Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 22-B: Bài 151-181 Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân --------------------------------- Mục lục:
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Trong nỗ lực làm sạch sẽ thành phố Los Angeles chuẩn bị cho ngày thế vận hội Olympic Games, và TN 22-B151
Trong nỗ lực làm sạch sẽ thành phố Los Angeles chuẩn bị cho ngày thế vận hội Olympic Games, và để gây ấn tượng tốt đẹp cho thành phố lớn nhất nhì thế giới này, vấn đề được đặt ra là phải giải quyết thế nào đối với những người vô gia cư nghề nghiệp và những kẻ say sưa đi lang thang trong thành phố. Những người này không thể bị đuổi ra khỏi thành phố hay nhốt vào những trại tập trung. Có một hãng sản xuất quần áo địa phương đã có sáng kiến tặng 350 bộ tuxedo của đàn ông và áo dạ tiệc của phụ nữ để họ ăn mặc ngoài đường phố trong suốt 2 tuần lễ. Với biện pháp này, người ta hy vọng sẽ giấu được một góc cạnh xấu xa dơ bẩn của đời sống trong thành phố.
Đây chính là sự giả hình mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 7: 1-8; 14-15; 21-23. Ngài đã nói với những người Biệt Phái và Luật sĩ, những chuyên viên về luật pháp, những người đã tố cáo các môn đệ của Chúa Giêsu là không giữ những phong tục, nghi thức bề ngoài: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’” (Is 7: 6-7).
Trong cuốn “Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh” do Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X dịch thuật đã định nghĩa sự giả hình dựa trên hai yếu tố: sự câu nệ hình thức và cứng lòng.
William Barclay đã chia sẻ một câu chuyện liên quan đến vấn đề câu nệ hình thức như sau: Một vị Rabbi Do Thái cao niên bị giam trong một nhà tù của người La Mã. Mỗi ngày ông đều nhận một khẩu phần ăn uống. Sau một thời gian, vị rabbi trở nên yếu ớt, gầy còm xuống ký rõ rệt. Những nhân viên cai tù thắc mắc muốn biết ông có bệnh gì không, nên cho mời một bác sĩ đến khám. Bác sĩ chuẩn đoán là bệnh nhân bị mất nước trầm trọng. Những nhân viên coi tù không thể hiểu được tại sao lại có thể xảy ra như vậy được. Họ tin là phần nước uống của vị rabbi đã được cung cấp đầy đủ. Những người canh gác bèn được lệnh phải canh chừng kỹ lưỡng xem vị rabbi đã làm gì với phần nước của ông; khi đó thắc mắc mới được giải tỏa: Những người canh gác đã trông thấy vị rabbi cử hành nghi thức tôn giáo rửa tay trước khi cầu nguyện và ăn. Do đó, ông ta còn rất ít nước để uống.
Nhiều người cũng lầm lẫn nghi thức, phong tục, và tập quán bề ngoài với sự thánh thiện (2 Tm 3:5). Chúng ta có một loạt danh sách các kinh phải đọc, những việc phải làm: lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền Tin, tuần Chín Ngày, đeo Thánh Giá, đi Chặng Đàng Thánh Giá v.v… Chúng ta sẽ sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa là giữ những nghi thức này; hay là sẽ phạm tội nặng nếu không tuân giữ. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực chính là sự liên hệ yêu thương và mật thiết với Ngài (Ga 4:23). Sự liên hệ này mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sẵn sàng hy sinh phục vụ Ngài.
Qua những lời của tiên tri Isaia, Chúa Giêsu đã tố cáo sự giả hình trong tất cả mọi hình thức vì người giả hình chỉ sống bề ngoài mà không thực lòng (Rm 12:9). Họ giống như những người vô gia cư ăn mặc tuxedo đi lang thang trong thành phố Los Angeles. Sự giả hình không gì khác hơn là một sự dối trá trong hành động. Họ đánh lừa người khác bằng những thái độ tôn giáo bề ngoài để chiếm được lòng quý mến.
Những người giả hình là những người “tâm ngôn bất nhất”. Họ không thực hành điều họ giảng dạy. Họ tuyên xưng thờ kính Thiên Chúa, nhưng chỉ ngoài môi miệng. Họ dạy và giải thích lề luật, nhưng không hiểu tinh thần của luật. Trong nhiều trường hợp, chính họ cũng không tin những điều họ nói và làm. Họ thường giả bộ tốt lành với những người khác. Trong ý nghĩa này một người giả hình thường hành động để đề cao chính họ. Những việc ăn chay, cầu nguyện, bố thí… được họ đánh tráo nhằm đề cao họ (Mt 6:2,5,16). Họ không bao giờ nhìn thấy điều tốt đẹp nơi những người khác, nhưng luôn luôn bới móc tìm kiếm những khuyết điểm để phê bình chỉ trích. Và sau cùng mọi sự sẽ tập trung vào chính họ (Mt 23:1-36).
Đức Ông Arthur Tonne kể câu chuyện sau đây về một linh mục đã kêu gọi sự giúp đỡ khẩn trương vào giờ sáng sớm. Sau khi dâng Thánh Lễ, từ nhà thờ trở về nhà xứ, ngài bị một tên ăn cướp dí dao đằng sau lưng: “Tiền hay mất mạng!” Khi nhìn thấy cái cổ trắng của chiếc áo đen, nó ra lệnh cho ngài phải vứt cái ví xuống đất. Sau đó, vị linh mục cảm thấy nhẹ nhõm lấy một điếu thuốc lá ra hút và mời tên cướp một điếu. Nó bèn từ chối mà rằng: “Cám ơn cha. Vì là Mùa Chay nên tôi tạm bỏ hút thuốc.”
“Sự câu nệ hình thức thì có thể sửa đổi được, nhưng sự giả hình thì gần như sự ‘cứng lòng’… Các ‘mồ mả tô vôi.’ Họ muốn lường gạt người khác. Họ tưởng mình công chính” (Lc 18:9; 20:20) (Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh).
Thế kỷ vừa qua, Đức Giáo Hoàng Piô XII (1939 – 1958) đã cảnh giác loài người cứng lòng, đang huênh hoang về nền khoa học kỹ thuật của mình: “Tội của thế kỷ này là tội đánh mất cảm giác về tội lỗi.” Đức Gioan Phaolô II đã lớn tiếng nói rằng: “Chủ nghĩa trần tục hóa -secularism – chủ trương không có Thiên Chúa cũng không có tội lỗi. Tâm lý học chống lại những cảm giác tội lỗi. Xã hội học quy trách tất cả trách nhiệm cho xã hội và nghĩ mình là nạn nhân. Nhân chủng học đổ lỗi cho môi trường. Cả những nhóm thần học mới lên diễn đàn giải thích rằng không có tội.”
Không những thời đại văn minh khoa học ngày nay đã đánh mất cảm giác về tội, mà còn đề cao một số tội lên hàng nhân đức. Tội tà dâm được coi là sinh hoạt tính dục trước hôn nhân. Phá thai được coi như quyền của phụ nữ. Sự thụ thai được coi như một con bệnh có thể điều trị được. Trong cuốn “Final Exit”, cuốn sách được báo The New York Times coi là sách bán chạy nhất, xuất bản lần đầu 40 ngàn cuốn, bán sạch trong một thời gian rất ngắn, Derek Humphry đã hướng dẫn những cách thức để một người có thể tự tử bằng 18 cách khác nhau. Ông Humphry quan niệm rằng tự tử là một hành động cao quý, có thể chấp nhận được!
Những người chủ trương trên là ai? Họ có thể là những người mang danh Kitô hữu, nhưng chẳng bao giờ biết đến bản chất của Kitô giáo là gì. Họ được rửa tội nhưng chẳng bao giờ giữ đạo. Thế nhưng hằng năm đến ngày Lễ Tro cả trăm ngàn người lũ lượt đứng sắp hàng để lãnh tro trên trán. Họ là những thành phần trí thức như bác sĩ, y tá, các giáo sư đại học, các thương gia, kỹ sư, chuyên viên v.v… trong các hãng lớn đang bôn ba với tiền bạc, đứng sắp hàng dài ngoài phi trường chờ đợi lãnh tro. Xức tro là gì mà những con người văn minh trí thức ngày nay lại biến nó trở thành như bản chất thiết yếu của tôn giáo vậy? Họ nghĩ rằng không cần phải giữ điều gì cả, chỉ cần lãnh tro một năm một lần, hay đến nhà thờ vào dịp lễ Giáng Sinh hay Phục Sinh. Đối với họ thế là đủ, thế là tròn việc giữ đạo!
Một người không phải là Kitô hữu, đã biết tự vấn lương tâm mình bằng một danh sách của 7 trọng tội. Đó là sự giàu có mà không làm việc, hưởng khoái lạc mà không có lương tâm, làm thương mại mà không có luân lý, khoa học mà không có sự khiêm tốn, thờ phượng mà không có hy sinh, có kiến thức mà không có lễ phép, làm chính trị mà không có nguyên tắc. Chúng ta đã phạm những tội nào? Tôn giáo không phải chỉ là những nghi lễ. Đời sống tinh thần không phải chỉ là giữ những luật lệ. Và những hình thức bề ngoài chưa hẳn là sự thánh thiện (Mt 7:15; 24:4).
Có hai vị tu sĩ nọ, một trẻ và một già, đang thả bộ xuống phố vào một ngày mưa tầm tã. Nước mưa ngập lụt phố phường. Họ gặp một cô gái trẻ đẹp ăn mặc tơ lụa gấm vóc. Cô muốn băng qua khúc đường lầy lội để về nhà phía bên kia đường. Vị tu sĩ trẻ bèn trạnh lòng thương: “Này cô, tôi giúp cô một tay nhé!” Với cánh tay khỏe mạnh của mình, người tu sĩ trẻ đã ẵm cô gái trẻ băng ngang khúc đường lầy lội. Rồi hai vị tu sĩ bước đi trong sự “thinh lặng đáng sợ” cho đến khi họ trở về đến tu viện. Vị tu sĩ cao niên không thể nào chịu đựng nổi bèn lên tiếng: “Các nhà tu hành không nên gần gũi những phụ nữ trẻ, nhất là những người đẹp như cô gái này! Tại sao thầy lại làm như vậy?” Thầy dòng trẻ trả lời: “Thưa thầy, em đã bỏ cô gái ở dưới phố rồi, nhưng thầy, thầy lại mang cô ấy về đến nhà dòng này.”
Chúng ta thấy có hai khuynh hướng trái nghịch nhau trong đời sống thiêng liêng Kitô hữu, tạm gọi là THOÁT TỤC và VÀO ĐỜI. Tinh thần “thoát tục” hay xa tránh cõi trần nhấn mạnh vào lòng đạo đức qua việc tuân giữ những luật lệ tôn giáo nghiêm nhặt, và tránh xa khỏi những người được coi là tội lỗi hoặc không đứng đắn vì sợ sẽ bị lây nhiễm.
Còn tinh thần “vào đời” lại nhấn mạnh đến sự liên đới chặt chẽ với những người đáng thương, những người thường bị coi như là xấu xa trần tục. Với tinh thần “vào đời”, nhập thế, người tín hữu không xa tránh, nhưng dang rộng cánh tay tới những người đang cần giúp đỡ.
Đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu cốt ở sự quân bình, và dung hòa hai khuynh hướng này như Thánh Giacôbê Tông Đồ đã nhắn nhủ trong bài đọc II: “Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế của thế gian” (Gc 1:27).
Trong Cựu Ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn TN 22-B152
Trong Cựu Ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật.
Luật quan trọng hơn là Lề luật thành văn, căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít qui tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một nghi thức nhất định. Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “dơ”, được ghi thành luật của Maisen trong sách Lêvi, được thêm vào nhiều chi tiết và qui định rõ ràng qua truyền thống.
Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lệnh truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Kinh. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi vì nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống, nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xẩy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: tuân giữ những nghi thức này thì được kể là làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn không giữ chúng đồng nghĩa với phạm tội. Nói tóm lại, tuân giữ những nghi thức bên ngoài này được đồng hóa, được đánh giá là đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước. Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra: Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong Thánh Lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc: ”Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm xin Ngài thanh tẩy” (Ps 51:3-4). Nhưng tiếc thay, nhiều người Do Thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình. Vì thế, nhà thần học William Barclay nói: ”Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác.”
Chúng ta phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các luật sĩ Do Thái: họ giữ luật Maisen cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của Lề Luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do Thái Giáo.
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều (Mk 7:17-23). Cái đó ở trong nội tâm chứ không phải ở bên ngoài.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Đối với lòng nhiệt thành giả tạo có vẻ quá hình thức này, Đức Giêsu trách cứ họ hai điều: một là giả hình, hai là làm đảo lộn giá trị. Họ giả hình vì cũng như thời tiên tri Isaia, người ta không nghĩ đến sự hối cải trong các tâm hồn, mà chỉ bận tâm đến việc thực hiện mấy việc bên ngoài: ”Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người” (Is 29,13). Hơn nữa, Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, có nghĩa là sự gian dối không có chỗ nơi Ngài, không được Ngài ưa thích và ủng hộ. Trái lại, Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi, nhưng khinh chê những người đạo đức giả (Lc 16:15). Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình.
Nếu chỉ có những hành động bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước mặt Chúa. Còn những người luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen mà ta gọi là “việc đạo đức”, những hình thức do con người sáng tạo…thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư Máy.” Vị Sư Máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật Giáo khác nhau tại Nhật. Như tác giả bài báo ghi nhận, những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Họ chỉ giữ tập tục của tiền nhân là những tập tục của con người đặt ra. Các tiền nhân của người Do Thái đặt ra nhiều tập tục tỉ mỉ mà các biệt phái và luật sĩ tuân giữ rất nhiệm nhặt. Biệt phái là những người Do Thái rất sùng đạo, nhưng sùng đạo cách giả hình, vụ hình thức, vì họ chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài như nhiệm nhặt gìn giữ các tục lệ của tiền nhân, chuộng hình thức bên ngoài mà không có tinh thần bên trong.
Chúa khiển trách họ: ”Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người, vì các ngươi bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mk 7:6-9). Chúa khiển trách họ là người làm đảo lộn giá trị vì họ chỉ chú ý đến việc tuân giữ các tập tục của tiền nhân mà lại bỏ qua những giới răn căn bản của Chúa. Họ coi trọng việc thuộc về con người hơn việc thuộc về Thiên Chúa.
Nhân dịp các luật sĩ chê trách các Tông Đồ không rửa tay khi dùng bữa, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học: cái xấu xa không phải từ ngoài mà vào mà ở trong mà ra. Ngài nói: ”Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mk 7:20-23). Do đó, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay việc dữ.
Theo lời Chúa dạy, chúng ta thấy yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bề ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác; hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm quyền hành nhằm thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều.
Tin Mừng Máccô cho chúng ta thấy Đức Giêsu là người thầy luôn bênh vực môn đệ của mình khi TN 22-B153
Tin Mừng Máccô cho chúng ta thấy Đức Giêsu là người thầy luôn bênh vực môn đệ của mình khi các ông không làm theo những gì Luật Môsê quy định. Ngài đã làm như thế không phải một lần, nhưng rất nhiều lần. Vì thế mâu thuẫn giữa Ngài và các Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ngày càng căng thẳng.
Các ông Biệt Phái và Kinh Sư là giai cấp lãnh đạo, được trọng vọng trong xã hội tôn giáo Do Thái, và tất nhiên họ phải bảo vệ Luật Môsê một cách triệt để, nếu không nói là cực đoan, vì chỉ có Luật Môsê mới đảm bảo hữu hiệu vị thế và lợi thế của họ. Chính vì thế, bất cứ ai vi phạm Luật Môsê đều bị họ lên án, không kể gì Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai.
Thực ra Đức Giêsu không chủ trương, cũng không kích động các tông đồ chống lại Luật Môsê và Truyền Thống của cha ông; trái lại Ngài công nhận và tuân giữ. Nhưng Ngài muốn đặt lại cho xã hội tôn giáo lúc bấy giờ, cũng như cho các ông Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ý nghiã, mục đích của Truyền Thống, Lề Luật :
1. Truyền Thống, Lề Luật phải phục vụ hạnh phúc của con người:
Điểm thiết yếu Đức Giêsu đặt ra cho các ông Biệt Phái, Luật Sĩ là mục đích của Truyền Thống, Lề Luật. Nếu Truyền Thống, Lề Luật không đem lại hạnh phúc cho con người, không làm cho con người được sống xứng danh con người, không tạo điều kiện để nhân phẩm được bảo vệ và phát triển, không xây dựng đời sống con người ngày càng trở nên tốt đẹp, thoải mái hơn, nhất là không phát huy tình huynh đệ, tương trợ giữa người với người thì Truyền Thống, Lề Luật ấy không đáng được tồn tại, gìn giữ.
Có rất nhiều Truyền Thống, Lề Luật không góp phần xây dựng đời sống con người, không tạo điều kiện cho cuộc đời đáng sống hơn, nhưng nghiền nát, xóa bỏ con người và làm cuộc sống trở nên ngột ngạt, nặng nề. Dưới áp lực này, con người và hạnh phúc của con người không còn là mục tiêu phục vụ của Truyền Thống, nhưng Truyền Thống là ông chủ khắc nghiệt của con người, mà mọi ý muốn của ông chủ khó tính phải được đầy tớ là con người thoả mãn, đáp ứng chính xác, trọn vẹn, từng chi tiết. Cuộc sống làm người và hạnh phúc của xã hội loài người không còn là đích điểm của Lề Luật, nhưng Lề Luật truy sát, khống chế xã hội và biến những con người sống trong xã hội đó thành những tù nhân bất hạnh.
Chủ nghiã vị luật, nghiã là chủ nghiã thượng tôn Lề Luật, thần tượng Lề Luật, coi Lề Luật là chân lý tuyệt đối, uy lực tuyệt đối, phán quyết tuyệt đối và cho Lề Luật quyền sinh sát trên con người là chủ nghiã cực kỳ phi nhân, vì hoàn toàn loại bỏ con người, phủ nhận chỗ đứng không thể thay thế, hoán nhượng của con người, và sẵn sàng nhẫn tâm khước từ hạnh phúc của con người để mù quáng phục vụ một hệ thống Lề Luật, một cơ chế Truyền Thống lạnh lùng, vô cảm, xa rời nhu cầu và khắc khoải đích thực của con người.
Con người ở trong cơ cấu vị luật, cơ chế suy tôn Truyền Thống ấy sẽ chỉ còn là những thân phận nô lệ của Lề Luật, tôi đòi của Truyền Thống, bởi chủ nghiã và khuynh hướng vị luật cực đoan, mù quáng này thường nhân danh con người để củng cố Lề Luật, Truyền Thống, khi con người vừa được gọi tên, tuyên dương là công chính, đạo đức theo tiêu chuẩn đánh giá của Truyền Thống, Lề Luật, vừa bị Truyền Thống, Lề Luật phủ nhận, quật ngã, chà đạp.
Đức Giêsu chống lại chủ nghiã vị luật này, vì con người bị xúc phạm, nhân phẩm bị tổn thương, hạnh phúc bị chối bỏ. Với Ngài, con người là quan trọng hơn hết dưới mắt Thiên Chúa, và Lề Luật, Truyền Thống, tuy cần thiết nhưng phải nhắm đến hạnh phúc của con người:
Sau khi chữa lành một người bất toại đã ba mươi tám năm bên hồ nước tại Bétdatha, “hôm đó là ngày sabát, người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh” : “Hôm nay la ngày sabát, anh không được phép vác chõng!” Nhưng anh đáp: “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi : Anh hãy vác chõng mà đi”!.. “Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát” (Ga 5, 9-10.16).
Luật Môsê quy định cả đến vác chõng về nhà, sau khi được chữa lành cũng không được làm trong ngày sabát. Tinh thần vị luật quá đáng khi nghiêm cấm làm việc trong ngày sabát đã bị Đức Giêsu chống lại khi Ngài qủa quyết : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17) trước đám đông người Do Thái đang phẫn nộ lên án Ngài vì Ngài đã chữa bệnh này sabát, trái với Lề Luật.
Đức Giêsu cũng cho những người Do Thái thời đó hiểu rằng : việc tốt lành, thiện hảo là điều Thiên Chúa mong ước con người thực hiện cho nhau, nên Luật ngày sabát không thể ngăn cấm những việc làm bác ái, tương trợ , khi Ngài đặt cho họ câu hỏi: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi”? (Mc 3, 4), khi Ngài chữa người bị bại tay trong ngày sabát.
Nhưng rõ nét hơn là khi Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua một cánh đồng lúa.
“Dọc đường, các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người Pharisiêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát!” (Mt 12,1-2). Sau khi trưng dẫn cho người Pharisiêu câu chuyện vua Đavít đã cho phép các thuộc hạ vì đói được ăn bánh đã cung tiến Thiên Chúa, bánh mà chỉ các tư tế mới được ăn và là điều Lề Luật nghiêm cấm, Đức Giêsu đã khẳng định : “Con người làm chủ ngày sabát” (Mt 12,8), chứ không phải ngày sabát làm chủ con người. Điều đó có nghiã Lề Luật được làm nên để phục vụ con người, để con người được sống trong trật tự, an bình, hạnh phúc, chứ không để khống chế, áp đảo, giam hãm, hủy diệt con người.
Tóm lại, Đức Giêsu không chủ trương hủy bỏ Lề Luật, nhưng Lề Luật, Truyền Thống chỉ có giá trị khi phục vụ con người, giúp con người sống tốt, sống đẹp, sống hạnh phúc. Lề Luật là phương tiện để con người trưởng thành trong đức ái, huynh đệ. Lề Luật cần cho xã hội, với điều kiện Lề Luật không vi phạm, làm tổn thuơng con người trong xã hội ấy. Vì thế, Lề Luật phải luôn giữ được tính nhân văn, để luôn luôn có thể khéo léo uyển chuyển trong những trường hợp cần thiết hầu giữ được ý nghiã, mục đích của Lề Luật là phục vụ con người, thăng tiến đời sống con người và mưu cầu hạnh phúc đích thực cho con người.
2. Tinh thần vị Truyền Thống, Lề Luật có thể làm phân liệt nhân cách :
Khi dùng lời của ngôn sứ Isaia để nói với những người Pharisiêu: “Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dậy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,6-7) , Đức Giêsu đã nói lên nguy cơ phân liệt nhân cách, nói cách khác,nguy cơ giả hình ngay tự bản thân của người sống tinh thần vị luật cách mù quáng, cực đoan.
Thực vậy, một khi quá đóng khung vào hệ thống rườm rà, trói buộc và mang tính trình diễn hời hợt bên ngoài của Truyền Thống, Lề Luật, người ta sẽ dễ dàng và mau chóng bỏ quên những gì chân thực từ trái tim, những sự thật đáng trân trọng của tâm hồn, những rung cảm trung thực của tấm lòng, những tốt đẹp khó tìm thấy của tim óc. Bị cuốn hút vào chủ nghiã duy Lề Luật, người ta sẽ chỉ chăm chú soi từng nét chữ trong Lề Luật, cẩn thận giữ từng dấu phẩy của quy tắc, nghiêm khắc với từng chi tiết vụn vặt, cỏn con của Truyền Thống, mà quên đi chính con người của mình và anh em. Tình trạng phân liệt giữa bên ngoài và bên trong, giữa hành động và ý nghĩ, giữa đòi hỏi của Lề Luật và thao thức vi tha thầm kín làm nên mâu thuẫn nội tại rất căng thẳng. Để làm dịu căng thẳng của mâu thuẫn nội tại này, người ta bắt buộc phải giả dối, sống nhiều mặt, và đó là hiện tượng giả hình mà Đức Giêsu đã nhiều lần lên án (x. Mt 23).
Cũng vì giả hình mà môi miệng bai bải yêu mến Chúa, lải nhải các điều răn, nhưng tâm hồn thì trống vắng, trái tim thì lạnh nhạt.Cũng vì giả hình mà bên ngoài thì cung kính lễ nghi, nhưng bên trong thì thờ ơ, chai đá. Cũng vì giả hình mà chu chắm tuân giữ truyền thống, nhưng lại “khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa” (Mc 7,9).Chính Đức Giêsu đã công khai lên tiếng : “Như thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lờI Thiên Chúa” (Mc 7, 13).
Thực vậy, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta: điều làm chúng ta bất hạnh, và ngăn cản chúng ta hiến thân cho nhau, chính là chúng ta sống giả dối và giả hình là thứ giả dối đã đi vào chiều sâu của bản ngã. Chính Đức Giêsu đã muốn xua đuổi vi trùng giả hình này ra khỏi đời sống chúng ta khi Ngài phân tích sự thật bên trong và bên ngoài của con người:
– Bên ngoài là vùng của những gì được biểu lộ, trình diễn; cũng là vùng của mặt nạ, những mặt nạ mà chúng ta muốn đeo cho mình, những hình ảnh mà chúng ta mơ ước và tự phóng các hình ảnh lý tưởng ấy qua lời nói, việc làm của chúng ta.
– Bên trong là vùng của sự thật, vùng của chính hiệu, chính gốc, vùng ở đó con người thật của chúng ta được xuất hiện “nguyên con” trước mặt Thiên Chúa, là nơi hạt giống Lời Thiên Chúa được gieo vãi. Bên trong còn là nơi của những quyết định, chọn lựa. Nhưng bên trong cũng là sào huyệt của ganh ghét, hận thù, ích kỷ, tham vọng thống trị, ham muốn sở hữu : “Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác tang, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 20-23).
Vâng, mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong, giữa sự thật chúng ta là và những điều chúng ta mơ ước, giữa những gì chúng ta có và những điều chúng ta khát khao và tự khoác lên mình là sự thật không thể chối cãi.Vì thế, giả hình là cám dỗ nặng nề và liên lỷ của mỗi người, vì ai cũng cần một dáng vẻ ăn khách, một nhân thân hấp dẫn, một quá khứ thành tích, một hiện tại vinh quang, một tương lai hứa hẹn để sống được với đời nhiều tranh giành, đấu đá. Chúng ta cũng dễ rơi vào giả hình, vì thường xuyên chúng ta cũng cần giả hình với chính mình, khi mình chẳng có gì để có thể tự tuyên dương, tự biện minh, tự bào chữa. Đó là thảm cảnh rất bi đát của đời sống con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi.
Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi tình trạng phân liệt vì giả hình, khi chúng ta nhận ra: sẽ không có sự thật toàn diện, bao lâu con người không lắng nghe Thiên Chúa hằng sống và chân thực; sẽ không có tình yêu đích thực, bao lâu tình yêu của chúng ta không gắn kết vào chính Chúa là nguồn Tình Yêu; sẽ không có đời sống chính hiệu, nguyên gốc Tự Do, bao lâu chúng ta không để Thiên Chúa hành động và dẫn dắt định mệnh đời chúng ta. Được dựng nên cho Thiên Chúa, chúng ta không thể hạnh phúc nếu không thuộc về Ngài, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho chúng ta thực sự tự do, khi giao hoà trong chúng ta nhũng gì bên ngoài với những gì bên trong, những gì được trình ra bề ngoài và những gì được giữ kín ở trong.Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấy khỏi chúng ta những mặt nạ mà không làm chúng ta thất vọng; cũng chỉ một mình Ngài mới có thể chữa lành căn bệnh ảo tưởng, giả hình trong chúng ta và làm cho chúng ta trở nên những tạo vật mới có đủ khả năng và nhiệt huyết để yêu mến. Chính Ngài đã vạch cho chúng ta con đường, tuy hẹp, nhưng là con đường chân thật dẫn đến Hạnh Phúc thật (x. Mt 5,1-12).
Để kết luận, chúng ta cần lưu ý sự cần thiết của Truyền Thống, Lề Luật, nhưng đồng thời cũng cẩn trọng trước cám dỗ của chủ nghiã vị Truyền Thống, vị Lề Luật, nghiã là chỉ biết Lề Luật, chỉ tôn thờ Lề Luật, mà không quan tâm đến con người và ích lợi nhân sinh cũng như thiêng liêng của con người. Vì Lề Luật có thể trở thành nguyên nhân của tình trạng giả hình, phân liệt nhân cách, nhất là miệng ca tụng Chúa, nhưng lòng thì xa Chúa ngàn dặm.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức chúng ta được gọi vào đời để “yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người”, nên con người trong tất cả chọn lựa phải được yêu mến vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa .Thế nên, cho dù là Lề Luật nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bỏ quên hay làm tổn thương con người, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa yêu thương.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một câu chuyện nhỏ, chuyện những người Biệt Phái và luật TN 22-B154
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một câu chuyện nhỏ, chuyện những người Biệt Phái và luật sĩ thắc mắc về việc các môn đệ của Chúa không rửa tay theo tập tục của tiền nhân trước khi ăn. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu đã muốn cho mọi người hiểu rằng cuộc sống có những việc còn quan trọng hơn những việc có tính cách tập tục và bên ngoài đó. Và cũng nhân câu chuyện này Chúa còn nói thêm về việc phải sống như thế nào mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa và mang lại cho cuộc sống đó nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta tự hỏi Chúa muốn cuộc sống phải như thế nào?
I. Điều Chúa muốn chắc chắn không phải là cuộc sống sống giả tạo, cuộc sống không có sự ăn khớp giữa bên ngoài với bên trong của một con người.
Trong một chương trình buổi tối trên một kênh truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời đến phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của những phóng viên. Cô trang điểm diêm dúa và mặc một chiếc váy cực ngắn. Cô đã tỏ ra không những bình tĩnh, mà còn khiêu khích trước những câu hỏi của phóng viên.
Chợt có một phóng viên nhìn thầy trên cổ của cô có đeo một sợi dây chuyền vàng với một cây Thánh giá thật đẹp, anh ta liền thay đổi một đề tài. Anh ta hỏi cô: “Tôi thấy cô đeo Thánh giá trên cổ, hẳn cô là người có Tôn giáo”.
Khán giả thấy rõ sự bối rối xuất hiện trên khuôn mặt cô, vì đây là vấn đề mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Sau một hồi do dự, cô trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.
Người phóng viên hỏi dồn: “Vậy tại sao cô lại mang Thánh giá trên người?”.
Cô thinh lặng cúi xuống sàn nhà một hồi lâu, rồi trả lời: “Lúc nhỏ tôi có đạo, nhưng đó là chuyện xưa rồi”.
Một con người không còn tin Chúa nhưng vẫn đeo Thánh Giá của Chúa. Rõ ràng đó là việc không hợp lý tí nào. Cuộc sống như thế đáng cho mọi người gọi là cuộc sống giả hình. Và một cuộc sống với những phẩm chất giả tạo như thế nhất định sẽ chẳng đem lại niềm vui nào cho những người sống cuộc sống đó. Chính vì thế mà trong bài tin mừng hôm nay Chúa đã kịch kiệt lên án cuộc sống như thế. “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”(Mc 7,7)
Ngày xưa thì như thế còn hôm nay thì sao?
Chắc anh chị em đã thấy ngày hôm nay người ta nói nhiều tới căn bệnh thành tích, căn bệnh phát sinh từ cuộc sống hình thức giả tạo mà ra. Bao nhiêu hệ lụy xấu xa đã phát sinh từ căn bệnh này thì mọi người chúng ta đã biết. Sống như thế có khác gì ngày xưa và nếu cứ sống mãi như thế thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ không thể tốt đẹp mà ngược lại nó sẽ là một cuộc sống gây nên nhiều đau khổ.
Rồi nhìn vào cuộc sống của thế giới hôm nay chúng ta thấy cũng chẳng kém gì. Đây là những nhận được Internet truyền đi khắp nơi như một hệ lụy của những lối sống mà con người hôm nay đang sống. Bên ngoài thì xem ra thật tốt nhưng nội dung thì có nhiều phải suy nghĩ. Tác giả gọi những nhận xét này là: “Những nghịch lý của thời đại chúng ta”
Chúng ta có những tòa nhà cao hơn, nhưng tư cách những người cư ngụ trong đó thì lại nhỏ hơn. Những con đường cao tốc rộng hơn, nhưng quan điểm của con người thì lại hẹp hòi hơn.
Chúng ta nói quá nhiều, yêu quá ít và ghét quá thường xuyên.
Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường để gặp một người hàng xóm mới dọn đến.
Chúng ta làm trong sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm tâm hồn của nhau.
Chúng ta viết lách nhiều hơn, nhưng học hành thì ít hơn.
Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, mà không biết chờ đợi.
Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng đạo đức thì lại thấp hơn.
Chúng ta trở nên thừa về số lượng, nhưng lại quá thiếu về chất lượng.
Đây là thời cơ có tới hai nguồn thu nhập từ cả hai vợ chồng trong gia đình, nhưng ly dị thì nhiều hơn; Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm thì tan vỡ nhiều hơn.
Vâng nếu cuộc sống chỉ là như thế thì thật là tủi nhục cho Thiên Chúa khi Chúa đã cho chúng ta được làm người .
II. Vậy chúng ta phải sống như thế nào mới đẹp lòng Chúa?
Xin muợn một câu chuyện để trả lời. Chuyện kể rằng có hai nhà sư, một già một trẻ, cùng nhau đi xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một cô thiếu nữ rất đẹp đứng bên bờ một vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua nhưng không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư già liền bế thiếu nữ lên và đi qua vũng nước và bỏ cô ở phía bên kia. Rồi hai người tiếp tục cuộc hành trình. Trở về gần đến chùa, nhà sư trẻ trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?”. Nhà sư già trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, còn anh, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét ý hai lối thể hiện cuộc sống của mình: Một lối sống đạo theo hình thức và một lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn cứ yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái xưa cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Đối Với họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch.
Đức Giêsu đã trách họ là giả hình. Họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoang. Giá như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tính đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi đến chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết bỏ đi những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn. Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Vì con biết rằng với tất cả tâm tình, con mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa con đến gần Chúa.
Dân Do Thái có rất nhiều luật. Luật quy định tỉ mỉ từ đời sống tâm linh như cách thờ phượng Thiên TN 22-B155
Dân Do Thái có rất nhiều luật. Luật quy định tỉ mỉ từ đời sống tâm linh như cách thờ phượng Thiên Chúa tới những việc làm cụ thể hàng ngày như tập tục rửa tay trước bữa ăn… Họ giữ rất nghiêm chỉnh các luật lệ này đến nỗi họ nhiều khi chỉ vì luật, và những hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa sâu xa của những luật lệ ấy. Chúa Giêsu trong Tin Mừng tuần này chê trách người Do Thái chuộng bề ngoài hơn bề trong: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, mà lòng chúng rời xa Ta” (Mt 15,8). Đức Giêsu không lên án những người giữ luật vì đây là những luật chính đáng được lưu truyền trong dân. Ngài chỉ chê trách những người coi trọng luật bên ngoài mà bỏ quên cốt lõi, ý nghĩa đích thực của những luật đó. Những người này có thể nghĩ rằng giữ đạo là trung thành với một số các điều luật được truyền lại, ngay cả nhiều khi những luật này không cần thiết. Trong khi căn bản của lời rao giảng của Đức Giêsu chỉ gồm tóm trong hai điều duy nhất: Mến Chúa, Yêu Người. Mọi chuyện chúng ta làm, mọi luật lệ chúng ta giữ cần phải quy hướng và thể hiện hai mục đích này.
Lời Chúa hôm nay không phải chỉ nói cho người Do Thái nhưng cũng đang nhắc nhở mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta có thể cũng chỉ vì hình thức bên ngoài. Chúng ta nghĩ rằng thờ phượng Chúa hết lòng là tới nhà thờ dự lễ hàng ngày, sáng tối kinh nguyện hoặc đóng góp xây dựng cộng đoàn, hay rộng tay giúp đỡ người nghèo khổ. Điều này đúng nếu khi chúng ta làm với một ý thức bên trong. Tôi tới nhà thờ không phải để cho người khác biết tôi siêng năng, đạo đức, nhưng thật sự tôi tới để thờ phượng, cám tạ Chúa vì mọi ơn lành Chúa ban xuống cho tôi và gia đình. Tôi rộng tay chia sẻ của cải của tôi có cho những người vô gia cư, già yếu, cô đơn, nghèo khổ, vì họ là anh em tôi, là hình ảnh của Thiên Chúa… Hành động của chúng ta đi kèm với ý thức bên trong hỗ trợ, thì việc làm ấy không bị Chúa chê trách là chỉ kính thờ Chúa bằng môi miệng, bằng hình thức bên ngoài.
Câu truyện “Để Người Ta Không Thể Nói” trong Hạt Giống Âm Thầm (trang 296) làm cho tôi xúc động. Chúng ta thề hứa với Chúa bao nhiêu lần là sẽ tha cho người khác khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Tuy nhiên, khi nhìn vào xã hội hiện nay, lời kinh chúng ta đọc có lẽ chỉ trên môi miệng, và có lẽ Chúa cũng nói với chúng ta y chang như Ngài nói với người Do Thái…
Hai thanh niên điệu một tên sát nhân đã giết cha mình ra trước tòa án. Với đầy đủ bằng chứng nên tên sát nhân lãnh án tử hình. Tội nhân không khiếu nại nhưng chỉ xin hoãn hành quyết ba ngày để hắn về lo liệu cho một thiếu nữ, mà hắn đã được trao phó cho săn sóc từ nhỏ. Mọi người bối rối, nhưng một bàn tay giơ lên với giọng quả quyết: “Tôi xin bảo đảm cho anh này. Nếu sau ba ngày anh không lại, tôi sẽ chịu tội thay”. Tên tử tội được phép ra về. Sau đúng ba ngày, trong khi mọi người đang nôn nóng chờ đợi giờ hành quyết thì tên tử tội hiên ngang bước đến và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết xong công việc. Giờ đây, theo đúng lời cam kết, tôi trở lại đây để xin chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết, để người ta không thể nói, chữ tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tên tử tội, người đàn ông đứng ra bảo lãnh cũng tiến ra tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ đứng ra bảo lãnh cho người này là vì tôi không muốn để người ta có thể nói: lòng quảng đại không còn có mặt trên mặt đất này nữa”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên im lặng. Dường như ai cũng được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong thẳm sâu tâm hồn. Và rồi hai người thanh niên bước lên trước quan tòa và nói: “Thưa ngài, chúng tôi xin được tha thứ cho kẻ đã giết hại cha chúng tôi, để người ta không thể nói: lòng tha thứ không còn hiện diện trên mặt đất này nữa”.
Hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta cách chúng ta sống đạo. Bạn và tôi, chúng ta chắc phải dừng lại đôi phút để xét lại xem, chúng ta thật sự sống đạo như thế nào?
Xuất phát bởi tình yêu gia đình, dòng tộc, người xưa để lại nhiều kinh nghiệm cao quý: đói cho TN 22-B156
Xuất phát bởi tình yêu gia đình, dòng tộc, người xưa để lại nhiều kinh nghiệm cao quý: đói cho sạch, rách cho thơm ; tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Sạch và đẹp, tiếng tốt danh thơm, không phải chúng được đề cao vì “mỹ từ”, hoặc được tán dương bởi nét đẹp mờ mờ ảo ảo, đúng hơn, nơi thẳm sâu tâm hồn, con người luôn được thôi thúc bởi tính thiện toàn, sự sạch đẹp. Vì tình bạn, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, thiếu nữ vì tiết hạnh, không quản ngại hy sinh mạng sống mình. Sạch đẹp thu hút con người qua muôn thế hệ, nhưng làm sao để người ta không nhầm lẫn giữa “cái chính và cái phụ”, không làm đảo lộn giá trị đạo đức xã hội, tôn giáo ?
Khởi đi từ quan niệm sạch đẹp quá tuỳ tiện, phóng khoáng, đến độ khắt khe, các luật sĩ biệt phái xưa kia đã tỏ thái độ khinh bỉ người anh em của mình, chỉ vì họ không rửa tay trước khi ăn. Vấn đề sạch dơ, đẹp xấu, sẽ không dừng lại ở khía cạnh vệ sinh, hay tính thẩm mỹ hài hoà, đi xa và sâu rộng hơn, sạch đẹp, chuẩn mực, đáng được ghi nhận phải là sạch đẹp toàn diện: cả hình thức và nội dung. Với cái nhìn hời hợt về thanh sạch bên ngoài, hoặc đầy ô-uế tội lỗi bên trong, nếu không đủ khách quan, thiếu tình yêu và lòng quảng đại, việc lượng định cũng chỉ là hình thức máy móc, vô giá trị. Người ta sẽ sai lầm khi xem tập tục tiền nhân và giới luật yêu thương là một, hoặc nghĩ rằng của lễ dâng cúng cho đền thờ có thể thay cho việc thảo kính cha mẹ ông bà.
Tục ngữ có câu: sạch sẽ là mẹ con người ; sạch đẹp và linh thiêng hơn, các ngài còn nói: tâm trong sạch là một cái gối êm, không làm việc thẹn lòng, đâu sợ quỷ ma gọi cửa. Sạch bên ngoài, bên trong, đều đáng trân trọng, dơ bẩn tay chân, dơ bẩn tâm hồn, đều cần được tẩy rửa cho sạch đẹp. Đức Giêsu có ý nhắc nhớ đừng ai nhầm lẫn bằng môi miệng, bằng lý thuyết, có thể thay thế cho việc sống đạo. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho các luật sĩ biệt phái lý do tại sao các môn đệ không rửa tay, nhưng gián tiếp cho thấy sự thanh sạch tâm hồn cần thiết hơn việc rửa tay chân, biết và sống thánh ý của Chúa quan trọng hơn là chỉ giữ tập tục tiền nhân.
Đức Giêsu không bình luận về sự thanh sạch hay dơ bẩn, nhưng Ngài lên án những ai tin thờ Chúa bằng môi miệng mà lòng xa cách Chúa, có tình yêu trong việc sống giới luật, quan trọng hơn việc dâng mọi của lễ toàn thiêu. Sạch tay chân, trang điểm cho khuôn mặt xinh đẹp, chỉ là tâm lý giúp người ta tự tin khi đi ăn tiệc, nhưng sạch tâm hồn mới là phương thế hữu hiệu, bình an, hạnh phúc nhất, khi tham dự bàn tiệc thiên quốc. Kinh nghiệm cho thấy, không phải sạch sẽ là do một ngày tắm nhiều lần, không phải xinh đẹp là do “quần là áo lượt”, mang trên mình trang sức đắt tiền. Sạch và đẹp, đúng và chuẩn, chỉ là mơ ước, là khẩu hiệu, khi người ta chưa tập luyện, chưa được biến đổi, hoặc chưa có thời gian thực hành đức ái.
Cái nhìn thông suốt của tiền nhân cho rằng: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, nơi ăn chốn ở, cơ hội để học, để hiểu và để sống, cùng với một chuỗi thời gian trải nghiệm: bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người. Thực ra thì điểm căn bản của việc sống đạo không hệ tại chúng ta đọc bao nhiêu câu kinh, đi bao nhiêu thánh lễ, bố thí chia sẻ cho anh chị em chúng ta nhiều hay ít tiền của, đúng và đẹp ở chỗ lời nói việc làm của chúng ta có bày tỏ được lòng mến hay không ? Nếu như ngày hôm nay, người ta lên án những ai làm việc như con “rô-bốt” hay chỉ như con “búp-bê” không biết yêu, không cảm xúc, là bởi vì họ quá lệ thuộc vào hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa của hành động tin và yêu.
Truyền thống có đạo, có đức, sống thảo sống hiếu, được xem là gia đình lắm phúc nhiều lộc, nhưng chưa đặt để tình yêu vào cuộc sống, nào có khác gì ta chỉ là con rối vô cảm, vô hồn ? Đức Giêsu xưa kia chắc chắn không chối bỏ nét đẹp phong phú của gia đình, cũng không phủ nhận sự thanh sạch, Ngài có ý nhắc “sạch đẹp tâm hồn” phải là ưu tiên. Đừng chú trọng đến tập tục loài người mà bỏ qua giới luật yêu thương, đừng lẫn lộn ý muốn của con người với thánh ý của Chúa. Xưa kia cũng vì chú trọng đến “môn đăng hộ đối” mà xảy ra việc ép duyên ; xã hội hiện đại hôm nay lại không thiếu cảnh con cái đặt đâu cha mẹ phải đồng ý ! Cả hai quan niệm ấy đều không đẹp mà cũng chẳng gọi là đúng, nếu hôn nhân không đến trong tự do và yêu thương.
Tục ngữ có câu: muốn chắc ở nhà gạch, muốn sạch quét chổi cùn. Tự bản chất của con người thích sạch đẹp, vẫn ý thức mình cần phải được xây dựng trên nền đá vững chắc, đó là sự thật. Hướng đến sự sạch đẹp toàn diện và bền vững, Chúa Giêsu đã gọi là đồ giả hình, đã nhắc lại lời Isaia: “dân này thờ kính ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa Ta”. Lời đó có làm chúng ta hôm nay giật mình không, nếu chúng ta sống đạo mà không được xây dựng bằng tình yêu thương ? Đồng ý rằng: danh thơm là lẽ sống của kẻ sĩ, nhưng kẻ sĩ không thể im lặng cất giấu triết lý sống của mình. Người kitô hữu không thể sống đạo loáng thoáng hời hợt, lời nói việc làm cần minh bạch rõ ràng ; nếu rửa tay cho sạch thì cũng nên suy xét xem đã tẩy rửa tội lỗi chưa, hầu có một tâm hồn sạch đẹp, xứng hợp với tình yêu và ơn cứu độ của Đức Kitô. Amen.
Hai cô bé rủ nhau chơi đồ hàng, lấy vỏ trứng làm nồi và tập tành nấu cơm. Người cha đi làm TN 22-B157
Hai cô bé rủ nhau chơi đồ hàng, lấy vỏ trứng làm nồi và tập tành nấu cơm. Người cha đi làm về thấy gạo vương vãi trên sàn nhà bếp liền gọi hai cô con gái vào. Nghe cha hỏi cả hai cô bé đều lo lắng và cúi gầm mặt xuống, đôi mắt ngắn lệ chờ khóc. Cô em lí nhí thưa:
Dạ thưa cha, chị lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải con.
Cứ thế cô em đổ lỗi cho chị. Thấy chị bị cha phạt quỳ, cô em hối hận vì đã đổ lỗi hết cho chị mình. Lòng muốn thú tội với cha nhưng lại sợ bị phạt, dù còn nhỏ nhưng cô bé đã thấy hối hận lắm. Lời các chị giáo lý viên từ đâu vang lên bên tai: “ Các em, ai nói dối sẽ làm cho Chúa buồn lòng.” Một lúc sau, cô em thưa với cha:
Là con lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải chị ấy làm, cha ạ! Hạt gạo là hạt cơm. Lần sau các con đừng lấy chơi nữa. Chẳng những không phạt mà cha còn tha tội cho hai chị em.
Từ trong tâm hồn con người, tiếng nói lương tâm giúp cho biết làm lành lánh dữ. Hôm nay, Thầy Giêsu lên án thói đạo đức giả và chỉ cho dân chúng biết cái gì mới làm cho con người ra ô uế.
Những đồ ăn thức uống khi được đưa vào cơ thể con người giúp nuôi dưỡng thân xác khoẻ mạnh, nhưng cũng có thể làm thiệt hại sức khoẻ. Khi muốn ăn thịt gà, bạn có thể mua ở chợ nếu bạn có tiền, hay bạn sẽ làm thịt con gà mà bạn nuôi. Nhưng nếu bạn không có tiền, bạn cũng chẳng nuôi gà, mà bạn lại rất thèm được ăn thịt gà . Lúc đó bạn sẽ làm gì? Từ ước muốn được ăn thịt gà đó, thịt gà không phải là của làm cho bạn ra ô uế nhưng điều làm cho bạn ra ô uế là khi bạn đi ăn trộm con gà của hàng xóm để làm thịt. Muốn ăn thịt gà cũng không phải là điều xấu xa, nhưng chính việc bạn ăn trộm đã làm cho bạn thành kẻ xấu. Thầy Giêsu đã tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch (x.Mc7,19b). Trước khi tiến đến hành động trộm gà, chẳng hẳn lương tâm của bạn cũng mách bảo cho bạn biết điều đó là sai, điều quan trọng là bạn nghe theo tiếng lương tâm mách bảo hay chiều theo thói mê ăn uống.
Thầy Giêsu khẳng định: “Từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam… Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7,21-23)
Làm thế nào để có một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng? Ta hãy lắng nghe lời ca của Thánh vịnh 18 câu 8: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn”. Lòng ai khao khát Chúa, Chúa sẽ cho gặp và Chúa sẽ dạy dỗ họ sống theo nẻo chính đường ngay. Các người Pharisêu và một số kinh sư giữ luật tỉ mỉ, nắm giữ truyền thống của các tiền nhân nhưng lại bị Thầy Giêsu khiển trách: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc7,8). Những khi ca tụng tán dương Thiên Chúa, liệu ta có đặt trọn tâm hồn và lòng trí của ta hướng về Chúa hay ta chỉ “tôn kính Chúa trên môi miệng mà lòng trí lại cách xa Chúa” (x. Mc 7,6b). Trong thinh lặng của tâm hồn, ta hãy để cho Lời Chúa chất vấn ta, để thấy được thái độ ta dành cho Chúa và can đảm ra khỏi con người cũ.
Lạy Thiên Chúa chí thánh! Xin cho con biết yêu luật Chúa truyền và can đảm sống điều Chúa dạy, để mỗi ngày, tâm hồn con trở nên thanh khiết, bình an. Xin cho những lời ca tụng Chúa được kéo dài trong cuộc sống của con, để dầu sống giữa cảnh thăng trầm, lòng con vẫn trung thành, gắn bó với Chúa cách chân thực. Amen.
Bệnh và tật đi chung với nhau. Không biết bệnh gây nên tật hay tật sinh bệnh hay cả hai. Điều TN 22-B158
Bệnh và tật đi chung với nhau. Không biết bệnh gây nên tật hay tật sinh bệnh hay cả hai. Điều không thể chối cãi là tật xấu chính là nguồn gốc gây bệnh. Xấu nhiều bệnh nặng, xấu ít bệnh nhẹ hơn. Xấu nhiều mau phát sinh bệnh; xấu ít bệnh đến chậm hơn. Tất cả đều là mầm mống gây bệnh và làm gây bệnh. Lây bệnh là do thiếu vệ sinh hoặc ăn phải thực phẩm nhiễm trùng. Thực tế là cơ thể con người có sức chịu đựng giới hạn. Đi quá mức giới hạn nó ngã quị. Tâm trí con người cũng không khác mấy. Nó cũng cần cho ăn, nuôi dưỡng tâm trí bằng thực phẩm lành mạnh nó mạnh khoẻ, điều xấu, sách báo xấu, hình ảnh xấu, môi trường xấu tạo nên một tâm lí què quặt, bệnh tâm lí phát sinh từ đó. Thực tế này cũng đúng, gây tai hại cho tâm linh con người. Điều xảy ra cho tâm linh tai hại nhất con người lại coi nhẹ nhất bởi bệnh tâm linh không gây nhức nhối thân xác nên nhiều người lơ đi, coi như không có bệnh. Bệnh tâm linh phát sinh do coi thường giáo huấn của Đức Kitô. Giáo huấn của Ngài là thần khí và sự thật. Thiếu tôn trọng sự thật bởi coi nhẹ giáo huấn của Đức Kitô. Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu gây xích mích với Đức Kitô khi họ gây sự với môn đệ Ngài. Họ đặt vấn đề
‘Sao môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa’ Mk 7,5
Đặt vấn đề vì các môn đệ nhưng thực ra họ chủ trương chất vấn chính Đức Kitô vì Ngài là đầu của các môn đệ. Biết rõ thâm í họ Đức Kitô dùng ngôn từ của tiên tri Isaiah đáp lại họ
Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta c. 6b
Câu đáp trên nhắc cho họ biết hai điều quan trọng. Thứ nhất, miệng lưỡi giảo hoạt, ngọt ngào nơi miệng không phải là tâm tình thật, không đến từ con tim chân thành, yêu mến. Đức Kitô cũng nhắc cho biết là không phải những gì đến từ ngoài làm cho tâm hồn ra ô uế mà chính là những gì phát xuất từ sâu thẳm làm cho tâm hồn ra ô uế. c.15. Con tim được hiểu là trung tâm điểm của con người, từ nơi đó tâm tình tốt xấu phát sinh. Sự lành, sự dữ đều từ đó mà ra. Sự lành đến từ con tim chân thành, mạnh khoẻ, sự dữ đến từ con tim bị băng hoại, hướng dẫn bởi tâm tình tội lỗi.
Thứ hai, các môn đệ về từ phố chợ và họ không rửa tay khi ăn trưa. Phố chợ là nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khó thường tụ họp mong nhận được của bố thí. Vì thế khi liên kết phố chợ với những thành phần cần nâng đỡ Đức Kitô cách nào đó chuyển đề tài từ nói suông hay nói về sự trong sạch, chuyển sang hành động thi ân, bác ái, lòng thương xót Ngài dành cho muôn dân. Một cách nào đó Đức Kitô cho họ biết nói suông hay giữ truyền thống tiền nhân không tốt hơn hành động bác ái, mến Chúa yêu người như giáo huấn của Ngài.
Hơn nữa chú trọng nhiều đến việc tẩy uế, rửa ráy bề ngoài mà để bên trong dơ bẩn thì có ích chi. Nó chỉ che mắt được người vô tình, xem qua loa mà không thể nào giữ cho phẩm chất chứa đựng bên trong sạch sẽ được. Vì thế giữ cho con tim trong sáng quan trọng hơn cả. Thay vì chú trọng đến việc lành, thánh thiện thì nhóm Biệt Phái lại chia rẽ cộng đoàn của họ khi họ phân biệt thành phần trong sạch và thành phần ô uế dựa vào cách họ giữ lề luật tẩy uế. Không phải việc đạo đức làm trọn lề luật mà chính là kính mến Chúa và thực thi bác ái, yêu thương là con đường Đức Kitô hướng dẫn. Không luật xã hội nào hay truyền thống tiền nhân nào có khả năng giúp cho con tim trong sáng. Rất nhiều luật xã hội và truyền thống gây gánh nặng cho người nghèo, kẻ thế cô. Con tim trong sáng, con tim đầy lòng yêu mến cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng giáo huấn yêu thương của Đức Kitô. Giáo huấn này đòi tuân giữ không phải bằng môi miệng mà chính là thực thi bằng hành động bác ái, yêu thương, tha thứ, đến mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt kẻ nghèo khó, goá bụa cần nâng đỡ. Đi theo con đường Đức Kitô đi là phỏng theo lối sống của Ngài. Tin theo Đức Kitô không phải giữ cho thân thể, tay chân sạch sẽ, mà chính là tay chân lấm bùn phục vụ của một thân thể có con tim sạch sẽ, trong sáng. Chúng ta xin ơn nhận biết điều tốt lành, mở tâm hồn đón nhận món quà yêu thương Chúa ban và phân phát món quà đó cho tha nhân. Đón nhận càng nhiều tình yêu Chúa ta càng trở nên trong sáng, bởi trong sáng nên gần Chúa hơn và càng gần Chúa ta càng cảm thấy mình tự do, không bị ràng buộc bởi vật chất trần thế.
Trong các trường học, nơi các công ty, xí nghiệp hay những quán vui chơi… luôn có những nội TN 22-B159
Trong các trường học, nơi các công ty, xí nghiệp hay những quán vui chơi… luôn có những nội quy yêu cầu dành cho mọi người khi đến học, làm việc hay vui chơi… Tất cả những nội quy ấy nhằm phục vụ và đem lại sự an toàn cho mọi người. Những người Pharisêu cũng đã sống và giữ luật tiền nhân, họ đã giữ luật ấy với tâm tình thái độ gì?
Sau những chuyến đi cùng với Thầy Giêsu, các môn đệ đã mệt mỏi và đói. Trong khi dùng bữa, tay các môn đệ còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thấy vậy, các người Pharisêu và các kinh sư đã hỏi Chúa Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7,6). Họ trung thành giữ luật và muốn người khác cũng phải giữ luật như họ. Họ không còn một lý do nào khác hơn cho việc giữ luật. Và dường như không có sự tự do của con người trong những luật ấy. Một khi có ai đến nơi đó sống, điều phải giữ luật tiền nhân.
Đứng trước câu hỏi của nhóm Pharisêu và các kinh sư, Chúa đã lấy những lời của Ngôn sứ Isaia mà nói với họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa ta” (Mc 7,6). Đối với Chúa, họ đã gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì những truyền thống của con người.
Bấy giờ Chúa gọi đám đông lại, mà nói cho họ hay về những điều gây ra sự ô uế thật sự và xuất phát từ đâu, Ngài nói: “ Không có cái gì từ bên ngoài vào vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Vậy cái từ bên ngoài là gì? Đó là đồ ăn, nước uống… Tất cả những thứ đó vào bụng rồi bị thải ra ngoài, nó đâu vào tấm lòng của con người hay vào trong lương tâm. Những thứ ấy chỉ nuôi thân xác mà thôi. Cái bên trong thật nguy hiểm, đó chính là những suy nghĩ, ý định xấu như: gian dối, kiêu ngạo, ngông cuồng…”(x. Mc 7,21-23). Đó là những thứ dẫn mọi người đến chỗ ô uế, ô uế cả thân xác lẫn linh hồn. Bởi vì suy nghĩ, ý định xấu sẽ đưa ta đến hành động xấu. Mặt khác, thân phận chúng ta rất yếu đuối, dễ theo điều xấu hơn điều tốt.
Thiên Chúa yêu thương con người bằng tấm lòng của người cha nhân hậu. Chúa muốn nhắn nhủ với con cái của Ngài là tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa bằng trái tim tình yêu, bằng tấm lòng bác ái và không lệ thuộc vào các lề luật. Lời mời gọi ấy còn tha thiết hơn trong bối cảnh xã hội hiện nay. Một xã hội đang dửng dưng, vô cảm trước mạng sống con người.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con những lề luật yêu thương qua các Bí tích, các điều răn và các mối phúc. Chúa cho chúng con được sinh ra và lớn lên trong cái nôi của Gíáo hội. Xin cho chúng con biết sống trong tâm tình biết ơn,và một tinh thần sống và tuân giữ lề luật trong tình bác ái yêu thương. Nhờ đó danh Cha được rạng ngời và chúng con cùng mọi người được ơn cứu độ. Amen.
“Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em. Lời đó có sức cứu độ linh hồn anh em” (Gc 1,21b).
Thánh Gia-cô-bê khuyên chúng ta rằng: chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng TN 22-B160
Thánh Gia-cô-bê khuyên chúng ta rằng: chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng chúng ta. Vì sao ? Vì Lời Chúa đó có sức cứu độ linh hồn chúng ta. Ngài còn nói rõ hơn rằng: “Thiên Chúa đã tự ý dùng Lời Chân Lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (x. Gc 1,18).
Lời Chân Lý chính là Lời Chúa; chính là Lời Tin Mừng mà Đức Giê-su đã rao giảng và đã được ghi lại trong các sách Phúc Âm. Lời Chúa là Chân Lý cho người tín hữu chúng ta. Lời Chúa đó mới có sức cứu độ linh hồn chúng ta mà thôi.
Cũng nhờ nhờ Lời Chúa đó mà chúng ta được sinh ra trong phép Rửa Tội, để ta trở nên thọ tạo mới; ta trở nên con Thiên Chúa và đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Bởi đó mà ta phải có lòng khiêm tốn như Đức Ma-ri-a để có thể nhận lãnh Lời Chúa; để Lời Chúa được gieo vào lòng chúng ta. Trong biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a đã nói: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (x.Lc 1,38).
Lời Chúa không phải như lời người phàm, Lời Chúa vượt lên trên sự hiểu biết và sự khôn ngoan của con người chúng ta. Có khi chúng ta khó chấp nhận, vì cách suy nghĩ của chúng ta không hợp với cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Một ví dụ điển hình như trường hợp một trinh nữ mà sinh con;Một người nữ chưa ăn ở với người nam mà có thai thì không thể chấp nhận được và cũng không thể lý giải được. Điều này chính đức Ma-ri-a đã thưa với Thiên Thần chứ không phải chúng ta bây giờ. Nhưng “Đó là Lời Chúa”. Đức Ma-ri-a chỉ biết khiêm tốn và xin vâng.
Quả thực, phải có lòng khiêm tốn và lòng tin thì ta mới có thể đón nhận Lời Chúa được. Và nhờ Lời Chúa đó mà ta được cứu độ, nghĩa là làm cho ta nên thánh nên thiện. Thực thế trong bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy rõ điều đó.
Lời của tiền nhân; lời của người xưa, qua các câu ca dao, tục ngữ; đó là những đúc kết những kinh nghiệm mà các ngài để lại.Đó là những kinh nghiệm sống ở đời này, chứ không đem lại cho ta sự sống đời đời. Nào là phải rửa tay, rửa bình, rửa chén cho sạch trước khi ăn. Đó chỉ là phép vệ sinh trước khi ăn, chứ không làm cho ta nên thánh nên thiện được. Vì đồ ăn thức uống, nếu xấu, tức là hư thối hay tay chân ta vấy bẩn, có thể làm cho ta đau bụng hay “Tào Tháo đuổi” thôi, chứ không làm cho tâm hồn hay con người của ta nên tốt hay ra xấu xa được.
Chỉ có, “những gì từ bên trong, từ lòng người phát xuất ra những ý định xấu như: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngồng cuồng”, mới làm cho con người và tâm hồn ta xấu xa mà thôi.
Thế đấy, Lời Chúa và lời của con người khác xa nhau biết mấy; cách nghĩ của con người cũng “một trời một vực” với cách nghĩ của Thiên Chúa. Cho nên muốn được cứu độ, muốn nên thánh nên thiện ta phải nghe và thực hành Lời Chúa, chứ không có cách nào khác. Việc này phải có “hai thì” chứ “một thì” không được. Tức là NGHE và THỰC HÀNH.
Nếu ta chỉ có nghe Lời Chúa không thôi, thì Lời Chúa chẳng sinh ích gì cho ta; chẳng làm cho ta nên thánh nên thiện được. Ta mà chỉ NGHE SUÔNG thì ta tự lừa dối chính mình. Thánh Gia-cô-bê nói: “Anh em hãy đem Lời đó là thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (x.Gc 1,22). Tại sao lại là lừa dối chính mình?
Vì ta cứ tưởng chỉ được rửa tội, chỉ nghe Lời Chúa; ta chỉ đi đọc kinh, dâng lễ hằng ngày hay hàng tuần là chắc mẻm ta được cứu độ; ta sẽ nên thánh nên thiện; ta sẽ được lên thiên đàng. Điều này không đúng. Chúa đâu có nói như vậy bao giờ. Cứ tìm trong các sách Phúc Âm, không có chỗ nào Đức Giê-su nói như thế cả. Chắc chắn 100%.
Giáo Hội, có lúc cũng đã nói như thế và có khi Linh mục cũng đã giảng như thế. Nói như thế và giảng như thế thì không đúng với ý Chúa, không đúng với Phúc Âm rồi. Nói như thế và giảng như thế là mị dân, là nói dối. Giáo Hội đã có lúc sai lầm và các Linh mục giảng, có hồi cũng đã sai lầm. Cũng vì tiền, vì của; vì danh, vì lợi mà đã bóp méo Lời Chúa; nói dối, nói láo.
Ngày xưa khi Giáo Hội cần tiền để xây Đền Thờ, đã mại thánh và nói rằng: “Khi một đồng tiền bỏ vào thùng kêu một tiếng keng, là có một linh hồn lên thiên đàng”. Nếu thế thì những tay nhà giàu lên thiên đàng thẳng cẳng hết rồi. Thế nhưng Đức Giê-su lại nói: “Người giàu có khó vào thiên đàng. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào thiên đàng”(x. Mt19, 23-24). Vậy thì ta tin ai đây ? Ai đúng ai sai ? Chúa sai hay Giáo Hội sai?
Nói đúng ra Chúa không sai và Giáo Hội cũng không sai, chỉ có những con người lãnh đạo Giáo Hội, các Giáo Hoàng; các Giám Mục, các Linh Mục là sai thôi, vì các ngài cũng là những con người. Nên ta phải tin vào Chúa và thực hành Lời Chúa là chắc ăn nhất. Giáo Hội: Giáo Hoàng, Giám Mục hay Linh Mục mà giảng Lời Chúa; giúp ta sống Lời Chúa thì ta hãy theo và thực hành, nếu không ta cũng sẽ bị lừa dối và lừa dối chính mình.
Những ai có nhiệm vụ giảng Lời Chúa, cũng phải coi lại lời giảng của mình, xem có đi ngược lại với Lời Chúa nói không? Ta có giảng Lời Chúa hay là giảng “lời ta”. Ta mà giảng lời ta thì ta phải lãnh trách nhiệm nặng nề trước mặt Chúa lắm đấy. Vì ta đã bóp méo Lời Chúa; ta đã uốn cong Lời Chúa, mà nói sai, nói bậy; đã lừa dối các tín hữu; không làm cho đức tin của họ mạnh lên; ta không được vào thiên đàng mà còn kéo cả họ xuống với ta nữa thì khốn cho ta biết chừng nào. Ta phải là người đầy tớ trung thành của Chúa và trung thực rao giảng Lời Chúa.
Quả thực, nếu ta lười biếng không thực hành Lời Chúa, ta chỉ nghe suông, nói suông thì ta tự lừa dối chính mình. Ta cứ đinh ninh rằng, ta đã được rửa tội; ta là Linh mục, hằng ngày, hàng tuần dâng lễ, nghe Lời Chúa; rước Mình Thánh Chúa; lần hạt mân côi, là ta chắc ăn được lên thiên đàng. Nếu đến khi chết, ta lên gặp Chúa, Chúa không cho ta vào thiên đàng, vì ta chưa nên thánh nên thiện. Lúc đó thì “hỡi ôi!!!”; “công cốc, công cò”. Mà ta có cố gắng sống Lời Chúa gì đâu; tại ta nghĩ, tại ta tự lừa dối mình đấy chứ.
Vậy ta phải thức tỉnh ngay hôm nay; nếu trước ta đã nghĩ như thế thì ngay bây giờ, ta phải bỏ ngay những ý nghĩ đó đi; phải làm lại ngay; phải đổi hướng ngay; ta đã trật hướng, đã đi sai đường rồi. Ta phải nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình ngay kẻo không kịp. Ta phải lấy lòng khiêm tốn và đức tin để đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng ta, để ta càng ngày càng nên thánh nên thiện. Ta sẽ an tâm và cố gắng và như thế ta mới nắm chắc sẽ có chiếc vé vào thiên đàng. Đừng có lười lĩnh mà lừa dối chính mình; cũng đừng để ai lừa dối mình, kẻo ta mất cả chì lẫn chài; mất cả đời này lẫn đời sau đấy.
Do Thái giáo có những luật lệ rất khắt khe: không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở TN 22-B161
Do Thái giáo có những luật lệ rất khắt khe: không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước; không được ăn thịt heo, thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi v.v… Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Đối với người Pha-ri-sêu, ai đụng vào, sờ vào hay ăn những đồ cấm kỵ là trở nên ô uế. Nếu chỉ nhìn trên bình diện đời sống trần tục thì nói chung những luật lệ đó là tốt đẹp; ngoại trừ tục “không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi” nằm trong vấn đề giao tiếp, đối xử trong cộng đồng, thì không thể chấp nhận được.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII/TN-B – Mc 7, 1-8a.14-15.21-23) trình thuật một nhóm người Pha-ri-sêu và một số kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ của Đức Giê-su dùng bữa mà chưa rửa tay; họ liền hỏi Người: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Vấn đề đặt ra ở đây là động cơ thúc đẩy bọn người Pha-ri-sêu căn vặn Đức Ki-tô. Họ không nói đến vấn đề vệ sinh ăn uống, mà là muốn đặt vấn đề giới luật để gài bẫy đối tượng mà họ đố kỵ, ganh ghét. Hiểu quá rõ về tâm lý đó, nên Đức Ki-tô đã nói thẳng: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân’. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc 7, 6-8).
Đức Giê-su còn nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 15), Để ý một chút sẽ thấy Đức Ki-tô dùng tiếng ô uế (Từ nguyên: Ô: vẩn, đục; Uế: bẩn thỉu – Ô uế: nhơ nhớp, dơ bẩn – Vd: Cuộc đời ô uế của gái mại dâm) là có ý nói đến cả cuộc sống của con người chớ không chỉ là việc ăn uống (Nếu thức ăn do bàn tay không sạch sẽ đưa vào trong cơ thể sẽ khiến cho cơ thể đau yếu, bệnh tật, chớ không phải làm cho con người ra ô uế). Người còn giải thích rõ hơn: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20-23). Rõ ràng Đức Ki-tô đã cho họ thấy rằng động lực thúc đẩy con người trở thành ô uế là từ nội tâm tư tưởng.
Rửa tay trước khi ăn là ăn cơm bánh để nuôi dưỡng thể xác. Nhưng điều Chúa muốn nói đến ở đây là ăn của ăn thiêng liêng, mà với của ăn tâm linh thì điều tất yếu là phải rửa sạch mọi vết nhơ của cõi lòng. Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những hình thức bên ngoài, thì lại thường coi nhẹ cái cốt lõi bên trong lề luật. Đức Giê-su đã lên án điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” (Mt 23, 23-24). Đức Giê-su đã phê bình đám kinh sư chỉ câu nệ vào Lề Luật nơi những điều phụ thuộc, còn điều quan trọng thì không màng tới. Người nhấn mạnh: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”. Rõ ràng là Người không những chỉ nhắc nhở phải lưu tâm tới điều trọng yếu trong Lề Luật, mà còn nhắc nhở không được bỏ qua những điều thứ yếu.
Một cách cụ thể thì việc giữ luật không câu nệ theo hình thức bên ngoài, hoặc những tiểu tiết, những điều phụ thuộc, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều, là cái quan trọng nhất trong luật, là cốt tủy của lề luật. Cái đó chính là tuân giữ tinh thần chủ yếu của lề luật bằng cả tấm lòng. Nói cách khác, đó là “Đạo Tại Tâm” vậy. Khi nói “Đạo Tại Tâm”, thường thì cần phải phân biệt nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng: Theo nghĩa chiểu tự thì “Đạo” chỉ có nghĩa là con đường, nhưng theo nghĩa thiêng liêng thì Đạo mang màu sắc tôn giáo. Gộp chung cả 2 nghĩa thì Đạo chính là đường đi nước bước của một tôn giáo. Vậy “Đạo Tại Tâm” là muốn nói đến tinh thần, đường hướng của một tôn giáo cốt ở trong lòng, ở nội tâm, chớ không chỉ ở hình thức bên ngoài (“Nhưng người Do Thái chính hiệu là người Do Thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi.” – Rm 2, 29). Nếu quá câu nệ vào hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng, không thành thật, thì đó chỉ là thứ “giả hình”, là “made in Pha-ri-sêu” mà thôi.
Nói như vậy cũng không có nghĩa là “Đạo Tại Tâm” chỉ giữ đạo ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài. Thực ra những lề luật của Ki-tô giáo đều là những quy tắc giúp tín hữu tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa, mà giới luật của Thiên Chúa chỉ quy về một điều răn quan trong nhất là Tình Yêu: “Mến Chúa yêu người” (muốn mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” thì phải biết “yêu anh em như yêu chính mình”, đổi lại, chỉ những ai thực sự yêu người như yêu chính mình mới là thực lòng mến Chúa). Do đó, “Đạo Tại Tâm” phải là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Sống đạo thực sự là phải tuân giữ và thực hành “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”, đồng thời “Các điều này (chủ yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (phụ thuộc) thì không được bỏ” (ibid).
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy tuân giữ các giới răn của Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa như lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ khưyên các tín hữu hãy sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành đức bác ái (“Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe suông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…” – Gc 1, 17 -18.21-22.27). Chúa Giê-su chỉ phê phán bọn kinh sư Pha-ri-sêu giả hình (“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” – Mc 7, 6); Người không hề bác bỏ Lề Luật (“Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” – Mt 5, 18).
Ôi! Lạy Chúa! Nhìn lại mình, con thấy cách này cách khác con cũng chẳng hơn gì đám người Pha-ri-sêu chỉ câu nệ vào truyền thống, vào hình thức, mà quên đi cái cốt tuỷ bên trong là giới răn của Chúa. Quả thật, không ít lần con đã ”gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7, 8). Ôi! Lạy Chúa! “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin chỉ cho con nước bước của Ngài, xin hướng dẫn con trong Chân Lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy trông.” (“Xin chỉ cho con” – Hùng Lân – TCCĐ). Cúi xin Chúa đồng hành với con trong mọi tình huống để giúp con luôn chú trọng đến “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật” mà đem ra thực hành trong suốt đời con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Kỳ thi phổ thông quốc gia vừa qua đã để lại nhiều tai tiếng cho ngành giáo dục và xã hội. Nhiều TN 22-B162
Kỳ thi phổ thông quốc gia vừa qua đã để lại nhiều tai tiếng cho ngành giáo dục và xã hội. Nhiều thí sinh là con của các quan chức tại các tỉnh phía bắc có số điểm cao bất thường. Khi chấm điểm lại, người ta thấy có sự chênh lệch điểm đến không thể tin được, có những học sinh dưới trung bình được nâng thành điểm xuất sắc. Những người có liên quan tìm cách lấp liếm, quanh co chối bỏ trách nhiệm.
Thưa quý OBACE, xã hội ngày nay đang lan tràn sự gian dối, giả trá từ cấp cao nhất đến những những nhân viên thấp nhất. Người dân dường như không muốn nghe những bài tuyên giáo sáo rỗng, dối trá của những người lãnh đạo, báo đài, bởi vì sự dối trá đang làm mất lòng tin của người dân. Những người có trách nhiệm, họ nói một đàng lại làm một nẻo, ngôn hành bất nhất, khiến cho người dân mất lòng tin, xã hội trở nên rối ren, lộn xộn, vô luật pháp.
Xã hội Do Thái ngày xưa cũng rơi vào tình trạng rối ren như thế. Những người lãnh đạo chỉ lo vơ vét của cải cho bản thân và gia đình. Đời sống của họ trở nên bê bối, thành gương xấu cho người khác. Họ tùy tiện uốn nắn, thay thế lề luật của Thiên Chúa bằng các thói quen tập tục có lợi cho bản thân. Trách nhiệm chính của các nhà lãnh đạo là giảng dạy, hướng dẫn dân đi theo đúng giới răn lề luật của Chúa. Tuy nhiên, chính họ lại vi phạm lề luật và tìm cách thêm nhiều chi tiết vào luật để biện minh, che đậy cho sự sai trái của mình.
Tin Mừng hôm nay kể về cách hành xử của những người lãnh đạo Do Thái: Các người Pharisêu trách Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không giữ tập tục thanh sạch, không thực hành nghi thức thanh tẩy chén bát và rửa tay trước khi vào bàn ăn. Họ cho rằng Chúa Giêsu và các môn đệ đã vi phạm tập tục của tiền nhân. Theo luật tinh sạch của người Do Thái: tất cả đồ ăn, đồ dùng hoặc khi ra ngoài trở về, họ phải thực hiện một nghi thức thanh tẩy: tắm rửa, thay quần áo, rảy nước trên đồ vật… Đây không phải là việc làm theo phép vệ sinh ngày nay, nhưng họ thanh tẩy vì cho rằng có thể dân ngoại hoặc người bị ô uế đã đụng chạm đến các đồ vật ấy.
Chúa Giêsu đã muốn đưa những người Pharisêu này trở lại với ý nghĩa nguyên thủy của việc thanh tẩy này. Ngài trích lời Isaia để nói với họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”. Điều Thiên Chúa muốn nơi mỗi người không phải là những hình thức giả dối bên ngoài nhưng phải là tấm lòng thành. Chúa muốn mỗi người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi ô uế hơn là những hình thức thanh tẩy bên ngoài. Chúa muốn mỗi người biết đặt ưu tiên cho việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống ngay thẳng công minh, chính trực, hơn là giữ các tập tục vô nghĩa. Nói như thế, Chúa không phủ nhận các giá trị tốt đẹp của tiền nhân, nhưng Chúa chê trách những người nại vào tập tục mà bỏ qua việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa hoặc giữ luật mà không hiểu ý nghĩa của luật.
Đàng khác, Chúa trách những luật sĩ và biệt phái vì họ đã làm ngơ trước lề luật của Thiên Chúa và dạy người khác làm theo luật của riêng mình. Ví dụ họ cho rằng những ai chỉ cần tuyên bố sẽ dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì người ấy không phải nuôi dưỡng báo hiếu cha mẹ nữa. Đây chắc chắn không phải là điều Thiên Chúa dạy. Thiên chúa đòi buộc mỗi người phải thảo kính cha mẹ. Ai không chu toàn là có lỗi với cha mẹ và có tội trước mặt Thiên Chúa. Nhưng vì muốn cho có nhiều người dâng cúng vào đền thờ mà các luật sĩ và thượng tế đã đặt ra luật như thế.
Chúa Giêsu gọi đám đông đến và nói cho mọi người một nguyên tắc căn bản: Đó là phải tôn trọng tiếng lương tâm trong sáng, nghe và làm theo tiếng nhắc bảo của lương tâm. Chúa Giêsu dùng cách so sánh cụ thể: “Không phải những cái từ bên ngoài vào trong con người có thể làm cho họ ra ô uế, mà chỉ những cái từ trong xuất ra mới có thể làm cho con người ra ô uế mà thôi”. Chúa Giêsu cũng giải thích thêm “cái bên trong” đó là: “tư tưởng xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng nó phát xuất từ trong tâm hồn và làm cho tâm hồn ô uế”. Đúng như vậy, tư tưởng sẽ chi phối hành động. Tư tưởng xấu xa mờ ám, thì dẫn đến hành động xấu xa gian dối; tư tưởng suy nghĩ quanh co thì hành động cũng quanh co không ngay thẳng; tư tưởng dâm ô thì từ lời nói đến hành động sẽ là những điều dâm ô.
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng là mỗi người cần thanh tẩy, điều chỉnh suy nghĩ của mình trước; thanh tẩy từ trong tâm hồn. Thay đổi được suy nghĩ, sẽ thay đổi được hành động và đời sống. Suy nghĩ những điều tốt đẹp, tích cực thì sẽ hành động tích cực tốt đẹp cho người khác. Suy nghĩ những điều thánh thiện, thì cuộc sống và việc làm sẽ thánh thiện.
Ngày xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa cũng đã dùng ông Môsê để cánh báo về việc giữ giới răn lề luật của Thiên Chúa sao cho cho tinh ròng, đừng tự ý thêm hoặc bớt lề luật Chúa. Vì lề luật của Thiên Chúa là do ý muốn của Thiên Chúa. Ai tuân giữ cách vuông tròn, đó là người khôn ngoan và lề luật của Chúa sẽ gìn giữ người ấy. Hơn nữa, Môsê còn kêu gọi mọi người hãy luôn cảm thấy tự hào vì không có dân tộc nào được Thiên Chúa ưu ái ban lề luật của Ngài như Chúa đã ban cho dân Do Thái. Tuy nhiên, những lời căn dặn của Môsê đã không được người Do thái lưu ý. Họ tìm cách sửa luật Chúa theo ý muốn và theo lợi ích riêng của mình, biến việc giữ luật chỉ còn là hình thức bên ngoài không còn ý nghĩa ban đầu. Sau nhiều thế kỷ, người Do thái đã thêm vào lề luật của Chúa nhiều chi tiết và nhiều các thứ luật khác khiến cho đa số người dân không thể phân biệt đâu là giới răn của Chúa đâu là luật của các thượng tế, luật sĩ.
Thưa quý OBACE, không chỉ những người Do thái ngày xưa, mà chúng ta hôm nay cũng bị tình trạng như thế. Nhiều người trong chúng ta tin Chúa, theo Chúa nhưng không muốn giữ lề luật của Thiên chúa. Nhiều người cho rằng luật Chúa ngày nay con người không thể giữ được. Vì vậy, họ tìm cách xén gọt luật Chúa cho vừa với ý của mình. Nhiều người khi bước vào cuộc sống hôn nhân, họ cam kết chu toàn luật Chúa và Giáo Hội. Họ công khai nói lên sự thuỷ chung và vĩnh viễn của hôn nhân công giáo. Thế nhưng, có nhiều người đã tìm cách phá vỡ mối dây hôn nhân, tìm cách hủy bỏ lời cam kết. Họ đưa ra rất nhiều lý do để biện mình cho lối sống, suy nghĩ và hành động sai trái của mình. Ngày nay có cả những phong trào nổi lên gây sức ép, nhằm phá hủy luật hôn nhân của Chúa để thay thế bằng luật của con người.
Sống trong một tổ chức nào cũng cần phải có lề luật để duy trì sự trật tự và giúp phát triển tổ chức đó. Cũng vậy, là thành viên trong gia đình Hội Thánh của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chu toàn những lề luật của Hội Thánh. Vì Hội Thánh là của Chúa Kitô, do Chúa Kitô thiết lập để thi hành sứ mạng Chúa Kitô trao phó. Vậy mà, có những người đang tìm cách gây sức ép để Hội Thánh thay đổi lề luật của mình với lý luận: Luật do Hội Thánh đặt ra thì Hội Thánh có quyền thay đổi. Ví dụ như luật về hôn nhân gia đình, luật bảo vệ sự sống… Luật của Hội Thánh là do ý định của Thiên Chúa, nhằm xây dựng Hội Thánh. Vì thế, Hội Thánh không thể đi ngược với ý định của Chúa Kitô.
Trong một cộng đoàn nhỏ hơn là giáo xứ, gia đình cũng cần có những quy định phù hợp với lề luật của Thiên chúa nhằm bảo vệ, củng cố và phát triển cộng đoàn và gia đình. Vì thế, mỗi người đừng vì ý thích cá nhân, cũng đừng nhân danh tự do cá nhân hoặc quyền lợi nào đó mà coi thường luật Chúa và Giáo hội hoặc những quy định của cộng đoàn và gia đình. Vì tất cả những lề luật của Thiên chúa và Hội Thánh là nhằm giúp ta tiến triển và đạt tới đời sống thánh. Những quy định trong giáo xứ và gia đình là chuẩn mực, nhằm giúp ta hoàn thiện con người mình mà thôi.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra ý Chúa qua các giới răn lề luật của Chúa và giúp chúng ta thi hành, chu toàn luật Chúa cách vui tươi và tự do. Amen.
Hôm nay, Chúa Nhật XXII thường niên B, chúng ta tìm hiểu về Luật Chúa là luật đích thực của TN 22-B163
Hôm nay, Chúa Nhật XXII thường niên B, chúng ta tìm hiểu về Luật Chúa là luật đích thực của tôn giáo. Luật này được kiện toàn trong bí tích tình yêu và chỉ tồn tại trong tâm hồn tinh truyền và thánh thiện. Vì thế, các bài đọc hôm nay hướng dẫn chúng ta suy tư về cách thế tốt nhất để tuân giữ luật Chúa, nhờ đó chúng ta đạt tới ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Môsê nhắc nhở dân người về các huấn lệnh của Thiên Chúa và yêu cầu họ phải kiên tâm bền chí tuân giữ để được sống hạnh phúc. Ông cũng nghiêm túc lưu ý họ không được thêm hoặc bớt điều gì. Tuy nhiên, lời cảnh báo này đã không được thực hiện một cách nghiêm túc, bởi vì sau này những người Pharisêu đã biến 10 điều răn thành 613 khoản quy định tỉ mỉ. Vì thế, họ đã làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và phức tạp một cách thái quá đối với dân Chúa. Đó là lý do tại sao trong thư Galát chương 3, thánh Phaolô đã đối diện với trường hợp như thế nên ngài đã mạnh mẽ chống lại “lề luật.” Ngài không hoàn toàn lên án lề luật, nhưng lên án cách thức mà những người Pharisêu quan niệm, lạm dụng và trình bày lề luật. Ngài cho rằng tinh thần Lề Luật còn quan trọng hơn các chữ viết.
Cũng thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chống lại nhóm Biệt Phái vì sự giả hình của họ. Họ không bao giờ giữ luật mà họ đã đề ra cho dân. Đây là cách thức nguy hiểm của đời sống mà chúng ta (những linh mục, tu sĩ và những Pharisêu thời nay) phải cẩn thận xa tránh. Chúng ta không được sống một cuộc sống giả hình, cũng như làm cho cuộc sống trở nên phức tạp hơn cho người khác; hay đôi khi chúng ta chỉ thích bắt bẻ, chỉ trích và lên án người khác, nhưng lại không ý thức về giới hạn của mình.
Đặc biệt, trong khi nhóm Biệt Phái chỉ chú trọng đến hình thức và nệ luật bên ngoài, Chúa Giêsu chỉ cho thấy căn nguyên sâu xa nhất của mọi sự xấu xa và thiện hảo khi Người nói: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Người mời gọi chúng ta phải kiểm điểm chính mình. Bởi lẽ, từ bên trong, nơi lòng chúng ta, những ý định xấu xa, ghen ghét, kiêu ngạo, những khuynh hướng đồi bại mà chúng ta lưu giữ trong lòng thực sự là những gì biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta là ai. Chúng là những tật xấu làm cho chúng ta trở nên xấu xa. Chúng ta phải loại trừ chúng trước khi chúng cắm rễ sâu và làm cho toàn bộ con người chúng ta ra hư hỏng. Chúng là những kẻ thù đích thực và ẩn mặt mà chúng ta phải chiến đấu và chiến thắng mỗi ngày.
Phẩm chất của đời sống chúng ta được đo lường nhờ phẩm chất của tâm trí chúng ta. Nếu tâm trí chúng ta bị phá hoại và bệnh hoạn, thân xác chúng ta sẽ bị bệnh hoạn gấp trăm lần, ngay cả khi chúng ta không ý thức điều đó. Như thế, điều quan trọng nhất mà Thiên Chúa cần nơi chúng ta là tâm hồn trong sạch như Chúa Kitô dạy chúng ta: “Phúc thay những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Cách thức tốt nhất để trung thành với huấn lệnh Thiên Chúa là để cho tâm hồn chúng ta được biến đổi nhờ Lời Chúa. Như thế, thay vì quá chú tâm đến những chữ viết của lề luật và sự trong sạch thể lý, chúng ta nên chú ý tới lời khuyên của Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Thánh ý Thiên Chúa chính là luật Người. Luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta yêu mến người khác và làm lành lánh dữ. Luật Chúa phải kêu gọi sự sám hối đích thực và ước muốn chân thành để tha thứ cho người khác. Luật Chúa giữ chúng ta vững vàng trong đức tin. Tắt một lời, luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta chỉ theo đuổi điều tốt lành, phải đạo, cao thượng và thánh thiện.
Hôm nay, thánh Giacôbê Tông Đồ đòi hỏi chúng ta nơi bài đọc II: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em… Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành” (Gc 1,21-22).
Vì thế, cách tốt nhất để thực hiện điều này là chúng ta hãy có gắng sống đức tin của mình vào trong đời sống hằng ngày, hãy diễn tả nó qua cách thức chúng ta sống, yêu và hành xử với người khác. Cuối cùng, Thánh Vịnh Gia nhắc nhở chúng ta rằng người công chính sẽ sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa chúng ta thực hành Lời Chúa và các giới răn với một tâm hồn trong sạch và chân thành. Vì thế, chúng ta hãy khiêm tốm cầu nguyện như vua Đavít: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51,12). Amen!
Chúng ta thường nói người Pharisieu là đạo đức giả! Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15 TN 22-B164
Chúng ta thường nói người Pharisieu là đạo đức giả! Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) giúp chúng ta hiểu nhiệm vụ của người Pharisieu trong Do Thái Giáo. Tại sao chúa Giesu và nhiều người lại ghét thái độ giả hình của người Phrisieu? Ai là Pharisieu trong thời Chúa Giesu và thời đại ngày nay?
Người Pharisieu muốn cho lề luật được sống động nên đã cố gắng làm cho lề luật thích hợp với mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Giáo lý của người Pharisieu thì không trái với giáo lý Kito giáo. Thời chúa Giesu, người Pharisieu thuộc phe “bảo thủ” trong Do Thái Giáo. Họ tỏ ra rất đạo đức, giữ luật Torah và Talmud thật khít khao. Họ là thủ lãnh phe đa số và được những tín đồ ngoan đạo, nhiệt thành nể trọng. Đối lập với phe này là phái Sa Đóc, đại diện phái “tự do” trong Do Thái Giáo. Người Sa Đóc thì bình dân và nổi tiềng trong phái thượng lưu xã hội nhưng là thiểu số. Pharisieu và Sa Đóc được nhắc tới trong tin mừng Mathieu (Mt 3:7-10), khi Gioan Tiền Hô kết án họ lúc họ đến xin chịu phép rửa: “ Loài rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp ráng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa trái xứng với lòng xám hối…. Tại sao Gioan lại mắng những người Pharisieu là rắn độc, là quân giả hình nhân đức?
Chúa Giesu cũng dùng những lời trách móc rất nặng để chửi những người Pharisieu. Trong Mathieu 16:6 Chúa đã cảnh giác các môn đệ: “Hãy để ý đến căn nguyên của dân Pharisieu và Sa Đóc.” Người môn đệ phải để ý đến cái gì? Có phải cái tính vô đạo đức của dân Pharisieu và Sa Đóc không?
GIỮ LỀ LUẬT THẬT KHẮT KHE
Thời chúa Giesu, người Pharisieu thường cổ động cách giữ luật thật khit khao và sống đạo hàng ngày thực sự trong lòng. Nhưng một số người chỉ giữ đạo bề ngoài và bị những Pharisieu khác đả kích. Tiên tri Isaiah cũng từng gọi họ là kẻ giả hình nhân đức. Chúa Giesu cũng phản đối việc cắt nghĩa luật của họ, nhưng Chúa không kết án chủ thuyết của họ hoặc tất cả những người Pharisieu.
Người Pharisieu “dựa vào chính họ, coi họ là người công chính.” Họ tin rằng bồn phận của họ là làm điều mà Thiên Chúa truyền và cấm điều Thiên Chúa cấm. Những điều làm được và gìn giữ được sẽ tiến dâng lên Thiên Chúa. Họ tự cho mình là người công chính, khinh miệt tất cả những ai không tuân giữ luật theo cách của họ. Họ không ngồi ăn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi là những kẻ xấu. Họ xì xào nói xấu những người ngồi ăn với chúa Giesu. Thấy vậy Chúa bèn nói: “Người khỏe mạnh không cần bác sĩ mà là kẻ yếu đau bệnh hoạn. Ta đến không vì người công chính nhưng vì kẻ tội lỗi cần ăn năn thống hối” (Lc 5:31-32).
THỰC TÂM QUAN TRONG HƠN BỀ NGOÀI
Đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) cho biết những người Pharisieu và những nhà thông luật đến từ Jerusalem là để điều tra về Chúa Giesu. Chúa Giesu đã bãi bỏ cách thực hành nghi thức thanh tẩy và phân biệt thức ăn sạch và dơ theo truyền thống tôn giáo nên Chúa muốn thi hành luật một cách thông thoáng hơn. Thấy một số môn đệ ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay (Mc 7:2) mấy ông Pharisieu và thông luật bèn hạch hỏi chúa Giesu: “Tại sao các đệ tử của ông không giữ truyền thống của các tổ phụ, ngồi ăn với hai bàn tay dơ?” (c.5). Chúa Giesu đã không trả lời nhưng gọi mấy tên Pharisieu và nhà thông luật đó là “quân giả hình nhân đức” (c.6). Nhắc lời Isaiah, chúa Giesu lột mặt nạ họ. Các ông bám lấy nguyên tắc của người đời rồi tin tưởng vào truyền thống của các tổ phụ mà quên đi lề luật của Thiên Chúa (c.8). Chống lại cách hành đạo kiểu bề ngoài, theo thuyết thanh tẩy (Mc 7:2-5), hẹp hỏi của các Pharisieu, chỉ giữ các giới răn thờ phương bằng môi miệng (7:6-7), Chúa Giesu đã lấy luật của Thiên Chúa phản bác lại (7:8-13): “Các ông đã gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm….”
Chúa còn nêu lên sự tương phản giữa luật và cách cắt nghĩa luật của người Pharisieu. Thực vậy, Macco 7:14-15 đã để luật qua một bên mà vẫn tôn trọng thức ăn sạch và bần. Quan điểm của chúa Giesu rất rõ ràng, chính đa số các Pharisieu cũng công nhận cái tâm mình, lòng mình quan trọng hơn vẻ bề ngoài.
Ý NIỆM TỘI CỦA DÂN PHARISIEU
Chúa Giesu bác bỏ quan niệm tội của người Pharisieu và các nhà thông luật. Đối với chúa Giesu, tội từ tâm mà ra. Không biết phân biệt các loại thức ăn không phải là tội. Thái độ của Chúa về tội là quan niệm về ngày Sabbath. Giữ luật mà không có lòng trắc ẩn cảm thông và yêu thương thì thiếu lòng nhân đạo và không có tình người.
Chúng ta có thể hiểu dễ dàng sứ điệp của Chúa Giesu muốn nói với các Pharisieu và những nhà thông luật (c.1-8) cũng như đám đông: Tất cả các ngươi kể cả các môn đệ (c.21-23), hãy nghe ta đây, để mà hiều (c.14-15). Đây là tin vui cho tất cả mọi người, là Thiên Chúa không cứng ngắc theo sát luật. Người uyển chuyển, bởi vì qua đức Giesu Kito, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta một đời sống mới. Không nên quá lo lắng làm sao để vâng theo luật lệ và giữ mình thanh sạch.
Giữ mình thanh sạch là chúng ta tự do dùng bàn tay mình để phụng sự tha nhân. Chúng ta có thể bị dơ bẩn trở lại, nhưng Thiên Chúa cho chúng ta tự do giữ luật, lại ban cho chúng ta ân sủng. Đây cũng là một tin vui chúng ta phải chia sẻ khi chúng ta phụng sự những người có tâm hồn giữ luật, đám đông, và cả những môn đệ chúa Giesu ở chung quanh ta.
NGƯỜI PHARISIEU THỜI ĐẠI
Ai là Pharisieu và đệ tử của họ ở thời đại ngày nay? Pharisieu thời đại và đệ tử của họ là những người rất sùng đạo và giữ phẩm hạnh nhưng cũng hay ganh ghét. Họ cố gắng giữ luật Chúa nhưng lại hay phân bua khi thực hành đạo. Họ rất siêng năng đi lễ Chúa Nhật. Họ là những công dân làm việc chăm chỉ, bề ngoài tỏ ra rất ngay thẳng. Họ giữ mình tránh các tội ác và luôn luôn giảng giải về luân lý và luật lệ, nhưng lại có đặc điểm hay phân bì ganh tỵ.
Ngoài ra họ không tin là ơn cứu độ phụ thuộc vào hành động của chúa Kito. Họ cho rằng ơn cứu độ là do cố gắng của con người và những điều mà kẻ tội lỗi thêm vào công việc của chúa Kito.
Ngược lại, người Kito hữu thực sự là những người tin và tuyên xưng chúa Kito bị đóng đanh. Không có cách nào khác. Họ tin rằng hành động của chúa Kito là bảo đảm cho ơn cứu độ cho tất cả mọi người mà họ là một đại diện. Chỉ một điều đó làm nổi bật sự khác biệt giữa cứu độ và luận phạt. Họ biết rằng cố gắng của riêng họ tuyệt đối không can dự vào chuyện họ được chấp nhận trước mặt Thiên Chúa. Họ an nghỉ trong một chúa Kito mà thôi khi niềm tin duy nhất của họ là nhận biết công việc của chúa Kito nhờ ân sủng của Thiên Chúa làm bảo đảm cho ơn cứu độ. Chúa Giesu biểu lộ cho chúng ta biết ai là kẻ tội lỗi cần được chữa lành, ai không tự mình trở thành công chính, ai không có quyền hành Thiên Chúa, ai không đáng được làm bạn với Thiên Chúa, ai là người mà đức Giesu đến để kêu gọi họ thống hối.
ĐÔI LỜI KẾT- KHOAN DUNG HƠN LUẬN PHẠT
Đọc bài Tin Mừng hôm nay nói về lề luật, chúng ta nên coi lại Công Đồng Vatican II khai mạc ngày 11-10- 1962. Trong lời mở đầu, Đức Gioan XXIII nói rõ ràng ngài không kêu gọi Vatican II bào chữa cho những sai lầm hay làm sáng tỏ những điểm chính của giáo lý. Ngài nhấn mạnh, Giáo Hội ngày nay phải “ khoan dung hơn là luận phạt.”
Gioan XXIII khi được yêu cầu, đã từ chối nghe ý kiến của những người chung quanh là những vị “luôn luôn tiên đoán về tương lai xấu.” Ngài goi họ là những “tiên tri bi quan”, thiếu cảm quan về lịch sử mà lịch sử là “thầy dạy đời sống”. Ngài quả quyết, sự quan phòng của Thiên Chúa đã dẫn thế giới đi vào một trật tự mới tốt đẹp hơn trong tình liên đới giữa loài người với nhau. “Và tất cả mọi sự, ngay cả những khác biệt của con người, đều dẫn đưa tới điều thiện vĩ đại hơn của Giáo Hội.”
“Papa Roncalli” là con người, để ý đến niềm tin của mình hơn là hình ảnh của mình, đến những người chung quanh mình hơn là những ham muốn của mình. Với một nhiệt tình và viễn kiến truyền cảm, ngài nhấn mạnh Giáo Hội cần phải thích ứng với một xã hội đang thay đổi từng giờ và làm cho những sự thật thâm sâu nhất của Giáo Hội được sáng tỏ trong thế giới tân kỳ ngày nay. Ngài biết rằng luật mà không có tình thương, thiếu lòng trắc ẩn cảm thông thì không còn nhân tính.
Papa Giovanni được vị kế tiếp là Gioan Phaolo II phong chân phước năm 2000, và năm 2014 được vinh thăng hiển thánh cùng với Gioan Phaolo II bởi đức Phan Sinh. Xin ngài tác động lên tâm hồn những Pharisieu và Sa Đốc tân thời là những vị đang sống và sống khỏe trong Giáo Hội và thế giới ngày nay!
Trong đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta bị ảnh hưởng không ít thì nhiều bởi môi trường TN 22-B165
Trong đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta bị ảnh hưởng không ít thì nhiều bởi môi trường và bởi tình cảnh. Những ảnh hưởng này rất cần thiết và hữu ích, chẳng hạn tại ngã tư đường đèn đỏ báo hiệu chúng ta biết phải dừng lại. Nếu không sẽ có thể đưa đến tai nạn lưu thông và hậu quả trầm trọng. Khi đi chợ hay đến những văn phòng, chúng ta phải xếp hàng chờ đợi. Khi tới một nơi công cộng hay nhà thờ không được xả rác. Nếu chúng ta ý thức được điều đó thì sẽ bị coi là người kém hiểu biết, hay kém văn minh, nhất là trong xã hội Hoa kỳ này. Ngoài ra chúng ta còn bị chi phối bởi luật lệ của quốc gia, phong tục gia đình, luân lý của xã hội và luật lệ trong tôn giáo. Như chúng ta đều biết, luật lệ cần thiết cho đời sống vì mục đích là bảo vệ những giá trị căn bản cho cá nhân, và bảo đảm cho chúng ta sự tự do và an toàn.
Những bài Kinh thánh tuần này nhắc nhở và giúp chúng ta hiểu sự khác biệt và hiệu quả đưa đến từ những gì chúng ta tiếp nhận từ bên ngoài vào, và những hành động và thái độ phát xuất ra từ trong con người chúng ta.
Bài đọc 1 nhắc nhở chúng ta về 10 điều răn của Thiên Chúa dạy, mục đích là hướng dẫn cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta tuân giữ và sống 10 điều răn Chúa dạy, chúng ta sẽ kết hợp mật thiết với Chúa và sống trong ơn sủng và bình an của Người.
Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa cảnh cáo những người Biệt phái đã giữ những điều luật rất tỉ mĩ, cặn kẽ, nhưng không chú ý đến ý nghĩa và giá trị tinh thần hay mục đích của việc giữ luật. Họ giữ luật cặn kẽ cốt ý là tỏ ra mình là đạo đức trước mặt mọi người và để được người ta ca tụng. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã gọi họ là những người giả hình. Giả hình hay giữ luật lệ một cách hình thức bề ngoài đều bị Chúa Giêsu lên án và Chúa không ngại ngùng thẳng thắn tuyên bố rằng: “Dân này kính ta ngoài môi miệng nhưng lòng chúng thì xa ta. Nó sùng kính ta cách giả dối.” //
Thái độ đó của những người Biệt phái và luật sĩ ngày xưa có thể đang được tái diễn lại trong đời sống của người kitô hữu ngày nay, nhất là trong một xã hội chú trọng tới vật chất, tiền bạc và tự do cá nhân này. Đây là điều mà chúng ta phải lưu ý. Khi nói đến đời sống tôn giáo, thông thường chúng ta nghĩ ngay đến một số các luật lệ và nghi thức, và chúng ta cũng thường có khuynh hướng đánh giá mức độ đạo đức, thánh thiện qua sự tham dự các lễ nghi, qua việc giữ các luật lệ hay đọc kinh. Chính vì thế mỗi khi thấy người nào không giữ như chúng ta, chúng ta liền phê bình, chỉ trích và cho là “khô khan” hay không đạo đức. Đó cũng chính là quan niệm của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu, điển hình là khi thấy các môn đệ của Chúa Giêsu dùng bữa mà không rửa tay theo luật.
Nếu chỉ chú ý tới giữ những nghi thức, tuân theo lề luật hay đọc kinh mà quên đi việc phải sống hy sinh, bác ái, quảng đại như Lời Chúa dạy trong cuộc sống hàng ngày thì phải thành thật thú nhận rằng cũng là điều mà tôi và quí ông bà anh chị em thường rất dễ mắc phải. Thực ra, thì tất cả chúng ta chẳng ai muốn sống giả hình hay hình thức, nhưng vì giữ những hình thức đó xem ra dễ hơn là sống những đòi hỏi, luật lệ của Chúa dạy, hơn nữa vì sống trong xã hội này, chúng ta muốn sống đạo theo phương cách, đường lối, luật lệ của chính chúng ta. Do đó, chúng ta chỉ mới giữ đạo, chứ chưa sống đạo. Chúng ta chưa thật sự để Tin mừng của Chúa biến đổi cuộc sống của chúng ta, và cũng chính vì thế mà chúng ta vẫn còn phải nghe những nhận xét thật đau lòng của anh chị em chưa có đức tin, đó là: Tin đạo chứ không tin người có đạo. Họ không tin chúng ta vì chúng ta chưa thật sự sống điều chúng ta tin, hay đời sống của chúng ta không phản ảnh những gì chúng ta tin. Ngoài ra, nếu chỉ lo giữ những nghi thức bên ngoài, mà không có một tấm lòng chân thật bên trong, thì những nghi thức này sẽ còn dẫn chúng ta đến những thói xấu khác là kiêu căng, tự phụ, tự cao và dễ kết án người khác.
Chúng ta biết những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết, nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị và ơn ích, cần phải phát xuất từ tâm tình tốt bên trong. Bởi vì nội tâm trong con người là nguồn mạch, căn nguyên của mọi hành động, việc làm và lời nói, cho nên nội tâm có tốt thì những hành động, lời nói, việc làm phát xuất ra từ đó mới tốt, mới có giá trị.
Thật vậy, bài Tin mừng nhấn mạnh đến điểm quan trọng này: chính lòng con người là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay việc xấu. Đồng ý rằng chúng ta bị ảnh hưởng, chi phối, lôi cuốn, thúc đẩy của hoàn cảnh, nhưng thật ra thiện căn ở tại lòng của chúng ta. // Và cũng chính từ trong lòng này sinh ra 12 nết xấu mà Tin mừng kể ra là: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loan, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.
Cho nên câu mà chúng ta thường nghe nói: “không gì xấu bằng lòng người’’ chưa hẳn quá đáng. Ca dao tục ngữ của người Việt nam chúng ta cũng có câu nói về lòng dạ con người: “Sông sâu còn có thể dò, lòng người nham hiểm ai đo cho lường.”
Vì thế, chúng ta phải gieo vào cánh đồng tâm hồn con người chúng ta những hạt giống tư tưởng tốt lành, những luật lệ điều răn của Thiên Chúa, thì mới sinh ra những hoa trái là những việc tốt lành, thánh thiện và hữu ích cho chúng ta và tha nhân.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân Do Thái rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Thế thì chúng ta tự hỏi: “Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế không?” Xin Chúa giúp chúng ta từ bỏ những cách sống giả dối, hình thức bề ngoài. Vì chúng ta có thể giả hình, giả dối với người khác, nhưng không thể dấu được Thiên Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta có tâm hồn yêu mến và thành tâm lắng nghe và tuân giữ, sống luật Chúa dạy.
Vài năm trở lại đây, cuộc sống kinh tế có phần cải thiện và những quy định khắt khe về tôn TN 22-B166
Vài năm trở lại đây, cuộc sống kinh tế có phần cải thiện và những quy định khắt khe về tôn giáo cũng đã được tháo cởi, nhờ đó các cộng đoàn tín hữu có nhiều biến chuyển trong những thực hành đạo đức. Tuy vậy, tại một số nơi, điều được chú trọng hơn lại là những gì sầm uất bề ngoài. Những đội trống, đội kim nhạc, những hội đoàn đồng phục… càng ngày càng nhiều như trăm hoa đua nở, nhưng chiều sâu nội tâm và tình bác ái nội bộ lại bị coi nhẹ. Không ai phủ nhận giá trị của các hội đoàn nêu trên, vì những hội đoàn này là biểu tượng và bằng chứng cho đời sống Đức tin. Tuy vậy, nếu chỉ chú trọng đến bề nổi mà quên đời sống nội tâm thì lại là coi nhẹ điều chính mà chú tâm đến những điều phụ. Chúa Giêsu đã gay gắt lên án các kinh sư và những người biệt phái. Kinh sư và biệt phái là những người học hành uyên thâm, họ có uy tín trong các cộng đoàn Do Thái, và có vị trí quan trọng trong các buổi hội họp. Chính những “bậc vị vọng” ấy đang bị Chúa kết án nặng nề. Người mượn lời ngôn sứ Isaia để lên án họ là những “kẻ đạo đức giả”. Họ lạm dụng khái niệm thánh thiêng và trần tục, và đã tự đặt ra rất nhiều quy định rườm rà và tỉ mỉ. Những quy định này, thay vì giúp cho con người nên thánh, lại đặt trên vai họ những gánh nặng không kham nổi. Những công việc bình thường hằng ngày như rửa tay, rửa chén, rửa bát, họ đã biến thành những nghi thức tôn giáo để kết tội người dân. Họ coi thường những điều răn của Chúa để quá chú trọng đến những tập tục do chính họ đặt ra. Chúa Giêsu đã phê phán quan niệm ấy, và mời gọi họ chú trọng đến nhân vị, tức là chính con người. Bởi lẽ, những quy định, luật lệ được thiết lập là phục vụ con người và giúp họ hướng thượng và nên trọn lành. Với lời giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã đảo ngược quan niệm “thanh sạch và ô uế” của người đương thời. Trong khi những người này chủ trương những gì ở ngoài sẽ gây ô uế cho con người, Chúa Giêsu lại khẳng định, chính bên trong con người là nguồn gốc của sự ô uế và tội lỗi. Quả vậy, con người là nguyên nhân của biết bao tội lỗi từ khởi đầu của lịch sử cho đến ngày nay. Những tham vọng, ích kỷ và mưu mô từ bên trong con người đã gây nên biết bao đau khổ cho bản thân và cho những người xung quanh. Cuộc sống thường ngày của chúng ta đã chứng minh điều khẳng định của Chúa. Khi phê phán những biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu mời gọi những ai nghe Người hãy đổi mới quan niệm của mình về việc thờ phượng, để có thể tôn thờ Chúa với tâm hồn ngay thẳng và với thiện chí sống tình bác ái với những người xung quanh. Một thứ thờ phượng môi mép giả hình sẽ biến người ta thành những con rối. Của lễ Chúa muốn, đó chính là tấm lòng chân thành và yêu mến dành cho Chúa, với thiện chí quyết tâm đổi mới cuộc đời. Biết bao lần chúng ta tham dự các nghi thức phụng vụ mà tâm hồn chúng ta xa Chúa. Có nhiều khi chúng ta giống như những người kinh sư và người biệt phái, chỉ chú trọng đến những nghi thức bề ngoài mà coi nhẹ tâm tình cầu nguyện, là điều cốt lõi để làm thành việc tôn thờ đích thực. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Hãy khiêm tốn đón nhận Lời được gieo vào lòng chúng ta… Hãy đem Lời ấy ra thực hành chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, lòng đạo đức thật phải sinh ra hoa trái là lòng bác ái và dấn thân phục vụ người nghèo, giúp họ tìm được niềm vui trong cuộc sống. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã ban Lề Luật qua ông Môisen. Ngài ban Lề Luật để giúp họ nên thánh. Đây là niềm tự hào của dân tộc Do Thái, là dân riêng Chúa đã chọn. Ông Môisen kêu gọi người Do Thái hãy nhìn lại sự ưu ái của Chúa trong lịch sử, nhất là trong hành trình sa mạc để tiến về Đất hứa. Các dân xung quanh phải ghen tị, vì Chúa luôn ở với dân Ngài và hướng dẫn họ, nhờ đó, dân tộc Do Thái trở thành một “dân tộc vĩ đại, khôn ngoan và thông minh”. Các kinh sư và biệt phái đã chất lên vai người dân những gánh nặng của luật lệ, trong khi Chúa đã truyền qua ông Môisen: “Đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em”. Ngài cũng hứa ban hạnh phúc cho những ai chuyên tâm thực thi các thánh chỉ của Ngài. Chúa Giêsu đã đến trần gian để kiện toàn Lề Luật Cựu ước, và Người đã ban “giới răn mới” là đức yêu thương. Đây là giới răn quan trọng và cần thiết đối với mỗi tín hữu, vì “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10). Giữa biết bao trào lưu đang lôi cuốn con người ngả theo những hình thức đạo đức bề ngoài, xin Chúa cho chúng ta một Đức tin tinh tuyền, để luôn hướng về Chúa, một lòng bền vững tin yêu và thuộc trọn về Ngài. “Có đức tin là ký vào một tờ giấy trắng và để cho Thiên Chúa muốn viết gì vào đó tuỳ Ngài” (Thánh Augustinô).
Con người có hồn và xác. Đẹp thân xác là một vinh dự. Đẹp tâm hồn là một hồng ân. Thật quý TN 22-B167
Con người có hồn và xác. Đẹp thân xác là một vinh dự. Đẹp tâm hồn là một hồng ân. Thật quý biết bao nếu con người biết trau truốt cả tâm hồn lẫn thân xác! Người đẹp từ thể xác đến tâm hồn thì đáng giá hơn muôn ngàn vàng bạc. Nhưng tiếc thay, con người dường như chỉ làm đẹp thân xác mà quên làm đẹp tâm hồn.
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác này nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Xem ra người ta luôn chiều chuộng thân xác, kể cả những điều tội lỗi trụy lạc. Xem ra người ta luôn dành mọi thời giờ cho thân xác, và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài! Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình. Đừng như những người Do Thái quá chú trọng đến sự sạch sẽ thân xác mà xem thường sự trong sạch tâm hồn. Họ giữ luật vụ hình thức nên chỉ chú trọng bề ngoài mà quên gìn giữ vẻ đẹp của tâm hồn. Chúa Giê-su cho họ thấy rằng: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
Ước gì chúng ta hãy để cho Lời Chúa sửa lòng mình, để bên trong lẫn bên ngoài được tốt đẹp. Đó là điều mà Chúa muốn chúng ta hãy để cho Chúa uốn nắn, sửa dạy nên tốt hơn. Xin đừng chú tâm đến vẻ đẹp thân xác mà quên để Chúa uốn nắn thêm xinh tươi cho tâm hồn. Amen.
Vệ sinh (*) là “bài học” chúng ta được học từ những năm đầu đời, thậm chí ngay khi chúng ta TN 22-B168
Vệ sinh (*) là “bài học” chúng ta được học từ những năm đầu đời, thậm chí ngay khi chúng ta còn nằm nôi. Đơn giản là chính “cô giáo” mẹ đã dạy chúng ta nên làm thế này, đừng làm thế kia.
Vệ sinh là vấn đề giản dị mà quan trọng, liên quan nhiều vấn đề khác, thậm chí liên quan cả “chuyện sinh tử”. Câu “ăn bẩn sống lâu” chỉ là nói đùa hoặc biện hộ cho thói ở bẩn của mình mà thôi.
Nói về vệ sinh, ai cũng chỉ nghĩ tới sự sạch sẽ. Tuy nhiên, như vậy mới ĐÚNG và ĐỦ, ở dạng cơ bản, chứ chưa trọn vẹn. Vệ sinh không chỉ là giữ SẠCH SẼ, như vậy vẫn là tiêu cực, mà phải giữ cho KHÔNG BẨN, đó mới là tích cực. Vấn đề vệ sinh liên quan tình trạng SẠCH và BẨN, bao gồm các quy tắc giữ gìn sạch sẽ cơ bản nhất của con người – như vệ sinh cá nhân và môi trường xung quanh để đề phòng bệnh tật, bảo vệ và tăng cường sức khỏe.
Người ta tắm rửa hằng ngày để loại bỏ chất bẩn và vi khuẩn – các tế bào chết đó được chúng ta gọi là “ghét”. Vâng, chúng nó đáng “ghét” thật. Việt ngữ độc đáo quá chừng! Không chỉ vậy, người ta còn phải giữ vệ sinh nhiều thứ khác như đánh răng, cạo râu, đi vệ sinh đúng chỗ, ăn mặc sạch sẽ,… Việc giữ vệ sinh được dạy từ rất sớm, điều đó dần dần trở thành một tập tính. Người ăn ở không vệ sinh sẽ gây “dị ứng” với người khác, và còn nguy hiểm là mắc bệnh – tự làm khổ mình.
Vệ sinh cần được giữ gìn trong nhiều dạng: vệ sinh thể lý, nhà cửa, vệ sinh môi trường, vệ sinh xã hội, vệ sinh giáo dục, vệ sinh âm nhạc, vệ sinh văn chương, vệ sinh tâm lý, vệ sinh tinh thần, vệ sinh linh hồn,… Trái ngược với sạch sẽ là dơ bẩn, mất vệ sinh. Tương tự, bẩn cũng có nhiều dạng và nhiều mức độ: Ô nhiễm môi trường là bẩn, ô nhiễm không khí là bẩn, ô nhiễm thực phẩm là bẩn, ô nhiễm nguồn nước là bẩn, ô nhiễm quản lý là bẩn, ô nhiễm tư tưởng là bẩn, ô nhiễm ánh mắt là bẩn, ô nhiễm lương tâm là bẩn, ô nhiễm giáo dục là bẩn, ô nhiễm âm nhạc là bẩn, ô nhiễm văn chương là bẩn,… Ô nhiễm nào cũng bẩn, cũng xấu, cũng có hại!
“Laudato Si’, mi’ Signore! – Chúc Tụng Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” là lời của Thánh Phanxicô Assisi, và cũng là lời mở đầu Tông thư Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (ký ngày 24-5-2015; thông điệp thứ hai của ngài sau Thông điệp Lumen Fidei – Ánh Sáng Đức Tin). Tông thư này nhắc chúng ta về “ngôi nhà chung” là Trái Đất, mệnh danh là “Hành Tinh Xanh”. Gần 800 năm trước, Thánh Phanxicô Assisi đã khéo léo nhân cách hóa khi gọi Hành Tinh Xanh là Chị Đất (Bài Ca Mặt Trời, Thánh Phanxicô Assisi sáng tác lời năm 1226, và được cố Nhạc sư Hùng Lân phổ nhạc năm 1982 với tựa đề “Bài Ca Vạn Vật” (↤ click nghe).
Thông điệp này có sức ảnh hưởng đáng kể đến các quốc gia và các tổ chức. Thật vậy, vì ai cũng đã và đang trải nghiệm về tình trạng khủng hoảng môi trường – lũ lụt, động đất, sóng thần, el niño, la niña,… Và kể từ năm 2015, ngày 1-9 trở thành Ngày Chăm Sóc Thiên Nhiên. Bảo vệ thiên nhiên là bảo vệ công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là bảo vệ chính mình, và đó cũng chính là trách nhiệm của mỗi chúng ta: Tạ lỗi Thiên Chúa và xin lỗi thiên nhiên.
Sách Đệ Nhị Luật xác định rằng giữ luật Chúa là khôn ngoan: “Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em” (Ðnl 4:1-2). NGHE và THỰC HÀNH là “khoảng cách” vừa gần vừa xa. Thật vậy, khoảng xa nhất không phải từ chỗ chúng ta đứng tới một nước khác, tới cung trăng hoặc sao Hỏa, mà “khoảng cách xa nhất là từ miệng tới tay”. Lạ thật, mà cũng khó thật!
Kinh Thánh cho biết thêm: “Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: ‘Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!’. Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?” (Ðnl 4:6-8).
Những câu hỏi nhẹ nhàng mà vẫn đủ sức xoáy sâu vào tâm khảm. NGHE rồi mà có HIỂU hay không, HIỂU rồi mà có LÀM hay không, những “khoảng” rất nhỏ hẹp mà sao vẫn xa xăm và mông mênh quá, cứ “đi” rồi “đi” mãi mà vẫn chưa tới đích. Nói suông luôn dễ hơn làm thật, chỉ tay ra lệnh bao giờ cũng dễ hơn làm trước để nêu gương!
Nghe và thực hành lời Chúa mới đích thực là người khôn ngoan và thông minh, và có thể vào Nhà Chúa và lên Núi Thánh của Ngài. Khó quá nhỉ! Vậy ai mới được vào ngụ trong Nhà Chúa và được ở trên Núi Thánh? Kinh Thánh liệt kê danh sách rõ ràng: “Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã, coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15:2-5). Ui da! Nhưng biết sao được, ai cũng phải rá… á… áng hết sức mà thôi! Không cố gắng vào Nhà Chúa và lên Núi Thánh thì đi mô bi chừ – đi đâu bây giờ?
Muốn thì chắc chắn ai cũng muốn “được vào Nhà Chúa”, nhưng thiếu ơn Chúa thì chúng ta cũng đành “bó tay” mà thôi. Vâng, ơn Chúa vô cùng cần thiết, vì Chúa Giêsu đã xác nhận: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Thật vậy, Thánh Giacôbê đã phân tích rạch ròi: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng. Người đã tự ý dùng Lời Chân Lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (Gc 1:17-18).
Về chuyện “nói và làm”, Thánh Giacôbê cho biết: “Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1:21-22). Rõ ràng là hành động luôn có giá trị hơn lời nói. Như một điều kiện ắt có và đủ, ở một chỗ khác, Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Ai cũng ghét lời nói suông, nhưng có bao nhiêu người chứng tỏ bằng việc làm?
Về lòng đạo đức, Thánh Giacôbê giải thích: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian” (Gc 1:27). Đến nhà thờ là điều tốt, nhưng đừng tưởng như vậy là đạo đức, là thánh thiện, nếu không chú ý hành động. Đừng “ảo thuật” như David Copperfield, nghĩa là đừng “tàng hình”, đừng chỉ là con chiên ngoan khi ở trong nhà thờ rồi hóa thành cọp dữ khi ở ngoài nhà thờ.
Tin Mừng hôm nay đề cập vấn đề tranh luận về những truyền thống của người Pharisêu. Họ chỉ chú trọng bề ngoài mà coi thường bề trong, lấy cái PHỤ làm cái CHÍNH, hiểu nghĩa đen mà không hiểu nghĩa bóng. Họ và một số kinh sư đến từ Giêrusalem. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Người Pharisêu và người Do-thái giữ truyền thống của tiền nhân là nhất định “không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận”, thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Đúng là “hình thức áp bức nội tâm, ngoại tại làm hại nội tại”. Sai bét nhè mà cứ tưởng mình ngon lành. Dốt mà chảnh, thích khoe mẽ văn chương. Làm lớn mà làm láo. Chết chắc!
Người Pharisêu và kinh sư hỏi vặn Chúa Giêsu về chuyện các môn đệ không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa. Đúng là ngu mà tưởng mình ngon, lo vệ sinh bề ngoài mà mất vệ sinh tâm hồn. Bẩn hết sức mà vẫn mạo nhận là mình sạch sẽ, hôi rình mà ngỡ mình thơm tho.
Nghe vậy, Chúa Giêsu thản nhiên trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7:6-8).
Vậy cái gì làm cho con người ra ô uế? Cần hiểu hai dạng ô uế cơ bản: ô uế thể lý và ô uế tinh thần. Tố cáo nhóm Pharisêu và kinh sư xong, Chúa Giêsu gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:14-15). Ngài nói “toạc móng heo” luôn, nhưng Ngài vẫn tế nhị dùng từ ngữ. Khi Đức Giêsu đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Ngài về dụ ngôn ấy, Ngài nói: “Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao? Anh em không hiểu sao? Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:18-19). Ui da, các môn đệ bị Thầy rủa là “ngu tối”. Đau lắm, nhưng đáng lắm. Phải nói thẳng, nói thật như vậy mới được “sáng mắt, sáng lòng”.
Từ cái bẩn thể lý tới cái bẩn linh hồn, tức là tội lỗi, Chúa Giêsu lý giải: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:21-23). Quả thật, mất vệ sinh tinh thần và linh hồn mới thực sự đáng sợ, chứ sự mất vệ sinh thể lý chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi. Thể lý bẩn thì tắm rửa bằng nước và xà bông. Xong! Nhưng tâm linh bẩn thì chỉ có thể “tắm” bằng hồng ân, phải thành tâm dìm mình trong Biển Tình của Lòng Chúa Thương Xót.
Kể cũng lạ, có những người rất bẩn mà vẫn ảo tưởng cho là mình sạch. Có những tư tưởng bẩn thỉu và hôi thối mà vẫn được lưu truyền, phát tán. Dạng này nguy hiểm vô cùng, nguy hiểm theo cấp số nhân, vì họ không chỉ “duy trì” cái bẩn cho chính mình mà còn gây ô nhiễm cho người khác. Người bẩn mà không bẩn, người sạch lại bẩn, đôi khi càng có chức có quyền càng bẩn!
Ô nhiễm nhất và bẩn nhất chính là TỘI LỖI. Thiên Chúa vô cùng ghê tởm dạng ô uế này. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hãy tẩy rửa hồn xác cho sạch mọi vết nhơ, và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới mức thánh thiện hoàn toàn” (2 Cr 7:1). Tuy nhiên, chúng ta không thể tự rửa sạch, mà phải cầu xin để được Thiên Chúa rửa sạch: “Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:4).
May thay, chúng ta được phép tẩy rửa chính mình trong Máu và Nước tuôn trào từ Thánh Tâm Đức Giêsu Kitô ngay trên Đồi Sọ. Hãy chân thành sám hối: “Pater, peccavi – Thưa Cha, con đã phạm tội”. Chắc chắn Thiên Chúa vẫn đại lượng và tha thứ, vì Chúa Giêsu đã hứa với Thánh nữ Maria Faustyna Kowalska (1905-1938): “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Xin tạ ơn Thiên Chúa muôn đời! Hãy cùng nhau bảo vệ môi trường thiên nhiên và môi trường tâm linh: Xin chúc tụng Thiên Chúa! – Laudato Sí!
Lạy Thiên Chúa từ nhân chí thánh, xin thanh tẩy hồn xác con nên trinh trong dù tội con đỏ như máu, xin giúp con thuộc lòng bài học vệ sinh linh hồn và biết giữ vệ sinh tâm linh cho chính con và cho người khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(*) Khái niệm “vệ sinh” được xác định là sử dụng lần đầu trong tiếng Anh vào khoảng năm 1677. Chữ “vệ sinh” (hygiene) bắt nguồn từ tiếng Pháp “hygiène”, vốn là phiên bản của Tây phương từ Hy ngữ là ὑγιεινή (τέχνη) – hugieinē (technē), nghĩa là “nghệ thuật của sức khỏe”. Từ ὑγιεινός (hugieinos) là “khỏe mạnh”, chữ ὑγιής (hugiēs) là “lành mạnh, có lợi”. Trong tôn giáo Hy Lạp cổ đại, Hygeia (Ὑγίεια) là nữ thần đại diện cho sức khỏe, sự sạch sẽ.
Chúng ta nhận thấy nhiều Ki-tô hữu giới hạn đạo vào việc có tên vào trong danh sách giáo xứ TN 22-B169
Chúng ta nhận thấy nhiều Ki-tô hữu giới hạn đạo vào việc có tên vào trong danh sách giáo xứ, hay thờ phượng trong nhà thờ, như đi tham dự Thánh lễ mỗi tuần, hay chỉ chịu phép rửa tội để có danh hiệu Kitô hữu. Và chúng ta cũng nhận thấy ngày nay có nhiều biến chuyển thay đổi trong đời sống Ki-tô hữu. Nhưng người Ki-tô hữu chân chính phải có một đời sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, cũng như sống giới răn Chúa dạy trong đời sống hàng ngày. Nếu tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, thì chúng ta phải tuân giữ giới răn của Người, phải là một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa Ki-tô, cũng như chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng và xây dựng Nước Chúa. Mỗi bài đọc Kinh thánh Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta một khía cạnh của việc sống đức tin, sống đạo.
Trong Bài Đọc I, chúng ta thấy ông Môi sen đưa ra những lý do để kêu gọi con cái Israel phải tuân giữ giới răn của Thiên Chúa. Thứ nhất, ông dạy cho dân biết rằng giới răn phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng duy nhất biết những gì tốt lành cho con người. Thứ hai, Thiên Chúa ban giới răn vì yêu thương. Ông Môi sen cho dân biết đây là một đặc quyền cao quí nhất, chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa. Thứ ba, vì là giới răn của Chúa, cho nên không ai được thêm vào hay bớt đi. Và lý do thứ tư là phải sống giới răn Chúa vì là điều kiện phải có để được vào Đất Hứa. Vì vậy, ông nhắc nhở họ, giới răn Chúa ban không phải để học thuộc lòng, cũng không để đóng khung thờ lạy, nhưng phải thực hành, để được liên kết mật thiết với Chúa và được Người hướng dẫn và che chở trong cuộc hành trình.
Trong Bài Đọc II, chúng ta nghe thánh Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc nghe và thực hành những lời Chúa dạy. Ngài khẳng định Lời Chúa là sự thật và ban sự sống. Ngài nhấn mạnh lắng nghe và sống Lời Chúa phải đi đôi với nhau, cũng như hành động và lời nói của Ki-tô hữu phải đồng nhất. Một người không thể tách rời niềm tin ra khỏi những việc làm hay lối sống. Hay nói một cách khác, hành động hay lối sống của chúng ta không thể nào đi ngược lại, hay đối nghịch với đức tin của chúng ta. Chúng ta cần biết qua cộng đồng các tín hữu thời sơ khai. Nhiều người lầm lẫn về sự chỉ dạy của thánh Phaolô, nhất là trong Thư gởi tín hữu Rôma và Galata, khi ngài nói: con người được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Đức Kitô. Họ cắt bỏ cả câu văn và chỉ chú trọng vào câu này, cho nên họ nói chỉ cần niềm tin vào Đức Kitô là đủ, việc làm không quan trọng, vì nó không ảnh hưởng đến sự cứu độ của con người. Chúng ta thấy ngày nay, vẫn còn nhiều anh chị em thuộc giáo phái Tin Lành và nhiều Ki-tô hữu chủ trương sống theo lối sống này. Đây là một cách cắt nghĩa sai lầm lời Chúa, vì Đức Kitô và thánh Phaolô không chủ trương và dạy bảo như thế. Thánh Giacôbê cũng phải đương đầu với ý kiến như thế trong cộng đoàn của ngài. Trong một đoạn thư khác, ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” Thánh Gia-cô-bê xác quyết rằng Lời Thiên Chúa là chân lý và là sự thật, giúp chúng ta biết phân biệt sự thật khỏi những sự gian trá làm mê hoặc tâm hồn con người. Cũng một ý với ông Môi sen trong Bài Đọc I, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
Trong bài Tin mừng hôm nay, nhân cơ hội những người Pha-ri-siêu kêu trách các môn đệ của Chúa Giêsu về việc không tuân giữ những lề luật về việc thanh sạch bên ngoài, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta 3 điều quan trọng. Điều quan trọng thứ nhất, đừng thờ phượng Thiên Chúa bằng môi miệng bên ngoài. Chúa thấu suốt những gì trong tâm hồn con người chúng ta. Chúng ta có thể lừa dối người đời bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng không bao giờ dấu diếm, qua mặt được Thiên Chúa. Điều quan trọng thứ hai, đừng vịn vào truyền thống để thay thế giới răn của Thiên Chúa. Một điều qua trọng chúng ta phải chú ý ở đây là Chúa Giê-su không đến để hủy bỏ truyền thống, nhưng Ngài muốn dạy chúng ta phải đặt giới răn của Thiên Chúa lên trên mọi luật lệ và truyền thống của con người. Khi nào có sự xung đột giữa giới răn của Thiên Chúa với luật lệ hay truyền thống của con người, thì người Ki-tô hữu phải can đảm tuân giữ giới luật của Thiên Chúa. Và điều quan trọng thứ ba, thanh tẩy tâm hồn bên trong cần thiết hơn tẩy sạch đồ dùng bên ngoài. Chúa nói cùng đám đông dân chúng “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế.” Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là chúng ta phải chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì hậu quả của tội lỗi làm con người trở nên ô uế trầm trọng hơn sự ô uế do đồ ăn thức uống gây ra. Những kinh-sư và biệt-phái chú trọng đến việc thanh tẩy bên ngoài để che đậy những ô uế trong tâm hồn, vì họ nghĩ không ai có thể thấy những gì họ giấu kín bên trong, nhưng họ không thể giấu diếm được Thiên Chúa, Người có thể thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn của họ.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta hãy tự hỏi cái gì trong cuộc đời này đáng sợ nhất? Có nhiều câu trả lời khác nhau như khủng bố, bệnh hoạn, vv. Nhưng với đa số đó là: cái lưỡi và cái tôi. Trong ca dao Việt Nam có câu “Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo.” Thật vậy, chỉ có ba tấc lưỡi thôi mà làm cho cuộc sống của bao nhiêu người phải đau khổ. “Cái tâm hay cái tôi” của con người là căn rễ của mọi điều thiện ác, tốt xấu, ngay thẳng gian dối. Nếu cái tôi tốt, thì có những suy nghĩ tốt, sẽ có lời nói và hành động tốt. Và nếu cái tôi xấu, thì sẽ dễ tuôn ra nhưng lời nói và hành động xấu hay lối sống gian dối.
Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta đến và thờ phượng Chúa trong Thánh lễ hôm nay với một tâm hồn, và với một tình yêu mến Chúa chân thật. Có một niềm tin vững chắc vào giới răn, Lời Chúa dạy là chân lý, là sự thật, đem lại bình an, hạnh phúc và ban sự sống đời đời, để chúng ta can đảm sống giới răn của Chúa, cũng như có đời sống Ki-tô hữu chân chính. Xin Chúa cũng ban cho chúng ta sự khôn ngoan, biết dùng lời nói và việc làm để ca tụng ngợi khen Chúa và để làm đẹp lòng và sáng danh Chúa, cũng như tạo sự yêu thương và hiệp nhất, an ủi, khích lệ và hy vọng.
Chúng ta thấy hiện nay, nhiều hoạt động văn hoá lễ hội tại Việt Nam đang trong tình trạng hết TN 22-B170
Chúng ta thấy hiện nay, nhiều hoạt động văn hoá lễ hội tại Việt Nam đang trong tình trạng hết sức lộn xộn và bị biến thái. Các nhà quản lý hầu như không quản lý nổi nên họ để mặc các lễ hội tự do tự phát. Vì thế, các lễ hội văn hoá tôn giáo tâm linh ngày càng mang tính chất kinh doanh và đáp ứng những nhu vật chất, bình dân mê tín. Người ta chú trọng nhiều đến yếu tố thu lợi hơn là giá trị văn hoá tôn giáo. Ví dụ, ngày Giỗ tổ Hùng Vương được coi như ngày quốc lễ, nhưng việc tổ chức nhắm đến kinh doanh hơn là tâm tình biết ơn tổ tiên. Người ta khoe mẽ những chiếc bánh chưng bánh dày to kỷ lục, nhưng nhân bên trong thì bằng giấy vụn, hoặc đồ giả. Cùng với hình thức bên ngoài là tình trạng buôn thần bán thánh, cầu lộc cầu tài để thu tiền.
Tình trạng biến thái trong đời sống đạo cũng rất dễ xảy ra khi con người không bám sát chuẩn mực của Đấng Sáng lập, khi muốn thêm những ý kiến cá nhân vào các chuẩn mực đó, tạo ra những hình thức dễ dãi đáp ứng cho đám đông. Thời Chúa Giêsu cũng đã xảy ra tình trạng biến thái trong đời sống đạo nơi những người Do Thái, đặc biệt nơi những người có trách nhiệm. Hôm nay Tin Mừng cho thấy, các Pharisiêu chú trọng đến những chi tiết của luật, họ trách môn đệ Chúa Giêsu không giữ luật, không rửa tay rửa chén.
Khi trách các môn đệ của Chúa, thầm hiểu là họ muốn trách cả Chúa Giêsu là người không giữ luật lệ của tiền nhân, không biết dạy các học trò của mình. Rửa tay trước khi ăn theo tục lệ do Thái, không phải là việc rửa tay giữ vệ sinh khi ăn, mà là rửa tay theo nghi lễ, có tính cách tượng trưng. Người Do Thái quan niệm rằng chỉ có người Do Thái mới là tinh sạch, còn các dân khác đều là ô uế, vì thế, khi ra đường về, họ phải tắm rửa vì sợ đã đụng chạm tới dân ngoại. Khi ăn, họ rửa chén bát vì sợ bám bụi của dân ngoại, rau thịt mua ở chợ về cũng phải thanh tẩy như vậy.
Có một thực tế là những Pharisiêu chuyên tâm giữ chi tiết của lề luật, nhưng điều chính yếu họ lại không giữ. Hơn nữa, họ giữ lề luật đến từng chi tiết không phải vì họ tin yêu Thiên Chúa cho bằng muốn thể hiện khả năng và sự đạo đức của mình. Họ cho rằng họ có khả năng giữ mọi điều Chúa truyền và khi chu toàn chi tiết như thế, Thiên Chúa sẽ mắc nợ những công phúc của họ. Như vậy, họ giữ luật không phải vì Thiên Chúa mà vì bản thân mình. Chúa Giêsu đã không chấp nhận lối sống giả hình như thế, Ngài không muốn một lối sống đạo hình thức bên ngoài nhưng vô hồn, trống rỗng bên trong. Ngài không muốn giữ luật chỉ vì sợ luật, nhưng Ngài muốn mọi người tôn trọng lề luật vì lòng yêu mến thúc đẩy.
Chúa Giêsu đã trích sách Isaia để cảnh báo họ : Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta. Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài muốn chúng ta đến với Ngài trong tâm tình của người con thảo đến với cha mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ luật để hoàn thiện bản thân và để sống xứng với tư cách là con Thiên Chúa, chứ không muốn những hình thức giả trá bên ngoài. Ngài muốn chúng ta đến với Chúa bằng tấm lòng tin kính mến yêu, chứ không như dân ngoại đến với thần linh của họ như để đút lót, mua chuộc thần linh.
Cũng dịp này, Chúa Giêsu sửa lại suy nghĩ của người Do Thái khi nói : Điều làm cho con người ra ô uế không phải từ cái chén, cái bình hoặc mớ rau con cá, mà cái làm cho con người ra ô uế là những cái phát xuất từ bên trong con người. Từ suy nghĩ sai, tư tưởng xấu sẽ dẫn đến hành động xấu ; từ những tư tưởng tà dâm, gian tham, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng trong tâm hồn sẽ làm ô uế tâm hồn con người. Khi những tư tưởng này thể hiện ra bên ngoài qua hành động, nó sẽ là những hành động ô uế và gian ác. Nói như thế, Chúa Giêsu cho thấy việc tẩy rửa bên ngoài chén bát hoặc rửa tay trước khi ăn, không quan trọng cho bằng việc tẩy rửa tâm hồn. Việc đến với Thiên Chúa bằng tâm hồn đơn sơ, trong sạch thì đẹp lòng Chúa hơn là những nghi lễ rườm rà, hình thức bên ngoài. Việc chu toàn giới răn lề luật vì lòng yêu mến Thiên Chúa thì tốt hơn là hình thức bên ngoài.
Ngày xưa, biết lòng dân hay thay đổi, ông Môsê cũng đã từng cảnh báo Israel : Anh em hãy nghe những thánh chỉ của Thiên Chúa và đem ra thực hành để được sống và được vào đất Chúa hứa. Đừng thêm gì cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa. Hãy giữ và đem ra thực hành, nhờ đó anh em được các dân tộc coi là khôn ngoan. Cũng cùng tư tưởng ấy, thư Giacôbê nhắn nhủ : Anh em hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em, lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Hãy đem lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
Lời Chúa hôm nay cảnh báo chúng ta về sự biến thái trong đời sống đức tin. Chúng ta thường tự hào mình là đạo gốc, đạo dòng trong khi nhiều người đã rơi vào lối sống hình thức như các người biệt phái. Nhiều người chỉ còn giữ đạo theo hình thức bên ngoài mà không có tâm tình bên trong. Nhiều người đã thích giữ những tập tục mà không hề hiểu ý nghĩa của việc mình làm, nhiều người khác lại coi trọng những điều tuỳ phụ mà bỏ qua những điều chính yếu. Nhiều tín hữu tin Chúa, theo Chúa theo kiểu cha truyền con nối, nhưng đời sống kém xa các tân tòng và người ngoại đạo. Nhiều Kitô hữu tin Chúa nhưng không hiểu biết giáo lý và Tin Mừng. Vì thế, họ sống chỉ với hình thức mà không thực sự có lòng yêu mến bên trong. Họ thích những cuộc kiệu linh đình nhưng bỏ qua việc cầu nguyện, dâng lễ và rước lễ. Bên cạnh đó, nhiều Kitô hữu cho rằng đạo mình khó, nên họ đi tìm một lối sống đạo dễ dãi, chấp nhận bắt tay thoả hiệp với các hình thức ngoại giáo, an phận với một vài thói quen nào đó.
Sự biến thái trong đời sống đạo còn thể hiện nơi đời sống cộng đoàn khi chúng ta chỉ chú tâm vào những phô trương cờ quạt, kèn trống, nhưng lại quên việc canh tân, chỉnh sửa đời sống, lơ là trong việc xây dựng đời sống đạo trưởng thành và tình bác ái. Nhiều cộng đoàn bên ngoài sinh hoạt rất rầm rộ, nhưng bên trong thiếu sức sống và nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, thiếu tình bác ái và sự sẻ chia. Nhiều người sống trong cộng đoàn đòi hỏi quyền lợi cho mình cho gia đình, nhưng lại tránh né, không chu toàn trách nhiệm với cộng đoàn.
Chúng ta có thể dễ dàng vỗ ngực xưng mình là người Công giáo, nhưng trong đời sống gia đình, trong xóm ngõ, nhiều người sống không khác gì dân ngoại. Khi phải chọn lựa giữa lề luật Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng, nhiều người đã nhắm mắt bước qua luật Thiên Chúa chỉ vì một chút lợi lộc hoặc một chút khó khăn. Nhiều người vẫn đến nhà thờ, vẫn đọc kinh dâng lễ, nhưng ra khỏi nhà thờ thì sống chanh chua lươn lẹo, nuôi trong mình sự thù ghét, oán hận không xứng là người Công giáo.
Lời cảnh báo này cũng là lời cảnh báo các linh mục chúng tôi. Chúng tôi thường bị cám dỗ chạy theo những hình thức tổ chức bên ngoài mà quên xây dựng đời sống tâm hồn của mình và của tín hữu. Chúng tôi cũng bị cám dỗ thích những cuộc lễ hoành tráng bên ngoài nhưng không đọng lại gì bên trong tâm hồn sau buổi lễ. Chúng tôi còn bị cám dỗ ghi danh, ghi công của mình trên các công trình, mà quên làm cho danh Chúa được vinh quang. Có khi chúng tôi lo kêu gọi người khác sám hối nhưng bản thân lại ngại thay đổi. Nhiều người trong anh em linh mục tu sĩ, vẻ bên ngoài rất đạo mạo, giảng dạy rất hùng hồn, nhưng đời sống thì lại khác xa với lời rao giảng.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho từng người, cần xem xét và điều chỉnh lại tương quan của mình đối với Chúa. Chúng ta đang theo Chúa vì mục đích gì ? Chúng ta chu toàn luật Chúa vì yêu mến Chúa hay vì lý do nào khác ? Chúng ta đang sống, đang làm việc và phục vụ vì động lực nào thúc đẩy ? Có phải vì tình yêu đối với Thiên Chúa hay vì danh tiếng cá nhân ? Amen.
Người Do-thái rất sợ mình bị nhiễm uế, vì như thế họ sẽ không được tham dự các việc phụng tự TN 22-B171
Người Do-thái rất sợ mình bị nhiễm uế, vì như thế họ sẽ không được tham dự các việc phụng tự Nhưng họ lại có thể bị trở nên ô uế vì nhiều lý do: khi ăn thịt một con vật bị coi là ô uế, khi chạm đến một vật ô uế, hay khi mắc bệnh ngoài da. Người mẹ sau khi sinh con cũng bị coi là ô uế. Có những nghề bị coi là ô uế như nghề thu thuế, thuộc da. Những ai không phải là người Do-thái đều ô uế cả. Vậy không được tiếp xúc, ăn uống hay vô nhà của dân ngoại. Cả vùng đất của người Samari cũng bị coi là ô uế. Người Do-thái thời Đức Giêsu phải chung đụng với quân Rôma. Họ thường xuyên có nguy cơ nhiễm uế. Để khỏi bị nhiễm, cần tránh lại gần họ, tránh đụng chạm. Nhóm người Pharisêu và kinh sư tỏ ra rất khó chịu khi thấy các môn đệ Đức Giêsu dùng bữa mà chưa rửa tay. Như thế là các ông đi ngược với truyền thống phải giữ, và làm cho mình trở nên ô uế. Đức Giêsu cũng khó chịu không kém khi coi họ là đạo đức giả, vì họ đã gạt bỏ những điều răn của Thiên Chúa mà lại cẩn thận giữ những truyền thống của người phàm. Họ chỉ tôn kính Chúa bằng môi miệng bên ngoài chứ không bằng trái tim bên trong (Mc 7,6.8.13). Từ chuyện bị ô uế vì không rửa tay trước khi ăn, Đức Giêsu cho thấy đâu là nguồn gốc thật sự của ô uế. Người Do-thái thường coi ô uế đến từ bên ngoài, do đụng chạm hay do ăn uống những điều không thanh sạch. Đức Giêsu khẳng định ngược lại: Không có gì từ bên ngoài vào có thể làm người ta ô uế. Cái từ trái tim xuất ra mới làm con người ô uế (Mc 7,15.20.23). Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng khi tuyên bố: “Mọi thức ăn đều thanh sạch” (Mc 7,19). Trong sách Lê-vi có nhiều điều cấm đoán về ăn uống mà người Do-thái thời Đức Giêsu vẫn giữ (Lv 11). Đối với Ngài, những điều ấy không phải là chính yếu. Điều chính yếu là cái tâm chứ không phải cái bụng (Mc 7,19). Điều quan trọng không phải là rửa tay trước khi ăn, mà là rửa sạch trái tim của mình khỏi mọi ô nhơ cặn bẩn. Như thế Đức Giêsu mời đám đông môn đệ bỏ cái phụ để tập trung vào cái chính, bỏ cái bên ngoài để tập trung vào cái bên trong. bỏ chuyện tay và bụng để quan tâm đến trái tim, và quan tâm đến những gì đang diễn ra ở đó. Đức Giêsu đã kể ra mười hai nết xấu của trái tim con người. Các nết xấu đều liên quan đến tha nhân (Mc 7, 21-22): gian dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, dâm đãng, ganh tỵ, vu khống, kiêu ngạo, ngông cuồng. Các nết xấu trên đều chà đạp lên người khác vì lòng ích kỷ. Đó mới là nguồn gốc thật của sự ô uế mà ta cần tránh. Để khỏi bị ô uế, người Do-thái đã tránh ăn uống, đụng chạm… Để khỏi bị nhiễm virút corona, người ta cũng làm nhiều điều: đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên, lau rửa nhà cửa, giữ khoảng cách khi tiếp xúc, chích vaccine… Có cái gì giống nhau giữa việc tránh ô uế và tránh virút. Cả hai cùng đáng sợ và lây lan theo kiểu dây chuyền. Cả hai cùng đòi những biện pháp phòng ngừa chặt chẽ. Thế giới hôm nay đang tập trung để khống chế con virút này, con virút bé xíu mà làm náo loạn cả thế giới. Có thể hôm nay Đức Giêsu mời ta không ngừng lại ở đó. Virút corona vén mở cho ta thấy những virút khác vẫn đang hoành hành âm thầm trên thế giới mà chẳng ai thấy cần phòng ngừa bằng khẩu trang hay vaccine. Virút dửng dưng, virút bất công, virút làm tan nát gia đình, Virút phá hoại môi sinh, virút gây hận thù chia rẽ. Có thứ virút làm hỏng cuộc đời bao bạn trẻ. Có thứ virút làm người ta chống lại Thiên Chúa và Giáo hội. Mong mọi người được chích để ngừa mọi thứ virút trên. Mong một thế giới bình yên vì thắng được mọi thứ virút đang tấn công cả xác lẫn hồn con người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Cha của gia đình nhân loại, Chúa đã sáng tạo mọi người bình đẳng về nhân phẩm. Xin hãy đổ vào lòng chúng con tình huynh đệ, và gợi lên nơi chúng con ước mơ làm mới lại các cuộc gặp gỡ, đối thoại, công lý và hòa bình. Xin hãy thúc đẩy chúng con tạo ra những cộng đồng lành mạnh hơn, và một thế giới cao quý hơn, thế giới không có đói nghèo, chiến tranh hay bạo lực. Xin cho trái tim của chúng con mở ra trước mọi dân tộc và quốc gia trên mặt đất. Xin giúp chúng con nhận ra sự thiện mỹ mà Chúa đã gieo nơi lòng từng người chúng con, nhờ đó chúng con rèn đúc mối dây hiệp nhất, chia sẻ những dự án và những giấc mơ chung. Amen.
Người biệt phái và ký lục chất vấn Ðức Giêsu vì các môn đệ của Ngài không rửa tay trước khi TN 22-B172
Người biệt phái và ký lục chất vấn Ðức Giêsu vì các môn đệ của Ngài không rửa tay trước khi ăn theo lệ truyền. Ðức Giêsu thẳng thắn vạch rõ cho họ từng vấn đề: Nếu so sánh luật Chúa và lệ truyền của tiền nhân, luật Chúa quan trọng và buộc phải giữ cặn kẽ hơn.
Hơn nữa, trong cách giữ luật Chúa, chỉ giữ theo hình thức chưa phải là đã giữ trọn luật. Giữ luật vì tinh thần luật - cách giữ luật đó mới hoàn chỉnh. Thiên Chúa thấu suốt tận đáy tâm hồn chúng ta. Chỉ Thiên Chúa đánh giá mới chân thật, công bình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ở đời chúng con thường đóng kịch với nhau. Chúng con thường tô son đánh phấn khi đến với nhau. Chúng con sống hình thức, giả tạo với nhau và ngay cả với Cha. Cha là chân lý, là sự thật chắc chắn Cha không thể chấp nhận được cách sống của chúng con. Xin Cha sửa lại con người chúng con. Xin giúp chúng con biết sống chân thành với Cha, với chính chúng con và với anh chị em chúng con. Chỉ khi nào chúng con biết sống theo sự thật, chúng con mới xứng đáng là con của Cha. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Lịch sử dân tộc Do Thái có nhiều điều kỳ diệu. Chiến tranh Do Thái đã nổ ra vào năm 70 sau TN 22-B173
Lịch sử dân tộc Do Thái có nhiều điều kỳ diệu. Chiến tranh Do Thái đã nổ ra vào năm 70 sau Công nguyên, hậu quả là Đền thờ bị tàn phá bình địa, người Do Thái phải tản mác khắp nơi. Nhà nước Israel chỉ tuyên bố độc lập và được Liên hiệp quốc công nhận chính thức vào ngày 14-5-1948, tức là sau 19 thế kỷ bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Một điều kỳ lạ, 19 thế kỷ tha hương và phân tán, thậm chí bị diệt chủng trong thời Đức Quốc Xã, Đức tin vào Thiên Chúa vẫn tồn tại nơi những người con cháu Abraham. Nơi đâu có người Do Thái, nơi đó có Hội đường và các buổi tập hợp vào ngày Sabát để lắng nghe Lời Chúa và tôn vinh Ngài.
Những gì ông Môisen nói về dân tộc này đã được thực hiện trong suốt bề dày của lịch sử: “Có dân tộc nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?”. Đây là niềm tự hào của mọi thế hệ người Do Thái. Bất kỳ đi đến đâu và trong hoàn cảnh nào, người Do Thái không quên niềm tự hào ấy.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được tháp nhập vào dân Israen mới, tức là Giáo Hội. Cũng như dân Do Thái và còn hơn thế nữa, Giáo Hội của Chúa Kitô đã hoà nhập vào nền văn hoá của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hỏi, có thần linh nào kỳ diệu như Thiên Chúa của chúng ta? Người là Cha chung của gia đình nhân loại, là Đấng hướng dẫn chúng ta trên mọi nẻo đường.
Để đền đáp tình thương trời bể của Thiên Chúa, nhưng ai tin vào Ngài phải tuân giữ giáo huấn Ngài truyền dạy. Ông Môisen khuyên nhủ những người Do Thái trong hành trình sa mạc, rằng nếu họ tuân giữ thánh chỉ của Chúa, họ đã được đến Đất hứa. Người Do Thái đã chiếm Đất hứa sau 40 năm, kể từ khi rời Ai Cập. Họ đã chứng kiến những điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm, trước mặt Pharaon và các dân tộc mà người Do Thái giao tranh trong hành trình này.
Mục đích của lề luật là hướng lòng con người về với Thiên Chúa, giúp họ sống thiện lương theo giáo huấn của Ngài. Nhưng nhiều người lại lạm dụng lệ luật theo kiểu “suy bụng ta ra bụng… Chúa”. Họ nghĩ Chúa cũng giống như con người, cũng nhỏ nhen, cũng chấp nhặt, cũng thù oán và nhất là cũng nhận hối lộ, “tốt lễ dễ kêu” giống như nơi con người. Đức Giêsu mong muốn trả lại cho nghi thức thờ phượng ý nghĩa đích thực của nó. Đây chẳng phải là điều gì mới mẻ, mà đã in sâu trong giáo huấn của các ngôn sứ. Chúa Giêsu trích dẫn ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa ta. Chúng có thờ phượng ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.
Những người được nêu trên, Chúa lên án họ là đạo đức giả. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa Giêsu chỉ trích họ nặng lời và ví họ giống như những mồ mả tôi vôi. Với lời giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã đảo ngược quan niệm “thanh sạch và ô uế” của người đương thời. Trong khi những người này chủ trương những gì ở ngoài sẽ gây ô uế cho con người, Chúa Giêsu lại khẳng định, chính bên trong con người là nguồn gốc của sự ô uế và tội lỗi. Quả vậy, con người là nguyên nhân của biết bao tội lỗi từ khởi đầu của lịch sử cho đến ngày nay. Những tham vọng, ích kỷ và mưu mô từ bên trong con người đã gây nên biết bao đau khổ cho bản thân và cho những người xung quanh. Cuộc sống thường ngày của chúng ta đã chứng minh những gì Chúa nói.
Khi phê phán những biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu mời gọi những ai nghe Người hãy đổi mới quan niệm của mình về việc thờ phượng, để có thể tôn thờ Chúa với tâm hồn ngay thẳng và với thiện chí sống tình bác ái với những người xung quanh. Một thứ thờ phượng môi mép giả hình sẽ biến người ta thành những con rối. Của lễ Chúa muốn, đó chính là tấm lòng chân thành và yêu mến dành cho Ngài, với thiện chí quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Biết bao lần chúng ta tham dự các nghi thức phụng vụ mà tâm hồn chúng ta xa Chúa. Có nhiều khi chúng ta giống như những người kinh sư và người biệt phái, chỉ chú trọng đến những nghi thức bề ngoài mà coi nhẹ tâm tình cầu nguyện, là điều cốt lõi để làm thành việc tôn thờ đích thực. Thánh Giacôbê đã khuyên chúng ta: “Hãy khiêm tốn đón nhận Lời được gieo vào lòng chúng ta… Hãy đem Lời ấy ra thực hành chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, lòng đạo đức thật phải sinh ra hoa trái là lòng bác ái và dấn thân phục vụ người nghèo, giúp họ tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Trong một xã hội mà tiếng nói của Chúa dễ bị lấn át bởi cơn lốc hưởng thụ, ước chi niềm tự hào của người tin Chúa luôn chiến thắng những đam mê, chia rẽ hận thù. Chính niềm tự hào vì là người Kitô hữu sẽ giúp chúng ta có nghị lực để không ngừng vững bước thăng tiến trong sứ mạng làm chứng cho Chúa giữa dòng đời.
“Là một Kitô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng còn có nghĩa là sống trong Đức Kitô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi”
Thiên Chúa thánh thiện và yêu thương đã tạo dựng con người trong tình yêu, và thông chia hạnh TN 22-B174
Thiên Chúa thánh thiện và yêu thương đã tạo dựng con người trong tình yêu, và thông chia hạnh phúc cho con người. Thánh chỉ hay Lề Luật mà Thiên Chúa thương ban cho con người cụ thể là Mười Điều Răn để con người thi hành cũng chỉ vì tình thương. Thiên Chúa vui thích khi con người tuân giữ các Điều Răn của Chúa, vì điều này chứng minh lòng kính mến của con người đối với Thiên Chúa và con người cũng được hưởng những phúc lành do việc tuân giữ các giới răn đem lại. Nhưng con người đã đánh mất tình thân nghĩa thiết và ân sủng với Đấng dựng nên mình khi lỗi phạm các giới răn. Lại bằng tình thương vấn vương khi tạo dựng, Thiên Chúa đã cứu chuộc con người.
Nghe
Thiên Chúa luôn muốn con người, nhất là dân Chúa chọn được bình an và hạnh phúc, nhất là được sống không chỉ với những người hiện tại mà cả con cháu họ cho đến muôn đời trải qua các thế hệ. Vì thế Thiên Chúa khuyên họ chớ có quên và sao lãng Luật Ngài truyền, và phải “dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy” (Đnl 4,9).
Nhưng để nhớ và không quên, trước tiên họ phải biết nghe cho rõ, rồi ghi nhớ và đem ra thực hành trước đã. Lời Chúa qua miệng ông Môsê nói với dân chúng rằng: “Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà ta dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền dạy các ngươi…” (Đnl 4, 1- 2).
Học cho biết
Vào thời mà ngoại giáo có mặt khắp nơi, việc thờ ngẫu tượng diễn ra nhan nhản và khuynh loát hành vi của con người. Vì lẽ đó, Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân giúp họ kiên vững thi hành. Việc không tuân giữ Lề Luật cấu thành tội phản bội thật sự với Giao ước, gây ra cơn thịnh nộ của Thiên Chúa như một hậu quả. Họ phải được học cho biết điều ấy.
Vậy Lề Luật để làm gì?
Lề Luật là một tập hợp các mệnh lệnh và quy tắc mà dân Do Thái phải tuân thủ bởi hiệu lực của Giao ước với Thiên Chúa. Tính hữu hiệu của Luật được tìm thấy trong sách Đệ Nhị Luật như sau :“Ðức Chúa sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh em, cũng như Người đã lấy làm vui vì hạnh phúc của cha ông anh em, miễn là anh em nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ” (Đnl 30,9-10). Vì thế, dân Do Thái phải học biết rằng, việc tuân giữ Lề luật ràng buộc họ với Thiên Chúa, và họ có được những phúc lợi kèm theo. Họ chỉ được kết hợp với Thiên Chúa bằng việc tuân thủ Lề luật. Khi lập Giao ước với dân Do Thái, Thiên Chúa trao cho họ Lề Luật, để họ có thể hiểu được thánh ý Ngài và sống công chính. Lề Luật chính là một món quà vô giá mà Thiên Chúa tặng ban cho dân Người.
Và đem ra thực hành
Nghe thôi chưa đủ, học cho biết, nhưng cũng rất cần phải tuân giữ và đêm ra thực hành cho đúng. Đó là lý do Thiên Chúa phán với dân Do Thái qua miệng Môsê rằng: “Các ngươi phải tuân giữ và thực hành…” (Đnl 4, 8).
Nhưng với dòng thời gian, con người trở nên hư hỏng và bị cám dỗ tôn thờ ngẫu tượng, quên đi Thánh chỉ, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài, và đương nhiên họ không còn tuân giữ Lề Luật Chúa nữa. Chẳng những thế, họ còn thay đổi, thậm chí bóp nghẹt Điều Răn, cố tình giải thích và thực hành theo ý mình, vô tình biến họ thành những kẻ giả hình thờ kính Thiên Chúa ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Chúa, khiến Chúa Giêsu nặng lời quở trách: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mc 7, 7; x. Is 29,13). Và Người kết luận: “Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mc 7, 8). Cả tông đồ Giacôbê, trong thư của người, cũng cảnh cáo nguy cơ của một tôn giáo giả. Người viết cho các kitô hữu như sau: “Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1, 22).
Tóm lại, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Đấng yêu thương, công bình và thánh thiện, đã tạo dựng chúng ta và để cho sống trên trần thế này. Thiên Chúa trao ban những Điều Răn hay Lề Luật không làm chúng ta mất tự do, nhưng để chúng ta tuân giữ hầu được được sống và hạnh phúc, như ông Môsê đã nói với dân Do Thái xưa như sau: “Anh em hãy lo thực hành như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã truyền cho anh em, không đi trệch bên phải hay bên trái. Anh em hãy đi đúng con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã truyền cho anh em để anh em được sống , được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu” ( Đnl 5, 32 – 33).
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa không đến để hủy bỏ Lề Luật, nhưng đến để kiện toàn, dạy người ta lắng nghe và thực hành điều Chúa truyền với tình yêu và lòng mến. Người chống lại thói đạo đức giả hình, vụ hình thức, quan trọng hóa luật lệ của con tim với nghi lễ bên ngoài. Người lên án việc làm khiến người ta xa rời Thiên Chúa, và nghĩ rằng thực hành tỉ mỉ của các quy tắc Luật định là vinh quang; mặt khác, theo Chúa Giêsu, sự trong sạch không tùy thuộc vào lễ nghi thanh tẩy, nhưng tùy thuộc vào tấm lòng.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con biết đường lối Chúa, và dạy bảo con Thánh Chỉ của Ngài. Amen.
Mở đầu bài Tin Mừng của Chúa Nhật hai mươi hai Thường Niên năm B hôm nay, thánh sử Máccô TN 22-B175
Mở đầu bài Tin Mừng của Chúa Nhật hai mươi hai Thường Niên năm B hôm nay, thánh sử Máccô tường thuật cho chúng ta thấy: “Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu….” (Mc 7, 1). Nghĩa là thời bây giờ, Giêrusalem là trung tâm của đạo Chúa, trung tâm hành chánh, trung tâm kỹ thuật, trung tâm thương mại… do vậy mà những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão ở đây có điều kiện phát triển về mọi mặt của đời sống hơn so với những người ở các nơi khác. Họ đến tụ tập bên Chúa, chẳng phải để dùng khả năng Chúa ban mà nghe lời Chúa, chẳng phải để được Chúa dạy bảo nhưng là để họ dòm ngó, theo dõi, bắt bẻ Chúa. Không làm gì được Chúa thì họ quay ra bắt bẻ các tông đồ của Chúa về vấn đề dùng bữa mà không rửa tay trước. Họ nghĩ rằng vì các tông đồ là học trò của Chúa, họ trách các tông đồ, nghĩa là họ trách Chúa, vì Chúa là thầy mà không biết dạy học trò của Chúa. Qua đó, họ làm giảm uy tín của Chúa, vì trong thâm tâm của họ là “ Trò nào, thầy nấy “. Nhưng Chúa đã vạch trần cho chúng ta thấy đời sống giả hình (đạo đức giả) của những người biệt phái và luật sỹ mà bấy lâu nay nó được che phủ dưới lớp vỏ bọc là rửa tay trước khi dùng bữa hay là ở nơi công cộng về, họ tắm rửa trước khi ăn, hoặc rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng..mà chúng ta cứ tưởng rằng tâm hồn họ trong sạch lắm rồi mới thể hiên sự trong sạch đó ra bên ngoài. Nhưng mà không phải như vậy, sự vệ sinh sạch sẽ bên ngoài là để đánh lừa người khác chớ còn với Chúa thì không thể đánh lừa được. Chúa biết từ bên trong, từ tâm trí của họ xuất phát những tư tưởng xấu: Ngoại tình, dâm ô, giết người, trôm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tỵ, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó có trong tâm hồn mà ra và làm cho họ ra ô uế (Mc 7, 21 – 23). Do vậy, dù họ có tắm rửa con người của họ hay là rửa chén, rửa bình…thì tâm hồn của họ vẫn ô uế. Cách tốt nhất hãy sám hối trở về với Chúa.
Nhưng sám hối làm sao được khi mà Chúa nói: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối,bởi vì nó dạy những giáo lý và lề luật loài người ‘. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa để nắm giữ tập tục loài người” (Mc 7, 6 – 7). Như vậy, muốn sám hối để được Chúa thương xót tha thứ, không gì khác hơn là họ phải lột bỏ cái vỏ bọc giả hình đó đi, sống thực lòng với Chúa và thực hiện lời Chúa dạy.
Nếu họ tuân giữ và thực hiện Lời Chúa dạy, đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của họ trước mặt muôn dân và Chúa sẽ ở bên cạnh họ khi họ kêu cầu Chúa (Đnl 4, 1 – 2. 6 – 8). Để rồi họ sẽ thực hiện Lời Chúa dạy hôm nay là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này (Jac 1, 17 – 18. 21b – 22. 27).
Nhưng những người biệt phái và luật sỹ, họ không thực hiện Lời Chúa dạy, họ không thấy được lợi ích của việc thực hiện Lời Chúa, cho nên họ chai lỳ trong tội lỗi của họ.
Qua Lời Chúa ngày Chúa nhật hôm nay, chúng ta tái khám phá ra điều mà Chúa muốn nói với chúng ta là tuân giữ và thực hiện lời Chúa vì Chúa đã sinh chúng ta ra bằng lời chân thật để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật (Jac 1, 17 – 18. 21b – 22. 27). Cho nên chúng ta hãy loại bỏ lối sống thiên về bên ngoài, đạo đức giả, đừng sống theo kiểu nghe Lời Chúa xong rồi thì giả bộ như mình hiểu lắm để rồi lừa dối chính mình và những người khác là không thực hiện Lời Chúa (nghe suông). Một khi chúng ta thực thi Lời Chúa đã nghe, cùng với ơn Chúa ban, chúng ta sẽ khử trừ mọi thứ dơ bẩn và lòng đầy gian ác ra khỏi lòng chúng ta và chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa hơn.
Chúng ta sống điều Chúa dạy, nghĩa là chúng ta sống bằng chính trái tim của chúng ta đối với Chúa và chúng ta luôn qui hướng về Chúa. Chúng ta loại trừ mọi tính hư tật xấu, đam mê xác thịt, tham sân si và mọi thứ dục vọng đê hèn để rồi chúng ta hãy ý tứ và giữ mình, không bao giờ xao lãng những điều Chúa dạy. Đồng thời chúng ta cũng có bổn phận và trách nhiệm giúp cho con cháu chúng ta và người khác biết và thực hiên điều Chúa dạy bảo để chẳng những chúng ta sống tốt mà tất cả mọi người cùng sống tốt, đó mới là điều đẹp lòng Chúa hơn cả.
Lạy Chúa, chúng con tự hào vì được làm con Chúa, được sống trong Hội Thánh của Chúa, chúng con được hưởng các lễ nghi phụng tự của Hội Thánh, được nghe Lời Chúa dạy bảo, được rước Mình Máu Thánh Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng với hồng ân Chúa ban cho chúng con bằng cách nghe và tuân giữ Lời Chúa. Một khi chúng con nghe và giữ những điều Chúa dạy, chúng con sẽ làm vinh danh Chúa và mang ích lợi lại cho anh chị em của chúng con, để rồi chúng con bỏ đi lối sống giả hình giả bộ, sống hòa thuận thương yêu nhau, khi ấy mọi người sẽ không còn nghi kỵ và sẽ tin tưởng nhau hơn trong cuộc sống hằng ngày.
Lạy Chúa, mọi sự tốt lành đều bởi Chúa mà ra, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển, và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.
Thánh Tử Đạo Việt Nam, Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh đi lính cho hoàng tôn Nguyễn Ánh và được TN 22-B176
Thánh Tử Đạo Việt Nam, Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh đi lính cho hoàng tôn Nguyễn Ánh và được thăng chức Vệ Uý. Sau hai năm, anh giải ngũ về quê, học thêm nghề thuốc và trở thành một lang y nổi tiếng. Với người nghèo, ông chữa bệnh miễn phí mà đôi khi còn cho tiền. Ông nói: “Tôi thấy những ai giúp đỡ người nghèo khó mà túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”. Khi con cái khôn lớn, ông nói: “Cha đã nuôi dưỡng các con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình. Cha muốn để dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khổ”. Khi ông Quỳnh bị giam hai năm vì Đạo. Ông Quỳnh biểu lộ đức can đảm và nhẫn nại đáng khâm phục. Ngoài việc đọc kinh cầu nguyện, ông còn giữ các ngày chay và giúp đỡ mọi người. Ngày 10/07/1840, Ông Quỳnh bị điệu ra pháp trường. Giữa tiếng thanh la vang rền, quân lính thi hành án lệnh xử giảo đưa người tôi trung của Đức Kitô về hưởng hạnh phúc trường sinh.
Với thời xa xưa phong kiến, cuộc sống thân xác và đức tin đầy khổ cực gian nan, bị bách hại dữ dội nhưng vẫn còn đó những con người một lòng giữ vững đức tin theo Chúa và cũng một lòng yêu thương người hết tình hết mình trong đó có Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh. Còn cuộc sống chúng ta hôm nay, thật văn minh và tiến bộ, không bị bách hại Đạo nơi thân xác. Đáng lẽ ra như thế, con người sống vui vẻ thân thiện hơn, hạnh phúc hơn và chan chứa tình thương thật sự với nhau vì biết dành cho nhau cả tấm lòng trong đời thường. Nhưng, thực tế cho thấy, đau khổ, bất hạnh, bất công hay bạo lực vẫn xảy ra khắp đó đây, việc tin Thờ Chúa nhường như thờ ơ không tha thiết mấy. Cụ thể, con người sống bên cạnh nhau mà dường như không thật lòng với nhau, không vui vẻ thân thiện với nhau là mấy, đang khi đó người ta tin nhau, nói với nhau những lời ngọt ngào tha thiết vui vẻ, dành cho nhau những tình cảm ảo trên thế giới ảo mà thôi.
Đồng ý rằng thời đại kỹ thuật số này giúp con người năng động, giỏi giang hơn trong việc kiếm tiền và hưởng thụ, nhưng nó lại làm cho lòng người ra chai lì trước tội lỗi, và vô cảm trước những nỗi đau khổ, bất hạnh của người khác . Cho nên, thời đại văn minh kỹ thuật số này làm con người thỏa mãn với những gì mình đang có, an phận trong lớp vỏ bọc của vật chất hiện đại, nhưng lại làm cho lòng người ra vô cảm đồng thời mất những cơ hội lớn lên trong yêu thương khi không còn biết cư xử tử tế và chân thật với nhau và không còn tha thiết trong việc sống Đạo nữa. Cho nên, người ta ngày nay lo làm đẹp nhan sắc, ngoại hình đẹp chuẩn mà lòng bất bao dung, thiếu thật thà; không biết cảm thông chia sẻ; bất thiện và lòng tin vào Chúa quá hững hờ… Như vậy họ có được cái bên ngoài mà mất cái bên trong, mà cái bên trong mới làm nên con người tốt lành thánh thiện. Cho nên, ông bà ta dạy: “tốt gỗ hay tốt nước sơn” hay “cái nết đánh chết cái đẹp” hay “nghèo cho sạch rách cho thơm”. Còn, hôm nay Chúa Giêsu sửa dạy chúng ta rằng: "Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế”. Và “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Rõ ràng, Chúa nói cái làm cho con người ra bẩn là ở lòng người, cái này mới đáng sợ! Vì chưng những hành vi tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế chứ đâu phải bên ngoài.
Vẻ đẹp bên ngoài làm cho con người dễ nhìn, dễ thương nhưng cái đẹp bên trong tức là lòng tốt, tâm thiện làm cho con người dễ sống và nên người. Cho nên, lòng nhân là yếu tố quan trọng cho mọi hành vi luân lý của chúng ta. Vì thế chúng ta có làm được những việc tốt lành, đạo đức thánh thiện mà nếu không có sự góp phần của lòng tin, của cõi lòng, của khối óc này thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ đạo đức giả, và vô dụng mà thôi. Vì vậy, người ta nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Còn Lời Chúa trong bài đọc 2 dạy: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”. Mỗi người đừng vội nói, và khoan nóng giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa. Vì vậy, anh chị em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh chị em. Anh chị em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Cho nên, Lời Chúa bài đọc một dạy ai giữ và đem ra thực hành Lời Chúa, thì người đó sẽ được coi là khôn ngoan, thông minh, thánh thiện và hoàn hảo (Đnl 4,6).
Vậy, chỉ khi thi hành Lời Chúa và sống thân mật với Chúa thì lòng chúng ta mới thật, mới thiện và thánh trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Vì vậy, trong Thông Điệp ”Laudato sí” (Thông điệp Môi Sinh), Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người trên trái đất này hãy ý thức về: “Nền môi sinh học toàn diện này”, Ngài nói rằng trong bối cảnh ngày nay, trong đó có bao nhiêu bất công và ngày càng có nhiều những người bị gạt bỏ, thiếu các nhân quyền căn bản, vì thế chúng ta phải sự dấn thân cho công ích chọn lựa ưu tiên dành cho những người nghèo nhất (158). Đó cũng là cách thức tốt nhất để lại một thế giới lâu bền cho các thế hệ mai sau, không phải qua những lời tuyên bố, nhưng qua sự dấn thân săn sóc người nghèo ngày nay (162).
Ước gì qua Lời Chúa hôm này và noi gương Thánh tử đạo Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, chúng ta ý thức rằng mỗi lần mình làm đẹp thân xác thì cũng làm sạch và đẹp tâm hồn, tấm lòng khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn. Đồng thời, luôn dành một tấm lòng chân tình cho Chúa qua việc trung tín phụng thờ Chúa trong mọi hoàn cảnh, biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá của con người là hình ảnh Thiên Chúa để luôn sống yêu thương, tha thứ, bao dung và phục vụ nhau ngõ hầu bình an và hạnh phúc của Chúa luôn cư ngụ trong cuộc sống từng người chúng ta. Amen.
Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy môn đệ Đức Yêsu bị người biệt phái trách là đã “không giữ truyền TN 22-B177
Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy môn đệ Đức Yêsu bị người biệt phái trách là đã “không giữ truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đúng là “con dại cái mang”. Đức Yêsu đã nhân cơ hội này để giúp người ta biết sự thật: nhiều người đã bỏ giới răn của Thiên Chúa để lo giữ truyền thống của con người.
Yêu người, đừng giận ghét người khác, đó là giới răn của Thiên Chúa, đó là điều con người phải lo tuân giữ; thế nhưng trong thực tế nhiều người lại lo giữ những điều khác bên ngoài không quan trọng và chỉ là ý kiến của con người. Mà đã là ý kiến của con người, thì người này có ý kiến này người kia có ý kiến kia, dân tộc này có tập tục này dân tộc khác có tập tục khác, tại sao lại coi tập tục của dân tộc này hơn tập tục của dân tộc khác, tại sao lại coi thường một người không biết tập tục của dân tộc này dân tộc nọ. Người ăn bốc tay đâu có nghĩa là kém văn hóa hơn người ăn đũa, và người ăn đũa đâu có nghĩa rằng kém văn hóa hơn người ăn nĩa. Cho ý kiến của mình hơn ý kiến của người khác, tìm cách bắt người khác phải theo ý kiến của mình, là không tôn trọng người khác, không tôn trọng phẩm giá con người. Người như thế là người nô lệ cái tôi của mình.
Qua cách suy nghĩ, cư xử, phê phán của một người, người ta có thể nhận biết về người đó. Tuy vậy đừng vội kết án họ, vì nếu thế chúng ta cũng giống như họ. Nhận biết điều đó, để rồi tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho mình tránh được điều đó. Không được coi thường hoặc khinh khi họ, vì biết rằng nhờ ơn Chúa mà mình thoát khỏi điều đó, còn nếu tự sức thì mình cũng giống như họ thôi, như vậy đâu có gì để mà coi thường họ hoặc tự hào là mình hơn họ cả.
Trên đời, có bao người dựa vào hết điều này điều kia để phán đoán, để coi mình trổi trang hơn người khác, để khinh thường người khác. Nếu ai đó làm như vậy, họ đang nô lệ, họ không được tự do thật sự. Có thể họ đang dựa vào tập tục con người, đang dựa vào ý kiến con người để phê phán và kết án người khác, đồng thời đang tự hào kiêu ngạo rằng mình hơn người khác. Người Do Thái và biệt phái phê phán và kết án, là họ cho thấy họ đang dựa vào những yếu tố thuần túy con người để phê phán và kết án người khác. Họ đang nô lệ mà họ đâu có hay biết.
Cái gì làm cho con người dơ? Dơ bên ngoài do không tắm rửa, cũng quan trọng nhưng không quan trọng bằng dơ trong tâm hồn. Dơ trong tâm hồn do ý muốn của con người, do người ta chọn lựa, do người ta muốn làm nghịch lại điều Thiên Chúa đã dạy qua thập giới, do người ta không theo mà làm trái lại điều Đức Yêsu đã truyền.
Biết Đức Yêsu mới là cái biết đem lại sức sống và hạnh phúc cho con người. Biết Đức Yêsu và làm theo những điều Ngài dạy bảo, là làm cho người khác hạnh phúc và triển nở, vì nếu làm theo điều Đức Yêsu dạy thì tất cả được sống trong tình yêu. Đó là điều quan trọng cần biết, và những điều Ngài dạy bảo phải là tiêu chuẩn để nhận định. Ngài nói: “chớ phán xét để khỏi bị phán xét” (Mt.7, 1). “Hãy yêu thương như Ngài đã yêu” (Ga.13, 34).
Câu hỏi giúp biết mình hơn:
1. Tôi có hay phê phán người khác không? Khi kết án người khác, phải chăng tôi cho rằng tôi không như họ hoặc tốt hơn họ? 2. Dựa vào đâu, tiêu chuẩn nào tôi phê phán hay kết án người khác? 3. Hãy cố khám phá ra điều tôi đang cố theo đuổi, nhưng nó chỉ là tập tục của con người? Nếu nhận ra điều này, sẽ được tự do hơn.
Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy môn đệ Đức Yêsu bị người biệt phái trách là đã “không giữ truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đúng là “con dại cái mang”. Đức Yêsu đã nhân cơ hội này để giúp người ta biết sự thật: nhiều người đã bỏ giới răn của Thiên Chúa để lo giữ truyền thống của con người.
Yêu người, đừng giận ghét người khác, đó là giới răn của Thiên Chúa, đó là điều con người phải lo tuân giữ; thế nhưng trong thực tế nhiều người lại lo giữ những điều khác bên ngoài không quan trọng và chỉ là ý kiến của con người. Mà đã là ý kiến của con người, thì người này có ý kiến này người kia có ý kiến kia, dân tộc này có tập tục này dân tộc khác có tập tục khác, tại sao lại coi tập tục của dân tộc này hơn tập tục của dân tộc khác, tại sao lại coi thường một người không biết tập tục của dân tộc này dân tộc nọ. Người ăn bốc tay đâu có nghĩa là kém văn hóa hơn người ăn đũa, và người ăn đũa đâu có nghĩa rằng kém văn hóa hơn người ăn nĩa. Cho ý kiến của mình hơn ý kiến của người khác, tìm cách bắt người khác phải theo ý kiến của mình, là không tôn trọng người khác, không tôn trọng phẩm giá con người. Người như thế là người nô lệ cái tôi của mình.
Qua cách suy nghĩ, cư xử, phê phán của một người, người ta có thể nhận biết về người đó. Tuy vậy đừng vội kết án họ, vì nếu thế chúng ta cũng giống như họ. Nhận biết điều đó, để rồi tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho mình tránh được điều đó. Không được coi thường hoặc khinh khi họ, vì biết rằng nhờ ơn Chúa mà mình thoát khỏi điều đó, còn nếu tự sức thì mình cũng giống như họ thôi, như vậy đâu có gì để mà coi thường họ hoặc tự hào là mình hơn họ cả.
Trên đời, có bao người dựa vào hết điều này điều kia để phán đoán, để coi mình trổi trang hơn người khác, để khinh thường người khác. Nếu ai đó làm như vậy, họ đang nô lệ, họ không được tự do thật sự. Có thể họ đang dựa vào tập tục con người, đang dựa vào ý kiến con người để phê phán và kết án người khác, đồng thời đang tự hào kiêu ngạo rằng mình hơn người khác. Người Do Thái và biệt phái phê phán và kết án, là họ cho thấy họ đang dựa vào những yếu tố thuần túy con người để phê phán và kết án người khác. Họ đang nô lệ mà họ đâu có hay biết.
Cái gì làm cho con người dơ? Dơ bên ngoài do không tắm rửa, cũng quan trọng nhưng không quan trọng bằng dơ trong tâm hồn. Dơ trong tâm hồn do ý muốn của con người, do người ta chọn lựa, do người ta muốn làm nghịch lại điều Thiên Chúa đã dạy qua thập giới, do người ta không theo mà làm trái lại điều Đức Yêsu đã truyền.
Biết Đức Yêsu mới là cái biết đem lại sức sống và hạnh phúc cho con người. Biết Đức Yêsu và làm theo những điều Ngài dạy bảo, là làm cho người khác hạnh phúc và triển nở, vì nếu làm theo điều Đức Yêsu dạy thì tất cả được sống trong tình yêu. Đó là điều quan trọng cần biết, và những điều Ngài dạy bảo phải là tiêu chuẩn để nhận định. Ngài nói: “chớ phán xét để khỏi bị phán xét” (Mt.7, 1). “Hãy yêu thương như Ngài đã yêu” (Ga.13, 34).
Câu hỏi giúp biết mình hơn:
1. Tôi có hay phê phán người khác không? Khi kết án người khác, phải chăng tôi cho rằng tôi không như họ hoặc tốt hơn họ? 2. Dựa vào đâu, tiêu chuẩn nào tôi phê phán hay kết án người khác? 3. Hãy cố khám phá ra điều tôi đang cố theo đuổi, nhưng nó chỉ là tập tục của con người? Nếu nhận ra điều này, sẽ được tự do hơn.
Trong thời gian đại dịch này, chúng ta rất quen với việc rửa tay sát khuẩn. Thời Chúa Giêsu rao TN 22-B178
Trong thời gian đại dịch này, chúng ta rất quen với việc rửa tay sát khuẩn. Thời Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng, người Do thái đặc biệt là các người Biệt phái lại chú ý tới việc rửa tay trước khi ăn. Đối với họ: Rửa tay trước khi ăn không còn là vấn đề vệ sinh mà nó đã trở thành một nghi thức tôn giáo bắt buộc liên quan tới phượng tự. Chúa Giêsu không đồng tình với quan điểm đó, nên Chúa đã bênh vực cho các môn đệ của Chúa không Rửa tay trước khi ăn và chính Chúa cũng có lần làm như vậy.
Cựu Ước Do thái giáo đặt nặng vấn đề ô uế và thanh sạch như đụng tới tử thi là trở nên ô uế, người mẹ sinh con cũng trở nên ô uế và cần phải được thanh tẩy như Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu cũng phải làm nghi thức thanh tẩy sau 40 ngày sinh và đụng tới người phong cùi cũng trở nên ô uế ... rồi còn luật về thánh thiêng như không được đụng vào Hòm Bia, Tư tế sau khi dâng lễ phải thay ngay y phục vì y phục họ mang khi dâng lễ là thánh thiêng ... và còn nhiều cấm kị phức tạp khác nữa về đồ ăn: các con vật nào ta ăn bị coi là ô uế nên Chúa Giêsu đã có cuộc tranh luận với những người Pharisiêu về vấn đề này: Chúa bãi bỏ nghi thức buộc phải rửa tay trước khi ăn, Chúa lên tiếng trách Biệt phái đặt giáo huấn của phàm nhân trên luật Thiên Chúa như luật về Corban là ai dâng cúng cho Chúa thì không phải thảo hiếu giúp đỡ cha mẹ nữa trong khi việc thảo hiếu giúp đỡ cha mẹ là điều răn thứ Bốn, là huấn lệnh của Thiên Chúa còn luật về Corban chẳng qua chỉ là huấn lệnh của phàm nhân không thể đặt trên luật Chúa được. Chúa Giêsu cũng hủy bỏ việc cấm kị về thức ăn ô uế theo Cựu Ước khi Chúa nói: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế". Như thế Chúa Giêsu hủy bỏ ranh giới giữa thức ăn thanh sạch và thức ăn ô uế theo Cựu ước. Có thể nói đây là cuộc cách mạng của Chúa Giêsu đối với luật về thanh sạch và ô nhơ theo Do thái giáo. Thực ra Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật và nếu Kitô giáo mà vẫn còn phải giữ luật về thanh sạch và ô uế như thế này thì không thể đi vào thế giới lương dân ngoại giáo được. Các tông đồ sẽ còn tiếp tục làm sáng tỏ quan điểm của Chúa Giêsu về vấn đề này như thánh Phêrô qua thị kiến thấy tấm khăn lớn buộc bốn góc trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết. Chúa dạy ông: hãy giết mà ăn. Ông thưa cùng Chúa: Lạy Chúa không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Chúa phán: những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch thì ngươi đừng cho là ô uế (Cvtđ 10, 11-16).
Đối với Chúa Giêsu điều quan trọng là cái tâm, là lòng mến: không thờ kính Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng nhưng bằng cả tâm tình và lòng mến của mỗi người chúng ta. Thánh Tôma Aquinô nói: "Đức ái là nữ vương các nhân đức, một khi có được đức ái thì cũng sẽ có các nhân đức khác" Thánh Phaolô cũng dạy: "Trên hết mọi sự anh em hãy có đức yêu thương đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện (Cl 3,14) " Trịnh công Sơn trong bài ca "Để gió cuốn đi" có ca từ: " Sống trong đời sống cần có một tấm lòng".
Vậy chúng ta hãy sống theo giáo huấn Chúa dạy: cần phải luyện tập và trau dồi cái tâm, người Việt nam chúng ta gọi là "tu tâm dưỡng tính" loại bỏ cái tâm độc ác gian tà từ đó sinh ra đủ thứ tội lỗi mà Chúa Giêsu liệt kê cho chúng ta tới 12 thứ tội từ cái tâm không tốt của con người mà ra.
Nguyễn Du tác giả truyện Kiều cũng có câu thơ:
"Thiện căn ở tại lòng ta Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Chuyện minh họa: Tháng 7/2006, thành phố Đàlạt phát động chiến dịch làm sạch thành phố để đón khách du lịch. Chính quyền cho treo các tấm panô nói không với những người bán vé số dạo, những người đánh giầy dạo và cấm những người đi ăn xin... Điều này đã gây nên một phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng: họ yêu cầu Chính quyền phải làm sạch thành phố từ bên trong đó là phải dẹp bỏ những tệ nạn xã hội; quan chức phải bỏ thái độ cửa quyền, hối lộ và tham nhũng đang tác hại từ bên trong... Trước phản ứng này, Chính quyền phải cho gỡ các panô trên xuống.
Thánh Giacôbê dạy chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ các người nghèo khổ, cô nhi, quả phụ. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay chúng ta hãy có tâm tình chia sẻ giúp đỡ anh em bị khốn khổ vì dịch bệnh Covid: Có nhiều người đã nêu gương như nhiều bác sĩ, y tá, tu sĩ đã hi sinh phục vụ các người nhiễm Covid... Nhiều giáo xứ và người có của cải đã rộng lòng đóng góp tiền bạc, gạo mì, rau quả và các phẩm vật cứu trợ.
Chúng ta cầu nguyện như TV 50: "Lạy Chúa Trời xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần con nên chung thủy... Đừng cất khỏi lòng con Thần khí thánh của Ngài ". Amen.
ĐỨC TIN: SỰ KẾT HỢP HÀI HÒA GIỮA LẮNG NGHE VÀ THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thưa quý anh chị em,
Đức tin mạc khải hoạt động ngoại tại của Thiên Chúa trong lịch sử, thể hiện qua công trình sáng TN 22-B179
Đức tin mạc khải hoạt động ngoại tại của Thiên Chúa trong lịch sử, thể hiện qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa thế gian. Đức tin chân thật được nhận biết qua hai chiều kích hiện sinh. 1. Chiều kích hữu thể của đức tin diễn tả bằng việc: Chúa phán, Chúa gọi, thụ tạo đáp lời, tức thì nó được hiện hữu đương đối với Chúa. Đọc lại trình thuật sáng tạo, mỗi lần dựng nên một loài, Chúa phán: “hãy có” (cf. St 1-2) và liền có như vậy. Thụ tạo được dựng nên “tốt đẹp” và “quá đỗi tốt đẹp” tự bản chất (cf. St 1-2). Sự có mặt của một hữu thể là kết quả của “Lời” và “đáp trả” của thụ tạo ấy. Cũng hiểu như vậy với công trình cứu chuộc và thần hóa thế gian: Chúa muốn, Chúa gọi, nhờ Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, thụ tạo được hòa giải với Cha, được tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, được hưởng sự sống thần linh, sự sống muôn đời. 2. Chiều kích luân lý của đức tin hệ tại: Lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy. Đức tin hoàn hảo là sự liên kết hài hòa giữa lắng nghe và thực thi ý Chúa. Ai cũng khao khát, ai cũng kiếm tìm! Trong thực tế, xuất hiện nhiều dạng tuyên xưng và sống kiểu: đức tin nhãn hiệu, đức tin giả hiệu, đức tin nửa vời, tạo ra một thứ tôn giáo vụ lợi, gạt bỏ giới răn Chúa, tuân giữ luật lệ phàm nhân. Đức tin thiếu sự liên kết hài hòa giữa lắng nghe và thực thi ý Chúa, chẳng khác gì hạt giống bị rơi bên vệ đường, sa vào sỏi đá, gieo giữa bụi gai, sẽ không có kết quả mong muốn. Đức tin chân thật phải tìm được sự hài hòa giữa lắng nghe và thực thi “Lời” đúng với bản chất của “Lời” sáng tạo, nâng con người lên như của đầu mùa, nên bậc trưởng tử giữa loài thọ sinh. Chúa Giê-su, dùng hình ảnh xây nhà trên nền đá, dẫu có mưa sa, sóng vỗ, bão tố hoành hành, không làm hư hại, mà nói về những người khôn ngoan, chuyên chăm, lắng nghe, thực hành lời Chúa, cũng xây cuộc đời mình vững chắc trong Thiên Chúa như vậy. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay xoay quanh chủ đề lắng nghe và thực thi ý Chúa. Bài đọc I, trích sách Đệ Nhị Luật, truyền khiến Israel phải lắng nghe và thực hành lời nghe mới có thể được hưởng ơn phúc lành Chúa hứa. Môi-sê căn dặn: anh em nghe thế nào, thì thực hành đúng như vậy, không được thêm, bớt, bất cứ điều gì trong bộ luật này, bằng không anh em sẽ bị chúc dữ và không được vào phần đất mà Chúa đã hứa ban cho tổ phụ anh em. Chúa Giê-su cũng không dạy điều gì khác hơn lề luật và các ngôn sứ. Ngài đến để kiện toàn và không cho phép ai được quyền sửa đổi, dù chỉ là một chấm, một phết trong các điều luật ấy, bằng không, sẽ bị coi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Khi thực hành điều luật dạy, dân Chúa trở nên một dân tộc vĩ đại bởi sự khôn ngoan minh mẫn, không theo kiểu thế gian, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, của Tin Mừng cứu độ. Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, thể hiện vai trò Đấng đến, để kiện toàn lề luật và các tiên tri, nghĩa là: dạy con người thực hành điều căn bản, điều cốt lõi “tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân”. Thiếu vắng “tình yêu” con người sẽ gạt bỏ điều răn của Chúa, mà duy trì truyền thống, luật lệ phàm nhân. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và các luật sĩ, biệt phái, xoay quanh chủ đề tinh sạch và ô uế. Luật sĩ, biệt phái, coi là tinh sạch, là công chính, những ai thực hành nghiêm ngặt tập tục tiền nhân, giữ trọn các nghi tiết dạy làm, kiêng cữ những thứ bị coi là ô uế, ngược lại, là ô uế, là tội lỗi, những kẻ vi phạm luật điều, bất chấp lương tâm kẻ thực hiện hành vi có tán đồng hay trách cứ. Chúa Giê-su coi trọng việc nội tâm hóa Lời Chúa, đồng hóa lương tâm với “Lời”, đặt mọi hành vi nhân linh trong sự giám sát của lương tâm ngay chính. Sự tinh sạch và ô uế, công chính và tội lỗi, không đến từ hành vi, nhưng do thái độ thực hiện hành vi ấy. Bởi vậy, Giê-su tuyên bố: không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm họ ra ô uế, nhưng chính cái từ bên trong xuất ra: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tỵ, kiêu ngạo, ngông cuồng. Những điều xấu đó làm cho người ta ra ô uế (cf. Mc 7, 15 – 23). Thánh Gia-cô-bê cảm nhận được sự kiện toàn lề luật Giê-su thực hiện như ơn lành, phúc lộc hoàn hảo ban xuống từ “Trời”, giúp con người thực hành Lời Chúa trong niềm vui tươi, phấn khởi, đem lại sự sống muôn đời. Thưa anh chị em, Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta: * Một là: ý tứ, đừng để mình bị lôi kéo vào lối sống đạo máy móc, vụ hình thức, chỉ coi trọng số lượng, nơi chốn. Chúa không muốn chúng ta đếm số lượng các việc đạo đức thường làm để tính công, nhưng muốn lòng mến chân thật hướng dẫn mọi việc chúng ta làm. * Hai là: Tuân giữ trọn vẹn giới răn Chúa trong sự chỉ dẫn của quyền giáo huấn Hội Thánh. Tránh mọi cắt nghĩa sai lạc vương hại đức tin chân chính. Không để mình bị lôi kéo vào những phong trào đội lốt mạc khải tư huyền hoặc trái với Tin Mừng, làm tâm tư chúng ta ra bại hoại, mất dạ đơn thành, mất lòng thanh khiết với Đức Kitô. Luôn xác tín: lòng đạo đức chân chính phải biết kết hợp nên một giữ lắng nghe và thực hành lời Chúa. Thực hành tốt điều kể trên, chúng ta làm phải. Chúc anh chị em vạn an, thẳng tiến trong hành trình lắng nghe và thực thi ý Chúa, đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen!
Giữa những tang thương của đại dịch, lúc này đây, hơn bao giờ hết, tin chắc rằng, ai trong chúng TN 22-B180
Giữa những tang thương của đại dịch, lúc này đây, hơn bao giờ hết, tin chắc rằng, ai trong chúng ta cũng nguyện ước, cầu mong làm sao để có được sự bình an, được tai qua nạn khỏi…Tôi nhớ lại, lúc tôi còn làm việc tại Trung Tâm Hành Hương Đền Thánh Mẹ Nhân Lành tại Khánh Vĩnh, vào những ngày thứ bảy đầu tháng dịp hành hương, ý lễ mà khách hành hương xin nhiều nhất đó là: “Cầu xin ơn Bình An và Sức Khỏe cho các thành viên trong gia đình”. Thật vậy, bình an và sức khỏe, chính là điều mà con người luôn khao khát, nỗ lực tìm kiếm, nhưng rất khó để có được, vì thật ra, những điều mà chúng ta mong ước nguyện cầu, nó vượt quá sức lực và giới hạn của con người chúng ta. Hay nói khác hơn, “Ơn Bình An Đích Thực”, chính là ơn ban của Thiên Chúa. Vậy thì, chúng ta phải làm gì, phải làm thế nào để được hưởng hay lãnh nhận ơn phúc này? Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng, hướng dẫn cho chúng ta những bí quyết-kinh nghiệm thật tuyệt vời.
Bài đọc một trong sách Đệ Nhị Luật khuyên dạy chúng ta, nếu muốn được bình an, thịnh vượng, nếu muốn được Chúa thương ban ơn chúc lành, thì con người phải biết lắng nghe, tuân giữ và thực hành những huấn lệnh mà Chúa đã truyền. Thoạt nhìn thoáng qua, chúng ta thấy rằng, mệnh lệnh, đường lối và huấn lệnh của Chúa dường như quá khắt khe, nghiêm ngặt, rất khó để thực hiện…nhưng thực ra, đây chính là tình yêu thương, là ơn thánh của Chúa ban cho và cũng là cách lựa chọn khôn ngoan sáng suốt nhất để giúp cho những ai muốn có sự bình an, cuộc sống tốt lành-hạnh phúc và ơn thánh Chúa trong cuộc đời. Bí quyết tuyệt vời ở đây là: Thiên Chúa là Đấng ban phát ơn lành, Ngài cũng là Đấng giúp sức để chúng ta có thể hưởng được điều mà mình khát khao, tìm kiếm.
ACE thân mến, giờ đây, chúng ta thử hồi tâm và cảm nghiệm lại: Có khi nào, những thứ mà do con người chúng ta tạo ra, nó có đem lại bình an và hạnh phúc thực sự cho chúng ta không? Nếu có, thì đó cũng chỉ là những niềm vui chóng qua, tạm thời, rất mong manh và giới hạn. Những gì mà giúp chúng ta có bình an đích thực, vững bền và tồn tại mãi mãi, đó chính là xuất phát từ nơi Thiên Chúa và do Chúa thương ban cho. Do đó, trong bài đọc hai, Thánh Giacôbê đã mời gọi chúng ta hãy hồi tâm để sống tâm tình cảm tạ-tri ân Thiên Chúa. Vì “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống” cho chúng ta. Thế nhưng, để ơn Chúa sinh ơn ích hữu hiệu, chúng ta cần phải cộng tác với Chúa qua việc chúng ta khiêm tốn, mở lòng để lắng nghe, suy niệm Lời Chúa và sống chứng tá, thực thi Lời Chúa qua đời sống bác ái-yêu thương: “Cho nên anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”.
Thưa ACE, khi đã hồi tâm và suy nghĩ cách tường tận, chúng ta hãy xem thử cung cách, thái độ sống và thực hành Lời Chúa ra sao trong cuộc sống của mình trong thời gian vừa qua? Tin mừng theo Thánh Marco hôm nay, Chúa Giêsu lên án, chỉ trích rất nặng nề, khiêm khắc với những người nhóm Pharisiêu và các kinh sư. Nói về tuân giữ lề luật, thì nhóm người này họ làm rất tốt, rất kỹ và chi ly, thế nhưng, tại sao Chúa lại không hài lòng và còn lên án họ nữa? Thưa bởi vì: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”. Thực ra, ở đây Chúa không phải chê trách việc họ tuân giữ và thực thi lề luật, nhưng điều Chúa không hài lòng và không thể chấp nhận được những thái độ, cung cách và ý nghĩa của việc tuân giữ lề luật. Khi tuân giữ lề luật, họ cho rằng, chính bản thân họ tự tạo nên sự thánh thiện, tốt lành và được miễn nhiễm bởi các điều xấu. Thế nhưng họ quên mất rằng, để trở nên thánh thiện, công chính, tốt lành là do Chúa thương ban cho, chứ không phải do tài sức của con người. Cha ông chúng ta cũng có câu: “Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên”.
Vậy thưa ACE, dưới ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa hôm nay, mong ước rằng, với ơn Chúa, chúng ta luôn khiêm tốn, luôn mở lòng để có thể lắng nghe, suy niệm và thực thi Lời Chúa. Chỉ khi nào chúng ta biết bám víu, tin tưởng, phó thác, cậy trông vào sức mạnh, ơn thánh Chúa, đồng thời, với những cố gắng-hy sinh, nỗ lực của chúng ta, ơn bình an và ơn phúc lành của Chúa mới thực sự hiện diện trong tâm hồn, lòng trí và đời sống của chúng ta.
Lạy Chúa, giữa muôn vàn nghịch cảnh, tang thương như hiện nay, chúng con nhận ra sức lực và giới hạn của chúng con thật quá mỏng manh, dễ vỡ. Do đó, xin cho chúng con biết chạy đến với Chúa, tận dụng mọi cơ hội Chúa ban, qua việc siêng năng kinh nguyện sáng tối, qua việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, qua việc lãnh nhận các bí tích ban ân sủng, nhờ đó chúng con mới có thể trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa, người được Chúa ban cho bình an đích thực, để từ đây chúng con cũng sẽ cố gắng sống trọn vẹn với ơn gọi của mình là làm lan tỏa tình yêu thương và ơn thánh Chúa cho tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
SỐNG TIN MỪNG LÀ BẢO VỆ, BÊNH VỰC NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Hãy ít nói hơn và hành động nhiều hơn! Các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta không chỉ rao TN 22-B181
Hãy ít nói hơn và hành động nhiều hơn! Các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta không chỉ rao giảng mà còn phải sống Tin mừng. Các bài Lời Chúa khuyến khích chúng ta ưu tiên chăm sóc những nhóm người dễ bị tổn thương và tránh những “sự tha hóa” làm tổn hại đến tương quan giữa chúng ta với nhau và với Chúa.
Thư của thánh Giacôbê Tông đồ gửi cho một cộng đoàn Kitô hữu để chỉ dẫn cách thức sống đức tin. Thánh Giacôbê cho rằng những việc làm quảng đại của con người là cách thức Thiên Chúa dùng để hành động trong thế giới: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời”. Khi giúp đỡ người khác, chúng ta tạo điều kiện cho tình thương và sự chăm sóc của Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này.
Thánh Giacôbê nói về những đòi hỏi của đức tin và thực hành Kitô giáo, nhấn mạnh đến việc chăm sóc cô nhi, quả phụ. Trong Kinh thánh, cô nhi và quả phụ thường được đề cập chung với nhau như là nhóm được người ta để ý và Thiên Chúa chăm lo vì họ có những khó khăn về tài chính, tình cảm và pháp lý. Cô nhi, quả phụ liên quan tới những người dễ bị tổn thương, bị tước quyền công dân và bị áp bức. Chẳng hạn, ngôn sứ Isaia đã chỉ trích dân chúng vì coi thường những người túng thiếu, và nói họ hãy “tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bằng, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1,17). Thư của thánh Giacôbê Tông đồ thách đố chúng ta suy nghĩ và hành động. Hôm nay, ai là cô nhi quả phụ ? Những nhóm nào trong xã hội dễ bị tổn thương và cần giúp đỡ nhất? Kinh thánh rõ ràng mời gọi chúng ta chiến đấu cùng với họ và cho họ.
Tin mừng theo thánh Máccô cũng nói đến cách thức con người sinh sống và tham gia vào xã hội. Đức Giêsu phản ứng lại giới lãnh đạo Do Thái đang phê phán các môn đệ là không tuân theo luật lệ và tập tục qui định của tiền nhân. Đức Giêsu phê bình giới lãnh đạo cũng như ý hướng của họ, và Ngài xoay chuyển cuộc tranh luận để giảng dạy về cách con người hành xử một cách bao quát hơn, chứ không đơn thuần là việc giữ đạo hình thức. Ngài lên án những hành vi làm tha hóa và tổn hại con người, như trộm cắp, giết người, độc ác, tham lam và kiêu căng. Những hành vi này, và nói rộng hơn là tội, không chỉ làm ô uế bản thân và mối tương quan với Thiên Chúa, nhưng còn làm tổn thương cộng đồng.
Vì thế giới tràn ngập với quá nhiều khổ đau nên chúng ta được mời gọi hành động. Chúng ta nên tự đặt cho mình câu hỏi của thánh Vinh sơn: “Phải làm gì đây ?” Làm thế nào để đưa đức tin Kitô giáo vào cuộc sống? Lời Chúa yêu cầu chúng ta hỗ trợ những người túng thiếu nhất, cung cấp nguồn lực và ủng hộ những thay đổi sẽ giúp mọi người thăng tiến. Cũng vậy, việc Đức Giêsu nhấn mạnh đến luân lý nhắc nhở chúng ta hãy chủ ý lưu tâm đến hành động của mình, đó là làm việc tốt và tránh điều xấu.