Phúc Âm: Mc 10, 46-52: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh, dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng, nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù, chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ. Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn. Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên. Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất, ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Đức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều. Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt. Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua đời anh. Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này. Khi nghe biết là Đức Giêsu cùng với đám đông đi qua, anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng. "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa. Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Đức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh, vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng vướng víu, nhẩy cẩng lên mà đến với Đức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi. Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Đấng cho anh ánh sáng. Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Đức Giêsu.
"Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại." Đây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn. Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia. Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình. Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại. Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến. Thấy là đi vào một con đường dài hun hút. Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời. Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về nạn hành khất ở nơi bạn sống? Đâu là nguyên nhân? Đâu là cách giải quyết tốt nhất?
Nhiều người tự giam mình trong sự mù lòa. Họ chỉ thấy điều họ muốn thấy. Họ bị khép kín trong thế giới chủ quan của họ. Có khi nào bạn thấy mình mù lòa về bản thân không? Làm sao bạn được sáng mắt trở lại?
Cầu Nguyện
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Fred Collier là một sinh viên y khoa. Ông xuất thân từ một gia đình nghèo khổ tại tiểu bang Kansas, nên không không đủ tiền để lấy bằng bác sĩ. Ông không biết làm sao để có thể học cho xong để lấy cái bằng.
Rồi một ngày kia, ông bất chợt cầm lên một tờ báo tại một hiệu hớt tóc nọ. Trong đó có một bài báo viết về sự hiền lành và tình yêu của bà Eleanor Roosevelt, đệ nhất phu nhân của Tổng Thống Franklin Roosevelt.
Fred đã về nhà và viết thư cho cựu đệ nhất phu nhân. Ông đã gởi lá thư đi nhưng không biết có được ích gì không.
Sau đó một thời gian, đệ nhất phu nhân Roosevelt đã đồng ý để gặp Fred. Sau cuộc nói chuyện, bà Roosevelt đã đồng ý để giúp đỡ Fred.
Sau đó một thời gian, cựu đệ nhất phu nhân đã thân hành đến nhà của Fred để thăm. Nhà của Fred là một phòng đi thuê chật hẹp (apartment). Chủ nhà đã hết hồn khi biết rằng căn hộ của mình được một vị khách quí như thế đến thăm.
Sau khi Fred học xong và đậu bằng cấp y học, ông nói với bà Roosevelt là ông không biết phải làm cách nào để mà báo ơn bà. Bà nói với ông rằng ông không cần phải lo lắng việc trả ơn. Sau đó bà tiếp: "Tôi sẽ được trả ơn bằng cách là khi nào anh đi làm và có tiền thì hãy giúp đỡ cho những người xứng đáng được giúp đỡ như chính anh."
*****
Câu truyện của Fred có nhiều phần giống như câu truyện của anh mù trong bài Phúc Âm hôm nay.
Giống như người mù, Fred đã gặp những khó khăn trong cuộc sống mà tự anh không thể làm gì được. Giống như người mù, anh đã tìm đến những người khác để xin họ giúp đỡ. Giống như người mù, Fred đã được giúp đỡ để hoàn thành giấc mơ của anh.
Cả hai câu truyện của Fred và bà Roosevelt và người mù mà Chúa Giêsu diễn tả cho chúng ta một điều quan trọng. Đó là trong cuộc sống của chúng ta có những lúc chúng ta phải biết chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ.
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về cách Fred đã chạy đến xin người khác giúp đỡ.
- Chúng ta biết chạy đến tới Chúa để xin Ngài giúp đỡ. Có đôi lúc, loài người phải bó tay không thể giúp đỡ chúng ta giải quyết các vấn đề. Chúng ta chỉ còn biết một điều là chạy đến với Chúa Giêsu, xin Ngài giúp đỡ như người mù trong bài Phúc Âm hôm nay.
Gương mẫu để giúp chúng ta biết chạy đến xin Chúa ra tay giúp đỡ, là chính Chúa Giêsu trong cảnh vườn Ghếtsimani. Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Chúa Cha nâng đỡ Ngài: "Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự. Vậy xin cất chén này khỏi Con, nhưng đừng theo ý Con một theo ý Cha" (Mc 14:36).
Chúa Giêsu đã trình bày sự cần thiết của Ngài với Chúa Cha: "Cha có thể làm được mọi sự", nhưng Ngài còn thêm "Đừng theo ý Con, một theo ý Cha."
Và đó chính là cách Thiên Chúa thường giúp chúng ta. Ngài chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta. Có lúc lời chấp nhận ấy giống như chúng ta mong đợi hoặc có lúc Ngài chấp nhận theo ý của Ngài sắp đặt.
*****
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết chạy đến xin người khác và Thiên Chúa giúp chúng ta trong những cơn cùng khổ như Fred và người mù đã làm.
Nếu chúng ta biết làm những việc này với tinh thần cầu nguyện thì chúng ta sẽ được họ giúp đỡ chúng ta hơn là chúng ta tưởng.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện mà nó diễn tả cách thức Thiên Chúa trả lời những lời cầu nguyện của chúng ta trong cách thức mà chúng ta không thể nào dám nghĩ đến.
- Con xin cho được khỏe mạnh, để làm những việc lớn lao; Con đã lãnh nhận được sự đau yếu, để có thể làm những việc tốt hơn...
- Con xin cho được giàu sang, để con được hạnh phúc… Con đã lãnh nhận được sự nghèo khổ, để con biết khôn ngoan...
- Con xin cho được quyền hành, để con được ca tụng…. Con được sự yếu đuối, để con biết trông cậy vào Chúa...
- Con cầu xin cho được tất cả những gì cần thiết, để cuộc sống con được vui vẻ; Con lãnh nhận được sự sống, để có thể an hưởng tất cả...
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù tại Giêricô, từ đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tình trạng mù lòa thiêng liêng, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang mắc phải. Vậy thế nào là một người mù lòa về phương diện thiêng liêng ?
Trước hết, đó là người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua những kỳ công trong vũ trụ.
Thực vậy, người là một con vật có trí khôn, và với trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng của vũ trụ, chúng ta phải nhận ra sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Cùng như khi nhìn vào một ngôi nhà, chúng ta sẽ thấy ngôi nhà ấy không phải tự mình hay do ngẫu nhiên mà có. Sở dĩ nó có là do những người thợ đã làm nên. Cũng vậy, vũ trụ vật chất này có được là do một Đấng Quyền Năng đã tạo dựng, sắp xếp và bảo vệ nó.
Chính vì thế, chúng ta có thể nói: người là một con vật có tôn giáo, một con vật biết hướng tới Thiên Chúa. Đồng thời, thiên nhiên chính là một cuốn sách khổng lồ, trong đó mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Nhìn vào thiên nhiên mà không nhận ra hay cố tình chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, thì quả thực, đó là một người mù lòa.
Tiếp đến, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là người không nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua những ơn huệ Ngài đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, từng phút và từng giây chúng ta đã lãnh nhận biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa. Từ những ơn huệ tự nhiên cho đến những ơn huệ siêu nhiên, từ những ơn lành phần hồn cho đến những ơn lành phần xác. Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể để nói lên sự ân cần chăm sóc Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Chẳng hạn về phần xác, nếu không có cơm để ăn, nếu không có nước để uống, nếu không có khí trời để thở, thì chỉ trong vòng đôi ba phút đến dăm bữa nửa tháng là chúng ta sẽ chết. Vậy thì gạo, nước và khí trời ấy bởi đâu, nếu không phải là bởi chính Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Vì thế, khi kiểm điểm lại cuộc sống, khám phá ra những ân huệ đó mà không nhìn thấy tình thương của Thiên Chúa, thì quả thực chúng ta là những người mù lòa.
Ngoài ra, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những anh em nghèo khổ và bất hạnh.
Thực vậy, trong Phúc âm rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ túng thiếu, bệnh tật và hèn mọn. Qua hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã xác quyết:
- Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và Ngài đã kết luận:
- Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Vì thế, nếu chúng ta không nhận ra Chúa đang thực sự hiện diện nơi những người chung quanh, để rồi cố gắng giúp đỡ họ về tinh thần cũng như về vật chất, thì quả thực chúng ta cũng là những kẻ mù lòa.
Sau cùng, những người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không cảm nhận được những nguy hiểm ẩn náu đằng sau những dịp tội. Họ giống như người mù về phương diện thể xác: đi bên cạnh con rắn độc mà không ý thức được sự nguy hiểm đang rình rập mình. Vậy dịp tội là gì ?
Đó là những hoàn cảnh thúc đảy chúng ta dễ dàng vấp ngã. Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
- Chơi dao có ngày đứt tay.
- Lửa gần rơm, lâu ngày cũng cháy.
Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.
Vì thế, nếu không nhận ra những nguy hiểm tiềm ẩn đằng sau những hào nhoáng, những quyến rũ, những mời mọc của dịp tội, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ mù lòa về phương diện thiêng liêng mà thôi.
Chính vì vậy, chúng ta hãy bắt chước chàng thanh niên mù lòa mà kêu lên cùng Chúa: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.
Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giê-ri-khô về Giêrusalem.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Honda đụng phải. Với vẻ buồn phiền lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu chuyện kết luận: “Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.
Anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavid, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy ? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavid, xin thương xót tôi”. Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua Đavid”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.
Chắc anh phải kêu la to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đavid, xin thương xót tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế, Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đổi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Nagiarét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.
Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người làng Nagiaret, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên sai, con vua Đavid. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.
Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào ? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?
Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ… mà chúng ta không có một cữ chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Một thanh niên mù từ lúc mới sinh đem lòng yêu thương một cô gái. Anh càng hiểu biết cô thì tình yêu của anh đối với cô càng thêm sâu đậm. Anh thấy cô đầy sự duyên dáng và khôn ngoan. Một tình bạn tốt đẹp phát triển giữa hai người. Nhưng rồi một ngày kia, một người bạn nói với anh thanh niên rằng cô gái ấy không xinh đẹp. Từ lúc đó, anh thanh niên bắt đầu bớt dần sự quan tâm đến cô gái. Kể cũng tệ thật. Có bao giờ anh “nhìn thấy” cô gái rất đẹp đâu. Chính người bạn của anh mới là người mù. Một người mù như anh đâu phán đoán theo cái vẻ bề ngoài. Chúng ta phải nhớ rằng có sự tỏa sáng bên trong.
Trong thời đại của Kinh Thánh, sự mù lòa là việc rất thường gặp. Ngày nay chúng ta đã loại trừ nhiều căn bệnh gây ra mù lòa. Và chúng ta cũng đã phát minh mọi loại dụng cụ để cải thiện thị giác của chúng ta. Chúng ta có các loại kính thường, kính hai tròng, kính làm cho lộng lẫy, kính trắc địa, kính viễn vọng, kính hiển thị… Trong lịch sử, chưa bao giờ chúng ta thấy nhiều hơn và xa hơn bây giờ. Đã hẳn, phép lạ mà Đức Giêsu làm cho Báctimê thường xảy ra trong các bệnh viện của chúng ta.
Vì chúng ta không mù lòa nên chúng ta nghĩ rằng câu chuyện trong Tin Mừng không liên quan đến chúng ta. Rõ ràng vì chúng ta thấy được nên bài Tin Mừng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nhưng thử hỏi: chúng ta nhìn thấy tốt đến mức nào ?
Báctimê phải chịu sự mù lòa về thể lý. Nhưng có những hình thức mù lòa khác. Chúng ta biết điều đó khi chúng ta sử dụng những thành ngữ như: “ Tôi hoàn toàn ở trong bóng tối” hoặc “Thình lình bóng tối bao trùm lấy tôi” hoặc “ Nó ở ngay trước mắt tôi thế mà tôi không thấy”. v.v…
Có thể nào một người mù thấy rõ hơn một người sáng mắt ? Phải chăng một người mù cũng có thể nhìn thấy hơn cả một người sáng mắt theo nghĩa người ấy có nhiều sự hiểu biết và sự soi sáng bên trong ?
Thánh Maccô dường như đã hiểu như thế. Thật vậy, xem ra điều này là điểm chính yếu trong câu chuyện. Báctimê dù bị mù lòa về thể lý, nhưng đã tin vào Đức Giêsu nhiều hơn các môn đệ khác của Người, dù họ có thị giác hoàn hảo. Trong khi anh ta không có chút nghi ngờ thì những người kia đầy sự nghi ngờ và lưỡng lự.
Đó là một điểm xấu nhất mà Đức Giêsu nói về những người đồng thời với Người. Người nói: “Họ có mắt mà không thấy”. Họ đã chứng kiến những việc cao trọng Người làm nhưng vốn không tin vào Người. Thiếu đức tin là thứ mù lòa còn trầm trọng hơn cả sự mù lòa thể chất.
Có một bóng tối xấu hơn bóng tối của Báctimê, bóng tối của sự vô tín. Nó cắt đứt chúng ta khỏi điều tốt đẹp hơn. Ánh sáng thể chất là một điều cao cả, một quà tặng mà chúng ta không bao giờ nên coi là điều đương nhiên. Nhưng ánh sáng tinh thần còn cao cả hơn nữa.
Câu chuyện trong Tin Mừng còn là câu chuyện về ơn gọi làm người môn đệ, còn hơn cả câu chuyện về việc chữa lành. Khi Báctimê được chữa khỏi anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt tình của Đức Giêsu. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Báctimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Kitô đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Báctimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Báctimê ở trong bóng tối cho đến lúc anh gặp được Đức Giêsu. Chúng ta sống trong bóng tối khi chúng ta nghi ngờ, thù hận, sống trong sai lầm và thành kiến, khi chúng ta chọn điều xấu. Vì thế, chúng ta có thể thành tâm cầu nguyện như Báctimê: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được” để chúng ta thấy được điều gì là thật sự quan trọng trong đời sống và trên mọi sự. Chúng ta thấy được với con mắt của đức tin.
Trên trần gian này, dù chúng ta có thể cảm nhận Thiên Chúa, chúng ta không thấy được chính Thiên Chúa. Chúng ta phải bằng lòng lữ hành trong ánh sáng của đức tin về miền đất ở đó chúng ta có thể nhìn thấy như đã được thấy.
Báctimê đã sống trong một tình trạng tồi tệ. Bệnh mù lòa là một nỗi đau buồn kinh khủng. Anh ta đã ngồi ở vệ đường, bên lề cuộc sống. Anh bắt buộc phải ăn xin và sống nhờ vào lòng bác ái của những người khác. Tình trạng của anh thật vô vọng. Và tuy vậy, dường như anh có một thứ giàu sang. Anh có đức tin trong Đức Giêsu. Có thể đó chỉ là đức tin của người tuyệt vọng, nhưng vấn đề quan trọng vẫn là đức tin. Khi anh nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua, không còn nghĩ đến lòng tự trọng và sự e thẹn, anh bắt đầu kêu to: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavid, xin đủ lòng thương tôi ?” Anh không cần biết liệu Đức Giêsu có khước từ lời cầu của anh hoặc người ta đang quát nạt bắt anh phải im đi. Anh tiếp tục kêu to.
Khi anh nghe Đức Giêsu cho gọi anh, anh đứng phắt dậy, vứt bỏ chiếc áo choàng và đến gần Đức Giêsu. Cái áo choàng này là vật duy nhất có giá trị mà anh có. Đối với anh, nó có ý nghĩa bằng cả thế giới. Nó không chỉ đem lại cho anh sự ấm áp, mà còn che đậy sự cùng khổ thảm hại của anh và do đó nó cho anh một mức độ phẩm giá và khả kính. Tuy nhiên, anh đã vất bỏ nó đi và đi đến với Đức Giêsu như anh đã làm – trong tất cả sự tối tăm, nghèo khổ và thảm hại của anh và Đức Giêsu đã đón tiếp anh, trả lại cho anh thị giác.
Khi chúng ta đến bác sĩ để khám bệnh, chúng ta được yêu cầu cởi bớt áo quần. Lột bỏ là trở nên dễ bị tổn thương. Nhưng làm thế nào để bác sĩ định bệnh và chữa trị nếu chúng ta không để bác sĩ trước tiên trông thấy bệnh ấy ?
Chúng ta cũng mù lòa theo những cách nào đó. Chúng ta cũng nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta đến gần Người. Người muốn làm điều tốt cho chúng ta. Tuy nhiên chúng ta thấy việc vất bỏ áo choàng để đến cùng Người sao khó quá. Lòng tự trọng làm chúng ta cố mặc lấy một cái dáng vẻ bên ngoài nào đó cho người ta thấy.
Chúng ta hãy tin rằng, chúng ta phải trở nên hoàn hảo. Nếu không, Người không yêu thương chúng ta nữa. Thừa nhận tội lỗi và sự yếu đuối của chúng ta sẽ khiến Người loại bỏ chúng ta, nhưng nếu chúng ta hoàn hảo, nếu chúng ta tốt, thì chúng ta chẳng cần đến Người.
Chúng ta phải thực hiện một hành động đức tin triệt để và tín thác vào Đức Giêsu. Chúng ta phải từ bỏ sự giả vờ, che đậy, ẩn mình sau những bức màn và mặt nạ, và phải bằng lòng xuất hiện trước mắt Người như chúng ta thật sự là thế. Chúng ta không có gì phải sợ ngoài lòng nhân hậu và sự chữa lành của Người. Một bệnh nhân không cảm thấy được chấp nhận nếu điều xấu nhất nơi người ấy không được chấp nhận. Cũng thế, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận nếu chúng ta không để Người nhìn thấy khía cạnh xấu nhất của chúng ta.
Nhiều người ngồi bên lề cuộc sống để ăn xin, không phải tiền bạc, nhưng lòng yêu thương, sự quan tâm, cảm giác họ quan trọng và đời sống này có một ý nghĩa. Nhiều người trong họ rất ngại ngùng xin được giúp đỡ. Họ sợ sự lãnh đạm thờ ơ của những người khác bắt họ phải im đi.
Bactimê là một kiểu mẫu cho những người khác. Nhiều người mù lòa và không có phương hướng nhưng họ đã tìm ra mục tiêu. Nghị lực và phương hướng cho đời mình và đó là kết quả của việc họ đi theo Đức Giêsu sẽ dẫn đến một đời sống hạnh phúc và viên mãn, một đời sống được chia sẻ với những người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy anh chị em túng thiếu của chúng con; xin cho chúng con nghe thấy tiếng khóc thầm của họ để chúng con không thể đi ngang qua. Vì chúng con cũng là những người hành khất nhưng Chúa làm cho giàu có. Chúng con cũng là những kẻ mù lòa nhưng Chúa mở mắt chúng con. Amen.
Tên tôi là Báctimê. Hãy để tôi cố gắng thuật lại bị mù như tôi ra sao. Bị mù tức là bị phân ly với những người khác. Đó là sống trong thế giới của riêng mình. Thỉnh thoảng sự cô độc quấn chặt lấy tôi như sương mù lạnh lẽo. Tôi bị phân ly với mọi vật làm cho đời sống đáng giá, người ta cho rằng những sự vật tỏa sáng là việc đương nhiên.
Tôi bắt buộc phải đi ăn xin, điều này có nghĩa là tôi hoàn toàn lệ thuộc vào lòng bác ái của những người khác. Tôi ngồi bên vệ đường, bên lề cuộc sống. Tương lai tôi là một con đường dài, nhưng là một con đường không có đích đến. Cuộc đời không bao giờ có thể khác được. Tôi sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Luôn luôn ở bên lề, luôn luôn cô độc và phân ly.
Tôi khao khát một điều là thấy được. Và khát vọng này cứ đeo đẳng tôi chỉ cần nó buông tôi ra thì có lẽ tôi sẽ có được đôi chút bình an trong lòng mình.
Một số người cho tôi một đồng bạc khi họ đi ngang qua. Nhưng không một ai dừng lại để nói chuyện với tôi. Không một ai bước vào thế giới cô độc của tôi dù chỉ trong một phút. Sự thờ ơ của người khác là điều làm tôi tổn thương nhiều nhất. Thật khủng khiếp khi có người đối xử với bạn như thể bạn là một khúc gỗ không có chút cảm xúc nào.
Người ta nhanh chân bước vội khi đến gần tôi và đi chậm lại khi họ đã đi qua rồi. Tôi có thể nói như thế vì tôi nghe thấy tiếng bước chân của họ. Tôi không bao giờ hiểu được điều đó. Nó làm cho tôi có cảm tưởng rằng một cách nào đó, tôi mắc bệnh truyền nhiễm.
Thầy tư tế nói với tôi rằng sự mù lòa của tôi, do tội lỗi gây ra. Điều này có nghĩa là ngay cả Thiên Chúa cũng không có thời gian dành cho tôi và Người cũng đã đẩy ra ngoài.
Sự thể là như thế cho đến một ngày kia tôi nghe thấy âm thanh của một đám đông. Tôi dò hỏi và người ta nói với tôi rằng Đức Giêsu đi ngang qua đây. Thình lình niềm hy vọng lóe sáng trong tôi, và tôi bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavid, xin thương xót tôi !”.
Người ta bắt tôi phải im lặng và nói rằng tôi chỉ gây ra trở ngại. Nhưng tôi từ chối giữ im lặng. Tôi kêu lên to hơn nữa.
Rồi người ta nói với tôi rằng Người đã nghe thấy tôi và đã cho gọi tôi. Vất bỏ cái áo choàng, tôi dò dẫm đường đến gặp Người. Người hỏi tôi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Tôi đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” Người không hỏi thêm gì nữa, Người chỉ nói: “Anh hãy đi lòng tin của anh đã cứu anh”.
Làm sao tôi có thể đi và quên hết mọi sự về Người ? Tôi đi theo Người trên con đường Người đi. Tôi đã trở thành một môn đệ của Người. Niềm vui thấy được thì to lớn biết bao. Tôi muốn đến và sờ vào mọi người. Tôi xem họ tất cả đều là bạn bè của tôi. Khi tôi gặp Đức Giêsu, tôi cảm thấy tình yêu của Người. Người không chỉ đưa tôi từ bên lề vào bên trong cuộc sống mà còn cho tôi một chỗ danh dự ở bàn tiệc sự sống.
Đức Giêsu nói rằng sứ vụ của Người là “mở mắt cho người mù”. Trong sứ vụ ấy, vấn đề không phải là đem lại cái nhìn thể chất cho người ta nhưng là đem lại cho họ một tầm nhìn, một cách nhìn khác về đời sống. Vấn đề không phải là mở con mắt thể chất của người ta nhưng là mở ra trí óc, sự tưởng tượng và đặc biệt là tâm hồn của họ. Cuộc du hành thật sự để khám phá chủ yếu không phải là tìm kiếm những vùng đất mới nhưng là để có những tầm nhìn mới.
Đức Giêsu đã mở mắt cho ông Dakêu trước nguy cơ của cải, và khiến ông này chia tài sản cho người nghèo. Người đã mở mắt cho tên gian phi bị đóng đinh với Người để anh thấy lòng thương xót của Thiên Chúa và đón anh vào thiên đàng.
Chúng ta không nhất thiết phải mù về thể chất để cảm thấy mình ở trong bóng tối. Có những lúc bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể cảm thấy mình cô độc và lẻ loi. Chúng ta thấy mình ở bên lề mọi việc. Chúng ta không còn có ích và được chú ý đến. Người ta quên chúng ta. Không có tình yêu thì thế giới rất tối tăm. Và người ta muốn chúng ta phải im đi. Và chính chúng ta cũng hổ thẹn không dám kêu to.
Và những lúc đó, chúng ta phải có can đảm và sự khiêm nhường để kêu to cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”. Đức Giêsu là Đấng đưa chúng ta từ bên lề vào bên trong. Người nói với chúng ta rằng chúng ta quý giá đối với Chúa Cha. Người cho chúng ta một chỗ ngồi ở bàn tiệc nước trời.
Người muốn chúng ta làm cho người khác điều mà Người đã làm cho Bác timê. Chúng ta không được thờ ơ với một người cô độc và để họ ở bên lề. Nhưng với lòng yêu thương, sự chăm sóc, thời gian, chúng ta phải đem một ánh sáng nhỏ vào trong một thế giới của bóng đêm.
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón”. Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù”. Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
“Có đau mắt mới biết thương người mù”. Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội .
Hôm nay Đức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù lòa, “ngồi bên vệ đường” ăn xin, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavid, xin thương xót con”. Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavid, xin thương xót con”. Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: “Lạy Thầy, xin cho con được sáng”.
Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Đức Giêsu, Đấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: “Đức tin của anh đã chữa anh”.
Đích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt đức tin, vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Người là “con vua Đavid”.
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Đức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù lòa.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù lòa, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
“Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Đó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù lòa thể xác ai cũng biết, nhưng mù lòa tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù lòa cho mình. Vì chỉ “trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng”.
Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ
Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: Có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh… Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.
Đứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi” ; những kẻ có lòng hơn thì không lỡ chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm ; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy. Người ta đem bà ra tòa vì tội giết con. Nhưng tòa án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu. Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không ? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khỏe xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị ; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khỏe, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời ; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy ? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không ? Chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa ? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Đó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: “Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không bù đắp được mới khiến loài người mơ tới một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng Thiên Chúa có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Đó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Killer, ông Braille (Brai-ơ) (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc lên ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là ông tổ ân nhân của thế giới mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Nếu họ được sáng mắt, họ sẽ thấy muôn cảnh vật tuyệt diệu lạ lùng đến chừng nào.
Một bà cụ ở Rạch Giá, bị mù từ 56 tuổi. Thế là tất cả mọi người mọi vật chung quanh bà đều trở thành đen tối, tất cả đối với bà như đã chết. Bà quên hết mọi mầu sắc, hình ảnh, cảnh vật. Đến năm 73 tuổi, khi được bệnh viện Điện Biên Phủ (Saint Paul) chữa khỏi, bà được thấy lại cảnh vật và người ta, bà quá sung sướng hạnh phúc, khi gặp tôi bà nói: “Đẹp quá cha ơi, đẹp như thiên đàng vậy cha ơi !”. Thực ra, bà đâu đã thấy thiên đàng đẹp thế nào ? Đó chỉ là ước mơ và nay ước mơ của bà đã thành sự thực, thì đúng là thiên đàng của bà.
Tâm trạng sung sướng bà mù này giúp chúng ta thấy được anh mù Bartimê sung sướng đến chừng nào khi được Chúa Giêsu chữa anh sáng mắt và cũng cho ta thấy nỗi khổ cùng cực của tật mù. Anh Bartimê cùng cực hơn nữa, mù còn phải lần mò đi ăn xin, vì đi lại quá khó khăn, nên anh chỉ biết ngồi bên vệ đường, lắng tai nghe có ai đi qua thì giơ tay ra van xin bố thí. Hôm nay, anh ngạc nhiên, nghe thấy tiếng người ồn ào đông đảo bước đi rầm rập trước mặt anh. Họ xôn xao cười nói về Đức Giêsu mà bao nhiêu lần anh đã được nghe tin đồn về Ngài là con vua Đa vít đã thương cứu chữa bao nhiêu người tàn tật. Anh đã bao nhiêu lần khao khát được gặp Ngài. Không ngờ, đây là dịp may nhất đời anh. Thế là anh lấy hết sức kêu gào, át cả tiếng ồn ào dọa nạt. Anh kêu như thét lên: “Lạy Con Vua Đa vít, xin thương xót tôi”. Trước tiếng kêu não nùng đó, Đức Giêsu đã dừng lại gọi anh. Anh liệng áo choàng nhảy chồm lên đến với Người. Người cúi xuống hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?”. Anh thưa: “Xin cho con được sáng”. Người nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Tức khắc, anh nhìn thấy được và theo Người lên đường. Sung sướng biết bao cho anh, chẳng những được sáng mắt, anh còn được sáng trong đức tin mạnh mẽ để theo Đức Giêsu và trở nên những người Kitô hữu có mặt trong cộng đồng Công giáo đầu tiên, vì thế thánh Marcô viết Tin mừng đã kể đích tên anh. Anh đã không còn bị ngồi cô độc bên vệ đường nữa. Anh đã được sống chung với mọi người, được sống trong cộng đồng chan hòa tình thương, chan hòa ánh sáng trong vũ trụ bao la đầy cảnh vật mầu sắc huy hoàng. Thật là kỳ diệu, ánh sáng đã cho anh thấy được muôn người, muôn vật sống động và hiện hữu mà Thiên Chúa dựng nên.
Trước đây, anh đã phải sống trong một vũ trụ như chưa có ánh sáng, trời đất muôn vật lù mù, tăm tối, hỗn độn, mông lung, hiu quạnh trống không như thuở khai nguyên, cho tới lúc Thiên Chúa gọi: “Hãy có ánh sáng”, trời đất muôn vật mới xuất đầu lộ diện với muôn hình muôn sắc (St. 1, 1-3).
Đức Giêsu chữa anh mù được sáng để khẳng định cho nhân thế nhận ra Người là ánh sáng đôi mắt, ánh sáng trời đất và nhất là ánh sáng phục sinh, ánh sáng sự sống vinh quang muôn thuở: “Lúc khởi đầu, nhờ Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành … Người là Sự Sống và Sự Sống là Sự Sáng cho nhân loại … Thế gian nhờ Người mà có” (Ga. 1, 2-4 và 10). Nhưng vì phạm tội, loài người đã chết trong tăm tối: “Mọi người đã sinh ra trong tối tăm” (Eph. 4, 18). Đến nay, nhờ Người, “Thiên Chúa đã gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài” (1P. 2, 9 và Col. 1, 12). “Đức Kitô chiếu sáng trên chúng ta” (Eph. 5, 14) để “trong Chúa, chúng ta là ánh sáng” (Eph. 5, 8). Chính Đức Giêsu đã làm chúng ta nên ánh sáng để “chúng ta là ánh sáng thế gian” (Mt. 5, 14), nên “chúng ta phải sống như con cái sự sáng” (Eph. 5, 8 và 1Th. 5, 5).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn con, cho con được thấy ánh sáng của Người chiếu ra từ lời Chúa, từ việc Chúa làm và từ đời sống thương yêu “thông cảm với những kẻ ngu muội và lầm lạc, yếu đuối và bệnh tật để dâng mình tế lễ đền tội cứu chuộc muôn dân” (Dt. 5, 1-6)
1. Thái độ của người mù trong bài Tin Mừng là la to lên để Đức Giêsu nghe thấy, và khi bị quát nạt, anh lại càng la to hơn nữa. Đó có phải là thái độ khôn ngoan không? Những kẻ cùng khốn có thể rút ra bài học gì không?
2. Cảnh người mù kêu cứu mà bị quát nạt có gì tương tự với những cảnh đang xảy ra trong xã hội hôm nay không? Tại sao lại có người quát nạt anh? quát nạt anh để làm gì?
3. Những người theo Đức Giêsu cần có thái độ nào trước cảnh người cùng khốn kêu cứu mà bị quát nạt? Im lặng mặc kệ họ hay kêu cứu dùm họ?
Suy tư gợi ý:
1. Người mù lên tiếng kêu cứu và bị quát nạt
Trên trần gian này, có biết bao người cùng khổ như anh chàng Batimê trong bài Tin Mừng trên. Anh bị mù, không làm được việc gì để sinh sống, nên đành phải đi ăn xin. Đời anh thật khốn khổ, nên khi nghe tin Đức Giêsu - người nổi tiếng chữa lành bằng phép lạ - sắp đi qua, anh kêu to lên xin Ngài cứu chữa. Đó quả là nhu cầu vô cùng chính đáng của anh. Nhưng những người Pharisêu - những kẻ không muốn Đức Giêsu có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Ngài - đã dọa nạt anh, bịt miệng anh để anh im đi. Họ sợ Ngài có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Ngài nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền ảnh hưởng trên dân chúng. Đáng lẽ anh mù phải sợ những người Pharisêu này, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể «dứt phép thông công» anh (nói theo kiểu hiện đại cho dễ hiểu), khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo, và đời anh đã khốn khổ sẽ vì thế lại càng khốn khổ hơn.
Nhưng sự cùng khốn của anh khiến anh không còn sợ gì nữa, anh quyết tranh đấu cho nhu cầu chính đáng của mình. Vì thế, anh càng la to hơn để Đức Giêsu nghe thấy. Nhờ kiên quyết tranh đấu, anh đã toàn thắng kẻ cố tình bịt miệng anh: Đức Giêsu nghe thấy tiếng anh kêu, đã đến với anh và chữa anh lành bệnh. Anh đã «nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi».
2. Người cùng khốn đang bị áp bức, bị bịt miệng, bịt tai
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một cách thu gọn cảnh áp bức bất công vẫn thường xảy ra trong xã hội. Những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói như anh Batimê luôn luôn phải chịu cảnh áp bức: bị bịt miệng không cho phát biểu, bị bịt mắt không cho thấy, bị bịt tai không cho nghe những diễn biến đang xảy ra trong xã hội. Vì càng để họ ở trong cảnh dốt nát mù mịt thì kẻ nắm quyền càng dễ bề áp bức, hà hiếp, bóc lột họ. Để họ biết nhiều quá, nắm thông tin nhiều quá, nhất là để họ biết được quyền lợi của họ, hay biết được những thối nát, ngu xuẩn, bất công của những kẻ đang cầm quyền, thì khó mà duy trì ách thống trị trên họ mãi. Vì thế, tất cả những kẻ cầm quyền áp bức trên thế gian này đều muốn bưng bít thông tin, trấn áp dư luận, tìm cách bịt miệng tất cả những ai muốn nói, bịt tai tất cả những ai muốn nghe. Họ chỉ cho phép những gia nô của họ bốc thơm, nâng bi họ, bất chấp những tồi tệ ngu xuẩn của họ. Và chỉ cho phép đám dân ngu cu đen nghe những lời tán tụng giả dối ấy, để đám dân này ảo tưởng rằng mình đang được sống trên thiên đàng, và để họ coi bọn cầm quyền là ân nhân của họ.
Trong bài Tin Mừng, nếu anh mù Batimê mà sợ oai sợ vía bọn Pharisêu, mà im lặng trước sự quát nạt của họ, thì rất có thể anh sẽ không gặp được Đức Giêsu, anh sẽ không được chữa lành, và anh sẽ phải sống trong tăm tối suốt cả cuộc đời. Nhưng anh đã can đảm không sợ hãi, và sự can đảm ấy đã giải phóng anh! Sự can đảm ấy đã được Đức Giêsu chúc lành. Anh đáng làm gương cho chúng ta về lòng can đảm, về tinh thần tranh đấu cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình. Những kẻ nhát sợ trước bạo lực, không dám lên tiếng tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình, đành chấp nhận làm thân giun dế, thật đáng xấu hổ trước tấm gương can đảm này.
3. Các ngôn sứ hãy lên tiếng thay cho kẻ không có tiếng nói
Cái cảnh quát nạt không cho người mù lên tiếng như trong bài Tin Mừng hôm nay vẫn đang hằng ngày xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có biết bao người khốn khổ, bị hà hiếp, đàn áp như thế không có khả năng hay dũng khí để gào to lên như anh mù trong bài Tin Mừng. Họ sợ bị ám hại, họ không có miệng để kêu, hoặc không biết kêu với ai… Tội nghiệp những con người ấy biết bao! Ai sẽ lên tiếng thay cho họ?
Thật may mắn cho họ, Đức Giêsu đã đến với sứ mạng «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…) trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Ngài có cả một đạo quân tiếp nối sứ mạng của Ngài, đạo quân của những người tận hiến đời mình để theo Ngài. Sứ mạng của họ được sách Châm Ngôn mô tả: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Isaia cũng mô tả sứ mạng của họ: «Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,17).
Giữa xã hội, hiện đang có cả một đạo quân hùng hậu gồm những người mang danh theo Đức Giêsu, thường tự hào mình tiếp nối sứ mạng của Ngài, tự hào mình là ngôn sứ, khiến những kẻ cùng khốn trong xã hội đặt biết bao hy vọng nơi họ. Nhưng tiếc thay, nhiều khi đạo quân đông đảo này lại sẵn sàng cùng nhau câm lặng trước những cảnh áp bức, đau thương, những cảnh ngang trái đầy bất công của xã hội… Ơi, phải chi những người ấy đừng vỗ ngực xưng tên mình là môn đệ Đức Giêsu, là người theo Ngài, là ngôn sứ của Ngài thì chẳng ai phiền trách họ về sự câm lặng ấy! Và chẳng ai thèm hy vọng nơi họ để khỏi phải thất vọng! Xưng mình là ngôn sứ mà chẳng làm công việc của ngôn sứ thì còn chính danh gì nữa? còn chân thật gì nữa! Thiên Chúa sẽ xét xử ra sao những người đang vui hưởng vinh quang của các ngôn sứ, nhưng lại muốn trốn tránh nhiệm vụ ngôn sứ?
4. Thái độ của người Pharisêu
Bọn Pharisêu trong bài Tin Mừng không muốn anh Batimê la to lên để Đức Giêsu nghe thấy mà chữa lành cho anh. Đối với họ, cảnh mù lòa xin ăn, sự khốn cùng của anh chẳng có gì đáng để họ bận tâm. Lòng họ đã ra chai đá rồi! Họ không muốn anh được chữa lành, khi mà việc ấy không thuận lợi cho sự độc quyền ảnh hưởng của họ trên dân chúng. Họ sợ bị mất ảnh hưởng hơn sợ dân chúng phải đau khổ. Vì thế, họ muốn bịt miệng anh, không muốn anh nói lên sự cùng quẫn của anh. Là những người lãnh đạo tinh thần trong dân chúng, đúng ra họ phải lên tiếng nói thay cho dân, nhất là cho những kẻ đang bị cùng quẫn vì áp bức. Đằng này họ lại muốn bịt miệng người dân lại khi người dân lên tiếng. Là lãnh đạo tinh thần, đúng ra họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của họ. Đằng này, họ lại đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của dân.
Thấy thái độ của họ đối với dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh «kẻ chăn thuê» để nói về họ: «Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).
Ước gì những người lãnh đạo tinh thần thời nay không giống như các Pharisêu xưa, mà giống như Đức Giêsu, để vị nào cũng có thể nói được như Ngài: «Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Amen.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, cảnh người mù kêu cứu bị quát nạt vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Đức Giêsu, nhưng chúng con chẳng muốn làm theo Ngài. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức bất công như Ngài vẫn luôn quan tâm. Chúng con chỉ thích bắt chước những người Pharisêu, đặc biệt quan tâm tới những nghi thức tôn giáo, những hình thức đạo đức bên ngoài, những luật lệ… Có phải chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương không? Xin Cha đừng để chúng con ảo tưởng mình đầy đủ đức tin chỉ vì chúng con đang làm thầy dạy về đức tin, hay tưởng mình giàu tình thương chỉ vì chúng con đang rao giảng về đức ái. Sự sợ hãi hằng trấn áp chúng con chứng tỏ đức tin của chúng con còn rất yếu kém. Sự lãnh đạm với những người nghèo khổ chứng tỏ tình thương của chúng con còn rất nghèo nàn. Lạy Cha, xin thêm đức tin và tình thương cho chúng con.
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Cha của mỗi người. Người ta không đánh giá được, cũng không quí trọng cái mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn. Bài trích sách Tiên tri Giê-rê-mi-a kể lại vị Tiên tri hướng về cái ngày mà dân Ít-ra-en sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giê-rê-mi-a loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để phục hồi trong ơn bình an. Còn Bài Phúc âm kể lại việc Chúa chữa người mù Bác-ti-mê.
Người mù thành Giê-ri-cô biết anh ta đã mất nhãn quan. Vì thế anh ta cố xin cho được nhìn thấy, và anh ta đã được phục hồi nhãn quan. Anh ta là một trong những người trong Phúc âm rất được may mắn. Anh ta được một cơ hội cuối cùng để xin Chúa chữa khỏi bệnh mù loà. Và anh ta đã dùng cơ hội đó mặc dầu bị phản đối. Đức tin và lòng cậy trông của người mù vào Chúa mạnh đến nỗi không ai có thể ngăn cản được anh ta. Anh ta xin đặc ân được khỏi bệnh mù trong khi tuyên xưng đức tin. Và rồi không những anh ta được điều anh ta xin là việc được phục hồi khỏi bệnh mù, anh ta còn được ân huệ thiêng liêng là trở nên môn đệ Chúa: Tức khắc anh ta thấy được và đi theo Người (Mc 10:52).
Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa làm phép lạ, Chúa đều nhắc đến lòng tin. Tất cả những ai được ơn phép lạ đều có một điểm giống nhau là lòng tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa. Phúc âm ghi lại từ ngữ mù loà ba mươi ba lần. Một phần ba các trường hợp về mù loà liên quan đến bệnh mù thiêng liêng. Đứng trước những đen tối của cuộc đời, những phụ phàng của cuộc sống, nếu đức tin bị che phủ, ta sẽ trở thành mù quáng về phương diện thiêng liêng. Khi mắc bệnh mù loà thiêng thiêng, ta không nhìn thấy ánh sáng chân lý, không nhìn thấy những khuyết điểm và tội lỗi cuả mình và không biết mình đang đi lầm đường lạc lối.
Cũng như người mù trong Phúc âm, ta đã có thể ngồi bên ngoài lề đường công chính và ơn nghĩa với Chúa nhiều năm mà không chịu lay chuyển. Nếu vậy, ta còn đáng thương hại hơn người mù trong Phúc âm. Người mù trong Phúc âm biết anh ta mù. Còn ta lại không biết mình đã bị mù quáng về phương diện thiêng liêng. Ta tự nhắm mắt lại trước những lời kêu gọi ăn năn sám hối. Ta làm ngơ trước sự hiện diện của Chúa trong nhiều cơ hội trong đời sống. Ta bỏ qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xẩy ra trong vũ trụ, trong đời sống cá nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn … Những biến cố đó có thể là những dấu chỉ mà Chúa muốn nói với ta điều gì đó. Phải chăng Chúa muốn ta thu dọn nhà tâm hồn hay Chúa muốn ta sửa sang lại đời sống nội tâm?
Câu chuyện Phúc âm hôm nay phải khiến ta tự xét xem cái mối liên hệ của ta đối với Chúa như thế nào? Ta cần có can đảm để nhìn sâu vào đáy lòng để xem ta có thể nhìn thấy mình không, và có muốn nhìn thấy mình không? Nếu bị mắc bệnh mù loà thiêng liêng, ta phải xin cho được nhìn thấy mình, thấy cái thực chất của đời mình và thấy nội tâm của mình. Ta phải xin ơn để nhìn thấy mình như thế nào và nhìn thấy mình như là mình phải được nhìn thấy. Nếu đã có thể nhìn thấy mình, ta cần xin ơn để được nhìn thấy mình rõ hơn.
Mù nghĩa là không thấy. Mọi sự, mọi vật, mọi loài đối với người mù đều không có nghĩa gì vì khi bị bẩm sinh mù, người mù sẽ không hề có một khái niệm gì về sự vật, về vũ trụ và ánh sáng vv...Mù là tê liệt, là ù lì ngồi yên và nằm yên một chỗ... Mù có thể so sánh với nô lệ, bị áp bức. Tiên tri Giêrêmia đã nói ngôn sứ về Sion, về Giêrusalem vì bất trung sẽ bị thất thủ và quả thực điều đó đã xẩy ra năm 587 trước công nguyên. Tuy nhiên ngôn sứ lại nói những điều đầy hy vọng cho tương lai của dân Chúa. Thiên Chúa sẽ cứu, sẽ giải thoát dân và ký kết với dân một giao ước mới.Dân sẽ được giải thoát và được hạnh phúc. Ngôn sứ Giêrêmia cũng loan báo thời cứu chuộc, thời Thiên Chúa cứu dân của Ngài: “kẻ đui mù, người què quặt, kẻ mang thai, người ở cữ” cũng được chữa lành, cứu thoát. Tin Mừng của thánh Marcô 10, 46-52 nói đến việc cụ thể một người mù tên Bactimê được chữa lành. Những dấu lạ điềm thiêng như mù được thấy, què đi được, điếc nghe được... là những dấu chỉ Nước Thiên Chúa và của Đấng Mêsia.
CHÚA CHỮA ANH BACTIMÊ KHỎI MÙ TỪ LÚC BẨM SINH:
Người mù con ông Timê, tên Bactimê là một người bị mù từ bẩm sinh. Anh ta sống trong thất vọng. Mọi vật, mọi sự đối với anh đều hoàn toàn u tối. Từ khi sinh ra cho đến ngày nay anh đang làm nghề ăn xin, anh chưa thấy được gì. Đó là nỗi thống khổ của anh, cũng như của bố mẹ anh. Nên, hôm đó, Chúa Giêsu cùng các môn đệ và đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì anh Bactimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường kêu lên với Chúa Giêsu “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10, 48). Anh mù đã thực sự đến với Chúa Giêsu, gặp gỡ Ngài. Còn nhiều người chỉ nhìn Chúa vì tò mò, hiếu kỳ. Họ bàn tán Chúa Giêsu là người làng Nadarét; họ nhìn Chúa với ánh mắt con người, họ không gặp được Chúa. Anh mù gọi Ngài là Giêsu, Con vua Đavít, là Đấng Thiên sai, là Đấng Thiên Chúa sai đến, là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, Đấng sẽ làm cho người mù thấy được, kẻ què đi được vv... (Is 29,18; 35, 5; 61, 1). Chúa Giêsu rất tế nhị hỏi anh mù muốn xin gì. Đây là một cử chỉ ưu ái, lưu tâm của Chúa Giêsu đối với một con người có lòng thành tâm, thiện chí. Anh mù quả có chỗ đứng trong con tim của Chúa Giêsu. Anh mù lần này không xin tiền, xin bạc, không xin của bố thí mà anh xin được chữa lành. Lời cầu xin của anh phát xuất tự đáy lòng của một con người khiêm tốn, tin tưởng, phó thác như Chúa Giêsu đã nói sau khi chữa lành cho anh: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Mc 10, 52). Anh mù đã tin nên được Chúa chữa lành, cho anh được thấy (Mc 10, 52). Và Tin Mừng Marcô nói tiếp: Bactimê được thấy, và đi theo Chúa Giêsu trên đường Ngài đi (Mc 10, 52). Chính đức tin nơi anh mù Bactimê đã giúp anh vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nỗi bất hạnh đang đè nặng trên anh. Dân chúng càng ngăn cản, càng dọa nạt anh, càng bịt miệng anh, anh càng la to cho tới khi Chúa nghe thấy và cho gọi anh lại để hỏi ước muốn của anh. Thì ra, đức tin mới làm cho con người gặp gỡ được Chúa Giêsu và được Ngài cứu thoát, chữa lành.
CHÚA MANG LẠI ÁNH SÁNG CHO ANH MÙ BACTIMÊ VÀ NHÂN LOẠI:
Anh mù được Chúa mang lại ánh sáng, đổi đời cho anh, đưa anh vào một cuộc sống mới, cuộc đời mới mà chỉ có anh trải qua thương đau, mù lòa, tối tăm mới cảm nghiệm được ánh sáng quí trọng như thế nào ? Anh sáng nhận được từ Đức Giêsu Kitô cứu độ, Bactimê đã thấy tất cả, mọi sự đều bừng sáng, đều thức dậy trước mắt anh và nói một cách nào đó, anh đã được sinh ra trong một cuộc sống mới, cuộc sống hoàn toàn có ý nghĩa. Tội lỗi đã vùi dập loài người. Sự dữ đã làm lu mờ đời sống của con người. Chính vì để qui tụ, đổi mới, tái sinh và cứu độ mà Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai tới trần gian.Nên, tất cả những ai đặt lòng tin vào Chúa Giêsu đều có thể được giải thoát, được cứu rỗi. Nhân loại nhờ tin vào Chúa Giêsu, Ngài đã đưa con người vào thế giới mới của Ngài, một thế giới loài người đã được đổi mới bằng ánh sáng đức tin và ân sủng của Đức Giêsu Kitô. Đức tin là một một khám phá, một sự đổi mới nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, là một cái nhìn mới của một con người đã được tái sinh, chan hòa ánh sáng như TV 36 viết: “...và nhờ ánh sáng của Chúa, chúng tôi nhìn thấy ánh sáng” và “Ơn cứu chuộc chứa chan nơi Người”. Thế giới ấy là thế giới mới của Chúa Giêsu vì nơi Chúa ơn cứu độ chứa chan, ơn cứu rỗi lan tỏa ra mọi người khi tất cả đặt niềm tin nơi Chúa. Anh Bactimê được Chúa chữa lành, liền theo Đức Giêsu (Mc 10, 52). Được sáng mắt, đi theo Chúa Giêsu đối với Bactimê là một điều thường, là một sự tự nhiên. Nhân loại, người Kitô hữu, môn đệ không thể nào không bám sát, không theo Chúa Giêsu. Theo Chúa Giêsu, người tín hữu càng sáng hơn, càng thấy tỏ tường hơn con đường họ phải đi để làm môn đệ Chúa. Trong con đường theo Chúa Giêsu, người tín hữu không được đứng nhìn lơ đễnh, bàng quang: họ phải dứt khóat chọn hoặc đi theo Chúa hoặc từ khước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn để kiên trì chờ đợi gặp Chúa. Và xin Chúa dủ thương chữa lành: “Lạy Chúa, xin thương xót con”.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn đã cảm nghiệm thế nào về mù lòa ?
2. Bạn có đủ khiêm tốn để tin vào Chúa và kiên trì chờ đợi Chúa ?
3. Bạn nghĩ sao về thái độ của anh mù Bactimê ?
Tôi muốn phân biệt giữa niềm tin và đức tin. Niềm tin chỉ để nói tới một sự tin tưởng của riêng mình hay một sự tin tưởng vào con người, vào cuộc sống. Đức tin nhắm đến một niềm xác tín nơi một Đấng Toàn năng nào đó bên trên mình. Cụ thể, tôi muốn suy nghĩ về đức tin Kitô giáo. Vì thế, Đấng Toàn năng mà tôi đặt trọn lòng phó thác là chính Thiên Chúa của chúng ta.
1. Niềm tin.
Một ví dụ làm sáng tỏ hơn cho hai chữ: “niềm tin”. Cách đây vài năm, báo Tuổi trẻ tổ chức cuộc thi “Viết về cha tôi”. Có rất nhiều câu chuyện cảm động do những đứa con viết về cha mình. Sau cuộc thi, tòa soạn chọn những truyện hay đăng thành sách, lấy tựa đề từ chính một câu chuyện trong các truyện ngắn: “Cao hơn đỉnh Thái”.
Đúng là cao hơn đỉnh Thái. Tất cả các truyện ngắn ấy đều cho thấy sự hy sinh cao ngất của những người cha. Hy sinh đến mức quyên mìn, quyên tất cả những gì thuộc về mình, quyên cả đến sự sống của chính mình. Và “Con heo đất” là một trong những truyện ngắn kể về một tấm gương cao hơn đỉnh Thái như thế. Tác giả Nguyễn Đào Vĩnh Huy cho biết, mình là con nhà nghèo, nghèo lắm. Ngày nhận giấy báo đậu đại học, Huy không dám cho gia đình hay, sợ cái tiệm sửa giày của ba, vốn đã quá chật vật để nuôi đủ sáu miệng ăn, bây giờ lại kham thêm đứa con đi học đại học, Huy không đành. Tác giả cho biết: “Không muốn thấy ba vì tôi mà gầy đi”. Nhưng cô giáo chủ nhiệm biết tin, đã tới nhà cho hay. Được tin con vào đại học, người cha mừng quýnh. Còn Huy, đưa giấy báo nhập học cho ba mà lòng tưởng như mình đưa cho ba tờ giấy ký nợ. Vậy là từ đó, người cha âm thầm nhịn ăn, nhịn uống nuôi con heo đất, để hằng tháng cho con tiền chi phí.
Tác giả viết: “Ba đưa con heo đất lên ngang tầm mắt rồi cười sản khoái chỉ vào tôi: “Con cũng là một con heo đất đấy chứ. Khéo nhé, làm sao đừng để ba bỏ đói”.
Tôi ngớ người ra một lúc mới hiểu điều ba nói. Vâng! Tôi cũng chính là con heo đất mà hằng tháng ba đã bỏ vào đó 500.000 đồng. Có khác là heo đất thì cất tiền trong bụng, còn tôi thì lại không…”.
Niềm tin là thế đấy. Nó rất cần cho đời sống của bạn và của tôi. Nếu không có niềm tin, ta khó mà vượt qua mọi bấp bênh, mọi chông gai của đời mình. Niềm tin là cánh diều lộng gió đưa ước mơ của ta đến cả bầu trời hy vọng, cho ta nghị lực và vững vàng để tiến bước. Để vượt thắng mọi chướng ngại của cuộc đời. Chỉ với một kết luận rất ngắn: “Có khác là heo đất thì cất tiền trong bụng, còn tôi thì lại không…”, đủ để tác giả Đào Vĩnh Huy nói lên tất cả niềm tin của hai cha con. Người cha tin vào khả năng, vào tương lai mà chính đứa con của mình mang tới. Còn người con, cũng tự tin vào khả năng vượt khó, vượt khổ của mình với một ý thức nhìn về tương lai. Chính nhờ ý thức này, tác giả mới dám khẳng định: “Còn tôi thì lại không…”.
2. Đức tin.
Nếu chỉ mới là niềm tin, đã cho ta những hiệu quả lớn lao như thế, thì đức tin còn làm nên những phép lạ ngoài sức tưởng tượng, ngoài sự hiểu biết lớn biết bao nhiêu.
Tôi thấy trong bài Tin Mừng hôm nay, thái độ của anh mù Bartimê là cả một đức tin chứ không chỉ niềm tin. Cứ đi vào diễn tiến của câu chuyện, ta sẽ thấy đức tin của người mù Bartimê là một đức lớn lao, và ngày càng lớn, lớn dần. Khởi đầu khi anh ĐANG NGỒI ăn xin, NGHE biết người đi ngang qua là Chúa Giêsu, anh ta KÊU lên. Nhưng tiếng kêu không dừng lại ở tên Chúa Giêsu, kèm theo đó là tước hiệu “Con vua Đavit”: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavit, xin thương xót tôi”. Khi gọi Chúa Giêsu là con vua Đavit, anh đã gán cho người tước hiệu Đấng Messia của Israel.
Trong khi tiếng kêu bị đám đông lấn át và cùng lúc, người ta cố ngăn chặng tiếng kêu ấy, anh ta lại càng KÊU TO hơn. Sau cùng tiếng kêu tha thiết của anh đã chiến thắng. Chúa Giêsu đã dừng lại trên nỗi khổ sở của anh. Bây giờ, sau khi nghe người ta thông báo: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh” , anh đã làm một cú nhảy tuyệt vời. Niềm mừng vui của anh được biểu lộ cùng lúc đến ba động tác: LIỆNG áo choàng, ĐỨNG DẬY, ĐẾN CÙNG Chúa Giêsu. Cần phải nói thêm nơi động tác thứ hai: bản văn Phụng vụ dịch là: “đứng dậy”. Bản văn của nhóm Các giờ kinh phụng vụ dịch là: “đứng phắt dậy”. Còn bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn là:”nhảy chồm dậy”. Bạn cứ thử tưởng tượng mà xem: Một người không chỉ sống trong tăm tối, mà còn nghèo khổ, phải đi xin ăn, phải sống bằng lòng trắc ẩn của mọi ngươi. Đó là chưa nói đến mặc cảm của bản thân, đã vậy còn bị khinh khi, bị xa lánh, và chắc chắn nỗi cô đơn càng không nhỏ. Hiểu như thế, ta mới cảm nhận hết sự hồ hỡi của Bartimê. Vì thế, để diễn tả tất cả sự vui mừng, nỗi hạnh phúc, lòng hân hoan, và cả thái độ yêu mến của Bartimê nữa, có lẽ sử dụng động từ NHẢY CHỒM DẬY trong hoàn cảnh này là hay hơn cả. Một cú NHẢY CHỒM DẬY như thế, còn cho thấy sự luống cuống xen lẫn một chút gì kinh ngạc vì Thầy Giêsu, Đấng mà anh tuyên xưng là “Con vua Đavít ”, là Đấng Messia lại có thể nghe thấu lời kêu xin của anh. Liền một lúc, ba động tác liệng áo choàng, nhảy chồm dậy, đến cùng Chúa Giêsu còn cho thấy thái độ dứt khoát hoàn toàn thuộc về đức tin: Anh chỉ nghe nói Chúa đến với mình, không hề biết Người đến từ hướng nào vậy mà vẫn nhảy cẩng lên, để được đến cùng Chúa. Chính thái độ của đức tin thật lớn ấy đã làm nên phép lạ. Chính Chúa Giêsu khẳng định như thế trong lời khen ngợi đức tin của anh mù: “Đức tin của anh đã chữa anh”!!
Chính đức tin đã cho anh, dù đang mù đôi mắt, nhưng lại rất sáng tâm hồn, để rồi sau khi nhận được ánh, anh đã bước theo NGUỒN SÁNG là chính Chúa Giêsu có thể làm cho anh, cho cuộc đời anh và cho mọi người sáng lên, không phải bởi đôi mắt mà là ánh sáng chan chứa, ánh sáng dòi dọi của đức tin. Thánh Marcô kết thúc bài Tin Mừng bằng một ghi nhận thấu đáo: “Tức thì anh ta thấy được và ĐI THEO NGƯỜI”. “ĐI THEO NGƯỜI” vừa khép lại một hành trình đức tin, vừa mở ra một hành trình mới. Vì hành động ĐI THEO ấy là một giai đoạm mới, mở ra một tương lai mới cần thiết cho cả hành trình đức tin vừa mới khép lại. “ĐI THEO NGƯỜI”: Đấy là điểm kết và là cao điểm của đức tin. Đấy là giai đoạn cuối cùng, là một tổng thể của cả hành trình đức tin. Đấy là cao trào lớn do chính giai đoạn đức tin vừa qua đưa tới. Đấy cũng chính là sự tất yếu của những ai vừa khám phá ra bài học lớn lao của đức tin.
Như vậy một chuỗi tiến trình của đức tin vừa mới hình thành: ánh sáng đức tin của một tâm hồn dẫn tới sự sáng của đôi mắt để rồi trở lại với tâm hồn, đức tin ấy càng tỏa sáng lung linh. Người đã ra tay để giải thoát anh khỏi cảnh tăm tối của đôi mắt. Bằng cách ấy, Người đưa anh đi sâu vào huyền diệu của đức tin, để từ đây anh sẽ bước theo Người.
Niềm tin vào cuộc đời, vào lòng người đưa ta đến thành công trong cuộc sống. Còn đức tin đưa ta đi trọn cuộc vượt qua mà cuộc đời của mỗi Kitô hữu cần lắm để có thể phóng mình tới bến bờ của tình yêu thường hằng là chính Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc vĩnh cửu. Và chính trong đức tin cũng đã bao hàm một niềm tin. Người mù khi kêu cầu Chúa Giêsu, giả thiết anh đã có sẵn một niềm tin vào một con người mang tên Giêsu. Bởi thế cuộc sống của bạn và tôi dẫu có thế nào, cũng đừng đánh mất niềm tin trong đời. Vì chính niềm tin là cái chốt đầu tiên đặt nền tảng cho đức tin của ta. Nếu bất mãn, thất vọng sẽ làm cuộc sống nặng thế nào, thì thiếu niềm tin cũng sẽ dẫn tới mệt mỏi trong đức tin thế ấy. Vì thế, bạn và tôi hãy để cho niềm tin hun đúc đức tin của mình. Và khi đức tin đã được tôi luyện, sẽ củng cố niềm tin trong ta rất nhiều.
Tin là đón nhận ánh sáng để nhìn cuộc đời trong ánh sáng mới. Nói cách khác, đức tin là một cặp mắt mới. Cuộc đời này vẫn thế. Vẫn là những con người, những biến cố, những nỗi niềm. Đức tin chẳng miễn chước một khổ đau nào. Nhưng đức tin lại có sức làm thăng hoa cuộc đời của mình. Dẫu không làm bay hơi bất cứ một sự oằn nặng nào trong đời ta, nhưng đức tin sẽ giúp ta thánh hóa tất cả những nỗi niềm, những lo toan, gánh vác… Trong đức tin, ta nhận ra như thế, thì đó chính là cập mắt mới của đức tin.
Tin còn là mở lòng đón nhận ơn Thiên Chúa. Đó chẳng phải trường hợp của người mù Bartimê đó sao. Anh đã mở lòng và đón nhận chính Chúa Giêsu, món quà vô giá của chính Thiên Chúa tặng ban. Và vì chính Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian, nên khi có Người hiện diện trong ta, Người sẽ làm cho ta càng lúc càng chìm sâu trong ánh sáng, để người mù Bartimê, ta bước theo ánh sáng của Người và nhận lấy niềm tin trong cuộc đời và đức tin nơi tâm hồn. Chỉ với kinh nghiệm gặp Chúa, ta mới có thể vượt qua những khó khăn trong cuộc sống lòng tin và trung thành với đời sống đức tin của mình.
Tiếp tục theo chân Đức Giêsu trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa chữa người mù, khi Ngài vừa ra khỏi thành Giêrikhô. Câu chuyện này, mới nghe qua có vẻ như chẳng liên hệ gì đến từng người chúng ta, bởi lẽ, về mặt tự nhiên, chẳng phải chúng ta vẫn đang nhìn thấy mọi sự đó sao?
Thế nhưng, kinh nghiệm thực tế cho chúng ta biết rằng, có rất nhiều điều xảy ra hàng ngày trước mắt chúng ta, chúng ta vẫn nhìn, nhưng lại chẳng thấy gì. Nhất là những việc thuộc về đời sống tinh thần, thiêng liêng của chính bản thân chúng ta, chứ chưa nói đến việc nhìn thấy những điều thuộc về người khác. Cha ông chúng ta cũng đã từng nói lên cái kinh nghiệm này: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng” hay là “chân mình thì lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người”. Vì “quáng”, nên chúng ta chẳng thấy rõ “việc của mình”, và thực ra, đối với “việc của người”, chúng ta cũng “chẳng sáng”, như cha ông chúng ta thường nói: “Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt; tri nhân, tri diện bất tri tâm”.
Và nếu chẳng thể thấy rõ mình, cũng chẳng thể hiểu rõ người khác, như thế, một cách nào đó, tôi và quý ông bà anh chị em cũng đang bị mù. Do đó, chúng ta cũng cần cất tiếng kêu xin như anh mù trong bài Tin mừng hôm nay: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúng ta cần được Thiên Chúa làm cho thấy để khỏi đi lạc trên con đường tiến về Giêrusalem Thiên quốc.
1. Một lời xin của người đang sống trong cảnh tối tăm
Trở lại với bài Tin mừng, thánh sử Marcô cho biết lúc đó, Đức Giêsu vừa rời thành Giêrikhô và đang trên đường tiến về Giêrusalem, theo sau Ngài là các môn đệ và đám đông dân chúng. Giữa đám đông ồn ào đó, chợt có một tiếng kêu lớn: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đó là tiếng kêu của một người mù có tên Bartimê, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh ta đang kêu xin lòng thương xót của vị được gọi là “Con vua Đavít”. Anh ta muốn được nhìn thấy, anh muốn được giải thoát khỏi cảnh sống trong tối tăm để được nhìn thấy ánh sáng.
Lời kêu xin của người mù trong bài Tin mừng hôm nay như vang vọng lại lời kêu của dân Chúa khi họ đang sống trong cảnh “nước mất, nhà tan” mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel”. Đây là tiếng kêu của một dân tộc đang rơi vào cảnh lầm than, tương lai của họ thật tối tăm, mờ mịt. Chính trong cảnh tối tăm đó, lời vị ngôn sứ như ngọn gió thổi bùng lên trong dân một ngọn lửa hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn cho dân tộc mình: “Đây Ta sẽ dân dắt chúng từ đất Bắc trở về, sẽ tụ hợp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con, đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây. Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về”.
Nhờ lời của vị ngôn sứ, dân Chúa tiếp tục hy vọng và đợi chờ ngày được giải thoát khỏi cảnh đời tăm tối của tội lỗi. Dân Chúa ngóng chờ ngày Đấng Messia của Thiên Chúa đến đem lại ánh sáng cho họ.
2. Đức Giêsu, Đấng làm cho thấy
Và quả thật, năm 538 trước Công Nguyên, lời Chúa hứa đã thành sự thực. Dân Chúa đã được hồi hương trở về và xây dựng lại Đền Thờ ngay trên mảnh đất mà Thiên Chúa đã hứa cho cha ông họ. Họ đã bước qua cảnh đời tối tăm để bước vào miền đất của ánh sáng. Sau hơn nửa thế kỷ lưu đày, nay lại được trở về quê cha đất tổ, một sự thật vượt quá sự tưởng tượng của họ. Tâm tư họ hân hoan vui mừng. Họ đang sống trong sự thật, nhưng cứ tưởng như mình đang ở trong mơ. Tâm tình đó đã được tác giả Thánh vịnh diễn tả thật sống động trong bài đáp ca: “Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan”.
Sự giải thoát dân Chúa khỏi ách nô lệ này đã báo trước một sự giải thoát triệt để hơn mà Đức Giêsu sẽ thực hiện sau này. Ngài chính là Đấng giải thoát từng người chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, bởi lẽ như lời Ngài nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Sự giải thoát này sẽ được Ngài hoàn tất nhờ cuộc tử nạn - Phục sinh của Ngài. Như thế, việc Đức Giêsu chữa lành người mù hôm nay, ngay trên đường Ngài lên Giêrusalem để chịu khổ nạn chính là một dấu chỉ cụ thể cho sứ mạng của Ngài. Do đó, khi nghe tiếng Ngài gọi, dân chúng đã nói với người mù: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”.
Mặt khác, nếu như lời kêu xin của anh mù là tượng trưng cho tiếng kêu của chúng ta là những người tội lỗi, những người đang sống trong bóng đêm của sự chết, thì quả thật, chúng ta đang cần một Đấng đến để giải thoát chúng ta. Chúng ta cần một vị Thượng Tế để dâng lên Thiên Chúa lễ vật đền tội và cầu nguyện cho chúng ta. Vị Thượng Tế ấy chẳng có thể là ai khác mà chính là Đức Giêsu Kitô, vị Thượng tế được chính Chúa Cha chọn gọi như lời tác giả thư Do thái trong bài đọc hai: “Cũng thế, Đức Kitô không tự dành lấy quyền làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê”. Hơn nữa, nhờ việc nhập thể, Đức Kitô đã thực sự có thể thông cảm được mọi nỗi yếu hèn trong thân phận làm người của chúng ta. Và nhờ Thiên tính của mình, Đức Kitô đã trở nên vị Trung gian duy nhất dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa, như lời Ngài khẳng định: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6a;x. 1 Tm 2, 5).
Như thế, qua phần lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi từng người chúng ta mặc lấy tâm tình của người mù, người đang sống trong bóng đêm của sự chết, để cất lời kêu xin lên Đức Kitô, Đấng có quyền năng đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
3. Chúng ta hôm nay
Người mù hôm nay đã được chữa lành. Anh đã được chữa lành nhờ vào lòng tin của anh, như lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Đức tin của anh đã chữa anh”. Vâng, chính một đức tin mạnh mẽ giúp anh vượt qua mọi mặc cảm, giúp anh vượt qua sự cản trở của đám đông dân chúng đang đi theo Đức Giêsu. Anh đã dám dứt bỏ mọi ràng buộc, kể cả chiếc áo choàng là vật rất cần thiết cho đời sống thường ngày của anh tại miền đất Palestin. Ngoài ra, anh được chữa lành, còn bởi vì anh biết anh bị mù nên đã đến cầu xin cùng Đức Giêsu.
Do đó, để được bước vào miền đất của ánh sáng, trước hết mỗi người chúng ta cũng cần nhận ra rằng mình đang “bị mù”. Chúng ta bị mù bởi tâm trí chúng ta đang bị tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng che khuất, khiến chúng ta không thể đón nhận sự thật, đón nhận chân lý. Và để thoát khỏi tình trạng mù loà tâm linh này, mỗi người chúng ta cần chạy đến với Chúa trong tâm tình khiêm tốn đơn sơ nơi toà Cáo giải. Chúng ta cần can đảm vượt qua những ươn lười, những cám dỗ của dục vọng đam mê nơi bản thân, để đến gặp Đức Giêsu thường xuyên trong bí tích Thánh Thể. Và nhờ sức mạnh của Ngài, tất cả chúng ta sẽ được giải thoát khỏi cảnh tối tăm của sự chết, để bước đi trong miền đất của ánh sáng và sự sống muôn đời. Amen.
Trên con đường tin theo Chúa Giêsu Kitô, người Kitô hữu phải vượt qua không ít trở ngại, có khi là từ bên ngoài nhưng nhiều khi lại từ chính bên trong, từ chính con người mình vì ai nấy đều mù lòa và tăm tối về mặt tâm linh. Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là ơn được dành cho hết mọi người. Nhưng ơn khai sáng tâm linh là ơn cần thiết cho hết mọi môn đệ. Có ơn khai sáng tâm linh, chúng ta mới nhận ra Đấng mời gọi chúng ta và chúng ta mới nhìn ra con đường phải đi, công việc phải làm. Câu chuyện anh chàng mù Báctimê ở Giêrikhô được Tin Mừng Máccô tường thuật hôm nay giúp chúng ta hiểu các điều quan trọng ấy.
ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
1. Đức Giêsu đã thực hiện nhiều hơn những điều ngôn sứ Giêrêmia nói về Thiên Chúa và những điều Thánh Phaolô viết về Vị Thượng Tế:
Ngôn sứ Giêrêmia đã nói về Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương Cứu Vớt và chăm sóc dân Ítraen: “Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Ítraen. Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất.Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo. Chúng trổ về, nước mắt tuôn rơi Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ítraen, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Epraim chính là con trưởng.” Thiên Chúa đã thực hiện những điều ấy qua Đức Giêsu Con Một yêu dấu của Người trong cuộc sống trần thế của Người nói chung và trong việc chữa lành anh chàng mù ở Giêrikhô nói riêng. Anh chàng Báctimê chẳng những được sáng mắt thoát khỏi cảnh khốn khổ mù lòa mà còn được mời gọi đi theo Chúa Giê- su, làm môn đệ Người. Một sự biến đổi kỳ diệu và bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của mọi người.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Do Thái đã viết về Vị Thượng Tế mà Thiên Chúa đã chọn và đã đặt làm đại diện cho loài người: “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc” Vị Thượng Tế tuyệt vời ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã gánh tội nhân loại và thay đổi số phận anh chàng mù Báctimê thành người môn đệ tiến bước theo Chúa trên con đường cứu chuộc bằng Khổ hình Thập giá.
2. Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là ơn dành cho hết mọi người:
Trái với cách hiểu thông thường của đại đa số giáo dân là chỉ có các bậc tu trì: giáo sĩ và tu sĩ, mới được ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cách nhìn mới, chính xác hơn: mọi người đều được mời gọi làm môn đệ Chúa Giêsu, kể cả những người nghèo hèn, tật nguyền, yếu kém về các lãnh vực xã hội, bị coi khinh coi rẻ trong cộng đồng con người. Thánh Máccô đã chủ tâm trình bày câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành anh chàng mù Báctimê không chỉ là một phép lạ mà còn là một sự thay đổi trong tư cách của một con người. Lúc trước anh chàng mù Báctimê chỉ là một con người tàng tật, sống bên lề đường (tức bên lề xã hội) làm nghề ăn xin là một nghề hèn hạ, chẳng được ai coi trọng. Sau khi gặp Chúa Giêsu thì chẳng những mắt anh được chữa lành mà tư thế của anh đã được thay đổi một trăm tám chục độ. Từ bên lề xã hội, anh đã được xếp vào hàng các môn đệ Chúa Giêsu. Một cách nào đó, anh còn hơn cả 12 môn đệ mà linh mục giáo sư Kinh Thánh Henrick Hermann gọi là “những người theo Chúa chuyên nghiệp”, vì đang khi 12 môn đệ còn bận tâm tranh luận xem ai xứng đáng được ngồi chỗ bên tả bên hữu Chúa và không muốn Thầy lên Giêrusalem, thì anh chàng mù Báctimê, vừa khi hết mù, đã hiên ngang rũ bỏ tất cả, để theo Chúa trên đường tiến về Núi Sọ.
3. Ơn khai sáng tâm linh là ơn cần thiết cho hết mọi môn đệ Chúa Giêsu: Câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành anh chàng mù Báctimê của Máccô rõ ràng muốn nói với độc giả rằng: muốn theo Chúa Giêsu, tức muốn làm môn đệ Người, thì phải được ơn nhận ra Người. Mà muốn được ơn nhận ra Người thì phải được khai sáng trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu chữa lành hai mắt anh chàng mù thì cùng một lúc Người cũng mở lòng, mở trí, mở mắt tâm linh cho anh nhận ra Người là Đấng Mêsia mà dân Do Thái đang ngóng chờ, là Đấng sẽ phải chết rồi mới phục sinh vinh quang. Nhờ ơn khai sáng tâm linh ấy mà anh ta mới có đủ sức mạnh mà rũ bỏ tất cả và đi theo Chúa.
Trong cuộc đời Kitô hữu, rất nhiều khi chúng ta thiếu ơn khai sáng tâm linh của Chúa. Chúng ta có biết Chúa đấy, nhưng mới chỉ là biết lý thuyết, biết trong tư tưởng mông lung của mình. Chúng ta chưa biết Chúa như biết một người bạn, một người Cha, một người ban cho mình sự sống, nên chúng ta không dám dấn thân theo Chúa, không dám thực hiện lời Chúa mời gọi. Chúng ta chưa thật sự gặp Chúa Giêsu như anh chàng mù Bácti-mê, nên chúng ta không thay đổi con người và cuộc sống của chúng ta một cách triệt để và kỳ diệu như anh chàng Báctimê.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô, là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống và là Sự Sáng. Chúng con cảm tạ ngợi khen Chúa vì Chúa đã mời gọi chúng con đi theo Chúa, làm môn đệ Chúa.
Xin Chúa ban ánh sáng và sức mạnh cho chúng con để chúng con mỗi ngày mỗi nhận ra Chúa rõ ràng hơn, và để chúng con mạnh dạn dấn bước theo Chúa sát sao gần gũi hơn, xứng đáng là môn đệ của Chúa, là người được Chúa GỌI như 12 môn đệ và như anh chàng mù Báctimê xưa.
Chúa Giê-su cùng các môn đệ tiếp tục vượt chặng đường dài tiến về Giê-ru-sa-lem. Giờ đây Thầy trò đang dừng chân tại thành phố Giê-ri-khô. Giê-ri-khô là một thành phố cổ, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 30 cây số về phía đông. Chính tại nơi đây, xưa kia ông Giô-suê lãnh đạo dân Dothái, vượt sông Jordan và chiếm thành (x. Gs 6). Nay chính Chúa Giê-su cũng dừng chân nơi đây, trước khi lên Giê-ru-sa-lem và phép lạ cho người mù thành Giê-ri-khô được sáng xảy ra. Phép lạ Giê-ri-khô chính là lời tụng ca danh thánh Chúa Giê-su, Đấng cứu chuộc trước khi Người tiến về thành Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn.
Thánh Mác-cô ghi lại rõ ràng tên của người hành khất là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê đang ngồi bên vệ đường trong tình trạng mù loà. Tình trạng này chứng tỏ anh hoàn toàn bị gạt ra bên lề xã hội. “Ngồi bên vệ đường” diễn tả tình trạng của một con người hoàn toàn vô dụng, bị xã hội khinh chê, loại trừ. Thế nhưng, thật trái ngược, trong đám đông dân chúng rầm rộ bước theo Chúa Giê-su - họ là những người được xem là sáng mắt- lại hóa nên mù loà trước ánh sáng “vô hình” mà chỉ có anh mù Ba-ti-mê thành Giê-ri-khô nhận ra. Thật vậy, những người sáng mắt không thể nhận biết Chúa Giê-su là ai, họ bị “mù” trước con người Giê-su Cứu thế. Trái lại, anh mù thành Giê-ri-khô thì lại “thấy” rõ ràng chính Chúa Giê-su là Con Vua Đa-vít - một danh hiệu chỉ về Đấng Mê-si-a. Tiếng kêu lớn tiếng của anh đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Chúa Giê-su - người mà anh tin là sẽ cho anh phục hồi sự sáng.
Tình trạng của anh mù khi ấy có thể sẽ tồi tệ hơn nếu như Chúa Giê-su không can thiệp. Cũng giống như trước đây, chính các môn đệ đã la mắng các em bé, không cho chúng đến với Chúa Giê-su (x. Mc 10, 13-16); nay thì chính đám đông cũng muốn gạt người hành khất mù loà này khi họ quát nạt bắt anh phải im miệng. Họ không cho anh đến gặp Chúa vì lẽ anh là một bệnh nhân bị xã hội loại trừ. Tuy thế, Ba-ti-mê không chịu thua, anh càng kêu to hơn như thể phản đối đám đông đồng thời cũng tạo sự chú ý cho Chúa Giêsu. Kết quả là, Chúa Giê-su cho gọi anh đến, còn đám đông thì thay đổi thái độ từ cứng rắn sang mềm mỏng: “cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”!
Đứng trước tiếng gọi của Chúa, người mù thành Giê-ri-khô vất áo choàng và đứng phắt dậy. Cử chỉ của anh mù thật ý nghĩa. “Vất áo choàng” - một biểu lộ của sự giải phóng, thoát khỏi tình trạng bị xã hội loại trừ. “Vất áo choàng” cũng đồng nghĩa với việc vất đi một thứ tài sản quý nhất của người nghèo. Nó quý không chỉ bởi được dùng vào việc ăn xin, dùng để đựng những thức ăn xin được; mà nó còn là một vật dụng được Lề luật bảo vệ. Thật vậy, trong sách Xuất hành chúng ta thấy, áo choàng là một tài sản không được đem đi cầm cố vào ban đêm (x. Xh 22, 25tt). Thấy được như thế, chúng ta mới thấy sự can đảm của anh mù thành Giê-ri-khô khi anh dám vất bỏ tài sản quý nhất của mình để bước theo Chúa Giê-su. Điều này trái ngược hẳn với những gì mà người thanh niên giàu có đã không dám bán tài sản của mình, cho người nghèo để theo Chúa (x. Mc 10, 17-22). “Đứng phắt dậy” là một hành động diễn tả thoát khỏi một tình trạng xấu, chuyển sang một tình trạng tốt. Anh mù thành Giê-ri-khô giờ đây không còn trong tình trạng “ngồi bên vệ đường” nữa, mà “đứng phắt dậy” để hoà nhập vào cuộc sống xã hội.
Chính Chúa Giê-su đã thực hiện điều kỳ diệu này khi lệnh truyền cho anh “Hãy đi”. Anh mù thành Giê-ri-khô giờ đây không còn bị loại trừ nữa, anh hoà chung vào dòng người đông đảo để bước theo Chúa Giê-su. Anh không chỉ “đi theo” - một kiểu nói quen thuộc đối với môn đệ Chúa Giê-su, mà còn hơn thế nữa. Thánh Mác-cô cho chúng ta biết là anh đi “trên con đường” Chúa Giê-su đi. Nghĩa là từ nay, chính anh là người cùng với Chúa Giê-su tiến vào Giê-ru-sa-lem để chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Chúa khi Người đón nhận cuộc khổ nạn, chịu chết và phục sinh. Điều này cũng có nghĩa là anh chứ không ai khác sẽ là chứng nhân Tin mừng về Chúa Giê-su, bước theo Chúa và chấp nhận con đường của Chúa.
Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta không ngừng phản tỉnh. Phép lạ Giê-ri-khô là một bài học lớn cho chúng ta. Theo gương anh mù Ba-ti-mê, để được chữa lành khỏi mù loà, chúng ta cần phải vất bỏ “áo choàng” chính là những ràng buộc do bởi những tham vọng, những ước muốn thấp hèn, làm cản trở bước đường theo Chúa. Con mắt đức tin của chúng ta cần được Chúa chiếu soi, thoát khỏi cảnh tăm tối mù loà để có thể bừng sáng như anh mù Ba-ti-mê, nhờ đó chúng ta được Chúa thúc đẩy, hăng hái ra đi, rao giảng tình yêu của Chúa cho muôn người.
Cha John Doberty là người Tô Cách Lan. Khi còn là chủng sinh, Cha được gởi đi học sáu năm bên Tây Ban Nha. Đó là vào thời diễn ra Công Đồng Vatican II. Khi trở về quê nhà, Cha là linh mục trẻ của thời hậu Công Đồng nên ôm ấp nhiều hoài bão lớn về Giáo Hội. Cầm trong tay những văn kiện của Công Đồng, người linh mục trẻ này cứ đinh ninh nắm chắc rằng Giáo Hội được canh tân đã trở nên sống động nhờ Công Đồng. Ai ngờ chỉ thấy một Giáo Hội đầy xung khắc ngay giữa hàng giáo sĩ trẻ và già. Cha John Doberty chia sẻ về điều đã biến đổi cha từ thâm tâm như sau:
Những năm 1967-1968, có nhiều đảo lộn xảy ra như tôi được biết. Bối cảnh lộn xộn thời đó là có những linh mục trẻ chịu ảnh hưởng của một số thần học gia bất đồng ý kiến với các vị Giáo Hoàng và Giám Mục. Mọi sự đều góp phần vào cơn khủng hoảng quyền bính trong Giáo Hội mà bản thân tôi bị vướng trong đó. Tôi lưỡng lự chưa biết nên ở lại Tô Cách Lan nữa hay nên đi nơi khác, chẳng hạn như Đức quốc, Canada, Pháp. Tôi cũng chưa rõ tôi sẽ còn là linh mục nữa hay không. Hồi đó một số linh mục trẻ chúng tôi có thói quen họp đều đặn để thảo luận về cách thể hiện các văn kiện Công Đồng. Hôm đó có người trong chúng tôi biết có nhóm Focolare nào đó đến Tô Cách Lan vào cuối tuần. Tôi hỏi xem Focolare là gì thì được cho biết đó là một phong trào quốc tế về gia đình phát xuất từ Italia. Phản ứng của tôi là "chẳng có gì tốt từ Italia mà ra."
Hai tuần sau đó, nhóm chúng tôi lại họp nhau. Trong giờ giải lao, tôi nghe có hai linh mục nói qua nói lại với nhau về vấn đề đưa Phúc Âm ra thực thi. Đó là đề tài làm tôi chú ý, vì ngày còn ở chủng viện chúng tôi đã có những cuộc thảo luận Phúc Âm nhưng chưa bao giờ đưa tới thực hành mà chỉ giới hạn ở phạm vi trí hiểu mà thôi. Vậy nên khi nghe họ, tôi cảm thấy khơi dậy nơi tôi một lòng khao khát muốn đưa Phúc Âm ra thực thi. Hai linh mục ấy liền cho tôi biết về cuộc họp Focolare chiều hôm đó và mời tôi cùng họ đi với họ. Thế là tôi đã dự một trong những cuộc họp đầu tiên của Focolare ở Tô Cách Lan.
Tôi còn nhớ căn phòng khách đơn sơ nơi tôi bước vào cuộc họp, trước ngọn lửa hồng bự đang cháy tí tách, có con chó dễ thương nằm đó. Một linh mục người Italia nói về Focolare đã khởi sự như thế nào với chị Chiara Lubich cùng các bạn đầu tiên. Kế đến vị đó trình bày về những điểm cơ bản của linh đạo Focolare.
Ánh sáng từ phía giáo dân
Tôi nghe vang lên trong lòng tôi tiếng nói đức tin. Điểm một nói về cuộc khám phá ra Thiên Chúa yêu thương bằng tình yêu vô hạn đối với từng người mà Ngài ưu ái dựng nên. Phản ứng đức tin của tôi là: "Quả thật, Thiên Chúa yêu thương tôi bằng tình yêu vô hạn." Điểm hai được trình bày là: "Tôi phải chọn Chúa trên hết mọi sự để đáp lại tình yêu Ngài dành cho tôi." Rồi theo logic: "Vậy tôi phải thực thi ý muốn của Thiên Chúa."
Phản ứng của tôi không chỉ do đức tin nhưng còn do tình yêu. Có thể nói tôi say mê về cuộc khám phá ra tình yêu Thiên Chúa. Và tôi đã có những phản ứng vừa nói cách rất tự nhiên từ con tim. Nhưng người trình bày về Focolare còn nêu điểm tối quan trọng là ý muốn của Thiên Chúa. Người đó nói: "Mỗi khi Chiara Lubich quyết định về một dự án nào, thì dự án ấy phải được trình bày để lãnh ý của Đức Giám Mục giáo phận trước đã. Nếu ngài đồng ý thì chị em sẽ vui vẻ nhận đó là ý của Chúa; ngược lại, nếu ngài không đồng ý, chị em cũng vui vẻ đón nhận. Chị em làm như vậy vì chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ rằng: "Ai nghe lời các con là nghe lời Thầy."
Lời Phúc Âm vừa trích đúng là lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn, đòi tôi phải chọn để chấp nhận hay không chấp nhận câu chuyện Phúc Âm như đang được trình bày về Focolare. Tôi bị lương tâm cật vấn: "Tôi là ai mà cả gan chống lại Đức Phaolô VI và các Giám Mục Tô Cách Lan khi mà chính Chúa Giêsu khẳng định rất rõ rằng ai nghe lời các vị ấy là vâng nghe chính Chúa và ai chống lại các vị ấy là chống lại chính Chúa?" Lương tâm đòi tôi phải đầu hàng. Hơn nữa, tôi còn phải yêu mến các vị là những người Chúa đã an bài đặt kế cận tôi trong Giáo Hội. Một cuộc biến đổi đã xảy ra trong tôi chiều hôm đó. Tôi được bình an vì không còn phải thắc mắc và nghi ngờ gì nữa.
Ảnh hưởng dây chuyền
Không riêng tôi, nhiều người khác nữa cũng chịu ảnh hưởng dây chuyền. Sau cuộc họp nhỏ về Focolare chừng một tháng thì cuộc họp lớn gọi là thành phố của Đức Maria (Mariapolis) được tổ chức. Tôi mời được bốn người trong họ đạo đi dự, mà một người hầu như tình cờ được mời mà thôi. Trên đường đến nhà một người khác mà tôi cần gặp, tự nhiên tôi được thúc đẩy để tạt qua nhà bạn Tommy. Vừa bước vào nhà anh, tôi đã bị khiêu khích: "Này, tại sao Giáo Hội lại bất động không chịu làm gì để đối phó với sự dữ trên thế giới." Tôi biết rõ con người này từng chủ trương bất khả trị rồi nhưng cũng cứ mời để đáp lại lời anh vừa thách thức Giáo Hội: "Này, bạn Tommy, tôi không hiểu tại sao tôi tới gặp bạn, nhưng nếu bạn muốn hiểu thực chất Kitô giáo là gì, bạn hãy theo tôi đến Mariapolis mà xem thì sẽ thấy."
Vậy là bạn Tommy cùng đi dự với chúng tôi. Kết quả thật lạ lùng. Chính anh thú nhận "Tôi cảm thấy như thánh Phaolô trên đường đi thành phố Đa-mát xưa với điều ngược lại đã xảy ra." Anh có ý nói anh được "sáng mắt" còn thánh Phaolô ngã ngựa đã ra mù lòa. Chỉ trong giây lát bạn Tommy như đã nhận được ánh sáng để hiểu sự thật về Kitô giáo, còn trước đó anh bị mù tịt!
Kết quả do Mariapolis càng đưa tôi đi sâu vào sự sống mới qua Focolare. Cùng với hai linh mục khác nữa, chúng tôi gặp nhau đều đặn, cùng đọc và chia sẻ với nhau Lời sự sống nhận được hàng tháng. Chúng tôi chia sẻ với nhau điều chúng tôi đã cố gắng đưa Phúc Âm ra thực thi.
Mùa hè năm đó, tôi còn đi dự cuộc họp thánh phố của Đức Maria bên Anh quốc. Số người dự chừng 600, trong đó có 20 người chúng tôi đến từ Tô Cách Lan.
Mỗi ngày tôi càng thâm tín về tầm quan trọng của việc đưa Phúc Âm ra thực thi trong đời sống hàng ngày. Tại Anh quốc vào dịp đó, tôi được đánh động nhất là lời Chúa dạy "Bất cứ điều gì anh em làm cho những kẻ bé mọn nhất là anh em làm cho chính Thầy." Áp dụng vào trường hợp của tôi, kẻ bé mọn nhất chính là cha Sở và bà Bếp mà tôi vẫn coi thường. Tệ hơn nữa, tôi kể hai người này như thù địch với tôi. Chúng tôi hàng ngày ngồi ăn với nhau nhưng trái tim luôn xa cách, bởi lẽ cha Sở là người bảo thủ, còn tôi cấp tiến.
Nay mọi sự đã ra khác. Hôm đó vào chiều thứ bảy trong bữa ăn, cha Sở hỏi tôi: "Điều gì xảy ra cho cậu vậy?" Tôi trả lời: "Có gì đâu!" Ngài nói tiếp: "Rõ ràng có điều gì xảy ra mà. Có phải cậu đã phải lòng với ai đó thương cậu?" và tôi trả lời: "Thật ra có đấy, con đã phải lòng với Thiên Chúa tình yêu" Cha Sở sung sướng nói: "Ôi, tạ ơn Chúa." Điều đó cho tôi thấy cha Sở rất sung sướng thấy tôi đã thay đổi như qua một cuộc trở lại.
Trong câu chuyện trên, người thấy mình trước kia mù tịt mà nay được sáng là Tommy. Lạ lùng, chỉ nhờ dự cuộc họp thành phố của Đức Maria, anh nhận ra thế nào là Kitô giáo, chứ trước đó anh vốn chủ trương rằng loài người không cách nào biết được Thiên Chúa.
Còn vị linh mục Tô Cách Lan, cha John Doberty lại mù về phương diện khác. Cha biết Chúa và dạy người ta về Chúa nhưng lòng cha chai cứng không được đánh động để làm đẹp lòng Chúa. Cái biết của cha về Chúa được sử dụng như đôi găng tay để tránh khỏi bị sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa "giật"! Sức mạnh ấy cuối cùng đã đụng chạm tới con người của cha. Nhờ gương lành của những người giáo dân khởi xướng phong trào Tổ Ấm, cha John Doberty đã ra mềm lòng để yêu thương những người sống bên cạnh cha.
Riêng người mù con ông Ti-mê trong Tin Mừng hôm nay, lại tỏ ra sáng suốt về niềm tin hơn đám đông đang bước theo Đức Giêsu trên đường! Anh đã thấy rõ Đức Giêsu là Đấng Mêsia nên thưa với Ngài rằng: "Lạy con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi." Một khi được Người cho sáng mắt, tức khắc anh đã bước theo Người trên đường Người đi. Cùng với phép lạ người mù thành Bét-xai-đa được chữa lành, cuộc chữa trị người mù con ông Ti-mê, góp phần chuẩn bị cho cuộc chữa trị tột đỉnh của Tin Mừng Máccô về niềm tin. Đó là cuộc chữa trị viên sĩ quan ngoại đạo. Viên sĩ quan nhìn ngắm Đức Giêsu tắt thở thì đã tuyên xưng: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa." (Mc 15,39).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc gì về cha John Doberty: đó là một con người được Chúa biến đổi cách lạ lùng nhờ gương lành của những người giáo dân? Tommy vốn cho rằng: loài người không cách nào biết được Thiên Chúa cũng được ơn trở về cùng Chúa nhờ gương sáng của những người giáo dân? Cha Hưng cùng với hai linh mục khác họp nhau đều đặn để giúp nhau thực thi lời Chúa?
2. Bạn nghĩ gì về người mù được sáng mắt liền tức khắc bước theo Đức Giêsu trên đường Người đi (c.52)? Hãy so sánh người đó với người mù Bét-xai-đa (8,22-26) và với viên sĩ quan ngoại đạo tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. (Mc 15,39).
The Christian Blind Mission là một tổ chức cứu giúp những nguời mù lòa khắp thế giới. Ngày kia, bác sĩ trực nhận diện một khuôn mặt quen thuộc. Tuy chưa một lần nói chuyện, nhưng hình như ông đã thấy đâu đó, có thể trên báo chí, hoặc TV. Trong lúc ông ngập ngừng, thì nguời đàn bà tự giới thiệu là “nữ tài tử” vang bóng một thời. Đã rút về ở ẩn và lập gia đình. Không may sinh đứa con đầu lòng bị tật nguyền. Thân xác đã không khỏe mạnh, lại thêm đôi mắt bị lòa! Ta hãy tưởng tượng sự đau khổ của nguời mẹ: âu yếm nhìn con, ve vuốt từ ngón tay cho đến khắp cả châu thân. Con là tác phẩm tuyệt vời của tình yêu mẹ cha. Thế nhưng con bị lòa, không chiêm ngưỡng được dung nhan diễm kiều của mẹ, không thấy được đôi mắt thương yêu từ nguời cha! Con sống trong tối tăm!
Từ sự mù lòa thể xác, chúng ta có thể tưởng tuợng được sư bất hạnh của một tâm hồn bị mù lòa! Sự mù lòa của tâm hồn thường do chính mình gây nên. Chẳng hạn do tự ái quá lớn. Sự cực đoan quá hung hãn! Và nhiều lý do khác khiến họ không tin vào Thiên Chúa và vẻ đẹp nơi nguời khác. Sự mù lòa về tâm hồn biến nguời đó thành kẻ vô tâm với những ân phúc từ trời! Hững hờ với những tình yêu thương của tha nhân! Để rồi tự coi rẻ mình và gây thêm đau khổ cho những nguời trong gia đình và bạn hữu chung quanh !
Thực Hành: “Con muốn Thầy làm gì cho con”(Mk 10:51) Phúc thay những nguời nhận ra được những bệnh tật thiêng liêng của mình để thưa với Đức Giêsu “Xin cho con được thấy”. Thấy con yếu đuối và thấy ý nghĩa mọi biến cố trong đời và được thấy sự cứu rỗi nơi Chúa.
Gần đến ngày "bớt đầy" thêm tuổi mà thằng bé cháu chưa thấy ai động tĩnh mua quà gì cho nó cả. Bà nội vẫn dạy nó muốn gì thì cứ cầu nguyện, nên đang khi bà loay hoay thu dọn ở dưới bếp, nó liền vào phòng nhưng không khép chặt cửa mà để hé mở một chút, và quì xuống cầu nguyện to tiếng: "Lạy Chúa, sắp đến ngày "bớt đầy" của con, xin Chúa cho con một cái xe có máy chạy được, và một đôi giầy Nike Air giống bạn con mới có.".
Bà nội nghe thấy thì buồn cười liền nói vọng vào: "Cháu tưởng Chúa điếc hay sao mà cầu nguyện lớn tiếng vậy?"
Thằng bé liền nhanh nhảu trả lời: "Cháu không sợ Chúa điếc, nhưng cháu chỉ sợ bà không nghe rõ thôi".
LOẠN THỊ VÀ LOẠN SẮC
Thằng bé trong câu chuyện trên chưa mang nhiều hình ảnh về Chúa. Mắt nó chỉ thấy được một cách mơ hồ qua tình thương của bà, mà tình thương cũng đã bị "Mĩ hóa", tức bị làm cho méo lệch đi, phải đo được bằng những món đồ chơi mắc tiền vào những dịp lễ đặc biệt!
Mắt cũng dễ bị tật lắm. Chưa kể bị mù, nhiều người bị cận thị hay viễn thị nặng phải đeo kính mới thấy được. Nhưng có một số người bị tật loạn thị hay loạn sắc. Loạn thị thì nhìn đường thẳng ra đường cong không thể lái xe được, nhìn hình tròn ra hình méo! Loạn sắc là nhìn màu đỏ ra màu xanh, màu vàng ra màu tím Đúng là loạn cả lên.
Hồi còn nhỏ mỗi lần vấp té làm bể một đồ vật gì thì tôi thường bị mẹ la là "mắt lợn luộc". Về sau lớn lên có lần tôi thấy hai bà chửi nhau là "mắt lợn luộc" vì bà này vô ý vô tứ đạp nhằm chân bà kia khi đi ngang qua ghế. Thì ra đó là hình ảnh thân quen ở vùng quê xưa. Khi giết một con heo xong thì phải nấu nước sôi nhúng vào để làm lông. Mắt con heo lúc đó thì mở thao láo có vẻ vẫn "ngước mắt nhìn đời" mà thực ra chẳng thấy gì nữa. Đúng là mắt lợn luộc!
THỜI ĐIỂM CỨU CẤP CHỮA TRỊ
Tờ The Times-Picayune vùng New Orleans trong mục thời điểm tháng qua đã diễn tả con mắt người thời đại bằng một hình ảnh dễ cảm về một cảnh cứu cấp: bệnh nhân đang nằm trên xe đẩy. Bác sĩ và y tá hối hả vây quanh, người chuyển khí thở, người chuyển nước biển, người đo tim Nhưng nhìn thêm thì thấy đầu bệnh nhân là một cái TiVi có đề chữ "Trung Tâm Phát Tin". Bị bệnh vì tin tức, vì nhìn lệch. Chữa bệnh như vậy phải chữa tin trước.
Nhìn hình ảnh này tôi tự nhiên nhớ cảnh ngày xưa ở vùng Chí Hòa thời còn xe thổ mộ, tức là xe ngựa kéo trên đường Lê Văn Duyệt đi Bến Nghé chợ Bến Thành. Xe không có ghế ngồi nên mọi người "tùy nghi" mà nêm cối "điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa". Hành lý là quang gánh của hành khách bình dân đi buôn thúng bán mẹt thì treo lủng lẳng hai bên. Ông Vương Hồng Sển mà tả "Sài gòn Năm Xưa" thì phải thêm mục này nữa mới hấp dẫn. Nhưng hãy để ý con ngựa một tí này: nó bị bịt che hai mắt, chỉ hở đủ để thấy được đường phía trước khoảng hai ba mét thôi. Ông tài xe hộp ngồi phía trước không muốn nó "thiếu nhất trí" nhìn đi chỗ khác kẻo sinh ra "quan điểm" riêng mà đi theo hướng riêng, nhưng luôn phải đi theo lệnh và theo hướng của ông theo cái nhịp roi đánh vào bên nào. Cuộc đời của nó cứ thế cứ thế, cho đến khi nó không còn đủ sức làm xong cái "dóp" mỗi ngày như mọi ngày nữa.
Thì ra bệnh nhân cứu cấp với cái đầu là cái TiVi cũng chỉ là cảnh mới của chiếc xe thổ mộ Sài Gòn năm xưa. Người ngồi đàng sau màn ảnh TiVi chính là ông tài xế hộp, và con ngựa bị che mắt lại cũng có thể là chính mình mới thật tội nghiệp. Vì ai cũng biết, hình ảnh và tin tức ngày đêm "oanh tạc" vào mắt người xem thì đúng là tin ... tức mình. Những chuyện bao nhiêu người mẹ thức khuya dậy sớm lo lắng từng miếng ăn cho chồng con thì chẳng bao giờ được nhắc đến, những chuyện bao nhiêu ông bố phải rúc vào ống sắt để "bắn pháo bông" làm thợ hàn trong những ngày mùa hè nóng kinh khủng hay mùa đông lạnh đông máu cũng chẳng thấy tờ báo nào nói tới làm gì! Những nụ cười thương yêu, những bông hoa vừa nở chẳng được nhắc đến. Nhưng chỉ cần một chuyện chó cán xe, trẻ giết người lớn, buôn xì ke, vợ đập chồng thì được trình chiếu kỹ lưỡng. Thậm chí như vụ O.J.Simpson mà truyền hình và báo chí bỏ ra không biết bao nhiêu tiền và thời giờ. Đúng là chuyện chó cán xe. Bệnh thật. Nhóm Ehrhard làm thống kê trong sáu tháng cho biết tới 30% tin địa phương nói về tội ác chém giết. Khán giả phải la ó: "Nhiều máu quá! Máu chảy làm mùi tử khí lây nhanh, khích động thêm các vụ đổ máu khác nữa". Jane Butler ở Thibodaux Louisiana đã phải lên tiếng: "Xin chiếu cho chúng tôi tin tức mà thôi, các người đừng chỉ chiếu những gì các người muốn chiếu".
Vì hầu hết những người đọc tin và điểm tin đều không được phép đọc quá hàng chữ đang hiện ra trước mắt. Trước khi cho bản tin nào ra thì họ đã biết hướng mà khán giả phải nhìn theo là hướng nào rồi. Quan điểm và giá trị đã được ấn định hẳn hòi. Nhất trí nhá. Đà văn minh là ở đây. Thời trang cũng là đây. Mọi người cứ thế mà theo, và cho đó là hợp thời, tiến bộ; không theo như vậy thì liền mang mặc cảm chẳng giống ai. Tự động không người lái. Chẳng ai có giờ mà tự hỏi giống ai là giống ai, và không giống ai là không giống ai? Cũng một tay tài xế hộp ngồi điều khiển con ngựa kéo xe thổ mộ thời mới mà thôi. Và mắt mình chỉ thấy cuộc đời được có vậy.
TIN VUI CON MẮT NĂM 2000
Tình trạng bị che mắt mù tối hay cận thị và loạn thị nghèo khổ như con ngựa kéo xe thổ mộ của con người trong thời đại mới bây giờ được Chúa diễn tả như một người mù ăn xin tội nghiệp bên vệ đường ở Giêricô. Anh ta mỗi ngày đều làm cái "dóp" này một cách thản nhiên. Cho đến một ngày nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua. Ai chứ Đức Giêsu thì anh đã nghe tiếng về quyền năng từ những ngày qua. Và anh ta ao ước tìm gặp Ngài. Thì đây dịp may hiếm có. Đám đông đang ồn ào chen lấn. Mặc ai ngăn cản, anh cứ nhào đến cho bằng được, cứ xin, cứ kêu lớn tiếng. Thế là Chúa Giêsu đã dừng lại và bảo gọi anh đến. Anh liệng liền ngay áo choàng, xả buông cả một thế giới tăm tối tù túng cũ để bước tới gặp được Chúa Giêsu, vùng ánh sáng mới thênh thang. Ngài hỏi ngay: anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh liền trả lời dứt khoát: "Lạy Thầy, xin cho con được trông thấy." Và Chúa Giêsu đã cho anh ta được sáng mắt: niềm tin của anh đã chữa anh.
Mình cũng đang luẩn quẩn ba cái chuyện lẩm cẩm hằng ngày để rướn lên mà theo được cái đà và cái trớn cúa nếp sống gọi là văn minh, của sự đua chen cho giống được ai, từ cách sắm sửa quần áo, thời trang, máy móc, tậu nhà Cho đến một ngày mắt mờ đi mỏi mệt, nhìn mà chẳng thấy kẽ sáng nào. Đúng là đang bị che bịt, kềm tỏa do những lệnh vô hình, "không người lái". Kể cả người tin đạo vẫn nghe Tin Mừng của Chúa cũng mang những bộ mặt ủ rũ và những cặp mắt mất hồn không mừng gì, giống như những người đưa đám. Nhà vô thần Nietzche đã có lần chửi vào mặt người tin đạo: Mấy người hãy tỏ nét mặt tươi lên để chúng tôi tin rằng Chúa của mấy người đã sống lại. Bằng không thì đã chết từ lâu, không sống lại được đâu!"
Con mắt ai đang lo âu mờ tối tuyệt vọng? Nhìn dấu chỉ thời đại mà nhận ra Đức Kitô đã sống lại và vẫn đang hiện diện thì có sức bật sáng mọi con mắt. Đó là con mắt của năm 2000. Nhìn và thấy được, chứ không phải mắt lợn luộc. Và mọi vật, mọi chuyện sẽ mang được màu sắc mới, cung điệu mới, giá trị mới dưới nhãn quan mới, được giải thoát khỏi vòng u tối. Một bông hoa nhỏ cũng quí trọng dưới con mắt của thánh trẻ Têrêsa. Nhà văn Mỹ là Ralph Waldo Emerson nhìn cây cỏ vạn vật thiên nhiên với một con mắt hồn nhiên trong sáng, và đã khám phá ra vẻ đẹp kỳ lạ.
Đừng bao giờ bỏ mất dịpNhìn ngắm mọi vẻ đẹp trong cuộc sống.Vì vẻ đẹp là chữ viết do chính tay Chúa Trời,Vì vẻ đẹp chính là chính Chúa hiện ra.Hãy đón nhận vẻ đẹp qua từng nét mặt tươi,qua từng khung trời rộngqua từng bông hoa thắm.Và hãy cám ơn Người,Vì mỗi vẻ đẹp là một chén hồng ân.
Vâng, con tin Chúa đang có mặt dẫn dắt cuộc sống của con. Con đã bị tình trạng mù tối hành khổ con nhiều rồi. Con muốn giũ bỏ cái áo choàng cũ là cái đà trớn đua tranh đang kềm tỏa con mất tự do, như người mù ỡ Giêricô, để bước tới vùng ánh sáng mới là chính Chúa, để được bật sáng nhìn thấy chân trời mới với giá trị mới. Mọi sự đều kỳ lạ quá. Và con bắt đầu biết cảm nhận như Mẹ Têrêsa thấy được vẻ đẹp quí trọng ngay cả nơi một nụ cười: "Chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy hết được một nụ cười quí giá biết chừng nào. Chiêm niệm là nhìn thấy được mặt Chúa trong mọi sự, mọi người, mọi nơi, mọi lúc, và nhìn thấy được tay Chúa trong mọi chuyện xảy ra".
Và tôi sẽ không bao giờ bỏ mất dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp trong cuộc sống của tôi. Chúa đã và đang làm cho tôi muôn điều kỳ lạ. Mỗi vẻ đẹp đều là một chén hồng ân, một thác nước hồng ân.
Ông Bob Evans, bị mù từ lúc mới sinh. Năm 50 tuổi ông đi giải phẫu mắt và nhờ kỹ thuật tối tân của y khoa, mắt ông đã được sáng và ông đã nhìn thấy lần đầu tiên trong cuộc đời.
Phản ứng của ông rất khác thường. Cả thế giới của ông thật sự đã thay đổi. Trong một cuộc phỏng vấn ông đã chia sẻ sự vui mừng của ông như sau: "Tôi nóng lòng không thể chờ đợi để thức dậy và nhìn những gì tôi có thể nhìn thấy. Đó là một sự lạ lùng nhất trên thế gian. Khi đêm về tôi nhìn lên những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời... Tôi cảm thấy như lúc nào mình cũng được bay bổng. Các bạn không thể hiểu được tất cả mọi sự đẹp đẽ lạ lùng như thế nào?"
Có lẽ cảm nghiệm của ông Bob Evans phần nào cũng là cảm nghiệm của anh mù Batimê trong bài Phúc Âm hôm nay.
Vì bị mù cuộc sống của anh là cả một chuỗi đêm dài thật đen tối. Anh không thể đi làm kiếm tiền nuôi mình. Anh phải cậy dựa vào lòng tốt và lòng quảng đại của những người qua đường để kiếm ăn. Anh rất là khổ sở. Chúng ta thử tưởng tượng nếu mình bị mù thì sẽ cảm thấy mất mát như thế nào?
Nhận biết sự đau khổ của kẻ mù lòa, khi anh nghe thấy Chúa Giêsu là người có thể cứu giúp mình sắp đi qua, anh đã không màng chi tới sự xua đuổi coi thường của đám đông. Anh la lớn để kéo sự chú ý của Chúa Giêsu. Anh tha thiết kêu nài Chúa và tin tưởng chắc chắn lòng thương xót của Chúa sẽ ban cho anh một ơn anh đã mong muốn từ lâu. Đó là ơn được mở mắt để nhìn thấy ánh sáng. Khi bàn tay chữa lành của Chúa Giêsu động đến anh, mắt của anh đã mở ra và một thế giới mới đã mở ra trước mặt. Anh rất vui mừng. Anh đã biết ơn Chúa và đi theo Chúa.
Ơn sáng mắt là một ơn rất quí hóa. Đó là một ơn Chúa ban cho chúng ta cách nhưng không. Nhưng nhiều khi chúng ta lại dễ coi thường, không để ý cám ơn Chúa.
Chúa ban cho chúng ta có đôi mắt để nhìn những sự đẹp đẽ lạ lùng của Thiên Chúa. Tuy nhiên việc chúng ta có mắt không có nghĩa là chúng ta luôn luôn nhìn thấy điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Đôi mắt có ích gì cho chúng ta nếu chúng ta không nhìn ra bàn tay của Chúa, không nhìn ra những việc làm của Thiên Chúa trong cuộc sống.
Những người mù thể lý thì ý thức cách rất rõ ràng về sự khổ tâm và giới hạn của họ, nhưng những người bị mù tinh thần thì lại không. Nhiều người đi qua cuộc đời với đôi mắt mở to nhưng họ không hiểu được ý nghĩa của cuộc đời vì họ bị mù trong tâm hồn.
Có lẽ chúng ta không hoàn toàn mù tối tinh thần, nhưng có những điểm tối phần đông chúng ta không nhìn thấy được. Chẳng hạn những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng có thể làm cho chúng ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân, và do đó đối xử thiếu tế nhị đối với bạn bè hay những người thân. Một số người chỉ nhìn thấy những điểm tối về người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, khuyết điểm mà không nhận ra những gì là can đảm, thánh thiện, xinh đẹp, và cao quí nơi người khác. Một số người mù tối về Giáo Hội thì chỉ nhìn thấy những khuyết điểm, những thiếu xót mà không nhận ra những ưu điểm, như ơn ích của các bí tích hay ích lợi của thánh lễ. Sự gian lận trong công việc làm ăn khiến chúng ta mù tối đối với đức công bình. Không bao giờ thỏa mãn với những gì chúng ta có và luôn luôn ham muốn những của cải vật chất là dấu chúng ta bị mù bởi lòng tham.
Nếu tiếp tục tự xét và kiểm điểm, chúng ta sẽ thấy mình có nhiều điểm tối. Sự mù tối tâm hồn hay tinh thần rất nguy hại cho chúng ta. Tất cả chúng ta đều là những nạn nhân của một vài hình thức mù lòa. Tuy nhiên để ý thức được điều đó và để bóc những cái vảy ra khỏi mắt, chúng ta hãy bắt chước gương của Batimê phải cầu nguyện luôn cho được thêm ánh sáng.
Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và đem lại cho chúng ta sự sáng tinh thần thực sự. Chúa Giêsu cho biết Ngài có thể chữa bệnh mù và giải thoát chúng ta khỏi mò mẫm trong bóng đêm. Ước gì lời cầu nguyện của anh Batimê, lạy Chúa xin cho con được thấy là lời cầu nguyện luôn luôn ở trên môi miệng mỗi người chúng ta.
Cả ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay đều có thể áp dụng không ít thì nhiều trong cuộc sống hằng ngày của người Việt tha hương chúng ta.
Bài đọc 1:
Lời Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia: "Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về... có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con... họ vừa đi vừa khóc..." nhưng là khóc trong vui mừng và tưởng như trong giấc mơ. Như chúng ta đã biết là không một ai muốn sống xa quê hương xứ sở của mình lâu ngày vì mỗi người đều có nơi "chôn nhau cắt rốn", có làng mạc, có quê hương, có quê cha đất tổ. Dù cho là lên tỉnh học, tu nghiệp hay du học nước ngoài thì cũng mong có ngày trở về làng cũ thăm lại quê cha cũng như họ hàng láng diềng. Nếu không là vinh qui bái tổ thì ít lắm cũng gây dựng được sự nghiệp gì đó để làm nở mày nở mặt gia đình và cả dòng họ cha mẹ mình nữa. Còn dân Israel xưa bị đầy biệt xứ và làm nô lệ cho nước Babylon trong tủi nhục và lao động cực khổ cả ngày đến độ không còn có thì giờ để tế lễ cho Chúa cũng giống như người Việt tha hương chúng ta hôm nay bị đầy biệt xứ vì tự do: tự do nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí và bình luận... Chúng ta ước mong có một ngày trở về trong thanh bình, trong no ấm và hoàn toàn tự do. Là con cháu Lạc Việt, chúng ta sẽ cất cao giọng hát hòa bình để ca tụng Thượng đế xưa đã không bỏ rơi Dân Người thì nay chẳng chóng thì chầy Ngài cũng giải thoát con dân Việt Nam chúng ta khỏi cảnh lưu đầy biệt xứ này. Hãy tin tưởng, hãy nguyện cầu... cho quê hương và cho Giáo Hội Việt Nam.
Bài đọc 2:
Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta là "các vị thượng tế được chọn giữa loài người... người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy." Nhiều giáo dân không thể nào (tưởng tượng) hay chấp nhận các linh mục hay các vị chủ chăn của mình có khuyết điểm nọ kia. Thực ra nếu đã là người thì ai ai cũng đều có ưu hay khuyết điểm mặc dù các ngài được nhiều ơn Chúa để dẫn dắt con chiên tránh những dịp tội. Nếu có khi vấp phạm thì cũng có nhiều ơn trên để chóng trở lại với Chúa hơn. Cả hai xét đoán tiêu cực này đều không tốt: một là thần tượng hóa các ngài (coi như không thể nào vấp ngã) hoặc khi các ngài vấp phạm thì kết án gắt gao và có khi lấy làm vấp phạm (bỏ đạo) nữa. Có người hỏi tôi: "các cha có phải đi xưng tội hay không?" Đáp: "Có chứ, vùng chúng tôi ở đây thường thì các cha xưng tội ba tháng một lần, cũng có khi một tháng một lần... với những các cha khác." Bởi vì tất cả chúng ta không ít thì nhiều đều là những con người dòn mỏng, yếu đuối dễ sa ngã... nhưng điều này không quan trọng bằng việc nhận biết mình để xin Chúa thứ tha và khi chúng ta trong sạch với lương tâm mình và với Chúa thì chúng ta có khả năng lãnh nhận ơn Chúa và nghị lực dồi dào hơn để thăng tiến và giúp đỡ người khác tích cực hơn.
Bài Phúc Âm: Chúa chữa người mù thành Giêricô
Anh chàng mù này không như thời đại chúng ta là có xã hội chăm sóc mà anh ta phải đi ăn xin thì mới có ăn, lại thế hồi đó người ta còn tin rằng "bệnh hoạn" là hình phạt của Thượng đế... cho nên anh bị dân chúng và xã hội hất hủi khinh miệt. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những người kêu cầu đến Chúa và nhất là tin tưởng nơi tình yêu thương của Ngài. Cho dù đám đông nói anh ta "im miệng" lại vì nơi chốn đông người này làm gì mà Chúa nghe thấy, và lại bao nhiêu người đang cần đến Ngài thì đừng nên làm rộn người khác. Nhưng anh ta vẫn không nản lòng vì anh tin rằng thế nào Chúa cũng thương đoái đến anh... mà thật thế, Chúa Giêsu dừng lại, truyện vãn với anh và Ngài còn khen anh có một đức tin mạnh mẽ không sờn lòng trước nghịch cảnh.
Xin Chúa cho chúng ta có được đức tin như anh này dù chúng ta cứ tưởng như Chúa ít khi nghe lời chúng ta khấn xin nhưng Chúa nói: "Cứ xin sẽ được, cứ gõ sẽ mở cho..."
Tin tức trên báo chí (theo VietCatholic News ngày 22/9/2000) về chàng thị trưởng đẹp trai của thành phố Ficarra, mới 34 tuổi, đã lặng lẽ từ nhiệm để đi tu, đã gây chấn động toàn nước Ý. Hôm 20/09/2000, Antonio Mancuso đã chính thức đến trình diện tại một dòng tu ở Milan, bắt đầu cuộc đời một tu sĩ. Antonio cho biết anh đã thấy mình có ơn gọi linh mục từ ngày còn là cậu bé giúp lễ, đã suy nghĩ trong bao năm về vấn đề này và trằn trọc rất nhiều sau khi theo dõi các bài thuyết giảng của Đức Thánh Cha trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15. Antonio bỏ lại sau mình chức vụ thị trưởng, căn nhà do cha anh để lại, một mẹ già, hai anh em, và thành phố Ficarra xinh đẹp với 2.000 cư dân dưới quyền. Quyền thị trưởng Franco Tumeo đã xác nhận quyết định của Antonio với thông tấn xã ANSA. Ông nói: "Quyết định mà thị trưởng chúng ta đã chọn cần phải được hoàn toàn tôn trọng và hy vọng rằng không ai lợi dụng chuyện đó. Chẳng cần phải nói, chúng ta cầu chúc cho Antonio Mancuso những điều tốt đẹp nhất với xác tín rằng quyết định của anh là hoa trái của những suy nghĩ trong nhiều năm qua".
Quyết định từ nhiệm của anh sẽ khiến cho thành phố Ficarra phải bầu cử lại sớm hơn, có lẽ vào tháng 6/2001. Tạm thời một ủy ban đặc biệt sẽ thay thế công việc của nguyên thị trưởng. Với bằng chính trị học ưu hạng, Antonio đang là một ngôi sao sáng chói của đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo Ý. Anh đã là thị trưởng trẻ nhất của quốc gia này, lúc mới 27 tuổi, từ 1992 đến cuối tháng 9 vừa qua. Ngày 14/09/2000, một tháng kể từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15, sau nhiều đêm không ngủ, Antonio đã từ giã tòa thị trưởng chẳng nói với ai một lời nào. Thư từ nhiệm đã được gởi đến văn phòng 2 ngày sau đó qua đường bưu điện.
1. Nhìn thấy Đấng Mêsia
Câu chuyện chàng cựu thị trưởng-tân tu sĩ dễ thương vừa thấy là một phiên bản mới của câu chuyện Tin mừng hôm nay. Trong bản văn này, chỗ đứng của việc chữa lành rất nhỏ bé: không một lời nói hay một cử chỉ thần thông nào cả. Phải chăng Máccô muốn quên để nhấn mạnh một phép lạ thuộc loại khác, phép lạ mà ông sẽ cho thấy đặc tính trong ngôn ngữ của riêng ông. Đúng thế, bản văn nằm trong một văn mạch nói về việc Đức Giêsu tiến lên Giêrusalem để chịu khổ nạn, đằng sau là nhóm môn đệ miễn cưỡng theo Thầy. Người đã ba lần loan báo sự cố đau thương sắp xảy đến, nhưng các ông vẫn không muốn hiểu, không muốn chấp nhận. Trong viễn tượng thần học này, phép lạ làm cho đôi mắt Báctimê mở ra có giá trị như một dấu chỉ và việc anh ta bước theo Đức Giêsu lập tức có ý nghĩa như một bài học.
Cuộc chữa lành ấy quả là một thiên phóng sự sống động. Từ giữa đám đông, một anh mù la lớn, người ta bảo anh im lặng, anh càng la to hơn nữa và động đến tâm can Đức Giêsu. Đức Giêsu chờ đợi các tiếng kêu nầy. Người lắng nghe đức tin của chúng ta, Người rung động khi nó mạnh mẽ: "Gọi anh ta lại đây". Đám đông, đúng là đám đông, lập tức thay đổi thái độ. Mới quát nạt anh đó, giờ lại khuyến khích anh: "Cứ yên tâm! Đứng dậy! Người gọi anh đấy!" Tất cả những gì chúng ta gọi là việc tông đồ đều nằm trong sự thúc đẩy này: "Đứng dậy, Người gọi anh đấy".
Thiên Chúa muốn chúng ta biết nói: "Người gọi anh", biết làm trung gian tốt nhờ luôn thấy nỗi khát khao Thiên Chúa trong những tiếng kêu của con người. Nhưng ước gì chúng ta cũng biết nghe khi ai đó -hay một cuốn sách, một tiếng nội tâm- nói với ta: "Người gọi anh".
Báctimê vất áo choàng vướng víu để nhảy tới Đức Giêsu. Ở đây cũng thế, hình ảnh thật sống động. Rũ bỏ những cái ngổn ngang, đứng dậy từ cuộc sống ngồi lì, gỡ mình khỏi những gì giữ ta xa Chúa. Cái áo choàng ấy là vật duy nhất mà người nghèo sở hữu. Vất bỏ nó, Báctimê đã thực hiện điều mà Đức Giêsu đã không làm được với chàng thanh niên giàu sang: anh đã bỏ mọi sự mà đi theo Người. Đi theo cách nào? Anh nhảy lên, đứng phắt dậy. Cú nhảy trong đêm tối là cú nhảy đức tin vì mắt anh vẫn còn mù.
Và đó là một đức tin sắt đá. Như mọi người, Báctimê biết Đức Giêsu là ông thợ mộc làng Nadarét. Nhiều kẻ đã vì đó vấp ngã. Phần anh, lớn tiếng bày tỏ đức tin, anh là kẻ đầu tiên cao giọng tuyên xưng người Nadarét ấy là con Đavít, Đấng Mêsia. Đã ở trong ánh sáng, anh mù kêu: "Thưa Thầy! Xin cho tôi nhìn thấy được" Đằng sau khát vọng được nhìn thấy ánh sáng, Đức Giêsu đã nhận ra nơi anh khát vọng được biết nhiều hơn về Đấng Mêsia, được nhìn thấy thực tại tối hậu ẩn khuất dưới dáng vẻ bề ngoài. Chính nhờ một đức tin như thế mà quyền năng của Đức Giêsu đã có thể đảo lộn anh toàn bộ. Câu cuối cùng của bài Tin mừng là câu phải tác động chúng ta hơn hết: "Anh ta đi theo Người".
2. Bước theo Đấng Tử Nạn
Quả vậy, điều mà câu "Lòng tin của anh đã cứu anh" muốn nói, đó chính là ơn cứu rỗi ta đi vào khi bước theo Đức Giêsu. Báctimê tìm lại được thị quan và nhiều hơn thế nữa: đôi mắt để thấy Đức Giêsu quá rõ đến nỗi đã muốn nên môn đệ Người.
Đức Giêsu đã không lầm khi nghe tiếng kêu đức tin mạnh mẽ ấy. Đó chưa hẳn là đức tin đầy đủ sẽ triển nở sau Phục sinh. Nhưng Báctimê đã chắc chắn mình đứng trước Đấng Mêsia rồi, đã chắc chắn rằng chính sức mạnh của Thiên Chúa sắp tác động đến anh trong Đức Giêsu và khi điều đó xảy ra, anh chẳng ngập ngừng một phút: nếu Đức Giêsu là sức mạnh của Thiên Chúa thì phải theo Người.
Đó là tấm gương cho các môn đệ, đó là tấm gương cho người đã được thánh tẩy, được soi sáng nhờ gặp gỡ Đức Kitô. Báctimê đi theo Người trên con đường Người đi, con đường lên Giêrusalem, con đường dẫn đến thập giá.
Tóm lại, nghệ thuật của Máccô đạt đến đỉnh hoàn thiện ở đây. Hai hình ảnh thật trái ngược nhau: hoàn cảnh ban đầu của Báctimê (ngồi ở vệ đường, mù lòa, ăn xin) và hoàn cảnh kết thúc (đứng, nhìn thấy, đi trên đường và đem Tin mừng đi) là nhằm nói lên một biến chuyển quan trọng. Đặt trình thuật này vào lúc Đức Giêsu lên Giêrusalem, dẫn theo bạn bè và đám đông tiến về "ánh sáng" soi rõ hơn thân thế và sứ mạng của Người, rõ ràng tác giả muốn dùng câu chuyện như một minh họa cho thấy nhờ đâu, người ta mới trở nên "môn đệ đích thực". Môn đệ cần phải để Thầy dẫn đến sự giác ngộ của đức tin. Phép lạ chữa anh mù ở Bétsaiđa (8,22-26) đã thúc đẩy môn đệ Đức Giêsu khám phá Người là Đấng Mêsia. Giờ đây, với phép lạ chữa anh mù ở Giêricô, Đức Giêsu lại mời gọi họ -những kẻ muốn đi theo Người- hãy mở rộng đôi mắt tâm hồn để đón nhận Đấng Mêsia đau khổ và khải hoàn, trong đức tin.
Phần chúng ta, những kẻ biết về Đức Giêsu nhiều hơn Báctimê, phải chăng chúng ta có đôi mắt để nhìn Người? Đến độ cảm thấy dâng lên trong mình cái ước vọng từng làm nảy sinh các thánh: "Lạy Chúa, con muốn đi theo Ngài", cái ước vọng đã khiến ông thị trưởng trẻ tuổi Antonio Mancuso bỏ cả một tương lai chính trị đầy triển vọng để gia nhập một dòng tu.
Trong thực tế, Đức Giêsu thường bị vây quanh bởi nhiều môn đệ mù tối, còn lề đường thì lại đầy những người mù sáng mắt. Nhóm trước bị khép kín trong những bảo đảm vĩnh viễn, bị ràng buộc bởi những tham vọng và vướng mắc nhỏ nhen, bị khống chế bởi nỗi sợ hãi gian khó hay sợ hãi thế quyền. Dẫu mang danh kitô hữu, thậm chí lãnh đạo kitô hữu, họ có thể sống như chẳng hề là môn đệ của một Tôn sư đã dám chịu đau khổ và bị giết chết vì sự thật và tình yêu. Nhóm sau thì có lòng khiêm nhường và tin tưởng, có đức khôn ngoan để biết luôn luôn lắng nghe, đón nhận những bất ngờ của Thánh Thần và những từ bỏ có sức giải thoát, có lòng yêu mến sự thật đến độ sẵn sàng chấp nhận gian khổ vì bênh vực công lý. Dầu có thể chưa phải là kitô hữu, không là môn đệ Đức Kitô trên phiếu lý lịch, họ đã theo Người trên con đường của Người rồi. Vào Nước Trời đâu phải là những kẻ chỉ mở miệng "Lạy Chúa! Lạy Chúa!"
Ở Winnipeg Canada, có một nhà thương chuyên mổ mắt bằng Laser và giá rất rẻ. Nhiều người Mỹ qua mổ trong khi những người dân địa phương lại không ai để ý đến chuyện mổ mắt chỉ trong phút sau đó khỏi phải đeo kính cả đời dù mình đang ở tuổi nào, Con mắt vẫn được coi là cửa sổ linh hồn rất quan trọng cho cuộc sống. Trừ một mình bà Helen Keller vừa mù vừa câm vừa điếc mà đậu bằng tiến sĩ và làm chủ tịch hội người mù thế giới còn đa số người mù thường sống trong bất hạnh hay buồn nản cho số phận của mình. Như thế anh mù trong tin mừng hôm nay thật hạnh phúc khi Chúa mở mắt cho anh.
Là người công giáo chúng ta cũng có hai cái nhìn đó là cái nhìn tự nhiên và siêu nhiên. Cùng một vấn đề có thể có hai cái nhìn khác nhau. Có khi là mâu thuẫn. Ong Job trong Kinh Thánh khi bị bất hạnh sụp đến đã có một cái nhìn rất lạc quan về những điều xảy đến cho mình. Ong coi chuyện xảy đến cho mình là do ý Chúa, miễn là Chúa được vinh danh. Đa số chúng ta khi nhìn đến bất hạnh ập tới người khác chúng ta thường cho là Chúa phạt người đó và đôi khi cũng tự kiêu thích thú khi mình không bị như thế chứng tỏ mình là người công chính. Gioan XXIII trong công đồng đã nhấn mạnh đến cái nhìn những dấu chỉ của thời đại. Đó là cái nhìn đức tin cái nhìn do Thánh Linh soi sáng, cái nhìn giác ngộ của Đức Phật, cái tri của khổng giáo hay lão giáo: biết như là không biết hay chính trong cái không biết mà biết.
Chúa Giêsu trong bài tin mừng hôm nay cho ta thấy ngài đến thế gian cho người mù được thấy và những kẻ tự coi là sáng mắt đã thành những kẻ thông manh. Hay là họ như người bị bịnh Dalton thấy cái gì cũng đỏ hết. Nói theo kiểu bình dân họ có cái nhìn méo mó nghề nghiệp. Các nhà tâm lý cho rằng do cái nhìn của ta cho người khác biết ta là người như thế nào. Điều này rất nguy hiểm khi chúng ta không lương thiện trong cái nhìn suy bụng ta ra bụng người hay khi chúng ta có cái nhìn lên án người khác chứng tỏ chúng ta là người có khuynh hướng về cái tội chúng ta đang lên án. Thế là tình cờ chúng ta nói với tha nhân: lạy ông tôi ở bụi này.
Truyện cổ trung hoa kể: có Tái ông mất con ngựa bạch. Khi người ta đến chia buồn ông bình tĩnh trả lời: Biết đâu mất ngựa lại là cái hay. Mà hay thật, vì ít lâu sau ngựa kéo về một con ngựa cái nữa. Láng giềng đến chúc mừng. Lão già cho rằng chưa chắc có thêm con ngựa nữa là chuyện hay. Mà thực thế. Có ngựa, chàng con trai con của lão tập cưỡi. Không ngờ ngựa chứng vật cho cậu ta ngã xuống què chân. Láng giềng lại đến chia buồn. Ong già bình tĩnh trả lời: Biết đâu lại là chuyện hay. Nào ngờ hay thật, vì chả bao lâu trong nước có chiến tranh bao chàng trai lên đường ra chiến trận còn con ông lão bị què được ở lại nhà bố con hủ hỉ. Ong già có cái nhìn sự việc thật khác người đó là cái nhìn sự việc qua nhãn quan của vô cùng, ở bên ngoài biến cố, bên trên biến cố. Hạnh phúc thay những người con Chúa có được cái nhìn này. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao. Phải chăng đây là cái nhìn quân tử, triết nhân của con người ở giữa thế gian mà chẳng thuộc về thế gian. Khi đó chúng ta sẽ thấy vũ trụ và con người quanh chúng ta biến đổi từ con người là chó sói với con người (homo homini lupus) thì tứ hải giai huynh đệ, và những cái lẻ tẻ buồn nản của cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa gì như lời thánh Phaolô: mọi sự đều tốt đẹp cho người yêu mến Chúa hay như Teillhard de Chardin: mọi cái vươn cao đều hội tụ, vì cái nhìn siêu nhiên chỉ hướng về Chúa sẽ duy nhất hóa cuộc sống và biến đổi thành ơn sủng tình yêu theo ý nghĩa của Bernanos: tất cả là ơn sủng: omnia sunt gratia.
Khi ta đi dự lễ ta có được cái nhìn đức tin vào Thánh Thể của Chúa qua lời truyền phép. Và khi Ngài ngự vào lòng ta ngài cho ta có nhân sinh quan và vũ trụ quan mới để thấy rằng anh em chị em của ta là anh em ruột thịt vì chung một giòng máu Kitô trong con người mình. Nếu thế thì ta hạnh phúc như thánh vịnh gia: Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau, như dầu quí đổ trên đầu, xuống râu xuống cổ áo chầu Aron, như sương từ đỉnh Hermon, tỏa trên đồi núi Sion lan tràn, nơi đây ân huệ Chúa ban, chính là sự sống chứa chan muôn đời.(Tv một ba ba) Với cái nhìn đức tin người anh em chị em của ta sẽ trở thành Kitô khác và ta biết phải đối xử với Chúa Kitô như thế nào. Ngày phán xét Chúa cũng chỉ hỏi ta một điều ta đối xử với Chúa ra sao ?
Bài Phúc Âm hôm nay, nói về việc Đức Giê su mở mắt cho anh mù Bác-ti-mê.
Ngày nay, những người Kitô hữu nghe việc Chúa Giêsu làm phép lạ là chuyện bình thường. Vì chúng ta đã nghe rất nhiều trong Tin mừng nói về việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa bệnh cho người này, kẻ nọ. Nhưng hôm nay, chúng ta thử đặt mình vào hoàn cảnh những người Do thái cùng thời với Chúa Giêsu, thì mới thấy có nhiều điều cần suy nghĩ.
Phúc âm cho thấy, một anh mắt mù, sống bằng nghề ăn xin - chắc anh cũng thất học- mà lại nhận ra vai trò Cứu thế của Đức Giêsu. Điều này chứng tỏ qua câu nói: Lạy ông Giêsu, Con Vua Đa-vít xin dủ lòng thương tôi! Đối với người Do thái, kiểu nói Con Vua Đa vít là nói về Đấng Cứu thế (Mêsia). Tại sao một người mù thất học lại nhận ra điều này? Trong khi đó bao nhiêu thầy tư tế, thông luật... học rộng, hiểu sâu lại không nhận ra? Có lẽ những người tự cho mình là khôn ngoan, học rộng, hiểu sâu, là thầy thiên hạ thì không thể nhận ra một Chân lý quan trọng ngay trước mắt họ; còn những người dốt nát, thất học - tức là những người bé mọn- như anh Bác-ti-mê thì lại nhận ra. Đúng với lời mà Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha, con tạ ơn Cha vì đã dấu không cho bậc thông thái và khôn ngoan biết điều này, nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt11,25). Bác-ti-mê là người thuộc thành phần hèn hạ nhất trong xã hội Do thái lúc bấy giờ nên anh nhận được Chân lý Mạc khải từ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Chính vì đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu thế nên anh mù đã cầu xin với Đức Giêsu: Lạy Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi. Mặc dù lời cầu xin của anh bị nhiều người cản trở, nhưng do lòng tin hối thúc nên anh càng kêu lớn tiếng: Lạy Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi. Khi đã có lòng tin vững mạnh, thì không gì có thể cản trở nổi việc người ta thể hiện niềm tin ấy. Mà Bác-ti-mê là một trường hợp tiêu biểu.
Ki-tô hữu là những người đã tin vào Chúa Ki-tô, nhưng liệu mỗi người Ki-tô hữu có luôn thể hiện niềm tin vào Chúa Giêsu Ki-tô như anh mù Bác-ti-mê không? Có lẽ niềm tin của ta chưa đủ mạnh, nên nhiều khi ta chưa can đảm làm chứng cho Chúa ở môi trường mình đang sống. Cũng vì niềm tin còn yếu, nên niềm tin chưa biến đổi cuộc đời ta như đã biến đổi cuộc đời anh Bác-ti-mê mà Phúc âm hôm nay kể lại.
Cũng nhờ có niềm tin vững mạnh, nên Bác-ti-mê đã được Đức Giêsu quan tâm: Gọi anh ta lại đây! Anh đã đến với Chúa, gặp mặt Chúa diện đối diện. Cũng nhờ niềm tin vững mạnh, khi Chúa gọi anh đã vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến với Chúa. Vất áo choàng cũng là vất bỏ tất cả gia tài mà anh có để lại gần Chúa, để theo Chúa một cách dứt khoát.
Đến đây, ta nhớ lại thái độ của anh thanh niên giàu có trong Tin mừng Chúa Nhật 28. Vì tiếc của nên anh đã không dám từ bỏ của cải để đi theo Chúa. Khi so sánh anh mù nghèo với anh thanh niên giàu có, nhiều người bảo vì nhiều của cải nên việc từ bỏ mới tiếc nuối, còn người mù nghèo này thì có mỗi cái áo choàng bỏ đi thì có gì mà phải tiếc! Thực ra cái choàng của anh mù này rất quan trọng. Cái áo choàng ban ngày là cái áo ngoài, nhưng đêm về là mền (chăn) giúp cho người ta chống lại cái lạnh của thời tiết. Chính vì vậy mới có chuyện luật Mô-sê buộc khi cầm áo choàng của ai thì đến tối cũng phải trả cho người đó (Xh22,25). Người nghèo tuy có ít của cải nhưng chính số ít đó mới quan trọng. Vậy việc anh mù dám vất bỏ áo choàng là một hành động can đảm và dứt khoát. Đó là điều mà ta cần suy nghĩ!
Liệu ta có dám dứt bỏ những gì cản bước ta trên con đường theo Chúa không? Thái độ của ta có giống thái độ của anh Bác-ti-mê không? Hay có giống như người thương gia đi tìm ngọc quý, khi tìm được rồi thì bán tất cả để mua viên ngọc đó (Mt 13,46).
Trở lại bài Tin mừng, khi Chúa gọi anh mù Bác-ti-mê nhưng vẫn để cho anh ta tự do chọn lựa: Anh muốn ta làm gì cho anh? Đức Giêsu không tự ý chữa bệnh cho anh, mà còn hỏi ý kiến của anh ta. Anh mù chỉ xin có một điều: Xin cho tôi được thấy. Xin như thế là quá đủ đối với anh.(Bởi vì có người ở trường hợp đó còn xin Chúa nhiều điều -Lòng tham vô đáy mà!). Thấy là thấy tất cả! Thấy Đức Giêsu Đấng Cứu Độ trần gian là điều quan trọng nhất đối với anh. Đức Giêsu đã đáp ứng lời cầu xin của anh, nhưng đúng hơn là đức tin của anh đã thực hiện điều đó: Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh! Nhờ có đức tin vững mạnh mà Bác-ti-mê đã khỏi mù. Anh khỏi mù con mắt xác thịt, nhưng điều quý giá hơn là anh khỏi mù con mắt thiêng liêng: Anh đã nhận ra Đức Giêsu và đi theo Ngài.
Đa số chúng ta được sáng mắt phần xác, điều đó quý giá lắm. Nhưng liệu con mắt linh hồn ta có sáng không? Hay cũng đui mù như nhiều người Do thái sống cùng thời với Chúa Giêsu? Mắt phần xác sáng hay mù có lẽ không ảnh hưởng đến ơn Cứu độ của ta, nhưng con mắt linh hồn thì sẽ ảnh hưởng đến phần rỗi đời đời của mỗi người. Nếu mắt thiêng liêng ta bị mù, thì cứ việc xin Chúa Giêsu mở mắt cho ta. Ta xin, chắc chắn Chúa Giêsu cũng nói với ta: Lòng tin của con, cứu chữa con. Còn mắt linh hồn ta sáng, hôm nay ta có nhìn thấy Chúa Giêsu cách rõ ràng hơn mọi khi không? Nếu con mắt linh hồn ta sáng, thì ta sẽ nhìn thấy Chúa Giêsu dưới hình bánh hình rượu nơi Bí tích Thánh Thể mà cộng đoàn chúng ta sắp cử hành trong phần Phụng vụ Thánh Thể ngay sau đây. Hơn nữa ta còn rước Chúa vào lòng mình. Để rồi khi về cuộc sống, chúng ta nhận ra Chúa Giêsu nơi những người chung quanh, nhất là nơi những người nghèo khổ bần cùng.
Xin Chúa mở con mắt linh hồn của con, để con nhìn thấy con đường thiêng liêng để đi theo Chúa. A men. Têphanô
Đức Giê-su vừa loan báo cho môn đệ biết về cuộc thương khó của Người, không phải lần đầu tiên, nhưng là lần thứ ba. Như thế có nghĩa đây là một vấn đề quan trọng. Nhưng các môn đệ không quan tâm gì, bằng cớ là họ vừa tranh cãi nhau chuyện ai lớn, ai nhỏ, chuyện chiếu trên chiếu dưới. Và Đức Giê-su nắm ngay cơ hội để cho môn đệ biết phải suy nghĩ như thế nào, lựa chọn làm sao, phải có thái độ nào, tinh thần nào, mới xứng đáng là môn đệ của Ngài.
Để chuẩn bị chúng ta đón nhận giáo huấn của Chúa Giê-su, thì bài đọc 1 cho thấy người Tôi Trung của Thiên Chúa phải bị nghiền nát vì đau khổ,. ... hiến thân làm lễ vật đền tội. ... để làm cho muôn người nên công chính. Truyền thống Tân Ước hiểu người Tôi Trung đó, chính là Đức Giê-su. Còn tác giả thư gửi tín hữu Do-thái thì khẳng định: Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Và đến đây thì chúng ta đã sẵn sàng để đón nhận lời giáo huấn của Chúa Giê-su. Ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Nếu ta muốn biết tại sao thì Chúa cho ta lời giải thích: Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Như thế, ta có thể nói: toàn bộ phụng vụ Lời Chúa hôm nay có thể gói ghém trong hai chữ PHỤC VỤ.
2. Bối cảnh tôn giáo
Lời Chúa đến với chúng ta vào một thời điểm hết sức đặc biệt. Trước hết, trong những ngày này, toàn thể Giáo Hội Công Giáo đang nô nức chuẩn bị mừng 25 năm phục vụ của Đức Gio-an Phao-lô II trong cương vị Giáo Hoàng, người (cũng như tất cả các vị tiền nhiệm) tự nhận là “đầy tớ các đầy tớ của Chúa”, hay là “người phục vụ của các người phục vụ”. Và công việc phục vụ của ngài thì vô cùng phong phú, nhưng có nhà báo phương Tây gói ghém trong mấy chữ: Người mạnh mẽ bênh vực quyền của Thiên Chúa và quyền của con người.
Kế đến, ngày hôm nay, Mẹ Tê-rê-xa thành Can-cút-ta được phong chân phước. Mẹ đã dành trọn cuộc đời để noi gương và theo lệnh Chúa Giê-su, phục vụ những người nghèo, những người bị bỏ rơi, những người bất hạnh.
Vẫn trong bối cảnh tôn giáo, một biến cố cũng mới xảy ra là tuần vừa qua các Giám Mục Việt Nam đã họp đại hội thường niên. Tôi chưa có dịp đọc lá Thư chung nên chưa rõ các ngài sẽ nói với chúng ta những gì, nhưng tôi đoán là khó lòng mà có được một tài liệu độc đáo hơn, súc tích hơn, sâu sắc hơn là lá thư ngỏ mà năm 2002 vừa qua, cũng nhân kỳ đại hội các Giám Mục, các ngài đã gửi đến các nhà lập pháp của chúng ta, và đầu năm nay tôi đã có dịp đọc cho anh chị em nghe vài đoạn. Nội dung lá thư ngỏ ấy có thể tóm tắt trong mấy chữ: phục vụ con người. Đức Tổng Giám Mục của chúng ta là người đầu tiên phổ biến lá thư ngỏ đó. Uỷ ban Đoàn Kết mời ngài đi họp, ngài xin kiếu vì bận công việc mục vụ, nhưng ngài vội nắm lấy cơ hội để gửi cho Uỷ Ban lá thư ngỏ. Giá mà tờ báo Công Giáo và Dân Tộc lúc đó nhanh nhẩu phổ biến lá thư ngỏ đó như họ đang hăng hái đăng tải các bài viết nhân dịp Đức Tổng của chúng ta đi lãnh mũ hồng y thì hay biết chừng nào. Chưa hết, khi được Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố gửi thư kêu gọi giới Công giáo đóng góp vào công việc xoá đói giảm nghèo, thì một lần nữa, Đức Tổng cũng chụp ngay cơ hội để gửi lá thư ngỏ nói trên cho Chính quyền Thành phố. Ta có cảm tưởng như Đức Tổng chỉ chờ cho có cơ hội để phổ biến lá thư ngỏ kia thôi. Và biết đâu việc ngài được Đức Giáo Hoàng trao tặng mũ hồng y lại không liên quan đến việc thời gian vừa qua Đức Tổng của chúng ta qua việc phổ biến lá Thư ngỏ của Hội Đồng Giảm Mục Việt Nam đã tìm ra cách hữu hiệu nhất, đúng đắn nhất để góp phần vào việc phục vụ con người theo giáo huấn của Chúa Ki-tô trong hoàn cảnh hiện thời của đất nước.
3. Bối cảnh xã hội
Xã hội chúng ta đang sống hôm nay là một xã hội đang phát triển, với vô vàn vô số những vấn đề như ta dễ dàng nhận thấy qua báo chí, qua truyền thành truyền hình. Nhưng đâu là vị trí của con người trong quá trình phát triển đó. Trong báo Tuổi Trẻ Chủ nhật ngày 05-10-2003, ở mục “Tiêu điểm” (trang 4-5) dưới tựa đề “Quá trình phát triển phải lấy con người làm trung tâm”, tác giả Tương Lai cho thấy rằng trong hoàn cảnh cụ thể của xã hội hôm nay, quá trình phát triển CHƯA lấy con người làm trung tâm, hay nói cách khác, mục tiêu tối hậu chưa phải là phục vụ con người. Tôi xin trích:.... Nói quan tâm đến con người một cách chung chung thì ai cũng nói được. Nhưng trong cuộc đời chỉ có những con người cụ thể. Đó là anh công nhân giữa hàng chục công nhân trong số 200 người bị chấm dứt hợp đồng trái phép phải phơi nắng trước cổng Công ty Top One để chờ cơ quan chức năng xuống can thiệp bảo vệ quyền lợi “nhưng không thấy ai đoái hoài tới” (Tuổi trẻ 9-9-2003). Đó là những khu chế xuất, khu công nghiệp, trong những công ty sau khi từ nơi làm việc trở về phải chịu cơ cực trong cảnh “hắt hiu nhà trọ công nhân” với “nỗi buồn của những phận đời chan đầy nước mắt, niềm đau của kiếp sống tha hương” (Lao động 10-8-2003). Đó còn là những “người lao động thời vụ” đang bu quanh các khu chế xuất, khu công nghiệp còn “không có chỗ ổn định, công việc thì hết sức bấp bênh, không được đào tạo, khi quyền lợi bị xâm hại không biết kêu ai”, thân phận của họ lại còn khốn khổ hơn những “phận đời chan đầy nước mắt”. Đó là những người “công nhân đang bị đối đãi đầy bất công nếu đem so sánh với những đóng góp của họ. Khu ổ chuột, những khu nhà trọ rách nát, nồng nặc mùi rác rưởi lẽ nào mãi là chỗ đi về của họ” (Tuổi Trẻ 6-9-2003). Liệu những con người đó, những người lao động bằng xương bằng thịt cụ thể ấy, đang lao động trên chính đất nước mà họ đang làm chủ này có thuộc vào phạm trù “lấy con người làm trung tâm” của quá trình phát triển đất nước không ?. ....
Nếu thật sự quán triệt “quá trình phát triển phải lấy con người làm trung tâm” thì đã không có chuyện để cho ngành giáo dục đào tạo, nơi gánh trách nhiệm đào tạo con người, hun đúc hiền tài - nguyên khí quốc gia, lại cho ra những kết quả thảm hại với chỉ 14% thí sinh có tổng điểm ba môn thi từ 15 điểm trở lên và có đến 67,9% đạt tổng điểm ba môn thi 10 điểm trở xuống trong kỳ thi tuyển đại học và cao đẳng 2003. ....
Nếu thật sự quán triệt “con người là trung tâm” trong mọi hoạt động kinh tế xã hội thì đã không xem “trẻ đường phố” là đối tượng “thu gom”. Người ta chỉ thu gom phế liệu, ai lại thu gom con người ! Và rồi nếu thật sự quan tâm đến con người, những người bệnh đang phải gánh chịu tình trạng tăng giá thuốc hàng chục phần trăm (%), có loại tăng đến 80% do tác động của thông tư 08 liên bộ Tài chính và Y tế thì người có trách nhiệm gây nên chuyện đó sẽ không thể trả lời một cách vô trách nhiệm: “Tôi chỉ thừa lệnh chứ không tham gia. Tôi chỉ ký thôi” (Người Lao động 26-9-2003).
Tuy nhiên có thể nói: ở đây tác giả cũng chỉ mới đụng tới vấn đề chứ chưa đề ra được một giải pháp như lá Thư ngỏ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:
Có lẽ đến đây anh chị em đang thầm bảo tôi: thì đọc lá Thử ngỏ lẹ lẹ lên cho bà con nhờ.... Để khỏi quá dài, tôi bỏ bớt Nhập đề và Kết luận. Bây giờ tôi xin đọc:
“Phục vụ con người là mục đích tối cao” của mọi tổ chức và cơ chế xã hội (xem Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI). Khẳng định này đặt con người làm mục đích, làm cứu cánh, làm trọng tâm của mọi hoạt động văn hoá, kinh tế, xã hội trong cộng đồng dân tộc. Phải chăng khẳng định này muốn nói lên chân lý căn bản về phẩm giá con người. Từ chân lý căn bản nảy ra những nhu cầu, những đòi hỏi bức thiết phải đáp ứng trong hoàn cảnh hiện tại để xây dựng một xã hội nhân bản hơn cho Tổ quốc Việt Nam. Những đòi hỏi bức thiết đó gồm hai việc chính sau đây: I. Xoá bỏ dần những khuyết tật hiện hữu của xã hội; II. Phát huy những giá trị nhân bản làm cho mọi công dân ngày càng sống ấm no hạnh phúc, sống “độc lập, tự do và hạnh phúc”, sống xứng với phẩm giá con người.
I. Xoá bỏ những khuyết tật hiện hữu của xã hội.
1. Xoá bỏ khuyết tật lớn thứ nhất là hiện tượng tha hoá con người.Sự tha hoá là hiện tượng đánh mất phẩm giá con người. Hiện tượng này xuất hiện và lớn dần trong xã hội hiện nay:
- khi chủ nghĩa tiêu thụ đưa đẩy con người vào trong một mạng lưới những thoả mãn hời hợt, giả dối; - khi lao động được tổ chức nhằm bảo đảm tối đa cho lợi nhuận mà không lưu tâm đến cải thiện đời sống và thăng tiến phẩm giá người lao động; - khi diễn ra sự đảo ngược giữa phương tiện và mục đích: con người vốn là mục đích của sự phát triển thì lại bị biến thành đơn thuần là phương tiện sản xuất;
- khi tự do được coi như là quyền được làm bất cứ điều gì mình thích, bất cứ điều gì mà cảm tính của mình cho là có lợi trước mắt cho bản thân, cho phe phái, thay vì được coi như là quyền làm những gì mà lương tâm thấy được phép làm vì công ích, vì lợi ích của thế hệ hiện tại và mai sau. Khi tách lìa chân lý về phẩm giá con người, tự do chỉ còn là sự tuỳ tiện hoặc ngẫu hứng của những kẻ có quyền lực và thế lực. Tự do như thế, thay vì đem lại sự an cư lạc nghiệp và hạnh phúc cho mọi người, có nguy cơ tạo ra những bất công chồng chất trong xã hội.
2. Xoá bỏ khuyết tật lớn thứ hai là cơ chế bất công và tha hoá con người.
Cơ chế xin-cho là một điển hình về cơ chế bất công và tha hoá. Cơ chế xin-cho là một cơ chế bất công và tha hoá con người vì những lý do sau đây:
Cơ chế xin-cho biến những quyền tự do của công dân thành những thứ quyền Nhà Nước nắm trong tay và ban bố lại cho người dân dưới dạng những cái phép. Như thế cơ chế xin-cho vừa xoá đi các quyền tự do của người dân, vừa biến một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân thành một chủ nhân ông nắm trong tay các quyền tự do của người dân và thi ân cho họ theo cảm tính hoặc ngẫu hứng của mình.
Theo thông tin của báo chí, cơ chế xin-cho còn là nguyên nhân làm thất thoát 50% từ các nguồn thu vào công quỹ, và làm thất thoát 50% của phần còn lại khi phải chi ra cho công ích. Điều này có nghĩa là một thiểu số nhỏ những người có thế lực và quyền lực thì hưởng 75% từ công quỹ quốc gia (trong con số 75%, có 50.000 tỷ đông/năm của riêng ngành xây dựng), phần còn lại của dân số là hơn 70 triệu dân chỉ hưởng được 25%. Thực tế này tạo ra một tình trạng bất công trầm trọng trong xã hội và không ngừng làm gia tăng hố sâu cách biệt giàu nghèo trong lòng một dân tộc. Chính vì thế mà tham nhũng một cách có hệ thống qui mô trong xã hội ngày nay là một cản trở hết sức to lớn cho việc phát triển đất nước cũng như cho việc phát huy phẩm giá con người.
II. Phát huy những giá trị nhân bản làm cho xã hội ngày càng nhân bản hơn.
1. Phát huy phẩm giá và nhân cách con người. Công việc này đòi hỏi mọi tổ chức, mọi cơ chế, trong các quan hệ xã hội, phải quan tâm tôn trọng con người như là trọng tâm của mọi hoạt động văn hoá, kinh tế, xã hội, nghĩa là phải hướng các sinh hoạt văn hoá, kinh tế, xã hội đi đến sự phát triển và thăng tiến con người toàn diện với cả ba mặt vật chất, tinh thần và tâm linh làm nên phẩm giá và nhân cách con người. Hình như hệ thống giáo dục trong xã hội ngày nay chỉ nghiêng về chuyển giao kiến thức chuyên môn hơn là quan tâm phát triển nhân cách con người. Định hướng này có nguy cơ tạo ra những lớp người hụt hẫng, què quặt, dị tật cho dân tộc.
2. Phát triển người trên nền tảng chân lý. Một xã hội được coi là có trật tự và phù hợp với nhân phẩm khi đặt nền tảng trên chân lý. Chân lý căn bản trong quan hệ giữa người với người là mọi người đều bình đẳng về nhân phẩm. Chân lý này đòi hỏi phải gạt bỏ moi kỳ thị và phân biệt đối xử, phải xoá đi những hình thức chuyên chế, phải loại trừ mọi gian dối xảo trá ngày nay đang tràn lan trong mọi lãnh vực của cuộc sống con người và xã hội.
3. Phát huy tình liên đới trong cộng đồng dân tộc. Tình liên đới chỉ được xây dựng và phát huy vững bền trên nền tảng tôn trọng con người và các quyền của họ, tôn trọng sự tự lập chính đáng và quyền tự quyết của mọi tổ chức công dân, tôn trọng các giá trị đạo đức trong truyền thống văn hoá. Tình liên đới đòi hỏi phải nhìn xa hơn bản thân của tổ chức, của phe phái để phục vụ cho sự phát triển vững bền, cho sự thăng tiến lâu dài của con người, gia đình và xã hội.
4. Phát huy tính phụ đới của tổ chức xã hội. Việc xây dựng tình liên đới và đoàn kết trong lòng một dân tộc chỉ đạt kết quả khi mọi tổ chức xã hội thể hiện được tính phụ đới. Tính phụ đới là một đặc tính của tổ chức xã hội trong đó một tập thể cấp cao không can thiệp vào nội bộ của một tập thể cấp thấp, không làm mất thẩm quyền và tính tự lập của tập thể cấp thấp, song tạo điều kiện cho nó có được tự do phối hợp hoạt động của mình với những hoạt động của các tập thể khác trong xã hội. Trong tổ chức xã hội mang tính phụ đới, mọi công dân, mọi tập thể công dân, tôn giáo hay không tôn giáo, không phân biệt giai cấp, được tự do sáng kiến và hoạt động nhằm phát triển và thăng tiến con người và gia đình, củng cố nền tảng pháp lý quốc gia. Tính phụ đới không cho phép một tổ chức hay tập thể xã hội, dù là tổ chức cao cấp nhất như Nhà Nước, chiếm độc quyền trong công cuộc phát triển, vì lẽ đây là sự nghiệp chung của toàn dân, của mọi thành phần xã hội trong cộng đồng dân tộc. Vả lại độc quyền là con đường dẫn đến chuyên chế và độc tài, quan liêu và bao cấp, áp bức và bất công, là những tệ nạn vừa đánh mất phẩm giá con người vừa cản trở việc phát triển đất nước.
Tính phụ đới theo nghĩa trên là nền tảng để xây dựng một xã hội dân chủ, một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân. Thiếu nền tảng này, Nhà Nước của dân, do dân và vì dân, từ một tổ chức phục vụ nhân dân, trở thành một cỗ máy thống trị độc tài, và nhân dân từ địa vị làm chủ đất nước trở thành công cụ mù quáng và miễn cưỡng phục vụ cỗ máy đó. Sự đảo ngược đó làm tha hoá con người và phân hoá xã hội.
5. Phát huy ý thức và thiện chí phục vụ công ích. Trước hết công ích là những điều kiện cần thiết cho việc thi hành các quyền tự do của mọi công dân, cho việc phát huy phẩm giá con người. Do đó, chức năng phục vụ cho công ích đòi hỏi tổ chức Nhà Nước:
(1) phải tạo điều kiện đảm bảo cho mọi công dân, mọi tổ chức xã hội được hưởng những tự do xứng hợp với phẩm giá con người và cần thiết cho sự phát triển đất nước;
(2) phải xoá bỏ những luật lệ bất công và những biện pháp trái với luân thường đạo lý trong truyền thống văn hoá của dân tộc. Cơ chế xin-cho là một điển hình về luật lệ bất công. Phá thai hằng năm hơn cả triệu trường hợp là một điển hình về biện pháp trái với luân thường đạo lý mà những hậu quả đã và đang diễn ra không biết đưa tương lai dân tộc đi về đâu.
KẾT LUẬN
Cách đây 25 năm, khi xuất hiện lần đầu tiên trên bao lơn điện Va-ti-căng để ngỏ lời với dân Chúa trong tư cách vị Giáo Hoàng vừa đắc cử, lời đầu tiên của Đức Gio-an Phao-lô II là Anh em đừng sợ. Lời đó khiến ta nhớ lại lời Chúa Giê-su khi Ngài xuất hiện trên mặt nước mà đến với các Tông Đồ: Thầy đây ! Anh em đừng sợ (Mc 6,50). Hôm nay cũng vậy, nếu ta muốn noi gương phục vụ của Mẹ Tê-rê-xa, của Đức Giáo Hoàng, người tự nhận là “đầy tớ các đầy tớ của Thiên Chúa”, và nhất là nếu ta muốn noi gương của Đấng đã đến không phải để cho người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người thì lời được gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay cũng là Anh em đừng sợ !
Nhà thờ Phan-xi-cô Đa-kao, 19-10-2003 Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
Trên bước đường đi về Giêrusalem để chịu tử nạn và phục sinh, thì tại thành Giêricô, Đức Giêsu đã chữa cho một người mù tên là Bác-ti-mê, đang ngồi ăn xin bên vệ đường, được sáng mắt, vì đã biết đặt trọn niềm tin cậy nơi Người. Qua phép lạ mở mắt người mù này, Người muốn mở mắt đức tin cho các môn đệ, để họ thấy được ý nghĩa thực sự của sứ mạng cứu thế mà Người sắp thực hiện. Đó là: “Phải qua đau khổ thập giá để vào vinh quang Phục Sinh”.
2) Chú thích:
- Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêricô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Bác-ti-mê, con ông Ti-mê, đang ngồi ở vệ đường (Mc 10,46):
+ Đức Giêsu và các môn đệ: Thánh Máccô luôn để ý tới chuyện Đức Giêsu hiện diện bên cạnh các môn đệ của Người (x. Mc 3.14; 5,18).
+ Thành Giêricô: Giêricô có nghĩa là “Mặt trăng”, một thành ở thung lũng sông Giođan, cách Biển Chết 5 cây số về hướng Bắc, và cách thủ đô Giêrusalem khoảng 25 cây số. Thời Xuất Hành, Giêricô là thành đầu tiên con cháu Giacóp dưới sự lãnh đạo của Gio-su-ê tiến chiếm được sau khi vượt qua sông Giođan (x. Gs 5,13tt). Dụ ngôn người Samari tốt lành được Tin Mừng Luca ghi lại cũng nhắc đến đoạn đường từ Giêrusalem xuống Giêricô (x. Lc 10,30). Đây là thành Giêricô mới, xây cách thành cũ độ nửa giờ đi bộ. Thành này do Hêrôđê Dại Vương mở rộng làm chỗ nghỉ Mùa Đông. Đến đời A-kê-la-o tu sửa lại. Đây là thành phố lớn thứ nhì ở Pa-lét-ti-na sau Thủ đô Giêrusalem, một miền khí hậu ôn hòa, đất đai phì nhiêu, đặc biệt không khí có phảng phất mùi thơm của hoa hồng.
+ Có một người hành khất mù: Hành khất tức là người ăn xin. Đây là một người đói khổ vật chất, đang cần sự giúp đỡ. Hơn nữa, anh ta còn bị mù, tượng trưng cho một tình trạng đáng thương về tinh thần. Đó là những người chưa có đức tin, chưa xác định được hướng đi cho cuộc đời mình. nói cách khác: Đây là một người đang sống trong bóng tối vì chưa nhận biết và tin theo Đức Giêsu.
+ Ở vệ đường: Đồng nghĩa với “Đầu đường xó chợ”. Đây là một hoàn cảnh bơ vơ không nơi nương tựa. Người ăn xin mù nay tượng trưng cho số phận đau khổ của “người nghèo của Đức Giavê”, là đối tượng ưu tiên được gia nhập vào Nước Trời để được ơn cứu độ.
Thắc mắc 1: Theo Máccô và Mátthêu thì chuyện xảy ra khi Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi Giêricô (x. Mc 10,46; Mt 20,29), trong khi theo Luca (x. Lc 18,35) thì là lúc Đức Giêsu đến gần thành Giêricô.
Đáp: Để giải thích sự khác biệt này, có hai ý kiến: Ý thứ nhất cho rằng có hai thành Giêricô: Giêricô cũ và Giêricô mới do vua Hêrôđê xây. Mátthêu và Máccô nói tới thành Giêricô cũ. Còn Luca nhắc tới Giêricô mới. Ý kiến thứ hai cho rằng: cả ba Tin Mừng chỉ nói về Giêricô đương thời thôi. Nhưng có hai phép lạ: một do Luca kể xảy ra khi Đức Giêsu vào thành, một do Máccô kể có nói rõ tên người mù, được chữa lành khi Người ra khỏi thành. Còn Mátthêu đã gom lại thành một.
Thắc mắc 2: Theo Tin Mừng Máccô (x. Mc 10,46) và Luca (x. Lc 18,35) thì có một người mù, trong khi Tin Mừng Mátthêu (x. Mt 20,30) lại nói về hai người mù. Vậy ai đúng ai sai ?
Đáp: Về số người mù là một hay hai ? Có thể Đức Giêsu chữa một lúc hai người mù, nhưng Máccô chỉ kể một và nêu rõ tên anh ta. Vì Máccô chỉ chú trọng tới ý nghĩa phép lạ cách chung và đưa Báctimê ra như một chứng tá, vì có lẽ độc giả của ông biết rõ người này. Luca tuy viết Tin Mừng theo truyền thống của Máccô, nhưng không nêu tên người mù, vì độc giả Hy Lạp của ông không biết nhân vật này. Còn Mátthêu giữ nguyên số hai như là con số tượng trưng cho việc làm chứng: Những người được chữa lành là những chứng ta cụ thể cho Đức Giêsu và công cuộc của Người (Như hai người bị quỉ ám ở Ga-da-ra, hai người mù gần Ca-phác-na-um cũng thế). Dù sao ta nên chú ý đến chủ ý của mỗi sách Tin Mừng, hơn là giải quyết dứt khoát vấn đề có mấy người mù được chữa lành ?
- Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !” Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi. Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10,47-48):
+ Đức Giêsu Nadarét: Giêsu là tên gọi có nghĩa là “Giavê Đấng Cứu Độ”. Có nhiều người được đặt tên là Giêsu (x. Hc 50,27; Lc 3,29; Cl 4,11). Do đó, tác giả thêm tên quê hương là Nadarét để phân biệt.
+ Con Vua Đavít: Việc tuyên xưng Đức Giêsu là “Con vua Đavít”, cho thấy lòng tin Chúa Giêsu là “Đấng Thiên Sai” lan tràn trong dân chúng thời bấy giờ. Căn cứ trên các lời sấm ngôn của các Ngôn sứ về Đấng Mêsia như là một Đavít mới, hoặc như miêu duệ của Vua Đavít mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện (x. Gr 23,5; 33,15; Ed 34,23; Hs 3,5; Is 11,1). Người Do thái đồng thời với Đức Giêsu đang trông mong vị đó đến (x. Mt 22,42; Ga 7,42). Trong phần một của Tin Mừng Máccô (Từ đoạn 1 đến 8), Đức Giêsu thường cấm ma quỉ, người được phép lạ và các môn đệ nói ra Người là ai. Nhưng ở đây, người mù kêu tước hiệu “Con vua Đavít” của Người giữa đám đông, nhưng Người không còn ngăn cấm nữa.
+ “Xin dủ lòng thương tôi”: Lời cầu xin này cho thấy sự khiêm tốn và đức tin mạnh mẽ của anh mù vào quyền năng của Đức Giêsu. Anh trông cậy Người sẽ cho anh sáng mắt.
+ Nhiều người quát nạt bảo anh im đi: Một số người ở gần anh mù tỏ ra tức bực trước việc anh ta kêu la to tiếng, vì nó làm ngăn trở không cho họ nghe được bài thuyết giảng cho Đức Giêsu đang vừa đi vừa nói. Vì thế họ bắt anh mù phải im miệng.
+ Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con Vua Đavít ! Xin dủ lòng thương tôi”: Do nôn nóng được Đức Giêsu cứu chữa, nên anh mù bất chấp những rào ngăn cản anh đến với Đức Giêsu. Người ta càng la mắng, anh lại càng kêu van thống thiết hơn: “Lạy Con Vua Đavít, Xin dủ lòng thương tôi !”. Điều này cho thấy: Các đau khổ thử thách gặp phải, đều có giá trị như một sự tôi luyện, làm cho đức tin của chúng ta ngày một vững mạnh hơn.
- Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây !” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy, mà đến gần Đức Giêsu (Mc 10,49-50).
+ Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây !”: Đứng lại hay dừng lại cho thấy Đức Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu cứu của người mù và sẳn sàng đáp ứng lời anh kêu xin qua lệnh truyền: “Gọi anh ta lại đây !”.
+ Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy ! Người gọi anh đấy”: Qua câu này, ta thấy thái độ của đám đông đối với anh mù đã thay đổi: từ khinh thường quát mắng đến tôn trọng nhỏ nhẹ. Thời bấy giờ người ta nghĩ rằng: bệnh tật mù loà là hậu quả của tội lỗi, như các môn đệ đã hỏi Đức Giêsu về người mù từ lúc mới sinh: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù: Tại anh ta hay cha mẹ anh ta” (Ga 9,2). Sự thay đổi thái độ của dân chúng đối với người mù nói lên điều này: Nếu người ta chịu học tập theo Đức Giêsu, tập nhìn tha nhân theo gương Người, thì chắc chắn người ta cũng sẽ có sự thay đổi: từ thái độ thù ghét, trở thành nhân ái đối với tha nhân.
+ Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu: Ao choàng là một vật thiết thân đối với người hành khất như anh mù này. Nó được dùng làm ô dù để che nắng ban ngày và làm mền đắp ban đêm. Vậy mà khi nghe nói: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người cho gọi anh đấy !” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu như anh ta đã được khỏi bệnh rồi.
- Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” Tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10,51-52):
+ “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?”: Dù biết rõ anh mù xin gì rồi, nhưng đặt câu hỏi này, Đức Giêsu muốn tạo cơ hội cho anh mù biểu lộ đức tin vào Người.
+ “Xin cho tôi nhìn thấy được”: Anh mù không xin tiền hay đồ ăn thức uống như mọi khi, mà chỉ xin cho mình được sáng mắt, được nhìn thấy như bao người khác.
+ “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”: Điều kiện để được Đức Giêsu cứu chữa là phải có đức tin, như khi chữa hai người mù (x. Mt 9,29), Chữa người phong cùi (x.Lc 17,19), trách yêu các môn đệ (x. Mt 8,26; 16,8), chúc phúc (x. Ga 20,29)...
+ Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi: Anh mù chỉ xin cho được nhìn thấy về thể xác, nhưng Đức Giêsu đã ban cho anh thấy được cả những chân lý đức tin. Nhờ đức tin mà anh mù thấy con đường phải đi và anh ta đã dứt khoát theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, vượt qua đau khổ để vào vinh quang phục sinh.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được (Mc 10,51):
- Câu chuyện:
Từ thế kỷ 19, nhiều người mù đã có khả năng tự vươn lên, học hành thành đạt như người sáng mắt. Có những người đã đậu tiến sĩ giáo sư như bà Kiu-lơ (Killer), hay ông Bơ-rai-ơ (Braille). BƠ-RAI-Ơ (1809-1852) bị mù từ năm ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và được mời đánh đàn tại nhà thờ. Nhờ chuyên cần học tập và học theo một phương pháp riêng do ông tự nghĩ ra mà ông đã tiến dần lên các bậc thang học vấn, và cuối cùng trở thành một vị giáo sư lừng danh. Nhờ sáng chế ra hệ thống chữ nỗi cho người mù mà ông đã làm cho nhiều người mù được thoát cảnh mù chữ. Ong đáng được tôn vinh là ân nhân và là ông tổ của người mù. Dù vậy, sự giúp đỡ người mù của Bờ-rai-ơ cũng chỉ có giới hạn, vì trước sau ông cũng chỉ là một người mù, và sáng chế của ông cũng chỉ có thể giúp cho người mù thêm điều kiện học tập mà thôi. Ong không thể cứu họ ra khỏi cảnh mù tối. Chỉ Đức Giêsu mới có thể làm cho người mù được sáng mắt và giúp họ tìm ra lẽ sống cuộc đời.
-Suy niệm:
+ Về anh mù Bác-ti-mê trong Tin Mừng hôm nay: chúng ta không rõ nguyên nhân nào làm anh ta bị mù, mà chỉ biết anh ta bị mù từ khi mới sinh. Đã có một thời anh ta được thưởng thức ánh nắng ban mai và nhìn thấy mặt những người thân yêu. Còn giờ đây anh ta ở trong cảnh mù tối triền miên. Anh không thể tự kiếm sống, mà chỉ biết trông chờ vào của bố thí của người khác. Anh cũng đã nghe đồn về Đức Giêsu Nadarét là Người đã làm cho Người mù từ lúc sinh được sáng mắt. Anh đã tin tưởng vào Chúa và ao ước có ngày sẽ gặp Người, để xin Người chữa lành cho anh.
+ Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ ấy. Nghe biết Đức Giêsu sắp đi ngang qua chỗ mình ngồi, anh mù đã kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !”. Nhiều người ngăn không cho anh nói. Nhưng anh không sợ và càng la to hơn. Cuối cùng tiếng kêu của anh đã thấu đến tai Đức Giêsu. Người dừng lại vàtruyền gọi anh đến. Lập tức anh vứt bỏ lại chiếc áo choàng thiết thân với mình, để dễ dàng đứng dậy mà chạy đến với Người&Anh đã gặp được Đức Giêsu và đã được toại nguyện. Anh không còn phải ngồi bên vệ đường xin của bố thí nữa, nhưng đã hòa vào đám người cùng theo Đức Giêsu lên Giêrusalem.
+ “Lạy Thầy, xin cho tôi được nhìn thấy” phải là lời kêu cầu của mỗi người chúng ta. Nhìn thấy là một khả năng không bền vững của con người: chúng ta có thể thấy điều này mà không thể thấy điều kia. Có thể lúc thấy lúc không, hay cũng có khi nhìn mà không thấy. Vậy chúng ta có sẵn sàng cầu xin Chúa cho mình được nhìn thấy như anh mù hay không ?
+ Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể bị mù lại, nếu người ấy bỏ lâu không xử dụng chữ viết. Mỗi người chúng ta phải xin cho mình luôn xử dụng cái nhìn tâm linh để thấy mình tầm thường nhỏ bé và sự bao la vô cùng của Thiên Chúa; Thấy những tội lỗi bất xứng của mình và những ưu điểm đáng mến của tha nhân&Chỉ khi nào được Chúa ban ơn giúp đỡ, chúng ta mới có thể nhận biết Đức Giêsu là con đường duy nhất, nhờ Người chúng ta mới đến được với Thiên Chúa Cha.
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ làm gì để giúp đỡ cho người mù về thể xác ? Tôi phải làm gì đối với những kẻ cố chấp, cố tình bịt tai nhắm mắt để ở lì trong sự sai lầm của mình?
2) Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng bật dậy mà đến gần Đức Giêsu (Mc 10,50):
Câu chuyện 1:
Lời kể của một bà mẹ có đứa con bị mù bẩm sinh: “Tôi sinh được một bé gái. Chẳng may cháu bị mù ngay từ lúc mới chào đời. Khi được gần hai tuổi và lẫm chẫm bước đi, một hôm tôi đem cháu theo để mua sắm một số đồ cần dùng trong một siêu thị. Tôi thấy cháu có cử chỉ thật lạ: Cứ đi được vài ba bước, cháu lại đứn lại như để lắng nghe tiếng động chung quanh như: tiếng chân của những người đi mua sắm như tôi, tiếng kèn xe chạy ngoài đường lộ, tiếng nhạc từ một cửa hàng kim khi điện máy&Trên đường về nhà, tôi nhận thấy con tôi có thái độ vui vẻ. Nụ cười của nó như bảo với tôi rằng: Hôm ấy là ngày đẹp nhất đối với nó, vì nó đã khám phá ra những điều mới lạ mà nó chưa bao giờ gặp trước đó.
Câu chuyện 2:
Năm 1945, tại nhà ga Verona bên Ý, một số rất đông dân chúng đang náo nức chờ đón binh lính con em của họ trở về từ các trại giam tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt đang lần mò từng bước trên sân ga, tiến đến chỗ một bà cụ đang đứng với mấy người thân. Khi gần tới nơi, đột nhiên anh lính mù la to lên: “Mẹ !”, và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Sau đó khi thấy mắt của con đã bị mù, bà mẹ liền hỏi con: “Làm sao con bị mù thế này mà vẫn tìm đường về với mẹ được ?”. Anh lính đáp: “Tuy con không thể thấy mẹ bằng mắt như trước, nhưng chính trái tim đã hướng dẫn con. Nhờ đó con đã linh cảm mẹ đang ở đây, nên con đi theo sự mách bảo đó và cuối cùng con đã tìm được mẹ !”.
Suy niệm:
+ Người mù thành Giêricô trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đã đến với Đức Giêsu không bằng đôi mắt nhưng bằng trái tim của mình. Tuy anh không nhìn thấy Chúa, nhưng đức tin đã mách bảo và dẫn đưa anh đến với Người. Anh đã được nghe đồn nhiều về Chúa và thầm ước ao có dịp gặp Người để xin Người chữa lành cho anh. Vì thế khi nghe có một đám đông đang tiến gần, mà anh nghe được lời của một vị ráp-pi đang nói. Anh hỏi người bên cạnh và được bảo vị tôn sư ấy là Đức Giêsu Nadarét. Anh vui mừng vì sau bao ngày mong ước, giờ đây anh đã gặp được Người. Anh quyết không bỏ lỡ cơ hội và liền la to lên như sau: “Lạy Đức Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !” Khi nghe có người bảo: “Hãy vững tâm đứng dậy, Thầy gọi anh đó”. Anh vội vã liệng chiếc áo choàng đang cầm trên tay, nhảy chồm lên và chạy mau tới với Đức Giêsu như một người đã được sáng mắt. Bấy giờ Đức Giêsu đã nói chuyện với anh và cuối cùng đã phán với anh: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !”. Tức khắc anh được khỏi bệnh để nhìn thấy được và tình nguyện theo chân Người vào thành Giêrusalem.
+ “Lòng tin của anh đã cứu anh !”: Anh đã nghe đồn về Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, thuộc dòng tộc vua Đavít đã xuất hiện. Người có quyền năng và đầy lòng nhân ái. Người hay cứu giúp những người bệnh tật đau khổ như anh. Anh đã đặt niềm tin và hy vọng có ngày sẽ gặp được Người để được Người chữa lành. Anh đã tuyên xưng đức tin bằng sự can đảm kêu to lời kêu xin trước sự cấm cản của đám đông, từ bỏ mọi sự làm ngăn trở anh đến với Đức Giêsu như vứt bỏ lại chiếc áo choàng, thể hiện niềm vui hân hoan gặp gỡ Chúa qua việc đứng bật dậy mà đến gần Đức Giêsu, cầu xin Người cho anh được nhìn thấy, nhìn thấy con đường Người đi và thay đổi nếp sống từ ngồi ăn xin bên vệ đường đến đứng dậy dấn bước theo chân Người vào cuộc khổ nạn và phục sinh tại Giêrusalem.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi xin Chúa mở mắt tôi ra để nhìn ngắm kỳ công của Người mà dâng lời ngợi khen cảm tạ. Mỗi khi có nhu cầu cần được Chúa ban ơn trợ giúp, tôi quyết tâm kiên trì kêu xin và sẵn sàng vâng theo Thánh ý Chúa.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Như người mù ngồi bên vệ đường, xin Chúa dủ lòng thương cho con được xem thấy: Được nhìn thấy bản thân con với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy. Cho con được thấy Chúa đang hiện diện trong con, cả những khi con không cảm thấy gì. Xin cho con thực sự muốn thấy, muốn để cho ánh sang của Chúa chiếu dọi vào phần bóng tối trong tâm hồn con. Như người mù bên vệ đường, xin Chúa dủ lòng thương ban cho con được nhìn thấy.
Lạy Chúa, xin hãy mở mắt đức tin, giúp con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong vũ trụ thiên nhiên để con dâng lời ca tụng tạ ơn Chúa; Xin cho con thấy Chúa hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để con sốt sắng lãnh nhận và được kết hiệp mật thiết với Chúa mỗi ngày; Xin cho con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người nghèo khó yếu đau thất vọng, để con động viên an ủi và ân cần phục vụ họ như phục vụ chính Chúa&
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Con cảm thấy vui mừng và hạnh phúc biết bao khi con được sáng mắt, để thấy được những điều kỳ diệu Chúa làm trong thiên nhiên, để nhận biết những gì đang xảy ra chung quanh con, để nhận ra những khuôn mặt người thân yêu. Đôi mắt sáng chính là một báu vật, một hồng ân lớn lao mà Chúa đã tặng ban cho con và con có bổn phận phải chăm sóc, bảo vệ và giữ gìn để khỏi bị mù tối.
Nhưng nghĩ lại, con lại thấy nhiều lúc con cũng bị đui mù. Nhiều lúc tuy con mắt thể xác nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhưng con mắt linh hồn của con lại không hiểu được tình thương và sự quan phòng của Chúa. Xin cho con nhận ra những kẻ đang thù ghét làm hại con, những kẻ tự nhiên con có ác cảm, không muốn gặp gỡ tiếp xúc&lại chính là anh chị em của con, mà Chúa muốn con phải sẵn sàng tha thứ, nhịn nhục và yêu thương để “biến thù thành bạn”. Khi nhìn vào gương soi, con thấy khuôn mặt của con, nhưng chẳng mấy khi con nhận ra tình trạng linh hồn của mình ! Đó là lúc con đang bị mù lòa về tinh thần, đang bị khốn khổ và còn đáng thương hơn anh mù thành Giêricô trong bài Tin Mừng hôm nay !
Lạy Mẹ, Xin thương mở mắt linh hồn con, để con thấy được tình thương của Chúa ở khắp mọi nơi. Xin cho mắt linh hồn con sáng suốt, để con nhận ra những gì đẹp ý Chúa, và nhận ra mọi người đều là anh em của con. Xin cho con ngay từ bây giờ luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa, để mai sau con cũng được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa trên Trời đời đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Cách đây nhiều năm có một đôi vợ chồng đã gởi lá thứ ngỏ này đến các bậc cha mẹ và sinh viên của một trường trung học ở một thành phố phía Nam:
“Các bạn sinh viên học sinh cùng quí phụ huynh thân mến, thứ năm vừa qua, chúng tôi mới chôn cất đứa con trai của chúng tôi. Câu chuyện xảy ra là hôm thứ ba, nó vào phòng ngủ của nó và tự sát bằng cách tự bắn vào thái dương của mình: viên đạn xuyên thẳng qua óc nó, hầu như không phọt ra một giọt máu nào nên chúng tôi cũng đỡ phải đau đớn, Nó tên là Mike, một cậu bé sáng sủa đẹp trai, thông minh, nhút nhát và học hành lanh lợi. Vì thế, khi nghe tin nó chết, bạn bè nó đã gọi điện thoại liên tục đến chia buồn. người ra kẻ vào trong nhà liên tục suốt cả ngày. Bản báo cáo của Coroner cho thấy không hề có dấu hiệu gì liên quan đến ma tuý.
“Thực sự, Mike có rất nhiều bạn bè, nhưng mỗi đứa đều có nhận thức riêng của mình về thực tại - thực tại của riêng mình. Tối chúa nhật, Mike say rượu và nó đã nói chuyện lâu giờ với chúng tôi. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhận ra rằng nhận thức lạc quan của chúng tôi về tình trạng cuộc đời nó không giống như nhận thức của nó. Nó rất buồn vì cảm thấy bạn bè nó chả quan tâm gì đến nó, đang khi chúng tôi lại nghĩ rằng bạn bè nó rất quan tâm đến nó.
“Chúng tôi tin rằng tất cả quí bạn đều có thể giúp Thiên Chúa làm cho thế giới này trở thành một nơi hạnh phúc hơn. Trong khoảng giữa tuổi 20 và 35, người ta mới bắt đầu cảm thấy đủ chắc chắn để nói với bạn bè: “Tôi yêu bạnỴ hoặc “Tôi sui sướng được làm bạn với bạn” quí bạn hãy anh dũng lên, bởi vì vào lứa tuổi của các bạn, quả thật thốt ra một câu nói như thế thì quả là ngại ngùng và thấy hơi bất thường, nhưng xin các bạn hãy vui lòng nói ra cho bạn bè của mình biết rằng họ là bạn của các bạn, và các bạn vẫn quan tâm đến họ. Điều này hết sức quan trọng vì có nhiều người vẫn cảm thấy rất cô đơn ngay cả khi có rất nhiều người đang vây quanh người ấy. Cũng có thể có vài người trong trường của các bạn thực sự không có bạn bè gì cả. Chả ai gọi địên thoại thăm hỏi họ và chẳng bạn bè nào bước đến nhà chơi. Quí bạn hãy kết bạn với những bạn ấy. Họ đang thực sự cô đơn đấy. Nếu Mike đã cảm thấy nỗi thất vọng ê chề như thế đang khi nó còn có nhiều bạn bè thì chúng ta hãy tưởng tượng xem những người bạn này sẽ còn cảm thấy và phải chịu đựng buồn phiền và cô đơn biết chừng nào!
“Chúa sinh ra mỗi người chúng ta trên trần gian là để làm việc thiện và để đem lại niềm vui. Xin quí bạn vui lòng giúp đỡ làm cho cái chết của Mike mang lại tình thương và niềm vui cho thế giới một cách thiết thực cụ thể. Để trưởng thành đòi hỏi phải chịu đựng lắm gian khổ và mỗi người chúng ta cần rút tỉa nhiều điều hữu ích cho chính mình. Gia đình và cha mẹ các bạn là quan trọng, nhưng bạn bè cùng trang lứa cũng quan trọng không kém. Vì vậy, xin các bạn hãy vui lòng, vui lòng mở rộng tâm hồn ra và bảo với bạn bè mình rằng các bạn yêu thương họ. Xin gởi tình yêu đến tất cả quí bạn”. Lá thư trên do chính cha mẹ Mike ký tên.
Cha mẹ Mike đã viết lá thứ trên với biết bao tình yêu thương và can đảm. Đó là nhưng cái khiến lá thư đó thật tuyệt vời, thật là hữu hiệu. Đó là những gì khiến nó trở thành lá thư mà mỗi bạn trẻ và các bậc phụ huynh nên đọc.
Tôi nghĩ rằng chúng ta nên Đoc lá thư ấy, đặc biệt trong ngày hôm nay, bởi vì chàng hành khất mù loà trong Phúc Âm hôm nay rất có thể trạc tuổi Mike. Cũng như Mike, anh ta cố gắng tiếp cận Chúa Giêsu theo cách thức tốt nhất anh biết được. Cũng như Mike, anh đang tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người chung quanh. Và cũng như Mike, thay vì được những kẻ chung quanh giúp đỡ, anh lại bị phản đối; Quả thế, thay vì được trợ giúp từ đám đông, thì anh bị chửi rủa và khước từ thẳng thừng.
Bài Phúc Âm kể rằng khi chàng hành khất nói với Đức Giêsu: “Lạy Con vua Đavi! Xin hãy xót thương tôi” thì nhiều người quở mắng và bảo anh câm miệng. Nói cách khác, thay vì nắm tay người hành khất dẫn đến với Đức Giêsu thì họ lại túm cổ lôi chàng ra xa Ngài. Chỉ có một người tiến đến giúp đỡ chàng hành khất. Người đó là ai? Chẳng ai cả ngoài chính Đức Giêsu. Khi nghe dân chúng la mắng người hành khất. Ngài đã dừng lại và truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ có lúc đó dân chúng mới thay đổi thái độ. Chỉ có lúc đó họ mới chịu giúp đỡ người bạn bất hạnh kia.
Bài Phúc Âm hôm nay thúc giục chúng ta tự vấn chính mình. Có biết bao chàng Mike và bao kẻ hành khất mù loà đang cố gắng đến với Chúa Giêsu? Bao nhiêu người như thế đang bị đối xử như kẻ hành khất mù loà trong bài Phúc Âm hôm nay? Và biết bao người trong chúng ta đang gây chán nản thất vọng cho những chàng Mike và những kẻ hành khát mù loà ấy một cách vô tình không ý thức?
Ngoài ra, bài Phúc Âm hôm nay còn mời gọi chúng ta tự vấn xem ai là những chàng Mike, là những kẻ hành khất mù loà trong đời sống chúng ta? Chúng ta đang làm gì để giúp đỡ những thanh thiếu niên này trong khi họ nỗ lực một cách vụng về nhằm tiến đến gặp Chúa Giêsu? Bài Phúc Âm mời gọi chúng ta thi hành những gì mà hai phụ huynh đầy can đảm của Mike đã yêu cầu các phụ huynh và sinh viên của trường trung học miền Nam kia. Tôi xin đọc lại đoạn thư đầy xúc động ấy: “Chúa sinh ra mỗi người chúng ta trên trần gian là để làm điều thiện và đem lại niềm vui. Xin quí bạn vui lòng giúp đỡ làm cho cái chết của Mike mang lại tình thương và niềm vui cho thế giới một cách thiết thực cụ thể”.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta làm cho cái chết của Mike mang lại tình thương và niềm vui cho thế giới một cách cụ thể, thiết thực.
Chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện thường được đọc trong một vài dịp trước đây. Lời nguỵên này chỉ ra cho chúng ta phương cách cụ thể để mang lại tình thương và niềm vui cho thế giới chúng ta:
“Lạy Chúa từ nhân, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con: đem yêu thưong vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con: Tìm an ủi người, hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì chính thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đờiỴ.
Năm 1945, tại nhà ga Verona bên Ý, dân chúng đang náo nức chờ các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã.
Một người lính trẻ hai mắt đã bị hư, anh lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già. Anh la lên; Mẹ ! Và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Bà mẹ xót xa nói: “Làm sao một người mù loà như con mà vẫn về được với mẹ?”. Người lính đáp: “Con không nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con”.
Người mù thành Giêricô cũng đã đến với Chúa Giêsu bằng trái tim. Anh không được nhìn Chúa, nhưng niềm tin của anh đã dẫn anh đến với Người. Anh được nghe nhiều về Người, và lòng trí anh đã ghi nhớ được một số điều căn bản. Vì thế, nghe xôn xao có Chúa đến gần anh đã phát biểu niềm tin của mình bằng tiếng kêu lớn: “Lạy Đức Giêsu, con Vua David, xin thương con”. Do thiện chí và do ơn trên soi sáng, anh mù đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi người ta bảo: “Hãy vững tâm đứng dậy, Thầy gọi anh đó”. Anh vội vã liệng áo choàng, nhẩy lên và chạy tới Chúa. Chúa chữa lành anh bằng một lời khen ngợi: “Đức tin của con đã cứu con”. Anh được khỏi bệnh và gia nhập vào đoàn ngũ những người theo Chúa.
Theo Thánh Marcô thì đây là phép lạ sau cùng Chúa thực hiện trước khi chịu thương khó. Dứới ngòi bút của Thánh Marcô, các môn đệ Chúa cho tới giờ chót vẫn như những người mù; sự kiện này làm Chúa rất bận tâm. Chúa đã ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc. 8,31;9,31;10,34). Và nhiều lần nói về số phận các tín hữu muốn trung kiên với Chúa phải sẵn sàng hy sinh mạng sống (8,35), phải chọn địa vị rốt hèn (9, 35), phải sẵn sàng móc mắt, chặt bỏ tay chân để khỏi phạm tội (9,47), phải uống chén đắng và trở nên đầy tớ mọi người (10,38-44)& Những điều này cho tới giờ các tông đồ vẫn chưa hiểu. Theo Chúa mà như vậy, Thầy đi một đường, trò đi một lối như vậy đâu có được! Đúng là không thể được. Không thể thành môn đệ bằng lối suy tư con người. Cần thiết phải có ơn Chúa, phải được Chúa mở mắt, đem ánh sáng cho. Có vậy mới nhìn ra giá trị ơn cứu độ của Chúa và mới biết lựa chọn thái độ người tín hữu, theo sự hướng dẫn của Chúa. Có vậy mới thoát khỏi cảnh tăm tối u mê như một căn bệnh mù loà trầm trọng.
Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin, “đức tin của con đã cứu con” nghĩa là gì? Là chính đức tin mà Chúa trao tặng cho anh để anh tuyên xưng trước mặt mọi người. Anh đã can đảm tuyên xưng đức tin ấy bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng cách nhảy chồm lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Cặp mắt đức tin của anh đã được bật sáng và anh đã nhìn thẳng vào đối tượng duy nhất là Đức Giêsu Nagiarét. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã thấy điều mà những người sáng không được thấy (“Con Vua Đavid”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần): “Anh liền xem thấy, rồi đi theo Người”.
Lạy Chúa, xin bật sáng niềm tin chúng con để chúng con nhìn ra Ngài đang hiện dịên với chúng con. Xin giúp chúng con biết can đảm tuyên xưng Ngài trong mọi tình huống của cuộc đời, để chúng con tiếp tục bước theo Chúa trên đường phục vụ hôm nay.
Nàng là một phụ nữ không bao giờ có thể thấy được một điều gì tốt đẹp nơi người khác. Bất kể ai làm điều gì tốt, nàng cũng tìm ra được một điều gì sai. Một người nào đó làm một việc tốt, nàng vẫn có thể tìm ra một nguyên do xấu xa. Nàng ưa câu nói; “Nó phải có ẩn ý& Nó rút ra được gì trong đó?” Nàng bắt lỗi mọi người. Nhiều người chúng ta ít nhiều có tật xấu như nàng. Nàng bất thường, để lấy lại niềm tin, nàng ý thức rằng cái tật “bới bèo ra bọ” làm nàng sợ hãi. Nàng đến bác sĩ tâm thần, nhưng ông chẳng gíup nàng được bao nhiêu.
Ngày kia, được nghe câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thực sự thức tỉnh nàng; nàng bị mù trước những cái tốt đẹp của người khác. Nàng can đảm nhìn sự thật và thay đổi nhãn quan với người khác.
Chúa Giêsu chữa người đui mù thể xác, để chứng tỏ rằng Người cũng có thể chữa bệnh đui mù thiêng liêng. Quả thật, bệnh đui mù tình thần và thiêng liêng còn tai hại hơn đui mù thể xác.
Loại đui mù thiêng liêng này lây nhiễm nhiều người trong chúng ta. Mỗi người chúng ta phải tự hỏi; “tôi có mù trước cái tốt của kẻ khác không?” Nếu có, chúng ta kêu cầu Chúa Kitô chữa chúng ta như người đui mù trong bài Tin Mừng.
Nơi tốt nhất để bắt đầu sữa chữa là ngay trong gia đình. Vợ bạn quên đính nút áo sơ mi, thay vì nghĩ đến sự thiếu sót này; trước hết bạn hãy nghĩ đến những việc tốt nàng đã làm trong ngày đó cho bạn và cho gia đình: Nấu ăn, giặt giũ, lau chùi, săn sóc con cái& Chồng bạn quên đổ thùng rác, không sao đâu, bạn hãy nghĩ đến chàng làm việc cả ngày cho bạn và các con.
Thanh niên nam nữ, bạn cần nghĩ đến những việc tốt cha mẹ đã làm cho bạn, hơn là những lần các ngài không cho phép bạn hoặc muốn bạn ở nhà.
Tập nghĩ đến cái tốt người khác làm, thay vì nghĩ đến lầm lỗi của họ, như trong trường giữa thày và trò, như cha sở và giáo dân, như các thành phần của hiệp hội, công nhân trong công đoàn. Ông chủ của bạn không thể hoàn toàn xấu, người công nhân không thể hoàn toàn vô dụng. Mở mắt ra để thấy cái tốt của người khác, nghĩ tới nó và nói về nó.
Nhìn cái tốt nơi người khác là một cách để yêu người. Tình yêu không tiêu cực. Tôi không thể yêu một ai bằng cách nói; “Tôi sẽ không bao giờ nghĩ tàn nhẫn về bạn, hoặc nói tàn nhẫn với bạn hay về bạn, hay: “Tôi không bao giờ làm điều gì tàn nhẫn cho bạn”. đó không phải là tình yêu. Tình yêu phải tích cực: “Tôi sẽ bỏ cách thức của tôi, tôi sẽ cố gắng đặc biệt để nghĩ, nói và hành động tử tế với bạn. “Hoa trái lớn của việc tìm cái hay cái tốt trong người khác là cảm giác hài lòng và hân hoan. Và chúng ta còn giữ được giới răn của Chúa Kitô bảo ta đừng xét đoán.
Để nhìn thấy cái tốt cái hay của người khác, chúng ta cần sức mạnh thiêng liêng, một thứ phép lạ. Chúa Kitô sẽ làm phép lạ cho bạn nếu bạn xin Người.
Tôi là Bar Timê, con ông Timê. Tôi ngồi bên vệ đường, con đường có lắm người qua kẻ lại. Họ đi tới đi lui. Nhưng phần đông họ đi tới, tiến về phía trước mặt, nơi tương lai đang chờ họ. Tôi mù lòa không thấy đường, nên chẳng thể nào lên đường tiến về đâu hết. Đời tôi vô vọng. Nhưng chẳng lẽ cứ ngồi mãi như thế này, suốt ngày, suốt đời? Tôi ngồi đây để đợi Ngài đi qua. Mấy ngày nay tôi nghe tin có một vị Ngôn sứ tới vùng này. Tôi không phân biệt được tiếng chân Ngài bước đi, nhưng tôi phân biệt được tiếng Ngài nói. Hình như Ngài đang tới. Trong muôn vàn tiếng người nói lao xao, tôi nhận ra giọng nói nghiêm trang của Ngài. Người ta thường bảo: Chim khôn hót tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Giọng nói trầm ấm dịu dàng ấy đích thực là tiếng vị Ngôn sứ thành Nagiarét. Tôi phải kêu cầu Ngài cứu tôi thoát khỏi cảnh tối tăm tù ngục này. Và thế là tôi la to lên. Có những giọng quát nạt. Mặc kệ họ. Tôi càng la to hơn. Và kìa, hình như Ngài đã nghe tiếng tôi. Ngài đã dừng lại. Có người cầm tay tôi, bảo: "Này anh, Ngài gọi anh đấy". Tôi sung sướng quá. Tôi quăng đại cái áo thường choàng để khỏi vướng bận, để lao nhanh đến gần Ngài. Tiếng Ngài dịu dàng quá. Và kìa, Ngài hỏi ý kiến tôi. Đây là lần đầu tiên trong đời, có người hỏi ý kiến, có người coi trọng tôi. Tiếng Ngài êm như gió thoảng: "Này anh bạn, anh muốn tôi làm gì cho anh?". Tôi không ngần ngại thưa ngay: "Thưa Thầy, Thầy cho con được thấy đường". Ngài nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh". Và tôi thấy đường đi. Thế giới bỗng tràn ngập vào mắt tôi. Cây chuối, cây cọ, cây chà là trên ốc đảo xanh tươi. Vách núi đá lởm chởm màu đỏ màu vàng. Đám đông áo quần muôn hồng nghìn tía đua chen. Ồ, tôi thích quá. Tôi mải mê nhìn ngắm. Đấng tiên tri còn đang bước đi chầm chậm, vừa đi vừa đàm đạo với đám đông. Ngài bảo tôi về nhà. Không, tôi không thể về nhà. Tôi thích được đi theo Ngài, hầu hạ bên Ngài suốt đời. Ngài đi tới đâu, tôi cũng theo Ngài tới đó. Từ Giêrikhô lên Giêrusalem. Con đường gập ghềnh gian khổ dẫn vào Thành thánh, nơi Ngài sẽ bị bắt, bị kết án, bị tử hình. Con đường của Bar Timê này cũng sẽ là con đường gập ghềnh gian khó. Lẽ nào trò lại hơn thầy được? Tôi bước đi trong tin tưởng, dưới ánh sáng Ngài soi dẫn. Nhưng cũng có thể con đường lòng tin của tôi bỗng dừng lại trong tăm tối. Bước theo Thầy Giêsu là như vậy, là chấp nhận rủi ro, là chấp nhận rằng mình chưa được thấy hết mọi chuyện và luôn ước ao được thấy nhiều hơn nữa. Con đường của người mù thành Giêrikhô, sau cùng, không còn là đi từ bóng tối ra ánh sáng nữa, vì Ngài đã cho tôi nhìn thấy ánh sáng kỳ diệu. Con đường lòng tin của tôi, cuối cùng, là đi từ cái thấy được đến cái không thể thấy, đi từ cõi hữu hình, tới cõi vô hình, nơi ánh sáng không còn hữu hạn nữa... Con đường của Bar Timê cũng là con đường của mỗi Kitô hữu, con đường của lòng tin.
Còn niềm vui nào sánh được với niềm vui của người mù được sáng ! Trên thế giới hiện có hoảng chừng trên 30 triệu người mù, riêng tại Mỹ có tới gần 1 triệu và giữa đồng bào Việt Nam chúng ta cũng có tới 120 ngàn người bị khiếm thị. Họ là những người đáng thương; số phận bất hạnh mù lòa của họ đem đến bao thiệt thòi và tủi thân. Và niềm ước mơ suốt đời của họ là mong có cơ may được sáng, nhưng càng mong họ càng như thất vọng.
Một số người mù tại Do-thái thời Chúa Giê-su, và cách riêng Bác-ti-mê người mù ăn xin bên vệ đường thành Giê-ri-khô mà Phúc Âm Mác-cô hôm nay ghi lại, đã gặp được cơ may ngàn năm một thuở: Ông được Chúa Giê-su cho sáng mắt. Một hôm, Bác-ti-mê, như thường lệ, vẫn ngồi ăn xin bên vệ đường. Mắt không thấy nhưng vẫn nghe động tĩnh xung quanh. Nghe biết Chúa Giê-su đi qua, anh lớn tiếng kêu xin Ngài. Bị người ta ngăn cản và dọa nạt bắt im tiếng nhưng anh không chịu bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, anh càng kêu to hơn nữa: “Hỡi Con Vua Đa-vít, xin thương xót tôi.” Và anh được Chúa Giê-su gọi đến. Mừng quá ! Bác-ti-mê đứng dậy, liệng cả áo choàng, lần mò đến được bên Chúa. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh. Anh đáp: “Lạy Ngài, xin cho con được sáng”, Chúa Giê-su đáp: “Được, Đức Tin của con đã chữa con.” Ngay lúc đó, anh ta thấy được và đi theo Ngài.
Thưa ông bà anh chị em, khuôn mặt đầu tiên con mắt anh mù được nhìn thấy, chính là Chúa Giê-su. Hai khuôn mặt, hai ánh mắt gặp nhau. Trong Cựu Ước, bao nhiêu người mong ước được nhìn thấy Thiên Chúa “mắt trong mắt” như vậy ( Is 52 ) mà chưa được, thì nay Thiên Chúa đã đáp lại lòng mong ước đó qua Chúa Giê-su, là hiện thân của Thiên Chúa: “Ai xem thấy Ta là xem thấy Cha Ta” và họ được vui mừng sung sướng biết chừng nào ! Họ nói: “Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con Một tự nơi Cha” như Phúc Âm Gio-an ( 1, 14 ) ghi lại.
Tuy nhiên, thưa ông bà anh chị em, có một điều đáng cho hết thảy chúng ta lưu ý hôm nay, ấy chính là Thánh sử Mác-cô không muốn chỉ tường thuật ở đây một phép lạ nhãn tiền Chúa đã làm, mà còn muốn đi xa hơn nữa; Ngài muốn ám chỉ việc Chúa đến để thắp sáng đời anh mù Bác-ti-mê bằng nhân Đức Tin. Cũng chính vì lý do này mà Chúa Giê-su đã phán với anh mù hôm nay: “Đức Tin của con đã cứu con”. Như vậy, muốn thấy Chúa, cần phải có nhân Đức Tin.
Đức Tin là ơn Chúa ban. Đức Tin mở mắt tâm hồn và lý trí chúng ta để ta nhìn thấy Chúa. Phúc Âm hôm nay gợi ý và chúng ta tự hỏi: thế giới hôm nay có trên 30 triệu người bất hạnh bị tật mù thể xác, vậy thì trong số 5 tỉ 500 triệu người còn sáng mắt sống trên trái đất hôm nay, có bao nhiêu người mù lòa thiêng liêng, mù lòa linh hồn ? Và chúng ta thắc mắc tự hỏi không biết những người này có biết rằng họ bất hạnh và khổ đau gấp bội lần những người lòa thể xác không ? Họ bất hạnh vì mù không nhận biết Thiên Chúa đã tạo dựng nên họ. Đời họ khổ đau vì không có ánh sáng Đức Tin soi dẫn trong cuộc sống để tìm về cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Trên con đường Đa-mát, Phao-lô đi lùng bắt Ki-tô hữu. Chúa hiện ra với Phao-lô. Ông ngã ngựa, đứng lên thì bị mù mắt cho đến khi vào thành Đa-mát, chịu phép Rửa Tội. “Một cái gì như những cái vẩy bong ra và Phao-lô được nhìn thấy.” ( Cv 9, 18 ). Đức Tin mở mắt tâm hồn Phao-lô từ đó, ông hăng say ra đi rao giảng Tin Mừng chữa lành của Đức Ki-tô cho những người còn chưa biết Chúa, những người còn trong bóng tối lầm lạc. Vì thế giáo hữu thời xưa gọi Phép Rửa Tội là “Phép Thắp Sáng”, vì từ đây, người ta nhìn thấy Chúa Ki-tô. Thánh I-nha-ti-ô thành An-ti-ô-khi-a nói: “Với Đức Tin, tôi được thấy và sờ đụng Ngài”.
Tất cả chúng ta đã được chịu Phép Rửa Tội, tức là đã được Chúa thắp sáng đời ta, vậy thì chúng ta phải làm gì ? Thưa, chúng ta phải bắt chước anh mù Bác-ti-mê. Phúc Âm nói rõ: Anh đã đi theo Chúa”, làm chứng cho quyền năng và tình thương của Chúa. Đó cũng là bổn phận của chúng ta sống theo Đức Tin và đi thắp sáng cuộc đời cho những anh em chung quanh.
Thánh Phan-xi-cô Xa-lê-di-ô có một Đức Tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài hằng rao giảng cho Giáo Dân vùng Chablais bên Thụy-sĩ đang bị ảnh hưởng nặng của phe Ly Giáo Calvin. Mỗi buổi tối, Ngài hay đến trước nhà tạm sốt sắng qùi cầu nguyện. Một hôm, đang say mê cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong Nhà Thờ. Tưởng là kẻ trộm, Ngài lên tiếng hỏi: “Ai ?” một bóng người lạ đi tới và nói: “Thưa Đức Giám Mục, con là người không có đạo, con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giê-su trong Phép Thánh Thể, nhưng con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào Nhà Thờ rình xem thái độ Đức Cha thế nào trong nhà thờ, trước Thánh Thể Chúa. Con thú thực đã nhìn thấy Đức Tin của Đức Giám Mục. Giờ đây, con tin thật: có Chúa Giê-su ngự trong Phép Thánh Thể”.
Thiết tưởng Đức Tin là nòng cốt đối với những người đi đạo, đối với những người muốn làm môn đệ Chúa Giê-su, và giả thiết mỗi người chúng ta đến cử hành Thánh Lễ hôm nay đều có Đức Tin. Tin Chúa hiện diện giữa chúng ta. Tin Chúa hiện diện trong lời Kinh Thánh – tức là lời của Chúa – mà chúng ta vừa nghe công bố và rao giảng. Tin Chúa sẽ ngự xuống trên bàn thờ này, nơi hình bánh rượu được truyền phép.
Thưa qúi ông bà anh chị em, Chúa Giê-su giờ nay đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài đang hỏi mỗi người chúng ta cùng một câu hỏi như xưa Người đã hỏi anh mù: “Con muốn ta làm gì cho con?” Chớ gì mỗi người chúng ta biết noi gương anh mù Bác-ti-mê nài xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta sáng con mắt Đức Tin, sáng tâm hồn để chúng ta nhận ra Chúa qua các dấu chỉ của thời đại, qua các biến cố xảy ra trong cuộc sống hằng ngày ( x. Mt 16, 1 – 4, 24, 32; Lc 12, 29 – 32 ), hay trong lúc chúng ta hội họp cầu nguyện (Mt 18, 19-20), đọc và suy niệm lời Chúa ( Lc 24, 25 – 27.30; Ga 5, 39.46 – 47; 14, 23 ). Chúng ta nài xin Chúa ban cho chúng ta con mắt Đức Tin để chúng ta tin nhận Chúa hiện diện trong Thánh Lễ, trong các Bí Tích, nhất là Bí Tích Giải tội và Thánh Thể ( Ga 6, 56 – 57; Lc 22, 17 – 20; Mt 18, 18 ) hoặc nhận ra Chúa qua các vị đại diện của Chúa trong Giáo Hội, qua Giáo Quyền ( Lc 10, 16; Dt 13, 17; Rm 13, 1 – 7 ).
Giống như anh mù Bác-ti-mê, chúng ta hãy nài xin Chúa cho chúng ta được sáng mắt tâm hồn, để chúng ta nhận diện ra được Chúa nơi tha nhân là hình ảnh của Chúa, cách riêng qua những người nghèo hèn, bé nhỏ, bệnh tật trong xã hội ( Mt 25, 40; Cv 8, 1 – 5 ). Một cách đặc biệt, hãy xin Chúa mở mắt ta để ta nhận ra chính tâm hồn ta là đền thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa ( 1 Cr 3, 16 – 17; 6, 19; Rm 12, 1 ). Chính vì ý thức được Chúa hiện diện trong cuộc sống ta mà mỗi hành vi hoạt động của ta được mang ý nghĩa làm tôn vinh Thiên Chúa nơi con người chúng ta, và thúc đẩy chúng ta sống cho Chúa mỗi ngày trong cuộc sống mình.
Một học giả vô thần hỏi một nông phu người Nga: “Bác tin có Thưọng Đế không ?” Bác nông phu trả lời: “Tôi tin có Thiên Chúa.” Học giả lại hỏi: “Tại sao bác tin ? Bác có thấy Thiên Chúa không ?” Bác trả lời: “Không, nhưng tôi cũng chưa thấy một người Nhật nào hết. Dầu vậy tôi cũng tin rằng có người Nhật, vì quân đội của chúng ta đã chống lại quân Nhật trong trận chiến vừa qua. Nếu không có Thiên Chúa tại sao các ông chống lại Ngài ?”
2. LÀM SAO KHÔNG TIN CÓ THIÊN CHÚA ĐƯỢC ?
Trong thế kỷ thứ 17, thuyết vô thần chưa được phát triển trong các cộng đồng Do-thái. Một người Do-thái đến nói với một Rabbi rằng: “Tôi không tin Thiên Chúa !”
Vị Rabbi ôm lấy người đồng hương, rồi nói: “Anh ơi, tôi muốn được như anh lắm. Anh ở trong một hoàn cảnh sướng hơn tôi. Khi gặp một người đang đau khổ, tôi tự nói: Thiên Chúa sẽ giúp đỡ người đó, nhưng tôi thì không giúp. Còn anh thì không tin Thiên Chúa hiện hữu, vậy anh phải giúp đỡ nhưng người đau khổ, vì không có Thiên Chúa thì ai giúp cho họ đây ? Anh phải làm những công việc của Thiên Chúa. Vậy anh nên cho người đói ăn, an ủi người buồn rầu, nói sự thật cho người, đem niềm vui cho người, anh hãy yêu thương tất cả và cư xử với mọi người như thể Thiên Chúa đã yêu thương. Một năm sau mình gặp nhau lại rồi tôi sẽ xin anh cho tôi biết có Thiên Chúa hay không nhé ?“
Con mắt là một ơn huệ Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Thật là bất hạnh nếu chúng ta bị mù từ khi mới sinh hay do một tai nạn, một cơn bệnh nào đó. Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy anh mù tại Giêricô, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã cố gắng làm cho Chúa Giêsu chú ý tới mình, vì anh ta đã được nghe nói rất nhiều về Ngài, Đấng đầy lòng thương xót, đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những nỗi khổ đau. Bởi đó, anh ta đã lớn tiếng kêu cầu:
- Lạy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con cùng.
Nếu Thiên Chúa ban cho cặp mắt sáng, chúng ta hãy cảm tạ Ngài. Nhưng điều quan trọng, đó là chúng ta đã sử dụng cặp mắt ấy như thế nào? Chúng ta có biết mở mắt ra để nhìn ngắm những cái khả dĩ nâng cao tâm hồn và làm đẹp cho cuộc đời chúng ta hay không ? Đồng thời chúng ta có biết nhắm mắt lại trước những cái khả dĩ làm cho tâm hồn chúng ta bị hoen ố hay không ?
Có một vị hoàng tử được vua cha ban tăng cho hai chú ngựa quí giá. Thế nhưng cả hai vẫn còn thuộc loại ngựa chứng, chưa biết vâng phục.
Khi vị hoàng tử tới gặp, thì chúng ta không chịu đứng yên một chỗ hay tiến đến với chủ của mình. Trái lại, chúng ta chạy chỗ này chỗ kia và thích phi nước đại trên những cánh đồng hoang. Nhưng rồi vị hoàng tử đã ra công tập luyện và dần dần chúng đã biết vâng phục. Chúng chỉ phi nước đại khi vị hoàng tử kéo dây cương và thủng thẳng đi từng bước một khi dây cương được buông lỏng.
Từ những chú ngựa cứng đầu, chúng đã trở nên những con ngựa ngoan hiền. Kể từ nay, chúng không còn chạy xiên bên nọ, chạy xọ bên kia. Nhưng chúng bước đi một cách đều đặn với tiếng hí reo vang.
Đây chỉ là một câu chuyện, thế nhưng từ đó chúng ta rút ra một điều thực hành. Vị hoàng tử chính là mỗi người chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa. Ngài cũng đã ban cho chúng ta một quà tặng quí giá hơn hai chú ngựa kia rất nhiều, đó là cặp mắt sáng.
Cũng như hai chú ngựa chứng, cặp mắt chúng ta luôn nhìn chỗ này và liếc chỗ nọ. Bởi đó, cần phải biết làm chủ và quản lý chặt chẽ cặp mắt của chúng ta. Chỉ nhìn những cái làm cho tâm hồn trở nên cao thương và xa tránh những gì làm cho tâm hồn bị vẩn đục.
Cặp mắt chính là của sổ của linh hồn. Cánh cửa được mở ra để đón nhận những làn gió mát và những tia nắng ấm, nhưng phải lập tức đóng lại khi trời mưa gió. Cũng thế, cặp mắt được mở ra để ghi nhận những cái hay, những cái đẹp để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống, nhưng chúng ta phải lập tức đóng lại trước những cái làm cho tâm hồn bị hoen ố. Vì thế, Thánh Kinh đã bảo:
- Tội lỗi đột nhập vào tâm hồn qua con mắt như qua một khung cửa.
Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Adong Eva. Trước hết hai ông bà đã nhìn ngắm trái cấm, rồi thầm mong được nếm thử. Và rồi những gì xảy ra, hẳn chúng ta đã biết: Hai ông bà đả ngắt trái cấm mà ăn và phản bội cùng Thiên Chúa.
Hãy canh phòng con mắt như canh phòng biên giới, đừng đễ cho kẻ thù đột nhập.
Để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại lời ông Gióp đã nói như sau:
- Tôi đã giao kết với cặp mắt của tôi là sẽ xa tránh những cái nhìn làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.
Nếu bây giờ có gìn giữ cái nhìn, thì tâm hồn chúng ta mới được sạch trong và mai ngày bản thân chúng ta mới được chiêm ngưỡng Chúa trong vinh quang muôn đời, bởi vì phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.
Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.
Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.
Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.
Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.
Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.
Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.
Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô. 2) Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh 3) Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa? 4) Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không? 5) Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?
Một kinh nghiệm thắm thiết của tôi là chứng kiến đức tin tinh tuyền và trong sáng của một con người. Niềm tin tưởng đạt đến một mục tiêu, dù táo bạo tới đâu đi nữa cũng sinh ra những hậu quả có vẻ lạ lùng. Niềm tin của một số người khuyết tật, mong muốn được giải phóng khỏi những gì giam hãm họ, niềm tin của những nghệ sĩ muốn sáng tạo được một tác phẩm, niềm tin của bao nhiêu người nam người nữ muốn dấn thân vào những sự nghiệp có vẻ tuyệt vọng là những giá trị nhân bản nâng đỡ và khích lệ con người trước mọi khó khăn.
Lớn hơn nữa, đáng phục hơn nữa là đức tin của một người đau khổ khốn cùng tìm đến với Thiên Chúa và van xin Ngài xót thương. Thiên Chúa xúc động vì sự tin tưởng của người ấy nên đã dịu dàng nói với anh ta: “Hãy về đi, đức tin của anh đã cứu anh”.
Tin và gặp gỡ Thiên Chúa.
Đức tin chính là mối tương quan mà Chúa mời gọi chúng ta nối kết với Ngài. Đây không phải là một đòi hỏi xa lạ. Tất cả những mối tương quan của chúng ta đều dựa trên lòng tin và sự tin tưởng: Cuộc sống hôn nhân, việc giáo dục con cái, những tình bạn, sự cộng tác trong công việc. Khi người ta không tin tưởng nhau nữa, thì những mối tương quan sẽ sụp đổ. Trái lại, sự tin tưởng lẫn nhau, sự tôn trọng và lòng kiên nhẫn giúp ta tạo lập những mối liên hệ vốn thuộc hàng những yếu tố tốt đẹp nhất và sáng tạo nhất của cuộc sống.
Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài không thiếu tin tưởng nơi chúng ta. Chính chúng ta mới là kẻ nghi ngờ và lo âu trước mặt Ngài: vì một vết nhơ tội lỗi cũ và tính kiêu ngạo nhỏ nhen của chúng ta.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta. Lời đáp trả nảy sinh chậm rãi trong lòng chúng ta. Lúc ban đầu chúng ta không biết, chúng ta không thấy, chúng ta không hiểu rõ. Chúng ta không biết Thiên Chúa muốn gì, tin nơi Ngài là gì? Phó thác cho Ngài là gì? Thế nào là cam kết vâng phục Ngài, đặt lời Ngài ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đặt trọn cuộc sống của chúng ta theo ý Ngài? Và lời hứa một mối tương quan hữu nghị cho ta được sống đời đời với Ngài là gì?
Người mù thành Giêricô biết tin tưởng
Bài đọc Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta chứng kiến đức tin của một con người như chúng ta. Đức tin không dễ đến với người ấy. Lúc ban đầu dường như đức tin khó khăn đối với anh ta hơn là đối với những kẻ khác, tật mù loà đã loại anh ra khỏi cộng đồng nhân loại và đã đẩy anh vào một nỗi cơ cực lớn. Không có gì là thuận lợi cho đức tin của anh. Xem ra anh ta hy vọng cách hão huyền khi xác tín về một phép lạ có thể xảy đến… Anh sống thực tế nên không tin được rằng người ta có thể làm cho một người mù trở nên sáng mắt.
Chúng ta phải ý thức một thực tại: đức tin được Thiên Chúa ban cho chúng ta chứ không phải nhờ những phương tiện của chúng ta mà đạt được. Ở đây, trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù này, Chúa Giêsu đã thu hút anh một cách nhiệm mầu: nhờ uy tín của danh hiệu “Con Vua Đavít” mà dư luận đã thổi vào tai anh. Anh mù này không thể đến với Chúa Giêsu. Điều mà anh không dám mơ tưởng trong lòng đã xảy ra. Chúa Giêsu tiến lại phía anh, và Ngài gọi anh. Ơn đức tin được ban cho anh và anh đáp lại bằng việc hiến dâng mình một cách trọn vẹn, một bước nhảy vọt hướng về Thiên Chúa. Lúc đó anh dám xin Chúa Giêsu điều không thể được. Nhìn thấy, nhìn thấy Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã ban cho anh do bởi lòng tin của anh.
Điều quan trọng trong cuộc gặp gỡ này không phải là phép lạ, Chúa Giêsu không nói với anh mù: “Đức tin của anh đã cho anh sáng mắt”, Ngài nói với anh: “Đức tin của anh đã cứu anh”, nghĩa là: vì anh đã tin nên giữa anh và tôi, có một mối liên hệ vững bền, mối liên hệ cứu độ, mối liên hệ của Giao ước mới.
Có quá đáng không khi nghĩ rằng, đối với một số tín hữu, đức tin là một gánh nặng? Tuy nhiên về phía Thiên Chúa ban đức tin cho chúng ta, nó là một ánh sáng, một sự giải thoát, một tình bạn với Ngài, một niềm cậy trông không thể thất vọng được. Tin là đón nhận Thiên Chúa trong đời mình với một niềm tin tưởng của trẻ thơ.
Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục...” Chúng ta lại hát tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.
Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm.
Có một câu chuyện kể như thế này:
Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.
Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ lâu.
Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời mình.
Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.
Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần. Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?
Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì?
Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như cái cột nhà.
Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh này rờ được ngay cái tai của nó.
Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con voi giống như cái gì.
Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột nhà”, như thế là rất phiến diện.
Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ... đã lên tiếng về con người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn.
Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích. Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất.
Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng, quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.
“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có thể dẫn đến tình trạng đó.
Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.
Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý.
Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ 2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường sống.
Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đền với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra TC là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường CGS đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.
Thông thường, trong mọi tổ chức của con người, đều có một vị lãnh đạo. Có khi vị lãnh đạo đó là do cả nhóm chọn ra, có khi là do cấp trên bổ nhiệm, hoặc có khi là do một áp lực nào đó. Chúng ta có lẽ mong ước mọi người đều được quyền dìu dắt lẫn nhau, tuy nhiên điều này hiếm khi xảy ra. Tôi nghĩ tội lỗi đã phá hủy các mối liên hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, bằng sự ngờ vực, tính cạnh tranh và nhiều thứ khác nữa.
Tin Mừng đối với người Kitô hữu chúng ta là một giải pháp cho nhu cầu của chúng ta được dẫn dắt trên đường thánh thiện. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một vị hướng dẫn vô phương trách cứ, đó là Chúa Thánh Thần. Khi chúng ta đã quyết tâm bước theo Chúa Giêsu thì việc đem ra thực hành quyết tâm đó, theo thánh Phaolô chính là để mình “được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần”. Cụm từ này nghĩa là gì ?
Trước hết, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự hướng dẫn phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải do thế tục hay xác thịt. Chính Chúa Thánh Thần có chức năng dẫn dắt chúng ta đến chân lý cứu độ. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận biết Cha là Thiên Chúa thật. Một khi chúng ta đã chấp nhận sự thật, chúng ta sẽ dễ dàng vâng theo thánh ý Người.
Thần khí làm cho chúng ta trở nên con cái và là người thừa kế của Thiên Chúa là một đề tài suy gẫm phong phú khôn lường. Bạn hãy nghĩ đến đặc quyền làm con cái của Thiên Chúa! Quyền làm con Thiên Chúa này đối nghịch với việc làm nô lệ cho tội lỗi.
Như vậy, mọi sự đều dẫn đến việc chúng ta có thật lòng tận hiến bản thân cho Thiên Chúa hay không, để đón nhận ơn làm con cái của Người. Nếu chúng ta hiểu rõ ân huệ làm con Thiên Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng để sống như những người con của Cha trên trời. Điều này có nghĩa là chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi, và mở lòng ra để đón nhận sự hướng dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đốt lửa yêu mến trong con. Xin dẫn đưa con vào sâu trong sự sống của Thiên Chúa.
Một người mù hết lòng tin tưởng kêu xin Chúa cứu chữa và Chúa đã cho anh được toại nguyện. Đó là một bài học, một gương sáng cho chúng ta trong việc cầu xin Chúa.
Tên anh mù là Batimê, ngày nào cũng vậy, anh ngồi bên lề đường ở cổng thành Giêricô để ăn xin mọi người qua lại. Nhưng hôm nay, không hiểu có chuyện gì mà ồn ào nhộn nhịp thế ? Anh hỏi và người cho anh ta biết có Đức Giêsu đi qua đây. Nghe nói đến Đức Giêsu mà từ lâu anh đã nghe đồn về lòng từ bi và những phép lạ Ngài làm. Đây là dịp may cho anh nên anh kêu xin với bất cứ giá nào: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Lời kêu xin này, chúng ta thấy có một điều đặc biệt, khác thường. Anh không chỉ thưa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa, anh tuyên xưng danh Chúa trước mặt mọi người, kể cả trước những người Pharisêu và kinh sư có mặt trong đám đông đó.
Trong Cựu ước, tước hiệu “con vua Đavít” là tước hiệu nói lên niềm hy vọng của dân Do Thái vào một vị cứu tinh sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ và đem lại vinh thắng cho đất nước. Trong Tân ước, tước hiệu này đã được sứ thần Gabrien nhắc tới khi truyền tin cho Đức Maria, đó cũng là lời dân chúng tung hô Chúa Giêsu khi Ngài khải hoàn vào Giêrusalem ngày lễ lá.
Ở đây, anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “con vua Đavít” nghĩa là anh nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế. Vì vậy lời cầu xin mang một tính chất khác, anh không xin Đức Giêsu như xin những người khác, những người chỉ có thể giúp cho anh một chút tiền, một chút của ăn để sống qua ngày. Lời cầu xin ấy chắc chắn là hoa trái của một niềm tin sâu xa trong lòng anh. Anh tin vì đã nghe người ta đồn thổi về một ông Giêsu đã làm những điều kỳ diệu, và niềm tin ấy còn đi xa hơn nữa: ông Giêsu lạ lùng ấy chính là Đấng Mêsia, là Đấng có khả năng cứu anh khỏi cảnh mù lòa, khỏi tình trạng bi đát, khốn khổ.
Chúa Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu xin của anh và Chúa biết được lòng tin của anh, nên Chúa không cấm anh nói ra tước hiệu của Ngài như những lần khác, vì lúc này cũng gần đến ngày Chúa chịu nạn, nên Chúa muốn chân nhận công khai tước hiệu đó, và Chúa đã thương anh thực sự bằng câu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Thế là anh được sáng mắt, xem thấy rõ mọi người và thấy rõ chính Chúa.
Bài học hữu ích cho chúng ta là lòng tin và lời cầu xin của người mù này. Chúng ta thấy anh tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và anh đặt hết lòng tin vào quyền năng của Chúa, chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp anh, nên anh kêu xin Chúa, anh gào to xin Chúa, khi mọi người bảo anh im đi, anh càng gào to hơn để Chúa nghe thấy. Chúa đã thương cứu chữa, cho anh được sáng mắt do lòng tin tưởng sâu xa của anh. Đây là một bài học quý giá cho chúng ta.
Thực vậy, Chúa đã ban cho chúng ta một bí quyết để được cứu giúp là tin tưởng cầu nguyện. Trước hết, chúng ta phải hết lòng tin tưởng vào Chúa. Chúng ta phải tin rằng: trên vạn nẻo đường của chúng ta, không phải chúng ta đi tìm kiếm Chúa cho bằng chính Chúa theo đuổi và tìm kiếm chúng ta. Và trong mọi biến cố cuộc sống, chúng ta phải tin rằng: lúc nào Chúa cũng có mặt: trong an vui hạnh phúc hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta để mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Ngay cả khi chúng ta muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi chúng ta. Kinh Thánh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha thứ, lúc nào cũng yêu thương. Như thế, lúc nào chúng ta cũng phải tin tưởng vào Chúa: trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa, trong thất bại khổ đau, chúng ta tin tưởng phó thác, và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Tóm lại, đức tin của chúng ta phải đơn sơ nhưng phải phó thác hoàn toàn như đứa trẻ đặt vào cha mẹ chúng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng tin tưởng cha mẹ chúng có thể làm tất cả những gì mà chúng yêu thích, ước mong, chúng ta cũng phải có đức tin như thế.
Rồi chúng ta thể hiện đức tin đó bằng cầu nguyện. Cầu nguyện có một sức mạnh có thể lay chuyển cánh tay vạn năng của Chúa, cầu nguyện là cơ hội để Chúa can thiệp vào hoàn cảnh của chúng ta, cầu nguyện thật và cầu nguyện đúng như Chúa dạy sẽ giúp chúng ta chạm vào bản tính toàn năng của Chúa. Nói tóm lại, tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của chúng ta sẽ được Chúa giải quyết qua lời cầu nguyện đầy tin tưởng và thực tâm của chúng ta.
Vậy tại sao có biết bao lần chúng ta cầu xin mà không được hay chưa được ? Chúng ta cần phân biệt: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa ban điều chúng ta xin”. Thiên Chúa có thể không cho điều chúng ta xin mà vẫn nghe lời chúng ta, bởi vì khi chúng ta cầu xin, Thiên Chúa có thể đáp ứng nhiều cách: hoặc ban chính điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Ngài ban một ơn khác, cũng có khi chúng ta không xin, nhưng Thiên Chúa nhìn xa, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới, cũng có thể chúng ta cầu xin hoài mà Chúa không cho hay chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm đức tin của chúng ta khi cầu xin. Vì vậy, trước hết và trên hết chúng ta hãy xác tín: Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn yêu thương chúng ta. Ngài có làm cho chúng ta được toại nguyện hay không, hoặc Ngài nhận lời cầu xin của chúng ta theo cách nào thì cũng đều là vì ích lợi cho linh hồn chúng ta mà thôi.
Tóm lại, Thiên Chúa là một người Cha đầy tình yêu thương. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài, Ngài luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta, với điều kiện chúng ta tin Ngài và xin Ngài. Vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống chúng ta hãy hết lòng tin tưởng và tha thiết cầu xin như người mù hôm nay, chúng ta sẽ thấy được quyền năng Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời chúng ta.
Có một chi tiết nhỏ qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay đã làm cho tôi phải suy nghĩ và muốn được đem ra để chia sẻ. Đó là đang khi chàng hành khất kêu van cùng Chúa Giêsu: Lạy Con Vua Đavid xin thương xót tôi, thì nhiều người đã quát mắng và bảo anh hãy im đi, hãy câm miệng lại. Những người này đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho anh tiến đến cùng Chúa Giêsu. Đáng lẽ họ phải nắm lấy tay anh mà dẫn tới Chúa, thì họ lại túm cổ, lôi anh ra xa Ngài. Chẳng có một ai ngoài chính Chúa Giêsu đã giúp đỡ anh mà thôi.
Thực vậy, khi nghe dân chúng quát mắng anh, thì Ngài đã dừng lại, truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ lúc đó, họ mới thay đổi thái độ. Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ con người bất hạnh kia.
Từ chi tiết nhỏ bé trên chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống, vì biết đâu, chính chúng ta đôi lúc cũng đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho Chúa đến với người khác, cũng như không cho người khác đến với Chúa. Vậy chúng ta đã trở nên một thứ rào cản như thế nào?
Tôi xin thưa: trước hết là bằng những ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, những lời nói thiếu ý thức gây sứt mẻ và những cử chỉ mang tính cách ghen tị. Thực vậy, đứng trước một thanh niên rượu chè cờ bạc hay trộm cắp, mà nay muốn làm lại cuộc đời của mình để trở nên tốt lành hơn, thì phản ứng tự nhiên của chúng ta là nghi ngờ cái thiện chí của anh ta. Từ sự nghi này, chúng ta thường có thái độ cảnh giác, đề phòng bằng cách không liên hệ với anh ta. Và nếu có liên hệ thì cũng dè chừng, mắt trước mắt sau. Cũng vì sự nghi ngờ ấy, chúng ta thường có những lời nói vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chẳng hạn: ngựa quen đường cũ. Người như nó mà bỏ được tật xấu này, tật xấu kia thì tôi chỉ bé bằng con kiến.
Tất cả những ý nghĩ, lời nói và thái độ như thế sẽ vùi dập mất chút thiện chí vừa mới lóe sáng trong tâm hồn người thanh niên, để rồi anh ta sẽ chẳng thể nào trở về cùng Chúa. Thay vì kéo anh ta đến với Chúa, thì chúng ta đã trở nên một thứ rào cản, thậm chí còn đẩy anh ta xa lìa Ngài. Hiện thời, đời sống và cách cư xử của chúng ta đã là một thứ rào cản, hay đã là một nhịp cầu, trên đó Chúa đến với những người anh em chúng ta, cũng như trên đó họ sẽ đến cùng Chúa.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể trở nên một thứ rào cản bằng chính cuộc sống bê bối của chúng ta. Thực vậy, có những anh em lương dân đầy thiện chí, muốn tìm hiểu Kitô giáo cũng như sứ điệp Tin mừng, thế nhưng thiện chí này đã bị khựng lại khi họ nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta.
Thực vậy, khi nhìn vào đời sống, họ thấy chúng ta cũng gian tham và bất công, cũng độc ác và hà hiếp, cũng giận hờn và thù oán, cũng vợ nọ con kia, lem nhem trong lãnh vực tình cảm… để rồi có lúc họ đã phải thốt lên: Tôi tưởng người Kitô hữu tốt lành như thế nào. Không ngờ họ còn thua cả những người cộng sản, những người Hòa hảo, những người Cao đài.
Đáng lẽ ra đời sống của chúng ta phải là một bài giảng hùng hồn, có sức thuyết phục cuốn hút họ về với Đức Kitô, thì do những bê bối, đời sống của chúng ta đã trở thành một thứ thuốc nổ, phá hủy chút thiện chí còn đọng lại nơi họ, hay là đã trở thành một thứ rào cản không cho họ tiến đến cùng Chúa.
Tại Việt Nam, trong một giáo xứ nọ, có một bà người ta quen gọi tên là "Con Mẹ Mướp". Bà ta dữ như "sư tử hà đông" hay còn được ví như một "bà chằng". Tại sao vậy? Là vì bất cứ ai làm gì bà cũng chê, cũng tìm đủ lý lẽ để bắt bẻ, để hạch xách; ngay cả chồng bà, bà cũng không kính nể; con cái, cháu chắt trong nhà, bà cũng luôn miệng la mắng, khiến trong gia đình lúc nào cũng luôn cảm thấy một bầu không khí căng thẳng, nghẹt thở. Gia đình mất hẳn tình thương yêu đầm ấm thuận hòa. Vợ chồng thiếu tình yêu đương âu yếm tôn trọng nể vì nhau; cha mẹ luôn càu nhàu cãi cọ nhau, la rầy mắng nhiếc nhau; làm nên gương xấu, khiến con cái mất lòng hiếu thảo, tôn kính phải có đối với bậc sinh thành ra mình.
Cuối cùng, bà ta cũng bất mãn cả với chính mình và trở thành con người bất bình thường; luôn nổi cơn cáu kỉnh, làm cho mọi người phải chán ghét xa tránh bà, khiến bà trở nên cô độc, gia đình bà trở thành như một hoang đảo, không ai thèm lai vãng thăm hỏi.
Vì cảm thấy mình bị lẻ loi và bị mọi người chán ghét, cũng giật mình; bà đi tìm một bác sĩ phân tâm để chữa cái bệnh "cáu kỉnh" cho bà. Nhưng ông bác sĩ cũng phải bó tay hàng phục, chẳng sao chữa trị cho bà được.
I. ĐỨC TIN CỦA CON ĐÃ CHỮA CON
Một buổi sáng Chúa Nhật, bà có tên là "Con Mẹ Mướp" đi dự lễ và nghe bài Tin Mừng tường thuật câu truyện Chúa chữa người mù từ mới sinh mà chúng ta vừa nghe. Câu truyện đó làm cho bà bừng tỉnh và xúc động khác thường, khiến bà rưng rưng giọt lệ, tự cảm thấy mình cũng bị mù lòa, không nhìn ra được cái hay cái tốt, cái ưu điểm nơi tha nhân. Thế rồi, được ơn Chúa đánh động, bà quyết tâm sửa đổi thái độ và nhờ ơn Chúa trợ giúp bà đã thành công. Bà đã trở nên một người đàn bà thùy mị, vui vẻ, lạc quan và dễ thương với hết mọi người. Gia đình bà đã trở nên một tổ ấm yêu đương, thuận hòa, hạnh phúc, đến nỗi khiến mọi người phải thán phục, khen ngợi, kính nể và coi đó như một mẫu gương phải noi theo bắt chước.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã làm phép lạ chữa anh chàng bị mù từ mới sinh, bởi anh đã đặt niềm tin vững mạnh nơi Chúa, như chính lời Chúa đã phán với anh: "Đức tin của con đã chữa con". Chính vì Đức Tin đó, mà không những Chúa đã chữa anh khỏi bệnh mù lòa phần xác mà còn chữa anh khỏi cả bệnh mù lòa phần linh hồn, là cho anh được ơn nhận biết Chúa, hiến thân theo Chúa để suốt đời phụng sự và yêu mến Người.
II. BỆNH MÙ CỦA NGƯỜI THỜI NAY
Giữa một thế giới văn minh khoa học tiến bộ ngày nay mà vẫn còn nhiều người mắc chứng bệnh mù lòa, không sao nhận ra ánh sáng, họ phải mò mẫm trong bóng tối; không thưởng thức được những vẻ đẹp của thiên nhiên, những cảnh uy hùng của vũ trụ, những kỳ công kiệt tác của Đấng Tạo Hóa... Đó chính là cái bệnh mù lòa tinh thần. Bệnh mù lòa phần xác dù có cực khổ thế nào đi nữa, cũng chưa thấm vào đâu với nỗi khổ của cái bệnh mù lòa tinh thần. Biết bao nhà thông thái, biết bao triết gia, khoa học gia, chính trị gia là những kẻ tự hào cho mình là thông thái khi đề ra những triết thuyết làm lẽ sống cho con người; đã sáng nghĩ ra được máy móc tối tân để chinh phục không gian, để canh tân đời sống; đã chế tạo ra được những khí giới tối tân để tác oai tác quái nhằm tiêu diệt đối phương, đe dọa sự sống còn của các dân tộc.
Khi chữa cái bệnh mù phần xác cho anh chàng mù từ mới sinh trong Tin Mừng, Chúa cũng muốn cứu chữa cái bệnh mù lòa tâm hồn cho con người, để họ được diễm phúc nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa hầu được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, là thứ hạnh phúc con người phải khát khao và nỗ lực tìm kiếm.
III. XIN CHO CON ĐƯỢC XEM THẤY
Với niềm tin tưởng, chúng ta hãy khiêm tốn chân nhận sự mù lòa, sự nghèo nàn, hữu hạn thiếu thốn của mình và tha thiết nài xin Chúa cho chúng ta được ơn xem thấy, để chúng ta biết:
Nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhận ra Chúa nơi anh chị em chúng ta, nhận ra những điểm hay điểm tốt nơi tha nhân, để biết tôn trọng kính nể họ. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác của Người, để chúng ta biết dâng lời chúc tụng ca ngợi Đấng Tạo Hóa muôn loài. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa, để chúng ta biết tôn kính, vâng phục, hiếu thảo với các vị theo thánh ý Chúa.
Nhất là xin cho chúng ta biết chân nhận thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; biết nhìn nhận ra những ơn phúc do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa, biết tôn thờ, phụng sự và hết lòng kính mến Chúa, xứng với nghĩa vụ là một tôi trung, con thảo của Người.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta được ơn nhận ra Chúa luôn luôn, nhận ra Chúa nơi mọi người, nhận ra Chúa nơi mọi thụ tạo, nhận ra Chúa nơi mọi hoàn cảnh của cuộc sống, trong mọi biến cố Chúa để xảy đến dù may hay rủi, dù xuôi thuận hay bất trắc; nhận ra Chúa nơi mọi kỳ công Người sáng tạo bằng một Đức Tin sống động và kiên vững, để luôn hết lòng thuần phục Chúa trong mọi sự, bằng một tình con thảo hằng biết yêu mến làm hài lòng Cha.
Một anh mù đi thăm một người bạn. Vì đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên tâm sự mãi quên cả thời gian. Khi màn đêm buông xuống, anh mù mới cáo từ ra về. Người bạn lên tiếng bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, vì trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn chế diễu mình nên trả lời: “Anh muốn đùa hay sao? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Người bạn vội vàng xin lỗi và nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn trên tay để người ta thấy sáng mà không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải anh, làm anh ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh mù lồm cồm ngồi dậy và chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm đèn sáng như thế mà không thấy sao?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt từ lúc nào mà mày không biết, còn chửi người ta”.
***
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến một người mù. Anh thấy nhiều cái mà người khác không thấy. Anh thấy Đức Giêsu là Con Vua Đavít là Đấng Messia, là Đấng Kitô Cứu Thế (Mc.10:47). Anh thấy quyền năng của Đức Giêsu có thể giúp đỡ anh một cái gì khác hơn là vật chất, tiền bạc. Anh thấy tình trạng khốn khổ mù lòa của mình. Anh mù thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy.
Tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (Mc.10:51) là một tiếng kêu của lòng tin. Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng. Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu. Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa. Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng vướng víu, nhẩy cẫng lên mà đến với Ðức Giêsu. Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra con mắt tâm hồn của anh đã sáng rồi. Lời cầu của anh được Đức Giêsu đáp ứng: “Lòng tin của anh cứu chữa anh”. (Mc.10:52)
Khi được khỏi mù lòa, lòng tin của anh thêm vững mạnh. Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng. Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu. (Mc.10:52) vì Ngài chính là ánh sáng cho đời anh. Ngài sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.
Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy đi vào lòng mình để nhận ra những bóng tối đã che phủ đời ta. Ta có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời ta không? Chắc hẳn đời sống của tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin tưởng vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa hết lòng. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.
***
Lạy Chúa! Như người mù ngồi bên vệ đường, xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy:
Cho con được thấy bản thân của con với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy. Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con, cho ánh sáng Chúa chiếu soi vào bóng tối của đời con.
Xin mở mắt con, để con biết nhìn ngắm những cảnh đẹp thiên nhiên, những kỳ công do tay Chúa tạo dựng trong vũ trụ, trời đất, vạn vật
Xin mở mắt con, để con thấy những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật quanh con, để con biết yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ.
Xin mở mắt con, để con thấy cái tốt nơi người khác, thấy những việc tốt lành anh em đã làm cho con trong cuộc sống hôm nay.
Xin cho cuộc đời của con luôn phản chiếu ánh sáng của Chúa, vì Chúa là Sự Sáng, là Tình Yêu, là Chân Lý và là Sự Sống đời đời của con. Amen.
Giêricô ở phía đông Giêrusalem, không xa sông Hòa Giang bao nhiêu và hưởng một khí hậu nóng. Mặt khác, nhờ có những công trình thủy lợi tốt, nên mùa xuân ở đây thật đẹp, hoa lá tốt tươi. Chúa rời thành phố đi về Giêrusalem. Đám đông có lẽ gồm những kẻ rỗi rãi từ các nơi về đây tránh rét, xúm lại theo vị Thày được mọi người nói đến. Lúc đó một người ăn xin mù kêu lớn về phía Chúa. Thánh chép sử Marco cho ta biết người ấy tên là Bartimê, con ông Timê, có lẽ sau này trở thành Kitô hữu và được cộng đồng giáo hữu quen biết.
Người mù kêu lớn, gọi Chúa là Con Đavít. Có lẽ người ấy bộc lộ qua tiếng gọi đó, một dư luận mà đám đông chỉ ngấm ngầm cảm thấy mà không nói ra, dư luận rằng: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Người ta không muốn cho người mù làm rộng, họ muốn bịt miệng người ấy, trước hết vì lẽ những tiếng kiêu của anh làm họ khó chịu, lẽ thứ hai là có thể danh xưng anh dùng để kêu gọi Chúa dễ gây nhiều rắc rối. Phần anh chỉ biết ao ước được chữa khỏi, anh chẳng ngại gì nói lên lòng tin (hay bước đầu tin) của mình. Chúa chữa anh khỏi, chúng ta ghi lại hai điều:
1) Dừng lại, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy đến.
Người ta có thể nghĩ rằng Chúa sai các môn đệ gọi. Ta để ý ba giai đoạn trong quá trình đầu của sự việc người mù gặp Chúa. Biết Chúa ở đó, anh kêu lên để gọi Chúa. Đó là tiếng con người kêu lên với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu sai môn đệ chuyền đạt lời gọi của Người. Đức Kitô nói với nhân loại qua trung gian Giáo Hội của Người. Như vậy, giáo hội ngày nay là ai? Là chúng ta. Hai câu hỏi: chúng ta có quan tâm đừng bao giờ làm cái đập ngăn chận những tiếng kêu của người nghèo, họ la lớn về một phía Đấng họ cảm thấy không xa họ, tuy không nhìn thấy Người? Chúng ta có lo lắng kêu gọi người nghèo, người bệnh, người tội lỗi và dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất là Đức Giêsu Kitô không? Lời Đức Kitô kêu gọi thế giới vang dội xuyên qua Giáo Hội. Mối bận tâm của chúng ta phải hướng về đâu. Phải chăng chúng ta chỉ lo tranh luận dai dẳng về bản chất Giáo Hội và sự điều hành “định chế”? Giả sử số đông Kitô hữu, gồm cả cấp hữu trách trong Giáo Hội, có mối quan tâm hàng đầu là làm môn đệ Đức Kitô sống động và kêu gọi người ta đến gặp Chúa. Nếu vậy, những Kitô hữu ấy có bị tràn ngập dưới những vấn đề không? Về điểm này, hiến chế Ánh sáng muôn dân của Công đồng Vaticanô II, soi sáng chúng ta.
2) ‘Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?
Câu hỏi của Chúa có thể bị xem là một câu hỏi dị thường. Chúa biết rất rõ người mù chờ đợi sự gì ở Chúa, anh chờ Chúa chữa anh được sáng mắt. Kẻ tật nguyền đó đã kêu lên xin Người thương xót. Phía sau tiếng kêu của anh, là niềm cậy trông vào một quyền lực siêu phàm có thể chữa được anh. Chúa muốn anh đối thoại với Người. Chúa muốn thử nghiệm một lòng tin phôi phai và hướng dẫn lòng tin ấy đi quá hy vọng một sự chữa lành tức thì, để tiến đến mọi sự liên hệ trực tiếp với Chúa. Kẻ mù, với tư thế một con người, trả lời Đức Giêsu như thể trả lời Đấng Cứu Thế. Chúa không chữa khỏi một tật bệnh, Chúa chữa khỏi một kẻ tật nguyền trong tâm hồn kẻ ấy, ơn thiên phú của đức tin đã vào sâu và được nghênh đón. Hãy đi lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Người ấy có thể trở nên một trong những môn đệ trung kiên đã gắn bó theo Chúa không? Có lẽ là thế. Một điều đáng nhớ: Chúa Giêsu không chữa lành tội của tôi, Chúa chữa lành tôi, một kẻ tội lỗi, bởi vì tôi đã hiến dâng Chúa niềm tin của tôi.
Nhìn thấy là một khả năng tuyệt diệu. Một đứa trẻ được giải thoát khỏi bóng tối, nơi thế giới nhỏ xíu của nó trong dạ mẹ, đã chăm chú nhìn vào mảnh đất huy hoàng. Cậu bé sẽ nhìn vào gương mặt mà một ngày kia sẽ nhận biết là người cha, người mẹ của cậu, hai người đã cho cậu sự sống, nuôi dưỡng và yêu thương cậu.
Qua ánh nhìn chúng ta ý thức hơn với thế giới ở chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể thấy những thực tại ngoài chúng ta. Chúng ta dùng động từ “thấy” không chỉ để chỉ sức mạnh của việc nhìn xem, mà còn diễn tả một sự nhận thức là một công việc của tâm trí. Khi một người nào yêu cầu chúng ta một điều gì, chúng ta hiểu cái quan điểm mà người đó muốn thực hiện và chúng ta trả lời bằng cách “chúng tôi hiểu điều gì mà anh muốn nói”. Người ăn xin mù trong bài Phúc Âm ngày hôm nay đã giới thiệu với chúng ta và giống như ông ta, chúng ta cũng không thể thấy được những sự thiêng liêng và điều đó phát xuất từ đặc ân đức tin. Qua phép rửa chúng ta được nhận lãnh sự thông dự vào sự giàu có phong phú và qua đức tin chúng ta được vui hưởng những đặc ân của việc nhìn thấy.
Bây giờ, chúng ta nhìn ra thế giới chung quanh chúng ta và nhìn xem nó với những ý nghĩa thật sự của nó. Chúng ta có thể nghe những người bi quan nhìn một cái ly và nhìn xem nó như là một nửa của sự trống rỗng và những người lạc quan thì nhìn cùng cái ly đó và thấy đó như là một nửa đã đầy. Một con người đức tin nhìn cái ly nước đó và nói: “Cám ơn Chúa”. Con người hiểu biết nước là một đặc ân lớn lao của Thiên Chúa, đặc ân này không chỉ là cần thiết để duy trì sự sống của con người, nhưng còn có nghĩa là Thiên Chúa cho chúng ta thông dự vào đời sống của Người qua phép rửa.
Chúng ta có thể thấy cha mẹ của chúng ta với tình yêu sâu xa dành cho đứa con, khi đứa trẻ nhìn vào gương mặt của cha mẹ nó. Xuyên qua đức tin chúng ta có thể nhìn thấy tình phụ tử đã giới thiệu chân lý là tất cả mọi sự trong đời sống đến với chúng ta đều phát xuất từ Thiên Chúa Cha. Chúng ta có thể thấy những đứa trẻ thật đáng yêu bởi vẻ đẹp và sự đơn sơ của chúng. Đức tin dẫn chúng ta xuyên thấu những đứa trẻ để thấy chân lý này. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta là những đứa con quý giá của Người trong Đức Kitô.
Sau khi đã chữa lành người đàn ông mù, Người nói với ông: “Hãy về nhà”, người đàn ông đã nhìn chăm chú vào Chúa một lúc và tự nghĩ: “Tôi sẽ đi đâu chứ, nếu không phải là nơi mà Chúa dẫn tôi đi”. Thánh Marcô tiếp đó đã nói với chúng ta: “Ông ta đã nhìn và lên đường đi theo Chúa Giêsu”. Nhưng chúng ta không biết những gì ông ta đã hiểu. Có phải ông ta theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn tới Giêrusalem nơi mà Chúa Giêsu chịu đóng đinh? Có phải ông ta đã trung thành đứng dưới chân thập giá với Mẹ Maria, với những người đàn bà khác hoặc với môn đệ Chúa yêu không? Thánh Marcô đã không nói với chúng ta những điều đó. Có lẽ thánh nhân muốn cho chúng ta thấy rằng chính chúng ta trong con người của người đàn ông đó đã bị mù, và để trả lời những câu hỏi bằng cách chúng ta sống.
Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta theo Đức Kitô tiến lên đồi Calvariô vì trong Thánh Lễ chúng ta ý thức mình đứng dưới chân thánh giá, thông dự vào hy tế của Đức Kitô. Thánh Lễ là một lời mời gọi chúng ta dâng hiến chính mình với Đức Kitô, tư tế tối cao của chúng ta, cho Cha trên trời để nài xin cho chúng ta được sống xứng đáng với đức tin Kitô giáo và chúng ta được trung thành và trung tín với Đức Kitô của Người cho đến chết.
Ngày hôm nay chúng ta có thể hỏi: “Chúng con sẽ đi đâu và chúng con sẽ nhìn vào ai?” Chúng ta có thể từ bỏ Đức Kitô, Đấng đã ban cho chúng ta đặc ân đức tin, Đấng đã làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và là Đấng đã hứa cho chúng ta sự sống đời đời thế nào được? Khi chúng ta đạt được Nước Trời, chúng ta sẽ vui hưởng cái nhìn ân phúc của Thiên Chúa. Đức tin chuyển đổi ánh nhìn và chúng ta sẽ nói: “Bây giờ tôi đã thấy ý nghĩa của tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta”.
Một người đi trong đêm tối, tay cầm chiếc lồng đèn. Một khách qua đường chặn ông lại và hỏi:
- Anh cầm chiếc lồng đèn để làm gì, bởi vì nghĩ cho cùng, anh mù mà!
- Để cho kẻ khác thấy tôi và không đụng vào tôi.
Người mù trả lời và tiếp tục đi. Một ngọn gió nhẹ thổi qua, rồi anh bị một người đi đường khác đụng mạnh té lăn trên đường. Người mù bực mạnh la lớn:
- Anh không nhìn thầy đèn của tôi sao?
- Nhưng thưa ông, chiếc đèn của ông bạn đã bị tắt rồi mà!
Anh bèn thắp lại đèn và tiếp tục đi. Lần này, anh giữ đèn cẩn thận để khỏi bị gió thổi tắt. Đi được một quãng anh lại bị đụng ngã. Anh liền phản ứng quyết liệt:
- Anh không thấy ngọn đèn của tôi cháy sáng bay sao?
- Xin lỗi ông, tội nghiệp cho tôi, vì tôi bị mù…
Thưa anh chị em,
Người mù đã làm hết cách, nhưng vẫn không thể làm sáng mình, anh vẫn lẩn quẩn trong thế giới mù loà. Chúng ta chỉ dựa vào mình, thì chúng ta cũng chỉ lẩn quẩn trong giới hạn của mình, ngay khi cả chúng ta tự hào về những văn minh tiến bộ, thì coi chừng đó cũng chỉ là anh mù cầm đèn sáng mà nghĩ rằng mình thấy đường. Chỉ có Chúa mới là Đấng mở mắt cho chúng ta được thấy.
Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng thật ra mình không thấy nhiều cái lắm “có mắt mà như mù”. Và mù trên tất cả là không thấy mình đang sống như người mù: sống mà không biết tại sao mình sống? Mình sống để làm gì? Cuộc sống này sẽ đi về đâu?...
Còn anh mù trong Tin Mừng hôm nay lại khác. Anh thấy nhiều cái mà người khác không thấy. Anh thấy Đức Giêsu là Con Vua Đavít, là Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô Cứu Thế. Anh thấy quyền năng của Đức Giêsu có thể giúp đỡ anh một cái gì khác hơn là vật chất, tiền bạc. Anh thấy tình trạng khốn khổ của mình. Vì thế, có một sự trái ngược, anh mù thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy. Và tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” là một tiếng kêu của lòng tin. Lời cầu của anh được Đức Giêsu đáp ứng. “Lòng tin của anh cứu chữa anh”. Chúa Giêsu mời gọi anh không những đến với Ngài mà còn đi theo Ngài.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện: Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận thù xã hội. Mẹ nói: “Ngày tôi đến thăm, người đàn ông ấy đã không bao giờ muốn ra khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy, rồi cùng dìu anh bước ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được: Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: “Tôi thấy!” Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thực sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức lực còn lại, anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với trời cao, với tất cả mọi người như sau: “Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy rồi!”.
Thưa anh chị em,
Có những người tự giam mình trong bóng tối, và có những người bị giam hãm vào bóng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Nếu chúng ta không sống làm chứng tá cho Tin Mừng, chúng ta khước từ giúp đỡ người xấu số, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, chúng ta cũng tự giam hãm mình vào bóng tối hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi họ là ánh sáng thế gian. Trong Kinh Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã cầu “xin cho các môn đệ Đức Kitô được toả sáng, nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức”. Ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, ánh sáng ấy trở thành tăm tối. Hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành. Đó chính là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi ở chúng ta và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên và tỏa lan.
“Lạy Chúa, xin cho con được thấy”.
Xin mở mắt con, để con biết nhìn ngắm những cảnh đẹp thiên nhiên, những kỳ công do tay Chúa tạo dựng trong vũ trụ, trời đất, vạn vật…
Xin mở mắt con, để con thấy những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật quanh con, để con biết yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ.
Xin mở mắt con, để con thấy cái tốt nơi người khác, những việc tốt anh em đã làm cho con trong cuộc sống hàng ngày.
Xin cho con phản chiếu ánh sáng của Chúa trong cuộc đời con, vì Chúa là Sự Sáng, là Tình Yêu, là Chân Lý và là Sự Sống. Amen.
Với Chúa Giêsu, điểm cuối cùng là chặng đường không còn bao xa nữa. Giêricô chỉ cách Giêrusalem 15 dặm, chúng ta phải cố gắng hình dung lại quang cảnh này. Con đường chính chạy xuyên qua Giêricô. Chúa Giêsu đang trên đường đi dự lễ Vượt Qua. Khi có một Rabbi được trọng vọng thực hiện một hành trình như vậy, thường thường vị ấy vừa đi, vừa thuyết giảng cho một đám đông người vây quanh, gồm dân chúng, các môn đệ và những người muốn học hỏi đi theo để nghe. Đây là một trong nhiều cách dạy dỗ thông thường nhất. Theo luật, tất cả những người Do Thái thuộc phái nam trên 12 tuổi, ở cách Giêrusalem trong vòng 15 dặm, đều phải lên Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua. Dĩ nhiên điều luật này khó có thể tuân hành trọn vẹn và tất cả mọi người đều đổ về Giêrusalem. Số người không thể đi được thường có thói quen đứng dọc dài theo hai bên đường của các thị trấn hay làng mạc để chúc bình an cho khách hành hương đi qua đó. Vậy, bấy giờ chắc phải có nhiều người đứng dọc theo các đường phố Giêricô, có lẽ đông hơn thường lệ nữa, họ rất nôn nóng, hiếu kỳ, muốn xem mặt chàng thanh niên vùng Galilê đã có can đảm đứng lên chống lại sức mạnh tổng hợp của chính thống giáo. Giêricô có một đặc thù. Có trên 20.000 thầy tư tế và một con số đông tương đương người Lêvi trực thuộc Đền Thờ. Họ không thể cùng phục vụ một lúc trong Đền Thờ. Do đó, họ được chia làm 26 phiên ban thay nhau phục vụ. Nhiều thầy tư tế và người Lêvi trong số này thường trú tại Giêricô khi chưa đến phiên phục vụ trong Đền Thờ. Hôm ấy, trong đám đông tại Giêricô hẳn cũng có nhiều người trong số họ. Vào dịp lễ Vượt Qua tất cả những người này đều có mặt phục vụ tại Đền Thờ. Đây là một cơ hội hiếm hoi mà mọi người đều có công tác. Nhưng nhiều người vẫn chưa vội khởi hành. Họ còn nóng lòng gấp đôi dân chúng, mong được trông thấy tận mắt kẻ phản loạn sắp xâm chiếm Giêrusalem. Cho nên hôm ấy, có lẽ trong đám đông đang có nhiề con mắt lãnh đạm, thù địch chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, vì rõ ràng nếu Chúa Giêsu đúng, toàn thể việc thờ phượng trong Đền Thờ trở thành lỗi thời.
Ở cửa phía Bắc thành phố có một người ăn mày mù tên là Batimê. Anh ta nghe nhiều tiếng chân người đi, nên dò hỏi xem có chuyện gì xảy ra, và ai sắp đi ngang qua. Người ta bảo đó là Chúa Giêsu. Lập tức anh ta đứng dậy kêu to lên để khiến Chúa Giêsu phải chú ý đến mình. Với số đông người đang đi theo Chúa Giêsu để lắng nghe những giáo huấn của Ngài, thì tiếng hét to đó là một xúc phạm. Họ cố làm cho Batimê phải im tiếng, nhưng đã không ai lấy được của anh ta cái cơ may duy nhất có thể thoát khỏi thế giới tối tăm, nên anh ta cứ hét thật to đến nỗi đoàn người đông đảo đó phải dừng lại và người ta dẫn anh ta đến với Chúa Giêsu. Đây là câu chuyện có rất nhiều điểm soi sáng, qua đó, chúng ta sẽ thấy được nhiều điều có thể gọi là những điều kiện để một phép lạ có thể xảy ra.
1/ Có sự kiên trì triệt để của Batimê.
Không có gì ngăn cản được tiếng kêu gào của anh ta mong được đối diện với Chúa Giêsu. Anh quyết tâm phải gặp cho bằng được con người mà từ lâu anh trông mong được gặp mặt với tình trạng tật nguyền của mình. Trong trí Batimê ước muốn nhìn thấy Chúa Giêsu không phải là một sự mơ hồ, hoặc do cảm xúc. Đây là một ước muốn thiết tha và chính ước vọng tha thiết đó đã khiến cho mọi sự được thành.
2/ Anh ta đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu ngay tức khắc, hết sức sốt sắng, sốt sắng đến nỗi anh ta đã vứt đi chiếc áo ngoài để chạy đến với Chúa Giêsu cho nhanh hơn.
Nhiều người khi được nghe tiếng gọi đã thực sự tự nhủ “Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Batimê nghe tiếng gọi, anh lập tức chạy đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xảy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Batimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một vài điều sai quấy, muốn hiến thân cho Chúa Giêsu trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta cũng không chịu hành động ngay, rồi dịp may qua đi và chẳng bao giờ trở lại.
3/ Anh biết đúng nhu cầu của mình đang cần được sáng mắt.
Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu chỉ là sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ cái răng đang đau chứ không chữa bất kỳ cái răng nào. Giữa chúng ta với Chúa Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà rất ít người muốn đối diện: tự xét mình. Khi đến với Chúa Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Batimê, sẽ có chuyện lại xảy ra.
4/ Batimê có một quan niệm hết sức thiếu sót về Chúa Giêsu.
Anh ta cứ nằng nặc gọi Ngài là con vua Đavít. Thật vậy, đó là danh hiệu của Đấng Mêsia, nhưng cả tư tưởng đó nói lên một Đấng Mêsia chinh phục thế gian, một vua thuộc dòng dõi Đavít sẽ đưa dân Israel đến chỗ vĩ đại của dân tộc. Đó quả là một ý niệm hết sức khiếm khuyết về Chúa Giêsu. Dầu vậy, Batimê vốn có đức tin ấy đã hàn gắn cho khuyết điểm về thần học của anh. Điều đòi hỏi không phải là chúng ta phải hiểu biết đầy đủ về Chúa Giêsu. Dầu thế nào chúng ta sẽ chẳng bao giờ hội đủ điều kiện đó. Điều đòi hỏi chúng ta là đức tin. Một tác giả khôn ngoan đã viết “Chúng ta phải đòi hỏi người ta suy nghĩ, nhưng không nên trông đợi họ trở thành những nhà thần học trước khi trở thành Kitô hữu”. Kitô giáo bắt đầu qua một phản ứng đối với Chúa Giêsu, phản ứng do tình yêu cảm biết đây là người thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngay cả khi chúng ta không thể suy nghĩ nổi mọi sự theo thần học thì chính sự đáp ứng từ tấm lòng được xem là đủ.
5/ Cuối cùng có một mối quan hệ quý báu.
Batimê chỉ là một người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Chúa Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng. Anh ta bắt đầu với nhu cầu, tiếp tục bằng lòng biết ơn và kết thúc bằng sự trung thành, và đây là phần tóm tắt rất đầy đủ về các giai đoạn trong việc làm môn đệ của Chúa.
Trình thuật vắn gọn gồm bảy câu này giàu hương vị và súc tích đặc biệt. Maccô đã phác họa nơi đây những nét sinh động to tát bộc lộ chiều sâu tư tưởng của ông.
Quang cảnh xảy ra đã được xác định rõ nơi chốn, khi vừa qua khỏi (nơi Chúa Giêsu đang đi 10,1) thì Giêricô sẽ là địa danh dẫn người ta vào Israel (c.46a). Đối với Chúa Giêsu đây là bước quy định nhất trong tiến trình hướng về Giêrusalem (11,1). Hãy ghi nhận rõ: đây là lần đầu tiên tác giả Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu đồng hành về Giêrusalem với “một đám đông” chứ không phải chỉ riêng các môn đệ Ngài. Và này đây trên bước hành trình của mình, đám đông sẽ có được một cuộc gặp gỡ “đổi đời”. Ở đây chúng ta gặp một nhân vật “đặc biệt” đang ngồi ở lề đường: anh ta là một trong vô số người mù Palestin thời đó phải xin ăn mà sống (c. 46c). Sự cố liên quan tới anh ta đã gây xúc động mạnh cho Maccô đến nỗi ông là người duy nhất trong các giả Phúc Âm đã ghi lại tên anh mù bằng tiếng Aram được Maccô lẹ làng dịch ra cho độc giả Hy Lạp hiểu, tên ấy là có nghĩa là con của Timê. Anh ta hoàn toàn bị gạt ra rìa cuộc sống tức là đang khi thiên hạ đi thì anh ta ngồi mà lại ngồi ‘bên vệ đường”!
Tuy nhiên, dù mù lòa cô đơn ngồi một chỗ, anh ta vẫn là một người hiếu động, với sự bộc phát đầy kinh ngạc, anh ta kêu lên Chúa Giêsu khi Ngài đi qua đó (c. 47). Tiếng kêu của anh mù biểu lộ nỗi khổ to lớn nhưng đặc biệt cũng biểu lộ niềmtin cậy khôn lường. Quả là nghịch lý khi anh mù này lại “thấy” được chính xác Đức Giêsu Nadaret là ai. Anh ta gọi Ngài là “Con vua Đavit”. Theo truyền thống Kinh Thánh đây chính là tên gọi Đấng Mêsia. Đấng được dân riêng Chúa từ lâu mong đợi (x. Lời hứa Chúa ngỏ với Đavit: 2Sm 7,1-17). Như thế Bartimê đã thực hiện một hành vi đức tin phi thường. Trái lại, đám đông đang nối nhau theo Chúa Giêsu thì muốn khước từ anh chàng nghèo khổ, bị khai trừ này. Đây là đặc tính của con người đương thời: họ chỉ muốn anh chàng quấy rầy này câm miệng đi. Đối với họ, một kẻ ăn xin cản bước Chúa Giêsu thì thật là không thích đáng tí nào. Không thấy nói đến thái độ của các môn đệ; chẳng hiểu các ông có tham gia tẩy chay anh mù không? Có thể lắm chứ. Các ông chẳng từng quở mắng đám trẻ con (một loài người bị khai trừ) muốn đến gần Chúa Giêsu đó sao? (10,13-16). Mặc kệ đám người chung quanh Chúa Giêsu tỏ ra hết sức thù nghịch, Bartimê vẫn không chịu thua cuộc. Người ta càng tìm cách chận không cho anh là thì “anh càng la to hơn”: “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (c. 48b). Lời van xin dai dẳng này đã đạt được mục đích: Chúa Giêsu dừng lại và nói: “Hãy gọi anh ta tới” (c. 49a). Một lần nữa Đấng Mêsia biểu lộ cho thấy Ngài muốn “dan díu” với những kẻ mà các bạn hữu Ngài khăng khăng muốn khai trừ (x.10,14). Và Ngài đã yêu cầu người ta gọi kẻ bị khai trừ đến gặp Ngài. Lúc này đây, đám đông (và không chừng cả các môn đệ (?)) liền “đổi giọng” và mời anh mù đến gần Chúa Giêsu (c. 49b). Những từ này còn hàm chứa lời mời gọi anh mù nọ rời bỏ tình trạng “chết chóc” của mình bởi vì “Hãy đứng lên” cũng hàm nghĩa “Hãy sống dậy”, theo ngôn ngữ Hy Lạp được dùng trong Phúc Âm, tiếng kêu gọi này mang lại hiệu quả ngay. Lập tức “anh mù liền vất áo choàng lại, nhảy chồm lên mà đến gần Chúa Giêsu” (c. 50). Các chi tiết này thật kỳ diệu. Giống như thể Bartimê đã hết mù rồi vậy! Vất áo choàng tức là vất bỏ đi “tình trạng” bị khai trừ của mình. Thực thế, trong Thánh Kinh, y phục tượng trưng cho nhân cách người mang nó. Áo khoác là của cải duy nhất của “người nghèo” (x. Xh 22,25-26). Khi vất áo đi, Bartimê đã thực hiện điều mà Chúa Giêsu không thể nhận được từ người đàn ông giàu có nọ, tức là bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Và bằng cách nào đây? “Anh ta nhảy chồm lên”. Nhảy lên trong lúc mắt vẫn còn mù thì đúng là cái nhảy của đức tin. Anh ta chạy về phía Chúa Giêsu: điều này nói lên được rất nhiều về đức tin của anh. Với sự lao tới không gì cầm lại được, kẻ từng bị sống ngoài rìa xã hội vượt qua cái hố phân cách anh ta với tất cả mọi người.
Gặp được anh mù rồi, Chúa Giêsu liền nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (c. 51a). Câu hỏi xem ra thừa bởi vì nhu cầu của anh ta đã quá rõ ràng. Tuy nhiên Chúa Giêsu luôn luôn kính trọng tự do của mọi kẻ đến gặp Ngài. Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (c. 51b). những tiếng anh ta dùng là trang trọng. Khi ngỏ lời với Thầy mình, các môn đệ người Do Thái thường chỉ gọi đơn sơ “Thưa Thầy” (Rabbi). Còn ở đây tiếng Rabbouni có nghĩa là “Thầy của tôi” được anh mù ngỏ với Chúa Giêsu với đầy sự kính trọng và thân ái hơn. Mặc dù chỉ yêu cầu “xin cho tôi được thấy” nhưng xem ra có lẽ anh ta muốn diễn tả một nhu cầu sâu xa hơn. Trình thuật lại gợi cho ta thấy điều này. Lời nói của Chúa Giêsu chứa đựng một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với cử tọa chung quanh (c. 52a). Câu nói “anh hãy đi” hàm ý một sự sai phái. Chúa Giêsu giải thoát anh ta khỏi những gì làm tê liệt anh ta. Hơn nửa, tất cả những gì lay động Baritmê từ những tiếng van nài lải nhải cho đến việc anh phóng chạy tới Ngài đang khi vẫn còn mù, đều được Chúa Giêsu đánh giá là thuộc về “đức tin”, và thành ngữ “đã cứu chữa anh” có nghĩa là ân sủng Chúa Giêsu ban cho người tín hữu vượt quá sự chữa lành về mặt thể lý, vì đó là ơn cứu độ toàn bộ con người. Những lời tương tự như khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,34) đã mặc khải rõ ý nghĩa sâu xa của các phép lạ Ngài thực hiện. Đoạn cuối của trình thuật này rất lạ thường. Theo tính cách bất ngờ thường thấy Maccô sử dụng. (trạng từ “tức khắc” được lặp đi lặp lại thường xuyên: 1,12.20; 2,12; 5,30v.v...). Ở đây anh mù sau khi được khỏi liền bước đi theo Chúa Giêsu. Câu nói anh “theo Ngài lên đường” là công thức rất thường dùng để diễn tả thái độ “người môn đệ” (1,18; 2,14).
Chúng ta thấy ở đây nghệ thuật kể chuyện của Maccô đã đạt đến độ hoàn hảo (c. 52b). Quả là tương phản biết bao giữa tình trạng lúc đầu của Baritmê (ngồi bên lề đường, mù lòa, xin ăn) và tình trạng sau đó của anh ta (đứng, đi trên đường, sáng mắt, loan báo Tin Mừng...) không nghi ngờ gì nữa, khi đặt trình thuật trên vào thời điểm Chúa Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, lôi kéo đám môn đệ và quần chúng đạt đến “nguồn ánh sáng” lớn lao hơn về thân thế và sứ mệnh của Ngài, Maccô đã muốn minh họa cho những gì làm nên “người môn đệ đích thực tức là phải để cho Chúa Giêsu dẫn đến sự “Thiên Khải của đức tin”. Trước đó việc chữa lành người mù ở Betsaiđa (8,22-26) đã giúp các môn đệ Chúa Giêsu khám phá ra Ngài là Đấng Mêsia (8,27-30). Giờ đây, Chúa Giêsu lại mời gọi các môn đệ và tất cả những kẻ muốn theo Ngài hãy mở con mắt của lòng mình ra để đón nhận, trong đức tin, cái nhìn về một Đấng Mêsia chịu đau khổ và vinh thắng.
Hẳn Maccô chỉ có thể định vị trình thuật này cách hay nhất vào thời điểm Chúa Giêsu sắp đi vào thành Giêrusalem. Liệu người ta có thể nhận biết Chúa thân thế và hành động của Ngài không? Quả thật khi đến trần gian cứu độ loài người, Chúa Giêsu nhắm đến hai mục đích: vừa phục hồi họ vào trong xã hội đương thời của họ, vừa tháp nhập họ vào trong cộng đồng tình yêu do Ngài thiết lập nên.
CÁC PHÉP LẠ TRONG PHÚC ÂM MACCÔ
Trong Phúc Âm Maccô, các phép lạ của Chúa Giêsu lên tới con số mười bảy; điều này cho thấy chúng đóng góp một vai trò quan trọng bởi vì tác phẩm này tương đối ngắn (chỉ mười sáu chương) đồng thời các giáo huấn của Chúa Giêsu ở đây lại hiếm khi được giải thích (nhất là ở giai đoạn đầu, xem 1,14-8.30). Người ta có thể xếp “các hành vi quyền phép này” (theo kiểu nói của Maccô) thành những “loại” khác nhau phù hợp với não trạng hiện đại của chúng ta hơn là tư tưởng phương Đông và tư tưởng thời xưa.
- Có những hành vi được xem là các cuộc chữa bệnh thuần túy: nhạc mẫu Phêrô (1,29-31); một người phong hủi (1,40-45); người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,25-34); một người câm điếc (7,31-37); hai người mù (ở Betsaiđa; 8,22-26; ở Giêricô: 10,46-52); hai người bại liệt (ở Caphanaum: 2,1-12; trong một hội đồng: 3,1-6).
- Một “cuộc hồi sinh”: con gái ông Giairô (5,21-24 và 35-43).
- Những “hành vi quyền phép” trên thiên nhiên: dẹp yên bão tố (4,35-41); đi trên sóng nước (6,45-51); hai lần hóa bánh (6,30-44; 8,1-10).
Việc tường thuật dồi dào các sự kiện “lạ lùng” thường khiến các độc giả thời nay lạc lối. Đối với đa số người thời nay, các phép lạ trở thành một trở ngại cho đức tin hơn là lời mời gọi người ta đến với đức tin. Tuy nhiên chắc chắn hồi đó Chúa Giêsu là một nhà trị bệnh đồng thời cũng là một nhà trừ quỷ. Điều này chẳng có gì khác thường trong thế giới Do Thái và dân ngoại thời ấy. Văn chương vùng Đông phương cổ xưa và trong thế giới Hy Lạp thời Chúa Giêsu còn lưu lại trình thuật phép lạ do những người có đặc sủng hoặc các nhà ma thuật thực hiện.
Tuy nhiên các phép lạ của Chúa Giêsu khác hẳn với các phép lạ của các nhà trị bệnh đương thời. Các phép lạ của Chúa Giêsu liên kết chặt chẽ với Tin Mừng Ngài rao giảng. Chúng thực sự là “những dấu chỉ” cho thấy Đấng Mêsia đang hiện diện (x. Mt 11,2-6), Nước Thiên Chúa đang đến. Sứ điệp của Chúa Giêsu đã mang lại tất cả ý nghĩa cho việc Ngài trị bệnh và trừ quỷ. Ngoài việc làm tiêu tan đi cơn đau thể lý và tâm lý, các phép lạ còn là dấu chỉ sự “giải thoát” về mặt tôn giáo và xã hội nữa. Trước hết Chúa Giêsu đến phục hồi cho bệnh nhân sự thông hiệp với Thiên Chúa. Như thế Ngài tái tháp nhập bệnh nhân vào cộng đồng đức tin cùng với những người khỏe mạnh khác. Đồng thời Ngài phục hồi cho “những kẻ bị khai trừ” này bằng cách giúp họ tái nhập vào xã hội mà họ đang sống. Hai ví dụ sống động của việc “giải phóng kép” này được tìm thấy nơi các phép lạ “chữa người phong hủi” (1,40-45) và “người bị bất toại được tha thứ và chữa lành” (2,1-12).
Ngoài ra, phải đọc các phép lạ của Chúa Giêsu nơi Maccô, trong khuôn khổ liên tục của Phúc Âm này. Ở mỗi giai đoạn mặc khải về Đấng Mêsia, các phép lạ đều củng cố thêm cho sự khám phá thân thế và sứ mệnh đích thực của Ngài.
- Trong giai đoạn đầu (1,14-3,12) Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng Ngài đến khánh thành kỷ nguyên cứu độ, các phép lạ chữa lành nhạc mẫu Phêrô (1,29-31), chữa lành một người phong hủi (1,40-45), chữa lành một kẻ bại liệt (2,1-12), chữa lành người có cánh tay bị liệt (3,1-6) chứng nhận Ngài thực sự là một vị lương y của thể xác và tâm hồn.
- Trong giai đoạn thứ hai (3,13-6,6) Chúa Giêsu lôi cuốn các môn đệ vào công việc mang Phúc Âm “đi xa” đến vùng các dân ngoại. Maccô đã gom lại ở đây bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu để trấn an Giáo Hội non trẻ rằng Đấng Chúa Tể Phục Sinh của họ vẫn còn đang hiện diện ở khắp mọi nơi và Ngài luôn nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Các phép lạ sau đây đều mang ý nghĩa này: truyền bão tố yên lặng (4,35-41), chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa (5,1-20), hồi sinh con gái ông Giairô và chữa lành người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,21-43). Khi đọc những bằng chứng này, các Kitô hữu, mạnh dạn đem Tin Mừng đến giữa lòng dân ngoại.
- Trong giai đoạn thứ ba (6,7-8,26) Chúa Giêsu mặc khải Ngài là một Môsê mới. Ngài có khả năng quy tụ và nuôi dưỡng được mới của Thiên Chúa bằng lời nói và bằng sự hiến dâng chính mình. Đây là ý nghĩa lần hóa bánh đầu tiên (6,30-44). Tuy nhiên Ngài không dừng lại ở đó: Ngài còn đến để mở rộng bàn tiệc Nước Chúa cho những kẻ xa lạ, những kẻ không thuộc dân Do Thái vẫn thường bị dân Do Thái khai trừ. Đây là ý nghĩa việc trừ quỷ cho đứa con gái người phụ nữ Syrô-Phênisi (7,24-30) và lần hóa bánh thứ hai (8,1-9). Sự kiện các môn đệ cảm thấy khó mà nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia mang tính cách hoàn vũ đã được minh họa qua hai phép lạ có tầm mức tượng trưng cao độ: phép lạ chữa người câm điếc (7,31-37) và chữa người mù ở Betsaiđa (8,22-26). Những kẻ muốn theo Chúa Giêsu phải thoát ra khỏi sự điếc lác mù lòa cản trở không cho họ nhận ra thân thế sâu nhiệm và sứ mệnh của Ngài.
- Giai đoạn thứ tư của sứ mệnh Chúa Giêsu (8,27-10,52) là giai đoạn đào tạo gấp rút các môn đệ tham dự vào lời loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới. Các môn đệ không được sợ hãi viễn cảnh mới về cái chết của Thầy mình. Một cách cố ý, Maccô đã trình bày việc chữa lành đứa bé bị động kinh (9,14-29). Ở đây Chúa Giêsu mặc khải Ngài là Chúa Tể nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Ngài chứng tỏ Ngài có khả năng “Phục Sinh” Người đã bị phó cho thần chết. Bạn hữu Chúa Giêsu phải mở mắt ra theo gương anh mù thành Giêricô (10,46-52). Họ có thể bước theo Chúa Giêsu trong đức tin sáng chói, cùng đồng hành với Đấng vướt qua cuộc khổ nạn, chiến thắng sự chết bằng cuộc phục sinh của Ngài.
- Giai đoạn thứ năm của Chúa Giêsu (11,1-13,37) hoàn toàn tập trung vào cuộc nhập thành Giêrusalem và việc Ngài chính thức giảng dạy trong đền thờ. Giai đoạn này không thấy Chúa Giêsu làm phép lạ. Phải đọc trình thuật “cây vả bị khô héo” (11,12-14 và 20-25) như là một cử chỉ tượng trưng. Dụ ngôn này (được lịch sử hóa) muốn chứng tỏ rằng luật lệ hay đền thờ Do Thái cũng không thể làm thỏa mãn cơn đói Thiên Chúa (11,12). Chỉ mỗi mình Chúa Giêsu mang theo nơi Ngài lương thực cứu độ.
- Giai đoạn thứ sáu và cũng là giai đoạn chót (14,1-16,8) là trình thuật liên tục về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Suốt thời gian các biến cố này, Chúa Giêsu không hề thực hiện hiện một dấu chỉ quyền phép thần linh nào cả. Mãi đến lúc cuối cùng, Ngài vẫn từ khước cơn cám dỗ xui khiến Ngài thực hiện “phép lạ” cứu Ngài thoát chết tức là xuống khỏi thập giá (15,29-32). Làm phép lạ này tức là phủ nhận chính nhân tính của Ngài.
Người ta thấy rõ: các phép lạ trong Phúc Âm Maccô không bao giờ là những “chứng cứ” về thiên tính của Chúa Giêsu mà chỉ những dấu chỉ giúp chúng ta tin. Chúng được tác giả Phúc Âm và cộng đồng của ông đọc lại dưới ánh sáng phục sinh và Kim Thánh. Chúng chỉ là những lời kêu gọi hãy tin vào Chúa Giêsu, Đấng cứu độ ta khỏi những sự dữ to lớn, đặc biệt là sự chết. Các dấu chỉ này luôn luôn hiện thực để khích lệ hoạt động thừa sai và bí tích của Giáo Hội (x. 16, 15-20). Người ta hiểu rằng các dấu chỉ ấy vẫn mãi mãi là một “câu hỏi” đối với những kẻ không tin...
Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất" thế giới: Nằm trong một miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.
Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho "công việc tiến vào miền đất hứa" ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số.
Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc thương khó, rồi Phục sinh.
Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là "thành phố mặt trăng", chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm. Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm "dấu lạ" cuối cùng: Người sẽ chiến thắng đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô
Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến 10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn "mù tối" trước định mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải "mất mạng sống mình" (8,35), phải trở nên "người cuối chót" (9,35), phải tự "móc mắt, chặt tay, chặt chân" để khỏi phạm tội (9,47), phải "trung thành trong hôn phối" đến độ anh hùng (10,9), phải "uống chén đắng và nhận phép rửa", phải trở nên "đầy tớ của mọi người" (10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để "theo Chúa".
Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê
Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người mù là "hình trạng" của sự "khó nghèo", của con người bị bỏ rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm, bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người "hành khất mù ngồi dưới đất" này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho các môn đệ là những người cứ "tưởng mình thấy rõ" (Ga 10,39-40).
Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ: Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc danh sao?
Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng
Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.
Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt.
Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nagiarét.
Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó là Đức Giêsu.
“Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe nói. Hôm nay Người đến.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân Người đi ngang qua", Người "đang đến". Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy Người.
Anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!"
Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. "Xin thương xót tôi". Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là "Kyrie Eleison". Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc... phương thế tự thánh hóa mình nhờ "lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót". Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp là "Ièsou, eleison, Ièsou, eleison"
Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra, để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể "thở" với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.
“Hỡi con vua Đavít" ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).
“Bí mật Thiên sai" không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết của ông "Vua" thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người "sẽ lập lại vương quyền tại Israel". Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên "nắm quyền". Người là "Vua", nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!"
Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.
Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!"
Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các "môn đệ" bắt đầu phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn cãi rất nhiều lần về "vai trò của Giáo hội": thì chính là vai trò đó! Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh Chúa!
Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!"
Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. "Đứng dậy" (égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là "thức dậy” hay "sống lại" (Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh Chúa.
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu
Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc "áo ngoài" là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.
Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?"
Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn. Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải được “soi sáng" để tự mình "tuyên xưng Đức tin".
Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được"
Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là "việc khai sáng". Đó là bí tích mở mắt.
Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.
Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi
Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ nói về các môn đệ làng Emmau: "Lúc bấy giờ mắt họ mở ra". Vâng, họ đã mù, dù là với đôi mắt mở rộng.
Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ "khuôn mặt đầu tiên" mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!
Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem, nơi sẽ diễn cuộc khổ nạn của Người, như Người đã báo trước tới ba lần. Lúc này Người đang đi ngang qua Giêricô. Bất cứ ai đi từ miền kia sông Gioan vào Israel đều phải đi qua thành này. Có các môn đệ và ‘đám đông dân chúng’ đi theo Đức Giêsu. Tinh thần môn đệ vẫn còn mù tối.
Đúng lúc ra khỏi thành, Người gặp anh mù. A. Paul nhận xét "Diễn tiến của phép lạ chữa lành người mù Giêricô giống với phép lạ chữa lành người mù ở Bétsaiđa (8,22-25). Phép lạ ở Bétsaiđa diễn ra liền trước lúc Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê tiếp liền sau lời tuyên xưng này, là lời loan báo về cuộc khổ nạn (8,27-30). Cũng vậy, tiếp sau phép lạ ở Giêricô là lời ca ngợi Đấng Cứu Thế khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, và sau đó là trình thuật về cuộc khổ nạn. Trong viễn tượng thần học này, phép lạ làm cho đôi mắt người mù mở ra có giá trị như một dấu chỉ.
Để làm nổi bật ý nghĩa phong phú của phép lạ, thánh sử tường thuật rất rõ ràng sự việc đã xảy ra:
Ông nêu tên người mù là "Batimê”, nhưng sợ rằng độc giả nói tiếng Hy lạp không hiểu tiếng Aramê, nên ông ghi chú thêm "con của Timê”. Ông diễn tả người này như một người tàn tật, mà tật khiếm thị đã buộc anh phải ăn xin, và vĩnh viễn không đi lại được, bị liệt vào loại người bị loại trừ, anh ngồi ở vệ đường, vệ đường có ý chỉ tình trạng bị loại trừ.
2) Đến cú đứng phắt dậy khi Đức Giêsu gọi.
Thật ngược đời: ở giữa đám đông những người sáng mắt rầm rộ đi theo Đức Giêsu, anh mù là người duy nhất tỏ ra nhìn rõ, anh có thể nhận ra Đấng đang đi qua là "Con vua Đavít”, Đấng Mêsia mọi người hằng trông đợi, và anh đã lớn tiếng hô lên.
Người ta nạt nộ bảo anh im đi - vì họ nghĩ rằng để cho anh mù quấy rầy Đức Giêsu trên đường là điều không nên – nhưng anh càng kêu lớn hơn: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” cho đến khi Đức Giêsu dừng lại và bảo người ta: “Gọi anh ta lại đây”, thì người ta mới để ý đến người tàn tật khốn khổ đang la lối này. Sứ điệp được chuyền đi ngay lập tức: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy” Đức Giêsu giúp anh lột bỏ được tình trạng bất động của người chết.
Tiếng gọi của Chúa có kết quả liền: người mù liền vất bỏ áo choàng lại (áo choàng mà anh dùng để đựng đồ xin được) đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. J.Hervieux giải thích. "Những chi tiết này thật là lạ lùng. Mọi sự xảy đến dường như Batimê không còn mù nữa. Khi vật bỏ áo choàng, anh cũng vất bỏ luôn tình trạng bị loại trừ. Cái áo choàng là vật duy nhất mà người nghèo sở hữu. Vất bỏ nó, Batimê đã thực hiện điều mà Đức Giêsu đã không làm được với chàng thanh niên giàu có; anh đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đi theo cách nào? Anh nhảy lên, đứng phắt dậy. Cú nhảy trong đêm tối là cú nhảy đức tin vì một anh vẫn còn mù. ("L'evangile de Marc", Centurion, trang 156).
“Rabbôni, thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được!”. Anh mù đáp lại câu hỏi của Chúa, cũng là câu mà Chúa đã hỏi hai người con ông Giêbêđê: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Đàng sau khát vọng được nhìn thấy, Đức Giêsu đã nhận ra nơi anh đức tin khát vọng được biết nhiều hơn về Đấng Mêsia, được nhìn thấy thực tại tối hậu ẩn sau dáng vẻ bên ngoài. Người ăn xin tàn tật không những được chữa lành, mà còn được cứu nhờ đức tin. “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Từ nay, anh nhìn thấy, không chỉ bằng con mắt xác thịt, mà còn bằng ánh mắt đức tin. Đó là tấm gương cho các môn đệ, đó là tấm gương cho người đã được thánh tẩy, được soi sáng nhờ gặp gỡ Đức Giêsu Kitô. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Con đường lên Giêrusalem. Con đường dẫn đến thập giá.
J. Hervieux kết luận: "Ở đây, nghệ thuật kể chuyện của Maccô đạt đến đỉnh hoàn thiện. Hai hình ảnh thật trái ngược nhau: hoàn cảnh ban đầu của Batimê (ngồi ở vệ đường, mù loà ăn xin) và hoàn cảnh kết thúc (đứng, đi trên đường, nhìn thấy và đem Tin Mừng đi). Không còn nghi ngờ gì, tác giả đặt trình thuật này lúc Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, dẫn theo bạn bè và đám đông tiến về "Anh sáng" soi rõ hơn thân thế và sứ mạng của Người. Câu chuyện này là một minh họa cho thấy nhờ đâu, người ta mới trở nên "người môn đệ đích thực”. Người môn đệ cần phải để Thầy mình dẫn đến sự giác ngộ đức tin. Phép lạ chữa người mù ở Bétsaiđa đã thúc đẩy các môn đệ Đức Giêsu khám phá Người là Đấng Mêsia. Giờ đây, Đức Giêsu lại mời gọi họ – những kẻ muốn đi theo Người - hãy mở rộng đôi mắt tâm hồn để đón nhận Đấng Mêsia đau khổ và khải hoàn trong đức tin, Maccô đã không thể đặt trình thuật này vào lúc nào tốt hơn là lúc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem: người ta có nhận ra Người vì thân thế của Người, và vì những gì Người đã làm không? Đấng đến cứu loài người theo đuổi hai mục đích: vừa trả lại cho họ quyền lợi trong xã hội họ đang sống, vừa giúp họ hội nhập vào cộng đoàn yêu thương mà Người sáng lập. (Sđd, trang 157).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) Chúng ta thuộc loại "trung gian” nào đây?
Đây là người mù Batimê đang kêu cầu Đức Giêsu. Anh nói lên khát vọng được chữa lành, nhưng cũng biểu lộ đức tin của anh “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Khi người ta nạt nộ bảo anh phải im đi, thì anh lại càng la to hơn. Bấy giờ Chúa dừng lại và gọi anh. Những người "trung gian" vừa lúc trước mới nạt nộ anh, giờ đây đổi giọng: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ cần chúng ta có can đảm la lên, mặc dầu mọi người bảo ta phải im đi, Đức Giêsu sẽ không giả điếc làm ngơ đâu. Còn chúng ta, chúng ta thuộc loại "trung gian" nào đây? Chúng ta thường không nghe ai, lại còn bắt người ta im đi nữa. Còn Đức Giêsu, Người nghe, Người luôn để tai nghe. Người nghe tiếng kêu của những người van xin Người dủ lòng thương xót, van xin Người cho họ được nhìn thấy, được đứng dậy. Nếu ta nhận biết Chúa quan tâm đến tiếng kêu xin của con người, chắc ta sẽ trở thành những "trung gian" tốt, để nói với họ: "Hãy an tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”.
2) Sáng mắt hay mù?
"Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Cùng một câu hỏi mà Đức Giêsu đã hỏi Giacôbê và Gioan. Câu hỏi là một, nhưng câu trả lời thì người mù chỉ xin ánh sáng. Các môn đệ muốn áp đặt tham vọng của mình, còn người ăn xin thì chỉ xin được nhìn thấy. Vậy ở đây có hai người mù và một kẻ sáng mắt.
Với Batimê, Đức Giêsu không nói gì về tật nguyền của anh, không nói đến con mắt mù loà, cũng không nói rằng sẽ chữa lành. Người chỉ nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Nhờ sự tín nhiệm và đức tin, người bị gạt ra bên lề xã hội đã được nâng lên hàng môn đệ. Một đức tin cứu độ đến nỗi người này bắt đầu nhìn thấy và đi theo Đúc Giêsu, không chỉ theo trong tinh thần, mà còn bước đi trên đường. Một cuộc tuyển mộ tuyệt hảo.
Đức Giêsu thường được vây quanh bởi những môn đệ mù. Còn lề đường thì lại đầy những người mù sáng mắt. Nhóm trước bị khép kín trong những bảo đảm vĩnh viễn, bị ràng buộc bởi những tham vọng và vướng mắc nhỏ nhen. Nhóm sau thì có lòng khiêm nhường và tin tưởng, có đức khôn ngoan để biết nghe và còn học hỏi, sẵn sàng đón nhận những bất ngờ của Thánh Linh, những từ bỏ có sức giải thoát.
Để được chữa lành tật mù loà, cần phải tuyên xưng đức tin, “vất bỏ áo choàng"và đi theo Chúa Kitô mọi nơi Người dẫn đi, và không buộc Chúa phải theo lộ trình do những tham vọng trần tục của ta vẽ ra. Đường lối của Chúa không giống đường lối của ta.
1. Phép lạ chữa người mù được sáng là phép lạ cuối cùng mà Maccô kể lại trước bài tường thuật tấn bi kịch được kết thúc bằng khổ hình thập giá. Một cách nào đó, thánh sử muốn đúc kết những gì xảy ra ở trước đây: Biến cố Chúa Giêsu đi qua, có những người không muốn nhìn thấy, nhưng cũng có nhiều người khác, như người mù thành Giêricô, dã muốn Chúa Kitô mở con mắt tâm hồn họ và đã ra đi bước theo con đường của Người. Họ là những người biết nhạy cảm với ánh sáng nội tâm, một thứ ánh sáng soi chiếu tất cả mọi người ở trong thế gian; họ đã không dập tắt ánh sáng đó vì tư lợi, vì mưu toan ganh tị, vì quan niệm sống, vì thành kiến; họ đã ra di theo Chúa Kitô.
2. Mặt khác, phép lạ chữa người mù được sáng và đi theo Chúa còn báo cho chúng ta biết một điều luật quan trọng của Tin Mừng: nhận ra chân lý mà thôi chưa đủ, còn phải sống chân lý đó nữa. Nhận thức đức tin không phải chỉ là một hoạt động thuần lý trí mà còn đòi hỏi một sự dấn thân toàn vẹn con người. Khi trí khôn đã hiểu rõ khía cạnh nào của đức tin, thì con tim và ý chí phải theo để đem ra thực hành trong đời sống điều mà lý trí đã thấy. Chúng ta chỉ đọc và hiểu thật đúng Tin Mừng sau khi đã xếp sách lại, chúng ta cố gắng đem ra thực hành. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mình theo ý lời kinh của Giáo Hội: "Lạy Chúa, xin biến cải chúng con thành những môn đồ của ánh sáng và thành những người kiến tạo chân lý".
3. Người mù tin tưởng, gương mẫu của môn đồ Chúa Giêsu. Con người này, sống trong một tình thế nguy kịch, là hình ảnh kẻ nghèo khó mà chúng ta phải trở nên; anh nhận ra Chúa Kitô chư vị cứu tinh của anh và đến cùng Người với tâm hồn đơn sơ trong sáng. Đau khổ luôn luôn có nguy cơ làm cho chúng ta mù lòa, nổi loạn; nên ta hiểu ngày nay Giáo Hội đề ra phép Xức dầu không như bí tích để dọn mình chết cho bằng như sự giúp đỡ cho thời gian tật bệnh. Chẳng cần phải gần gũi nhiều bệnh nhân mới biết là vào một vài lúc, cuộc sống họ thật là khó khăn: làm sao giữ niềm tin vào vị Thiên Chúa tình yêu khi người ta đau khổ? Thân phận bệnh nhân hay tật nguyền có những "cám dỗ" riêng của nó. Vẫn biết đối với một vài người, thử thách gây nên một phản ứng đạo đức và tin tưởng. Nhưng khi đau khổ quá mức, lòng tin cũng dễ bị lung lay. Tuy nhiên, cuộc sống tín hữu không nên là một chuỗi hành vi tin tưởng chớp nhoáng. Phép Thánh Thể phải rèn đúc chúng ta từ Chúa nhật này sang Chúa nhật khác một tâm hồn tin tưởng, chứ không chỉ là một con người đạo đức. Chúng ta phải khám phá từng tí rằng Chúa Kitô mỗi ngày ở trên con đường chúng ta và trên con đường anh em ta.