Phúc Âm: Mc 10, 46-52: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Cũng lạ! Sao trời đất lại có ngày và đêm? Sao không chỉ đêm không hay ngày không cũng được. TN 30-B101
Cũng lạ! Sao trời đất lại có ngày và đêm? Sao không chỉ đêm không hay ngày không cũng được. Nhưng nếu chỉ có ngày, người ta sẽ chẳng bao giờ thấy được vẻ huyền diệu của trời đất. Cũng như không thể thấy được một thế giới sống lạ lùng của vô vàn sinh vật, mỗi khi đêm về. Nơi vũ trụ con người, cũng có sáng và tối. Ban ngày, mở mắt lớn để nhìn xem cuộc sống. Và ban đêm, khép mắt lại để thảnh thơi. Người đàn ông trong câu chuyện có tên là Batimê, chỉ có một nửa đời. Chỉ có khoảng nửa đen, không có phần kia trời sáng. Cho nên, vừa nghe nói là có Chúa, anh ta liền kêu lớn tiếng.
1- “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”.
Kêu gì mà lạ thế! Vua Đavít đã sống từ cách đó cả ngàn năm, mà sao lại là con Vua Đavít? Tuy sống cách cả ngàn năm, nhưng theo lời các tiên tri, thì Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra từ dòng giống của Đavít. Vì thế, Đấng Cứu Thế sẽ được gọi là con vua Đavít. Khi nói thế, có nghĩa là anh đã tin rằng: Ông Giêsu trước mặt, chính là Đấng Cứu Thế. Chỉ Đấng Cứu Thế mới là Đấng cứu vớt được đời anh. Đời anh chìm sau trong bất hạnh. Người khác đã phỗng tay trên hết những gì là lợi nhuận, những gì là cơ may. Anh không thể đấu tranh được với ai. Cho nên, anh đành phải sống nhờ vào sự thừa thãi và thương hại khi ngồi ngửa tay bên vệ đường. Đời anh chìm sâu trong cô đơn, tẻ nhạt. Bởi ít người muốn gặp gỡ anh. Đời anh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì anh không tự lo cho chính mình được. Vì thế, anh xin Chúa thương xót anh. Chỉ một mình Chúa là người duy nhất có thể cất được cái gánh nặng chình chịch và chìm sâu cho anh.
Rồi anh thưa:
2- “Xin cho tôi được thấy”.
Cho tôi được thấy mặt Ngài, khuôn mặt của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên tôi. Cũng cho tôi được thấy mặt Ngài, khuôn mặt tuyệt vời của Đấng Cứu độ sinh linh. Xin cho tôi được thấy mặt tôi, một khuôn mặt bụi đất mỏng dòn. Một khuôn mặt lem luốc, kết quả của những dại khờ, đam mê còn đọng lại. Xin cho tôi được thấy khuôn mặt của mẹ cha tôi, những người đã yêu thương tôi và đã phải khổ vì tôi rất nhiều. Và nhất là, xin cho tôi được thấy khuôn mặt của người khác. Những khuôn mặt rất khác nhau, nhưng đều có một điểm chung: đều là người, là đồng loại với tôi. Và còn hơn thế nữa là đều giống tôi. Vì tất cả đều là anh em ruột thịt. Bởi chúng tôi, đều có một người Cha chung là Thiên Chúa vô cùng.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn có nghĩ, bạn cũng đang cần phải kêu xin lòng thương xót của Chúa không? 2- Hỏi thật, khi không biết khuôn mặt thật của mình, thì là bị mù. Vậy bạn mù hay sáng?
Có một cô bé khó tính, luôn phê bình và chỉ trích bởi vì cô bé không bao giờ tìm thấy được một TN 30-B102
Có một cô bé khó tính, luôn phê bình và chỉ trích bởi vì cô bé không bao giờ tìm thấy được một điều gì tốt nơi người khác. Bất kể ai làm được một việc tốt, thì cô bé cũng phải tìm cho ra một điều sai, một nguyên do xấu. Cô bé thường hay nói: Nó phải có ý đồ đen tối, nó phải rút ra được cái gì lợi trong đó. Và cô bé luôn bắt lỗi mọi người. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động như cô bé bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu. Để rồi lúc nào cũng cau có, lúc nào cũng bực bội, lúc nào cũng bất mãn.
Thế rồi một ngày kia, nghe cha sở cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, mà chúng ta vừa mới được nghe đọc. Cô bé bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng: Tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp của người khác.
Chúa Giêsu đã chữa lành sự đui mù thể xác, để chứng tỏ Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại cho chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác. Vì một trong những cách biểu hiện của nó là không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy tình thương, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh. Tật đui mù này lại thường hay lân lan. Chính vì thế mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không? Nếu có, thì chúng ta hãy vội vã kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Nơi tốt nhất để chúng ta bắt đầu sửa chữa tật đui mù này chính là gia đình. Chẳng hạn người mẹ quên đính nút áo hay quên vá chiêc quần cho chúng ta, thay vì càu nhàu trước sự sơ sót này, chúng ta hãy nghĩ đến những việc tốt mà mẹ đã làm cho chúng ta, chẳng hạn như nấu ăn, giặt giũ, lau chùi nhà cửa. Người anh của chúng ta hay nóng tính, thay vì nghĩ đến những lần gắt gỏng, thì chúng ta hãy nhớ tới công việc nặng nhọc mà người anh ấy phải làm ngoài thửa ruộng thần nông hay trong nhà máy để đem lại chén cơm manh áo cho gia đình và những người thân yêu.
Thay vì nghĩ đến những lầm lỗi của người khác, chúng ta hãy tập cho quen biết mở mắt để nhìn thấy những cái tốt cái đẹp của họ. Nghĩ tới nó và luôn nói về nó, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: dù là một tên tướng cướp, thì trong lồng ngực của hắn cũng vẫn có một một mảnh tim vàng. Nhờ việc khám phá ra những cái tốt đẹp nơi họ, chúng ta sẽ xích lại gần họ hơn và dễ dàng yêu thương họ như Chúa đã truyền dạy chúng ta.
Bởi đó, cùng với anh mù trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội: TN 30-B103
Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.
Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai. Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường!!! Và nếu ta cất công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai? Người mù hay người sáng? Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.
Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô. Không biết anh có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.
Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai. Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” - một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh. Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài điều này.
Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu. Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình. Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại. Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.
Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô. Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng? Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.
Sẽ thật hạnh phúc cho tôi, nếu tôi có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời. Ngược lại, sẽ thật bất hạnh biết bao nếu tôi có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm ba mươi. Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho tôi có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa. Xin Ngài gìn giữ tôi, để đôi mắt đức tin của tôi cũng luôn được tinh tường sáng suốt. Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương” như người ta vẫn nghĩ. Amen.
Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở. Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày TN 30-B104 Lượng
Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở. Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày trở về. Nhất là những người bị đi lưu đầy, tù tội hay xa xứ đều mong có ngày được trở về quê hương. Sự trở về mang lại niềm vui lớn. Cuộc sống là một cuộc nối kết những chặng đường trở về. Chúng ta cùng đang lữ hành trên trần gian đầy chông gai thử thách. Mọi cuộc lữ hành cần có cùng đích để hướng tới. Mỗi người được sinh ra đời đều có cội có nguồn, có cha có mẹ, có quê hương xứ sở và có cùng đích để trở về. Cuộc sống vô thường và thay đổi, đổi thay mỗi ngày. Cũng như thời gian đắp đổi, có hợp có tan, có vui có buồn, có đi có về, có xuất có nhập, có sáng có tối và có sinh có tử. Không có ra đi thì cũng không có trở về. Sinh ký tử qui. Cuộc sống con người kết nối bởi những biến cố nhỏ to. Đời sống thiên nhiên cũng thế, vòng xoay bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và hai mùa mưa nắng.
Dân Do-thái nhiều năm bị lưu đầy xa xứ sắp được trở về quê hương. Trong niềm vui mừng hân hoan, tiên tri Giêrêmia đã xướng lên: Vì Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!(Gier 31, 7). Niềm vui ngày trở về là ngày vui của sự xum họp trong tự do và hạnh phúc. Người Do-thái được giải thoát khỏi làm nô lệ tôi đòi cho ngoại bang. Niềm mơ ước được giải phóng trở về quê hương là một niềm mong ước vượt qúa sức của họ. Thiên Chúa đã yêu thương an bài để mọi người cùng được trở về sống chung, không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tàn tật và người bất hạnh: Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo (Gier 31, 8).
Thánh Phaolô mời gọi mọi người hãy sống đúng với tư cách của mình là Kitô hữu, ngài nhắn nhủ rẳng: Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh (Eph 5, 3). Sự xấu có mặt trong đời sống của con người mọi thời, xưa cũng như nay. Những bản năng thú tính kéo lôi con người trở về với cách sống hoang dã. Con người dễ rơi vào những dịp tội của sự ghen tương, thù ghét, oán hờn và gian tham. Sống buông thả theo bản năng thì rất dễ dàng như bèo trôi theo dòng nước. Đi vào con đường hẹp để tu tâm luyện tính đòi hỏi sự ý thức và luyện tập chuyên cần. Tu tâm là xa tránh dịp tội, cải thiện đời sống, giảm bớt tham sân si và tập tành các nhân đức. Muốn nên người tốt, chúng ta phải chuyên tâm tu luyện và thực hành điều thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động.
Chúng ta đang sống trong thời đại ‘bấm nút’. Mọi phương tiện khoa học kỹ thuật xử dụng nút bấm và sờ chạm rất thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng. Chúng ta mất dần sự kiên nhẫn và sự kiên trì phấn đấu. Cái gì cũng muốn có kết qủa ngay lập tức như ơn chữa lành các bệnh tật. Vì thế, có sự xuất hiện giữa chúng ta những đáp ứng “mì ăn liền” trong cả niềm tin trong đời sống đạo. Khi xưa thánh Phaolô đã cảnh báo các tín hữu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục (Eph 5, 6). Chúng ta đừng dễ cả tin những cách thế trà trộn lẫn lộn thực hư để đưa dẫn chúng ta vào những sự hão huyền. Chúng ta đừng mắc mưu chạy theo các thần tượng và nghĩ rằng họ có thể đáp ứng mọi nhu cầu tâm linh khao khát của chúng ta.
Bài Phúc Âm, kể câu truyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù thành Giêricô. Anh bị mù cả hai mắt và phải đi ăn xin. Anh nghe nói về Đức Giêsu Nazarét, anh đã nhận ra Chúa qua con mắt đức tin: Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "(Mc 10, 47). Có lẽ nhiều lần anh đã lảng vảng nơi đám đông tụ họp để ăn xin và nghe ngóng. Anh đã nghe và nhận diện ra Đấng có đầy lòng thương xót. Anh biết Đấng đó có uy quyền chữa trị bệnh cho anh. Anh bị mù chứ không phải quáng gà hay loạn thị. Các bác sĩ không thể chữa trị những chứng bệnh như mù, điếc, câm và què từ bẩm sinh. Anh đã chạy đến xin Chúa chữa. Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." (Mc 10, 51). Chúa đã chữa lành cho anh ta.
Chúa chữa lành cho anh mù và tức khắc anh nhìn thấy. Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! " Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10, 52). Ngày nay xuất hiện nhiều thầy lang chữa bệnh nhưng chỉ chữa những bệnh cảm cúm, đau nhức và phong thấp thường ngày. Thời tiết đổi thay, nay khỏe mai yếu. Hằng ngày người bệnh dùng cả thuốc bắc, thuốc nam, thuốc tây và thuốc bổ đủ loại, hiệu qủa sớm muộn tùy duyên. Thật khó bề mà lường được nguyên nhân và hậu qủa của các hiện tượng chữa lành xảy ra. Như lời thánh Phaolô phát biểu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em. Thời nay có rất nhiều người cả tin, dễ tin và mê tín dị đoan. Những cảm giác, ảo tưởng, tâm sinh lý, ước muốn và môi trường chung quanh cuốn hút chúng ta vào những mê hoặc và giả tưởng. Chúng ta cần thức tỉnh tâm linh và trải nghiệm những diễn tiến thật sự trong thân xác mình. Chúa Giêsu nói với anh mù: Lòng tin của anh đã cứu anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cần một niềm tin tuyệt đối vào danh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta tin vào quyền năng của Chúa Giêsu Kitô. Niềm tin cần được hun đúc, trau dồi học hỏi và thực hành trong đời sống. Tin là sự phó thác hoàn toàn vào việc Chúa quan phòng. Chúng ta bắt đầu Năm Đức Tin (the Year of Faith), Đức giáo hoàng Bênêđictô thứ 16 mời gọi các tín hữu hãy ý thức và sống niềm tin của mình cách chân thành. Chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính. Tin vào những mầu nhiệm được mạc khải trong đạo. Tin vào những điều Giáo Hội truyền dạy về sự sống đời này và đời sau. Củng cố niềm tin của mình bằng cách học hỏi lời Chúa, suy gẫm gương của các thánh nhân và thực hành sống đạo. Đức tin cần thấm nhập vào tâm trí, ý chí, ý thức và tuyên xưng qua lời nói và việc làm. Thánh Giacôbê nói về đức tin: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17).
Chúng ta đang trở về với cội nguồn của niềm tin. Cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin của Công Đồng Nicêa năm 325 (The Nicene Creed). Niềm tin mà chúng ta đã tuyên hứa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Cậy dựa vào gương sáng của các vị tiền bối đã dám sống chết vì niềm tin vào Đức Kitô. Chúng ta cũng phải củng cố và hun đúc niềm tin sống đạo mỗi ngày. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia! " nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được (Mt 17, 20). Đức tin là nhân đức đối thần. Trong cuộc sống đạo, chúng ta còn yếu đức tin và nhiều ngờ vực. Trau dồi qua tri thức chưa đủ mà cần kết hợp với Chúa Kitô trong nguyện cầu: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." (Lc 17, 5).
Lạy Chúa, đức tin của chúng con rất hời hợt và nông cạn, xin thêm lòng tin cho chúng con. Đã nhiều lần chúng con mê hoặc chạy theo những lời mời gọi mơ hồ, giả trá, ảo tưởng và mê tín. Chúng con đã đặt niềm tin vào con người và phương tiện khoa học kỹ thuật trần gian hơn là đặt niềm tin nơi Chúa Kitô. Giờ đây, chúng con xin phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa nâng đỡ phù trì.
Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống TN 30-B105
Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của con người. Hiểu được như vậy, sẽ dễ dàng cảm thông tiếng kêu của anh mù hơn: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”.
Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.
Được sáng, thật hạnh phúc dường bao!
Đức Giêsu thương cảm trước nỗi khổ của con người
Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng, nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng? Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Đức Giêsu làm gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Đức Giêsu có thể chữa cho anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Đức Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.
Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn. Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Đức Giêsu và được Ngài thương xót: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Đức Giêsu, chờ đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu của anh ta đã lọt vào tai Đức Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu này. Đức Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.
Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Ai-cập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã thương giải phóng họ khỏi Ai-cập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt.11, 28): Đức Giêsu cũng luôn thương cảm trước nỗi khổ của con người.
Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, và kêu cầu Ngài, Ngài sẽ đáp cứu.
Hãy thương cảm trước nỗi khổ của con người như Đức Giêsu
Thương cảm trước nỗi khổ của con người, là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn con người thương cảm trước nỗi khổ của anh em mình như Ngài. Người đầy tớ “không biết thương xót” anh em mình, sẽ không được thương xót (Mt.18, 23-35).
Rung động trước nỗi khổ của anh em mình, là trở nên người hơn, trở nên con Thiên Chúa hơn. Ước gì con người biết thương cảm và yêu thương người khác trong hoàn cảnh khốn khổ của họ. Ngay cả khi không có gì để cho, hoặc có rất nhiều điều để cho người khác, thì tình yêu thương vẫn là món qùa qúy nhất. Câu hỏi gợi ý chia sẻ: 1. Bạn đã rung động trước nỗi khổ của con người chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm. 2. Điểm nào đáng động bạn nhất khi nghe đọc đoạn Tin Mừng Mc.10, 46-52 trên? 3. Đức Giêsu đã bao giờ chữa bệnh mù cho bạn chưa? (Đức Giêsu có giúp bạn thấy rõ một điều gì mà trước đó bạn bị nô lệ bao giờ chưa? Nếu có xin chia sẻ.)
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXX, Thường Niên, Năm B
Con đường người môn đệ được mời gọi bước đi với Đức Giêsu là con đường vui, vì chất ngất TN 30-B106
TMĐP- Con đường người môn đệ được mời gọi bước đi với Đức Giêsu là con đường vui, vì chất ngất lòng thương xót và nguồn ơn cứu độ, trên đó Thiên Chúa biểu lộ tình Cha toàn năng và nhân hậu đối với con người.
Nhiều người lầm tưởng: con đường đến với Chúa, đi với Chúa là con đường sầu thảm, buồn thương, nặng lo âu, phiền não.
Tin Mừng hôm nay làm chứng ngược lại: con đường ấy là con đường vui, con đường tràn đầy niềm hoan lạc, phấn khởi, vì là đường của Thiên Chúa, và trên đường có Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ cùng đi với con người.
Là đường của Thiên Chúa đưa dân Người “trở về” từ miền đất lưu đầy, như ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm: “Ta quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo. Chúng trở về nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ítraen, Ta là một người Cha” (Gr 31,8-9).
Là đường có Thiên Chúa, như đoàn tù nhân Xion trên đường trở về cứ tưởng mình “như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng”. Họ như người “nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, reo vui hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125, 1-2. 5-6).
Là đường Đức Giêsu đã bước đi: con đường Thánh Giá đau khổ và chết chóc đã dẫn đến buổi sáng Phục Sinh khải hoàn khi Sự Sống chiến thắng thần chết, và Thập Giá chiến thắng địa ngục; con đường khiêm hạ, vâng phục của Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã không tự gán cho mình vinh quang, vinh dự, cũng không tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Chúa Cha,“Đấng đã nói với Ngài: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Dt 5, 6).
Con đường của Thiên Chúa, có những bước chân cứu độ của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người cũng là con đường Thiên Chúa mời gọi con người bước đi với Ngài, con đường con người tìm gặp Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người.
Trên con đường ấy, có “người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê” nài xin lòng thương xót của Đức Giêsu khi anh lớn tiếng kêu van Ngài, bất chấp “nhiều người qúat nạt, bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi!” (Mc 10, 46. 48); trên con đường ấy, anh mù Batimê, khi nghe Đức Giêsu gọi đã “vất bỏ áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu” (Mc 10, 50); trên con đường ấy, anh mù đã xin Đức Giêsu cho mình được thấy, khi Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10, 51); và cũng chính trên con đường ấy, Đức Giêsu cho anh được nhìn thấy, khi nói với anh: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 52).
Thực vậy, con đường người môn đệ được mời gọi bước đi với Đức Giêsu là con đường vui vì chất ngất lòng thương xót và nguồn ơn cứu độ, trên đó Thiên Chúa biểu lộ tình Cha toàn năng và nhân hậu đối với con người.
Đường ấy vui, vì là đường tín thác, trên đó chúng ta như anh Batimê, người ăn xin mù loà phấn khởi trong niềm hy vọng được thương xót đã mạnh dạn đến gần Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ để xin Ngài cho sáng mắt.
Đường ấy vui vì là đường sứ vụ, trên đó, Đức Giêsu sai chúng ta lên đường loan báo cho muôn dân Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương họ”, bằng làm chứng: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 125,3), như Ngài đã sai anh mù Batimê: “Anh hãy đi!” và làm chứng cho mọi người: “Lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 62).
Và tuyệt vời trên cả tuyệt vời, vui trên mọi niềm vui, vì đường ấy là đường chúng ta được Đức Giêsu kêu gọi đi theo Ngài như anh mù, sau khi được nhìn thấy đã “đi theo Người trên con đường Người đi ” (Mc 10, 52).
Một người vô thần hỏi một người Ả rập đang ngồi cầu nguyện giữa sa mạc hoang vắng: Làm sao TN 30-B107 Luong
Một người vô thần hỏi một người Ả rập đang ngồi cầu nguyện giữa sa mạc hoang vắng: Làm sao anh có thể tin vào Thiên Chúa, Đấng anh không hề trông thấy? Người Ả rập trả lời: Khi nhìn vào những dấu chân con sư tử trên cát, thì tôi biết được rằng con sư tử mới đi qua đây, mặc dù tôi không trông thấy nó. Với Thiên Chúa cũng vậy, mặc dù Ngài là Đấng vô hình, nhưng những kỳ công của Ngài nói cho tôi biết về Ngài.
Chúng ta thật may mắn vì ngay từ lúc mở mắt chào đời, chúng ta đã có một niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa, như điều răn thứ nhất đã truyền dạy. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều dân tộc mê tín, tin vào những chuyện nhảm nhí như lửa, như gió và các vì tinh tú, hay như ca dao đã diễn tả: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Tại sao lại có tình trạng ấy?
Lý do thứ nhất, đó là vì sự yếu đuối, sự hạn hẹp của trí khôn con người, coi tất cả những gì đẹp đẽ, những gì oai hùng đều là thần minh. Họ giống như một bác nông dân, lần đầu tiên được bước vào cung vua, thấy bất kỳ ai ăn mặc đẹp đẽ cũng tưởng là nhà vua, nên quỳ gối chào kính.
Nhưng nguyên nhân chính yếu, đó là mưu mô của ma quỷ. Đã từ lâu, nó nuôi tham vọng được bằng Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia đã nói về nó: Ta sẽ lên tới trời và ta sẽ đặt ngai tòa của ta dưới những vì sao. Nó xúi bẩy con người đi tới chỗ thờ lạy nó và dâng tiến cho nó những lễ vật. Nhất là nó mong muốn người ta tôn kính nó như là Thiên Chúa. Chính vì thế, nó đã nói với Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ: Ta sẽ ban cho ngươi mọi vương quốc trần gian, nếu ngươi quỳ gối thờ lạy ta.
Điều ma quỷ không thể tìm được nơi Chúa Giêsu, thì nhiều người kém lòng tin đã hiến dâng cho nó. Tình trạng mê tín không phải chỉ ngày xưa, mà ngay cả hôm nay trong thời buổi văn minh cũng vẫn có. Không thiếu gì những tín hữu đã làm những chuyện nhảm nhí để cầu mong cho được điều nọ điều kia. Họ đã vâng phục loài người hơn là vâng phục Thiên Chúa. Họ đã chạy theo những đam mê dục vọng bất chính, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Họ lấy cái bụng của họ làm chúa.
Tội mê tín hiểu theo một nghĩa rộng, đó là việc từ bỏ Thiên Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc nơi những thụ tạo. Những đam mê mù quáng như kiêu căng, hà tiện, những khát vọng quá đáng về tiền bạc, danh vọng và lạc thú chính là những thần tượng giả tạo, chúng ta cần phải trục xuất ra khỏi tâm hồn, để tâm hồn trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Có khử trừ tội lỗi, thì cặp mắt tâm hồn chúng ta mới được trong sáng và chúng ta mới có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi vũ trụ và nơi những người chung quanh, cũng như nơi thẳm sâu cõi lòng chúng ta.
Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều TN 30-B108
Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều muốn gì có đó. Trong một tai nạn, kính xe hơi của anh vỡ bể tan nát văng vào cả hai mắt anh, và dù gia đình tìm mọi cách chữa chạy, cuối cùng cũng phải chấp nhận cho bác sĩ khoét hai con mắt của anh. Lúc đó tất cả bầu trời như muốn sụp đổ xuống cuộc đời anh, anh tỏ ra tuyệt vọng và không còn muốn sống nữa. Thế nhưng, ngày kia có một nữ tu trước đây khi còn ở ngoài, học cùng lớp với anh đến thăm, động viên và tỏ lòng cảm thương với nỗi khốn khổ của anh; đồng thời trước khi ra về, chị nữ tu này đã tặng anh một đĩa audio cuốn sách Ý Nghĩa Sự Đau Khổ của Cha Tuyên dòng Chúa Cứu Thế, và cáo biệt ra về. Trong lúc buồn sầu chán sống, tự nhiên nhớ đến đĩa CD người bạn mới cho, liền nói bà xã cho vào máy mở nghe cho đỡ buồn thôi, nhưng không ngờ càng nghe càng thấy thấm thía thích nghe và tìm được niềm vui trở lại dần dần, nhất là anh đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống nhân sinh của con cái Chúa. Có lần anh tâm sự với tôi một cách rất tích cực rằng: Thưa Cha, nhờ bị mù hai mắt thể lý mà mắt tâm hồn con được mở ra, sáng lên và nhận ra đời thật vui tươi như Cha đang thấy nơi con đây. Lạ không, thưa bạn!
Vâng đúng thế, tôi với bạn mỗi người chúng ta đều mang những tật nguyền và bệnh hoạn cả về tâm linh lẫn thể xác, và rất cần được chữa lành để sống khỏe, sống bình an hạnh phúc. Nhưng rất may mắn, loài người chúng ta có một Thiên Chúa là Cha, và Ngài không bao giờ mệt mỏi chữa lành những tật nguyền bệnh hoạn của con cái loài người hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau trên nơi vĩnh phúc cho chúng ta. Bài Tin mừng hôm nay soi dẫn cho biết mọi người chúng ta đều mắc những bệnh mù nguy hiểm, tuy mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể tự hào là tôi không bị mù chút nào. Và tôi có thể tóm lại các bệnh mù thành ba loại như sau:
- Mù trong việc nhận biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình...
- Mù trong việc nhận biết anh chị em của mình trên toàn thế giới.
- Mù trong việc nhận biết chính thân phận mình chỉ là hư vô bọt bèo, tất cả những gì mình có, mình là, mình làm được đều là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho.
Vậy thì, Phải chăng mỗi lần chúng ta làm tôi phụng thờ Chúa,mỗi lần chúng ta tham dự cử hành phụng vụ,mỗi lần chúng ta cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, là mỗi lần chúng ta bớt bị mù hơn về Thiên Chúa là Cha hay yêu thương chúng ta?
Phải chăng mỗi lần chúng ta yêu thương,tha thứ, cảm thông và đối xử tử tế với một trong những người bé mọn của Thiên Chúa, là mỗi lần mắt tâm hồn chúng ta trở nên sáng hơn trong việc nhận ra anh chị em con cùng Cha, cùng Mẹ trên trời với mình?
Và phải chăng, mỗi lần chúng ta hạ mình khiêm tốn, không dám cho mình hơn ai,không dám nhận sức riêng mình có gì, vì tất cả đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho…,là mỗi lần chúng ta bớt bị mù,bớt bị hoa mắt hơn bởi những ảo tưởng muốn cho mình là cái rốn của vũ trụ này?
Thưa Bạn,
Như vậy, có lẽ bạn và tôi cũng cần phải quỳ xuống mà cầu xin: Lậy Chúa xin cho chúng con được thấy, thấy Chúa, thấy anh chị em con,thấy chính mình con…để con dám can đảm sống như chúng con đã thấy.
Đôi khi lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị thử thách, bị cám dỗ,làm cho lời cầu nguyện có nguy cơ bỏ ngỏ dở dang, đứt đoạn vì thấy mãi mà chưa được thẩm nhận, làm chúng ta chán ngán muốn bỏ không tin, không cầu nguyện nữa, thì lúc đó, chính Chúa lại ra tay đích thân an ủi động viên khích lệ ta tiếp tục đi đến cùng của lời cầu nguyện với lòng tin tưởng hơn, như Chúa đã động viên người mù cứ vững tin khi thấy người ta ngăn cản không cho anh ta kêu gào to hơn lên tới Chúa.
Nào bạn và tôi cứ tiếp tục gào lên, cứ tiếp tục gõ chiếc thùng hành khất của chúng ta cho đến khi nào Chúa đổ đầy ân sủng của Ngài vào, cho đến khi chúng ta nghe thấy Ngài nói với chúng ta lời đầy an ủi: “Lòng Tin của con đã cứu chữa con”, bạn nhé! Chúc bạn thành công!
Một nhóm sinh viên tham quan mỏ than Scottish ở Anh quốc. Mỗi người được phát cho chiếc nón TN 30-B109
Một nhóm sinh viên tham quan mỏ than Scottish ở Anh quốc. Mỗi người được phát cho chiếc nón bảo hộ của thợ mỏ, phía trước nón có gắn bóng đèn nối liền với bình điện đeo ngang lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào hầm than tối mịt, nên bảo họ bật đèn lên. Khi đến khu khai thác, người hướng dẫn lại bảo họ tắt đèn hết. Lúc đó họ không thấy gì cả. Và ông ta nói cho họ biết, “Đây là tình trạng bi thảm của những người mù.” Thế là các sinh viên đã hiểu ra bị mù thì khốn khổ vì không thấy được gì cả, như họ đang ở trong cảnh tối tăm này.
2. Thế giới mù lòa
Ông Hosesaramago là văn sĩ người Bồ đào nha đã được giải thưởng văn chương năm 1998. Một trong các tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn “Mù lòa,” diễn tả một thành phố bất thần bị dịch mù lòa như sau:
Người đầu tiên bị mù là một người đàn ông lái xe và chờ đèn giao thông. Một người hào hiệp dẫn ông về nhà rồi chôm luôn chiếc xe của ông. Và anh này cũng mù luôn. Bác sĩ nhãn khoa khám mắt cho anh xong cũng bị mù. Và nạn dịch mù lan tràn khắp thành phố! Người ta phải tập trung những người mù vào bệnh viện. Và cuộc sống của những người mù này chẳng khác nào địa ngục trần gian. Họ căm thù mù lòa, họ căm thù lẫn nhau.
Trong đám người mù lòa có một người nữ giả mù để sống với chồng là bác sĩ nhãn khoa. Bà ta dẫn đám người mù ra khỏi bệnh viện, nhưng cuộc sống của họ ngày càng đau khổ. Họ lạc lõng khắp nơi, không ai biết đường về nhà, chẳng ai giúp đỡ được ai, đường sá đầy rác rến, người chết ngổn ngang! Trong trang cuối của tác phẩm “Mù lòa” khi nạn dịch dứt đi, các nhân vật lý giải như sau, “Tại sao chúng ta mù? Tôi không nghĩ là chúng ta hóa mù. Chúng ta mù mà có thể nhìn thấy, nhưng chúng ta không thèm nhìn thấy!”
3. Người ta quát nạt anh ta
Cách đây mấy năm, có hai người cha mẹ kể lại cái chết của đứa con trai họ, “Thứ năm vừa qua, chúng tôi chôn cất đứa con trai chúng tôi. Câu chuyện xảy ra là hôm thứ ba, nó vào phòng ngủ của nó và tự sát. Nó bắn vào thái dương của nó, viên đạn xuyên qua óc nó và nó đã chết. Nó tên là Mike.”
Tại sao Mike tự sát? Mike có rất nhiều bạn. Nó sống hết tình với bạn hữu nó. Ngược lại các bạn nó cư xử tệ với nó. Chẳng những không đáp lại thịnh tình của nó mà còn hất hủi nó, làm hại nó nên nó buồn phiền tuyệt vọng, mượn cái chết để khỏi còn thấy cảnh con người đối xử tệ bạc với con người như thế.
4. Biết mình mù
Có mấy người mù được yêu cầu mô tả con voi. Dĩ nhiên họ không thể dùng mắt, họ phải dùng tay sờ để mô tả con voi. Người sờ vào lỗ tai voi thì bảo nó mềm, dẹp và không ở yên một chỗ. Kẻ sờ mũi voi thì mô tả nó dài, thon thon và cũng đứng ngồi không yên…
Đúng là mô tả rất thiếu sót, vì không dùng thị giác được. Thị giác giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn. Chính vì thế mà người mù phải sống trong bất hạnh khổ sở. Do đó Chúa Giêsu thương họ, sẵn sàng cứu chữa họ. Nhưng trước khi chữa cho họ, Người muốn họ phải ý thức thân phận mù lòa của họ. Vì thế trong Tin mừng hôm nay, khi người mù Batimaeus đến gần, Chúa Giêsu hỏi, “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (Mc 10:51).
5. Người mù nhìn thấy
Một người đàn bà mù tâm sự: Trước khi bị mù lòa, tôi là một phụ nữ rất tự mãn và độc lập. Tôi làm việc nuôi năm đứa con của tôi. Tôi cũng làm việc thiện nguyện. Nhưng gia đình tôi không được hạnh phúc, nên tôi định ly dị. Nhưng rồi tai nạn xảy đến cho tôi. Bác sĩ bảo phải giải phẫu mới chữa được. Trước khi giải phẫu tôi còn sáng mắt, sau khi giải phẫu tôi phải mù lòa. Giờ đây tôi không còn tính chuyện ly dị được nữa, phải chung sống với người mình không thương. Tôi cố làm việc nội trợ, nhưng chỉ làm rối trật tự trong nhà. Đứa con gái út của tôi xấu hổ vì có người mẹ mù lòa….
Thật là một cuộc sống lầm than cô độc.
Ngày nọ, tôi nói với chồng tôi là tôi muốn đi ra ngoài đổi không khí. Tôi đinh ninh chồng tôi cùng đi với tôi. Nhưng không, tôi một mình đứng ở góc đường. Bỗng có tiếng nói trong tôi, “Ngươi không còn ai. Đã đến lúc ngươi phải tự cứu lấy chính ngươi…”
Thế là tôi lần mò đến trung tâm hồi phục kể cho mọi người nghe câu chuyện của tôi. Ở đây, tôi gặp một người thanh niên mù từ lúc mới sinh. Anh chưa bao giờ biết một bữa tiệc mừng sinh nhật. Tôi về nhà cố làm cho anh một ổ bánh và tổ chức mừng sinh nhật anh ta. Anh thổi những cây nến mà anh không thấy, nhưng chắc chắn anh đã hưởng được niềm vui và tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Thế là tôi mù lòa, nhưng thấy được nhu cầu của người khác. Và tôi cố gắng giúp họ thỏa mãn.
6. Tâm sự của một người mù.
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì ? Cô bạn đáp: "Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
7. Thánh Phanxicô Salêsiô.
Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai ? Một bóng người lạ đi tới và nói:”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng ? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.
8. Chiếc đèn lồng.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:
- Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.
Người bạn trả lời:
- Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:
- Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?
Người kia đáp:
- Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên:”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này: Iesou, Eùleison, Iesou, Eùleison…
9. Tìm thấy mẹ nhờ con mắt tình yêu: Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp lại được mẹ như mẹ đã thấy đó”.
Đức Kitô đáp lại tiếng kêu chữa lành anh mù thành Bartimaeus, và đám đông dân chúng thúc dục anh TN 30-B110
Đức Kitô đáp lại tiếng kêu chữa lành anh mù thành Bartimaeus, và đám đông dân chúng thúc dục anh can đảm lên, đừng sợ, Đức Kitô gọi anh đó. Can đảm thay cuộc đời, đổi lối sống, làm lại từ đầu. Can đảm dứt bỏ quá khứ hướng về tương lai tràn đầy hy vọng, tình yêu Chúa.
Đổi đời
Trước khi Đức Kitô đáp lại tiếng anh kêu cứu, người ta đã ngăn cản anh đến với Đức Kitô, người ta cấm không cho anh lên tiếng. Anh càng kêu to hơn và Đức Kitô đáp lại tiếng anh nài van. Lời nói của Đức Kitô có sức mạnh thay đổi tâm can con người. Lời Chúa thay đổi tâm can anh mù, thay đổi tâm can đám đông. Lời Chúa có sức mạnh chấm dứt đau khổ anh mù đang gánh chịu. Sức mạnh Lời Chúa mở mắt anh mù, chấm dứt chuỗi ngày tăm tối. Anh mù mắt sáng bước đi trong ánh sáng bình minh, anh không còn phải ngồi vệ đường xin ăn. Anh tự làm nuôi sống mình. Anh bước đi trong sự thật, trong ánh sáng Lời Chúa và trở thành môn đệ Đức Kitô, bước đi theo Ngài. Mọi nơi anh đều thuật lại việc lạ lùng Đức Kitô làm cho anh. Trước đây anh không có bạn bè, chỉ có những người thương hại cho anh cơm bánh. Trở thành môn đệ Đức Kitô anh có nhiều bạn bè, tông đồ Chúa, đám đông theo Ngài và những ai tin vào Ngài. Anh trở thành phần tử trong công đoàn đức tin Kitô.
Tương lai bừng sáng
Từ giã cuộc sống tối tăm, không còn ăn vận rách rưới như xưa, thay áo mới nhìn anh sáng sủa, mặt tươi vui, hớn hở. Đầu tóc chải tươm tất, anh đi đứng khoan thai, đầu cao, mắt sáng, hãnh diệnt rở thành môn đệ Đức Kitô. Đời anh thay đổi hoàn toàn, anh biết thưởng thức vẻ đẹp của nắng sớm, mắt tròn xoe nhìn nắng chiều và ca tụng vẻ đẹp thiên nhiên mà trước đây anh không hề được thưởng thức. Tương lai anh sáng vực với hy vọng tràn trề bởi từ nay anh có Đức Kitô chỉ đạo, dẫn đường và ban cho anh sự sống mới. Gặp gỡ Đức Kitô anh từ người vô danh trở thành lừng danh bởi bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng chuyện riêng đời anh trở thành chứng nhân tình yêu và lòng thương xót vô biên Chúa dành cho anh.
Nhìn bằng mắt đức tin
Anh mù là mẫu mực người lắng nghe sinh động. Anh chưa hề nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh nghe nói về Ngài và nhớ những điều anh nghe được. Dù không nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh biết Ngài sanh trưởng nơi Nazareth, con vua Đavít và Ngài có sức mạnh thần thiêng trên các bệnh tật. Anh nghe biết Ngài sắp đi qua nơi anh đang xin ăn và lên tiếng kêu cầu. Lời cầu của anh rất đơn sơ. Lậy Ngài, xin cho con mắt được sáng. Đơn giản trong lời cầu, mạch lạc, rõ ràng xin điều anh mong mỏi, ước ao.
Người mù mở mắt chúng ta học biết con mắt đức tin nhìn thấy Chúa trước con mắt xác thịt. Anh mù nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài trước khi Ngài mở mắt anh. Anh dùng mắt xác thịt chiêm ngắm vẻ đẹp kì công sáng tạo của Chúa. Kì quan trần thế củng cố đức tin nơi anh. Chúng không ban cho anh niềm tin nhưng làm cho niềm tin của anh vững mạnh hơn. Đức tin anh có trước khi nhìn thấy kì công của tạo hoá. Đức Kitô đã nói với anh. Đức tin anh đã mở mắt anh và điều anh xin cho mắt sáng được toại nguyện bởi anh có lòng tin vào Ngaì. Anh nhận biết Đức Kitô nhờ con mắt đức tin và con tin yêu mến nồng nàn trước khi nhìn thấy bằng con mắt xác thịt.
Con đường tin theo Đức Kitô không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thẳng tắp, thênh thang. Thực ra TN 30-B111
Con đường tin theo Đức Kitô không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thẳng tắp, thênh thang. Thực ra con đường theo Chúa có lúc nọ, lúc kia, khi thẳng, khi cong. Đức Kitô xác nhận con đường Ngài chọn đi là con đường có cửa hẹp. Đường dẫn vào cửa hẹp dẫn đến sự sống. Mt. 7,13.
Dù đường đời hay đường theo Chúa. Con đường nào cũng có lúc quanh co, khi uốn khúc. Có đoạn chênh vênh sườn núi. Có đoạn gập gềnh khúc khuỷnh ẩn sau cánh rừng. Lại cũng có đoạn vắt ngang cánh đồng xanh, bao la, bát ngát, đây đó có chim kêu, kia nọ có bướm lượn. Dù thung lũng sâu hay trên đỉnh non cao, đường có lúc trong sáng, gió nhẹ bay. Khi khác lại mù sương, gió buốt, thốc từng cơn. Khi trong sáng trước mắt hứa hẹn một tương lai rực rỡ, khi mây đen bao phủ, tương lai mù mờ.
Song song với đường đời, người Kitô hữu còn có đường thiêng liêng dành riêng cho những ai nối gót Đức Kitô. Tự nguyện bước trên đường này sẽ nhận được ơn riêng Chúa ban. Ngài ban ơn hỗ trợ, nâng đỡ, khuyến khích, mời gọi Kitô hữu cùng nâng đỡ, dìu nhau tiến bước. Nếu có ai không may trượt chân, mệt mỏi, vấp ngã hãy đỡ nâng, giúp họ tiếp tục tiến bước.
Đường thiêng liêng
Chúa không tạo dựng đường riêng cho từng Kitô hữu. Ngài mời gọi Kitô hữu nhập thế, đi chung đường đời. Đã làm người ai cũng trải qua đường đời. Kitô hữu nhập thế để trở thành muối, thành men ướp đời. Nói cách khác, Kitô hữu vừa chung đường đời vừa có nhiệm vụ làm người chỉ đường, linh đạo cho nhân thế.
Cần biết rõ con đường mới có thể chỉ đường rõ ràng, mạch lạc. Không rõ con đường sẽ chỉ mông lung, lơ mơ. Cả hai đều lạc. Đường tâm linh soi sáng, hướng dẫn đường đời mà không thể ngược lại. Chúa soi sáng, dẫn đường tâm linh. Đây là đường vĩnh cửu, luôn đúng. Trào lưu xã hội chỉ đạo đường đời. Trào lưu thường có thời. Hết thời trào lưu chết, đường theo trào lưu cũng chết theo. Vững tin, hèn tin
Chọn đường đời hay đường tâm linh đều không tránh khỏi lo âu, phiền muộn. Mạnh tin, coi lo âu, phiền muộn là cơ hội dẫn đến gần Chúa hơn. Gian truân, thử thách giúp cảm nghiệm rõ tình yêu Chúa. Cảm nghiệm Chúa luôn hiện diện, gần gũi, chia sẻ mọi biến cố trong đời.
Một khi Kitô hữu cảm nhận rõ ràng tình yêu Chúa dẫn dắt trên đường khi nguy khó người đó trở nên quyết tâm, bám chặt vào Chúa, vững tâm, không sờn lòng trước chông gai, bão tố. Đời lắm gian truân, đức tin và lòng thành càng lộ tỏ vững chắc. Tin theo mà không tính toán hơn thiệt.
Trái lại kém lòng tin thường coi lo âu, phiền muộn là chướng ngại. Thiếu phó thác vào Chúa. Cậy sức riêng giải quyết thử thách, nguy nan. Tin mà thiếu phó thác. Tâm tình lạnh nhạt, hay nản lòng. Tin giai đoạn, lúc tin, lúc không. Tìm cách trốn chạy đau thương, phiền muộn. Vừa chạy vừa than, trách. Cuống lên, chạy quanh. Chạy quanh chẳng tới đích. Hoạ may gặp đường cùng. Đường cùng không lối thoát nên bất mãn. Vì bất mãn nên coi thường, thờ ơ cầu nguyện. Tất cả đều do yếu kém đức tin gây ra.
Đức tin không trưởng thành so với tuổi đời. Đức tin không lớn so với thời gian tin theo. Đức tin trưởng thành nhờ sống bác ái, yêu thương, sống đời thánh thiện.
Chỉ đạo
Vì có đường nên cần có người chỉ đường, hướng dẫn cách đi, lối đi. Đức Kitô tự nhận Ngài là con đường.
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Ga 14,6
Chọn con đường Chúa đi, chọn Ngài làm Đấng chỉ đạo bảo đảm chọn đúng đường. Chúa vừa là con đường cho con tiến đi vừa là Đấng chỉ đạo cho con tiến bước. Con đường Ngài chỉ đạo là sự thật. Trong sự thật luôn chứa mầm sống, sự sống. Đường Chúa hướng dẫn là chân lí, sự thật, mang lại sự sống vĩnh cửu.
Mù sương
Niềm tin tôn giáo không thể chết, nhưng có thể lu mờ, sống tình trạng mù sương. Tâm hồn mù sương đáng thương hơn đáng trách vì luôn sống trong tình trạng ngờ vực, lo âu, sợ sệt. Sợ niềm tin Kitô không bảo đảm được hạnh phúc nên nhờ vật chất bảo vệ. Mù sương thường nhập nhằng giữa linh đạo và đường đời. Để quyền lợi, danh vọng, đường đời hướng dẫn, chỉ đạo tâm linh.
Kẻ khai sinh câu ‘tốt đời, đẹp đạo’ tạo hoả mù cho tôn giáo. Hoả mù vì mỗi chính quyền định nghĩa đời một kiểu. Cần phải xác định loại đời nào. Không phải hễ tốt đời là đẹp đạo cả đâu. Kẻ phản đạo vẫn có thể làm tốt đời. Trái lại, tâm hồn thánh thiện không bao giờ làm hại đời. Nếu hại sao có thể gọi là thiện tâm, là lành thánh. Câu nói chính xác là tốt đạo sẽ đẹp đời. Ngược lại đẹp đời chưa chắc tốt đạo.
Tốt đời, đẹp đạo là sai. Câu này không đúng. Nét đẹp của đạo thể hiện một cách trọn vẹn, trong sáng khi tôn giáo có tự do thực sự. Tôn giáo phục vụ, làm tốt hơn đời sống con người. Tôn giáo sống gò bó trong khuôn khổ của đời. Tôn giáo đạt mục đích làm đẹp. Lạm dụng nét đẹp tôn giáo để khoe với đời, với người. Tôn giáo ích chi cho con người.
Một tâm hồn công chính, thánh thiện là nhờ sống niềm tin. Lạm dụng niềm tin chỉ có thể xảy ra cho kẻ thiếu đức tin và kẻ không niềm tin.
Vài ngày trước đây, thức giấc là mắt trái mở không lên vì ướt và ghèn! Khó chịu vô cùng và hỏi thăm TN 30-B112
Vài ngày trước đây, thức giấc là mắt trái mở không lên vì ướt và ghèn! Khó chịu vô cùng và hỏi thăm bác sĩ quen về mắt để bác sĩ cho thuốc nhỏ đỡ vì chưa có dịp về thành phố. Có công có việc gì mới đi để kèm theo chứ chẳng lẽ con mắt đau một tí là chạy về. Chạy đi chạy về vừa mệt vừa tốn tiền xe nữa.
Con mắt có vẻ thốn và khó chịu vô cùng. Có lẽ, cảm nghiệm này không phải của riêng người bệnh này nhưng là cảm nghiệm của những ai đã hơn một lần đau mắt.
Đau mắt thôi đã thấy khó chịu như vậy mà nếu như khi ta khiếm thị, ta không nhìn thấy đường, không nhìn thấy vật thể trước mặt ta nữa thì khó chịu biết bao.
Mẹ cho đôi mắt sáng ngời, để nhìn đời và để làm duyên
Trời cho em con mắt màu đen để thương để nhớ để ghen để hờn
Đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn,
là bài ca hay nhất, là tuyệt tác của thiên thu.
Con mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là cửa sổ để thu tất cả những hình ảnh, những cảnh vật vào tâm hồn con người. Và vì thế, con mắt phải nói đóng vai trò rất quan trọng trong cơ thể của con người. Con mắt đui mù quả là khiếm khuyết lớn cũng như làm cho con người bị giới hạn và thiệt thòi nhiều.
Ngày hôm nay, ta bắt gặp hình ảnh anh chàng mù thành Giêricô con ông Timê tên là Bartimê. Anh ta mù nhưng may mắn là anh còn nghe được. Vì mù, chẳng biết làm gì và cũng chẳng làm gì nên chỉ còn cách duy nhất là ăn xin. Đang ngồi ăn xin nhưng anh nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi".
Thấy anh kêu như vậy và vì anh là người khuyết tật nên người ta ăn hiếp anh và ta bắt gặp nhiều người mắng anh bảo im đi. Trước thái độ của những người sáng mắt ngăn cản, anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi".
Hẳn nhiên là lời kêu của anh đã đến tai Chúa Giêsu, không chỉ tai mà còn đập vào mắt Chúa Giêsu hình ảnh của một con người khuyết tật để rồi Chúa Giêsu không đi nữa mà đã dừng lại và truyền mọi người gọi anh đến. Đơn giản, Chúa Giêsu nói với anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Nghe Chúa Giêsu nói và anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.
Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Được, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
Quá tuyệt vời! Anh mù đã thấy và đã đi theo Ngài.
Dừng lại một chút vì ta choáng. Ta phải đưa ta trở về với thực tại Tin Mừng ngày hôm đó ta mới cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa, của phép lạ mà Chúa Giêsu làm.
Quá sức tưởng tượng với niềm tin của anh chàng Bartimê.
Và, ta cũng có dịp nhìn lại niềm tin của ta.
Niềm tin của ta dường như nó sao sao í! Và nhất là khi ta đủ hai con mắt sáng và rất sáng nữa. Giản đơn là Chúa ban cho ta đôi mắt sáng đó nhưng ta có cảm nhận được đó là quà tặng, là ơn của Chúa đâu. Nếu có thì ta đã cảm nhận và cảm tạ chứ đâu có ai oán là sao Chúa để cho con thế này thế kia? Chúa cho sáng mắt, đó phải chăng là một hồng ân, một quà tặng quá lớn của Chúa không?
Sáng con mắt nhưng mù tâm hồn. Chính vì mù tâm hồn nên đâu có nhìn thấy được ơn Chúa.
Bài hát mà Cha Bạch Văn Lộc khi còn sống rất thích hát và mời mọi người cùng hát. Khi đó, còn bé, nghe thì nghe, hát thì hát đó nhưng cũng chưa hiểu tâm tình của Cha cố Henry:
Lạy Chúa, xin mở mắt con Biết nhìn kỳ công của Ngài Trời xanh, tinh tú long lanh Hoa ngàn cùng muôn muông thú Ðồi kia ai đắp nên non Sông dài, trùng dương mênh mông Biết rằng Ngài đã thương con Thế mà con đâu có hay! EPHATA Hãy mở! Mở ra! EPHATA Hãy mở ra! EPHATA, EPHATA
Ta phải xin Chúa mở con mắt ta để ta thấy kỳ công của Chúa, kỳ diệu của Chúa ít là ngay bên đời ta thôi.
Thử nhìn lại đi, cách đây 10 năm, 20 năm, 30 năm... cuộc sống của ta như thế nào? Ngày nay ta có nhiều lắm đó chứ! Nhìn lên ta không bằng ai nhưng khi nhìn xuống ta lại chợt thấy có nhiều người không may mắn như mình.
Ở gần Mẹ, mỗi tuần lại được nhìn thấy những lời khấn, những lời xin của con cái Mẹ từ khắp nơi về lại thấy có điều gì đó man mác buồn.
Mẹ ơi! Xin Mẹ cho con được ơn, được tiền để trả nợ Mẹ ơi! Chồng của con vướng vào ma túy, xin Mẹ cho anh ơn hoán cải. Mẹ ơi! Con của con mê chơi game, xin Mẹ cho con của con đừng mê game nữa.
Mẹ ơi! Mẹ ơi...
Nhìn lại mình, dĩ nhiên vẫn còn đó những chứng bệnh như rối loạn tiền đình, như viêm tai... nhưng, vẫn may mắn là còn tiền và có tiền để đi khám và chữa bệnh. Cũng như may mắn hơn nữa là có người này người kia là nhân viên ở các bệnh viện thấy khờ khờ từ quê lên tỉnh nên chỉ vẽ, hướng dẫn cho để khỏi bị la. Vào bệnh viện, dễ bị người này người kia ăn hiếp vì khờ khạo lắm vì nhà quê lên tỉnh.
Nhìn lại thì thấy sao Chúa thương mình và không xin cho mình hết bệnh mà xin cho mình đủ sức để gánh bệnh và gánh bệnh cho biết với người ta.
Nói đến đây lại nhớ có vài lần vào bệnh viện, người quen dù biết mình bận rộn, dù cũng thương và lo cho mình đó nhưng lại bảo là cứ chờ để cho biết người người nghèo!
Hay! Đúng! Có khi phải chờ, phải đợi như thế mới có cái cảm của người nghèo chứ không thì không có cơ hội để cảm cái khó khăn của người nghèo khi vào bệnh viện.
Và cũng vui là có lần vào viện, tưởng là được khám ngay nhưng không, bị vịn lại vì huyết áp cao quá. Nhân viên bảo là nhiều khi được thương chưa hẳn là tốt, mấy em nó đưa đi vội vội và lên cầu thang nên huyết áp cao mà cái huyết áp này là huyết áp giả nên rất khó để khám bệnh.
Thế đó, phải chờ, phải đợi để có cái cảm với người nghèo, người khác.
Đời ta, ta may mắn, ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng đôi mắt của ta vẫn không thấy, vẫn chưa thấy. Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hổi nỗi đau là gì, ngày nào trong khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin, chỉ cần một ly nước thôi, chỉ cần bát cơm vơi...
Ta còn may mắn, ta con hạnh phúc hơn nhiều người nhưng con mắt đức tin của ta khép lại, mù quáng vì ta chạy theo vất, của thế gian và phù hoa. Khi ta để cho tiền của, quyền lực, danh vọng lâp đầy lòng ta, lấp đầy mắt ta thì khi đó ta không còn thấy Chúa nữa. Và khi đó, ta lại thủ thỉ, thỏ thẻ với Chúa:
Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt, Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi. Con mù lòa, bên vệ đường hành khất, Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.
“Con muốn Ta làm gì cho con?” “Lạy Thầy xin cho con được thấy”.
Một linh mục bạn của tôi bị bệnh ung thư. Trong thời gian điều trị bệnh bằng hóa chất (chemotherapy), TN 30-B113
Một linh mục bạn của tôi bị bệnh ung thư. Trong thời gian điều trị bệnh bằng hóa chất (chemotherapy), ngài bị mất khẩu vị. Vì muốn ăn để có sức đề kháng chống lại bệnh, ngài thường nghĩ tưởng về các món ăn hầu gia tăng khẩu vị đã bị tê liệt do hóa chất gây ra. Sau khi xuất viện, ngài ngồi nghĩ về món gà luộc chấm muối chanh, và quyết định ra siêu thị mua gà về ăn. Ngài luộc tất cả 3 con gà đã mua với ý nghĩ lạc quan và vui vẻ rằng sẽ ăn được càng nhiều càng tốt. Sau khi dọn gà lên bàn, ngài chỉ ăn được có một cái đùi gà mà thôi, rồi ngồn nhìn 3 con gà luộc phì cười mà nói: “Con gà trong đầu mình sao nó ngon thế, còn những con này sao nó giống vỏ cây trộn với nước sình!”
Đa số chúng ta đã từng kinh nghiệm, ở một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta muốn có ngay một cái gì hay một điều gì và thưởng thức liền. Chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để có nó, Nhưng khi được rồi, chúng ta lại bị mắc cạn trong chính những ước muốn của mình, không thỏa mãn, ngong ngóng kiếm tìm cái khác và sau cùng bị rơi vào một tâm trạng trống rỗng! (Rm 13:14; Gl 5:16).
Để không trở thành nô lệ cho lòng ham muốn của mình, chúng ta nên tự hỏi cái mình muốn có phải là ý muốn của Thiên Chúa (1TX 4:3), là Đấng đã hứa rằng khi chúng ta cầu nguyện nhân danh Ngài, Ngài sẽ nhận lời chúng ta không? Và trong bài Phúc âm hôm nay, Mc. 10:46-52, Chúa Giêsu đã làm điều này. Ngài nghe lời thỉnh cầu của người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Nhưng trước khi đáp lại ước nguyện của anh, Chúa Giêsu đặt cho anh một câu hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Tại sao Ngài lại hỏi câu hỏi này?
Câu hỏi này nghe giống như câu hỏi của linh mục hỏi cha mẹ mang con cái đến xin chịu phép rửa tội: “Ông bà hay Anh chị xin Hội thánh cho cháu điều gì?”
Theo linh mục Eugene Laverdiere, câu chuyện phúc âm hôm nay là đoạn kết luận của một phần khá dài và quan trọng trong phúc âm của Máccô, từ chương 8:22 đến chương 10:52. Chúa Giêsu nói ám chỉ về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài, cũng như của những ai muốn bước theo ngài. Phần thứ nhất (8:31-9:29): sự hy sinh phải có cho những ai muốn làm môn đệ ngài. “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8:34). Phần thứ hai (9:30-10:31): liên hệ đến sự phục vụ trong cộng đoàn. “Ai muốn là người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (9:34). Phần thứ ba (10:32-46): những đức tính để lãnh đạo trong cộng đoàn Kitô giáo. “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (10:38).
Kết hợp ba phần lại với nhau sẽ trình bày những đòi hỏi cần thiết cho những ai muốn đáp lại lời Chúa kêu mời để tạo thành người Kitô Hữu và được thanh tẩy trong phép Rửa tội. Câu chuyện anh mù Bartimê được Chúa Giêsu chữa lành có hai phần: anh mù đã được Chúa gọi như thé nào và anh đã đáp lại ra sao. Đây là câu chuyện của ơn kêu gọi để trở nên một người Kitô hữu. Câu chuyện của Phép Rửa Tội.
Theo Chúa Giêsu là chấp nhận thử thách. Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem bước vào cuộc thương khó và sống lại. Anh mù ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe danh tiếng đồn thổi về Chúa Giêsu, anh la to: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Chúa Giêsu đã gọi anh lại.Anh vứt bỏ áo choàng, đứng dậy, đến với Chúa. Anh đã xin được nhìn thấy và đi theo Ngài cùng với các môn đệ trên đường lên Giêrusalem.
Anh mù được nhắc rõ tên là Bartimê, con ông Timê. Theo các nhà chú giải thánh kinh, đây là chỗ duy nhất rong Phúc âm nhất lãm – Maccô, Mathêu , và Luca – nhắc đến tên người được chữa lành. Sự nhấn mạnh bất thường đến tên người được chữa lành này ắt phải có một ý nghĩa.
Trong ngôn ngữ cổ của các sắc dân ở vùng ĐịaTrung Hải, một tên gọi không phải chỉ là một nhãn hiệu để nhận dạng một người, nhưng còn diễ tả cái nhân cách hay số mệnh cuả người đó. Theo tiếng Aramaic, Do Thái cổ, “Bartimaeus”, Bartimê có nghĩa là “người con trai, hay người ô uế.” Đây người ăn xin bị mù. Quan niện bình dân của người Do Thái cho rằng mù là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi hay sự ô uế (Ga 9:34).
Nhưng theo tiếng Hy Lạp, “Bartimaeus” cũng có thể hiểu là “người con trai, hay người vinh dự”. Nó chỉ cái bản chất và số phận nội tâm của một người. Với một tên mang hai ý nghĩa, Máccô có lẽ muốn nói với chúng ta rằng đây là một con người đáng được vinh danh nhưng đang sống trong một tình trạng bất hạnh. Và điều mà Chúa Giêsu đã làm cho anh, không phải chỉ là phục hồi cái nhìn thể lý, nhưng trên hết mọi sự, Ngài phục hồi cái phẩm giá và số phận đời đời của anh. Đây chính là ý nghĩa lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (10:51).
Thật vậy, khi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu gần tiến tới giai đoạn cuối cùng rồi mà các môn đệ vẫn chưa nhận ra sứ mạng của ngài là gì. Phêrô, các môn đệ và dân chúng giống như những người mù, có mắt để nhìn nhưng vẫn không thấy (8:18). Họ cần phải được chữa khỏi sự mù lòa tinh thần, để nhìn ra giá trị của ơn cứu rỗi qua cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu.
Bà Helen Keler, một người mùa, câm và điếc, rất nổi tiếng với đời sống đức tin gương mẫu và mạnh mẽ, nhân ngày ra trường tốt nghiệp đại học đã nói: “Thà bị mù và nhìn bằng con tim còn hơn là có hai con mắt và chẳng nhìn thấy sự gì cả.”
Nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi, anh mù Bartimê đã vứt bỏ áo choàng, đếng dậy, đến với Chúa. Trong phúc âm của Maccô (1:6) cũng như trong nhiều văn hóa áo choàng được kết hợp mật thiết với tư cách của một con người. Nó giống như tấm thẻ căn cước giúp nhận rạng ra một người là ai. Để bước theo Chúa Giêsu, Bartimê đã phải cở bỏ chiếc áo cũ, biểu tượng của con người cũ, cách sống cũ.
Từ thời giáo hội sơ khai, mặc chiếc áo mới trong nghi thức Rửa tội đóng một vai trò biểu tượng rất quan trọng đối với người Kitô Hữu. Theo sách Giáo Lý Công giáo, số 1243: “Y phục trắng tượng trưng cho sự người lãnh nhận phép Rửa tội ‘đã mặc lấy Chúa Kitô’” (Gl 3:27).
Chiếc áo trắng diễn tả một sự thay đổi sâu xa trên ba bình diện: Xét về hữu thể học hay nhân chủng học, sự thay đổi được diễn tả qua sự chết và sống lại, sinh ra và tái sinh. Xét về tâm lý, sự thay đổi được diễn tả qua những hình ảnh của ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng. Xét về luân lý, nó diễn tả một sự biến đổi trong cách sống đạo đức và thánh thiện, trong lời nói, tư tưởng và hành động. Ở cả ba bình diện, phép Rửa Tội đưa một người từ bên này sang bờ bên kia, từ sự mù lòa của đêm tối tội lỗi qua ánh sáng của sự sống con cái Thiên Chúa (GLCG #1213, 1265).
Trong ý nghĩa này, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Như chúng ta biết, người mù là người đi xin ăn để sống. Sự mù lòa là lý do duy nhất để anh kiếm tiền. Hiển nhiên là người mù ngồi bên vệ đường để xin tiền. Có người mù nào lại ngồi xin khách qua đường cho được nhìn thấy không? Nếu có thì ắt hẳn người đó phải mang một ý muốn phi thường, một quyết tâm lớn lao, một ước muốn mà ít có người mù nào dám mơ ước, vì nó đã vượt ra ngoài khả năng của con người. Một ước muốn dựa trên niềm tin vào một Đấng Tối Cao. Do đó, khi Chúa Giêsu hỏi anh, câu hỏi của Ngài đã hàm ý: Anh có muốn tiền không? Hay là muốn được nhìn thấy? Anh có muốn mất tất cả mọi sự trong đời để chỉ lấy một điều tốt lành thôi không? Anh có muốn nhẩy vào một thế giới mà anh không biết, nhưng lại là thế giới tốt hơn không? (Pl 1:23).
Có lần tôi vào thăm một trại cùi. Trước khi đến trại phải qua một khu phố chợ đông đức và kẹt xe, vì những người buôn bán và ăn xin lấn chiếm lòng đường. Nhìn thấy những người cùi ngồi ăn xin trên đường, tay chân băng bó với những vết máu đỏ, ruồi nhặng bu quanh thật ghe tởm, tôi quay sang hỏi một nhân viên làm việc trong bệnh viện cùi: “Bệnh cùi bây giờ đã chữa được chưa?” Anh cho biết với ngành y họchiện nay, bệnh viện đã có đủ thuốc chặn đứng được bệnh cùi rồi, nghĩa là bệnh cùi có thể chữa được. Nhưng còn bệnh cùi tinh thần thì vãn chưa “khắc phục” được. Có nhiều người cùi tuy đã đượckhỏi bệnh rồi, nhưng vẫn nguỵ trang bệnh cùi bằng cách băng bó tay chân, lấy cá chết thối giã ra đắp lên cho ruồi nhặng bu lại, lấy thuốc đỏ bôi vào… để xin tiền! Xin tiền bằng bệnh cùi đã trở nên một nghề nghiệp để sống, mặc dù đã khỏi bệnh nhưng vẫn không muốn vượt thoát ra khỏi cái lợi lộc vật chất do bệnh cùi mang lại. Họ bị bênh cùi tinh thần!
Anh mù Bartimê này thất khác thường! Anh không muốn tiền! Lời cầu xin của anh lại chẳng vĩ đại hơn lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan, hai môn đệ đã muốn xin Chúa cho một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong vinh quang của Ngài hay sao? (Mc 10:35-45). Anh lại không tốt hơn chàng thanh niên giàu có đến hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời và sua cùng htì buồn bã bỏ đi vì ham mên của cải trần gian sao? (Mc 10:17-22).
Hôm nay nếu Chúa hỏi chúng ta: con muốn gì? Một cách thành thật chúng ta sẽ trả lời ra sao? Giống như Giacôbê và Gioan, con muốn ngời bên hữu, bên tả, chỗ quyền lực tối cao trên thế giới này? Giống như người thanh niên giàu có, con cũng muốn giữ lại của cải trần gian? Con muốn xin những sự mà trong đời con chưa bao giờ thực hiện được? Con muốn có những cái mà con chưa bao giờ có?...
“Con muốn Ta làm gì cho con?” Đây chính là câu hỏi phải suy nghĩ. Khi cầu nguyện: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện đó chỉ là một điểm nhỏ trong lời cầu nguyện của chúng ta, hay đó chính là lời cầu nguyện của cõi lòng ta? Thiên Chúa không phải là ông Già Noel – Santa Claus thích cho quà. Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ vui vẻ mà thôi, nhưng ngài muốn chúng ta nên thánh (Dt 12:14). Tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta hay từ chối đều nhắm vào mục đích tối thượng này.
Chúng ta cứ tiếp tục cầu xin Chúa, nhưng không thể xem Chúa như “cái thẻ rút tiền ATM” – a divine ATM. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, và muốn ban cho chúng ta nhiều hơn là lòng chúng ta mong ước.
“Con muốn Ta làm gì cho con”? Một Thiên Chúa đầy hồng ân đang chờ đợi câu trả lời của chúng ta mỗi ngày.
Con mắt là cửa sổ tâm hồn. Nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ TN 30-B114
Con mắt là cửa sổ tâm hồn. Nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ trong tâm hồn người đó. Ánh mắt cũng có một “dòng điện” đặc trưng, người nào “yếu” sẽ chuyển ánh mắt nhìn sang hướng khác, nghĩa là “yếu vía” hơn người kia. Vì thế mà cũng là ánh mắt nhưng có nhiều cách nhìn khác nhau: Nhìn thẳng, nhìn xiên, nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lấm lét, nhìn trộm, nhìn kín đáo, nhìn lộ liễu, nhìn thán phục, nhìn khinh bỉ, nhìn chân thật, nhìn đểu cáng,…
Cũng với một vấn đề, một sự vật hoặc một con người, nhưng mỗi người đều có cách nhìn khác nhau. Cố NS Trịnh Công Sơn có cách nhìn thế này: “Còn hai con mắt, khóc người một con. Còn hai con mắt, một con khóc người” (Con Mắt Còn Lại), và ông còn diễn tả con mắt bằng nhiều kiểu: “Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn, Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh căm. Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàng, Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn, Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin, Những con mắt quầng thâm, Xin tươi sáng một lần…” (Những Con Mắt Trần Gian).
Với người Đông phương cổ đại còn có “con mắt thứ ba”, gọi là “thiên nhãn” (*). Với người có niềm tin tôn giáo nói chung, và với người Công giáo nói riêng, còn có “con mắt đức tin” – một loại “thiên nhãn”. Quả thật, chỉ với con mắt mà cũng có thiên hình vạn trạng!
Con mắt nhìn khiến lòng tham trỗi dậy. Lòng tham có thể ẩn núp tinh vi: Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh. Chưa có “cơ hội” chưa biết ai thật thà hay tham lam. Có những tài xế taxi phát hiện khách bỏ quên trên xe vài chục triệu mà vẫn trả lại khổ chủ, đó mới là người trong sạch – sạch từ ánh mắt. Sách Huấn Ca xác định: “Bạc tiền khiến cho bao người sa ngã, thế nào cũng đưa họ đến hư vong. Nó là cái bẫy cho ai say mê nó, hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào” (Hc 31:6-7). Ai cũng cần tiền, nhưng tiền không là tất cả, cần mức nào và có “nặng lòng” với nó hay không lại là chuyện khác. Tiền chỉ là phương tiện, không là mục đích. Tiền là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu (Tục ngữ Pháp – L’argent est un servant bon mais un maitre mal).
Sách Huấn Ca nói: “Phúc thay ai giàu có mà vô tội, không chạy theo của cải, tiền tài” (Hc 31:6). Đó mới là vấn đề. Đừng tưởng nghèo thì được chúc phúc. Nghèo mà không sạch thì cũng vô ích: Lòng bẩn! Nghèo mà vẫn tham thì không thể vô tội, và tất nhiên không thể biện hộ. Quả thật, không dễ chút nào! Đừng nói hay, có dịp tham mà không tham đó mới là trong sạch. Người đó (giàu hay nghèo) được khen là có phúc, vì trong dân, người đó khiến cho bao người phải tâm phục khẩu phục qua cách sống.
Người có tâm hồn trong sạch như vậy hẳn là người sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa, dù trong nghèo khổ hoặc cơ cực thì họ vẫn một lòng tín trung với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” [Tv 125 (126):2]. Quả thật, việc Chúa làm thật vĩ đại và vô song. Chính người đó thấy mình chan chứa một niềm vui, vui vì sống thanh thản trong Ơn Thánh Chúa.
Đời là bể khổ. Không ai lại không khổ. Khổ nhiều cách. Khổ nhiều mức. Sinh ra là bắt đầu khổ. Đôi khi có người còn khổ chồng chất, khổ tới chết vẫn không được một ngày sung sướng. Nhưng vấn đề là ở lòng kiên trung trong niềm tin vào Thiên Chúa ngay trong những nỗi cơ cực nhất, chắc chắn Chúa sẽ thương: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” [Tv 125 (126):5]. Muốn tín trung thì phải dùng đến con mắt đức tin. Vững đức tin trong khốn khổ cùng cực có lẽ chưa ai bằng Thánh Gióp.
Thầy dạy đức tin là Đại sư phụ Giêsu. Chúng ta có đức tin là nhờ Ngài. Vì thế, chúng ta sống đức tin là minh chứng cho Thiên Chúa, không được giữ đức tin đó cho riêng mình mà phải truyền đức tin sang cho người khác. Đó là một nhiệm vụ chung, nhất là trong Năm Đức Tin này với chủ đề Tân Phúc Âm hóa. Truyền đức tin sang người khác cũng là một cách truyền giáo mới trong thế giới ngày nay, vì người ta càng ngày càng không muốn sống đức tin nữa!
Những người được tuyển trạch để lãnh nhận chức tư tế thừa tác càng có trách nhiệm nặng nề hơn trong việc loan truyền đức tin. Thánh Phaolô nói: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Đúng vậy, trước khi làm tư tế thì vẫn phải làm con người, với mọi thứ của một con người bình thường. Người đó phải “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:2-3). Và vì thế, “không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi” (Dt 5:4). Thế nhưng trong thực tế lại khác, đúng như người Việt thường nói: “Cờ đến tay ai người đó phất”. Câu nói giản dị và nhẹ nhàng nhưng vô cùng thâm thúy! Thế nên, có khi người ta sống ngược với lời Đức Kitô: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).
Thánh Phaolô chỉ ra rõ ràng: “Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:5-6). Đức Kitô còn chưa tự xưng mình là “ông kia, ông nọ” thì huống gì chúng ta, nhưng phàm nhân đầy tội lỗi, bất trác và bất túc.
Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Ngài cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:47). Thấy vậy, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:48).
Chúng ta thấy có hai thái cực rạch ròi: Những người quát nạt Batimê là những người ngăn cản người khác đến với Chúa Giêsu, còn anh mù Batimê đại diện cho những người có niềm tin kiên vững. Có nhiều khi chúng ta cũng đã từng ngăn cản người khác đến với Chúa bằng nhiều cách, dù không nói trực tiếp. Chẳng hạn chúng ta mỉa mai hoặc chê bai khiến người ta ngại đến với Chúa. Chúng ta phải học tập anh Batimê trong việc tín thác vào Chúa, như ca dao Việt Nam nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Và “chiếc kiềng” đó là: Thỉnh cầu, Tín thác, Thực hành. Có thể gọi tắt là 3T cho dễ nhớ.
Nghe Batimê gào to, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10:49a). Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10:49b). Nghe nói vậy, anh quá phấn khởi nên liền vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10:51a). Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51b). Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10:52).
Sự việc diễn ra nhanh chóng, ngắn gọn. Điều đáng lưu ý là Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến LÒNG TIN, nghĩa là “đức tin quan trọng hơn phép lạ”, nhưng người ta lại thường “khoái” phép lạ hơn tầm nhìn của đức tin. Nếu vậy, đó là chứng “mù đức tin”. Chứng mù tâm linh nguy hiểm hơn chứng mù thể lý. Do không hiểu rõ, không biết nhiều hay không chịu hiểu? Đó là điều cần tự xét mình về cách tin và mức độ tin vào Chúa Giêsu: “Quý vị tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con đức tin vững vàng trong mọi hoàn cảnh, xin mở con mắt đức tin để chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài và biết chân thành chia sẻ nỗi đau của tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen. __________________________________ (*) Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở các đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao đài, người tu hành khi đạt được “đạo pháp” sẽ có thêm con mắt thứ ba – gọi là “huệ nhãn”, có thể nhìn thấu cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được “con mắt thứ ba” mà người khác không có.
Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, đó là “thần nhãn”, có thể thấy những gì mà người trần mắt thịt vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác cho rằng, ngày xưa Adam và Eva đã phạm “thiên luật” nên tuyến yên (pituitary) và tuyến hạch (pineal, hình trái thông) nằm ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng.
Theo một số nghiên cứu khoa học, thông thường mỗi sinh vật đều có một “con mắt thứ ba” nằm ở trung tâm não, gọi là “tuyến tùng”. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Mới đây người ta khám phá thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho tuyến tùng càng ít quan trọng hơn.
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Đấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. TN 30-B115
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Đấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quí trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia hôm nay kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.
Người mù thành Giêricô biết đã mất nhãn quan. Vì thế anh ta kêu van xin Chúa Giêsu thương xót. Càng bảo anh ta im đi thì anh ta lại càng kêu lớn tiếng: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi (Mc 10:17). Người mù này xin đặc ân được khỏi bệnh mù trong khi bày tỏ đức tin. Tiếng kêu cấp cứu của anh ta đã khiến Chúa động lòng thương xót và hành động. Và rồi không những anh ta được điều anh ta xin là được phục hồi khỏi bệnh mù, anh ta còn được ân huệ thiêng liêng là trở nên môn đệ Chúa: Tức khắc anh ta thấy được và đi theo Người (Mc 10:52). Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa Giêsu làm phép lạ, Người đều nhắc đến lòng tin. Tất cả những ai được ơn phép lạ đều có một điểm giống nhau là lòng tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa. Đức tin của người mù Batimê đã cứu chữa anh ta.
Người ta không cần phải mất mát hoàn toàn sự vật gì thiết yếu, mới cảm thấy luyến tiếc. Có ông linh mục kia bị đứt một mạch máu nối vào một phần tư của mắt trái, làm mờ mắt phải. Lúc đầu linh mục đó không trông thấy người qua lại bên phải. Đọc sách rất khó khăn vì mặt chữ bị chói loà khi ẩn khi hiện. Đọc một trang sách phải mất cả nửa giờ đồng hồ. Không lái xe và không dâng thánh lễ được trong cả tháng. Rất xuống tinh thần. Rồi theo định luật bù trừ của Đấng tạo dựng, những phần khác của thần kinh thị giác phải bù đắp lại cho phần đã mất. Với thời gian, linh mục đương sự đã có thể nhìn thấy rõ hơn, lái xe và dâng lễ được trong tâm tình cảm tạ đội ơn.
Từ ngữ mù loà được dùng tới ba mươi ba lần trong các Phúc âm, trong đó có mười hai lần bàn đến mù loà của tâm hồn hay mù loà thiêng liêng. Nếu bị mù loà về phương diện thiêng liêng mà không biết, người ta còn đáng thương hại hơn người mù trong Phúc âm. Người mù trong Phúc âm biết mình mù. Còn ta lại không biết mình đã bị mù quáng về phương diện thiêng liêng. Do đó ta không nhìn thấy ánh sáng chân lý, không nhìn thấy những khuyết điểm và tội lỗi cuả mình và không biết mình đang đi lầm đường lạc lối. Ta tự nhắm mắt lại trước những lời kêu gọi ăn năn sám hối. Ta làm ngơ trước những đau khổ của tha nhân trong nhiều trường hợp trong đời sống. Ta bỏ qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xẩy ra trong vũ trụ, trong đời sống cá nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn. Những biến cố đó có thể là những dấu chỉ mà Chúa muốn nói với ta điều gì đó. Phải chăng Chúa muốn ta thu dọn nhà tâm hồn hay Chúa muốn ta sửa sang lại đời sống nội tâm?
Vậy đâu là những căn do của bệnh mù loà thiêng liêng? Ghen tuông, kiêu căng, tự phụ, tham lam, nóng giận, hay những đam mê khác nhau, có thể khiến người ta bị mù quáng về phương diện thiêng liêng, hoặc bị mù quáng toàn diện hay bị mù phần nào đó. Nếu hướng chiều về đàng trái về một vài phương diện nào, khiến ngưởi ta bị mù về một vài phương diện đó mặc dù về phương diện khác, họ không bị mù.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng. Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.
Lời cầu nguyện cho người mù loà:
Lạy Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Xin tha thứ những lần con coi nhãn quan thấy được là ngẫu nhiên. Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia tìm ra phương thế giúp người mù được thấy. Nếu bị bệnh mù loà thiêng liêng, xin cho con được biết mình: tạ ơn về những ưu điểm Chúa ban và sửa đổi những khuyết điểm của con. Amen.
Câu chuyện người hành khất bị mù từ thuở bình sinh tên Báctimê mà Tin mừng của thánh Máccô TN 30-B116 Dalat
Câu chuyện người hành khất bị mù từ thuở bình sinh tên Báctimê mà Tin mừng của thánh Máccô thuật lại trong Chúa nhật 30 năm B hôm nay, đã gây xúc động và cảm phục cho rất nhiều người qua nhiều thế hệ vì Lòng Thương Xót và quyền năng tuyệt đối của Chúa đối với nhân loại, đối với con người…Báctimê đã không xin giầu sang, danh vọng, địa vị, anh ta chỉ xin Chúa:” Lạy Thầy, xin cho con được sáng “ ( Mc 10,52 ).
Vâng, mù là một điều thiệt thòi lớn cho người bị mắc bệnh. Họ không nhìn thấy vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, tinh tú. Họ không thấy được cây cối, biển, núi, sông ngòi, suối khe vv…Họ không thấy được cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những người thân thương. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn.Một cách nào đó họ bị mặc cảm vì lệ thuộc người khác, bị coi là sống bên lề xã hội. Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu chữa người mù Báctimê. Vì bị mù từ lúc mới sinh, anh lớn lên làm nghề hành khất để độ thân. Mù nên anh ngồi yên một chỗ bên vệ đường, ngày này qua tháng nọ, đợi xem có ai đi qua ngang đó, để anh còn cất giọng xin…Một hôm, nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua đó, vì mù nên không thể thấy được Ngài, tuy nhiên anh đã nghe nhiều người nói với anh về Đức Giêsu,và thật đây là cơ hội ngàn vàng, do đó, khi Đức Giêsu đi ngang qua, anh khẩn thiết kêu van:” Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con “ ( Mc 10, 47 ).Rất nhiều người lúc đó đã quở mắng và bảo anh câm miệng.Thay vì nắm tay anh mù dẫn tới Chúa Giêsu, họ đã túm cổ lôi anh ra xa Chúa Giêsu. Chỉ có một người giúp đỡ anh ta. Người đó là chính Đức Giêsu. Khi nghe tiếng la mắng anh mù. Chúa Giêsu đã dừng lại, truyền cho người ta dẫn anh mù đến với Người. Chỉ lúc đó, dân chúng mới thay đổi thái độ.Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ anh ta.
“ Lạy Thầy xin cho được sáng “ ( Mc 10, 51 ). Khuôn mặt đầu tiên anh mù được thấy là Đức Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã thắp sáng cho anh, cho cuộc đời bất hạnh, cuộc đời như tuyệt vọng của anh. Người phán:” Đức tin của anh đã chữa anh “ ( Mc 10, 52 ).
Đúng thật anh Báctimê đã bị mù đôi mắt thể xác, nhưng anh lại có con mắt đức tin, vì anh đã nhận ra Đấng cứu Thế khi gọi Chúa là “Con vua Đavít “. Báctimê tuy mù đôi mắt nhưng anh lại có đôi mắt tâm hồn, anh tin Chúa là Đấng uy quyền tuyệt đối, chỉ mình Người mới có thể chữa lành đôi mắt của anh.
Với đôi mắt đức tin, tin tuyệt đối vào Đức Giêsu, anh đã không sợ sẹt dù bị người ta ngăn cản, la mắng, càng cấm, anh càng la to, kêu van. Càng ngăn cản, anh đã quăng cả cái áo choàng dùng che ấm cuộc đời, ngồi ăn xin ở vệ đường để từ bỏ kiếp ăn xin, thân phận mù lòa, quyết bước vào một cuộc đời mới, tới miền ánh sáng, tới chỗ vinh quang của tình yêu mà Chúa Giêsu, Con vua Đavít đã tặng ban cho anh.
Bài Tin mừng của thánh Máccô khuyên nhủ chúng ta tự vấn lương tâm xem đã có biết bao người hành khất mù như anh Báctimê muốn gặp Đức Giêsu mà chúng ta cố tình cản ngăn không cho họ tới gặp Đức Giêsu? Đã có lần nào chúng ta gặp một người mù xin giúp đỡ mà chúng ta làm ngơ không giúp họ ? Chúng ta có xác tín mạnh mẽ:” Thiên Chúa dựng nên chúng ta để chúng ta làm việc thiện và mang niêm vui đến cho người khác hay không ? “.Mù lòa thể xác thì ai cũng thấy, nhưng mù lòa tâm hồn khó lòng chúng ta mới có thể nhận ra.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đôi mắt đức tin để chúng con luôn luôn tín thác nơi Chúa. Xin cho chúng con đôi mắt tâm hồn để chúng con nhận ra quyền năng vô biên của Chúa. Xin cho chúng con đôi mắt trinh trong để chúng con thấy Chúa và nhận ra anh em.Thấy Chúa là thấy tất cả vì “ Chỉ trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao người hành khất Báctimê lại phải ngồi bên vệ đường ? 2.Làm sao anh Báctimê lại biết Đức Giêsu đi ngang qua đó ? 3.Dân chúng đã làm gì đối với Báctimê ? 4.Tại sao dân chúng lại thay đổi thái độ và giúp đỡ anh ? 5.Chúa Giêsu đã làm gì cho anh Báctimê ? ---------------------------
Là một trong những câu chuyện cảm động nhất được thánh Mác-cô thuật lại, phép lạ Chúa Giê-su TN 30-B117
Là một trong những câu chuyện cảm động nhất được thánh Mác-cô thuật lại, phép lạ Chúa Giê-su chữa lành cho anh mù Ba-ti-mê đem lại rất nhiều cảm hứng giúp chúng ta suy niệm lời Chúa. Các bài đọc hôm nay đã nhất loạt giúp khai triển ý nghĩa của phép lạ này. Bài đọc 1 giới thiệu với chúng ta Thiên Chúa như người Cha nhân từ luôn an ủi đỡ nâng con cái, nhất là những đứa con xấu số bị đui mù què quặt. Đoạn thư Do-thái thì mô tả Chúa Giê-su là vị Thượng Tế có khả năng cảm thông với tất cả chúng ta là những kẻ khổ đau, ngu muội và lầm lạc. Còn câu chuyện Tin Mừng dường như chú ý rất nhiều đến nhân vật Ba-ti-mê, một hình ảnh có thể gặp thấy nơi mỗi người chúng ta hoặc trong thế giới hôm nay. Điều anh Ba-ti-mê cầu xin Chúa cũng là điều chính chúng ta và thế giới phải tha thiết nài xin Chúa nhậm lời.
Trước hết chúng ta phải nói gì về sự mù lòa? Dĩ nhiên có sự mù lòa phần xác, nhưng ở đây chúng ta chú ý đến tình trạng mù lòa thiêng liêng và sự can thiệp của Thiên Chúa đối với tình trạng mù lòa này của con người. Mù lòa thể xác là không thể nhìn thấy những vật chung quanh bằng đôi mắt. Còn mù lòa thiêng liêng là không nhận ra được những thực tại vô hình. Thí dụ tôi không nhận thấy được tình trạng tội lỗi của mình, tôi không nhận biết tình yêu Chúa dành cho tôi… Mù lòa cách nào cũng khổ và cần được chữa trị. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng chúng ta không thể ngồi yên nhìn nhân loại sống trong tình trạng mù lòa, trong bóng đêm tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa muốn can thiệp và đưa chúng ta ra khỏi bóng đêm tội lỗi, nên qua lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Người đã hứa: “Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về. Trong chúng, có kẻ đui, người què…, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa về”. Chúng ta có thể tưởng tượng dân Ít-ra-en bị lưu đầy phương Bắc đang trên đường hồi hương. Đã bao năm sống giữa dân ngoại, nhiều người Ít-ra-en bị ảnh hưởng do tôn giáo và lối sống dân ngoại. Những ảnh hưởng xấu ấy đã khiến cho họ trở thành đui mù què quặt thiêng liêng. Nhưng Ít-ra-en hậu lưu đày cũng là hình ảnh của nhân loại, một nhân loại bị tổn thương do tội lỗi và hậu quả của nó, một nhân loại cần được cứu độ. Lời hứa nói trên của Thiên Chúa là Tin Mừng đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo và được Chúa Giê-su lập lại trong hội đường Na-da-rét: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Is 61:1-2; Lc 4:18-19).
Giờ đây lời hứa ấy đã được thực hiện khi Chúa Giê-su đi rao giảng và làm những phép lạ chữa lành. Một trong muôn ngàn phép lạ của Chúa là câu chuyện Người chữa lành cho anh mù Ba-ti-mê. Trên đường từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Trong khi đó, anh mù Ba-ti-mê “đang ngồi ăn xin bên vệ đường”. Chắc anh chọn ăn xin bên vệ con đường từ Giê-ri-khô lên Giê-ru-sa-lem, vì ở con đường này sẽ có nhiều người qua lại, kẻ thì từ Giê-ru-sa-lem xuống, người thì từ Giê-ri-khô lên. Hôm nay anh Ba-ti-mê nghe thấy một quang cảnh khác thường, không phải chỉ dăm ba khách bộ hành qua lại, mà là “một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô”. Anh tò mò hỏi xem chuyện gì. Người ta cho anh biết ông Giê-su Na-da-rét đi ngang qua. Chắc anh cũng đã nghe biết về Người, nhưng chưa khi nào được diễm phúc gặp Người. Thế là anh vận dụng khả năng mạnh nhất của một người mù là la to để tìm cách tiếp xúc với Chúa. Anh còn dùng danh hiệu cao quý nhất để kêu xin Chúa đoái thương: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi!” Anh muốn nắm lấy cơ hội ngàn năm một thuở, nên quyết tâm vượt qua sự ngăn cản đe dọa của đám đông. Đám đông ồn ào, nhưng tiếng kêu của anh còn lớn hơn và đã lọt tới tai Chúa. Anh kêu xin lòng thương xót của Chúa thì lập tức lòng thương xót ấy đáp lại: “Gọi anh ta lại đây!” Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giê-su, vị Thượng Tế “có khả năng cảm thông” (Dt 5:2). Chúa Giê-su, Lòng Thương Xót, dịu dàng hỏi anh Ba-ti-mê: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Đã bao năm rồi anh chỉ chờ đợi câu hỏi này thôi! Anh lập tức trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Và anh đã cầu được ước thấy. Trước đây anh không thấy Chúa Giê-su với con mắt bằng thịt và chỉ “nhận ra” Người với con mắt đức tin. Bây giờ anh đã tận mắt “nhìn thấy” Chúa, rồi bằng con mắt đức tin, anh còn “đi theo Người trên con đường Người đi” nữa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
“Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được”. Đó không hẳn là lời cầu xin của anh Ba-ti-mê, mà còn là lời cầu xin của mỗi người chúng ta. Có biết bao điều chúng ta cần thấy mà không thấy được: trong những mối tương quan chúng ta với Chúa và với nhau, trong gia đình nơi những người thân, ngoài đường phố nơi những người nghèo khổ, trong bệnh viện, trường học, sở làm… Thậm chí có những điều chúng ta cần phải nhận ra trong chính tâm hồn mình mà chúng ta không thấy hoặc không muốn thấy! Ngoài ra, sau khi “nhìn thấy được và đi theo Chúa trên con đường Người đi”, anh Ba-ti-mê còn để lại cho chúng ta một câu hỏi hết sức quan trọng: Tôi có nhận ra Chúa là ai và tôi có đi theo con đường Người đi không?
Reo vui mừng lên hỡi Giacop, vì Đức Chúa đã cứu Dân Người, số còn sót lại của Israel. Trong đó có kẻ TN 30-B118
Reo vui mừng lên hỡi Giacop, vì Đức Chúa đã cứu Dân Người, số còn sót lại của Israel. Trong đó có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người có cữ: tất cả cùng nhau trở về. Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng tới dòng nước và qua con đường thẳng băng; vì đối với Israel, ta là một người Cha.
Bài Đọc Hai: Dt 5, 1- 6
Vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong mối tương quan với Thiên Chúa. Vị ấy có khả năng cảm thông với kẻ ngu muội, lầm lạc. Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng là được Thiên Chúa gọi. Cũng vậy, Đức Kitô không tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con. Nơi khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 10, 46- 52
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêricô. Có một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường. nghe nói là Đức Giêsu, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Đức Giê su đứng lại và nói: gọi anh ta lại đây. Người ta nói với anh mù: cứ yên tâm, Thầy gọi anh đấy. Anh mù liền vất áo choàng, đứng dậy mà tiến lại gần Đức Giêsu. Người hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mù đáp: Thưa Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được. Tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đã đi.
2. Suy Niệm
Một buổi tối đi dạo trên bờ canh Nhiêu Lộc, có một người trung niên chống gậy đến bên tôi xin tiền. Nhìn thấy nỗi khổ cực hằn trên con người anh, tôi đã chia sẻ cho anh một chút. Sau những câu thăm hỏi, tôi được biết anh ta là một người mù từ bẩm sinh. Sau khi bố mẹ quan đời, anh ta sống đời phiêu bạt nơi đất khách quê người và mưu sinh nhờ lòng bác ái của người khác, vì người thân không muốn đón nhận anh. Sự kiện này khiến tôi suy nghĩ về cuộc đời thiếu may mắn của anh, được không nhìn thấy được, nỗi đau ấy lại chồng chất khi không có ai để tựa nương: một tương lai mịt mờ, vô định.
Có lẽ, anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đang đối diện với những khó khăn của cuộc đời. Điều anh cảm thấy đau khổ không chỉ bị mù mà còn từ định kiến xã hội. Với quan niệm thời đó, bệnh tật là do tội lỗi gây nên. Như vậy, căn bệnh anh mắc phải nói lên hình phạt của Chúa dành cho hạng người tội lỗi. Và căn bệnh này cũng đã đẩy anh ra bên lề xã hội. Câu nói “anh đang ở bên vệ đường” phần nào nói lên điều này: anh đang ở bên vệ đường của sự dửng dưng, vệ đường của sự ích kỷ, vệ đường của quan niệm sai lầm, vệ đường của loại trừ.
Tuy nhiên, dù đôi mắt anh mù nhưng tầm hồn anh luôn bừng sáng. Những cái nhìn của định kiến xã hội không thể vùi lấp cuộc đời anh. Trái lại, anh càng nuôi dưỡng lòng khát khao được nhìn thấy và được biến đổi cuộc đời. Cho nên, nghe biết Đức Giêsu đi ngang quan, anh ta đã kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dũ lòng thương tôi”. Đức Giêsu đứng lại và hỏi anh muốn gì, thì anh trả lời: “Xin cho tôi được nhìn thấy”. Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và theo Ngài trên con đường Ngài đã đi.
Với con mắt đức tin, anh mù tin nhận chỉ có Chúa Giêsu mới đem lại cho anh ánh sáng của đôi mắt, ánh sáng của tâm hồn và ánh sáng của hy vọng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ chữa lành đôi mắt, mà còn gieo vào lòng anh sự khát khao bước theo Ngài để cùng chung chia sứ mạng của Ngài. Quả thực, con đường thập giá của Đức Giêsu là con đường chẳng mấy ai muốn đi, vậy mà anh mù lại muốn bước theo vết chân Thầy hầu làm chứng cho sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa. Từ đây, cuộc đời anh đã được sang trang, bước đường đời đã được định hướng, cánh cửa tương lai đã mở ra và sứ điệp Tin Mừng đang gọi mời anh.
Qua đoạn Tin Mừng Đức Giêsu chữa lành anh mù và hành trình của anh bước theo Ngài khiến chúng ta cũng phải thành tâm nhìn lại chính mình. Chúng ta vẫn tự hào mình không bị mù, công việc ổn định, có nhiều bạn bè, được người khác kính nể. Những thứ đó chưa nói lên được và chưa chứng minh được mình là người vô tội, không bị mù về đàng thiêng liêng. Trong cuộc sống biết bao lần chúng ta phạm tội mà không nhận ra, biết bao lần dửng dưng trước nhu cầu của người khác và vô cảm trước nỗi đau của anh chị em; đó là những độc chất làm mù mắt tâm hồn và làm băng hoại đời sống nội tâm. Vậy đâu là phương cách chữa lành căn bệnh nguy hại này?
Để chữa lành đôi mắt tâm hồn, chúng ta cần phải đến với Chúa Giêsu qua Bí tích Hòa giải. Nơi đó, chúng ta sẽ cảm nhận được vòng tay ấm áp, vỗ về của Chúa Giêsu, đồng thời, đón nhận sự bình an và hạnh phúc vì được Ngài thứ tha. Đàng khác, Bí tích Hòa giải là bí tích chữa lành: chữa lành các vết thương tâm hồn do tội lỗi gây nên, chữa lành các rạn nứt do tính kiêu căng tạo ra. Trong buổi tiếp kiến thứ tư hằng tuần tại quảng trường thánh Phêrô ngày 19/2/2014, đức giáo hoàng Phanxicô đã khuyến khích mọi người tín hữu hãy lãnh nhận bí tích Hòa giải. Ngài nói: “Chúa Giêsu đón tiếp anh chị em bằng tình thương bao la! Hãy can đảm đi xưng tội. Tha thứ không phải là kết quả nỗ lực của chúng ta, nhưng là một ân huệ… Bí tích Hòa giải là bí tích chữa lành. Tôi đi xưng tội để được chữa lành: chữa lành linh hồn, chữa lành tâm hồn”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết năng chạy đến với Bí tích Hòa giải để nhận lãnh ân sủng và sự tha thứ của Chúa hầu kiến tạo cuộc sống an vui, hạnh phúc vì cảm nhận được sự đỡ nâng của Chúa và nhận ra anh chị em luôn đồng hành cùng chúng ta trong bước đường chứng nhân.
Dõi theo hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, với những làm phép lạ Chúa làm, lời Chúa dạy, TN 30-B119
Dõi theo hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, với những làm phép lạ Chúa làm, lời Chúa dạy, người môn đệ được dạy về phẩm chất tông đồ. Cùng với các môn đệ Chúa Giêsu tiếp tục hành trình lên về Giêrusalem. Nếu dọc đường có chàng thanh niên đến quỳ gối xin Chúa chỉ cho biết việc phải làm để được sống đời đời (x. Mc 10, 17), thì giữa các môn đệ cũng có sự năn nỉ nài van cho được ngồi ‘bên tả’ hay ‘bên hữu’ Chúa (x. Mc 10, 35-45).
Hôm nay vẫn trong hành trình trước khi vào thành thánh, có chàng thanh niên mù loà con ông Timê tên là Bartimê kêu xin gặp Chúa để được sáng mắt (x. Mc 10, 46-52). Thật lý thú và kỳ diệu biết bao cho những ai khát mong tìm gặp Chúa, họ sẽ rạng rỡ mừng vui, vì có được điều họ tha thiết nài xin.
Chúa là niềm vui của Israel
Khi dân Israel bị bắt đi lưu đày ở Babylon trở về, người trung thành với Chúa chỉ còn là số ít, họ quá yếu đuối, nghèo nàn và dễ bị tổn thương, đến nỗi không có phương tiện trở về từ phương Bắc không thể tự giải thoát. Họ là những kẻ trở về để xây dựng đất nước: "trong chúng có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ". Bàn tay xây dựng lại Israel là những kẻ đui mù, chứ không phải các thanh niên cường tráng! Làm thế nào họ có được khả năng xây dựng lại quốc gia? Thanh niên, người khoẻ mạnh đã bị đế quốc tiêu diệt trong các lao động khổ sai. Họ phải cáng đáng công việc xây dựng lại quê hương.
Trong lúc cùng đường bế tắc như thế Giêrêmia tuyên sấm: Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! " (Gr 31, 7). Không thể vui mừng sao được khi mình đang đui mù, què quăt, mang thai nay có được Thiên Chúa toàn năng trợ giúp dẫn dắt trở về: "Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây" (Gr 31, 8). Theo Dianne Bergant: "Phụ nữ mang thai và các bà mẹ tuy yếu ớt, dễ bị tổn thương nhưng cũng là biểu tượng của phong phú và hy vọng. Họ nắm giữ tương lai trong bản thân mình. Khi họ rời bỏ chốn lưu đày về đất hứa, họ mang theo khả năng sinh sản và khởi sự một tương lai mới".
Đúng là người công chính, đạo đức thực thi công bình, bác ái, sống thánh thiện siêu nhiên, mặc cho thế giới này sa đoạ đến đâu, mặc cho gièm pha độc ác của kẻ giả hình, những vẫn khao khát tìm gặp và cậy dựa vào Chúa, người ấy sẽ có được niềm vui lớn lao. Anh mù thành Giêricô, tên là Bartimê trong Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng.
Chúa Giêsu là niềm vui của anh Bartimê
Chúng ta chiêm ngắm một anh chàng mù, nghèo khổ, gặp được hạnh phúc thật nhờ Chúa Giêsu. Anh thiếu hai điều: cái nhìn thể lý và khả năng tìm kiếm công ăn việc làm để kiếm sống, nên buộc anh phải đi ăn xin. Anh cần sự giúp đỡ và anh ngồi bên vệ đường lối vào thành Giêricô, nơi có nhiều người qua lại.
May mắn cho anh, một hôm chính Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một số người khác đã đi ngang qua đó. Chắc chắn anh mù đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, là Đấng đã làm nhiều phép lạ, Đấng ấy đang đến gần anh ta, chớp thời cơ, anh kêu lên: "Hỡi Con vua Davít, xin thương xót tôi!" (Mc 10, 47). Đối với những người đang đi theo Chúa thì tiếng kêu của anh mù thật khó chịu, họ ích kỷ, không chịu thấu hiểu hoàn cảnh của anh. Nhưng lời kêu xin lớn tiếng của anh chứng tỏ anh khao khát gặp Chúa lắm. Lời ấy vang tới tai Chúa và động đến tâm hồn Chúa Giêsu. Người muốn đáp ứng lời van xin của anh mù ăn mày này, nên truyền gọi anh đến đến và chữa lành anh ta.
Lập tức anh mù được đối diện với Con vua Đavít. Giây phút quyết định là sự khát khao gặp gỡ cá nhân, trực tiếp, giữa Chúa với người đang đau khổ. Hai người đối diện nhau: Thiên Chúa với ý muốn chữa lành và con người với ước ao được chữa lành. Hai sự tự do và hai ý chí đều huớng về một điểm. Cuộc đối thoại bắt đầu kẻ hỏi người thưa, "Chúa Giêsu nói với anh: " Anh muốn Ta làm gì cho anh? "Người mù đáp: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy" Chúa ra lệnh: "Con hãy đi! Ðức Tin con đã cứu chữa con!" (Mc 10,51) Lập tức Chúa Giêsu cho anh thấy, anh hết sức vui mừng và đi theo Chúa.
Chúa là nguồn vui của chúng ta
Niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui của con người. Theo Phúc âm kể tiếp như sau: Bước vào ánh sáng, anh mù Bartimê bắt đầu theo Chúa khắp nơi! Ðiều này có nghĩa là anh mù trở thành môn đệ Chúa và theo Người lên Giêrusalem, để cùng với Chúa tham dự vào mầu nhiệm cao cả của ơn cứu rỗi.
Cái nhìn thể lý thật quan trọng, cái nhìn từ bên trong của Thiên Chúa. Thánh Clêmentê Alexandria nói, "Chúng ta hãy chấm dứt việc lơ là sự thật, hãy ra khỏi bóng tối và sự vô minh, như một áng mây, hãy ra khỏi đám mây che lấp chúng ta để chiêm ngưỡng Thiên Chúa thật".
Chúng ta thường hay than phiền và nói rằng, tôi không biết cầu nguyện. Hãy noi gương anh chàng Bartimê mù trong Tin Mừng: Anh không ngần ngại kêu lên cùng Chúa Giêsu tất cả những gì anh ta cần. Phải chăng chúng ta thiếu đức tin? Nếu thiếu, hãy thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con". Phải chăng chúng ta có người thân bằng hay trong gia đình có người bỏ bê việc sống đạo ? Vậy, hãy cầu nguyện như thế này: "Lạy Chúa Giêsu, xin cho họ được nhìn thấy". Liệu đức tin có quan trọng như vậy không? Nếu chúng ta so sánh cái nhìn thế lý, chúng ta sẽ nói gì đây?
Ðức Tin là cuộc hành trình của sự soi sáng: đức tin khởi sự từ thái độ khiêm tốn nhìn nhận mình cần đến ơn cứu rỗi và đạt đến cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, Ðấng là nguồn vui và là ơn cứu độ. Tình trạng của anh mù thật là buồn, nhưng nhiều người còn chưa tin vào Chúa còn buồn hơn. Chúng ta hãy nói với họ: Thầy gọi anh và hỏi anh cần gì, Chúa Giêsu sẽ đáp trả bạn cách hào phóng.
Lạy Mẹ Maria, xin dẫn chúng con đến gặp Chúa, để chúng con được no thỏa niềm vui ân tình của Chúa. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 10:46-52)
Điều làm chúng ta thích thú là thánh sử Mác-cô đặt câu chuyện Chúa chữa lành cho anh mù TN 30-B120
Điều làm chúng ta thích thú là thánh sử Mác-cô đặt câu chuyện Chúa chữa lành cho anh mù Ba-ti-mê ngay sau những câu chuyện liên quan đến việc Người báo trước cho các môn đệ biết cuộc Thương khó của Người. Qua những tiên báo ấy, Chúa Giê-su muốn các môn đệ nhìn nhận Người là Đấng Mê-si-a đến để chịu chết và chuộc lại tội lỗi của nhân loại. Nhưng tham vọng đã khiến cho các môn đệ không muốn chấp nhận một Đấng Ki-tô chịu thân phận ô nhục như vậy. Quả thực họ có mắt mà không thấy! Ngược lại, anh mù bẩm sinh Ba-ti-mê tuy không thấy Chúa Giê-su bằng con mắt bình thường, nhưng lại thấy Chúa qua con mắt đức tin, để rồi anh tuyên xưng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
Ngồi ăn xin tại cổng thành Giê-ri-khô, anh mù Ba-ti-mê nghe tiếng ồn ào của đám đông dân chúng sắp đi qua và anh dọ hỏi mới biết “đó là Đức Giê-su Na-da-rét”. Anh kêu lớn tiếng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Không hiểu được ai mách bảo hay được Chúa Cha mặc khải, anh đã sử dụng danh hiệu “Con vua Đa-vít” là danh hiệu dành cho Đấng Ki-tô, để kêu xin Chúa Giê-su. Anh không nhìn thấy Chúa để tới gặp Người, nhưng anh có tiếng nói để làm cho Người chú ý, dừng lại và đến với anh. Quả thực, lời tuyên xưng đức tin của anh đã vượt trên cả tiếng ồn ào của đám đông, chiếm được lòng thương xót của Chúa. Người ta càng quát nạt để át đi lời tuyên xưng của anh, thì anh lại càng kêu to hơn, vẫn một điệp khúc “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Nhưng thay vì đến với anh, Chúa Giê-su chỉ đứng lại và gọi anh đến với Người. Làm như thế, Chúa muốn dành thêm cho anh một cơ hội để tuyên xưng đức tin bằng hành động, một hành động vô cùng ý nghĩa. Đó là vừa nghe Người gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su”! Tất cả những hành vi mau lẹ ở đây của anh đều nói lên một đức tin to lớn. Trước hết là anh “vất áo choàng lại”. Chúng ta đều biết cái áo choàng rất quan trọng đối với người Do-thái. Nó che chở cho một người, nào là trong cơn nóng mùa hè, sương lạnh ban đêm, tuyết giá mùa đông… Vậy mà anh mù dám vất lại, nghĩa là bất cần sống chết miễn là được đến với Chúa. Bỏ lại mọi sự, anh hoàn toàn tín thác vào Chúa. Đức tin là như vậy đấy! Hành vi kế tiếp là anh “đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su”. Thường thì người mù rất thận trọng khi đi đứng, sợ bị tai nạn. Nhưng ở đây, chỉ một tiếng gọi của Chúa, anh đã mau mắn đáp lại qua hành vi “đứng phắt dậy”. Anh đến gần Chúa, không cần biết những trở ngại, như một hòn đá, một khúc cây… chắn ngang, vì anh biết Chúa đang hiện diện sẽ không để anh bị tai nạn. Đức tin là thế đấy! Tóm lại, anh mù Ba-ti-mê đã hành động không phải bằng con mắt thịt, nhưng bằng con mắt đức tin. Nhờ con mắt này, anh “thấy” Chúa là ai trong khi nhiều người khác không thấy.
Anh mù Ba-ti-mê đã tuyên xưng Chúa là “Con vua Đa-vít” trước đám đông. Anh đã làm cho người ta biết Chúa. Bây giờ đến lượt Chúa làm cho anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Theo lời anh xin, Chúa cho anh nhìn thấy được. Rồi lại đến lượt anh muốn làm cho Chúa: Anh “nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Dĩ nhiên, con đường Người đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc Thương khó và chịu chết, con đường Người mời gọi các môn đệ hãy cùng đi với Người!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Anh Ba-ti-mê đã nhìn thấy được và đi theo Chúa. Chúa Giê-su cũng muốn chúng ta nhìn thấy và đi theo Người. Người muốn chữa lành bệnh mù thiêng liêng của chúng ta để chúng ta có cặp mắt đức tin mà nhìn mọi sự theo lăng kính đức tin. Nhờ cặp mắt đức tin, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị Tin Mừng mà người đời không thể thấy. Chúng ta sẽ thấy được việc yêu thương kẻ thù và tha thứ là điều có thể làm được. Với cặp mắt đức tin, chúng ta sẽ hiểu thánh giá không còn là sức nặng, nhưng là vinh hạnh được tham dự vào cuộc Thương khó của Chúa Giê-su. Cặp mắt đức tin giúp chúng ta khám phá ra những nét đẹp của Thiên Chúa, của anh chị em, của thế giới và nhất là của phần phúc thiên đàng!
Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Do đó, đôi mắt luôn là điều quí trọng. Có đôi mắt tốt, người ta có TN 30-B121
Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Do đó, đôi mắt luôn là điều quí trọng. Có đôi mắt tốt, người ta có thể nhìn thấy con người, loài vật, nhìn thấy mầu sắc, nhìn được ánh sáng. Thiếu đôi mắt hoặc hư một con mắt, người ta sẽ cảm thấy thật hạn chế, và thiếu thốn. Con mắt là cơ quan mong manh, dễ bị bệnh, dễ bị nhiễm trùng, nhất là đối với thời y khoa chưa cao, bác sĩ còn khan hiếm. Người hành khất tên Bác-ti-mê mà Tin Mừng đề cập đến, không hiểu anh ta đã bị đui mắt làm sao, nhưng Tin Mừng xác nhận anh ta đã bị mù lòa từ lúc bẩm sinh. Nghĩa là ngay khi lọt lòng mẹ, anh ta đã không được hạnh phúc nhìn thấy ánh sáng.
Đây là một mất mát lớn đối với Bác-ti-mê vì anh ta không thấy được mặt cha, mặt mẹ, hoặc thấy được anh chị em, những người thân thương. Anh ta không nhìn thấy ánh sáng, không nhận ra sự vật, không thấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú, anh ta không nhìn thấy gì và như thế, anh ta sống trong bóng tối. Thật khốn khổ cho anh ta ! Cuộc đời của anh ta kể là vô vị, anh sống triền miên trong bóng tối. Tin Mừng của thánh Máccô viết Bác-ti-mê làm nghề hành khất, ngồi bên vệ đường. Cái khốn khổ của anh ta là mặc dầu đã nghe danh tiếng về Đức Giêsu, một Vị cứu tinh đã chữa được mọi bệnh hoạn tật nguyền, đã làm cho người câm nói được, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người mù thấy được và kẻ chết sống lại. Anh ta đã ước ao, mong chờ có dịp được gặp Chúa Giêsu. Nhưng gặp thế nào được vì anh ta mù lòa làm sao nhìn thấy Chúa mà tới gặp Ngài. Anh ta vẫn tin và thầm mong có lần được gặp Đức Giêsu người Nadarét.
Dịp may hiếm có, anh ta ước ao gặp Chúa Giêsu, và rồi rất tình cờ, anh nghe tin Đức Giêsu sẽ đi ngang qua cùng với đám đông dân chúng đi theo Ngài. Vâng, Chúa Giêsu sẽ đi qua đây, đi qua chỗ anh ta ngồi và nói cách văn vẻ hơn, Chúa đi qua đời anh ta. Rất bất ngờ, rất tình cờ, anh cố gắng hết sức, đem hết sức lực để kêu gào, bởi vì chỉ với tiếng kêu to, vang lên với tất cả con người của mình, tiếng kêu gào thống thiết, đau khổ của một con người đầy đau khổ, nhưng tiếng kêu đầy tin tưởng, đầy hy vọng:” Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi “ ( Mc 10. 48 ). Tiếng kêu gào báo hiệu anh đang có mặt ở đây vì anh đâu có nhìn thấy Chúa. Tiếng kêu khẩn khoản, van lơn, cầu cứu. Nhiều người khó chịu muốn bịt miệng anh ta vì sợ làm phiền Chúa. Đe dọa của đám đông không làm anh sờn lòng, không khiến anh ta sợ sệt. Người ta càng đe dọa, anh ta càng gào to. Cuối cùng tiếng kêu gào khẩn thiết đã tới được tai của Chúa Giêsu. Đức Giêsu dừng lại và sai người đi gọi anh mù bởi vì chính Chúa cũng chưa rõ anh mù đang ở đâu! Anh mù khi hay tin Chúa Giêsu gọi mình, anh vui sướng, hạnh phúc đến vứt bỏ cả cái áo choàng mà anh đã mặc để ấm thân sau bao ngày tháng, nhảy bổ để tới với Chúa Giêsu. Anh mù đến với Chúa Giêsu như một người sáng mắt vì anh đã sáng mắt của lòng tin, sáng mắt của con người mình. Anh mù gặp Đức Giêsu, anh thưa với Ngài:” Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được “ ( Mc 10, 51 ). Và rồi Chúa nói:” Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh “ ( Mc 10, 52 ). Tin Mừng viết tiếp tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Người. Thật lạ lùng! Thật kỳ diệu !
Tiếng kêu gào van xin của anh mù Bác-ti-mê có phải là tiếng kêu gào của chúng ta không ? Chúng ta chưa mù về mặt thể xác nhưng có lúc có lẽ chúng ta đã đui mù về mặt tâm hồn, đã đui mù về lương tâm, đã đóng cửa lòng, sống thiếu yêu thương, bác ái đối với người khác. Chúng ta có khẩn khoản nài xin Chúa cho chúng ta được sáng đức tin để chúng ta biết sống yêu thương như Chúa yêu và nhìn ra những điểm tốt nơi anh em chúng ta không ? Chúng ta phải cầu xin và cầu xin không ngừng để chúng ta luôn nhìn thấy ánh sáng là Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa Gie6su, xin ban cho chúng con đôi mắt đức tin tinh ròng để chúng con luôn nhận ra Chúa nơi anh chị em của chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người hành khất Bác-ti-mê đã xin Chúa điều gì ? 2.Tại sao anh mù lại kêu gào to tiếng ? 3.Dân chúng có ủng hộ anh mù không ? 4.Chúa Giêsu đã nói gì với đám đông ? 5.Khi được Chúa cho sáng mắt anh mù đã làm gì ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 10:46-52)
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay được thánh sử Mác-cô kể lại ngắn gọn, nhưng lại thật sống động! TN 30-B122
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay được thánh sử Mác-cô kể lại ngắn gọn, nhưng lại thật sống động! Đó là câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành anh mù Ba-ti-mê ngồi ăn xin ở lề đường Giê-ri-khô. Nếu đem áp dụng bài Tin Mừng này cho chúng ta và bảo chúng ta hãy cầu xin Chúa như anh Ba-ti-mê đã làm, là thưa với Chúa: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”, có lẽ chúng ta sẽ cho là không thích hợp, vì chúng ta vẫn đang nhìn thấy và thấy rõ nữa! Nhưng xin đừng vội, chúng ta cứ chờ xem Chúa sẽ làm gì nếu chúng ta cầu xin Người như vậy.
Chúa Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem và họ dừng lại tại Giê-ri-khô. Chúng ta cũng biết thời gian này là sau khi Chúa tiên báo lần thứ ba về cuộc Thương khó của Người. Trong bối cảnh lên Giê-ru-sa-lem chịu cuộc Thương khó, Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ cùng vác thập giá mình hằng ngày mà làm môn đệ Người. Nhận rõ Chúa Giê-su là ai và sứ mệnh của Người là gì, rồi can đảm và quảng đại bước đi theo Người, tất cả những điều này đòi hỏi kẻ muốn làm môn đệ phải có đôi mắt sáng, để không hành động một cách mù quáng, giống như anh mù Ba-ti-mê sau khi được Chúa chữa lành, “nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Qua cách thức đáp lại lời Chúa kêu gọi lên đường với Người, anh Ba-ti-mê đã trở nên mẫu gương cho tất cả chúng ta biết tiến trình làm môn đệ. Chúng ta hãy quan sát những hành động của anh, từ lúc “nghe nói” về Chúa cho đến khi lên đường đi theo Người.
Không biết cơ duyên nào giúp anh Ba-ti-mê biết một chút về Chúa Giê-su. Có lẽ anh đã âm thầm tìm hiểu về Chúa từ lâu, cho nên hôm nay, “vừa nghe nói” Chúa đi qua, anh đã lớn tiếng kêu van Người cứu giúp. Để tuyên xưng đức tin, anh đã sử dụng danh hiệu cao quý nhất để thưa với Chúa: Con vua Đa-vít. Lời tuyên xưng mạnh dạn ấy không để cho những tiếng quát nạt của những người chung quanh lấn át được. Bằng mọi giá, nhất định anh phải làm sao cho Chúa để ý đến anh và dủ lòng thương anh. Sự kiên trì và lòng khiêm nhường của anh đã thắng. Chúa Giê-su đã “gọi” anh, đã để ý tới nhu cầu của anh. Chúng ta nhận thấy mối tương quan giữa anh Ba-ti-mê và Chúa Giê-su bắt đầu đặt nền móng cho đức tin. Tiếp tục diễn trình làm môn đệ, anh Ba-ti-mê vừa nghe Chúa gọi, lập tức “vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su”. Thực là một cử chỉ vô cùng ý nghĩa. Cái áo choàng là sự sống còn của anh, gìn giữ mạng sống khi trời lạnh cũng như lúc nóng bức. Việc anh vất áo choàng lại cũng giống như các tông đồ đầu tiên bỏ lại thuyền và lưới cá cùng gia đình mà đi theo Chúa. Cử chỉ của anh thật là dứt khoát và mau mắn, không chút ngần ngại vì anh đã đặt hết niềm tin vào Chúa Giê-su rồi. Điều anh thẳng thắn xin Chúa là “xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh không chỉ xin được nhìn thấy những gì bên ngoài như mọi người, nhưng anh còn muốn được nhìn thấy nội tâm, nhìn thấy con người đích thực của Chúa Giê-su và sứ mệnh cao cả của Người nữa. Và Chúa Giê-su chấp nhận lòng tin ấy của anh và vui mừng cho anh được cùng lên đường với Người!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Câu chuyện về anh Ba-ti-mê chắc chắn không chấm dứt ở hành vi “đi theo Người trên con đường Người đi”, bởi vì con đường Chúa Giê-su đang đi sẽ đưa Người về đâu? Đó là về Núi Sọ của Giê-ru-sa-lem. Các môn đệ Người cũng phải cùng Người đi tới đó. Câu chuyện tạm ngừng lại ở đây để mở ra một cuộc sống mới. Chúa gọi và anh Ba-ti-mê đáp lại. Nhưng đây chỉ là khởi đầu của con đường làm môn đệ Chúa. Cũng như các môn đệ khác, anh Ba-ti-mê sẽ để cho mối tương quan anh vừa có với Chúa Giê-su biến đổi con người anh và lối sống của anh.
Bước khởi đầu làm môn đệ Chúa của chúng ta có thể là lúc chúng ta được rửa tội hoặc sau một cuộc trở về với Chúa. Nhưng tất cả những gì chúng ta học được nơi anh Ba-ti-mê, đó là mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi, dứt khoát bỏ lại cả những gì chúng ta cho là an toàn nhất cho đời mình, để hoàn toàn tín thác vào Chúa Giê-su. Chúng ta cứ ở bên Chúa, bằng cầu nguyện, bằng cách sống Lời Chúa, nhất là làm sao luôn “nhìn thấy được” Chúa Giê-su là Đấng nào để chúng ta vững tâm mà “đi theo Người trên con đường Người đi”. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Chúa Nhật XXX Thường Niên B Mc 10,46-52: 46 Họ đi đến Giêrikhô. Khi Người đi ra khỏi thành Giêrikhô cùng với các môn đệ và một đám người khá đông, thì con ông Timêô là Bartimêô, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 47 Khi nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!” 48 Nhiều người quát mắng bảo anh để anh im đi, nhưng anh càng kêu lớn hơn: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi!” 49 Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta!” Người ta gọi anh mù và nói: “Mạnh dạn lên, đứng dậy, Người gọi anh đó!” 50 Người mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy và đến gần Đức Giêsu. 51 Hỏi người mù Đức Giêsu nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Rabbôni, xin cho tôi nhìn thấy được.” 52 Đức Giêsu nói người ấy: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường.
Câu chuyện chữa lành người mù nầy nằm ở cuối hành trình của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem (10 TN 30-B123
Câu chuyện chữa lành người mù nầy nằm ở cuối hành trình của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem (10:46-52); như câu chuyện chữa lành người mù ở Bếtsaiđa được đặt vào cuối những hoạt động của Người tại Galilêa (8:22-26). Đoạn 10:46-52 có thể được phân chia như sau: 1- Bối cảnh và nhân vật (10:46); 2- Lời cầu xin của người mù (10:47-50); 3- Đối thoại, chữa lành và đi theo Người (10:51-52). Câu chuyện được đóng khung trong bối cảnh “trên đường”: đi khỏi Giêrikhô Chúa Giêsu gặp một người mù ngồi bên đường (10:46) và khi đã được chữa lành, người mù ấy bấy giờ đã thấy được theo Người trên đường (10:52).
Hành trình của Chúa Giêsu về Giêrusalem hầu như đã đến đích. Trong đoạn tiếp theo sẽ thấy sự hiện diện của Người tại Bêtania (x. 11:1). Bối cảnh của câu chuyện sắp xảy ra sẽ là trên đường Người đi. Ngồi bên vệ đường, người hành khất tên là Bartimêô sẽ có cơ hội biết Chúa Giêsu đi ngang qua đó. Tư thế ngồi sẽ tương phản với việc đứng dậy và đi theo Người trên đường (x. 2:14). Nghề ăn xin làm cho anh mạnh dạn la lớn tiếng để xin Người chữa anh lành khỏi mù lòa thay vì xin của nuôi thân (10:46).
Tên gọi “Giêsu, người Nazarét” (nazarēnos) được dùng cách đặc biệt ngay từ đầu tin mừng Marcô (1:9; 1:24; 10:47; 14:67; 16:6). Trước tiên, nazarēnos cách đơn giản chỉ người xuất phát từ làng Nazaréth; do đó, tên gọi nầy chỉ nguồn gốc nhân loại của Chúa Giêsu (1:9; 14:67). Đối với người mù, ông đã nhận ra liên hệ gia tộc nầy (x. Mc 12:35; Mt 1:1) khi kêu lên với Đức Giêsu người Nazarét là “Con vua Đavít, xin thương xót tôi” (10:47). Qua đó, người mù đã đặt vào Chúa Giêsu hy vọng về một đấng thuộc dòng dõi Đavít sẽ đến, vì anh nghe biết những việc Người đã làm, kể cả việc mở mắt người mù (x. 8:22-26; Mt 11:5). Đây cũng là hy vọng của toàn dân (x. 11:9-10). Tuy nhiên, hy vọng của người mù vào Chúa Giêsu không hoàn toàn mang tính cách trần thế. Lời cầu xin “xin thương xót tôi” xác nhận lòng tin của ông vào Chúa Giêsu không chỉ là con vua Đavít, mà còn là Con Thiên Chúa, vì chỉ Thiên Chúa mới tỏ lòng xót thương cho con người (x. 9:15). Như thế, tên gọi “Giêsu người Nazaréth” xác định không lẫn lộn chân tính của Đấng mang tên ấy, nhất là khi nó được dùng bên cạnh những tước hiệu khác như “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1:24), “Con vua Đavít” (10:47.48), cũng như trong lời loan báo về sự sống lại của Người (16:6).
Phần tiếp theo là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người mù; sau đó, là việc chữa lành và người ấy đi theo Người (10:51-52). Cùng một câu hỏi cho anh em Giacôbê và Gioan, Chúa Giêsu dùng để hỏi người mù khi mở đầu câu chuyện với người ấy: “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (10:51). Điểm khác biệt là Người thực hiện ngay yêu cầu của người mù; trong khi Người để lại việc thực hiện yêu cầu của hai anh em cho Chúa Cha (x. 10:40). Yêu cầu xin được “nhìn thấy” (anablepō) (10:51) khác hẳn với xin “đụng chạm” đến (8:22). Việc sử dụng từ ngữ ở đây có dụng ý. Trong câu chuyện của người mù ở Bếtsaiđa, mục đích người ta mang người mù ấy đến với Chúa Giêsu là để được chữa lành bệnh mù thể lý. Bởi đó, Chúa Giêsu đã đụng đến mắt người mù và người ấy thấy được (blepō) người ta như cây cối đang đi (x. 8:23-24; xem thêm nghĩa của động từ “thấy” nầy trong 4:12.24; 5:31; 8:18). Trong khi đó, người mù Bartimêô xin Chúa Giêsu cho anh được “nhìn thấy lại” (anablepō) (10:51.52). Người đã không chạm tay đến người ấy, mà chỉ tuyên bố cách ngắn gọn: “Lòng tin của anh đã cứu anh” (10:52); và thế là anh thấy được. Lời tuyên bố nầy cho thấy có một liên hệ mật thiết nào đó giữa việc chữa lành và lòng tin; và ý nghĩa đặc thù của việc “nhìn thấy lại” nầy. Về phía anh, trước khi con mắt thể lý được chữa lành, người mù đã thấy lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và tin vào lòng thương xót ấy. Bởi đó, anh đã đến với Người (10:48), và đã được lòng thương xót ấy chữa lành (10:52). Tuy nhiên, lúc ấy anh chỉ mới nhận biết và tin Người là con vua Đavít (10:47.48). Về phía Chúa Giêsu, khi chữa lành anh, Người đã cho anh được thấy Người còn hơn cả “con vua Đavít”. Bởi đó, anh đã đi theo Người (10:52 ), Đấng mà Phêrô đã tuyên xưng trước đó là “Đấng Kitô” (x. 8:29-34; 10:28-29).
Không thể đi theo Chúa Giêsu nếu không nhận biết Người là ai. Trước khi theo Người vào Giêrusalem để tử nạn, người môn đệ cần được mở sáng đôi mắt để nhìn thấy Người. Chính lúc ấy mới có thể hiệp thông trọn vẹn với Người.
Đối với chúng ta hôm nay không có gì là khó khi nghĩ rằng Chúa Giê-su là vị Thượng Tế đã TN 30-B124
Đối với chúng ta hôm nay không có gì là khó khi nghĩ rằng Chúa Giê-su là vị Thượng Tế đã dâng hiến thân mình trên thập giá. Nhưng đối với Ki-tô hữu sơ khai thì quả thực là khó, vì Chúa Giê-su đâu có thuộc chi tộc Lê-vi. Do đó, khi gọi Chúa Giê-su là vị Thượng Tế siêu phàm đã “băng qua các tầng trời mà đến,” thư Do-thái đã phải nêu lên những bằng chứng để chứng tỏ khẳng định của mình là đúng. Chúng ta có thể đọc thấy bằng chứng ấy trong đoạn 5:1-10. Nhưng bài đọc hôm nay chỉ trích dẫn 6 câu đầu, nói lên ba đức tính phải có của vị thượng tế: a) được tuyển chọn trong số người phàm, b) có khả năng cảm thông với kẻ tội lỗi, và c) không tự xưng, nhưng được Thiên Chúa đặt làm “Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.” Trích dẫn như vậy, Phụng vụ Lời Chúa muốn tiếp tục quảng diễn hình ảnh Chúa Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm thương với những nỗi yếu hèn của chúng ta.
a) Chúa Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm, là người đồng hội đồng thuyền với chúng ta
Đặc tính “đồng hội đồng thuyền” này hết sức quan trọng. Nếu không có đặc tính này, khó mà cảm thương được. Hẳn chúng ta biết từ ngữ “cảm thương” (com-passion) theo nguyên ngữ có nghĩa là cùng chịu đau khổ với nhau, lấy nỗi đau của người khác làm nỗi đau của chính mình. Cho nên khi nói Thiên Chúa cảm thương với chúng ta thì có nghĩa là Người muốn chia sẻ nỗi đau của con người. Nhưng Thiên Chúa là Đấng siêu việt thì làm sao chia sẻ được nỗi đau của con người? Chính vì thế, Ngôi Lời mới mặc lấy thân phận con người, được đặt tên là Giê-su, danh hiệu là Ki-tô, để nhờ Người mà Thiên Chúa có thể cảm thương được với thân phận con người, một thân phận đã hoàn toàn bị tội lỗi và quyền lực của nó khống chế.
Bản tính nhân loại của Chúa Giê-su là yếu tố chính để Thiên Chúa nhờ đó mà cảm thương được với mọi người không trừ ai. Đối với truyền thống Do-thái, vị thượng tế tuy được chọn trong số người phàm, nhưng vẫn phải là người thuộc chi họ Lê-vi. Còn Chúa Giê-su, Người không thuộc chi họ Lê-vi, cũng không xưng mình là thượng tế; dân chúng chỉ gọi Người là Rabbi, là ngôn sứ. Do đó khi tuyên xưng Người là Thượng Tế, thư Do-thái không có ý nói về chức tư tế theo chi họ Lê-vi, nhưng đã vượt trên mọi truyền thống Do-thái giáo để tôn vinh Người là “Thượng Tế theo phẩm hàm Men-ki-xê-đê” được chính Thiên Chúa tuyển chọn trong số những thường dân chứ không phải giữa chi họ Lê-vi. Chúa Giê-su đã hạ mình làm người nô lệ vâng phục cho đến chết trên thập giá để thi hành thánh ý Thiên Chúa như thế nào (Pl 2:6-8), thì giờ đây Người cũng hạ mình hòa nhập với lớp thứ dân để cảm thương với mọi người và dâng mình làm lễ hy sinh trên thập giá như vậy. Do đó, Người cho chúng ta một gương mẫu là phải vượt trên cả khuôn khổ chức tư tế Lê-vi để mỗi người chúng ta sẽ trở nên lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa.
b) Chúa Giê-su “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc”
Do hậu quả của tội nguyên tổ, toàn thể nhân loại đã trở thành “những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc.” Trí óc con người không còn nhận ra ý Chúa và phục thiện nữa. Tính xác thịt và nô lệ cho tội lỗi đã chi phối ý chí tự do của con người. Hậu quả là: “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu... Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:15.18-19).
Cuộc chiến nội tâm ấy của con người, Chúa Giê-su đã từng trải. Cám dỗ trong sa mạc có thể coi là biểu tượng cho cuộc chiến nội tâm Người phải đối phó trong suốt cuộc đời, để làm sao luôn trung thành với thánh ý Chúa Cha và sứ mệnh cứu thế. Chúa Giê-su có khả năng cảm thông với chúng ta, vì chính Người đã kinh nghiệm những khó khăn khi bị giằng co giữa ý riêng và ý Chúa. Người bị cám dỗ để cho dân chúng tôn Người lên làm vua. Người bị thử thách do “ý tốt” của Phê-rô xin Người bỏ cuộc, đừng lên Giê-ru-sa-lem chịu chết. Người đã phải toát mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu để một lần nữa “xin vâng ý Cha.” Chắc chắn Người vẫn chưa thoát được nanh vuốt của cám dỗ ngay cả khi bị treo trên thập giá, nghe lời thách thức của kẻ thù: “Ông Ki-tô, vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin!” (Mc 15:32). Quả thực, Chúa Giê-su với những kinh nghiệm ấy, không những có mà còn có thừa khả năng để cảm thông với những nỗi yếu hèn của chúng ta!
c) Từ khả năng cảm thông tiến đến quyền năng cứu độ chúng ta
Tuy bài đọc hôm nay dừng lại ở câu 6, nhưng theo đà tư tưởng, chúng ta có thể đọc luôn đến câu 10, để thấy được vị Thượng Tế siêu phàm của chúng ta không chỉ cảm thương với số phận chúng ta mà thôi, nhưng hơn thế nữa, Người còn có quyền năng cứu độ chúng ta. Bởi đâu Người có khả năng ấy? Trước hết là vì “khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.” Chúa Giê-su đã “lớn tiếng” chuyển cầu cho toàn thể nhân loại. Thư Do-thái muốn diễn tả tất cả sự tha thiết, chân thành và hiệu năng của lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, không chỉ xin Thiên Chúa cứu Người khỏi cái chết thể xác, nhưng còn xin Thiên Chúa cứu toàn thể nhân loại khỏi cái chết do tội lỗi. Sau nữa, quyền năng cứu độ Chúa Giê-su có được là do Người đã “học được thế nào là vâng phục.” Thư Do-thái viết tiếp: “Và khi chính bản thân đã (vâng phục) tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” Như vậy, nơi Chúa Giê-su, cảm thương phải đi tới cùng đích của nó, không chỉ là một tình cảm suông, nhưng phải tiến tới hành động cứu chuộc, đưa nhân loại ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi và cõi chết để làm con cái Thiên Chúa hằng sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể đem lại cho tôi niềm tin và hy vọng nào?
Mỗi khi bị cám dỗ, tôi có nhớ tới Chúa Giê-su đã từng bị thử thách không? Những nhắc nhở ấy giúp tôi nhận ra mối quan hệ giữa Người và tôi như thế nào? Tôi có thể chia sẻ một vài lần thắng được cám dỗ nhờ nhớ đến Chúa Giê-su đã chia sẻ những yếu hèn của tôi?
Có lần nào tôi đã “cảm thông” với người khác và “cứu” họ khỏi nỗi thất vọng và bỏ cuộc không? Tôi đã làm gì để cảm thông với họ?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện sau đây:
Lạy Chúa, từ lòng mẹ, chúng con đã phải mang án chết do tội A-đam truyền lại, nhưng nhờ mầu nhiệm Con Chúa chịu khổ hình, Chúa đã tiêu diệt sự chết. Vậy giờ đây, xin Chúa ban ơn thánh hóa biến đổi chúng con nên giống hình ảnh A-đam mới là Đức Ki-tô, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. A-men. (Lời nguyện Thứ Sáu Tuần Thánh)
Thánh Marcô vừa thuật lại cho chúng ta một câu chuyện tất đẹp trong Tin Mừng của Ngài. Chúng TN 30-B125
Thánh Marcô vừa thuật lại cho chúng ta một câu chuyện tất đẹp trong Tin Mừng của Ngài. Chúng con đã biết đó là câu chuyện gì rồi.
Cha hỏi chúng con đã thấy một người mù bao giờ chưa?
- Dạ... đã thấy. - Mù là làm sao chúng con? - Mù là nhìn mà không thấy. - Nếu chúng trả lời thế thì cha hỏi tiếp: Chúng con có thấy vi trùng đang lúc nhúc chung quanh chúng con không? - Dạ không.. - Thế thì chúng con có mù không.
…………
1.Cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Một tác giả Ấn Độ có kể câu truyện ngụ ngôn được Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghi lại trong tác Phẩm “Cái cười của thánh nhân" như sau:
Có một người kia sinh ra đã bị mù. Sống trong một căn phòng nhưng bởi không thấy gì cả, nên anh phủ nhận tất cả những gì người chung quanh quả quyết là có: "Tôi không tin vì tôi không thấy'"
Một vị lương y đem lòng thương hại đi tìm một thứ linh dược trên dẫy Hy-mã-lạp-sơn về chữa anh và anh được lành bệnh. Anh ta sung sướng tự phụ bảo:
- Giờ đây tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi.
Nhưng có kẻ nói với anh:
- Bạn ơi, bạn chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này. Như thế thì có là bao. Ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, còn biết bao vẻ đẹp lộng lẫy và màu sắc mà bạn chưa thấy.
Nhưng anh ta không tin.
- Làm gì có những cái đó: tôi chưa thấy những cái đó, những gì có thể thấy được tôi đã thấy tất cả rồi.
Một y sĩ khác liền leo lên tận núi cao, được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác đem về giúp cho anh ta có được cặp mắt nhìn xa hơn những vật chung quanh căn phòng. Bấy giờ thì anh ta thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Mừng quá! Rồi lòng tự phụ dâng lên, anh thốt lên:
- Trước đây tôi không thấy, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế bây giờ chẳng còn cái gì mà tôi không thấy không biết, đâu còn ai hơn tôi được.
Nhưng có một hiền giả có cặp mắt thần nói với anh ta:
- Cậu ơi. Cậu vừa hết mù nhưng cậu vẫn còn chưa biết gì cả. Tại sao lại quá tự phụ như thế. Cũng như khi cậu ở trong căn phòng. Tầm con mắt cậu không vượt khỏi bốn bức tường, cậu không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu. Giờ đây tầm mắt cậu vượt khỏi bốn bức tường và thấy được nhiều vật xa hơn. Nhưng với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai, cậu làm gì biết được những vật ngoài ngàn dặm mà tai mắt cậu không thấy không nghe được. Cậu có thấy được những nguyên nhân cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu không? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống, còn biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không thể kể như cát sông Hằng. Tại sao cậu dám tự phụ rằng tôi đã thấy cả, tôi biết cả? Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng và lấy sáng làm tối.
Bây giờ chúng con có thể trả lời cho cha mù làm sao không?
................................... Rõ ràng là chúng ta có đủ hai con mắt, nhưng có rất nhiều điều chúng ta không thể thấy. Chúng ta không thể thấy những vật vô cùng nhỏ như những vi trùng chung quanh chúng ta. Chúng ta cũng không thế thấy những vật vô cùng lớn nhưng xa chúng ta.
Thêm vào đó. Chúng ta không thấy được những giá trị cao cả trong cuộc sống. Điều này phải nhờ đến một hồng ân khác của Chúa.
Ngày nay nếu người ta muốn thấy những điều đó thì người ta phải nhờ đến những máy móc hỗ trợ. Muốn nhìn thấy những vật vô cùng nhỏ thì người ta phải nhờ vào cái gì chúng con có biết không?
- Thưa cha... nhờ kính hiển vi! - Còn những vật vô vùng lớn và ở xa? - Thưa cha phải dùng viễn vọng kính. - Rất đúng.
Và bây giờ thì cha có thế nói cho chúng con biết mù là gì rồi. Mù không phải là không có con mắt. Nhưng mù là con mắt không có khả năng để thấy.
Người mù trong bài Tin Mừng vẫn có mắt nhưng mắt anh ta không thấy được cho nên anh xin với Chúa. "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được"(Mc 10,5). (I want to see). Xin cho con được thấy. Một số nhà chú giải bằng tiếng Anh, người ta dịch hay hơn. Người ta dịch là "Lord! Restore my sigh". (Lạy Thầy xin phục hồi khả năng thấy cho con). Dịch như thế mới chính xác nhưng khó hiểu.
2. Bây giờ đến lượt chúng ta.
Chúng ta vẫn có đủ hai con mắt. Nhưng có nhiều điều chúng ta vẫn bị mù. Cha kể cho chúng con câu chuyện này.
Marlene là một ca sĩ người Ý rất nổi tiếng, với chất giọng nữ cao, tuổi chỉ ngoài ba mươi nhưng đã nổi tiếng khắp toàn cầu, hơn nữa cô còn có một đức lang quân như ý, gia đình mỹ mãn.
Một lần nọ, cô sang nước láng giềng mở live show cho riêng mình. Vé vào cửa đã được khán giả tranh nhau mua sạch trước đó một năm, đêm diễn của cô đã nhận được sự cổ vũ nhiệt tình của mọi người. Sau buổi biểu diễn, cô ca sĩ cùng chồng và con trai mình đi ra từ cánh gà, trong chớp nhoáng họ đã bị bao vây bởi những fan hâm mộ của cô. Họ hết lời khen ngợi cô.
Có người tâng bốc cho rằng khi cô vừa mới tốt nghiệp đại học thì đã may mắn thi đậu vào viện ca kịch cấp quốc gia, trở thành một diễn viên suất sắc. Có nguời còn tâng bốc rằng có rất nhiều ông chủ của những công ti lớn cứ quấn lấy cô mong được làm chồng cô, còn con cô là một đứa trẻ hoạt bát rất đáng yêu, trên mặt nó lúc nào cũng tươi cười...
Khi mọi người đang bàn luận, cô ca sĩ chẳng nói chẳng rằng, đợi cho mọi người nói xong, cô mới ôn tồn nói:
- Đầu tiên, tôi xin cảm ơn lời khen tặng của quý vị dành cho tôi. Tôi hi vọng trong thời gian tới mình vẫn luôn mang đến niềm vui cho quý vị. Thế nhưng, các bạn mới chỉ thấy một mặt, còn có mặt mà các bạn vẫn chưa thấy được. Đó chính là, đứa bé trai của tôi được các bạn khen là hoạt bát vui vẻ, đáng yêu, trên mặt lúc nào cũng tươi cười này là một đứa trẻ tuyệt vời nhưng tôi nói thật với mọi người cháu là đứa bé rất bất hạnh vì nó bị câm. Hơn nữa trên nó còn có một người chị, tuy đã lớn nhưng lúc nào cũng bị nhốt trong chiếc cũi sắt vì cháu mắc chứng bệnh tâm thần”.
Sau khi ca sĩ vừa nói xong thì trên mặt mọi người ai cũng đều lộ vẻ thất kinh, nhìn nhau không nói nên lời, dường như không thể chấp nhận được sự thật mà mình vừa nghe.
Lúc này, cô ca sĩ mời bình tâm trở lại và nói với mọi người:
- Tất cả nói lên điều gì chứ? E rằng chỉ có thể nói rõ một đạo lý rằng: đó chính là "Thiên Chúa không ban cho ai quá nhiều”.
Câu chuyện cảm động quá phải không chúng con. "Thiên Chúa không ban cho ai quá nhiều” Đó là một sự thật mà rất nhiều người không thấy.
Thiên Chúa rất công bằng, ban cho con người hạnh phúc bao nhiêu thì cũng ban cho họ bấy nhiêu thống khổ. Với tất cả những gì ta có được, chưa chắc người khác đã có. Mỗi người đều có được khả năng của riêng mình, cho nên chúng ta không cần phải so sánh với những gì người khác có được, mà nên bằng lòng với những gì là của mình.
Chúng con hãy cầu nguyện với Chúa như anh mù thuở xưa: Lạy Chúa xin cho chúng con được thấy. Amen.
Ngày xưa có một anh mù, mù cả 2 mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra ngõ làng ăn xin, chiều TN 30-B126
Ngày xưa có một anh mù, mù cả 2 mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra ngõ làng ăn xin, chiều vợ dắt về nhà ăn tối. Hai vợ chồng lương thiện sống an vui bên nhau. Một hôm, vợ bận việc không ra ngõ đón chồng về được. Chồng chờ mãi không thấy, dò dẫm tìm đường về. Lần mò thế nào mà lạc ngay vào rừng. Tối đến tiếng thú rừng kêu rống khiến người chồng sợ quá. Anh mò leo lên cây cao để tránh cọp. Đúng lúc đó, bầy quỉ ma đến hội họp dưới gốc cây. Chúng chỉ cho nhau biết chỗ giấu kho tàng và nói cho nhau hay cây thuốc quí có khả năng chữa bách bệnh, kể cả mù loà.
Anh chàng mù nghe được. Sáng hôm sau, lần tìm kiếm đến cây thuốc quí, xoa vào mắt, mắt sáng. Rồi tìm đến kho tàng, thấy được của cải. Từ đó anh chàng mù giàu có ra. Người anh keo kiệt hỏi lý do tại sao em sáng mắt, tại sao giàu có. Người em (tức người mù) thành thật chỉ cho anh. Bấy giờ người anh giả vờ mù, đi đến gốc cây trong khu rừng đó, leo lên chờ đợi. Bọn quỉ cũng đến họp. Nhưng thấy kho tàng đã mất, bèn bủa nhau đi tìm. Gặp được người anh đang trốn trên cây, chúng cho là kẻ trộm, nên giết liền.
Câu chuyện cổ tích trên đây chắc chắn là không có thật. Nhưng người xưa kể ra nhằm dạy con cháu nhiều bài học, như ở hiền gặp lành, như “tham thì thâm cổ nhân dạy thế, lấy chuyện gà ra để răn đời…”
Hôm nay kết hợp với bài Tin Mừng Chúa chữa người mù thành Giêricô, ta rút ra bài học: Có những người mù mà sáng mắt – có người sáng mắt mà lại mù.
1. Có những người mù mà sáng.
Người mù trong truyện cổ tích biết leo lên cây để tránh thú dữ. Biết lắng tai nghe lời quỉ họp bàn, biết lúc nào mới xuống khỏi cây cao, biết tìm đến cây thuốc quí, biết dùng kho tàng cho cuộc sống. Người mù tại Giêricô cũng là một người mù mà sáng.
*Cái sáng 1: là anh biết anh đang mù, đang rất cần sáng. Có những người sáng mà mù vì nghĩ rằng mình chẳng cần ánh sáng nào cả.
*Cái sáng 2: là anh biết ai là người có thể làm cho anh sáng mắt: anh đã nghe nói về Ngài nhiều rồi. Anh còn sáng ở chỗ nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế: Nghe tin có Đức Giêsu Nazaret, anh kêu to: Lạy Giêsu, con Vua Đavit. “Con Đavit” là tước hiệu Đấng Cứu Thế.
*Cái sáng 3: là anh biết anh phải làm gì. Tìm và chờ cho gặp được người có thể chữa mình. Không chạy đến với Người bằng đôi chân (vì mắt mù) thì chạy đến bằng tiếng kêu. Người ta bảo chàng im đi, muốn át tiếng kêu của chàng, thì chàng lại la to hơn: “Lạy Con vua Đavit xin thương xót thân con !”
*Cái sáng 4: là khi tiếp xúc được với người có thể chữa mình, anh biết từ bỏ. Anh ta liền vất cả áo choàng nhảy chồm lên mà đến với Đức Giêsu. Rồi khi Đức Giêsu đã chữa anh, anh liền đi theo Người.
Đó là một mẩu người mù mà vẫn sáng, vì người đó biết mình cần gì. Mình phải làm gì để đạt được điều mình cần. Và khi đạt được rồi phải làm gì để giữ mãi được điều mình cần đó. Đó là đi theo Ngài, là chính Ánh sáng.
Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trao nến sáng, tượng trưng cho Đức Kitô là Ánh Sáng. Chúng ta giữ mãi ánh sáng này không, hay là chúng ta như hạng người thứ hai: sáng mắt mà mù.
2. Có những người sáng mắt mà mù
Như người anh trong câu truỵên cổ tích: nghe nói đến kho tàng của cải là mù tối ngay. Sẵn sàng giả vờ mù, đi trong đêm tối để rồi bị chết vào tay bầy quỉ. Thì cũng vậy:
-Có người người mắt thật sáng, mà vì một chút lợi lộc cỏn con, không thèm nhìn thấy người kia là bạn mình nữa. Có những người mắt thật sáng mà chỉ vì một câu nói chạm tự ái, một hành vi nhỏ động khẽ đến danh dự là muốn làm cho to chuyện, làm cho ra nhẽ, lại hoá ra đánh mất luôn cái danh cỏn con ấy.
-Có những người mắt thật sáng, mà hoá mù trước cái tốt của kẻ khác.
.Xin mẹ 1000, mẹ không cho, em bé phụng phịu khó chịu. Em nhìn thấy thật sáng tờ 1000 mà mù, không thấy bao nhiêu là tiền của công sức nuôi dạy em, từ bé cho tới giờ, để rồi tức tối với cha mẹ. (chuyện một em bé đòi tiền công rửa chén, quét nhà bằng một tờ giấy viết tay, là 10 ngàn. Mẹ đưa bé tờ một chục. Tối đến mẹ chìa cho bé xem một hóa đơn dài, ghi sẵn tiền công sinh, công dưỡng, công chăm sóc bé…cho đến nay. Cộng chung con số tiền cực to).
.Người vợ quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng chỉ thấy cái mầu đen của cà phê mà mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.
.Người chồng quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến. Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa sửa mà mù trước biết bao công sức chàng đã làm cho nhà cửa gia đình.
Để nhìn cho được cái tốt của kẻ khác, nói cách khác để mắt ta không mù trước cái tốt của tha nhân, cần có Đức Kitô Con vua Đavit mở cho chúng ta. Không phải dễ. Và khi đã mở rồi, ta phải gắn bó với Ngài, tức là phải tìm ánh sáng nơi Ngài trong các cư xử hằng ngày của ta. Chớ gì trước khi nóng giận chỉ trích, ta thử hỏi Đức Giêsu trong hoàn cảnh này sẽ làm gì. Ta hãy cầu xin Đức Giêsu, Con vua Đavit mở mắt cho chúng ta nhìn thấy người khác là hình ảnh và là chính thân thể Đức Kitô vậy.
Suy niệm chú giải Lời Chúa CN XXX TN B - Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm lòng của Thiên Chúa đối với TN 30-B127
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm lòng của Thiên Chúa đối với nỗi khốn cùng của nhân loại.
Gr 31: 7-9
Bài Đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa. Ngài đã bày tỏ tấm lòng phụ tử đối với những người lưu đày khi đích thân dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Dt 5: 1-6 Thư gởi tín hữu Do thái so sánh Đức Giê-su với vị thượng tế Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế Tân Ước thập toàn biết cảm thông những yếu đuối của con người.
Mc 10: 46-52
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu đầy lòng tin của anh mù thành Giê-ri-cô và đã đáp trả ước nguyện của anh.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 7-9)
Bản văn nầy được trích từ chương 31 sách Giê-rê-mi-a. Chương 31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ viết để ca ngợi tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa.
1.Bối cảnh:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon, nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh thành thánh đổ nát và cảnh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoang phế. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng báo trước, nhưng đồng bào ông đã để ngoài tai những lời cảnh báo của ông.
Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 tCn.). Chính vào thời kỳ nầy mà bản văn hân hoan nầy được viết, chủ yếu liên quan đến những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Vào thế kỷ trước đó, hai miền này đã bị đế quốc Át-sua xâm chiếm và một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc Át-sua trở nên suy yếu và không còn đủ sức bành trướng. Nhờ đó, vua Giô-si-gia-hu mới có thể thực hiện công cuộc canh tân cải tổ toàn diện của mình trên toàn cõi đất nước.
2.Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, ít ra một sấm ngôn bày tỏ niềm mơ ước này được gặp thấy ở chương 30-31. Cùng chung nhịp với tấm lòng của Thiên Chúa, vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11). Chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a hình dung Đức Chúa kêu mời muôn dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân tộc đứng đầu chư dân!”. Ít-ra-en được gọi “dân tộc đứng đầu chư dân”, vì dân này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tách riêng ra giữa muôn dân và được Ngài rất mực yêu thương.
“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn lại của Ít-ra-en”. “Số còn lại của Ít-ra-en” là những người đã kinh qua gian khổ của cuộc lưu đày, họ sẽ là chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn. Cũng danh xưng nầy sẽ được dùng để gọi những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ sau đó.
3.Ngày trở về:
“Nầy Ta đưa chúng từ phương Bắc trở về”: Đây là cách nói kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”. Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. Tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các chi tộc phương Bắc và tước hiệu “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.
Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện. Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua. Dân Ít-ra-en phải chịu cảnh đời nô dịch này thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh tươi đẹp mà vị ngôn sứ phác họa chỉ được ứng nghiệm sáu mươi năm sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Chính từ những viễn cảnh tươi đẹp này sẽ được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon, lấy lại và khai triển những đề tài chứa chan hy vọng cho những người lưu đày Ba-by-lon. Tuy nhiên, trong trực giác sâu xa của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa đau khổ, vị ngôn sứ đã đem lại cho niềm ước mơ của mình một tầm mức mà chính ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 1-6)
Trọng tâm của Thư gởi tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn và trổi vượt vô vàn so với vị Thượng Tế Cựu Ước.
Hai khía cạnh chủ yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số phàm nhân; mặt khác, ông là người của Thiên Chúa, người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của hai khía cạnh nầy, tác giả đối chiếu tấm lòng biết cảm thông với con người yếu đuối và tội lỗi giữa vị thượng tế Cựu Ước và Đức Ki tô, vị thượng tế Tân Ước.
1.Vị thượng tế Cựu Ước:
Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế Cựu Ước: là một con người như bao nhiêu người khác, ông chia sẻ những yếu đuối của con người; ông lại càng cảm thông hơn nữa với những tội lỗi của họ bởi vì chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”. Không ai có thể tự phong cho mình là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức thượng tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền con nối. Thiên Chúa đã chọn ông A-ha-ron một lần cho tất cả, bao gồm hậu duệ của ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).
2.Đức Ki tô, vị Thượng Tế Tân Ước:
Tác giả sẽ đối lập vị Thượng Tế biết cảm thông của Cựu Ước với Đức Ki tô, vị Thượng Tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Ki-tô với hai đặc tính biệt phân: trước hết, Đức Ki-tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa; thứ nữa, Đức Ki-tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki-tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm thông tuyệt vời vì Ngài là Đấng Trung Gian trực tiếp lòng xót thương của Thiên Chúa. Chức tư tế độc nhất vô nhị của Đức Ki-tô diễn tả một chuyển động từ trên xuống: tấm lòng Phụ Tử của Thiên Chúa đối với con người.
Quả thật, chính từ sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận được lễ tấn phong của mình. Tác giả trích dẫn Tv 2 để làm chứng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một trong những Thánh Vịnh phong vương. Thời quân chủ Đa-vít, vào ngày lễ phong vương, vị tân vương được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng, còn tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki-tô mới là đích thực. Tước hiệu Thiên Tử của Chúa Giê-su không chỉ hàm chứa biến cố Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng còn tính cách vương đế của Ngài. Đức Ki-tô vừa là vương đế vừa là thượng tế, như vậy làm trọn niềm ước mơ Mê-si-a.
3.Vị Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê:
Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi, vì thế, Ngài không thể tự nhận mình là thượng tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê. Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (thành Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”. Chính ông đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, tiến dâng bánh và rượu lên Thiên Chúa. Còn ông Áp-ra-ham thì biếu tặng cho “con người của Thiên Chúa” nầy một phần mười chiến lợi phẩm của mình.
Truyền thống đối lập chức thượng tế A-ha-ron với chức thượng tế Men-ki-xê-đê. Chức thượng tế Men-ki-xê-đê thì không giới hạn, không lai lịch, muôn đời, có nguồn gốc thiên giới. Chính ở nơi mẫu thức chức thượng tế Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này, cũng là một Thánh Vịnh phong vương, loan báo vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy cũng mang một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức Ki-tô, Ngài là vị Thượng Tế biết cảm thông với những yếu đuối và tội lỗi của con người và Ngài là Đấng Trung Gian muôn đời bên cạnh Chúa Cha.
TIN MỪNG (Mc 10: 46-52)
Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
1.Bối cảnh:
Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, băng qua thành Giê-ri-cô. Chính ở thành Giê-ri-cô nầy mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại trước khi cùng nhau lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài cùng với đám đông đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Vì thế, việc thánh ký ghi nhận “Đức Giê-su cùng với đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-cô” phù hợp với khung cảnh của khách hành hương trước đại lễ Vượt Qua.
2.Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô:
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được mô tả rất sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang nhộn nhịp lên đường lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, anh không cam chịu số phận bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng, nhờ đó biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây; vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã mở mắt cho nhiều người mù. Vì thế, anh kêu to và bạo dạn gọi Đức Giê-su là “Con vua Đa-vít”, tước hiệu của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt bảo anh im đi. Đám đông trở nên chướng ngại ngăn cản anh đến với Đức Giê-su. Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu gào hơn nữa át cả những lời quát tháo ngăm đe của đám đông để làm thế nào lời kêu cứu của anh đến được với Đức Giê-su.
Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà không đòi buộc anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải thích sai lạc về sứ vụ Mê-si-a của Ngài. Giờ đây, Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức sứ vụ Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.
3.Đức tin của anh mù thành Giê-ri-cô:
Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy niềm tin của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và ra lệnh: “Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức khắc thay đổi thái độ từ ác cảm sang thiện cảm khi khuyến khích anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
Khi được Đức Giê-su gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại”. Trong Kinh Thánh, y phục không chỉ để che thân nhưng nhất là tượng trưng cho nhân cách người mặc nó. Khi “vất áo choàng”, anh vất thân phận bị khai trừ của mình. “Áo choàng” cũng là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26); đối với anh hành khuất mù này, áo choàng còn là phương tiện sinh sống, bởi vì người mù thường trải chiếc áo choàng ra trước mình để đón nhận của bố thí. Khi vất áo choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su. Đây đúng là lời đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên giàu có. Anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì đúng là thái độ của đức tin.
Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng sự tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Tác giả sách “Hạt Giống Nẩy Mầm” viết: “Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đồng của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Người. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống như thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Ba-ti-mê để cầu xin với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy’”.
4.Anh mù đón nhận nhiều hơn điều anh mong chờ:
“Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mặc lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi” hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh ơn cứu độ mà Ngài đem đến nữa. Như vậy, anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng.
Câu chuyện kết thúc với lời đáp trả tích cực của anh: “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Con đường mà Đức Giê-su đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường dẫn Đức Giê-su đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Đó cũng là con đường mà anh mù Ba-ti-mê vừa được sáng mắt đi theo Ngài để được dự phần vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy, câu chuyện kết thúc với việc ghi nhận rằng anh mù Ba-ti-mê được sáng mắt trở thành người môn đệ lý tưởng của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh vẫn được truyền trong ký ức của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Như vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng về một đức tin năng động và kiên vững tương phản với tâm trí u mê mù tối của các Tông Đồ trước ba lần loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy. Câu chuyện nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Một lần nữa, chúng ta thấy nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của thánh Mác-cô. Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú nhất.
46Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. 47Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" 48Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" 49Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây! "Người ta gọi anh mù và bảo: ‘Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!’ 50Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. 51Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?". Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được". 52Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!". Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Học hỏi:
Phép lạ ở Mc 10,46-52 là phép lạ thứ mấy trong Phúc âm Máccô? Có mấy phép lạ chữa người mù TN 30-B128
1. Phép lạ ở Mc 10,46-52 là phép lạ thứ mấy trong Phúc âm Máccô? Có mấy phép lạ chữa người mù trong Phúc âm Máccô?
2. Bạn biết gì về thành phố Giêrikhô? Đức Giêsu ra khỏi Giêrikhô để đi đâu? Đọc Mc 10,32; 11,11,1.
3. Phúc âm Máccô có khi nào nói tên của một người được Đức Giêsu chữa lành không?
4. Đức Giêsu được anh mù gọi là "Con vua Đavít", tước hiệu đó nghĩa là gì? Đám đông ở Mc 11,1-11 có nhìn nhận Đức Giêsu là "Con vua Đavít" không? Đức Giêsu có nhận mình là "Con vua Đavít" không?
5. Tại sao nhiều người bắt anh câm đi? Tại sao anh lại càng kêu lớn? Bạn có thấy những người muốn được khỏi bệnh đều cần có lòng tin kiên vững không? Đọc Mc 2,4; 5,27-28; 5,35-36; 7,27-29; 9,17-24.
6. Khi nghe hai lời kêu xin của anh mù ở Mc 10,47.48, bạn cảm thấy điều gì trong lòng? Lời xin của anh mù có quen thuộc với chúng ta không?
7. Đọc Mc 10,51. Anh mù gọi Đức Giêsu bằng tước hiệu gì? Câu hỏi của Đức Giêsu đối với anh mù, ta đã từng gặp ở đâu? Nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và anh, bạn cảm thấy gì?
8. Đọc Mc 10,52. Bạn thấy cách chữa anh mù ở đây có khác với cách chữa ở Mc 1,31. 41; 5,27. 41; 7,33-34; 8,22-26 không?
9. Theo ý bạn, điểm nổi bật nơi con người anh mù là gì? Sau khi anh mù được sáng mắt, anh đã làm gì? Đâu là sự thay đổi của anh? Anh mù đã được sáng về mặt nào?
10. Nếu hôm nay Chúa Giêsu hỏi tôi: "Con muốn Ta làm gì cho con?" tôi sẽ trả lời ra sao?
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ lớn của Chúa Giêsu. Đang khi Ngài trên đường lên Giêrusalem, TN 30-B129
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ lớn của Chúa Giêsu. Đang khi Ngài trên đường lên Giêrusalem, đến thành Giêricô, có một người mù kêu cầu khẩn thiết và Ngài đã chữa lành cho anh được sáng mắt. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu để rút ra nhận thức áp dụng cho bản thân.
1. Bối cảnh của câu chuyện:
Hôm ấy, Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để dự lễ vượt qua. Con đường chính lên Giêrusalem chạy xuyên qua Giêricô. Giêricô là thành phố cách Giêrusalem khoảng 15 dặm. Vì gần đến lễ Vượt Qua nên trên đường đông ngẹt khách hành hương. Theo luật qui định, tất cả mọi người Do thái thuộc phái nam, ở cách Giêrusalem trong vòng 15 dặm, đều buộc phải đi hành hương. Những ai không bị buộc đi hay vì lý do chính đáng không thể đi được, thì đứng dọc dài hai bên đường để cầu chúc bình an cho những người đi qua.
Thông thường, khi có một thầy Rápbi trọng vọng đi ngang qua, vị Rápbi này sẽ vừa đi vừa thuyết giảng cho dân chúng. Ngày hôm đó, chắc chắn có rất nhiều người đang nóng lòng chờ đợi một vị Rápbi rất nổi tiếng sắp đi ngang qua thành Giêricô, đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là một Rápbi vừa nổi tiếng về sự thông thái và cách giảng dạy thật mới lạ, vừa nổi tiếng là người “nổi loạn”, là người muốn “cải tổ luật pháp và phụng vụ của Do thái”, theo như lời kết án của các tư tế, luật sĩ và biệt phái.
2. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và anh mù:
Cũng giống như những thành phố khác thời bấy giờ, thành Giêricô cũng có tường thành bao quanh với nhiều cửa, để tiện cho việc canh gác kẻ địch. Ở cửa phía Bắc, anh mù ăn mày tên là Bartimê nghe được nhiều tiếng cười nói, tiếng bước chân người qua lại, nên anh dò hỏi xem có chuyện gì. Người ta nói cho anh biết là Chúa Giêsu sắp đi ngang qua. Nhận thấy đây là cơ hội ngàn năm có một, anh liền quyết tâm thực hiện mơ ước lớn nhất của đời mình, là xin Chúa Giêsu chữa cho anh được sáng mắt.
Vừa lúc Chúa Giêsu xuất hiện, anh ta liền đứng dậy kêu to: “Lạy Giêsu con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi!”. Giữa đám đông ồn ào, anh dùng hết sức bình sinh của mình, cố hét to lên để Chúa Giêsu phải chú ý đến anh. Trong khi mọi người đang chăm chú nghe Chúa Giêsu giảng dạy, thì tiếng hét to như vậy là một điều xúc phạm. Chính vì vậy, người ta nạt nộ anh, bắt anh phải im lặng. Nhưng anh không nản lòng mà càng kêu lớn tiếng hơn nữa: “Lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi!”.
Danh xưng “con vua Đavít” mà anh mù vừa kêu chính là tước hiệu chỉ về Đấng Messia, tức là chính Chúa Giêsu. Chắc chắn Chúa Giêsu đã nghe biết nỗi lòng của anh trước khi anh kêu xin. Nhưng bây giờ mới là lúc Ngài ra tay tế độ. Ngài bảo mọi người rằng: “Hãy dẫn anh lại đây cho ta!”. Rồi ngay lập tức, Ngài đã chữa lành cho anh trước sự ngạc nhiên và thán phục của mọi người.
3. Nhận thức và áp dụng:
Điều chúng ta nhận thấy trước tiên chính là tấm lòng bao dung của Chúa Giêsu đối với anh mù. Quả thật, Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Ngài luôn quan tâm, chăm sóc và cứu chữa mọi người, nhất là những người tật nguyền đau khổ. Cũng vậy, Ngài luôn động lòng trắc ẩn trước những tiếng kêu van thống thiết của mỗi người chúng ta.
Thứ đến, chúng ta cũng nhận thấy đức tin vô cùng mạnh mẽ của anh mù. Thật thế, nơi những cử chỉ của anh mù, bộc lộ một đức tin rất mãnh liệt và ước muốn thiết tha. Có thể anh chưa biết hoàn toàn về sứ mạng thực sự của Chúa Giêsu, nhưng chính đức tin và sự khiêm tốn nhìn nhận bệnh tật của anh đã bù đắp lại cho sự khiếm khuyết này. Cũng vậy, nếu chúng ta thật lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu thì Ngài sẽ sẵn sàng cứu giúp.
Tất cả chúng ta đây, có lẽ không ai bị mù lòa. Tuy nhiên, rất có thể chúng ta đang bị mù quáng. Bởi vì, không ít lần, trong tương quan với Chúa và tha nhân, chúng ta đã suy nghĩ, nói năng và hành xử giống như những người mù, nhưng chúng ta lại không nhận ra điều đó và vẫn nghĩ rằng mình là người sáng suốt. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta nhận ra sự mù quáng của mình, biết tin tưởng chạy đến kêu van Chúa để được Chúa chữa lành.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, xin cứu chữa chúng con! Amen.
Đây là một Thánh vịnh lên đền. Là một phần của tổng hợp các bài ca mà người Do Thái hát khi TN 30-B130
Đây là một Thánh vịnh lên đền. Là một phần của tổng hợp các bài ca mà người Do Thái hát khi hành hương về Giêrusalem. Những biểu thức (ra đi…đi…trở về…về..) gợi lên một cuộc rước lên Đền Thờ, có lẽ với những bó lúa vào dịp Lễ hội người ta dâng lên Thiên Chúa những hoa màu vừa mới thu hoạch.
AddThis Sharing Buttons
Share to FacebookShare to MessengerShare to Google+Share to Twitter
1 Ca khúc lên Đền.
Khi CHÚA dẫn tù nhân Xi-on trở về,
ta tưởng mình như giữa giấc mơ.
2 Vang vang ngoài miệng câu cười nói,
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán:
"Việc CHÚA làm cho họ, vĩ đại thay !"
3 Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại !
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
4 Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân chúng con về,
như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.
5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo ;
lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
Kỳ công của Chúa: giải thoát. Những gì đối với loài người là không thể được, đều có thể đối với Thiên Chúa.
Khởi sự thực hiện: giải thoát những người bị lưu đày ở Babylon…
Loan báo và cầu xin sự giải thoát được thực hiện cách toàn diện và dứt khoát.
Cùng đọc với dân Ítraen
Đây là một Thánh vịnh lên đền. Là một phần của tổng hợp các bài ca mà người Do Thái hát khi hành hương về Giêrusalem. Những biểu thức (ra đi…đi…trở về…về..) gợi lên một cuộc rước lên Đền Thờ, có lẽ với những bó lúa vào dịp Lễ hội người ta dâng lên Thiên Chúa những hoa màu vừa mới thu hoạch. Lưu ý đến nhịp điệu được diễn tả qua cách dùng điệp ngữ, giống như bậc người ta bước lên từng bước một: dẫn về… dẫn về, ta tưởng mình…. Ta thấy mình… ôi vĩ đại…vĩ đại thay. Mỗi khúc được xây trên một nhịp được gọi là bài ca than: câu thứ nhứt có ba dấu nhấn, và câu hai có hai dấu nhấn, giống như hơi thở của một người đang xúc động mạnh, sắp ngất:
Họ ra đi, đi mà nức nở / mang hạt giống vải gieo
Lúc trở về, về reo hớn hở / vai nặng gánh lúa vàng
Ý đầu tiên của Thánh vịnh này chính là ý của tác giả Thánh vịnh Do Thái đã đặt vào: cuộc trở về của các tù nhân, nhờ sắc chỉ Cyrô năm 538, sau 47 năm lưu đày Babylon. Biến cố lịch sử này là một biểu trưng không thể chối cải được: biểu trưng cho mọi hoàn cảnh vô vọng của con người, và chỉ mình Thiên Chúa mới có thể giải cứu. Những người được cứu cứ tưởng mình đang mơ và niềm vui bừng lên trong họ! Ngay cả dân ngoại cũng ngạc nhiên và cất lời ca tụng.
Để diễn tả một cách thi vị ý tưởng sự sống tái sinh sau cái chết, tác giả Thánh vịnh đã dùng hai hình ảnh: suối cạn trong hoang địa, dòng suối nước làm cho hoang địa Nêgéb nở hoa vào mùa xuân…và những mầm lúa bị chôn vùi trong đất làm nẩy sinh niềm vui mùa gặt hái.
Thông thường, ta lưu ý đến chiều kích cánh chung của lời cầu nguyện: ơn cứu độ đã khởi đầu nhưng chưa hoàn tất. Những người hành hương lên Giêrusalem, ca tụng sự giải cứu gồm bốn phương diện: vượt ra khỏi Ai Cập để chinh phục Đất Hứa, vượt ra khỏi Babylon lưu đày, vượt qua hiện tại của người hành hương để về với Thiên Chúa, vượt qua cánh chung của tất cả muôn dân nước vào ngày tận thế. Sự giải cứu đích thực chính là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu.
Cùng Đọc Với Chúa Giêsu
Đặt những lời Thánh vịnh này nơi miệng Chúa Giêsu vào sáng ngày phục sinh: chính giây phút mà Ngài đang hưởng sự sống lại, đang cầu xin Chúa Cha hoàn tất công trình của Ngài bằng việc dẫn đưa những tù nhân về từ cõi chết.
Đây không chỉ là một tư tưởng đạo đức có tính nhất thời, vì, chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt giống như biểu trưng của sự chết-sống lại (Ga 12,24). Và rất nhiều lần, Ngài nói đến việc Nước Trời đến như một mùa gặt ( Mt 9,37; 13,30; 13,39; Mc 4,29; Ga 4,35) Dù ngủ hay thức, hạt lúa cứ mọc lên, Nước Thiên Chúa đến…
Bằng việc chết đi, bằng việc gieo hạt trong nước mắt, Đức Giêsu biết Ngài sẽ gặt hái, và yêu cầu các bạn hữu của Ngài hãy ở trong niềm vui của Ngài (Ga 16,22)
Cùng Đọc Với Người Thời Nay
Không ai có thể thay thế chúng ta để hiện thực hóa Thánh vịnh này, để trở nên xương thịt của chúng ta, để làm thành lời nguyện có tính cá biệt cao nhất, từ những hoàn cảnh riêng tư của mình.
Thiên Chúa Đấng cứu độ, Đấng giải thoát. Ta có tin thật thế không ? Ta có tin rằng Thiên Chúa làm chủ cả những điều không thể ? Những người sống sót trở về từ lưu đày, không dám tin vào chính họ, đối với họ đó là điều không thể tin được. Còn tôi? Đã xảy ra hoàn cảnh nào trong cuộc sống vợ chồng, cha mẹ mà tôi cảm như cùng đường… thất bại nào như điểm tận cùng… lỗi lầm nào như in khắc vào cuộc đời thường ngày của tôi, tang chế nào chấm dứt một cuộc sống… Niềm hy vọng kitô của chúng ta không phải là một điều lơ mơ cho rằng rồi thì mọi sự sẽ đâu vào đó, nhưng là một điều chắc chắn, chính Thiên Chúa thực hiện để cứu những gì hư mất: chính Thiên Chúa dẫn đưa về những tù nhân. Chính Ông Chủ Mùa gặt đang làm cho đồng lúa chín vàng (Mc 4,26-29)
Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác. Ơn cứu độ, theo một cách nhìn, là một ân huệ nhưng không. Và theo cách này, ta có thể nói mà không sợ sai rằng Ngài thực hiện không cần chúng ta, hoặc Ngài vượt lên trên mọi khả năng của chúng ta. Thế nhưng Ngài cũng dựng nên ta là những con người tự do: chúng ta không phải là những con rối được Ngài điều khiển từ xa. Thánh vịnh này cho thấy cả một chương trình hành động, trách nhiệm: ai gieo trong lệ sầu sẽ gặt trong hân hoan: phải làm hết khả năng để biến đổi tình trạng chết của ta thành sự giải thoát. Hạt gieo xuống tưởng chừng mất đi, và nhất là trong những vùng đói kém, có thể nói được là những người đi gieo đang làm một hy sinh hạt lúa, họ mất nó trong một thời gian nhất định, họ không có gì để ăn: quả thật là điều đáng khóc.
Vai trò tích cực của thập giá. Sự cộng tác của ta vào ơn cứu độ, cách chúng ta gieo hạt, chính là chấp nhận chết như hạt lúa, thối đi để sinh nhiều bông hạt. Ta sống những thử thách của ta như là những thông hiệp vào thập giá Đức Giêsu. Hình ảnh hạt mầm giúp gợi ý cho ta: truớc hết phải bị đè bẹp, chôn vùi… rồi mới đến những bó lúa, những gié lúa no sữa.
Ý chủ đạo trong Thánh vịnh này là niềm vui vỡ lỡ thành những trận cười vui ca.
Thế giới này chỉ mới là khởi đầu. Lần đầu khi đọc Thánh vịnh này, người ta rất ngạc nhiên khi thấy Thánh vịnh bắt đầu bằng sự phấn khởi: hai câu đầu tiên, sự giải cứu hầu như đã hoàn tất.. nhưng rồi tại sao lại thấy hai câu gợi nhớ? Sự trở về của các tù nhân, cho dẫu là kỳ công nhưng vẫn là điều gì hết sức đặc biệt và mang sự thất vọng: sau những trận cười vui ca hát thì cuộc chiến đấu lại khởi đầu… Không thể nói cho đủ hết được: chỉ có sự sống lại mới có thể hoàn thành toàn vẹn lời hứa của Thiên Chúa. Cần phải chờ đợi, bằng cách đi gieo trong lệ, bằng cách biết rằng Nước Thiên Chúa (vinh quang tỏa rạng của Thiên Chúa) đang đến và mùa gặt đến. Hội Thánh biết rằng, như một kinh nghiệm cho mọi người, lệ sầu là hạt mầm của niềm vui.
Noël Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I
“Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10, 51)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Gr 31,7-9)
Giêrêmia là một ngôn sứ nổi tiếng tiên báo về những tai hoạ. Dù vậy, cũng có khi ngài có những TN 30-B131
Giêrêmia là một ngôn sứ nổi tiếng tiên báo về những tai hoạ. Dù vậy, cũng có khi ngài có những sấm ngôn đầy khích lệ, ủi an và đầy hân hoan. Bối cảnh xảy ra đang khi vua Giosia khởi sự cuộc cải cách tôn giáo và bắt đầu việc dành lại Samaria, giúp Israel thoát khỏi 100 năm trong tay người Assiri. Những sấm ngôn này được gọp lại trong bốn chương thường được gọi là Sách An ủi (chương 30-33). Đây là những lời mời gọi hân hoan và vui mừng, vì Thiên Chúa không bỏ rơi, nhưng vẫn một mực yêu thương Israel dân Người (x. 31,3.15-20), và Người sắp can thiệp để giúp họ, đưa họ về quê cha đất tổ sau những năm tháng bị lưu đày cơ cực ở Ninivê. Đây là một trong số những lời đẹp nhất của những trang Kinh thánh:
Reo vui lên mừng Giacóp, hãy hoan hô... Nào loan tin…, Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel. Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng có kẻ đui mù, què quặt, tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo. Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn tới dòng nước, qua con đường thẳng băng… Đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ephraim chính là con trưởng” (31,7-9).
Những lời đầy khích lệ và an ủi này nhắc nhớ lại lịch sử của những người lưu đày Israel và của mỗi người chúng ta. Ai đã kinh qua một lần xa Chúa trong cảnh ‘lưu đày’ sẽ kinh nghiệm được tâm tình “nước mắt tuôn rơi”. Hành trình trở về, dầu phải cực nhọc và cam go, nhưng cuối cùng sẽ bắt gặp dòng nước mát trong phun lên từ hoang mạc; Đức Chúa là Cha, là Thân phụ, sẽ không bỏ rơi con của Người bao giờ, và sẽ chờ đợi gặp lại những đứa con què quặt đui mù thân yêu của Người.
2. Bài đọc II (Dt 5,1-6)
Thư Do thái được viết cho các tín hữu gốc Do thái đã tin vào Đức Giêsu, nhưng họ vẫn mang trong mình nỗi nhớ Đền thờ Giêrusalem với những lễ nghi long trọng; họ bắt đầu có cám dỗ quay trở lại những tập tục xưa cũ này.
Tác giả của bức thư, một người Kitô hữu rất am hiểu về Kinh thánh và truyền thống Do thái, đã làm rõ những khó khăn này, bằng cách giải thích cho những người anh em cùng chung niềm tin vào Đức Kitô rằng chính Người là vị thượng tế đời đời vượt trên mọi vị thượng tế của thời xưa cũ.
Đoạn trích hôm nay mô tải lại đặc tính của các vị thượng tế dâng hy lễ trong Đền thờ. Họ không thể tự thân mình mà có vinh dự này, nhưng phải được Thiên Chúa chọn gọi như Aharon. Kế tiếp, họ không là thiên thần, nhưng là những con người thật, với đầy đủ những yếu đuối và bất toàn nhân loại để họ cũng có thể cảm thấu được những yếu đuối nơi anh em và liên đới với họ (cc. 1-4). Chính Đức Giêsu Kitô thừa hưởng tất cả hai yếu tố này: Người là vị Thượng tế được Chúa Cha chọn gọi và ban vinh dự này (cc. 5-6); Người cũng kinh qua những khổ đau và cám dỗ nhân loại, ngõ hầu biết thông cảm cho những lỗi phạm của chúng ta (cc. 7-10).
Bài đọc mang sứ điệp đầy an ủi cho những người Do thái với nỗi nhớ và hoài niệm xưa. Chính Đức Giêsu Kitô hôm nay là Lời Kinh thánh và là lương thực trường tồn vượt hơn bất cứ của ăn nào của nghi lễ xưa.
3. Bài Tin Mừng (Mc 10,46-52)
Đoạn trích hôm nay khép lại phần trung tâm của Tin mừng Marcô, trong đó, Đức Giêsu nêu rõ đâu mục đích hành trình của Người, và đâu là những đỏi hỏi cần thiết cho những ai muốn theo Người. Đức Giêsu đã trải qua một chặng đường dài trong hành trình: từ Galilê, Người đi dọc xuống miền Giorđan và hôm nay Người đến Giêricô. Chỉ còn khoảng hơn hai mươi cây số sẽ đến chặng dừng cuối cùng nơi Thành thánh Giêrusalem.
Tại Giêricô này, Người đã làm một dấu lạ cuối cùng khi chữa anh mù Bartimê ăn xin bên vệ đường. Cuộc gặp gỡ giữa anh mù với Đức Giêsu bên vệ đường đều được ghi lại trong Tin mừng nhất lãm, và được xem không chỉ như là một trình thuật kể lại sự kiện, nhưng trong ý định của Marcô, đây còn như là một dụ ngôn về một con người được Chúa soi dẫn, và là hình ảnh của người môn đệ đích thật.
Hình ảnh anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường diễn tả thân phận của những người chưa được ánh sáng Tin Mừng Phục Sinh soi chiếu, và đang vật lộn trong kiếp người sống chết theo số phận mà không lối thoát.
Hôm nay nghe tin Đức Giêsu đi ngang qua đời mình, dù anh vẫn còn đui mù trong thân xác, nhưng ánh sáng tâm linh đã chiếu soi mạnh mẽ trong tâm hồn anh, anh cảm nghiệm được điều này và tận trong tâm khảm anh đã ‘nhìn thấy’ Đức Giêsu là Đấng Messia.
Tuy vậy, tiếng kêu ‘nhìn thấy’ từ bên trong của anh vẫn còn nhiều chướng ngại: chướng ngại của những người chung quanh, và chướng ngại của tấm áo choàng đời mình. Từ hai chướng ngại trước kia làm cản trở anh, thì nay đã trở thành những phương thế để anh gặp Chúa. Chính những người đó, qua Lời của Chúa, đã gọi và dẫn anh đến gặp Người; chính tấm áo choàng che thân năm xưa, nhờ vứt bỏ nó, anh nhẹ nhàng đến được với Chúa.
Để ý rõ ta thấy, trước khi gặp và đối thoại với Chúa, anh mù Bartimê đã là môn đệ thật sự khi Người đi ngang qua: cảm nhận, tin, từ bỏ và đứng dậy theo Người. Kết quả là mắt anh được nhìn thấy; nhưng cái quan trọng hơn, đó là lòng anh đã nhìn thấy và tin nơi Đức Giêsu. Ai muốn được soi dẫn như anh mù Bartimê, cũng phải thực hiện một chọn lựa giữa tấm áo choàng cũ kỹ và ánh sáng Đức Kitô.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đối với Israel, Ta là một người Cha. Lời khẳng định của Chúa qua ngôn sứ Giêrêmia như là một khẳng định chắc chắn và dứt khoát về bản tính của Người. Dù Israel có phạm tội, có bất trung, dù có bị lưu đày, Thiên Chúa vẫn mãi là thân phụ, một người Cha yêu thương con người. Tôi cảm nghiệm điều gì nơi Chúa trong những lúc “lưu đày” của đời mình?
2. Thư Do thái hôm nay nêu bật bản tính của vị Thượng tế Giêsu: luôn cảm thông và liên đới với những kẻ lầm lạc. Mỗi thánh lễ hôm nay là một hy tế dâng lên Thiên Chúa Cha được gói ghém cùng với những thân phận con người. Tôi cảm nghiệm điều gì mỗi lần tôi cùng với cộng đoàn tham dự hy tế thánh lễ mỗi ngày?
3. "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được". Đó là lời kêu xin khẩn thiết của anh mù Bartimê năm xưa trong thân phận ‘bên vệ đường’ của mình. Tôi đang trong hoàn cảnh nào trong tương quan với Chúa và tha nhân? Tôi muốn xin điều gì với Chúa hôm nay “tấm áo choàng” hay “được nhìn thấy”?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô là Ánh sáng thế gian và là Ðấng cứu độ muôn dân. Người được Chúa Cha sai đến để dẫn đưa nhân loại ra khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi. Chúng ta hãy đặt hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa và thành tâm dâng lời cầu xin.
1. Hội thánh được mời gọi tiếp bước Đức Kitô trở nên Ánh sáng chiếu soi cho muôn người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn ý thức chu toàn sứ mạng cao cả ấy bằng lời rao giảng, đời sống cầu nguyện và gương sáng của mình.
2. Trên thế giới còn biết bao người đang sống trong tối tăm lầm lạc. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai đang ngủ mê hay cứng lòng được ơn thức tỉnh để nhận biết Chúa Kitô là Ánh sáng và là Ðường duy nhất, dẫn đưa con người đến sự sống và hạnh phúc đích thực.
3. Chúa Giêsu nói với người mù: “Đức tin của con đã cứu chữa con”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người đang đau khổ phần hồn hay phần xác, được vững vàng trong đức tin, luôn trọn niềm phó thác và hy vọng vào tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
4. Người mù được nhìn thấy và đi theo Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết nhận ra những ân huệ Chúa ban trong cuộc sống, nhất là hồng ân cứu độ thật cao quý, để luôn vững tin và trung thành bước theo Chúa tới cùng.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha và là Đấng cứu độ trần gian, Chúa đã ban tặng Đức Giêsu Kitô là ánh sáng dẫn đưa con người đến tận nguồn chân lý. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và thương mở mắt tâm hồn để chúng con ngày càng thêm hiểu biết các mầu nhiệm đức tin. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
- CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO - CÂU CHUYỆN CHỮA LÀNH - CŨNG LÀ CÂU CHUYỆN ƠN GỌI
[Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52]
Nếu chúng ta đọc bài Phúc âm Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm B (Mc 10,46-52) một cách hời TN 30-B132
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nếu chúng ta đọc bài Phúc âm Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm B (Mc 10,46-52) một cách hời hợt thì chúng ta chỉ thấy đó là câu chuyện chữa lành, vì trọng tâm của câu chuyện là anh chàng mù Báctimê ở Giêrikhô đã được Chúa Giêsu làm cho sáng mắt. Nhưng nếu chúng ta đọc bài Phúc âm Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm B ấy một cách kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ thấy đó không chỉ là câu chuyện chữa lành mà còn là câu chuyện của ơn gọi nữa.
Cách chú giải mới này rất phù hợp với mạch văn của Phúc Âm Máccô, vì tác giả Tin Mừng thứ hai đặt song song câu chuyện này với tường thuật Chúa Giêsu và các Tông Đồ đang trên đường lên Giêrusalem trong hành trình ấy hai Tông Đồ Giacobê và Gioan xin Chúa Giêsu dành hai chỗ cao nhất (bên hữu và bên tả) trong vinh quang của Chúa.
Chúng ta hãy tha thiết nài xin Chúa Giêsu Kitô: “Xin cho con nhìn thấy” như anh chàng Báctimê, để chúng ta được thấy (tức nhận ra) Chúa Giêsu là Ai và để chúng ta bước theo Người trên con đường Người đi lên Giêrusalem đê chịu chết hầu cứu chuộc muôn người.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Gr 31,7-9): Ta sẽ lấy lòng từ bi đẫn dắt kẻ đui mù và què quặt
Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca hát rằng: "Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel".
Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây.
Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta.
2.2 Trong bài đọc 2 (Dt 5,1-6): “Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê.”
Tất cả các vị thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron.
Cũng thế, Đức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê".
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 10,46-52): “Lậy Thầy xin cho tôi được thấy”
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi".
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Được, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Gr 31,7-9) là sấm ngôn của Giêrêmia về những kỳ công mà Thiên Chúa sẽ thực hiện cho dân riêng Ít-ra-en, để minh chứng Chúa là Cha của dân và dân là con của Chúa. Các việc Thiên Chúa làm cho Israel là cho họ hồi hương, là qui tụ họ thành một dân, ủi an khi họ sầu khổ và hướng dẫn họ từng li từng tí trong cuộc hành trình trần gian của họ.
Qua đoạn Sách Thánh này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương, chăm sóc dân riêng của Người như thế nào. Dân riêng của Thiên Chúa không chỉ là dân Israel xưa mà là tất cả những ai đã chịu Phép Rửa để làm thành Israel mới là Hội Thánh Công Giáo.
3.1.2 Bài đọc 2 (Dt 5,4-6) là những lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do thái, nói về vai trò trung gian, cảm thông, chia sẻ của các thượng tế trong đời sống tôn giáo của Israel. Ðứng đầu và vượt trội trên tất cả các thượng tế là Chúa Giêsu Kitô, Vị Thượng Tế siêu phàm được Thiên Chúa đặt làm thượng tế từ muôn đời muôn thưở.
Qua đoạn Sách Thánh này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng vì yêu thương, dân riêng của Người nên đã ban Con Một Yêu Dấu của Người cho nhân loại để Chúa Giêsu trở thành Đấng Trung Gian, Vị Thượng Tế tế lễ thay cho toàn dân và cảm thông với sự yếu đuối của dân.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Mc 10, 46-52) là tường thuật của Thánh Máccô về câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành người mù ở Giêrikhô. Nhiều tình tiết “trái ngược nhau” rất lý thú chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc. Trước hết anh chàng mù Bactimê
* chuyển từ tư thế của người ở bên ngoài và bị gạt ra ngoài lề xã hội (ngồi ăn xin bên vệ đường) đến tư thế của kẻ ở bên trong và của những người đi theo Chúa Giêsu (tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi).
Và
* chuyển từ tư thế của người mù (thể lý) đến tư thế của kẻ sáng (cả thể lý cả tâm linh), khi được chữa lành và nhận ra Chúa Giêsu và đi theo Người.
Có thể nói anh chàng mù Bactimê còn sáng hơn cả hai Tông Đồ Giacôbê và Gioan và mưòi Tông Đồ kia, vì đáp lại câu hỏi của Chúa Giêsu:
"Anh (các anh) muốn tôi làm gì cho anh (các anh)?"
thì hai Tông Đồ Giacôbê và Gioan đã không ngần ngại xin:
"Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang"
trong khi anh chàng mù lại chỉ xin: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."
Kế đến anh chàng mù BaCtimê không chỉ được gọi đến gần Chúa Giêsu mà anh còn được (mời) gọi đi theo Người trên con đường cứu thế của Người: Những từ “GỌI” ["Gọi anh ta lại đây!" - “Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!"] theo các nhà chú giải Thánh Kinh, không chỉ là “gọi đến” mà còn là và nhất là “gọi đi theo”.
Vì thế câu truyện chữa lành trở thành câu truyện ƠN GỌI (CALL) làm môn đệ Chúa Giêsu, tức đi theo Chúa Giêsu trên con đường tiến về Giêrusalem, là con đường Thập Giá Cứu Ðộ (đi trên con đường Người đi).
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp mà ba bài Sách Thánh dành cho chúng ta hôm nay là: Thiên Chúa, Chúa Giê-su không chỉ chữa lành về thể lý mà còn chữa lành về tâm linh, để chúng ta nhận ra Chúa và tiếng GỌI của Người mà đáp lại tiếng GỌI ấy mà đi theo Người trên con đường cứu nhân độ thế.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Thiên Chúa cảm thông, quan tâm, chăm sóc, chữa lành và mời gọi những ai muốn được Người khai sáng về mặt tâm linh, - như anh chàng mù Báctimê trong Phúc âm Máccô- để trở thành môn đệ của Con Chúa là Chúa Kitô. Bằng tâm tình cảm tạ, biết ơn, tin cậy, phó thác. Bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Ðể thực hiện sứ điệp của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm xem tình trạng tâm linh của chúng ta hiện ra sao?
- Nếu chúng ta không còn khả năng nghe tiếng Chúa gọi và bước theo chân Người thì chúng ta phải chạy đến với Chúa để xin Chúa chữa lành tâm hồn chúng ta.
- Nếu chúng ta còn khả năng nghe tiếng Chúa gọi thì hãy nhạy bén trước tiếng gọi của Chúa và mau mắn đáp lại tiếng gọi ấy mà gia nhập hàng ngũ những kẻ đi theo Chúa Giê-su, dù có phải theo chân Người đi vào con đường Thập Giá.
V. CẦU NGUYỆN CHO CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Épraim chính là con trưởng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả mọi người trong thế giới ngày nay, nhất là cho những người phải đau khổ buồn phiền vì côvít-19 để họ cảm nghiệm được Thiên Chúa là Cha yêu thương.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aharon đã được gọi.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các Linh Mục và Phó Tế để các vị ấy luôn sống khiêm tốn và có tâm tình cảm tạ đối với Thiên Chúa là Đấng đã gọi và chọn các ngài làm tư tế của Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân thuộc Giáo xứ chúng ta để mọi người đón nhận lời Chúa Giêsu Kitô mời họ làm môn đệ Người mà can đảm đáp lại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho chính chúng ta và cho những người còn sống trong u mê tăm tối về mặt tâm linh để những người ấy và chúng ta được ơn khai sáng mà nhận ra Chúa Kitô mà bước theo chân Người như anh chàng mù Bactimê trong Phúc Âm.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Sàigòn ngày 20/10/2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Trên mạng xã hội, người ta kể câu chuyện vắn gọn, không kém phần sâu sắc như sau: một ông TN 30-B133
Trên mạng xã hội, người ta kể câu chuyện vắn gọn, không kém phần sâu sắc như sau: một ông đại gia tới thăm anh bạn nhà giầu nhất vùng. Vừa bước vào cổng, con chó sủa ầm ĩ vụt nhanh về phía ông đại gia, ông ta vô cùng hoảng sợ trước sự can thiệp kịp thời của ông chủ nhà giầu. Ông nhà giầu trấn an người bạn bằng một câu thành ngữ quen thuộc: chó sủa là chó không cắn, hãy an tâm ông bạn quý của tôi. Nhưng ở đâu đó có tiếng nói rõ to: không phải tất cả mọi chú chó đều hiểu, và nhớ câu thành ngữ đó đâu ạ. Thật tình mà nói, người sống có tình có nghĩa, đi đến đâu cũng có bạn hiền. Con chó khôn ở chỗ biết nghe theo sự điều khiển của chủ, nhưng không có nghĩa là không biết tấn công kẻ xấu. Ông nhà giầu có thể sẽ không còn bạn đến thăm, nếu tình trạng chó nhà ông làm khách hoảng sợ. Không biết bạn là người tốt, hay xấu, nhưng nếu đi trong đêm tối, bạn không thể ngăn cản chó đừng sủa.
Không ai nghĩ truyền giáo là sứ mạng của các linh mục tu sĩ tài giỏi, cũng chẳng ai nói truyền giáo là bổn phận, của các đại gia giầu có. Tất cả những ai ý thức mình là kitô hữu, đều có thể nghe, hiểu, biết, và sống ơn gọi của mình cách đúng và đẹp nhất. Nhà giầu hay nhà nghèo, mắt tinh tai thính, mắt kém tai lùng bùng, đều có thể gặp nguy hiểm, nếu họ lầm tưởng, tôi tự đi đến thành công bằng thực lực của tôi. Người mù ngồi ăn xin ở vệ đường, tưởng không có gì để nói, vậy mà anh đã trở thành công, chỉ đơn giản, khi anh mở miệng nói lời “xin thương xót tôi”, hỡi Thầy Giêsu. Cứ tưởng truyền giáo là của các đấng có chuyên môn, cứ tưởng tuyên xưng Đức Giêsu là con vua Đavít, phải phát xuất từ hành động đẹp nơi các luật sĩ biệt phái ? Nhưng lạ thay, từ môi miệng anh mù, từ các hoạt động bác ái âm thầm ở khắp đó đây.
Cứ bình thường, kẻ đói khát, cần được ăn uống, người ăn xin, muốn được tiền, được gạo, người đau khổ tinh thần, cần được an ủi, cảm thông, kẻ túng thiếu vật chất tiền của, họ cần sức khoẻ, việc làm ổn định. Anh Bartimê ngồi ăn xin ở vệ đường, mù loà mà anh ta nghe được, hiểu được, Đấng sắp đi qua chỗ anh là Ông Giêsu con vua Đavít, thật lạ lùng. Anh Bartimê không xin tiền, không xin thực phẩm, cũng không xin địa vị, anh ta xin được sáng mắt, đúng hơn, là xin Ông Giêsu cho anh được tình yêu thương của Chúa. Khách quan mà nói, anh Bartimê có trăm ngàn nỗi khổ đau vì đôi mắt không nhìn thấy, nhưng anh vẫn đủ nghị lực để sống và trình bày với Đấng anh tin yêu.
Tục ngữ có câu: cú xấu mà cú lắm lông, có phải ý muốn nói rằng, đừng khinh thường ai cả, vì mỗi người đều có những điểm tốt. Cha ông ta thì nói: xanh vỏ đỏ lòng. Người trẻ thì dùng từ ngữ đặc thù hơn: nhỏ mà có võ. Các vị đạo đức lại nói, đôi mắt anh Bartimê không nhìn thấy, ấy vậy, trí lòng anh ta thì sáng hơn bình thường. Chúng ta có thể tự tin, nhưng đừng tự cao tự đại. Chúng ta khoẻ mạnh, tiếng tốt hơn anh Bartimê, thiết thực hơn một chút, chúng ta có tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng bằng lời nói việc làm không ? Nếu anh Bartimê sinh ra trong tối tăm mù mịt, không phải do lỗi của anh, tuy nhiên, ở bên Thầy Giêsu quyền năng, anh không biết mở trí, mở lòng, thân thưa với Thầy: xin cho con được xem thấy, quả là thiếu sót.
Hãy chân thành và mạnh dạn lên: sự táo bạo làm tăng thêm can đảm, do dự lại kéo dài sợ hãi. Đức Giêsu chữa được các dị tật, thay đổi được đường đi nước bước của ta, như Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn tội lỗi trở nên xứng hợp với tình yêu của Thiên Chúa. Anh mù không nhìn thấy, thế mà trí lòng anh sáng lạ kỳ, trong khi đó nhiều người học cao hiểu rộng, nhìn mà không thấy, biết nhưng biết không đúng về tình yêu của Thầy Giêsu. Trong niềm tin có cả khiêm tốn cần thiết, chúng ta đủ khả năng để tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, đủ sự nhạy bén để mở miệng xin lòng thương xót của Chúa. Vâng, Đức Giêsu đã hỏi anh Bartimê, Ngài cũng sẽ hỏi chúng ta: các bạn muốn Tôi làm gì cho các bạn ? Bệnh nhân gặp Thầy thuốc giỏi, quả là hạnh phúc, Thầy thuốc thấy “tội nhân” thật lòng thật tình sám hối, Thầy sẽ vui biết bao …
Nếu chỉ nói: lạy Đức Giêsu, xin thương xót con, hẳn không khó tí nào, nếu truyền giáo là mang tiền của dư thừa, cho những nơi đói nghèo, có lẽ chỉ các đại gia mới truyền giáo được. Khó khăn của người kitô hữu hôm nay không phải là tìm kiếm thầy thuốc tài giỏi, trở ngại lớn của các hoạt động truyền giáo là người ta cậy dựa vào khả năng của mình, hơn là cậy trông vào Chúa. Đối tượng mà Đức Giêsu hằng quan tâm xưa nay: dù tội lỗi hay thánh thiện, cuộc sống sung túc hay hoàn cảnh hẩm hiu, Thiên Chúa vẫn muốn ta tự trả lời: bạn muốn tôi làm gì cho bạn ? Chúng ta không mù loà thể lý, nhưng không vì thế mà ta bỏ qua cơ hội tuyên xưng niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể gọi là sáng mắt, sáng tâm hồn, khi biết khiêm tốn để tình yêu Chúa, biến đổi ta nên cùng một nhịp đập yêu thương. Amen.
Nhiều người lầm tưởng: con đường đến với Chúa, đi với Chúa là con đường sầu thảm, buồn thương TN 30-B134
Nhiều người lầm tưởng: con đường đến với Chúa, đi với Chúa là con đường sầu thảm, buồn thương, nặng lo âu, phiền não.
Tin Mừng hôm nay làm chứng ngược lại: con đường ấy là con đường vui, con đường tràn đầy niềm hoan lạc, phấn khởi, vì là đường của Thiên Chúa, và trên đường có Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ cùng đi với con người.
Là đường của Thiên Chúa đưa dân Người “trở về” từ miền đất lưu đầy, như ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm: “Ta quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo. Chúng trở về nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ítraen, Ta là một người Cha” (Gr 31,8-9).
Là đường có Thiên Chúa, như đoàn tù nhân Xion trên đường trở về cứ tưởng mình “như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng”. Họ như người “nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, reo vui hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125, 1-2. 5-6).
Là đường Đức Giêsu đã bước đi: con đường Thánh Giá đau khổ và chết chóc đã dẫn đến buổi sáng Phục Sinh khải hoàn khi Sự Sống chiến thắng thần chết, và Thập Giá chiến thắng địa ngục; con đường khiêm hạ, vâng phục của Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã không tự gán cho mình vinh quang, vinh dự, cũng không tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Chúa Cha,“Đấng đã nói với Ngài: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Dt 5, 6).
Con đường của Thiên Chúa, có những bước chân cứu độ của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người cũng là con đường Thiên Chúa mời gọi con người bước đi với Ngài, con đường con người tìm gặp Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người.
Trên con đường ấy, có “người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê” nài xin lòng thương xót của Đức Giêsu khi anh lớn tiếng kêu van Ngài, bất chấp “nhiều người qúat nạt, bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi!” (Mc 10, 46. 48); trên con đường ấy, anh mù Batimê, khi nghe Đức Giêsu gọi đã “vất bỏ áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu” (Mc 10, 50); trên con đường ấy, anh mù đã xin Đức Giêsu cho mình được thấy, khi Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10, 51); và cũng chính trên con đường ấy, Đức Giêsu cho anh được nhìn thấy, khi nói với anh: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 52).
Thực vậy, con đường người môn đệ được mời gọi bước đi với Đức Giêsu là con đường vui vì chất ngất lòng thương xót và nguồn ơn cứu độ, trên đó Thiên Chúa biểu lộ tình Cha toàn năng và nhân hậu đối với con người.
Đường ấy vui, vì là đường tín thác, trên đó chúng ta như anh Batimê, người ăn xin mù loà phấn khởi trong niềm hy vọng được thương xót đã mạnh dạn đến gần Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ để xin Ngài cho sáng mắt.
Đường ấy vui vì là đường sứ vụ, trên đó, Đức Giêsu sai chúng ta lên đường loan báo cho muôn dân Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương họ”, bằng làm chứng: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 125,3), như Ngài đã sai anh mù Batimê: “Anh hãy đi!” và làm chứng cho mọi người: “Lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 62).
Và tuyệt vời trên cả tuyệt vời, vui trên mọi niềm vui, vì đường ấy là đường chúng ta được Đức Giêsu kêu gọi đi theo Ngài như anh mù, sau khi được nhìn thấy đã “đi theo Người trên con đường Người đi ” (Mc 10, 52).
Hôm nay, Thầy Giêsu cùng với các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Thầy trò ra khỏi thành thì TN 30-B135
Hôm nay, Thầy Giêsu cùng với các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Thầy trò ra khỏi thành thì có cả một đám đông cùng đi theo. Trong đám đông ồn ào ấy, có ai nhìn thấy một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường không? Họ là những người sống trong thành chắc hẳn phải biết anh mù Bartimê này. Họ biết anh nhưng chẳng ai quan tâm đến anh, không ai muốn biết anh cần gì. Chỉ có Thầy Giêsu để ý đến anh, nghe tiếng kêu của anh và muốn biết anh cần gì.
Đám đông vừa đi vừa bàn tán với nhau về Thầy Giêsu, vì thế, anh mù cũng nghe thấy. “Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 47). Anh đã nghe biết về Thầy, về những phép lạ Thầy đã làm, về cách Thầy yêu thương những người như anh. Đám đông đi theo Thầy, bị lôi cuốn bởi lời giảng dạy và các việc Thầy làm nhưng họ chưa để cho Thầy chạm vào cõi lòng mình. Vì thế, họ hờ hững với một người mù như anh Bartimê, trong khi Thầy Giêsu dừng chân để tìm kiếm anh. Chẳng ai quan tâm anh mù tội nghiệp Bartimê ấy. Cuộc đời đã đẩy anh vào lề đường làm kiếp ăn xin. Nghe anh kêu gào cầu cứu, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 48). Anh mù lòa, không nhìn thấy nét mặt giận dữ của những người trách mắng anh nhưng anh hiểu những gì họ diễn tả qua giọng nói, qua sự quát nạt. Nhưng anh tin vào Đấng mà anh gửi gắm niềm hy vọng, gửi gắm số phận và cuộc đời, vì thế anh dám chống lại cả một đám đông đang bắt nạt mình, dám vượt qua nỗi sợ hãi và mặc cảm, vượt qua khỏi cái lề đường mà anh đã bị đẩy vào để tìm kiếm Chúa. Anh đã dám sống khác với đám đông, không phải vì anh bị mù nhưng vì anh dám nói lên điều con tim thúc đẩy, dám kêu gào để cầu xin Đấng sẽ ban cho anh điều anh khao khát.
Thầy Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10,49). Nghe lời yêu cầu của Thầy, người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” (Mc 10, 49). Phải chăng, chỉ đến khi nghe được mong muốn của Thầy, người ta mới biết sự hiện diện của anh mù, mới tỏ lòng quan tâm anh, mới trao cho anh sự tử tế. Nghe lời Người gọi, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Thầy Giêsu gọi anh, vì Người thực sự quan tâm đến điều anh mong muốn: Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúa biết rõ điều anh đang cần nhưng vẫn muốn anh nói lên niềm tin tưởng của mình. Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 51-52). Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi. Bao năm ngồi bên vệ đường ăn xin, anh đã nhận của bố thí từ đủ hạng người: có kẻ ném cho anh mấy đồng xu vì thương hại, có người đặt vào tay anh mẩu bánh vì lòng cảm thương, và cũng có kẻ cho anh những đồng dư bạc thừa vì muốn tỏ ra mình là người tốt, … Chỉ đến hôm nay, khi nghe được tiếng gọi của Thầy, cuộc đời anh mới được đổi khác. Anh không còn phải bám trụ vào lề đường đầy rác rưởi và bụi bặm, không còn phải chịu nắng nôi thiêu đốt hay những cơn mưa chợt đến. Anh sẽ đi trên đôi chân của mình, không phải là những bước chân mò mẫm, quờ quạng nhưng là những bước chân vững vàng trong ánh sáng của đôi mắt, và hơn thế nữa, anh bước đi trong hân hoan khi đi theo Người trên con đường Người đi.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con nhận ra tình thương yêu của Chúa dành cho con. Con như người mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường, từng bước đi trong đêm tối của đức tin. Con đã tìm kiếm tình thương nơi những người đã bước qua cuộc đời con. Cuộc đời dạy con nhiều bài học về giá trị của cuộc sống, nhưng chỉ đến khi được Chúa chạm vào cõi lòng mình, con mới nhận thấy khuôn mặt tràn đầy tình yêu của Chúa nơi những người anh chị em con. Chỉ đến khi con dám bỏ lại đằng sau tấm áo choàng là những an toàn con đã cậy dựa để chạy đến với Chúa, lắng nghe câu hỏi của Chúa và đáp lại bằng cả lòng khao khát, con mới nhận ra được đâu là điều Chúa muốn dành cho con. Từ nay, con xin cất bước theo Chúa để làm môn đệ, xin Chúa lấy tình thương mà dạy dỗ con theo như ý Người muốn. Amen.
Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng có sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đó là lệnh truyền Đức Giêsu TN 30-B136
Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng có sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đó là lệnh truyền Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, khởi đi từ các Tông đồ đầu tiên. Trước khi lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu đã ban cho các Tông đồ lệnh truyền này: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).
Chúng ta biết rằng, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được tha tội nguyên tổ và mọi tội riêng ta phạm trước khi rửa tội, cùng mọi hình phạt do tội gây ra; được sinh lại vào đời sống mới, trở thành con cái Thiên Chúa; được gia nhập vào Hội Thánh là thân thể Chúa Kitô; được ghi vào trong linh hồn một dấu ấn thiêng liêng vĩnh viễn, để dự phần vào chức tư tế của Chúa Kitô. Vậy chúng ta hãy cùng nhau đến với muôn dân, để họ cũng được trở thành môn đệ của Người. Để họ cũng được hưởng các đặc ân kể trên. Nhưng chúng ta đến với muôn dân bằng cách nào?
Tin mừng thánh Mátthêu kể lại, Đức Giêsu đã từng cảnh cáo các Pharisêu về thái độ sống của họ khi nói: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo ; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người” (Mt 23, 15). Sở dĩ Đức Giêsu lên án những người Pharisêu như thế là vì họ sống giả hình, lời giảng dạy không đi đôi với việc làm. Chúng ta được mời gọi rút chân ra khỏi “vũng lầy” của các kinh sư. Mỗi người sẽ là một lời rao giảng chân thật, sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa khi chúng ta biết thống nhất giữa hành động và lời rao giảng. Chỉ cần người khác nhìn thấy chúng ta có một đời sống bác ái, yêu thương cụ thể cũng đủ để dẫn họ đến với Thiên Chúa.
Hiến Chương của các Hội dòng Mến Thánh Giá có viết: “Hình thức tông đồ căn bản nhất của chị em là sống đời thánh hiến trong cộng đoàn” (HC 71). Nếu như hình thức tông đồ căn bản nhất của các nữ tu Mến Thánh Giá là sống đời thánh hiến trong cộng đoàn thì hình thức tông đồ căn bản của các linh mục, tu sĩ hay giáo dân là gì? Thiết nghĩ, mỗi chúng ta có một ơn gọi và bậc sống riêng, mỗi người hãy dùng chính ơn gọi và bậc sống của mình để có thể thực thi lệnh truyền của Chúa. Người sống bậc vợ chồng hãy sống hòa thuận, thương yêu nhau, cùng nhau chăm sóc, dạy dỗ con cái. Người sống tu trì hãy sống theo tinh thần và đặc sủng của Dòng… Chung quy lại, chúng ta đều được mời gọi cùng nhau sống giới răn yêu thương mà Thầy Giêsu đã dạy, yêu như Thầy yêu.
Lệnh truyền của Thầy Giêsu là anh em hãy ra đi, làm cho họ trở thành môn đệ, dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em (x. Mt 28, ). Sau khi ra đi, làm phép rửa cho họ, chúng ta cần lưu ý đến việc dạy bảo họ tuân giữ mọi giới răn. Bởi nếu chúng ta cố gắng thuyết phục ai đó theo đạo và khi họ đã theo rồi, chúng ta lại không hướng dẫn họ cẩn thận thì họ sẽ bị rơi vào hỏa ngục như lời Thầy Giêsu đã nói với các kinh sư. Đọc các thư của thánh Phaolô tông đồ, chúng ta thấy rõ hành trình rao giảng Tin Mừng của ngài. Ngài là mẫu gương và là người thầy cho chúng ta trong việc rao giảng Tin Mừng. Khi đến một vùng đất mới, ngài mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu và thiết lập các cộng đoàn tín hữu. Sau khi thiết lập các cộng đoàn và ngay cả khi đang ở trong cảnh tù đầy, ngài vẫn thao thức, lo lắng cho những người con tinh thần của ngài. Quả thực, không chỉ trở lại thăm hỏi các cộng đoàn mình đã thiết lập, ngài còn viết thư thăm hỏi, khích lệ, dạy dỗ họ về Tin Mừng Đức Kitô.
Mỗi ngày sống mở ra là một ngày để chúng ta thực thi lệnh truyền của Thầy Giêsu. Chúng ta hãy cùng nhau lên đường để mở mang và xây dựng nước Chúa để không chỉ chúng ta mà ngày càng có thêm nhiều người tin yêu Chúa. Hãy cùng nhau sống lệnh truyền ấy như lời Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng kêu gọi trong tông huấn Niềm vui Tin Mừng là “đi ra vùng ngoại biên”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có lửa nhiệt huyết, tin yêu để hăng say trên cánh đồng truyền giáo. Cách đặc biệt, chúng ta cũng nhớ đến các nhà truyền giáo đang gặp khó khăn, thử thách. Xin Chúa đồng hành cùng mỗi ngời chúng ta.
Thiên Chúa yêu thương con người và ban cho nhiều loại quyền. Trước tiên là quyền sống – quyền làm TN 30-B137
Thiên Chúa yêu thương con người và ban cho nhiều loại quyền. Trước tiên là quyền sống – quyền làm người, gọi là nhân quyền. Trong đó mặc nhiên có những hệ lụy khác là nhân vị và nhân phẩm.
Ngài Thomas Jefferson (1743-1826) là tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1801-1809, khi đó ông mới 38 tuổi. Ông không chỉ là chính khách mà còn là nhà ngoại giao, kiến trúc sư, luật sư, nhạc sĩ, triết gia, đặc biệt là cha đẻ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ – United States Declaration of Independence.
Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ông đề cập BA QUYỀN CƠ BẢN KHÔNG THỂ BỊ TƯỚC ĐOẠT của con người là Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền Sở Hữu. Trong bản tuyên ngôn, quyền sở hữu gọi là “quyền được mưu cầu hạnh phúc.” Bản tuyên ngôn này được cả thế giới phỏng theo, thậm chí có kẻ còn mạo nhận là của mình. Ngài Thomas Jefferson xác định: “Nếu pháp luật bất công, người ta không chỉ phải bất tuân mà còn bắt buộc phải làm như vậy. Khi chính phủ sợ người dân, khi đó có tự do; khi người dân sợ chính phủ, khi đó có bạo quyền.” Như vậy không là phản động mà là thi hành quyền sống làm người chân chính và lương thiện đúng nghĩa.
Mọi thứ đều bởi Thiên Chúa: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Về quyền hành, Thánh Phaolô xác nhận: “Không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13:1) Có quyền không phải để áp bức, đàn áp, đè nén người khác, mà là để yêu thương và nâng đỡ người khác. Biết tôn trọng Quyền Sống của người khác là biết thương xót họ – Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5:7)
Về quyền van xin, thần học gia vĩ đại là Thánh TS Tôma Aquinô cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ.” Ngài cho biết phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình là “nhận ra những ai là người phải tránh.” Đúng như tiền nhân minh định: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.”
Được quyền van xin cũng có nghĩa là có quyền tự do: “Từ nguyên thuỷ, chính Chúa đã làm nên con người, và để nó tự quyết định lấy.” (Hc 15:14) Sự tự do cần thiết và tốt cho con người, nhưng chính quyền tự do vẫn có thể tác hại con người, tùy người ta tự do làm điều tốt hay xấu. Sự tự do dễ dẫn tới thói kiêu căng, ngạo mạn. Ông bà Nguyên Tổ đã “dạy” chúng ta về điều đó. Ngược lại, ông Gióp cũng có quyền tự do, nhưng ông không phạm tội và trung tín với Thiên Chúa mặc dù ông chịu đau khổ đến tận cùng. (x. G 1:1-22; G 33:9; G 34:5-6)
Công tâm mà nói, chúng ta rất vui vì được Thiên Chúa ban quyền tự do và cầu xin Ngài. Ngôn sứ Giêrêmia loan báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Giacóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: ĐỨC CHÚA ĐÃ CỨU DÂN NGƯỜI, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo.” (Gr 31:7-8) Hành động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ lòng thương xót vô biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin – cho” kiểu ban phát, mà là hành động của sự động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương hại mà là tình thương xót vô điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!
Trong thời gian đại dịch Cúm Tàu Cộng như sóng thần dâng cao, chắc hẳn mỗi chúng ta thực sự nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự tự do sau thời gian bị phong tỏa, cách ly, giãn cách. Đó cũng là bài học cho con người về việc lạm dụng quyền tự do, khiến chúng ta phải trả giá quá đắt về quyền sống. Loại coronavirus độc ác hơn các loại virus khác, vì nó “đánh” thẳng vào phổi – trung tâm sự sống. Thật tang thương vì hàng chục ngàn người mất quyền sống – chết oan nghiệt. Rồi hàng ngàn trẻ em phải mồ côi, bơ vơ giữa chợ đời.
Liên quan tự do, những ai đã từng bị tù rồi mới biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả lại quyền tự do. Niềm vui đó khó tả vì nó quá lớn lao. Dân Israel đã từng có cảm giác kỳ lạ đó, họ thực sự vui sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Épraim chính là con trưởng.” (Gr 31:9) Và tất nhiên, điều tiên báo đó cũng đã được ứng nghiệm chính xác.
Thánh Vịnh gia mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:1-2) Chắc chắn không ai có thể trì hoãn niềm vui sướng như vậy, thế nên chính họ hân hoan thốt lên: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126:3) Và Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:4-6)
Luật công bằng có vẻ giống như luật nhân quả vậy: Ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ sau. Ngược lại, ai khóc trước sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả. Một trong Bát Phúc cũng đề cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5:5) Thiên Chúa là Đấng chí minh, chí công, chí thiện, chí thánh!
Còn chúng ta là phàm nhân yếu đuối, đầy tội lỗi, hứa lắm quên nhiều, cứ hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã. Cứ thế và cứ thế,… Chu kỳ của chúng ta là những chuỗi ngày tháng sám hối và đền tội. Tuy nhiên, vì bất xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng của lễ đền tội. Người đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa muốn hành động theo kế hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô cho biết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người PHẢI dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng PHẢI dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.” (Dt 5:1-5) Thiên Chúa quá nhân hậu.
Rất rõ ràng với lời giải thích của Thánh Phaolô: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aharon đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: ‘Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con,’ như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: ‘Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê’.” (Dt 5:4-6) Được CHỌN thì cũng NHẬN trọng trách, vì không phải được chọn để ung dung sung sướng, tìm an nhàn cá nhân mà “vô tư” bỏ quên tha nhân, mà phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì người khác. Đó là hệ lụy tất yếu về trọng trách.
Cách đây vài năm, trong một buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư, ĐGH Phanxicô nhắc nhở giáo sĩ phải cố gắng tránh xa cám dỗ để có thể trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. ĐGH Phanxicô dùng từ ngữ mạnh mẽ, ví von thực tế, thậm chí có thể gây “sốc” với một số người: “Nếu chúng ta ĐI VỚI NGƯỜI GIÀU, là chúng ta đang ĐI VỀ PHÍA HƯ VÔ, chúng ta sẽ trở thành CHÓ SÓI, chứ không phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện cho giám mục và linh mục.”
Thật Thà thì Thẳng Thắn, Giả Dối thì Cong Queo. Ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ đụng chạm bất cứ ai: “Hãy coi chừng các NGÔN SỨ GIẢ, họ ĐỘI LỐT CHIÊN mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là SÓI DỮ THAM MỒI. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45) Ngài cảnh báo để thức tỉnh những người “tai to, mặt lớn” – đại diện.
Chuyện anh mù Batimê ở Giêrikhô là vấn đề có liên quan quyền của con người, đực đề cập trong trình thuật Mc 10:46-52 (≈ Mt 20:29-34; Lc 18:35-43).
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ cùng với một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường tên là Batimê. Vừa nghe nói đến Đức Giêsu Nadarét, anh ta liều kêu to: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Có thể anh đã quá khổ sở vì bị mù lòa, cuộc đời như bóng đêm dày đặc, nên anh khao khát được thoát khỏi cảnh tối tăm, nhưng anh không “cầu may” theo kiểu “vái tứ phương,” mà chắc chắn anh thực sự có lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu. Chỉ nghe người khác nói về Ngài chứ anh không biết gì khác, vậy mà anh đã thực sự tin, không chút mơ hồ hoặc nghi ngờ.
Nghe anh kêu réo om sòm, dai như đỉa đói, nhiều người đã quát nạt bắt anh im, nhưng anh càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Có thể những người quát nạt anh là những người xấu bụng, không hề biết thương xót khi thấy người khác đau khổ. Đã không thương thì thôi, họ lại còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Chảnh chọe quá chừng!
Mặc kệ người ta. Anh vẫn vững tin và kiên trì van xin. Mắt anh mù nhưng hồn anh sáng. Còn chúng ta, mắt không chỉ sáng mà còn có thể đẹp nữa, thế mà hồn có thể lại đang mù lòa. Đã vậy thì chớ, đôi khi chúng ta cầu xin mà cứ như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, van hoài xin mãi không được thì nản lòng, bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá hời hợt, nông cạn. Đó là ích kỷ chứ không là cầu nguyện hoặc cầu xin.
Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh lại, vì Ngài không thể làm ngơ khi nghe lời van xin chân thành của anh. Có người ta gọi anh và động viên: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Và chỉ chờ thế thôi, anh liền vất áo choàng, đứng dậy và đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh thì anh nói: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Ngay lập tức, anh nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Anh mù XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Ngài và anh Ba-ti-mê đã cùng chung nhịp đập yêu thương. Chính đức tin của anh đã chạm vào Thánh Tâm thương xót của Đấng chữa lành. Thật tuyệt vời!
Bản chất Thiên Chúa là tình yêu. Ai càng yếu, Ngài càng thương. Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa thấy họ truân chuyên ngàn nỗi, nghe thấy lời cầu cứu van xin.” (Tv 106:44) Thiên Chúa là Đấng chạnh lòng thương xót và cũng động lòng trắc ẩn, chắc chắn Ngài luôn lắng nghe chúng ta van xin.
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin chữa lành con mắt đức tin của chúng con để, xin ngăn chặn mọi bụi bặm trần tục bay vào mắt chúng con, để chúng con luôn sáng mắt nhận ra Ngài hiện hữu trong thiên nhiên, trong tha nhân, và trong mọi biến cố cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Các cụ thường bảo “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay.” Thế nên, đời buồn lắm khi mắt bị mù TN 30-B138
Các cụ thường bảo “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay.” Thế nên, đời buồn lắm khi mắt bị mù không nhìn thấy. Và đời vui biết bao khi được chữa lành sáng mắt, sáng cuộc đời.
1. Sáng mắt. Phúc Âm kể chuyện anh Ba-ti-mê bị mù phải ngồi ăn xin bên vệ đường. Khổ thật. Khi chúng ta mới bị đau mắt hay bị mất điện tối mù một chút thôi đã thấy khổ sở rồi, đằng này anh mù suốt đời mắt chẳng thấy gì, ngày này qua ngày khác chỉ thấy cả vũ trụ là một màu đen tối. Khổ ơi là khổ. May thay, Chúa Giêsu đã tới dủ lòng thương chữa lành cho anh sáng mắt, anh thấy đời tươi sáng.
2. Sáng cuộc đời. Nếu Chúa Giêsu chỉ chữa cho anh mù được sáng mắt thì Ngài cũng giống như một bác sĩ mà thôi. Nhưng Chúa là Đấng cứu độ, nên Tin Mừng ở chỗ: Chúa đã biến đổi cuộc đời, chứ không chỉ chữa lành 1 căn bệnh. Từ thân phận là một kẻ mù lòa ngồi lê lết bên vệ đường xin ăn, nay anh đã đứng phắt dậy và lập tức trở thành người môn đệ bước theo Chúa trên con đường Chúa đi.
Chúa đã làm cho anh mù sáng mắt, sáng cả cuộc đời, khiến anh phơi phới niềm vui. Và lời Đáp ca như muốn bật lên lời anh mù muốn nói: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.”
Xin mượn lời Thánh Thi của Giờ kinh Phụng vụ như lời nguyện cầu của mỗi chúng ta dâng lên Chúa:
Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi, Con mù lòa, bên vệ đường hành khất, Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài. – Amen.
Ai trong chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được những thiệt thòi của người mù. Họ không được nhìn TN 30-B139
Ai trong chúng ta cũng dễ dàng cảm nhận được những thiệt thòi của người mù. Họ không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Họ cũng không cảm nhận được niềm vui nỗi buồn nơi khuôn mặt những người thân. Thế giới đối với họ là đêm tối trường kỳ. Tin Mừng hôm nay nói đến một người mù đứng ăn xin tại cổng thành Giêricô. Trong lúc Chúa Giêsu và các môn đệ từ trong thành đi ra, Người đã trông thấy, và, trước lời van xin của anh, Chúa đã chữa lành, cho anh được nhìn thấy như bao người khác.
“Xin cho tôi được thấy!”. Đó là lời van xin của anh mù, đang ngồi ăn xin bên vệ đường, lối vào thành Giêricô. Khát vọng của anh mù là được nhìn thấy. Bởi lẽ, mù con mắt là sự thiệt thòi rất lớn, như người ta thường nói: giàu hai con mắt, khó hai bàn tay. Đôi mắt được sánh như gia tài, giúp cho con người trở nên giàu có và thịnh vượng. Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”, anh mù lập tức thưa: “Thưa Thày, xin cho tôi được thấy!”. Đây là nỗi khát vọng anh ôm ấp trong lòng, nay được cơ hội để diễn tả với hy vọng mãnh liệt sẽ được nhìn thấy như bao người khác trong cuộc đời.
“Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Mặc dù bị người ta ngăn cản, anh mù không nản lòng và vẫn hăng hái tiến về phía trước. Việc lao về phía trước đối với một người mù, là chấp nhận nguy hiểm, vì anh không nhìn thấy gì. Lời kêu van này, vừa diễn đạt quyền năng của vị ngôn sứ đang đi ngang qua, vừa gửi gắm niềm tín thác, chắc chắn vị ngôn sứ ấy sẽ chữa cho mình được lành. Lời van xin ấy đã đến tai Chúa, và mặc dù đám đông ồn ào vây quanh, Người vẫn gọi anh và chữa anh lành.
Trong hành trình cuộc đời, mỗi người chúng ta cũng giống như anh mù đang đứng bên cổng thành Giêricô. Bởi lẽ chúng ta – dù có con mắt sáng – cũng chỉ nhìn thấy một phần những gì đang tồn tại, kể cả những vật hữu hình. Cả một thế giới vô hình mênh mông trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta không có khả năng cảm nhận. Vì vậy, mỗi người cần khát vọng tiến cao tiến xa hơn trong lãnh vực siêu hình thiêng liêng. Tùy theo quan niệm văn hóa và tôn giáo mà định nghĩa lãnh vực thiêng liêng này là gì. Đối với người tin Chúa, mỗi ngày sống trên trần gian phải là những bước tiến tới gần Chúa hơn để gặp Ngài, vì đích điểm của cuộc đời là cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa, mặt đối mặt, không còn như trong gương. Trong cuộc sống trần gian, chúng ta chỉ cảm nhận Chúa một cách tương đối, mờ nhạt và phiến diện.
“Xin cho con được thấy!”. Xung quanh ta còn biết bao điều ta không có khả năng thấy, hoặc cố tình không thấy. Đó có thể là những kỳ công của Chúa, qua đó, Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài và chứng minh Ngài đang hiện diện. Đó cũng có thể là những người nghèo nàn bất hạnh đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Con người trong xã hội hiện đại ngày càng vô cảm với tha nhân, vì thế, đây đó, vẫn còn những người bị bỏ rơi quên lãng. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đã viết: “Những ai chỉ tin vào những gì mình thấy bằng con mắt thể lý, thì họ vẫn là những người mù
“Xin cho con được thấy!”. Đó là lời cầu xin của chúng ta để nhận ra tình thương của Ngài đang ấp ủ đồng hành chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Ngôn sứ Giêrêmia diễn tả niềm vui lớn lao, như một tiếng thét vui mừng trước những điều kỳ diệu Thiên Chúa sẽ thực hiện vì yêu thương dân Ngài. Ông loan báo cuộc hồi hương của dân Israen, sau những năm tháng lưu đầy đau khổ nhục nhằn. Thiên Chúa sẽ giải phòng dân Ngài. Người Do Thái sẽ được về với quê cha đất tổ. Trong số đó, có cả những người đui mù, què quặt và bệnh tật. Trong quan niệm thông thường, những người này bị khinh bỉ và coi thường, không được kể đến trong các buổi hội họp. Nay họ cũng được Chúa yêu thương. Họ sẽ không bị bỏ rơi và quên lãng nơi đất khách quê người vào lúc Thiên Chúa giải phóng dân Ngài. Ngài là Đấng giàu lòng thương xót.
Thiên Chúa không dừng lại ở việc chúc lành, ban ơn che chở dân Ngài. Ngài còn sai Con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian để ở với chúng ta. Tác giả thư Do Thái đã diễn tả vị Thượng tế siêu phàm, đã mặc lấy thân phận tôi tớ của chúng ta. Vị tư tế này, không giống như các tư tế của Cựu ước. Người đã dâng chính mình làm của lễ trên thập giá để đem lại ơn cứu rỗi cho nhân loại mọi thời mọi nơi. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội, Người vẫn tiếp tục dâng hy tế để giao hòa thế gian với Thiên Chúa và giao hòa con người với nhau, xây đắp tình huynh đệ giữa gia đình nhân loại.
“Xin cho con được thấy!” Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta để chiêm ngưỡng những kỳ công Ngài đang thực hiện hằng ngày xung quanh chúng ta, và để nhận ra mỗi người đang cùng chung sống là một quà tặng do chính Chúa ban. Amen.
“Đời người giống như việc đi đường vậy, một bên là gian khổ, một bên là cảnh đẹp. Ánh mắt bạn phóng được đến đâu, đó chính là cảnh giới của cuộc đời bạn. Nếu thường xuyên nhìn thấy những người ưu tú hơn mình, điều đó cho thấy bạn đang trên đường lên dốc; Còn nếu thường xuyên nhìn thấy những người không bằng mình, điều đó cho thấy bạn đang xuống dốc và người khác đang phải cố gắng để lên dốc. Thay vì oán thán, thà thay đổi cách nghĩ, mọi chuyện sẽ bớt nặng nề đi rất nhiều!” (Sưu tầm)
Cuộc đời biết bao nhiêu lần nhìn mà không thấy, hoặc thấy mà không chịu nhìn. Đầy những trớ TN 30-B140
Cuộc đời biết bao nhiêu lần nhìn mà không thấy, hoặc thấy mà không chịu nhìn. Đầy những trớ trêu, nhưng đấy là cái trớ trêu của lòng người đấy ích kỷ, gian tham, kiêu căng. Những nỗi đau từ dân oan, những nỗi thống khổ của người dân nghèo, những món nợ bi ai, thống khổ, có nhìn mà không thấy hoặc có thấy mà không chịu nhìn. “Làng tôi quanh co, quanh co, quanh co” (lời bài hát Bà tôi). Xin Chúa mở cho đôi mắt để họ thấy nỗi thống khổ của dân oan, những người nghèo cô thế, cô thân, những phận người bi ai, thấp hèn, những mùa màng đang bị đố bỏ…
Người mù có tên Ba ti mê
Sau đoạn Tin Mừng Chúa kêu gọi các nhà lãnh đạo hãy: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 44), Tin Mừng liền đưa câu chuyện người mù thành Giê ri cô. Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện người mù được đưa ra vào lúc này, nhưng muốn nhấn mạnh đến những người lãnh đạo cần có con mắt để nhìn, để thấy, để hiểu, để làm vơi đi những đau khổ của những người dân nghèo.
Những người dân nghèo ở đây, họ có tên, có tuổi, có địa chỉ rõ rệt trên đường phố. Nghĩa là họ có danh tính, họ không có nhà hoặc bị cướp mất nhà, hoặc vì nghèo đói phải tha hương… Họ có tên tuổi, nhưng họ thiếu những ngày tươi sáng. Họ sống trong tăm tối của thân phận.
Chính vì họ có danh tính nên những người nghèo không phải là những người bỏ đi. Những người lãnh đạo không tên tuổi, là những tập thể lãnh đạo, những người có quyền hành, là những người đang cầm cân nảy mực, là một khối đông không thể gọi hết danh xưng, là những người đang chịu trách nhiệm trước những người nghèo tên tuổi kia, cần được mở đôi mắt để nhìn và để thấy, để hành động.
Nhà lãnh đạo cần được mở tai để mở tấm lòng.
Cần một lời cầu xin của kẻ có mắt nhìn mà không thấy, thấy mà không chịu nhìn. Như người mù thành Giê ri cô, đã được nghe chân lý, sự thiện, được nghe những điều lẽ phải. Những con người đang mù, câm, điếc trước nỗi khổ của người khác, họ cần được nghe những nỗi thống khổ của người dân, cần nghe những tiếng nói từ lương tâm ngay thẳng. Đôi khi, những tiếng ồn ào của những yến tiệc, của những nhạc khí, những lời xu nịnh, những bản giao hưởng từ nhà hát lớn, những tiếng thét gào lòng tham, át đi tiếng lương tâm mách bảo, để lòng chai, dạ cứng, bị câm điếc trước lẽ phải và hành động theo những bản năng thấp hèn.
Tiếng kêu người nghèo thấu đến tai Chúa.
Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhân Ngày Quốc Tế Vì Người Nghèo, 18 -11 – 2018 nhắc lại điều đó. Trong bài giảng lễ sáng Thứ Năm (19/05) tại Nguyện Đường Santa Marta, Đức Giáo Hoàng nói : “Khi của cải được tạo nên bởi việc khai thác con người, bởi những người giàu có này khai khác người khác, họ lợi dụng sức lao động của con người, và những người nghèo này trở thành nô lệ. Chúng ta suy nghĩ ở đây và bây giờ, điều tương tự đang diễn ra, trên khắp thế giới”. Không thể mù, câm, điếc mãi được vì tiếng kêu người nghèo thấu đến tai Thiên Chúa mà những người đang truc lợi trên họ phải chịu trách nhiệm.
Là ai và cần làm gì ?
Ba ti mê là những ai? “Trong thời đại hôm nay cũng đang có biết bao nhiêu là những con đường dẫn tới những hình thức thiếu an toàn! Đó là việc thiếu thốn những phương tiện căn bản của kiếp sống, việc bị loại trừ khi người ta không còn đủ khả năng hay đủ sức để làm việc nữa, và những hình thức nô lệ xã hội khác nhau, bất chấp những tiến bộ mà nhân loại đã đạt được… Trong thời đại hôm nay cũng vẫn đang có biết bao nhiêu là những người nghèo ngồi bên vệ đường như Bác-ti-mê, và tìm kiếm một sự cảm thông cho hoàn cảnh của mình! Biết bao nhiêu là con người đang tự hỏi, tại sao mình lại rơi vào đáy vực thẳm này, và làm thế nào để có thế thoát ra được khỏi đó! Họ mong chờ một ai đó sẽ đến gần họ và nói với họ: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10,49). (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).
“Trước những người nghèo, vấn đề không nằm ở chỗ coi sự can thiệp là điều ưu tiên, đúng hơn, chúng ta có thể nhìn nhận một cách khiêm tốn rằng, Chúa Thánh Thần chính là Đấng khơi lên những hành động mà chúng nên trở thành những dấu chỉ cho câu trả lời và cho sự gần gũi của Thiên Chúa. Ngay sau khi chúng ta tìm ra được một cách thức để gần gũi với những người nghèo, thì chúng ta sẽ biết rằng, quyền ưu tiên thuộc về Đấng đã mở cặp mắt và con tim của chúng ta ra cho sự hoán cải. Người nghèo không cần tới sự háo danh, nhưng cần tới Đức Ái biết ẩn mình và quên đi những điều tốt đẹp mình đã làm. Những nhân vật chính thực sự chính là Thiên Chúa và những người nghèo. Ai đặt mình vào trong sự phục vụ, người ấy sẽ trở thành khí cụ trong đôi tay của Thiên Chúa để làm cho sự hiện diện và ơn cứu độ của Ngài được nhận biết.” (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).
Xin mở đôi mắt: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm! Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân“ (Is 58, 6-7). Hành động theo cách đó sẽ tạo điều kiện để tội lỗi được thứ tha (1Pr 4, 8), và tạo điều kiện để công lý được hoạt động, cũng như để Thiên Chúa trả lời và nói: “Này, Ta đây!“ (Is 58,9), khi chúng ta kêu cầu lên Ngài.” (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018)
Trình thuật người mù thành Giêricô rất gần gũi hành trình đi tìm Thiên Chúa của mỗi người chúng TN 30-B141
Trình thuật người mù thành Giêricô rất gần gũi hành trình đi tìm Thiên Chúa của mỗi người chúng ta. Đó là hành trình có nhiều giai đọan, nhiều chông gai, nhiều cản trở, nên đòi nhiều cố gắng, hy sinh, nhưng trước hết vẫn là lòng tín thác, trông cậy và trên hết vẫn là trái tim hay “chạnh lòng” của Thiên Chúa giầu lòng xót thương.
Lời cầu xin thương xót:
Hành trình tìm gặp gỡ Đức Giêsu của người hành khất mù tên Bartimê bắt đầu bằng lời cầu : “ Xin thương xót con !”
Anh mù Bartimê chắc tiếng to và già hàm lắm, nên mới bị nhiều người quát tháo bảo im đi (Mc 10, 48), vì anh không mệt mỏi kêu gào : “Lậy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con ! ”. Tiếng kêu của anh đã làm nhiều người nhức óc, sốt ruột, khó chịu, bực bội. Họ bực anh làm át tiếng họ; họ khó chịu vì anh cắt ngang câu chuyện giữa họ và Đức Giêsu; họ sốt ruột vì cái giọng bi ai, thảm thiết, não nề của anh. Nhưng hầu hết đều nhức óc, nhức đầu bởi tiếng kêu của anh mù này đã không can dự gì đến đời họ, khi họ mặc nhiên đồng ý với nhau: đã trót mù rồi thì mù luôn đến chết cũng có sao đâu. Chẳng thế mà nhiều người đã ngăn cản không cho anh đến gần Đức Giêsu đang khi anh rát họng nài xin lòng thương xót và quờ qụang, mò mẫm lại gần Đấng mà anh nghĩ sẽ chạnh lòng thương và cho anh được sáng mắt.
Đường đến Thiên Chúa của ta có thể cũng đã bị ngăn cản cách này cách khác bởi nhiều người, và cũng có thể chính ta đã quát tháo bảo im đi nhiều người đang tha thiết van xin lòng từ bi của Thiên Chúa. Nhưng bên cạnh những người quát tháo, nạt nộ, cấm cản ta đến với Chúa, khóc với Chúa, kêu cầu Chúa, vẫn có những người đồng hành với ta trên đường tìm gặp Chúa đang thì thầm, nhắc nhở, động viên: “ Hãy vững lòng ! Dậy đi ! Ngài gọi anh đó ”(Mac 10, 49).
Đám đông cùng đi có lòng tốt ấy chính là Giáo Hội, là đoàn thể những người cùng đi theo Đức Giêsu và làm chứng Đức Giêsu cho mọi người. Chúng ta hãy tin vào Giáo Hội, tin vào mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội để đừng bao giờ thất vọng nghĩ mình đơn độc trên đường tìm gặp Chúa.
Đáp trả của Thiên Chúa:
Đám đông hôm ấy đã đơn sơ nghĩ rằng: Đức Giêsu không chú ý, quan tâm gì đến tiếng kêu “xin thương xót” của người mù hành khất, và tất cả đã ngỡ ngàng khi “Ngài đứng lại và nói : “Gọi người ấy cho tôi! ” (Mc 10, 49). “Người ấy” tức người hành khất mù nãy giờ không ngớt kêu la : “Lậy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con! ”.
Sự đáp trả của Thiên Chúa chính là gặp được chính Ngài là Nguồn Sống đích thực, Bình An viên mãn và ơn Cứu Độ đời đời. Người mù từ lâu khao khát được gặp Ngài, nay anh không chỉ được gặp, mà còn được chiêm ngưỡng dung nhan thánh thiện, nhân từ của Ngài, khi Ngài mở mắt cho anh được thấy. Anh thấy Thiên Chúa trong Đức Giêsu và hạnh phúc ngất ngây, khôn tả đã khiến anh “vất áo choàng một bên, nhẩy chồm dậy mà đến cùng Đức Giêsu” (Mc 10,54).
Như thế, Thiên Chúa luôn cần thiện chí và cố gắng của chúng ta như bước chân thứ nhất trên hành trình đến gặp Ngài. Người mù đã làm bước chân thứ nhất khi khao khát gặp Ngài biểu lộ qua tiếng kêu thống thiết : “Xin thương xót con ! ”. Anh đã kêu nhiều lần, rất nhiều lần, kêu to đến rát cổ, lạc giọng; kêu lớn đến độ làm phiền đám đông và bị nhiều người đe loi, cấm cản. Nhưng khi bước chân thứ nhất của người mù hoàn thành, thì chính Đức Giêsu đi về phiá anh, bước tới tìm anh và lên tiếng gọi anh đến gần Ngài.
Tuyệt vời thay hành trình của con người đi tìm Thiên Chúa bỗng chốc trở thành hành trình của Thiên Chúa đến với con người. Đức Giêsu đã tìm đến người mù khi bất ngờ đứng lại, gọi anh, nói với anh: “Con muốn Ta làm gì cho con ?” (Mc 10,51), rồi bảo anh : “Hãy đi, lòng tin của con đã cứu con” (Mc 10,52). Chỉ trong một vài phút ngắn ngủi, Ngài đã đi hết những bước chân dài còn lại trên hành trình của người mù đi gặp Ngài; chỉ một khoảnh khắc rất vắn vỏi Ngài đã làm thỏa mãn tất cả ước mơ và đáp trả trọn vẹn lời cầu xin của anh mù, khi cho anh được sáng mắt, được thấy Ngài và được “theo Ngài lên đường” (Mc 10,52).
Qủa thực, Thiên Chúa không bỏ ngoài tai lời cầu xin của bất cứ ai, dù là những lời cầu xin đơn sơ, thô kệch,mộc mạc, kể cả nhức đầu, nhức óc, vì Ngài là Cha nhân hậu luôn thương xót con cái mình. Chân lý này cho phép chúng ta tín thác tuyệt đối ở Thiên Chúa khi cầu nguyện, dù lắm lúc tưởng Chúa ngủ quên hay đã chết thật rồi.
Lậy Chúa, xin cho chúng con đức tin của anh Bartimê, người hành khất mù loà thành Giêricô năm xưa, và giúp chúng con noi gương anh trên đường đi tìm Chúa, bởi ít nhiều chúng con đã cảm thấy thích giọng anh với điệp khúc cầu nguyện bất hủ : “ Lậy Chúa, xin thương xót con ! ”; thích cái lì của anh khi bất chấp đám đông “quát tháo bảo im đi” cứ kêu to hơn nữa; thích phản ứng tràn đầy niềm vui phục sinh của anh khi “vất áo, nhảy chồm dậy mà đến với Đức Giêsu”; và điều chúng con thích nhất ở anh, chính là anh đã “theo Đức Giêsu lên đường”, sau khi được Ngài chữa lành đôi mắt.
Trên hành trình lên Giêrusalem lần cuối, Đức Giêsu có dịp đi ngang qua thành Giêrikhô, một thành TN 30-B142
Trên hành trình lên Giêrusalem lần cuối, Đức Giêsu có dịp đi ngang qua thành Giêrikhô, một thành phố lớn, đông đảo kẻ qua người lại. Khi vừa ra khỏi cổng thành, thì có một người mù tên là Ba-ti-mê ngồi ăn xin bên vệ đường lớn tiếng kêu xin: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Theo truyền thống thánh kinh Cựu Ước, tước hiệu “Con vua Đavít” là tước hiệu chỉ tên Đấng Thiên sai. Sang thời Tân Ước cũng vậy, dân Do thái dùng tước hiệu này để ca tụng, khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem “Hoan hô, Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mt 21,9).
Vậy khi anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “Con vua Đavít”, nghĩa là anh nhận ra đúng sứ mạng của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, Đấng mà tổ tiên người Do thái hằng đợi trông. Anh mù này đã tin Đức Giêsu là Đấng cứu thế. Đấng quyền năng làm được mọi sự sẽ chữa lành cho anh.
Thật lạ lùng thay! Người khiếm thị này chưa bao giờ nghe biết Đức Giêsu, thế mà hôm nay khi nghe Đức Giêsu đi ngang qua, thì anh lập tức kêu xin: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Trong khi đó các môn đệ và dân chúng đã từng nghe lời Chúa giảng, từng thấy phép lạ Chúa làm, ấy thế mà dường như vẫn còn mù mờ chưa nhận đúng ra sứ mạng của Đức Giêsu.
Anh Ba-ti-mê tuy mù con mắt thể lý, nhưng ánh mắt lòng tin đã giúp anh thấy được sứ mạng của Đấng Thiên sai, khi Ngài đến: Sẽ loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, mở mắt cho người mù được sáng, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Vì thế, Anh mù không xin Chúa tha tội cho anh, cũng chẳng xin cơm áo gạo tiền như thường ngày, mà chỉ xin một điều duy nhất đó là: “Xin Chúa dủ lòng thương”. Anh tin nên anh xin, nên Chúa đã chữa lành cho anh, đúng như lời Chúa nói: “Đức tin của anh đã cứu chữa anh”.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa năm xưa nói với anh mù: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Hỏi một bệnh nhân muốn gì trong lúc này quả là một câu hỏi xem ra thừa thãi, nhưng kỳ thực đây là một mặc khải, làm nổi bậc lên tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Có nghĩa là bản tính của Thiên Chúa là tình thương. Tình thương tha thứ, tình thương muốn cứu giúp và chữa lành.
Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn ngỏ lời với mỗi người chúng ta: “Con muốn Cha làm gì cho con?”. Nếu chúng ta cảm nhận được lời này, chắc chắn sẽ vô cùng hạnh phúc, vì Chúa rất gần gũi và rất mực yêu thương chúng ta.
Trong đời sống chung, đời sống gia đình và xã hội. Chúng ta cũng nên nói lời này với nhau, giữa vợ chồng và con cái. Hay giữa những mối tương quan “Anh muốn tôi làm gì cho anh? Chị muốn tôi làm gì cho chị?.
Thế nhưng, Chúa nói: “Những gì các con muốn người khác làm cho mình, thì mình hãy làm cho người khác trước đi” (Mt 7,12).
Bởi lẽ, ai cũng muốn người khác giúp đỡ mình. Ai cũng muốn người khác tôn trọng và yêu mến, cảm thông và chia sẻ, tha thứ và cầu nguyện cho mình. Thì mình hãy làm những điều đó cho người khác trước đi.
Nếu chúng ta mặc lấy tâm tình như đã có trong Đức Giêsu Kitô, thì chúng ta sẽ làm những điều tốt đẹp đó cho nhau, như Chúa đã làm cho chúng ta.
Thánh Phanxicô đã dạy: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Để con dọi ánh sáng vào noi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lời kinh này không chỉ là lời cầu nguyện, nhưng còn diễn tả đời sống chứng nhân của người tín hữu Kitô. Có nghĩa là, không những chúng ta đem yêu thương vào nơi oán thù, nhưng còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm nữa.
Xin Chúa thương mở đôi mắt đức tin, để chúng ta thấy được Đức Giêsu, là Đấng cứu độ duy nhất. Vì chúng ta như người hành khất mù lòa bên vệ đường.
Xin Chúa thương chữa lành con mắt mù lòa ích kỷ, để chúng ta nhìn thấy dung nhan Ngài nơi mỗi tha nhân, đặc biệt những người nghèo khổ ăn xin nơi đầu đường xó chợ.
Xin đừng để chúng ta vô cảm trước sự bất hạnh của anh em đồng loại, nhưng biết chạnh lòng thương muốn cứu giúp, bằng đôi tay nâng đỡ, với trái tim rộng mở, và nói những lời xây dựng yêu thương, để mang lại ánh sáng tình thương của Chúa, đến cho những người còn ở trong bóng tối sự chết. Amen.
----------------------------
TN 30-B143: ĐẤNG CỨU THẾ CHỮA LÀNH BỆNH TẬT CỦA CHÚNG TA
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Mù lòa là một bất hạnh lớn trong cuộc đời. Do bởi tận nguyền, người mù không có đủ khả năng TN 30-B143
Mù lòa là một bất hạnh lớn trong cuộc đời. Do bởi tận nguyền, người mù không có đủ khả năng để phát triển bình thường và đầy đủ như những người khác. Câu chuyện của Tin mừng hôm nay nói đến người mù tên là Bartimê vốn ngồi ăn xin ở vệ đường. Dù phải chịu đựng một thân phận thấp kém hơn những người khác, sống nhờ vào lòng thương xót của bá tánh, nhưng người mù này đã có một sự hiểu biết hơn những người khác và trở nên như một nhân chứng của việc con người gặp gỡ Đấng cứu thế. Khi Đức Giêsu đi ra khỏi thành Giêrikhô cùng với các môn đệ và một đám đông dân chúng, người mù này đã lớn tiếng cầu xin Đức Giêsu chữa lành cho anh. Anh có một sự nhạy bén lạ thường vào một thời điểm quyết định là lúc Đức Giêsu đi qua nơi anh đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Tin mừng nói rõ là anh đã kêu lên: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Lời cầu xin của anh diễn tả thân phận đau khổ của anh cùng với lòng tin tưởng mạnh mẽ đáng kinh ngạc. Trong thân phận mù lòa, anh không bị chôn chặt vào định mệnh khắc nghiệt oan trái của mình, nhưng đã biết vươn lên để có thể kêu xin lòng thương xót của Đức Giêsu. Điều đáng ngạc nhiên là tuy không có đầy đủ mọi điều kiện như những người bình thường khác, anh lại có sự hiểu biết chính xác về Đức Giêsu, anh gọi người là “Con vua Đavít”. Theo truyền thống Thánh kinh, Đấng cứu thế dân tộc do thái đang mong đợi là người con thuộc dòng tộc Đavít, chúng ta hãy nhớ lại lời tiên tri Nathan nói với vua Đavít trong sách 2 Samuel 7,14. Khi vua Đavít đã an vị, ông ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, ông nhớ lại hòm bia Thiên Chúa vẫn còn ở trong lều tạm, nên đã quyết định muốn xây dựng cho Chúa một căn nhà. Vì thế, Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến nói với vua Đavít: Không phải nhà vua sẽ xây dựng cho Chúa một căn nhà, nhưng chính Chúa sẽ xây dựng cho nhà vua một căn nhà. Căn nhà chính là triều đại của nhà Đavít được trường tồn, và qua đó Thiên Chúa cũng hứa ban một vị vua cứu thế xuất thân từ dòng tộc Đavít.
Câu chuyện Tin mừng còn cho chúng ta biết thêm chi tiết là trong khi đám đông đi theo Đức Giêsu tìm cách để làm cho người mù phải câm miệng thì anh lại càng kêu to hơn. Người mù là hạng người bị loại trừ, bị gạt ra bên lề cuộc sống xã hội, nên đám đông đi theo Đức Giêsu thấy rằng không nên để cho anh cản đường Đức Giêsu. Nhưng thái độ ngăn cản của đám đông không làm cho người nản chí, anh càng kêu to hơn: “Lạy ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Lời cầu xin thống thiết này sau cùng đã đến với Đức Giêsu, người dừng lại và truyền cho anh đến với người. Thái độ của Đức Giêsu thật khác thái độ của đám đông, người lắng nghe lời cầu xin của người mù, người động lòng trắc ẩn, người để người mù đến với mình và hỏi thăm anh cần gì. Thái độ của người mù thực đáng kinh ngạc và ý nghĩa khi được Chúa Giêsu cho phép anh đến với người, anh trỗi dậy, vất bỏ chiếc áo choàng anh vẫn mang trên mình và đến với Đức Giêsu. Thái độ của anh rõ ràng và dứt khoát. Theo Thánh kinh, chiếc áo choàng thực là ý nghĩa. Đây là vật bất ly thân của con người, là tài sản của người nghèo đồng thời nó cũng mặc ý nghĩa như là nhân cách của con người. Cử chỉ anh vất bỏ chiếc áo để chạy đến với Đức Giêsu muốn nói từ đây anh bỏ lại thân phận mù lòa bị loại trừ của mình để vui mừng đến với Đức Giêsu là Đấng mời gọi anh và ban tặng cho anh quà tặng cứu độ của Đấng cứu thế. Anh không chỉ đi mà là chạy và nhảy đến với Chúa Giêsu. Bước nhảy của anh là bước nhảy reo vui của người tin tưởng xác tín vào quyền năng chữa lành của Đấng cứu thế Con vua Đavít mà anh chờ đợi và tin tưởng. Một con người mà bệnh tật và những loại trừ của xã hội không thể nào ngăn cản anh cố gắng vượt qua hố ngăn cách. Đức Giêsu đã hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Câu hỏi của Đức Giêsu có thể gây ngạc nhiên, bởi vì chắc hẳn người đã biết anh mù này muốn xin người chữa cho anh được thấy. Thế nhưng, người vẫn luôn tôn trọng và chờ đợi sự tự do của anh. Chúa Giêsu muốn anh nói lên lời cầu xin của mình mặc dù người vốn biết điều người mù muốn xin với người. Người mù đã thẳng thắn và chân thành nói lên lời cầu xin của mình: xin cho tôi được thấy. Và Đức Giêsu đã nói với anh: “Hãy đi, đức tin của con đã chữa con”. Ơn chữa lành của Đức Giêsu đối với người mù không chỉ dừng lại ở việc chữa trị bệnh tật thế lý, mà còn xa hơn nữa, đây là ơn cứu độ để cứu chữa con người toàn vẹn. Người mù không chỉ xin để được sáng mắt, mà điều quan trọng hơn là anh đã tin vào người, anh đã gặp và trở nên môn đệ của người và đi theo người.
Câu chuyện người mù cho thấy thân phận bi đát của con người. Không những người mù mà tất cả mọi người đều đang ở trong tình trạng cần đến Thiên Chúa cứu độ giải thoát. Thân phận của dân Chúa phải ly hương, sống đau khổ nơi đất khách, làm thân nô lệ là những hình ảnh của một thân phận bi đát hơn nữa của con người là nô lệ tội lỗi và sự chết. Tiên tri Giêrêmia tiên báo giờ Thiên Chúa cứu độ sẽ đến để an ủi và giải thoát dân người để họ được đoàn tụ trong tình thương yêu chăm sóc và hạnh phúc của Thiên Chúa là Cha của mình. Thư Do thái trình bày cho chúng ta Đức Giêsu là vị thượng tế thông cảm và hay thương xót, bởi vì chính người cũng yếu đuối tư bề. Người vừa dâng lễ đền tội thay cho dân, người cũng dâng lễ cho chính mình. Người là vị thượng tế được tuyển chọn vì người chính là Con một của Chúa Cha đời đời. Như người mù trong câu chuyện, mỗi người cần mạnh mẽ khẩn cầu Chúa Giêsu thương xót thân phận của mình, cần nhận thấy tình trạng đau khổ bi đát của mình để van xin lòng thương xót của Đấng cứu thế chữa lành bệnh tật và tội lỗi của mình để được chữa lành và tiến bước trên con đường theo Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa cho một người mù. A. Hoàn cảnh TN 30-B144
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa cho một người mù.
A. Hoàn cảnh của người mù:
Người mù trong bài Tin Mừng hôm nay có tên là Bartimê: Con của Timê. Như vậy người ta chỉ biết anh là con của Timê chứ người ta không biết tên thật của anh là gì.
Hoàn cảnh nghèo đã khiến anh phải sống bằng nghề ăn xin. Nói một cách văn chương thì ta bảo là khất thực.
Tin Mừng không cho chúng ta biết anh ta bị mù từ bao giờ nhưng xác định thật rõ chỗ anh ta chọn để hành nghề của mình. Đó là vệ đường, chỗ có nhiều người qua lại. Chọn cho mình một chỗ để ngồi khất thực bên vệ đường nơi có nhiều người qua lại là một chọn lựa có một ý đồ rõ rệt: Tỷ lệ những người mà anh ta hy vọng sẽ giúp đỡ anh sẽ cao hơn.
Tin Mừng không cho chúng ta biết làm sao mà anh đã biết Chúa thế nhưng chúng ta có thể phỏng đoán rằng anh ta đã được người ta nói cho anh về nhân vật đặc biệt này.
Hôm đó anh đang ngồi ở vệ đường để khất thực như thường lệ, một công việc được lặp đi lặp lại… nhiều khi đến nhàm chán, thì bỗng dưng như có một cái gì khác thường sắp sửa xẩy ra: những người qua lại có vẻ nhiều hơn. Có lẽ có ai đó đã báo cho anh ta biết về việc Chúa Giêsu sắp đi ngang qua cho nên ngay khi Chúa còn cách xa, anh đã kêu thật lớn tiếng: “Lạy ông Giêsu con Vua Đavid, xin thương xót tôi”.
Nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu đã nghe thấy những lời đó. Đáng lý ra thì họ phải thương anh, tìm cách cho anh được tiếp cận với Chúa. Thế nhưng không hiểu lý do gì mà không những họ không giúp đỡ mà ngược lại họ còn ngăn cấm anh nữa.
Bất chấp sự ngăn cấm của mọi người anh càng la to hơn và sự việc này đã đến tai Chúa. Chúa dừng lại và cho gọi anh tới. Thái độ của Chúa khác hẳn với thái độ của nhiều người và lập tức thái độ của những người đi theo Chúa cũng thay đổi theo. Bây giờ không còn phải là những lời ngăn cấm mà là những lời đầy an ủi: “Hãy an tâm đứng dậy. Ngài cho gọi anh”.
Thật là cơ hội ngàn vàng đã tới. Quá vui sướng và tràn trề hy vọng, anh vứt bỏ chiếc áo choàng cũ kỹ anh vẫn mang trên mình để được nhẹ nhàng đến với Chúa.
Bây giờ Chúa đã đối diện với anh nhưng anh chưa nhận ra Người. Người thừa biết anh muốn gì thế nhưng để cho anh cảm thấy anh đang được gần Chúa, Chúa đã sử dụng ngôn ngữ có âm thanh để giúp anh nhận ra Ngài. Ngài hỏi anh:
“Anh muốn Tôi làm gì cho anh?”
Không cần phải suy nghĩ anh thưa ngay: “Lạy Thầy, xin cho con được xem thấy”. Cách anh sử dụng để xưng hô với Chúa “Rabboni: Lạy Thầy” là cách biểu lộ lòng kính trọng.
Và bằng một cử chỉ và thái độ đầy tình yêu thương Chúa nói với anh:
“Được đức tin của anh đã cứu anh”.
B. Bài học
Điều mà anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay xin với Chúa cũng chính là điều mà mỗi người chúng ta cần xin: Xin cho con thấy được.
Thấy là một sinh hoạt tâm lý rất quan trọng trong sinh hoạt tri thức của con người. Chúa đã gọi “con mắt là cửa linh hồn”. Chúng ta cũng vẫn thường nói: “Trăm nghe không bằng mắt thấy”.
Mù không phải là không có mắt nhưng cặp mắt không còn khả năng thị giác. Người mù xin với Chúa: Xin cho con thấy được có nghĩa là xin Chúa phục hồi lại khả năng thị giác cho anh: (Restore my sigth). Không có khả năng thị giác người ta sẽ bị thiếu xót rất nhiều trong nhận thức. Thiếu sự nhận thức, con người sẽ dễ bị rơi vào tình trạng sai lầm.
Nói tới đây tôi nhớ tới một giai thoại có liên hệ đến một nhà bác học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 này. Đó là nhà bác học Albert Einstein.
Một hôm có một sinh viên không hiểu được thuyết “Tương đối” của ông cho nên mạnh miệng xin ông cắt nghĩa cho. Thay vì trả lời theo kiểu một bài học thì ông lại trả lời bằng một câu chuyện. Ông bảo: “Một hôm tôi đi đường, tôi gặp một người mù, tôi hỏi anh ta: Anh có muốn uống một ly sữa không?”
Người mù hỏi lại tôi:
– Sữa là gì?
Tôi cắt nghĩa:
– Sữa là một thứ nước trăng trắng.
Người mù hỏi lại:
– Nước thì tôi biết nhưng trắng là thế nào?
– Trắng là cái mầu giống như lông con ngỗng.
– Lông thì tôi biết rồi nhưng con ngỗng là con như thế nào?
– Ngỗng là một loại chim có cái cổ dài và cong được.
– Cái cổ thì tôi biết nhưng cong là gì?
Nhà bác học Einstein liền nắm cánh tay của người mù dang thẳng ra và bảo:
– Thế này gọi là ngay. Rồi ông bẻ cánh tay lại và bảo: Thế này thì gọi là cong.
Vừa nói đến đây thì người mù vui sướng như đã khám phá ra được một chân lý bí mật… Anh ta nói với nhà bác học:
– Bây giờ thì tôi hiểu rồi… Sữa là cái cánh tay cong lại giống cái cổ của con ngỗng.
Chúng ta có mắt. Mắt chúng ta sáng. Từ chỗ chúng ta thấy đến chỗ nhận biết, con đường chẳng có bao xa. Nhưng vấn đề là trong cuộc sống chúng ta có thực sự thấy được tất cả hay không?
“Lạy Chúa xin cho con thấy được”.
Lời cầu xin xem ra có vẻ rất đơn sơ, nhưng xét cho thấu tình đạt lý thì chẳng phải là một điều dễ. Tại sao? Tại vì tầm nhìn của cặp mắt chúng ta quá bị hạn chế.
Một tác giả Ấn Độ có kể câu truyện ngụ ngôn được Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghi lại trong tác Phẩm “Cái cười của thánh nhân” như sau :
Có một người kia sinh ra đã bị mù. Sống trong một căn phòng nhưng bởi không thấy gì cả, nên anh phủ nhận tất cả những gì người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin vì tôi không thấy'”
Một vị lương y đem lòng thương hại đi tìm một thứ linh dược trên dẫy Hy-mã-lạp-sơn về chữa anh ta lành bệnh. Anh ta sung sướng tự phụ bảo:
– Giờ đây tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi.
Nhưng có kẻ nói với anh:
– Bạn ơi, bạn chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này. Như thế thì có là bao. Ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, còn biết bao vẻ đẹp lộng lẫy và màu sắc mà bạn chưa thấy.
Nhưng anh ta không tin.
– Làm gì có được những cái đó: tôi chưa thấy những cái đó, những gì có thể thấy được tôi đã thấy tất cả rồi.
Một y sĩ khác liền leo lên tận núi cao, được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác đem về giúp cho anh ta có được cặp mắt nhìn xa hơn những vật chung quanh căn phòng. Bấy giờ thì anh ta thấy được mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Mừng quá! Rồi lòng tự phụ dâng lên, anh thốt lên:
– Trước đây tôi không thấy, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế bây giờ chẳng còn cái gì mà tôi không thấy không biết, đâu còn ai hơn tôi được.
Nhưng có một hiền giả có cặp mắt thần nói với ánh ta:
– Cậu ơi. Cậu vừa hết mù nhưng cậu vẫn còn chưa biết gì cả. Tại sao lại quá tự phụ như thế. Cũng như khi cậu ở trong căn phòng. Tầm con mắt cậu không vượt khỏi bốn bức tường, cậu không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu. Giờ đây tầm mắt cậu vượt khỏi bốn bức tường và thấy được nhiều vật xa hơn. Nhưng với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai, cậu làm gì biết được những vật ngoài ngàn dặm mà tai mắt cậu không làm sao nghe được, thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu không? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống, còn biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không thể kể như cát sông Hằng. Tại sao cậu dám tự phụ rằng tôi đã thấy cả, tôi biết cả? Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng và lấy sáng làm tối.
Lạy Chúa xin cho chúng con thấy được. Mãi mãi chúng ta phải xin như thế.
Thấy những gì? Thấy những điều Chúa muốn cho chúng ta thấy để chúng ta được biết bước đi dưới sự dẫn dắt của Chúa, thấy được tình thương của Người để chúng ta cảm nghiệm được niềm vui khi được làm con cái của Người. Hạnh phúc hay bất hạnh ở trong cuộc sống tùy thuộc rất nhiều vào sự việc này. Thấy được tình thương của Chúa chúng ta sẽ có hạnh phúc. Không thấy được tình thương của Chúa chúng ta sẽ bất hạnh. Amen.
Thị lực liên quan con mắt. Con mắt là một cơ phận nhỏ nhưng quan trọng. Người Việt nhận xét TN 30-B145
Thị lực liên quan con mắt. Con mắt là một cơ phận nhỏ nhưng quan trọng. Người Việt nhận xét: “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”. Nữ diễn viên Audrey Hepburn (1929-1993, người Anh) có cách nhận định khác: “Mắt đẹp là đôi mắt nhìn thấy nét đẹp từ người khác. Đôi môi xinh là đôi môi chỉ nói lời hay ý đẹp, với đôi chân vững chắc luôn dạo bước trong khu rừng của kiến thức”. Văn sĩ Nikos Kazantzakis (1883-1957, người Hy Lạp) nói: “Khi chúng ta không thể thay đổi thực tế, chúng ta hãy thay đổi cái nhìn của chính chúng ta về thực tế đó”.
Tác giả sách Giảng Viên xác định: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. KHÔNG có gì để THÊM, CHẲNG có gì để BỚT. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân BIẾT KÍNH SỢ NGƯỜI” (Gv 3:14). Tương tự, các cơ phận trên thân thể con người cũng chẳng phần nào thừa hoặc thiếu, dù đó là… “ruột thừa”. Thiếu phần nào thì khổ lắm, thừa phần nào cũng mệt lắm, chỉ hoạt động kém một chút là thấy “oải” lắm rồi.
Người ta ví von: “Con mắt là cửa sổ tâm hồn”. Thật chí lý, bởi vì khi nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ trong tâm hồn người đó. Ánh mắt cũng có một “dòng điện” đặc trưng, người nào “yếu” sẽ chuyển ánh mắt nhìn sang hướng khác – nghĩa là “yếu vía” hơn người kia. Vì thế mà cũng là ánh mắt nhưng có nhiều cách nhìn khác nhau: Nhìn thẳng, nhìn xiên, nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lấm lét, nhìn trộm, nhìn kín đáo, nhìn lộ liễu, nhìn thán phục, nhìn khinh bỉ, nhìn chân thật, nhìn đểu cáng, nhìn thô lỗ, nhìn hiền từ,… Ôi, cũng vẫn chỉ là con mắt nhưng cách nhìn lại đa dạng quá chừng!
Và cũng chỉ với một vấn đề, một sự vật hoặc một con người, thế mà mỗi người lại có cách nhìn hoàn toàn khác nhau. Cố NS Trịnh Công Sơn có cách nhìn thế này: “Còn hai con mắt, khóc người một con. Còn hai con mắt, một con khóc người” (Con Mắt Còn Lại), và ông còn diễn tả con mắt bằng nhiều kiểu: “Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn, Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh căm. Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàng, Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn, Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin, Những con mắt quầng thâm, Xin tươi sáng một lần…” (Những Con Mắt Trần Gian).
Theo quan niệm của người Đông phương cổ đại, người ta còn có “con mắt thứ ba” – gọi là “thiên nhãn” (*). Với người có niềm tin tôn giáo nói chung, và với người Công giáo nói riêng, còn có “con mắt đức tin” – một loại “thiên nhãn” đặc biệt. Quả thật, chỉ với con mắt mà cũng có thiên hình vạn trạng. Về tâm linh, con mắt đức tin thực sự quan trọng lắm!
Chúa Giêsu nói: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng thì toàn thân anh sẽ sáng” (Mt 6:22). Cuộc đời chúng ta “tối” hay “sáng” là bởi con mắt. Cách nhìn của con mắt có thể khiến lòng tham trỗi dậy. Lòng tham có thể ẩn núp tinh vi: Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh. Chưa có “cơ hội” chưa biết ai thật thà hay tham lam. Có những tài xế taxi phát hiện khách bỏ quên trên xe vài chục triệu mà vẫn trả lại khổ chủ, đó mới là người trong sạch – sạch từ ánh mắt. Sách Huấn Ca xác định: “Bạc tiền khiến cho bao người sa ngã, thế nào cũng đưa họ đến hư vong. Nó là cái bẫy cho ai say mê nó, hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào” (Hc 31:6-7). Ai cũng cần tiền, nhưng tiền không là tất cả, cần mức nào và có “nặng lòng” với nó hay không lại là chuyện khác. Tiền bạc chỉ là phương tiện chứ không là mục đích. Người Pháp phân biệt rạch ròi: “Tiền là ĐẦY TỚ TỐT nhưng là ÔNG CHỦ XẤU”. Hãy làm chủ nó, đừng lệ thuộc nó!
Giàu hay Nghèo có thể là Phúc hay Tội còn tùy ở mỗi người, chưa chắc giàu là có tội và nghèo là có phúc. Sách Huấn Ca nói: “Phúc thay ai giàu có mà vô tội, không chạy theo của cải, tiền tài” (Hc 31:6). Đó là “mối phúc lạ” và đó mới là vấn đề. Đừng tưởng nghèo thì được chúc phúc. Nghèo mà lòng không sạch thì cũng vô ích: Nghèo KHÔNG sạch, rách KHÔNG thơm! Nghèo mà vẫn tham thì không thể vô tội, và tất nhiên không thể biện hộ. Quả thật, không hề đơn giản! Đừng nói hay, đừng nói trước mà bước không qua, có cơ hội tham mà không tham đó mới là thực sự trong sạch. Người đó (dù giàu hay nghèo) được khen là có phúc, vì trong dân, người đó khiến cho bao người phải tâm phục khẩu phục qua cách sống. Phải tự thẳng thắn và khó với chính mình, đó mới là nghiêm túc thực sự.
Những người có tâm hồn trong sạch như vậy chắc hẳn là người sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa, dù trong nghèo khổ hoặc cơ cực thì họ vẫn một lòng tín trung với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Thấy vậy, ngay cả dân ngoại cũng không thể lặng im: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2). Quả thật, việc Chúa làm thật vĩ đại và vô song. Và chính con người đó thấy mình chan chứa một niềm vui – vui vì sống thanh thản trong Ơn Thánh của Thiên Chúa. Tuyệt!
Người ta thường ví von rằng “đời là bể khổ”. Kinh nghiệm sống cho chúng ta biết như vậy. Không ai lại không khổ. Khổ nhiều cách. Khổ nhiều mức. Sinh ra là bắt đầu khổ. Đôi khi có người còn khổ chồng chất, khổ tới chết vẫn không được một ngày sung sướng. Nhưng vấn đề là ở lòng kiên trung trong niềm tin vào Thiên Chúa ngay trong những nỗi cơ cực nhất, chắc chắn Chúa sẽ thương: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5). Muốn tín trung thì phải dùng đến con mắt đức tin và với thị lực tâm linh mạnh mẽ, tầm nhìn xa rộng. Có như vậy mới khả dĩ giữ vững đức tin trong lúc khốn khổ cùng cực, chắc chắn chẳng ai bằng Thánh Gióp. Trước mặt Satan, Thiên Chúa xác nhận bốn điểm son nơi Thánh Gióp: “Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người VẸN TOÀN và NGAY THẲNG, KÍNH SỢ THIÊN CHÚA và LÁNH XA ĐIỀU ÁC!” (G 1:8).
Tin là chấp nhận hoặc từ chối. Bài học đức tin đơn giản mà phức tạp. Thầy dạy đức tin là Đại sư phụ Giêsu. Chúng ta có đức tin là nhờ Ngài. Vì thế, chúng ta sống đức tin là minh chứng cho Thiên Chúa, không được giữ đức tin đó cho riêng mình mà phải truyền đức tin sang cho người khác. Đó là một nhiệm vụ chung. Truyền đức tin sang người khác cũng là một cách truyền giáo mới trong thế giới ngày nay, vì người ta càng ngày càng không muốn sống đức tin nữa! Thánh nữ Bernadette nói: “Đối với người tin thì không cần giải thích, đối với người không tin thì giải thích cũng vô ích”.
Thông truyền đức tin là nhiệm vụ chung của các tín nhân Kitô giáo, nhưng những người được tuyển trạch để lãnh nhận chức tư tế thừa tác thì trách nhiệm càng nặng nề hơn. Thánh Phaolô cho biết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Đúng vậy, trước khi làm tư tế thì vẫn phải làm con người, với mọi thứ của một con người bình thường. Người đó phải “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:2-3). Và vì thế, “không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi” (Dt 5:4).
Thế nhưng trong thực tế lại khác, đúng như người Việt thường nói: “Cờ đến tay ai người đó phất”. Câu nói giản dị và nhẹ nhàng nhưng vô cùng thâm thúy! Nhưng thật buồn bởi vì có khi người ta sống ngược với lời Đức Kitô: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Thực hành đúng ý Chúa phải nỗ lực rất nhiều, không thể cứ tà tà mà được!
Rõ ràng và rạch ròi, Thánh Phaolô cho biết: “Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:5-6). Đức Kitô còn chưa tự xưng mình là “ông kia, ông nọ” thì huống gì chúng ta, những phàm nhân đầy tội lỗi, bất trác, bất túc, và yếu đuối lắm.
Và rồi một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Thầy trò cùng một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường – tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói có Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:47). Thấy vậy, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:48). Con mắt thể lý của anh ta mù lòa, nhưng con mắt tâm linh của anh ta lại rất sáng, bởi vì anh nhận ra người mà anh ta kêu xin là Con vua Đavít.
Qua đó, chúng ta thấy có hai thái cực rõ ràng: Những người quát nạt Batimê là những người NGĂN CẢN người khác đến với Chúa Giêsu, còn anh mù Batimê đại diện cho những người TIN TƯỞNG mãnh liệt. Có nhiều khi chúng ta cũng đã từng ngăn cản người khác đến với Chúa bằng nhiều cách, dù không nói trực tiếp. Chẳng hạn, khi chúng ta mỉa mai hoặc chê bai khiến người ta ngại đến với Chúa. Chúng ta phải học tập anh Batimê trong việc tín thác vào Chúa, như ca dao Việt Nam nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Và “chiếc kiềng” đó là: Thỉnh cầu, Tín thác, Thực hành. (Để dễ nhớ, có thể gọi tắt là 3T).
Tiếng kêu cứu của Batimê gào to khiến Đức Giêsu chạnh lòng thương, Ngài đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10:49a). Người ta gọi anh và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10:49b). Nghe nói vậy, anh ta quá phấn khởi nên liền vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10:51a). Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51b). Ngài nói: “Anh hãy đi, LÒNG TIN của anh đã CỨU anh!” (Mc 10:52). Chính Chúa Giêsu đã xác định đức tin vô cùng quan trọng!
Sự việc diễn ra rất mau chóng và nhanh gọn. Điều đáng lưu ý là Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến LÒNG TIN, nghĩa là “đức tin quan trọng hơn phép lạ” vì “người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3:11), nhưng người ta lại thường “khoái” phép lạ hơn tầm nhìn của đức tin. Nếu vậy, đó là chứng “kém thị lực tâm linh” hoặc “mù đức tin”. Kém thị lực hoặc mù tâm linh nguy hiểm hơn chứng mù thể lý. Bởi vì không hiểu rõ, không biết nhiều hay không chịu hiểu? Đó là điều cần tự suy xét về cách tin và mức độ tin vào Chúa Giêsu, như Ngài đã từng nói: “Quý vị tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin chữa lành chứng bệnh về con mắt tâm linh nơi chúng con, xin củng cố đức tin cho chúng con để chúng con vững tin trong mọi hoàn cảnh, xin gia tăng thị lực đức tin để chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài và sẵn sàng chia sẻ nỗi đời với mọi người. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
(*) Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở các đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao Đài, người tu hành khi đạt được “đạo pháp” sẽ có thêm con mắt thứ ba – gọi là “huệ nhãn”, có thể nhìn thấu cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được “con mắt thứ ba” mà người khác không có.
Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, đó là “thần nhãn”, có thể thấy những gì mà người trần mắt thịt vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác cho rằng, ngày xưa Adam và Eva đã phạm “thiên luật” nên tuyến yên (pituitary) và tuyến hạch (pineal, hình trái thông) nằ ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng.
Theo một số nghiên cứu khoa học, thông thường mỗi sinh vật đều có một “con mắt thứ ba” nằm ở trung tâm não, gọi là “tuyến tùng”. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Mới đây người ta khám phá thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho tuyến tùng càng ít quan trọng hơn.
Tin mừng hôm nay, Thánh Máccô đã miêu tả cho chúng ta một đôi mắt “người mù ngồi ăn xin TN 30-B146
Tin mừng hôm nay, Thánh Máccô đã miêu tả cho chúng ta một đôi mắt “người mù ngồi ăn xin bên vệ đường”. Cái hay trong cách trình thuật của Máccô nằm ở chỗ, tuy người hành khất bị mù nhưng cái mù ấy vẫn chưa phải là một chấm hết, chưa phải là một vận mệnh chung cuộc cho cuộc đời của anh. Mà từ đây, một ánh sáng mới lại bừng lên trong đêm tối khi người mù bắt gặp được Đấng đầy ánh sáng “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”.
Người hành khất này biết chắc rằng, tự sức mình, anh không thể làm gì cho anh cả. Vì thế khi nghe tin Đức Giêsu Nazaret đi ngang qua nơi anh đang ngồi ăn xin, anh đặt hết lòng tin tưởng và phó thác vào Người. Đó chính là phép lạ xảy ra cho đôi mắt tâm linh của anh trước khi một phép lạ xảy ra cho đôi mắt thể lý. Quả thế, trước đó vì mù nên anh không nhìn thấy, nhưng anh nghe được tiếng của Người. Anh là người thính tai trước tiếng gọi của Đấng Cứu Thế và đặt hết mọi hy vọng vào Người, vì anh biết chắc rằng chỉ có một mình Đức Giêsu mới có thể giải thoát anh khỏi bóng đêm đen tối của sự mù loà, chỉ một mình Đức Giêsu là ánh sáng chân thật có thể chữa lành và làm sáng đôi mắt mù loà của anh. Đôi mắt người hành khất này bị mù, nhưng đôi mắt tâm hồn của anh lại lành lặn, trong sáng và đầy lòng tin.
Như thế cách mô tả của Máccô về đôi mắt tuy có khác với nhiều người, nhưng qua đó thánh nhân dạy cho chúng ta phải biết ý thức về thân phận của mình; vì chỉ khi nào ta nhìn nhận tình trạng đui mù tâm linh của ta thì lúc đó Chúa mới có thể chữa lành cho ta được. “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Đó là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta, vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Mù loà thể xác, ai cũng nhìn ra được nhưng mù loà tâm hồn, con tim thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xoá cảnh mù loà nơi thể xác và tâm hồn chúng ta. Vì chỉ có “trong ánh sáng của Chúa, chúng con mới nhìn thấy ánh sáng”.
Chúng ta tin rằng, Đức Giêsu không những chữa lành đôi mắt thể xác cho người hành khất Báctimê mà Người còn mở rộng đôi mắt tâm hồn cho anh nữa, để anh có thể nhìn thấy ánh sáng chân lý trường cửu. Quả thế, Báctimê không chỉ nhìn thấy được người, cây cối, mọi vật, nhưng còn hơn thế nữa: qua các sự vật trước mắt, anh đã nhìn thấy được mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng hằng dìu dắt những ai thiện tâm bước theo Người, làm môn đệ Người. Trước kia, Báctimê là một người hoàn toàn lặn lội trong bóng đêm mù loà, trong sự cô đơn buồn tủi, nhưng nay đã nhận ra một ý nghĩa mới cho đời mình, và đã khám phá ra một tương lai mới.
Sau khi nhận biết ánh sáng qua việc chũa lành của Đức Giêsu, anh mù Báctimê đã trở nên một mẫu môn đệ lý tưởng. Điều gì đã khiến anh được đề cao như thế? Anh chỉ làm có hai điều, và hai điều này là đủ để trở nên người môn đệ đích thật của Chúa Giêsu. Hai điều đó là: anh bỏ hết mọi sự, ngay cả chiếc áo choàng là tài sản quý giá nhất của một kẻ ăn xin bên vệ đường, để đến với Thầy, và điều thứ hai là đi theo Thầy trên con đường Người đi. Anh từ bỏ mọi sự để đến với Chúa và theo Chúa trên con đường của Chúa, chứ không phải theo Chúa trên con đường riêng của mình.
Cầu nguyện:
Lạy chúa! Chúa đã không ngần ngại đến với chúng con, với ước mong chúng con được bình an, hạnh phúc, để chúng con được trở nên môn đệ của Chúa với lòng hiền hậu và khiêm nhường. Xin cho chúng con biết đưa Chúa vào cuộc đời mình, dám thay đổi bản thân để hoàn thiện hơn, và được làm bạn với Chúa.
Xin cho đôi mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả gia nghiệp của đời mình, thấy anh chị em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình còn nhỏ bé trong vòng tay yêu thương của Chúa. Amen
Có thể nói,chưa bao giờ “phong trào” xây dựng cơ sở vật chất lại nở rộ như hiện nay. Các giáo TN 30-B147
Có thể nói,chưa bao giờ “phong trào” xây dựng cơ sở vật chất lại nở rộ như hiện nay. Các giáo xứ, các dòng tu thi nhau xây dựng. Các trung tâm mục vụ, trung tâm hành hương cũng mọc ra như nấm với những quy mô hoành tránh và hiện đại.
Theo lý thì việc xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh là đúng. Nhưng theo tình thì chúng ta thấy chưa ổn cho lắm? Liệu có cần không khi xây dựng cả hàng ngàn tỉ ở giữa những mảnh đời nghèo đói đang bữa no bữa đói? Liệu có quá vô tâm khi vẫn gửi những bì thư xin tiền đến những gia đình túng thiếu chồng ốm vợ đau hay không? Liệu đó có phải là vấn đề đẹp lòng dân hay chỉ là ý thích của cha hay của lãnh đạo. Có giáo dân nói rằng: xứ con nghèo lắm mà cha lại thích xây dựng, chúng con góp ý cha từ từ rồi xây nhưng cha bảo tiền của tôi chứ tôi có lấy tiền quý vị đâu? Không biết cha lấy tiền ở đâu mà phung phí?
Chúa Giê-su khi rao giảng tin mừng thì Ngài cũng luôn nhắm tới phục vụ nhu cầu cuộc sống con người. Ai đói Ngài cho ăn. Ai bệnh hoạn Ngài chữa trị. Ai cô đơn bất hạnh Ngài an vủi vỗ về. Suốt cuộc đời rao giảng Tin mừng Ngài chưa xây một Hội đường nào! Ngài cũng không ủy thác cho các môn đệ sứ vụ xây dựng những cơ sở vật chất. Ngài chỉ ủy thác chăm sóc người nghèo là tìm cách nâng cao đời sống cho họ, vì “anh em luôn có người nghèo bên cạnh”.
Mới đây khi mà HĐND thành phố Saigon vừa thông qua quyết định lấy đất của dân để xây dựng nhà hát giao hưởng Thủ Thiêm, có người đã hét lên rằng chỉ có HÁT TRÊN NHỮNG XÁC NGƯỜI !
Và facebook đó viết tiếp: Khi cái nhà hát đó mọc lên trên nền đất của nhân dân hôm qua. Có người chết tức, có người sống không bằng chết. Có những giọt nước mắt đoạn trường, những thân phận rách nát chưa thấy ánh sáng.
Trong một bầu oán khí ngút trời như vậy, thành phố kiên quyết làm nhà hát giao hưởng là nhảy múa trên nước mắt của nhân dân. Là hoan ca trên những xác người !”
Bài Phúc âm hôm nay nói về anh mù ngồi bên vệ đường tên là Bartime. Vì đôi mắy mù lòa, nên anh ta đành ở bên lề cuộc sống, anh ngồi bên lề đường, không thể hòa cùng mọi người để có những bước chân thong dong trên đường. Anh ta còn phải trông chờ vào những của bố thí dư thừa để nuôi sống bản thân. Anh cũng muốn hòa vàodòng đời trong những nhộn nhịp củacuộc sống, nhưng con mắt mù lòa khiến anh tách ra khỏi đám đông nhân loại.
Nếu những lãnh đạo cả đời lẫn đạo chỉ nhìn thấy công trình vĩ đại của mình mà không nhìn thấy số đông người nghèo là những vị ấy cũng tự mình tách ra khỏi đám đông nhân loại. Ở xã hội nào cũng thế, người nghèo vẫn là số đông, thế nên, các nhà lãnh đạo cần phải nhìn đến số đông nhân loại đang cần gì và mình có thể làm gì cho họ?Đừng chỉ nhìn vào nhu cầu của số ít người giầu có, quyền thế mà tách ra khỏi số đông nhân loại!
Nhưng tiếcthay,vì nhiều người trong chúng ta muốn ngồi bên lề cuộc sống để hưởng thụ, bất chấp những tiếng xôn xao của cuộc đời, bất chấp những bước chân của sự thật, bất chấp lời mời gọi đứng lên của Thiên Chúa. Chúng ta cố bám lấy chiếc áo choàng của sự ích kỷ để tìm tư lợi bản thân, để không thể bước chân trên con đường yêu thương cùngđồng hànhvới người nghèo khó.Nhiều lãnh đạo đã ngồi bên lề cuộc đời người nghèo nên không thấy nỗi khổ hằn lên trên khuôn mặt luôn già trước tuổi, và xanh xao vì thiếu ăn.Chúng ta vẫn mở mắt nhìn nhưng không thấy gì, vì chỉ thấy chiếc áo choàng của bản thân và những lợi lộc dư thừa đang chứa trong đó. Nếu như thế thì chính chúng ta là những con người mù lòa cần phải để Chúa chữa lành!
Vâng, lạy Chúa, chính con đang chờ một phép lạ thay đổi cái nhìn của con. Con đã mù lòa khi không nhìn thấy những mảnh đời khổ đau. Con muốn giũ bỏ cái áo choàng là tham vọng tìm vinh quang cho bản thân khi cố xây dựng cơ sở trên nỗi đau của đồng loại, cốlàm những công trình hoành tráng trên sự nuối tiếc của người nghèo, vì giá mà số tiền ấy lạc quyên cho những ngôi nhà tình thương thì đã mang lại mái ấm cho biết bao gia đình! Như người mù thànhGiêricô, xin cho con bước ra ánh sáng để nhìn thấy sốđông nhân loại đang lầm than. Và con bắt đầu biết cảm nhận mọi sự thăng tiến của nhân loại đều phải bắt đầu từ con người chứ không phải cơ sở vật chất vô hồn. Amen
Người mù dong duổi mỗi ngày, Vệ đường hành khất, đắng cay cuộc đời. Đoán nghe Chúa sắp tới TN 30-B148
Người mù dong duổi mỗi ngày, Vệ đường hành khất, đắng cay cuộc đời. Đoán nghe Chúa sắp tới nơi, Vội vàng cất tiếng, xin Người xót thương Bar-ti-mê đứng bên đường, Thành tâm nhận biết, tựa nương bên Ngài. Con vua Đa-vít thiên sai, Chữa lành mắt sáng, con nài Chúa ban. Vững tâm đứng dậy kêu van, Áo choàng anh liệng, ngập tràn tin yêu. Xin Thầy thương xót con nhiều, Cho con được thấy, cao siêu tình Ngài. Con mù từ thuở tượng thai, Ban cho ánh sáng, mở khai xác hồn. Tạ ơn Chúa Tể càn khôn, Mắt con mở sáng, linh hồn tinh thông.
Con người có các giác quan để thông tri với thế giới bên ngoài. Bất cứ một khuyết tật nào trong thân thể cũng làm cho con người bị khổ đau. Có nhiều thắc mắc chúng ta khó trả lời. Hỏi rằng: Tại sao Chúa lại để cho người này mù lòa, người kia câm điếc hay bất toại? Nếu chỉ nhìn vào cuộc sống tự nhiên, chúng ta không tìm được câu trả lời thích đáng. Chính vì thế, nhiều người cảm thấy bất hạnh. Chúa Giêsu đã đến như một nguồn ánh sáng làm cho chúng ta nhận biết được giá trị của những bất toàn trong đời sống.
Phúc âm hôm nay tả cảnh Chúa chữa lành cho người mù ăn xin vệ đường. Anh mù đến van xin Chúa rằng: Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu đáp: Được, đức tin của anh đã chữa anh. Anh đã được thấy và thấy rõ hơn cả những người nghĩ mình có mắt sáng. Biết bao người có mắt sáng chung quanh anh. Họ trông thấy Chúa nhưng họ không nhìn biết Chúa. Họ đâu có nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ đâu có tin Chúa có quyền phép vô cùng. Anh mù đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, Đấng có thể chữa anh. Chúa đã chữa mắt thể xác và cả mắt tinh thần cho anh.
Chúng ta có mắt sáng nhưng không phải chúng ta nhìn thấy mọi sự. Có nhiều điều xảy ra chung quanh mà chúng ta không thấy. Đôi khi mắt chúng ta bị che khuất bởi sự ích kỷ, lòng hẹp hòi, ghen tương, lòng hận thù, chúng ta không nhận ra được sự tốt lành nơi người khác. Chúng ta có những điểm mù trong cuộc sống. Điểm mù của con mắt tinh thần làm chúng ta không nhận ra nhân phẩm xứng đáng của anh chị em.
Truyện kể người ta thấy một em bé gái mù lòa, mặt mày hốc hác, quần áo rách rưới đứng co ro ở một góc đường để xin ăn. Cô bé trông bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, ốm o bệnh hoạn. Lúc ấy, một ông ăn mặc sang trọng lái xe ngang qua đó trông thấy cô bé nhưng ông chẳng thèm nhìn đến lần thứ hai. Khi lái xe về đến nhà, thoải mái trong căn hộ ấm cúng với vợ con. Trước mâm cơm thịnh soạn, hình ảnh cô bé bỗng hiện ra rõ rệt trong đầu ông. Ông thở dài và phàn nàn cùng Chúa: Tại sao Chúa để cho những hoàn cảnh đáng thương như thế xảy ra trên cõi đời này? Hình ảnh cô bé cứ ám ảnh ông, không chịu được sự dằn vặt nên ông trách Chúa: Chúa phép tắc vô cùng, tại sao Chúa không làm cái gì để giúp cô bé nghèo khổ đáng thương ấy. Lúc ấy, tự thâm tâm ông nghe tiếng Chúa phán cùng ông rằng: Ta đã làm rồi chứ sao lại không. Điều này Ta dành cho con đó. Ta đã dựng nên con mà.
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con quan chiêm những kỳ công của Chúa. Xin cho con mắt đức tin của chúng con mở sáng để chúng con nhìn được hình ảnh Chúa nơi anh chị em của chúng con.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXX.TN -B – Mc 10, 46-52) trình thuật phép lạ Đức Giê-su chữa lành TN 30-B149
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXX.TN -B – Mc 10, 46-52) trình thuật phép lạ Đức Giê-su chữa lành một người mù ở Giê-ri-khô. Anh tên là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Thánh sử Mac-cô ghi nhận phép lạ chữa lành cho anh mù Ba-ti-mê tiếp liền với những câu chuyện được Đức Giê-su Ki-tô báo trước cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người. Tại sao lại thế? Chuyện cũng đơn giản: Qua những tiên báo ấy, Chúa Giê-su muốn các môn đệ nhận biết Người là Đấng Mê-si-a đến thế gian để chịu chết chuộc tội cho nhân loại. Tuy nhiên, tham vọng đã khiến cho các môn đệ không muốn chấp nhận một Đấng Ki-tô chịu thân phận ô nhục như vậy. Quả thực họ có mắt mà không thấy! Ngược lại, anh mù bẩm sinh Ba-ti-mê tuy không thấy Chúa Giê-su bằng con mắt bình thường, nhưng lại thấy Chúa qua con mắt đức tin, để rồi anh tuyên xưng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
Có một điều rất đáng lưu ý là khi anh kêu to lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” thì liền bị đám người Pha-ri-sêu quát nạt, bảo anh ta im đi. Đám người Pha-ri-sêu này là ai mà hống hách vậy? Họ chính là nhóm người cùng với nhóm Xa-đốc bị thánh Gio-an Tẩy giả gọi là “rắn độc” (“Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” – Mt 3, 7). Họ sợ Đức Giê-su có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Người nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền chiếm lĩnh cảm tình của cộng đồng. Hành động đó nào có khác chi nòi rắn độc!
Đáng lẽ đám người Pha-ri-sêu này (cùng với nhóm Xa-đốc) phải hiểu được rằng họ “là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính vị ấy cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên vị ấy phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.” (Dt 5, 1-3). Tuy nhiên đám người Pha-ri-sêu đã không làm thế – không muốn Đức Giê-su có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Người – mà còn muốn truyền nọc độc từ nơi họ sang người khác. Gọi họ là rắn độc là quá đúng.
Trước những con rắn độc ấy, đáng lẽ anh mù phải sợ, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể – nói theo kiểu hiện đại – “dứt phép thông công” anh ngay lập tức, khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo và đời anh đã khốn khổ sẽ càng thêm khốn khổ. Nhưng anh đã không sợ hãi và càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Sự can đảm ấy của anh đã được Đức Giê-su chúc lành: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Và thế là “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.” Viết tới đây, kẻ viết bài này chợt nhớ tới một lần khác, Đức Giê-su chữa lành cho một người mù bẩm sinh (Ga 9, 1-41):
Cũng lại là đám người Pha-ri-sêu tra vấn, vặn hỏi bệnh nhân (kể cả cha mẹ anh ta nữa) đủ điều, và cuối cùng trục xuất anh ra khỏi hội đường (“dứt phép thông công” đấy!). Nghe tin ấy, Đức Giê-su gặp lại anh mù, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh hỏi lại: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9, 35-38). Căn cứ trên sự kiện hiển nhiên đó, Đức Ki-tô khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9, 39). Lời nói này “chạm nọc” đám người Pha-ri-sêu, khiến họ “có tật thì giật mình”, liền ngớ người ra và hỏi lại: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” khiến “Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9, 40-41).
Rõ ràng Đức Ki-tô muốn cho đám người Pha-ri-sêu biết rằng nếu phạm tội vì không biết đó là tội – phạm tội do vô tình (vì bị mù, không xem thấy) thì không cấu thành tội; còn nếu đã biết đó là tội, đã dám tư xưng là “chúng tôi thấy”, mà còn cố ý phạm, thì mới thực sự là có tội. Như thế thì cũng chẳng khác nào nói: Anh mù vì tin mà được sáng mắt, nhưng nhóm người Pha-ri-sêu mắt vẫn sáng, nhưng không tin, nên cũng chẳng khác kẻ đui mù. “Thấy mà không thấy – không thấy mà thấy”, đó là một nghịch lý trong cuộc sống, nhưng lại là “chuyện thường ngày ở huỵện”. Trường hợp thánh Phao-lô với biến cố Đa-mát là một minh hoạ sống động: Khi còn sáng mắt (thể lý) nhưng vì nhiễm phải giáo lý sai lầm của Pha-ri-sêu nên Sao-lô cũng chẳng khác chi người mù (mù nội tâm). Đến khi bị ánh sáng chói loà làm mù mắt (mù thể lý) ở Đa-mát thì lại là lúc được sáng mắt sáng lòng (tâm linh). Cuối cùng, cả mù thể lý lẫn mù nội tâm đều được chữa lành và trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất Phao-lô.
Thật là thú vị! Những người “sáng mắt” thuộc Kinh Thánh làu làu, từng đứng trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy, lúc nào cũng huênh hoang “chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê”, thì lại không biết gì về Con Người đã được ông Mô-sê (nhờ được Thiên Chúa mạc khải) tiên báo (“Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” – Ga 9, 28-29). Trong khi đó, một anh mù từ lúc mới sinh (chắc chắn không được học hành và giả thử có được học thì cũng chẳng tới đâu) lại biết về Thiên Chúa còn hơn cả đám người sáng mắt (“Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” – Ga 9, 30-33). Chẳng cần lý luận đanh thép, lý thuyết sâu xa, mà chỉ căn cứ vào thực tế (anh được chữa khỏi bệnh mù), mà anh mù đã khiến đám Pha-ri-sêu lâm vào thế bí, phát khùng (“Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” – Ga 9, 34), và đành giở chiêu quyền lực trục xuất anh khỏi hội đường! Thế đấy! Như vậy thì ai sáng, ai mù thực sự đây?
Chung quy thì cũng chỉ vì vấn đề cốt tuỷ: đức tin. Anh mù được chữa lành bởi anh tin vào Con Người; mà cũng không phải chỉ riêng anh, tất cả những người bệnh hoạn, tật nguyền đến với Đức Ki-tô đều được chữa lành vì “Đức tin của con đã chữa lành con” (Mc 5, 34). Còn đám người Pha-ri-sêu thì mù vẫn hoàn mù, bởi họ không tin vào Con Nguời, mà chỉ tin vào những giáo lý sai lầm như thánh Phao-lô trước biến cố Đa-mát vậy. Nói đi nói lại không gì bằng mượn chính ngay lời người mắc bệnh “mù nội tâm“ và được chữa lành, để minh hoạ: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5, 8-14).
Ôi! Lạy Chúa! Cảnh người mù kêu cầu Chúa chữa lành, bị bọn người Pha-ri-sêu quát nạt, tra vấn vặn hỏi đủ điều, vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Chúa, nhưng chúng con vẫn còn mê ngủ, vẫn luôn “cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối” (Ep 5, 11), mà chẳng thấy được ánh sáng của Lời Chúa. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, bệnh tật, những kẻ bị áp bức bất công, mà chỉ thích bắt chước những người Pha-ri-sêu chú trọng đến những hình thức hào nhoáng bên ngoài (những cái áo loè loẹt, những bộ vó sặc sỡ…), và nhất là bo bo thủ cựu với những quan niệm hủ hoá lỗi thời… Phải chăng chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương? Và cũng chính vì thế mà chúng con mắt vẫn sáng, tai vẫn thính, miệng vẫn nói năng lưu loát, nhưng lại thực sự là những kẻ đui mù câm điếc tâm linh.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa muốn cho mọi người nhận biết Chúa chính là lẽ sống của mình, và Chúa không hề bỏ rơi con cái Chúa. Xin ban cho các anh chị em yếu đau bệnh tật và đang gặp hoạn nạn có thêm nghị lực để phấn đấu. Giữa cơn đau khổ, xin cho họ nghiệm thấy rằng có Chúa luôn luôn ở kề bên, nhờ những anh chị em hết tình nâng đỡ và nhờ niềm trông cậy họ đặt nơi Đức Ki-tô. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.” (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho bệnh nhân).
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại việc Chúa chữa cho một người mù được sáng mắt TN 30-B150
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại việc Chúa chữa cho một người mù được sáng mắt. Người ăn mày bên vệ đường. Anh chưa từng nhìn thấy Chúa, chưa có dịp nào được gặp Người, nhưng cũng đã từng nghe biết về Người, Đấng đã từng làm phép lạ chữa lành cho những ai biết kêu cầu, tin tưởng vào Người. Anh nghe nói Đức Giêsu Na- Gia- Rét đang di chuyển trên đường ra khỏi thành Giê-Ri-Cô, anh lớn tiếng kêu :” Lạy Ông Giêsu, con vua ĐaVít, xin dủ lòng thương tôi” . Nhưng những người bên cạnh anh quát nạt anh. Họ có thể là những người biết Đức Kitô nhưng ngăn cản anh đến với Người vì mong muốn được Người ưu ái, càng ít càng tốt, một thái độ theo Chúa vụ lợi. Cũng có thể họ là những người không tin Chúa nên không muốn có thêm một người chạy đến với Người. Anh mù Bartimê không những không im theo lời những người chung quanh dọa dẫm, quát nạt mà còn lớn tiếng :”Lạy con vua Đa Vít, xin dủ lòng thương tôi “. Đức Kitô từ xa vẫn nhận ra lời kêu cầu của anh. Người gọi anh đến. Mừng quá khi nghe có người nào đó nói:” Cứ yên tâm, đứng dậy. Người gọi anh đấy “. Thật thế, anh đã đứng ngay dậy, vứt bỏ tấm áo chòang, chạy đến cùng Chúa. Một thái độ thật dứt khóat khi được Chúa gọi . Khi được hỏi : ” Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” , người hành khất mù thưa :” Xin cho tôi nhìn thấy được “. Chúa đã chữa cho anh. Người nói “ Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh “. Và anh bước đi theo Người trên con đường Người đi .
Những người đi bên cạnh Chúa hôm ấy hẳn phải rất ngạc nhiên, thậm chí bực tức xen lẫn sợ hãi. Bởi trước đó họ không tin Người có quyền năng như thế. Họ ganh ghét, đố kỵ vì họ không thể nào tin rằng một người ở cùng quê Na-Gia-Rét với họ, lại có thể làm những việc lạ lùng như vậy. Đối với những người lãnh đạo trong dân Do Thái thì họ sợ mất ảnh hưởng. Họ sợ dân chúng không còn chấp nhận họ, vì chính cuộc sống bê bối của họ. Họ còn sợ Đức Kitô đến không chỉ chữa lành bệnh tật thể xác mà còn làm cho mọi người khác được mở mắt, mở tai, mở trí, mở lòng về phương diện tâm linh, trí hiểu. Khi đó mọi người sẽ nhận ra những điều tiêu cực, tội lỗi, những điều xấu xa họ đã từng làm. Không còn kiêng nể, tuân phục họ.
Con đã từng nghe đọan Tin Mừng này, và trong trao đổi, học hỏi, có lúc con đã lên án những kẻ ngăn cản anh mù đến với Chúa là cứng lòng, là vị lề luật, là kém lòng tin. Không như anh mù, chưa từng gặp Chúa, nhưng vẫn tin và mong ước được Người chữa lành, anh tin như thế nên đã mạnh dạn “Xin cho tôi nhìn thấy được “. Nhìn lại mình, con cũng nhận ra, con cũng không có được lòng tin như anh mù. Bản thân con cũng lại đã từng có lúc ngăn cản anh chị em con đến với Chúa, bằng cuộc sống thiếu gương mẫu trong đời sống đạo. Những lần rủ rê nhau thay vì đến nhà Chúa để đón nhận Lời Người, lại lao vào những thú vui trần thế. Có những lần, thay vì tham gia các sinh họat đạo đức, học hỏi Lời Chúa hay làm việc từ thiện bác ái lại phung phí thời gian vào những việc vô bổ. Trong gia đình, không nhắc nhở khuyến khích con cái đi đến với Chúa qua việc dâng Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích. Không biết hy sinh thời giờ để theo Chúa.
Lạy Chúa,
Xin cho con, khi nhận ra thiếu sót của mình, con phải thay đổi đời sống đạo, nhờ đó con nhận ra lòng nhân từ của Chúa, nhận ra con đường Chúa đi hầu con được kết hiệp với Chúa. Chắc chắn khi ấy, nếu con kêu cầu, Chúa sẽ nhận lời chữa lành bệnh tật thân xác lẫn linh hồn con. Chúa sẽ mở mắt, mở tai, mở trí, mở lòng cho con, hầu con xứng đáng bước theo chân Người trên cuộc đời trần gian này . AMEN .