Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 18 TN–A Bài 1-50: Mọi người đều ăn no ------------------------------------------ Phúc Âm: Mt 14, 13-21: “Mọi người đều ăn no”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ. Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”. Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ. - Ðó là lời Chúa.
Theo thống kê năm 1992 của Liên Hiệp Quốc, thì trên thế giới có khoảng50 triệu người bị suy: TN18-A1
Theo thống kê năm 1992 của Liên Hiệp Quốc, thì trên thế giới có khoảng 50 triệu người bị suy dinh dưỡng và mỗi ngày có tới 14.000 người bị chết vì đói.
Sự chênh lệch mức sống hiện nay giữa người giàu và người nghèo không phải vì thiếu tài nguyên thiên nhiên, mà vì sự phận phối không đồng đều.
Mỗi năm ở một số nước người ta dành hàng tỷ mỹ kim cho chi phí quốc phòng, chế tạo vũ khí giết người, nhưng lại ít quan tâm đến việc cung cấp những nhu cầu cần thiết cho những người nghèo thuộc thế giới thứ ba.
Có những quốc gia, người ta thà rằng hủy bỏ lúa gạo để giữ giá trên thị trường còn hơn là viện trợ giúp đỡ cho những kẻ cùng khốn và túng đói.
Chính Đức thánh cha Gioan Phaolô II, trong những thông điệp gần đây nhất, cũng đã lên án thái độ ích kỷ và khép kín, lợi dụng khoa học kỹ thuật của mình để bóc lột những nước nghèo.
Có một nhà tỉ phú, trong thời gian sa cơ thất thế, ông ta bị bắt và phải đi học tập cải tạo. Ông ta đã cho biết : - Hạnh phúc nhất của một con người là được…ăn cơm.
Do đó, cái đói, cái khát của một phần ba nhân loại hiện nay, không phải chỉ đơn thuần là đói khát cơm bánh, mà còn là đói khát tình thương và sự công bằng.
Từ những sự kiện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng trong nơi hoang vắng.
Sau khi họ đã miệt mài đi theo Chúa và lắng nghe những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Ngài, thì lúc bấy giờ trời đã về chiếu. Trước tình cảnh này, các tông đồ định giải tán để họ tư lo lấy những nhu cầu cần thiết cho bản thân mình.
Thế nhưng, Chúa Giêsu liền bảo các ông :
- Họ không cần phải ra về. Các con hãy cho họ ăn đi.
Các ông thưa :
- Ở đây chỉ có năm chiếc bành và hai con cá. Bằng đó thì chẳng thấm tháp vào đâu.
Chúa Giêsu bảo các ông đem lại cho Ngài. Ngài không muốn các ông chỉ biết lo cho nhóm của mình, mà còn phải lo cho mọi người. Ngài muốn các ông đem tất cả lại cho Ngài để Ngài làm phép lạ, cho hóa ra nhiều để nuôi tất cả đám đông dân chúng.
Cơm bánh là một ơn huệ Chúa ban, bởi vì nếu không có hạt giống, chúng ta sẽ chẳng có cây lúa. Nếu không có cây lúa, chúng ta cũng chẳng có mùa màng, hay nếu không có mưa thuận gió hòa, thì chúng ta cũng chẳng có được một vụ mùa bội thu, như lời thánh Phaolô đã xác quyết :
- Phaolô trồng, Apollo tưới, những chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái.
Thế nhưng, cơm bánh Chúa ban cho chúng ta có mục đích gì?
Dĩ nhiên là để nuôi sống bản thân và gia đình cùng với những người thân yêu đã đành, mà hơn thế nữa, còn để chia sẻ và giúp đỡ người khác.
Kinh thánh đã xác quyết : chia sẻ cơm bánh là một bổn phận thiêng liêng, bởi vì mỗi khi cho kẻ đói được ăn, dù chỉ là một chén cơm nguội, mỗi khi cho kẻ khát được uống, dù chỉ là một ly nước lạnh, là chúng ta đã giúp đở cho chính Chúa vậy. Hẳn chúng ta còn nhớ về hoạt cảnh ngày phán xét. Với những người lành, Chúa bảo:
- Hãy vào hưởng hạnh phúc đời vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và Ngài đã kết luận :
- Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một kẻ hèn mọn là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Chúa nuôi dưỡng chúng ta hằng ngày, từ cơm gạo phần xác, cho đến Mình và Máu thánh Ngài cho phần hồn. Vậy tại sao chúng ta lại không biết chia sẻ và giúp đỡ người khác ?
Lagiarô của thời buổi hôm nay là chính những người nghèo khổ và túng cực đang ngồi trước cửa nhà chúng ta. Lagiarô của thời buổi hôm nay chính là những người ăn xin đang lê bước trên mọi nẻo đường. Lagiarô của thời buổi hôm nay chính là những người tàn tật đang van nài một sự giúp đỡ.
Chia cơm sẻ áo cho người nghèo khổ chính là một cách thức tốt đẹp nhất để biểu lộ lòng kính mến đối với Thiên Chúa và tình yêu thương đối với tha nhân.
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau : Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến: TN18-A2
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau : Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9 ngàn người. Bởi đó không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi :
- Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ trả lời :
- Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp :
- Ở Ấn Độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng?
Họ thưa :
- Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
Món quà cưới của đôi bạn trẻ trong câu chuyện trên đây quả là cao đẹp. Nó cao đẹp bởi vì nó được làm nên bởi những hy sinh quá lớn. Nó cao đẹp bởi vì nó kết tinh bằng một tình yêu trao ban. Họ không chỉ hy sinh tiền bạc mà còn hy sinh cả vinh dự và niềm vui. Họ không chỉ trao ban của cải mà còn trao ban cả tấm lòng. Bởi vì họ đã học được nơi Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: “Người thấy đám dân đông đúc thì chạnh lòng thương”.
Chính vì chạnh lòng thương mà Đức Giêsu đã chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền.
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã không để cho đám đông tự mua lấy thức ăn.
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã bảo các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.
Và cuối cùng, lòng thương xót bao la của người mục tử tốt lành đã thực hiện một phép lạ ngoạn mục nhất trong Kinh thánh là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá Đức Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em được ăn no nê mà còn dư giả.
Hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình cho anh em. Người chờ đợi nơi chúng ta một chút lòng chạnh thương. Và cả thế giới sẽ được hưởng chung phép lạ lẫy lừng của Thiên Chúa.
Có lẽ người nghèo sẽ không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu những con người biết chạnh lòng thương. Người ta cần có lương thực để sống, nhưng cũng rất cần có tình thương để tồn tại. Những người đang chờ chết là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương. Những người giàu có mà không biết chia sẻ cũng là những người đang chết đi cái nhân tính của mình. Nếu Đức Giêsu đã bảo: “Chính các con hãy cho họ ăn thì đó không phải lời khuyên mà là một lệnh truyền.
Thực ra, con người chỉ tìm được ý nghĩa cho cuộc sống khi biết chia sẻ cho đi. Con người chỉ lớn lên theo mức độ của sự trao ban vô vị lợi mà thôi. Có biết trao ban thì con người mới thực sự triển nở trong nhân cách. Có biết trao ban thì con người mới vui sống và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. Triết gia Platon quả quyết: “Con người chỉ tìm được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc”. Thánh Phaolô cũng đã ghi lại khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.
Tình yêu trao ban mà Đức Giêsu mời gọi những tín hữu Kitô hãy thực hiện thì chính Người đã làm gương trước. Vào bữa tiệc ly ngày thứ năm Tuần thánh, Người chính là tấm bánh được bẻ ra, và trao ban cho các môn đệ. Tin Mừng thuật lại sáu lần hóa bánh ra nhiều cũng là để nói lên hình bóng của Bí tích Thánh thể là chính Đức Giêsu : tấm bánh được bẻ ra, được trao ban cho một thế giới mới.
Và môn đệ trao cho đám đông. Khi nhận lấy bánh Hằng Sống, chúng ta không thể giữ lấy cho riêng mình, nhưng là sẵn sàng chia sẻ trao ban cho những người chung quanh.
Ai cũng có thể đem cho những thứ mình bỏ đi, nhưng lòng nhân ái thật sự là đem cho những gì mình yêu quí nhất. Trao ban đích thực là trao ban chính bản thân. Con người chỉ trở nên giàu có khi trao ban chính bản thân mà thôi. Mẹ Têrêsa Calcutta không mang đến Ấn Độ một đồng xu dính túi, không cho những người nghèo tiền rừng bạc bể, không mang đến đó tiền của dư thừa. Mẹ trao ban chính mình. Nhưng chắc chắn khi qua đời ít có ai giàu có hơn mẹ.
Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một: TN18-A3
Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác, sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ “phân phát”. Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”.
Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới những khát vọng tầm thường.
Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác: ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý. Chúa Giêsu nói : “Hãy xem chim trời… hãy xem hoa huệ ngoài đồng…”
Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn : bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu… Chân, thiện, nỹ tuyệt đối… Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Đức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như không ai làm nổi : biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại chia xẻ.
Câu chuyện sau đây có thể minh họa cho ý nghĩa này: Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà này từ chối :
Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
Không sao. Chỉ nhờ Bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. Hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác. Chẳng bao lâu căn nhà đầy người.
Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm : “Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt”. Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói “Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê”. Một người khách vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế…
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra đi.
1. Một cử chỉ là biểu tượng sứ mệnh của Đức Giêsu.
Bốn thánh sử đều tường thuật câu truyện hoá bánh ra nhiều. Cả thảy là sáu lần mà hai lần trong: TN18-A4
Bốn thánh sử đều tường thuật câu truyện hoá bánh ra nhiều. Cả thảy là sáu lần mà hai lần trong Matthêu và Máccô trong những bối cảnh khác nhau. Ở đây chúng ta gặp một trường hợp duy nhất là cùng một biến cố mà có những ngần ấy trình thuật khác nhau; điều đó đủ nói lên tầm mức quan trọng và vẻ phong phú của biến cố đối với huấn giáo.
Hôm nay Giáo Hội đề nghị ta suy niệm trình thuật thứ nhất trong hai trình thuật của thánh Matthêu.
- Tác giả đã đặt câu truyện vào một bối cảnh bi thảm. Nỗi thất bại đã trải qua trong “chính quê hương của mình” ở Nagarét (13,53-55) Đức Giêsu lại vừa mới hay tin Gioan Tẩy Giả bị Hêrôđê ra lệnh chém đầu (14,1-3). Khởi sự một chuyến đi lánh nạn sẽ dẫn Người từng chặng lần lượt đến miền Césarée Philipphe “Người lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng, riêng biệt”.
- Không như một bài báo tường thuật biến cố xảy ra, bài trình thuật rất mau chóng lộ ra - cho ai xem xét kỹ lưỡng - là một bài tích luỹ những vay mượn các mẫu của Cựu Ước, đồng thời được đọc lại dưới ánh sáng kinh nghiệm bữa ăn Thánh Thể của các cộng đồng tín hữu đầu tiên.
+ Gặp lại “đám đông” đã đi bộ mà theo Chúa, còn Người thì dùng thuyền tìm nơi êm ả, thanh vắng, Đức Giêsu “chạnh lòng thương” (đúng chữ là “quặn lòng") họ. Lúc bắt đầu bài giảng về truyền giáo, Đức Giêsu đã quặn lòng như vậy khi nhìn thấy đám đông không người chăn dắt (9,36). Người cũng sẽ quặn lòng như thế khi gặp người mờ ở Giêricô (20,34). Trước mặt đám người đông đúc mà Người trông thấy khi “ra khỏi thuyền”, Đức Giêsu tỏ mình ở đây là MỤC TỬ ĐÍCH THỰC mà các ngôn sứ đã loan báo (cf. Ez, 34), là Mục Tử Thiên Chúa sai đến để quy tụ dân Người và đưa họ đến những đồng cỏ xanh tươi.
F. Prud'homme chú giải: “Người chạnh lòng thương”. Từ ngữ chỉ thứ xúc động của tình yêu sâu xa, như bản năng, bắt nguồn từ trong tim hay trong “ruột gan” của một người mẹ; đó không phải chỉ là tình cảm thuần tuý, nhưng là lòng trắc ẩn có sức tác động. Trong Cựu Ước động từ ấy chỉ tình yêu của Đức Giavê đối với dân Người, một tình yêu thuộc bản tính của Thiên Chúa...
Truyền thống nguyên thuỷ đã trình bày việc Chúa hoá bánh ra nhiều như một cử điệu chỉ thoát ra từ lòng trắc ẩn của Đức Giêsu. Trong bài tường thuật của mình, thánh Máccô dùng Ezechiel 34 để mô tả Đức Giêsu mang những nét của vị Mục tử đích thực mà dân trông đợi. Thánh Matthêu lại dùng cũng điểm quy chiếu trên ở 9,36 để nói lên ý tưởng là sứ mệnh của các tông đồ có nguồn gốc trong tình yêu trắc ẩn của Đức Giêsu. Ở đây cũng vậy, cử chỉ xót thương của Đức Giêsu được gợi nên do tình cảnh của đám đông đang đi tìm kiếm mà chẳng biết, đang “đi theo” mà đích thực chẳng khám phá ra Đấng Cứu Thế. Cái “đói” đích thực của đám đông này là thế đó. Hành động của Đức Giêsu sẽ mang tính biểu tượng cho tất cả sứ mệnh của Người, và các tông đồ sẽ tham dự chặt chẽ vào sứ mệnh đó.
Những con người nghèo khổ đói khát này, tất cả đều cần được chữa lành và hết thảy không trừ một ai đều được mời gọi tham dự bàn tiệc” ("Assemblée, du Seigneur” số 49, trang 24).
Cũng giống như ba tác giả kia, thánh Matthêu nhấn mạnh đến sự bất cân xứng lớn lao giữa số thực phẩm mang tới: “Năm cái bánh và hai con cá”, và đám đông ăn no nê: “Chừng năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ em”. Như thế Đức Giêsu được giới thiệu như vị NGÔN SỨ ĐƯỢC TRÔNG ĐỢI, vượt trên cả chính Élisée người đã nuôi ăn một trăm người bằng hai mươi cái bánh lúa mạnh (2 Các Vua 4,42-44). Thời đại mới, thời đại ứng nghiệm những hình ảnh của Giao ước cũ, đã được khai trương trong con người Đức Giêsu.
+ Cảnh được đặt vào “một chỗ hoang vắng”. Đối với thánh sử Matthêu, đó là một cách để chào mừng Đức Giêsu là Môsê mới tụ họp dân Chúa tiến vào hoang mạc (Xh 16,4) rồi dẫn họ tới Đất Hứa thực, nơi đó “mọi người sẽ được nuôi ăn và ăn no nê” (Nl 6,11; 11,15; 31,20).
+ Sau cùng khi nhấn mạnh đến số thực phẩm quá dồi dào được ban tặng miễn phí, thánh sử hàm ý chỉ Đức Giêsu là CHỦ BÀN ĂN quy tụ quanh Người những đám dân tản mác vào dự bàn tiệc của Đấng Cứu thế (Cf. Isaie 55, bài đọc một của Chúa nhật XVIII thường niên).
2. Một cử chỉ biểu tượng sứ mệnh của Giáo Hội:
Nếu cảnh hoá bánh ra nhiều mạc khải bằng biểu tượng căn tính đích thực và sứ mệnh của Đức Giêsu, thì cảnh ấy cũng vén lên bức màn về sứ mệnh của các môn đệ Người phải thực hiện cho tới ngày Người trở lại.
- Vả lại khi đặt cảnh hoá bánh ra nhiều vào lúc “chiều đến”, giống như ở Tiệc Ly (26,20), thánh Matthêu có vẻ như muốn đúc kết trình thuật của mình để cho nó có vẻ long trọng hơn, một phong cách phụng vụ hơn, và như thế tập trung hơn những cái nhìn hướng về những cử chỉ của Đức Giêsu. Những cử chỉ được thánh sử tường thuật bằng cùng những lời lẽ như những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa ăn sau hết với các môn đệ: “Cầm lấy bánh”, “đọc lời chúc tụng” (hoặc “tạ ơn"), “bẻ ra” và “trao cho” (Mt 26,26). Những cử chỉ này chính là những cử chỉ của truyền thống phụng vụ về nghi lễ “Bẻ bánh” diễn ra trong các buổi họp hội của các tín hữu. Đối với thánh sử, đó là một cách để trình bày việc hoá bánh ra nhiều như là một báo hiệu tiệc Thánh Thể sau này.
- Còn về nhiệm vụ dành cho các môn đệ, thánh Matthêu cũng loan báo bằng biểu tượng thừa tác vụ mà sẽ là chính tác vụ của các ông trong việc cử hành Thánh Thể vốn được sinh hoạt trong các cộng đồng tín hữu: “Đức Giêsu cầm lấy bánh... bẻ ra, trao cho các môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông”.
J. Perron giải thích: “Đức Giêsu đã muốn cần đến các tông đồ, và muốn cho các ông khai trương ngay hôm đó, nhiệm vụ vốn phải là nhiệm vụ của chính các ông. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh ở đây tầm quan trọng và phẩm cách của chức vụ này khi dùng cũng một động từ “trao cho”, mà chủ từ trước tiên là Chúa Giêsu, rồi sau là các môn đệ; điều đó hàm ý rằng: có cùng một ơn ban, và ơn đó được trao qua tay các môn đệ. Phải chăng Đức Giêsu đã muốn như thế, bởi trước đó, Người vừa mới nói với các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn?” ("Lire La Bible”, số 52, trang 227).
- Chuyện kể kết thúc ở việc thu gom những “mẩu bánh còn thừa": “mười hai giỏ đầy”, cũng bằng con số các chi tộc Israel là dấu hiệu nói lên rằng công việc Chúa làm vượt trên số những người được hưởng ơn ngay tức thì, mà còn lan rộng tới cả một dân tộc. Là biểu tượng tiêu biểu việc Chúa ban ơn tràn trề, mười hai thúng đầy này cũng còn là dấu chỉ rằng thứ lương thực này còn mãi cho những ai được mời gọi tham dự cùng một bữa ăn trong cuộc lữ hành hôm nay của Giáo Hội: mỗi lần chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, một cách nào đó, là chúng ta lấy ra ở trong “mười hai thúng” đã được uỷ thác chiều hôm đó cho mười hai tông đồ.
Như thế, việc hoá bánh ra nhiều, suy niệm về “bánh” của Đức Giêsu, về chính con người Đức Giêsu, và về sứ mệnh của Người, dưới ngòi bút của thánh sử Matthêu, trở thành sự chiêm ngắm Giáo Hội kẻ trao bánh, Giáo Hội kẻ trao ban Đức Giêsu trong khi tiếp tục sứ mệnh của mình trong thế giới.
THIÊN CHÚA NUÔI CON NGƯỜI
Từ năm chiếc bánh và hai con cá Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn còn dư mười hai thúng đầy.
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta có hai cái nhìn : Một về theo phía người theo Chúa, hai về phía Đức Giêsu.
1) Về phía người theo Chúa : Người theo Chúa rất đông, kể số đàn ông độ năm ngàn tất nhiên số đàn bà, các cô, các trẻ em phải đông gấp đôi là ít. Họ theo Chúa vào nơi hoang địa, không nhà không cửa, không một quán ăn. Họ theo Chúa không phải vì miếng ăn, không phải đi đạo kiếm gạo mà ăn vì họ biết Chúa quá nghèo như Người đã nói : “Con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không nơi gối đầu”. Ngay cả các môn đệ Người khi đói cũng phải bứt bông lúa mà ăn trong ngày Sabát (Mt. 12,1) và từ trước đến giờ Người chưa làm phép lạ nào cho bánh hóa nhiều. Dân chúng theo Chúa cũng không phải mong được Chúa chữa bệnh cho mình, vì chỉ có số ít bệnh nhân đến được đây thôi. Vậy họ theo Chúa hoàn toàn vì mộ mến Chúa mà thôi. Đó mới chính là những người thật lòng theo Chúa, theo đạo Chúa thật thì thường sống theo hai đường lối :
+ Một là hoàn toàn phó thác sống theo ý Chúa, như Đức Maria đã thưa : “Tôi xin vâng như lời Thiên sứ của Chúa truyền”. Chính Đức Giêsu đã thực hiện con đường này khi Người xuống thế gian, Người đã thưa : “Này Con xin đến để thực thi ý Cha”. Khi lên mười hai tuổi đi lễ đền thờ, Người đã cho Đức Mẹ và thánh Giuse biết : “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận lo làm việc theo ý Cha con ?” (Lc. 2, 49) và dù phải khổ đến hấp hối, Người vẫn vâng theo ý Chúa Cha : “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin cất chén đắng này khỏi Con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc. 52, 42). Bao nhiêu vị thánh đã sống theo gương Đức Giêsu như thế, đặc biệt thánh Phanxicô khó khăn. Ngài sống hoàn toàn phó thác cho Chúa, bán hết của cải bố thí cho kẻ nghèo. Ngài đã trở nên kẻ nghèo cùng cực, đói khát, ăn xin, ôm bế những người cùi, cùng cực của xã hội với lòng yêu thương vui mừng bình an và phó thác.
+ Hai là cố gắng thực hiện lòng mến Chúa yêu người, sống công bình bác ái, khiêm tốn, cần kiệm, liêm chính, hy sinh phục vụ kẻ khác. Nhờ đó, xây dựng đời sống cá nhân, gia đình, xã hội văn minh, tiến bộ, hòa bình, thịnh vượng bảo đảm đời sống hạnh phúc thực bây giờ và muôn đời.
2) Về Chúa Giêsu : Người thấy dân chúng thì cảm thương, thương những người theo Chúa và thương cả nhân loại, thương cả hồn xác.
Chúa thương phần xác loài người. Người không để họ đói. Người đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ phân phát cho họ ăn no nê. Người đã chữa lành các bệnh nhân. Người nâng đỡ họ lâm cảnh bệnh tật, đúng như Người kêu gọi : “Hỡi tất cả những ai vất vả khó nhọc, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi” vì “Ta đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào”. Hơn sáu trăm năm trước, tiên tri Isaia đã thấy được cảnh dân sống phong phú đó, nên ông viết : “Đây Chúa phán : đến tất cả đi, hỡi những người đang khát : nước, rượu, sữa đã sẵn đây, cứ dùng đi, không tiền bạc chi cả. Hãy chăm chú nghe Ta, các ngươi sẽ được ăn ngon, sẽ được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai, và đến với Ta, các ngươi sẽ được sống” (Bài I).
Đúng thế, Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này thật phong phú đầy cao lương mỹ vị nuôi hàng tỉ tỉ chim trời cá biển, và muôn loài hàng trăm triệu năm mà vẫn dư thừa. Thiên Chúa đã trao kho tàng vô tận đó cho con người hưởng dùng, cai quản và phát triển. Nếu loài người đừng như đứa con phung phá thì không bao giờ thiếu thốn, đói khổ. Sở dĩ có nghèo đói là do chính loài người phá hủy vào chiến tranh, vào xì ke ma túy …
Thiên Chúa còn làm nên những việc lạ lùng vô cùng hơn nữa để nuôi sống linh hồn con người đời đời. Từ chút bánh rượu, Người đã làm trở nên thịt máu vô cùng châu báu nuôi hồn ta sống hiệp thông trong nguồn sống vinh quang cao cả của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dựng nên nước Trời hạnh phúc muôn thuở cho ta được sống trong tình thương vô biên của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn, mộ mến Ngài với bất cứ giá nào. “Dù gian truân, cùng khốn, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo, cũng không thể xa lìa chúng con khỏi tình yêu Chúa Kitô” (Bài II - Rm. 8, 35-39)
Bài Phúc Âm hôm nay đưa người đọc liên tưởng đến Thánh vịnh 23: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi: TN18-A5
Bài Phúc Âm hôm nay đưa người đọc liên tưởng đến Thánh vịnh 23: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ."
Thật vậy, đó là một buổi chiều êm ả, mặt trời đang khuất dạng ở đàng Tây. Trên một sườn đồi xanh thoai thoải, trên 5,000 người đang quây quần thành những nhóm nhỏ, quanh những chiếc rổ tre chứa những chiếc bánh mì to bằng nắm tay và những con cá khô nho nhỏ. Bữa ăn tuy thanh đạm, nhưng mọi người ăn ngon miệng vì đói. Họ trò chuyện nhỏ to; vẻ hài lòng về những gì được thấy, được nghe ngày hôm ấy bên Thầy Giêsu. Vậy họ là ai, cái đám đông được Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi sống ấy?
Mấy ngày hôm trước, Đức Giêsu về thăm làng quê Nadarét. Tiện dịp, Người đã vào giảng dạy trong Hội đường. Dân làng ngỡ ngàng về sự thông thái và uy quyền của Đức Giêsu, nhưng họ từ khước tin vào anh thợ mộc con ông Giuse ấy. Có tiên tri nào được rạng rỡ nơi quê hương mình bao giờ? (Mt 13,53-57). Thêm vào đó, Hêrôđê mới trảm quyết Gioan Tẩy Giả, anh họ của Người. Con người can đảm ấy đã bị tống ngục lâu nay vì dám can dự vào cuộc hôn nhân ngược ngạo của vua với người em dâu (Mt 14,3-12). Hơn nữa, được biết Hêrôđê đang nghi ngờ Người là Gioan sống lại, Đức Giêsu đã rút vào hoang địa, để xa tránh thế gian thù nghịch đang khước từ Người (c.13a).
Chính trong lúc Đức Giêsu bị người đời từ khước, thì đám đông hơn 5,000 người này lại từ các thành tuốn đến tìm Người trong hoang địa (c.13b). Họ say mê Đức Giêsu đến độ quên cả giờ giấc, quên cả chuyện cơm nước. Dường như Nước Trời được dành riêng cho từng tâm hồn nghèo khó, đơn thành, tìm sự cậy dựa nơi một mình Thiên Chúa, như đám đông dân chúng này. Chính vì điều ấy mà Đức Giêsu đã có lúc tạ ơn Thiên Chúa Cha, vì đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết các mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng vì đó là điều đẹp ý Cha (Lc 10,21).
Sau khi đến và lưu lại với Đức Giêsu, đám đông dân chúng không những được no say Lời Chúa, được chữa lành các bệnh tật, mà còn được no nê của ăn phần xác. Phép lạ hoá bánh và cá này thật lớn lao, nhưng cũng thật bình dị: lớn lao vì nào có ai nuôi được 5,000 người no nê chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá; bình dị vì đó chẳng phải là yến tiệc linh đình gì cả, chỉ có mỗi bánh mì và cá khô: hai thức ăn của người nghèo, nhưng lại tối cần thiết cho sự sống còn của họ. Phép lạ đó cũng cho thấy sự quan tâm của Đức Giêsu đến những nhu cầu vật chất của người nghèo, cũng như sự cộng tác chặt chẽ và quí giá của các tông đồ, hầu cho phép lạ được thành sự. Thật vậy, chính các tông đồ đã báo cho Chúa biết nhu cầu của dân chúng (c.15); chính các ông đã trao cho Chúa số bánh và cá ít ỏi mà các ông có được (c.17); và cũng chính các ông đã phân phát bánh cho dân, cùng thu lại những mẫu bánh thừa (c.19-20). Điều này cho thấy Thiên Chúa muốn con người cộng tác với Ngài đáp ứng nhu cầu của muôn người.
Dân chúng có lòng tốt hơn ta tưởng
Hãy nghe lời chia sẻ sau đây của một người suốt đời thi hành việc đó. Linh mục Uông Văn Phúc (Weren fried Van Straaten) sinh năm 1913 tại Hà Lan. Năm 1947 cho khởi sự chiến dịch cứu đói dân tộc Đức Quốc bại chiến, dù quân Đức đã dày xéo đất nước Hà Lan của cha trong chiến tranh. Từ đó tới nay đã trên 50 năm, cha Uông Văn Phúc thu góp được tổng cộng trên 3 tỷ đô la để giúp người nghèo nhiều nơi trên thế giới.
Cha nói: "Điều quan trọng nhất mà tôi khám phá ra qua hơn 50 năm nay là dân chúng có lòng tốt hơn ta nghĩ; nhất là Thiên Chúa, Ngài vĩ đại hơn ta chờ mong. Công cuộc cứu trợ chúng tôi thực hiện, dựa trên niềm tin tưởng đó thay vì dựa trên lý luận. Mỗi năm tôi kêu gọi sự đóng góp chừng 75 triệu đô la cho những nhu cầu Giáo Hội khắp nơi. Khi Chúa cho tôi thấy một nhu cầu nào đó mà tôi cần cố công đáp ứng, thì tôi cũng phải xin Chúa khơi dậy lòng ước ao nơi nhiều người thiện chí để họ đóng góp. Trong công cuộc cứu trợ chúng tôi vẫn hành xử như vậy trên 50 năm nay và thấy hai cột chi thu của chúng tôi vẫn cân bằng. Mọi khổ đau không làm tôi thất vọng hoặc cay chua, vì đồng thời tôi còn thấy lòng tốt nơi nhiều người. Tôi luôn ở trong tình trạng thiếu hụt suốt 50 năm qua, do nhu cầu những khoản cứu trợ vượt quá số tiền tôi có nơi ngân hàng. Nhưng cuối cùng tôi luôn nhận được đủ để đáp ứng những khoản tôi đã hứa với người ta. Chẳng hạn, mới rồi có người mang tới văn phòng cứu trợ của chúng tôi 5 ký lô vàng thẻ cùng với một số tiền mặt, tổng trị giá lên tới 1 triệu 7 trăm đô la, vừa đúng số tiền cứu trợ tôi hứa với một cơ quan từ thiện nọ cho năm 1997.
Dự án cứu trợ của chúng tôi được thực hiện sau thế chiến II, nhằm đến 14 triệu người Đức bị lưu đày khỏi quê hương họ. Chúng tôi đã thu gom đủ thứ mà họ cần dùng, như quần áo, giày dép, đồ ăn, v.v..., ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu mục vụ cho số đông quần chúng như vậy, chúng tôi đã phải huy động trên 3,000 linh mục và phải cung ứng cho các vị tất cả những gì các vị ấy cần đến, chẳng hạn, xe gắn máy, xe hơi, và cả 35 xe vận tải với đủ tiện nghi để tổ chức thánh lễ ngoài trời.
Kể từ năm 1990 tới nay chúng tôi còn giúp Giáo Hội Chính Thống tại Đông Âu, vì tin rằng chính chúng tôi cần được hoán cải để giúp nước Nga hoán cải, theo sứ điệp của Đức Mẹ Fatima. Từ hơn 1,000 năm nay, hai Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống đã chia rẽ nhau. Hai bên cần được hoà giải với nhau. Bản thân tối thấy mình cần dùng con đường cứu trợ như cách thức đi đến hoà giải với anh em Chính Thống.
Năm nay tôi đã 85 tuổi nhưng tôi vẫn tự nhủ mình còn có thể tiếp tục công việc cứu trợ. Ngày nào Thiên Chúa còn đánh động người ta đóng góp, chắc Ngài còn cho tôi sức khỏe để làm việc đó." (Viết theo New City, Tháng 3-1999 p.24-28).
Sống Bí Tích Thánh Thể và sự chia sẻ
Phép lạ hoá bánh thường được coi là hình bóng hay "khúc dạo đầu" của Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu chia sẻ chính Mình và Máu của Người làm lương thực đời đời cho nhân loại. Như vậy, Bí Tích Thánh Thể (BTTT) đã trở nên cao điểm của sự chia sẻ, vì nơi đó Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta qua việc trao hiến chính mạng sống mình.
Ấy vậy, khi tham dự BTTT, rất nhiều khi chúng ta chỉ chú tâm đến tương quan chiều dọc, tức kết hiệp với Chúa trong BTTT, mà quên đi tương quan chiều ngang đối với tha nhân. Tương quan này hệ tại việc chia sẻ huynh đệ mà ta bắt gặp thấy nơi cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy; siêng năng dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng... Họ hiệp nhất với nhau, đặt mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Cvtđ 2,42-46). Cũng trong tinh thần này, Thánh Giám Mục Ambrôsiô (thế kỷ thứ 4) dạy rằng: cái áo, đôi dép mà tôi không dùng đến là của người nghèo; chiếc bánh tôi ăn khi không đói cũng là của người nghèo.
Hơn thế, chia sẻ còn là dám hy sinh điều tôi đang cần đến cho ai đó cần hơn tôi. Trong phép lạ hoá bánh, các tông đồ đã trao cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá mà ai đó đã mang theo làm phần ăn cho chính họ. Thế nhưng chính nhờ chia sẻ số bánh và cá ít ỏi đó mà trên 5,000 người đã được nuôi ăn no nê. Đó là phép lạ của sự chia sẻ. Thế giới ngày nay hãy còn nghèo đói, cực khổ, bất công phải chăng vì con người chưa biết hoặc chưa dám sống chia sẻ?
Năm 1976, trong một bài tham luận quan trọng có nhan đề "Cơn đói cơm bánh và cơn đói Tin Mừng" đọc tại Đại Hội Thánh Thể quốc tế nhóm họp tại Philadenphia (Hoa Kỳ), cha Arrupê, Bề Trên Cả Dòng Tên, đã nhấn mạnh rằng khi thông dự vào BTTT, chúng ta dự phần vào một thân thể duy nhất là Đức Kitô Thánh Thể. Trong một thân thể, nếu một chi thể đau yếu thì toàn thân cũng không được khỏe. Vì thế theo cha Arrupê, "nếu nạn đói còn hoành hành ở một nơi nào đó trên thế giới, thì việc cử hành BTTT ở khắp mọi nơi đều không trọn vẹn. Trong BTTT, chúng ta lãnh nhận một Đức Kitô đang đói giữa những người đói ăn (-) Chính qua Đức Kitô (là thân thể) mà những con người đó (là chi thể như ta) nài xin chúng ta một sự giúp đỡ, một sự công bằng, một tình yêu được diễn tả qua hành động. Vì thế chúng ta sẽ không xứng đáng lãnh nhận Bánh Hằng Sống, nếu chính chúng ta không biết chia sẻ cơm bánh cho những người đói khát, bất kể họ ở đâu, bất kể họ là hạng người nào."
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết mở mắt trước những nhu cầu của tha nhân đang cần đến chúng con. Xin giúp chúng con dám chia sẻ với họ "tấm bánh" và "con cá" mà chính chúng con cũng cần đến, hầu cho Bí Tích Thánh Thể chúng con tham dự được trọn vẹn hơn. Amen.
Khi nghe tin Gioan bị giết, Đức Giêsu rút lui. Ngài rút lui vì chưa đến Giờ của Ngài (Mt 12,15).
Nhưng dân chúng đã đến nơi mà thuyền Ngài sắp cập bến. Thấy họ, Ngài chạnh lòng thương:TN18-A6
Nhưng dân chúng đã đến nơi mà thuyền Ngài sắp cập bến. Thấy họ, Ngài chạnh lòng thương và chữa những người bệnh. Nơi thì hoang vắng, trời đã ngả về chiều, các môn đệ xin Ngài cho đám đông đi mua đồ ăn. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói: "Chính anh em hãy cho họ ăn." Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, làm sao họ có thể cho đám đông này ăn được? Các môn đệ thú nhận giới hạn của mình. Họ chỉ có thế, nên không làm được điều Thầy muốn.
"Hãy đem lại đây cho Thầy."
Ngài cần đến phần đóng góp nhỏ nhoi của chúng ta, Ngài cần chúng ta trao cho Ngài tất cả những gì mình có, tất cả những gì chính chúng ta đang cần: năm cái bánh và hai con cá. Chúng ta nên nhìn lại đường đi của những tấm bánh: từ tay các môn đệ đến tay Đức Giêsu, từ tay Đức Giêsu nâng cao dâng lên Cha, rồi trở lại tay các môn đệ, và cuối cùng đến tay của từng người trong đám đông. Chúng ta tự hỏi phép lạ đã xảy ra ở trên tay ai. Tin Mừng không nói Đức Giêsu đã làm phép lạ để có một đống bánh và cá thật to, rồi các môn đệ cứ đến lấy mà phân phát. Tin Mừng chỉ nói Ngài bẻ bánh trao cho họ, rồi chắc họ phải bẻ ra để chia cho đám đông, và có lẽ những người trong đám đông cũng đã bẻ tấm bánh của mình để chia cho người khác. Chẳng mấy chốc, ai cũng có bánh ăn. Như thế, những tấm bánh từ tay Đức Giêsu đã được bẻ ra, trao đi và hoá nhiều. Đó là cốt lõi của phép lạ. Có thể các môn đệ và dân chúng đã góp phần của họ: bẻ ra, trao đi và hoá nhiều. Đây là phép lạ quan trọng vì có đông người chứng kiến, vì được cả bốn sách Tin Mừng kể lại, và vì Chúa muốn nó được kéo dài đến tận thế: bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời chúng ta tham dự để biết phép lạ không phải là chuyện viển vông. Đừng sợ bẻ ra và trao đi sẽ làm hao hụt. Nếu giữ lại, 5 chiếc bánh vẫn chỉ là 5 chiếc bánh. Hãy nhìn đến biết bao người đang cần bánh: bánh mì, bánh sự thật, bánh tự do, bánh công bằng, bánh yêu thương, cảm thông và tha thứ. Đừng lo vì bạn không có chi nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn đang có thì thế giới sẽ được no nê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Hiến trao chẳng những không làm mình nghèo đi, mà còn làm mình được thêm giàu có, phong phú, trưởng thành. Bạn có kinh nghiệm trên đây không?
Đứng trước cơn đói của con người hôm nay, bạn có thấy mình bó tay không? Họ đang đói điều gì hơn cả? Bạn có thể làm gì để giúp họ một cách cụ thể?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ. Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải. Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người. Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người, xin cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi." Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tình thương của Chúa thật dạt dào vô bờ vô bến. Suốt: TN18-A7
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tình thương của Chúa thật dạt dào vô bờ vô bến. Suốt một ngày, dân chúng từng đoàn lũ đông đảo theo Chúa để nghe lời Ngài giảng. Chiều đến, Chúa và môn đệ tìm một nơi an tĩnh để nghỉ ngơi một chút, nhưng cũng chẳng được, vì đoàn lũ cứ theo các ngài.
I. TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI
Thấy dân chúng đông đúc vẫn theo Chúa mãi không biết mỏi mệt, Ngài động lòng thương họ; vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Chúa đã chữa họ khỏi mọi bệnh tật đau yếu. Sau cùng, trời đã về chiều các môn đệ xin Chúa giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mua đồ ăn, Chúa không chấp nhận, mà trái lại còn truyền dạy: "Các con hãy cho họ ăn". Khốn nỗi, các môn đệ lại chỉ còn có 5 ổ bánh và 2 con cá, mà bằng ấy thì thấm vào đâu. Chúa đã làm phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều cho 5000 người ăn no, không kể đàn bà con trẻ, thế mà còn thu lại được 12 thúng những mẩu bánh vụn.
Chúa là Chúa Tình Thương, bản tính của Người chỉ là yêu thương, không để lỡ một cơ hội nào mà Người không thể hiện tình yêu thương đó qua mọi thế hệ, trong mọi hoàn cảnh và dưới mọi lãnh vực. Không những cứu chữa con người khỏi các chứng bệnh phần xác, nuôi sống họ trong lúc đói khát; mà còn cứu họ khỏi những cơn đói khát tinh thần, đói khát tình thương, đói khát chân lý, đói khát an bình, đói khát lòng nhân đạo.
Đọc Thánh Kinh, chúng ta thấy Chúa luôn luôn biểu lộ tình yêu thương: Nuôi sống Dân Chúa suốt 48 năm trong hoang địa hiu quạnh bằng manna, chim cút và giãn khát họ bằng mạch nước từ tảng đá chảy ra, do lệnh Chúa truyền cho Maisen giơ gậy đập vào tảng đá (Exd 16:9-15). Chúa nuôi tiên tri Elia đang ẩn trốn trong hang núi bằng ổ bánh mì và thịt nướng, cứ mỗi buổi chiều do con quạ từ đâu mang tới (I Kg 17:2-7). Cũng cách thế đó, Chúa nuôi dưỡng Thánh Antôn tu rừng sau khi Thánh Nhân đã bán hết tài sản phân phát cho người nghèo khó, bằng ổ bánh lùi và ve nước mát do chú quạ từ xa mang lại.
Mỗi người chúng ta cũng đều có thể cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương chúng ta: Với niềm tin và lòng biết ơn, ai trong chúng ta cũng cảm thấy lòng Chúa yêu thương, không những đã dựng nên chúng ta làm người, cứu chuộc chúng ta khỏi chết trong tội lỗi, quan phòng bảo tồn cho chúng ta được luôn tồn tại. Trong suốt cuộc sống, qua mọi hoàn cảnh, chúng ta đều có thể cảm nhận được tình Chúa yêu thương chúng ta, ban cho chúng ta đủ mọi ơn lành hồn xác.
II. LỆNH TRUYỀN CÁC CON HÃY CHO HỌ ĂN
Để đáp lại tình Chúa yêu thương, Giáo Hội cũng như các Tông Đồ xưa, luôn tìm mọi cách thực thi lệnh Chúa truyền: "Các con hãy cho họ ăn! Các con hãy cho họ ăn!"
Cảm thương trước nỗi đói khổ, nghèo túng, bệnh tật, đau thương của nhiều người trong nhiều quốc gia trên thế giới, Chúa đã ban cho Giáo Hội nhiều Vị Thánh, nhiều nhà hảo tâm, đã lập nên những cơ quan từ thiện, viện cô nhi, trại cải huấn, làng phong cùi, bệnh viện... để xoa dịu vết thương đau của con người, nhất là những thành phần bị bỏ rơi, phải quên lãng, bị gạt ra ngoài lề xã hội, không còn có quyền được sống.
Mẹ Terexa Calcutte là một điển hình sống động nhất hiện nay. Mẹ là một Nữ Tu nay đã gần 80 tuổi, mới được Đức Thánh Cha chấp nhận đơn từ nhiệm chức vụ Bề Trên Tổng Quyền Dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ sáng lập vì lý do già yếu. Mẹ là một người đàn bà đơn côi, khó nghèo, khiêm hạ, chẳng có quyền uy nào trong xã hội hiện nay, cũng chẳng có của cải sản nghiệp; thế nhưng Mẹ đang nổi tiếng vào bậc nhất trong thời đại chúng ta. Năm 1979 Mẹ đã được giải thưởng Hòa Bình Nobel, Mẹ đang làm chủ nhiều nhà thương, do công cuộc từ thiện bác ái của Mẹ, viện tế bần, nhà bác ái, trường huấn nghệ tại 50 thành phố trong cả nước Ấn Độ và 400 chi nhánh rải rắc trong 92 quốc gia trên thế giới với tổng số Nữ Tu lên hơn 3 ngàn. Không một nạn đói khổ, thiên tại, động đất, chiến tranh, mất nhân quyền, những vụ bị đàn áp bất công nào xảy ra trên giới, mà không được Giáo Hội quan tâm trợ giúp, nâng đỡ hoặc ra sức dùng uy tín mình để bảo vệ, tranh đấu hầu có thể tái lập thế quân bình trong xã hội.
Cảm thương những nỗi thương đau tinh thần của nhiều người, chưa được ánh sáng Đức Tin soi chiếu trở về chính lộ, chưa được diễm phúc nhận biết và tôn thờ Chúa, nhiều vị Thánh, nhiều nhà truyền giáo đã hy sinh trót cuộc đời, vượt trùng dương, hiến thân chịu cực khổ, đến những nơi man ri mọi rợ để rao giảng danh Chúa, chinh phục muôn người trở về với Chúa và Giáo Hội... Nhiều vị còn sẵn sàng hiến thân chịu chết để làm chứng nhân cho niềm tin, hoặc chết thay cho người khác để họ được sống, hầu cho Chúa được tôn vinh, như trường hợp Thánh Maximilian Kolbe đã chết cho một anh bạn tù của Đức Quốc Xã, để anh được sống và trở về với vợ con. Ngài đã được Giáo Hội tuyên dương công đức để thế giới ngưỡng mộ và noi theo bắt chước, bằng cách tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
III. CHÚNG TA CẦN CÓ NGHĨA VỤ NÀO
Trước tình Chúa yêu thương, qua ơn tạo dựng, săn sóc, bảo tồn chúng ta, trào đổ muôn ơn phúc xuống trên chúng ta, trải dài trong cả cuộc sống... Chúa còn hy hiến bản thân, chịu chết để cứu chúng ta khỏi án phạt chết muôn đời. Dầu vậy, Chúa cũng chưa lấy làm mãn nguyện, Người còn lập nên Nhiệm Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, hầu nên lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, nên nguồn an ủi hạnh phúc cho chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Vậy chúng ta phải có nghĩa vụ nào trước những chứng tích tình yêu vô cùng của Chúa đối với chúng ta?
Các Thánh đã đáp lại tình Chúa yêu thương bằng cách thực thi lệnh Chúa truyền: "Các con hãy cho họ ăn!" Các ngài đã hy hiến cả cuộc đời, đi khắp đó đây rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, lãnh nhận mọi vất vả đến hao mòn kiệt quệ, chịu tủi nhục, chịu khủng bố, bị vu oan cáo vạ, bị tù đầy và còn sẵn sàng lãnh nhận cả cái chết vì các phần rỗi linh hồn, để Chúa được tôn vinh, được phụng thờ, được yêu mến. Còn chúng ta, chúng ta đã làm gì và chúng ta sẽ làm gì?
Chúng ta có dám hy sinh chút ít của cải, công lao, sức lực, thời giờ để xoa dịu vết thương đau thể xác; an ủi những tâm hồn sầu khổ, cải hóa tội nhân, bệnh vực kẻ bị áp bức, nâng đỡ người yếu đuối, khích lệ kẻ thất vọng ngã lòng, an ủi người cô thế cô thân, kẻ mồ côi cô độc, dẫn dụ kẻ lạc bước trở về chính lộ, nhất là cầu nguyện và nỗ lực làm việc tông đồ chinh phục những người chưa nhận biết được trở về với Chúa, theo gương các Thánh và những tâm hồn thiện chí trong Giáo Hội không?
Kết Luận
Chúng ta có dám hy sinh đồng bạc cuối cùng, bát cơm sau hết cho sự sống mình, để giúp đỡ tha nhân như bà góa trong Tin Mừng và bà góa thời tiên tri Elia không?
Chắc chắn Chúa không phụ lòng quảng đại của chúng ta, khi chúng ta đáp lại lệnh Chúa truyền: "Các con hãy cho họ ăn". Chúa sẽ ân thưởng bội hậu cho những nghĩa cử bác ái của chúng ta khi chúng ta giúp đỡ tha nhân, trong cuộc sống vĩnh cửu mai hậu, có khi Chúa còn trọng thưởng chúng ta ngay ở cuộc sống trên trần gian này nữa.
Đám đông dân chúng say mê đi theo Chúa vì những lời Ngài giảng dạy và những phép lạ Ngài: TN18-A8
Đám đông dân chúng say mê đi theo Chúa vì những lời Ngài giảng dạy và những phép lạ Ngài đã làm. Không một ai đã nghĩ đến việc mang thực phẩm dự trữ. Ngoại trừ một em nhỏ có được 2 con cá và mấy chiếc bánh.
Khi các tông đồ hỏi xin, em đã đưa hết không một chút ngần ngại. Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, rồi trao cho các tông đồ đem đi phân phát. Hiệu quả năm ngàn người đã được no nê mà vẫn còn dư lại những 12 thúng đầy. Đám đông kinh ngạc và hớn hở, họ thầm nghĩ phải chăng Ngài sẽ là Đấng dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại vàng son. Họ đang cần một vị vua lẫm liệt oai phong. Biết được ý đồ ấy, Ngài đã một mình rút vào nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng một khi đã được khích động thì khó mà thay đổi được tình cảm và mục đích, cho nên ngày hôm sau tại hội đường Capharnaum, họ lại xin Ngài thực hiện phép lạ ấy một lần nữa.
Từ khởi điểm này, Ngài đã giới thiệu một thứ lương thực thần linh và thực hiện một phép lạ còn kỳ diệu hơn nữa. Ngài phán : Hãy làm việc không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn dẫn tới cuộc sống đời đời. Của ăn ấy Ta sẽ ban đó chính là Mình Ta cho thế gian được sống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Những lời này, khiến họ lấy làm chướng tai khó nghe nên họ đã bỏ Ngài, chỉ còn lại nhóm 12. Mặc dù biết các ông còn bàn tán, Chúa Giêsu đã không cắt nghĩa mà Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa : Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống. Sau này trong bữa Tiệc Ly Ngài đã lặp lại : Hãy cầm lấy mà ăn vì này là Mình Ta. Hãy cầm lấy mà uống, vì này là Máu Ta. Lời Chúa về lương thực thần linh đã trở nên một điểm làm phân rẽ nhân tâm, để rồi nhiều người đã bỏ Chúa. Từ đó cho đến nay, Bí tích Thánh Thể vẫn là một mầu nhiệm cao cả nhất và cũng là một điểm làm cho nhiều người vấp ngã. Nhưng lập trường của Chúa vẫn luôn dứt khoát và rõ rệt trước sau như một : Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống. Đây cũng là một định luật căn bản : được nuôi dưỡng hay là sẽ phải chết. Sự sống cần đến những năng lượng để sinh hoạt và phát triển, bằng không sẽ bị tàn lụi.
Bánh cho người tây phương và cơm gạo cho người đông phương là những hình ảnh thật cụ thể và quen thuộc, mà chúng ta cần đến hằng ngày. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã chuyển hình ảnh ấy vào lãnh vực siêu nhiên. Bánh đó không phải là thứ của ăn mà Ngài đã ban cho đám dân chúng, nhưng là lương thực thần linh nuôi sống linh hồn.
Sự sống siêu nhiên khởi đầu từ Bí tích Rửa tội, lớn lên bằng Bí tích Thêm sức và được bồi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể. Với Bí tích Thánh thể tâm hồn chúng ta được nuôi dưỡng và khỏe mạnh. Nếu chúng ta siêng năng rước lễ, chúng ta sẽ không còn khô khan nguội lạnh và xa tránh được nhiều tội lỗi, vì lúc bấy giờ Chúa sẽ ở cùng chúng ta và ai mạnh mẽ uy quyền cho bằng Chúa.
Trong thời buổi Giáo Hội bị bách hại bởi các bạo vương Lamã, người ta đã bí mật đem Mình Thánh Chúa cho các tín hữu bị bắt và bị giam cầm, nhờ đó mà các tín hữu ấy tìm được nguồn an ủi và trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
Cũng vậy, trong những trại tập trung, người ta đã chuyển bánh và rượu vào cho các linh mục bị tù đày để các ngài âm thầm cử hành thánh lễ, rồi phân phát Mình Thánh cho những bạn tù bất hạnh, lúc bấy giờ nhà tù trở thành gian cung thánh cho Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta cần đến của ăn như thế nào thì tâm hồn chúng ta cũng cần đến Bí tích Thánh thể như vậy. Nhờ Bí tích Thánh Thể chúng ta kín múc được nguồn sinh lực, để vượt thắng mọi tội lỗi và mọi khổ đau, đồng thời bảo đảm cho chúng ta sự sống lại và niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Hãy xét mình xem chúng ta đã đáp trả lời mời gọi ân tình của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh thể như thế nào ?
Một trong những cuốn phim có doanh thu cao trong năm vừa qua là phim“Người mang mặt nạ: TN18-A9
Một trong những cuốn phim có doanh thu cao trong năm vừa qua là phim “Người mang mặt nạ vàng”. Phim được dàn dựng theo một câu chuyện có thật tại Mêhicô, xảy ra cách đây vài năm. Tại đây thường tổ chức những cuộc thi đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích, và có thể đeo cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục ở nước này, là cha Gaetanô, đang lãnh đạo một nhóm các bạn trẻ làm công tác xã hội, chuyên lo giúp các trẻ em nghèo. Để có thêm tiền cho mục đích trên, cha Gaetanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu. Với một thân hình to lớn, thông thạo võ nghệ, và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaetanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che giấu tung tích của mình. Cha thường đấu với những địch thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao lãnh được, cha đều dành cho quỹ cứu trợ trẻ em nghèo. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng đã trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaetanô.
Giăng Rênô, một tài tử đóng vai linh mục Gaetanô trong cuốn phim nói trên, đã phải đọc Kinh thánh và tạo cho mình những tâm tư của một vị linh mục để có thể diễn xuất cách nhuần nhuyễn. Anh đã thổ lộ: “Đọc Kinh thánh cho tôi gặp gỡ được Thiên Chúa, và nói với Ngài những điều mà trước đây tôi chưa từng nói với ai”. Có lần, cậu con trai của Giăng Rênô, hỏi anh: “Bố ơi, bố có thể tạo nên phép lạ không?”. Anh trả lời: “Phép lạ chính là những gì con phải tự mình tạo nên”. Đó là câu nói rất đáng chúng ta chú ý.
Phép lạ chính là những gì con người tạo nên. Hay đúng hơn, phép lạ chính là những gì Thiên Chúa tạo nên nhờ sự cộng tác và đóng góp của con người. Trên vạn nẻo đường của con người, Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ họ. Phép lạ diễn ra kể từ lúc con người mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài. Chỉ cần một chút quảng đại và đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.
Năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé là biểu trưng của một lòng quảng đại cần thiết, để Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn no. Cho dù chỉ là một chút quảng đại, thì sự quảng đại đích thực nào cũng đòi hỏi nơi con người hi sinh, mất mát. Cho là cho trọn vẹn, dù mình chỉ có rất ít để cho.
Câu chuyện của vị linh mục võ sĩ trên đây như muốn nói với chúng ta : Cho đích thực là không tính toán, không so đo, không sợ bị thương tích. Linh mục Gaetanô đã thực hiện trọn vẹn ơn gọi linh mục của mình. Linh mục là người phải sống hoàn toàn cho người khác. Trong Đức Kitô, mọi người tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là được mời gọi để sống cho tha nhân. Lòng quảng đại và sự đóng góp của chúng ta là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ.
Vì thế, trong phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều này, chúng ta có thể chọn câu: “Các con hãy cho họ ăn đi” để làm nguyên tắc sống. Câu nói: “Hãy cho họ tìm cái ăn”. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì nếu giải tán được đám đông đang đói ăn thì coi như Chúa Giêsu và các môn đệ không còn bị phiền nhiễu chi nữa. Chúa Giêsu đã không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc. “Các con hãy cho họ ăn đi”, Chúa Giêsu vẫn nói với chúng ta câu này hàng ngày. Trước những nỗi đau của con người, trước những túng thiếu của người anh em, chúng ta đã thường có những thái độ nào? Dĩ nhiên quay lưng ngoảnh mặt là thái độ dễ thực hiện hơn, thế nhưng phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu làm chúng ta suy nghĩ, đặt chúng ta trước những vấn đề của người khác.
Chúng ta có thể biện minh : làm sao tôi có thể, có khả năng giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, những hoàn cảnh đen tối đầy dẫy trong xã hội được? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi? Những lời biện minh đó hay những lời biện minh khác cũng giống như lời biện minh xưa kia của các môn đệ: “Làm sao có đủ bánh để cho từng này con người ăn?”.
Qua phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Chúng ta hãy nhớ : điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng ở chỗ biết ý thức người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thích niềm vui biết cho đi, và xin Chúa hãy tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái lan tỏa đến mọi người.
Những người Do thái đạo đức hẳn sẽ không thể quên được những việc kỳ diệu Thiên Chúa đã: TN18-A10
Những người Do thái đạo đức hẳn sẽ không thể quên được những việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho tổ tiên họ. Đó là cuộc giải phóng đã đưa cha ông họ thoát ách nô lệ lầm than ở Ai cập. Và sau đó là 40 năm dài trong sa mạc, Thiên Chúa đã nuôi sống tổ tiên của họ bằng những thực phẩm mà những người ấy không tự tay làm ra được. Rồi ngày hôm nay, họ là những thế hệ con cháu lại được chứng kiến những điều vĩ đại và kỳ diệu khác, cụ thể là việc hàng chục ngàn người được ăn no chỉ nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá.
Tất cả những việc vĩ đại và kỳ diệu này không chỉ nói lên quyền năng của Thiên Chúa, nhưng trên hết, chúng diễn tả một tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Thật vậy, khi các tông đồ đề nghị Chúa Giêsu giải tán dân chúng để họ tự túc kiếm của ăn thì Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông : “Các con hãy lo cho họ ăn”. Dù dân chúng không ai mở miệng để kêu xin, nhưng Chúa Giêsu đã thấy những nhu cầu của họ và Người đã đáp ứng những nhu cầu ấy, bởi Người là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Chắc hẳn những người Do Thái có mặt hôm đó đã hiểu được một phần nào tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bởi chỉ những ai đã trải qua cơn đói, qua những thiếu thốn mới cảm nghiệm được sự chia sẻ, sự giúp đỡ của người khác quí báu là dường nào. Và qua sự giúp đỡ mà họ nhận được, hẳn là họ cũng cảm nghiệm được sự ân cần lo lắng và tình thương của người khác dành cho mình. Chúa Giêsu đã thể hiện sự lo lắng và ân cần chăm sóc tới nhu cầu cơm bánh của người Do Thái nói riêng và của con người nói chung. Người nói : “Thầy thương dân chúng vì đã 3 ngày nay họ theo thầy mà chưa ăn gì hết. Chẳng lẽ để họ nhịn đói mà về, sợ họ sẽ lả dọc đường chăng?”. Và trong niềm cảm thương ấy, Người đã nói với các tông đồ : “Các con hãy lo cho họ ăn”. Nhưng lo làm sao nổi cho hàng chục ngàn người ăn khi mà trong tay các ông chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá? Và thế là phép lạ đã xảy ra.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều không chỉ biểu lộ sự quan tâm chăm sóc và tình thương của Thiên Chúa đối với người Do Thái. Phép lạ ấy còn nói với mỗi người chúng ta rằng Thiên Chúa cũng yêu thương từng người trong chúng ta, bởi vì Người vẫn thực hiện những phép lạ trong từng ngày sống của cuộc đời ta. Thất vậy, nếu Thiên Chúa không giúp đỡ, liệu ta có khả năng để làm ra được hạt lúa nào chăng? Nếu Thiên Chúa không hộ phù, liệu ta có thể tự lo cho bản thân mình, cho gia đình mình một chén cơm, một manh áo nào không? Sống giữa cuộc đời bon chen này ta cảm thấy như mình bất lực, vậy mà ngày qua ngày ta vẫn sống, và cuộc sống vẫn trôi qua trong an bình. Đó chẳng phải là những phép lạ sao? Và những phép lạ ấy lại không diễn tả tình thương vô bờ của Thiên Chúa dành cho bản thân ta sao?
Không chỉ ban cho ta của ăn phần xác, Thiên Chúa còn làm phép lạ mỗi ngày để biến bánh rượu trở thành Thịt Máu Người hầu nuôi sống linh hồn ta nữa. phép lạ hóa bánh hôm nay chính là một điều báo trước cho phép lạ hóa bánh Thánh Thể ấy. Phép lạ hóa bánh Thánh Thể cao trọng và diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cách cho con người không phải cơm bánh, nhưng ban chính bản thân, chính máu thịt Người cho ta được sống.
Tình thương của Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở rất gần, ở ngay trong cuộc sống hằng ngày của ta. Tình thương ấy ở trong chén cơm manh áo, trong ly nước ta uống, trong khí trời ta hít thở, trong ánh sáng mặt trời, trong công việc ban ngày, trong giấc ngủ ban đêm, trong ngôi nhà ta trú ngụ …Người quan tâm lo lắng cho ta không chỉ phần xác mà cả phần hồn, không chỉ một ngày mà là mọi ngày trong suốt cuộc đời ta. Mỗi ngày trong đời ta là một chuỗi những phép lạ. Mọi sự ta có và hưởng dùng đều là những ân huệ của Thiên Chúa. Những phép lạ ấy, những hồng ân ấy nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương ta. Phần ta, ta có tin Thiên Chúa yêu ta không? Và nếu tin Người yêu ta, ta sẽ đáp đền thế nào?
Mẹ Têrêsa Calcutta đã kể lại câu chuyện một lần kia mẹ đi ngang qua một gia đình Hin đu đã: TN18-A11
Mẹ Têrêsa Calcutta đã kể lại câu chuyện một lần kia mẹ đi ngang qua một gia đình Hin đu đã đói nhiều ngày. Mẹ cầm theo một ít gao cho gia đình ấy. Điều xảy ra sau đó làm mẹ kinh ngạc.
Không chút lưỡng lự, người mẹ trong gia đình đã chia số gạo ra làm hai phần. Rồi bà đem một nữa cho gia đình nhà bên cạnh, tình cờ là những người theo Hồi dào. Thấy điều đó, mẹ Têrêsa nói với bà mẹ “Bà còn lại được bao nhiêu? Liệu có đủ cho gia đình bà không?”.
“Nhưng họ cũng đã nhịn đói nhiều ngày rồi”, người đàn bà ấy trả lời.
Lòng quảng đại như thế làm chúng ta phải trở nên khiêm nhường.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều ấy còn được gọi là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đãi tuyệt vời của cậu bé, vì với món quà của cậu là năm chiếc bánh và hai con cá mà phép lạ mới được thực hiện. Có thể tự nó là ít ỏi, nhưng đối với cậu bé đó là to lớn vì đó là tất cả những gì cậu có. Cho vật gì mà cả người cho lẫn người nhận rất cần. Đó mới thật sự là cho và là một sự hy sinh.
Do đó có sự quảng đại kỳ diệu của Đức Giêsu. Để đánh giá điều đó, chúng ta cần xem xét hoàn cảnh của phép lạ. Đến với những người khác khi không gặp sự phiền nhiễu nào là một việc dễ dàng. Nhưng sự việc không dễ dàng khi nó ào đến chúng ta vào lúc mà chúng ta đang gặp rắc rối. Ở đây bao hàm một sự hy sinh. Chúng ta phải để mọi dự định của chúng ta qua một bên và quyên cả chính mình. Đức Giêsu đà làm như thế. Người vừa mới biết tin người anh họ là Gioan Tẩy Giả đã bị giết chết. Người cần được yên tĩnh và thinh lặng. Đó là lý do khiến Người vừa bước ra khỏi thuyền, Người thấy đám đông dân chúng chờ Người. Hẳn Người có thể tức giận và giải tán họ. Thế nhưng Người lại thương xót họ và hoàn toàn cống hiến cho họ.
Rồi với lòng quảng đại tuyệt đối, người đáp ứng cơn đói của dân chúng. Người không chỉ cho họ ăn, nhưng còn cho mỗi người nhiều hơn họ cần, và còn dư mười hai thúng đầy.
Bạn có thể thấy tại sao phép lạ này được gọi là một phép lạ của lòng quảng đại. Lòng quảng đại không phải là lúc nào nào cũng biếu đồ vật. Thường gặp hơn, dâng hiến chính mình là cho thời gian và các tặng vật của mình. Cho đồ vật có thể là dễ dàng, nhưng cho chính mình không bao giờ dễ dàng. Trước khi Người ban chính mình như của ăn, của uống trong Thánh Thể, Đức Giêsu đã ban chính mình cho dân chúng bằng nhiều cách khác nhau.
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông đã được các Kitô hữu tiên khởi trân trọng giữ gìn. Phép lạ nhắc lại câu chuyện Man-na trong sa mạc thời Cựu Ước. Đối với họ, Đức Giêsu là Môsê mới, nuôi dân chúng trong sa mạc. Vì thế, họ nhìn thấy trong phép lạ này một sự tiên báo của Thánh Thể. Chính ở bàn tiệc Thánh Thể mà Đức Giêsu nuôi dưỡng họ.
Và Đức Giêsu giờ đây cũng nuôi dưỡng chúng ta ở đó. Chỉ ở bàn tiệc của Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự nuôi dưỡng và tâm hồn chúng ta hằng mong ước. Trong Thánh Lễ chúng ta được nuôi dưỡng với Lời Chúa và Bánh Sự Sống. Và khi mời gọi chúng ta đến chia sẻ bữa tiệc sự sống nơi trần gian, Thiên Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ bữa tiệc sự sống đời đời trên Thiên Đàng.
Khi dân chúng trở về nhà vào cuối ngày hôm ấy, họ biết rằng họ đã có kinh nghiệm và lòng tốt và tình yêu của Thiên Chúa tình yêu mà Thánh Phaolô nói không điều gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Trong Thánh Lễ chúng ta nếm hưởng tình yêu của Thiên Chúa. Bằng chứng việc chúng ta có kinh nghiệm tình yêu ấy là chúng ta sẵn lòng yêu thương những người khác. Chúng ta có thể chỉ cho bằng những phương tiện nhỏ bé và số lượng nhỏ bé. Tuy nhiên, từ cậu bé trong Tin Mừng, chúng ta thấy một số lượng nhỏ bé có thể trở thành một số lượng lớn khi được đặt vào đôi tay của Chúa.
Đức Kitô đã cho năm ngàn người ăn trong hoang địa. Mỗi người đều có nhiều hơn nhu cầu của: TN18-A12
Đức Kitô đã cho năm ngàn người ăn trong hoang địa. Mỗi người đều có nhiều hơn nhu cầu của mình và dư ra mười hai thúng đầy. Đức Kitô đã biểu lộ lòng thương xót và quảng đại của Người khiến người ta phải kinh ngạc. Nhưng Người không thể thực hiện điều đó nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá mà một câu bé đưa cho Người và nếu không có sự giúp đỡ của các Tông đồ.
Mẹ Têrêsa nuôi chín ngàn người ở Calcutta mỗi ngày. Nhưng mẹ không thể làm như thế nếu không có lòng quảng đại của nhiều người khắp mọi nơi trên thế giới, và sự giúp sức của các nữ tu và những giáo dân phụ tá. Đây là một ví dụ về cách sống quảng đại làm cho phép lạ mỗi ngày ấy trở thành hiện thực.
Một hôm, một cặp vợ chồng trẻ đến nhà các nữ tu và đã cho họ một món tiền lớn.
“Anh chị có được món tiền lớn này ở đâu vậy?” Mẹ Têrêsa hỏi :
“Chúng tôi vừa mới kết hôn được hai ngày” họ đáp “Chúng tôi đã quyết định không tổ chức tiệc cưới nhưng thay vào đó, chúng tôi cho số tiền này để nuôi người nghèo.”
“Tại sao anh chị lại làm điều đó?” Mẹ Têrêsa hỏi :
“Bởi vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu đời sống hôn nhân bằng một hành động hy sinh? Họ đáp.
Điều làm cho hành động quảng đại của họ đáng kinh ngạc là sự kiện cả hai người thuộc về đẳng cấp cao trong đạo Hin đu mà thông thường không hề quan tâm đến người nghèo.
Một đôi khi, một hành động nhỏ lại có một tầm quan trọng nhiều hơn giá trị thật sự của nó. Khi Đức Giêsu nói với các Tông đồ hãy cho dân chúng ăn, họ nói “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Khi nghe điều đó, Đức Giêsu có thể nói “Tệ thật, thôi quên hết đi. Hãy giải tán đám đông cho họ về nhà”. Nhưng Người không nó như vậy. Thay vào đó, người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá? Và dùng những thức ăn ấy để nuôi dân.
Ngày nay có một xu hướng đang thịnh hành là người ta thích những hành vi lớn lao và quên đi những hành vị nhỏ bé. Vì thế, chúng ta có thể bị cám dỗ nghĩ rằng vì sự đóng góp của chúng ta nhỏ bé nên không tạo ra điều gì khác biệt. Và rồi chúng ta không tha thiết làm một điều gì. Nhưng mọi việc đều có ích. Nhiều cây chụm lại lên hòn núi cao. Ngoài ra, tấm gương của chúng ta tạo ra sự đáp lại của những người khác.
Cho thân thể đói khát được ăn là tỏ lòng nhân hậu về phần xác. Đó là một việc mà chúng ta có thể và tự mình làm lấy. Nhưng có một thứ lương thực mà chỉ Thiên Chúa mới có thể cho.
Đức Giêsu quan tâm đến những người đói khát. Tuy nhiên Người không chỉ nuôi thân xác của dân chúng, Người còn nuôi tâm hồn, trí tuệ và tình thần họ. Những người và Đức Giêsu nuôi ăn ở nơi hoang địa ngày hôm đó khi trở về nhà được nuôi dưỡng đầy đủ cả thể xác lẫn tinh thần.
Phép la bao hàm nhiều hơn lương thực ban cho dân chúng. Đó là cách diễn tả sự chăm sóc và tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người. Thực phẩm chỉ là một tượng trưng cho sự sống mà Thiên Chúa muốn chúng ta có được sự sống nơi trần gian và sự sống ở đời sau.
Mầu nhiệm nhắc chúng ta câu chuyện trong Cựu Ước về Man na trong sa mạc. Nó cho chúng ta thấy Đức Giêsu là Môsê mới nuôi dân Người trong hoang địa. Đó là sự tiên báo bàn tiệc Thánh Thể nơi Đức Giêsu nuôi sống các Kitô hữu tiên khởi và giờ đây nuôi sống chúng ta. Trong Thánh lễ chúng ta nếm hưởng tình yêu của Thiên Chúa. Bằng chứng về việc chúng ta cảm nghiệm tình yêu ấy là chúng ta sẵn sàng yêu thương tha nhân.
Từ năm chiếc bánh và hai con cá Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người: TN18-A13
Từ năm chiếc bánh và hai con cá Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn còn dư mười hai thúng đầy.
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta có hai cái nhìn : Một về theo phía người theo Chúa, hai về phía Đức Giêsu.
1) Về phía người theo Chúa : Người theo Chúa rất đông, kể số đàn ông độ năm ngàn tất nhiên số đàn bà, các cô, các trẻ em phải đông gấp đôi là ít. Họ theo Chúa vào nơi hoang địa, không nhà không cửa, không một quán ăn. Họ theo Chúa không phải vì miếng ăn, không phải đi đạo kiếm gạo mà ăn vì họ biết Chúa quá nghèo như Người đã nói : “Con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không nơi gối đầu”. Ngay cả các môn đệ Người khi đói cũng phải bứt bông lúa mà ăn trong ngày Sabát (Mt. 12,1) và từ trước đến giờ Người chưa làm phép lạ nào cho bánh hóa nhiều. Dân chúng theo Chúa cũng không phải mong được Chúa chữa bệnh cho mình, vì chỉ có số ít bệnh nhân đến được đây thôi. Vậy họ theo Chúa hoàn toàn vì mộ mến Chúa mà thôi. Đó mới chính là những người thật lòng theo Chúa, theo đạo Chúa thật thì thường sống theo hai đường lối:
+ Một là hoàn toàn phó thác sống theo ý Chúa, như Đức Maria đã thưa : “Tôi xin vâng như lời Thiên sứ của Chúa truyền”. Chính Đức Giêsu đã thực hiện con đường này khi Người xuống thế gian, Người đã thưa : “Này Con xin đến để thực thi ý Cha”. Khi lên mười hai tuổi đi lễ đền thờ, Người đã cho Đức Mẹ và thánh Giuse biết : “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận lo làm việc theo ý Cha con ?” (Lc. 2, 49) và dù phải khổ đến hấp hối, Người vẫn vâng theo ý Chúa Cha : “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin cất chén đắng này khỏi Con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc. 52, 42). Bao nhiêu vị thánh đã sống theo gương Đức Giêsu như thế, đặc biệt thánh Phanxicô khó khăn. Ngài sống hoàn toàn phó thác cho Chúa, bán hết của cải bố thí cho kẻ nghèo. Ngài đã trở nên kẻ nghèo cùng cực, đói khát, ăn xin, ôm bế những người cùi, cùng cực của xã hội với lòng yêu thương vui mừng bình an và phó thác.
+ Hai là cố gắng thực hiện lòng mến Chúa yêu người, sống công bình bác ái, khiêm tốn, cần kiệm, liêm chính, hy sinh phục vụ kẻ khác. Nhờ đó, xây dựng đời sống cá nhân, gia đình, xã hội văn minh, tiến bộ, hòa bình, thịnh vượng bảo đảm đời sống hạnh phúc thực bây giờ và muôn đời.
2) Về Chúa Giêsu : Người thấy dân chúng thì cảm thương, thương những người theo Chúa và thương cả nhân loại, thương cả hồn xác.
Chúa thương phần xác loài người. Người không để họ đói. Người đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ phân phát cho họ ăn no nê. Người đã chữa lành các bệnh nhân. Người nâng đỡ họ lâm cảnh bệnh tật, đúng như Người kêu gọi : “Hỡi tất cả những ai vất vả khó nhọc, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi” vì “Ta đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào”. Hơn sáu trăm năm trước, tiên tri Isaia đã thấy được cảnh dân sống phong phú đó, nên ông viết : “Đây Chúa phán : đến tất cả đi, hỡi những người đang khát : nước, rượu, sữa đã sẵn đây, cứ dùng đi, không tiền bạc chi cả. Hãy chăm chú nghe Ta, các ngươi sẽ được ăn ngon, sẽ được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai, và đến với Ta, các ngươi sẽ được sống” (Bài I).
Đúng thế, Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này thật phong phú đầy cao lương mỹ vị nuôi hàng tỉ tỉ chim trời cá biển, và muôn loài hàng trăm triệu năm mà vẫn dư thừa. Thiên Chúa đã trao kho tàng vô tận đó cho con người hưởng dùng, cai quản và phát triển. Nếu loài người đừng như đứa con phung phá thì không bao giờ thiếu thốn, đói khổ. Sở dĩ có nghèo đói là do chính loài người phá hủy vào chiến tranh, vào xì ke ma túy …
Thiên Chúa còn làm nên những việc lạ lùng vô cùng hơn nữa để nuôi sống linh hồn con người đời đời. Từ chút bánh rượu, Người đã làm trở nên thịt máu vô cùng châu báu nuôi hồn ta sống hiệp thông trong nguồn sống vinh quang cao cả của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dựng nên nước Trời hạnh phúc muôn thuở cho ta được sống trong tình thương vô biên của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn, mộ mến Ngài với bất cứ giá nào. “Dù gian truân, cùng khốn, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo, cũng không thể xa lìa chúng con khỏi tình yêu Chúa Kitô” (Bài II - Rm. 8, 35-39)
Một bà già sống trong một nửa căn nhà có hai hộ. Bà rất túng nghèo về của cải vật chất, nhưng: TN18-A14
Một bà già sống trong một nửa căn nhà có hai hộ. Bà rất túng nghèo về của cải vật chất, nhưng giàu có về của cải tinh thần. Bà cầu nguyện rất nhiều. Trong khi người chủ nhà sống ở căn hộ sát bên, ông ta không có đức tin, không cầu nguyện, không tôn giáo. Ông ta lại thường chế nhạo bà già về lòng tin vào Thiên Chúa. Có một ngày bà già cầu nguyện lớn tiếng, thưa với Chúa rằng: “Bà không còn chút thực phẩm nào trong nhà”. Người đàn ông không có đức tin ờ sát căn hộ bên nghe được, và quyết định: “Ta phải chơi khăm mụ già này”. Thế là ông ta đem một ổ bánh mì đặt ở trước cửa nhà, bấm chưông rồi vội vã trở về căn hộ của mình, và lắng nghe qua bức tường tiếng kêu sung sướng của bà già: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, con biết rằng Chúa không bỏ rơi con”. Ong già nham nhở trở lại cửa trước nhà bà già và bảo bà: “Bà già thật ngờ nghệch. Bà nghĩ rằng Thiên Chúa đáp lời bà xin ư ! Phải, tôi là người đem ổ bánh mì cho bà đấy !” – Bà già dũng cảm kêu lên: “Ngợi khen Chúa ! Ngài luôn giúp đỡ tôi trong lúc thiếu thốn, dù rằng Ngài phải dùng ma quỉ mà đáp lời tôi xin”.
Trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay, các môn để xin Chúa giải tán dân chúng... để họ đi mua thức ăn. Chúa Giêsu bảo các ông: “Các con hãy cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với năm chiếc bánh mì và hai con cá – với 12 thúng bánh vụn còn dư lại.
Hôm nay đám đông dân chúng đó đã phát triển nhanh tới hàng triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói, một trăm ngàn người một ngày, theo như một số ước lượng. Ngay ở quê hương chúng ta đây, còn rất nhiều người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng.
Nhiều Kitô hữu và cả người ngoài Kitô giáo có những hy sinh anh hùng để nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn lao đối với con người. Chắc chắn chúng ta phải làmhết sức, với khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp ở trên và vượt qua con người. Chúng ta nghe thấy có tiếng kêu: “Người đói cần thực phẩm - không cần lời cầu nguyện”. Dĩ nhiên là thế, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho bánh cho người chết đói, cho đến khi chúng ta cũng cho họ lời cầu nguyện. Chỉ riêng các tông đồ không thể nuôi đám đông người đói đó. Họ đã giải quyết được với sự giúp đỡ của Chúa Kitô. Phải, đức tin của tôi chỉ đủ tin rằng nếu chúng ta nài xin Thiên Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta nuôi dưỡng người đói như bà già trong câu chuyện. Tôi tin tưởng Chúa sẽ thực hiện ngay cả với một phép lạ, có lẽ với phép lạ của lòng bác ái.
Chúng ta cầ cầu nguyện cho vấn đề người đói, vì chúng ta biết tất cả sự việc, số đông vô kể những người đói, sự khó kiếm được thực phẩm cho họ, hay làm cho họ kiếm được lương thực, hệ thống phân phối nhiều khi và thường đầy tội lỗi, thì chỉ nhờ lời cầu nguyện mà các cá nhân và tập thể sẽ bị lay động để làm những gì thiết yếu cho việc cung cấp lương thực cho những người đói khổ.
Chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên và thành thực để chúng ta ý thức và luôn ý thức rằng: hàng triệu người đang chết đói.
Sự tin tưởng cầu nguyện được diễn tả trong bài đáp ca: “Muôn loài để mắt trông cậy vào Chúa và Chúa sẽ ban lương thực cho chúng đúng theo giờ”. Trong ít phút nữa, chúng ta sẽ cầu nguyện như những lời Chúa Giêsu đã dạy: “Xin ban cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều mà tôi xin các bạn làm. Hãy cầu xin lương thực cho tất cả chúng ta, tất cả nhân loại. Phải, hãy đào bới và trao tặng, nhưng cũng hãy quì gối cầu nguyện để tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới có lương thực.
Tại Trung Tâm tiếp nhận người hấp hối ở Calcutta, Ấn độ một người nằm dài trên giường, xem: TN18-A15
Tại Trung Tâm tiếp nhận người hấp hối ở Calcutta, Ấn độ một người nằm dài trên giường, xem ra không thể cử động được cánh tay. Người ta hỏi ông:
- Ông muốn ăn gì không? - Vâng, muốn.
- Tên ông là gì? – Dinenraj
- Ông bao nhiêu tuổi? - Tôi chẳng biết.
- Ông ở đây bao lâu rồi? - Bốn hôm.
- Ông từ đâu đến? - Tôi ở ngoài dường phố.
- Ông mắc bệnh gì?
- Bao tử tôi hoàn toàn thắt lại, vì hoàn toàn trống không.
Người ta đem đến cho ông phần ăn của ngày lễ kỷ niệm 25 năm thành lập Trung tâm, gồm có: cơm gà giò hầm với cà ri, khoai tây, sữa đặc, chuối và cam. Ông ăn một cách thèm khát và nhai rất kỹ từng muỗng thức ăn. Ông mở miệng to để người ta cho ông ăn từng muỗng một. Khi ăn hết dĩa phần ăn, ông nằm duỗi tay chân như một đứa bé chuẩn bị ngủ.
Kể từ ngày được thiết lập (22.8.1952) trong 25 năm trung tâm đã tiếp nhận 36.000 người đã "chết trong tay Chúa”
Trung tâm của những người hấp hối này điễn hình cho nhiều ngôi nhà tương tự được các nữ tu Thừa Sai Bác ái của Mẹ Têrêxa thành Calcutta điều khiển trên khắp thế giới. Các nữ tu từng nghiêng mình với lòng kính trọng và yêu thương trên những thân xác gày gò của những người đàn ông và đàn bà được lượm nhặt ngoài đường phố đưa về . Các nữ tu từng mang lại cho những con người bị bỏ rơi này một ý thức nào đó về nhân phẩm đồng thời truyền đạt cho họ niềm hy vọng về một thế giới bên kia khả dĩ lau sạch mọi nước mắt, xoa dịu mọi cơn đói, chữa lành những tâm hồn mang nặng nhiều thương tích. Lễ ngân khánh của Trung Tâm này tại Calcutta được tổ chức vào chính ngày lễ Các Thánh (1/1), là để nhắc nhớ con người về giá trị đời mình là biết qui về Thiên Chúa Tình yêu. Mẹ Têrêxa đã mời các bà đích thân đến, mang theo thức ăn họ đã dọn sẵN Ở nhà và tự tay phân phát cho các bệnh nhân nghèo. Mẹ có lài thu hút người thuộc giới trung lưu và thượng lưu không phân biệt tôn giáo tới tham gia công việc mà các nữ tu Thừa sai Bác ái vẫn làm hằng ngày là nghiêng mình săn sóc những con người bị xã hội bỏ rơi một cách đáng thương.
Chính anh em phải cho họ ăn.
Phải chăng việc Mẹ Têrêxa thành Calcutta làm trên đây là việc áp dụng Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay một cách sống động? Nhưng thử hỏi còn biết bao cách áp dụng khác nữa mà bài Tin Mừng này có thể gợi lên cho chúng ta? Các môn đệ xin Chúa giải tán đám đông dân chúng để họ đi mua thức ăn. Nhưng Chúa lại bảo các ông: chính anh em phải cho họ ăn đi ! Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với 5 cái bánh và 2 con cá, còn dư lại 12 thúng bánh vụn. Ngoài con số 5000 người đàn ông, Thánh Matthêu còn thêm không kể đàn bà và trẻ em Vậy tổng số có thể lên tới hàng chục ngàn người. Như vậy Chúa Giêsu, với phép lạ hóa bánh ra nhiều, đã nuôi một đám đông rất lớn đi theo Ngài vào hoang dịa. Họ hoàn toàn Lc thuộc vào Ngài để có của ăn nuôi sống mình.
Ngày nay đám đông dân chúng đã phát triển nhanh tới hàng tric người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ đang chết đói: 100 ngàn người mỗi ngày. Và 450 tric người tối đến đi ngủ bụng đói (theo một bảng thống kê quốc tế). Ngay ở đất nước chúng ta đây, còn biết bao người thiếu ăn, thiếu mặc, trẻ em thiếu dinh dưỡng... Với chương trình "xóa đói giảm nghèo", nhiều người đã ủng hộ nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn lao đối với con người. Chắc chắn chúng ta phải làm hết sức, hết khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp của Chúa mới làm được. Nếu để cho các môn đệ, các ông chỉ biết giải tán để dân chúng di về bụng đói và có khi phải chết đói dọc đường. Nhưng với sự đóng góp của con người, Chúa đã làm nên phép lạ. Nếu cậu bé không trao cho Chúa khẩu phần bánh và cá của cậu đem theo, thì đám đông dân chúng sẽ về bụng đói. Nhưng với 5 cái bánh và 2 con cá của cậu bé, Chúa Giêsu đã nuôi được hàng ngàn người ăn no và còn dư thừa.
Yêu thương là chia sẻ
Chúa Giêsu không đi quyên góp bánh để phát cho người nghèo. Ngài cũng không khiến bánh tự nhiên từ trời rơi xuống cho họ ăn, nhưng Ngài đã chia sẻ mấy cái bánh mà các môn đệ có sẵn trong tay cho tất cả mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với 5 cái bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ.
Bài học của phép lạ hóa bánh ra nhiều là ở chỗ đó: Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ. Khi chúng ta chia sẻ chính là làm cho tình yêu được nhân lên. Tấm bánh đáng lẽ chỉ nuôi dược một vài người, đã có thể nuôi cả ngàn người. Tình yêu có thể làm được chuyện mà đống tiền, đống của không làm được. Người ta thường nghĩ phải có nhiều, có dư thì mới cho. Tình yêu không đợi phải có đủ, có dư mới cho, nhưng còn sẵn sàng cho cả cái chính mình đang thiếu, và thậm chí, cả khi không có gì, vẫn có thể cho, Đó là cho chính mình: công sức, lài năng, thời giờ ... bởi vì tình yêu cao cả nhất, trọn vẹn nhất, là dâng hiến chính mình cho người mình yêu (Ga 5,l3) và đó là tình yêu của Chúa Giêsu. Chính tình yêu này mới khiến Ngài chạnh lòng thương xót trước những nỗi khổ đau của người khác. Lòng nhân ái không chỉ làm cho chúng ta "thành người” mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Ông Muggerridge, một nhân vật nổi tiếng trên đài TV Anh Quốc, đã trở lại đạo Công Giáo, điều mà trước đây ông đã thề sẽ không bao giờ làm. Ông nói, ông đã bị cảm kích bởi những việc Mẹ Têrêxa Calcutta đã làm. Ông nói: không thể diễn tả bằng lời, tôi đã mắc nợ mẹ Têrêxa thế nào. Mẹ đã tỏ cho rồi thấy Kitô giáo trong hành dộng. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy sức mạnh của tình yêu. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy một người yêu có thể làm nổi dậy một ngọn thủy triều tình yêu lan tràn khắp thế 'giới "
Thánh Thể, tấm bánh được bẻ ra
Trình thuật Chúa hóa bánh ra nhiều được lặp lại trong Tiệc Thánh Thể: "Chúa Giêsu cầm bánh, ngước mắt lên trời, tạ ơn bẻ ra, trao cho các môn đệ” Chúa vẫn tái diễn phép lạ này hằng ngày để nuôi dưỡng chúng ta và thế giới. Tại sao từ bàn Tiệc Thánh này, chúng ta lại không biết chia sẻ với người nghèo đói? Thế giới hôm nay còn có nhung kẻ đói, còn có những dân tộc đói, vì có những cái bánh được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra. Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, khi đã lãnh nhận Bánh của Chúa thì cũng biết chạnh lòng thương và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, để Chúa có thể nuôi sống tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới.
1. Phép lạ = quyền phép Thiên Chúa + đóng góp của con người.
Đức Giêsu đã làm phép lạ có lương thực nuôi năm ngàn người ăn thừa thải. Nhưng phép lạ này: TN18-A16
Đức Giêsu đã làm phép lạ có lương thực nuôi năm ngàn người ăn thừa thải. Nhưng phép lạ này bắt đầu từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Mẹ Têrêxa hàng ngày nuôi chín ngàn người nghèo ở Calcutta. Nhưng số lượng lương thực này là do phần đóng góp của biết bao người hảo tâm.
Một hôm có một cặp vợ chồng trẻ đến trao cho Mẹ một số tiền lớn. Mẹ ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao mà anh chị có được số tiền lớn này?
- Chúng con vừa cưới nhau hai ngày trước đây. Chúng con đã nhất trí với nhau không tổ chức tiệc cưới, để dành tiền giúp những người nghèo.
- Tại sao anh chị làm thế?
- Vì chúng con rất yêu nhau, chúng con muốn bắt đầu cuộc sống gia đình bằng một việc hy sinh, để Chúa chúc lành cho chúng con.
2. Có thể tin được Lời Chúa không?
Lời Chúa hôm nay thật rõ ràng: Chúa nói Ngài thỏa mãn mọi thứ đói khát của con người.
Nhưng ta có thể tin vào Lời đó không, bởi vì ngày nay biết bao người còn đang đói khát, trong số đó có thể có chính chúng ta nữa?
Điều căn bản mà chúng ta phải nhớ là Thiên Chúa để tạo dựng nên trái đất này, một trái đất phong phú, sản sinh ra đầy đủ đến dư thừa mọi lương thực chẳng những cho loài người mà còn cho muôn loài. Cho nên trên căn bản là Chúa bảo đảm cho muôn loài được no nê.
Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bê đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác; sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ "phân phát”. Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ "Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời"
- Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
3. Những khát vọng của con người.
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới những khát vọng tầm thường. Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác: ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý. Chúa Giêsu nói "Hãy xem chim trời, hãy xem hoa huệ ngoài đồng..."
Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn: bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu... Chân, thiện, mỹ tuyệt đối... Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
4. Một giải thích mới về phép lạ hóa bánh ra nhiều
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Đức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như không ai làm nổi: biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại chia xẻ.
Câu chuyện sau nay có thể minh họa cho ý nghĩa này: Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà này từ chối:
- Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
- Không sao. Chỉ nhờ Bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác.
Chẳng bao lâu căn nhà đầy người. Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm: "Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt. Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói: "Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê". Một người khác vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế...
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra đi.
5. "Điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô"
Kiểu nói "lòng yêu mến của Đức Kitô" có hai nghĩa : a/ Lòng Đức Kitô yêu mến chúng ta ; và b/ lòng chúng ta yêu mến Đức Kitô.
Chúng ta hãy trả lời câu hỏi của Thánh Phaolô theo nghĩa thứ nhất: có gì có thể làm Đức Kitô không còn yêu mến chúng ta nữa không? Chắc chắn là không: Đức Kitô đã phải "gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo" nhưng Ngài vẫn yêu mến chúng ta, Ngài yêu mến chúng ta đen nỗi hiến thân chịu chết vì chúng ta.
Bây giờ chúng ta cũng trả lời câu hỏi ấy nhưng theo nghĩa thứ hai: có gì có thể làm cho chúng ta hết yêu mến Đức Kitô không? Câu này có thể có hai câu trả lời:
- Nếu chúng ta thực lòng yêu mến Chúa thì không: Chẳng hạn Thánh Phaolô. Ngài đã chịu đủ thứ "gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo", nhưng Ngài vẫn một mực yêu mến Chúa. Ngài còn lấy làm hạnh phúc bởi được chịu khổ vì Chúa. Các thánh thì cũng thế.
- Nhưng nếu chúng ta không thực lòng yêu mến Chúa, tất cả đều có thể tách ta ra khỏi Chúa. Mà xét cho cùng, chỉ có một người có thể tách chúng ta ra khỏi Chúa, đó là chính bản thân chúng ta.
Mỗi Thánh lễ chúng ta là một cuộc chia sẻ: chia sẻ Lời Chúa và chia sẻ Bánh Thánh. Tiên tri Amos: TN18-A17
Mỗi Thánh lễ chúng ta là một cuộc chia sẻ: chia sẻ Lời Chúa và chia sẻ Bánh Thánh.
Tiên tri Amos đã ví bánh là lời của Thiên Chúa (8,11). Chúa Giêsu cũng đã nói đến lời của Thiên Chúa như bánh mà chúng ta phải dùng hằng ngày (Mt 4,4)
Trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia kêu gọi toàn dân (540) khi thoát cảnh lưu đày trở về xây dựng lại đất nước, hãy “lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”, lời Chúa phán.
Lời của Chúa là bánh nuôi dưỡng ta hằng ngày.
Qua bài Phúc Âm, Thánh Matthêô mô tả việc Chúa làm cho bánh hóa ra nhiều để nuôi hơn 5.000 người ăn. Phép lạ cũng được cả bốn Thánh sử ghi chép lại, nói lên sự quan trọng của sự việc. Chiều đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Họ chẳng cần gì đâu, các con hãy cho họ ăn”. việc biến hóa bánh ra nhiều là biểu tượng phép Thánh Thể mà Chúa đã thiết lập sau này. Thánh Thể cũng sẽ là lương thực, là của ăn của nhân loại trên đường về trời. Và Chúa Giêsu cũng thiết lập vào một chiều tối, Giáo Hội tiên khởi cũng “bẻ bánh” lúc đêm về. Phép Thánh Thể là Bí tích của đòn người đi trong sa mạc, trong đêm tối dưới ánh sáng Chúa Phục sinh, như ngày xưa dân Chúa đi qua sa mạc dưới ánh cột lửa và nhờ manna nuôi sống.
Thánh Matthêô tả việc Chúa biến hóa bánh ra nhiều với những cử chỉ bộ điệu, như Linh mục làm khi “truyền phép” Thánh Thể trước cộng đoàn.
“Ngài ngước mắt lên trời” (Mc 7,34. Gn 17,1)
“Đọc lời chúc tụng”, Ngài chúc tụng Thiên Chúa, nhưng không làm phép bánh, vì là của Chúa ban.
“Bẻ ra”, đẩ ám chỉ phép Thánh Thể và biểu tượng, Matthêô nói đến việc bẻ bánh nhưng cố tình quên đi phần cá. Giáo Hội tiên khởi gọi phép Thánh Thể là nghi lễ Bẻ Bánh.
Và “Mọi người đều ăn no”, phép Thánh Thể là của ăn nuôi linh hồn, từ thế hệ này qua thế hệ khác; mọi tâm hồn “đói Chúa” đều được no nê. Đây là bữa tiệc Thánh, là bữa tiệc của Con Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian.
Cơm bánh là ơn của Chúa ban để chúng ta được sự sống và sức mạnh. Thánh Kinh đã nói đến rất nhiều như là một nhu cầu đời sống. (Am 4,6), lấy mồ hôi trán đổi lấy của ăn hằng ngày (STk 3,19).
Một tỷ phú VN, trong thời gian sa cơ, bị chính phủ cầm tù cho đến chết, đã để lại cho các bạn tù một câu bất hủ: Hạnh phúc nhất của con người là được… ăn cơm!
Cơm là một ơn Chúa ban, nhưng để làm gì? Làm để chia sẻ với người khác. Thánh Kinh nói rằng chia sẻ cơm bánh là một bổn phận thiêng liêng, qua người thụ hưởng, chúng ta tìm gặp Thiên Chúa (STK 18,5; Lc 11,5-11).
Chúa nuôi dưỡng chúng ta hàng ngày, Chúa biến hóa bánh nên Mình Thánh, rượu nên Máu Thánh để nuôi dưỡng linh hồn ta và cả thế giới từ đời nọ qua đời khác. Vì sao ta lại kobiết chia sẻ với người khác, với Lazarô đói khổ, với người hành khất bên lề đường, vì chia sẻ cơm áo với người nghèo khổ, chính là cách tỏ tình bác ái tốt hơn đối với tha nhân (Ez 18, 7-16; Jb 31,17).
Lạy Chúa, quỳ bên cạnh nhau đón nhận Mình và Máu Thánh, xin cho chúng con cũng biết chia sẻ cho nhau lương thực thể xác, tình bác ái như Chúa đã ban cho chúng con lương thực phần linh hồn.
Thật không phải là những chuyện dễ dàng mà nhìn thấy được trong những lúc gian nan đau khổ: TN18-A18
Thật không phải là những chuyện dễ dàng mà nhìn thấy được trong những lúc gian nan đau khổ thử thách, như là dịp để làm chứng cho tình yêu của mình đi với Thiên Chúa. Đó cũng là một điều không dễ dàng để chấp nhận những thử thách đau khổ như là một điều danh dự cho mình. Người ta thường tìm cách để tránh né những đau khổ thử thách, càng xa càng tốt. Chỉ những tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa mới có thể có thái độ trưởng thành trong đức tin cao độ, mới có thể nhận ra giá trị cao quí của đau khổ thử thácho
Ba bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay được qui về chủ đề chính là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và tình yêu của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi con người đến với Ngài để cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Nơi bài đọc 1, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài qua miệng tiên tri Isaia: "Hỡi những ai khát nước hãy đến uống nước. Hỡi những kẻ không tiền bạc hãy đến mua lúa mà ăn, hãy đến mua rượu và sữa không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Hãy tắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe thì các người sẽ được sống. Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu đó là những hồng ân Thiên Chúa đã hứa cho David, và ngài rất mực trung thành với lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa trung thành với tình yêu của Ngài đối với dân chúng và mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài.
Tiếp đến bài Phúc âm hôm nay nhắc lại biến cố Chúa yêu thương đoàn người đông đúc đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy và nhiều người đã được Ngài chữa lành bệnh tật cho. Vì thế, họ đã quên hết mọi sự, ngay cả đến việc ăn uống nữa. Phúc âm thánh Matthêu đã ghi lại như sau: "Ra khỏi thuyền, Ngài thấy dân chúng đông đảo thì thương xót họ và chữa lành bệnh tật cho họ". Và sau một ngày đoàn người ở lại với Chúa, tắng nghe Lời Chúa dạy, thì chiều tối đoàn người này gặp phải một thử thách, đó là không có gì để ăn cho qua ngày.
Bấy giờ một thách thức khác xảy đến với các tông đồ là Ngài bảo các ông hãy liệu cho họ ăn. Các tông đồ lo sợ trước một thách thức lớn tao không thể nào vượt qua được trên bình diện con người. Với 5000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ đang gặp cảnh đói không có gì ăn. Vả lại sự việc xảy ra ngay vào lúc trời sắp tối, có nghĩa là mọi sinh hoạt buôn bán trao đổi giữa người với người dường như bị đóng lại. Các tông đồ lo sợ nên có thể nói là các ngài bị cám dỗ chiều theo khuynh hướng tự nhiên là phủi tay chạy trốn trước thách thức, đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng muốn Chúa Giêsu cũng làm như vậy: "Xin Thầy hãy cho dân chúng về, vì trời đã tối lại không có gì ăn nơi hoang vu này. Xin Thầy hãy để họ vào các làng mạc và các thành tân cận để mua đồ ăn, may có gì để qua cơn đói chăng?". Nhưng, đứng trước cảnh đau thương đói khát ấy, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương nên Ngài thực hiện một phép lạ vĩ đại là hoá bánh ra nhiều để nuôi 5000 người giữa một sa mạc hoang vu trống vắng này.
Nơi bài đọc II, tức là bài Thánh thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma: "Anh em thân mến! Ai có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô... gian truân hay buồn sầu, đói khát...". Đây là lời tâm sự của thánh Phaolô tông đồ và cũng là lời mời gọi mà Giáo Hội muốn mỗi người chúng ta đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng trước hết mỗi người chúng ta cần cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, trong những lúc gian truân thử thách, đau khổ làm sao chúng ta có thể nhìn thấy đó như là những dịp của danh dự, để làm chứng cho tình yêu của Chúa đối với ta và của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Hơn nữa, ngày nay có thể nói được là thế giới đã tiến bộ về khoa học tới mức độ siêu tốc, với nhiều những phát minh khoa học kỹ thuật một cách tối tân. Thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp Quốc cho biết là mỗi ngày có khoảng 400 triệu người phải chịu với bụng đói không có gì ăn và 15.000 người phải chết đói hằng ngày.
Thật ra, thế giới không thiếu những lài nguyên, nhưng là vì lài nguyên của quốc gia bị mánh mung ăn cắp một cách khéo léo, bởi một số người không còn lương tâm. Bởi vậy, cho dù thế giới không thiếu những lài nguyên, nhưng thế giới lại quá thiếu tình yêu, tình liên đới chia sẻ cho đồng loại. Vì thế cảnh nghèo đói vẫn luôn diễn ra khắp mọi nơi.
Vì thế giới thiệu tình liên đới chia sẻ, do đó chúng ta đang đứng trước những thách thức bao ta, nhưng có lẽ một cách nào đó chúng ta đã chuyên trách nhiệm sang cho kẻ khác với hai lý do tự an ủi mình như:
* Nhiều người khổ quá làm sao cá nhân tôi có thể lo cho họ được.
* Hay sức tôi có hạn làm sao tôi có thể chia sẻ với từng ấy người đang cần đến.
Nhưng, đứng trước một thách thứ như vậy, Chúa Giêsu lại nói với chúng ta rằng: "Các con hãy lo cho họ ăn”, đó là một mệnh lệnh của Chúa cho các tông đồ ngày xưa cũng là mệnh lệnh của Chúa cho những người Kitô hữu chúng ta ngày nay. Bởi vì chúng ta có trách nhiệm đối với những kẻ đang cần đến cho sự sống, chứ không thể chạy trốn, không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho kẻ khác. Hãy biết chia sẻ, đóng góp những gì mình có thể làm và mỗi người hãy thắp sáng lên ngọn đèn đức tin của mình, để chiếu toả cho những người xung quanh đang cần đến tình yêu của Chúa qua những người đồ đệ của Chúa Kitô.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn, nhờ việc năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể cũng như việc chúng ta chia sẻ sự sống của Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức tin, sẵn sàng góp phần nhỏ nhoi của mình để chia sẻ và phục vụ anh chị em đang cần đến chúng ta.
Phần đông chúng ta đều đã có cảm nghiệm về cái chết của một người thân yêu nào đó, và: TN18-A19
Phần đông chúng ta đều đã có cảm nghiệm về cái chết của một người thân yêu nào đó, và thấy rằng nỗi buồn sẩu thương nhớ thật là vô biên. Trong những giờ phút như vậy đôi khi chúng ta muốn ở một mình. Ðó là những thời điểm khi mà sự tĩnh mịch và rút vào khoảng không gian riêng của ta có thể là vơi đi niềm đau. Kinh nghiệm này đa số chúng ta đã có và cì thê 1mà chúng ta cũng hiểu được bối cảnh của bài Tin Mừng Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Anh em họ của Chúa Giêsu là Gioan Tiền Hô vửa mới bị chém đầu, Chúa Giêsu đã rút lui vào "nơi cô quạnh và ở một mình".
Nhưng sự vắng bóng của Gioan lại đổi chiều bất ngờ là đoàn lũ đông đảo dân chúng "theo Chúa Giêsu". Cái chết của Gioan một cách nào đó đã đưa sự chú ý của dân chúng chuyển hướng vào con người Ðức Giêsu. Và như vậy bây giờ là thời điểm của Nước Thiên Chúa.
Khi thấy dân chúng lũ luợt theo Ngài, Phúc Âm tả lại rằng "trái tim của Chúa Giêsu động lòng thương họ". Và ngay trong giờ phút cần phải được yên tĩnh để than khóc Gioan thì lòng Chúa cũng vươn tới những người cần đến Ngài, Chúa Giêsu đã chữa lành các bệnh tật của dân chúng.
Ða số chúng ta đều có nghe qua phép lạ Chúa làm phép lạ biến bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng đói khổ trong Phúc Âm hôm nay. Nhưng nếu chúng ta chỉ để tâm tới sự kiện là Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng không mà thôi, thì chúng ta có thể đã quên đi ý nghĩa sâu thẳm của những gì đã xẩy ra. Ðó là cuả ăn dư giả và không mất tiền là những dấu chỉ sự hiện diện của Nước Trời.
Những bài Tin Mừng trong 3 Chúa Nhật vừa qua, và ngay cả những Chúa Nhật tiếp theo vẫn còn đề cập tới những dự ngôn mà Chúa diễn tả về Nước Trời -- những hình ảnh Chúa dùng rất gần gũi với đám quần chúng đơn sơ và họ hiểu được Chúa muốn nói gì. Nước Trời chính là dành cho mọi người, trong đó kẻ đói dược nuôi ăn, và quyền lực của Thiên Chúa được thể hiện cho tất cả: Người đói khát được no đầy.
Ý tưởng Thánh Kinh hôm nay thách thức người Kitô hữu chúng ta không chỉ suy tư hay nói về Nước Trời, nhưng mà là đưa sứ điệp đó thể hiện trong cuộc sống của chính mình chúng ta. Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ của Ngài rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi", bởi vì đôi khi tự họ không làm được điều đó, đôi khi cũng vì hoàn cảnh và điều kiện xã hội không đủ để làm cho Nước Trời hiện diện nơi con người. Trong ta nhận thấy, Chúa Giêsu chỉ dùng một số tài nguyên ít ỏi là 5 chiếc bánh và 2 con cá", Ngài đọc lời chúc tụng và đưa cho các môn đệ phân phát cho dân chúng.
Những gì mà các môn đệ không thể tự làm được, cách riêng rẽ một mình, thì các ngài có thễ thực thi được cùng với sự trợ lực và với phép lành của Chúa. Bài Sách Thánh trích dẫn từ tiên tri I-sa-i-a diễn tả một cách phong phú hoàn cảnh tương tự như sau: "Tất cả những ai khát, hãy đến với dòng nước". Cảnh huống mà tiên tri đang nói đó lại là chính mơi sa mạc. Mà tại sa mạc thì không những thời khí khó chịu hơn nữa nó còn đe dọa mạng sống. Trong nơi khô cằn như vậy không thể giữ gìn sinh mạng, thế nhưng Thiên Chúa mời gọi dân chúng ăn uống no thỏa mà không cần để ý tới nguồn trợ cấp. Vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho địa trở nên nơi phì nhiêu trù phú.
Người Kitô hữu chúng ta một cách nào đó đã tham dự vào Nước Trời vì qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã lãnh nhận sự sống mới. Tuy nhiên để được sống đồi dào và sung mãn, chúng ta còn cần làm sự sự hiện diện của Thiên Chúa tràn đầy tâm hồn chính mình và đem sự hiện diện diện của Thiên Chúa đến cho đồn loại nữa.
Chủ đề: "Thiên Chúa đã dựng nên thế giới tuyệt đẹp đến nỗi hành động của mỗi cá nhân đều được coi là quan trọng."
Những báo cáo của tờ Chicago Sun Times (Thời báo mặt trời Chicago) cho biết 70% nhân viên của: TN18-A20
Những báo cáo của tờ Chicago Sun Times (Thời báo mặt trời Chicago) cho biết 70% nhân viên của hãng được khảo sát đều ăn trộm của chủ họ. Nghiên cứu của Đại học Cormell cho thấy nơi những trẻ em phát triển bình thường. Khi chúng lên 10 tuổi, chúng thường có thái độ dễ chấp nhận việc lường gạt hay gian dối.
Một cuộc nghiên cứu có tính cách quốc tế cho biết một nửa dân số thế giới không được cung cấp đủ nước sạch và có 450 triệu người mỗi đêm phải đi ngủ mà bụng đói meo.
Khi nghe những thống kê trên, chúng ta thường cảm thấy thất vọng. Với tư cách là Kitô hữu. Chúng ta biết rằng mình có can dự vào đó. Tuy nhiên, vì chỉ là những con người nên chúng ta sẽ nói: Tôi đâu có thể làm gì được? Dầu sao tôi cũng chỉ là một cá nhân. Thế rồi chúng ta dẹp những thống kê ấy qua một bên.
Bài phúc âm hôm nay cho thấy chúng ta đã xử sự một cách lệch lạc. Chúng ta chỉ biết nhìn vào đó một cách thuần tuý là con người. Lẽ ra chúng ta cần phải nhìn vào đó với nhiều niềm tin hơn mới phải.
Bài phúc âm hôm nay vẽ ra một bức tranh khác với những thống kê chúng ta vừa nghe. Năm ngàn người không kể đàn bà con trẻ không có gì ăn và đang đói. Số thực phẩm hiện có chỉ là năm chiếc bánh và hai con cá. Phúc âm thánh Gioan cho biết số thực phẩm này là của một em bé nào đó. Khi Chúa Giêsu biết có em mang theo thực phẩm. Ngài liền gọi em bé đó. Chắc hẳn em không thể tin nổi tai mình khi nghe Chúa Giêsu nói với em: Này con, hãy đưa cho Ta số thực phẩm của con để Ta cho đám đông đang đói này ăn nhé!. Dù vậy chú vẫn tin tưởng vào Chúa Giêsu và trao cho Ngài 5 ổ bánh và hai con cá. Tất cả chúng ta đều bíêt sự gì đã xảy ra. Phúc âm hôm nay cho thấy một người cũng có thể thay đổi được cục diện. Hay nói đúng hơn, hai người có thể thay đổi cục diện, tức là Chúa Giêsu và một người nào đó!
Chú bé trao cho Chúa Giêsu những gì chú có và Chúa Giêsu lấy đó để thết đãi đám đông đã không được nuôi ăn và như thế phúc âm sẽ mất đi một trong những câu chuyện hứng khởi nhất. Chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu: Một hạt lúa nếu không rơi xuống đất và chết đi thì nó vẫn còn là một hạt lúa (Ga 12 : 24). Điều Chúa Giêsu muốn nói như sau: Mỗi mùa hè, những cây lúa kỳ diệu mọc lên trong những cánh đồng lúa ở Kansas đều do những hạt lúa đã hy sinh sự sống của mình để chết đi. Sự sống còn của nhân loại cũng tuỳ thuộc vào nguyên tắc tự hiến này.
Thiên Chúa đã sắp đặt thế giới mới cách thức kỳ diệu đến nỗi hành động của mỗi cá nhân đều được coi là quan trọng.
Tôi xin minh hoạ chủ điểm này rõ hơn bằng một câu chuyện hài hước. Art Bưchwald, một tay viết báo, có lần đã víêt về một người bạn ông sống tại thành phố New York. Chúng ta hãy tạm gọi anh bạn đó là Oscar. Một hôm Art và Oscar bước lên một chiếc taxi. Lúc đó Oscar nói với bác tài:Bác lái giỏi qúa! Bác ta liền nhìn anh và nói: Anh làm nghề gì? Bộ anh xỏ xiên tôi hả? Oscar nói: Không phải đâu, tôi khen bác thực mà. Tôi khâm phục cách bác di chuyển giữa một đám xe cộ như thế. Bác ta liền nói: Đúng, hẳn là thế đoạn lái xe đi. Sau đó, Art liền hỏi: Anh làm như vậy với mục đích gì?. Orcar trả lời: Tôi đang cố gắng đem lại tình yêu cho New York. Art nói: Anh làm thế nào được?. Oscar nói: Hãy lấy trường hợp bác tài lúc nãy. Tôi nghĩ rằng tôi đã giúp bác ta một ngày hạnh phúc. Chúng ta hãy giả thiết hôm nay bác ta lái được hai mươi xuất, bác sẽ niềm nở tử tế hơn với những kẻ khác nữa. Cuối cùng, sự tử tế ấy sẽ trải rộng đến cả ngàn người. Art nói: Anh bắt đầu khùng rồi đấy!
Nhưng ngay lúc đó, họ đi ngang qua một công trường đang xây. Bấy giờ là giữa trưa, đám thợ đang ngồi ăn. Oscar liền bước tới gần một nhóm và nói: Các bạn đang xây cất một công trình thật tráng lệ!. Đám thợ giương mắt ngờ vực nhìn Orcar. Anh liền hỏi: Chừng nào xây xong vậy? Một gã thợ đầu đội nón an toàn lầu bầu: Tháng sáu. Orcar liền nói: Tuyệt quá! Vậy là sắp có thêm một công trình mỹ lệ cho thành phố.
Trong khi họ tiếp tục rảo bước, Art nói với Oscar: Này bạn, tôi chưa thấy ai giống như anh cả. Oscar nói: Đồng ý! Anh có thể ghẹo tôi. nhưng đám người này sẽ tiêu hoá những lời của tôi, nhờ đó họ sẽ tốt đẹp hơn. Art liền nói: Nhưng cho dầu nhờ đó họ tốt hơn đi nữa, thì anh cũng vẫn chỉ là một cá nhân, mà một cá nhân thì làm sao có thể thay đổi thành phố Nữu Ước được. Oscar đáp: Có chứ! Điều quan trọng là chớ ngã lòng. Mang tình yêu về lại cho Nữu Ước không phải dễ dàng, tuy nhiên nếu mà tôi có thể lôi kéo thiên hạ cộng tác với tôi vào chiến dịch này thì Art ngắt lời: Này ! Anh vừa nháy mắt với một mụ đàn bà xấu xí phải không? Orcar nói : Đúng thế! Nhưng nếu chị ta là một giáo viên thì lớp học của chị ta hôm nay nhờ đó sẽ có một ngày đẹp tuyệt với đấy!.
Bưchwald không hề thêm bớt gì về bài viết này. Chúng ta không biết ông viết nghiêm chỉnh, hoặc nửa đùa nửa thật cho vui, tuy nhiên một số độc giả tin rằng ông ta nghiêm chỉnh hơn chúng ta nghĩ.
Điều này dẫn chúng ta trở lại với bài phúc âm hôm nay. Chú bé đã trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chú có và Chúa Giêsu đã chia sẻ món quà tặng của chú với cả hàng ngàn người. Sứ điệp của bài phúc âm hôm nay như sau: Giống như một hạt lúa, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cho một phép lạ, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cứu giúp hàng ngàn người, khi thấy sứ điệp này xác thực ngay trước mắt, Malcolm Muggeridge, một ngôi sao truyền hình nổi tiếng của Anh Quốc, đã làm điều mà trước đó chàng thề không bao giờ làm, là trở thành một người Công giáo. Chàng cho biết sở dĩ tâm hồn chàng thay đổi là nhờ mẹ Têrêxa Calcutta. Chàng nói: Không lời nào nói cho xiết tôi đã mang ơn mẹ biết bao nhiêu. Mẹ đã chỉ cho tôi một thứ Kitô giáo bằng hành động. Mẹ đã chỉ cho tôi quyền năng của tình yêu, mẹ đã chỉ cho tôi một cá nhân từ ái có thể khơi dậy cơn thuỷ triều tình yêu lan đến toàn thế giới.
Đó cũng là Tin Mừng của bài phúc âm hôm nay. Tin Mừng này cho biết dù chỉ là cá nhân cũng vẫn quan trọng, vẫn đáng kể, và nếu chúng ta chia sẻ điều mình có với Chúa Giêsu thì Ngài có thể làm cho điều ấy sinh hoa kết trái vựơt quá mộng tưởng lớn lao nhất của chúng ta.
Bài phúc âm hôm nay cho thấy nếu chúng ta dâng cho Chúa Giêsu tài năng và tặng vật của mình để tuỳ Ngài sử dụng thì Ngài có thể dùng chúng ta làm nên những phép lạ.
Chúng ta hãy kết thúc với bài thơ của Amdo Nervo, một đại thi sĩ cũng là một nhà huyền bí, người Mễ Tây Cơ. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp và tinh thần bài phúc âm hôm nay:
Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa. Con chỉ là sợi dây, Xin biến con thành chiếc đàn. Con chỉ là một ngọn đồi cỏn con, Xin biến con thành ngọn núi. Con chỉ là một giọt nước, Xin biến con thành một giòng suối. Con chỉ là một cọng lông, Xin biến con thành chiếc cánh. Con chỉ là gã ăn mày, Xin biến con thành một ông vua.
Hỡi những kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn, hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền: TN18-A21
- Bài đọc I : "Hỡi những kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn, hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền"
- Đáp ca : "Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho mọi sinh vật được no nê".
- Tin Mừng : Phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Minh họa
- Mille images 60 B
- "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá" (Mt 14,17)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa mấy tuần gần đây đưa ra những sứ điệp rất an ủi : Chúa nhựt tuần trước. Chúa cho biết Ngài là một người Cha yêu thương luôn tìm những ơn tốt lành nhất để ban cho chúng ta là con cái Ngài. Hôm nay Chúa cho biết thêm Ngài sẽ thỏa mãn tất cả những khát vọng của con người.
Chúng ta hãy cùng dâng Thánh Lễ này trong tâm tình biết ơn và trông cậy Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta quan tâm thỏa mãn những nhu cầu vật chất mà quên những nhu cầu tâm linh.
- Nhiều khi chúng ta sống thiếu lòng trông cậy Chúa.
- Nhiều khi chúng ta cũng không biết ơn Chúa vì biết bao ơn lành Ngài đã ban.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,1-3)
Đoạn này thuộc về chương cuối của phần II sách Isaia ("sách an ủi", gồm các chương 40-55). Đệ nhị Isaia công bố lời Thiên Chúa mời gọi người ta đến dự một bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Bữa tiệc này rất đặc biệt :
- Những món ăn rất thịnh soạn toàn đồ bổ và cao lương mỹ vị.
- Bữa tiệc hoàn toàn miễn phí.
- Người được mời là những kẻ nghèo khổ, đói khát, không tiền bạc, cũng không có gì để đổi chác.
Dĩ nhiên, hình ảnh bữa tiệc mang ý nghĩa tượng trưng :
- Tượng trưng cho sự thỏa mãn những khát vọng của con người
- Tượng trưng cho hạnh phúc Nước Trời.
2. Đáp ca (Tv 144)
Tv 144 ca tụng tình thương ân cần của Thiên Chúa đối với tất cả những thụ tạo của Ngài : chẳng những Ngài đã tạo nên chúng, mà còn quan tâm dưỡng nuôi và chăm sóc chúng : "Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa. Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho mọi sinh vật được no nê".
3. Tin Mừng (Mt 14,13-21)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cách viết của thánh Matthêu rõ ràng muốn so sánh với phép lạ manna thời xuất hành và bí tích Thánh thể mà Chúa Giêsu sẽ lập : thời xưa Thiên Chúa đã nuôi dân do thái no nê bằng thứ lương thực diệu kỳ là manna. Thời nay Chúa Giêsu còn nuôi dân mới bằng một thứ lương thực diệu kỳ hơn nữa là Bí tích Thánh Thể.
4. Bài đọc II (Rm 8,35.37-39) (Chủ đề phụ)
Đoạn thư này của Thánh Phaolô là lời tuyên xưng đức trông cậy mạnh mẽ nhất : không gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô.
- Bảng liệt kê thứ nhất kể ra những gian truân thử thách của bản thân Thánh Phaolô và có thể cũng là của mọi kitô hữu : gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo.
- Bảng liệt kê thứ hai kể ra những gian truân của thân phận làm người : chết hay sống, hiện tại hay tương lai
IV. Gợi ý giảng
1. Phép lạ = quyền phép Thiên Chúa + đóng góp của con người
Đức Giêsu đã làm phép lạ có lương thực nuôi năm ngàn người ăn thừa thải. Nhưng phép lạ này bắt đầu từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Mẹ Têrêxa hàng ngày nuôi chín ngàn người nghèo ở Calcutta. Nhưng số lượng lương thực này là do phần đóng góp của biết bao người hảo tâm.
Một hôm có một cặp vợ chồng trẻ đến trao cho Mẹ một số tiền lớn. Mẹ ngạc nhiên hỏi :
- Làm sao mà anh chị có được số tiền lớn này ?
- Chúng con vừa cưới nhau hai ngày trước đây. Chúng con đã nhất trí với nhau không tổ chức tiệc cưới, để dành tiền giúp những người nghèo.
- Tại sao anh chị làm thế ?
- Vì chúng con rất yêu nhau, chúng con muốn bắt đầu cuộc sống gia đình bằng một việc hy sinh, để Chúa chúc lành cho chúng con.
2. Có thể tin được Lời Chúa không ?
Lời Chúa hôm nay thật rõ ràng : Chúa nói Ngài thỏa mãn mọi thứ đói khát của con người.
Nhưng ta có thể tin vào Lời đó không, bởi vì ngày nay biết bao người còn đang đói khát, trong số đó có thể có chính chúng ta nữa ?
- Điều căn bản mà chúng ta phải nhớ là Thiên Chúa đã tạo dựng nên trái đất này, một trái đất phong phú, sản sinh ra đầy đủ đến dư thừa mọi lương thực chẳng những cho loài người mà còn cho muôn loài. Cho nên trên căn bản là Chúa bảo đảm cho muôn loài được no nê.
- Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác ; sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ "phân phát". Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
- Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ "Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời"
- Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
3. Những khát vọng của con người
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới những khát vọng tầm thường.
- Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác : ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý. Chúa Giêsu nói "Hãy xem chim trời hãy xem hoa huệ ngoài đồng"
- Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn : bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu Chân, thiện, mỹ tuyệt đối Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
4. Một giải thích mới về phép lạ hóa bánh ra nhiều
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Đức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như không ai làm nổi : biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại chia xẻ.
Chuyện minh hoạ:
Nồi súp tuyệt vời
Câu chuyện sau đây có thể minh họa cho ý nghĩa này :
Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà này từ chối :
- Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
- Không sao. Chỉ nhờ Bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác. Chẳng bao lâu căn nhà đầy người.
Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm : "Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt". Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói "Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê". Một người khác vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra đi.
5. "Điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô" ?
Kiểu nói "lòng yêu mến của Đức Kitô" có hai nghĩa : a/ Lòng Đức Kitô yêu mến chúng ta ; và b/ lòng chúng ta yêu mến Đức Kitô.
Chúng ta hãy trả lời câu hỏi của Thánh Phaolô theo nghĩa thứ nhất : có gì có thể làm Đức Kitô không còn yêu mến chúng ta nữa không ? Chắc chắn là không : Đức Kitô đã phải "gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo" nhưng Ngài vẫn yêu mến chúng ta, Ngài yêu mến chúng ta đến nỗi hiến thân chịu chết vì chúng ta.
Bây giờ chúng ta cũng trả lời câu hỏi ấy nhưng theo nghĩa thứ hai : có gì có thể làm cho chúng ta hết yêu mến Đức Kitô không ? Câu này có thể có hai câu trả lời :
- Nếu chúng ta thực lòng yêu mến Chúa thì không. Chẳng hạn Thánh Phaolô. Ngài đã chịu đủ thứ "gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo", nhưng Ngài vẫn một mực yêu mến Chúa. Ngài còn lấy làm hạnh phúc bởi được chịu khổ vì Chúa. Các thánh thì cũng thế.
- Nhưng nếu chúng ta không thực lòng yêu mến Chúa, tất cả đều có thể tách ta ra khỏi Chúa. Mà xét cho cùng, chỉ có một người có thể tách chúng ta ra khỏi Chúa, đó là chính bản thân chúng ta.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Tình yêu. Người yêu thương, chăm sóc và dưỡng nuôi hết thảy mọi người. Tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh không những cung cấp lương thực thiêng liêng / là Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa cho con cái mình / mà còn quan tâm giúp đỡ những ai nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / làm tròn trách nhiệm cao quý nhưng hết sức nặng nề này.
2- Trên thế giới ngày nay / nạn đói vẫn còn đang hoành hành dữ đội / mỗi năm giết chết hàng triệu người lớn và trẻ em tại các nước chậm phát triển / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / luôn sẵn sàng trợ giúp những người nghèo đói một cách quảng đại.
3- Nhiều khi vì miếng cơm manh áo / mà nhiều người đã bán rẻ nhân phẩm / coi thường danh dự / sa lầy trong vũng bủn tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ những ai đang sống trong cảnh khốn cùng / để dù nghèo khổ / họ vẫn luôn giữ được khí tiết của mình.
4- Quan tâm giúp đỡ những ai đói nghèo / những người bệnh tật / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sống bác ái một cách cụ thể với hết thảy mọi người.
CT : Lạy Chúa, thánh Phaolô đã nói với chúng con "Sống bác ái là chu toàn cả lề luật". Xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con có thể sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương, và biết thật tình chia sẻ với những ai đói rách bần cùng. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta đều là con cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy một lòng một ý với nhau cầu xin Cha trên trời ban cho chúng ta lương thực hằng ngày, chẳng những lương thực vật chất mà cả lương thực thiêng liêng nữa.
- Trước rước lễ : Dân do thái ngày xưa được ăn manna. Dân chúng thời Đức Giêsu được ăn no nê từ 4 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã làm phép lạ cho ra nhiều. Thực ra chúng ta cũng không thua kém gì họ, bởi vì chúng ta được ăn chính Mình Thánh Đức Giêsu. "Đây Chiên Thiên Chúa"
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về và cố gắng sống tinh thần chia xẻ mà Chúa đã dạy chúng ta.
Vào khoảng đầu mùa hè 1998 tôi nhận được tập sách nhỏ “NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ“: TN18-A22
Vào khoảng đầu mùa hè 1998 tôi nhận được tập sách nhỏ “NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ“ của Đức Cố Hồng Y (lúc này ngài mới là Tổng Giám Mục) FX Nguyễn Văn Thuận. Tôi đã đọc một mạch từ chữ đầu cho đến chữ cuối cùng và đọc ngấu nghiến như người đói gặp được mâm cơm và đọc đi đọc lại nhiều lần. Lý do thứ nhất là vì tác gỉa là vị Tổng Giám Mục mà tôi rất ngưỡng mộ, kính mến và chịu ơn rất nhiều cả về mặt tinh thần lẫn vật chất. Lý do thứ hai là cuốn sách viết hay quá khiến tôi không cầm được nước mắt. Dù rất quý mến tập sách nhỏ ấy, tôi cũng đã để lại cho anh em bạn bè để họ photocopy mà tặng cho nhiều người khác đọc, trước khi tôi đi Roma. Khi gặp Đức Tổng Giám Mục FX Nguyễn Văn Thuận vào đúng lúc ngài vừa được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình thay thế Đức Hồng Y Etche-garay, tôi đã kể lại những chuyện nhỏ ấy cho ngài nghe. Đức Tổng Thuận đã cho tôi nhiều sách của ngài và của Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình để vừa bù vừa thưởng cho tôi. Năm chiếc bánh và hai con cá chính là câu chuyện của Phúc Am Chúa nhật XVIII Thường niên năm A hôm nay. Tôi chẳng muốn viết gì nữa khi hầu hết chúng ta đều đã đọc tác phẩm nổi danh trên. Thế nhưng, các bạn cho phép tôi làm phận sự của mình chứ?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 14, 13-21: Đức Giê su hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất
“Nghe tin ấy (tin Gioan Tẩy Gỉa bị chém đầu) Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Đức Giêsu bảo họ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.“ Các ông đáp: “Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!” Rồi sau đó Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 14, 13-21 trên, chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Ai?
Là một tường thuật bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rất rõ Đức Giêsu là Ai và muốn dạy chúng ta điều gì.
(1o) Trước hết cũng như trong bài Phúc âm Chúa nhật XV/TNA chúng ta thấy Đức Giêsu là Người rao giảng rất ăn khách. Chỉ cần nghe biết Người dừng chân ở đâu là dân chúng ùn ùn kéo tới để gặp và nghe Người. Như vậy thì lời rao giảng của Người đáp ứng đúng nhu cầu và khát vọng thâm sâu của rất nhiều người đương thời.
(2o) Kế đến chúng ta thấy Đức Giêsu là Đấng rất khôn ngoan trong khi thi hành sứ vụ. Khi được tin Gioan Tiền Hô (Tẩy Giả) bị vua Hêrôđê giết hại, Đức Giêsu “đã lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một nơi thanh vắng riêng biệt.” Mátthêu không cho biết tại sao Đức Giêsu lại làm như thế. Có phải vì Người sợ bị vua Hêrôđê tìm cách bắt giữ và sát hại không? Hay vì là GIỜ của Người chưa tới? Dựa vào cách hành xử của Đức Giêsu và vào nhiều đoạn văn Phúc Am khác thì có lẽ lý do thứ hai dễ chấp nhận hơn là lý do thứ nhất.
(3o) Hơn nữa chúng ta thấy Đức Giêsu là Đấng có một tâm hồn rất nhạy cảm, đầy tinh tế và yêu thương đối với dân chúng. “Chạnh lòng thương” là phản ứng thường xuyên của Đức Giêsu trước nhu cầu vật chất, tinh thần, tâm linh của con người, nhất là những người gặp cảnh thiếu thốn, khốn khổ.
(4o) Rồi chúng ta còn thấy Đức Giêsu là Nhà Giáo Dục Cách Mạng và Táo Bạo Bất Ngờ: Khi các môn đệ chỉ có thể nghĩ ra được và thích chọn một giải pháp dễ dàng và quen thuộc nhất -là để cho dân chúng tự lo lấy bữa ăn -, thì Đức Giêsu lại đề nghị một biện pháp bất ngờ và khó thực hiện nhất: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.“
(5o) Sau cùng chúng ta thấy Đức Giêsu là Người rất thực tế: Tình yêu thương của Người không dừng lại ở tình cảm xuông mà được thể hiện một cách hết sức cụ thể và thiết thực, để ai nấy được no nê.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 14, 13-21 dạy chúng ta điều gì?
(1o) Trước hết Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu rõ thêm về Chúa Giêsu: con người, tâm hồn, lòng yêu thương, sự tinh tế và cách hành động của Người với năm đặc điểm mà chúng ta vừa khám phá ở trên. Và một khi đã biết rõ thêm về Chúa Giêsu thì đương nhiên chúng ta được mời gọi tăng thêm lòng ngưỡng mộ, tâm tình kính mến và hành động noi theo bắt chước Người nhiều hơn.
(2o) Kế đến Lời Chúa hôm nay dậy chúng ta biết rằng phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn đàn ông và số phụ nữ và trẻ em đông hơn, vừa là dấu chỉ Nước Trời hiện diện vừa là dấu báo hiệu Bí Tích Thánh Thể trong đó, Chúa Giêsu không còn lấy bánh nuôi dân mà lấy chính Thịt Máu mình mà nuôi chúng ta.
(3o) Sau cùng Lời Chúa hôm nay còn dạy chúng ta phải biết góp phần của mình vào trong công trình của Thiên Chúa. Không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của ai đó trong đám đông thì Chúa Giêsu vẫn có thể thực hiện phép lạ để có nhiều bánh và nhiều cá. Nhưng ở đây Chúa Giêsu muốn các môn đệ và dân chúng góp phần nhỏ bé của mình vào công trình vĩ đại của Người.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
(1o) Lời Chúa hôm nay cho tôi thấy rõ hơn nữa chân dung và tấm lòng của Chúa Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Trong tuần lễ này, tôi sẽ dành nhiều thời gian hơn bình thường để chiêm ngắm, ngưỡng mộ, yêu mến, lắng nghe (đọc Phúc âm, nhất là đọc lại Bài Phúc âm này), trao đổi tâm tình với Chúa Giêsu Kitô.
(2o) Lời Chúa hôm nay dạy cho tôi biết ý nghĩa và tầm quan trọng của Thánh Thể trong đời sống cá nhân và cộng đoàn. Trong tuần lễ này tôi sẽ kiểm điểm lại xem tôi xem trọng Thánh Lễ và Mình Máu Chúa như thế nào!
(3o) Lời Chúa hôm nay mời gọi tôi góp phần mình vào công trình Sáng Tạo & Cứu độ của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu và của Giáo hội. Giáo hội ngày nay được định nghĩa là Cộng đoàn Dân Chúa mà trong đó mọi người có phần và phải góp phần (Participatory Church). Trong tuần lễ này, tôi sẽ nhìn lại xem tôi có phần không? và tôi góp phần như thế nào vào hội đoàn, giáo xứ, giáo phận, giáo hội toàn cầu?
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng Phục Sinh hiện diện khắp mọi nơi, trên các Bàn Thờ và trong các Nhà Tạm trên toàn thế giới, con xin dâng lời ngợi khen, chúc tụng và cảm tạ Chúa về những điều bài Phúc Am “năm chiếc bánh và hai con cá“ gợi lên và soi sáng cho con hôm nay. Con nghĩ con phải sống những điều ấy không chỉ trong tuần lễ này mà trong suốt cả Năm Thánh Thể 2005!
Con quyết tâm tăng cường đời sống nội tâm nối kết thân mặt hơn với Chúa bằng cách năng đọc và học hỏi Phúc Am, cầu nguyện, trao đổi tâm tình và học tập cách Chúa sống.
Con cũng quyết tâm tích cực góp phần nhỏ bé của con -tài năng, tiền của, thời gian- vào các việc chung của cộng đoàn Giáo hội và cộng đồng xã hội trong đó con sống, để Chúa thực hiện những công trình vĩ đại cho mọi người được sống và sống dồi dào. Amen.
Trong ba năm giảng dạy của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng kể lại hai lần Chúa làm phép lạ: TN18-A23
Trong ba năm giảng dạy của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng kể lại hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay là lần thứ nhất, xảy ra vào tháng tư, gần lễ Vượt Qua của năm 29, tức là vào năm thứ hai giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa muốn nói gì với chúng ta khi làm phép lạ này ?
Điều thứ nhất, Chúa muốn nói với chúng ta về lòng thương xót. Xưa kia trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa, dân Do Thái đã kêu xin Chúa ban lương thực cho họ. Trước những lời kêu xin đó Thiên Chúa đã không làm ngơ và đã ban man – na cho họ. Cũng vậy, Chúa Giêsu đã không làm ngơ trước cảnh dân chúng đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy ở một nơi đồng không mông quạnh mà không có gì ăn, Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no, Ngài đã thương xót họ. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa : “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề. Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ. Vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc : “Các con hãy lo cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ. Có những lời nói xót thương người khác cũng là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, phải có hành động xót thương thực sự nữa, Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Chúng ta hãy nghĩ xem ; trước những nỗi đau của người khác, trước những túng thiếu của người anh em, chúng ta thường có những thái độ nào ? Thái độ ngoảnh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc là thái độ không thể nào chấp nhận được, mà trong thực tế có nhiều người trong chúng ta đã có thái độ đó. Rồi có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, thông cảm là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Chúng ta hãy nhớ : điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều nhưng là ở chỗ biết ý thức người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta.
Trong ý tưởng đó, chúng ta hãy suy nghĩ những lời phát biểu trước quốc hội của ông Ganhdi, vị anh hùng đã áp dụng phương pháp bất bạo động để giải phóng dân tộc An Độ khỏi ách thống trị của Anh Quốc. Ông Ganhdi đã nói : “Theo quan niệm của tôi thì về một ý nghĩa nào đó, chúng ta là những người ăn cắp. Bởi lẽ nếu tôi có một vật nào đó mà tôi không cần ngay bây giờ nhưng tôi vẫn giữ nó, thì đó là tôi ăn cắp vật đó từ một người khác đang cần đến nó. Tại An Độ hiện nay, chúng ta có ba triệu người mỗi ngày chỉ ăn một bữa và thức ăn của họ chỉ là một miếng bánh và một nhúm muối. Trước thực tại này, quí vị và tôi không có quyền sở hữu một vật gì mà chúng ta không trực tiếp cần đến, cho đến khi ba triệu người này được ăn no, mặc ấm”. Những lời phát biểu đó cũng là những gợi ý giúp chúng ta hiểu và sống lời Chúa hôm nay.
Điều thứ hai, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa. Với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là có dư thừa bánh cho mọi người ăn, nhưng Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài khi Ngài bảo các ông : “Các con hãy lo cho họ ăn”. Khi các môn đệ tìm được 5 chiếc bánh và 2 con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết : cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh. Đừng kể trong đời thường mà thôi nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói : “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Câu chuyện sau đây minh họa cho điều đó : Một nhà văn Kitô giáo đã dựng một vở kịch diễn tả vụ hành quyết một tên trọng phạm tại một thị trấn nhỏ thời Trung Cổ. Theo phép nước, chỉ có một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo trong một chuyến tuần du qua đây, hoàng hậu theo gương có 200 đồng cũng giúp hết, các cận thần đi theo cũng dốc túi. Người ta đếm được 999 đồng, còn thiếu một đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành pháp lệnh. Toán hành quyết tròng dây thừng vào cổ tên tử tội thiếu may mắn. Khi sắp sửa rút dây thì có một tiếng kêu lớn : “Khoan đã, lục soát người nó đi, biết đâu đấy”, tên đao phủ lần mò khắp người tội nhân và móc ra được một đồng hắn giấu trong lưng quần từ hồi nào mà hắn cũng không nhớ nữa. Thế là đủ 1000 đồng, tên tử tội được thoát chết. Có lẽ chúng ta đều hiểu câu chuyện này phải không ? Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, Mẹ Maria đã trợ giúp chúng ta, các thánh cũng trợ giúp chúng ta, và chính chúng ta cũng phải góp phần. Tóm lại, dù chúng ta là ai, dù chúng ta hèn kém thế nào, chúng ta hãy cố gắng với hết khả năng của mình, Chúa sẽ trợ giúp chúng ta.
Bắt đầu bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu nói rõ Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy giả đã bị: TN18-A24
Bắt đầu bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu nói rõ Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu, nên Ngài buồn bã rút lui khỏi vùng Galilêa vào nơi yên tĩnh.
William Barclay đã đưa ra ba lý do. Ngài là con người, cần nghỉ ngơi. Ngài không bao giờ liều lĩnh lao vào nguy hiểm, phải rút lui kẻo sớm chia sẻ chung số phận với Gioan. Và trên hết, với thập giá đang đến gần kề, Chúa Giêsu đã biết Ngài phải gặp gỡ Thiên Chúa trước khi tiếp xúc với con người, Ngài tìm kiếm sự nghỉ ngơi cho thể xác và củng cố tinh thần nơi thanh vắng.
Phúc âm thánh Matthêu ở chương 14 đã mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ : Bữa tiệc sang trọng với chiếc đầu của Gioan Tẩy giả và bữa tiệc của dân nghèo với năm chiếc bánh và hai con cá.
1. Gioan bị chém đầu : tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quí phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời, quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, lương thực cao lương mỹ vị, rượu ngon thỏa thích, vũ nữ duyên dáng… và có cả hận thù, ích kỷ, máu đổ đầu rơi !
Vài tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis Presley – nổi tiếng là vua của nhạc Rock : “Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc, anh đã nói anh muốn có được ba điều trong cuộc đời. Anh muốn giàu sang. Anh muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống hạnh phúc. Giàu sang và nổi danh chắc chắn là anh đã có. Thế còn hạnh phúc, không biết anh thực sự có hay không, Elvis ?” Chàng ca sĩ trả lời, “Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục”.
Giàu sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi hạng người, các giai nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của anh như hỏa ngục ! Thật lạ lùng ! Như thế, cuộc sống của vua Hêrôđê với tiệc tùng nào có khác chi !
2. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất : tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì, ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Sự thiếu thốn về vật chất dễ làm đời sống tinh thần của con người trở nên ích kỷ. Họ không muốn đóng góp sự gì, mà chỉ mong mỏi đấng Thiên Sai đến giải thoát họ khỏi khổ cực đang chịu vì sự áp bức của đế quốc Rôma và những người Do Thái giàu có.
Đây không chỉ là phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều nhưng còn là phép lạ thay đổi đám dân chúng ích kỷ trở nên quảng đại nhờ sự hiện diện và tiếp xúc với Chúa Kitô. Đây là phép lạ của tình yêu sinh ra trong những con tim oán hờn. Phép lạ này là một biểu tượng của Bí tích Thánh Thể.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết : “Một hệ quả đầy ý nghĩa khác của chiều hướng cánh chung gắn liền với Thánh thể còn là sự kiện nó thúc đẩy chúng ta tiến bước trong lịch sử và làm nảy sinh hạt giống của niềm hy vọng sống động trong những dấn thân hằng ngày để chu toàn nhiệm vụ của chúng ta. Quả thế, nếu tầm nhìn Kitô giáo dẫn đến việc mong chờ một “Trời mới” và “Đất mới”, nó không làm suy giảm, mà trái lại làm gia tăng ý thức trách nhiệm của ta đối với thế giới hôm nay… Những vấn đề đang bao phủ chân trời của chúng ta thật là nhiều. Chỉ cần nghĩ đến nhu cầu cấp bách phải kiến tạo hòa bình, thiết lập những mối tương giao giữa con người với nhau dựa trên nền tảng vững chắc là sự công bình và tình liên đới… Và chúng ta sẽ nói gì đây về vô vàn mâu thuẫn trong một thế giới “toàn cầu hóa”, trong đó những người yếu ớt nhất, không có quyền lực nhất và nghèo nhất dường như không có chút hy vọng! Chính trong thế giới này, niềm hy vọng của người Kitô hữu phải tỏa sáng ! Cũng vì lý do đó, Chúa đã muốn ở lại với chúng ta trong Thánh Thể, bằng cách làm cho sự hiện diện của Người trong bữa ăn và trong hy tế, trở nên lời hứa đổi mới nhân loại bằng tình yêu của Người”.
3. Vai trò của Giáo Hội : Phép lạ còn nhấn mạnh đến vai trò của các môn đệ trong công việc của Chúa Kitô nữa. “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn… Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Câu chuyện kể rằng Chúa Giêsu đã trao bánh và cá cho các môn đệ và chính các ông phân phát cho đám đông.
Sự thật là các môn đệ chẳng làm gì được nếu không có Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu cần đến những bàn tay cộng tác của các môn đệ. Nếu Chúa Giêsu muốn trẻ em được dạy dỗ, người nghèo đó được nuôi nấng, người ốm đau được săn sóc, Ngài phải có người nào đó làm công việc này.
Vào một đêm người đàn ông rút cây nến nhỏ từ trong ngăn kéo ra, thắp nó lên, và bắt đầu bước lên chiếc cầu thang dài hình trôn ốc. Cây nến hỏi người đàn ông : “Ông đi đâu vậy ?” Ông trả lời : “Đi lên chỗ cao hơn nóc nhà nơi chúng ta đang ngủ”. “Và ông sẽ làm gì ở đó ?” cây nến hỏi. “Tôi sẽ chỉ cho những con tàu ở biển khơi biết đâu là hải cảng”, người đàn ông nói, “vì chúng ta đang ở ngay lối vào hải cảng, và một số con tàu ngoài biển khơi đang gặp bão táp, có thể tìm thấy ánh sáng của chúng ta”. “Không có con tàu nào nhìn thấy ánh sáng của tôi cả”, ngọn nến nói “tôi quá nhỏ bé mà”. “Mặc dù ánh sáng của ngươi nhỏ bé”, người đàn ông đáp, “cứ hãy thắp sáng nó lên, đừng e ngại, hãy để phần còn lại cho ta tính”. Rồi người đàn ông trèo lên những nấc thang cho tới đỉnh của ngôi nhà hải đăng, cầm cây nến nhỏ bé, châm lửa vào những cái đèn vĩ đại đã đứng sẵn ở đó với những tấm gương phản chiếu bóng láng ở phía sau. Một cây nến nhỏ cũng có thể làm nên một ngọn lửa lớn hơn.
Đây là công việc của Giáo Hội. Giáo Hội được gọi là tông truyền vì luôn tiếp tục các công việc của các tông đồ. Giáo Hội vẫn được thánh hóa và hướng dẫn bởi các tông đồ qua giám mục đoàn với sự cộng tác của các linh mục, hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô.
Trong cuốn sách có tựa đề “Healing Through The Mass”, linh mục Robert De Grandis SJ. Kể: TN18-A25
Trong cuốn sách có tựa đề “Healing Through The Mass”, linh mục Robert De Grandis SJ. kể câu chuyện như sau :
“Nasa, Cơ quan Không gian của Hoa Kỳ, đã làm một số thí nghiệm qua một loại máy chụp hình đặc biệt có thể nhìn thấy mức độ năng lực trong cơ thể con người. Điều này được nhìn thấy trên màn ảnh máy điện toán. Năng lực này xuất hiện giống như hơi phát ra xung quanh cơ thể. Sự quan tâm của trung tâm Nasa trong cuộc thí nghiệm này là để nghiên cứu về những ảnh hưởng của cuộc du hành không gian trên những phi hành gia bay trong quỹ đạo. Đang khi thí nghiệm tại một bệnh viện, họ khám phá thấy rằng khi một người đang hấp hối gần chết, hơi người xông ra (mà tôi nghĩ đó là năng lực) xung quanh cơ thể trở nên mỏng hơn, và nó càng lúc càng trở nên mỏng dần cho đến khi người ấy chết.
Đang khi nhà khoa học làm cuộc thí nghiệm này trong bệnh viện, thì người phụ tá của ông núp đàng sau một tấm kính hai chiều. Họ trông thấy qua máy chụp ảnh một người khác đang tiến vào trong phòng với ánh sáng phát ra từ cái túi áo của ông. Rồi từ trong túi áo người đàn ông đó đã lấy ra một vật và làm một điều gì đó tới nỗi qua máy chụp, toàn thể căn phòng tràn ngập ánh sáng, và qua máy chụp sau đó họ không còn có thể nhìn thấy điều gì đang xảy ra nữa. Họ đã chạy vào trong phòng để nhìn xem điều gì đã gây ra ánh sáng tràn ngập như vậy xuất hiện trên máy chụp của họ. Họ đã khám phá thấy rằng người hấp hối đang được trao ban Mình Thánh Chúa. Sau đó, qua máy chụp, họ có thể nhìn thấy hơi người xông ra xung quanh người bệnh trở nên sáng hơn. Mặc dù tuổi đời đã trên 50, nhà khoa học hướng dẫn cuộc thí nghiệm đã quyết định đi tu trở thành một linh mục sau khi chứng kiến sự kiện lạ lùng này”.
Người hấp hối đã trở nên mạnh mẽ bởi rước lấy Mình Thánh Chúa. Chúa Giêsu hiện diện trong hình thức của tấm bánh là lương thực nâng đỡ tinh thần của người hấp hối. Người ốm đau nằm trên giường bệnh là người chẳng còn có sự gì. Họ không thể làm được điều gì cho bản thân mình. Chúa Giêsu cũng chạnh lòng thương họ như thương đám đông ngày xưa.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng truyền dạy chúng ta “hãy cho họ ăn”. Bí tích Thánh thể diễn tả ý nghĩa tông truyền này, như Công đồng Vatican II dạy : “Các tín hữu tham dự tế lễ Thánh Thể nhờ chức tư tế vương giả của họ, song chính linh mục có chức thánh, “hành động trong tư cách của Đức Kitô, cử hành Hy tế tạ ơn và nhân danh toàn dân mà dâng lên Thiên Chúa”.
Chỗ hoang vắng" (c.13) gợi lại hình ảnh sa mạc mà dân Do Thái đi trong 40 năm và được nuôi bằng: TN18-A26
"Chỗ hoang vắng" (c.13) gợi lại hình ảnh sa mạc mà dân Do Thái đi trong 40 năm và được nuôi bằng manna.
Chúa bảo các môn đệ: "Chính anh em hãy cho họ ăn" (c.16). Chúa dùng đồ ăn của các môn đệ (c.17f), rồi dùng các môn đệ để phân phát đồ ăn này (c.19).
Chúa bảo dân "ngả lưng trên cỏ" (c.19) có nghĩa là sửa soạn ăn, vì ngả lưng là tư thế để ăn. Ở những nơi công cộng, đàn ông thường tụ họp chung với nhau, còn đàn bà và trẻ em thì tụ họp ở nơi khác.
"Cầm bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ": giống như trong bữa tiệc ly (Mt 26:26), và cũng chỉ tới bữa tiệc sau này trên nước trời (Mt 8:11-12,22:1-10).
"Lời chúc tụng" trước bữa ăn của người Do Thái là "Chúc tụng Chúa là Chúa tể càn khôn, đấng ban bánh bởi trời."
Có một câu chuyện nuôi dân tương tự trong sách Các Vua quyển 2, câu 4:42-44. Tiên tri Elisha ra lệnh cho các đầy tớ đa nghi mang 20 chiếc bánh nuôi cả trăm người. Chúa nuôi tới năm ngàn, nên phép lạ của Chúa còn lớn hơn và vai trò của Chúa còn cao hơn nữa.
Một Điểm Chính
Chúa nuôi dân Ngài. Hai bữa tiệc khác hẳn nhau. Vua Herod Antipas thiết đãi cao lương mỹ vị cho những nhà quyền quý trong cung điện, rồi chặt đầu Gioan Tẩy Giả để thưởng vũ nữ (Mt 14:3-12). Vua Giêsu dùng món ăn của dân nghèo để nuôi bất cứ ai đến với Ngài nơi hoang địa, mọi người được chữa lành và no đủ.
Suy Niệm
Tôi là ai trong bữa tiệc: người bệnh được chữa lành, người lữ hành đói được ăn, khách bàng quan, hay một người khác? Hay tôi là một ông hoàng trong bữa tiệc của Herod?
Thực phẩm nào nuôi dưỡng đời tôi? Công việc, thành quả, gia đình, tiền bạc, ơn Chúa, hay cái gì khác? Tôi có được no đủ, hay đói và bất an?
Tôi có thể làm gì để được nuôi dưỡng đều đặn, và để giúp Chúa nuôi dưỡng anh chị em quanh tôi?
Sau khi nói với đám học sinh 6 tuổi về câu chuyện Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi 5 ngàn người: TN18-A27
Sau khi nói với đám học sinh 6 tuổi về câu chuyện Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi 5 ngàn người, cô giáo bắt học sinh vẽ lại quang cảnh đó. Một bé gái nộp lên bức hình 12 người đang bưng những thúng đầy bánh và cá. Ai trong hình cũng đeo nơ trên mái tóc. Em bé giải thích, "Họ là những cô hầu bàn".
Bé gái khác họa Chúa Giêsu với con dao cắt bánh trong tay, đang cắt những ổ bánh. Thế nhưng bé lại bỏ cuộc trước khi nó được hoàn tất. Bé nói: "Em không thể làm cho những lát bánh mỏng được".
Trong hình của một bé trai, một vật hình chiếc hộp lớn với nắp mở cửa được đặt bên cạnh đám đông. "Đây là gì?" cô giáo hỏi. "Nó là chiếc tủ lạnh để cất những đồ còn thừa lại" bé trai trả lời.
Trong sứ điệp hôm nay, Chúa Giêsu buồn bã vì tin Gioan Tẩy Giả bị xử tử, "Ngài xuống thuyền để đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng nghe biết, nên từ các thành họ tuốn ra, đi bộ dõi theo Ngài" (Mt 14:13). Họ cảm thấy bị lôi cuốn đến với Chúa Giêsu. Và khi họ thấy vị Tiên Tri của họ dời bỏ lên thuyền, họ tiến đến nơi mà Ngài sẽ cập bến. Khi Chúa Giêsu cập bến, họ đã ở đó, đợi Ngài. Và "Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng," Matthew nói với chúng ta, "Ngài động lòng thương xót họ, và Ngài chữa mọi kẻ đau ốm" (Mt 14:14).
Thì giờ đã qua đi. Đám đông dân chúng vẫn ở đấy với Chúa Giêsu. Họ không muốn rời xa Ngài, mặc dầu trời đã tối và nó đã quá giờ cơm rồi. Sao lại lo lắng? Chắc chắn rằng Chúa Giêsu sẽ lo liệu cho họ! Các Tông Đồ nói với Chúa Giêsu giải tán dân chúng để họ có thể kiếm của ăn cho họ tại nơi nào đó. Thế nhưng Chúa Giêsu có ý tưởng hay hơn. "Họ không cần phải đi," Chúa Giêsu nói, "các con hãy cho họ ăn" (Mt 14:16). Sau đó, các Tông Đồ chỉ có thể mang đến: hai chiếc bánh và năm con cá. Và đám đông dân chúng lại là 5 ngàn đàn ông cộng với đàn bà con nít nữa để nuôi ăn. Rồi Chúa Giêsu làm phép lạ: Ngài ngước mắt lên Trời, làm phép, và trao cho các môn đệ, và các môn đệ phân phát cho dân chúng, và tất cả họ ăn no nê, và các môn đệ đã thu lại 12 thúng đầy những vụn còn lại.
Bé gái đã đọc lướt qua những câu chuyện trong sách Thánh Kinh bằng hình vẽ. Khi cô bé gặp phải câu chuyện của Sứ Điệp hôm nay, cô đã ngừng lật trang và chăm chú ngắm hình vẽ Chúa Giêsu đang đứng trước đám đông vĩ đại, và bẻ bánh. Thấy sự quyến rũ của cô bé với bức hình, mẹ em giải thích rằng đấy không phải là Chúa Giêsu thật sự, mà chỉ là khái niệm của họa sĩ về Ngài mà thôi. Vẫn tiếp tục ngắm bức hình, cô bé trả lời: "Vậy mà nó lại thật giống Ngài."
Đúng thế bé gái! Trong câu chuyện những chiếc bánh và cá, các ký giả Tân Ước đã cho chúng ta một bức hình về Chúa Giêsu thật sự: Chúa Giêsu Đấng chia sẻ Bánh Sự Sống của Ngài với chúng ta; Chúa Giêsu Đấng chữa lành những bệnh tật của chúng ta; Chúa Giêsu Đấng động lòng thương xót chúng ta.
Làm thế nào Chúa Giêsu nuôi ăn một đám đông chừng 10 ngàn người với chỉ vài chiếc bánh và vài con cá? Chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi rằng: "Thiên Chúa làm nên thế giới như thế nào?" Câu chuyện tạo dựng trong Kinh Thánh không phải là bài học nói về cách Thiên Chúa tạo dựng như thế nào. Câu chuyện có ý muốn dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa muôn loài. Thì cũng giống như những câu chuyện phép lạ về Chúa Giêsu. Vấn đề không phải "Ngài đã làm nó như thế nào?" nhưng chính là "Tạo sao Ngài lại làm nó?" Và các ký giả Tân Ước đã cho chúng ta câu trả lời: Ngài làm nó bởi vì Ngài quan tâm đến người khác. Ngài làm nó bởi vì Ngài cảm thấy động lòng thương xót đến người khác. Ngài làm nó bởi vì đó chính là gương mẫu mà giờ đây Ngài muốn chúng ta noi theo. Hãy noi gương Ta mà quan tâm đến người khác! Noi gương Ta mà động lòng thương xót với người khác.
Chỉ có sự hiểu biết qua lý trí về những lời khuyên răn lòng quan tâm và thương xót của Chúa Giêsu thôi cũng không đủ. Bài học thật sự dạy chúng ta phải biết cảm thông gánh nặng của người khác như của chính mình vậy. Khi đương đầu với nhu cầu của người khác, bài học thật sự dạy chúng ta phải biết hành động với thái độ mà có thể nói rằng: "Tôi có thể cảm thấy cái đau của anh."
Trong hoạt họa của tờ tạp chí, một thiếu phụ đang nằm trên ghế sa-lông của một nhà tâm lý. Nhà tâm lý đang cầm lấy tập sách và cây viết mực, và người thiếu phụ đang nói với ông: "Giá chồng tôi biết lắng nghe tôi nói giống như ông nghe!"
Nếu có ai đó giờ đây đang cần đến bạn quan tâm, hay nếu bạn gặp ai đó sẽ cần đến bạn quan tâm trong tuần, bạn sẽ không bao giờ biết được nếu bạn không để tâm chú ý đến. Và như thế, sự chọn lựa sẽ là của bạn. Bạn có thể bắt chước gương Chúa Giêsu và cảm thông gánh nặng của tha nhân như của chính bạn.
Chúa Giêsu "động lòng thương xót, và Ngài chữa mọi kẻ đau ốm" ... Ngài nói với các môn đệ: "Hãy cho họ ăn." Hãy trao ban cho họ Bánh Sự Sống! Và đừng thái nó mỏng quá! Hãy noi theo gương Chúa Giêsu và tình yêu giống như Đức Kitô của bạn sẽ không bao giờ hết cả. Hãy noi gương Chúa Giêsu và sẽ còn những phần dư tràn.
Chúng ta không cần câu truyện nào khác để dẫn vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Các Tông Đồ: TN18-A28
Chúng ta không cần câu truyện nào khác để dẫn vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Các Tông Đồ của Chúa lo sợ trước một thách thức không thể vượt qua được trên bình diện con người, đó là 5,000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ, đang gặp cảnh đói không có gì ăn, và vào lúc trời sắp tối, có nghĩa là mọi sinh hoạt buôn bán giữa người với người dường như bị đóng lại. Các ông lo sợ và nói theo khuynh hướng tự nhiên là phủi tay chạy trốn trước thách thức khó khăn ấy, từ đó đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng cũng muốn Chúa Giêsu làm như vậy: "Xin Thầy hãy cho họ về, hoặc cho họ vào làng để mua gì ăn, vì trời đã tối và họ có thể kiếm được gì lót dạ qua cơn đói chăng?".
Thế giới ngày nay có rất nhiều tiến bộ, với những phát; minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng theo thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp Quốc cho biết, mỗi ngày có khoảng 400,000,000 người phải đi ngủ với bụng đói không có gì để ăn, và 15,000 người phải chết đói hàng ngày. Điều này không phải vì thế giới thiếu tài nguyên, thiếu lương thực, nhưng vì tài nguyên của quốc gia bị mánh mung, ăn cắp một cách khéo léo bởi một số người không còn lương tâm.
Chúng ta không cần dẫn chứng đâu xa, hãy nhìn vào môi trường trong cuộc sống của chúng ta. Nơi cộng đoàn chúng ta sinh sống, thử hỏi có bao nhiêu người đang đói khổ? Bao nhiêu người trẻ thiếu phương tiện đến trường học? Bao nhiêu người bị bóc lột sức lực và làm việc với đồng lương bất công? Tại Phi Luật Tân 70% dân chúng sinh sống dưới mức phân biệt nghèo túng. Chúng ta đang đứng trước những thách thức bao la và có lẽ cũng muốn bỏ chạy trốn, hoặc đổ trách nhiệm sang cho kẻ khác với những lý do tự an ủi mình như, nhiều người đói khổ quá làm sao tôi có thể lo cho họ được, sức tôi có hạn làm sao tôi có thể chia sẻ với từng ấy người đang cần đến lương thực để sinh sống.
Thật lạ lùng, một cộng đoàn đông đến 5,000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ mà không còn chút lương thực, không còn chút gì để ăn tối, hay là mỗi người đã đem giấu phần thức ăn của mình? Hay có thể vì sợ không đủ cho kẻ khác? Nếu không có năm cái bánh và hai con cá của một em nhỏ nào đó thì làm sao Chúa Giêsu có thể nhân thêm để nuôi sống hàng mấy ngàn người như vậy. Em bé này đáng được khen ngợi, vì tâm hồn rộng lượng của em, một tâm hồn đơn sơ không nghĩ ngợi, dám dâng cho Chúa phần đóng góp nhỏ nhoi của em.
"Chúng con hãy cho họ ăn". Đó là mệnh lệnh mà Chúa truyền lại cho các Tông Đồ xưa và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Chúng con hãy cho họ ăn, chúng con có trách nhiệm không thể chạy trốn được, chúng con không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho kẻ khác. Hãy biết sống chia sẻ, đóng góp những gì mình có thể làm để mưu cầu hạnh phúc cho đồng loại. Mỗi người hãy thắp lên một que diêm để làm cho căn phòng đầy ánh sáng, nhất là khi cùng thắp que diêm đó với Chúa và nhờ Chúa, cộng tác với Chúa để gìn giữ que diên đó khỏi gió thổi tắt.
Thánh Mátthêu mô tả hành động phép lạ của Chúa Giêsu giống như hành động Chúa cử hành bí tích Thánh Thể với các Tông Đồ trong bữa tiệc ly: "Chúa cầm lấy bánh, tạ ơn và trao cho các môn đệ để các ngài đem đi phân phát". Bí tích Thánh Thể được gọi là "Bữa tiệc chia sẻ tình yêu, Agapae: Bữa tiệc bẻ bánh". Trong thời Giáo Hội sơ khai, bí tích Thánh Thể là phương tiện hữu hiệu nhất để giúp cho các đồ đệ có được sức sống của Ngài, có được tình yêu và sức mạnh của Chúa.
Đừng chạy trốn trước sự mời gọi chia sẻ của anh em. Chúng ta hãy xét lại xem mình đã cử hành Bí Tích Thánh Thể như thế nào? Bí Tích Thánh Thể có tác dụng thế nào trong đời sống chúng ta? Bí Tích Thánh Thể được chúng ta cử hành, chia sẻ trong nhà thờ và chúng ta có kéo dài nó trong cuộc sống bên ngoài nhà thờ hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn nhờ việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, cũng như qua việc chia sẻ sự sống của Chúa, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức bác ái, sẵn sàng đóng góp phần nhỏ của mình để phục vụ anh em, xin Chúa giúp chúng ta trưởng thành trong Đức Tin mà chúng ta chia sẻ qua kinh Tin Kính.
Tường thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều của Thánh Mat-thêu chứa nhiều ngụ ý : 1. Tấm lòng: TN18-A29
Tường thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều của Thánh Mat-thêu chứa nhiều ngụ ý :
1. Tấm lòng của Chúa Giêsu : “Ngài thấy dân chúng đông đảo thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ”, và sau đó còn giảng dạy cho họ và làm phép lạ cho họ có bánh ăn. Ta hãy chú ý là họ không xin, sáng kiến làm tất cả những việc đó đều xuất phát từ tấm lòng của Chúa Giêsu.
2. Mô tả Chúa Giêsu là Môsê mới nuôi dân mới bằng thứ lương thực trổi vượt hơn manna ngày xưa.
3. Tiên báo về bí tích Thánh Thể.
4. Vẽ lên hình ảnh Giáo Hội ; Chúa Giêsu ở giữa, các tông đồ ở kề bên Ngài, và dân chúng ở chung quanh.
B.... nẩy mầm.
1. Rất nhiều lần Tin Mừng ghi nhận rằng khi Chúa Giêsu thấy dân chúng thì Ngài chạnh lòng thương. Tuy họ không phải là bà con, bạn hữu hay là những người quen biết với Ngài, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Ngài là thương, và vì thương nên Ngài chữa bệnh, giảng dạy và cho họ ăn. Ai cũng là đối tượng của tình thương Chúa.
Phần tôi thì khác, tôi hay phân loại người ta thành hai hạng : người thân và người dưng. Đối với người dưng thì tôi thờ ơ lãnh đạm. Xin Chúa cho con có một tấm lòng yêu thương bao la như Chúa, nhất là khi con là tông đồ của Chúa.
2. “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn” : Cách giải quyết vấn đề của các tông đồ rất tự nhiên và bình thường. Tự dân chúng tìm đến đây thì tự họ phải lo thức ăn cho họ thôi. Các tông đồ đâu có trách nhiệm gì về chuyện đó. Đây là suy nghĩ tự nhiên. Nhưng Chúa Giêsu bảo “Các con hãy cho họ ăn” : đây là suy nghĩ của tình thương.
Có nhiều hoàn cảnh, người môn đệ Chúa không được làm theo suy nghĩ của tự nhiên mà phải theo suy nghĩ của tình thương.
3. “Chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá”. Khi trả lời Chúa Giêsu như thế, một đàng các tông đồ nghĩ là không thể làm gì được để giải quyết cơn đói của đám đông mấy ngàn người, và đàng khác có lẽ các ông nghĩ số lương thực ít ỏi đó nên dành cho nhóm của họ và Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu bảo “Hãy đem lại đây cho Thầy” : Ngài không muốn người ta ai ai cũng ích kỷ lo cho riêng mình. Ngài dạy phải vừa quảng đại vừa phó thác vào Ngài : hãy đưa cho Ngài để Ngài làm phép lạ giúp ích cho nhiều người.
4. Một người hồi giáo làm nghề đập đá có thói quen vào đền thờ cầu nguyện với Đức Ala. Ngày nào anh cũng thấy một con chim cú mù đứng bất động trên vách tường trước mặt và một con chim cú khác mang thức ăn đến cho nó. Cảnh tượng ấy làm cho anh suy nghĩ : “Đấng Ala quan tâm lo lắng cho cả một con chim cú mù. Còn ta, tại sao ta phải luôn luôn lo lắng về của ăn hằng ngày. Ta phải biết phó thác cuộc đời cho sự quan phòng của Đấng Ala”. Thế là anh bỏ nghề và ngày ngày đến trước của đền thờ để chờ được Đấng Ala chăm sóc như Ngài đang chăm sóc cho con chim cú mù.
Một người bạn biết chuyện, đến khuyên : “Tôi nghĩ là anh chưa hiểu được đều mà Ala muốn nói với bạn qua hình ảnh hai con chim. Ngài không hề muốn bạn trở thành con chim cú mù, nhưng hãy học lấy tấm gương chia sẻ của con chim cú lành mạnh” (Chờ đợi Chúa)
5. “Chúa Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ và theo Người.” (Mt 14,13)
Không biết từ lúc nào, tâm hồn tôi trở nên thờ ơ với việc cầu nguyện : thờ ơ vì những dễ dãi, vì sự lười biếng của chính mình. Những buổi tối đáng ra phải dành cho Chúa, tôi ngụy biện : mình mệt mỏi hay còn nhiều bài học... mà thực ra không phải lúc nào cũng vậy. Tôi mất dần sự đối thoại với Chúa vá đôi khi tôi cảm thấy Chúa nhật vời xa. Những lúc nguyện cầu (như một thói quen !) tôi vẫn để tâm đến những gì xảy ra xung quanh với cảm giác mong muốn nhanh nhập cuộc.
... Những người Do Thái khi nghe biết Chúa Giêsu đến một nơi hoang vắng, đã không quản ngại đường xa để đến với Người với cả lòng nhiệt thành. Và Chúa đã ban cho họ những điều vượt quá lòng họ mong ước. Còn tôi, đã biết phải gặp Chúa ở đâu, đã tham dự thánh lễ và đã rước cả mình thánh chúa ; vậy mà tôi vẫn không nhận ra được điều quý giá này : có Chúa ở đó với ơn lành của Ngài. Phải chăng sự dễ dàng đến những “nơi gặp Chúa” khiến tôi thực sự không gặp được Người ? Lạy Chúa, xin cho con ý thức được Chúa là bánh nuôi sống con và đó là ân phúc vượt lên mọi điều con đang mong ước. Và xin cho con (trong một ý nghĩa nhỏ bé nhất) được là bánh tan hoà với anh em. (Hosanna)
Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa thật, nhưng ngài cũng còn là một con người có quả tim rung động: TN18-A30
Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa thật, nhưng ngài cũng còn là một con người có quả tim rung động, đềy lòng trắc ẩn, trước những đau khổ của chúng ta.
Thánh Matthêu đã ghi chép trong bài Tin Mừng ta vừa nghe: Ra khỏi thuyền, người thấy dân chúng đông đảo thì thương xót họ, và vì sợ để họ ra về đói lả, sau khi đã nghe Bg giảng, Ngài đeã hóa bánh ra nhiều để nuôi họ.
Các Thánh tử đạo của chúng ta, không phải chỉ hy sinh mạng sống mình để chu toàn giới răn mến Chúa, mà các ngài còn luôn biểu lộ lòng bác ái trong cuộc sống đối với đồng loại.
Gia phả con cháu của ông Phạm Trọng Tả (tử đạo ngày 13-1-1859, 59 tuổi) có chép: “Đầy tớ ông rất đông, chưa tết ông đã đi thăm viếng từng nhà, và cho tiền mừng tuổi rất hậu. Số tiền ấy thường gấp đôi số quà họ biếu ông trong năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa; nếu túng thiếu, ông cho luôn. Dân trong làng nợ ông, ông cũng hay châm chước như thế. Bà vợ cằn nhằn thì ông trả lời: Mình quên nợ người, Thánh Chúa quên nợ mình.”
Các ông Tả, Khảm, và Thìn bị bắt và giải về Nam Định, và sau này được giam chung với nhau. (Coi Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm)
Sau bốn tháng rưỡi bị giam, một hôm quan báo cho biết là ba người đã bị án xữ giảo (án bị xiết cổ)
Ngày 13 tháng 1 năm 1859, ngoài ba vị Án Khảm, Cai Tạ, và Cai Thìn còn có bảy giáo hữu khác cũng thuộc xứ Quần Cống được đưa ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định và bị xử giảo.
Các tín hữu xứ Quần Cống đi thi thể các anh hùng tử đạo về quê mình và tổ chức an táng trọng thể.
Trong những ngày tháng ở tù, Cha Luca Vũ Bá Loan (tử đạo ngày 5-6-1840, 84 tuổi
được rất nhiều người thăm nom tiếp tế. Quà biếu nhận được, ngài luôn luôn sẵn sàng chia sẻ cho lính và các bạn tù.
Trước ngày bị trảm quyết, hai ba giáo xứ nài nỉ Cha Vũ Bá Loan làm tờ di chúc thi hài sau khi chết cho giáo mình. Cha chỉ Mẹ Maria cười và nói:
“Xác tôi cũng là tro bụi, chết rồi cũng tanh họi cho giòi bọ rúc rỉa, các ông xin làm chi?”
Thế nhưng Cha cũng nhận lời ký giấy trao thi thể mình cho họ Chuôn Trung, xừ Kẻ Chuôn (Hà Đông), tức là họ đạo có người giúp cha trong tù, được lo liệu mai táng.
Vũ Bá Loansinh năm 1756 ở họ Bút Quai, thuộc Giáo xứ Bút Đông (Hà Nam). Qua nhiều năm học tập tại Phú Đa và Kẻ Bèo (Hà nam), và sau khi thụ phong Linh mục, Cha Loan đến giúp Giáo xứ Nam Xang(Hà Nam) 6 tháng, rồi về giúp Cha già liêm xứ Kẻ Vôi (Hà Đông). Năm 1828, khi Đức Cha Longer Gia chia xứ Kẻ Vôi làm hai, thì Cha Loan nhận xứ mới là Kẻ Sổ cho tới ngày bị bắt.
Cha Loan chăm chú nhiều công việc giảng dạy. Các mùa chay, mỗi ngày Cha giảng ba lần. Bài giảng của Cha ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, và rất thực tế với những chỉ dẫn áp dụng cụ thể trong cuộc sống. Cha ít dùng lý luận, Cha nói bằng kinh nghiệm bản thân mình về Đấng Cha đã gặp gỡ thực sự trong kinh nghiệm và Thánh lễ.
Khi cầu nguyện Cha quên hết mọi chuyện chung quanh, dù ai gấy tiếng động sát bên, cũng không ảnh hưởng tới Cha. Thánh lễ Cha cử hành rất trang nghiêm, khoan thai, cung kính đặc biệt. Một thầy giảng góp ý xin Cha dâng lễ lẹ lên một chút như các Linh mục khác. Cha đáp: “Không được con ạ, lễ Misa là việc cao trọng nhất trần gian. Không có gì đáng để chúng ta cử hành Thánh lễ một cách vội vã. Việc thờ phượng Chúa cần phải làm cho trang nghiêm số sắng”. Sau Thánh lễ, Cha quỳ lại lâu giờ trước Thánh Thể để cảm tạ Chúa. Cha thường xuyên đi thăm viếng người nghèo khổ bệnh tật, Cha không quản ngại nuôi vài em hiền lành nhanh nhẹn, cho ăn học, chuẩn bị chức Linh mục tương lai. Cha nhiệt tình hướng dẫn nhiều tín hữu sống thân thiện bác ái, giúp đỡ mọi người, dù có đạo hay không.
Một đặc điểm khác nơi Cha Loan là lòng khiêm tốn trong phục vụ. Khi Đức Cha gởi Linh mục phó xứ về Kẻ Sổ, Cha tín nhiệm, khích lệ và nâng đỡ tận tình. Cha nói: “Xin trao phó mọi sự cho Cha, tôi đã già, lại chậm chạp. Xin Cha săn són nhà cửa, người giúp việc và coi sóc cả tôi nữa.” Tuy được giáo dân sẵn sàng trợ cấp mọi nhu cầu cần thiết, nhưng Cha Loan tự giới thiệu cho mình. Cha muốn sống nghèo theo gương Đức Kitô, và ngài cũng luôn luôn nghĩ tới cảnh túng thiếu của dân chúng. Áo quần, Cha mặc cho đế sờ rách, vá trên, và dưới mới chịu dùng cái hác. Ăn uống, , Cha ăn những món ăn bình dân. Khi đi giảng ở đâu, nếu ai dọn mâm sang cỗ đầy một chút là được Cha tỏ thái độ liền. Thừa sai Jeantet Khiêm nói về Cha như sau: “Nhận xét các Cha Loan làm từ khi chịu chức Linh mục đến ngày tử đạo, tôi thấy có lẽ trong hàng Linh mục Việt Nam từ trước đến nay không ai sánh kịp.”
Có hai người là Bá Hội Kiểng ở làng Bún và đô Cang ở phố Vồi, cả hai đều ngoại giáo, bấy giờ đang chờ xét xử vì tội phạm pháp. Họ bàn tính với nhau đến bắp Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là ngày 10-1-1840 tại họ Kẻ Chuân (Hà Đông), khi Cha vừa dùng cơm xong, họ giả làm khách đến nhà thăm Cha, rồi mời Cha xuống thuyền chở thẳng về làng Bún. Các tín hữu nghe biết tin đến xin chuộc , họ đòi 2000 quan, Cha Loan thương giáo hữu nghèo, Cha nói: “Các anh đòi 200 quan may ra còn liệu được, chứ bạc ngàn thì vô phương.” Bà hộ Kiểng định hạ giá xuống, nhưng Đô Cang không chịu, vì muốn có cơ hội để được giảm án cho mình.
Hai người đem nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không nhậ, họ phải đưa thẳng lên Hà Nội. Vừa đến công đường, quan tổng đốc chỉ thẳng mặt hai người mắng rằng: “Quân dại dột, sao chúng bay can tâm bắt người hiền lành đạo đức, đáng tuổi cha ông chúng bay thế này?”. tuy nhiên vì nhà vua đã ra lệnh bắt đạo, và việc đạo trưởng Loan bị bắt đã công khai, quan đành phải ra lệnh giam Cha.
tuy phải ra tòa hai lần, nhưng Cha luô được các quan đối xử lịch sự và kính trọng mái đầu bạc. Các quan chỉ điều tra lý lịch và khuyên Cha lên đạp Thánh giá. Cha tìm cách nói khéo rằng: “Các Linh mục nuôi tôi và Đức Cha truyền chức cho tôi thì đã chết cả rồi. Chỗ tôi ở thì nay đây mai đó, nơi nào không chứa, tôi ẩn mình trong chùa nọ đình kia. Riêng việc khóa quá thì thưa quan, tôi là đạo trưởng làm sao tuân theo lời đó được?” Khi quan hỏi sai lại theo đạo ngoại quốc, Cha trả lời: “Tôi chẳng theo Chúa của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa trời đất, Chúa của muôn dân”.
Trong trại giam, Cha Loan không bị gông cùm, vì các tín hữu đút tiền cho lính canh và nói: “Cụ già quá rồi, có bảo trốn cũng chẳng đi đâu được, mấy anh cùm làm chi.” Lính thông cảm tuổi già nên không cùm cha một ngày nào. Một lần quan tổng đốc xuống trại giam thăm cha, dặn dò lính canh: “Cụ già tuổi tác, phải xử cho hẳn hoi, đừng cấm người ta vào thăm.” Nhờ thế trong những ngày tháng ở tù, Cha loan được rất nhiều người thăm nom tử tế. Quà biếu nhận được, Cha chia sẻ cho lính và các bạn tù, nên càng được mọi người quí mến.
Tuy không thiếu thôn vật chất, nhưng vì sức yếu tuổi già, lại phải ở nơi chật hẹp hôi tanh, sau một tháng tù Cha Loan trở bệnh nặng, chân phù sưng, cộng với căn bậnh suyễn kinh niên, làm Cha kiệt sức, nhiều lúc tưởng không ra tới pháp trường. Viên cái ngục thấy tội nghiệp, tâu trình quan cho một tín hữu họ đạo Chuôn Trung ở luôn trong ngục chăm sóc Cha cho đến ngày xử.
Quan tổng đốc hà Nội tuy kính trọng Cha, nhưng sợ triều đình, nên khi thấy Cha cương quyết không bỏ đạo, ông phải làm án xử trảm quyết. Vua châu phê và ra lệnh thi hành. Trước ngày xử, một giáo dân tìm cách đưa Cha tuấn vào ngục giải tội và trao Mình Thánh Chúa cho Cha.
Ngày 5-6-1840, lính tìnhnguyện cáng Cha già Loan ra pháp trường, nhưng Cha cám ơn và từ chối. Vì trời nắng gay gắt Cha chỉ chấp nhận cho hai tín hữu đi cầm lọng che. Viên quan giám sát chủ trì viên xử thấy Cha đi bộ cũng bỏ ngựa, trao cho lính hầu, rồi cùng đi ra Ô Cầu Giấy.
Tới pháp trường, quan nói với Cha: “Cụ muốn làm gì thì làm đi”.
Cha Loan quỳ xuống cầu nguyện, rồi vui vẻ đưa tay cho lính tráoi vào cọc.
Mười người lính được chỉ định chém Cha Loan bỗng trốn đâu hết. Để giải quyết vấn đề, quan sai một người lính xứ Nam tên Minh, người lý hình bất đắc dĩ đó đã đến vái lạy Cha Loan và biện bạch rằng:
“Việc vua truyền cháu phải làm, cụ xin xá lỗi cho, cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời, xin cụ nhớ đến cháu”.
Cha Loan gật đầu, rồi ra hiệu cho anh thi hành phận sự. Chỉ một nhát chém, Cha giã từ trần thế lãnh triều thiên tử đạo quanh vinh. Các tín hữu xô nhau, lấy áo thấm mú Cha. Theo tờ di chúc, giáo dân xứ Kẻ Chuôn đưa thi hài về họ Chuôn Trung an táng.
Don Quichotte ( nhân vật cùng tên với tác phẩm của nhà văn Cervantès người Tây Ban Nha mà: TN18-A31
Don Quichotte ( nhân vật cùng tên với tác phẩm của nhà văn Cervantès người Tây Ban Nha mà năm nay thế giới kỷ niệm 400 năm ngày phát hành ) đã là hình ảnh của những người không chấp nhận cái ác và bất công, cho dù “kẻ thù” của ông chỉ là những cái cối xay gió, nghĩa là những người, những việc không dễ gì nhận diện được trong xã hội, song lại hiện diện ở khắp nơi. Những ngày gần đây, nhân sự kiện những người dám chấp nhận rắc rối, nguy hiểm để bênh vực kẻ yếu và chống lại cái xấu, báo chí trong nước đã ví họ như những “Lục Vân Tiên” – nhân nhân vật chính trong truyện thơ cùng tên của cụ Nguyễn Đình Chiểu – với cuộc sống vẹn tình trọn hiếu lại đầy tinh thần nghĩa hiệp như quan niệm sống “của” chàng:
“Chữ rằng kiến nghĩa bất vi, làm người như thế cũng phi anh hùng”, và đúng theo quan niệm của người xưa về người quân tử: “uy vũ bất năng khuất”. Thấy cái sai mà không ngăn cản, thấy cái ác mà sợ sức mạnh, thấy cái xấu mà lẫn tránh đi, thấy điều đáng làm mà bỏ qua hoặc tránh né, đều là thái độ của những kẻ không xứng đáng. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ nhiều về thái độ “đùn đẩy” và tránh né trong cuộc sống.
Các con hãy cho họ ăn ! Câu nói này tưởng là nhẹ nhàng, song ẩn chứa lời trách móc của Chúa Giê-su đối với các môn đệ, bởi có ít là hai điều mà Chúa Giê-su không chấp nhận khi nghe câu nói “phủi tay”, thiếu trách nhiệm và không có chút tình thương từ các môn đệ.
Thứ nhất, rõ ràng là khi bỏ cả mọi sự – gia đình, công ăn việc làm... – để đi theo nghe Chúa Giê-su giảng dạy, dân chúng đã chứng tỏ niềm tin yêu của họ và họ tin vào quyền năng của Chúa sẽ không để họ bị đói khát, cho dù chưa ai biết được Chúa Giê-su sẽ làm gì với một đám người đông đúc như vậy. Chúa Giê-su không thấy niềm tin như thế nơi các môn đệ khi để cho sự lo lắng lấn át cả tâm trí mà quên cả những phép lạ Chúa đã làm, cho nên đã muốn giải tán.
Thứ hai, đó là việc thoái thác trách nhiệm, kiểu “đem con bỏ chợ”, khi các vị thấy và biết dân chúng đang đói và sẽ nguy hiểm đến tính mạng, nếu phải ra về trong tình trạng đói khát ấy. Làm môn đệ cũng đồng nghĩa là những kẻ thay Thầy đi đến với mọi người, mà tinh thần trách nhiệm, nhất là lòng thương cảm, tình người – chứ chưa nói đến tinh thần bác ái Tin Mừng – èo uột, mơ hồ, là điều không thể chấp nhận được. Làm sao người môn đệ Chúa, khi đến với người khác, lại có lòng dạ hẹp hòi, con tim chai sạn và đầu óc hẹp hòi và kém tinh tế, nhạy bén như thế ?
Chính các con hãy cho họ ăn: câu nói khiến ta liên tưởng đến “thức ăn” mà Chúa Giê-su trao cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly: “các con hãy cầm lầy mà ăn... hãy cầm lấy mà uống”, đâu phải chỉ để cho các vị, mà để qua các vị, mọi người cùng được “lãnh nhận mà ăn..., mà uống”. Câu cuối cùng của Chúa Giê-su không cho phép bất cứ hồ nghi nào: “...cho các con và nhiều người được tha tội”.
Chúa Giê-su muốn nhắn nhủ với các môn đệ và các Ki-tô hữu rằng: khi trao sứ mệnh cho chúng ta, Người cũng trao cho chúng ta cả số phận tha nhân, của mọi anh em ( và cả của kẻ thù ), để chúng ta đem hết tình thương, đem hết tinh thần phục vụ và bằng mọi nỗ lực của bản thân hoặc liên kết với nhau mà “cho họ ăn”, chứ không thể tìm cớ thoái thác bổn phận và càng không thể ỷ lại vào Chúa, trút sạch hết cho Chúa.
“Kiến nghĩa bất vi”: thấy điều nghĩa mà không làm, thì đã là sai đối với quan niệm chính nhân quân tử của người đời. Lấy ví dụ của Lục Vân Tiên, một mình đối đầu với cả bọn cướp hung ác. Nếu Lục Vân Tiên bỏ đi, thì dù lương tâm có thể ít nhiều áy náy, nhưng bởi “lực bất tòng tâm”, việc can thiệp sẽ quá nguy hiểm, cho nên chẳng ai trách cứ được chàng. Tất nhiên Lục Vân Tiên đã hành động, không so đo, không tính toán, cũng chẳng hề như một “anh hùng... rơm”, kiểu như Don Quichotte hay vì một động cơ nào khác. Lục Vân Tiên chỉ muốn thực hành những điều đã học trong sách thánh hiền: đạo làm người !
Như thế chưa đủ cho các môn đệ, các tín hữu của Chúa suy nghĩ và thấm thía hay sao ? Mà trong vô số tình huống của cuộc đời người môn đệ, là những điều “nghĩa”. Chúng ta sẽ “bất vi” ? Đâu rồi đạo làm con Chúa ?
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên chúa: TN18-A32
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Ðó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương. Nhìn thấy đám đông, Ðức Giê su chạnh lòng thương. Ðó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Ðám đông tội nghiệp đi tìm Ðức Giê su không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo.
Khi chạnh lòng thương, Ðức Giê su dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo "mốt". Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó có phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm. Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay : "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thày giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn". Ðó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Ðó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm : "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn". Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh ? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế : "Ơû đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá". Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó : "Ðem lại đây cho Thày". Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí.
Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Ðó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tụcï sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người.
Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tục ngữ Việt nam có câu : Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin mừng hôm nay không ?
2- Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ chưa ?
3- Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Bạn có nghĩ thế không ?
Nhân nhịp đi thuyết giảng lưu động trong những hoàn cảnh khác nhau, tôi ngộ ra rằng diện mạo cảnh: TN18-A33
Nhân nhịp đi thuyết giảng lưu động trong những hoàn cảnh khác nhau, tôi ngộ ra rằng diện mạo cảnh tượng bên ngoài có thể lừa dối. Thí dụ trong một cộng đoàn khá giả cũng có những cuộc đời rất tồi tàn nghèo khổ. Dĩ nhiên các cha xứ, các giám đốc trung tâm tông đồ, nhà cấm phòng biết rõ chuyện này hơn. Nhưng người rao giảng lang thang như tôi thường được nghe tâm sự mộc mạc sau bộ mặt vui tươi mà người ta trình bày với thiên hạ. Thường vài phút truyện vãn, chúng tôi bắt đầu được nghe kể: Người cha già gia đình này đang mòn mỏi vì bệnh Parkison chân tay run rẩy. Con trai người phụ nữ kia ly dị làm đau khổ cho cả đại gia đình. Người mẹ trẻ này có đứa con đau màng não. Em học sinh sáng dạ kia không có tiền lên đại học. Đôi vợ chồng đó lọc cọc không con. Người đàn ông trung niên ấy vừa chết vợ, một mình nuôi hai cô con gái ăn học vân vân và vân vân. Thường thì các giáo dân chia sẻ câu truyện của họ với tôi ở cuối nhà thờ sau buổi rao giảng hay trong phòng khách nhà xứ. Tôi thiết nghĩ những chỗ đó thuận tiện để thúc đẩy họ tâm sự và đưa Thiên Chúa vào câu truyện. Họ hy vọng Thiên Chúa nhìn qua các khủng hoảng và đau khổ của mình mà giơ tay cứu giúp. Vấn đề là: Tại sao Thiên Chúa cho phép những khốn đốn xẩy đến với những linh hồn tốt lành? Họ sợ hãi rằng Chúa phạt họ vì lỗi lầm nào đó? Họ thất vọng vì cảm thấy không được Chúa yêu thương nữa.
Ngay lúc này tôi không có khả năng đưa ra câu trả lời thoả đáng hay làm nhẹ bớt nỗi lo âu cố hữu của họ. Chính tôi cũng có những vấn đề của riêng tôi và giống như họ, tôi cũng thưa lên cùng Chúa, khi cuối cùng được đối diện với Ngài. Tôi đã học được rằng ở dương gian này không thể có bảo đảm mọi sự diễn tiến có lợi cho người tin kính. Thực chất cả hai loại người tin và không tin đều gặp những khó khăn như nhau. Vì thế đã có lời cầu nguyện kêu lên rằng: Chúng con ở nơi khóc lóc (kinh Lạy Nữ Vương). Tuy không có giải pháp dễ dãi cho những khó khăn của chúng ta, nhưng hy vọng bài đọc Kinh thánh Chúa nhật hôm nay không những đề cập đến chúng mà còn định hình và kiện cường đức tin của mỗi người qua nhiều lần nghe đọc. Chúng ta thực sự đang cư ngụ trong thung lũng đầy nước mắt. Khi tôi nhớ đến các vật lộn vì đức tin của mình và các đau đớn của kẻ khác, nhận được qua vô số cuộc truyện trò, thì tôi nghe như Thiên Chúa của Kinh thánh đang vỗ về an ủi tôi và đồng đạo của tôi, nhất là những lúc xem ra Ngài vắng mặt tại hiện trường. Tôi không hồ đồ tưởng tượng mà như thánh Phaolô tuyên bố với tín hữu thành Roma (bài đọc hai). “Thưa anh em, ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô? Phải chăng là gian chuân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, guơm giáo?...tôi tin chắc rằng cho dù sự sống hay sự chết, thiên thần hay ma vương qủi lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức lực nào…tách chúng ta ra khỏi lòng mến Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Nghĩa là sức mạnh của lòng mến Thiên Chúa còn vượt qua cả sự chết hay bất cứ quyền lực nào. Sức mạnh ấy được tỏ hiện nới Đức Giêsu Kitô. Bài đọc 1 củng cố thêm lòng tin cậy. Tiên tri Isaia thay mặt Giavê yên ủi tuyển dân đang trong cuộc sống lưu đày! “Đến cả đi hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây.” Lưu đầy cũng là cuộc sống của chúng ta hôm nay, khi đau khổ và vong thân tàn nhẫn đè bẹp số phận nhiều tín hữu, đến nỗi nẩy ra những thắc mắc về đức tin. Vị tiên tri đề cập thẳng thắn đến bản chất và lòng đoái thương của Thiên Chúa cho các câu hỏi nghi nan của chúng ta. Ông nói rằng: Thiên Chúa từng hứa nuôi sống những ai nghèo đói, bơ vơ, không phương tiện sinh sống. Lương thực Ngài ban không chỉ là những mẩu bánh, chén nước mà là bàn tiệc thịnh soạn với vô số của ăn thức uống, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trong văn hoá chúng ta mọi người phải trả tiền cho những thứ mình muốn, nhưng lương thực thực phẩm Ngài ban hoàn toàn miễn phí “Dầu không có tiền bạn cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu, mua sữa không phải trả đồng nào”. Nhưng chúng ta phải làm gì để lãnh nhận những thứ đó? Biết chạy đến với ai để được xếp chỗ trong bữa tiệc thịnh soạn? Vị tiên tri trả lời: Chạy đến với những người đói khát, vô gia cư “ Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mĩ vị”. Như vậy chúng ta biết phải làm thế nào rồi. Trong Thánh lễ hôm nay, trước bàn Thờ Chúa chúng ta hãy tự hỏi: Mình đã đối xử thế nào với tầng lớp hèn mọn trong giáo xứ? Đã thất bại ra sao trong bổn phận nuôi dưỡng cô nhi quả phụ? Nhu cầu nào trong đời sống thiêng liêng mà chính Thiên Chúa mới đủ khả năng thoả mãn? Khi đã nhận ra những khoảng trống trong cuộc đời mình, làm thế nào lấp đầy? Chắc chắn Thánh Thể sẽ cho chúng ta câu trả lời. Liệu chúng ta có vững tin như vậy, ngõ hầu dọn lòng sốt sắng lãnh nhận?
Xin cho phép tôi tiếp cận bài Tin mừng hôm nay với một chút khác thường. Cách đây phỏng hai năm, tôi theo dõi một loạt bài phóng sự trên radio về ngày lao động của Hoa Kỳ. Các bài đó ca tụng công nhân, nhất là các lao động chân tay. Mỗi kì về một loại lao động nặng nhọc. Một hôm phát ngôn viên tuyên bố: “Đây là chương trình công việc bẩn thỉu nhất trong thành phố New York”. Lời loan báo khiến tôi chú ý lắng nghe. Bạn có thể tưởng tượng công việc gì không? Đó là một phụ nữ làm việc giặt giũ cho một bệnh viện lớn. Những chiếc máy giặt khổng lồ, cồng kềnh, thời tiết ẩm thấp, nhiệt độ nóng bức và rất là bẩn thỉu. Những chiếc khăn trải giường, băng vải phòng phẫu thuật, quần áo các bác sĩ, y tá, bệnh nhân…xin tưởng tượng tiếp, hàng trăm ngàn món hàng ô nhiễm, vây máu, kim tiêm còn sót trong các túi aó. Khả năng lây bệnh rất cao, từ các bệnh nhẹ như cảm cúm đến các bệnh nguy hiểm như ho lao, aids, lậu, phong…Lương tháng cho những lao động tập việc rất thấp, chỉ đủ nuôi sống bản thân, mặc dù khả năng lây bệnh rất cao. Người phóng viên phỏng vấn một phụ nữ đến từ Dominica. Tiếng động ầm ầm của các máy giặt hầu như lấn át cuộc trò truyện. Nắng nóng mùa hè áp đảo, độ ẩm thấp lớn. Tôi mường tưởng bà vừa trả lời, vừa lau mồ hôi trán chảy xuống hai má, cằm, ngực. Họ hỏi bà tại sao nhận công việc này? Bà trả lời: “Để nuôi chồng con và bản thân. Chúng tôi mong ước chúng nó được học hành.” Thế đấy trái đất này đâu phải là Thiên đàng cho mọi người!
Lúc sau tôi bỏ nhà đi thăm một bệnh nhân của gia đình cũng ở nhà thương đó. Tôi gặp các y tá, y sĩ, bác sĩ trong những bộ quần áo tươm tất, sạch sẽ, trắng thơm. Vào phòng, là những khăn trải giường ủi phẳng, gấp nếp, đồ dùng gọn gàng ngăn nắp, khăn bông thơm tho, mọi sự đều hoàn hảo. Tôi nghĩ ngay tới người đàn bà vừa được phỏng vấn. Ai đã thực hiện những công việc đó? Bà ta không đơn giản lao động để nuôi bản thân và chồng con, bà làm nhiều hơn nữa: chăm sóc mọi người. Công việc thật cao cả. Không ai có thể chịu đựng vải vóc ô nhiễm, quần áo dơ bẩn của bệnh viện. Mọi thứ phải được khử trùng và sạch sẽ. Tôi nghĩ tới ngày Chúa nhật bà đi nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe công bố bài Tin mừng hôm nay. Liệu bà có phải là bạn hữu vời Chúa Giêsu không? thương xót và chăm sóc những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền, cho kẻ đói ăn, khát uống? Liệu bà có xem công việc mình giống như việc làm của Chúa Giêsu thực hiện cho những người bất hạnh trong thời đại Ngài? Liệu bà có ý thức công việc làm của mình là “bẩn thỉu nhất trong thành phố New York? Để giúp đỡ thiên hạ sống chết với đầy đủ nhân phẩm? Tôi cảm thấy xấu hổ khi so sánh mình với người phụ nữ đến từ Cộng Hoà Dominica. Đồng thời được an ủi vì những vải vóc sạch sẽ của bà. Khi thăm viếng thân nhân trong bệnh viện, tôi được bảo đảm người thân của mình luôn được chăm lo bằng những dịch vụ đầy yêu thường của các nhân viên sang hèn của nhà thương gồm cả người phụ nữ trên kia! Tôi nghĩ đó là cách cụ thể nhất chúng ta suy niệm bài Phúc âm. Rao giảng suông chẳng có hiệu quả gì nhiều! Có khi còn là viển vông.
Nói rộng hơn, chúng ta thường được Giáo hội khuyến khích cầu nguyện xin ơn kêu gọi. Dĩ nhiên mọi người đều hiểu là có thêm linh mục, tu sĩ nam nữ, phó tế, những người trực tiếp phục vụ Bàn Thánh. Nhưng từ cái nhìn khác tôi thiết nghĩ chúng ta chẳng bao giờ thiếu ơn gọi. Đã có vô số linh hồn tình nguyện hy sinh tiền bạc để làm việc ấy. Tuy nhiên có những thứ ơn gọi mà chúng ta bỏ quên. Những người phục vụ Chúa Giêsu như kiểu phụ nữ Dominica. Họ cũng cho kẻ đói ăn, khát uống, rách rưới ăn mặc, bệnh tật được chữa lành, đói rét được an ủi như Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ hôm nay: “Chính anh em hãy cho họ ăn, họ không cần đi đâu…” Liệu quí vị có đồng ý với tôi như vậy? Thế thì chúng ta hãy bắt chước các anh em lao động mệt nhọc, đừng đòi hỏi an nhàn, sung sướng. Trái lại xả thân phục vụ những số phận kém may mắn trong xã hội, ít là bằng cách không bóc lột họ tinh vi, vô thức. Hãy nhường cơm, sẻ áo cho con cháu họ. Chớ tàn nhẫn đối xử với họ bằng quyền nọ, lợi kia. Đặc quyền đặc lợi không phải dành để cho những người môn đệ của Chúa Giêsu. Chính Ngài cũng chẳng có những thứ ấy khi ở trần gian, mặc dầu là con Thiên Chúa. Ngài chịu đựng số phận nghèo hèn và luôn đấu tranh cho sự thật, giành lại nhân phẩm cho con người, nhất là hạng bần cùng, đói khát. Thực tế ơn gọi của mọi người là làm cho xã hội đầy đủ, hạnh phúc. Xin đơn cử thí dụ: Có bao giờ quí vị ướm hỏi một phụ nữ xem chị có muốn tham gia công tác hàng xứ không? Trong khi hàng ngày chị phải săn sóc cha mẹ già ở nhà dưỡng lão, cơm nước giặt giũ cho các cụ, báo cáo các bệnh tật với bác sĩ, mua bán những nhu cầu lặt vặt, thuốc thang khi trở giời, trái gió. Chị trả lời: Thưa xin kiếu, hiện giờ con phải chăm sóc cha me”. Đó cũng là một kiểu phuc vụ giáo xứ. Đúng vậy không? Mà còn hơn thế nữa chị đang thực hiện ơn gọi của mình theo như chỉ dẫn của Chúa Giêsu cho các môn đệ. “Họ không cần đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn”. Khi được hỏi về vai trò và trách nhiệm hàng đầu của mình. Các tín hữu ít khi nghĩ về công việc hàng ngày, họ cũng không mấy nhận ra tính chất thánh thiêng của công việc ấy. Họ nghĩ tới những bổn phận đâu đâu mãi tận trời xanh. Chúa Giêsu không mặc khải như vậy mà do giáo dục và thói quen giữ đạo truyền thống. Dụ ngôn người bị cướp đánh trọng thương nằm bên vệ đường từ Giêrusalem xuống Giericô cho chúng ta một thí dụ. Bàn thờ lúc ấy không còn ở trong đền thánh nữa, mà là ở việc chăm sóc cho người bị nạn. Chị phụ nữ Dominica trong hầm giặt giũ đã làm những công việc bẩn thỉu nhưng cần thiết, để giúp đỡ các bệnh nhân sinh hoạt tốt hơn, chứ không nguyên kiếm tiền nuôi chồng con và gia đình. Khi Chúa Giêsu rao giảng trong các hội đường do thái, Ngài thực hiện hầu hết các phép lạ ở ngoài nơi thờ phượng chính thức. Thí dụ phép lạ nhân bánh và cá lên nhiều hôm nay. Nó xẩy ra ở nơi “hoang vắng”. Thánh Marco nói ở trên đồng cỏ xanh (6,4). Như vậy nếu ngày nay Người thực hiện các phép lạ, chắc chắn không phải ở nhà thờ mà nơi đâu có thợ xây, ngư phủ, nông dân, công nhân, nghĩa là những chỗ Ngài tìm thấy hàng ngàn, hàng vạn kẻ ốm đau, bệnh tật, những người có nhu cầu thể xác, tinh thần, những linh hồn khốn cùng. Ngài thấy và cứu chữa họ. Kẻ đói được no, kẻ khát được uống, kẻ đau ốm được lành, kẻ khốn khổ được ủi an. Tất cả đều miễn phí, đúng như lời ngôn sứ Isaia tiên báo: cứ đến mà mua không phải trả đồng nào.
Bây giờ tới lượt chúng ta: Những ai chúng ta được giao trách nhiệm cho ăn, cho uống, chữa lành, săn sóc, ủi an, khích lệ? Và liệu chúng ta có thể làm việc ấy trong sinh hoạt nghề nghiệp hằng ngày? Doanh nhân sản xuất, chúng ta đưa ra những mặt hàng đủ tiêu chuẩn chất lượng. Người sửa chữa, chúng ta bảo đảm máy móc hoạt động bình thường như cũ. Làm dịch vụ, chúng ta đẩy công việc đến hoàn thành tốt đẹp. Công chức, chúng ta phục vụ dân chúng với lòng tôn trọng và nhân ái. Bất cứ công việc nào cũng có thể giúp đỡ và yêu thương tha nhân bằng tính cần cù và quan tâm của mình. Có bầu khí lạc quan của ơn thánh trong vấn đề này. Thiên Chúa của Isaia và Đức Giêsu hôm nay, nuôi dưỡng đám đông thì cũng Thiên Chúa ấy hiện diện trong các hoạt động của các môn đệ, khi họ vâng theo lời Đức Kitô: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn”. Amen.
Phụng vu Lời Chúa hôm nay diễn tả tình thương bao la của Thiên Chúa hằng dưỡng nuôi và bao bọc: TN18-A34
Phụng vu Lời Chúa hôm nay diễn tả tình thương bao la của Thiên Chúa hằng dưỡng nuôi và bao bọc dân Người được phản ảnh qua câu chuyện Phúc Âm Chúa Giêsu làm phép lạ 5 chiếc bánh và hai con cá nuôi trên 5,000 người.
Bánh và cá là những thức ăn rất phổ thông, rất bình dân và rất cần thiết.
Thời Chúa Giêsu, đi bộ hay đi lừa là phương tiện giao thông duy nhất. Người bộ hành đường xa phải mang theo bánh và cá để ăn dọc đường.
Bánh và cá nuôi dân chúng đi theo Chúa nơi hoang địa cũng như man na và chim cút xưa đã nuôi dân Israel trong sa mạc trên đường về miền đất hứa, xứ Canaan.
Khác với bữa tìệc mà người cha ăn mừng đứa con hoang trở về trong Luca 15, có thịt béo, có rượu ngon, có đàn ca xướng hát, hình ảnh bữa tiệc cánh chung. Còn chúng ta là lữ khách đang trên đường về quê thật là nước trời. Chúng ta rất cần bánh và cá.
Anh em hãy cho họ ăn.
Lời Đức Giêsu phán năm xưa với các môn đệ vẫn còn là một lệnh truyền với mọi thành phần dân Chúa hôm nay và tại đây.
Hãy cho họ ăn. Vậy họ là ai?
Thưa họ là cộng đồng dân Chúa trong xứ đạo chúng ta.
Họ là những em học sinh của thầy cô giáo trong lớp học.
Họ là con tôi, cháu tôi ở trong gia đình.
Họ là tất cả những người chung quanh tôi, họ thảy đều là con Thiên Chúa và là anh em của tôi.
Chúng ta phải cho họ ăn.
Chắc có người đã đọc bản nghiên cứu của Hội Đồng Giám Mục Anh (18/07/ 2005). Tại sao người ta không đi lễ ngày Chúa nhựt như trước kia nữa?
Bản nghiên cứu ghi nhận: có nhiều lý do mà một trong những lý do ấy là vì không ai quan tâm đến họ, họ không cảm nhận được tình cộng đoàn trong xứ đạo nữa.
Họ đang đói. Và họ cần những thức ăn gì? Câu trả lời thật quá dễ dàng.
Ngày nay, trên xứ Mỹ này không ai chết vì thiếu ăn mà người ta chết vì ăn nhiều quá, ăn không đúng cách và ăn nhầm những thứ độc hại.
Họ đói bánh và cá tình thương, họ đói một tình yêu liên đới. Họ cần một tình yêu chia sẻ.
Qua phép lạ trên, Chúa Giêsu không dùng quyền năng của Người khiến bánh từ trời rơi xuống cũng không biến đá trở nên bánh mà Chúa chỉ dùng 5 chiếc bánh và 2 con cá sẵn có do các môn đệ tìm được trong đám đông. Rõ ràng là Chúa cần sự cộng tác của con người, cho dù là rất nhỏ bé. Chúa cầm lấy bánh và cá, chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, rồi các môn đệ trao cho mọi người và mọi người trao cho nhau. Lúc bấy giờ phép lạ mới xảy ra. Ai nấy đều ăn no nê, phu phỉ mà còn dư 12 thúng.
Cho đi để rồi nhận lại, nhận lại một cách dồi dào và sung mãn.
Đó là hình ảnh Bí tích Thánh thể. Cử chỉ bẻ bánh là một đặc trưng của Chúa Giêsu và của giáo hội. Chúa là tấm bánh, bẻ ra, bẻ chính mình Người, bẻ chính sự sống của Người cho ta vì yêu thương ta.
Cùng một thể thức ấy, vị mục tử là tấm bánh bẻ cho đoàn chiên. Thầy cô giáo là tấm bánh bẻ ra cho học trò. Người cha là tấm bánh của gia đình. Vợ chồng là tấm bánh của nhau. Mỗi người là tấm bánh bẻ ra cho nhau.
Mẹ Theresa, Calcutta thực sự là tấm bánh của những người cùng khốn nhất ở bên xứ Ấn độ.
Và gần đây hơn, Đức Gioan Phao lồ II quả là tấm bánh đã nuôi giáo hội công giáo hơn ¼ thế kỷ.
Bẻ ra và trao cho nhau bánh và cá mình hiện có, là những gì mà Chúa đã ban cho ta, cho dù là rất bé nhỏ, tài năng, trí tuệ, sức khoẻ, thời giờ, tiền của và có khi chính mạng sống mình nữa để rồi Chúa dùng nó mà làm nên phép lạ.
Có một gia đình đạo đức kia tối nào cũng cầu nguyện trước khi đi ngủ. Một hôm người cha cầu nguyện lớn tiếng rằng:
-Lạy Chúa, xin hãy đến viếng thăm cứu giúp người hàng xóm của con vừa mới gặp tai nạn chiều nay.
Đứa bé 10 tuổi vội ngắt lời.
-Chuyện nhỏ mà cha! Phiền đến Chúa làm gì? Sáng mai cha đến thăm bác ấy đi.
Người cha quả có lòng thương người, biết quan tâm và cầu nguyện cho ông bạn hàng xóm của mình, nhưng đến viếng thăm và an ủi người mắc nạn mới chính là miếng bánh của hiện thực
Nhớ lại lời Chúa Giêsu trối lại trong khi lập Bí tích Thánh thể, chúng ta tiếp tục cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Ước chi cộng đồng chúng ta là hình ảnh của Chúa Giêsu Thánh thể thật sống động, thánh thiện, hợp nhất và yêu thương.
Ấy là chúng ta đã đáp lại lệnh truyền của Chúa: Chính anh em hãy cho họ ăn. A men.
Ngày xưa, Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ: TN18-A35
Ngày xưa, Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”, đây là một lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Ngài, bởi vì Ngài biết rằng các môn đệ không có gì cả, ngay cả năm cái bánh và hai con cá cũng chỉ là của người khác, thế nhưng Ngài vẫn cứ ra lệnh cho các môn đệ làm theo lời Ngài, tức là lãnh đạo dân chúng và cho họ chia thành nhiều nhóm và ngồi với nhau cùng ăn bánh và cá do Ngài thực hiện.
Thực ra không phải các môn đệ cho dân chúng ăn no nê, nhưng là chính Chúa Giêsu, chính Ngài biết những nhu cầu của mỗi người đã từ bỏ tất cả để theo Ngài và nghe lời giảng dạy của Ngài, nên đã thưởng cho họ và không để họ bụng đói trở về. Chúa Giêsu đã làm cho năm cái bánh và hai con cá trở nên nhiều để cho hơn năm ngàn người ăn, nhưng Ngài quy việc làm này cho các môn đệ của Ngài : chính anh em hãy cho họ ăn, để các tông đồ nhận thức rằng, chính họ phải có trách nhiệm không những về phần linh hồn mà cả phần xác đối với những người đi theo Chúa Giêsu, tức là những người Kitô hữu trên khắp hoàn cầu.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta -những người Kitô hữu- rằng : “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”, khi nói như thế Chúa Giêsu đều biết rõ chúng ta không có gì cả để cho họ, nhưng Ngài muốn mỗi người môn đệ của Ngài phải có sự quan tâm với người khác, chung quanh mình, rồi mọi việc Ngài sẽ lo cho :
- Có những vị chủ chăn dù công việc mục vụ ngập đầu ngập cổ, đã đi khắp nơi để xin lòng bố thí của các con cái phương xa giàu có, để làm một cái gì đó ấm lòng các linh mục già nua đã cống hiến đời mình cho Giáo Hội và cho các linh hồn, tấm lòng bao dung, yêu mến, khiêm tốn của các ngài chắc chắn sẽ được Thiên Chúa trả công xứng đáng.
- Có những vị chủ chăn đau lòng trước những nghèo khó của giáo dân, nên đã gõ cửa nơi những nhà hảo tâm để xin họ trãi rộng lòng bác ái, giúp đỡ những giáo dân nghèo khó cùng cực, Chúa Giêsu cũng sẽ làm cho có rất nhiều người sẵn sàng mở rộng con tim của mình để giúp họ.
Và có rất nhiều người Kitô hữu cũng đã thực hiện lời Chúa Giêsu dạy, họ đã rộng tay giúp đỡ người nghèo cách hào phóng, họ đã cộng tác với Chúa Giêsu cho người khác ăn, vì họ nghĩ rằng Thiên Chúa ban cho họ có tiền bạc là để thay mặt Ngài giúp đỡ những anh em cần giúp đỡ.
Anh chị em thân mến,
Lệnh truyền của Chúa Giêsu : “anh em hãy cho họ ăn” vẫn văng vẳng bên tai chúng ta, khi mắt chúng ta nhìn thấy những cảnh tội nghiệp của những người chung quanh mình, Chúa Giêsu biết rất rõ chúng ta không có gì để cho anh chị em ăn, nhưng Ngài vẫn cứ muốn chúng ta có tâm hồn hào hiệp, quảng đại, bác ái với tha nhân.
Cứ cho đi, cứ làm như Chúa Giêsu mong muốn, chúng ta sẽ thấy mình rất giàu có : giàu có tình thương; cứ làm đi như lời Chúa Giêsu truyền, Ngài sẽ làm thay cho chúng ta khi chúng ta vươn tay ra với anh chị em chung quanh mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 18 thường niên tại nhà thờ Thánh Tâm-Taiwan.
Đầu mùa hè năm nay, các thày của Đại chủng viện Hà nội được gửi đến thực tập tại các trại phong: TN18-A36
Đầu mùa hè năm nay, các thày của Đại chủng viện Hà nội được gửi đến thực tập tại các trại phong, trong chương trình mùa hè xanh với chủ đề : “Đi tìm khuôn mặt Đức Kitô”.
Các thày đến sống giữa anh chị em bệnh nhân, cùng làm, cùng ăn với họ. Và nhất là cùng chia sẻ tâm tư tình cảm với họ. Sự hiện diện của các thày làm cho các cụ bệnh nhân được an ủi. Các cụ tâm sự rất nhiều. Có cụ bị bệnh từ 60 năm nay. Sáu mươi năm bệnh là 60 năm biệt tích không bao giờ về gia đình. Không bao giờ liên lạc với gia đình. Có cụ có con cái. Nhưng con cái không bao giờ nhắc đến các cụ. Không bao giờ đến thăm các cụ. Trong mùa hè này, tại trại Phú bình có một cụ qua đời. Để tang chỉ có 2 vành khăn trắng. Người phụ trách cho biết như thế đã là an ủi lắm, vì thông thường đám tang trong trại phong chẳng có vành khăn tang nào. Thật là cô đơn.
Vì thế khi các thày đến sống với các cụ, các cụ thường xuyên lui tới thăm hỏi các thày. Và lạ lùng là chính các cụ lại đem quà tới biếu các thày. Những góimì tôm, những quả trứng mà các cụ nhận được từ những đoàn công tác thiện nguyện, các cụ để dành để biếu các thày. Một thày chia sẻ : một buổi sáng, vừa mở cửa phòng đã thấy một cụ đứng chờ. Hai bàn tay đã rụng hết các ngón phải khó khăn cầm mớ quà gồm 4 gói mì tôm và 4 quả trứng. Cụ nói : Tôi không có nhiều. Chỉ có 4 gói mì và 4 quả trứng do các ân nhân tặng. Cho mỗi thày một gói mì và một quả trứng. Thấy tấm lòng của các cụ như thế, các thày cảm động ứa nước mắt. Các cụ nói : chúng tôi bị mọi người lãng quên, loại trừ. Nay các thày đến với chúng tôi, sống chân tình như người thân, thật không gì quí bằng.
Hôm các thày hết công tác trở về, cả trại ra tiễn đưa các thày. Một cụ già 90 tuổi đã yếu, quanh năm suốt tháng chỉ ở trong phòng, hôm ấy cũng nhờ người đưa ra tận xe để tiễn chân các thày. Các cụ lớn tuổi rồi mà khóc như mưa. Chia ly thật là buồn thảm.
Qua chia sẻ của các thày, ta nhận thấy, chung quanh ta hiện nay còn nhiều người đói khát. Đói khát cơm bánh đã giảm. Hiện nay khó có người chết đói. Nhưng đói khát tâm tư tình cảm, đói khát văn hóa, đói khát thiêng liêng còn rất nhiều. Các cụ trong trại phong không còn đói khát cơm bánh nữa. Nhưng các cụ đói khát tình người. Các thày đến, dù không làm được gì cho các cụ, chỉ sống bên cạnh và truyện trò với các cụ thôi thì các cụ đã hạnh phúc lắm rồi.
Đó chính là ý nghĩa của phép lạ hóa bánh ra nhiều trong bài Tin mừng hôm nay. Qua phép lạ hôm nay, Chúa muốn dạy ta mấy điều sau đây :
1. Phải quan tâm tới người khác. Chúa Giê su nhìn thấy đám đông đói khát, bơ vơ, bệnh tật thì thương họ.
2. Phải có trách nhiệm với họ. Thương không thôi chưa đủ, còn phải có trách nhiệm lo cho họ nữa. Tình thương phải biến thành hành động cụ thể. Như Chúa Giêsu đã nói : “Các con hãy lo cho họ ăn”.
3. Phải chia sẻ. Chia sẻ là nhường lại một phần cần thiết của bản thân. Chia sẻ là giúp đỡ theo khả năng, trong tầm tay. Dù chỉ có mấy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, cũng có thể chia sẻ được.Và Chúa đã làm phép lạ từ mấy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ nhoi đó.
Phép lạ không chỉ là lấp đầy bao tử của hơn 5 ngàn người. Phép lạ còn là làm cho dân cảm thấy được yêu thương, được an ủi, được nâng đỡ, không còn cảm thấy bơ vơ, bị loại trừ ra ngoài lề xã hội nữa. Phép lạ là biến đổi tâm hồn các tông đồ và những người có của biết quan tâm chăm sóc tới người khác. Phép lạ đó là dạy chúng ta biết chia sẻ những gì nhỏ bé trong đời sống chúng ta. Chỉ những cái nhỏ bé cũng nói lên tâm tình yêu mến và đem lại niềm vui.
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông, của sự chia sẻ. Ta hãy biết quan tâm tới những người chung quanh ta. Biết bao người đang đau khổ, đang cô đơn, đang buồn tủi. Chúng ta có thể làm giảm nỗi buồn của họ khi biết thông cảm, an ủi, hoặc đơn sơ chỉ là một ánh mắt thân thiện, một nụ cười, một cái bắt tay cũng đủ. Đó là những tấm bánh tình thương làm no thỏa những tâm hồn cô đơn buồn tủi đang tràn đầy trong xã hội dư thừa của cải hiện nay. Bánh tình thương cho đi sẽ không bao giờ hết. Càng chia sẻ lại càng hóa ra nhiều. Càng bẻ ra càng nhân lên gấp bội. Có khả năng nuôi dưỡng mọi người trên thế giới.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã đến trần gian chia sẻ kiếp sống của chúng con với tất cả những buồn vui sướng khổ của kiếp người. Xin cho chúng con noi gương Chúa, biết chia sẻ với anh chị em chung quanh con để làm vơi bớt những đau buồn của họ. Amen
Trước đám đông đang đói mệt, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Các con hãy cho họ ăn đi. Dĩ: TN18-A37
Trước đám đông đang đói mệt, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Các con hãy cho họ ăn đi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu có thể bảo đám đông đi tìm kiếm thức ăn trong các làng mạc lân cận, hay dùng quyền năng của mình để cho mỗi người được no đủ. Nhưng Ngài đã không hành động như vậy. Ngài đã giữ dân chúng lại và yêu cầu các môn đệ giúp đỡ.
Từ hình ảnh các môn đệ đi phân phát bánh cho đám đông chúng ta có thể nhận ra vai trò của Giáo hội trong thế giới hôm nay.
Thực vậy, Thiên Chúa đã giữ nhân loại lầm than ở gần mình. Ngài có thể trực tiếp can thiệp cho mỗi người. Nhưng Ngài đã không làm như thế. Trái lại, Ngài đã thiết lập Hội Thánh và nói với mỗi phần tử của Hội Thánh ấy như sau: Hãy tiếp tục ban phát chân lý và sự cứu độ cho nhân loại. Bởi đó, mỗi người chúng ta phải lo tới cái đói của người đời, cũng như phải lo tới việc mang lương thực thiêng liêng đến cho họ.
Chính Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục, trong Tông thư đề ngày 15.5.1971 đã cố gắng khơi dậy trách nhiệm và ý thức nơi những người Công giáo trước những cơn khủng hoảng của xã hội. Ngài viết: Trong các xáo trộn và bất ổn của thời buổi hiện nay, Giáo hội có một sứ điệp đặc biệt phải loan báo và một sức mạnh nâng đỡ phải cung cấp cho con người đang gắng sức làm chủ và định hướng tương lai cho mình. Ngày nay sự kiện lớn mà mọi người phải ý thức đó là vấn đề xã hội mang tính chất toàn cầu, một ý thức đổi mới về các đòi buộc của sứ điệp Phúc âm, khiến Giáo hội cảm thấy có bổn phận đặt mình phục vụ con người để giúp con người thấyu hiểu mọi kích thước của vấn đề trọng đại này.
Những lời trên của Đức Thánh Cha gợi lên trong chúng ta ít nhất hai câu hỏi: Câu hỏi thứ nhất, đó là chúng ta có ý thức được rằng ngày nay sống công bằng cũng chính là một hình thức sống bác ái và yêu thương hay không?
Câu hỏi thứ hai, đó là chúng ta có ý thức được rằng hành động hữu ích cần diễn tiến trong tình liên đới, nghĩa là trong sự hiệp nhất các Kitô hữu, chứ không phải trong sự phản kháng lẫn nhau hay không?
Ngoài ra trong lãnh vực xã hội, Giáo hội muốn chu toàn bổn phận của mình đó là soi sáng các tâm hồn, giúp họ khám phá chân lý và con đường phải theo giữa biết bao nhiêu học thuyết đang lôi cuốn con người thời nay.
Bởi đó, Giáo hội đã gửi đi những vị tông đồ, những nhà truyền giáo. Nếu nhiệm vụ của hàng giáo phẩm là giáo huấn và cắt nghĩa các nguyên tắc luân lý phải tuân giữ trong lãnh vực trần thế, thì vai trò của giáo dân là dùng những sáng kiến của mình để làm cho tinh thần Kitô giáo thấm nhập vào não trạng và phong hóa, luật pháp và cơ cấu của cộng đồng họ đang sống.
Bởi đó chúng ta thử kiểm điểm lại xem: Chúng ta đã làm được những gì để thực hiện mục đích ấy? Chúng ta đã thực sự phân phát lương thực cho những người đang đói. khát hay chưa? Không phải chỉ đói của ăn vật chất, nhưng còn đói của ăn tinh thần, đói tình thương, đói văn hóa, đói giáo dục và nhiều thứ đói khác nữa đang chồng chất trong cuộc sống của họ.
Một tường thuật viên bóng rổ khi thấy đội bóng của mình ở lượt thứ chín đã đánh hụt để thua:TN18-A38
Một tường thuật viên bóng rổ khi thấy đội bóng của mình ở lượt thứ chín đã đánh hụt để thua trong khi họ đã có nhiều cơ hội dẫn trước. Anh ta nhìn và nói: “Mời bác”, tiếp đó anh nói thêm một câu buồn cười: “Lại quá đã rồi”. Thật sự lối diễn tả trên không có nghĩa là anh ta xem thấy điều gì xảy ra nữa nhưng đúng hơn những lời đó ám chỉ đến minh họa, một sự không đáng có mà trước đây người ta đã có kinh nghiệm từ trước rồi và kinh nghiệm đó mới thật sự.
Một người công giáo nghe bài Phúc âm hôm nay về việc hóa bánh ta nhiều nuôi năm ngàn người phải bị cám dỗ để thốt lên: “Quá đã” để bộc lộ tâm tình của mình. Chúng ta cử hành hy tế Thánh Thể vào mỗi Chúa nhật. Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta thấy những hành động, chúng ta nghe Lời Chúa là thành phần của thánh lễ. Khi thánh Mathêu viết Phúc âm của ngài, các cộng đoàn Kitô hữu đã thực hành việc cử hành hy tế Thánh Thể vào mỗi Chúa nhật, giống như chúng ta làm hôm nay vậy. Ngài trông đợi kể lại cho những thính giả của ngài những gì Chúa Giêsu đã làm ở một nơi hoang mạc, những gì mà họ đang thực hiện trong các cuộc hội họp của họ.
Thánh Mathêu viết: “Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, và các môn đệ trao chúng lại cho dân chúng”. Có gì giống với điều linh mục nói và làm tại thánh lễ, khi trao Thánh Thể cho các thừa tác viên phân phát Bánh Thánh cho dân chúng?
Dĩ nhiên những gì Chúa Giêsu đã làm nơi hoang mạc thì không phải là Thánh Thể, vì khi đó Người chưa thiết lập bí tích Thánh Thể cho đến đêm trước ngày chịu nạn. Những gì Chúa Giêsu đã làm tại bữa Ăn Tối sau hết với các môn đệ tụ họp chung quanh Người thì cao cả hơn nhiều so những gì Người đã làm để nuôi năm ngàn người ăn no. Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có phúc hơn những người đã được đặc ân bởi đã chứng kiến phép lạ kỳ diệu ấy. Thánh Thể là một tặng ân quý giá ban cho chúng ta là những người công giáo. Giá trị của tặng ân ấy không thể đo lường được. Không bao giờ chúng ta xứng đáng để lãnh nhận tặng ân được ban cho cách nhưng không. Chúng ta có thể tránh sai lầm và thật sự lớn lên trong môi trường thích hợp, bằng cách cho phép những khía cạnh của cuộc sống nhắc nhở chúng ta về bí tích Thánh Thể như bài Phúc âm hôm nay đã làm.
Khi chúng ta cảm thấy đói và khát, chúng ta sẽ không chỉ nghĩ đến bữa ăn kế tiếp mà cả lần rước lễ kế tiếp nữa. Khi chúng ta vui hưởng một bữa tối với gia đình hoặc với bạn bè chúng ta sẽ cho phép những ngày lễ hội hướng tâm trí chúng ta đến việc cử hành hy tế Thánh Thể. Khi chúng ta mua một miếng bánh hay một chai rượu vang, chúng ta sẽ nhớ đến Chúa Giêsu đã lấy những yếu tố bánh và rượu thế nào để biến đổi chúng ta thành Thịt và Máu Người trong thánh lễ. Khi chúng ta đọc thấy những món ăn thường ngày, chúng ta sẽ nhận ra rằng Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một của ăn nuôi dưỡng hoàn hảo cho đời sống thiêng liêng chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Thánh Thể giá trị như thế đối với chúng ta vì đó là của ăn vô giá. Nói cách khác, giá trị của Thánh Thể chúng ta không thể đo lường được. Tiếp đây, chúng ta sẽ nghe lời mời gọi của tiên tri Isaia: “Các bạn là những người không tiền, hãy đến, hãy lấy bánh mà ăn”. Đây là một lời mời gọi dân chúng ta đang từ cuộc lưu đày trở về để dự phần vào tình yêu Thiên Chúa. Thông thường trong Cựu Ước hay dùng hình ảnh ăn hay uống với nhau, như là một dấu hiệu Giao ước của Thiên Chúa, giao ước tình yêu của Người.
Chúng ta vui hưởng bí tích Thánh Thể cao cả này, là thân mình Chúa Giêsu ban cho chúng ta và Máu Người là giao ước mới và vĩnh cửu. Chúa Giêsu là thực phẩm và là thức uống thiêng liêng của chúng ta. Thánh Thể không phải là “mời bác, quá đã”. Mà đó là một thực tại cao cả của đức tin nơi người công giáo chúng ta.
Chúa Giêsu biết những cái đói của con người, Ngài nhìn đám đông với cặp mắt tinh tế của tình:TN18-A39
Chúa Giêsu biết những cái đói của con người, Ngài nhìn đám đông với cặp mắt tinh tế của tình yêu khiến bừng dậy nơi Ngài lòng trắc ẩn của Thiên Chúa: Tôi sẽ cho anh em bánh ăn, và còn hơn thế nữa chính tôi là bánh mà anh em đang hết sức đói khát.
Một cách kín đáo, tác giả Tin Mừng làm ta nghĩ đến Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Đó là đề tài chúng ta sẽ suy niệm: phải chăng chúng ta sẽ chịu lễ vì cơn đói mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể làm dịu đi được?
Có lẽ chúng ta đã được đào tạo để nghĩ một cách khác: “Bỏ lễ là phạm một tội trọng”. Khi người ta không còn sợ cái tội này nữa, người ta sẽ hết đi lễ. Tôi ít thấy các bạn trẻ đi lễ chỉ vì bị bắt buộc. Họ sẽ đi lễ nếu người ta khơi dậu được nơi họ sự đói khát.
Khi luật buộc đi lễ ngày ngày Chúa nhật liên kết với cái đói Thánh Thể, luật buộc đó sẽ là điều tốt, nó tăng thêm cái đói, nó bổ túc cho cái chán ăn tạm thời. Nhưng luật buộc cũng có thể che đậy sự thiếu vắng cái đói, khi ấy người ta chỉ còn giữ luật vì thói quen, vì câu nệ vào luật. Bây giờ nếu không ai đi lễ nữa, ta sẽ phải nhắc lại luật buộc hay khơi dậy cái đói?
Phép lạ hoá bánh ra nhiều và vấn đề có nhiều người bỏ đi lễ đặt chúng ta trước cái đói của người khác. Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta đi lễ mỗi Chúa nhật, và có khi mỗi ngày? Nếu chúng ta đi lễ mà không cảm thấy đói khát muốn ca ngợi Chúa, muốn kết hợp với hiến tế của Chúa Kitô và muốn sống bác ái yêu thương như Ngài, chúng ta sẽ chỉ làm một việc không có giá trị đích thực và sẽ chẳng đón nhận được Chúa Kitô.
Để được Chúa nuôi dưỡng, chúng ta cần phải có một đức tin rất tỉnh táo, vì thế mà chúng ta được chuẩn bị bằng việc sám hối và bằng những lời tuyên xưng đức tin. Người tín hữu phải sống với hai thực tại. Trước hết là thực tại của cuộc đời: làm việc, nghỉ ngơi, những lo toan, những yêu thương và những nỗi khổ. Và thực tại của Thiên Chúa. Đó không phải là hai thực tại đặt bên cạnh nhau hay đối nghịch nhau như ta có thể nghĩ. Không có Thiên Chúa, thực tại của cuộc đời sẽ nghèo nàn, bị đóng kín và nặng nề. Được xâm nhập bởi thực tại của Thiên Chuá, cuộc sống chúng ta sẽ triển nở không có giới hạn và được biến đổi.
Những điều đó chúng ta đã biết cả, nhưng chúng ta lại quên đi mau chóng và Bánh sự sống chẳng nuôi dưỡng chúng ta được bao nhiêu. Nếu lúc này chúng ta không cảm thấy muốn ăn, chúng ta hãy khơi dậy niềm tin, chúng ta sẽ lại cảm thấy đói khát thực tại của Thiên Chúa và chúng ta sẽ biết tại sao mình đi lễ. Luôn luôn cái thực tại làm chúng ta thấy đói. Nhưng thực tại của cuộc sống đang có đấy, rất cụ thể, nó gợi lên cả ngàn cái đói, trong khi đó thực tại của Thiên Chúa, thường xuyên phải cần đến đức tin mới nhận ra được. Chỉ mình đức tin mới có thể nói cho chúng ta hay Thiên Chúa hiện thực hơn mọi sự tới độ nào, và khi đức tin nói cho chúng ta biết điều đó, chúng ta sẽ cảm thấy hết sức đói.
Người lui đến một nơi hiu quạnh": Động từ này (anachôrêô) thường thấy trong Mt (2, 12.13: TN18-A40
“Người lui đến một nơi hiu quạnh": Động từ này (anachôrêô) thường thấy trong Mt (2, 12.13.14.22; 4,12; 9,24; 12,15; 15,21) và luôn luôn diễn tả phản ứng của Chúa Giêsu khi thiên hạ không chịu tin Người. Ở đây Người rút lui trước sự cứng tin của quận vương Hêrôđê, kẻ vừa ra lệnh giết Gioan Tẩy giả.
"Và Người chữa lành các kẻ yếu liệt trong họ": Sau khi viếng Nadarét (13, 53-58), Chúa Giêsu ngừng giảng dạy dân chúng nhưng không phải vĩnh viễn xa họ. Họ vẫn luôn có đó và tiếp tục đổ xô đến bên Người. Như mục tử tốt lành mà Mt 9, 36 đã gợi lên hình ảnh, Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông. Nhưng người không còn giảng dạy, ngay cả nhờ các thừa sai, mà chỉ chữa lành các kẻ đau yếu. Ngoại trừ cuộc tranh luận với nhóm Biệt phái trong đó Người kêu mời dân chúng hãy xa lánh những kẻ này (15, 10-11), Chúa Giêsu không còn ngỏ lời ra với đám đông. Đây là một loại bỏ quan trọng của Matthêu, nhằm diễn tả một chủ ý thần học: ngày hóa bánh ra nhiều chỉ gồm có việc chữa lành các kẻ đau yếu, chứ không giảng dạy nhiều điều" (Mc 6,34) hay "nói về Nước Thiên Chúa" (Lc 9,11). Giờ phân biệt lúc này chẳng còn gì nữa, vì đã đến vào lúc Chúa Giêsu thực hiện các việc phi thường trước mắt người Do thái (ch.11-12) hay trong dịp giảng dạy bằng dụ ngôn (ch.15). Vì thế, dù trong cả phần này (các chương 14-17), đám đông còn đứng chen chúc đó, thì họ vẫn không còn có thể nghe sứ điệp của Chúa Giêsu; đối với họ, Người chỉ làm thêm phép lạ, vì hoạt động cứu thế của Người vẫn còn liên hệ đến họ luôn. Nhưng hoạt động ngôn sứ của Người đã chấm dứt, chấm dứt với nhận xét sau đây của Người khi bị khước từ ở Nadarét: "Một ngôn sứ chỉ bị khinh khi nơi quê quán mình". Rồi số phận bi thảm dành cho ngôn sứ Gioan Tẩy giả đến hoàn thành quyết định của Chúa Giêsu.
"Năm chiếc bánh và hai con cá": Bánh và cá là thức ăn căn bản của dân Galilê. Nhà nghèo ăn bánh lúa mạch, nhà giàu ăn bánh lúa mì.
"Đọc lời chúc tụng": Trước bữa ăn trong các gia đình Do thái, ông cha đọc một công thức khen ngợi và cám ơn Thiên Chúa về các ơn Ngài đã khấng ban. Sau đây là một ví dụ về lời chúc tụng kiểu đó: "Xin chúc tụng Ngài, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, là Vua vũ trụ, là Đấng làm cho đất nảy sinh cơm bánh". Chúa Giêsu là chủ gia đình của toàn dân vậy.
"Ai nấy đều ăn no và người ta cất mảnh vụn dư lại được 12 giỏ đầy”. Bữa ăn no nê nầy gợi lên bữa tiệc cánh chung mà Isaia đã tiên báo (Is 25,6; 55,1; 65,13); mười hai giỏ đầy mảnh bánh dư có lẽ ám chỉ đến 12 chi họ Israel; sự nghiệp của Chúa Giêsu lan rộng đến toàn dân chứ không dừng lại ở những kẻ thụ ân Người trực tiếp.
KẾT LUẬN
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, và phải được giải thích như thế. Chúa Giêsu ở giữa, Người là nguồn mạch mọi ơn, Người ban Lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ môn đồ. Họ ở kề bên Người, chuyển đạt các ơn của Người, nối dài cánh tay Người ra một cách nào đó. Còn dân được Chúa Giêsu quy tụ thì ngồi chung quanh, và vui mừng vì có Người hiện diện. Khi đọc lời chúc tụng, Người ngước mắt lên trời. Người làm các việc mà "Cha đã cho Người thực hiện" (Ga 5, 36). Người không còn là vị trung gian như Môisen xưa, song chính là Đấng ban sự sống, vì Người là nguồn mạch sự sống.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Cử chỉ của Chúa Giêsu nói lên quyền năng Người thi thố trên các yếu tố tạo vật; Người đang ở nơi nhà mình, trong cái thế giới "đã được dựng nên nhờ Người và cho Người" (C. l1,16). Việc Người hóa bánh ra nhiều là một cử chỉ sáng tạo nói lên mối liên hệ sâu xa giữa Người với Đấng tạo thành trời đất, và biểu lộ mầu nhiệm của bản thân Người vậy.
2) Ngày nay Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục hóa bánh ra nhiều, song bánh này đã trở thành một cái gì khác hơn là của ăn vật chất; chúng đã biến nên thân thể Người được ban làm lương thực cho nhân loại. Nhờ thế Người vẫn tiếp tục làm trung tâm của Dân mới mà Người đã quy tụ trong thuyền của Phêrô và phân phát cho họ sức mạnh, hy vọng và tình yêu trong phép Thánh Thể.
3) "Các con hãy cho họ ăn". Mệnh lệnh này của Chúa Giêsu vẫn luôn vang rền trong Giáo Hội. Người ngỏ nó với những đấng kế vị, các sứ đồ và mọi ai có trách nhiệm trên các linh hồn, kể cả các nhà giáo dục và phụ huynh Kitô giáo. Đó là phân phát cho hết thảy Mình Chúa Kitô và lương thực bổ dưỡng là Lời Người. Nếu các linh mục được chính thức ủy thác thi hành sứ mệnh ấy, thì giáo dân cũng được tham dự vào theo cách thế riêng, bằng cách dẫn đưa những kẻ mà họ có trách nhiệm coi sóc đến bàn tiệc Thánh Thể và dạy cho biết lời Chúa Kitô.
4) Như Chúa Kitô đã quan tâm đến các nhu cầu vật chất của quần chúng, thì các môn đồ người ngày nay cũng phải làm hết sức để xoa dịu các nỗi khốn khổ thể lý mà họ gặp phải, trước hết là cảnh đói nghèo. Việc “hóa bánh ra nhiều" hôm nay là một trong các bổn phận căn bản của Kitô hữu, bổn phận mà nếu cố gắng chu toàn thì họ sẽ được cứu độ: "Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, vì ... xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn" (25, 34-35). Nghèo nàn hoặc chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá, điều đó không quan hệ gì cả, miễn là ta biết bắt đầu san sẻ trong tinh thần đức tin. Chúa sẽ thực hiện những gì còn lại.
5) Ngay cả khi làm phép lạ, Chúa Giêsu cũng luôn đòi hỏi một sự hợp tác nào đó từ phía những kẻ kêu xin Người: thông thường là lòng tin, ở đây là năm chiếc bánh và hai con cá. Dù tài nguyên, năng lực, văn hóa, sức khỏe ta yếu kém Chúa Kitô vẫn sẽ dùng ta để thực hiện những việc kỳ diệu nếu ta hiến thân trọn vẹn cho Người.
Khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết chết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt.
-------------------------------
Cảnh hóa bánh ra nhiều mà chúng ta sắp đọc và xảy ra trong bối cảnh bi thảm: Đức Giêsu vừa:TN18-A41
Cảnh hóa bánh ra nhiều mà chúng ta sắp đọc và xảy ra trong bối cảnh bi thảm: Đức Giêsu vừa bị xua đuổi khỏi Nadarét (Mt 13,53-58) và vua Hêrôđê vừa mới giết chết Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Người (Mt 14, 1-12) Khi nghe tin cái chết thảm khốc ấy, Đức Giêsu "chạy trốn" vào một nơi hoang vắng. Trong năm Chúa nhật sắp đến, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu "chạy trốn", rút lui (Mt 14,13; 15,21; 16,13). Chúng ta thường quá tưởng tượng cho rằng Đức Giêsu như một người được thiên tính của Người để riêng ra. Thật ra Người chịu những cái đánh của số phận, bị liên hệ đến những biến cố mà Người đã không muốn. Phản ứng đầu tiên của Người là chạy trốn một mình.
"Người đến một chỗ hoang vắng riêng biệt..."
Sự ghi nhận này phải có một ý nghĩa cho chúng ta: các Kitô hữu - chẳng cần đôi lúc rút vào nơi riêng biệt đó sao? Phải chăng họ có thể sống đời sống Kitô hữu của họ mà thỉnh thoảng không gặp nhau ngày Chúa nhật? Phải chăng họ có thể không bị lây nhiễm bởi một thế giới ngoại đạo và vô thần nếu như họ không bao giờ biết rút lui ra chỗ riêng biệt, chỗ hoang vắng.
Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoạn người đông. đảo...
Thế là giờ đây Người đã bị đám đông đuổi kịp, Người chỉ ở riêng biệt khoảng thời gian đi thuyền qua họ, Người không làm cách nào để sống cô tịch được, Người bắt buộc phải gặp lại đám đông. Chắc chắn chúng ta phải suy niệm về đề tài những sự “bó buộc"? Thực hành đức vâng lời, trong những điều kiện sống thực của chúng ta, và cũng là vâng lời theo những ý định khôn dò của Chúa Cha, như thánh Phaolô có nói (Pl 2,8). Đó là điều mà chúng đã không tiên liệu. Điều xảy đến với chúng ta và làm đảo lộn những kế hoạch của chúng ta: Một cơn bệnh đến bất ngờ, một nỗi lo lắng mới, một trách nhiệm được đặt lên chúng ta, một cuộc thăm viếng, một cú điện thoai, một công việc được yêu câu, một sự hiện diện miễn cưỡng với những người khác, những đám đông mà chúng ta muốn chạy trốn.
Thì Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Chúng ta đã gặp từ này: "chạnh lòng thương"; "xúc động trong lòng": phải cho từ ngữ này tất cả sự phong phú của nó. Lòng "nhân hậu” không chỉ là lòng nhân từ hay tha thứ nhưng cũng là lòng thương xót chia sẻ nỗi đau khổ của người khác. Đức Giêsu không thể nhìn một ai đau khổ mà Người lại không xúc động, giống như bản năng của một bà mẹ đối với đứa con của mình.
Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm (nguyện gẫm)
Đức Giêsu "chạnh lòng thương". Hãy tưởng tượng ánh mắt, khuôn mặt, giọng nói, những cử chỉ dịu dàng đối với các bệnh nhân. Ngày nay cũng thế, Đức Giêsu cũng có những tình cảm thương xót như thế đối với mọi người đang đau khổ.
Chiều đến...
Cũng chính những chữ này mà Matthêu sẽ dẫn nhập vào Bữa Tiệc Ly (Mt 26,20) và việc mai táng Đức Giêsu (Mt 27,57). Các Kitô hữu tiên khởi có thói quen cử hành Thánh Thể như một "bữa ăn chiều”, một bữa tiệc ly. Ở bình diện tượng trưng, Thánh Thể xuất hiện với chúng ta như một "bí tích của sa mạc" trong đó chúng ta được ban cho một của ăn đi đường (Thánh Gioan sẽ nói đó là manna xuống từ trời để chú giải cùng một biến cố).
Đó cũng là bí tích của những đêm tối của chúng ta ở đó ánh sáng mầu nhiệm sẽ chiếu rọi đêm đen…
…Các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn !"
Đây là một giải pháp hoàn toàn "nhân bản" và "khôn ngoan". Theo gương Thầy mình, các môn đệ của Đức Giêsu trong suốt sứ vụ có thói quen tìm kiếm lương thực khi chiều xuống. Một cách tự phát các môn đệ đề nghị giải pháp giải tán đám đông. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu nhìn xa hơn. Đàng sau "bữa ăn trong sa mạc", có một mầu nhiệm nuôi đám đông bằng của ăn vật chất trong khi vẫn để họ đói một cách sâu xa; bởi lẽ con người không chỉ sống bởi bánh! Khi chạy theo sau Đức Giêsu, những đám đông ấy trước tiên không đến để ăn, nhưng bởi vì họ cảm thấy trong Người có một "sức mạnh" siêu nhiên: các đám đông ấy đói Thiên Chúa, họ đói Đức Giêsu? Và không bao giờ một cái bánh mà họ mua ở chỗ này hay chỗ khác trong các làng mạc có thể làm cho họ no thỏa.
Nhưng Đức Giêsu bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả chính anh em hãy cho họ ăn".
Không! Không có Đức Giêsu, không thể có giải pháp. Không phải bỏ đi mà đám đông sẽ tìm được sự no thỏa.
Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !" Các môn đệ cũng rất tử tế. Họ thấy việc họ phải làm nhưng họ không có những phương tiện để thực hiện. Hầu hết thời gian, chúng ta cũng giống y như họ. Cái mà các môn đệ có sẵn thật nực cười: năm cái bánh và hai con cá.
Người bảo: "Đem lại đây cho Thầy !"
Thiên Chúa cần có những con người góp một tay. Biết rõ điều mình sẽ làm, hẳn Đức Giêsu có thể hoàn toàn không cần đến những cái bánh đáng thương và vô nghĩa ấy. Thiên Chúa cần đến tôi… Hãy đặt những phương tiện nghèo nàn của con người trong tay Chúa! Và lạy Chúa? Con đang hình dung trong sự nguyện gẫm của con năm cái bánh nhỏ tội nghiệp ấy và hai con cá nhỏ đơn sơ ấy, trong đôi bàn tay của Chúa!
Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ.
Rõ ràng đây cũng là những động tác, cử điệu dùng để mô tả lại bữa Tiệc Ly trong ngày thứ Năm Tuần Thánh (Mt 26,26). Không một tình tiết nào trong đời sống của Đức Giêsu lại có tính chất xác quyết như thế: các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Khi người ta biết được vị trí của Thánh Thể trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, người ta không còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện trong đời sống của Đức Giêsu.
Khi thực hiện những động tác này, Đức Giêsu có thái độ của người cha trong gia đình đang chủ tọa một bữa ăn. Không có bữa ăn của người Do Thái nào mà không có "sự chúc lành" bánh … mà không có hành động tạ ơn Thiên Chúa (chữ "hành động tạ ơn" dịch ra tiếng Hy Lạp là “eucharistia").
Sau đây là lời "chúc lành" mà các người Do Thái sùng đạo hôm nay vẫn luôn luôn đọc: "Chúng con chúc tụng Đấng ban cho chúng con lương thực nuôi sống chúng con vì lòng nhân từ của Ngài. Lạy Chúa, Đấng Hằng Hữu, chúng con cảm tạ Ngài đã nuôi sống mọi tạo vật". Lương thực mà chúng ta ăn là một "hoa quả của đất đai và của lao công con người ". Nhưng trước hết nó là "một ơn của Thiên Chúa".
Hạt lúa mì trong đất sẽ không bao giờ cho ra một bông lúa nếu Thiên Chúa không cho nó lớn lên. Nền văn minh kỹ thuật của chúng ta sau cùng đã quên đi chân lý sơ đẳng ấy. Vả lại, không có gì tự nhiên cho bằng cầm một mẩu bánh mì trong đôi tay, hoặc một bát cơm, một củ khoai mì để làm dịu cơn đói của mình? Thế mà hỡi ôi, chúng ta biết rằng "lao động con người" không đủ để nuôi sống mọi người, và nền kỹ thuật công nghiệp của chúng ta có thể trở thành một công cụ của tính ích kỷ và sự nô dịch con người: Những chủ nghĩa duy vật không có Thiên Chúa, từ Đông sang Tây đã quên mất "lời chúc tụng" cũng đã trở thành những kẻ phá hủy nhân phẩm con người.
Đức Giêsu còn có nhiều điều để nói với chúng ta, khi chính Người chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban lương thực hàng ngày, và đã bảo chúng ta cầu xin "lương thực hàng ngày".
Người trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông.
Tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh ở đây vai trò của các tông đồ: chúng ta đã có một phục vụ đích thực.
Ở đó các tông đồ đóng vai trò nhiều hơn công việc của một người phân phát. Họ tham dự vào chính công việc của Đức Giêsu và làm như Người. Họ là những người làm trung gian giữa Đức Giêsu và dân chúng.
Đức Giáo Hoàng trong thông điệp tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Lộ Đức nhắc lại vai trò thiêng liêng của các linh mục: "Các linh mục đã nhận lãnh bí tích truyền chức đảm nhận ở giữa dân Chúa gồm những người đã chịu phép Thánh tẩy vai trò của Đức Kitô, là Đầu của Giáo Hội Người: tác vụ thiêng liêng của họ là cần thiết để biểu thị rằng việc "bẻ bánh" được họ thực hiện là một ơn nhận được từ Đức Kitô hoàn toàn vượt qua quyền lực của cộng đoàn".
Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mêsia trong Kinh Thánh (Đệ nhị luật 6,11; Thánh Vịnh 132,15; Is 65,10).
Trang Tin Mừng này đang tra hỏi chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng Đức Giêsu qua cử chỉ quảng đại ngày hôm đó, đã không loại trừ được cái khốn cùng to lớn của nạn đói trên thế giới. Ở đây giá trị nổi bật không phải là khía cạnh mầu nhiệm, phi thường mà là ‘dấu chỉ’ Đức Giêsu đã làm . Vả lại, điều được biểu thị qua dấu chỉ này chính là sự ân cần đầy lòng yêu thương của Đức Giêsu, Người đã chạnh lòng thương đám đông. Như thế mỗi bữa tiệc Thánh Thể phải trả chúng ta về những bổn phận chia sẻ trong tình huynh đệ: Đức Giêsu Kitô là tấm bánh được bẻ ra, được chia sẻ cho một thế giới mới!
Bối cảnh của đoạn Phúc Âm Thánh Mátthêu tường thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hoá bánh và:TN18-A42
Bối cảnh của đoạn Phúc Âm Thánh Mátthêu tường thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều lần thứ nhất hôm nay ( Mt 14, 13 – 21 ) được diển tả ra, bị ảnh hưởng bởi hai lý do:
Lý do thứ nhất: đó là biến cố Thánh Gioan Tẩy Giả bị xử trảm, khiến cho Chúa Giêsu và các môn đệ ra khỏi thành phố, lui về phiá sa mạc, nơi hoang vắng, có lẽ để tránh những phiền hà có thể xảy ra và cũng để có bầu không khí và thời gian củng cố lại can đảm của các môn đệ: “Nghe tin ấy ( tin ông Gioan bị chém đầu, Mt 14, 3 – 12 ), Chúa Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một nơi sa mạc” ( Mt 14, 13 ).
Lý do thứ hai khiến Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng, đó là lòng nhân từ thương yêu của Người đối với những thiếu thốn và bất hạnh của dân chúng: “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” ( Mt 14, 14).
Thánh Mátthêu, theo cách hành văn của ngài, không chú ý xác định một cách chính xác nơi chốn ở đâu biến cố phép lạ được xảy ra, cho bằng với những suy tư thần hoc, đặt nặng hơn ý nghĩa của biến cố để dạy bảo cho người đọc Phúc Âm của ngài.
Trước hết nơi hoang vắng hay sa mạc, bối cảnh nơi phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều được ngài ghi lại, có ý liên tưởng đến những bước đường trong thời gian lữ hành trong sa mạc của dân Do Thái, dân được Chúa chọn, trong thời gian được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, bước đi hướng về Đất Hứa.
Biến cố phép lạ bánh và cá trong Phúc Âm hôm nay làm cho con người liên tưởng đến lòng tốt lành của Thiên Chúa, qua các biến cố phép lạ để giữ gìn, ngoài ra việc bảo bọc Dân Chúa chọn khỏi những trở ngại, khó khăn, còn có phép lạ Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống.
Như vậy phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đoàn lũ dân chúng hôm nay có ý nghĩa cho thấy Chúa Giêsu tỏ mình ra cho mọi người Ngài là Thiên Chúa tốt lành, đại lượng của thời Xuất Hành ra khỏi Ai Cập, can thiệp để nuôi dưỡng và làm cho lớn lên dân chúng theo Ngài: nói lên cho dân chúng biết Ngài là Thiên Chúa yêu thương con người, ở bên cạnh con người với quyền năng giải thoát và sáng tạo của Thiên Chúa.
Với những ý nghĩa cố định vừa kể, đoạn Phúc Âm có thể được suy niệm dưới nhiều cách giải thích khác nhau, mà với thời gian các nhà thần học tìm cách chú giải, tùy theo mức độ nhạy cảm và nhãn quang mà các nhà nghiên cứu thần học, dựa vào Phúc Âm để suy nghĩ thành ý nghĩa..
Điều vừa kể cho thấy ý nghĩa của sứ điệp Phúc Âm, qua các suy niệm của người tín hữu Chúa Kitô, rất dồi dào, súc tích và đa diện, đáp ứng lại nhu cầu của cuộc sống con người.
1. Ý nghĩa Kitô Luận ( Christologica )
Đoạn Phúc Âm Thánh Mátthêu hôm nay, so với cùng một biến cố được Thánh Máccô thuật lại ( Mc 6, 30 – 44 ), diển tả một cách nổi bật địa vị và quyền năng của Chúa Giêsu, bằng cách thêm vào các động từ ở thì mệnh lệnh tính: “...không cần họ phải đi đâu cả” ( Mt 14, 16 ); “Đem ( bánh và cá ) lại đây cho Thầy” ( Mt 14, 18 ).
Những điều vừa kể nói lên quyền uy của Người. Người có quyền ra lệnh và tất cả tùy theo quyết định mà Người truyền dạy cho. Chúng ta lại càng có thêm nhiều yếu tố hơn để hiểu được căn tính ( identité ) của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Thiên Chúa toàn năng:
- Chúa Giêsu là vị Thầy giảng dạy cho dân chúng ( Bài Giảng Trên Núi, Mt 5, 1 – 12 ),
- Chúa Giêsu là Đấng có quyền phép loại trừ quỷ dữ và làm phép lạ chữa mọi bệnh tật, bất hạnh của con người ( Mt 9, 32 – 34; 12, 22 – 29; 8, 1 – 17; 9, 1 – 8; 9, 18 – 30... ),
- Chúa Giêsu là Đấng làm phép lạ bánh và cá nuôi dân chúng đói khát ( Mt 14, 13 – 21; 16, 32 – 39 ).
- Chúa Giêsu là Đấng làm cho kẻ chết sống lại ( Lc 7, 11 – 17; Ga 11, 1 – 44).
Phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều còn nói lên phép lạ có đặc tính thực hiện ngôn sứ, như những gì tiên tri Elia và Elisa đã làm trong Cựu Ước: “Vì Chúa là Thiên Chúa của Israel phán thế này: Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ không cạn cho đến ngày Thiên Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” ( 1V 17, 14 ). “Có người từ Balaan Salisa đến, đem bánh đầu mùa biếu cho người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Elisa nói: “Phát cho người ta ăn". Nhưng tiểu đồng hỏi ông: Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được ? Ông bảo: “Cứ phát cho người ta ăn !" Vì Thiên Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư. Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn mà vẫn còn dư, như lời Chúa phán” ( 2V 4, 42 – 44 ).
Và nhứt là đoạn Phúc Âm Thánh Mátthêu tường thuật phép lạ hôm nay có ý ám chỉ buổi tiệc khoản đãi của Đấng Cứu Thế. Đặc tin vừa kể được khởi đầu tương tợ như trong sách tiên tri Samuen: “...vua Đavít nhân danh Thiên Chúa các đạo binh chúc phúc cho dân. Rồi vua phân phát cho toàn dân, cho tất cả dân Israel, đàn ông cũng như đàn bà, mỗi người một cái bánh ngọt, một phần thịt và một cái bánh nho” ( 2Sm 6, 19).
Lòng mong đợi Đấng Cứu Thế làm cho dân chúng đọc lại biến cố vừa kể, xác nhận rằng nhà Vua Cứu Độ tương lai sẽ là Vị bảo đảm lương thực đầy đủ cho dân mình. Giờ đây, sau khi Thánh Gioan Tẩy Giả mất đi, Chúa Giêsu thực hiện những gì dân chúng đang mong đợi, xác nhận căn tính của Người, không phải bằng lời nói, mà bằng chính động tác của Đấng Cứu Thế, làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng. Một yếu tố khác nữa, nói lên Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đang được dân chúng trông chờ. Đó là trong khi các môn đệ muốn Chúa Giêsu “từ giã để cho dân chúng về” ( apolýo ), Người không muốn để họ ra về.
Hai cử chỉ tương phản có ý nghĩa đặc biệt. Thường thì người ta chỉ từ giã nhau sau buổi tiệc, nhưng động từ Hy Lạp “apolýo” cũng có ý nghĩa “ly dị", “xa cách vĩnh biệt”: “Ông Giuse là người công chính, không muốn tố giác bà nên ông mới định tâm bỏ ( apolýo ) bà một cách kín đáo” ( Mt 1, 19 ); “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy ( apolýo ) vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...” ( Mt 5, 31 ); “Có mấy người Pharisêu đến gần Chúa Giêsu để thử Người. Họ hỏi: Thưa Thầy, có được phép rẩy ( apolýo ) vợ mình vì bất cứ lý do nào không... Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” ( Mt 19, 3 – 6 ).
Đọc đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu đứng ra làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi dân, nói lên hình ảnh Người là Thiên Chúa hành xử trung tín, không bỏ bơ vơ, thất hứa đối với dân Người, như hình ảnh Thiên Chúa là vị hôn phu trung thành đối với Dân được Chúa chọn trong Cựu Ước . 2. Ý nghĩa Giáo Hội Học ( Ecclesiologica )
Ý nghĩa Giáo Hội Học cũng là một ý nghĩa trung tâm điểm của đoạn Phúc Âm, được nói lên bằng hai lần đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ: “Chiều đến, các môn đệ lại gần, thưa với Người: Nơi đây sa mạc và đã muôn rổi, xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Chúa Giêsu bảo: Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ). “Các ông đáp: “Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy” ( Mt 14, 17 – 18 ).
Hai lần đối thoại vừa kể được ghi lại để chuẩn bị cho cử chỉ phân phát bánh cho dân chúng, được diển tả một cách long trọng sắp đến.
Mối lo lắng của các môn đệ cho dân chúng, “chiều đến..., nơi đây sa mạc và đã muộn rồi...”, có lý do chính đáng của nó, là thái độ suy tư hữu lý tự nhiên của con người, nhưng Chúa Giêsu có ý nghĩ sâu xa hơn, đặt các ngài trước một trách nhiệm mới: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ).
Các môn đệ không biết làm sao để thực hiện được lời truyền dạy của Chúa Giêsu, bởi lẽ các ngài chỉ có “vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Nhưng Chúa Giêsu, bằng phép lạ, biến đổi “những gì ít ỏi, vỏn vẹn” mà các môn đệ có thể trao cho Người, thành dồi dào, dư thừa cho tất cả.
Cộng Đồng Giáo Hội là nơi chúng ta có thể có kinh nghiệm được những biến cố lạ lùng mà Thiên Chúa biến đổi sa mạc thành đồng cỏ xanh tươi và chăm lo cho dân Người, như thời Xuất Hành ra khỏi Ai Cập. “Nơi đây sa mạc và đã muộn rồi...” ( Mt 14, 15 ); “Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ...” ( Mt 14, 19 )
Kế đến, Thánh Mátthêu còn thêm vào tổng số người hiện diện hôm đó là năm ngàn người, chưa kể phụ nữ, trẻ em: “Số người có tới năm ngàn đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ con” ( Mt 14, 21 ).
Tất cả những chi tiết đó là những gì nhắc nhớ lại thời kỳ Xuất Hành: “Con cái Israel nhổ trại rời Ramses đi Succot, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông, không kể trẻ con” ( Xh 12, 37 ).
Trước hoàn cảnh vượt quá khả năng con người vừa kể, “vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá” để nuôi sống “số người có tới năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ con”, các môn đệ không còn có cách nào hơn là phó thác mình trong tay Chúa Giêsu, vâng lời làm theo những gì Chúa chỉ dạy cho và dâng cho Người những gì mình có được: “Đem lại đây cho Thầy” ( Mt 14, 18 ).
Bởi vì qua Chúa Giêsu, đoàn lũ dân chúng được biến thành một Cộng Đồng thông hiệp, trong đó không ai bị loại ra ngoài và mỗi người tìm được sự nâng đỡ cho đời sống của mình. Đó là hình ảnh tương lại của Cộng Đồng Giáo Hội.
Trong Cộng Đồng Giáo Hội đó, không phải chính Chúa Giêsu đứng ra phân phát cho dân chúng, mà chính các môn đệ. Điều đó nói lên vai trò nổi bậc của của các vị chủ chăn trong tổ chức Giáo Hội và vai trò trung gian của các vị để phục vụ Cộng Đồng Dân Chúa: “Họ không phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ).
3. Ý nghĩa luân lý – xã hội ( morale-socialis )
Ý nghĩa luân lý và xã hội của biến cố phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều là một trong những tư tưởng suy niệm nguyên thủy của đoạn Phúc Âm. Khi Chúa Giêsu bỏ chốn thành thị, lui vào sa mạc, các môn đệ và dân chúng cũng bỏ thành thị ồn ào náo nhiệt để đi theo Người. Đứng trước bối cảnh sa mạc lúc đó, Chúa Giêsu nói lên tư tưởng ngược lại thói quen thông thường của con người, sự đối nghịch giữa “mua” và “cho”.
“Mua” có nghĩa là trở lại lối sống xã hội mà Người, các môn đệ và đoàn lũ dân chúng vừa bỏ lại sau lưng để ra đi, có nghĩa là trở lại lệ thuộc vào cung cầu, giá cả, lợi nhuận của luật kinh tế, lệ thuộc trở lại vào các cấu trúc mạnh thế áp chế kẻ yếu kém, cấu trúc của bất công. “Cho” trái lại, là chấp nhận thật sự thực tại mới mà Đấng Cứu Thế đến để thiết lập giữa các ông.
Hiểu với một ý nghĩa tượng trưng đó, trở vào thành thị, làng mạc để “mua", là chọn lựa giữa việc trở lại dưới trạng thái nô lệ ở Ai Cập hay mạo hiểm vào Đất Hứa mới, nhưng chưa biết được chắc chắn; giữa nô lệ và tự do. Thực tại mới mà Chúa Giêsu đem đến, thực tại của con người tự do, với nhân phẩm cao cả của mình, được diển tả dưới hình thức một con người tự do “ngồi ăn", chớ không phải vừa bốc hốt, vừa ăn vừa chạy như người nô lệ để phục vụ ông chủ: “Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ...” ( Mt 14, 19 ).
Và thay vì là một đoàn lũ dân chúng vô trật tự và không người chăn dắt, “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”, ngồi xuống chung nhau như một cộng đồng, một nhóm người có tổ chức, trật tự, làm cho chúng ta nhớ lại dân Do Thái trên sa mạc dưới sự hướng dẫn khôn ngoan và vững chắc của Môsê: “Rồi anh hãy xem trong toàn dân, ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm người chỉ huy...” ( Xh 18, 21 ).
Như vậy Chúa Giêsu không chỉ có ý định can thiệp giải quyết cơn đói của dân chúng vào buổi chiều hôm đó, mà còn có ý mời gọi họ dự buổi tiệc mà Người đang dọn cho họ, biểu tượng và tiên báo cho bàn tiệc của Đấng Cứu Thế vào thời cánh chung, như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Ngày ấy, trên núi này, Thiên Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” ( Is 25, 6 ).
Hàng ngày, Cộng Đồng Kitô Giáo được mời gọi vào bữa tiệc Thánh Thể, nếm trước thực tại bàn tiệc của Đấng Cứu Thế của lời ngôn sứ tiên báo đó. Kế đến qua động tác tạ ơn mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha lời chúc tụng, vì được Chúa Cha ban bánh cho, là cử chỉ dạy chúng ta bánh vượt ra khỏi tầm quyền tư hữu của con người: bánh được xem là của Chúa ban cho, nói lên lòng rộng lượng và tình thương của Thiên Chúa đối với con người.
Và như vậy, cử chỉ các môn đệ phân phát bánh và cá cho dân chúng có ý nghĩa nói lên lòng rộng lượng yêu thương tiếp tục của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng vũ trụ. Khi các tạo vật được giải thoát khỏi lòng ích kỷ của con người, các tạo vật có thừa khả năng để đáp ứng lại nhu cầu của tất cả. Hiểu như vậy, biến cố phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng, suy niệm dưới nhãn quang liên hệ đến giai đoạn Xuất Hành, là biến cố được dùng để trình bày cho con người một khuôn mẫu Xuất Hành mới được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta: đất nô lệ là khuôn mẫu xã hội ích kỷ, con người được kêu gọi hãy bỏ ra đi.
Luật lệ của khuôn mẫu xã hội mới, mục đích mà cuộc Xuất Hành mới nhằm đạt đến là Lề Luật tinh thương, được biểu tượng dưới dạng thức cùng bẻ bánh chia cho nhau: đó là hình thức tiếp tục lòng rộng lượng và tình thương của Thiên Chúa đối với mọi người. T ạo vật được Chúa dựng nên có dư thừa sức để làm cho tất cả sống sung mãn. 4. Ý nghĩa tượng trưng ( symbolica )
Đọc đoạn Phúc Âm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều hôm nay theo ý nghĩa tượng trưng, phương thức các Giáo Phụ đã từng làm trong quá khứ, nhứt là với ý nghĩa tượng trưng cho Phép Bí Tích Thánh Thể. Phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều được đặt liên hệ với Buổi Tiệc Ly và chuẩn bị cho ý nghĩa Bí Tích Thánh Thể, biểu tượng cho tình yêu Chúa Giêsu hiến tặng tất cả con người của Người, nhân tính và bản tính Thiên Chúa, cho các môn đệ, cho chúng ta. Có rất nhiều yếu tố chi tiết rất quan trọng đáng được chú ý.
Trước hết hình ảnh con cá, ngay cả trong thời các tín hữu tiên khởi, đã là biểu tượng cho Phép Thánh Thể, cũng như bánh. Kế đến, một vài động tác đặc biệt của Chúa Giêsu cũng được các Giáo Phụ ghi chú và giải thích.
Chúa Giêsu dâng lời chúc phúc, mắt hướng lên trời, kế đến Người bẻ bánh và trao cho các môn đệ: “Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên Trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ” ( Mt 14, 19 ).
Các cử chỉ của Người là cử chỉ đơn sơ trong nghi thức chúc phúc của Do Thái, “berakah”, là lời chúc tụng tạ ơn mà hàng ngày người Do Thái lập lại trên bánh ở mỗi bữa ăn: “Lạy Chúa, xin chúc tụng Chúa, Vua thế giới, là Đấng đã làm cho bánh thoát xuất ra từ đất”.
Điều đáng chú ý là trong câu chúc tụng vừa kể của người Do Thái, không phải bánh là đối tượng được chúc phúc, mà Chúa, Đấng đã làm cho bánh thoát xuất ra từ đất.
Động từ “thoát xuất” làm cho ai nấy cũng nhớ lại cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập và cùng lúc tôn vinh Chúa là Đấng Tự Do, “Vua thế giới", có thể ban bánh bao nhiêu Người muốn và có thể biến ra nhiều bao nhiêu theo ý muốn của Người, nói lên sự tự do vô hạn và lòng rộng lượng bao la của Người.
Ngoài ra, động tác của Chúa Giêsu trong phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều hôm nay cũng chính là động tác được lập lại trong biến cố lập Phép Thánh Thể mà chúng ta quen thuộc: “Người cầm lấy bánh và hai con cá, ngước măt lên Trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ” ( Mt 14, 19 ).
Tất cả những phương thức suy niệm trên của các nhà thần học, giúp chúng ta thấu hiểu được tính cách súc tích, đa diện của sứ điệp Phúc Âm. Nhưng ước gì những cách học hỏi đó không làm cho chúng ta mất đi ý nghĩa nguyên thủy của phép lạ hôm nay: Chúa Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi dưỡng dân chúng đang trong hoàn cảnh cần thiết, thiếu thốn hôm đó.
Bổn phận tiền liệu để đáp ứng lại các nhu cầu của người anh em đang thiếu thốn, không có khả năng, là bổn phận không bao giờ được thiếu trong Cộng Đồng Giáo Hội. Bổn phận đó hằng ngày cũng được nhắc nhở cho chúng ta, mỗi lần chúng ta đọc Kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời... Xin Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ...”
Không phải chỉ xin cho “con”, mà “Xin Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ...": cho con và anh em con. Mối lo âu có đủ thức ăn cho tất cả phải là mối lo âu của mọi tín hữu Chúa Kitô, bắt chước Chúa lo lắng đến các nhu cầu của anh em mình. “Xin Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ”, phần con, ngồi bên cạnh anh em, con cũng không quên đưa mắt nhìn xem người anh em bên cạnh có thiếu lương thực không, để cũng chia xẻ cho anh em phần con có được.
Như vậy mới gọi là “yêu thương người thân cận như chính mình” ( Lv 19, 18 ), và nếu cần mình phải đứng ra chịu thiệt thòi của chính minh, hy sinh cho anh em, như vậy mới là “hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 13 ). Đó chính là điều răn mới ( Ga 13, 34 ), mà Chúa Giêsu dạy chúng ta.
Đức Thánh Cha Phaolô VI khuyến khích: “Ngày nay không ai có thể nói rằng tôi không biết ( những thiếu thốn của anh em ). Nói một cách nào đó, ngày nay không ai có thể nói rằng: “tôi không thể làm được, đó không phải là bổn phận của tôi. Đức bác ái dạy chúng ta đưa tay ra cho tất cả mọi người. Không có thể có can đảm để nói: Tôi không muốn” ( Đức Thánh Cha Phaolô VI, Bài giảng ở Colombia năm 1968 ).
Kế đến ngài khuyến dụ: “Đức Bác Ái thôi, đủ chưa ? Không đức bác ái thôi, chưa đủ, nếu đức Bác Ái không được tiếp theo sau đó bằng những đức tính khác, trước tiên là đức Công Bằng, là độ lượng tối thiểu của đức Bác Ái và là của các nhân tố khác để làm cho đức Bác Ái được thực hiện, động tác thực tế được chính đức Bác Ái cảm hứng và nâng đỡ, trong lãnh vực đặc thù khác nhau của thực tại con người và thực tại trần thế” ( Đức Thánh Cha Phaolô VI, id. ).
Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê.(Mt.14:19) Bạn thân mến!
Trên đây là tường thuật việc Chúa Giêsu thấy dân chúng vất vả, đói khát. Chạnh lòng thương, Ngài: TN18-A43
Trên đây là tường thuật việc Chúa Giêsu thấy dân chúng vất vả, đói khát. Chạnh lòng thương, Ngài: làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng.
Tin Mừng kể rằng: Sau một ngày đi theo Chúa, dân chúng đã bắt đầu đói khát. Khi trời đã ngả về chiều, các môn đệ xin Đức Giêsu cho đám đông được giải tán để dân chúng đi vào các làng mạc mua đồ ăn. Nhưng Ðức Giêsu đã nhắc nhở các ông về trách nhiệm của người môn đệ trước những nhu cầu của dân chúng . Ngài nói với các ông: 'Anh em hãy cho họ ăn.' Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá trong tay, làm sao các Môn Đệ có thể cho đám đông 5 ngàn người ăn no đủ? Kiếm đâu ra thức ăn cho đám đông dân chúng này đây ? Quả thật, đây là một khó khăn thiếu thốn khó gỉải quyết.
Nhưng Chúa đã ra tay, Ngài đã lấp đầy những khó khăn của con người, đã biến những thiếu thốn của con người thành dư đầy … Chúa đã ra tay, nhưng Ngài không muốn làm việc một mình, Ngài chỉ làm phân nửa và Ngài tế nhị mời gọi con người cộng tác trong phân nửa còn lại. Ngài để công việc còn phân nửa cho chúng ta tiếp tục. Cái 'phân nửa' là chỗ trống để cho tôi bước vào tham dự. Cái 'phân nửa' của Chúa thật là huyền nhiệm, sâu thẳm. Thiếu cái 'phân nửa' này tôi thiệt thòi biết bao!!!
'Hãy đem lại đây cho Thầy.' Ngài cầm lấy bánh và cá từ tay các môn đệ, nâng lên cao để dâng lên Thiên Chúa Cha, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, các môn đệ cũng bẻ ra trao cho dân chúng, và cuối cùng, chính dân chúng cũng bẻ ra và trao cho nhau. Chúng ta tự hỏi phép lạ đã xảy ra ở trên tay ai? Bánh và cá hoá ra nhiều trên tay người nào? Tin Mừng không nói Ðức Giêsu đã làm phép lạ để có một đống bánh và cá thật to, rồi các môn đệ cứ đến lấy mà phân phát. Tin Mừng chỉ nói Ngài bẻ bánh trao cho các môn đệ, rồi các môn đệ bẻ ra trao cho dân chúng. Chẳng mấy chốc, ai cũng có bánh ăn. Như thế, những tấm bánh từ tay Ðức Giêsu đã được 'Bẻ ra, trao đi rồi sẽ hoá ra nhiều'. Ðó là cốt lõi của phép lạ.
Vậy đừng sợ phải bẻ ra và trao đi sẽ làm hao hụt, sẽ bị thiếu thốn. Nếu giữ lại thì 5 chiếc bánh vẫn chỉ là 5 chiếc bánh, và 2 con cá vẫn chỉ là 2 con cá. Nhưng hãy 'Bẻ ra, trao đi rồi sẽ hoá ra nhiều.' Đó là lời mời gọi mà Chúa Giêsu gởi đến tôi và bạn trong bài Tin Mừng hôm nay.
Xin mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy nhìn đến những người xung quanh, họ đang đói: đói cơm bánh, đói sự thật, đói tự do, đói công bằng, đói yêu thương, đói cảm thông và tha thứ... Hôm nay Chúa mời gọi ta hãy 'Bẻ ra, trao đi rồi sẽ hoá ra nhiều' để mọi người được no đủ.
Hiến trao chẳng những không làm ta nghèo đi, mà còn làm ta được thêm giàu có, phong phú và trưởng thành. 'Bẻ ra, trao đi rồi sẽ hoá nhiều'. Hãy luôn tin tưởng như vậy bạn nhé !
***
Suy niệm về phép lạ hoá bánh ra nhiều. Tôi tự hỏi lòng mình: Tôi là ai trong bài Tin Mừng hôm nay ? Là khách bàng quang trong đám đông? Là người dân khát khao lời Chúa? Là môn đệ lãnh nhận bánh từ tay Đức Giêsu để trao lại cho dân chúng? Thực phẩm nào đã và đang nuôi dưỡng tôi ? Là tiền bạc cơm bánh? Là danh vọng chức tước? Là Lời Chúa và các Bí tích? Và thực phẩm nào đã giúp tôi được no thỏa, không còn đói khát nữa ?
Lạy Chúa! Ước gì con biết lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Ngài truyền dạy: 'Bẻ ra, trao đi rồi sẽ hoá nhiều'. Amen
Thánh Matthêu tường thuật biến cố hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu đã làm tôi vô cùng:TN18-A44
Thánh Matthêu tường thuật biến cố hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu đã làm tôi vô cùng xúc động, trong tâm tình của một giáo dân, khi thánh nhân lột tả được những rung động thâm sâu trong trái tim yêu thương của Chúa Giêsu bằng những hành động rất cụ thể, rất cô đọng và đầy xúc tích nhân bản cùng bộc lộ được chiều sâu tâm tư của Ngài về mầu nhiệm Tình Yêu Cao Cả và Vô Biên của Thiên Chúa: Mầu Nhiệm Thánh Thể và Mầu Nhiệm Chức Thánh Linh Mục.
Đọc đi đọc lại bài tường thuật trên, rồi cùng suy niệm và cầu nguyện, tôi thật sự rung cảm vì có quá nhiều người đến với Chúa, sau khi các Tông Đồ ra đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành nhiều người (Lc 9, 10). Trước hiện trạng có quá nhiều người nghèo khổ, khao khát say mê nghe Lời Chúa và mong mỏi được giải thoát khỏi khổ đau trong thân xác bệnh tật, đồng thới họ cũng vất vưởng không người chăn dắt, làm sao Người lại có thể chỉ ở riêng với các Tông Đồ thân yêu của Người cho đành! Làm sao Người có thể lui thủi xúc động một mình để tưởng nhớ đến cái chết của Gioan Tẩy Giả là anh họ và cũng là vị Tiền Hô cao trọng của Người! Hơn nữa, làm sao Người có thể gặp gỡ Chúa Cha trong cầu nguyện, khi mà sứ vụ của Ngài là phục vụ con người đang cần được Người chăm sóc ủi an!
Tất cả những chuyển động từ lời ‘nói về Nước Thiên Chúa” đến việc chữa lành “những ai cần được chữa” của Chúa Giêsu đều phát xuất từ trái tim “chạnh lòng thương” của Vị Mục Tử Nhân Lành. Chưa hết, khi mọi người vẫn say mê ở bên Người đến nỗi không màng gì đến cái đói vật chất thì, trong tâm trí của Người đã hé mở ra ý tưởng về “ngày đã bắt đầu tàn”, và cũng từ đó, Người khơi gợi cho các Tông Đồ về Mầu Nhiệm mà sau này Người sẽ thực hiện, bằng một lời nói mang chiều kích vĩnh cữu:
“ Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” (Mt 14, 16)
Theo Người, điều cần thiết quan trọng, với một “tình yêu đến cùng”, là phải ở lại với họ và tiếp tục ở lại với họ cho đến cùng tận. Mà để làm đựơc điều kỳ diệu vô biên này, Chúa Giêsu đã tỏ lộ không phải với những ai khác mà chỉ với Mười Hai Tông Đồ yêu dấu, như Người đã xác quyết: “Chính anh em hãy cho họ ăn.”
Như thế, theo cảm nhận của tôi, Chúa Giêsu đã truyền dậy các Tông Đồ hãy cho những người đói khổ đang theo Người những thứ mà chính Người đã, đang trao ban như Lời Người bởi:
“Thần Khí mới làm cho sống Chứ xác thịt nào có ích gì. Lời Thầy nói với anh em Là Thần Khí và là sự sống.” (Ga 6, 36)
Đặc biệt, mầu nhiệm mà Người sẽ trao ban cho các Tông Đồ chính là chức thánh Bẻ Bánh, để chỉ qua các ngài mà những người theo Chúa mới được ăn thứ Bánh Trường Sinh Mầu Nhiệm cả thể ấy. Trong sách Tông Đồ Công Vụ, thánh Luca cũng diễn giải:
“Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dậy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.” (Cv 2, 42)
Suy tới đây, với góc nhìn của một giáo dân đang cần được chăm sóc ủi an về phần tâm linh và siêu nhiên, tôi vô cùng kính yêu các linh mục, những người mà chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Nghĩa là chính các linh mục không chỉ cho họ ăn Bánh Lời Chúa, giúp đỡ họ vượt qua đau khổ mà còn phải cho họ ăn Bánh Trường Sinh là Mình Máu Thánh của Người. Chính các linh mục thực hiện “Lễ Bẻ Bánh” như các Tông Đồ thi hành vào thời Giáo Hội sơ khai.
Thật lá cao quí Chức Thánh Linh Mục! Ước gì các ngài yêu như Chúa Giêsu Linh Mục yêu bằng trái tim “chạnh lòng thương” mà qua bài Tin Mừng hôm nay Người nhắc nhở và mời gọi tha thiết!
Chúa Giêsu đã trao vào tay các ngài Mầu Nhiệm Thánh Thể của Người. Chỉ có các bậc được thánh hiến này mới tiếp tục làm cho Chúa Giêsu hiện diện thật sự sống động nơi trần gian này với tất cả quyền năng vinh hiển. Bởi vì Chúa Giêsu đã mặc khải tận sâu thăm thẳm Tình Yêu Vô Biên Ấy:
“Tôi là Bánh Hằng Sống tử trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ đựơc sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, Chính là thịt tôi đây, Để cho thế gian đựơc sống.” (Ga 6, 51)
Sau này, trong thông điệp gửi Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Lộ Đức, Đức Thánh Cha đã nhắc lại vai trò thiêng liêng của các linh mục:
“Các linh mục đã nhận lãnh bí tích truyền chức đảm nhận ở giữa dân Chúa, gồm những người đã chịu phép thánh tẩy, vai trò của Đức Kitô, là Đầu của Giáo Hội Ngài. Tác vụ thiêng liêng của họ là cần thiết để biểu thị rằng việc “bẻ bánh” được họ thực hiện là một ơn nhận được từ Đức Kitô hòan toàn vượt qua quyền lực của cộng đoàn.”
Nhìn lại đời mình, tôi cảm tạ Chúa Giêsu Thánh Thể của tôi vô cùng. Chính khi được anh em trong ban giáo họ của giáo xứ mời gọi tôi đón nhận Mình Thánh Chúa vào mỗi ngày thứ sáu, lúc thân xác tôi kiệt quệ, tức Chúa Giêsu Thánh Thể đã “tiếp đón” tôi qua những người tôi tớ của Chúa. Và cũng chính nhờ được ăn “Của Ăn Đàng” mỗi tuần đó mà tôi đã gặp đựơc một số anh em khác, những chứng nhân thầm lặng của Chúa, mời gọi tôi đến với Lời Người.
Nhờ chuyên cần lắng nghe trong sâu thẳm tâm hồn mà tôi đã được chính Người soi lòng mở trí để tôi dần dần tha thiết với Tình Yêu Cao Cả của Người. Nghĩa là Chúa Giêsu Thánh Thể đã “nói với tôi về Nước Thiên Chúa”, để rồi sau đó, tôi đã say mê tìm kiếm bằng cách luôn cố gắng sống trong tình yêu thương của Người.
Cũng chính vì Mầu Nhiêm Tình Yêu Ấy mà tôi đã được “chữa lành những bệnh cần được chữa”. Từ đây, tôi cảm nghiệm sâu xa rằng: “Vâng theo Thánh Ý Chúa đã là một sự chữa lành tuyệt hảo rôi!”
Chưa hết, chính Mính Máu Thánh Chúa mà qua nhiều năm nay, dù là trụ cột trong gia đình nhỏ bé bị tật nguyền bệnh họan, thế nhưng, Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn quan phòng cho tôi sống nhờ những bàn tay nhân ái của con cái yêu thương của Ngài, những người đã lắng nghe được tiếng Chúa trao ban và mời gọi: “Chính anh em hãy cho họ ăn”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Con yêu mến Ngài biết nhường bao, vì Tình Yêu Kỳ Diệu Vô Biên của Ngài! Xin ban cho các linh mục lòng yêu mến Thánh Thể Chúa nhiều hơn nữa vì chỉ qua các ngài, chúng con mới đựơc lãnh nhận Mình Máu Thánh Ngài. Xin ghi khắc vào trong tim chúng con lời yêu thương của Ngài: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Amen.
Trước những thiên tai như động đất, sóng thần, bão lụt, hạn hán, mất mùa, dịch tễ, bệnh tật, cũng:TN18-A45
Trước những thiên tai như động đất, sóng thần, bão lụt, hạn hán, mất mùa, dịch tễ, bệnh tật, cũng như trước những đau khổ mà con người gây ra cho nhau như chiến tranh, bạo lạo, khủng bố, trộm cướp, chém giết, tù tội... nhiều người đã tỏ ra hoài nghi về sự hiện diện của Thiên Chúa: “Chúa ở đâu? Nếu có Chúa thì sao Ngài lại để những sự dữ ấy xẩy ra cho tôi cũng như cho những người khác?”.
Tuần trước, tôi đã dự thánh lễ an táng mà người chết chỉ mới 30 tuổi. Một thanh niên vừa tốt nghiệp bác sĩ nha khoa, và cùng một lúc khám phá ra rằng căn bệnh ung thư xương của anh đã đến thời kỳ trầm trọng. Nhiều người quen thân với gia đình, bạn bè anh trong khi than khóc anh, cũng đã có những lời than trách cho rằng Chúa bất công và đã quá lạnh lùng trước những tiếng than khóc, cầu xin của gia đình anh, của người mẹ góa của anh. Tại sao Ngài lại đối xử với anh như thế. Cái làm cho nhiều người thấy khó hiểu là ở chỗ anh là một người trẻ rất năng động, giầu lòng quảng đại, hy sinh, và hoạt động tích cực trong những công tác xã hội và tông đồ.
Những trường hợp như trên còn nhiều và những thắc mắc cũng còn nhiều mỗi khi chúng ta nhìn vào thế giới chung quanh. Nhưng nếu cần một câu trả lời cho câu hỏi: “Có Chúa không?”, và “Ngài còn động lòng thương con người như Ngài đã làm đối với đồng hương Ngài hơn 2000 năm trước?” thì câu trả lời là “Có”. Chúa có đó và Ngài vẫn còn thổn thức, xót thương cho thân phận con người thời nay hơn cả những gì Ngài đã làm cho đồng hương Ngài trước kia. Lý do, Ngài đã chấp nhận mang lấy tất cả những đau khổ, yếu hèn, và cả sự chết của chúng ta trên mình Ngài, và đã vùi chôn tất cả trong mồ sau cái chết cực kỳ đau đớn và nhuốc khổ của Ngài trên thập giá. Ngài đã ném tất cả những thứ đó vào lò lửa của tình yêu vô biên của Ngài sau khi người lính lấy lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài.
Thật vậy, nhân loại ngày nay hằng ngày vẫn phải hít thở một bầu khí của “nền văn hóa sự chết” theo như Đức Gioan Phaolô II, và phải chọn lựa, đối đầu với triết lý sống “tương đối” như Đức Bênêđíctô XVI đã cảnh giác, thì việc con người còn tồn tại và đạt đến tột đỉnh văn minh như hiện nay đã chứng tỏ rằng Thiên Chúa có mặt. Và vì yêu thương nên Ngài đã làm ngơ trước những tội lỗi của nhân loại.
Không những Thiên Chúa yêu thương con người, mà Ngài còn khơi dậy tình yêu ấy nơi nhiều tâm hồn thiện chí, ngày đêm âm thầm nhưng lại rất nhiệt thành, tha thiết với việc chữa lành và canh tân bộ mặt trái đất này. Năm 1950, Mervill Flood và Melvin đã dựa vào thuyết song đoạn luận (dilemma) để nhận định và phân tích về tình hình chính trị, xã hội của thế giới; đặc biệt, sức đối đầu và lựa chọn giữa hai thế lực thù nghịch Nga và Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Sau đó, Martin Nowalk đã ứng dụng tư tưởng này để dùng trong việc phân tích tâm lý xã hội của con người qua trò chơi Prisoner’s Dilemma. Cuộc thí nghiệm dựa trên sự chọn lựa tự do của con người trước việc thực hành thiện và ác. Hai người tù hay hai người bạn có thể phản nhau, hại nhau vì quyền lợi của riêng mình, hoặc có thể làm tốt cho nhau vì hy sinh quyền lợi riêng tư của mình. Kết quả cuộc khảo cứu đã cho thấy, những người bạn tốt, những người làm việc thiện bao giờ cũng lợi hơn, cũng thoải mái hơn kẻ làm ác, những kẻ ích kỷ và chỉ muốn lợi dụng, làm hại anh chị em mình.
Kết quả của cuộc khảo cứu trên đã cho thấy, sỡ dĩ con người ngày nay văn minh, tiến bộ thì phải hiểu rằng nó đang được bao bọc bởi tình thương vô biên của Thượng Đế, và nó cũng đang được nuôi dưỡng, phát triển bằng những hành động bác ái, yêu thương của những tâm hồn thiện chí chứ không phải bằng những hành động dã man, ích kỷ, và vô đạo đức của một số ít cá nhân. Chân Phước Têrêsa Calcutta, Đức Gioan Phaolô II, và hằng triệu triệu những bàn tay, những trái tim nhân ái vẫn đang hồi hộp, rung động hướng về những đau khổ của anh chị em quanh mình hay tại một góc xó nào trên thế giới. Những cuộc lạc quyên và sự đóng góp rộng rãi qua những thiên tại gần đây là một thí dụ về lòng nhân ái đó. Chúa Giêsu đã hé mở cho nhân loại biết về hạnh phúc mà họ đang được qua quan phòng yêu thương của Thiên Chúa: “Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã… nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”. (Mt.18:7). Một cách đầy âu yếm Ngài đã đề cập đến tình yêu quan phòng này qua việc so sánh con người với loài chim trời, và huệ ngoài đồng. Ngài nói, “hai con chim sẻ mới trị giá 1 xu vậy mà không một con nào rơi xuống ngoài tôn ý Cha các ngươi” (Mt.10:29). Và Ngài còn cho biết cẩm bào của Salomôn không đẹp bằng một bông huệ. Những hình ảnh so sánh ấy là để làm nổi bật vai trò con người trước mắt Thiên Chúa, cũng như sự yêu thương quan phòng mà Ngài dành cho con người.
Không chỉ thổn thức suông. Tình thương hành động, và vì thế, Ngài đã cho họ ăn. Việc Ngài nuôi dân chúng sau khi họ đã theo Ngài và nghe Ngài giảng là hình ảnh cho biết Ngài đã, đang và còn nuôi sống nhân loại không chỉ bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời và Mình Máu Thánh Ngài. Để ý thêm, chúng ta còn thấy rằng, qua dụ ngôn lúa miến và cỏ lùng, Chúa cho chúng ta biết rằng không phải Ngài không biết kẻ lành, người ác, nhưng chỉ vì Ngài không nỡ tiêu diệt người ác, càng không nỡ tiêu diệt nhầm một người lành. Khi các gia nhân yêu cầu ông chủ cho phép họ nhổ cỏ lùng, nhưng ông đã nói với họ: “Hãy cứ để lúa miến và cỏ lùng mọc lên với nhau đợi cho đến ngày thu hoặch, bởi lẽ nếu không “khi nhổ cỏ, các anh lỡ tay nhổ luôn cả lúa” (Mt 13:29). Đây là một mầu nhiệm của cuộc sống.
“Thiên Chúa là tình yêu” (I Jn 4:8). Vì thấu hiểu cái hoang mang lo lắng, và trận chiến giằng co giữa thiện và ác, nên Đức Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ Chúa Tình Thương để cho nhân loại biết rằng, trên tất cả tình yêu của Thiên Chúa vẫn là điều đáng chúng ta tôn thờ. Tin nhận tình yêu này sẽ giúp chúng ta sống và sống hạnh phúc với Chúa và với anh chị em mình qua đức ái trọn hảo. Đừng để điều ác và những kẻ làm điều ác khiến chúng ta thất vọng và sợ hãi. Vì như vậy chỉ có lợi cho thế lực tội lỗi và những hành động gian ác của Satan và bè lũ của bóng tối. Hãy để cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị và hướng dẫn đời sống chúng ta. Và hãy vững tin nơi tình yêu ấy, mặc dù chúng ta có gặp thử thách.
Trong Cựu Ước, ông Môsê đã giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa họ về Đất: TN18-A46
Trong Cựu Ước, ông Môsê đã giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa họ về Đất Hứa. Trên đường về Đất Hứa ông đã vâng lệnh Thiên Chúa truyền lại cho dân Lề Luật và những chỉ thị của Ngài. Đồng thời Thiên Chúa cũng ban cho họ lương thực hằng ngày là mana để họ có sức mà hành trình. Chúa Giêsu là Môsê mới. Chúa đến để cứu thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và dẫn đưa chúng ta về quê trời. Chúa đến để cho chúng ta được sống và được sống dồi dào (Ga 10:10), vì Người ban cho chúng ta Lề Luật mới (Ga 13:34) và Lời Hằng Sống. Hơn nữa, Người cũng ban cho chúng ta chính Mình Máu Thánh của Người làm lương thực dưỡng nuôi chúng ta trên đường lữ khách trần gian. Ngày nay mỗi lần tham dự Thánh Lễ là chúng ta cũng được Chúa nuôi dưỡng như dân Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay bằng hai loại Bánh Hằng Sống là Lời Người và Bí Tích Thánh Thể. Đồng thời Chúa cũng sai chúng ta vào trần gian và bảo chúng ta rằng, “Các con hãy cho họ ăn”.
Mt 14:13 - Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người.
Khi Chúa Giêsu nghe tin Thánh Gioan Tẩy Giả bị tiểu vương Hêrôđê Antipa giết, Người tránh đi một nơi hoang địa thanh vắng. Nhiều người nghĩ rằng Chúa tránh đi vì sợ chết. Thánh Giêrônimô cho rằng Chúa tránh đi không phải vì sợ, nhưng là vì Người muốn làm gương cho chúng ta biết giữ mình để chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao phó, như Người dạy trong câu Matthêu 10:23: “Khi người ta khủng bố các con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác.” Ðồng thời Người cũng vào đó để cầu nguyện.
Trong Chương 13 thì Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở phía Tây của Biển Hồ là vùng đất dưới quyền Hêrôđê Antipa, là kẻ giết Thánh Gioan, nên các ngài đi thuyền qua vùng đất của tiểu vương Phillipê. Dân chúng nhìn theo hướng thuyền đi nên đoán được rằng Người đi đâu, và đã đi bộ mà theo Người. Thực ra khoảng cách đi bộ phải xa gấp đôi khoảng cách chèo thuyền vì phải đi vòng quanh bờ hồ, nhưng họ đã đến trước, chứng tỏ họ ao ước nghe Người giảng dạy biết bao.
Ngày nay con nhân loại cũng vẫn đổ xô đi tìm Chúa như dân Do Thái ngày xưa. Nghe chỗ nào có Chúa là người ta tụ đến, như trong Đại Hội Giới Trẻ ở Sydney vừa qua hay là trong chuyến Tông Du Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Nhưng người ta cũng đổ xô đi tìm những chúa khác, là những chúa chỉ thỏa mãn sự hiếu kỳ của họ mà không giúp ích gì cho đời họ, như vụ 200,000 người Đức đến Bálinh để nghe Obama và ra về đầy thất vọng, hoặc tìm đến những hí trường để mua được một vài giây phút giải trí tạm bợ. Là môn đệ của Chúa, chúng ta có nhiệm vụ chỉ cho đám đông dân chúng này biết rằng Chúa thật đang ở đâu như Đức Thánh Cha đã nhắn nhắn nhủ giới trẻ ờ Sydney rằng “Chúng con hãy trở thành tông đồ cho bạn bè chúng con!”
Mt 14:14 Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chúa thấy đám đông thì động lòng thương. Thánh Marcô (Mk 6:34) thêm rằng vì họ như đàn chiên không người chăn. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ ra là Đấng hay Thương Xót. Ở đây Chúa Giêsu tỏ ra Người là hiện thân của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Không ai có thể hiểu được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cho đến khi Chúa con xuống thế để chia sẻ thân phận con người với chúng ta. Người đã trở nên một người yếu đuối, nghèo nàn, hèn mọn và tầm thường trong xã hội như đa số chúng ta. Người ở với loài người bằng một trái tim nhân loại để cùng thương cảm với họ. Ngày nay Người cũng vẫn ở với nhân loại bằng con tim của mỗi Kitô hữu. Thật vậy, Chúa dùng chúng ta để đem Lòng Thương Xót đền cho thế gian đau khổ và tội lỗi. Người đang nhắn nhủ mỗi người chúng ta qua Thánh Faustna: “Trong giao ước cũ Cha gửi các ngôn sứ đến với những lời răn đe - Hôm nay Cha sai con đi với Lòng Thương Xót của Cha. Trước ngày công lý, Cha đang gửi đến loài người ngày thương xót.” (Nhật Ký Thánh Faustina, V, 155). Vậy Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta đi vào thế gian để thương xót, chữa mọi tật nguyền và chỉ cho những người mà chúng ta gặp mỗi ngày biết chân lý.
Vậy chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ mạng này. Có nhiều cách để giúp đỡ tha nhân, nhưng đối với Thiên Chúa động cơ nào thúc đẩy chúng ta giúp đỡ tha nhân mới là quan trọng. Trong Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, Hội Thánh dạy chúng ta rằng tôn trọng nhân phẩm phải là động lực của tất cả mọi việc xã hội chúng ta làm. Con người có nhân phẩm vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhân phẩm này phải được tôn trọng từ khi thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên. Giúp đỡ tha nhân là giúp họ sống xứng đáng đời sống con người.
Nhiều người giúp đỡ tha nhân không nhằm mục đích tôn trọng hay nâng cao nhân phẩm của họ nhưng vì những mục đích thầm kín của mình. Thí dụ như có những chính trị gia đưa ra những chương trình xã hội rất bùi tai trong mùa bầu cử lúc thoạt đầu nghe ra rất nhân đạo, nhưng khi nhìn kỹ lại thì chỉ để dụ dỗ cử tri mà kiếm phiếu. Có những người đề ra các chương trình giúp đỡ người nghèo rất hấp dẫn, nhưng đồng thời lại ủng hộ phá thai. Lý do là người nghèo có thể bỏ phiếu cho họ nên họ mua chuộc, còn các thai nhi không có quyền bỏ phiếu nên họ nhẫn tâm chà đạp nhân phẩm các em. Như thế đâu phải là nhân đạo thật mà là nhẫn đạo. Như thế đâu phải lo cho người nghèo mà lo cho địa vị của mình.
Xét lại mình, đôi khi tôi cũng làm những việc đạo đức hay từ thiện một phần vì muốn được danh tiếng hay vì thêm quen biết để kinh doanh,chứ không phải hoàn vì thương người. Và như thế tôi cũng chưa thật sự có một tâm tình yêu người như Chúa muốn tôi yêu họ. Dù bề ngoài chưa chắc ai biết ý định thầm kín của tôi. Nhưng Thiên Chúa biết.
Ngoài ra, mục đích của Chúa Giêsu là đến nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện, nhưng khi thấy nhu cầu của dân chúng thì Người thay đổi chương trình ngay. Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy rằng làm việc tông đồ cần có chương trình, nhưng cũng phải uyển chuyển, chứ không phải lúc nào cũng dựa vào nguyên tắc.
Mt 14:15-18 Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Trước hết, Chúa Giêsu phải làm và nói điều gì hấp dẫn lắm đến nỗi những kẻ theo Người quên cả ăn và ở lỳ với Người đến chiều. Tin Mừng Marcô còn nói thêm rằng “Người dạy họ nhiều điều” (Mc 6:34). Những điều Chúa giảng dạy cả ngày đó không được ghi trong cả bốn sách Tin Mừng, nhưng chắc chắn là những điều quan trọng mà các Tông Đồ sau này truyền lại cho Hội Thánh qua Thánh Truyền. Người Tin Lành thường đồng hóa Lời Chúa với các sách Thánh Kinh. Còn Công Giáo coi chính Đức Kitô là Lời Chúa (x. GLCG 108). Lời này được truyền lại cách sống động trong Hội Thánh qua Thánh Kinh và Thánh Truyền. Chính vì thế mà theo Hội Thánh dạy rằng cả Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai cách khác nhau để truyền lại Lời Chúa (x. GLCG 80-82). Cả hai hợp thành “Kho Tàng Đức Tin” của chúng ta (x. GLCG 84).
Các môn đệ lo âu cho dân chúng là điều phải. Nhưng Chúa mốn chính các ngài phải cho họ ăn, bởi vì lời nói mà không có việc làm chỉ là những lời vô nghĩa, như Thánh Giacôbê viết, “Nếu có một người anh em hay chị em không có gì để mặc, và thiếu đồ ăn hằng ngày, và một người trong anh em bảo họ, ‘Hãy đi bình an, có áo ấm, cơm no,’ mà không cho họ những gì họ đang cần cho thân xác, thì nào được ích gì?” (Gia 2:15-16). Chúa cũng bảo chúng ta là những môn đệ của Người rằng “các con hãy cho họ ăn”. Chúa muốn các môn đệ phải cố gắng trước. Các ông chỉ tìm tìm được năm cái bánh và hai con cá. Thế là đủ cho năm ngàn người rồi, còn thiếu bao nhiêu thì Chúa sẽ bù cho.
Nhiều người trong chúng ta vì thấy khả năng mình quá giới hạn nên tiếc không dám dùng để giúp đỡ người khác, và đưa ra bao nhiêu lời bào chữa hay ho: một con én không làm nên mùa xuân, không có mợ thì chợ cũng đông… Chúa không cần tài của chúng ta nhưng cần tấm lòng của chúng ta, một tấm lòng biết rung động, biết cảm thông với những đau khổ, thiếu thốn và nhu cầu của người khác, và một bàn tay sẵn sàng lấy những gì mình đang có ra mà dâng lên cho Chúa. Một tâm hồn biết phó thác cho Chúa, biết dâng lên Chúa và chia sẻ với người khác chính những gì thiết yếu của mình, chứ không phải là những đồ thừa của mình. Các môn đệ chỉ có năm cái bánh và hai con cá. Một số lượng thực phẩm quá nhỏ cho mấy thầy trò, nhưng các ông đã chia sẻ hết với mọi người. Và Chúa đã không để các ông bị thiếu thốn.
Mt 14:19 Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng.
Việc Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ xanh để Người ban phát thức ăn cho họ nhắc lại cho chúng ta hình ảnh vị mục tử nhân lành đưa đàn chiên đến ăn cỏ nơi đồng xanh (x. Tv 23:2). Việc dân chúng ngồi ăn là hình ảnh Chúa Giêsu sẽ quy tụ toàn thể nhân loại trong bữa tiệc trên Trời (x. Lc 14:15).
Bánh mà Chúa đang ban cho mọi người không những chỉ là bánh nuôi phần xác mà còn là bánh nuôi linh hồn. Bánh ấy trước hết là Lời giáo huấn của Người rồi sau đó mới là thức ăn. Bằng cách ban bánh cho họ, người muốn chứng tỏ rằng Lời Người là Lời Thiên Chúa (x. TL 8:3; KN 16:26; Mt 4:4).
Việc Chúa cầm lấy bánh tạ ơn là dấu hiệu báo trườc Bí Tích Thánh Thể mà Chúa thiết lập trong Bữa Tiệc Ly. “Hội Thánh nhận ra các phép lạ hóa bánh ra nhiều, khi ‘Chúa Giê-su đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát để nuôi sống đám đông"’, tiên báo sự phong phú của tấm bánh duy nhất là ‘Thánh Thể’ (x. Mt 14,13-21; 15,32-39)” (GLCG 1335).
Chúa ngước mắt lên trời dâng lời chúc tụng chứng tỏ sự liên hệ của Người với Đức Chúa Cha. Việc Chúa bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ để các ông phân phát là hình ảnh mà Người đang ban chính Mình Người cho chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể qua thừa tác vụ linh mục của Hội Thánh. Chúa Giêsu chính là Bánh hằng sống được bẻ ra trên bàn thờ Thánh Giá để nuôi nhân loại (Ga 6).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay cũng tiền trưng cho hình ảnh của Thánh Lễ mà chúng ta cử hành trong Hội Thánh với hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
Mt 14:20-21 Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Mọi người được ăn no nê nhắc lại lời chúc tụng Thiên Chúa nuôi dân Do Thái trong Cựu Ứớc (Tv 78:29). Chúa Giêsu là một Môsê mới, là Đấng đến để cho chúng ta ăn uống thỏa thuê mà không phải trả tiền như ngôn sứ Isaia nói trong bài đọc thứ nhất (Is 55: 1-3) hôm nay.
Chúa không những chỉ ban cho đủ ăn mà còn ban cho dư thừa đến mười hai giỏ đầy. Mười hai ở đây chỉ mười hai chi tộc Israel, mà cũng chỉ Mười Hai Tông Đồ, là nền tảng của Hội Thánh tương lai. Việc bánh còn dư thừa này chứng tỏ là Chúa lúc nào cũng đại lượng với chúng ta. Ở đây đáng lẽ phải dịch là những miếng bánh còn dư chứ không nên dịch là những mếng bánh vụn, vì tiếng Hy Lạp viết là των κλασματων nghĩa là những miếng đã được bẻ ra, và περισσευον có nghĩa là còn dư lại chưa ai ăn, vượt quá khẩu phần. Như vậy đây là những miếng bánh Chúa bẻ ra trao cho các môn đệ phân phát còn dư lại, chứ không phải những mẩu bánh vụn người ta ăn không hết rồi bỏ đi. Mà số người chắc cũng phải đến cả chục ngàn vì chỉ có đàn ông đã năm ngàn người.
Mười hai thúng đầy - Trong bài này dịch là thúng thì không chỉnh lắm. Đúng ra phải dịch là giỏ. Giỏ là dịch chữ κοφινος của Hy Lạp (bản NAB dịch là wicker basket, bản Bible de Jerusalem dịch là couffin, còn bản TOB dịch là panier). Trong chuyện bánh hóa ra nhiều nuôi năm ngàn người này, cả bốn Tin Mừng đều dùng chữ κοφινος - giỏ (Mt 14:20; Mk 6:43; Lk 9:17; Jn 6:13) chứ không dùng chữ σφυρις - thúng. Có nhiều người cho rằng chuyện bánh hóa ra nhiều này và chuyện nuôi bốn ngàn người (Mt 15:32; Mk 8:1) là một, nhưng nếu đọc kỹ thì thấy ở lần thứ hai này người ta dùng thúng – σφυρις (Mt 15:37) (các bản tiếng Anh dịch là basket, các bản tiếng Pháp (Bible de Jerusalem và TOB) dịch là corbeille) thay vì giỏ. Theo truyền thống thì người Do Thái dùng giỏ chứ không dùng thúng. Học giả William Barclay viết rằng người Do Thái khi đi xa thường mang giỏ theo với họ (xem William Barclay – The Gospel of Mark 6:35-44). Như thế chứng tỏ rằng hai phép lạ xảy ra ở hai địa điểm khác nhau, lần đầu ở khu vực của người Do Thái, vì người ta dùng giỏ để đựng bánh, lần thứ hai ở khu vực Dân Ngoại vì dùng thúng.
Ngày nay một số học giả Thánh Kinh không tin có phép lạ nên cho rằng Chúa Giêsu không làm cho bánh hóa ra nhiều, mà Người chỉ là một nhà hùng biện có tài thuyết phục mọi người bỏ bánh mà họ mang theo trong mình ra để chia sẻ với nhau. Dù không tin phép lạ, nhưng khi giải thích cách này họ đã vô tình cắt nghĩa rằng Chúa Giêsu đã làm một phép lạ cả thể hơn là biến đổi lòng những kẻ nghe Người giảng dạy từ ích kỷ chỉ khư khư giữ cho mình thành những người vị tha biết chia sẻ với người khác.
Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận Tại sao Chúa Giêsu lại rút lui và đến một nơi hoang vắng? Người đến đó để làm gì? Phản ứng của Người về việc dân chúng kéo đến phá đám Người ra sao? Nếu bạn là Chúa Giêsu thì bạn cảm thấy thế nào? Nếu bạn phải dọn đồ ăn cho năm ngàn người trong một buổi picnic, bạn sẽ cho họ ăn gì? Nếu bạn là một môn đệ đang ở đó như trong câu 15 thì bạn cảm thấy thế nào? Và bạn phản ứng ra sao khi Chúa bảo bạn hãy cho họ ăn? Câu chuyện này có những gì liên quan gì đến việc Chúa lập Phép Thánh Thể? Nếu bạn là một trong những thực khách hôm đó thì bạn cảm thấy thế nào? Bạn sẽ làm gì cho Chúa Giêsu để đáp lại việc Người làm cho bạn? Các môn đệ tìm thấy nơi Chúa Giêsu quyền năng mới nào? Quyền năng này Chúa còn tiếp tục thể hiện trong thế giới hôm nay không? Bạn có tìm thấy quyền năng đó nơi Chúa Giêsu không?
Lời Chúa mấy tuần gần đây đưa ra những sứ điệp rất an ủi: Chúa nhựt tuần trước. Chúa cho biết Ngài là:TN18-A47:
Lời Chúa mấy tuần gần đây đưa ra những sứ điệp rất an ủi: Chúa nhựt tuần trước. Chúa cho biết Ngài là một người Cha yêu thương luôn tìm những ơn tốt lành nhất để ban cho chúng ta là con cái Ngài. Hôm nay Chúa cho biết thêm Ngài sẽ thỏa mãn tất cả những khát vọng của con người.
Chúng ta hãy cùng dâng Thánh Lễ này trong tâm tình biết ơn và trông cậy Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta quan tâm thỏa mãn những nhu cầu vật chất mà quên những nhu cầu tâm linh. Nhiều khi chúng ta sống thiếu lòng trông cậy Chúa. Nhiều khi chúng ta cũng không biết ơn Chúa vì biết bao ơn lành Ngài đã ban.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,1-3)
Ðoạn này thuộc về chương cuối của phần II sách Isaia ('sách an ủi', gồm các chương 40-55). Ðệ nhị Isaia công bố lời Thiên Chúa mời gọi người ta đến dự một bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Bữa tiệc này rất đặc biệt:
Những món ăn rất thịnh soạn toàn đồ bổ và cao lương mỹ vị. Bữa tiệc hoàn toàn miễn phí. Người được mời là những kẻ nghèo khổ, đói khát, không tiền bạc, cũng không có gì để đổi chác.
Dĩ nhiên, hình ảnh bữa tiệc mang ý nghĩa tượng trưng: Tượng trưng cho sự thỏa mãn những khát vọng của con người Tượng trưng cho hạnh phúc Nước Trời.
2. Ðáp ca (Tv 144)
Tv 144 ca tụng tình thương ân cần của Thiên Chúa đối với tất cả những thụ tạo của Ngài: chẳng những Ngài đã tạo nên chúng, mà còn quan tâm dưỡng nuôi và chăm sóc chúng: 'Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa. Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho mọi sinh vật được no nê'.
3. Tin Mừng (Mt 14,13-21)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cách viết của thánh Matthêu rõ ràng muốn so sánh với phép lạ manna thời Xuất Hành và bí tích Thánh thể mà Chúa Giêsu sẽ lập: thời xưa Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái no nê bằng thứ lương thực diệu kỳ là manna. Thời nay Chúa Giêsu còn nuôi dân mới bằng một thứ lương thực diệu kỳ hơn nữa là Bí tích Thánh Thể.
4. Bài đọc II (Rm 8,35.37-39) (Chủ đề phụ)
Ðoạn thư này của Thánh Phaolô là lời tuyên xưng đức trông cậy mạnh mẽ nhất: không gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô.
- Bảng liệt kê thứ nhất kể ra những gian truân thử thách của bản thân Thánh Phaolô và có thể cũng là của mọi kitô hữu: gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo.
- Bảng liệt kê thứ hai kể ra những gian truân của thân phận làm người: chết hay sống, hiện tại hay tương lai...
IV. Gợi ý giảng
1. Phép lạ = quyền phép Thiên Chúa + đóng góp của con người Ðức Giêsu đã làm phép lạ có lương thực nuôi năm ngàn người ăn thừa thải. Nhưng phép lạ này bắt đầu từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Mẹ Têrêxa hàng ngày nuôi chín ngàn người nghèo ở Calcutta. Nhưng số lượng lương thực này là do phần đóng góp của biết bao người hảo tâm.
Một hôm có một cặp vợ chồng trẻ đến trao cho Mẹ một số tiền lớn. Mẹ ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao mà anh chị có được số tiền lớn này? - Chúng con vừa cưới nhau hai ngày trước đây. Chúng con đã nhất trí với nhau không tổ chức tiệc cưới, để dành tiền giúp những người nghèo. - Tại sao anh chị làm thế? - Vì chúng con rất yêu nhau, chúng con muốn bắt đầu cuộc sống gia đình bằng một việc hy sinh, để Chúa chúc lành cho chúng con.
2. Có thể tin được Lời Chúa không?
Lời Chúa hôm nay thật rõ ràng: Chúa nói Ngài thỏa mãn mọi thứ đói khát của con người.
Nhưng ta có thể tin vào Lời đó không, bởi vì ngày nay biết bao người còn đang đói khát, trong số đó có thể có chính chúng ta nữa?
- Ðiều căn bản mà chúng ta phải nhớ là Thiên Chúa đã tạo dựng nên trái đất này, một trái đất phong phú, sản sinh ra đầy đủ đến dư thừa mọi lương thực chẳng những cho loài người mà còn cho muôn loài. Cho nên trên căn bản là Chúa bảo đảm cho muôn loài được no nê.
- Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác; sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ 'phân phát'. Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
- Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ 'Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời'
- Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
3. Những khát vọng của con người
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới những khát vọng tầm thường.
- Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác: ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý. Chúa Giêsu nói 'Hãy xem chim trời... hãy xem hoa huệ ngoài đồng...'
- Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn: bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu... Chân, thiện, mỹ tuyệt đối... Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
4. Một giải thích mới về phép lạ hóa bánh ra nhiều
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Ðức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như không ai làm nổi: biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại chia xẻ.
Câu chuyện sau đây có thể minh họa cho ý nghĩa này:
Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà này từ chối: - Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
- Không sao. Chỉ nhờ bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. Hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác. Chẳng bao lâu căn nhà đầy người.
Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm: 'Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt'. Một người vội vàng chhttp://by139w.bay139.mail.live.com/mail/EditMessageLight.aspx?n=1241815550ạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói 'Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê'. Một người khác vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế...
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra đi.
5. 'Ðiều gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô'?
Kiểu nói 'lòng yêu mến của Ðức Kitô' có hai nghĩa: a/ Lòng Ðức Kitô yêu mến chúng ta; và b/ lòng chúng ta yêu mến Ðức Kitô.
Chúng ta hãy trả lời câu hỏi của Thánh Phaolô theo nghĩa thứ nhất: có gì có thể làm Ðức Kitô không còn yêu mến chúng ta nữa không? Chắc chắn là không: Ðức Kitô đã phải 'gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo' nhưng Ngài vẫn yêu mến chúng ta, Ngài yêu mến chúng ta đến nỗi hiến thân chịu chết vì chúng ta.
Bây giờ chúng ta cũng trả lời câu hỏi ấy nhưng theo nghĩa thứ hai: có gì có thể làm cho chúng ta hết yêu mến Ðức Kitô không? Câu này có thể có hai câu trả lời:
- Nếu chúng ta thực lòng yêu mến Chúa thì không. Chẳng hạn Thánh Phaolô. Ngài đã chịu đủ thứ 'gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo', nhưng Ngài vẫn một mực yêu mến Chúa. Ngài còn lấy làm hạnh phúc bởi được chịu khổ vì Chúa. Các thánh thì cũng thế.
- Nhưng nếu chúng ta không thực lòng yêu mến Chúa, tất cả đều có thể tách ta ra khỏi Chúa. Mà xét cho cùng, chỉ có một người có thể tách chúng ta ra khỏi Chúa, đó là chính bản thân chúng ta.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Tình yêu. Người yêu thương, chăm sóc và dưỡng nuôi hết thảy mọi người. Tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh không những cung cấp lương thực thiêng liêng / là Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa cho con cái mình / mà còn quan tâm giúp đỡ những ai nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / làm tròn trách nhiệm cao quý nhưng hết sức nặng nề này.
2. Trên thế giới ngày nay / nạn đói vẫn còn đang hoành hành dữ đội / mỗi năm giết chết hàng triệu người lớn và trẻ em tại các nước chậm phát triển / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / luôn sẵn sàng trợ giúp những người nghèo đói một cách quảng đại.
3. Nhiều khi vì miếng cơm manh áo / mà nhiều người đã bán rẻ nhân phẩm / coi thường danh dự / sa lầy trong vũng bủn tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ những ai đang sống trong cảnh khốn cùng / để dù nghèo khổ / họ vẫn luôn giữ được khí tiết của mình.
4. Quan tâm giúp đỡ những ai đói nghèo / những người bệnh tật / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sống bác ái một cách cụ thể với hết thảy mọi người.
CT: Lạy Chúa, thánh Phaolô đã nói với chúng con 'Sống bác ái là chu toàn cả lề luật'. Xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con có thể sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương, và biết thật tình chia sẻ với những ai đói rách bần cùng. Chúng con cầu xin...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là con cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy một lòng một ý với nhau cầu xin Cha trên trời ban cho chúng ta lương thực hằng ngày, chẳng những lương thực vật chất mà cả lương thực thiêng liêng nữa.
- Trước rước lễ: Dân Do Thái ngày xưa được ăn manna. Dân chúng thời Ðức Giêsu được ăn no nê từ 4 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã làm phép lạ cho ra nhiều. Thực ra chúng ta cũng không thua kém gì họ, bởi vì chúng ta được ăn chính Mình Thánh Ðức Giêsu. 'Ðây Chiên Thiên Chúa...'
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về và cố gắng sống tinh thần chia xẻ mà Chúa đã dạy chúng ta.
Chú Giải Thánh Thư Chúa Nhật XVIII Thường Niên – Năm A (Rom 8: 35, 37-39)
Trong bài đọc tuần trước Thánh Phaolô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm tất cả mọi sự đều:TN18-A48
Trong bài đọc tuần trước Thánh Phaolô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm tất cả mọi sự đều nhằm ích lợi cho những ai yêu mến Ngài, là những người được mời gọi theo ý định của Ngài. Và ý định đó là những người ấy trở nên giống hình dạng Con của Ngài. Trước khi sang bài đọc hôm nay, Thánh Nhân đưa ra ba câu hỏi: (1) Nếu Thiên Chúa về phe chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta được? (2) Ngài là Ðấng đã không tha cho chính Con Một Mình, nhưng đã trao nộp Người vì tất cả chúng ta, thì làm sao Ngài lại không ban cho chúng ta tất cả những điều khác cùng với Người? (3) Ai sẽ truy tố những người đã được Thiên Chúa chọn? (x. Rom 8:31-33) Hôm nay ngài kết luận bằng câu hỏi cuối cùng: “Ai sẽ có thể tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?”
35 Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô được?
“Lòng yêu mến” hay nói đúng hơn là tình yêu của Đức Kitô đối với chúng ta. Chúa Giêsu yêu chúng ta trước đến nỗi Người đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta còn là những người tội lỗi (x. Rom 5:8). Và Người đã làm thế vì quá yêu chúng ta như Người đã nói “Không ai có tình yêu cao trọng hơn tình yêu này, là hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Chính vì tình yêu ấy mà Chúa không bao giờ từ bỏ chúng ta trừ khi chúng ta bỏ Người. Bao lâu chúng ta còn trung thành với Thiên Chúa thì ngoại cảnh không làm gì được chúng ta.
Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?
Ở đây Thánh Phaolo đưa ra một loạt những nghịch cảnh mà các môn đệ Chúa có thể gặp phải. Danh sách trong bản dịch này là theo bản Latin Vulgate cũ. Hầu hết các bản mới liệt kê theo thứ tự sau: “gian truân, khốn khổ, khủng bố, đói khổ, trần truồng, hiểm nghèo, hay gươm giáo.” Tất cả những từ dùng ở đây đều không diễn tả hết những gì Thánh Phaolô muốn nói theo tiếng Hy Lạp. Chính Đức Kitô đã chấp nhận và trải qua tất cả những điều này vì yêu chúng ta. Người đã cho chúng ta biết rằng chúng ta cũng sẽ phải đương đầu với chúng. Người bảo chúng ta rằng “Môn đệ không hơn thầy, hoặc đầy tớ không hơn chủ. Môn đệ được như thầy, đầy tớ được như chủ, là đã đủ rồi” (Mt 10:24-25).
1) Gian truân (θλιψις) có nghĩa là những áp lực do những khó khăn từ bên ngoài tạo ra, như bị chỉ trích, bị cáo gian, bị chèn ép, kỳ thị,…
2) Khốn khổ (στενοχωρια) là những áp lực từ bên trong như lo âu, buồn phiền, không biết phải xoay xở ra sao giống như một người bị mắc kẹt ở một chỗ chật hẹp. Thánh Phaolô có ý nói rằng trong những hoàn cảnh, dù khó khăn thế nào đi nữa, Chúa cũng không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài đã viết cho giáo đoàn Côrinthô rằng, “tôi còn mối bận tâm hằng ngày là lo lắng cho tất cả các giáo đoàn! Có ai yếu đuối mà tôi lại không yếu đuối chăng? Có ai vấp phạm mà tôi lại không nóng lòng sao?” (2 Cor 11:28-29). Chính Chúa Giêsu cũng phải đương đầu với cảnh này trong vườn Cây Dầu đền nỗi Người phải than thở vời các môn đệ: ““Linh hồn Thầy buồn rầu đến nỗi chết được” (Mc 14:34). Rồi trên Thập Giá Người còn thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34).
3) Khủng bố (διωγμος) là những đau khổ phải chịu về tinh thần hay thể xác do những kẻ thù nghịch hoặc chống đối Đức Kitô gây ra như bắt bớ, tù đày, tẩy chay, đe dọa, làm khó làm dễ, ngược đãi, cấm đoán làm theo lương tâm…. Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh đã viết: “Nhà tù ở đây thực sự là hình ảnh Hỏa Ngục muôn đời: thêm vào bên cạnh những đòn tra tấn dã man gồm đủ mọi cách – gông cùm, xiềng xích, đe dọa –là thù hận, trả thù, tai ương, thô bạo tục tằn, cãi vã, hành động độc ác, chửi thề, cũng như những nỗi âu lo và than khóc. Nhưng chính Chúa là Đấng đã giải thoát 3 trẻ nhỏ khỏi lò lửa hãi hùng, đã ở với cha luôn luôn; Ngài đã giải thoát cha khỏi những khốn cùng này và làm cho chúng nên dịu ngọt, vì lòng từ bi Chúa muôn đời. Những gian truân này thường làm kinh khiếp nhiều người khác, thế nhưng với cha, nhờ ơn Chúa, cha tràn đầy niềm vui và phúc lạc, bởi vì cha không ở một mình – Đức Kitô ở với cha...” (Spe Salvi, 37). Từ xưa đến nay các môn đệ của Chúa luôn gặp khó khăn như thế. Chúa đã nói trước và đã hứa: “Các con sẽ bị mọi người ghét vì danh Thầy. Nhưng ai bền chí đến cùng, sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22, Mk 13:13; Lc 21:17)
4) Đói khổ (λιμος), trần truồng (γυμνοτης) nói về những thiếu thốn về vật chất mà những người trung thành với Chúa phải chấp nhận. Những ai sống theo giáo huấn của Chúa thì phải thành thật, không ăn gian, nói dối. Và làm như thế nhiều khi không trở nên giàu có được. Họ không theo thiên lạ làm giàu bằng mọi giá, và biết rằng Thiên Chúa mới thật sự là chủ, và họ chỉ là quản lý. Họ là những người được Chúa chúc phúc (x. Mt 5:3) và ban cho dư đầy ân phúc (Lc 1:53). Thánh Giacôbê hỏi chúng ta rằng “Thiên Chúa đã chẳng chọn những người nghèo khó trước mặt thế gian, để trở nên giàu có trong đức tin, và thừa tự của vương quốc Ngài đã hứa cho những ai yêu mến Ngài hay sao?” (Gia 2:5).
5) Hiểm nghèo (κινδυνος) là những nguy hiểm chúng ta phải chịu vì Chúa. Thánh Phaolô viết rằng ngài “ở tù thường xuyên, … bị đánh đòn quá mức, …. nhiều phen suýt chết…. Năm lần tôi bị đánh ba mươi chín roi; ba lần bị đánh bằng gậy; một lần bị ném đá; ba lần đắm tàu; một đêm và một ngày trôi dạt giữa biển khơi!.... phải thường xuyên hành trình,…. hiểm nguy trên nước, hiểm nguy bị trộm cướp, hiểm nguy do những người đồng hương, hiểm nguy từ Dân Ngoại, hiểm nguy ở thành phố, hiểm nguy ngoài hoang địa, hiểm nguy giữa biển khơi, hiểm nguy do những kẻ mạo nhận là anh em gây ra (2Cor 11:24-26).
Ngày nay có những nguy hiểm khác, thường không hại đến thân xác, nhưng hại linh hồn chúng ta, và đặc biệt là con cháu chúng ta. Lời Thánh Phaolô nhắc nhở Timôthê phải đề phòng những nguy hiểm như thế cách đây 2000 năm vẫn còn thích hợp cho thời đại chúng ta, “Con cũng hãy hiểu điều này, là vào những ngày sau hết sẽ có những lúc hiểm nghèo. Vì người ta sẽ thành ra ích kỷ, mê tiền, khoe khoang, kiêu ngạo, lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ơn, vô đạo, vô nhân, vô tâm, vu khống, trác táng, hung tợn, ghét điều lành, xảo trá, nông nổi, lên mặt tự phụ, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa, giữ đạo cách hình thức, nhưng chối bỏ quyền năng của đạo. Con hãy xa lánh những người như thế” (2Tim 3:1-5).
6) Gươm giáo (μαχαιρα) có nghĩa là bị sát hại hay giết chết vì Chúa. Chém đầu là cách xử tử thông thường nhất trong thời Thánh Phaolô. Trong tất cả các Thánh Tông Đồ, ngoài Thánh Gioan ra thì tất cả đều tử vì đạo. Quả thật Hội Thánh được xây dựng bằng máu các Thánh Tử Vì Đạo. Các ngài không sơ gươm giáo vì Chúa Giêsu đã nói trước, “người ta sẽ nộp các con để chịu đau khổ, và sẽ giết các con; và các con sẽ bị mọi dân tộc ghét vì danh Thầy” (Mt 24:9).
Thời nay, nhất là ở Âu Mỹ, người ta không còn cấm đạo công khai, nhưng cấm chúng ta hành đạo dưới những chiêu bài như tôn trọng “tự do chọn lựa”, “dân chủ”,…. Dù thế gian có tìm cách nào để hại chúng ta đi nữa, chúng ta cũng vẫn nhất tâm theo Chúa. Theo Chúa thời nào cũng là một cuộc mạo hiểm có tính toán vì biết chắc rằng Chúa không thể đi lạc. Mỗi người chúng ta ý thức rằng: “Chúa là Đấng Chăn Chiên của tôi: tôi không thiếu gì... dù tôi bước qua thung lũng tối tăm sự chết, tôi không sợ sự dữ nào, bởi vì Chúa ở cùng tôi...’ (Tv 23 [22]:1, 4). Người chăn chiên thực là người biết cả đến những nẻo đường băng qua thung lũng sự chết; người mà bước đi với tôi dẫu là nẻo đường cuối cùng của hiu quạnh, nơi mà không ai có thể bước với tôi, hướng đạo cho tôi đi qua: thì chính người đã bước qua nẻo đường đó, người đã xuống tận cõi chết, đã chiến thắng sự chết, và giờ đây đã trở về để dẫn đưa chúng ta và cho chúng ta niềm xác tín rằng, cùng với người, chúng ta tìm ra một con đường đi qua được” (Spe Salvi, số 6).
37 Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Đấng đã yêu thương chúng ta.
Dịch câu này là “vượt thắng được trong tất cả những sự ấy” thì chưa lột được ý nghĩa của bản Hy Lạp. Dịch sát nghĩa là “chúng ta còn hơn cả những người thắng trận trong những điều ấy” hoặc dịch như nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ: “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng.” Chúng ta toàn thắng tất cả mọi khó khăn kể trên bởi vì một khi có “Thiên Chúa về phe chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta được?” (Rom 8:31)
38 Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh,
Trong câu 38 và 39, Thánh Phaolô lại đưa ra một loạt những trở ngại khác mà chúng ta sẽ gặp.
Sự chết hay sự sống - Đối với những người không tin vào Thiên Chúa thì “sống ‘không có Thiên Chúa’ … là sống trong một thế giới tối tăm, đối diện với tương lai mịt mù” (Spe Salvi, 2). Còn đối với các Kitô hữu là sống “có tương lai, không phải là họ biết tường tận chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết cách tổng quát là cuộc sống của họ không kết thúc trong hư không. Khi tương lai được bảo đảm như một thực tại tích cực thì lúc đó hiện tại trở nên có thể sống được” (Ibid). Vì họ xác tín như Thánh Bakhita rằng: “Tôi nhất định được [Thiên Chúa] yêu thương và dù điều gì xảy đến cho tôi – tôi vẫn đang được chờ đón bởi Tình Yêu này. Và vì thế đời tôi thật là đẹp” (Spe Salvi, 3).
Thiên thần hay ma quỷ - Bản này dịch chữ αρχαι là “các bậc quyền quý”. Thật ra αρχαι thường được dịch là “quyền thần”. Chữ này trong Thánh Kinh được dùng cả cho các Thiên Thần (thần lành) lẫn cho ma quỷ (thần dữ). Theo mạch văn, Thánh Phaolô vừa nói đến sống hay chết, thì kế tiếp phải dịch là Thiên Thần hay ma quỷ để chỉ sự tương phản. Tuy nhiên ở đây cũng có thể hiểu là các thần minh của người Hy Lạp và Rôma. “Thánh Phaolô nhắc nhở dân thành Êphêsô rằng trước khi gặp gỡ Chúa Kitô, họ sống ‘không hy vọng và không có Thiên Chúa trên đời’ (Eph 2:12). Dĩ nhiên, thánh nhân biết rõ họ đã từng có những thần minh, ngài biết là họ đã từng có tín ngưỡng, nhưng những thần minh của họ đã cho thấy là đáng ngờ vực, và chẳng có tia hy vọng nào loé lên từ những huyền thoại đối kháng nhau” (Spe Salvi, 2). Những thần minh này thật ra chỉ là gỗ đá không làm hại gì được ai.
39 dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Cao hay sâu – Cao (υψωμα) hay sâu (βαθος) là những từ dùng trong khoa chiêm tinh để chỉ sự xa gần của một tinh tú so với thiên đỉnh (zenith). Chúng dùng để chỉ những quyền lực trong vũ trụ mà Dân Ngoại thời đó tin là có thể chi phối đời sống con người. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết về những thần linh này: “Tuy người ta có thể cảm nhận được thần thánh trong những cách thế khác nhau nơi những lực của vũ trụ, nhưng một Thiên Chúa mà người ta có thể cầu nguyện với Ngài thì không hiện hữu. Thánh Phaolô đã minh họa khá chính xác vấn nạn then chốt của tôn giáo trong thời kỳ này khi ngài tương phản cuộc sống ‘theo Chúa Kitô’ với cuộc sống dưới sự khống chế của ‘các lực vũ trụ’ (Cl 2:8). Về phương diện này, một đoạn văn của Thánh Grêgôriô thành Nazianzen có thể giúp soi sáng. Ngài nói rằng chính khi Ba Nhà Đạo Sĩ, được hướng dẫn bởi vì sao, thờ lạy Chúa Kitô vị Tân Vương, thì khoa chiêm tinh đã đến hồi kết thúc, vì các vì sao giờ đây di chuyển trong một quỹ đạo được xác định bởi Chúa Kitô. Cảnh tượng này thực ra lật ngược thế giới quan của thời đó, một thế giới quan trong một cách thế khác đã trở nên thịnh hành một lần nữa trong thời đại hôm nay. Không phải những lực lượng trong vũ trụ, những luật vật chất, chi phối tối hậu thế giới và nhân loại, nhưng chính Thiên Chúa cai quản các vì sao, nghĩa là vũ trụ; không phải những định luật về vật chất và tiến hóa có tiếng nói sau cùng nhưng là lý trí, ý chí, tình yêu – một Ngôi Vị. Và chúng ta biết Ngôi Vị này, và Ngài cũng biết đến chúng ta, thành ra, thực sự là thế lực mù quáng của các yếu tố vật chất không còn tiếng nói sau cùng; chúng ta không phải là những nô lệ của vũ trụ và các định luật của nó, chúng ta là những người tự do. Trong những thời cổ đại, sự suy xét lý trí cách thành thực cũng nhận ra điều này. Thiên đàng không phải là hư vô. Đời sống không chỉ là hệ quả của những định luật và sự ngẫu nhiên, nhưng bên trong mọi thứ và cùng lúc vượt lên mọi thứ là một ý chí, một Thần Khí mà qua Đức Giêsu đã tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như một Tình Yêu” (Spe Salvi, 5).
Tình yêu Thiên Chúa được thể hiện trong Đức Kitô là một nền tảng bất di dịch của đời sống và hy vọng của mọi Kitô hữu. Không một điều gì hay một ai hoặc một quyền lực nào có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu ấy bao lâu chúng ta thực tâm gắn bó với Đức Kitô.
Kết Luận
Không có gì thích hợp hơn để kết luận bài này bằng lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI: “Con người được giải thoát bởi tình yêu. Điều này đúng ngay cả đối với thế giới ngày nay. Khi một người cảm nghiệm được một tình yêu cao đẹp trong đời, đó là giây phút người ấy được ‘giải thoát’, là giây phút đem đến một ý nghĩa mới cho cuộc đời. Nhưng chẳng mấy chốc người ấy nhận ra rằng tình yêu được trao ban trên mình tự nó không giải quyết được vấn nạn đời mình. Đó chỉ là một tình yêu giữ nguyên tính mong manh của nó. Tình yêu đó có thể bị huỷ diệt bởi cái chết. Con người cần đến một tình yêu vô điều kiện. Con người cần đến một sự chắc chắn khiến họ nói được: ‘cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực sâu hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, sẽ không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta’ (Rm 8:38-39). Nếu tình yêu tuyệt đối này tồn tại, với sự chắc chắn tuyệt đối của nó, thì lúc đó – và chỉ khi đó – con người được ‘cứu rỗi’, dù cho chuyện gì sẽ xảy đến với người ấy trong những điều kiện cụ thể của họ. Điều này nói lên là: Chúa Giêsu Kitô đã ‘cứu rỗi’ chúng ta. Qua Ngài chúng ta trở nên chắc chắn về Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa không phải là một ‘căn nguyên (first cause)’ xa xôi của thế giới, bởi vì Con một-tự hữu của Ngài đã hóa thành phàm nhân và mọi người có thể nói về Người: ‘Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi’ (Gl 2:20)” (Spe Salvi, 26).
Lạy Chúa, xin đừng bao giờ để con lìa xa Tình Yêu Chúa. Amen
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến:TN18-A49
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: “Tiến tới việc loan báo Giáo Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc “Hành trình đức tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các chương này, Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
- Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần: 1) Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (14,13-14): a) Hoàn cảnh (c. 13), b) Đức Giêsu chữa bệnh (c. 14); 2) Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21): a) Hoàn cảnh (cc. 15-18), b) Đức Giêsu nuôi đám đông nhờ trung gian các môn đệ (c. 19-20a); 3) Kết luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc. 20b-21).
3.- Vài điểm chú giải
- nơi hoang vắng (13): dịch sát là nơi “sa mạc”. Phép lạ hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến chúng ta nhớ đến Môsê đã xin Chúa ban man-na cho đoàn dân trong thời gian họ tiến đi trong sa mạc để về Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).
- chạnh lòng thương (14): dịch sát là “đau đớn quặn thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi nhận là Đức Giêsu “động lòng thương” (esplanchnisthê: 9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng những hành vi cứu chữa.
- chiều đến (15): Ghi nhận là bài tường thuật Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt đầu với công thức chỉ thời gian này (26,20).
- ngả mình trên cỏ (19): Chi tiết này cho hiểu đây là thời gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt qua. Anaklithênai, “ngả mình”, là động từ gợi ý đến một bữa tiệc, bởi vì khi ăn, các thực khách Do-thái “ngả mình” trên những chiếc bàn thấp (đi-văng). Bài tường thuật bí tích Thánh Thể cũng dùng một động từ tương tự (“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc” = ngả mình [anekeito] trên giường tiệc; Mt 26,20).
- cầm lấy … dâng lời chúc tụng … bẻ ra … trao cho (19): Đây là chuỗi động từ được dùng trong bài tường thuật về bí tích Thánh Thể (so sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”: labôn/labôn; “bánh”: artous/arton; “dâng lời chúc tụng”: eulogêsen/kai eulogêsas; “bẻ ra”: klasas/eklasen; “trao cho các môn đệ”: edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais) . Việc bẻ bánh luôn luôn là một nghi thức được thực hiện trong bữa tiệc.
- … trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng (19): Các môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám đông. Mt dùng một động từ duy nhất (didômi, “cho, trao cho”) để nói về hành động của Đức Giêsu và của các môn đệ. Trong khi trong Mc (6,41) và Lc (9,16), các tông đồ “mang; phân phát” (Mc: paratithôsin; Lc: paratheinai) bánh cho đám đông, trong Mt, các ông có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp nối công việc của chính Đức Giêsu.
- những mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa tiệc Do-thái, có việc bẻ bánh trao cho nhau như một nghi thức. Những mẩu bánh thừa khiến nhớ lại “nghi lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và môn đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã về trời (x. Cv 2,42; 20,7).
- năm ngàn đàn ông (21): Không chắc đây là con số chính xác (làm sao đếm xuể?). Có lẽ Mt muốn so sánh Đức Giêsu với ngôn sứ Êlisa và cho thấy Đức Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 Vua 4,42-44, Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều để nuôi 100 người (từ 1 thành 5). Ở đây Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để nuôi 5000 người (từ 1 thành 1000). Vậy Đức Giêsu cũng là một ngôn sứ có khả năng làm phép lạ, nhưng cao trọng hơn Êlisa nhiều.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (13-14)
Hoàn cảnh lúc đó là Đức Giêsu muốn lánh đi về một nơi hoang vắng riêng biệt. Tuy nhiên, đám đông dân chúng biết tin liền đi theo Người. Đây không phải là lần đầu tiên Mt cho thấy Đức Giêsu có đám đông đi theo (x. 8,1; 12,15). Vẫn chính là Người hướng dẫn cộng đồng những kẻ lưu đày về quê hương. Lần này, đám đông thậm chí còn đi trước Người, đưa theo những người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy vọng của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực bội nóng giận vì dân chúng làm mất sự yên tĩnh, cũng không tỏ ra lãnh đạm với đoàn dân; Người thương cảm họ sâu xa (esplanchnisthê), hẳn cũng vì một lý do như ở 9,36 (x. thêm 15,52): “vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”.Thế là Người lại hòa mình vào giữa đám đông để chữa bệnh cho họ. Hành vi đầu tiên Người làm lúc này là chữa bệnh: các sự dữ không chỉ được khoan nhượng, mà còn bị loại trừ.
* Đức Giêsu nuôi đám đông (15-21)
Khi chiều đến, các môn đệ là những người thực tế, đánh giá tình hình khách quan, đã đến đề nghị Đức Giêsu giải tán đám đông, để họ có thể tùy nghi vào các làng mạc mà mua lương thực. Chẳng những không đồng ý, Đức Giêsu còn yêu cầu các ông cho đám đông ăn. Đây là một yêu cầu rất thiếu thực tế, mà chính Đức Giêsu biết. Người chỉ muốn các môn đệ cộng tác với Người để làm công việc cung cấp lương thực cho dân chúng. Và kết quả đã chứng tỏ: các ông chỉ có việc trao cho Người chút lương thực ít ỏi của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn của Người. Bài này được tác giả viết với những công thức của bài tường thuật về bí tích Thánh Thể nhằm giới thiệu trước bí tích Thánh Thể.
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, nên cũng cần được giải thích theo hướng đó. Đức Giêsu ở tại trung tâm, Người là nguồn mạch ban phát mọi ân huệ, Người ban lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ các môn đệ bao quanh Người. Họ ở sát bên Người, họ chuyển thông các ân huệ của Người, họ như là cánh tay Người nối dài ra. Đám đông được Đức Giêsu quy tụ lại thì ngồi xung quanh các ngài: họ vui sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời khi đọc lời chúc tụng. Người làm những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga 5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như Môsê, hay chỉ là một ngôn sứ nhỏ như Êlisa ngày xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn sự sống. Tương quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa với một trăm người được ăn no (1 thành 5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu với năm ngàn người được no nê (1 thành 1000) nêu bật sự trổi vượt của phép lạ thứ hai. Đức Giêsu là một ngôn sứ và một Đấng làm phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa nhiều.
* Kết luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (20b-21)
Bản văn hẳn cũng song song với truyện phép lạ man-na, cũng xảy ra trong hoang địa trước đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh và cá hôm nay thay thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những dấu lạ này, Đức Giêsu xuất hiện như nhà giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm chiếc bánh, tượng trưng năm quyển sách của Torah mới (Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi đoàn dân Thiên Chúa đang tiến về đất hứa. Những chi tiết này đặt sánh đôi Đức Kitô với Môsê, Họi Thánh với cộng đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải phóng đích thực, vị mục tử, nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa, dẫn dắt một đoàn dân bị bỏ rơi và đang tiến đi trong sa mạc trần gian này, là một mình Đức Giêsu.
Trong nền văn chương kinh sư, bữa tiệc là biểu tượng của cộng đoàn cánh chung (hiệp thông đời sống: St 31,54; Xh 18,12; 1 Sm 9,12; Am 2,8; Hs 8,13; và niềm hạnh phúc thời thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1; Is 25,6; Tv 23,1-5). Việc Đức Giêsu quy tụ các môn đệ và dân chúng ở bờ hồ như thế trở thành nghi thức khai mạc thời đại mới. Sa mạc, nơi đầy những thử thách và gai góc, đã trở thành một khu vườn.
+ Kết luận
Biến cố được kể trong bản văn này là một hình ảnh về Họi Thánh. Đức Giêsu ở ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ đó phát xuất mọi ân huệ, Người ban Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ. Các ông ở ngay bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân huệ Người ban, các ông là như cánh tay nối dài của Người. Dân chúng được quy tụ lại thì ngồi chung quanh Người; họ sung sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời mà đọc lời chúc tụng. Người hướng về Thiên Chúa là Cha của Người, là Đấng mà Người luôn tìm biết ý muốn để chu toàn (x. Mt 11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ còn là một trung gian như Môsê xưa kia nữa; Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn mạch từ đó phát xuất ra sự sống.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Đức Giêsu: cứu chữa. Nhưng họ chỉ có thể học được bài học này, nếu họ có trái tim của Đức Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trá tim đầy tình yêu thương.
2. Không được quá đề cao cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26), nhưng cũng không được quên cơm bánh vât chất (6,11). Phải nghĩ đến việc nuôi bản thân (6,11), nhưng cũng phải quan tâm đến việc nuôi sống người khác. Người Kitô hữu không được ăn uống một mình, vì luôn ở giữa một đoàn anh chị em đang chờ đợi thức ăn họ thiếu. Họ phải đi ra khỏi tình trạng cô lập mà sống trong cộng đoàn và trong sự hiệp thông với mọi người. Bài học hôm nay cho hiểu rằng họ chỉ việc dâng cho Đức Giêsu chút tài nguyên ít ỏi của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn của Người.
3. Trong khi trong bản văn Ga 6, các tông đồ không có sáng kiến nào, trong các TMNL, chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi về cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám đông, cuối cùng nhận được nhiệm vụ phân phát bánh và thu gom các mảnh vụn còn dư. Các môn đệ nhận lệnh đưa bánh và cá, chuẩn bị và phục vụ bữa ăn. Công việc của các ông nối dài công việc của Đức Giêsu. Hôm nay, các mục tử cũng không thể bỏ mặc đoàn chiên thiếu lương thực thiêng liêng và nhất là lương thực Thánh Thể.
4. Mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu sống một biến cố mang tính Giáo Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu Người. Sau đó, họ được mời gọi ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi (loan báo Tin Mừng)”) để, cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm bánh” nuôi dưỡng nhân loại và kiến tạo một thế giới mới.
Trong mẻ lưới cuộc đời, tôi bắt được nhiều thứ cá. Tôi buông lưới kéo lên. Rác rưởi, cá, đất sỏi: TN18-A50
Trong mẻ lưới cuộc đời, tôi bắt được nhiều thứ cá. Tôi buông lưới kéo lên. Rác rưởi, cá, đất sỏi, vỏ dừa. Người ngư phủ nào cũng cần ngồi nhặt cá. Ðời tôi quá bận rộn, tôi không có giờ. Tôi cần gấp gáp thả lưới. Tôi chỉ muốn kéo lên. Ðổ cá đó, xuống chợ đời tiếp tục thả. Vì đời quá nhiều người thả lưới. Tôi sợ sẽ đi về đâu cuối ngày khi chung quanh tôi có kẻ thả lưới suốt đêm.
Tôi phải hối hả. Tôi cần gấp gáp. Tôi không có giờ ngồi bên bờ nhặt cá. Tôi để đó, lẫn lộn những gì kéo lên từ cuộc đời.
“Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé.”
Tôi vẫn thường để lại những lời yêu thương như thế. Rồi con tôi lớn dần. Chúng lớn không ngờ. Những đêm về trễ, tôi nhìn con ngủ. Cúi xuống hôn con. Mẹ ước ao có giờ cho con, nhưng mẹ quá bận rộn. Lòng tôi chùng xuống một chút se sắt. Con ngủ, con không biết mẹ mình sau một ngày thả lưới quá mệt, đang hôn con trong khoảnh thời gian, mà đối với con chẳng ý nghĩa gì, vì con đang ngủ. Tôi gắn tên cửa tủ lạnh, tôi gài trên tay cầm phôn những lời căn dặn yêu thương. “Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé.”
Rồi con tôi cứ lớn lên, không ngờ.
* * *
Chồng tôi cũng thế. Anh phải thả lưới cuộc đời. Như tâm sự của anh viết trong ánh mắt, một lần tôi đọc. Tôi thấy trong ánh mắt anh, như nói trong tâm trạng băn khoăn. Cũng chùng xuống một chút se sắt như tôi đối với con.
Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ… Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project đang dang dở. Em yêu dấu.
Ai cũng bận rộn, hối hả thả lưới cuộc đời. Tôi chỉ hơi buồn mỗi khi vắng anh như thế. Có buồn, nhưng tôi im lặng chịu đựng vì tôi cũng bận rộn như anh. Cuộc đời là những rượt bắt không ngừng. Chung quanh tôi là những bàn chân hối hả.
* * *
“Con của ba! Ba tặng con món quà ngày sinh nhật.”
Ðã có lần chúng tôi nói với nhau. Mình chẳng có thời giờ cho con. Thôi thì bù trừ cho chúng, chúng muốn gì em cứ mua. Chúng tôi mua quà cho con như một yêu thương đền bù. Chúng tôi lấy đồ chơi thay cho nụ hôn ôm con, lúc chúng còn bé. Chúng tôi lấy tiền bạc, quà tặng thay cho những bữa cơm chiều vắng bố, vắng mẹ, khi chúng đã lớn. Chúng tôi cũng đối xử với nhau như thế. Anh vội vã tạt vào shop mua cho tôi chiếc ví da, thay vì những phút phải đi bên nhau tâm sự. Thời gian cứ trôi xuôi lạnh lùng. Tôi cứ thả lưới và nặng nề kéo lên.
Người ngư phủ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ. Sau mỗi mẻ lưới kéo lên, ông ngồi kiên nhẫn, chậm rãi vứt cá xấu đi.
Tôi không giống người ngư phủ. Tôi có nghe mùi tanh của một loài cá ươn. Tôi biết có rác, có đỉa, có củi mục trong mẻ cá vừa kéo. Nhưng tôi không có giờ.
* * *
Năm tháng qua đi không ngờ. Con tôi bây giờ cũng như bày cá đến tuổi lớn. Chúng dần dần bỏ bến ao, tìm đường ra sông cái. Vào đại học rồi đi xa. Ðôi khi tôi thẫn thờ lần về quá khứ. Những tấm ảnh con tôi lúc lên năm, lên ba. Chỉ nhớ và thương.
Rồi một ngày chồng tôi cũng như tôi, không biết những tấm hình năm xưa chụp chung bây giờ ở đâu. Trong mẻ lưới cuộc đời, anh cũng chẳng có giờ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu quăng đi. Ðến một ngày tôi linh cảm bơ vơ một nỗi lo âu, mệt mỏi và chán nản. Ðó là ngày tôi vô tình nghe mẩu đối thoại:
- I love you. - I love you too.
Chồng tôi bảo em không nên lo. Không phải chuyện tình cảm. Chỉ là công việc làm ăn của anh. Anh tiếp tục thả lưới và cứ hì hục kéo lên. Tất cả, cá tốt lẫn cá xấu. Tôi không biết rõ mình. Nhưng trong tôi dường như thấy một chút hoang vu nào đó đi về. Nỗi hoang vu khó định nghĩa. Về phía mẻ lưới của tôi, lần cuối tôi nói với người đàn ông không phải chồng tôi:
- Anh gởi cho em về hộp thư này.
Tôi không muốn chuyện gì xảy ra cho gia đình. Tôi muốn gìn giữ hạnh phúc. Không muốn chồng tôi hiểu lầm. Tôi có hộp thư riêng, một P.O. Box. Tất cả chỉ là công việc làm ăn. Những gì tôi lý luận cũng giống chồng tôi. Và tôi tiếp tục thả lưới. Tiếp tục kéo lên tất cả. Chúng tôi giống nhau là không ai có giờ ngồi bên bờ nhặt cá xấu vứt đi. Mơ hồ lãng đãng, tôi không phân biệt được cá nào lành. Tôi yêu mầu sắc của những con cá độc. Tôi không hiểu tình yêu hôn nhân chúng tôi có tiếng thở dài từ bao giờ. Chỉ biết hôm nay, tiếng thở dài quá mệt mỏi.
* * *
Thời gian cứ trôi, rồi đến một ngày. Những con cá ươn sình lên mùi hôi. Rác chung với cá. Mảnh chai, vỏ dừa. Những con đỉa và những càng cua gẫy nát. Tốt và xấu lẫn lộn. Những con cá lành bị nhiễm độc.
Khi chiều tàn mệt mỏi. Lúc hoàng hôn rủ nắng xuôi mùa. Những cơn mưa lộp độp kéo về, cũng là lúc chúng tôi mất nhau.
Chồng tôi ra đi với người ấy.
Tôi quay về tấm lưới cuộc đời xuôi theo loài cá khác.
Nhìn lại những bến bờ. Lời Kinh Thánh như một nốt nhạc than trầm:
“Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng xảy ra như vậy. Các thiên thần cũng sẽ xuất hiện, và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt. 13: 47-50).
Hạnh phúc không chỉ giống như chiếc lưới thả xuống biển rồi kéo lên tất cả. Hạnh phúc hệ tại ngồi bên bờ, nhặt cá xấu vứt đi. Tôi để con tôi vào đời giống tôi. Chúng đã lớn lên, học nơi tôi những mẻ lưới hối hả. Tôi đã từng dạy chúng phải nhanh chân kẻo thua trễ người ta. Tôi không chỉ cho chúng ngồi bên bờ, sau mỗi mẻ lưới, nhìn kỹ, nhặt cá xấu vất đi.
Chúng đang thả lưới. Ðời đang hối hả. Con tôi có sẽ tự ngồi bên bờ lựa cá tốt cho vào giỏ, cá xấu thì vất đi? Hay chúng cũng sẽ như tôi, hối hả kéo lưới, tiếp tục gắn trên cửa tủ lời nhắn với các con của chúng: “Con ơi, má thương con thật nhiều. Má phải về trễ đêm nay.”
Người ta bận rộn thả lưới
Chẳng mấy ai có giờ ngồi bên bờ xem mẻ lưới đời mình.
Biết đâu ngày nào, người chồng của con gái tôi cũng có những lời tương tự với nó: Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ… Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project anh đang dang dở.
* * *
Bạn thân mến,
Ðoản khúc trên đây thật buồn. Nhưng dường như đang xảy ra. Bạn cứ ngồi bên bờ, với Chúa trong những ngày tĩnh tâm, bạn sẽ thấy những gì bạn đang không thấy. Và rồi, biết đâu bạn lại chẳng hạnh phúc nuối tiếc vì đã không sớm ngồi bên bờ cuộc đời nhặt cá.
Nguyễn Tầm Thường, S.J.
(Trích tập suy niệm ÐƯỜNG ÐI MỘT MÌNH, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)