp con người ngay trong ý định yêu thương đời đời của Người, ngay cả trước khi tạo thành nó, ban cho nó muôn vật muôn loài. Thiên Chúa đón tiếp con người cả khi nó hoá nên những tội nhân phản bội Người. Và vì là tình yêu nên tình yêu của Người là một tình yêu đời đời; Người bất lực trong việc để cho mình hết yêu. Vì thế, lòng Thiên Chúa luôn luôn rộng mở để đón tiếp con người đến nỗi đã ban Con Một Giêsu để ai tin vào người con đó thì được sống đời đời.
Chúa Giêsu, bàng bạc trong các trang Tin Mừng, đã đón tiếp bao con người đến với Ngài và họ đã hưởng lấy niềm vui và bình an. Một Nathanael đến với Ngài khi đêm đã chùng xuống; một Matthêu đến với Ngài khi vừa được gọi giữa sổ sách và tiền bạc; những người mù, những người cùi và những ai bệnh hoạn tật nguyền đến với Ngài; sau cùng, cả người trộm lành, cũng kịp được Ngài đón… để tất cả được chữa lành xác hồn và đổi mới.
Mỗi ngày, qua việc cầu nguyện, qua các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể, chúng ta đón tiếp Thiên Chúa, đón tiếp Chúa Giêsu; thế nhưng, sự thật là, chính Thiên Chúa, chính Chúa Giêsu đón tiếp chúng ta. Chúa Giêsu đón tiếp chúng ta qua bí tích rửa tội để chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa; đón tiếp chúng ta qua bí tích hoà giải để tha thứ và chữa lành tâm can mỗi người; đón tiếp chúng ta qua bí tích Thánh Thể để chúng ta được nuôi sống và thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa… và đến giờ sau hết, hạnh phúc biết bao, khi chúng ta lâm chung lìa đời, cũng chính Thiên Chúa đang dang rộng tay đón lấy chúng ta như những đứa con được đón chờ.
Như vậy, mỗi ngày khi chúng ta đón tiếp Thiên Chúa thì cũng chính lúc ấy, Người đón tiếp chúng ta. Cụ thể hơn nữa, khi chúng ta đón tiếp anh chị em mình, nhất là những người nghèo khổ là chúng ta đón tiếp chính Chúa Giêsu.
Một bà mẹ quê hay thương người, trong nhà thường có những người mất trí lui tới, ăn uống; họ được bà sai làm những việc lặt vặt. Thỉnh thoảng gặp giờ cơm, bà cũng buộc họ ngồi vào bàn ăn với con cái. Người chị cả trong nhà rất khó chịu, thường hay phàn nàn vì họ luôn luôn có mùi hôi. Nhưng bà mẹ lại nói với các con mình, “Chúa Giêsu đó, Chúa Giêsu đó” và thế là không còn đứa nào dám hé môi.
Anh Chị em,
Người nghèo thì luôn luôn vui mừng vì được ai đó viếng thăm hay ít nữa, không bị xua đuổi. Như thế, mỗi khi đón tiếp họ, Chúa Giêsu đang ở trong họ lại nghênh đón chúng ta.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, mỗi ngày con đón Chúa, Chúa đón con cả khi con tồi tệ hôi hám nhất; xin cho con đón được Chúa trong những anh chị em ‘khó đón’ nhất chứ không chỉ trong những người nghèo”. Amen. -----------------------------
Đoạn văn này có thuần nhất không? Các câu 37-39 có đề cập cùng một vấn đề như cc. 40-42 không TN 13-A83
1. Đoạn văn này có thuần nhất không? Các câu 37-39 có đề cập cùng một vấn đề như cc. 40-42 không?
2. Trong 6 câu này, có mấy câu quy chiếu về Chúa Giêsu? Đâu là hậu quả cho việc khổ chế Kitô giáo?
3. Phải chăng tình yêu đối với cha mẹ là chướng ngại vật giữa Thiên Chúa với tôi? Thiên Chúa không phải là chính tình yêu sao: tình yêu có thể đối nghịch với tình yêu à?
Các câu 37-39 gợi lên một vài nhận xét tổng quát như sau:
1. Trong lúc mấy đoạn văn trước của Diễn từ này minh nhiên quy hướng về việc làm chứng tá truyền giáo “trước mặt người đời” (c. 33), thì các câu đây, cũng như mấy câu 34-35, lại chú trọng tới việc đòi hỏi mọi người phải theo Chúa Giêsu cho đến chết, mà không ám chỉ gì về ý nghĩa truyền giáo của đức vâng phục đó; nơi câu 39, sự chú ý lại hoàn toàn tập trung về ý tưởng cứu rỗi cá nhân; thành thử ta có quyền thắc mắc không biết tác giả Tin Mừng đã đặt đúng ở đây ba lời nói đó (cc. 37, 38, 39) hay không!
2. Cảm tưởng này càng tăng thêm qua sự kiện các câu 38 và 39 lại được lặp lại ở 16, 24-25; nếu như vậy thì ta đang đứng trước cùng một hiện tượng như trong các đoạn văn trước là: Mt đưa vào trong phần huấn thị cho các sứ đồ những lời Chúa Giê-su có lẽ đã nói cho môn đồ cách chung và ngay cả đám đông nữa; quả thế, câu song song vòi Mt 16, 24-25 trong Mc 8, 34-35 cho ta thấy Chúa Giêsu ngỏ lời với đám đông cùng các môn đồ Người”.
3. Tuy nhiên sự kiện này không phải chỉ là một lắt léo có tính cách văn chương; vì cái nối kết cách sâu xa hai nhóm huấn dụ của Chúa Giêsu (10, 37-39 và 16, 24-25), là trong cả hai trường hợp, Người đều đòi hỏi một sự gắn bó công khai. Người không đếm xỉa đến mọi cuộc tận hiến riêng tư vốn chỉ là một cuộc đào sâu âm thầm, kín đáo. Về vấn đề này, thành ngữ “vác khổ giá mình”, có ở cả hai câu, thật là đầy ý nghĩa như ta sẽ thấy sau đây. Vì thế Mt có thể ghi lại các lời đó của Chúa Giêsu ở chương 10 cũng như chương 16. Chẳng có việc gắn bó nào với Chúa Kitô mà không phải là một cuộc mạo hiểm công khai đầy bất trắc; nhưng cũng chẳng có việc công khai “dấn thân” sống các mệnh lệnh của Người mà không đồng thời là hành vi thâm sâu nhất, riêng tư nhất (mất mạng sống). Thành ra, vào cuối bài huấn dụ dài dòng về việc tông đồ truyền giáo này, ta đứng trước cái chủ đề chính yếu vốn chi phối bài huấn dụ từ đầu này đến đầu kia: đó là không có gì che giấu mà có thể bị giấu che mãi, nghĩa là cuộc sống “nội tâm” nhất (của cá nhân cũng như tập thể) sẽ trở thành công khai nhất và nguy hiểm nhất vậy.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Kẻ yêu Cha mẹ hơn ta”: Ở đây Chúa Giêsu tỏ ra ghen tương theo nghĩa ghen tương của Gioan trong Cựu ước (Đnl 29, 20 ; 32,16 ; Ge 2 ; 18 ; Dcr 1, 14 . ..); Người không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu mà người ta phải có đối với Người. Tuy nhiên hãy ghi nhận các điểm này:
1. Động từ yêu ở đây chẳng phải là động từ agapan (x 5, 43 ; 19, 19 ; 22, 37tt) thường được dùng trong các Tin Mừng để chỉ tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, song là động từ philein, họa hiếm trong Mt, và thường được hiểu theo nghĩa : gắn bó với, có cảm tình với, thích thú điều này điều nọ (6, 5 ; 23, 6 ; 26, 48 theo nghĩa cái hôn của Giuđa) ; thành thử lời ấy tố cáo nhưng gắn bó có tính cách tự nhiên và gia đình, dĩ nhiên là chính đáng, nhưng có thể trở thành chướng ngại vật việc phụng sự Chúa Kitô.
2. Nghĩa của câu này và nhất là văn mạch trực tiếp và tổng quát cho thấy nó không đặt đối nghịch hai thứ tình cảm nội tâm, nhưng hai thái độ cụ thể: kẻ nào sắp theo Chúa Giêsu mà còn ràng buộc với gia đình thì chẳng xứng đáng với Người vậy.
Về câu 37, hãy lưu ý: Chúa Giêsu là kẻ đầu tiên đem nó ra thực hành. Không phải Người ít quan tâm đến lòng yêu thương chính đáng đối với cha mẹ bà con đâu: trước sự tráo trở của Biệt phái dám tuyên bố là “của cúng” những vật đáng ra phải được cấp dưỡng cho cha mẹ già yếu, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ nhắc lại giới luật: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ” (Mc 7, 11tt) Nhưng đối với Người, tình yêu này phải lệ thuộc thánh ý Chúa Cha trên trời. Người đã làm gương về điều đó khi ở lại Đền thờ dịp hành hương Giêrusalem lần thứ nhất: “Cha mẹ không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao?” (Lc 2, 49). Và về sau Người gọi là cha là mẹ những kẻ tụ họp quanh Người và “những ai làm theo ý Thiên Chúa” (Mc 3, 33-35).
Trong câu 37 này, thánh ý Thiên Chúa được biểu hiệu một cách cụ thể qua con người Chúa Giêsu, hiện thân hoàn toàn của thánh ý đó. Đến nỗi kẻ nào chẳng nhìn nhận sự tối thượng của Người thì không thể thành môn đồ Người được. Vì sao có sự khắt khe đó, sự khắt khe mà tự nhiên ta khó chấp nhận? Lý do duy nhất có thể đưa ra là vì Người là Thiên Chúa, là Ngôi vị thần linh. Đứng trước ngôi vị này, tất cả mọi giá trị và mọi ngôi vị khác đều phải lu mờ đi.
“Không xứng với Ta “: Tất cả các đoạn văn của Mt có dùng hạn từ “xứng đáng” đều cho thấy đây không phải là một sự xứng đáng nội tại có trước khi được Chúa Kitô kêu gọi, cũng chẳng phải là sự xứng đáng sở đắc được nhờ một khai tâm đạo lý nào đó kiểu tôn giáo Hy lạp, nhưng là sự xứng đáng mà ngày nay ta có thể gọi là hiện sinh: kẻ nào không muốn cắt đứt liên hệ thân thiết nhất (nếu cần) để theo Chúa Giêsu, thì ra bất xứng hay đúng hơn, tự làm cho mình nên bất xứng với Người.
“Kẻ không vác lấy khổ giá mình”: Trong truyền thống Nhất lãm, ít nhất đã có 5 lần Chúa Giêsu tuyên bố câu đó: Ý nghĩa nguyên thủy của thành ngữ “vác khổ giá mình” không được minh xác mấy. Tuy nhiên tư tưởng chủ yếu vẫn như sau: Theo Chúa Kitô là theo Người trên một con đường đau khổ mãnh liệt và công khai. Do đó phải tiên liệu và chấp nhận sự chống đối dữ dội và hầu như chính thức mà mình phải chịu vì là môn đồ Chúa Kitô.
“Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đánh mất sự sống mìmh vì Ta thì sẽ gặp lại: Người môn đồ chẳng được từ bỏ sự sống vì cho rằng sự sống không có giá trị, vì thích phấn đấu hoặc vì bị cáo chết ám ảnh một cách bệnh hoạn. Không được bỏ sự sống với một thái độ khinh bỉ kiêu căng như các triết gia kiêu kỳ hay các bài ca ái quốc chủ trương. Câu Chúa Giê-su nói nghịch hoàn toàn. Phải mất sự sống đi để được nó. Và ngược lại, kẻ đã gặp” nó, đang chiếm hữu nó bây giờ, đang gắn bó vào nó và xem sự sống mình ở đời này như là sự sống đích thực, thì sẽ mất nó cho mà xem. Điều này không môn luận lý, không khoa luân lý nào của thế gian có thể giúp quán triệt cả. Vì đây là một kinh nghiệm hiện sinh đã bắt đầu trong cuộc sống bình thường mỗi ngày và có thể kết thúc cách cao cả trong hy tế tử đạo: Lời này của Chúa Giêsu không phải là một hình thức tu từ hay biện chứng pháp thuần lý, nhưng là một biện chứng pháp hiện sinh. Chân lý của nó chỉ có thể nhận thức được và sống trong niềm tin. Bảo chứng duy nhất của chân lý này là Thiên Chúa. Và thế là đã đủ.
“Kẻ tiếp đón các con là tiếp đón Ta “: Nguyên tắc “người được sai đi ngang hàng với kẻ sai đi ” rất quen thuộc với Do thái giáo. Ngày nay vẫn vậy, vai trò ngoại giao của các đại sứ sứ thần… cũng dựa trên nguyên tắc đó. Động từ “đón tiếp” phải được hiểu vừa theo nghĩa rất cụ thể là hiếu khách, nghĩa đã có từ đầu chương, vừa theo nghĩa “tùng phục ” Lời mà sứ đồ đem đến.
“Kẻ tiếp đón một ngôn sứ… tiếp đón người công chính”: Nghĩa của câu này không mấy rõ. Một vài nhà chú giải (Schniowind, Bonnard, Légasse…) hiểu các chữ “ngôn sứ” và “công chính” như là tiếng đồng cách hay đồng nghĩa với chữ “sứ đồ”. Thật vậy trong Tân ước người ta luôn nói đến các “ngôn sứ” theo nghĩa là những kẻ có ơn đoàn sủng của Giáo Hội sơ khai và một cách nào đó kế vị các ngôn sứ Cựu ước (Cv 11, 27tt ; 13, 1 ; 21, 10tt ; 1Tx 5, 20 ; 1Cr 14, 1- 5. 32. 37). Nếu thế thì nghĩa của câu này có lẽ như sau: Ai tiếp đón sứ đồ, tức là ngôn sứ người công chính, với lòng kính trọng phải dành cho một ngôn sứ và người công chính, thì… Nhưng nhiều nhà chú giải khác (Trilling, E.Meyer, O.Michel v.v…) lại nghĩ “ngôn sứ” và “công chính” là hai chức vụ hay hai loại người khác với các sứ đồ trong Giáo Hội sơ khai.
Cả hai cách giải thích trên đều gặp khó khăn. Cách giải thích đầu không ăn khớp với văn mạch. Quả thế, trong c. 40, Chúa Giêsu trực tiếp nói với các sứ đồ (“chúng con”) ; vì vậy không thấy làm sao câu sau lại tiếp tục nói về họ ở ngôi thứ ba (trong lúc họ đang có mặt) và lần này gọi họ là các “ngôn sứ” và người “công chính”. Hơn nữa, các sách Tân ước luôn phân biệt kỹ lưỡng “sứ đồ” và “ngôn sứ”; không lẽ ở đây lại lẫn lộn cả hai cách chú giải thứ nhì ăn khớp với văn mạch vì, như đã nói ở trên, các “ngôn sứ”, trong Giáo Hội sơ khai, được biết như là một nhóm người xác định khác với nhóm sứ đồ. Nhưng vẫn còn một khó khăn: nếu người “công chính” của đoạn này là một nhóm đặc biệt trong Giáo Hội sơ khai, sao lại không thấy các sách Tân ước đề cập chỗ nào nữa cả. Có lẽ chữ “công chính” không chỉ nhột chức vụ hay tác vụ như đã có trong các cộng đoàn của Phaolô, nhưng là một tình trạng, phát xuất từ lối sống gương nẫu của một số Kitô hữu, và do đó đã khiến họ được một địa vị trổi vượt trong cộng đoàn. Có lẽ đây là dấu vết lối tổ chức cổ xưa của cộng đoàn sơ khai.
“Một trong những kẻ bé mọn này”: Nhóm thứ ba đây gồm các môn đồ tầm thường của Chúa Giêsu, những kẻ không có trách vụ gì trong cộng đoàn Kitô hữu. Tư tưởng của câu này rất táo bạo và cao quý. Ai chỉ mang tư cách môn đồ thôi cũng đã đáng kính trọng vì đó và đáng được đặt ngang hàng với mọi môn đồ. Vâng, các kẻ “bé mọn”, vốn không là gì khác ngoài “môn đồ”, không làm gì khác ngoài việc “tin ” (18, 6) cũng đáng được kính nể và yêu thương đặc biệt. Vì họ dễ bị loại ra một bên, dễ bị “người lớn” đối xử một cách ngạo mạn. Lời khuyến dụ của Chúa Giêsu (như trong 18, 6-14) nhằm đề phòng các điều đó vậy.
“Phần thưởng của ngôn sứ… của người công chính”: Khó mà diễn tả cách cụ thể điều thành ngữ này muốn nói. Có lẽ phải quy chiếu về ý tưởng chủ yếu của các câu trước, tức là người được sai đi ngang hàng với kẻ sai đi. Trong trường hợp đó có thể hiểu như sau: kẻ tiếp đón một ngôn sứ sẽ nên giống hay ngang hàng với ngôn sứ và như thế sẽ lĩnh cùng phần thưởng như vị này. Đối với người công chính cũng vậy. Việc đặc biệt tôn trọng người “bé mọn” được biểu lộ qua sự kiện là hành động nhỏ nhặt nhất làm cho họ sẽ không uổng công vô ích.
KẾT LUẬN
Diễn từ về sứ vụ môn đồ chấm dứt ở điểm này: chung quy lại cũng chỉ nói về “môn đồ Chúa Giêsu”, nghĩa là Ki-tô hữu thông thường, kẻ được sai đi và liên kết với sứ mệnh của Thầy mình. Ngay cả người Kitô hữu khiêm hèn nhất, tức là kẻ “bé mọn”, cũng có thể gán cho mình những điều đã nói trước. Họ thấy phẩm giá cao quý của mình được xác nhận cách rõ ràng trong câu cuối cùng của Diễn từ Chúa Giêsu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Theo Chúa Giêsu chẳng phải là bỏ yêu thương cha mẹ con cái mình. Ngược lại thì có. Vì kẻ thật sự theo Người sẽ được một sự tự do mới, sự tự do chân chính để yêu thương cha mẹ và tất cả mọi người một cách đích thực. Nhưng thứ tình yêu này là một tình yêu mới, siêu nhiên (chứ không phải là phản tự nhiên), có khả năng yêu kẻ khác vì Thiên Chúa, trong Thiên Chúa với chính tình yêu của Ngài. Nhưng trước đó, môn đồ phải dứt khoát quyết định theo Chúa Kitô.
2. Trong đời sống mỗi người, có một ngưỡng cửa giúp kiểm chứng cách rõ ràng việc họ phó thác cho Thiên Chúa và từ bỏ chính mình có thật sự và thực tâm hay không. Đó là cái chết. Kẻ nào dám liều mất sự sống đời này một cách ý thức, thì có thể nói: quyết định của họ là triệt để và đích thực. “Vác khổ giá của mình” là cho thấy mình sẵn sàng chết đi. Môn đồ chỉ xứng đáng theo Thầy khi sẵn sàng đánh mất sự sống, khi chấp nhận điều đó một cách sâu xa và với tất cả con người.
3. Lúc một người anh em trong Chúa Giêsu Kitô hay một linh mục vào nhà ta, ta không chỉ đón tiếp họ theo phép lịch sự tự nhiên, thường tình, nhưng trong đức tin, như tiếp đón chính Chúa Giêsu vậy.
4. Ta phải lưu lâm đến hết mọi người và phục vụ họ ngay cả trong những chuyện tầm thường nhất, như mời một ly nước lã. Vì bất cứ một sự lưu tâm nào đối với kẻ “bé mọn” nhất cũng là một sự lưu tâm đối với Chúa. Khi mở rộng lòng mình cho tha nhân như thế, ta sẽ “được sự sống” là điều duy nhất có thể làm ta thỏa mãn.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Chủ đề Chúa Nhật XIII Thường Niên năm A này có thể được gọi là “sự đón tiếp” hay “lòng hiếu TN 13-A84
Chủ đề Chúa Nhật XIII Thường Niên năm A này có thể được gọi là “sự đón tiếp” hay “lòng hiếu khách”. Đây là chủ đề được bàn đến trong bản văn Cựu Ước, cũng như trong bản văn Tin Mừng.
2V 4: 8-11, 14-16
Bài Đọc I, được trích từ sách Các Vua quyển hai, thuật lại một người phụ nữ ngoại giáo xứ Su-nêm đã đón tiếp ngôn sứ Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, một cách vô vị lợi vào thế kỷ IX tCn.
Rm 6: 3-4, 8-11
Từ Chúa Nhật XIII này cho đến Chúa Nhật XXIV Thường Niên năm A, chúng ta đọc thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Bản văn hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về bí tích Thánh Tẩy.
Mt 10: 37-42
Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ của Đức Giê-su về “sứ mạng truyền giáo”, trong đó Đức Giê-su khuyên các môn đệ từ bỏ chính mình và mời gọi các cộng đồng Ki-tô hữu tiếp đón họ như chính Ngài: “Ai đón tiếp anh em, là đón tiếp Thầy”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 8-11, 14-16)
Hai sách “Các Vua” tường thuật lịch sử mười chín vua Ít-ra-en và hai mươi vua Giu-đa. Trong toàn bộ Cựu Ước, hai tác phẩm này được minh họa bằng một số lượng lớn những chuyện truyền kỳ ý nhị, ly kỳ, về những ngôn sứ có đời sống tôn giáo rất tinh tế.
1. Những chuyện truyền kỳ về các ngôn sứ trong hai sách Các Vua
Các ngôn sứ chiếm một vị thế đáng kể ở trong hai tác phẩm này. Về lãnh vực “chính trị”, họ là những người gây dựng và phá đổ các vua; về lãnh vực “tôn giáo”, họ là những người bảo vệ lòng trung tín đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en; về lãnh vực “thần thông”, họ có quyền phép thực hiện những điềm thiêng dấu lạ. Ba ngôn sứ vĩ đại trổi vượt trên tất cả các ngôn sứ khác: Ê-li-a, Ê-li-sa vào thế kỷ IX, và I-sai-a vào thế kỷ VIII tCn.
Ngôn sứ Ê-li-sa vốn là một điền chủ giàu có, được ngôn sứ Ê-li-a kêu gọi trở thành môn đệ truyền chân của mình. Không một chút ngần ngại, ông đã từ bỏ tất cả mà theo thầy. Từ đó, ông trở thành người bạn đồng hành trung thành và kế nghiệp thầy sau khi thầy biến mất một cách mầu nhiệm. Như ngôn sứ Ê-li-a, ngôn sứ Ê-li-sa thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc miền Bắc, chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 tCn).
Tập truyện về ngôn sứ Ê-li-sa thì đầy dẫy những kỳ tích chẳng kém gì tập truyện của ngôn sứ Ê-li-a. Chắc hẳn các môn đệ của vị ngôn sứ này, vì muốn độc giả thấy rằng thầy mình chẳng thua kém vị tiền nhiệm của thầy nên đã gán cho ông những kỳ tích tương tự, thậm chí giống y như những kỳ tích của ngôn sứ Ê-li-a. Chẳng hạn như ngôn sứ Ê-li-sa thực hiện phép lạ khi làm cho bình dầu của một bà góa không hề vơi (2V 4: 1-7) có thể sánh ví với phép lạ mà ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho bà góa xứ Xa-rếp-ta. Phép lạ này mở đầu cho câu chuyện về lòng hiếu khách của một người phụ nữ xứ Su-nêm được trích dẫn hôm nay.
2. Lòng hiếu khách của người phụ nữ xứ Su-nêm
Su-nêm là một thành phố nhỏ bé miền Ga-li-lê, gần thành Na-im, dưới chân núi Hê-môn. Vào thời Cựu Ước có nhiều người Su-nêm sinh sống ở đây. Người phụ nữ Su-nêm nổi tiếng nhất là vị hôn thê của sách Diễm Tình Ca. Đó cũng là người phụ nữ xứ Su-nêm của sách Các Vua quyển hai này. Bản văn nói với chúng ta rằng bà “thuộc giới thượng lưu”, nghĩa là “một mệnh phụ”.
Lòng hiếu khách vốn là tập quán của các dân tộc thời xưa. Việc tiếp đãi khách vừa tự phát vừa quảng đại. Cựu Ước cung cấp cho chúng ta nhiều mẫu gương về lòng hiếu khách này. Tuy nhiên, lòng hiếu khách của người phụ nữ xứ Su-nêm này không là chuyện thường tình. Người khách mà bà tiếp đón tận tình trong nhà mình, không chỉ là một khách qua đường nhưng còn là “một người của Thiên Chúa”, nghĩa là một ngôn sứ. Bà bảo xây cho vị ngôn sứ một phòng nhỏ trên sân thượng, là nơi hảo hạng ở đó vị ngôn sứ có thể ẩn mình hay nghỉ qua đêm vào những lúc khí trời nóng nực.
3. Lòng hiếu khách được đền đáp
Ngôn sứ Ê-li-sa muốn đền đáp sự tiếp đón thịnh tình của bà bằng một cử chỉ biết ơn. Ông cho mời bà Su-nêm đến. Bà đến đứng ngoài cửa. Lúc đó vị sứ giả của Thiên Chúa cho bà một lời hứa mà chỉ có sứ giả của Thiên Chúa mới có thể thực hiện được bởi vì vào lúc đó bà không thể sinh con, còn chồng bà đã cao niên: “Sang năm, cũng vào thời kỳ này, bà sẽ có cháu trai bồng”. Chuyện tích này được điểm tô với những hồi ức của sách Sáng Thế, trong đó sứ thần Đức Chúa đã ban cho bà Sa-ra cùng một lời hứa như vậy (x. St 18: 10).
Phần cuối câu chuyện không trích dẫn cho chúng ta trong bản văn hôm nay. Con trẻ chết bất đắc kỳ tử. Ngôn sứ Ê-li-sa phục sinh cậu như ngôn sứ Ê-li-a đã phục sinh con trai bà góa xứ Xa-rếp-ta. Hai chuyện tích này xem ra như bộ đôi, nằm giữa truyền thuyết và lịch sử. Người kể chuyện đã muốn nhấn mạnh rằng việc tiếp đón vô vị lợi và nhân ái có một tầm quan trọng dưới thánh nhan Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay trở lại chủ đề này về tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với những ai thực hành lòng hiếu khách này.
BÀI ĐỌC II (Rm 6: 3-4, 8-11)
Thư gửi tín hữu Rô-ma này được viết từ Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 trong đó thánh Phao-lô trình bày một tổng thể đạo lý rộng lớn mà thánh nhân nhắc lại trong các thư của mình. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô trình bày thần học về bí tích Thánh Tẩy cách hùng hồn sống động. Thần học này phù hợp với thần học mà chính Đức Giê-su ngỏ lời với ông Ni-cô-đê-mô: “Thật tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3: 5).
Những gì thánh Phao-lô khai triển ở đây dựa vào nghi thức Thánh Tẩy được cử hành trong Giáo Hội tiên khởi: nhận chìm mình trong nước. Dự tòng bước xuống nhận chìm vào bể nước Thánh Tẩy và khi người ấy bước lên khỏi nước, người ta mặc cho người ấy một chiếc áo trắng tinh tuyền, dấu chỉ của sự biến đổi thành một con người mới. Đây là chiều kích biểu tượng đầu tiên về bể nước thánh tẩy và ơn thánh hóa. Chính thánh Phao-lô đã gợi lên điều này nhiều lần như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (1Cr 6: 11), và như khi thánh nhân viết cho tín hữu Ê-phê-xô: “Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống” (Ep 5: 25-26).
Nhưng trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân diễn tả nghi thức Thánh Tẩy thành biểu tượng của sự chết và cuộc tái sinh, thậm chí cả cuộc phục sinh, biểu tượng này liên kết cách biểu cảm hơn giá trị thánh hóa của bí tích Thánh Tẩy với cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
1. Biểu tượng của cái chết
Bể nước Thánh Tẩy được sánh ví với ngôi mộ trong đó người chịu phép Thánh Tẩy như được mai táng: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để nên một với Đức Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người. Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người”.
Cái chết của Đức Ki-tô là “chết đối với tội”. Khi chấp nhận cái chết thể lý, Đức Ki-tô làm cho mình trở nên liên đới với nhân loại tội lỗi. Người chịu phép Thánh Tẩy, bằng cách tái hiện cái chết này một cách mầu nhiệm, cũng chết vì tội lỗi, vì thế nên một với Đức Ki-tô người ấy có thể chiến thắng sự dữ.
2. Biểu tượng của sự sống
Vì thế, việc trồi lên khỏi nước có thể được sánh ví với cuộc tái sinh, khai mở một cuộc sống mới, theo sát nghĩa: một cuộc hành trình vào một đời sống mới. Sức mạnh đầy năng động của Chúa Thánh Thần mà dự tòng lãnh nhận ở bí tích Thánh Tẩy được gợi ý cách mặc nhiên.
Ngoài ra, người ấy được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, đó là bảo chứng cho cuộc phục sinh: “Cũng như Đức Ki-tô đã chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng vinh hiển của Chúa Cha… Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người”. Thánh Phao-lô cũng sẽ viết cho tín hữu Cô-lô-xê theo cùng những từ ngữ như vậy, khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được chỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết” (Cl 2: 12). Như vậy, ngay từ bây giờ chứ không phải đợi đến cuộc sống mai hậu, nếu chúng ta chết đối với tội, Đức Ki-tô cho chúng ta được sống bằng sự sống của Ngài.
TIN MỪNG (Mt 10: 37-42)
Thánh Mát-thêu đã tập hợp những lời dạy của Đức Giê-su thành năm bài diễn từ: diễn từ trên núi, cũng được gọi “Hiến Chương Nước Trời” (bắt đầu với các mối phúc thật); diễn từ về sứ vụ truyền giáo; diễn từ về các dụ ngôn; diễn từ về Giáo Hội; và diễn từ về thời cánh chung. Diễn từ về “sứ vụ truyền giáo” hình thành nên một đơn vị rất rõ nét: Đức Giê-su vừa mới chọn nhóm Mười Hai và trình bày cho họ những gì Ngài chờ đợi từ họ. Vào Chúa Nhật XIII năm A này, Tin Mừng chỉ trích dẫn những huấn thị sau cùng.
1. Người Tông Đồ và sự từ bỏ
Đức Giê-su đòi hỏi các Tông Đồ phải từ bỏ cách triệt để. Đây là lời mời gọi theo Đức Giê-su không một chút do dự, không lưu luyến quá khứ, yêu mến Ngài vô giới hạn, trên cả những mối tình thâm ruột thịt. Rồi, dưới Giao Ước Cũ, chi tộc Lê-vi, được thánh hiến để phụng sự Đức Chúa, bị đòi hỏi phải từ bỏ tương tự. Lê-vi là “người đã nói về cha mẹ nó: ‘Tôi không nhìn thấy họ’, anh em nó, nó không nhìn nhận, con cái nó, nó không biết” (Đnl 33: 9).
Chính Đức Giê-su đã cho một mẫu gương, Ngài đã rời bỏ gia đình mình, bà con thân thuộc mình, nghề nghiệp mình mà ra đi thi hành sứ vụ mình bằng việc tận hiến cho tha nhân. Khi những thân nhân của Ngài tìm cách ngăn trở sứ vụ của Ngài, Đức Giê-su trả lời: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 49-50; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Các Tông Đồ đã hiểu những đòi hỏi này khi Ngài cất tiếng gọi họ: “Hãy theo tôi”. Hai anh em ông Phê-rô và An-rê đã để lại thuyền và lưới mà đi theo Ngài. Hai anh em ông Gioan và Gia-cô-bê cũng đã làm như vậy, thậm chí cả cha già của mình nữa. Ông Mát-thêu, viên chức thu thuế, đã không một chút do dự từ bỏ nghề nghiệp béo bở hái ra tiền cũng như gia đình cùng bạn bè mà theo Ngài.
2. Người môn đệ và sự đau khổ
Huấn lệnh khắc nghiệt này: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, được ngỏ lời không chỉ với những người ưu tuyển mà còn với hết mọi người. Quả thật, thánh Mác-cô viết: “Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: ‘Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo’” (Mc 8: 34), còn thánh Lu-ca thì lại viết: “Rồi Đức Giê-su nói với mọi người….” (Lc 9: 23-24 và 14: 26-27).
Qua hình ảnh “thập giá”, Đức Giê-su báo trước nỗi đau khổ đang chờ đợi những ai muốn là môn đệ của Ngài. Đức Giê-su không tìm cách làm nhẹ đi lời nói của Ngài. Ngài đã loan báo rồi những bách hại sẽ giáng xuống trên họ (Mt 10: 17-25). Tình yêu mà Ngài đòi hỏi ở nơi họ là phải đi cho đến mức liều mất mạng sống mình vì Ngài. Sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giê-su sẽ lập lại những đòi hỏi căn bản này: vác lấy thập giá mình mà theo Ngài, đừng cố cứu mạng sống mình, nhưng liều mất mạng sống mình vì Ngài để gặp thấy sự sống đích thật (Mt 16: 24-26 và Mc 8: 34-35; Lc 17: 33 và Ga 12: 25). Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su còn nói rõ hơn: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25).
3. Cộng đoàn và sự đón tiếp
Bù lại, những ai dám từ bỏ cách anh dũng như vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu phải niềm nở đón tiếp họ và thấy ở nơi họ chính Đức Ki-tô và “Đấng đã sai Ngài”. Như vậy, sau khi đã phác họa một bức tranh nhiều gam màu khổ đau, Đức Giê-su lại đặt niềm tin tưởng vào các môn đệ Ngài: Ngài đồng hóa các ông với Ngài, Ngài cho các ông được liên đới với sự hiện diện của Thiên Chúa mà các ông sẽ là dấu chỉ. Đối với những ai đã từ bỏ gia đình xác thịt, Ngài hứa một gia đình thiêng liêng.
“Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính”. Hai thuật ngữ: “ngôn sứ” và “người công chính”, được mượn ở Cựu Ước, ở trong bản văn Tin Mừng này xem ra thuật ngữ ngôn sứ chỉ ra các nhà truyền giáo và thuật ngữ người công chính chỉ ra các tín hữu.
“Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. “Những kẻ bé nhỏ” mà Chúa Giê-su muốn nói trước hết chính là các Tông Đồ, họ thuộc về những kẻ bé mọn mà những mặc khải về Nước Trời đã được hứa ban cho họ: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11: 25). Tuy nhiên, thuật ngữ này có một ngữ nghĩa rộng lớn hơn. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca tường thuật rằng vào lúc đó Đức Giê-su đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Lc 9: 48; Mc 9: 36-37).
Với Chúa nhật XIII này, kết thúc bài "diễn từ sai đi truyền giáo".1. Sẵn sàng để theo Đức Kitô. TN 13-A85
Với Chúa nhật XIII này, kết thúc bài "diễn từ sai đi truyền giáo".
1. Sẵn sàng để theo Đức Kitô.
Đức Giêsu nói với "mười hai môn đệ" thân thiết mà Người vừa phong làm tông đồ, tức là những kẻ "được sai đi, của Người. Bài diễn từ có chia làm phần rõ rệt: Phần thứ nhất tập trung vào SỰ SẴN SÀNG TRỌN VẸN và sự gắn bó triệt để của người môn đệ vào Đức Kitô. Đức Giêsu đòi người môn đệ yêu mến Người hơn những gì thân yêu nhất: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy không xứng đáng làm môn đệ Thầy. Ai yêu con cái hơn Thầy không xứng làm môn đệ Thầy. Những lời này không đi ngược với giới răn thảo kính cha mẹ. Trong thể văn khoa đại kiểu Sêmít, những lời này chỉ nhắm thiết lập một trật tự ưu tiên trong những lựa chọn. Những tình cảm gia đình, dù chính đáng, không thể kìm hãm, càng không thể ngăn chặn những môn đệ bước theo Đức Giêsu. Những mối dây liên hệ thiêng liêng này chỉ là tương đối so với mối liên hệ tuyệt đối: gắn bó vô điều kiện vào bản thân Đức Giêsu. Ở đoạn văn trước đó, cùng đậm đặc chất Sêmít, Đức Giêsu đã nói không úp mở cho những ai muốn theo Người biết những chọn lựa đau đớn mà họ sẽ phải trải qua: "Thầy đến để tách lìa con trai khỏi cha, con gái khỏi mẹ, con dâu khỏi mẹ chồng, người trong một nhà sẽ chống đối nhau. Claude Tassin gợi ý: "Hãy nghĩ tới nhũng người ngoại đạo mới trở lại, từ chối không thờ lạy thần của gia đình vì đức tin Kitô hữu... Giữa "ngôi nhà" của Thiên Chúa (câu 25) và ngôi nhà của riêng mình", người môn đệ luôn luôn bị đẩy vào cho phải lựa chọn giữa (nhà" của Thiên Chúa và "nhà của riêng mình”, Đức Giêsu sẽ đi xa hơn nữa: Người mời gọi môn đệ yêu mến Người hơn chính bản thân họ, hơn cả mạng sống của họ? Và vì người môn đệ đã chọn chia sẻ vận mệnh với Người, Đức Messia chọn đóng đinh, họ sẽ không ngại ngùng vác lấy "thập giá bản thân" mà theo Người". Nếu ta thường cho rằng kiểu nói "vác thánh giá" thuộc về một ngôn ngữ ước lệ thì các độc giả của Matthêu không nghĩ thế, vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bắt bớ, đe doạ, nơi cái chết trên thập giá xảy ra rất thường và là hình khổ tàn bạo, nhục nhã hơn hết, hình khổ dành cho nô lệ. Thế nên ai chọn nối bước Đức Giêsu chắc chắn rồi sẽ như Thầy mình, gặp phải hiểu lầm, thù ghét, và cả bắt bớ nữa.
2. Đón tiếp các môn đệ của Đức Kitô.
Với 4 câu, phần thứ hai trở lại đề tài "ĐÓN TIẾP" môn đệ Đức Kitô.
Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi: "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy; ai tiếp đó Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón tiếp theo 3 mức độ giảm dần một cách nghịch lý: các "tiên tri", những "người công chính", nhưng "kẻ bé mọn", và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm. Các "tiên tri" hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo Hội sơ khai. Những "người công chính có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu. Còn những kẻ "bé mọn" là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là "tin" vào Đức Giêsu. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt.
J. Perron ghi nhận: "không ý nghĩa sao, chỉ "diễn từ tông đồ" này khởi đầu như chỉ nói riêng với nhóm 12, tách họ riêng ra, trao cho họ trách nhiệm và tư cách người được sai đi của Đức Kitô, lại kết thúc bằng trao ban cho cả những người bé nhỏ nhất sự cao trọng và trách nhiệm y như thế?”.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
(Mgr. L. Daloz, Le Règne descieux s 'est approché DDB).
1. Đức Giêsu không chỉ đồng hoá với các tông đồ mà Người sai đi loan báo Nước Thiên Chúa. Người còn đồng hoá với mỗi một môn đệ, nhất là với những người bé nhỏ nhất. Người sẽ nói: "Ai vì danh Thầy mà đón tiếp một trẻ nhỏ chính là đón tiếp chính Thầy" (l8,5). Đặc biệt, Người mời gọi ta nhận biết Người trong những kẻ túng cùng, khốn khổ: "Quả thực Thầy bảo anh em, mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn này, là anh em làm cho chính Thầy" (25,40). Hôm nay, ngay khi nói với các tông đồ: "Ai tiếp đón anh em la tiếp đón Thầy". Người nói tiếp và cho biết Người gắn bó biết bao với từng người: cho một tiên tri vì họ là tiên tri, cho người công chính vì họ là người công chính, cho kẻ bé mọn nhát vì họ là môn đệ. Ai đón tiếp họ, Người hứa sẽ ban phần thưởng, khi đón tiếp họ, cũng là chọn đứng về phía Người. Giữa Đức Giêsu và các môn đệ có một dây hiệp thông sâu xa. Đôi khi ta nói về "bí tích huynh đệ". Các bí tích, trước hết là bí tích rửa tội, không biến anh em ta, một cách nào đó, thành những “bí tích" của Đức Giêsu Kitô mà họ đã được ghi đấu đó sao? Cái nhìn đức tin phải giúp ta nhận biết Đức Giêsu hiện diện trong anh em ta. Mỗi người chúng ta được sai đến với con người để cho họ biết Đức Giêsu đã đến gần...".
2. Điểm bình thường trở tàhnh nơi diễn ra lắm bất ngờ
Yêu thương, tiếp đón là những từ ngữ thuộc về ngôn từ và phong tục của Nước Trời. Cái bình thường, cái thường ngày trở thành ân sủng, khả năng, khám phá ra niềm vui Nước Trời. Điều bình thương nhất như cho một ly nước uống, bỗng trở thành nơi diễn ra sự bất ngờ, mạc khải. Có lẽ Thiên Chúa muốn thời gian nghỉ hè sắp tới sẽ giúp ta trở nên biết quan tâm tới người khác, tới Đấng khác. Như thế, chúng ta sẽ trở thành những con người của niềm tin, những tín hữu.
Chủ đề: Chia xẻ thân phận của Đức Kitô - Thái độ tiếp đón. - Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18): "Người TN 13-A86
Chủ đề: Chia xẻ thân phận của Đức Kitô - Thái độ tiếp đón
- Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18): "Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa"
- Đáp ca (Tv 88): "Tôi sẽ ca ngợi tình thương Chúa đến muôn đời"
- Tin Mừng (Mt 10,37-42): "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" - "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
- Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ): "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Sợi chỉ đỏ:
Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề:
1. Chủ đề tiếp đón: được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến trọ tại nhà (Bài đọc I), và phần thứ hai của bài Tin Mừng: "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
2. Chủ đề chia xẻ thân phận của Đức Giêsu: được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng: "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó", và bài đọc II: "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Minh họa
- "Ai cho một trong những kẻ bé mọn dù chỉ một ly nước lã, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mt 10,42)
I. Dẫn vào Thánh lễ
- (Nếu chọn chủ đề I): Anh chị em thân mến
Trong xã hội thời nay, người ta thường sống theo kiểu chủ nghĩa cá nhân: mạnh ai nấy lo, sống chết mặc bây, đèn nhà ai nhà nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu vắng tình thương, ích kỷ, thờ ơ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu thương người khác và tiếp đón người khác như tiếp đón chính Chúa.
- (Nếu chọn chủ đề II): Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày một nghịch lý: "Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất; Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là dám liều mạng sống vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta rất thờ ơ với những anh chị em sống chung quanh chúng ta. - Chúng ta coi thường những người nghèo nàn, thất học và không có địa vị. - Chúng ta ít khi hy sinh vì Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18)
Tường thuật câu chuyện giữa ngôn sứ Êlisê và một phụ nữ xứ Sunam:
- Trên đường sứ mạng, ngày kia Elisê đến vùng Sunam
- Ở đấy, một phụ nữ đã mời Ông vào nhà dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Elisê là một vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Elisê một căn phòng có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể đến trú ngụ.
- Đáp lại lòng tốt của vợ chồng này, ngôn sứ Elisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một đứa con trai đầu lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Elisê lại làm phép lạ cho nó sống lại).
2. Đáp ca (Tv 88)
Tv này ca ngợi tình thương của Chúa. Tác giả còn nguyện sẽ ca ngợi như thế mãi tới muôn đời.
3. Tin Mừng (Mt 10,37-42)
Có thể chia đoạn Tin Mừng này thành 2 phần:
- Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ: Nếu muốn làm môn đệ xứng đáng của Ngài thì phải từ bỏ rất nhiều: tình yêu gia đình, mạng sống; và còn phải sẵn sàng vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
- Phần sau (các câu 40-42) dạy về sự tiếp đón: ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi như là tiếp đón chính Đức Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giêsu đến; ai tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.
4. Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)
Văn mạch: Phaolô đang đưa ra những lập luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận thứ nhất: con người đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng con người lại được ơn nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được ơn nghĩa thì phải tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đoạn tuần này đưa ra lập luận thứ hai: muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức Giêsu bằng phép rửa:
- Chịu phép rửa nghĩa là cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
- Như thế, kẻ đã lãnh nhận phép rửa hãy dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Những nét đẹp của sự Tiếp đón
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương: 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18); 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I); 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề:
1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp đón khách? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác: Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Elisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì? Là sự sống: hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:
- Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
- Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
2. Chúa Giêsu là số mấy?
Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề: người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ?
Bình thường, người ta coi bản thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai: - một là cha mẹ, hai là Chúa - một là con cái, hai là Chúa - một là mạng sống mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy"; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa! Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trí số mấy?
3. Nhiều loại từ bỏ
Có nhiều loại từ bỏ:
- Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
- Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào?
- Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
4. Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc:
- Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy": Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói "vác thập giá mình" có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.
- Câu 39 "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó": chữ hy lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ "lòng", "trí", "tim", tổng quát là cả "cuộc sống", toàn thể "con người". Như thế, "đành mất mạng sống" có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.
5. Những bài toán
Thông thường người ta thích làm toán cộng và toán nhân, nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia: làm toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta: "Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10,29-30).
6. Chuyện minh họa
a/ Tiếp đón
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: "Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì". Bà đuổi anh và đóng cửa lại. Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. "Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông". Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. "Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh". Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: "Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta".
b/ Mất và được
Tái ông thất mã: Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông đáp: "Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may." Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông nói: "Chưa hẳn được ngựa là may đâu." Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được. (Trích "Phúc")
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Muốn dấn thân theo Chúa Giêsu, người kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Với quyết tâm bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết lắng nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày càng trưởng thành hơn.
2. Đời sống thường ngày cho chúng ta thấy có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ mà không thích nghe đề cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.
3. Tận tình giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh nan y / những người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực hiện lời dạy của Thánh Phaolô / "vui với người vui, khóc cùng người khóc".
4. Hết lòng nâng đỡ / và chân thành cộng tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết rộng rãi giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong việc mục vụ thường ngày.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua con đường đau khổ rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng: nếu muốn được chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua con đường thập giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là con đường dẫn đưa đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy nhớ rằng những người sống chung quanh chúng ta cũng là anh chị em cùng một Thiên Chúa là Cha như chúng ta. Vậy chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta yêu thương và tiếp đón những anh chị em ấy.
VII. Giải tán
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta sống với người khác bằng thái độ tiếp đón, và sống với Chúa bằng cách coi Chúa trọng hơn tất cả mọi người và mọi sự. Chúng ta hãy ra về và cố gắng sống như thế.
Lũ trẻ từ bỏ mình vì yêu Hài Nhi Giêsu. Ðó là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ đầy mặt đất TN 13-A87
Lũ trẻ từ bỏ mình vì yêu Hài Nhi Giêsu.
Ðó là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ đầy mặt đất, bốn đứa trẻ của gia đình ông bà Mặc Ðăng Nghinh (Mc Donald) bị bó cẳng, không ra ngoài chơi được, nên cãi lộn, trêu chọc và phá hỏng đồ chơi của nhau. Chúng làm thế chỉ vì hiếu động nhưng cũng có màn gay cấn. Chẳng hạn, từ phòng khách bà mẹ nghe rõ mồn một:
- Con mụ kia! Của tôi mà!
- Không phải đâu anh "phệ"! Tôi dành được trước mà.
Giáng sinh mới qua có mấy ngày mà lũ trẻ đã om sòm cãi nhau về những đồ chơi chúng nhận được vào dịp lễ.
Bà Nghinh sực nghĩ tới một sáng kiến để giúp bọn trẻ thực sự sống ơn bình an và hoà giải mà Chúa Giáng sinh mang lại. Nhiều năm trước, bà nội có kể cho bà nghe về một phong tục Giáng sinh cổ truyền. Người ta đã giúp trẻ em khám phá ra ý nghĩa đích thực của Giáng sinh qua một trò chơi độc đáo.
Vậy người mẹ đã tập hợp bốn đứa nhóc lại và hỏi: các con có muốn chơi trò chơi Giáng sinh mới không? Ðiều cần thiết là phải giữ bí mật. Ai có thể chơi môn chơi bí mật này?
- Con! Ðức (Eric) mau miệng nói trước.
- Con có thể giữ bí mật hơn anh ấy, Bé Hiền cướp lời anh. Nó tên là Hiền mà chẳng hiền chút nào. Lúc nào cũng muốn gây gỗ với anh lớn hơn nó một tuổi.
Hai đứa nhỏ nhất cũng huà theo tuy chưa rõ chuyện ất giáp ra sao: Con cũng làm được - Con cũng làm được.
Người mẹ giải thích:
- Ðược rồi, đây là nội dung trò chơi: chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh lại vào ngày 25 tháng Giêng sắp tới, và sẽ chuẩn bị cho Hài Nhi Giêsu một máng cỏ êm ái nhất thế giới để Hài Nhi Giêsu ngủ ngay ở đây trong căn nhà của chúng ta. Chúng ta sẽ chất rơm đầy máng cỏ giúp tạo hơi ấm để Hài Nhi có thể ngủ ngon. Và đây là ý nghĩa của trò chơi. Mỗi cọng rơm đặt vào máng cỏ tượng trưng cho một việc tốt chúng ta làm cho một người nào đó, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh. Càng nhiều việc tốt, máng cỏ càng có nhiều cọng rơm và Hài Nhi Giêsu càng được êm ấm. Ðiều phải giữ kín là: chúng ta không được kể cho ai biết việc tốt đó được thực hiện cho bất cứ ai.
Bé Hiền là người đầu tiên thắc mắc: "Làm thế nào mà Chúa Hài Ðồng Giêsu biết đó là giường của Ngài?"
Người mẹ trả lời: Ngài sẽ biết thôi, Ngài sẽ nhận ra tình yêu chúng ta đặt nơi máng cỏ nhờ sự êm ái máng cỏ.
- Nhưng chúng ta sẽ làm việc tốt cho ai? Ðó là thắc mắc của Ðức, đứa lớn nhất. Người mẹ trả lời: Ðơn giản thôi, chúng ta sẽ thực hiện việc tốt cho nhau. Mỗi tuần, từ bây giờ đến lễ Giáng sinh đó, chúng ta sẽ để tất cả tên chúng ta trong chiếc mũ này, cả tên của mẹ và tên của bố. Rồi mỗi người sẽ rút một tên và làm việc tốt cho người đó trong cả tuần.
Nhưng đây mới là điều khó: Chúng ta không được cho ai biết tên người rút được và phải cố gắng làm nhiều điều tốt cho người mình rút được tên. Mỗi khi làm một việc tốt, chúng ta sẽ đặt một cọng rơm vào máng cỏ.
Bé Hiền cau mày nói: Nhưng nếu con rút phải tên người con không thích thì sao?
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy
thì không xứng với Thầy
Người mẹ suy nghĩ một chút rồi nói: Con có thể dùng những cọng rơm lớn hơn dành cho việc việc tốt con làm cho người đó, vì việc tốt loại đó được thực hiện cách khó khăn. Dĩ nhiên những cọng rơm lớn sẽ mau làm đầy máng cỏ. Thế rồi vào đêm Giáng sinh, Hài Nhi Giêsu sẽ cảm thấy êm ái biết bao khi Ngài nằm trên máng cỏ với những cọng rơm bự chất chứa nhiều tình yêu loại đó! Mẹ cho rằng Chúa Hài Ðồng sẽ rất vui vẻ khi ta bày tỏ tình yêu dành cho Ngài.
Vấn đề được nêu lên là "Ai sẽ làm máng cỏ?" Vì Ðức lớn nhất và là đứa duy nhất được phép sử dụng dụng cụ, nên nó xuống ngay nhà hầm và hí hoáy thực hiện công trình mà nó lấy làm hãnh diện. Trong hai giờ đồng hồ từ nhà hầm vang lên tiếng lưỡi cưa xèn xẹt, rồi tiếng búa đập trên đinh. Một lúc lâu, tất cả đều im bặt không còn tiếng động nữa. Cuối cùng, Ðức trèo lên nhà với chiếc máng cỏ trong tay. Nó cười toe:
- Ðây rồi, chiếc máng cỏ đẹp nhất thế giới! Con làm có một mình đấy nhé!
Mọi người đều đồng ý và bà Nghinh có thể tiến hành trình bày trò chơi Giáng sinh của bà: Bây giờ chúng ta cần những cọng rơm.
Thế là năm mẹ con lên xe. Bà Nghinh lái xe tới một mảnh đất bỏ hoang đầy cỏ dại. Bây giờ là cuối tháng mười hai, cỏ đã khô và ngả sang màu vàng trông giống như rơm. Chỉ trong chốc lát chiếc hộp bằng các tông nơi thùng xe chứa đầy cọng cỏ khô giống như rơm.
Sau bữa cơm tối, ai nấy trong bàn ăn đều rút thăm lấy một mảnh giấy đã gập lại trong đó có ghi tên một người trong gia đình gồm hai bố mẹ và bốn con.
Bé Hiền rút trước, lập tức nó khúc khích cười. Tiếp theo là Lan rút ngay miếng giấy bố nó đã viết khiến bố nó che miệng tủm tỉm cười. Ðến lượt hai ông bà rút thì cả hai đều nghiêm túc không tỏ thái độ. Út Minh là người duy nhất chưa biết đọc, nên bố nó phải đọc thầm lá thăm vào tai nó. Ðức là người rút thăm cuối cùng. Người ta thấy rõ nét mặt nó tỏ ra không hài lòng. Nó nhét cái tên vào túi áo, không nói gì.
Tuần lễ sau, nhiều bất ngờ xảy ra. Dưới nhà hầm, có người đã quét sạch mạt cưa thay cho Ðức. Còn bé Hiền đánh răng rồi về phòng thì thấy phòng mình đã được dọn dẹp tươm tất. Nơi nhà bếp có ai đã lau quét tươm tất khi bà Nghinh ra cổng lấy thư về. Mỗi buổi sáng bố hỏi: Giày của bố đâu rồi? Không ai trả lời cả, nhưng trước khi đi làm, bố lại thấy đôi giầy của mình đã được đánh bóng và để vào chỗ cũ.
Dáng dấp của phần thưởng không bị mất
Bà Nghinh để ý thì thấy những thay đổi quan trọng hơn xảy ra trong tuần: Lũ trẻ không trêu chọc nhau hoặc đánh lộn nhau nhiều như trước. Ðôi khi có nổ ra cuộc tranh cãi, nhưng bỗng im bặt không vì một lý do rõ ràng. Ngay cả bé Hiền và Ðức cũng tỏ ra hoà hoãn với nhau hơn. Thực ra, lũ trẻ đều có những nụ cười bí mật và đôi khi bật thành tiếng khúc khích.
Bốn tuần lễ "Mùa Vọng" (theo trò chơi) đầy những bất ngờ mà bất ngời cuối cùng là do bé Ðức. Nó liên tục rút phải tên bé Hiền nên nó dứt khoát muốn bỏ nhà ra đi để cho mọi người ăn lễ Giáng sinh đó xong mới về. Mẹ phải tìm đủ cách thuyết phục, Ðức mới đổi ý. Ðức đã đặt nơi máng cỏ cọng rơm cuối cùng, loại bự!
Câu chuyện vừa kể giúp làm sáng tỏ phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo (Mt 10,1-42). Ở phần chót của bài giảng này, điều được nhấn mạnh là từ bỏ (cc 37-39) và phần thưởng (cc 40-42).
Bài giảng về sứ mạng truyền giáo đã lần lượt dạy các môn đệ về việc phải làm (cc 5-15) về tình hình thù địch phải đối phó (cc. 16-25) về niềm tin tưởng vào Thiên Chúa cần được duy trì (cc. 26-33).
Bây giờ để kết thúc, Ðức Giêsu đòi các môn đệ trong bối cảnh tình yêu mà ai cũng dễ dàng nghiệm thấy được, đó là bối cảnh gia đình. Nhưng ở phần cuối này, Ðức Giêsu còn đòi các môn đệ phải xác định rõ mối tình lớn lao hơn mối tình đối với cha, với mẹ, với con trai, con gái của mình (c.37). Ở đây Ðức Giêsu chỉ nhẹ nhàng ám chỉ về tình yêu của "Ðấng đã sai Thầy" (c.40). Ðó là Ðấng không xa lạ với các môn đệ vì Ngài ở thâm sâu nơi cõi lòng họ: chính Ngài dạy họ phải nói gì khi bị điệu ra trước vua chúa quan quyền (c.18). Thực ra chính "Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em" (c.20). Thiên Chúa đã yêu ta trước (x. 1Ga 4,10). Trước khi ta biết yêu thương là gì thì Thiên Chúa đã lo để ta có cha có mẹ luôn ứng trực săn sóc và vỗ về, để ta tồn tại và nên người. Nay Thiên Chúa còn phái Ðức Kitô, Con của Người đến cứu ta khỏi tội (Mt 1,21). Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Ðức Kitô, Ðấng hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu (x. Ga 13,13). Nào Ngài chẳng có quyền đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ và con cái ta sao?
Phần chót của bài giảng về sứ mạng truyền giáo nhắc nhở ta về điều cơ bản của bài giảng, đó là niềm tin. Các môn đệ đại diện cho chính Ðức Giêsu, nên đón nhận họ không những là đón nhận chính Ðức Giêsu, nhưng còn là đón nhận Ðấng phái Ðức Giêsu đến trần gian để cứu chuộc muôn người. Sẽ có phần thưởng xứng hợp dành cho những ai đón nhận các ngôn sứ, các thánh nhân và cả các tín hữu Kitô bình thường.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ vì ai mà bọn trẻ của gia đình bà Nghinh từ bỏ mình? Bạn có thấy dáng dấp về phần thưởng chúng nhận được ngay trong bầu khí bình an của gia đình chăng? Phần thưởng ấy sẽ như thế nào sau này theo niềm tin của bạn?
2. Bạn hiểu thế nào về câu nói "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được? (c.39). Bạn có thấy các thánh tử đạo minh hoạ điều vừa nói chăng?
Có những câu thành ngữ khiến nhiều người không khỏi “hoang mang”: sống để bụng, chết mang TN 13-A88
Có những câu thành ngữ khiến nhiều người không khỏi “hoang mang”: sống để bụng, chết mang chôn ; đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Có nhiều việc làm không mang lại kết quả như ý, để rồi sau đó ta buồn phiền than thở “không ai học được chữ ngờ”: bắn súng không nên phải đền đạn, cái miệng hại cái thân, làm phúc phải tội… Đúng, sai, thật, giả, tốt, xấu, đó là những từ đối nghịch nhau, vậy mà đâu phải ai cũng phân biệt được, để rồi hối tiếc, ăn vạ, đổ thừa cho phận số hẩm hiu. Làm sao ta đủ khôn để phân định thật giả ? Làm sao mắt ta đủ sáng để thấy cuộc đời này đâu là trắng, đâu là đen ? Và làm sao để ta đủ tỉnh táo mà nhận biết đâu là người tốt, đâu là Thầy đức độ mà bước theo xin thọ giáo ?
Theo người có đầu óc kinh doanh để học buôn bán, theo thầy thuốc để học chữa bệnh, theo thầy cô giáo để học chữ, học làm người tốt, còn theo Thầy Giêsu để học sống đức ái, học làm người phục vụ Tin mừng, thật không hề đơn giản tí nào. Theo Thầy Giêsu bằng cả con tim khối óc, theo một cách triệt để như Ngài nói: “kẻ nào yêu cha mẹ hơn Thầy thì chẳng xứng với Thầy”. Theo Thầy Giêsu trọn vẹn không những là phải biết từ bỏ con người cũ của mình, mà còn phải biết sống tín thác, biết để tình yêu Chúa làm chủ cuộc đời mình. “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được”.
Thầy Giêsu đi con đường chật hẹp, tất cả những ai tự nguyện làm môn đệ Ngài, đều được mời gọi đi con đường Thầy đã đi rất phong phú, hầu trở nên môn đệ Đức Kitô, xứng đáng làm con cái Cha trên trời. Mang thân phận con người, Đức Giêsu cũng cần học biết vâng phục thánh ý Chúa Cha, và rất cần đến sức mạnh, tình hiệp thông để chu toàn sứ mạng cứu độ. Theo Đức Giêsu, các môn đệ đã từng bước, từng bước, được mở trí mở lòng, các ông hiểu theo Thầy Giêsu không phải chỉ là đúng, sai, thật, giả, không phải là tận hưởng danh lợi thú ở đời này, mà chính là tin yêu phục vụ. Quy luật gieo gì gặt nấy, ở hiền gặp lành, đó là ơn gọi trở nên người tốt, luôn sống như môn đệ Đức Kitô, đáng lãnh nhận phần thưởng của người công chính.
Ơn gọi bước theo Chúa Giêsu của Thánh Phanxicô Assisi, có phải là phản ánh kỳ lạ cho hậu thế không ? Một thanh niên tài giỏi, con nhà quyền quý cao sang, Phanxicô đã dám bán đi hết phần tài sản của mình chia cho người nghèo, ngay cả tấm áo còn lại trên người, ngài cũng trả lại cho thân phụ. Nhận định của một số người khắt khe cho rằng Phanxicô quả là bất hiếu với cha mẹ. Số khác tích cực hơn cho rằng, Phanxicô đã theo Chúa Giêsu một cách trọn vẹn theo tinh thần của Tin mừng: “ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy”. Theo Chúa Giêsu đơn gian là đi đằng sau Chúa, để Chúa huấn luyện, chỉ dẫn cách sống ơn gọi yêu thương phục vụ mà thánh ý Chúa Cha mời gọi.
Ngày hôm nay, theo Chúa Giêsu sống ơn gọi gia đình, hoặc theo Chúa Giêsu vào chủng viện, dòng tu, trở nên linh mục, tu sĩ, theo Chúa Giêsu sống độc thân giữa trường đời, tất cả đều có chung một tâm tình yêu mến phục vụ. Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh, người thuộc về Đức Kitô, dù ở bậc sống nào cũng được mời gọi chia sẻ, dấn thân hoạt động với danh nghĩa là tiên tri, là người công chính. Ngày hôm nay, số anh chị em đói nghèo cơm bánh ít hơn so với số đói tình người, nghèo tình Chúa, nhưng việc làm nhỏ bé như chia sẻ bát “nước lã”, vẫn là việc cần thiết cho ơn gọi theo Chúa Giêsu.
Người trẻ hôm nay vẫn tâm đắc với câu danh ngôn: đừng vì quá cô đơn mà nắm nhầm một bàn tay, cũng đừng vì quá lạnh mà ôm vội một bờ vai. Hẳn kinh nghiệm đó, ai cũng có thể đọc được là hãy cẩn thận và sáng suốt để phân biệt thật giả, tốt xấu. Đừng lầm tưởng nhất thiết phải có được bằng cấp địa vị trong xã hội, đừng vì lợi lộc vật chất mà bán rẻ lương tâm, đừng vì cơ cực mà gục ngã như câu thành ngữ: đói ăn vụng, túng làm liều. Ơn gọi theo Chúa Giêsu là ơn gọi sống yêu thương, ơn gọi trở nên người công chính, ơn gọi để lãnh nhận phần thưởng cao quý, sau khi hoàn tất công việc được trao phó ở trần thế này.
Người xưa có câu: nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn. Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai muốn trở nên môn đệ của Ngài đều phải ý thức sống từ bỏ, để theo Ngài một cách trọn vẹn, tín thác. Nếu Ngài không sử dụng ta trong sứ mạng truyền giáo ở xa xôi, nghĩa là Ngài muốn ta loan báo tình yêu thương của Ngài ngay tại gia đình mình. Theo Chúa Giêsu mà tài năng, vật chất, sức khoẻ, đều giới hạn, có thể khiến chúng ta sợ hãi, chùn bước, thực ra thì Chúa dư biết khả năng mang vác thập giá của từng người, Ngài chỉ cần tấm lòng của chúng ta đối với Chúa và tha nhân. Amen.
Tình yêu làm cho cuộc sống của chúng ta tươi đẹp hơn. Tình yêu đi từ con tim đến con tim, từ TN 13-A89
Tình yêu làm cho cuộc sống của chúng ta tươi đẹp hơn. Tình yêu đi từ con tim đến con tim, từ trải nghiệm đến cảm nếm. Khi yêu, con tim ta dành trọn cho người mình yêu. Ta yêu ai thì luôn nhớ về người ấy, nói về người ấy, luôn dễ dàng mở lòng với người ấy, đến độ ta sống cũng là sống vì người ấy. Dường như, người ta yêu luôn chiếm trọn con tim và cuộc sống của ta, chi phối mọi việc ta làm.
Tình yêu có muôn màu và nhiều hương vị, cũng như mang lại cho ta nhiều cung bậc cảm xúc. Tình yêu cha mẹ dành cho con cái là một tình yêu tự nhiên, không cần đền đáp, luôn mong cho con cái được trưởng thành. Dù phải hy sinh, lao nhọc suốt một đời nhưng cha mẹ chẳng than phiền bởi niềm hạnh phúc khi thấy con lớn khôn đã làm tan biến đi tất cả. Con cái đáp lại tình yêu của cha mẹ bằng lòng hiếu thảo cũng là lẽ phải đạo. Thế nhưng, cả hai tình yêu trên đều không được lớn hơn tình yêu Chúa Kitô. Bởi, “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10, 37). Không những thế, Ngài còn đòi hỏi người môn đệ: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10, 38). Theo Chúa là chọn con đường thập giá nhưng nếu không vác thập gái mình mà theo Thầy thì cũng không xứng với Thầy. Chúa Giêsu đòi hỏi cách quyết liệt và tuyệt đối người môn đệ khi theo Chúa phải đặt tình yêu Chúa Kitô lên trên mọi mối tương quan gia đình, trên chính mạng sống của mình nữa. Khi tự hỏi, tôi có yêu cha mẹ hơn Thầy Giêsu không thì thật khó có câu trả lời chính xác. Nếu ta yêu cha mẹ hơn nghĩa là ta không xứng với Thầy. Thầy đã yêu ta và dành cho ta mọi sự. “Con có phải là đứa con TA yêu dấu, một đứa con TA rất mực mến yêu? Vì mỗi lần nhắc tới con, TA lại thấy nhớ thương, nên lòng TA bồi hồi thổn thức, TA thương con, thương con thật nhiều.” (Gr 31, 20). “Vì con, nước mắt TA chan hòa.” (Is16, 9). Trong những trường hợp đòi hỏi phải chọn lựa, ta luôn nhớ rằng phải đặt Thiên Chúa lên hàng đầu. Khi đã yêu Thầy, ta sẽ sẵn sàng vác thập giá mình mà theo Thầy bởi khi ấy, con tim và cuộc sống của ta đã hướng trọn về Thầy rồi. Chính lúc ấy, “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi.”( 2 Cr 5, 14). Ta sẽ tìm kiếm sự sống đời đời hơn là cố giữ lấy mạng sống mình, dám lao mình về phía trước và sống cho giá trị Tin Mừng.
Mỗi ngày, ta vẫn thường đón tiếp người này người nọ trong mỗi lần gặp gỡ. Thế nhưng, ta có thật sự để cho Lời Thầy đánh động và chi phối mọi lời nói, hành động và cung cách hành xử của ta? Ta có sẵn sàng đón tiếp tất cả những anh chị em mà Chúa gửi đến không? Có khi ta đón tiếp đó nhưng liệu ta có mang đến cho người anh chị em niềm vui vì được gặp gỡ Chúa ngang qua chính ta không? “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10, 40). Đón tiếp ai nghĩa là đón nhận những gì họ mang đến, ngay cả tình trạng hiện tại của họ, ta cũng đón nhận với tấm lòng bác ái. Dù họ chỉ là một người hành khất rách rưới hay một người bạn thân thiết của ta, dù họ là một người có địa vị cao trọng hay chỉ là một người ít học quê mùa, ta có sẵn sàng đón nhận họ với cả tấm lòng? Để đón tiếp tất cả những người ta gặp gỡ cách chân thành, ta cần có cung cách hành xử của Giêsu, nói cách khác là ta phải có văn hóa Giêsu trong mình. Cho ai cái gì không quan trọng cho bằng cách cho. Chúa Giêsu đã dạy: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10, 42). Nếu ta cho với lòng quảng đại và chân thành thì dù chỉ cho một chén nước lã thôi nhưng nhìn nhận họ là anh chị em của ta trong Chúa Kitô, xem họ là môn đệ của Chúa thì ta sẽ đón nhận họ như đón nhận chính Chúa Kitô vậy. Đón tiếp một ngôn sứ là ta đón nhận những gì họ rao giảng bằng lời nói và cả đời sống. Ta đón nhận Tin Mừng của Chúa ngang qua những người ta gặp gỡ. Điều đó đòi hỏi ta phải có ánh mắt của Giêsu. Đón nhận một người công chính là đón nhận những sự thật họ mang đến, cả những sự thật về chính ta, ta có vui lòng đón nhận không? Quả thật, để sống được Lời Chúa dạy, ta phải có một sức mạnh nội tâm thúc đẩy. Trái tim ta hướng về Giêsu thì chính Giêsu sẽ hành động trong con người ta vậy.
Lạy Chúa Giêsu! Lời Chúa vẫn thôi thúc trái tim con mỗi ngày. Xin cho con luôn biết lớn lên trong Tình Yêu để cuộc sống của con trở thành chứng tá của lòng thương xót Chúa. Chúa biết sự yếu hèn và bất toàn của con. Xin Chúa thôi thúc trái tim con, ngự trị trong tâm hồn con từng phút giây để con được Chúa chi phối và điều khiển con người con, kéo con bước vào chính lộ của Ngài; để con bước theo Chúa, chọn Chúa là cơ nghiệp đời đời. Amen.
Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta’. Đây là câu châm ngôn mà Đức TN 13-A90
‘Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta’. Đây là câu châm ngôn mà Đức Cha Lambert de la Motte đã chọn cho mình cũng như cho các nữ tu Hội dòng Mến Thánh gía, con cái của Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói với các môn sinh : “Ai không vác Thập gía mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng làm môn đệ Thầy (Mt 10,38).” Con đường Thập gía là con đường duy nhất mà Chúa đã đi qua, đã vạch dẫn và mời gọi chúng ta tiếp bước theo dấu chân của Ngài .
Thập giá – Hình phạt khủng khiếp nhất.
Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đã viết : “Trong khi người Do Thái đòi tìm dấu lạ, người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh vào Thập gía, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là sự điên rồ”(1 Cor 1, 22). Thời đế quốc Rôma, Thập gía là khung hình phạt dã man và ghê sợ nhất, chỉ dành cho những phạm nhân bị kết án tử hình. Tên tử tội bị đóng chặt vào hai thanh gỗ và được treo lên cao, nằm phơi thây giữa trời, ngực dãn ra rất khó thở, vừa đói khát, vừa bị lột trần truồng để cho thiên hạ nguyền rủa. Người khỏe nhất cũng chỉ cầm cự tối đa được một đến hai ngày rồi chết. Sau khi chết, xác của họ sẽ bị chim trời đến rúc rỉa và không được đem đi chôn để lòng đất khỏi bị hoen ố do tội lỗi bẩn thỉu họ gây ra. Đế quốc Rôma chỉ sử dụng hình phạt này cho ngoại bang, còn công dân Rôma được miễn. Trong bối cảnh xã hội như thế, người Do Thái xem án phạt này là một sự sỉ nhục, bởi vì họ vẫn coi mình là một dân tộc ưu tú được Chúa tuyển chọn. Còn người Hy Lạp thì nhìn những phạm nhân bị treo lên cây gỗ như là những con người điên điên khùng khùng, không sống theo lý tưởng khôn ngoan của nền triết học mà họ vẫn theo đuổi.
Nhưng, chính Đức Giêsu đã tự nguyện chọn cái chết ô nhục này. Ngài chấp nhận bị dìm xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người, sống tận căn mầu nhiệm tự hủy để trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta. Chính vì thế, khi Đức Giêsu phác vẽ viễn ảnh Thập gía mà Ngài sẽ trải qua, các tông đồ không thể chấp nhận, đặc biệt, Phêrô đã kịch liệt cản ngăn. Tuy nhiên, chính nghịch lý của Thập gía đã khai mở cho nhân loại một chân trời mới : Qua Thập gía sẽ đến vinh quang, qua cái chết nhuốc khổ, chúng ta sẽ được sống lại trong khải hoàn.
Đây chính là chân lý mà thánh Phaolô đã nhắc lại trong bài đọc thứ nhất của Phụng vụ hôm nay. Ngài viết : “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được cùng sống với người” (Rm 6,8).
Thập Gía – Sự chọn lựa duy nhất của các môn đệ.
Các môn đệ đã bỏ mọi sự để theo Chúa. Tuy nhiên, cho dầu đã được huấn luyện khá kỹ, các Ngài vẫn không thể hình dung ra con đường Thập gía mà Đức Giêsu hằng luôn mời gọi. Sau khi các học trò bộc bạch : “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự để theo Thầy”, Chúa mới từ từ cắt nghĩa để họ dần dần cảm thấu được phương thức trở nên môn đệ cách đích thực. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại việc từ bỏ cách tuyệt đối, và đây là đòi hỏi gay gắt nhất, sâu xa nhất. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai không vác Thập gía mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu phải là tình yêu toàn hảo, không suy tính, không đắn đo hơn thiệt. Cũng vậy, một lần khác Chúa còn mạnh mẽ khuyến cáo : “Ai tra tay cầm cầy mà con ngoái lại phía sau, thì không thích hợp với nước Thiên Chúa” (Lc 9,62). Con đường theo Chúa không thể là con đường nửa vời, theo kiểu bắt cá hai tay. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan đã ghi lại mặc khải Chúa ngỏ cho Hội thánh ở Laodakia : “Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Vì ngươi hâm hẩm không nóng cũng không lạnh, nên ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,16).
Muốn trở nên môn đệ Chúa, các học trò phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng cách tuyệt đối. Họ phải chấp nhận những nghịch lý, nhất là nghịch lý của Thập gía. Đây là điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay.
Cùng chết với Đức Kitô.
Theo Chúa là chấp nhận đi vào lộ trình Thập gía. Mầu nhiệm Thập gía luôn hàm ngậm sự tự hủy, và cái chết trên Thập gía là cao điểm của hành trình tự hủy này. Việc từ bỏ cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, v…v…chỉ là bước khởi đầu, và sự từ bỏ ấy phải đi đến tận căn, tức là từ bỏ ngay cả mạng sống. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói với các học trò ngày hôm nay : “Ai tìm giữ mạng sống mình thì sẽ mất, và ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được”.
Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh, chết không phải là dấu chấm hết, kết thúc cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Cũng như Đức Kitô đã can đảm tiến nhận cái chết nhục nhã để khai mở cho chúng ta một chân trời mới, thì cái chết của những ai tin vào Đức Kitô không phải là một cuộc ra đi nhưng là sự trở về, không phải là sự thất bại chua cay, nhưng là một dấu chỉ vinh thắng. Điều này Thánh Phaolô đã nhắc lại trong thư gửi giáo đoàn Rôma mà Giáo hội đọc lên cho chúng ta trong bài đọc 2 hôm nay : “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được cùng sống với Người. Thật vậy chúng ta biết rằng, một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người”.
Kết luận
Trên giường hấp hối, chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn : “Em đang chết, nhưng không phải em chết, mà em đang tiến về cõi sống”. Có lẽ nhiều người vẫn còn nhớ khuôn mặt duyên dáng của nữ tu Cécilia Maria dòng Carmêlô trên giường hấp hối (hình bên dưới). Ngày 22 tháng 6 năm ngoái, Chị đã chết an bình, đôi môi vẫn còn giữ một nụ cười thật duyên dáng cho dầu chị đang chịu đựng những đau đớn vì căn bệnh ung thư phổi. Sự tươi tắn của chị là dấu chỉ của niềm vui và tình yêu dành trọn cho Chúa Giêsu, như lời thánh nữ Têrêsa đã viết trong cuốn ‘Nhật ký một tâm hồn’: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Ơn gọi của tôi không là gì khác, ngoài tình yêu”.
Thương người mến Chúa là sao? Yêu Thầy trên hết, biết bao phúc lành. Dù là con cái chính danh TN 13-A91
Thương người mến Chúa là sao? Yêu Thầy trên hết, biết bao phúc lành. Dù là con cái chính danh, Yêu thương con cháu, vì danh Chúa Trời. Thánh Danh cao trọng tuyệt vời, Phượng thờ kính mến, muôn lời ngợi khen. Con người thụ tạo mọn hèn, Hy sinh mạng sống, muối men cho đời. Kẻ nào đón tiếp Ngôi Lời, Họ đang tiếp đón, Chúa Trời trên cao. Tiên tri sứ giả mời vào, Tiếp người công chính, Cha trao ơn lành. Công lao phần thưởng đã dành, Đẹp lòng tốt tánh, để danh muôn đời. Những ai tiếp nhận con người, Khó nghèo bé mọn, sống đời lầm than. Dù là bát nước sẻ san, Vì Thầy, danh nghĩa, tỏa lan sáng ngời. Chính Thầy hạ giới vào đời, Sống chung chia sẻ, gọi mời yêu thương.
Chúa phán: “Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy”. Thật là vinh dự cho chúng ta, được Chúa cho ưu quyền đại diện Chúa. Chúa đã đồng hóa chính Ngài với những người nghèo đói, khổ sở và thấp hèn nhất. Vì thế ai đón tiếp họ, cũng là đón tiếp Chúa.
Truyện kể: Có một lần, một bà cụ được Chúa hẹn đến thăm nhà. Bà chuẩn bị mọi thứ để đón tiếp Chúa. Sáng sớm có một người đến xin ăn, bà không tiếp. Trưa đến lại có một người bệnh lê gót tới nhà, bà từ chối giúp đỡ. Chiều tối, lại một người nghèo đến xin ở trọ qua đêm, bà đóng cửa không cho. Bà chờ cho tới đêm, cũng không thấy Chúa đến. Bà đành đóng cửa đi ngủ, trong giấc mơ, Chúa nói với bà rằng: Cha đến thăm con ba lần, mà con không tiếp.
Đón tiếp Chúa là như thế đó. Làm sao chúng ta nhận diện ra Chúa giữa muôn người? Đâu là khuôn mặt thật của Chúa? Chúa luôn ẩn dấu nơi những người bị khinh miệt và bỏ rơi. Có lẽ chúng ta đã từ chối đón tiếp Chúa vào nhà và vào tâm hồn ta nhiều lần. Tôi còn nhớ khi còn nhỏ, sống tại nhà quê, mỗi lần có người ăn xin mù lòa hay bất toại đi qua nhà. Tôi ngồi trong nhà ngó qua cửa sổ và tôi thấy từng nhà vội khép chặt cửa và kéo màn che xuống. Người ăn xin kiên nhẫn đợi chờ, đi gõ cửa từng nhà, nhưng chẳng mấy ai thèm cho. Không thấy ai mời họ vào nhà uống ly nước hay ly trà nóng. Không ai muốn trao đổi truyện trò với họ. Rồi ông/bà xấu số ấy cứ tiếp tục đi khu này sang khu khác tìm kiếm lòng quảng đại.
Chúng ta thử nghĩ, nhà chúng ta luôn rộng cửa để đón nhận ánh nắng mặt trời và không khí trong lành, nhưng chúng ta đâu muốn mở cửa đón nhận người lạ mặt, nhất là những người ăn mặc dơ dáy bẩn thỉu và nghèo đói. Sống trong một xã hội đầy nghi ngờ và luôn phải đề phòng những bất trắc xảy ra, chúng ta đã đánh mất đi sự nhạy cảm của lòng người. Ngày nay, trong các ngôi nhà, các cửa đều có khóa, có lỗ nhỏ để nhìn, có hệ thống báo động, có chó giữ nhà.. càng làm chúng ta xa cách nhau.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đón tiếp và giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Tiếp họ một chén cơm, một ly nước, một lời chào hỏi, chúng ta sẽ được phần thưởng. Sự đón tiếp không chỉ là mở cửa ngôi nhà, nhưng quan trọng là mở cửa tâm hồn. Hãy mở rộng cửa đón Chúa, có Chúa, chúng ta sẽ có niềm vui và hạnh phúc thật.
Vật chất trần gian mang lại nhiều tiện nghi nhưng nó cũng đòi hỏi phải bảo vệ nó. Vật chất tự TN 13-A92
Vật chất trần gian mang lại nhiều tiện nghi nhưng nó cũng đòi hỏi phải bảo vệ nó. Vật chất tự nó không thể bảo vệ nó nhưng cần bàn tay, khối óc con người cất giữ, nếu không khéo cất, giấu, kẻ khác rình mò được sẽ tìm cách lấy mất. Hơn nữa vật chất thì giới hạn; lòng tham con người vô hạn và đa số ham vật chất nên có của là một gánh nặng, lệ thuộc vào của đã đành mà còn phải ngày đêm lo bảo vệ chúng. Vật chất không bảo vệ được chúng nên chúng không thể bảo đảm cuộc sống lâu dài cho chủ nó. Tìm kiếm vật chất đã khó mà cầm giữ chúng còn vất vả hơn vì thế chủ đáng hưởng hoa quả do lao công khó nhọc làm ra. Những ai tin vật chất có khả năng mang lại sự sống lâu dài, đặc biệt là sự sống trường sinh cần phải suy nghĩ lại. Lí do là vật chất nay còn mai mất. Như thế còn vật chất còn bảo đảm, mất vật chất mất bảo đảm. Như thế bảo đảm vật chất hứa hẹn rất bấp bênh. Hơn nữa vật chất không tồn tại mãi và giá trị của chúng thay đổi liên tục. Thực tế cho thấy những gì thuộc về trần thế chỉ bảo đảm được những gì thuộc về trần thế. Con người không phải chỉ có vật chất mà còn có tinh thần, có tình yêu và lòng mến. Vật chất không bảo đảm được tinh thần, tình yêu và lòng mến vì những nhân đức này vượt lên trên vật chất. Chỉ những gì vượt lên trên vật chất, cao hơn vật chất mới có khả năng bảo đảm được những gì không thuộc về vật chất. Đây chính là điều Đức Kitô mời gọi Kitô hữu tin tưởng vào giáo huấn của Ngài. Tin tưởng vào Đức Kitô là lắng nghe Lời Ngài, yêu mến và trở thành môn đệ Đức Kitô. Niềm tin Kitô giải thoát con người khỏi nô lệ vật chất, tâm hồn thư thái, an bình và sống trong hy vọng Đức Kitô hứa ban.
Sự sống trường sinh chỉ có thể tìm thấy nơi Đức Kitô, tình yêu Chúa. Đức Kitô là Đấng duy nhất bảo đảm cho sự sống trường sinh bởi chính Ngài phá tan xiềng xích sự chết. Chính Ngài sống lại từ cõi chết, tiêu diệt thần chết, sống lại vinh quang vì thế lời Ngài hứa đặt căn bản trên sự sống lại của chính Ngài. Lời Ngài hứa có nguồn gốc từ sự Phục Sinh vinh hiển vì thế lời hứa đó không thể sai.
Sống đời sống ngay lành, không làm hại ai, không gian tham của người là mẫu người xã hội tốt nhưng không phải là Kitô hữu tốt. Kitô hữu tốt là người biết sống cho mình và sống cho tha nhân, giúp đỡ tha nhân, mang niềm tin vào hành động bác ái, yêu thương và tha thứ. Kitô hữu tốt là người làm cho niềm tin của mình sinh hoa, kết trái bằng các việc từ thiện, làm phúc, bố thí cho người đói ăn, khát uống, có lòng nhân từ, bác ái, vị tha. Kitô hữu tốt là người nhận biết tất cả những gì chúng ta có đều do Chúa ban, kể cả sự sống của ta vì thế luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Kitô hữu nhận biết mọi sự ta có đều thuộc về Chúa nên yêu cầu yêu Chúa hơn chính cha mẹ là điều hợp lí và đúng đắn. Nhiều người vì yêu hy sinh cả sở thích, vợ cHồng Yêu nhau hơn cha mẹ và họ yêu con cái hơn chính bản thân họ.
Học từ Đức Kitô, yêu Chúa, yêu tha nhân và sống bác ái. Đức Kitô cho biết mọi hành động bác ái, yêu thương dù nhỏ mấy, đơn giản mấy cũng được ghi nhận và thưởng công. Một li nước lạnh cho đi vì Đức Kitô li nước đó cũng được đón nhận qua hành động bác ái.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 10,37-42)
37 “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. 38 Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. 39 Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. 40 “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. 41 “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. 42 “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA
Nội dung bài Phúc Âm trên có hai phần: – Một là “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với TN 13-A93
2.1 Nội dung bài Phúc Âm trên có hai phần:
– Một là “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10,37-40).
– Hai là “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10,41-42).
2.2 Phần thứ nhất quan trọng hơn phần thứ hai, nên chúng ta tập trung vào phần này. Không có tôn giáo nào lại không coi trọng việc hy sinh từ bỏ trong đời sống tâm linh. Hy sinh từ bỏ không chỉ là những cái xấu (tội lỗi, ích kỷ, hận thù) mà cả những cái tốt (người thân, của cải, ý kiến cá nhân, kế họach riêng).
Càng hy sinh từ bỏ nhiều, người tín đồ càng trở nên thánh thiện. Càng hy sinh từ bỏ nhiều, người tu hành càng trở thành nhà chân tu.
Riêng với người Công giáo thì việc hy sinh từ bỏ còn có thêm nhiều ý nghĩa khác nữa: hy sinh từ bỏ để theo Chúa Giê-su Ki-tô; hy sinh từ bỏ để nên giống Chúa Ki-tô, Đấng đã từ bỏ cả ngai tòa thiên quốc để xuống thế làm người và đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cho nhân loại được sống. Có thể nói: một khi đã trở thành Ki-tô hữu thì đời sống của người tín hữu đã được quy chiếu tất cả vào Chúa Giê-su Ki-tô.
2.3 Trong thực tế hy sinh từ bỏ cũng có nghĩa là đặt ưu tiên cái này trên cái kia, người này trên người nọ: Yêu Chúa nhiều hơn yêu cha mẹ sinh ra mình, yêu Chúa nhiều hơn yêu anh chị em ruột thịt của mình là từ bỏ. Yêu Chúa và thập giá của Chúa hơn yêu ý riêng và mạng sống mình là từ bỏ lớn hơn.
III. THỰC THI LỜI CHÚA
3.1 Từ nhỏ, tôi đã được học hành và đào luyện trong Tiểu Chủng Viện. Khi bước vào tuổi trưởng thành tôi tiếp tục được đào luyện trong Đại Chủng Viện và sau đó trong Dòng Tu. Tôi hiểu và quý trọng sự hy sinh từ bỏ trên con đường theo Chúa. Khi trở về thế gian làm giáo dân và lập gia đình, tôi còn có nhiều cơ hội hơn để hy sinh từ bỏ.
3.2 Hy sinh từ bỏ trong đời sống giáo dân và gia đình thì có muôn hình vạn trạng và xẩy ra hằng ngày. Một việc làm nho nhỏ, một lời nói dịu dàng, một quan tâm, một chút nhịn đều là hy sinh từ bỏ, chứ không cần phải là những điều lớn lao. Hơn nữa hy sinh từ bỏ có thể là tự nguyện, mà cũng có thể là bị động, miễn sao bản thân tôi nhỏ bé đi một chút và những người xung quanh lớn lên thêm một chút. Điều quan trọng nhất là động lực của hy sinh từ bỏ phải là vì và cho Chúa Ki-tô, vì và cho hạnh phúc của người khác.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã hy sinh từ bỏ ngai tòa Thiên Quốc và cả bản thân Chúa để cứu chuộc loài người và cá nhân con.
Con hết sức ngưỡng mộ sự hy sinh, từ bỏ, sự tự hạ, tự hủy của Chúa. Con như bị cuốn hút, bị chinh phục…. bởi gương lành của Chúa!
Xin Chúa ban cho con sức mạnh để con dũng cảm chết đi cho những gì cản trở con nên giống Chúa. Xin Chúa ban cho con sức mạnh để con dũng cảm thục hiện những hy sinh từ bỏ làm cho con nên giống Chúa.
Con cầu xin Chúa là Thiên Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Amen.
Các bạn trẻ ngày nay rất thích nghe diễn giảng về chủ đề thành công trong cuộc sống. Có một TN 13-A94
Các bạn trẻ ngày nay rất thích nghe diễn giảng về chủ đề thành công trong cuộc sống. Có một vài điểm chung trong các bài diễn thuyết của nhiều danh nhân, doanh nhân thành đạt mà có thể kể ra hai điểm chung thường thấy trình bày đó là để đạt thành công trong cuộc sống thì cần phải có “hoài bão” (ambition) và biết cách “đầu tư” (investing). Sống mà không có hoài bão tức là không có mục đích, lý tưởng cụ thể thì hầu chắc không thể thành công. Người có hoài bão mà không biết đầu tư công sức, thời giờ và cả vật chất cho mục tiêu lý tưởng muốn đạt thì cũng chỉ là người mộng mơ viễn vông.
Phụng vụ Lời Chúa Giáo hội dọn cho đoàn tín hữu trong Chúa Nhật XIII TN A có thể nói tập trung vào chủ đề “đầu tư đúng địa chỉ tối ưu” để được hạnh phúc viên mãn, để được sống đời đời. Đầu tư là hành vi bỏ ra, tiêu phí một khoản nào đó và rồi sau đó mong sẽ thu lại một khoản nhiều hơn phần đã bỏ ra. Dĩ nhiên đã và đang có đó nhiều người đầu tư cách thiếu khôn ngoan, lầm lạc và hậu quả là phần thu lại ít hơn phần đã bỏ ra và có khi là chẳng thu lại được gì, kiểu “dã tràng xe cát”. Một trong những lý do gây ra các hậu quả trên đó là vì họ đã đầu tư không đúng địa chỉ.
Bài đọc thứ nhất trích Sách các vua quyển thứ hai tường thuật câu chuyện một cặp vợ chồng cao niên ở miền Sunam đã biết khôn ngoan đầu tư đúng địa chỉ. Hai vợ chồng đã đón tiếp ngôn sứ Êlisêu và dâng cho Ngài căn phòng khá đủ tiện nghi trên lầu. Hiệu quả của sự đầu tư của hai vợ chồng như nhãn tiền với lời khẳng định của vị ngôn sứ: “Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng một bé trai” (2V 4,16a). Trong cảnh già nua mà vẫn son sẻ thì quả là một điều bất hạnh và là một nỗi nhục trước mặt người đời. Dâng trao cho vị ngôn sứ chỉ một căn phòng vật chất và rồi lại được một người con nối dõi tông đường thì quả là thu một món lời khôn kể xiết. Ngoài ra căn phòng ấy cũng không mất đâu cả vì hầu chắc vị ngôn sứ sẽ không ở lại đó mãi mãi. Đầu tư đúng địa chỉ quả là một hành vi khôn ngoan.
Bài Tin mừng tường thuật những lời của Chúa Giêsu thoặt xem ra có vẻ nghịch thường. Một vị tôn sư lại thẳng thừng kêu gọi người ta phải yêu mến mình hơn cả mẹ cha. Người lại còn mạnh mẻ khẳng định rằng kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Người, thì sẽ tìm lại được mạng sống (x.Mt 10,37-39).
Một lý chứng duy nhất biện minh cho người có những lời lẽ xem ra nghịch thường và cả sống sượng ở trên đó là vì người ấy chính là Thiên Chúa, là Đấng dựng nên các bậc sinh thành của chúng ta, là Đấng cho chúng ta từ hư vô làm người trên cõi dương trần này. Những ai tin nhận Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật thì mới có thể đón nhận và sống theo những lời ấy.
Đã tin Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng mà nhờ Người mọi vật mọi loài được dựng nên (x.Col 1,15-20), thì việc chọn yêu mên Người hơn cả mẹ cha, việc sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì Người chính là việc đầu tư khôn ngoan nhất vì đã đầu tư đúng địa chỉ tối ưu nhất. Chắc chắn một khi đã đầu tư đúng địa chỉ tối ưu thì phần sẽ thu lại là gấp trăm gấp ngàn lần phần đã bỏ ra. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng minh định rõ sự thật này với các môn đệ. Khi Phêrô lên tiếng thưa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy” thì Chúa Giêsu đã nói: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, ruộng đất gấp trăm lần, cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cữu ở đời sau” (Mc 10,28-30).
Cần lưu ý là trong lời khẳng định của Chúa Giêsu có đó sự ngược đãi. Đây là một hiện thực và cũng là một chướng ngại phải vượt qua. Bất cứ sự đầu tư nào cũng có đó phần khó khăn vì kết quả luôn ở thì tương lai. Để mong thành công trong những thiện hảo đời này thì người đầu tư dĩ nhiên cần một chút liều lĩnh nào đó, nói đúng hơn là sự can đảm và kiên trì vượt khó. Để được thành nhân và nhất là được hạnh phúc vĩnh cửu thì khi khôn ngoan đầu tư mọi sự vào Đấng Cứu Độ thì vẫn có đó chướng ngại phải can đảm vượt qua. Đó là mầu nhiệm thập giá mà Chúa Kitô đã nói rõ ràng: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).
Mấy ngày vừa qua dường như những ai có “trái tim Công giáo” đều phải xốn xang, hoặc ít nhất TN 13-A95
Mấy ngày vừa qua dường như những ai có “trái tim Công giáo” đều phải xốn xang, hoặc ít nhất cũng phải tan nát, bởi ngay chính tại quê hương Việt Nam, nơi mà được cho là tự do Tôn giáo, lại bị dấy lên một cuộc xung đột ngay tại cơ sở của Đan Viện Thiên An, Huế. Một nơi tu hành, yên ắng , tưởng chừng là nơi bình an, nhưng vẫn gặp xung đột. Một nhóm người ngang nhiên xông vào khuôn viên tu viện đập phá Thánh Gía có tượng Chịu Nạn, đập phá, nhổ đi. Cùng lúc các thầy hữu trách của đan viện phải ra sức bảo vệ, nhưng, lực bất tòng tâm, một số thầy bị đánh có thương tích.
Theo đó, hành động được xảy ra như trên các trang mạng truyền thông đã đăng tải vụ việc. Thiết nghĩ, nếu trộm cướp, thì Thánh giá có tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không phải là “tài sản” để chúng hành động như vậy giữa ban ngày.
Còn thế “đối nghịch” với Đạo Công Gíao mà ngang nhiên hành động như vậy giữa ban ngày là phạm pháp. Vậy, những người ấy là ai ?! Nếu giang hồ, côn đồ, thì họ làm vậy vì mục đích gì ?! Chắc chắn là do “thuê mướn”. Như vậy, chính quyền và luật pháp ở đâu?! Các đan sĩ Thiên An là những người tu hành hợp pháp. Tu Viện có giấy tờ gần trăm năm, nghĩa là có quyền sở hữu tồn tại hợp pháp. Nếu không, thì không thể tồn tại với thời gian được.
Rõ ràng, nếu đã hợp pháp, thì các tu sĩ mặc nhiên có quyền và trách nhiệm bảo vệ tất cả tài sản thuộc đan viện, dù là một “cọng cỏ”. Theo đó, tất cả những ai đặt chân vào khuôn viên của Đan Viện một cách bất hợp pháp, đều là ”phi pháp”. Vì, Đất Nước có chủ quyền, lãnh thổ có Quốc Gia, nếu không ngoại bang xâm lấn lấy gì mà đánh đuổi, tục ngữ Việt Nam có câu :”Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Nay, sự việc ẩu đả, xâm phạm gia cư bất hợp pháp của một nhóm người xảy ra trong khuôn viên của một dòng tu, giữa ban ngày, trong một Đất Nước có chủ quyền “như” Việt Nam, pháp luật và nhà cầm quyền thản nhiên hay sao ?!
Dù thế lực nào, trừ phi “gian tặc”, thì không thể ngang nhiên xông vào nơi tu hành hợp pháp “tấn công” tu sĩ như vậy!
Nếu tranh chấp đất đai, cũng phải chờ bản án của Tòa Án, còn nếu cưỡng chế cũng phải có “án lệnh” mới thi hành. Điều nầy loại trừ, bởi vì đất đai của tu viện có từ lâu đời và có bằng khoán từ thể chế cầm quyền trước đây công nhận là đất mua chứ không phải đất tự khai phá.
Như vậy, “lực lượng” xông vào đập phá THÁNH GIÁ là biểu tượng thờ phượng của hơn 1 tỷ 2 người Công giáo, chưa kể Chính thống và Tin Lành, là một sự xúc phạm “khó dung”. Kính mong các cấp Giáo Quyền đề nghị nhà Cầm quyền truy xét, xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành và Luật Tôn giáo của Quốc Tế và của Việt Nam, vì Việt Nam đã ký kết Công Ứơc Quốc Tế về tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền, vì vậy, Việt Nam phải thực thi hầu bảo vệ công dân của mình cách chính đáng, đ1o là trách nhiệm và danh dự của một Quốc Gia.
Trở lại Trang Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy, có hai phần:
Thứ nhất : Điều kiện nhất đẳng để làm môn đệ Chúa Giêsu. Thứ hai : Phần thưởng dành cho người công chính. Theo đó, mỗi trang Lời Chúa là một “cẩm nang sống” cho người môn đệ. Chúng ta thấy khởi đi từ bài đọc I hôm nay, (2 V 4, 8-11. 14 -16a) cho thấy , Thiên Chúa luôn bênh vực người công chính, các tiên tri của Người. Rồi nữa, ai gíúp đỡ cho họ, thì cũng được Thiên Chúa thưởng công.
Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy phần thứ nhất từ câu 37 đến câu 39, dường như Chúa Giêsu đòi hỏi khắt khe, “ích kỷ”, nhưng, thật ra không phải vậy, đó là một sự đòi hỏi” tuyệt đối” công bằng. Một sự đòi buộc hợp lý dẫn đến một quy chế “hoàn hảo”, mà suốt hơn hai ngàn năm qua tồn tại phát triển theo chiều hướng đó, điều nầy nói lên sự thật. Vì, Chúa không “cưỡng ép” ai phải theo Người, nhưng mời gọi vì tình thương, mặc nhiên, tình thương thì phải đáp trả tình thương, phải có một sự tuyệt đối nhất định, không “ bắt cá hai tay”. Sự đòi buộc để làm môn đệ Chúa Giêsu cho thấy sự đòi hỏi của Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chứ không phải quy chế của một phàm nhân nào khác đặt ra, vì : “Ai yêu cha mến mẹ hơn Thầy, thì không đáng thuộc về Thầy…” ( c 37 a)
Như vậy, tình gia đình phải đặt dưới tinh Chúa, tình tự nhiên phải đặt dưới tình siêu nhiên, tình khả năng, phải đặt dưới tình toàn năng, tình đồng loại, phải đặt dưới tình Đấng Tạo Thành. Vì , tất cả mọi thứ tình dưới Thiên Chúa là tình đồng loại, chỉ duy nhất một “ chữ tình” đó là Tình Thiên Chúa, thì phải đặt lên trên.
Như vậy, không phải Chúa chỉ đòi hỏi đặt tình Chúa lên trên tình gia đình mà thôi. Mà là, Chúa đòi hỏi phải đồng cam, cộng khổ với Người nữa, nghĩa là: phải vác Thập giá của mình mỗi ngày, và phải hy sinh mạng sống mình nữa. Như vậy, muốn theo Chúa Giêsu, điều kiện đòi hỏi thật khắt khe, chứ không đơn giản. Có nghĩa là phải hy sinh tình gia đình, hy sinh bản thân, và cuối cùng là hy sinh mạng sống. Vâng, một sự đòi hỏi khắt khe, nhưng, hoàn toàn hợp lý, bởi vì, thế gian không phải là thiên đàng. Trần thế chưa phải là Nước Trời, mà là hành trình tiến về quê Trời.
Phần thứ hai : Từ đó suy ra, sự đòi hỏi của Chúa Giêsu cho chúng thấy sự công bằng bởi sự đòi hỏi ấy là sự bênh vực tuyệt đối bởi Thiên Chúa. Vì , quy chế, thì phải có phần thưởng, từ quy chế siêu nhiên, mặc nhiên , phần thưởng cũng siêu nhiên. Thực tế trong cuộc sống Thiên Chúa vẫn ban cho chúng ta những ơn siêu nhiên qua những nhu cầu tự nhiên, như chúng ta gặp được những may mắn trong đời sống vật chất, trong đó hầu để đáp ứng nhu cầu thân xác và thiêng liêng nữa. Vì chính Chúa muốn đồng hóa với những người công chính, ngôn sứ và trẻ em.
Vì phần thưởng cho ngôn sứ được dành cho những ai đón tiếp ngôn sứ.
Phần thưởng cho người công chính được dành cho những ai đón tiếp người công chính.
Phần thưởng cho trẻ em dành cho những ai yêu thương trẻ em.
Như vậy, theo đó chỉ có hai hạng người được chính Chúa Giêsu đồng hóa mình là : Người công chính và trẻ em.
Như vậy, ai là người công chính thì hãy an tâm, vững chí và vui mừng trong hy vọng vì phần thưởng sẽ dành cho sự công chính của họ. Còn ai chưa công chính, thì nhờ Lời Chúa hôm nay cố gắng trở nên công chính, Còn những ai có tâm hồn “ người lớn” thì hãy trở nên tâm hồn “ trẻ thơ”, để được phần thưởng của trẻ nhỏ.
Và , những ai bị bách hại vì lẽ công chính, mặc nhiên, họ là những người công chính, vì vậy phần thưởng của họ là phần thưởng dành cho người công chính.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giáo huấn cho những ai muốn bước theo Người một chân lý sáng tỏ, là Thiên Chúa luôn bênh vực người công chính. Xin cho những ai được sáng soi biết nhận lấy ánh sáng chân lý của Chúa mà an tâm, vững chí thi hành, hầu mang lại cho họ phúc trường sinh ./. Amen.
Con người sống trên đời ai mà chẳng “tham sinh uý tử” (tham sống sợ chết). Và khi có ai đó TN 13-A96
Con người sống trên đời ai mà chẳng “tham sinh uý tử” (tham sống sợ chết). Và khi có ai đó (là người đáng tin cậy) mách bảo lẽ sống còn (con đường hạnh phúc, thuốc trường sinh, sống vui, sống khoẻ…) thì ham thích lắm, nghe theo liền, dù chưa biết cái lẽ sống ấy sẽ đi về đâu. Khi các môn đệ đi theo Đức Ki-tô thì cũng vậy, ai cũng muốn mình sẽ được thế này thế nọ (Vd: Hai người con ông Dê-bê-đê xin được ngồi bên tả bên hữu Chúa Giê-su [tức là Tả Hữu Thừa Tướng của Vua Giê-su] – Mc 10, 35-45; hoặc ít ra thì cũng được làm dân chài đi ”lưới người” thay vì “lưới cá” – Mc 1, 17).
Tuy vậy, nghe lời mời gọi của Đức Ki-tô thì lại thấy không hấp dẫn một chút nào. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XIII TN/A – Mt 10, 37-42) là một ví dụ. Xin cùng nghe thử: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10, 37-39); “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24)…Tất cả đều chứng mình muốn theo Chúa không phải chuyện dễ dàng. Duy chỉ có một lần Người nói khác hẳn: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30). Ách của Người êm ái và gánh của Người nhẹ nhàng ư? Nếu thế thì ai chẳng muốn theo, nhưng tại sao lại “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”? Vác thập giá mà coi là êm ái, nhẹ nhàng sao? Có gì mâu thuẫn chăng? Như vậy thì phải hiểu Lời dạy của Thầy Chí Thánh như thế nào?
Trước hết, Lời dạy “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” phải được hiểu theo nghĩa ẩn dụ và cái thập giá ấy chính là những tội lỗi trì trệ của tính xác thịt bản thân. Đó chính là cây thập giá của mình, là cái gánh nặng nề, cùng với cái ách chẳng êm ái một chút nào. Sẽ có một vấn nạn: Chúa dạy “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”; nhưng tại sao Chúa vác thập giá của Chúa (cái ách, cái gánh của bản thân), sao lại nặng nề quá như vậy, nặng đến độ ngã xuống đất 3 lần, phải nhờ Si-mon vác đỡ? Vấn đề chính ở điểm này: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, chẳng chút bợn nhơ, nhưng vì vâng lệnh Chúa Cha, Người xuống trần mặc lấy thân xác yếu hèn của phàm nhân, gánh lấy tội lỗi loài người để cứu độ nhân loại; Người đã vác cây thập-giá-tội-lỗi-loài-người quá sức nặng nề bằng thân xác phàm nhân, nên mới quỵ ngã ba lần. Thập giá ấy không phải của Chúa, mà là của loài người đã chất lên vai Chúa. Vì thế nên khi Người nói “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” là Người muốn dạy người tín hữu hãy tự gánh lấy tội lỗi của bản thân, đi theo con đường thập-tự-Giê-su thì sẽ được cứu rỗi (“nghỉ ngơi bồi dưỡng”). Lời mời gọi chân tình đó chính là “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” vậy.
Sở dĩ Chúa dạy như vậy vì Nguời biết rõ tính xác thịt của con người rất là nặng nề; nặng nề nhưng lại quyến rũ hơn cả tinh thần hướng thượng. Con người không những đã chiều theo tính xác thịt, mà còn viện dẫn trăm ngàn lý do để bào chữa. Thánh Phao-lô đã cảnh báo: “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an.” (Rm 8, 5-6). Quả thực, theo Thầy thì rất muốn theo Thầy, nhưng bảo phải vác thập giá mình mà theo thì lại… buồn rầu bỏ đi một nước (giống hệt anh chàng thanh niên giàu có muốn theo Thầy – Mt 19, 16-22). “Thật vậy, hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không thể phục tùng được.” (Rm 8, 7). Hoá cho nên anh cần phải biết phân biệt rạch ròi ánh sáng và bóng tối. Đừng ngụp lặn trong bóng tối mà vẫn cứ ru mình trong ảo vọng đã tìm được hướng đi đích thực. Vâng, “ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3, 19). Ấy cũng bởi vì “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.” (Ga 3, 20).
Để phân biệt được ánh sáng và bóng tối, không phải là chuyện dễ dàng, nhất là ở cái thế kỷ XXI vàng thau lẫn lộn này. Chính những nơi mình cứ tưởng là chan hoà ánh sáng, lại là bóng tối, tội lỗi ngập đầu. Bởi ngay như Đức Giê-su Ki-tô là “ánh sáng cho trần gian…, là ánh sáng thế gian” (Ga 8, 11-12), mà cũng còn có Giê-su giả nữa kia (“Thật vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể.” – Mt 24, 24). Thiết nghĩ, chỉ còn một phương cách duy nhất, hữu hiệu nhất, đắc dụng nhất, đó là cầu nguyện, cầu nguyện liên lỉ để xin ơn soi sáng, xin ơn trợ giúp từ chính Đấng Bảo Trơ là Thánh Thần, là Thần Chân Lý. Vâng, một cách cụ thể, chỉ có một con đường “độc đạo” cho chúng ta: Đó là, hãy sống theo Sự Thật do Đức Thánh Linh mạc khải và hướng dẫn.
Tóm lại, “vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi. Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.” (xc. Bài đọc 2: Rm 6, 5-11). Hãy vững tin và dâng lời khẩn nguyện:
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 13 mùa Thường niên).
Bài Tin Mừng hôm nay mới đọc lên hẳn sẽ khiến nhiều người cảm thấy “Dội “. Thật vậy, Đức TN 13-A97
Bài Tin Mừng hôm nay mới đọc lên hẳn sẽ khiến nhiều người cảm thấy “Dội “. Thật vậy, Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”, những lời này xem ra dị ứng với luân lý đời thường. Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ, cha mẹ phải yêu thương con cái. Đó là điều phải lẽ và chính đáng, sao Đức Giêsu lại nói những điều này? Vấn đề ở đây là chỉ ở từ “HƠN” . Đức Giêsu không có ý nói đến sự so sánh, nhưng điều chính yếu, đó là Người muốn chúng con phải biết đặt Chúa là đối tượng lớn nhất và duy nhất để lắng nghe, tôn thờ. Bởi Chúa là đấng trọn lành, Người khẳng định “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với cha mà không qua Thầy”. Cha mẹ, anh chị em, rộng ra là những người thân, mỗi người phải có bổn phận yêu mến, lắng nghe nhau, giúp đỡ nhau trong cuộc sống trần gian, nhưng mục đích cuối cùng của cuộc đời chính là đạt đến sự toàn thiện như Cha, Đấng ngự trên trời. Chính vì vậy, theo Chúa là một cuộc đấu tranh để đạt tới hạnh phúc viên mãn,vĩnh cửu, bất diệt. Ngay sau những lời nhắc nhở chúng con về việc tôn nhận Chúa là Đấng tuyệt đối, Người cũng cho thấy cái giá phải trả khi theo Chúa:”Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” . Thập giá ở đây chính là chiến thắng sự giằng co giữa thế trần và Nước Trời, phải biết gạt bỏ tình cảm , ý riêng của mình, từ bỏ những tình cảm gia đình, những sở thích, nhu cầu của bản thân, hội nhóm để đi theo con đường Chúa đi, Lời Chúa dạy qua Tin Mừng.
Đức Kitô cũng đã trải qua đau thương, Người đã chiến đấu và chiến thắng trước những cám dỗ của ma quỉ. Chính Chúa đã vác Thập giá tiến đến đồi Sọ và sẵn sàng đổ máu mình ra làm chứng cho sự thật, tình yêu. Cuối cùng Người đã chiến thắng sự chết, Người đã Phục sinh vinh hiển và lên trời.
Ngày hôm nay, con đang sống trong một xã hội tục hóa, biết bao cám dỗ bủa vây khiến con người dễ sa ngã. Nhiều bậc cha mẹ, phụ huynh cũng vì không dám vác Thập giá mình theo Chúa, đã làm ngơ trước những điều xấu của con cái, anh chị em mình. Thậm chí có những hành động và lời lẽ tán đồng, chiều theo cái xấu khiến cái xấu lan tràn, tội ác, sự hiềm thù, gian dối, lừa đảo phát triển ngày càng nhiều dẫn đến xã hội ngày càng bất an.
Xin cho con luôn biết mỗi ngày mỗi cố gắng hơn, tu thân sửa mình, chọn Chúa thay vì chọn thế gian. Biết tin nhận Chúa là Đấng toàn năng trên hết mọi sự, biết vác thập giá mỗi ngày theo Chúa. Biết sống chân thành, bác ái, yêu thương đến những người đang sống bên chúng con, nhất là những người bất hạnh, bị bỏ rơi, hèn kém trong xã hội. Có như thế con mới xứng đáng là môn đệ của Chúa vậy. AMEN.
Sống trong quốc gia Hoa kỳ này, mỗi lần lái xe đi đâu xa chúng ta có thể ghé vào những tiệm ăn TN 13-A98
Sống trong quốc gia Hoa kỳ này, mỗi lần lái xe đi đâu xa chúng ta có thể ghé vào những tiệm ăn bên đường như Mc Donald hay những nhà hàng Việt Nam để mua thức ăn. Nếu cần ngủ qua đêm, chúng ta cũng có thể dừng chân tại những khách sạn hay quán trọ dọc đường. Nhưng trong thời tiên tri Ê-li-sê và ngay cả ở Việt Nam chúng ta vào những thập niên 60 hay 70 cũng không có những tiện nghi này. Thế nên nếu vì hoàn cảnh phải đi xa và trải qua những con đường dài thì nhiều khi phải lệ thuộc vào lòng hiếu khách của những người xa lạ. Chúng ta có thể hình dung và chắc chắn rằng trong cuộc hành trình dài, khó khăn và nguy hiểm của Đức Maria đi thăm bà Ê-li-za-bét, hay cuộc hành trình trốn vua Hê-rô-đê sang Ai-cập, của Thánh gia, Đức Maria, Chúa Giê-su Hài đồng lúc đó mới sanh, và thánh cả Giuse đã phải cậy nhờ đến lòng hiếu khách và sự giúp đỡ của những người xa lạ sống dọc đường. Và có thể sinh mạng của Thánh gia tùy thuộc vào sự giúp đỡ của họ. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngôn sứ Ê-li-sê vô cùng may mắn được người phụ nữ ngoại bang ở thành Sunam đón tiếp một cách ân cần. Người phụ nữ này thấy Ê-li-sê thường qua lại thành Sunam để làm công việc của Chúa nên mới bàn với chồng làm một căn phòng trên gác để ngôn sứ trọ qua đêm. Trước lòng hiếu khách cao quí đó, ngôn sứ Ê-li-sê muốn thưởng công cho hai vợ chồng. Khi biết vợ chồng đã già mà chưa con, Ê-li-sê liền hứa sẽ cầu nguyện cho bà được một người con trai vào năm tới. Đây quả là phần thưởng vượt quá ước mơ của hai vợ chồng, nhưng đó cũng mới chỉ là phần thưởng dành cho những người đón tiếp ngôn sứ. Còn phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những người quảng đại, đối xử tốt đẹp với chính môn đệ Người, những người thi hành sứ mạng của Người trao phó, còn trọng đại và cao quí hơn nhiều.
Trong Tin mừng, chúng ta được biết trong sứ mạng rao giảng Tin mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã phải nhờ đến những sự giúp đỡ của người bên đường như bà Mát-ta và Maria, và có lẽ nhiều người khác nữa. Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu, Đức Maria và các môn đệ được mời đi dự đám cưới ở thành Cana. Chúa Giê-su, qua lời giới thiệu của Đức Maria, Mẹ Người, đã giúp cho đôi tân hôn qua khỏi sự khó khăn là hết rượu giữa bữa tiệc. Chúng ta còn được biết khi dân chúng của một làng hay thành nào đón tiếp Chúa Giêsu thì nơi đó nhận được phần thưởng của Thiên Chúa: bệnh nhân được chữa lành; tội nhận được tha thứ; người nghèo khổ được loan báo Tin Mừng. Còn những nơi nào từ chối đón tiếp Chúa hay các môn đệ thì chúng ta nghe Chúa nói phần dành cho họ chỉ là chút bụi bàn chân thôi. Người Do thái cảm nhận rằng khi thành tâm đón tiếp vị đại diện của ai là đón nhận chính người đó. Thành ra khi đón nhận các môn đệ của Chúa Giêsu thì không khác gì đón nhận chính Người, mà đón nhận chính Người cũng có nghĩa là đón nhận chính Thiên Chúa Cha. Chúng ta thấy trong xã hội này, khi mà cửa nhà ai cũng đóng kín và còn được cài gắn hệ thống báo động, cho nên chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, khép kín lòng người, đang từ từ ăn sâu vào tâm trí và ảnh hưởng nặng đến cuộc sống của mọi người kể cả Ki-tô hữu. Tiền tài, vật chất và các thú vui đang từ từ chiếm hữu đời sống của Ki-tô hữu. Đức tin và chính Chúa cũng từ từ bị loại ra khỏi đời sống của nhiều Ki-tô hữu ngày nay, để họ có cuộc sống tự do và thoải mái hơn, không bị cản trở. Và hậu quả thì sao? Có lẽ tất cả chúng ta có câu trả lời.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế này có nhiều thập giá, đau khổ, khó khăn, thử thách và cám dỗ, và Chúa thiết tha kêu gọi chúng ta hãy có lòng quảng đại và hãy “mở lòng hiếu khách” đón nhận Người và lời của Người vào trong tâm hồn của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta. Chúng ta sẽ nhận được những phần thưởng quí giá là sự bình an thật của Chúa; chúng ta sẽ nhận được sức mạnh và ân sủng của Chúa; chúng ta sẽ được lời Chúa hướng dẫn và đi trong niềm vui mừng, hy vọng và vững tâm.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa kêu gọi chúng ta hãy can đảm phá cánh cửa ích kỷ, lười biếng và cái tôi đang đóng kín tâm hồn mà thoát ra ngoài đến với Chúa và đến tha nhân. Khi can đảm mở rộng cánh cửa tâm hồn để tiếp nhận Chúa và Lời Người là sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, đau khổ, khó khăn và thiệt thòi, để sống với và trong Chúa, để sống vì và như Chúa, để tin theo và yêu mến Chúa. Mở tâm hồn ra để đến với tha nhân bằng hành động bác ái, yêu thương, quảng đại, giúp đỡ và phục vụ, và chúng ta sẽ gặp được ơn phúc và sự sống như lời Chúa nói: “Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.”
Nhìn vào xã hội ngày nay, chúng ta thấy có những người can đảm vác những khó khăn và đau khổ vì Chúa và vì Tin mừng để theo Chúa, và có những người từ chối. Có những người vui mừng nhận chịu những sự thiệt thòi, hy sinh phục vụ, sống bác ái, yêu thương và quảng đại, và có những người sống ích kỷ, khép kín và sống riêng cho mình. Sự khác biệt là đức tin. Đối với những Ki-tô hữu chúng ta, đó là đức tin vào Chúa Giê-su, Người đã đem ân sủng và sự sống đến cho nhân loại, khi Người hy sinh chịu những đau khổ và vác thập giá, để chúng ta cũng mang ân sủng và sự sống của Chúa đến với tha nhân khi chúng ta hy sinh, khi chúng ta chịu thiệt thòi, chịu đau khổ và vác thập giá. Đối với những Ki-tô hữu chúng ta, đó là đức tin vào lời của Chúa-Giê-su-Chịu-Đóng-Đinh trong bài đọc 2 hôm nay cho chúng ta biết: là nếu chúng ta đã chịu phép rửa trong sự chết của Người, thì chúng ta cũng sẽ có đời sống mới như Người.
Đây là tin mừng mà Chúa Giê-su mang đến cho chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta can đảm mở cửa tâm hồn đón nhận tin vui mừng của Chúa, và sức mạnh để trung thành và vui mừng vác thập giá theo Chúa.
Không có tôn giáo nào lại không coi trọng việc hy sinh từ bỏ trong đời sống tâm linh. Không chỉ TN 13-A99
Không có tôn giáo nào lại không coi trọng việc hy sinh từ bỏ trong đời sống tâm linh. Không chỉ hy sinh từ bỏ những cái xấu, những cái chưa hoàn hảo (tội lỗi, ích kỷ, hận thù) mà hy sinh từ bỏ cả những cái tốt những cái có giá trị (của cải, ý riêng, người thân). Càng hy sinh từ bỏ nhiều thì người tu hành càng trở thành nhà chân tu. Càng hy sinh từ bỏ nhiều thì người tín hữu càng trở nên tốt lành, thánh thiện.
Riêng với người Công giáo thì việc hy sinh từ bỏ còn có thêm nhiều ý nghĩa: hy sinh từ bỏ để theo Chúa Giêsu Kitô; hy sinh từ bỏ để nên giống Chúa Kitô, Đấng đã từ bỏ cả ngai tòa thiên quốc để xuống thế làm người và đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cho nhân loại được sống.
Có thể nói: một khi đã trở thành Kitô hữu thì đời sống của người tín hữu đã được quy chiếu tất cả vào Chúa Giêsu Kitô.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (2 V 4,8-11.14-16a): "Người đến trọ nhà mình, là một vị thánh của Thiên Chúa" Một ngày nọ, Êlisê đi ngang qua miền Sunam. Ở đó có một bà sang trọng mời ông ở lại dùng bữa. Và từ đấy, mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà dùng bữa. Bà nói với chồng bà rằng: "Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó".
Một ngày nọ Êlisê đến, ông lên căn phòng trên lầu và nghỉ tại đó. Ông nói (với Giêzê, tiểu đồng của ông): "Bà muốn chúng ta làm gì cho bà?" Giêzê nói rằng: "Thầy khỏi hỏi, bà ấy không có con, và chồng bà đã già". Êlisê bảo gọi bà ta. Nghe gọi, bà liền đến đứng trước cửa, ông nói với bà rằng: "Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai".
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11): "Chúng ta chịu mai táng với Ngài nhờ phép rửa, chúng ta phải sống đời sống mới" Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Mà nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng: chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 10,37-42): "Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy" Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
"Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu"
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Đấng đã sai ngôn sứ Êlisa đến thành Sunêm và ở đó ông đã thực hiện một vài việc tốt lành như làm cho cậu bé sống lại, nồi cháo hết độc, và phép lạ hóa bánh ra nhiều.
- Là Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tận tình giảng giải người Ki-tô hữu phải quy chiếu về Người như thế nào trong cuộc sống.
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng cho Thánh Phaolô có những giáo huấn sâu sắc về phép rửa, về kết quả của sự kết hiệp giữa Chúa Kitô và các Kitô hữu.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua bài Phúc Âm, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai phần:
- Một là “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
- Hai là "Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu."
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa bằng tấm lòng biết ơn, cậy trông tin tưởng. Đặc biệt là sống với Chúa Giê-su là Đấng muốn mỗi người chúng ta có mối tương quan sâu sắc, gắn bó, riêng tư với Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay
- Là chúng ta thực hành việc hy sinh từ bỏ, vác thập giá mà theo Chúa Giê-su Ki-tô
- Là chúng ta mở rộng tấm lòng và bàn tay để đón tiếp và chia sẻ với những người Chúa gửi đến cho chúng ta; đó có thể là một ngôn sứ hay một người công chính, thậm chí có thể chỉ là một người nào đó.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới này được ơn nhận ra Thiên Chúa có quyền đòi hỏi ở con người một tình yêu lớn hơn tình máu mủ ruột thịt.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Kitô hữu vui vác thập giá để theo chân Chúa Kitô.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, biết mở rộng tâm hồn và hai bàn tay để đón tiếp Chúa Kitô nơi những người nghèo khó thiếu thốn mà họ gặp trong đời thường.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” Chúng ta hãy câu nguyện cho những tâm hồn ích kỷ, chỉ biết có mình, không quan tâm tới ai khác, để họ thay đổi suy nghĩ và cách sống.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sài-gòn ngày 22 tháng 06 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Trong bài Phúc âm Chúa Nhât XIII Thường Niên A hôm nay (Mt 10,37-42) Chúa Giêsu nói rõ TN 13-A100
Trong bài Phúc âm Chúa Nhât XIII Thường Niên A hôm nay (Mt 10,37-42) Chúa Giêsu nói rõ cho các tông đồ những điều mà Chúa đòi hỏi ở các ông. Đó là các tông đồ phải yêu Chúa Giêsu trên hết mọi sự và phải đi con đường mà Chúa Giêsu đã đi, đó là con đường thập giá. Cũng trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu còn dậy các tông đồ về ý nghĩa và giá trị của việc đón tiếp Chúa và đón tiếp bất cứ người nào khác. Rõ ràng Lời Chúa mời gọi những ai xưng mình là tông đồ và môn đệ của Chúa Giêsu phải xem lại mình và sửa đổi cách sống cho phù hợp với giáo huấn của Chúa.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 10,37-42:
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 10,37-42): "Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy" Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
"Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu"
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 10,37-42: Bài Phúc âm có hai nội dung chính:
Nội dung thứ nhất là Chúa Giêsu đòi hỏi các tông đồ hai điều: một là các ông phải yêu Chúa trên hết mọi sự: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”; hai là các ông phải đi con đường mà Chúa Giêsu đã đi, đó là con đường thập giá: “Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”
Nội dung thứ hai là Chúa Giêsu nói về ý nghĩa và giá trị của việc người ta đón tiếp các tông đồ hay bất cứ người nào khác: "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính”
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt Mt 10,37-42:
4.1 Chúng ta hãy xét mình cách nghiêm túc: Khó mà nói được rằng là chúng ta đã yêu Chúa trên hết mọi sự, trên cả cha me, con cái của chúng ta, trên cả của cải tài sản chức quyền của chúng ta. Cũng khó mà nói được rằng chúng ta đã vác thập giá, đã hy sinh, từ bỏ trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta hãy thú nhận với Chúa Giêsu là chúng ta chưa yêu Người nhiều như Người mong muốn, chưa vác thập giá chưa hy sinh từ bỏ nhiều như Người đã dạy.
4.2 Chúng ta hãy mở rộng vòng tay và tâm hồn để đón tiếp mọi người mà Thiên Chúa gửi tới cho chúng ta, trước hết là những người thay mặt Chúa như cha mẹ, phụ huynh, các linh mục, tu sĩ. Rồi đến những nguời đạo đức thánh thiện. Và sau cùng là bất cứ người nào mà chúng ta gặp. Niềm au ủi lớn lao là “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu"
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã dậy chúng con cách sống đẹp lòng Cha và đem lại ơn ích cho chúng con. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người yêu Chúa trên hết mọi sự.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi người có đạo can đảm vác thập giá mình mà theo Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu dám liều mất mạng sống mình vì Chua vì Đạo.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho các Kitô hữu và những người thành tâm thiện chí biết sống bác ái vị tha với những người xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Người đã dậy chúng con cách sống đẹp lòng Cha. Đó là yêu Chúa trên hết mọi sự, là vác thập giá mình mà theo Chúa, là đón tiếp và sống bác ái với mọi người.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con một tinh thần quảng đại để chúng con thực hành những chỉ dẫy mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng con Chúng con cầu xin nhân danh Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 01 tháng 07 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội -----------------------------