Phúc Âm: Mc 10, 17-30: “Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu trả lời: “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”. Người ấy thưa: “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”. Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!” Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”. Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Như vậy thì ai có thể được cứu độ?” Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: “Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”. {Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất”.} - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 28-B101. SỰ NGHIỆP CHÓNG QUA - CƠ NGHIỆP ĐỜI ĐỜI
Ít nhiều gì trong chúng ta cũng đã được nghe hay cũng được biết về tác phẩm "Ở trọ" của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát thật ngắn ngủi. Bài hát ấy chỉ có 5 đoạn nho nhỏ mà thôi. Mở đầu bài hát ấy, Trịnh Công Sơn viết:
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ - Trịnh Công Sơn)
Ông đã mượn hình ảnh hết sức thực tế, hết sức mộc mạc, hết sức dễ thương để nói về phận của con chim, phận của con cá và phận của con người. Ai ai trong chúng ta cũng biết con chim đậu ở cành tre ấy nhưng đâu biết khi nào nó bị bắn, bị bẫy. Con cá cũng vậy, ở trong khe nước nguồn thật đấy nhưng nó đâu biết được nó "thọ" được bao năm ? Còn con người, dù cho có được một trăm năm đi chăng nữa thì cũng đi về chốn xa xăm cuối trời. Vậy thì, cuộc đời này chỉ là tạm, là bợ mà thôi. Sự nghiệp của con người ở đời này thật mau qua và chóng tàn còn cơ nghiệp đời đời của con người thì mãi mãi là vĩnh cửu.
Sự nghiệp của con người: Thường thì con người vẫn chạy, vẫn đặt sự nghiệp đời mình ở vật chất, ở tiền tài và danh vọng còn cơ nghiệp đời đời của con người là khác, là đặt để trong lòng bàn tay của Thiên Chúa. Con người vẫn được mời gọi để chọn lựa, để sống cái sự nghiệp chóng qua hay cái cơ nghiệp đời đời.
Cuộc đời này mau qua chóng tàn thật để rồi hơn nhau ở cái chỗ khôn ngoan để chọn lựa cho mình lối sống, lối hành xử với những cái sự nghiệp chóng qua. Sẽ có những người cứ đi tìm cho mình đầy túi tiền và ngược lại, có những người đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bằng chứng đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta vừa được nghe tác giả sách Khôn Ngoan thuật lại:
Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết.
Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi.
Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng
còn hơn cả vương trượng, ngai vàng.
Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan.
Đối với tôi, trân châu bảo ngọc
chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan,
cũng chỉ là cát bụi,
và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.
Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp,
đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng,
vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.
Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể. (Kn 7, 7-11)
Tác giả đã nói với mọi người rằng của cải chẳng là gì cả so với Đức Khôn Ngoan. Tất cả cũng chỉ là cát bụi mà thôi. Ngay cả sức khoẻ và sắc đẹp là cái mà con người ta cứ mãi miết đi tìm nhưng cũng chẳng bằng Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan đem đến cho con người mọi sự tốt lành và cái tốt lành ấy không bao giờ tàn lụi. Tốt lành ấy phải chăng là cơ nghiệp đời đời mà Chúa đã hứa dành cho những ai bỏ vật chất, bỏ tất cả mọi sự để chọn Chúa.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta biết về cái sự nghiệp chóng qua và cái cơ nghiệp đời đời của con người. Trang Tin mừng này, thánh ký đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau để biên soạn lại thành một trình thuật xoay quanh chủ đề về thái độ phải có đối với của cải vật chất nếu họ muốn trung thành theo chân Chúa Giêsu.
Xét về kết cấu văn chương, trình thuật này chia ra làm 3 tiểu khúc liên kết nhau:
-Câu 17-22: cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và người giàu có.
- 23-27: cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ về sự giàu sang như một trở ngại cho việc thừa hưởng Nước Thiên Chúa.
-Câu 28-31: phần thưởng của những kẻ theo Chúa Giêsu.
Quả thực, trong tư cách là Đấng Thiên sai cứu độ, Chúa Giêsu mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, khác với quan niệm đã lỗi thời của người Do Thái, điều kiện mà Người đưa ra không phải là sự chu toàn trọn lề luật song còn là một cái gì hơn thế. Đó chính là dám khước từ tất cả để đi theo Người, là chấp nhận vác khổ mình bước theo Người bất chấp khổ đau thử thách hay quyến rũ. Tuy nhiên đó cũng chính là con đường đưa dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc cứu độ của Nước Thiên Chúa.
Nhằm lúc Người đi đườn, có người chạy lại quì xuống bái lạy Người mà hỏi: lạy Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm cơ nghiệp ? Nhưng Chúa Giêsu nói với người ấy: sao ngươi nói ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa? (C. 17-18)
Sự sống đời đời - Làm cơ nghiệp
Trong truyền thống Do Thái, hạn từ sự sống đời đời ám chỉ cuộc sống với Thiên Chúa. Ngữ vựng làm cơ nghiệp vốn là một hạn từ chuyên môn của truyền thống Cựu ước ám chỉ tới sự sở hữu một miền đất Chúa ban.
Như vậy vấn nạn người giàu có nhằm tới liên hệ đến điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc cứu độ. Đó là bận tâm hàng đầu của người Do Thái thời ấy, và trong nhãn quan thần học của Maccô, vấn đề được nêu lên ở đây liên hệ trực tiếp tới bất cứ ai chọn tin theo Chúa Giêsu. Vì chưng mục đích cuộc sống của họ chính là hạnh phúc cứu độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho họ.
Vấn đề đặt ra ở đây là c. 18: "Chúa Giêsu nói với người ấy: sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có mình Thiên Chúa"
Chúng ta hiểu thế nào về câu đó?
Người giàu có gọi Chúa Giêsu là Thầy tốt lành: cách xưng hô như thế trái với thông lệ của người Do Thái. Đối với một nhân vật đáng kính, một bậc thầy như một Rabbi chẳng hạn, họ chỉ sử dụng tên gọi didaskale. Vì chưng, trong truyền thống của họ, ngữ vựng tốt lành dành riêng cho duy mình Thiên Chúa thánh thiện: "Hãy cảm tạ Giavê vì Ngài tốt lành vì ơn Ngài miên man vạn đại" (Tv 118,1).
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa sao?
Như đã nhiều lần ghi nhận và ở đây cũng thế, chúng ta không được quên lối hành văn riêng biệt và độc đáo của Marcô nhằm mang chở một sứ điệp thần học nổi bật nơi từng mạch văn. Vậy ý nhắm thần học của Maccô ở đây là gì?
Như trong lối hành văn quen thuộc của thánh ký, Chúa Giêsu đã hơn một lần đưa ra vấn nạn khởi từ ý nghĩ của những kẻ nghĩ về Người. Đây cũng là ghi nhận mà Victorê Antiôkia từ xa xưa đã gợi nhắc. Chúa Giêsu sử dụng chính những lời của kẻ đối thoại nhằm đưa họ lên một sứ điệp cao vượt hơn. Trong mạch văn ở đây, người giàu có đã đến với Chúa Giêsu như đến với một Rabbi nhân loại. Chắc hẳn ông ta muốn tìm kiếm sự giải đáp nơi Chúa Giêsu theo như cách thế nơi các Rabbi Do Thái khác. Bởi vậy, khi phủ nhận lời ca tụng thái quá của ông, không phải Người muốn phủ nhận bản tính thần linh của Người. Song le, Người muốn lưu ý thính giả phải biết hướng đôi mắt nhìn lên xa hơn vượt trên một thứ tốt lành nhân loại thuần túy, phải hướng nhìn về sự tốt lành tuyệt đối là Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa tốt lành mới ban cho họ hạnh phúc vĩnh cửu làm gia nghiệp.
Ngươi thiếu một điều:
Đối với Chúa Giêsu, anh ta thiếu một điều gì để có một kho tàng trên trời, nghĩa là để có được hạnh phúc vĩnh cửu.
Khi Chúa Giêsu mời gọi một ai theo Người, Người muốn điều gì ở họ ? Có phải đó là sự tốt lành của họ hay là ước muốn hạnh phúc của họ không ? Người muốn con người toàn diện. Đó là điều mà Người đòi hỏi khi mời gọi các môn đệ vác khổ giá theo Người, và cũng là điều duy nhất mà Người đòi hỏi bất cứ ai, như trường hợp kẻ giàu có này. Trong nhãn quan thần học Maccô, yêu sách này ngõ cho tất cả mọi Kitô hữu không trừ ai dù ở hoàn cảnh nào. Vì chưng, những ai muốn trở thành môn đệ của Người, họ phải hiến dâng toàn vẹn con người của họ cho Người, họ phải lựa chọn dứt khoát Người là bậc thang giá trị tuyệt đối vược trên các thứ hấp dẫn khác như của cải, danh vọng dù họ ở trong hoàn cảnh hay bậc sống nào. Nếu không, họ cũng sẽ rơi vào thảm trạng của người giàu có đang được nói tới ở đây, là "buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của" (c. 22). Anh ta đã quay lưng lại với Chúa Giêsu và đã lựa chọn của cải. Anh ta đã trân trọng của cải hơn Người, mà lý ra anh ta phải biết lựa chọn, vì chỉ có người mới đem lại cho anh sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp. Chỉ có Người là thực sự kho tàng vô tận của hạnh phúc, của ơn cứu độ cho con người.
Qua bài học của người giàu có, người môn đệ của Chúa Giêsu được mời gọi dứt khoát lựa chọn Người vượt trên mọi giá trị khác. Người môn đệ theo Chúa Giêsu không thể làm tôi 2 chủ: hoặc Người hoặc Manmon (x. Mt 6,24; Lc 16,13).
Trên thực tế, như trường hợp người giàu có cũng cho thấy người ta có nguy cơ lựa chọn sự giàu sang, của cải và gạt bỏ Thiên Chúa. Tiền bạc dễ làm cho người ta thành ích kỷ, kiêu căng và bất công. Đối với Do Thái giáo, những cám dỗ đó không phải là chuyện xa lạ. Lồng kết vào trong nhãn quan thần học Maccô, tiền bạc giàu sang có thể tạo nguy cơ cho ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn trao ban, khiến họ tích trữ cho mình những kho tàng và không biết làm giàu nơi Thiên Chúa (Lc 16,21). Như người giàu có kia, vì lầm tưởng giàu sang là hạnh phúc đích thực, nên họ lựa chọn của cải và quay lưng lại với Chúa Giêsu, với lời mời gọi theo Người.
Những ai chọn theo Đức Kitô sẽ không quên rằng: bao lâu còn sống trong cuộc đời trần thế, họ còn phải vác khổ giá theo Người. Phần thưởng đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ đạt được một cách vẹn toàn ở đời sau. Đó cũng chính là lúc có sự đổi thay căn gốc: bỏ cái sự nghiệp chóng qua mà tìm lấy cái cơ nghiệp đời đời. Anmai, CSsR
Trong tác phẩm văn học Le Petit Prince, Saint Exupéry kể rằng: "Khi Hoàng Tử Bé đến trái đất, người đầu tiên mà cậu gặp là một cụ già làm nghề đốt đèn. Một công việc thật ý nghĩa và dễ thương, cụ đốt đèn thắp sáng địa cầu mỗi tối và tắt đèn mỗi sớm mai khi mặt trời lên. Thế nhưng, vừa gặp cậu bé hoàng tử, cụ thở dài: "Công việc của tôi nay thật kinh khủng. Ngày trước mọi việc hợp lý hơn. Mỗi tối tôi đốt đèn và suốt đêm được ngủ nghỉ, mỗi sáng tôi thắp đèn và cả ngày được thư thái. Ngày trước trái đất quay chậm, bây giờ nó quay ngày một nhanh". Cậu bé hỏi: "Yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi sao?". Cụ đáp: "Đó là bi kịch, hành tinh này quay ngày càng nhanh mà yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi. Sự việc trở nên tồi tệ, đến nỗi cứ nửa giờ, hành tinh quay hết một vòng và như thế, ngày cũng như đêm, tôi không có một chốc nghỉ ngơi, ...tôi phải đốt đèn và tắt đèn liên lỉ".
Các bạn trẻ thân mến,
Phải, bất cứ nơi đâu, nhịp sống hôm nay xem ra quá vội vã. Những bước chân bách bộ ngày càng trở nên hiếm hoi và dường như mỗi khi ra đường, người ta đâm đầu chạy. Vậy thử hỏi, có bao giờ chúng ta dừng lại để đặt một câu hỏi tương tự như câu hỏi của người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay?
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Trăn trở của người thanh niên có phải là trăn trở của mỗi chúng ta không? Cái thao thức mang chiều kích vĩnh cửu nơi anh có bao giờ xuất hiện trong ngày sống của chúng ta không? Vì rằng, ngày mỗi ngày, dù ở đấng bậc nào, là cha mẹ, là giáo viên, là công chức, là mục tử, là sinh viên, học sinh...tất cả chúng ta đều được mời gọi vươn lên, hướng lên, và tiến lên ở một cấp độ cao hơn, nhanh hơn và xa hơn trong tình yêu.
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Để có thể đặt ra câu hỏi ấy, hẳn người thanh niên kia phải suy nghĩ, phải trằn trọc nhiều đêm. Để có thể thốt lên cái thao thức mang tính vĩnh cửu ấy, hẳn người bạn trẻ đó phải lặng yên khắc khoải nhiều ngày. Anh phải nhiều lần rút lui khỏi cái huyên náo động đạc thường ngày để đắm mình trong tĩnh mịch hầu có thể gặp gỡ chính mình, gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng mà anh tin khả dĩ có thể cho anh cái khả năng hướng thượng đó, một khả năng hướng tới tận sự sống đời đời. "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Đức Giêsu trả lời anh: "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ làm chứng gian, hãy thảo kính cha mẹ". Người bạn trẻ chân thành trả lời: "Những điều đó tôi đã giữ từ tấm bé". Và Đức Giêsu đem lòng yêu mến, thỏ thẻ cùng anh, "anh chỉ còn thiếu một điều..." "chỉ một điều mà thôi", nghĩa là Ngài muốn anh tiến xa hơn.
Vâng, nếu có những lối đi yên tỉnh thì cũng có những ngõ vắng xôn xao, nếu có những đường làng quạnh hiu thì cũng có những đại lộ rộn rã. Trong việc cầu tiến, đúng hơn, trong tình yêu cũng thế, tình yêu có cả những đại lộ thênh thang lẫn những lối mòn chật hẹp.
"Chớ giết người, chớ ngoại tỉnh, chớ làm chứng gian", đó là những luật cũ. Đó là những đại lộ thênh thang, ai cũng thấy, ai cũng biết và dễ chấp nhận. Nhưng tế nhị hơn, đòi hỏi hơn, khi ai giận anh em, ai bảo anh em mình là "Bờm", thì đáng bị tòa án luận phạt; hay ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, đã phạm tội trong lòng rồi... đó là những lối mòn chật hẹp, những lối mòn tình yêu để bất cứ ai muốn vươn lên cao hơn, nhanh hơn, xa hơn, hãy cố mà giữ lấy.
Đức Giêsu đề nghị cho anh một lối hẹp: "Anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán tất cả những gì anh có rồi đến mà theo tôi". Ôi, chỉ có Ngài mới có khả năng nhìn thấy sợi tơ hồng nghiệt ngã vốn đang cuốn chặt đôi cánh đời anh khiến anh không thể bay lên. Sợi tơ đó chính là của cải.
Với người thanh niên là của cải, với chúng ta, có thể là một điều gì khác. Có thể đó là những cơn khát quyền lực, danh vọng, tiền tài. Có thể đó là những đam mê xác thịt đang kéo chúng ta lệt đệt sát đất. Có thể đó là những tham sân si, những xung năng nung nấu tiềm ẩn bên trong khiến chúng ta chỉ biết sống cho mình mà quên mất tất cả, quên mất đạo làm người, quên mất đạo làm con, quên cả nhân phẩm, quên cả linh hồn... Cũng có thể đó là những mối hiềm khích chúng ta chưa thể vượt qua, chưa thể tha thứ... Đó chính là những sợi tơ hồng buộc chặt không cho chim bằng chắp cánh bay cao.
Vậy thì phải làm sao?
Thưa, chúng ta phải khôn ngoan chọn lựa mỗi ngày, khôn ngoan như bài đọc thứ nhất nói, "Cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi". Vì sống là chọn lựa, chọn lựa là hy sinh, hy sinh là chết đi. Chọn lựa điều này tức là chết đi cho điều kia. Chọn lựa vươn cao, chọn lựa chết đi cho la đà lệt đệt. Vậy, hãy để cho Lời Chúa, Lời của Đấng Khôn Ngoan soi dọi mỗi ngày, dẫu Lời Chúa sắc bén như gươm hai lưỡi thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can như bài đọc Do Thái nhắc nhở. Và nhất là hãy biết lặng thinh để lắng nghe tiếng của Đấng Khôn Ngoan trong cầu nguyện và chiêm ngắm. Lặng thinh đích thực không phải là vắng tiếng động nhưng là tràn đầy sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa, qua đó chúng ta biết được đâu là sợi tơ hồng đang trói buộc mình. Lặng thinh chính là một khoảng trời hạ xuống với con người và chỉ ở đó, người ta mới nghe đựợc điều cốt yếu, vì lời nói thuộc về thời gian, lặng thinh mới thuộc vĩnh cửu, cho nên, ai không biết lắng nghe, sẽ không biết mình mất mát những gì.
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Chúng ta có thể cầu nguyện: Lạy Chúa, là Đấng biết rõ cái gót Achille của con, tức là cái điểm yếu nhất nơi mỗi chúng con, xin cho con ngày hôm nay, biết đặt cho mình câu hỏi quan trọng đó và nghe được tiếng Chúa đáp lại. Chớ gì Chúa sẽ chỉ cho con biết được ít nữa một điều mà con đang thiếu. Và lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có khả năng cởi bỏ sợi hồng oan nghiệt đang siết chặt đôi cánh tuổi xuân, để con có thể chắp cánh bay cao hơn, nhanh hơn và xa hơn. Amen.
Lm Minh Anh
--------------------------------
TN 28-B103. CUỘC GẶP GỠ GIỮA NGƯỜI THANH NIÊN VỚI CHÚA GIÊSU
Tin mừng thuật lại nhiều cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Chúa Giêsu với một số người; nhưng có lẽ cuộc gặp gỡ với người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay để lại nhiều ấn tượng nhất nơi lòng các môn đệ và đám đông dân chúng. Vì gắn liền với lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Giêsu, lời mời gọi vốn làm nên linh đạo cho nhiều dòng khổ tu và đan tu sau này.
Vậy người thanh niên trong Tin mừng là ai ? Là một người giàu có, nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một đại gia. Là một đại gia nhưng có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi chưng diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả 10 Giới Răn một cách nghiêm túc, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của luân lý Thập Giới. Hơn thế, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, con đường hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Ngài còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Ngài. Một lời đề nghị kép.
Thái độ đáp Trả của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu ra sao ? Tin Mừng cho biết: "Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi". Nếu Chúa Giêsu chỉ đề nghị anh vế sau, tức là chỉ đi theo Chúa, có lẽ anh dễ dàng quyết định được ngay. Thế nhưng vế trước mới là vấn đề đối với anh, nếu không muốn nói là vấn đề quá khó đối với anh, khó hơn cả việc giữ 10 Giới Răn. Phải chi Chúa bảo bán gia tài đem gởi ngân hàng, hoặc mua cổ phần cổ phiếu hoặc kinh doanh, hoặc là cho Chúa Giêsu mượn, hoặc là bán từ từ; hay chỉ bố thí cho người nghèo 1 phần 10 thôi như những người đạo đức Do thái, hoặc là 1 phần 2 như Giakêu, như ông bà Gioakim và Anna... rất có thể anh ta còn thực hiện được. Đàng này Chúa Giêsu lại bảo anh bán tất cả tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt, đã thế còn đem cho người nghèo hết. Một lời mời gọi mới khó làm sao !
Bởi thế, trước lời đề nghị đó, lòng nhiệt huyết và cầu tiến của anh dường như đã hoàn toàn biến mất. Và anh đã bỏ lỡ cơ hội trở thành môn đệ Chúa Giêsu, cơ hội để nên hoàn thiện. Cũng lời mời gọi đó nhưng các Tông Đồ dễ dàng bỏ mọi sự để đi theo Chúa, vì các ông thanh thoát hơn đối với những thực tại đời này. Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi "thiếu một điều", đó là do chính của cải, tài sản mà anh đang có. Nói cách khác của cải vật chất đã là cản trở lớn đối với anh trên đường nên hoàn thiện. Sự cậy dựa, bám víu của anh vào của cải đã làm cho anh không dám từ bỏ để đi theo Chúa.
Chàng thanh niên ngày xưa là thế, còn con người ngày hôm nay thì sao ? Giả như ngày hôm nay Chúa Giêsu đi một vòng và ngõ với các nhà tỉ phú, triệu phú, hay các đại gia một lời mời gọi tương tự như lời mà ngài đã ngõ với người thanh niên ngày xưa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ phải hát bài "cô đơn một cõi đi về" thôi. Vì chẳng ai dám mạo hiểm làm theo lời đề nghị của Chúa đâu. Bởi lẽ chủ nghĩa hưởng thụ ngày nay còn trói buộc con người ghê gớm hơn ngày xưa nhiều nhiều lần. Từ bỏ là cả một hy sinh vô cùng khó cho con người thời đại ngày hôm nay. Thế mới hay người "giàu có" (giàu có ở đây thiết nghĩ nên hiểu là quá "ham hố", quá "dính bén" với của cải thì đúng hơn) lọt được vào vòng chung kết trong cuộc đua dành chiếc cúp "sự sống đời đời" thì khó biết bao, như lời quả quyết của Chúa Giêsu.
Chúa biết khó, nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao vô cùng, đòi hỏi con người phải trả giá. Ngài muốn chúng ta mỗi ngày hãy sống triệt để hơn đòi hỏi của Tin mừng.
Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu này điều xấu kia...mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Ngài. Mà để theo Chúa, thì cần phải dứt khoát sống tinh thần từ bỏ, nhất là từ bỏ cái tôi ích kỷ hẹp hòi, cái tôi dính bén của mình.
Vậy câu hỏi đặt ra thay cho lời kết đó là, sự thành tâm thiện chí và lòng nhiệt huyết cầu tiến sống đời hoàn thiện nơi tôi thế nào ? Đâu là những trở ngại chính khiến tôi chưa sống từ bỏ và phó thác hoàn toàn để đi theo Chúa ? Người thanh niên trong Tin mừng chỉ còn thiếu một điều; còn tôi, tôi còn thiếu bao nhiêu điều nữa trên đường hoàn thiện?
Trong những lúc trò chuyện hằng ngày chúng ta thường để cập đến những người "khôn ngoan", và những người này thường đọc và nghiền ngẫm hằng núi sách. Nhưng đọc sách chưa hẵn đã là người khôn ngoan, có lẽ đó chỉ là người hiểu biết thôi. Đối với chúng ta, người khôn ngoan phải là người có thể hướng dẫn mọi người giải quyết được những vấn đề khó khăn trắc trở, để đạt được mục tiêu tốt nhất.
Người Do Thái xưa cũng nghĩ người khôn ngoan là như vậy. Khôn ngoan là hồng ân Chúa ban cho con người để giúp đỡ họ như: Tài trí, dũng lực, cai trị (như Salomon), khiêm nhường, đạo đức, v..v... Trong thánh kinh có đề cập đến khôn ngoan trong các sách: Cách ngôn, Gióp, khôn ngoan. Trước kia sách khôn ngoan viết về vua Salomon; nhưng lại được một triết gia Hy Lạp trình thuật sau thời của ông vài trăm năm. Tất cả các sách trong thánh kinh điều chứa đầy những đề tài về sự khôn ngoan. Như thánh vịnh, sách đệ nhị luật và sách Ngôn sứ.
Trong khi người dân vùng Trung Đông đi tìm sự khôn ngoan thì thánh kinh nhân cách hóa sự khôn ngoan dưới hình ảnh một phụ nữ (tiếng Hy Lạp gọi là Sophia). Trong thánh kinh mô tả sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, là sự mạc khải của Thiên Chúa qua các tạo vật (Cn 3:19; Tv 19:1). Theo sách khôn ngoan hôm nay diễn tả khôn ngoan như là một sự hướng dẫn cho những ai muốn sống theo đường hướng của Thiên Chúa.
Cũng theo cách nhận định này, tân ước trình bày Chúa Giêsu như một người khôn ngoan, một người thầy, một tư tế. Anh chị em có thấy người thanh niên giàu có kia gọi Chúa giêsu là "Thầy nhân lành" không. Trước đó, thánh Mác-cô cho chúng ta thấy Ngài còn "Vĩ đại hơn cả Salomon"(6,2). Trong kinh sách Do Thái, "sự khôn ngoan lớn tiếng mời gọi chúng ta luôn thấu hiểu lẻ phải và điều ngay chính?". Trong chương 8 của sách Cách Ngôn (Chúng ta nên đọc toàn bộ chương này) Khôn ngoan mang đến sự sống, ân sũng của Thiên Chúa cho những ai biết gắn kết với đức khôn ngoan. Vì thế; theo bài trích sách khôn ngoan hôm nay; Khôn ngoan là hiền thê của Chúa Giêsu, và hể ai theo Ngài thì cũng chia sẽ được sự khôn ngoan và sự sống vĩnh hằng.
Người thanh niên giàu có kia luôn thành tâm ước muốn có một cuộc sống vĩnh hằng nhưng theo quan niệm của ông ta; cũng như của chúng ta hôm nay; là tiếp tục kéo dài mãi cuộc đời sung túc an toàn hiện nay. Như vây ông ta có thành tâm tìm sự khôn ngoan nơi Chúa Giêsu không? Có sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu đổi mới hoàn toàn cuộc sống?. Vì thế, đầu tiên Chúa Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi có vẻ lơ là "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa". Như vậy chúng ta thấy dáng vẽ bề ngoài, của cải, trang sức không ảnh hưởng gì đến Chúa cả nên câu hỏi có vẻ nghi ngờ về sự trung thực tìm kiếm của người giàu có này.
Chúng ta thường hay phán xét người khác qua hình dáng bên ngoài, của cải vật chất, công việc thành đạt của họ. Chúa Giêsu thì không như vậy, Ngài không có tí ấn tượng gì về sự giàu có của người thanh niên nầy. Khác với các tông đồ; vì sự hào nhoáng giàu có; các ông đã mở lối cho người nhà giàu này tiếp cận Chúa. Có lẽ các ông hãnh diện vì có người giàu sang tìm nghe Chúa giảng dạy. Trong khi hướng dẫn người giàu có này, Chúa Giêsu muốn nhân dịp này dạy dỗ thêm cho các môn đệ.
Chúng ta hãy chấp nhận đây là một người nhà giàu sống đạo, giử nghiêm các lề luật thật tốt. Tuy Chúa Giêsu không bị ảnh hưởng gì về dáng vẽ bên ngoài của ông ta, nhưng Ngài đã chấp nhận lời ông ta nói và Ngài nhìn ông ta trong ánh mắt trìu mến và Ngài dạy cho ông ta sự khôn ngoan mới; rằng ông hãy làm nhiều hơn nữa; là bán hết của cải, đem cho người nghèo, nghĩa là từ bỏ sự giàu có của mình "...rồi hãy đến đây theo Ngài".
Đây là đoạn "phúc âm nói về tiền của" trong tuần này. Có một số bài giảng lại diễn giải rằng Thiên Chúa muốn chúng ta được thịnh vượng sung túc nếu chúng ta có đức tin và biết tha thiết cầu nguyện "may ra" sẽ được Chúa đoái thương ban phát của cải đầy dư. Một số người khác lại cho rằng Thiên Chúa sẽ thương đến những người sống đạo đức tốt và của cải đầy dư chính là bằng chứng Thiên Chúa đã thương họ vì họ đã sống có đạo đức và biết siêng năng cầu nguyện.
Đấng Thầy của chúng ta, Chúa Giêsu, có thái độ đối với người giàu có như trong phúc âm diễn tả quả thật lạ lùng. Vào thời ấy, các môn đệ cũng như dân chúng đều tin rằng người có tiền của là dấu hiệu minh chứng người đó đã sống tốt lành nên được Thiên Chúa thương ban. Còn kẻ nghèo khó là dấu chỉ người đó bị Thiên Chúa quở phạt do sống không đẹp lòng Chúa. Vì thế, tiền của chính là ân huệ của Thiên Chúa ban cho, nếu cho người khác hết đi thì còn bằng chứng nào để cho người khác biết là Thiên Chúa đã thương yêu họ?
Dấu chỉ đích thực về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô. Khi người giàu có tặng hết của cải cho người nghèo theo làm môn đệ Chúa Giêsu ông sẽ nhận được trọn vẹn Chúa Giêsu khi cố gắng thực hiện những việc làm như các môn đệ thay đổi cách sống mới để học hỏi sự khôn ngoan của thầy vì Ngài là đấng khôn ngoan. Trong sách cách ngôn, đức khôn ngoan đã lớn tiếng: "...ta gọi các ngươi, hỡi con cái loài người. Hỡi những kẻ ngây thơ, hãy học cho biết điều khôn khéo; hỡi những người ngu xuẩn, hãy học cho biết lẽ phải chăng" (Cn 8:4-5). Trong sự ngu xuẩn, người giàu đã nhận lấy tiền của là của hay hư mất và từ chối Chúa Giêsu là của sống vĩnh hằng.
Phúc âm hôm nay nối tiếp câu chuyện của phúc âm tuần trước trong lúc Chúa gọi các con trẻ lại chúc lành cho chúng và nói với mọi người rằng "Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." (10:15). Sợ rằng mọi người sẽ nghĩ là Chúa nói câu văn chương êm ả cho các trẻ em, nên thánh Mác-cô ngay lập tức tiếp theo câu chuyện người thanh niên giàu có này.
Trong Thánh Kinh, tiền của không là điều xấu. Câu chuyện hôm nay chứng tỏ là một người giàu sang vẫn có thể sống đời sống tốt. Một thách thức đối với chúng ta là: Niềm tin của tôi được đặt vào những gì? Vào sức khỏe chăng? Vào tuổi trẻ? Sức mạnh quân đội? Hay vào giáo hội? hay vào lối sống an tâm tự tại của chúng ta? Không ai muốn được nhắc nhở là của cải có thể thay đổi một cách nhanh chóng. Nhưng tiền của chúng ta chịu khó dành dụm suốt đời có thể cho chúng ta cảm tưởng là chúng ta làm đúng mọi việc trong đời sống. Chúng ta thường tự nhủ "cứ tiếp tục làm việc giỏi đi". Nhưng chúng ta cũng không thể tìm mua được bảo hiểm sức sống vĩnh hằng nơi Chúa Giêsu cho chúng ta, sức sống mà không quyền lực nào có thể lấy đi được.
Đoạn tiếp theo trong phúc âm thánh Mác-cô nói đến việc Chúa Giêsu huy hoàng tiến vào thành Giê-ru-sa-lem (chương11) đến lúc chịu khổ nạn của Ngài. Vì sao thế? Chẳng lẽ Thiên Chúa không yêu mến Ngài? không thích những lời nói và việc Ngài làm? Không đâu, Thiên Chúa yêu mến Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không có của cải nào đẹp hơn là cái chết trên thập giá. Để dạy chúng ta cách Khôn Ngoan về của cải theo phúc âm.
Vậy theo Chúa Giêsu có tốn kém gì không? Có phải chúng ta phải bỏ nhiều thời giờ để giúp người khác không? Việc Chúa Giêsu gọi chúng ta theo Ngài có làm chúng ta mệt mỏi không? Mỗi sáng khi thức dậy, chúng ta có dự định tìm kiếm thêm những gì chúng ta đã có, hay chúng ta thầm đọc một kinh ngắn trong lúc đánh răng rửa mặt không? "Xin Chúa chỉ cho con những điều Chúa muốn con làm ngày hôm nay".
Trong thánh lễ hôm nay nhiều lần chúng ta nói "Lạy Chúa". Mỗi lần như thế sẽ thách thức chúng ta rằng. Nếu Thiên Chúa là Chúa chúng ta, thì chúng ta có đổi mới đời sống theo ý Chúa mỗi ngày để được gần Ngài hơn không? Chúng ta có từ bỏ tư tưởng an tâm dựa vào tiền của mà gia đình và bạn hữu đã dạy chúng ta không?
Hôm nay Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một sự khôn ngoan thực. Trong khi khôn ngoan của thế gian thúc đẩy chúng ta chiếm lấy "vòng vàng", thì khôn ngoan thật lại bảo hãy là người từ bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta theo Chúa. Theo Chúa Giêsu có nghĩa là sống như Ngài, với một tấm lòng rộng mở, tiếp đón những người cần chúng ta giúp đỡ. Không ai được nghĩ rằng mình có tội khi làm quá nhiều việc để giúp gia đình và con cái. Nhưng hôm nay khôn ngoan của phúc âm nhắc nhở chúng ta là nên luôn hướng đến đời sống vĩnh hằng mai sau. Đó là luôn theo Chúa Giêsu và sống theo lối sống của Ngài.
Lm. Jude Siciliano, OP Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Tiền của luôn là một cám dỗ cho con người, vì " có tiền mua tiên cũng được" nên nỗi bận tâm lớn: TN 28-B105
Tiền của luôn là một cám dỗ cho con người, vì " có tiền mua tiên cũng được" nên nỗi bận tâm lớn nhất của con người là lo lắng kiếm tiền trong cuộc sống, họ bôn ba quên cả ăn uống nghỉ ngơi, nhiều khi vì tiền làm cho họ vong thân. Đồng tiền làm cho con người tối mắt và lòng ham mê của cải bóp nghẹt con tim như tác giả sách khôn ngoan đã cảm nhận " châu ngọc chỉ là bùn đất nếu đem so sánh với sự khôn ngoan, nhưng nó lại làm mê lòng người"(Kn.7,7-11). Chính vì thế mà Tv.89 không kêu nài xin Chúa cho được sống lâu hay giầu có, chỉ xin được no say tình Chúa và vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa ( Đáp ca). Còn trong Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng khuyến cáo về sự nguy hiểm của giầu sang phú quí. Người thanh niên giầu có này giữ mọi điều lề luật buộc từ thuở nhỏ, có nhiều của cải, đó là dấu hiệu được chúc phúc và anh khát khao sự sống đời đời làm cơ nghiệp, nhưng khi được mời gọi tiến cao hơn nữa bằng cách bán tài sản và bố thí cho người nghèo thì anh lặng lẽ bỏ đi.
Đòi hỏi của Chúa Giêsu đặt anh trước một sự lựa chọn giữa của cải dưới đất và kho tàng trên trời, giữa tiền của và theo Chúa. Nhưng anh cảm thấy tiền của lôi kéo anh rất mạnh và anh nhận ra mình bị xiềng xích bởi của cải, như thế của cải chọn anh chứ anh không chọn nổi. Anh không có tự do thì làm sao theo Chúa. Chúng ta thấy rõ ràng anh bất lực, anh đang làm nô lệ cho thần của cho nên lề luật anh đã giữ từ bé không giải thoát được anh. Của cải mà anh cũng như những người Do Thái vẫn quan niệm như dấu hiệu của lời chúc phúc, chỉ xiềng xích anh thôi. Chúa Giêsu nhìn anh tiếc rẻ và kêu lên " Những kẻ cậy dựa vào của cải thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao". Lòng ham mê của cải nơi người thanh niên muốn tiến thân " tôi còn phải làm gì nữa không?" đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân, hay nói đúng hơn tình yêu Thiên Chúa ở nơi anh đã không đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Quả là nơi người thanh niên đã xẩy ra cuộc xung đột mà Thánh Phaolô đã từng trải " Điều tôi muốn, thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại làm"(Rm.7,16)
Chúa Giêsu khẳng định " người giầu khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao" thế nhưng người Do Thái lại coi sự giầu có thịnh vượng là dấu chỉ phúc lành của Thiên Chúa. Tài sản là một điều kiện cần thiết để chu toàn lề luật, mà Chúa Giêsu lại quả quyết ngược lại. Điều ấy Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ cảm nghiệm được sự bất lực của mình " lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Trời" nên phải phó thác trong tay Chúa, không ai tự cứu mình được chỉ có Thiên Chúa mới cứu được thôi. Chúa Giêsu thấy người thanh niên đã giữ được những lề luật từ thở nhỏ, giờ đây chỉ cần anh cố gắng một tý nữa thôi, tín thác vào Chúa nhưng anh đã không làm nổi nên Chúa Giêsu buồn vì Người đặt niềm tin tưởng và yêu mến anh, anh cũng buồn vì cảm thấy mình bất lực, nhưng lại không can đảm thoát ra khỏi sự nô lệ ấy, chỉ vì của cải nó có một hấp lực mãnh liệt, của cải dễ làm người ta khép kín trước Thiên Chúa, và đôi khi vì tiền của chúng ta có thể chà đạp lên quyền lợi tha nhân.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ và mỗi ngừơi chúng ta hãy sống nghèo, sống thân phận của người lữ hành để tín thác vào Chúa và dễ dàng đến với tha nhân, vì theo Chúa là chấp nhận tay trắng, bấp bênh, nhưng lại trở nên giầu có vì trao hiến và an vui. Chúng ta hãy sét lại xem có khi nào chúng ta có thể giúp đỡ anh chị em nhưng vì ích kỷ nên đã không làm? Hoặc có thể hi sinh cho người khác được nhưng sợ phiền hà, sợ liên luỵ ? Hay có thể trợ giúp được người khác nhưng lại so đo tính toán không ?
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết ý thức rằng: của cải chỉ là phương tiện giúp chúng con sống hữu ích nơi trần gian, để chúng con không quá bận tâm thu tích của cải, nhưng biết xử dụng nó mà mua sắm gia tài bất diệt qua sự chia sẻ, giúp đỡ nhưng người nghèo khó, những người đang gặp hoạn nạn rủi ro.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta gặp rất nhiều hoàn cảnh, nhiều trường hợp làm: TN 28-B106
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta gặp rất nhiều hoàn cảnh, nhiều trường hợp làm chúng ta vui, thán phục, nhưng cũng có nhiều sự việc, nhiều người làm chúng ta ngao ngán, buồn phiền. Đoạn Tin Mừng của Thánh Máccô hôm nay giúp chúng ta cảm nghiệm được nỗi buồn của Chúa Giêsu và của anh nhà giầu. Chúa Giêsu muốn anh nhà giầu làm theo ý Chúa, anh nhà giầu lại chỉ muốn làm theo ý cá nhân của anh.
Ba bài đọc sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý của Chúa và Lời của Ngài muốn hướng dẫn chúng ta như thế nào.
Ở đời, khuynh hướng của con người là muốn làm giầu, muốn hưởng thụ, bám víu lấy những tiện nghi và những vật chất của cải chóng qua. Anh nhà giầu đã hăm hở đến gặp Chúa Giêsu để kể ra những điều anh đã giữ. Chúa nói với anh, Chúa kể ra với anh những tội lỗi con người hay phạm, những điều răn phải giữ như:” Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ “ ( Mc 10, 19 ). Anh nhà giầu hiên ngang thưa với Chúa Giêsu:” Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ “ ( Mc 10, 20 ). Đúng là anh nhà giầu tốt lành, nhưng có cái gì thật chớ trêu, thật oái oăm đè nặng anh nhà giầu này. Bởi vì khi Chúa Giêsu đề nghị anh ta:” Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi “ ( Mc 10, 21 ). Anh nhà giầu mặc dù đã giữ mọi giới luật, nhưng anh chưa ra khỏi cái vỏ ốc của mình,anh còn nô lệ vật chất, của cải và không dám vượt ra khỏi sự nô lệ ấy. Chúng ta thấy rõ anh giầu có tuy vẫn khao khát sự sống đời đời nhưng thực tế anh không dám ra khỏi cái vỏ ốc của mình. Chúng ta cũng vậy, nhiều lúc chúng ta cũng khao khát sự sống vĩnh cửu, nhưng chúng ta vẫn bị vật chất, của cải, tiền bạc trì trệ và níu kéo. Chúng ta một cách nào đó đã không dám vượt xa hơn, ra khỏi, thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, tiền tài, danh vọng, phù phiếm thế gian. Anh giầu chắc chắn sẽ khó hạnh phúc vì hạnh phúc vì đến với những người dám làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Người giầu có khó vào nước trời, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn ngưởi giầu có vào được nước trời. Đúng là sự trớ trêu. Bởi vì, vào thời Chúa Giêsu người giầu có được coi là người hạnh phúc. Nhưng theo quan điểm của Chúa, giầu có là sự cản trở con người vào được Nước Trời. Của cải dễ làm con người xa cách Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã sống khó nghèo và dạy các môn đệ sống khó nghèo. Ngài làm thế để luôn minh chứng cho nhân loại Ngài tín thác vào Thiên Chùa Cha và dễ dàng đến với anh em. Theo Đức Kitô là chấp nhận con đường hẹp, chấp nhận sống không nơi tựa đầu, không nơi nương tựa, nhờ vả. Theo Đức Kitô là chấp nhận khó nghèo, thanh bạch , nhưng theo Đức Kitô cũng trở nên người giầu có. Đức Kitô đã hứa ban sự giầu có không như thế gian tặng ban nhưng là sự giầu có mở ra trao hiến, không phải là sự giầu có do ích kỷ, bủn xỉn, sự giầu có chiếm đoạt do lòng tham không đáy của con người, nhưng là sự giầu có hiến dâng và trao ban. Theo Đức Kitô không chỉ là bỏ ruộng vườn, nhà cửa, cha mẹ, vợ con, những người thân thương, mà hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa là Sự Thật, Sự Sống vv…Các môn đệ của Chúa khi đi theo Thầy…Họ bỏ vợ con, nghề nghiệp, nhà cửa nhưng họ liền được gấp trăm ở đời này là được đi nhiều nơi, quen nhiều người và được nhận mọi người như là anh chị em của mình. Theo Đức Giêsu, chúng ta sẽ được tất cả: được chính Đức Kitô.
Lạy Chúa, Xin dạy con vững bước trong đêm trăng mờ ảo hay ngày sáng rạng ngời.Xin dạy con nhìn phía trước đừng lầm lẫn những gì của ngày mai với hôm qua. Xin dạy con cùng Ngài làm nên ngày mới, đừng tích tụ hoa tàn rữa bên lối cũ đường xưa. Xin dạy con mở toang những vách ngăn thành cánh cổng của một lộ trình mới ( ĐHY Roger Etchegaray ). Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
***
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa ( Mẹ Têrêsa Calcutta ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1Tại sao anh nhà giầu lại sụ nét mặt ? 2.Chúa muốn anh nhà giầu điều gì ? 3.Được gấp trăm có nghĩa là sao ? 4.Chúa hứa những gì với Phêrô ? 5.Cách nói con lạc đà chui qua lỗ kim có nghĩa gì ? 6.Theo Đức Kitô được gì, mất gì ?
(17) Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. (18) Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. (19) Hẳn anh biết điều răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”.(20) Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. (21) Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (23) Đức Giê-su rảo mắt nhìn xung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những nHgười có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (24) Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! (25) Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. (26) Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa, và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (27) Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. (28) Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (29) Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, (30) mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau”.
2. Ý CHÍNH:
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và đã có thiện chí tuân: TN 28-B107
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và đã có thiện chí tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa từ nhỏ. Nhưng anh lại không đủ dũng cảm và lòng tín thác vào Chúa quan phòng để làm theo lời khuyên của Đức Giê-su là: Chia sẻ của cải cho người nghèo để biến nó thành kho báu ân sủng trên trời, rồi đi theo làm môn đệ của Người. Sau đó, trả lời cho Phê-rô về phần thưởng của môn đệ, Đức Giê-su hứa sẽ ban gấp trăm những điều họ đã tự nguyện từ bỏ. Người cũng tiên báo những khó khăn họ sẽ gặp phải trên đường truyền giáo và sau này sẽ được sự sống muôn đời!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 17-18:
+ Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến: Mác-cô chỉ nói trống là “có một người”, đang khi Tin Mừng Lu-ca nói rõ hơn là: “Có một thủ lãnh” (x. Lc 18,18), và Tin Mừng Mát-thêu nói là “một thanh niên” (x. Mt 19,20).
+ quì xuống trước mặt Người: Đây là thái độ biểu lộ lòng tôn kính đối với Đức Giê-su, mà người Do Thái quen làm đối với một Rab-bi họ kính trọng.
+ Thưa Thầy nhân lành: Khi gọi Đức Giê-su là “nhân lành”, anh thanh niên tỏ ý ngưỡng mộ tác phong của Người, thể hiện qua lời nói, thái độ và hành động của Người đối với các bệnh nhân và trẻ thơ...
+ tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?: sự sống đời đời (x. Đn 12,2) có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Cũng có thể coi đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47). Anh ta xin Đức Giê-su tư vấn giúp anh biết phải làm gì để được vào Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và thiết lập.
+ Sao anh nói tôi là nhân lành?: Về bản tính lòai người, Đức Giê-su khiêm tốn từ chối không nhận hai từ “nhân lành” mà chàng thanh niên khen tặng.
+ Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa: Người cho chàng thanh niên biết rằng: Sự nhân lành tuyệt đối chỉ có nơi một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa vừa là mẫu mực, vừa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Thực ra, với tư cách là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cũng xứng đáng được gọi là “Đấng Nhân Lành” ngang bằng Thiên Chúa.
- C 19-20:
+ Hẳn anh biết các điều răn: “chớ giết người...”: Các điều này phần lớn được rút từ phần hai của Thập Giới (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), về những quan hệ giữa người với người. Nêu ra những giới răn này, Đức Giê-su muốn chàng thanh niên kiểm điểm đời sống về những điều cấm chứ chưa đề cập đến những bổn phận cần làm.
+ “Tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”: Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy anh có lòng thành thật, không phô trương tự mãn như người Pha-ri-sêu trong Đền Thờ (x. Lc 18,11-12). Qua câu n2y, anh thanh niên chỉ muốn hỏi rằng: Từ trước đến nay, tôi chưa làm thiệt hại cho ai điều gì. Vậy tôi cần làm gì thêm nữa để nên hoàn thiện? (x. Mt 19,20-21).
- C 21-22:
+ Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến: Người biểu lộ tình cảm đối với anh thanh niên đầy thiện chí này,
+ Anh chỉ thiếu có một điều: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi: .Để nên trọn lành, ngoài việc giữ các giới răn như anh đã làm, Đức Giê-su khuyên anh làm ba việc này: Một là về bán gia sản để không còn bị lòng tham của cải ràng buộc; Hai là đem số tiền ấy chia sẻ cho người nghèo để biến nó trở thành kho báu thiêng liêng trên trời; Ba là quyết tâm đi theo làm môn đệ Đức Giê-su.
+ Anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải: Chàng thanh niên thất vọng chán nản bỏ đi, vì anh không thể từ bỏ lòng tham của cải thế gian như đòi hỏi của Đức Giê-su. Anh muốn nên trọn lành nhưng không muốn từ bỏ của cải vật chất. Nói cách khác: Anh ta yêu tiền bạc hơn quyết tâm muốn nên hoàn thiện.
- C 23-25:
+ Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao!”: Câu nói tỏ ý thương tiếc một tâm hồn tuy thiện chí, nhưng lại bị lòng ham mê tiền bạc trói buộc, đến nỗi không thể vươn cao lên đỉnh trọn lành!
+ Các môn đệ sững sờ: Các ông sững sờ kinh ngạc, vì lời dạy của Đức Giê-su khác hẳn suy nghĩ của các ông và người Do thái thời đó: Giàu có là một hồng ân do Thiên Chúa thưởng ban cho người công chính, như tác giả Thánh Vịnh 37 đã viết: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ. Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay. Dòng giống mai sau hưởng phúc lành. Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời. Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung...” (Tv 37,25-28).
+ “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”: Trước đây các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh cổng lớn ở tường thành Giê-ru-sa-lem, mà một con lạc đà không thể đi qua, và một vài thủ bản Kinh Thánh đọc là “sợi dây thừng” (kamilos) thay vì “con lạc đà” (kamêlos), chúng ta phải công nhận đây là một kiểu nói ngoa ngữ (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42): Đức Giê-su dùng hình ảnh con lạc đà to lớn không thể chui lọt qua lỗ kim khâu nhỏ để dạy rằng: Người giàu có hay những kẻ tham lam dựa vào thế lực của đồng tiền sẽ không thể vào được Nước Thiên Chúa!
- C 26-27:
+ Thế thì ai có thể được cứu?: Nghe lời giải thích của Đức Giê-su, các môn đệ càng kinh ngạc và thất vọng hơn khi nghĩ đến bản thân các ông cũng tham lam tiền bạc, nên cũng khó vào Nước Thiên Chúa, nên đã thốt lên: “Thế thì ai có thể được cứu!?”.
+ “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa: “mọi sự đều có thể được”: Đức Giê-su cho thấy hiệu lực của ơn chúa: Những gì lòai người không thể vượt qua, thì lại chẳng là gì trước quyền năng của Thiên Chúa. Vì đối với Thiên Chúa “mọi sự đều có thể được” (x Lc 1,37).
- c 28-30:
+ Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!: Phê-rô kể ra những gian lao vất vả trên bước đường theo Thầy, để yêu cầu Thầy bù đắp phần thiệt thòi ấy.
+ Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng: Đức Giê-su hứa chắc rằng: những ai đã quảng đại từ bỏ của cải, tình cảm ruột thịt vì lòng mến Người và dấn thân đi loan báo Tin Mừng, thì sẽ được lại gấp trăm những gì đã dâng hiến. Họ sẽ có thêm một gia đình mới là Cộng Đoàn Giáo Hội, sẽ được quản lý các công trình lớn lao của Hội Thánh... và cuối cùng còn được hạnh phúc vui hưởng sự sống đời đời.
+ cùng với sự ngược đãi: Tin Mừng Mác-cô cũng tiên báo những đau khổ sỉ nhục mà các môn đệ phải chịu do các đầu mục Do Thái gây ra để cùng với Thầy đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mc 8,31).
4. CÂU HỎI:
1) Thái độ quì gối xuống trước mặt Đức Giê-su của chàng thanh niên trong Tin Mừng nói lên điều gì?
2) Tại sao anh ta gọi Đức Giê-su là “Thầy nhân lành”?
3) Đức Giê-su kể ra một số điều cấm làm nhằm mục đích gì?
4) Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy tình trạng tâm hồn anh thế nào?
5) Đức Giê-su biểu lộ cảm tình đối với anh ta ra sao?
6) Ba điều Đức Giê-su dạy chàng thanh niên làm để nên trọn lành là những việc gì?
7) Tại sao anh không làm theo lời Đức Giê-su dạy mà buồn rầu bỏ đi?
8) Câu Đức Giê-su nói: “Những người có của thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” cho thấy Người lấy làm tiếc cho chàng thanh niên này về điều gì?
9) Tại sao các môn đệ lại kinh ngạc sững sờ khi nghe Đức Giê-su cho biết người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa?
10) Đức Giê-su còn dùng hình ảnh nào cho thấy người giàu thật khó có thể vào được Nước Thiên Chúa?
11) Các môn đệ đã thốt lên câu nào ho thấy sự hoang mang của các ông?
12) Lời trấn an các môn đệ cho thấy sức mạnh của ơn Thiên Chúa thế nào? Câu này tương tự câu nào trong biến cố Truyền Tin?
13) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì để bù đắp sự mất mát của các môn đệ khi phụng sự Người? 14) Qua câu “kèm theo sự ngược đãi” Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi (Mc 10,21).
2. CÂU CHUYỆN: CẦN SỰ NHIỆT TÌNH VÀ QUYẾT TÂM CAO:
Có một người kia làm nghề bán sách rong. Anh ta đi từ nhà này sang nhà khác, mang theo một túi to chứa nhiều loại sách quí. Một hôm anh ta bước vào nhà một bác nông dân. Ông này đang ngồi đu đưa trên chiếc ghế xích đu ở sân trước nhà, với dáng điệu của người ung dung nhàn hạ. Người bán sách liền tiến đến gần ngỏ lời: “Thưa ông, tôi xin giới thiệu với ông một cuốn sách dạy về một phương pháp canh tác mới, sẽ làm phát sinh hoa trái gấp 10 lần phương pháp canh tác hiện nay”. Nhưng bác nông dân cứ tiếp tục đu đưa chiếc xích đu mà không quan tâm đến lời của người bán sách dạo. Sau một lúc im lặng, cuối cùng bác nông dân mới liếc mắt nhìn người bán sách và nói rằng: “Này anh bạn trẻ, nói thật với anh: Chẳng cần đến sách của anh, tôi cũng biết cách làm cho cây cối ra hoa trái gấp mười lần hiện nay đấy”.
3. SUY NIỆM:
1) Không làm được việc tốt vì thiếu động lực:
Bác nông dân trong câu chuyện trên tuy biết cách làm hoa trái tăng lên gấp mười lần, nhưng đã không làm, vì thiếu quyết tâm cao. Cũng vậy, chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy có thiện chí muốn nên trọn lành để được sống đời đời nhưng lại không quyết tâm làm theo lời dạy của Đức Giê-su, cụ thể là từ bỏ của cải để sống siêu thóat vì Nước Trời (x Mc 10,21). Anh ta đã buồn bã rút lui vì Đức Giê-su đòi anh phải từ bỏ thứ mà anh vốn yêu thích và tin tưởng như chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Đức Giê-su đòi hỏi trừ việc từ bỏ của cải. Cũng như chàng thanh niên trong Tin Mừng, nhiều người chúng ta hôm nay cũng biết rõ Đức Giê-su đòi phải sẵn sàng chia sẻ một phần của cải cho người nghèo khổ bất hạnh để nên hòan thiện, nhưng chúng ta đã không làm được vì thiếu quyết tâm cao.
2) Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!:
Ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co giữa một bên là ước muốn nên hòan thiện và bên kia là sức quyến rũ lôi kéo của tiền bạc. Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay đã không muốn chia sẻ gia sản cho người nghèo, vì anh coi sự giàu có là phúc lành do Thiên Chúa ban, thế mà Đức Giê-su lại coi nó là trở ngại phải từ bỏ trước khi đi theo làm môn đệ của Người.
3) Giá trị của lối sống từ bỏ siêu thóat của Đức Giê-su: Đức Giê-su đã cho biết về lối sống nghèo khó siêu thóai của Người: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Mt 8.20). Người cũng đòi môn đệ phải sống khó nghèo khi đi thực tập truyền giáo: ““Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo (Lc 9,3). Tuy nhiên, theo Đức Giê-su: sự từ bỏ này không những không bị thiệt thòi mà còn được Chúa bù đắp: “Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau” (Mc 10,30).
Như vậy: Đức Giê-su đòi môn đệ phải biết từ bỏ của cải vật chất đời này để được giàu có ân sủng sau này: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Vì đối với Chúa Giê-su: “Cho thì có phúc hơn là nhân” (Cv 20,35). Nhất là khi biết từ bỏ của cải vật chất, các môn đệ sẽ nhận được mối lợi quan trọng nhất là chính Đức Giêsu như lời thánh Phao-lô: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (Pl 3,8).
4) Động lực đời sống siêu thóat là lòng mến Chúa:
Một người chồng thực sự yêu thương gia đình, sẽ không bằng lòng với việc tránh làm điều thiệt hại cho vợ con như: không nói dối, không đánh đập, không la mắng vợ con... Nhưng sẽ luôn hy sinh bản thân cho vợ con mình được bình an và hạnh phúc. Khi đối mặt với bọn cướp, tình yêu thực sự sẽ làm cho người chồng dám hy sinh tính mạng để đứng ra bảo vệ vợ con khỏi bị hãm hại. Cũng vậy, trên con đường nên hòan thiện, chính “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14). Chỉ nhờ tình yêu Chúa thôi thúc, chúng ta mới có thể quảng đại chia sẻ của cải vật chất cho tha nhân theo lời Người dạy, vượt qua đòi hỏi của Lề luật là: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai...” (Mc 10,19).
5) Chúng ta phải sống từ bỏ thế nào?:
Trong thực tế, ngòai một số tu sĩ được ơn kêu gọi đặc biệt dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân trong đời dậng hiến, còn nói chung các tín hữu không nhất thiết phải cho đi tất cả tài sản hợp pháp của mình, vì “phú quí sinh lễ nghĩa; bần cùng sinh đạo tặc!”. Như bao người khác, chúng ta cũng cần phải có tiền bạc để không nên gánh nặng cho tha nhân (x 2 Tx 3,8), không bị lệ thuộc hoặc và đánh mất phẩm giá của mình khi bị “khố rách áo ôm”, không nhà cửa tiền bạc… Điều Đức Giê-su muốn mọi tín hữu thực hành là: “Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Đừng coi tiền bạc là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ, vì: “Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng là đầy tớ tốt”. Một khi là phương tiện, tiền bạc sẽ giúp chúng ta làm được nhiều việc lớn lao, chu tòan được sứ vụ “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi anh em”.
4. THẢO LUẬN:
1-Mỗi buổi tối trước khi nghỉ đêm, bạn hãy dành vài ba phút để tự vấn lương tâm về quyết tâm như sau: Hôm nay tôi đã làm được việc nào hữu ích cho cha mẹ, chồng vợ hay một ai thực sự cần sự trợ giúp hay không?
2- Để thực hành câu “mỗi ngày làm vui lòng ít nhất một người”, ngòai quyết tâm cao, chúng ta còn phải làm gì?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay con hiểu rằng: Vào Nước Trời thật khó biết bao! Cái khó ấy phát sinh từ lòng tham không đáy của con: Là người giàu có, con sẽ coi của cải là tài sản riêng mình. Còn nếu nghèo khó, con lại ước mơ giàu sang vượt quá khả năng của con. Xin Chúa giúp con ý thức rằng: Của cải vật chất tuy có giá trị nuôi sống con người, nhưng lại không mấy bền vững. Chúa muốn con trước tiên phải “lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn việc ăn gì, mặc gì, làm gì thì Chúa sẽ lo giúp con sau”. Xin dạy con luôn biết quảng đại dấn thân phục vụ Chúa trong mọi người để đáp lại lời mời gọi của Chúa vì biết rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; Chính khi thứ tha là khi được tha thứ; Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 10:17-27)
Bài Tin Mừng hôm nay có hai tin buồn: chàng thanh niên giàu có muốn làm môn đệ Chúa đã: TN 28-B108
Bài Tin Mừng hôm nay có hai tin buồn: chàng thanh niên giàu có muốn làm môn đệ Chúa đã “buồn rầu bỏ đi”, và lời nhắn nhủ của Chúa Giê-su “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!” Nhưng sau hai tin buồn ấy lại có tin vui: “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. Đề tài “những người có của khó vào Nước Thiên Chúa” không những đúng đối với trường hợp người thanh niên muốn theo Chúa, nhưng cũng gây thắc mắc không ít đối với các môn đệ ngày xưa và chúng ta hôm nay.
Đọc những đoạn Tin Mừng kể lại việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên, chúng ta đều gặp thấy cùng một điều, là các ông “đã bỏ lại hết” để đi theo Chúa: gia đình, tài sản, nghề nghiệp… Đó là những thứ không thể bán, cho nên họ chỉ bỏ lại để được làm môn đệ Chúa. Còn đối với người thanh niên muốn theo Chúa hôm nay, Người dạy anh “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo”. Thực ra Chúa chỉ đòi anh phải làm một cuộc chuyển đổi: bán đi kho tàng trần gian để “được một kho tàng trên trời”. Đó là cái giá người muốn làm môn đệ Chúa phải trả. Nhưng đối với người thanh niên này, làm như thế chẳng khác chi thả mồi bắt bóng, vì anh ta muốn sống triết lý thực tế. Kho tàng trên trời đâu chưa thấy, chỉ thấy trong chốc lát mình đã tay trắng! Tuy nhiên tại sao Chúa Giê-su đòi anh ta phải làm một chuyện vô lý như vậy? Bởi vì ai muốn làm môn đệ Chúa là phải liều, phải đặt hết tin tưởng vào Đấng mình muốn theo, và phải đánh đổi mọi sự mình có để chiếm được “kho tàng” là chính Chúa. Đúng vậy, Chúa trở thành “kho tàng” của người môn đệ, vì từ kho tàng không hề cạn kiệt này, người môn đệ sẽ học được thật nhiều điều quý giá đến nỗi tất cả vàng bạc trần gian cũng không sao mua được. Cho nên việc “bán đi mọi sự” chúng ta có để mua được “chỉ có một điều chúng ta thiếu”, thì đúng là chúng ta được lời quá rồi! Hơn nữa việc bán đi này lại còn lời thêm nữa, đó là những người nghèo chung quanh chúng ta cũng được giúp đỡ chăm sóc nhờ lòng quảng đại của chúng ta.
Chúa Giê-su không lên án người giàu. Thực ra, Người cũng có những người bạn giàu sang, chức quyền. Nhưng Người chỉ nêu lên một điều thực tế là sự giàu có và của cải có thể trở thành kỳ đà cản mũi cho những ai muốn vào Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa dành cho những ai vì biết thân phận nhỏ bé và tội lỗi, nên hoàn toàn đặt tin tưởng vào tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Trái lại, người có của cải dễ dàng tin vào những gì mình đang có trong tay, nên không thấy việc tin cậy vào Chúa là cần thiết và đối với họ Nước Thiên Chúa chỉ là đồ phụ tùng không có cũng chẳng sao. Khó khăn không phải là chính của cải, nhưng là lòng tin tưởng của chúng ta vào của cải. Cũng khó khăn, đó là làm sao chuyển đổi lòng tin vào của cải sang lòng tin vào Chúa Ki-tô! Đứng trước khó khăn này, Chúa Giê-su cho chúng ta một khuôn vàng thước ngọc: Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được! Chúa đòi chúng ta bước liều ban đầu, còn bao nhiêu cái không thể sau đó, Người sẽ thực hiện cho chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Rõ ràng Chúa dạy người thanh niên hãy bán những gì anh có mà cho người nghèo. Nhưng “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Đây thực là một bài học sống động cho chúng ta, những người đang làm môn đệ Chúa. Giống như anh ta, chúng ta cũng có nhiều của cải. Không hẳn chỉ là của cải vật chất, mà là của cải vô hình! Đó là những nết xấu chúng ta không muốn bỏ, là danh vọng hão huyền chúng ta theo đuổi, là dục vọng chúng ta không dứt khoát… Có kể ra hết của cải chúng ta có cũng không xuể, vì thực sự chúng ta giàu có! Mà toàn là những thứ thuộc về thế gian và ma quỷ!
Do đó, Chúa có dạy chúng ta bỏ lại hoặc bán lại cho ma quỷ thế gian những thứ giàu có ấy để mà theo Chúa, thì chúng ta phải vui mừng hớn hở, chứ đừng vội sa sầm nét mặt! Lúc nào “Chúa cũng đưa mắt nhìn chúng ta và đem lòng yêu mến”. Người luôn chờ đợi chúng ta bán đi mọi sự chúng ta có để đánh đổi lấy chính Người, vì Người là con đường, sự thật và sự sống của chúng ta (Gio-an 14:6). Lm Đa-minh Trần đình Nhi
Mc 10,17-31: 17 Khi Người vừa lên đường, có một người chạy đến và quỳ gối xuống hỏi Người: “Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” 18 Đức Giêsu đáp lại người ấy: “Sao anh nói tôi là tốt lành? Không có ai tốt lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Anh đã biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20 Người ấy nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21 Đức Giêsu nhìn anh ấy và yêu mến anh. Người bảo người ấy: “Anh chỉ thiếu một điều; hãy đi, những gì anh đang có hãy bán và cho người nghèo, và anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nhưng bị sốc bởi lời ấy, người ấy ra đi trong buồn sầu; vì người ấy có nhiều của cải.
23 Rảo mắt nhìn quanh Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Thật khó những người có của sẽ vào Nước Thiên Chúa!” 24 Nhưng các môn đệ sững sốt về những lời nói của Người. Nhưng để trả lời Người lại nói tiếp: “Các con ơi, vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” 27 Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải thế đối với Thiên Chúa, vì mọi sự đều có thể được đối với Thiên Chúa.”
28 Ông Phêrô lên tiếng thưa Người: “Thầy xem, chúng tôi đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” 29 Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà lại không nhận được gấp trăm ngay bây giờ, ở đời này, nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, cùng với sự bắt bớ, và sự sống muôn đời trong thời đang đến. 31 Vì nhiều người đứng đầu sẽ xuống hàng cuối, còn những người đứng cuối sẽ lên hàng đầu.”
Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ các môn đệ (9:30-10:31). Lần nầy Người dạy họ điều cần thiết: TN 28-B109
Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ các môn đệ (9:30-10:31). Lần nầy Người dạy họ điều cần thiết phải làm để vào được Nước Thiên Chúa. Đoạn 10:17-31 có thể được phân chia thành ba phần dựa trên ba cuộc đối thoại khác nhau: 1- Đối thoại giữa Chúa Giêsu và người giàu có: mời gọi bán của cải đi và theo Người (10:17-22); 2- Giữa Chúa Giêsu và các môn đệ: rất khó vào Nước Thiên Chúa (10:23-27); 3- Giữa Chúa Giêsu và Phêrô: bỏ mọi sự để theo Người và sự sống muôn đời (10:28-31). Cụm từ “sự sống muôn đời” đóng khung đoạn nầy (10:17.30).
Câu hỏi của người giàu có mở đầu giáo huấn về của cải và sự sống muôn đời (10:17). Hành vi cúi gối xuống trước Chúa Giêsu khi đặt câu hỏi với Người, như người phong hủi đã làm (x. 1:40), cho thấy người nầy đang cần một giải đáp đúng đắn liên quan đến sự sống muôn đời mà không ai thể giải đáp được, ngoại trừ Chúa Giêsu mà người ấy nhận ra là vị “Thầy tốt lành” (10:17.20). Để trả lời, trước tiên Chúa Giêsu nhắc lại cho người ấy là “không có ai tốt lành ngoại trừ Thiên Chúa”. Qua đó Người ám chỉ tương quan của Người với Thiên Chúa là cùng bản tính tốt lành (10:18; x. 2:7.10). Những điều răn Chúa Giêsu nói ra được ghi trong Thập giới đã được Thiên Chúa ban cho dân Người trên núi Sinai (Xh 20:12-16; Đnl 5:16-21). Tuy nhiên, đối với Chúa Giêsu tất cả những điều nầy mà người giàu có đã tuân giữ từ thuở nhỏ vẫn chưa đủ. Chúng chỉ đề cập đến những điều xấu không được làm cho tha nhân (10:19-20). Phần tiếp theo là giáo huấn riêng của Chúa Giêsu. Người nói đến những điều tích cực hơn. Người đưa ra một dãy các mệnh lệnh trực tiếp nói với người ấy “Hãy đi”, “Hãy bán”, “Hãy cho”, kèm theo lời hứa “kho tàng trên trời”, và “Hãy theo Tôi”. Như thế, Người muốn người ấy không chỉ không làm điều gì hại đến tha nhân, mà còn bán của cải người ấy đang có mà cho người nghèo để có được “kho tàng trên trời”, là sự sống muôn đời; rồi sau khi đã thực hiện điều ấy, hãy đến và đi theo làm môn đệ của Người (x. 1:17.19; 2:14). Tuy nhiên, người ấy chỉ dừng lại ở Luật cũ, và từ chối làm theo lời Người (10:22). Vậy, điều duy nhất mà người giàu có nầy thiếu là sự tự do đối với những của cải đang có, nên không thể đi theo Người.
Sau khi người giàu có đã đi rồi, Chúa Giêsu tiếp tục câu chuyện với các môn đệ của Người về tương quan của người giàu có nói chung và Nước Thiên Chúa (10:23-27). Đoạn nầy được phân chia thành hai: 10:23-25 và 10:26-27. Trong 10:23-25, Chúa Giêsu dùng cụm từ “vào Nước Thiên Chúa” đến ba lần (10:23.24.25); đến hai lần cụm từ nầy được dùng trong câu ta thán (10:23.24). Lần thứ nhất, nhấn mạnh đến khó khăn để vào Nước Trời của người giàu có nói chung; lần thứ hai, nhấn mạnh đến việc phải vào trong Nước ấy, nhưng rất khó; lần thứ ba, nhấn mạnh đến sự khó khăn không thể vượt qua ấy đối với người giàu có; được minh họa cách ẩn dụ qua hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim. Điều nầy dẫn đến kết luận ở câu 10:26-27 là chỉ một mình Thiên Chúa quyền năng, mới có thể giải thoát con người khỏi nguy hiểm do của cải và ban sự sống cho họ. Vậy, từ sự chối từ của người giàu có ấy, Chúa Giêsu nói đến sự khó khăn cách chung của một người giàu có để vào Nước Thiên Chúa.
Sau cùng là cuộc đối thoại về cùng đề tài trên giữa Chúa Giêsu và Phêrô, đại diện nhóm, “chúng tôi” (10:28-31). Điều khác biệt nổi bật giữa các môn đệ và người giàu có là họ đã bỏ mọi sự (x. 1:18-20), và đi theo Người cho đến lúc nầy (10:28). Chúa Giêsu đón nhận lời của Phêrô. Cách nói mở đầu câu “Quả thật, tôi nói với anh em” (10:29) nhấn mạnh là điều sắp nói sẽ có giá trị cho mọi thời, chứ không chỉ cho các môn đệ lúc ấy. “Vì Tôi và vì Tin Mừng” gặp lại ở đây như để xác định cách cụ thể hơn là việc theo Chúa tất dẫn đến việc từ bỏ mọi sự, nghĩa là mất sự sống đời nầy (x. 8:35). Tuy nhiên, từ bỏ không phải là mất đi, mà là nhận lãnh tất cả trong trật tự mới. Tất cả những ai sống theo lời Người - ở đây là từ bỏ mọi sự - sẽ được tự do trong mọi sự để theo Người và sẽ hiệp thông với nhau và với Chúa Giêsu cách trọn vẹn. Do đó, tương quan thân thiết ở đời nầy sẽ lớn lên “gấp trăm” (x. 3:34-35). Còn sự bắt bớ mà Người hứa ban là cơ hội tuyệt hảo để người ấy thực hiện sự từ bỏ trọn vẹn chính mình và dứt khoát theo Người (x. 4:17; 13:9-13). Vậy, lời hứa của Chúa Giêsu không chỉ là sự sống muôn đời trong tương lai, mà cả sự bắt bớ và “mọi sự” trong hiện tại.
Chúa Giêsu không từ chối người giàu có, nhưng cho thấy cách thẳn thắng sự giàu có cản trở việc đón nhận sự sống muôn đời và việc vào Nước Thiên Chúa. Người muốn các môn đệ của Người được tự do trong mọi sự để đi theo Người.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao một kho báu mà mỗi người cần phải tìm kiếm, đó là: TN 28-B110
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao một kho báu mà mỗi người cần phải tìm kiếm, đó là Đức Khôn Ngoan. Thực ra đây là đề tài quen thuộc được trình bày cùng với những nhân đức cột trụ khác. Tuy nhiên ba bài đọc hôm nay kết hợp với nhau cho ta một cái nhìn rất đặc biệt về Đức Khôn Ngoan, là Đức Khôn Ngoan phải được tìm thấy trong Lời Chúa và nhất là trong Chúa Ki-tô, “Thầy nhân lành” của toàn thể nhân loại.
1. Giá trị vượt bậc của Đức Khôn Ngoan (bài đọc Cựu Ước – Khôn ngoan 7:7-11)
Dĩ nhiên đây không phải là một khảo luận thần học về đức khôn ngoan, nhưng bài đọc cũng đủ để giúp ta nhận ra giá trị siêu đẳng của đức khôn ngoan, với những so sánh thật giản dị và lòng quý trọng đích thực của người được ơn khôn ngoan. Trước hết bài đọc xác định xuất xứ của đức khôn ngoan. Ta có được ơn khôn ngoan là do “nguyện xin và kêu cầu cùng Thiên Chúa”. Do đó, ơn khôn ngoan là ơn Chúa ban cho ta khi ta cầu xin Chúa. Gương của vua Sa-lô-môn nói lên điều ấy (2 Sb 1:7-12). Vậy người nhận được ơn khôn ngoan nghĩ gì về ơn mình đã nhận được? Người ấy “quý trọng” đức khôn ngoan vì giá trị vượt bậc của nó. Tác giả sách Khôn ngoan đã đưa ra một loạt so sánh để mô tả giá trị của đức khôn ngoan. So sánh danh giá ngôi báu hay ngai vàng của vua chúa với đức khôn ngoan, thì đức khôn ngoan được quý trọng hơn nhiều. Của cải, châu báu vàng bạc đem so sánh với đức khôn ngoan, chúng chỉ là cát bụi bùn đất. Danh tiếng, của cải, vàng bạc là những thứ quý trên đời và người ta nhiều khi dám liều mạng để chiếm hữu những thứ ấy. Vậy mà đức khôn ngoan còn có giá trị vượt trên cả chúng. Sau thái độ quý trọng là thái độ ham chuộng đức khôn ngoan. Ai mà chẳng ham có được sức khỏe tốt, bền bỉ và một sắc đẹp không tàn phai. Đó là lý do khiến nhiều người không ngại bỏ giờ và tiền bạc để tập luyện thân thể, chăm sóc sắc đẹp. Cũng vậy, người ham chuộng đức khôn ngoan sẽ tìm đủ cách và hy sinh tất cả để có thể đạt được và duy trì đức khôn ngoan cho mình. Nếu ta đánh đổi mọi sự để có được đức khôn ngoan, thì đức khôn ngoan sẽ không phụ ta. Đức khôn ngoan sẽ mang theo “mọi sự tốt lành đến với ta”.
Đức khôn ngoan (sapientia) do động từ sapere nghĩa là “nếm, thưởng thức”. Nhờ đức khôn ngoan, ta được “nếm” xem Chúa tốt lành và thiện hảo biết bao, cảm nghiệm sự hiện diện và quyền năng của Người trong mọi sự, khám phá chiều sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy (1 Cr 2:5-10). Đức khôn ngoan còn giúp ta biết phán đoán sự vật theo đúng ý nghĩa cao cả của chúng, để sau hết ta biết được nguyên do cuối cùng của mọi sự chính là Thiên Chúa (Rm 1:19). Trong đời sống Ki-tô hữu, cốt lõi của khôn ngoan là suy nghĩ, hiểu và hành động theo theo đúng cương vị của những người đã được rửa tội trong Chúa Ki-tô. “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 2:5). Đó là sự khôn ngoan đích thực.
2. Ta gặp được đức khôn ngoan khi lắng nghe Lời Chúa (bài đọc Tân Ước – Do-thái 4:12-13)
Kinh Thánh là Lời Chúa được ghi chép lại. Đoạn ngắn trích thư gửi tín hữu gốc Do-thái mô tả Lời Chúa bằng hình ảnh gươm hai lưỡi. Gươm một lưỡi cắt cũng đủ rồi, huống chi gươm hai lưỡi! Hình ảnh gươm hai lưỡi chỉ muốn nói lên những đặc điểm của Lời Chúa, là “sống động, hữu hiệu, sắc bén, xuyên thấu tâm linh, phê phán tâm tình và tư tưởng của lòng người”. Gươm hai lưỡi một lúc cắt cả hai phía trên và dưới. Cũng vậy, Lời Chúa như gươm hai lưỡi giúp ta cùng một lúc khám phá Thiên Chúa và chính ta, biết Thiên Chúa là Đấng nào và ta là ai. Như vậy, đức khôn ngoan nằm ngay trong Lời Chúa để giúp ta biết mình và biết Chúa. Đoạn thư Do-thái tiếp tục giải thích về sự hữu hiệu của Lời Chúa: “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:13).
“Trần trụi và phơi bày trước mặt Chúa” là điều làm ta hãi sợ, như ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng (St 3:10), hoặc như Phê-rô trước mặt Chúa Giê-su sau mẻ cá lạ (Lc 5:8). Tuy nhiên nếu ta thực sự lắng nghe và để cho Lời Chúa “xuyên thấu” tâm linh ta, thì đức khôn ngoan sẽ dạy ta biết khiêm nhượng nhìn nhận thân phận tội lỗi của ta như ông Phê-rô đã làm và ta sẽ chấp nhận sám hối theo như Lời Chúa dạy bảo ta. Lời Chúa tuy giống như gươm hai lưỡi, nhưng mục đích không phải để giết ta, mà là cứu ta và chữa lành ta. Cũng như đức khôn ngoan đã đem mọi sự tốt lành đến với ta thế nào (Kn 7:11), Lời Chúa sẽ nảy sinh hoa trái dồi dào nơi tâm hồn ta như vậy (Mt 13:8tt).
3. Đức khôn ngoan thể hiện nơi Chúa Giê-su (bài Tin Mừng – Mác-cô 10:17-30)
Phụng vụ Lời Chúa giới thiệu với ta giá trị của đức khôn ngoan và sức mạnh của Lời Chúa. Tuy nhiên, cụ thể nhất vẫn là Chúa Ki-tô, hiện thân của khôn ngoan và sức mạnh Thiên Chúa. Qua Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã biểu lộ trọn vẹn sự khôn ngoan và sức mạnh của Người. Vậy với câu truyện Tin Mừng hôm nay, ta hãy xem Chúa Ki-tô đã bày tỏ đức khôn ngoan của Thiên Chúa như thế nào.
Đây là câu truyện về một người thanh niên đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự xuất hiện đột ngột và cung kính của anh trước mặt Chúa Giê-su đã gây ấn tượng mạnh. Anh chạy đến với Chúa, giống như cử chỉ một người đã ra đi tìm kiếm từ lâu một người nào đó. Giờ đây anh đã gặp và vội vàng đến với ngài, tưởng như lỡ đánh mất cơ hội này là không khi nào gặp lại được nữa. Cách thưa gửi cung kính của anh cũng nói lên khát vọng lớn lao trong lòng: “Thưa Thầy nhân lành”. Đó là danh xưng dành riêng cho Thiên Chúa, và như vậy là anh đã nhìn nhận chức phận của Chúa Giê-su rồi. Khát vọng của anh là: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời làm gia nghiệp?” Phải, đây chính là sự khôn ngoan đích thực, sự khôn ngoan đặt Thiên Chúa làm cứu cánh cuộc đời. Anh đã tìm đúng người để hỏi và đã hỏi đúng câu hỏi cần phải hỏi. Như thế ta nghĩ rằng thế nào anh cũng được mãn nguyện và câu truyện sẽ có một kết luận đẹp.
Nhưng thực ra câu truyện không diễn tiến như ta tưởng, vì sau khi nghe Đấng khôn ngoan đưa ra một đề nghị khôn ngoan là anh hãy về bán đi mọi sự mà cho người nghèo và trở lại theo Người, thì anh đã từ chối. Thế là mọi sự sụp đổ theo nét mặt sa sầm và bước chân buồn rầu bỏ đi của anh! Chắc chắn Chúa Giê-su cũng buồn về sự ra đi ấy. Nhưng Người không thể làm gì hơn. Khi con người tìm kiếm được sự khôn ngoan mà lại không muốn thi hành điều khôn ngoan chỉ dạy, thì Thiên Chúa cũng chịu thua vì muốn tôn trọng tự do của con người. Chúa đành tiếp tục dạy bảo những người còn ở lại về bài học khôn ngoan: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Bài học này cũng chỉ lập lại những gì Người đã nói với chàng thanh niên, nhưng được trình bày dưới hình thức một nguyên tắc thực dụng. Bài học khôn ngoan nào cũng khó cả và các học trò đều sửng sốt với cùng một ý nghĩ là ai có thể thực hành nổi. Nhưng Thầy dạy khôn ngoan bảo đảm với họ: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”.
Câu truyện éo le có thể làm ta quên mất điều khôn ngoan Chúa Giê-su muốn chỉ dạy cho chàng thanh niên. Điều ấy là hãy về bán những gì anh ta có và trở lại làm môn đệ Chúa. Lời khuyên khôn ngoan này không phải là khôn ngoan của người đời, trái lại là một lời xúi dại. Ai lại bán đi những gì mình đang nắm chắc trong tay để theo đuổi một tương lai không có gì là bảo đảm như vậy! Cho nên giữa hai sự khôn ngoan, của Chúa và của trần gian, anh thanh niên đã không đủ quảng đại và mạo hiểm để chọn theo Chúa. Kết thúc câu truyện rõ ràng cho ta một bài học: đi tìm sự khôn ngoan chưa đủ, nhưng còn phải nhận chân giá trị của khôn ngoan và đánh đổi mọi sự để chiếm hữu được khôn ngoan ấy. Chúa Ki-tô chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Gặp được Người, ta cần phải đặt hết cả niềm tin vào Người đến độ dám bỏ mọi sự để làm môn đệ Người.
Theo Chúa là con đường từ bỏ mọi sự để sống trong mối tương quan với Người và giáo huấn của Người. Đôi khi ta cũng có những lo lắng về tương lai khi theo Chúa như ông Phê-rô đã bày tỏ, nhưng Chúa Giê-su đã cho ta thấy và bảo đảm về tương lai đó: không chỉ là những gì ở đời này như nhà cửa, anh em, chị em... rồi có cả sự ngược đãi bách hại vì Chúa và vì Tin Mừng nữa, nhưng cuối cùng tương lai là mục đích của đời ta, sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Sự khôn ngoan đời này trói buộc ta với những gì thấy được, còn sự khôn ngoan của Chúa giải phóng ta khỏi những vướng mắc trần gian và đưa ta về cõi phúc muôn đời.
4. Sống Lời Chúa
Ta đang tiến về cuối năm Phụng vụ và các đề tài Lời Chúa cũng chuẩn bị hướng về cuộc chung thẩm của Chúa Ki-tô Vua sẽ trở lại. Thời gian giữa quãng đời hiện tại và thời điểm Chúa trở lại với ta cũng không lâu gì và đòi hỏi ta phải lắng nghe Chúa trả lời câu hỏi của ta: Lạy Chúa Giê-su nhân lành và Thầy dạy khôn ngoan của con, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Chắc chắn mỗi người đều có một câu trả lời riêng, nhưng đều giống nhau ở một điểm là hãy đến và làm môn đệ Chúa. Người sẽ dạy ta lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa qua Kinh Thánh, qua những chỉ bảo dạy dỗ của Giáo Hội, của những người thân yêu hoặc bạn bè. Nhưng việc cốt yếu là ta có sẵn sàng nghe và thi hành những gì Chúa dạy ta hay không.
Suy nghĩ: Người thanh niên trong câu truyện Tin Mừng đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Cũng vậy, tôi từ chối hoặc ngần ngại làm môn đệ Chúa vì tôi có nhiều của cải? Không hẳn là vật chất, nhưng còn những thứ của cải khác nữa? Lòng ham danh vọng? Những đam mê? Những tính hư tật xấu?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã ban cho chúng con Đức Ki-tô là Đức Khôn Ngoan của Chúa xuống thế làm người. Người đã dạy dỗ và mở đường cho chúng con đi, lại còn đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Xin ban cho chúng con lòng quảng đại để quyết tâm lắng nghe và bước theo sự dẫn dắt khôn ngoan của Người. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Phỏng theo Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 28 mùa Thường niên).
Trích dẫn thư Do-thái cho Chúa Nhật 27 đã giới thiệu với chúng ta vai trò Thượng tế của Chúa: TN 28-B111
Trích dẫn thư Do-thái cho Chúa Nhật 27 đã giới thiệu với chúng ta vai trò Thượng tế của Chúa Giê-su trong kế hoạch cứu độ. Người đã hiến tế chính bản thân để chuộc lại tội lỗi cho loài người. Cái chết hy sinh của Chúa Giê-su trên thập giá đã đưa Người vào cung thánh đích thực của Thiên Chúa và mang lại hiệu quả thứ tha tội lỗi, điều mà các tư tế Lê-vi và các tế phẩm không thể mang lại. Tuy cái chết ấy là cao điểm của kế hoạch cứu độ, thì việc cứu rỗi vẫn bao gồm tất cả cuộc đời dương thế và sứ mệnh của Chúa Giê-su nữa. Nói khác đi, việc cứu rỗi của chúng ta không chỉ là kết quả đương nhiên do cái chết của Người, nhưng còn là kết quả của tiến trình chúng ta hoán cải nhờ đón nhận lời giảng của Người nữa. Do đó, khởi đầu sứ mệnh cứu thế, Chúa Giê-su đã đưa ra lời mời gọi căn bản: Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng. Hiểu kế hoạch cứu rỗi như vậy, chúng ta sẽ không lạ khi thấy bài đọc Tân Ước hôm nay không tiếp nối đề tài chức tư tế tối cao của Chúa Giê-su, mà lại trình bày Chúa Ki-tô là Lời Thiên Chúa. Nếu chúng ta đón nhận Chúa Ki-tô, Lời Thiên Chúa, và để cho “thanh gươm hai lưỡi” này giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa và nhận biết chính mình, thì đó là giai đoạn quan trọng của hành trình cứu rỗi.
a) Chúa Ki-tô là Lời Thiên Chúa
Đọc lại dòng đầu tiên của Thư Do-thái, chúng ta mới thấy rõ được Lời Thiên Chúa là gì.
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (1:1). Từ khi những lời đã được Thiên Chúa phán dạy qua các ngôn sứ cho đến khi Ngôi Lời nhập thể đã có một thời gian dài hơn một ngàn năm, kể từ ông Mô-sê, phát ngôn viên của Đức Chúa cho tới Ma-la-khi, vị ngôn sứ cuối cùng thời Cựu Ước. Những lời của Thiên Chúa phán trong Cựu Ước là những sứ điệp đã được gửi đến cho nhân loại qua trung gian là các vị ngôn sứ. Trong lịch sử Ít-ra-en, ngôn sứ là người nói thay cho Thiên Chúa, giữ vai trò làm “miệng của Chúa” để nói với dân (Gr 15:19). Sứ điệp của Thiên Chúa được thông đạt “nhiều lần nhiều cách.” Sự phong phú của các sách ngôn sứ trong Kinh Thánh Cựu Ước đã cho chúng ta thấy cái “nhiều lần nhiều cách” của Lời Thiên Chúa đến với nhân loại.
Nhưng “vào thời sau hết này,” tức là bắt đầu thời Tân Ước, thời đại cứu thế, Thiên Chúa đã trực tiếp dùng tiếng nói nhân loại của Người để nói với loài người chúng ta. Thời đại và vai trò của các vị ngôn sứ đã chấm dứt. Thiên Chúa sử dụng tiếng nói loài người để nói với chúng ta. Không cần ai nói thay Người nữa, nhưng Người nói trực tiếp. Chúa Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời Thiên Chúa. Nơi Chúa Giê-su, Lời Thiên Chúa không chỉ là lời nói, lời giảng, nhưng còn là một lối sống, một gương mẫu, một biểu lộ tình yêu và quyền năng Thiên Chúa.
b) Lời Thiên Chúa sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi
Trong những đặc tính của Lời Thiên Chúa, thư Do-thái kể ra ở đây ba đặc tính cốt yếu: sống động, hữu hiệu và sắc bén. Sống động, vì Lời Thiên Chúa không phải chỉ là những dòng chữ vô hồn nằm trong đám sách vở. Trái lại, lời ấy đã chứa đựng những nội dung liên hệ đến cuộc sống và thân phận con người. Có khi là lời tình yêu của Cha trên trời nói với con cái mình. Có khi là lời nghiêm khắc răn dạy của người Cha muốn con cái nên thân nên người. Có khi là lời mặc khải cho thấy những chân lý rạng ngời...
Tính cách hữu hiệu của Lời Thiên Chúa đã được thư Do-thái nói đến qua việc tạo dựng vũ trụ. Mọi sự đã được tạo thành là do “Thiên Chúa phán” (Sáng Thế 1). Thí dụ: “Thiên Chúa phán: ‘Phải có ánh sáng.’ Liền có ánh sáng” (St 1:3). Do đó, ngay sau khi giới thiệu Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa, thư Do-thái viết tiếp: “Thiên Chúa đã nhờ Người (= Chúa Giê-su, Ngôi Lời) mà dựng nên vũ trụ” (Dt 1:2). Ngôn sứ I-sai-a cũng dùng một hình ảnh sống động để diễn tả tính cách hữu hiệu của Lời Thiên Chúa: như mưa tuyết sương sa rơi xuống đất làm cho đất phì nhiêu và giúp cây cối sinh hoa kết quả, Lời Thiên Chúa chỉ trở về với Người sau khi đã chu toàn sứ mạng (Is 55:11-12).
Nhưng đặc biệt hơn cả, Lời Thiên Chúa còn “sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi.” Gươm một lưỡi đã sắc bén rồi! Gươm hai lưỡi còn sắc bén hơn, bởi thay vì có một cạnh là lưỡi và một cạnh là sống gươm, thì cả hai cạnh đều là lưỡi gươm cả. Nhưng ý nghĩa gươm hai lưỡi không hẳn chỉ đơn sơ như vậy, mà Sách Thánh muốn ám chỉ đến hiệu năng của Lời Thiên Chúa giống như sức cắt của gươm hai lưỡi: một lưỡi cắt ra để chúng ta thấy được phía Thiên Chúa và một lưỡi cắt ra để chúng ta thấy được phía chính mình. Thiếu gì lúc chúng ta sợ tâm hồn bị cắt ra để phải nhìn thấy những ung nhọt, xấu xa của mình! Nhưng Lời Thiên Chúa cũng cắt bỏ những che khuất để chúng ta có thể nhận biết tình yêu, lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa.
c) Lời Chúa xét xử
Nếu Đức Ki-tô là Lời Thiên Chúa để loan báo Tin Mừng qua sứ vụ rao giảng, chuộc tội nhân loại qua cái chết hy sinh trên thập giá và sống lại từ kẻ chết, thì Đức Ki-tô cũng là Lời Thiên Chúa để xét xử muôn loài trong ngày cánh chung. Vai trò phán xét của Đức Ki-tô trong ngày tận thế bắt buộc phải có trong tiến trình cứu rỗi. Khởi đầu sứ vụ, Đức Ki-tô đã tuyên bố: “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Người thường nhắc lại lời cảnh giác: “Ai có tai thì nghe” (Mt 13:9). Rồi: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử” (Ga 5:24). Cho nên ở lúc kết thúc kế hoạch cứu độ, Lời Thiên Chúa sẽ giữ vai trò xét xử mọi người, ai đã tiếp nhận và ai đã không tiếp nhận.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ Tôi đã và đang tiếp cận với Lời Chúa bằng những cách nào? Lắng nghe Lời Chúa trong Thánh lễ? Đọc và suy niệm Kinh Thánh?
Đức Ki-tô là Lời Thiên Chúa có ý nghĩa gì đối với tôi? Hiện nay, Thiên Chúa phán dạy tôi qua “Thánh Tử” là Đức Ki-tô những gì và như thế nào? “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17:5). Tôi đã vâng nghe lời Chúa Giê-su thế nào?
Tôi cần phải làm những gì để lắng nghe Lời Thiên Chúa? Có một thời biểu để hằng ngày đọc, suy niệm và cầu nguyện bằng Kinh Thánh? Học hỏi và chia sẻ Lời Chúa? Tham dự lớp Kinh Thánh?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài “Lắng nghe tiếng Chúa.”
Báo Tuổi Trẻ Cười có bài thơ: “Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên, Ba ….. Con người dù sở hữu: TN 28-B112
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền nhiều: mặc kệ… vẫn hơn,
Dẫu cho nhân sự ngả nghiêng tứ bề.
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhò gì ông”.
Con người dù sở hữu nhiều “ông tiền” và “mua tiên cũng được”, nhưng chắc gì đã hạnh phúc ?
Ngày 6.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại. Tôi không đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Cơ quan vũ trụ NASA của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần đầu tiên trên trái đất đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt lên: “Ôi, yên bình quá, ở đây không có tiền”.
Một cuộc sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền chưa hẳn đã có hạnh phúc. Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.
Trang Tin Mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của và vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thưở nhỏ.
Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không ?” Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.
Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa "Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên Trời. Rồi hãy đến theo Tôi” ( Mc 10, 21 ). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” ( Mc 10, 22 ). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi ( Mt 19, 20 – 21 ). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được Sự Sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ ?
Chàng trai trẻ tiếc của bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa "nhìn chung quanh" và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao". Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” ( Lc 12, 34 ), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài ( x. Lc 16, 13 ). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn. Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay ! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc Âm là thái độ con người trước của cải vật chất.
Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Ladarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được ( Lc 12, 16 – 21; 16, 19 – 26 ). Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” ( Lc 12, 20 ). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” ( Lc 16, 23 – 25 ).
Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biêt dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một Thánh Lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến… Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” ( Ga 14, 6 ). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng… đang lôi cuốn giới trẻ.
Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.
Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”; “Đức Khôn Ngoan hơn vương trượng, ngai vàng… của cải bằng không. So với Đức Khôn Ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn” ( Bài đọc 1 ). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu có, còn người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Ðức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Người. Đó là điều kiện nên người Công chính Tân ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẻ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
Tác giả Ba Chuông, có truyện rất ngắn mang tên “Cái két sắt” như sau: “Ông H. mới giàu lên: TN 28-B113 CHUYEN
Tác giả Ba Chuông, có truyện rất ngắn mang tên “Cái két sắt” như sau:
“Ông H. mới giàu lên vài năm nay, nhờ vợ ông có cả trăm mối lái Hàn, Trung, Việt buôn bán thịnh đạt. Ông xây nhà lớn vào bậc nhất ở một thị trấn kể là nhỏ nhất. Thiết kế trong nhà mới xây có một chỗ để két sắt. Ông nghe nói có cả ngàn mặt hàng két sắt đựng tiền trên thị trường. Có những két sắt hiện đại đề phòng kẻ trộm từ xa; két sắt có con mắt phân biệt người thân, người lạ; có két sắt sử dụng bằng dấu vân tay... Cuối cùng, ông chọn mua một két sắt sử dụng bằng dấu vân tay đắt tiền và cho xây âm trong tường luôn. Ông nói với mọi người rằng: “Như thế mới bảo đảm. Chẳng có thằng nào dám rớ tới ông”.
Sau đó chỉ một tuần, trong khi uống rượu, lên giọng giàu có dạy đời, ông H. bị mấy tay anh chị đập cho giập nát hai bàn tay. Đi bệnh viện hai tuần. Mất dấu vân tay. Vợ ở nhà đập két sắt lấy hết tiền đi rồi. Hình như bà H. đứng tên nhà, đất. Và nghe nói tất cả đã sang tên cho thằng tình nhân Trung Quốc rồi.
Cái két sắt thật là an toàn ! Thật là bảo đảm muôn năm !”
Ở đời, có quá nhiều người cho mình là khôn ngoan, đến nỗi có thể nói: ai cũng cho mình là khôn ngoan, nhưng thử hỏi: được mấy người tìm cho ra Đức Khôn Ngoan đích thực ? Hay chỉ là loại khôn ranh ma mãnh kiếm chác vơ vét về cho mình tất cả uy tín, danh dự, quyền lực, công sản, tư sản, bất chấp công lý, công bằng, bất chấp nhân quyền, nhân đạo, nhân ái, rồi khư khư ôm chặt lấy những thứ phù du ấy mà ước, mà tưởng sống muôn năm để tận hưởng cho thỏa lòng tham lam vô tận.
Vâng, người trần gian là thế: quí chuộng những gì thuộc về trần gian như là mình sẽ mãi mãi ở lại trong trần gian này. Sự giàu có, uy tín, danh dự, quyền lực, sắc đẹp, tiền của… đều là những thứ phù du và được cất giữ trong cái tôi phù du mỏng mảnh, cái tôi tội lỗi, tối tăm, tồi tàn, tồi tệ, mà người ta cứ tưởng là cái két sắt bền vững muôn năm. Như thế là khôn ngoan sao ?
Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan hôm nay dạy: “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không”. Sự giàu sang mà gọi là hư không thì thật là uổng công cho bao người cắm cúi cất công cả đời đi tìm cái hư không ấy.
Người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay một đàng là muốn sống đời đời, nhưng không muốn buông bỏ, chia sẻ những gì không thuộc về cõi sống đời đời. Chúa Giêsu nhìn anh ta mà thương. Thương vì anh ta lành, nhưng chưa khôn. Bởi anh có khát vọng sống đời đời nhưng không dám buông bỏ cái phù vân. Hóa ra, anh đi xin thuốc trường sinh bất tử để trường sinh bất tử ở đời này mà tận hưởng của đời này, chứ không xin trường sinh bất tử ở đời sau ! Thế thì nếu Chúa Giêsu bảo: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", thì trường sinh bất tử còn ý nghĩa gì đối với anh ta nữa ?
Thật đáng tiếc ! Cả bạn, và tôi, cả chúng ta cũng không khác gì anh ấy bao nhiêu đâu. Muốn sống đời đời để mà tận hưởng của cải trần gian này, vì ta đang có cái để tận hưởng đấy sao ? Chúa Giêsu cũng đang to nhỏ với chúng ta bao lần về cách nhìn nhận chân giá trị của những sự đời này, và dặn dò hãy dùng tiền của đời này mà mua lấy Nước Thiên Đàng mai sau.
Thế mà, có những chuyện đời thường gặp:
“Không có tiền góp cho các em vui Trung Thu đâu nhé. Ông không thấy sao. Mới đó mà em xuống sắc lắm rồi. Cần phải đi thẩm mỹ viện gấp gấp”.
“Mình còn phải xây tường rào mất cả trăm triệu, ông bày đặt hứa với Cha Sở cúng kiếng, đóng góp làm chi. Ông kiếm tiền mà cúng đi. Tôi không biết”.
“Em mới mất cái xe… Để cái xe máy trong nhà. 2g sáng thì còn, 3g thì mất. Xe không đáng là bao, nhưng lại là phương tiện để chở cha mẹ già đi Lễ. Em rất tiếc. Cha em thì bảo: mấy đứa xì ke không có xì ke chích hút tiế, p lỡ nó bất đắc kỳ tử không kịp ăn năn tội thì sao. Thôi, cho nó có cái qua ngày và may ra, có thời gian mà sám hối, trở về với Chúa con ạ. Cha mẹ đi xe ôm được mà”.
Và còn bao nhiêu lần ta từ chối cho đi những gì ta đang có. Không vì mình giàu hay mình nghèo, mà chỉ vì mình quá khắng khít với của cải phù vân ấy.
Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta trước tiên hãy tìm kiếm Đức Khôn Ngoan và sống theo Đức Khôn Ngoan ấy. Chúa Giêsu bảo “đến theo ta” là theo Giáo Lý của Chúa, theo cách sống của Chúa, theo Con Đường, theo Sự Thật, theo Sự Sống của Chúa Giêsu. Ấy chính là tìm được sự khôn ngoan đích thực.
Thánh Phaolô xác quyết: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” ( 1Cr, 24 – 25 ).
Và một khi đã theo Chúa Giêsu Kitô rồi, hẳn là chúng ta phải học hiểu Giáo Lý của Ngài, để nên giống Ngài và mặc lấy cái nhìn của Ngài mà nhìn nhận mọi sự ở đời này chẳng có gì là muôn năm cả, không có gì tồn tại cả, và chỉ có duy nhất một Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Thánh Thần sẽ là Vĩnh Cửu, là tồn tại muôn đời. Và chỉ những ai tin vào Chúa Giêsu và sống theo Lời Ngài dạy, mới được trường tồn với Ngài mà thôi.
Nơi Đức Giêsu, đựng cả kho tàng trường sinh bất tử và vĩnh cửu cho chúng ta. Cái két sắt nào có thể đựng cả và thế gian này đi nữa, cũng sẽ phải han gỉ hư nát đi, nhưng Đức Kitô gìn giữ chúng ta tồn tại muôn đời, vì chính Ngài cứu chúng ta ra khỏi sự hư nát ấy.
Lạy Chúa, “xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan. Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan” ( Tv 89 ) là sống kết hiệp khắng khít với Lời, Thánh Thể và Thánh Giá Chúa Giêsu từng giây phút. Amen.
“Này em, có nghe gì trong lời buồn của gió, Có cảm gì tiếng xào xạc của cây ?” ( dẫn từ thơ Nguyễn Tâm Hàn )
Buồn của gió, nay lại cứ len lỏi ngập hồn anh. Bởi anh đã lạnh lùng gạt bỏ lời mời của Chúa: TN 28-B114.
Buồn của gió, nay lại cứ len lỏi ngập hồn anh. Bởi anh đã lạnh lùng gạt bỏ lời mời của Chúa, như chàng trai buồn ở Phúc Âm. Lời mời da diết Chúa gửi đến hết mọi người, cả người giàu, lẫn kẻ nghèo, lâu rày nhiều tình tiết.
Lời Chúa, nay bàn tiếp về lối sống “như con trẻ” để trở thành đồ đệ Chúa. Lời Chúa, trước nhất gửi người thanh niên giàu có đại diện cho cộng đoàn dân Do Thái chuyên giữ luật Torah, tức: những người vẫn giúp cô nhi, quả phụ hoặc kẻ nghèo bằng của dư của để mình vẫn có. Nhưng vấn đề Chúa đặt ra với chàng trai giàu, không có nghĩa cho đi hay tiếp nhận của cải, mà là có nên chấp nhận lời mời “theo chân Chúa”. Và có sống “như con trẻ” vẫn vui vẻ mà cho đi hay không ?
Trước nhất, “theo chân Chúa”, là tin vào Đức Giêsu và mọi giá trị cũng như nếp sống Ngài trù định. “Theo chân Chúa”, là trao cho Ngài mọi sáng kiến về hướng đi của mình từ bây giờ. Là chấp nhận mọi cảnh tình xấu tốt xảy đến khi dấn bước theo Ngài. Và cứ để Ngài đi trước mà định vị, rồi đưa ra đòi hỏi để tự làm. Và ở đây, chàng trai giàu biết luật đã thực thi mọi sự như luật buộc, lại vẫn muốn tự mình định đoạt đường lối cho đời mình, nên thấy khó nếu bỏ hết tất cả để bước đi theo.
Với ngôn ngữ đời thường, thì “bước đi theo Ngài” sẽ mang nhiều ý nghĩa, rất điển tích. Như Ngôn Sứ Êlia có lần nói: ông cũng từng “bước theo Ngài.” Và cái khó của việc này không là chuyện tìm hiểu xem Ngài là thần thánh hay Đức Chúa rất thực hư, mà tự hỏi xem mình có đủ thực lực khi quyết định “bước đi theo Ngài” cho đến mút cùng cuộc đời ? Đó chính là vấn đề.
Vấn đề, như nội dung truyện “Anh em nhà Karamazov” của Dostoievsky, trong đó có vấn nạn của tay tội đồ đưa ra với Chúa: “Phúc Âm của Ngài, ôi lạy Chúa, sao đưa ra quá nhiều đòi hỏi đến thế ? Đòi hỏi ấy, chỉ nên đem đến với giới tuyển lựa hoặc nhóm hội ở cấp cao chỉ muốn điều tuyệt đối, không khuyết điểm. Đòi hỏi này, không dành để cho người thường. Và đó là lý do khiến bọn tôi sắp đổ ụp xô nước lên đầu họ. Bọn tôi sẽ loại bỏ chủ thuyết quyết liệt từng khiến nhiều người hãi sợ. Bọn tôi còn tính dìm sâu thứ ấy xuống mức độ chỉ những người hững hờ, lờ vờ mới chấp nhận, thôi. Bọn tôi cũng quyết tâm khiến thế giới chối bỏ đòi hỏi này, nhân danh tình thương của mọi người. Và sẽ không để sự thế này quấy rầy làm mất đi sự êm ắng vẫn có.”
Trình thuật, nay cho thấy đòi hỏi của Chúa thật cũng cao so với người giàu và cả những người Do Thái sủng mộ rất đức độ từng bỏ hết mọi sự, để “bước đi theo Ngài”.
Có truyện kể về người trẻ nọ cũng khá giàu, từng nghe đấng bậc vị vọng trong Đạo vẫn khuyên mọi người đừng sống đời cao sang, ngạo mạn nhưng cứ khiêm nhu, dễ bảo như con trẻ. Anh nghĩ đó là động thái dễ coi rẻ, chẳng bận tâm. Nghe mãi cũng nhàm tai, cuối cùng anh rời Đạo Chúa trước nay mình từng đi theo. Ít năm sau đó, anh như một số người ở trong nước, cũng đầu quân tham gia cuộc chiến khốc liệt ở Việt Nam, để thi hành nghĩa vụ người dân như dân quân trong nước.
Buổi tối trời nọ, anh được giao trọng trách phải thức suốt, hầu canh gác cho đồng đội ngủ nghỉ. Quá buồn chán với lối sống không lộ hé tương lai ngời sáng, anh bị bệnh trầm thống và căng thẳng đến độ đã ra tay giết người cách vô cớ. Tối hôm đó, anh rơi vào cảnh tình tối tăm, mọn hèn bèn tự hỏi: “Chúa đâu rồi, sao không đến cứu con khỏi tình huống kiệt quệ và rất quẫn này ? Cứ thế, rồi anh lang thang, lan man chốn vô định rồi nghĩ quẩn: sẽ có ngày anh cũng bị đồng đội giết chết. Nghĩ thế rồi, anh bèn theo đường khác để sống sót. Con đường anh tìm gặp, là cảnh huống biết tuân phục, xót thương người đồng loại và rất mực công chính, khác với kiểu cách mà xã hội lâu nay dẫn dụ anh đi theo.
Từ đó về sau, anh sống tốt lành như thời trẻ, rất hồn nhiên vui vẻ với mọi người. Thế rồi, nhờ ơn lành đến từ đâu đó, anh trở về sống giống mọi người được dạy hãy “bước đi theo Ngài” như đấng bậc hiền từ, biết hy sinh mọi sướng vui vật chất hầu thuyết phục thế giới trở thành chốn an vui, lành mạnh.
Trình thuật hôm nay, cũng mô tả việc Chúa kêu mời những người “bước theo Ngài” biết nhận đón đám trẻ bé, rất vui tươi. Có lẽ, Thánh Máccô khi viết trình thuật hôm này, là muốn bảo với người đọc rằng: hãy đáp ứng lời mời của Chúa mà từ bỏ lối sống nhiều đắng cay, sai sót của người lớn. Hãy đáp ứng, trở về với cách sống đầy tin tưởng như trẻ nhỏ. Tin tưởng như trẻ nhỏ, là có tâm tình vẫn cứ tin vào người khác, chẳng bận tâm chuyện thực hư, hơn thiệt. Tin như trẻ nhỏ, là cứ để người lớn dẫn dắt mình rồi dấn bước, chẳng nghĩ suy.
Về với thực tế, có hai yếu tố quan trọng cần chú ý: một là, cứ nghĩ suy như thể mình không là nhân vật quan trọng ở trần thế. Nghĩ như thế, cũng là điều tốt vì sẽ giúp ta biết hoà mình với người khác qua thực hành. Và cũng là điều tốt, vì biết rằng mọi người quan trọng hơn ta. Thứ hai nữa, hãy để người khác kể cho ta biết con đường tốt xấu, mà quyết định thực hiện; thay vì cứ bị những hướng chiều và cảnh tình không quan yếu khiến ta sống cứng ngắc. Hai yếu tố này, giúp ta hiểu rõ và chấp nhận rằng: dù mình có là đấng nào đi nữa, chẳng ai là người trọn lành, toàn thiện vào mọi lúc.
Trẻ bé nhỏ, vẫn hồn nhiên thực hiện những gì chúng thấy vui tươi thích thú. Chỉ người lớn mới là người lúc nào cũng thấy mọi sư ra khó khăn, dễ tự kỷ ám thị để rồi mãi mãi bị ám ảnh mình đã tốt lành rồi, chẳng cần đổi thay, biến cải để nên trẻ bé hồn nhiên vui tươi.
Ví dụ điển hình kể ra ở đây, là trường hợp của một người khá giàu, nhưng đã cho đi tất cả để rồi nghe theo tiếng mời gọi của Đức Chúa mà làm việc thiện, là Lm. Helder Camera, ở Brazil. Ông nay cũng đã trăm tuổi, nếu kể về ngày sinh. Ông được hấp thụ một nền giáo dục bảo thủ, chuyên chăm đạo đức khá chính thống, vẫn được khuyến khích trở thành Linh Mục Dòng, và sau đó làm Giám Mục khá trổi trang. Ông khám phá ra nước Brazil mình khá nghèo khổ, khốn khó. Kể từ đó, ông đã nghe theo tiếng Chúa mời gọi ông “bước đi theo Ngài” mà sống giữa người nghèo để phục vụ họ.
Cũng vì sống chung đụng với người nghèo khó, nên ông đã trở thành tiếng nói của họ, cho họ; tức là đã đại diện cho những người không có tiếng nói, không dám nói. Ông đã ngả về phía người nghèo với và qua tư cách của một Ngôn Sứ. Ông đòi hỏi mọi người đem đến cho người nghèo không chỉ mỗi tấm lòng bác ái thôi, nhưng cả sự công bằng nữa. Ông tập trung nhấn mạnh vào sự công chính như điều kiện để được bình an. Ông sống rất năng động nhưng không bạo loạn. Ông hoạt động năng nổ nhưng không nổ dòn để lấy tiếng.
Cứ từ từ, ông gầy dựng tình huynh đệ nơi những người có tính nhân bản, để họ gia nhập nhóm hội người nghèo, như kẻ nghèo. Ông gần gũi những người bị coi như đồ bỏ; giúp họ trỗi dậy tìm giải pháp cho các khó khăn họ vẫn gặp. Ông thiết lập một thứ “ngân hàng thiên định” chuyên chăm lo cho những người có nhu cầu bức thiết qua “tín dụng vĩ mô” để họ sở hữu những gì tối thiểu hầu sống theo cung cách có tình người, mà chung sống. Ông từng nói và chứng tỏ cho người nghèo thấy một số chức sắc trong Đạo vẫn muốn mọi người quên đi cuộc sống và tiếng nói của ông. Đức Gioan Phaolô 2 vẫn coi ông như người anh em của kẻ nghèo và như huynh đệ đích thực của ngài.
Thật rất dễ, để nghĩ rằng mình đang “bước đi theo Ngài” nếu cứ tưởng tượng Chúa đã nói với mình trong giấc mơ. Nhưng như thế không là “bước đi theo Ngài” cách đích thực. Quả thật, Đức Giêsu đã đi theo và đi đến với người nghèo. Ngài quay về phía ta để yêu cầu ta cũng bước đi theo Ngài mà gia nhập nhóm hội người nghèo. Chỉ khi đó, ta mới nhận ra được sự thật nơi Lời Ngài từng nói: Thật khó cho anh nhà giàu làm được chuyện ấy. Khó cho anh, dám bỏ mọi sự mà dấn bước theo Ngài. Thế nhưng, với ta, tất cả chẳng có gì khó vì Chúa vẫn giúp ta, hỗ trợ ta nếu ta biết sống như trẻ bé, vui tươi, và sẵn sàng. Đó là khả năng tiềm ẩn nơi con trẻ dám dấn bước dõi theo sự thật, dù rất nghèo.
Trong tâm tình đó, có lẽ cũng nên ngâm thêm lời thơ vừa vang vọng ở trên, để hát rằng:
“Em biết chăng, giấc thuỷ tinh vỡ tan từ buổi đó. Lúc cúi đầu lặng lẽ bước chân đi. Chút loạn cuồng xa lạ nẻo đường về. Trong lồng ngực anh nghe tim rạn nứt, ô hay nhỉ…” ( Nguyễn Tâm Hàn – Này em )
Giấc thủy tinh có vỡ tan, anh vẫn lặng lẽ “bước đi theo Ngài”. Theo Ngài, là theo người nghèo có Chúa trong họ, nơi lồng ngực vỡ tan, rạn nứt, bởi tim của người nghèo là con tim bé bỏng rất cao sang, yên hàn, rộng mở.
Của cải, đụng đến vấn đề của cải là một trong những nan giải nhất về vật chất. Tất nhiên, không: TN 28-B115
Của cải, đụng đến vấn đề của cải là một trong những nan giải nhất về vật chất. Tất nhiên, không phải lòng tham hay ngẫu nhiên vô tình người ta coi trọng của cải. Nhưng trên hết, của cải dù sao chăng nữa, bản chất của nó vẫn có một giá trị nhất định giúp cho con người bảo tồn sự sống. Thế nên, cũng chính vì tầm quan trọng thiết yếu của nó, mà có biết bao nhiêu việc đau lòng xảy ra chung quanh vấn nạn về của cải vật chất.
Toàn bộ vũ trụ này đã được Tạo hóa phú bẩm cho nhu cầu bảo tồn sự sống. Nói trúng hơn, đó là bản năng tự nhiên. Người ta không thể sống nếu thiếu cơm ăn áo mặc. Chính vì muốn bảo tồn sự sống mà con người đã cần cù lao nhọc để kiếm kế sinh nhai. Của cải họ tích lũy được cũng chính là thành quả lao động họ đã nhọc lao tìm kiếm. Bởi đó, lao động đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu giúp con người kiếm tìm của cải. Lao động cũng chính là cộng tác vào chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa.
Nói vậy, bản chất lao động là cao quí, bởi nó huấn luyện con người thói quen cần mẫn cũng như sự tự rèn luyện bản thân. Thế nhưng, của cải vật chất trong vũ trụ mênh mông bao la mà Thiên Chúa trao tặng cho con người đây, chỉ là những của nuôi tạm bợ, giúp họ bảo tồn cuộc sống chứ không phải là cứu cánh. Vấn nạn hệ tại chính điểm này. Nhân loại lạm dụng của cải vật chất để rồi đánh mất đi giá trị tinh thần. Của cải cần thiết thật đấy, nhưng không là tất cả. Người ta sống không chỉ bằng của cải, chỉ một mình cơm ăn áo mặc không đủ làm cho con người sống. Con người còn cần đến những giá trị tinh thần cao hơn, thiêng liêng hơn, lớn lao hơn thế nữa. Đó là tình yêu thương, tình bằng hữu, tình đồng loại…
Khi quá đề cao vật chất, khi bức tường vật chất kiên cố vững chắc được bao bọc bởi sự ích kỉ ắt hẳn tình yêu thương đồng loại không còn. Giá trị tinh thần bị mất đi. Tất nhiên, sự sống con người lúc này đã trở nên khập khiễng. Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc. Ngài đã trao ban cả vũ trụ cho nhân loại sử dụng. Ngài không chỉ trao của cải tài nguyên thiên nhiên cho thế giới, mà còn muốn cho họ được hạnh phúc vĩnh cửu. Cái hạnh phúc được cân bằng giữa giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần.
Làm thế nào để tìm ra của cải vật chất, bảo tồn cuộc sống đã là một vấn nạn không nhỏ đối với nhân loại. Con người đã phải đầu tắt mặt tối vì miếng cơm manh áo. Thế nhưng, bên trong cái khó khăn vất vả ấy, còn có một sự từ bỏ lớn lao hơn, đó là sự san sẻ, sẻ chia với anh em đồng loại. Người no cơm ấm áo vẫn chưa thấy bằng lòng với những gì mình có, truy tìm cái hạnh phúc cao hơn, bất diệt hơn vì thực tế chỉ riêng cuộc sống trần thế tạm bợ này sao có thể cho con người hạnh phúc đích thực cơ chứ ?
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay là một dẫn chứng sống động, cụ thể nhất. Người thanh niên giàu có tìm đến Đức Giêsu để nài xin bí quyết được sống đời đời, khi anh nhận ra của cải vật chất không thể bảo đảm cho anh cuộc sống trường tồn vĩnh cửu: “Thưa thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” ( Mc 10, 17 ). Đức Giêsu đã đưa ra giới luật: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ.” ( Mc 10, 19 ). May mắn thay, người thanh niên đã tuân giữ cạn kẽ mọi lời dạy bảo của Thiên Chúa.
Đức Giêsu vui mừng với thiện chí của anh ta, nhưng đòi hỏi của Ngài vẫn chưa dừng tại đó. Người thanh niên đã làm được tất cả, thi hành tốt đẹp giới luật của Thiên Chúa, nhưng chỉ còn thiếu có mỗi một điều: “…hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10, 21 ).
Một điều duy nhất của Đức Giêsu, xem chừng là tất cả, để rồi người thanh niên phải buồn rầu bỏ đi, cũng chỉ vì anh ta có nhiều của cải. Vậy ra, đòi hỏi của Ngài nghịch lý quá, ắt hẳn nghịch lý, dường như nó trái với định luật tất yếu của nhân loại. Giả như “bán những gì” chúng ta có, thì còn gì đâu để sống ? Nhưng sự thách đố này xét theo bản chất là một cuộc trao đổi không hề thua lỗ, nếu không muốn nói là thu hồi được số lời vô hạn. Những gì ta có là có giới hạn, có thể nhiều và cũng có thể chẳng bao nhiêu, và không thể mãi mãi tồn tại, nhưng cái ta đặt được là cả một kho tàng trên Trời.
Kho tàng ấy chính là Nước Trời, chính là Sự Sống đời đời chính là Thiên Chúa, thì còn vô giới hạn, vô biên độ đến dường nào. So với việc con người bán đi những cái họ có, là những cái giới hạn, Thiên Chúa còn trao lại cho ta của cải vĩnh cửu vô giới hạn trên Thiên Quốc. Nhưng tại sao người thanh niên bỏ đi, tại sao nhân loại thờ ơ lãnh đạm không chấp nhận ? Có phải vì đụng chạm đến cuộc sống của họ, hay chỉ vì con người không nhận ra giá trị vĩnh cửu Thiên Chúa ban tặng ?
Trên hết Đức Giêsu dạy nhân loại phải từ bỏ. Của cải cần thiết thật, nhưng đừng trở thành nô lệ cho nó mà hãy biết sử dụng cách khôn ngoan, hãy dùng của cải chóng qua ở đời này để đổi lấy nguồn của cải bất diệt vĩnh cửu đời sau. Đó là điều Thiên Chúa muốn. Cho dù ở bất kì bậc sống nào, Ngài cũng cần tấm lòng mà không cần bất kỳ giá trị nào khác. Ngài cần tấm lòng, nhưng đó cũng chính là thứ mà nhân loại thiếu hơn bao giờ hết !
Lạy Chúa, có lẽ con cũng đang có tất cả: sự sống, tài năng, của cải, bạc tiền, danh vọng… và có lẽ con cũng đang thiếu có mỗi một điều, có lẽ con cũng chỉ còn một điều thiếu nữa thôi. Điều Thiên Chúa cần nhất nơi con, Ngài chỉ cần nơi con một tấm lòng, một trái tim, một tình yêu. Con đã không có tấm lòng. Trái tim con dường như đã bị thay thế bởi của cải vật chất nên không còn chỗ cho Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu của con dường như đã thay thế cho sự ích kỉ, hẹp hòi.
Có phải Ngài không muốn con giàu có hạnh phúc, nhưng không phải bằng tiền, hạnh phúc bằng bạc, mà Ngài muốn con hạnh phúc bằng tình yêu thương với anh em đồng loại nghèo khổ. Chỉ cần con có trái tim cho người nghèo, chỉ cần người nghèo có chỗ đứng trong trái tim con, là con đã giàu có hạnh phúc lắm rồi.
Chẳng phải con đang hằng ngày cầu xin Chúa cho đủ cơm ăn áo mặc, một đôi chút bạc vàng để bảo tồn cuộc sống. Con đêm ngày tất tả ngược xuôi kiếm sống, để xây dựng cho kho báu nhà mình ngày một đầy, tại sao con không dám đánh đổi với kho tàng vĩnh cửu Thiên Quốc, nơi đó con không hề sợ mối một hay hao hụt mất đi ?
Cho dù con là ai, con có làm gì, trên hết con cũng cần từ bỏ, con cần phải từ bỏ mới có thể vào được nước Thiên Chúa. Xin giúp con, lạy Chúa, chỉ một điều con thiếu ấy thôi, xin ban cho con một điều con thiếu… là biết quảng đại, san sẻ, cho đi… Xin giúp con quên đi cảm giác lo sợ mất mát, mà hãy vui mừng vì kho tàng đang ngày một đầy trên Thiên Quốc !
Bài Tin Mừng hôm nay không có dụ ngôn, không có phép lạ, không có tranh luận gay gắt: TN 28-B116
Bài Tin Mừng hôm nay không có dụ ngôn, không có phép lạ, không có tranh luận gay gắt… nhưng lại thể hiện toàn bộ tín lý mà Chúa Giêsu rao giảng suốt 3 năm trời. Tín lý ấy bao gồm cả mười giới răn từ thời Môsê và bộ luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã khổ công kiện toàn cho nhân loại:
“Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” ( Ga 1. 4, 20 – 21 ).
Giới răn và lề luật tưởng chừng khô cứng lại được minh họa bằng 2 hình ảnh rất biểu cảm giữa con người với Thiên Chúa: Một đàng là chàng thanh niên thuần túy con người, thành tâm thiện ý, không vương vấn chút hình ảnh của ma quỷ ( tội lỗi ); một đàng là Thiên Chúa từ ái “chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương”. Những tưởng Trời và Đất sẽ gặp nhau, những tưởng Chân – Thiện – Mỹ sẽ hòa điệu, những tưởng Tâm Thành và Thánh Đức sẽ se duyên… Nhưng không, “người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Tôi hụt hẫng, và chắc chắn có nhiều người cũng hụt hẫng giống tôi. Tựa hồ một đường bóng được chuyền như “để vào chân” một siêu sao bóng đá, góc xuống khung thành khá rộng, không một hậu vệ cản lối, thủ môn chưa kịp rút về, vậy mà… “Vào !”, quả bóng tung thẳng lên khán đài !
Tôi hụt hẫng vì chàng thanh niên kia đang là thần tượng của tôi chứ không phải chỉ là một kẻ tập tễnh mới vào sân.
Không thần tượng sao được khi bao nhiêu Kinh Sư, Luật Sĩ và Pharisêu còn đang tìm cách hãm hại Chúa Giêsu; các môn đệ theo Chúa Giêsu lâu nay đang tìm cách ngồi bên phải, trái của Người khi Người giải phóng dân tộc; thì chàng, chính chàng nhận ra Người: “Lạy Thầy nhân lành !”
Không thần tượng sao được khi bao nhiêu người trẻ như chàng đang tìm cách thăng quan tiến chức, vinh thân phì gia, hoặc ăn chơi thỏa thích; thì chàng, chính chàng đi tìm một thứ khác cao siêu hơn, lý tưởng hơn: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”
Không thần tượng sao được khi một người trẻ tuổi như thế dám mạnh dạn khẳng định trước mặt một Đấng minh triết: “Lạy Thầy, những điều đó ( các giới răn ) tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.
Vậy mà chàng vẫn “còn thiếu một điều”. Thế thì tôi còn thiếu bao nhiêu điều ? Tôi không ngờ cái điều còn thiếu ấy nghiệt ngã đến vậy. Chàng bất ngờ và tôi cũng sững sờ. Tôi cứ tưởng cái điều còn thiếu ấy chỉ nhỏ nhặt thôi, vậy mà nó lại mang tính chất quyết định. Không có nó, những điều trước kể như những con số không tròn trĩnh. Nó là con số một ( 1 ) được đặt đứng trước những điều khác để nâng giá trị cuộc đời tôi lên hàng ức, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỷ…
Đoạn Tin Mừng đang đẹp bỗng trở nên… buồn ! Buồn vì một dấu chấm than tràn đầy tiếc nuối của Đấng giàu lòng từ bi và thương xót: “Những người giàu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao !”
Nói đến những người giàu có, tôi thường liên tưởng đến côn g tử Bạc Liêu “một thời chơi ngông, lưu danh muôn thuở”. Những cô cậu công tử thời nay cũng không chịu kém cạnh đàn anh. Có người chỉ xài toàn Dollar hoặc Euro mặc dù sống trong đất nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Có người thách đố nhau ném vàng cùng điện thoại Vertu lia thia xuống sông Thanh Đa chỉ để làm vui lòng người đẹp. Có người chỉ xuất hiện trước công chúng với hàng đoàn siêu xe như Lamborghini hoặc Ferrari… Đoàn xe của các cậu ấm cô chiêu đã từng diễu hành qua nhiều nẻo đường đất nước có những bà mẹ già ngồi dầm mưa bán từng lọn rau, có những em thiếu nhi đầu trần chân đất kiếm sống trên từng bãi rác, có những cụ già nằm ngủ co ro dưới tấm bạt che tạm trong khu nghĩa địa…
Tuy nhiên, những cậu ấm cô chiêu trên đây chỉ là con của những người giàu có. Chỉ vì cách xài tiền của họ khiến tôi lầm tưởng họ chính là người giàu có !
Người giàu có thực sự tạo nhiều ấn tượng cho tôi nhất là người suốt mười mấy năm liền nằm trong Top của tạp chí Forbes: Bill Gates, người mà hiện nay đang được đề cử giải Nobel Hòa Bình 2012 vì những chương trình từ thiện mà vợ chồng ông đã giốc sức bấy lâu nay nhằm giảm thiểu nghèo đói và bệnh tật ở các nước kém phát triển bằng quỹ có tên là Bill & Melinda Gates Fund.
Có phải ai giàu có cũng khó vào Nước Thiên Đàng ?
Tôi nhớ có câu chuyện thế này:
Nhà tỷ phú nọ một hôm đi taxi, khi xuống xe, ông nhìn đồng hồ báo trên xe và đếm đúng số tiền trả cho người tài xế. Anh tài xế tỏ vẻ thất vọng: “Hôm qua, tôi chở con trai ông. Anh ta đã ‘tip’ cho tôi 100 đô !” Nhà tỷ phú cười lặng lẽ: “Tôi làm sao sánh được với nó. Ba của nó là tỷ phú mà !”
Đơn giản vậy mà tôi không nghĩ ra. Chỉ cần tôi tin rằng tôi có… một Người Cha Tỷ Phú thì tôi sẵn sàng san sẻ cho đến đồng bạc cuối cùng trong túi mình.
“Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên Trời, rồi đến theo Ta”.
Cha tôi mời gọi tôi đầu tư vào một nơi mà không một thế lực trần gian nào chạm tới được. Cha tôi rủ tôi đi theo Người để cất đi gánh nặng lo toan nơi tôi. Vậy mà tôi không dám tin ! Các cậu ấm cô chiêu trên kia dám tin vào một người cha trần thế nay còn mai mất, còn tôi không dám tin vào người Cha trên Trời uy lực và vĩnh hằng. Kinh Tin Kính mà tôi đọc vào Chúa Nhật hàng tuần hóa nên rỗng tuếch trong chính bản thân tôi. Tôi tự xưng là Kitô hữu mà vẫn sống như một kẻ vô thần. Tôi cũng lựa chọn những điều y như bất cứ một người vô thần nào lựa chọn. Tôi đã từng chứng kiến những nhà tài phiệt bỏ tiền vào ngân hàng này, vào bảo hiểm kia bỗng chốc trắng tay chỉ sau một biến cố thay đổi thể chế chính trị. Vậy mà giờ đây, tôi cũng vẫn tin rằng đời sống của vợ, chồng, con cái tôi sẽ được bảo đảm ở trương mục này, ở cổ phiếu kia, ở bảo hiểm nọ… Tôi không cần đến Người Cha Tỷ Phú nữa. Cha tôi chắc sẽ buồn lắm !
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhớ đến Cha trên Trời hằng yêu thương, bao bọc, che chở chúng con. Nhờ đó, chúng con dám mạnh dạn vứt bỏ mọi thứ phù phiếm trần gian để một mực đi theo con đường yêu thương mà Chúa muốn chúng con đồng hành cùng Người, để xây dựng Nước Chúa giữa trần gian, để thiết lập kho báu Nước Trời, để mọi người cùng nhìn nhận Chúa là Cha chung và họ là anh em ruột thịt với nhau. Amen.
Chàng Phanxicô vốn hào hoa phong nhã, bảnh trai, phóng khoáng nghệ sĩ, tài đức song toàn, nghiễm: TN 28-B117
Chàng Phanxicô vốn hào hoa phong nhã, bảnh trai, phóng khoáng nghệ sĩ, tài đức song toàn, nghiễm nhiên là thần tượng của các giai nhân trâm anh thế phiệt, cũng như đại ca của các công tử trong thành Átxidi. Vừa tròn tuổi đôi mươi, Phanxicô tòng quân đi chiến đấu, theo giấc mộng anh hùng. Nhưng bại trận, chàng bị bắt làm tù binh, rồi ngã bệnh nặng. Năm sau chàng được tự do, trở về nhà. Vừa phục hồi sức khỏe, chàng lại hăm hở tiếp tục lên đường chinh chiến. Nhưng nghe tiếng Chúa nói, chàng trở vể quê, sẽ được Người cho biết phài làm gì.
Một ngày kia khi đang đi ngựa qua vùng quê thì Phanxicô gặp một người phong cùi. Chàng liền xuống ngựa cho người cùi chiếc áo choàng và do một cảm xúc thiêng liêng thúc đẩy, ngài liền ôm hôn người cùi. Từ lúc đó trở đi Phanxicô đổi hẳn cuộc sống, từ bỏ hoàn toàn những giá trị gia đình và thế tục là tiền bạc và danh vọng.
Khi cầu nguyện trước thánh gía trong Nhà Thờ Thánh Damiano đổ nát, Phanxicô nghe tiếng vọng nói: “Phanxicô hãy tu sửa lại Nhà Thờ của Ta, như ngươi thấy đó, Nhà Thờ đã đổ nát và hoang tàn.” Phanxicô hiểu là phải sửa sang lại nơi thờ tự, nhưng sau này Phanxicô còn thấu hiểu là sứ mệnh của mình còn thuộc về lãnh vực tinh thần theo ơn gọi là sống đúng như tinh thần Phúc Âm, sống nghèo khó theo như hình ảnh Chúa đã sống.
Để có tiền sửa Nhà Thờ, Phanxicô đã dùng tiền bạc của người cha giàu có. Ông này nổi giận xin Đức Giám Mục sở tại xét xử. Phanxicô nhìn nhận lỗi và trả lại tiền bạc, cùng lập tức cởi bỏ tất cả áo quần đẹp đẽ đắt tiền, cả ngoài lẫn trong, trả lại cho cha mình. Đức Giám Mục phải lấy áo che thân chàng, rồi cho một bộ áo người nghèo. Từ đó Phanxicô thay đổi hoàn toàn từ tinh thần đến vật chất.
Tường thuật Tin Mừng hôm nay, cũng nói về một anh chàng giàu có ngoan đạo, muốn theo Chúa. Nhưng chàng khựng lại vì điều kiện tiên quyết của Chúa Giêsu: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. Anh sẽ có một kho tàng trên Trời. Rồi hãy đến theo tôi.” ( Mc 10, 21 ).
Người muốn kẻ theo Người thì từ bỏ tất cả những gì ngăn cản trên Đường Hy Vọng, của cải, danh phận và bản thân.
Từ bỏ của cải phù vân
Của cải, tiền bạc, nhà cửa, tiện nghi là những thứ phù vân. Chúng chỉ là phương ti ện để sống, chứ không thể xứng đáng làm mục đích sống. Nay còn mai mất. Hơn nữa, một tai ương, hoạn nạn, hay cái chết đều biến chúng thành vô nghĩa với người sở hữu.
Vì thế, Chúa Giêsu mới căn dặn chúng ta, như đã dạy chàng kia: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên Trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó” ( Lc 12, 33 ).
Từ bỏ danh phận phù du
Từ địa vị, chức tước, quyền bính, đến tình cảm gia đình, bạn bè, tất cả cũng đều chỉ như “Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy, thấy mình tay không” ( Nguyễn Gia Thiều, Cung Oán Ngâm Khúc ). Một cuộc bể dâu, thì người ta có thể mất hết, trắng tay, kể cả quyền lực và thậm chí cả tình cảm thân bằng quyến thuộc, một khi xa mặt cách lòng. Sự kiện 1975 tại Việt Nam là một thí dụ điển hình cho sự phù du này.
Một tấm gương rạng ngời về từ bỏ danh phận là Thánh Matthêu, còn gọi là Lêvi. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. không chần chừ, không do dự, Lêvi đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu ! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: "Hãy theo Ta".
Người còn khuyến khích: “Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau” ( Mc 10, 30 ).
Từ bỏ cái tôi phù phiếm
Chúa Giê su còn quyết liệt hơn nữa: ”Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” ( Mt 16, 24 ). Có nghĩa muốn theo Chúa tới bến, thì từ bỏ mọi sự, kể cả bản thân với bao hệ lụy.
Nếu không, cái tôi sẽ luôn mù lòa, vì bất hảo với tha nhân, như khoa trương, ghen tương, khinh chê, thù hằn, nghi kỵ, ác tâm, độc địa, gian manh, so đo, đố kỵ, …
Nếu không, cái tôi sẽ mãi câm điếc, vì kiêu căng, tự ái, tự phụ, sĩ diện, giận dỗi, bực tức, háo danh, háo lợi, háo sắc, …
Bỏ tất cả, mà chưa bỏ mình, thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước ( Đường Hy Vọng, 3 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết can đảm rũ bỏ sự khôn ngoan trần tục, nhận lấy sự ngu đần, điên dại dưới mắt thế gian, để con mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin chỉ dạy con luôn sống tinh thần nghèo khó, đơn sơ, biết từ bỏ mình, cùng những thói hư tật xấu, để xứng đáng theo chân Chúa trọn đời. Amen.
Nói nhỏ với nhau mà nghe: ai cũng thích tiền. Tiền Việt, tiền Đô, Euro hay gì cũng được, miễn tiền: TN 28-B118
Nói nhỏ với nhau mà nghe: ai cũng thích tiền. Tiền Việt, tiền Đô, Euro hay gì cũng được, miễn tiền là khoái rồi. Càng nhiều càng tốt. Cả ngoài xã hội lẫn trong Giáo Hội. Có ai mà không khoái tiền? Nhưng khoái tiền đâu phải tội. Chúa cho phép mà. Giáo Hội mà không có tiền thì lấy gì mà làm những việc bác ái? Lấy gì mà xây dựng nơi thờ tự? Nhưng có một điều quan trọng mà ta cần lưu ý, phải nhận thức rõ ràng: thích tiền đó là điều tự nhiên, nhưng không được MÊ TIỀN. Bởi khi đã mê tiền, nghĩa là đã bị đồng tiền mê hoặc, thì người ta đã trở thành nô lệ cho nó. Khi đã mê tiền, người ta sẽ nghĩ ra nhiều cách, kể cả những thủ đoạn, để kiếm cho được nhiều tiền. Giá Giuđa không bị tiền bạc mê hoặc thì có lẽ ông đã không phản bội Thầy.
Câu chuyện hôm nay là một minh họa rất hay và rõ ràng về sức mạnh của đồng tiền. Đó là một thanh niên đạo đức, rất lễ phép khi đến trước mặt Chúa. Anh quỳ xuống và thưa: “Lạy Thầy nhân lành”. Rồi khi được tra vấn về đời sống đạo đức, anh đã trả lời với Chúa rằng anh đã có một đời sống đạo rất tốt. Anh đã được cha mẹ dạy dỗ ngay từ nhỏ về các giới răn của Thiên Chúa. Anh không ảo tưởng. Bởi đúng thực là thế. Vì sau khi nghe anh trả lời, Chúa Giêsu đã đưa mắt âu yếm nhìn anh và đem lòng yêu mến anh. Hạnh phúc biết bao, khi đời người được đón nhận lòng yêu thương của Chúa. Anh thanh niên ấy, đã đi đúng đường, trên con đường để nên hoàn thiện. Nhưng con đường anh đã và đang đi, mới chỉ dừng lại ở mặt bằng hoàn thiện cá nhân. Chúa muốn dắt anh lên cao hơn, về đỉnh cao của sự hoàn thiện. Đó là, anh phải vượt cao hơn chính mình. “Con hãy về nhà, bán hết của cải, phân phát cho người nghèo khó, rồi đến đây theo Ta”.
Khó quá! Đồng tiền liền khúc ruột. Nó là tiên, là Phật cơ mà! Nó là điểm tựa rất vững cho cuộc đời; là sự sống của cuộc sống anh. Bây giờ phải bỏ… Đời mình sẽ hụt hẫng, trắng tay. Tự ta lại bỏ ta rồi, tự ta làm khổ ta rồi. Anh xụ nét mặt nuối tiếc. Niềm tin của anh yếu quá! Anh quên mất một điều: được Chúa là được tất cả. Tiền bạc có là gì, nếu so với Chúa. Bởi mọi mỏ vàng, mỏ bạc, kim cương đều do Chúa tạo nên. Vậy nếu, anh đi theo Chúa, như Chúa bảo, anh sẽ nhận được sự an toàn to lớn gấp vô vàn sự an toàn của tiền bạc cho anh. Không phải là sức mạnh của tiền lớn, mà chính yếu là niềm tin của ta vào Chúa quá yếu đó thôi!
Gợi ý suy niệm
1- Bạn có tốt bằng người thanh niên đó chưa? 2- Với bạn, tiền quan trọng hay Chúa quan trọng hơn?
Tiền của đã làm cho chàng thanh niên phải bỏ cuộc, không còn đủ sức đi theo Chúa. Chàng đành TN 28-B119
Tiền của đã làm cho chàng thanh niên phải bỏ cuộc, không còn đủ sức đi theo Chúa. Chàng đành phải sống một nếp sống bình thường. Bởi sức ràng buộc của nó, tiền của là một trở ngại lớn để vào Nước Trời. Vì thế Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải từ bỏ. Sự từ bỏ này mang nhiều hình thức và mức độ khác nhau tuỳ hoàn cảnh mỗi người. Nhưng trong mọi trường hợp, điều không thể thiếu vắng đó là lòng siêu thoát. Vậy thì chúng ta phải sống tinh thần siêu thoát ấy như thế nào?
Trong một thế giới mà sức mạnh của đồng tiền được khẳng định và sự thịnh vượng vật chất đang nổi lên hàng đầu. Đất nước nào cũng mơ ước sẽ trở thành những con rồng kinh tế. Liệu chúng ta có phải quay lưng lại với sự giàu sang để ca tụng tinh thần nghèo khó hay không? Thực ra chẳng có ai chống lại sự thịnh vượng giàu có và cũng chẳng có ai tìm kiếm sự nghèo khổ. Kitô giáo lại càng không làm như vậy. Chính Thiên Chúa đã truyền cho con người phải tiếp tục công trình sáng tạo của Ngài, nghĩa là phải làm chủ và khai thác tối đa tài nguyên của thế giới này để nâng cao mức sống. Kitô giáo không phải là kẻ thù của sự phát triển và là đồng minh với sự nghèo đói. Tuy nhiên, không phải lúc nào tiền của cũng phục vụ con người.
Trước hết là phương thức kiếm tiền. Người ta đã kiếm tiền bằng những phương thức bất công, chèn ép bóc lột kẻ khác. Tiếp đến là cách thức tiêu tiền. Thừa tiền dư của, thường dẫn tới một lối sống hưởng thụ, phi đạo đức, sa đoạ. Vì chạy theo lợi nhuận và tiền của người ta đã giết chết lương tâm, bán rẻ nhân phẩm, bằng những hành động lường gạt, giả dối. Tiền của nhiều khi còn là nguyên nhân gây nên tàn ác, bất công, bạo lực, đàn áp và chiến tranh. Đam mê và lòng tham vốn tiềm ẩn nơi con người, dễ bị tiền của thổi bùng lên. Chính vì những cạm bẫy khéo nguỵ trang đó mà Chúa Giêsu đã phải cảnh cáo: Những người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa. Cho nên vấn đề được đặt ra cho người Kitô hữu không phải là chính tiền của mà là cách thức tìm kiếm và sử dụng cũng như thái độ đối với tiền của.
Tinh thần nghèo khó luôn được Tin Mừng đề cao và sự từ bỏ được coi là thái độ không thể thiếu vắng của người môn đệ Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt rõ ràng tinh thần nghèo khó khác với tình trạng nghèo khó. Nghèo khó chẳng những là điều không dám mơ ước mà còn phải tìm cách chống lại, bởi vì sự nghèo khó sinh ra không biết bao nhiêu hậu quả tai hại, tệ đoan, bất ổn, tội ác, con người thiếu điều kiện điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá của mình, như tục ngữ cũng đã nói: Bần cùng sinh đạo tặc. Trong khi đó, thực hiện tinh thần nghèo khó của Tin Mừng thì khác. Người nghèo khó trong tinh thần luôn giữ lòng siêu thoát, kể cả khi tiền của dư dật, không lấy của cải làm chủ đích đời mình nhưng sử dụng của cải đúng mức, theo nhu cầu chính đáng của mình và trong tinh thần liên đới, chia sẻ với anh em. Tột đỉnh của tinh thần nghèo khó là sự từ bỏ.
Từ bỏ là mức độ siêu thoát cao nhất, là thái độ chọn lựa Thiên Chúa và Nước Trời làm ưu tiên hàng đầu. Đó là một thái độ tích cực chứ không phải là tiêu cực. Nó không bao hàm sự khinh chê những giá trị vật chất và nhân bản, nhưng biểu thị nỗ lực tìm kiếm những giá trị tâm linh thiết yếu mà nếu thiếu thì ngay cả những giá trị vật chất và nhân bản ấy sẽ bị sụp đổ, bởi vì: Người ta không sống chỉ bằng cơm bánh.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai điều. Đó là tình và tiền; tình yêu phụng TN 28-B120 Luong
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai điều. Đó là tình và tiền; tình yêu phụng sự Thiên Chúa và tiền bạc nhiều khi phản lại lý tưởng Chúa.
Một thanh niên được Chúa chú ý và kêu gọi đáp lại tình yêu của Ngài. Anh vốn là người đạo đức từ thuở nhỏ. Anh nói: “Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ”. Nhưng hôm nay, Chúa kêu gọi anh tiến lên một bậc nữa, để đáp lại tình yêu của Ngài, là “bỏ, bán, bố thí” của cải và theo Ngài. Tình yêu đòi hỏi cởi bỏ để đi theo, như người vợ thương chồng, bỏ tất cả để theo chồng, “chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo”. Nhưng người thanh niên này bỏ không đành, “bỏ thì thương vương thì tội”, anh bị chi phối quá nhiều. Phúc Âm nói: “Vì anh có nhiều của cải”. Tiền đã thắng anh.
Nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã nói về tiền của. Ngài không lên án người có của. Ngài biết “đồng tiền nối liền khúc ruột”, cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa, “có thực mới vực được đạo”. Nhưng Ngài lên án sự ham mê tiền bạc. Tiền của hay làm người ta ham mê dính bén. Tiền bạc hay làm cho lòng người ta đen bạc, khó vào Nước Thiên Đàng. Chúa phán: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”. Câu nói ấy có nghĩa làm sao? Đây là một từ ngữ Á đông để chỉ một việc làm rất khó. Sách Talmud của Do thái cũng có một thành ngữ tương tự: “Khó như con voi chui qua lỗ kim!”
Thật ra Chúa Giêsu không lên án người giàu cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người “đàn bà thánh thiện” đi theo Chúa, họ là những người giàu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Martha và chị của Lagiarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng), Ngài không chối bỏ cử chỉ yêu mến đó. Cũng như nhiều lần, Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thâu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy, Chúa lên án sự gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ tiền của. Thật khó cho người giầu, có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới là những người tự do, những chứng chân thật sự và quả cảm. Phaolô nói: “Chúng tôi là những kẻ được coi là không mảy may, nhưng lại được mọi sự làm sở hữu” (IICor 6,10). Và chị Thánh Têrêxa nói: “Từ khi tôi từ bỏ mọi sự, tôi sống thật hạnh phúc, tôi như được sống lại”.
Người từ bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.
Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa “động tĩnh” gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào báo động. Thánh nhân bảo: “Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ”. Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: “Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy xin cha nhận của ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!”
Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển thánh ngày 19-5-1934.
“Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở đời này và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10,29-30).
Một đám cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15 năm là đám TN 28-B121
Một đám cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15 năm là đám cưới của công nương Diana và hoàng tử Charles. Một chiếc nhẫn trị giá đến 205 ngàn đô la để chỉ ngự trị trên bàn tay quí phái của Diana không quá năm tiếng đồng hồ là chiếc nhẫn mà nhà triệu phú Dodi Fayer đã tặng cho công nương trong đêm định mệnh. Tai nạn bất ngờ sảy ra. Diana đi về thế giới bên kia. Không mang theo được đồng đô la nào. Chiếc nhẫn kim cương đắt giá cũng được tháo ra trao lại cho gia đình Spencer.
Nằm trong quan tài, Diana với đôi tay không nhẫn cưới và cũng chẳng có nhẫn kim cương. Điều kỳ lạ là trên đôi tay ấy người ta có thấy một cỗ tràng hạt do Mẹ Têrêsa trao tặng trong một lần tiếp xúc. Phải chăng:
Kiếp ngắn dài, một mộ bia Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian Dừng chân đếm túi hành trang Những gì còn lại, chuỗi vàng lời kinh? (Lm. Trần Cao Tường)
Phải chăng những người có trách nhiệm sau cùng trên thi hài của công nương đã muốn nói với mọi người: tiền bạc, kim cương, danh dự, vật chất, sang giàu, thế gian… không phải là hành trang cho một cuộc sống hạnh phúc đời đời, nhưng là những mầm sống yêu thương và những giá trị thiêng liêng mà Mẹ Têrêsa, qua bộ tràng hạt, đã trao lại cho Diana và thế giới như một lời nhắn nhủ?
Hạnh phúc sung mãn và trường tồn không thể tìm thấy trong sự sang giàu của thế gian. Thánh kinh đã khẳng định điều đó. Cả ba Phúc âm Nhất lãm đều ghi nhận: một ngày kia khi Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để bước vào cuộc khổ nạn hầu mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho muôn người, thì một chàng thanh niên giàu có “chạy” đến. Anh ta quì xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa: “Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp.” Chắc hẳn câu hỏi của anh thanh niên đã làm bối rối và sửng sốt cho không ít người: cứ tưởng “có tiền mua tiên cũng được,” đàng này trong con người còn có một thứ mắc hơn tiên đến nỗi có tiền chưa chắc đã mua được. Đấy chính là một khát vọng vô biên.
Vì là khát vọng vô biên nên chắc chắn không một thực tại hữu biên nào trên thế gian này có thể lấp đầy. Dù đó là xác thịt, kiến thức, giàu sang hay bất cứ thứ gì… ngoại trừ Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, mới có thể thoả mãn cái khát vọng vô biên nơi lòng con người. Chính Thánh Augustinô, sau khi trải qua biết bao kinh nghiệm tìm kiếm đối tượng cho khát vọng vô biên nơi lòng mình, đã thốt lên:
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Trước những trăn trở không câu trả lời, người thanh niên giàu có thấy được Đức Giêsu như một cứu cánh. Anh đã “chạy” đến với Ngài. Chạy là thái độ của khao khát, nôn nóng kiếm tìm chân lý, trái nghịch với thái độ thẫn thờ, bàng quang, chẳng thiết tha.
Trước tâm tình và ước nguyện của chàng thanh niên, Đức Giêsu đã làm một cuộc phỏng vấn liên quan đến các giới răn: ngươi không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không làm chứng gian, không…. Và người đó đáp lại: “Thưa Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở còn thơ.” Nghe thế Đức Giêsu bảo anh ta: “Ngươi còn thiếu một điều. Có gì thì hãy đem bán mà cho kẻ nghèo. Đoạn hãy đến theo Ta” (Mc 10:21).
Thật kỳ lạ! Sống không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình, không bất công, không gian dối, ấy thế mà Chúa Giêsu còn bảo là chưa đủ. Chàng thanh niên giữ các giới răn khá là trọn vẹn mà còn bị cho là thiếu. Không biết đời tôi từng phạm điều này, lỗi nghịch điều kia, chắc là còn thiếu nhiều lắm!
Thế nên không thể cho rằng tôi sống đàng hoàng, không phạm 10 điều răn Đức Chúa Trời, chẳng để sót sáu điều răn Hội Thánh, tôi không làm hại ai, không gây tổn thương cho người nào là bảo đảm vào thiên đàng 100% rồi đâu. Nếu chỉ không điều này, không điều kia mà đủ tiêu chuẩn để sống hạnh phúc đời đời thì cần gì theo Chúa. Theo vô vi cũng được vậy. Song người ta cần phải có. Đó là có yêu thương, có quảng đại, có trao ban, có thứ tha, có cho đi chính mình như Đức Giêsu.
“Hãy đến mà theo Ta” cũng có nghĩa là bước theo Ngài trên nẻo đường dâng hiến đời mình cho sự sống tha nhân. Và chỉ khi trao ban dâng hiến như thế con người mới tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thật sự cho cuộc đời.
Nong nả đi tìm câu trả lời cho đâu là ý nghĩa của cuộc sống, ấy thế mà khi nhận được lời giải đáp, chàng thanh niên lại sa sầm nét mặt, bỏ đi buồn rầu. Thánh kinh cho biết “vì anh ta có nhiều của” (Mc 10:22).
Bước theo Đức Giêsu đòi hỏi một thái độ vươn mình trên những gì là của cải vật chất. Bởi vì “không ai có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.” Ấy thế mà, nếu thành tâm xét lại, thì hình như trong đời tôi vẫn còn đó những khoảnh khắc vừa mang danh Kitô hữu lại vừa xem tiền bạc như lẽ sống. Phải chăng vừa theo Chúa, tôi vừa tự biến mình làm “con vật kinh tế,” thậm chí có khi còn giành giật, lừa gạt, chà đạp, sát phạt kẻ khác… vì đồng tiền.
Bao lâu chỉ biết thu về mà không hề trao ban, người ta sẽ cứ mãi “sầm mặt xuống, buồn rầu.” Khi nào biết san sẻ cho kẻ nghèo khó, người ta sẽ lớn lên trong tình yêu và tiếng cười. Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở: “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công. Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó. Để giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục.” Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: “Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”
Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự. Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van Cruyssen. Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo. Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.
Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự. Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: “Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều.”
Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi. Yêu thương san sẻ không hệ tại nơi tiền bạc của cải, song là ở tất cả những gì mình có. Đức Giêsu đã bảo: “Hãy đi bán tất cả những gì ngươi có mà cho kẻ nghèo.” Người nghèo là người túng thiếu-không chỉ thiếu về của cải, nhưng còn có thể thiếu về giáo lý, kiến thức, sức lực, cảm thông, tha thứ, tiếng ca, nụ cười….
Vậy nếu trong gia đình, nơi giáo xứ, cộng đoàn, hay tại sở làm của tôi vẫn còn những người thiếu thốn như thế, liệu tôi có can đảm đáp trả lời mời gọi của Đức Kitô-“Hãy cho, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời”-hay tôi sẽ cúi mặt, bỏ đi, buồn rầu.
Chọn lựa bước theo Đức Kitô là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu. Nhưng đó lại chính là một lựa chọn khôn ngoan và đáng giá vô cùng.
Đoạn phúc âm này là bài giáo huấn thứ 3 trong chương 10, sau lời giáo huấn về hôn nhân (10,2-12) TN 28-B122
- Đoạn phúc âm này là bài giáo huấn thứ 3 trong chương 10, sau lời giáo huấn về hôn nhân (10,2-12) và về tinh thần của trẻ em (10, 13-16). Đề tài chính của đoạn này là câu hỏi về sự sống đời đời làm gia nghiệp trên nước Trời, và tinh thần theo Giêsu.
- Đoạn này có thể chia làm 3 phần: (1) từ câu 17-22 là cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Giêsu và người thanh niên giàu có đi tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp. (2) Từ câu 23-27, Đức Giêsu giáo huấn tinh thần nghèo khó cần có trên đường theo Chúa, và cần có để được vào nước Trời. Và (3) từ 28-31, câu hỏi của Phêrô về phần thưởng khi theo Giêsu, và câu trả lời của Giêsu.
Suy niệm
“17 Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
- “Giêsu lên đường” trong câu này, là đi tới Giê-ru-salem (ss. Mc 10,32), để Ngài sẵn sàng chịu đau khổ, chịu bắt hại và chịu chết. Và trên đường đó, có một người chạy đến gặp Giêsu. Người này, theo Mt 19,22, là người thanh niên. Theo Adolf Pohl, trong xã hội Do-thái, đàn ông đến 40 tuổi vẫn có thể được gọi là thanh niên. Ngoài ra, so sánh với Lc 18,18-23, thì người hỏi Giêsu là một thủ lãnh. Người này có thể là trưởng hội đường, là quan tòa, hay một thành viên trong hội đường. Vì thế, không biết người anh em trong đoạn phúc âm của chúng ta có phải là một thanh niên hay không? Tuy nhiên, thuận theo Mát-thêu chúng ta cứ coi là một thanh niên.
- Anh ta chạy đến và quỳ xuống trước mặt Giêsu và hỏi. Thái độ quỳ xuống ở đây nhắc nhớ chúng ta đến hình ảnh của người phong hủi quỳ xuống xin Giêsu: “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mc 1,40) Thái độ này còn có ý nghĩa công nhận Giêsu là một vị Thầy. Vì thế, trong câu hỏi, anh ta đã nói rằng: “Thưa Thầy nhân lành”. Tính từ “nhân lành” hay “tốt lành” ở đây được thêm vào, có ý nghĩa chỉ về vị thầy được nhắc trong Mc 12, 14, mà các người Pha-ri-sêu nói về Giêsu: “Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa.” Và “tốt lành” ở đây chỉ vị Thầy khiêm nhường, như Gioan Tẩy Giả nhỏ đi, để Thiên Chúa lớn lên: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Vâng, quên chính bản thân mình, để tất cả chỉ vì vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
- “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Câu hỏi của chàng trai trẻ đặt ra cho vị Thầy tốt lành, trở nên một câu hỏi quan trọng cho mỗi con người trong từng thời đại. Một câu hỏi nói lên lòng khao khát của con người về kho tàng quý giá nhất, về hạnh phúc tuyệt vời và vĩnh cửu, hạnh phúc mà con người không thể tìm thấy trong cuộc sống trên trái đất này. Sự khao khát về sự sống vĩnh cửu, sự sống không bao giờ quen tới chữ “hết” và chữ “chết”. Nhưng để cho cuốn phim cuộc đời không “hết” và sự sống con người không “chết”, thì cần phải làm gì đây? Vấn nạn của chàng thanh niên thuở xa xưa cũng là vấn nạn của từng người trẻ thời nay. Trước vấn nạn này, chúng ta hãy lắng nghe Giêsu trả lời.
“18 Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.”
- Đúng theo kiểu của Giêsu, Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi cho người đã hỏi. (ss. Mc 10,3). “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.” Ở đây, chúng ta cũng có thể thắc mắc, tại sao Giêsu lại đặt ra câu hỏi đó. Và tiếp đến tại sao Giêsu lại từ chối tính từ “nhân lành hay tốt lành”?
Câu hỏi Giêsu đặt ra và sự từ chối của Ngài như là một cách thức và “phương tiện” Giêsu dùng để hướng về một điều quan trọng trong câu chuyện này. Điều quan trọng đó nằm trong câu trả lời: “Chỉ một mình Thiên Chúa tốt lành” (ss. Mc 12, 29). Câu trả lời này, theo R. Pesch, có ý nghĩa là, Giêsu qua câu hỏi của người thanh niên về điều cần làm, muốn hướng mọi người về giới răn chính yếu của Thiên Chúa tốt lành. Chỉ có giới răn này là quan trọng, là cần được thực thi. Đó chính là giới răn được nhắc trong Đnl 6,4-5: “ Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).” Điều răn chính yếu này hướng về điều răn khác cũng quan trọng không kém. Đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” Và “chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 31).
19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.”
Tiếp đến Giêsu hướng anh chàng thanh niên về các giới răn mang tính cách xã hội, trong tương quan giữa ngưới với người: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” Đây là những giới răn quan trọng được nhắc tới trong Mười điều răn căn bản của Đức Chúa Trời dạy. Mười điều răn này tựu trung lại chính là giới răn: “Yêu người thân cận như chính mình.” Ai thực thi những điều răn này thì đang đi trên con đường công chính, và sự sống đời đời thuộc về người đó. Như vậy, anh chàng thanh niên của chúng ta có sống theo các giới răn đó không?
20 Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.”
Thật tuyệt vời! Còn gì bằng nữa. Từ năm 13 tuổi anh thanh niên đã sống theo các giới răn. Vâng, như các trẻ em Do-thái khác, khi được 13 tuổi anh đã đón nhận trách nhiệm sống tương hợp với những điều Gia-vê truyền. Theo Billebeck, thì Do-thái giáo coi những người, dù ở trong một xã hội sô bồ và tội lỗi, vẫn sống theo lề luật mà Mô-sê truyền là những người công chính. Đó là 365 điều răn cần làm và 248 điều răn cần tránh trong các sách của Mô-sê.
Cuộc gặp gỡ giữa Giêsu và chàng thanh niên có thể chấm dứt ở đây, và anh ta có thể ra về trong hân hoan. Nhưng không, chính Đức Kitô không để cho anh đi dễ dàng như vậy. Ngài lên tiếng và thêm vào một điều quan trọng khác kế bên các giới răn trên. Điều đó người thanh niên cần có để có thể đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
Trước câu trả lời của chàng thanh niên, Giêsu hướng nhìn anh và đem lòng yêu mến. Ở đây, theo R. Pesch, thì đó không phải là kiểu Giêsu biểu lộ cảm tình của mình với anh thanh niên, mà là một thái độ cao thượng của người Thầy có quyền dạy dỗ về giới răn và quyết định giới răn. Sau đó, Giêsu đã chỉ ra một điều thiếu thốn, kế bên những giới răn mà anh thanh niên đã hiểu và sống theo. Đó là: “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Trong Mát-thêu 19, 29 thì: ““Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Điều Giêsu đòi hỏi liên hệ đến chính sự sống và và vệnh mạng của anh thanh niên. Một sự đòi hỏi tận căn cho những con người muốn sống hoàn thiện.
Thực ra, nếu so sánh với kho tàng trên trời mà Giêsu hứa ban, thì của cải tài sản trên trái đất này có là gì đâu. Nói vậy, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Có biết bao người đã coi của cải trần gian như ông chủ của mình, và bị lệ thuộc vào nó hoàn toàn. Hơn nữa, cái mình đang có trong tay bao giờ cũng quý, và cái mà mình được hứa ban cũng thật quý. Nhưng ai dám đánh đổi hay bỏ hết cái mình đang có trên tay, đề rồi nhận cái mà mình được hứa trong tương lai? Rồi còn cái “lòng tham vô đáy” của con người nữa chứ.
Dù vậy, vẫn có rất nhiều anh chị em trong lịch sử đã thấu hiểu cái giá trị cao quý của Nước Trời, nên chẳng màng tới của cải trần gian. Đó là Phan-xi-cô A-si-si, là Ê-li-sa-bét miền Thue-ring-gen, là I-nhã thành Lô-giô-la, và một vị thánh khác rất gần gũi với người Châu Á, Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Tất cả đều là những con nhà quyền quý và giàu sang, nhưng đã rũ bỏ tất cả những vật hồng trần, để trở nên con người tự do thực sự. Đây chính là điều Giêsu muốn nói trong đoạn phúc âm này. Bỏ hết của cải để được tự do cho Nước Chúa, tự do cho Tin Mừng, tư do theo Đức Kitô, và cùng với Ngài sống hoàn toàn cho tình yêu thương. Chắc chắn phần thưởng của họ không gì khác hơn là kho tàng lớn nhất. Đó là Nước Trời. Về điều này, R. Pesch đã giúp cho chúng ta đọc những tâm tình của các thầy Ráp-bi Do-thái giáo. Dưới đây là một trích dẫn mang suy nghĩ “công trạng và phần thưởng”: “Người công chính rất thích chờ đợi giây phút cuối cùng, họ chẳng sợ gì khi lìa bỏ cuộc đời này. Vì ở nơi Thiên Chúa, họ có một kho tàng từ chính những công trình của mình. Kho tàng đang được giữ gìn cho họ trong phòng cất giữ đồ quý.” Tuy nhiên, kho tàng ở trên trời không phải là thước đo, bắt người có niềm tin phải sống sao cho có hiệu quả, phải sinh ra lợi ích này hoa trái kia. Suy nghĩ của Giêsu không theo suy nghĩ của các Ráp-bi, “công trạng và phần thưởng”. Kho tàng trên trời là một hướng đích, giúp cho người có niềm tin định hướng cho hành động của mình sao cho được tốt, có thái độ hợp tình hợp lý với anh chị em bên cạnh, từ chối những gì mang mùi vị của sự dữ, không làm cho người bên cạnh bị tổn thương. Kho tàng trên trời giúp biết ý thức sống công chính với người nghèo, sẵn sàng chia sẻ và nâng đỡ họ, ... Tóm lại, có thể nhắc đến nguyên tắc vàng trong Mt 7,12: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” Như vậy, ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13, 44-46: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Và người đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng
“vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).
- Cùng với Đức Kitô, người sống tinh thần từ bỏ tất cả của cải, và chỉ hướng về Nước Trời, đang sống chứng tá giữa lòng thế giới đầy phức tạp, với chủ nghĩa hưởng thụ, đề cao của cải vật chất, tiện nghi hiện đại, đến nỗi chẳng còn màng gì đến nhân phẩm con người, đến lòng bác ái cần có trong xã hội. Trong thế giới này thiếu vắng văn minh của tình thương. Theo Carlo Maria Martini, tinh thần nghèo khó của Kitô giáo cần trở nên dấu chỉ sống động cho sự đoàn kết và tương trợ giữa con người với nhau. Đàng khác, tinh thần sống nghèo khó của người Kitô hữu cần mang một “khuôn mặt” khác nữa. Sự nghèo khó của chúng ta cần phải tự tách biệt ra khỏi thế giới này, trở nên lời phê bình đối với thế giới xung quanh chúng ta. Sự nghèo khó của Kitô giáo cần phải đem lại thước đo giá trị khác về con người và vật chất. Nghĩa là, phẩm giá con người không thể được đo và đánh giá theo chuẩn mực của danh vọng địa vị, của tiền bạc vật chất. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường nghèo khó cũng chính là con đường giải phóng, con đường của niềm vui và mừng rỡ. Kinh nghiệm này nối kết chúng ta với Đức Giêsu Kitô. Con đường nghèo khó này giúp cho chúng ta thấu hiểu và cảm nhận được sức mạnh của Thánh Giá.
Ai đã cảm nhận được phần nào niềm vui này, ai đã tập sống chú ý và sống thật giản dị đơn sơ, sống khiêm nhường và ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, thì người đó sẽ khám phá nhiều điều mới trong những trang của Tin Mừng. Không có sự cố gắng sống tinh thần nghèo khó này, các trang giấy Tin Mừng luôn là những trang giấy “câm lặng”.
Ai cất bước đi trên con đường nghèo khó của Đức Kitô, thì lời của Đức Kitô sẽ trở nên sống động đối với người đó. Lời của Đức Kitô sẽ bắt đầu ngân vang lên những khúc nhạc thật tuyệt vời, đem lại cho cuộc đời nhiều niềm vui, bình an và cuộc đời thật đáng sống, vì cuộc đời đẹp lắm thay.
- Ngoài ra, liên quan đến câu nói của Đức Kitô, Anselm Grun, một tu sĩ người Đức thuộc tu viện Biển Đức Muensterschwarzach, đã có những suy niệm khá lý thú. Trước hết cha đã trích dẫn lời của Evagrius (346-400), một vị ẩn sĩ khắc khổ, và một nhà văn người Hy-lạp: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, hãy vác lấy thánh giá của anh trên vai anh, để anh có thể cầu nguyện sốt sắng, mà không bị chia trí gì cả.” Tiếp đến, cha Grun đã giải thích lời này như sau.
Evagrius đã thay đổi câu nói của Đức Kitô theo một ý nhất định. Trong phúc âmcủa Mát-thêu Chúa Giêsu nói với người thanh niên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19,21) Evagrius đã đồng nhất sự theo chân Đức Kitô với việc cầu nguyện thật sốt sắng. Thật là táo bạo, khi thay đổi ý nghĩa lời của Giêsu. Và như vậy, việc theo chân Đức Kitô được hoàn thiện trong cầu nguyện, trong chiêm niệm.
Nhưng điều kiện cho việc cầu nguyện sốt sắng không chia trí là, chúng ta phải bán tất cả những gì mà chúng ta đang bám vào và lệ thuộc vào, và cho người nghèo. Chúng ta cần phải trở nên tự do hoàn toàn, tự do với tất cả những gì chúng ta đang sở hữu. Không chỉ là những vật chất bên ngoài, mà là tất cả những gì mà chúng ta đã đồng nhất hóa với chúng: như thói quen của chúng ta, suy nghĩ của chúng ta, công việc của chúng ta, lo toan của chúng ta, kết quả tốt đẹp và cả tiếng tốt của chúng ta. Sự tự do nội tâm là điều kiện cho việc cầu nguyện, mà trong đó chúng ta được trở nên một với Thiên Chúa.
Evagrius cũng nêu lên một điều kiện khác. Đó là chiêm niệm (contemplation). Chúng ta cần phải đón nhận thánh giá và vác trên vai mình. Thánh giá là sự hiệp nhất của tất cả mọi sự đối lập tương phản. Chúng ta cần phải đón nhận vào trong mình tất cả mọi tương phản, cả cái bóng của chúng ta, cái bóng làm cho hình ảnh lý tưởng của chúng ta bị lu mờ. Đón nhận Thánh Giá cũng còn có ý nghĩa là nói «Vâng» với tất cả những gì đi ngang qua chúng ta, nói «vâng» với đau khổ đến với chúng ta, nói « vâng » với thất bại, nói «vâng» với tương quan đổ vỡ, nói «vâng» với những «vết rách» trong cuốn sách lịch sử cuộc đời của chúng ta.
Chỉ khi chúng ta hòa giải với Thánh Giá đang ở trên cuộc sống của chúng ta, thì chúng ta mới có khả năng cầu nguyện sốt sắng và không chia trí. Chỉ có những người đón nhận tất cả một cách vô điều kiện, thì mới có thể cầu nguyện thực sự. Còn không, thì người đó sẽ bị quấy rầy thường xuyên, bởi những gì khó chịu ở bên trong mà người đó đang chống lại.
22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
- Khi nghe lời của Đức Kitô, anh chàng thanh niên của chúng ta sầm nét mắt lại. Thái độ hăng say đầu tiên đã biến mất. Vâng, đụng tới tiền bạc là thế! Tiền bạc đã làm cho Anh không thể tìm thấy nơi Giêsu ách êm ái và gánh nhẹ nhàng được (ss. Mt 11,30). Vì vậy, anh ta bỏ đi, trở về lại với kho tàng của mình, để tiếp tục gánh cái gánh nặng nề đang đè trên vai mình. Không chỉ thế, bỏ đi nhưng bỏ đi một cách buồn rầu nữa chứ. Anh ta buồn rầu vì suy nghĩ của anh ta về “công trạng và phần thưởng” không được phê chuẩn hoàn toàn? Hay anh ta buồn rầu, vì phải lìa xa Giêsu, sau khi đã nhận được một chút “hơi thở” tốt lành, nhân ái của Giêsu? Nhưng anh ta còn thiếu cái gì để có thể từ bỏ được của cải vật chất? Chắc chắn rằng, anh ta chưa yêu Chúa hơn yêu của cải của mình. Của cải của anh ta nhiều quá, đến nỗi che mắt anh ta, làm cho anh ta không còn thấy Chúa nữa, không còn sáng suốt để nhận định giá trị đích thực của vật chất là gì. Vâng, thật tiếc vì anh ta chưa hiểu được điều: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.” (1 P 1,18) Hơn nữa, con người như một bình sành dễ vỡ. Một lúc nào đó, bỗng chợt anh ta bị một tai nạn gì hay mang cơn bệnh gì, thì thử hỏi rằng, của cải nhiều vô kể có đi theo với anh ta xuống hầm mộ không? Tất cả những của cải dù có lớn kếch sù đến mấy cũng không thể “mua được chiếc hỏa tiễn chở” anh ta lên Trời.
- Ngoài ra, anh ta còn thiếu thái độ bình tâm. Thái độ bình tâm coi Chúa và thánh ý Chúa là trên hết, đến nỗi: “chúng ta không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả.” (Linh Thao số 23)
- Thái độ bình tâm này giúp chúng ta biết hướng con tim của mình về trời. Hướng con tim về trời nghĩa là chúng ta biết lo lắng những điều lớn hơn cả sự sống của mình, lớn hơn cả của cải, sự nghiệp, gia đình và bạn vè, lớn hơn cả những lời hứa hẹn và dự định tương lai. Theo Henri J. M. Nouwen, các điều đó là những điều thuộc về Thiên Chúa: Sự thật, tình yêu, niềm tin, ánh sáng và thánh ý của Chúa. Chừng nào chúng ta còn hướng con tim mình về những điều này, thì lý trí của chúng ta sẽ không còn nghĩ đến những “chuyện vớ vẩn”, những sự vật hấp dẫn chúng ta, đến nỗi chúng ta luôn muốn có, nhưng thực sự thì chúng ta chẳng cần đến chúng. Chừng nào chúng ta còn hướng về chân lý, ánh sáng và sự sống của Thiên Chúa là tình yêu, cũng như đi tìm thánh ý Ngài, thì chúng ta còn tham dự vào trong cộng đoàn của Thiên Chúa. Đấng luôn hiện diện ở đó ngay trong lúc này. Chính Ngài sẽ ban tặng cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần tới. Như thế, thì những lo lắng cuộc đời của chúng ta trở thành lời cầu nguyện, và những cảm giác bất lực của chúng ta sẽ được biến đổi và thánh hóa trong sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
- Thực thế, nếu chúng ta hướng lòng mình vào của cải, vào những lo toan làm sao được sung sướng tiện nghi hơn, nhiều tiền của hơn để hưởng thụ, thì chúng ta vẫn không thể làm cho cuộc sống của mình dài thêm một gang tấc nào cả. Vì thế, điều khôn ngoan cần có ở đây, là không chỉ mong sao cho được sống sung sướng trên nhung lụa, mà còn dám bỏ nhung lụa để chạy đến và nép vào lòng của Thiên Chúa; dám bỏ tất cả, để tự do hoàn toàn trên đường làm con trai con gái của Thiên Chúa, Đấng sẽ đem lại cho chúng ta sự sống đời đời làm gia nghiệp.
- Nói thế, nhưng không phải như vậy là chúng ta không còn “tham lam” của cải, và bám chặt vào chúng, và ngày ngày lo toan sao có thêm nhiều hơn nữa. Khuynh hướng này vẫn ở đó trong chúng ta. Như vậy, chúng ta sống trong tình trạng “què quặt”. Một đàng là vậy, đàng khác thì lại mong ước điều khác hẳn. Vâng, chúng ta không bao giờ thoát khỏi cái ước muốn của chúng ta, và thoát khỏi lòng tham muốn có thêm của cải, để trở nên con người tự do thực sự. Có lẽ hiểu được điều đó mà Tagore đã lên tiếng: “Ước muốn trong tôi nhiều vô kể và tiếng nói tôi than nghe não nuột, thảm thương.” (Lời dâng, 14)
Trong tình trạng “què quặt” này, Henri J. M. Nouwen đã khuyên chúng ta biết luôn trở về và biết ý thức hướng trọn tâm hồn mình về với Chúa, Đấng Tốt Lành vô cùng. Ở bên Ngài chứ không phải ở bên cạnh “đống của cải”, chúng ta có thể thảnh thơi và mỉm cười về chính cái ích kỷ của mình, lòng tham vô đáy của mình, và song song luôn mở đôi mắt mình và đôi tai mình cho sự bắt đầu mới, bắt đầu tập sống tinh thần từ bỏ, tinh thần làm con cái Thiên Chúa, những người con thực sự tự do trên đường theo Thầy, và sống tinh thần của Thầy. Và khi đi trên con đường của Đức Kitô, chúng ta không cần phải lo lắng quá đỗi cho chính mình. Vì “Ngày lại ngày người làm tôi xứng đáng với tặng vật lớn lao giản đơn người ban, mà chẳng cần để tôi xin hỏi – này bầu trời, ánh sáng, này xác thần, này trí tuệ, này cuộc đời – cứu tôi khỏi những hiểm nguy của vũng lầy ước muốn.” (Lời dâng, 14)
23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! “24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”
- Khi anh chàng thanh niên bỏ đi, Giêsu liền rao mắt nhìn chung quanh và nói với các môn đệ. Cái nhìn chung quanh của Giêsu chính là cái nhìn giáo dục, cái nhìn dạy bảo những môn đệ gần gũi với Ngài nhất. Ngài dạy bảo điều gì? “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Chắc chắn rằng, việc vào Nước Trời là một quà tặng của Thiên Chúa ban, nhưng không vì thế mà có nghĩa là sẽ dễ dàng nhận được món quà này. Trở về lại với Mc 9, 43.45.47, chúng ta sẽ thấy Giêsu đã nói mạnh bạo như thế nào. Vâng, “thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục.” (Mc 9,47)
Trước những lời của Giêsu, các môn đệ sững sờ. Vâng, không ngạc nhiên sờ sững sao được, khi hiểu được cửa vào Nước Thiên Chúa đâu phải là cánh cửa rộng thênh thang, mà chính là cánh cửa hẹp: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7,13-14)
Trở về với Mác-cô, chúng ta thấy cánh cửa hẹp của Nước Trời Giêsu đã so sánh với cánh cửa “lỗ kim”. Cánh cửa rất nhỏ tại bức tường vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật là tương phản biết bao, khi con lạc đà đứng trước “lỗ kim” này.
Nghe tới hình ảnh so sánh rất tương phản của Giêsu, các môn đệ lại sững sỡ hơn nữa, và các ông đã hỏi nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Câu hỏi này của các môn đệ được Giêsu trả lời như sau:
27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”
Câu trả lời của Giêsu có hai vế. Vế đầu tiên là: ““Đối với loài người thì không thể được.” Vế này chỉ là phần phụ. Vế thứ hai chính là điều mà Giêsu muốn nói rõ: “nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.” Ở đây, chúng ta nhớ lại câu chuyện của bà Sa-ra, đã không tin vào lời của Chúa hứa cho bà sẽ sinh con dù tuổi đã cao. Sau đó, Chúa đã hiện ra với bà và ông Áp-ra-ham, và Ngài đã nói rằng: “Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA?” (St 18,14). Còn Gióp, dù bị rơi vào trong hoàn cảnh đau khổ, nhưng ông vẫn tin tưởng vào Chúa, Đấng sẽ cứu thoát. Ông đã cầu nguyện như sau: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu.” (G 42,2). Thực vậy, cuối cùng “ ĐỨC CHÚA đã khôi phục tài sản cho ông Gióp...ĐỨC CHÚA đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia.” (G 42, 10)
Chữ “nhưng” nổi tiếng mà Đức Giêsu nhắc đến ở đây thật có ý nghĩa sâu sa. Chữ “nhưng” đó Thiên Chúa đã nói với Sa-ra, khi bà thầm cười, như cười hình ảnh con lạc đà với lỗ kim. Chữ “nhưng” đó Gióp đã hiểu rõ ràng, nên đã không thầm cười, mà đầy tin tưởng cầu nguyện với Gia-vê Thiên Chúa, Đấng chắc chắn sẽ cứu độ ông. Và chữ “nhưng” này còn được làm nổi bật nơi Áp-ra-ham, chồng của bà Sa-ra: “ Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính.” (Rm 4, 18-22)
Trở về lại với cuộc đời thường ngày, nhiều lần tôi cũng đọc được chữ “nhưng” này trong một số cuộc đời. Vâng, có cuộc đời bị thế lực sữ dữ đe dọa và hãm hiếp, nhưng dù vậy người anh chị em đó vẫn luôn bám vào Chúa, vì tin rằng, sự dữ dù lớn đến thế nào, nhưng vẫn không lớn bằng tình yêu của Chúa. Còn cuộc đời khác, bị đồng tiền hãm hại, bóc lột, nhấn chìm xuống vực sâu, nhưng vẫn can đảm vươn lên, không nằm chết dưới bóng đêm trong hố sâu thăm thẳm kia, vì người anh chị em đó tin rằng, đồng tiền dù có giá, dù con người ai ai cũng cần đến, nhưng nó không là ông chủ của mình, mà Ông Chủ đích thực của đời người là Thiên Chúa, đấng mạnh mẽ hơn đồng tiền nhiều lắm. Vâng, dù một số người cứ tưởng rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”, nhưng họ đã lầm to, dù trả giá cao đến mấy, họ vẫn không bao giờ mua Chúa được đâu. Còn cuộc đời khác thì đang quằn quại đau đớn, vì bị người thân yêu nhất của mình bỏ rơi, cái đau thê thảm nhất, nhưng dù sao thì người anh chị em đó trong cơn đau vẫn không đánh mất niềm hy vọng, không đánh mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Thần Khí của Ngài, Đấng có thể thúc đẩy một tâm ác phải lên đường trở về với chính lộ, với chánh niệm, trở về lại với tình yêu nhân từ của Chúa, và từ đó trở về với mái ấm mà mình đã lỡ dại một lần bỏ rơi và đi hoang.
Thực, dù con người và thế giới này có bất lực hoàn toàn, “nhưng” đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.
28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!”
Câu 28 này nối tiếp với câu chuyện anh chàng thanh niên hỏi Chúa, và ở đây Phêrô xuất hiện như là người đại diện cho các anh em. Ông lên tiếng hỏi Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Một cách nào đó, Mác-cô đã đặt câu chuyện của Phêrô ở đây tương phản với câu chuyện của người thanh niên, đã không dám bỏ mọi sự theo Chúa. Song song với Mác-cô, câu hỏi của Phêrô trong phúc âm Mát-thêu rõ hơn một chút: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” Đây là câu hỏi mà các nhà chú giải thường giải thích theo cái nhìn “công trạng và phần thưởng”, tương hợp với suy nghĩ của các Ráp-bi. Theo Adolf Pohl, thì Giêsu đã đón nhận câu hỏi của Phêrô một cách bao dung. Ngài cũng đã trả lời Phêrô rõ ràng, nhưng câu trả lời này không theo suy nghĩ của các thầy Ráp-bi, cũng theo suy nghĩ mang tính cách luân lý, mà là một lời hứa:
29 Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
- Trước hết, đọc kỹ hai câu này, chúng ta thấy Mác-cô trong câu 30, đề cập đến những gì các môn đệ nhận được ngay bây giờ, thì lại không nhắc đến cha, mà chỉ là mẹ và anh chị em. Theo Pesch, thì ở đây trong cái nhìn của Giêsu, chỉ có một cha trên trời mà thôi, và Ngài muốn hướng mọi người về Cha: “Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.” (Mt 23,9). Cha trên trời chình là “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.” (Ep 3,15) Và trong câu 30, Giêsu nhắc đến sự ngược đãi, có nghĩa là Giêsu hướng về sự bắt bớ mà các môn đệ sẽ hứng chịu, khi thi hành sứ vụ truyền giáo trong thời giáo hội tiên khởi
- Ngoài ra, câu trả lời của Giêsu nhắc nhớ đến sự đòi hỏi của Ngài giành cho những ai muốn theo Ngài: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 16), và “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34b-35) Như vậy, động lực đầu tiên thúc đẩy các môn đệ từ bỏ là theo Giêsu, và động lực thứ hai là vì Tin Mừng, Tin Mừng mà Giêsu rao giảng: “Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.” Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,14-15)
Những gì các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình... Nhưng đâu phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại được biết bao nhiêu. Vâng, lời nói của Giêsu: “ngay bây giờ” là lời nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là “gấp trăm” nữa chứ! Cái “gấp trăm” này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ ngôn người gieo giống (ss. Mc 4, 1-20)
Những người từ bỏ hoàn toàn giờ đã được lại tất cả và còn nhiều hơn thế nữa. Đó là mẹ Tê-rê-sa, người mẹ có biết bao nhiêu con cái nghèo nàn. Là Frere Roger có biết bao người trẻ là môn đệ, và con mình. Và điều quý báu nhất là Mẹ Tê-rê-sa và Frère Roger trở nên những người anh chị em của Đức Kitô: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3,35).
Cả hai chẳng thiếu thốn nhà cửa và ruộng đất. Nhà cửa ở khắp mọi nơi trên thế giới, ruộng đất tại mọi ngõ nghách của trái đất này. Không chỉ thế, món quà lớn nhất mà Giêsu hứa ban đó là “sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” Sự sống mà anh chàng thanh niên đã ao ước. Sự sống ở bên Thiên Chúa, trong tương quan gần gũi với Người, tương quan như cha với con vậy. Sự sống thông hiệp với tất cả các thiên thần, các thánh và các anh chị em, những người con yêu dấu của Chúa ở trên thiên quốc.
Một cách nào đó, Thiên Quốc đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, nơi các môn đệ của Đức Kitô đang sống vì Chúa và vì Tin Mừng. Nơi đó, các ông đã trở nên những người anh em ở bên Đức Kitô.
31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Câu này thường xuất hiện trong phúc âm nhất lãm. Lúc thì trong bối cảnh này, lúc thì trong bối cảnh khác, và có những chủ đích khác nhau. Như trong dụ ngôn thợ làm vườn nho trong Mt 20, 1-6 hay trong Lc 13,30, khi Đức Giêsu khi lên Giê-ru-salem, đã rao giảng trên đường, và Ngài đã nhắc đến điều này: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Còn trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, thì lời của Đức Kitô mang âm thanh thật an ủi. Trong sự sụp đổ của ngày cánh chung, tất cả kẻ chết sẽ chỗi dậy, người nghèo khó sẽ được tặng ban, kẻ đói khát sẽ được no thỏa, người buồn sầu sẽ được ủi an, ké bé nhỏ sẽ trở thành “người lớn”, người đau yếu sẽ mạnh khỏe, kẻ bị tù đày sẽ được giải thoát, và người rốt hết sẽ nên trước hết.
Ngoài ra, với câu 31 này, Mác-cô muốn nêu bật chủ đề mà ông muốn nói trong đoạn 10, 17-31. Đó là chủ đề trở về và theo chân Chúa. Vâng, những ai nhờ giàu có, địa vị, và quyền lực mà trở nên những người trước hết, thì họ sẽ trở nên người cuối hết trong ngày cánh chung, vì họ đã không từ bỏ được của cải, địa vị và quyền lực. Còn những ai trong cuộc sống này chẳng có gì cả, và cũng không là ai nổi tiếng và danh giá cả, mà chỉ là người môn đệ đơn sơ của Đức Kitô, những người ngồi ở chỗ cuối cùng trong “căn phòng thế giới” này, thì họ sẽ trở thành những người trước hết trong “căn phòng Thiên Quốc”, với sự sống vĩnh cữu.
Tham khảo
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/2, S.135-147
- Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, S. 376-386
- Hermann L. Strack und Paul Billerbeck, Kommentar zum NT aus Talmud und Midrasch, C.H.Beck Munchen, 8. Aufl., Band III, S. 161.
- Carlo Maria Martini, Mein spirituelles Worterbuch, Pattloch Verlag, Ausburg 1998, Begriff: “Armut”
- Henri J. M. Nouwen, Dem vertrauen, der mich halt. Das Gebet ins Leben nehmen. Herder Verlag, Freiburg Basel Wien 2003
- Anselm Grun, Der Weg durch die Wuste. Vier-Turme-Verlag, Munsterschwarzach 2001.
Nếu Bill Gates hôm nay đi lễ tại các Nhà Thờ Công Giáo, chắc hẳn phải giật mình vì một so sánh TN 28-B123
Nếu Bill Gates hôm nay đi lễ tại các Nhà Thờ Công Giáo, chắc hẳn phải giật mình vì một so sánh Chúa Giêsu dùng quả là gây thất vọng cho kẻ có tiền. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Đàng. Con lạc đà, dẫu là con con, nhỏ xíu, cũng không thể chui qua lỗ kim, ấy vây mà Chúa nói con lạc đà lớn chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Chúa. Có người đã cố mài dũa cho dễ nuốt trôi câu sánh ví trên, bằng cách sử dụng từ ngữ học. Họ nói, con lạc đà và sợi dây thừng trong tiếng Do Thái, đọc na ná giống nhau, cho nên, có lẽ Chúa nói: cuộn dây thừng chui qua lỗ kim. Thánh Cyrillo ủng hộ lối giải thich này. Còn giả như cứ để con lạc đà, chứ không phải dây thừng, thì lại có một mài dũa khác: lỗ kim là tên một cổng thành hẹp tại Giêrusalem. tức là con lạc đà chui qua cổng hẹp…
Nhưng những lối giải thích đó đều không đúng. Thật ra những hình ảnh tương tự cũng đã có trong loại trình thuật của các thầy Rabbi. Ví dụ để đánh dấu một việc không thể làm nổi, bộ Talmud Babylon dùng lối ví von: voi chui qua lỗ kim. Ngay chính Chúa Giêsu trong diễn từ nhắm tới nhóm Biệt phái đã trách cứ họ “kinh kệ dài dòng lại nuốt chửng gia tài những bà góa” (Mt 23,14). Và Chúa nói thêm “các ngươi gạn lọc từng con muỗi nhưng lại nuốt chửng cả con lạc đà” (Mt 23,24).
Vì thế đích thị là Chúa muốn nói lạc đà—chứ không phải dây thừng ; và Chúa nói lỗ kim—chứ không phải cổng hẹp của Thành. Vậy là: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.
Nhưng, có 2 cách để con lạc đà có thể chui qua lỗ kim:
làm cho lỗ kim thật to. thu con lạc đà lại thật nhỏ. 1. Lỗ kim to
Ta từng thấy thế giới của những vật khổng lồ, như chiếc bánh Trung Thu năm nào tại Maximart đủ cho 10 ngàn người. Bánh tét tại Nha Trang dài đủ cho 5000 người, thì một cây kim khổng lồ, với lỗ kim thật to, thì có đến 2 con lạc đà, một bướu hay hai bướu cũng băng qua lọt, chứ đừng nói gì một con.
Vậy người giàu có nếu muốn lọt vào Nước Trời, thì cũng hãy làm cho lỗ kim rộng ra. Rộng là quảng. Rộng ra là quảng đại. Tiền chỉ lo thu vào mà không cho đi, thì chẳng khác gì làm lỗ kim thu nhỏ lại. Một ngón tay cũng không chui lọt, chứ đừng nói cả bàn tay, cả con người.
Giakêu Trưởng Ty Quan Thuế, giàu nứt đố đổ vách, làm sao chui lọt lỗ kim, nếu ông không thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." Giakêu đã nới rộng lỗ kim 4 lần, nên dễ dàng để ơn cứu độ lọt vào nhà.
Trên bia mộ trong một nghĩa trang kia có khắc mấy giòng chữ sau đây cũng đáng cho chúng ta suy nghỉ:
Những gì tôi có, nay đã thuộc về người khác.
Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng.
Những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi.
Chính những cái mình cho đi, mình quảng đại ban phát, thì mới làm cho lỗ kim rộng rãi ra thêm, hầu con lạc đà có thể chui lọt. Và như thế, người càng giàu có càng ban phát càng dễ vào Nước Chúa. Khi cho đi là khi nhận lãnh. (Phanxicô)
2. Thu nhỏ con lạc đà lại
Chắc một số người trong chúng ta đã từng đi xem triển lãm về thế giới thu nhỏ lại gọi là miniature, nơi mà trên một cọng tóc, người ta khắc được cả một đoàn lạc đà, và ở cuối một cây kim khâu, nằm gọn 3 chú lạc đà nơi lỗ kim nhỏ. Dĩ nhiên muốn xem chúng phải dùng kính lúp hoặc hiển vi. Vậy muốn lạc đà chui qua lỗ kim khâu, hãy thu nhỏ con lạc đà lại.
Thu nhỏ lại là nó đang lớn biến nó thành nhỏ. Có một bộ phim mang tựa đề tương tự: Tôi đã thu nhỏ con tôi. Có nhiều cách thu. Có nhiều cách biến. Riêng đối với tiền của, có một cách biến nó thành nhỏ là: đổi ngôi cho nó. Nó đang làm chủ, oai nghi bệ vệ, hãy biến nó làm tôi, làm đầy tớ trong tay. Nếu để tiền của làm chủ, đừng hòng chui lọt lỗ kim. Nhưng nếu biến nó thành tên đầy tớ hèn mọn, nhỏ bé, ta sử dụng thế nào tuỳ ý ta, ta sai nó đi đâu nó đi đó, ta chuyển nó cho ai, nó nghe theo, vậy là ta có thể cho nó đi qua lọt tủm vào lỗ kim nhỏ.
Một người giàu có nọ thường đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Có tiền, có thiện chí, nhưng người này cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa.
Ngày nọ, thánh nhân tìm gặp ông, sau một hồi chuyện vãn, thánh nhân nhìn lên cây thánh giá treo trên tường, ngài ước tính độ cao của Thánh giá, rồi đề nghị với người đàn ông giàu có: "Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không ?".
Người đàn ông đứng dậy giơ cánh tay lên, nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ, thánh nhân mới dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giàu có đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với cây Thánh giá. Người đàn ông làm theo ý thánh nhân, ông đã sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Hôm nay nhà này được ơn cứu độ.
Thánh nhân đưa ra bài học như sau: "Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải" Sai tiền bạc đi, chứ không phải để nó sai ta đi kiếm nó.
Địa chỉ mà đồng tiền đi tới, Chúa đã nói rõ trong đoạn Tin Mừng khi âu yếm nhìn chàng thanh niên giàu có: Anh chỉ thiếu một điều, là bán hết của cải đem phân phát cho kẻ nghèo. Địa chỉ là kẻ nghèo chứ không phải cửa sau của các nhà cầm quyền, e sẽ theo Năm Cam tròng đầu vào lỗ giây thừng, chứ không phải chui qua lỗ kim nữa.
Vậy là, thu nhỏ con lạc đà, đối với tiền của, sẽ là câu nói ta thường nghe: “Tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu.” Mà không chỉ xấu, ông chủ này còn ác độc nữa, có thể giết chết ta như chơi.
Có ba người bộ hành, bạn chí thân với nhau, trên đường đi tìm hạnh phúc, bất chợt nghe tiếng la thất thanh của vị đạo sĩ từ trong núi chạy ra: Chết! Chết! Chết! Tôi đã gặp thần chết! Ba người bộ hành trên yêu cầu vị đạo sĩ dẫn mình vào hang để xem thần chết. Vào hang đá sâu, vị đạo sĩ chỉ cho ba người thấy một kho vàng chôn giấu. Vị đạo sĩ lại kêu to: Thần chết! Thần chết! Thần chết! rồi bỏ chạy.
Ba người quá đỗi bàng hoàng vì kho vàng quá lớn. Họ cùng nhau hối hả đào. Nhưng cần phải có lương thực ăn hầu đủ sức mà tiếp tục đào chứ. Một người tình nguyện đi mua thức ăn. Nhưng bất hạnh thay, khi ông ta đi mua thức ăn thì hai người ở lại tìm cách giết ông. Quả nhiên, khi mang thức ăn về, ông đã bị giết như kế hoạch và số vàng ấy được chia đôi và cho vào bao cẩn thận. Bấy giờ hai người cùng nhau ăn trước khi xuống núi. Nhưng không ngờ trong thức ăn ấy đã có thuốc độc của gã đàn ông kia muốn số vàng ấy thuộc trọn về riêng mình.
Cả nới rộng lỗ kim hay thu nhỏ con lạc đà cũng qui về điểm này: đổi tiền. Đến một nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để nhanh tay mua được Nước Trời.
Anh Giuse Cao Hữu Minh Trí, một dự thính viên trẻ người Việt Nam, 21 tuổi, đã phát biểu trong một TN 28-B124
Anh Giuse Cao Hữu Minh Trí, một dự thính viên trẻ người Việt Nam, 21 tuổi, đã phát biểu trong một cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, nơi Bộ Trưởng Bộ Truyền Thông của Tòa Thánh, Ông Paolo Ruffini, họp báo lúc 1 giờ 30 trưa ngày 14 tháng Mười để tường trình với các nhà báo về các đề tài của buổi họp sáng nay tại Thượng Hội Đồng về Người Trẻ, Đức Tin và Biện Phân Ơn Gọi.
Khi được hỏi: “Đâu là đam mê của bạn?”. Anh Trí trả lời: “Niềm say mê mang lại ý nghĩa là niềm say mê Thiên Chúa”. "Chính đam mê đối với Chúa" mới làm mọi người no thỏa. (x.Zenit 4.10).
Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của mà vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thưở nhỏ “phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Người trẻ khát khao tìm suối nguồn hạnh phúc.
Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt lành có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không?”. Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.
Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa "Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi“ (Mc 10,21). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,22). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ?
Chàng trai trẻ tiếc của nên bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa "nhìn chung quanh" và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao". Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với vật chất. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quảng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công Chính Cựu Ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người Công Chính Tân Ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12,16-21; 16,19-26).Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc 16,23-25). Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến… Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng… đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Thánh Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.
Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”; “Đức khôn ngoan hơn vương trượng, ngai vàng…của cải bằng không. So với đức khôn ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn” (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang, còn người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Ðức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
Bài đọc 1 hôm nay (Kn 7,7-11) trich sách Khôn Ngoan, trình thuật lời của Sa-lô-môn nói về Đức Khôn TN 28-B125
Bài đọc 1 hôm nay (Kn 7,7-11) trich sách Khôn Ngoan, trình thuật lời của Sa-lô-môn nói về Đức Khôn Ngoan. Theo ý kiến người Do Thái, Sa-lô-môn nổi tiếng thông minh nhất thời. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy, mà chính là do ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý trọng sự khôn ngoan hơn hết mọi sự ở đời. Truyền thuyết cho rằng khi mới lên ngôi, Sa-lô-môn đã đến Ga-ba-ôn, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng rất nhiều tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc rất "đông đúc"; nên ông cầu xin Thiên Chúa ban cho ông một lòng trí biết phân biệt phải trái, biết nghe lời Chúa để cai trị dân. Ðiều Sa-lô-môn xin đã đẹp ý Chúa và ông đã nhận được ơn khôn ngoan.
Nói đến khôn ngoan, ai cũng liên tưởng tới quan niệm cho rằng con người sống ở đời thường được chia làm 2 hạng: Khôn ngoan và khờ dại. Kẻ khôn ngoan là kẻ biết chọn cho mình những đìều lợi (cả tinh thần lẫn vật chất), còn những người được cho là khờ dại là những người ngu ngơ, ngờ nghệch trong mọi tình huống và thường chịu đủ thứ thiệt thòi. Tuy nhiên, trong cuộc sống nhiều khi những người ngu dại lại được sống một cuộc sống yên ổn, an bình (“ngu giả an chi”, “Ngu si hưởng thái bình” – thành ngữ), còn những người khôn ngoan thì chẳng bao giờ tâm hồn được yên ổn, cuộc sống vật chất có thể vinh hoa phú quý, nhưng tinh thần luôn bị giằng xé chao đảo vì tính toán, lo toan. Vì thế nên nhiều khi nhìn lại mình, đành chẹp mịêng buông một câu chán chường “Biết ai là dại, biết ai khôn!” (Trần Tế Xương), thậm chí còn muốn quay về với cái dại (an nhàn) hơn là cái khôn (tranh danh đoạt lợi): “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tới chốn lao xao” (Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Ca dao Việt Nam có câu: “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà, Lường thưng, tráo đấu, chẳng qua đong đầy”. Câu này khuyên con người nên ăn ở thật thà, đừng theo những người dùng sự khôn ngoan để lừa lọc người khác, thu lợi cho mình, nhất là trong việc giao dịch, mua bán: Dùng những đồ dùng đong gạo {thưng} hay đong thóc {đấu} thiếu cân lượng để lường gạt (“lường thưng, tráo đấu”); cũng giống như kiểu mài quả cân {cân xách tay} cho nhẹ bớt hoặc sửa kim đồng hồ {cân bàn) ngày nay người ta hay sử dụng. Và như vậy thì làm sao so sánh được với những người thật thà, chất phác (vốn được coi là khờ dại).
Quả thực đã không thiếu những kẻ tự cho mình là khôn ngoan khi dùng mưu này, chước nọ lừa dối người khác để trục lợi cho mình. Họ đã quên mất một điều khi dùng mưu mô lường gạt người khác thì cũng chính là lúc mình tự lừa dối mình (“Còn hạng người xấu xa và bịp bợm sẽ ngày càng xấu hơn, họ vừa lừa dối, vừa bị lừa dối” – Tm 3,13; “Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục” – Ep 5,6). Hoá cho nên “thật thà là cha quỷ quái”. Cuối cùng thì sẽ trở nên phân vân không biết nên khôn ngoan hay khờ dại và trở thành một thứ dở dở ương ương, lơ lửng con cá vàng.
Kẻ viết bài này hồi nhỏ thường được thân phụ lấy tục ngữ, ca dao ra răn dạy sau những trận đòn nhừ tử: “Khôn cho người ta dái (nể sợ), dại cho người ta thương, (đừng có) dở dở ương ương cho người ta ghét”. Lớn lên, cứ thắc mắc hoài không hiểu mình khôn hay dại, chẳng lẽ lại cứ lơ lửng con cá vàng “dở dở ương ương”? Về già, được tiếp cận nhiều với Lời Chúa trong Thánh Kinh, lại gặp một câu trong sách Khải Huyền khiến tâm thần bấn loạn: "Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" (Kh 3,16).
Ôi chao! Ước nguyện được ở trong Chúa mà sống đến độ Người muốn "mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" thì quả là... hết biết! Thầm nghĩ nếu quả thật mình cứ "dở dở ương ương" thì chắc chắn mình sẽ giống như những người "hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh" trong Hội Thánh Lao-đi-ki-a. Bèn đề ra một châm ngôn sống và quyết tâm thực hiện như lời khuyên của Thánh Phao-lô: "Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối" (Ep 5,15-16); "Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật" (1 Cr 3,18).
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 10,17-30) trình thuật về một thanh niên giàu có khôn ngoan. Cái khôn ngoan của anh là đã nhận ra Đức Giê-su là “Thầy nhân lành” và cầu xin Người chỉ cho phương cách tìm được sự sống đời đời. Đức Giê-su trắc nghiệm anh về cuộc sống qua những điều răn, anh thực tâm trả lời: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ." Vì thế, "Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến". Tuy nhiên, khi Đức Ki-tô nói: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.", thì "Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải." Xét cho cùng, anh nhà giàu vẫn khư khư ôm lấy cái khôn ngoan của loài người. Anh đã khôn ngoan mới trở nên giàu có ở cuộc sống trần thế. Anh vẫn khôn ngoan muốn tìm đến với Thầy nhân lành để có được sự sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, anh lại muốn ôm lấy cả hai, nên anh trở thành người "hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh".
Quả đúng là "Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại" (Lc 16,8). Và cũng vì không thể chọn cả hai, nên anh nhà giàu sa sầm ngay nét mặt, bỏ đi một nước. Anh đã phải đối diện với một chọn lựa gay go; mà trong đó, anh chỉ được chọn một trong hai – hoặc sự giàu sang ở đời này, hoặc sự sống vĩnh cửu đời sau – chớ không thể chọn cả hai. Anh đã tìm đến với Đức Ki-tô, chứng tỏ anh cũng muốn có một cuộc sống vĩnh cửu tốt đẹp. Sở dĩ anh bỏ đi một nước vì cái sự sống đời đời anh chỉ mới nghe nói chớ chưa thấy được tận mắt ("thực mục sở thị"), còn sự giàu sang ở đời này anh đã nắm chắc trong tay. Giữa một cái thực tại nhãn tiền với một cái viễn tượng mơ hồ, thì – theo sự khôn ngoan của loài người – ai cũng chọn hiện thực, đó cũng là lẽ thường tình.
Và cũng chính những kẻ từng cho mình là khôn ngoan như vậy, đã cười nhạo các thánh "Tử vì Đạo" là những kẻ khờ dại. Họ cho rằng chỉ cần khôn ngoan bước qua (thậm chí có thể đạp lên) cây thập tự bằng gỗ vô tri vô giác, thì sẽ có một cuộc sống "an an tự tại". Vậy mà các thánh Tử vì Đạo lại không muốn, mà đi chọn lấy cái chết nhục nhã như thế, thì thật là khờ dại! Phải chăng họ chính là những kẻ mà Thánh Phao-lô nói đến trong thư gửi tín hữu Ti-tô (“Thật vậy, có nhiều kẻ bất phục tùng, nói năng rỗng tuếch, lường gạt, mà đa số là những kẻ được cắt bì” – Tt 1,10). Ôi chao! Khôn hay dại, dại hay khôn đây?
Thế sự đua nhau nói dại khôn, Biết ai là dại, biết ai khôn? Khôn nghề cờ bạc là khôn dại, Dại chốn văn TN 28-B126
"Thế sự đua nhau nói dại khôn, Biết ai là dại, biết ai khôn? Khôn nghề cờ bạc là khôn dại, Dại chốn văn chương, ấy dại khôn. Này kẻ nên khôn đều có dại, Làm người có dại mới nên khôn. Cái khôn ai cũng khôn là thế, Mới biết trần gian kẻ dại khôn." (Trần Tế Xương).
Quả thật "Đời là thế, thế thời phải thế! Cuộc trần ai, ai dễ biết ai?" (Đối đáp giữa Đặng Trần Thường và Ngô thì Nhậm). Đứng trước một chọn lựa gay go như trên, ai chẳng muốn chọn sự khôn ngoan, nhưng với Ki-tô hữu thì nên biết rằng "sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng" (1 Cr 3,19); và vì thế nên "hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối" (Ep 5,15-16).
Một cách cụ thể là đừng phân vân để rồi trở thành một thứ "dở dở ương ương, hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh", mà phải dứt khoát từ bỏ tất cả những gì theo sự khôn ngoan của thế gian, để chọn lấy sự khôn ngoan như Lời Chúa dạy. Cũng đừng lo sợ khi sẵn sàng từ bỏ tất cả thì sẽ phải mất tất cả những thứ đó. Ngược lại, khi dứt khoát từ bỏ tất cả để đi theo Chúa, thì lại được lời lãi gấp bội không những ở đời này, mà còn có được sự sống vĩnh cửu ở đời sau ("Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" – Lc 18,29-30)
Không còn nghi ngờ gì nữa, mà cũng chẳng nên do dự, bởi “vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1,6). Do dự thì chắc chắn sẽ trở nên một thứ “hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, dở dở ương ương, ấm ớ hội tề”. Hãy dứt khoát chọn cho mình hoặc sự khôn ngoan theo thói đời để trở thành điên rồ trước mặt Thiên Chúa, hoặc khờ dại, điên rồ theo cách đánh giá của thế nhân, để có được sự khôn ngoan đích thực (“Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật.” – 1 Cr 3,18). Vâng “Thần khí phán rõ ràng: vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ” (1 Tm 4,1). Cần phải biết cầu xin Thiên Chúa ban Thần Khí soi sáng và dẫn dắt tìm đến với “Con Đường + Sự Thật + Sự Sống” Giê-su Ki-tô qua Lời Hằng Sống, để rồi “hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22).
Ôi! Lạy Chúa! Con luôn biết rằng con người của con thật yếu đuối mỏng giòn, nhưng vẫn tự coi mình là khôn ngoan khi sống một cuộc sống khép kín, chỉ nghĩ cho riêng mình và thu tích những gì có lợi cho bản thân, mà không hề nghĩ tới anh em khó nghèo, tật bệnh. Trong khi đó, con lại luôn mong muốn khi nhắm mắt lìa đời được hưởng một cuộc sống vĩnh cửu. Sự ích kỷ và hèn nhát đã khiến con trở thành một thứ dở dở ương ương, hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, đã không muốn mất đi sự sống đời đời, mà cũng chẳng từ bỏ những gì thuộc về thế gian. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí cho con, soi sáng và hướng dẫn con biết sẵn sàng và đủ dũng khí từ bỏ tất cả những gì thuộc về trần thế như cánh phù dung sớm nở tối tàn; mà biết tìm về với sự sống đời đời nơi Trái Tim Nhân Lành của Chúa!
Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con luôn biết "cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại" (Ep 5,15-16) để ngày sau được diễm phúc hưởng tôn nhan Chúa trên cõi phúc truờng sinh. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVIII.TN -B).
Mục đích và nghĩa cuộc đời là một tiến trình tìm kiếm và khám phá đồng thời thực hiện cho tới chết, TN 28-B127
Mục đích và nghĩa cuộc đời là một tiến trình tìm kiếm và khám phá đồng thời thực hiện cho tới chết, như bánh xe cuộc đời không bao giờ dừng lại. Tiến trình này cần phải rất khôn ngoan.
Chuyện kể rằng: Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: "Tại đây có bán sự khôn ngoan". Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là "Sự khôn ngoan".
Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: "Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích" .
Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu trên.
Chàng thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay trạc tuổi từ 18 đến 35. Ý thức rõ về tôn giáo của mình với những khả năng, ước muốn, tương quan với xã hội anh đang sống. Có thể anh đã có một nghề, một công việc ổn định, đã lập gia đình, nhận thức rõ về quyền lợi, bổn phận và trách nhiệm, xứng tầm với anh. Có thể anh đã thành công về mặt xã hội, hoàn thiện bản thân qua việc tuân giữ lề luật tôn giáo. Anh cảm thấy việc xác định ý nghĩa và mục đích cuộc đời là điều khẩn thiết phải làm để định hướng cho cuộc đời anh. Những câu hỏi được đặt ra: Sống để làm gì, đâu là ý nghĩa và mục đích của đời người, cụ thể hơn anh tìm đến, gặp, hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời? " (Mc 10,17)
Tiền bạc, của cải anh đang thủ đắc xem ra không phải là sự quí nhất của con người, vì anh đã có trong tay tất cả mà chưa thỏa mãn. Có những thứ khác như văn hóa, tài năng, trí phán đoán mà người xưa gọi là Sự Khôn Ngoan, tài sản quí giá hơn mọi thứ mà con người có thể sở hữu được. Salômôn, một vị vua khôn ngoan vô tiền khoáng hậu trong giấc mơ kì diệu, đã xin Thiên Chúa ban cho mình Sự Khôn Ngoan hơn là được giàu có, ông nói: "Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không" (Kn 7,8). Chúa Giêsu chính là Đấng Khôn Ngoan, có được Chúa Giêsu là có được Thiên Chúa là nguồn mạch sự khôn ngoan.
Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giêsu quỳ gối để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất, nên anh đã tìm đến với Chúa Giêsu. Nỗ lực tìm kiếm với thiện ý là một chuyện, phấn đấu để đạt được lại là một chuyện khác.
Những cản trở như, giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu, một sự đánh đổi, một chọn lựa khó khăn, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mc 10,22).
Chúa Giêsu đưa mắt nhìn theo anh với đầy vẻ luyến tiếc, thở dài và tuyên bố: "Người giầu có vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao… con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (x. Mc 10,23-25). Các môn đệ nghe Chúa nói cảm thấy sốc vô cùng, Phêrô con người bộc trực không chịu nổi, bèn thưa: "Thưa Thày, phần chúng con đã bỏ mọi sư mà theo Thày! Chúng con sẽ được gì?" (Mc 10,28). Nhờ câu hỏi của Phêrô, các ông được Chúa chỉ cho thấy sự giàu có của Nước Trời khác với sự giàu có của thế gian, tài sản của Nước Trời không phải là tài sản mà thế gian tìm kiếm, sự sống đời này và đời sau, ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.
Thiên Chúa là Đấng làm chủ vũ trụ sẽ không chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho lòng quảng đại của con người gấp trăm ngàn lân những gì họ đã quảng đại với Chúa và với anh em: "Ai bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa ruộng đất… vì Thày và vì Tin Mừng thì sẽ được trả loại gấp trăm ngay bây giờ cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu" (Mc 10,29-30). Đó là điều không phải ai cũng nhận ra, có người nhận ra nhưng ngại ngùng đáp trả, vì Chúa ban cho họ gấp trăm cùng với ngược đãi bắt bớ. Ai nhận ra và dám đánh đổi sự giàu có vật chất ở đời này để có được sự giàu có theo kiểu Chúa ban, đó là kẻ khôn ngoan.
Như chúng ta đã nói ở trên, có được Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là được chính Thiên Chúa, có Chúa là có tất cả, và điều đó quý giá hơn mọi trân châu bảo ngọc trên trần gian này, vì không có một thứ vàng bạc châu báu nào có thể sánh vì với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, và vâng nghe sự hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan để được sống đời đời. Amen.
Tiền bạc có phải là một cản trở trên con đường đi vào Nước Trời hay không? Chàng thanh niên TN 28-B128 CT
Tiền bạc có phải là một cản trở trên con đường đi vào Nước Trời hay không? Chàng thanh niên với tất cả thiện chí đã đến xin Chúa Giêsu chỉ bảo con đường dẫn tới sự sống đời đời. Để đáp lại thiện chí ấy, Chúa Giêsu đã dạy anh ta tuân giữ những giới luật của Thiên Chúa. Chàng thanh niên trả lời rằng mình đã tuân giữ những điều đó từ thuở nhỏ. Nghe vậy, Chúa Giêsu động lòng thương, và từ tình thương này, Ngài khuyên anh ta bán tất cả gia tài, bố thí cho người nghèo rồi đến mà theo Ngài.
Đó là điều duy nhất anh ta còn thiếu để được sống đời đời. Nhưng cái còn thiếu này lại là cái chàng thanh niên giàu có không làm nổi. Ý chí muốn vươn lên của anh ta bị tắc nghẽn tại đây. Trước đòi hỏi của Chúa Giêsu, anh ta đã buồn sầu, cúi mặt bỏ đi. Vì anh ta không muốn bán tất cả của cải, không muốn bố thí cho kẻ nghèo và không muốn đi theo Chúa. Phúc Âm đã đưa ra lời giải thích sở dĩ như vậy là vì anh ta có nhiều của cải. Vì có nhiều của cải nên bán đi không được. Mà bán đi không được thì cũng chẳng bố thí cho người nghèo được, và do đó cũng không thể theo Chúa được.
Thực ra thì cả ba lý do đều dính chùm với nhau, đều có liên hệ mật thiết với nhau. Của cải tự nó không phải là một cái gì xấu, làm cản trở chúng ta đi vào Nước Trời. Bởi vì nếu tự nó đã xấu thì hẳn Chúa Giêsu đã chẳng khuyên chàng thanh niên bố thí cho kẻ nghèo, vì như thế là đem gieo rắc cái xấu cho người khác. Nhưng của cải đã thực sự trở nên một cản trở trên con đường đi vào Nước Trời, khi nó được tích luỹ để trở thành của cải riêng của một người và biến người đó thành kẻ giàu có. Tiền bạc lúc bấy giờ sẽ là một chỗ dựa trong cuộc sống của kẻ giàu có. Nó sẽ là một cản trở không thể nào vượt nổi.
Chàng thanh niên được mô tả là có một đời sống không thể chê trách, nhưng anh ta lại không vào được Nước Trời vì anh ta đã không dứt nổi với những của cải anh ta có. Hay nói cách khác, từ của cải của mình, anh đã không thể biến nó trở thành của cải cho những kẻ thiếu thốn. Và một khi không làm nổi đòi hỏi này, thì việc giữ các giới răn của anh cũng không ích lợi gì cho việc tìm kiếm cuộc sống đời đời.
Đòi hỏi Chúa Giêsu ở đây mang một tính cách quyết liệt, bởi vì chính Ngài đã kết luận: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa. Vậy thì chúng ta đã có thái độ nào đối với tiền bạc và chúng ta đã sử dụng tiền bạc của chúng ta ra làm sao?
Thế giới ngày hôm nay có đầy sự hấp dẫn, khiến người ta thích những gì là tạm bợ, và không thích TN 28-B129
Thế giới ngày hôm nay có đầy sự hấp dẫn, khiến người ta thích những gì là tạm bợ, và không thích những gì là bền vững.
Trong cuộc gặp gỡ các chủng sinh, khấn sinh và tập sinh tại hội trường Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô kể, ngài đã nghe một chủng sinh, một chủng sinh tốt lành nói rằng anh muốn phục vụ Đức Kitô, nhưng chỉ 10 năm thôi, và rồi anh sẽ nghĩ đến việc bắt đầu một cuộc sống khác… và ngài kết luận, thật nguy hiểm! Tuy tạm thời, nhưng điều này thật nguy hiểm bởi vì ta không đánh cược đời mình một lần cho tất cả. Tôi kết hôn chừng nào còn yêu; tôi sẽ là một nữ tu nhưng chỉ trong một “thời gian ngắn” thôi, trong “một khoảng thời gian nào đó” và tôi sẽ tính tiếp, tôi không biết câu chuyện sẽ kết thúc thế nào. Thế này thì không phải với Đức Giêsu! Đúng là cái thứ văn hóa tạm thời, nó không làm cho chúng ta nên tốt đẹp: bởi vì đưa ra một lựa chọn dứt khoát ngày nay thật là khó. Chúng ta là những nạn nhân của nền văn hóa tạm thời này.
Cái tạm thời đã cản trở chàng thanh niên
Chành thanh niên trong Tin Mừng là ai? Là con nhà giàu có. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một thiếu gia. Nhưng một thiếu gia có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi ăn diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả Mười Giới Răn một cách nghiêm túc từ thủa nhỏ, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của Mười Điều Răn.
Hơn thế nữa, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại, nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, để hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Người còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải là cái tạm thời và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời là cái vĩnh cửu, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Người. Tin Mừng cho biết: “Anh sù nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,22). Vậy là, cái tạm thời đã rào cản anh.
Vượt qua rào cản
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thật tuyệt vời. Nếu xưa nay người ta cứ tưởng có một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức, tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất, thì anh vẫn mang trong mình khát vọng sống đời đời cho dù anh đã thủ đắc trong tay toàn bộ những thứ đó.
Để biến khát vọng thành hiện thực, anh đã tìm đến với Đức Giêsu là Đấng mà anh gọi là nhân lành. Đức Giêsu đã chỉ cho anh: “Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người khó khó” (Mc 10,17). Bán sạch tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt; đã thế, còn đem bố thì hết cho người nghèo, còn mình trở nên trắng tay mà có sự sống đời đời sao?Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Đây là một rào cản anh phải vượt qua, trở nên nghèo vì người nghèo. Vì chính lúc nghèo như thế, “anh có một kho báu trên trời” (Mc 10, 21). Kho báu đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Thế nên, Đức Giêsu mới nói: “Rồi đến theo Ta” (Mc 10,21). Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là “sức mạnh và sự không ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). “Trong Người có cất giấu một kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2, 3). Gia tài của chàng thanh niên có là gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói như tác giả sách Khôn Ngoan: “Đem so sánh sự giầu sang với sự không ngoan, tôi kể sự giầu sang như không” (Kn 7, 8). Chàng thanh niên chưa vượt qua được rào cản về tài sản, nên anh mới kinh ngạc về đề nghị và lời mời gọi của Đức Giêsu.Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi “thiếu một điều”,là do chính của cải, tài sản mà anh đang có.
Chọn chung kết
Chàng thanh niên giàu có không muốn bỏ cái tạm bợ là sự giàu sang để đi theo Chúa Giêsu, sự giàu sang và của cải là một cản trở làm cho hành trình tiến về nước Thiên Chúa trở nên khó khăn. Chính Chúa tuyên bố: “Những người giầu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao” (Mc 10, 23). Chúa biết khó, nhưng Người vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao, đòi hỏi con người phải trả giá. Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu…mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Người.
Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. “Có của” không đương nhiên là xấu, thái độ khi “có của” mới xác định giá trị con người. Giáo hội từng có những vị thánh xuất thân từ ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stêphan nước Hungari. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho người nghèo.
Của cái là phúc lành của Thiên Chúa như sách Châm ngôn viết: “Chính phúc lành của Đức Chúa cho ta được giầu sang” (Cn10, 22); “Chúa bắt phải nghèo và cho giầu có” (1Sm 2,7). Người giầu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giầu sang quyền quí như Giakêu, Nicôđêmô, Matthêu v.v…
Như vậy, tiền bạc và sự giầu sang không phải là đối tượng nguyền rủa. Đức Giêsu muốn chúng ta dùng nó làm bàn đạp để bước lên bậc hoàn thiện chiếm được nước trời có Chúa làm gia nghiệp đời ta. Amen.
Đã có một thời, người dân Philippines hết lời ca tụng ông Joseph Estrada. Ông là vị tổng thống thứ 9 TN 28-B130
Đã có một thời, người dân Philippines hết lời ca tụng ông Joseph Estrada. Ông là vị tổng thống thứ 9 của một đất nước có rất đông người công giáo. Bản thân ông cũng là một tín hữu sùng đạo nên đông đảo dân chúng quý mến và ngưỡng mộ ông. Trong con mắt người dân, ông là một vị lãnh đạo liêm chính, sống giản dị và rất quảng đại. Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông không ồn ào rình rang và quá tốn kém. Ông lưu tâm đến người nghèo, đặc biệt các cư dân vùng nông thôn hẻo lánh, và ông tuyên bố: “Tôi là vị tổng thống của người nghèo”. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi ông lên cầm quyền, niềm tin của dân chúng đặt để nơi ông đã hoàn toàn sụp đổ. Ông Estrada bị báo chí phanh phui vì hàng tháng ông vẫn nhận một khoản tiền lớn từ các sòng bài phi pháp, để nhắm mắt làm ngơ cho họ kiếm chác. Đồng tiền đã làm tối mắt ông và làm sói mòn niềm tin dân chúng nơi ông. Thậm chí, Đức Hồng Y James Sheen Tổng Giám mục giáo phận Manila đã mạnh mẽ lên tiếng đòi ông phải từ chức, vì sự nhơ bẩn ông tạo ra khiến ông không còn xứng đáng là người cầm quyền. Chính đồng tiền đã biến một vị lãnh đạo mẫu mực trở nên một con người đầy tai tiếng, một nhân vật được mọi người nể trọng trở nên đối tượng khiến dân chúng khinh ghét.
Đây chỉ là một trong muôn vàn ví dụ liên quan đến tham nhũng đang xảy ra nhan nhản trong xã hội hiện nay. Đồng tiền dù ở bất cứ thời đại nào, xã hội nào vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất gặm nhấm phẩm chất đạo đức và tư cách của con người.
Hình ảnh chàng thanh niên mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại, lột tả bức chân dung hiện sinh của các Kitô hữu chúng ta ngày hôm nay. Anh ta ao ước muốn nên trọn lành. Anh đã sống tử tế và nghiêm túc, tuân thủ các luật lệ từ nhỏ. Khi đến trình diện Đức Giêsu và bày tỏ ao ước của mình, Chúa Giêsu đã đặt ra cho anh một thách đố: “ Nếu muốn nên trọn lành, anh hãy về bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người thanh niên sa sầm nét mặt và lặng lẽ bỏ đi (Mc 10, 22). Tiền bạc và của cải vật chất đã trở nên như một rào chắn khổng lồ cản che, khiến anh không thể bước tới và thực hiện ước muốn tốt lành của mình.
Tiền bạc là phân bón của ma quỷ
Đây là câu nói của thánh Phanxicô Assisi. Ma quỷ đã dùng loại phân bón độc chiêu này gây ra biết bao sự dữ trên trần gian. Những cuộc chiến tranh tàn khốc xảy ra khắp nơi trên thế giới, cũng chỉ vì tranh chấp những nguồn tài nguyên béo bở giữa các quốc gia. Sự đổ vỡ trong các gia đình đa phần cũng chỉ vì đồng tiền bát gạo. Chúng ta không lạ lẫm gì khi thấy cảnh những anh em ruột thịt, hoặc ngay cả cha mẹ và con cái đưa nhau ra tòa kiện cáo cũng chỉ vì tranh giành vài ba thước đất. Một ông chồng không có khả năng làm ra tiền, ngày nào cũng phải ngửa tay xin vợ, chắc chắn sẽ rơi vào mặc cảm và chẳng còn gì là khí phách nam nhi để điều khiển gia đình. Dân gian vẫn nói: “Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của cụ già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý…” Nói chung, tiền là tất cả, đồng thời nó cũng chính là bóng ma vô hình đang phủ bóng trên tất cả mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường chúng ta. Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc. Ngài nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24). Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng quyết: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (Mc 10, 25). Lời tuyên bố của Đức Giêsu mang chở sứ điệp gì đối với chúng ta hôm nay khi đang sống giữa một xã hội luôn đề cao sự giầu có?
Mối phúc đầu tiên
Nghèo khó chính là mối phúc dẫn đầu trong tám mối phúc: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”. Đây là mối phúc quan trọng nhất và cũng là điều kiện đầu tiên Chúa đặt ra cho những ai muốn trở nên môn đệ Ngài. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu” (Lc 10, 58). Trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta một cách cụ thể. Ngài không phải là lý thuyết gia, cũng không phải là một nhà mô phạm chỉ nói suông trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã sống tận căn lối sống khó nghèo, như Thánh Phaolô đã xác quyết: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình làm cho anh em nên giàu có” (2C 8, 9) .
Khi còn sống ẩn dật tại Nazareth, Đức Giêsu cũng phải lao động, phải mướt mồ hôi để kiếm sống. “Ngài sống giống hệt như chúng ta ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4, 15). Trong những năm rao giảng, Ngài đã thể hiện một lối sống xem ra có vẻ khá bấp bênh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có nơi gối đầu”. Đức Giêsu còn là một ‘chuyên gia’ đi vay mượn. Ngài mượn một chiếc thuyền chèo ra xa để giảng dạy dân chúng. Tiến vào Giêrusalem, Ngài cũng sai học trò đi mượn một con lừa. Tổ chức bữa tiệc vượt qua trước khi đi thụ nạn, Ngài cũng mượn ngôi nhà của một người giàu có. Thậm chí sau khi chết, Ngài cũng được mai táng trong phần mộ mượn đỡ của một người khác chứ không phải của mình. Về tài sản vật chất, Đức Giêsu hoàn toàn không sở đắc bất cứ thứ gì.
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng đã vui vẻ nhận sự trợ giúp của những phụ nữ giàu có và đạo đức. Ngài còn cắt đặt Giuđa quản lý túi tiền để chi dùng cho cả nhóm 12. Ngài vẫn đến dùng bữa tại nhà những người nhiều tiền lắm của như Giakêu hay những người biệt phái. Ngài còn chọn hai người con ông Giêbêđê làm môn đệ, những người không phải thuộc thành phần bần cố nông, nhưng ít ra cũng thuộc dạng tiểu tư sản, vì nhà có thuyền, có lưới, có cả những người làm công. Thế thì tại sao Chúa lại kết án những người giàu một cách đanh thép như trong bài Tin mừng hôm nay.
Chắc chắn tiêu chí đầu tiên để trở thành môn đệ Chúa Giêsu là phải từ bỏ tất cả: cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, từ bỏ hết không chừa lại cái gì. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Ngài chỉ trang bị cho các ông món hành trang duy nhất là ‘năng quyền để trừ quỷ và chữa trị các bệnh tật’, ngoài ra không có gì hết: không tiền bạc, không mặc hai áo, không bao bị, giầy dép… Các thánh ký diễn tả với một vài chi tiết thay đổi, tùy theo não trạng văn hóa của từng loại độc giả, nhưng những chi tiết đó không quan trọng. Điểm nhấn duy nhất Chúa nhắm đến chính là sự thanh thoát, cắt đứt mọi dính bén nơi của cải vật chất. Đây là cốt lõi của tinh thần nghèo khó phúc âm mà Chúa nhấn mạnh.
Có nhiều hiền sĩ hay những bậc thánh hiền đời xưa sống một cuộc sống rất thanh bạch. Hoặc có những vị quan thời trước đã rũ bỏ quyền cao chức trọng và cuộc sống vương giả nơi triều đình để rút lui về ở ẩn, sống một cuộc sống giản dị và khiêm tốn. Nhưng những lối sống ấy chưa phải là tinh thần khó nghèo mà Chúa mời gọi. Đối với nhiều người, cái nghèo đến với họ chỉ là một tình trạng kinh tế bất đắc dĩ mà họ phải gánh chịu, và chắc chắn đó không phải là nghèo khó phúc âm mà họ tự nguyện dấn bước vào. Có thể họ đã từ bỏ mọi sự thế gian, nhưng còn thiếu một điều rất quan trọng, đó là điều mà các tông đồ đã thưa với Chúa trong bài Tin mừng hôm nay: “Thưa Thầy chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy, chúng con sẽ được những gì?” Bỏ mọi sự thì tốt, nhưng chưa đủ. Còn phải tiếp bước dấu chân của Chúa để trở nên môn đệ Ngài. Đây cũng là điều Đức Giêsu nói với chàng thanh niên hôm nay: “Hãy bán đi những gì anh có cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người môn đệ phải sao chép lại phong thái nghèo khó nơi Đức Giêsu. Không phải chỉ là từ bỏ của cải vật chất, nhưng là khước từ tất cả những gì chúng ta đang có, đang chiếm hữu, thậm chí ngay cả mạng sống: “Ai theo tôi hãy bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày và theo tôi”. Đó là căn gốc của tinh thần nghèo khó mà Chúa nói đến, và đây cũng chính là linh đạo Thập giá mà chúng ta phải suy niệm để sống mỗi ngày.
Nếp sống trưởng giả
Đức Thánh Cha Phanxicô trong hơn hai năm trên cương vị Giáo hoàng đã khá nhiều lần cảnh báo về một lối sống trưởng giả, đặc biệt nơi các linh mục, các Giám mục, và cả các Hồng y. Sau khi đắc cử Giáo hoàng, Ngài đến quầy tiếp tân của khu nhà nghỉ trong Vatican để lấy tiền túi trả tiền phòng giống như mọi người. Khi còn là Hồng y tại Argentina, Ngài vẫn sử dụng chiếc xe hơi cũ kỹ như một người nghèo. Trong bất cứ cuộc tông du nào, Ngài luôn xếp chương trình để đến thăm các khu ổ chuột, đến các nhà tù hoặc những vùng dân cư nghèo khổ nhất, và Ngài gọi đó là vùng ven (periphery). Trong chuyến tông du tại Mỹ, Ngài đã từ chối bữa ăn sang trọng mà các nghị viên khoản đãi để đến dùng bữa với những người vô gia cư, những kiều dân khố rách áo ôm lang thang lếch thếch. Không phải chỉ một lần, Ngài đã nói thẳng thừng về hiện tượng các vị mục tử rất đáng kính, sử dụng những chiếc xe hơi quá sang trọng và xa xỉ, những thứ chỉ dành cho giới thượng lưu. Đây là lối sống trưởng giả mà Ngài nói khá nhiều lần. Nhiều bậc vị vọng đã chột dạ, đổi xe khác rẻ tiền hơn, hoặc có một Giám mục ở Hoa Kỳ đã phải bán dinh thự Giám mục xa xỉ của mình để mua lại một tòa nhà khác khiêm tốn hơn, giản dị hơn. Chắc chắn, Đức Thánh Cha không cổ vũ một lối sống bần cùng hay cơ cực, nhưng Ngài nhìn thấy nguy cơ của một phong thái thích sống hưởng thụ (consumerism), làm lu mờ căn gốc nghèo khó và làm mất đi chứng tá những giá trị Tin mừng nơi các vị mục tử trong Giáo hội.
Kết luận: Ngẫu tượng tiền bạc
Nhà văn Anderson viết một câu chuyện rất ngắn khá ý nghĩa. Một người hành khất đói khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có để ăn xin. Anh chàng nhà giàu nứt khố đổ vách nhưng lại rất keo kiệt, nhất định không cho cái gì. Nhìn quần áo lôi thôi lếch thếch và khuôn mặt lem luốc của người ăn mày, tên nhà giầu đã không bố thí còn từ trong nhà mỉa mai nói vọng ra: “ Hình như anh vừa mới từ dưới hỏa ngục chui lên thì phải. Nhìn bộ mặt và quần áo của anh, tôi đoán thế”. Người hành khất nuốt nhục trả lời: “Thưa ông, đúng vậy. Ông nói quả không sai chút nào, tôi mới ở dưới hỏa ngục chui lên đây. Ở dưới đó hết chỗ rồi. Những người giầu có và keo kiệt như ông đã đầu tư tiền bạc mua hết đất rồi. Đất ở dưới đó ngày càng mắc, nhất là đất mặt tiền. Không còn chỗ để ở, tôi phải chui lên đây.”
Sự giàu có mà Chúa kết án trong bài Tin mừng hôm nay chính là sự keo kiệt, cứ mãi bấu víu vào của cải vật chất một cách ích kỷ. Khi con người thượng tôn tiền bạc, lấy tiền bạc làm thước đo mọi giá trị, họ sẽ dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Đây chính là cách sống vô thần trong thực hành. Điều đó chẳng khác gì việc tôn thờ ngẫu tượng (idolatry), giống như dân Do Thái tôn thờ con bò vàng năm xưa. Đây cũng là lời cảnh báo mà Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin mừng hôm nay. Cũng tương tự, thánh Augustinô dạy chúng ta: “Bạn hãy mở to mắt nhìn xem một người giàu có keo kiệt đang giẫy chết. Tôi cam đoan rằng đó là cái chết thảm khốc và ghê sợ nhất, bởi vì họ sẽ ra đi mà chẳng mang theo được cái gì họ vẫn đeo bám.”
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chủ yếu xoay quanh vấn đề tiền bạc. Bài đọc I, tác giả cho chúng TN 28-B131
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chủ yếu xoay quanh vấn đề tiền bạc. Bài đọc I, tác giả cho chúng ta biết Đức Khôn Ngoan giá trị hơn sự giàu sang: “Ðem so sánh sự giàu sang với sự Khôn Ngoan, tôi kể sự giàu sang như không”. Bài Tin mừng, Chúa Giêsu mời gọi chàng thanh niên giàu có: đổi sự giàu sang để lấy nước trời: “Bán hết của cải bố thí cho người nghèo sẽ có sự sống đời đời”. Nhưng chàng thanh niên không chấp nhận lời đề nghị của Chúa Giêsu. Anh buồn rầu bỏ đi. Vì vậy, Chúa Giêsu khuyến cáo rằng: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”(Mc 10, 23). Từ nội dung của hai bài đọc trên, xin được gợi ý suy niệm ba điểm sau đây:
Đồng tiền có hai mặt:
Tiền bạc là phương tiện thanh toán và tích luỹ trong giao dịch giữa con người với nhau. Nó luôn có hai mặt: mặt phải, mặt trái.
Mặt phải của đồng tiền: Chúng ta thường nghe nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Quả thật, tiền bạc rất cần cho cuộc sống. Tiền bạc để sinh sồng, học hành, mua sắm, chữa bệnh, giúp đỡ tha nhân, xây dựng Giáo hội và xã hội… Trên thế giới có khoảng 25.000 người chết đói mỗi ngày, 2,2 tỷ người nghèo và cận nghèo, 1,2 tỷ người đang sống với mức 1,25 đô-la mỗi ngày, thậm chí còn thấp hơn. Rất nhiều người đang ở bên bờ vực thẳm của sự nghèo đói. Rất nhiều người ước mơ có một cuộc sống bình thường: đủ ăn, đủ mặc mà không được. Vì vậy, không ai phủ nhận sự cần thiết của đồng tiền. Cần tiền bạc để giúp mình và giúp người. Những người ở trong hoàn cảnh thiếu thốn mới thấy quý trọng đồng tiền.
Mặt trái của đồng tiền: Biết sử dụng, tiền bạc trở thành phương tiện giúp mình, giúp người. Ngược lại, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ khó tính, làm thay đổi luân thường đạo lý, thay đổi các bậc thang giá trị trong xã hội. Tác giả Quốc Nghệ đã ghi lại bài thơ sau đây, diễn tả phần nào những mặt trái của đồng tiền:
“Độc ác chi mi lắm rứa tiền, Mi làm nhân loại hóa ra điên, Mi tô mặt nạ đen thành trắng, Mi khiến nhân tình thẳng hóa xiên, Mi đạp luân thường vô một xó, Mi xua nhân nghĩa dẹp đôi bên Mi lùa thế giới đâm nhau mãi, Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền”. Quốc-Nghệ
Cách kiếm tiền:
Trong 33 năm sống trên trần gian này, Chúa Giêsu đã từng tìm kiếm tiền bạc. Ngài đã làm nghề thợ mộc để có điều kiện giúp đỡ gia đình. Ngài bảo Thánh Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế. Ngài đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người đói được ăn no. Ngài đã chấp nhận sự giúp đỡ của những người giàu có trong công tác loan báo Tin mừng. Như vậy, Chúa Giêsu đã tự tìm kiếm tiền bạc và nhận sự giúp đỡ của những nhà hảo tâm. Sau này, thánh Phaolô cũng cho biết Ngài đã tự làm việc để có của nuôi sống mình và nhiều lần Ngài đã kêu mời sự quyên góp của các tín hữu để xây dựng Giáo hội và có điều kiện để làm việc bác ái. Đó là cách kiếm tiền của Chúa Giêsu và Thánh Phaolô.
Còn cách kiếm tiền của chàng thanh niên trong bài tin mừng hôm nay? Chắc chắc không phải do gian lận, lừa lọc, trộm cướp mà có, vì từ nhỏ anh ta đã giữ trọn các giới răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ″(Mc 10,19). Vậy, do đâu? Có thể do thừa kế của tổ tiên ông bà cha mẹ. Cũng có thể do anh ta vất vả làm ăn.
Cách kiếm tiền của con người qua mọi thời đại: Ít người may mắn được thừa kế từ cha mẹ, ông bà. Đa số phải “Làm việc vất vả” mới có. Có người làm việc bằng chân tay. Có người làm việc bằng trí óc. Có người tìm kiếm tiền bạc do làm ăn chân chính, vất vả hy sinh mà có: nghề nghiệp hợp pháp, buôn bán thật thà. Nhưng cũng có những người kiếm tiền bằng những phương pháp bất công, gian lận, lừa lọc, chèn ép bóc lột người khác. Vì tiền bạc mà vợ chồng, cha mẹ, con cái đưa nhau ra toà. Vì tiền bạc mà không còn tình làng nghĩa xóm. Đúng như lời Kinh Thánh dạy: “Lòng ham mê tiền bạc là mẹ sinh ra muôn vàn tính hư nết xấu khác”. Chúa Giêsu cũng đã cảnh giác chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15).
Cách sử dụng tiền:
Tiền bạc không phải là sự dữ. Tiền bạc không xấu. Xấu tốt là do người tìm kiếm và sử dụng nó. Kinh thánh cho biết giàu có là một sự chúc lành của Thiên Chúa (x. Cn 10,22; 1 Sm 2,7). Chúa Giêsu cũng không lên án tiền bạc. Ngài đã từng lui tới, gặp gỡ và ăn uống với những người giàu có như Giakêu, Mathêu. Nhờ gặp gỡ Chúa, các ông đã thay đổi thái độ sống, biết cách tiêu tiền: Giakêu đã lấy một phần ba bố thí cho người nghèo. Làm thiệt hại ai thì đền gấp bốn. Mathêu đã bỏ bàn thu thuế đi theo Chúa, tức là từ bỏ cách thu tiền bất chính.
Và hôm nay, khi người thanh niên giàu có đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài “Phải làm gì để được sống đời đời”(x. Mc 10,17). Ngài không xua đuổi, không lên án anh ta có nhiều tiền bạc. Nhưng trái lại, Ngài ân cần chỉ dạy cho anh cách sử dụng tiền bạc: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.” (Mc 10,21). Chúa chỉ cho anh ta biết cách tiêu tiền: Đổi tiền bạc để lấy nước trời. Đổi cái tạm thời để lấy cái vĩnh cửu. Chúa làm như vậy là muốn điều tốt cho anh ta. Nhưng đáng tiếc là anh ta không vượt qua được rào cản đó. Tin mừng cho biết “Anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”(Mc 10,22). Anh ta biết kiếm tiền, nhưng không biết sử dụng tiền. Chỉ thu tích chứ không biết chia sẻ. Do anh ta hà tiện, ích kỷ, keo kiệt. Thái độ chàng thanh niên cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta: Lo kiếm tiền, lo tích trữ tiền, nhưng không biết sử dụng tiền, không biết chia sẻ. Chắc chắn anh ta cũng chết và những người tích trữ nhiều tiền của cũng sẽ chết. Hãy nhớ câu ca dao này: “Vua Ngô ba sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh giác người phú hộ tích trữ tiền bạc rằng: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12, 20-21). Nơi khác Ngài nói: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó. (Mt 6,19-21)
Ngược lại với thái độ trên là những người tiêu tiền phung phí. Thừa tiền bạc, thường dẫn người ta tới một lỗi sống hưởng thụ, sa đoạ, thiếu đạo đức: bài bạc, trai gái, ăn uống quá hoang phí: “Hằng ngày người ta vẫn thường thấy những người ngồi ăn uống thỏa thuê với hết thùng bia này đến hết thùng bia khác, thậm chí có người nôn mửa hoặc phải móc họng cho nôn mửa bớt để vào ăn uống tiếp” (x. Hành trình vào đời, lm. Trần Quý Thiện). Nếu biết cân bằng của cải, những người giàu biết chia sẻ cho người nghèo thì có lẽ thế giới này không còn có trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu các nước biết dùng tiền bạc mua lương thực, thuốc men cho người dân thay vì bom đạn, khí giới thì chắc chắn sẽ không còn người chết đói nữa.
Tóm lại, tiền bạc rất cần thiết, nhưng không phải là tuyệt đối, không phải là trên hết. Người ta nói: “Tiền có thể mua ngôi nhà, nhưng không mua được tổ ấm. Tiền có thế mua được chiếc giường, nhưng không mua được giấc ngủ. Tiền mua được chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian. Tiền có thể mua được thuốc, nhưng không mua được sức khỏe…”. Thật vậy, có rất nhiều thứ quý hơn tiền bạc. Bài đọc I, cho chúng ta biết: Trên tiền bạc còn có Đức Khôn Ngoan “Trân châu ngọc chẳng sánh được Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể là bùn đất…có Đức Khôn Ngoan là có của cải”. Nên phải biết kiếm tiền cách hợp pháp, không lỗi phạm luật Chúa. Hãy biết cách tiêu tiền, dùng tiền bạc như là “đầy tớ” chứ không như “ông chủ”. Đặc biệt, khi có điều kiện cần biết quảng đại dùng tiền để giúp đỡ những người nghèo khổ, thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiếm tiền bằng những con đường chân chính, không trộm cắp, gian tham, lừa dối. Và xin cho con biết dùng tiền bạc để giúp đỡ cho anh chị em mình. Amen.
Chàng thanh niên (Mt 19:20) hay một thủ lãnh (Lc 18:18) được nói tới trong giai thoại này chắc TN 28-B132
Chàng thanh niên (Mt 19:20) hay một thủ lãnh (Lc 18:18) được nói tới trong giai thoại này chắc hẳn là một người tốt và gương mẫu theo tiêu chuẩn Do Thái, điển hình là từ thuở nhỏ anh/ông đã giữ trọn mọi giới răn. Nếu thế, anh thực sự kiếm tìm gì khi tới gặp Đức Giêsu; nói cách khác, điều gì anh muốn diễn đạt qua câu nói: “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”? Trong thâm tâm có thể anh đã ngờ ngợ rằng: tốt lành mà thôi có lẽ là chưa đủ; vì anh là người đầu tiên đã chủ động thân thưa với Đức Giêsu như người ‘Thầy nhân lành’.
Theo dõi cuộc dối thoại giữa Đức Giêsu với chàng thanh niên nọ, Kitô hữu chúng ta nhận ra một điều rất căn bản: ‘tốt / lương thiện’ và ‘nhân lành’ là hai điều hoàn toàn khác nhau; ‘tốt lành’ thuộc lãnh vực con người, lãnh vực Cựu Ước nhờ nắm giữ trọn các điều răn, còn ‘nhân lành’ hoàn toàn thuộc lãnh vực thần linh, “Không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” như Đức Giêsu đã minh định. Biện phân này giúp ta hiểu được cái mới mẻ rất mực độc đáo của Tin Mừng.
Tất cả tùy thuộc vào việc ta hiểu ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ là thế nào: phải chăng là được lên thiêng đàng, khỏi phải sa hỏa ngục vì đã sống tốt, sống lương thiện, đạo đức hay là một điều gì khác?
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là được lên Thiên Đàng; phần thứ nhất trong lời giải đáp của Đức Giêsu có vẻ như tập trung vào quan niệm phổ thông này: thiên đàng được hiểu như phần thưởng dành cho kẻ tốt / người lương thiện. Do đó chỉ cần không phạm tội là đủ để được vào thiên đàng, còn kẻ xấu sẽ không được vào; thế nhưng phân biệt xấu / tốt là lãnh vực thuần luân lý; xã hội nào thì cũng phân loại người tốt kẻ xấu, tùy vào tiêu chuần xã hội đó đề ra. Trong xã hội Do Thái thời Cựu Ước, kẻ tốt rõ ràng là người tuân giữ căn kẽ các giới răn và lề luật. Hiểu như thế thì vào thời buổi nào và ở bất cứ nơi đâu cũng đều có những người đáng lên thiên đàng cả! Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn này, thì chàng thanh niên trong câu chuyện chắc chắn sẽ được lên thiên đàng thôi! Hơn nữa hệ luận của lối suy nghĩ này sẽ là: Tin Mừng không nhất thiết là cần, và ơn cứu chuộc của Đức Kitô là không mấy thiết yếu, và chỉ đóng vai trò hỗ trợ người ta trở nên tốt mà thôi.
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là: được vào Nước Thiên Chúa; trong phần hai của câu giải đáp, hình như Đức Giêsu lại muốn triển khai khái niệm này. Người khảng định: chỉ một mình Thiên Chúa, chứ không ai khác, là ‘nhân lành’. Điều đó có nghĩa là: tự mình không một ai, dầu có tốt lành tới mấy, có thể vào được Nước Thiên Chúa. Nhân lành không thuộc lãnh vực tự nhiên, mà phải thuộc lãnh vực thần linh! Dĩ nhiên Thiên Chúa là vô cùng tốt lành, vì Ngài là chân – thiện – mỹ; điều này thì nhờ suy luận triết học con người cũng có thể biết được: Deus bonum est… Đức Giêsu đã đến trần gian không để nói về sự tốt lành hay thánh thiện này của Thiên Chúa. Điều Ngưởi muốn mạc khải là Thiên Chúa nhân ái và cứu độ! Theo Người, Nước Thiên Chúa trước hết phải là vương quốc của nhân ái thần linh; nói cách khác, sự thánh thiện đạo đức của vương quốc đó hệ tại ở ‘nhân lành của từ ái xót thương’, chứ không phải ‘tốt lành của luân lý’.
Chàng thanh niên tuy có tốt lành thánh thiện theo tiêu chuẩn Do Thái, nhưng chưa có lòng nhân ái của Tin Mừng. Để có thể trở nên nhân lành, Đức Giêsu đã mời gọi anh: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”. Hai tiêu chuẩn chính của nhân lành Đức Giêsu đề ra là: chấp nhận Tin Mừng Đức Kitô và sống chan hòa với tha nhân; và vì thấy mình không thể đạt được hai chuẩn đó nên ‘chàng buồn rầu bỏ đi’. Các môn đệ Đức Giêsu sẽ phải học biết nhân ái Tin Mừng nhờ đi vào con đường Thập Giá theo Thầy và từ bỏ mọi sự. Như vậy ơn gọi Kitô hữu của chúng ta sẽ hệ tại ở sống Tin Mừng bác ái theo Người Thầy nhân ái, hơn là chỉ lo sống tốt – lương thiện qua việc giữ trọn các giới răn, cho dầu đó có là các điều luật thánh của Thiên Chúa hay của Hội Thánh đi nữa.
Trong tư cách linh mục, chính tôi phải sống thế nào để tất cả sẽ bảo đảm ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’, đồng thời phải dạy giáo dân sống như thế. Đó quả là vấn đề mục vụ có tầm quan trọng bậc nhất đấy!
Lạy Cha là Đấng chân thiện mỹ, hôm nay Cha dạy cho con biết nhân ái là điều còn cao quí hơn chân thiện mỹ tới cả ngàn lần; chính nhờ Lời mạc khải của Con Một Cha con mới biết được điều quan trọng này. Xin cho con biết sống lòng nhân ái như giá trị lớn hơn hết thảy, có khả năng làm cho con nên giống Đức Kitô Con Cha. Cũng xin cho con sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để trở nên nhân ái như Chúa Cha trên trời. Amen.
Ta vừa được nghe lại câu chuyện khá thú vị về cuộc gặp gỡ hay nói đúng hơn là cuộc trao đổi giữa TN 28-B133
Ta vừa được nghe lại câu chuyện khá thú vị về cuộc gặp gỡ hay nói đúng hơn là cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và chàng thanh niên.
Thánh Máccô ghi lại rằng đây là chàng thanh niên nhưng có lẽ chàng thanh niên này lại là chàng rất đặc biệt. Đặc biệt bởi lẽ ở tuổi xuân thôi nhưng anh lại nghĩ đến đời sau. Chính vì thế, anh ta không ngần ngại hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”
Nghe câu hỏi thật lý thú, Chúa Giêsu không trả lời ngay câu hỏi của anh nhưng Chúa Giêsu trả lời khác đi một tí: “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”.
Nghe như vậy, chàng trai cũng hết sức thẳng thắn, chàng bộc bạch: “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.
Phải nói rằng, có lẽ Chúa Giêsu cũng khá sốc bới lẽ dường như chưa bao giờ trong đời mà Chúa lại gặp một chàng trai trẻ mà lại ngoan ngoãn đạo đức đến như vậy. Nhìn thấy anh và nhất là câu trả lời của anh để rồi ta nhìn thấy ánh mắt của Chúa Giêsu thật dễ thương. Thánh Máccô kể tiếp: Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”.
Câu chuyện đang hay bỗng dưng kết thúc và theo như ngôn ngữ bình thường là kết thúc không có hậu bởi lẽ chàng thanh niên đã bỏ đi vì buồn. Không buồn sao được khi anh ta có quá nhiều của cải.
Thoạt đầu ta thấy anh ta khôn để hỏi về sự sống đời đời nhưng rồi sau đó xem chừng ra anh ta dại.
Ở đời, cần lắm sự khôn ngoan để minh định về cuộc đời, để định hướng cho mình một lối sống.
Trang sách Khôn ngoan mà chúng ta nghe ở bài đọc thứ nhất đó chính là lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời.
Nói về điểm này, ta thấy ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc “đông đúc”; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi.
Có thể nói rằng may mắn cho ông vì điều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu chuyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù nên Ta se cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Đây là câu hỏi không dễ trả lời chút nào cả. Theo dõi sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này.
Và cuối, ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Qua đây, ta lại có cơ hội để nhìn lại mình để xem ta khôn ngoan ở mức độ nào và khôn ngoan như thế nào? Ta khôn ngoan theo kiểu thế gian hay khôn ngoan theo kiểu người đời.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi. Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh, trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên? Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv 89, 10-12)
Cuộc đời con người là như vậy. Dù giàu dù nghèo và gia tài kếch xù như chàng thanh niên đi chăng nữa cũng sẽ phải ra đi, sẽ phải khuất chứ không thể nào lột da sống đời để hưởng thụ. Chính vì thế, ta lại cần đi tìm sự khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa đó là ta được mời gọi bán mọi sự để theo Chúa.
Vẫn là con người, vẫn mang trong mình những bám víu của trần gian. Ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta để ta từ bỏ những gì làm cho ta không thanh thoát, những gì làm ta không đến gần Chúa được.
Hãy bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo Ta.
Đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã đưa ra cho chàng thanh niên giàu có, sau khi biết chàng đã tuân giữ TN 28-B134
Đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đã đưa ra cho chàng thanh niên giàu có, sau khi biết chàng đã tuân giữ những giới luật từ thuở còn nhỏ. Đó là điều anh ta phải làm để được sống đời đời. Và đó cũng là điều anh ta còn thiếu. Đòi hỏi của Chúa Giêsu là một đòi hỏi đặc biệt dành riêng cho cá nhân anh ta. Đòi hỏi ấy đụng tới con người anh ta thật sâu, bởi vì nó đụng tới sự an toàn, chỗ dựa và lòng gắn bó của anh ta đối với của cải.
Dĩ nhiên Chúa Giêsu không đòi hỏi mọi người phải bán tất cả của cải để rồi tay trắng mà bước theo Ngài. Ladarô, bạn thân của Ngài vẫn sống cuộc đời bình thường bên hai bà chị là Martha và Maria. Giakêu đã tự nguyện cho người nghèo phân nửa tài sản, chứ không do đòi hỏi của Chúa Giêsu. Vậy hẳn Ngài phải có lý do khi đưa ra một đòi hỏi quyết liệt như thế đối với chàng thanh niên. Ngài thấy anh có nhiều mặt tốt, nhưng Ngài cũng thấy anh bị trói buộc, bị cản trở, bị mất tự do bởi một điều, đó là sản nghiệp của anh. Ngài thấy rõ kho tàng dưới đất thực sự là một mối nguy hiểm cho anh, khiến anh có thể vuột mất kho tàng trên trời. Tình trạng hiện nay của anh chưa có gì đáng ngại, nhưng đam mê cứ lớn thêm mãi với thời gian.
Đối với trường hợp của anh, Ngài nhận thấy con đường tốt hơn hết để anh được sống đời đời, đó là bán tất cả, làm phúc cho người nghèo, rồi bước theo Ngài. Đề nghị của Chúa Giêsu giúp anh chắp cánh bay cao, không còn bị sợi dây nào ràng buộc. Tuy nhiên anh vẫn còn tự do để đáp lại lời mời gọi đó. Anh có sẵn sàng trả giá để chiếm được kho báu là sự sống đời đời hay không?
Trước lời đề nghị của Chúa Giêsu, anh đã buồn sầu cúi mặt và bỏ đi. Phải chăng sự buồn sầu của anh bắt nguồn từ việc anh thấy mình không đủ quảng đại và liều lĩnh để đáp lại một lời mời gọi tốt đẹp như vậy. Một mặt anh bị hấp dẫn bởi lời đề nghị của Chúa Giêsu mà anh biết đó là con đường tốt nhất để đạt đến ước mơ của anh. Mặt khác anh lại quá gắn bó với của cải trần gian đến nỗi không thể rời bỏ chúng dễ dàng. Có lẽ lòng yêu mến sự sống đời đời nơi anh chưa đủ mạnh để anh dám hy sinh điều cần phải hy sinh. Anh đã chọn điều anh yêu hơn, nhưng chọn lựa đó đưa anh vào nỗi ray rứt buồn phiền. Không phải anh sở hữu của cải, nhưng của cải đã sở hữu anh. Anh không có được niềm vui của Giakêu, niềm vui của người bắt đầu được siêu thoát với tiền của. Anh cũng chẳng có được niềm vui của người thương gia đi tìm ngọc quý. Bởi vì Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả.
Nếu Chúa Giêsu gặp tôi hôm nay. Nếu tôi hỏi Ngài về con đường dẫn tới sự sống đời đời, chắc hẳn câu trả lời của Ngài cũng khiến tôi chới với, bởi vì ai cũng giàu có về một mặt nào đó: Uy tín, tiếng tăm, quyền lực, kiêu căng, sức khoẻ, chức tước, bè bạn và ngay cả lòng đạo đức. Ai cũng muốn cậy dựa vào sự giàu có của mình và xây dựng đời mình trên đó. Thế nhưng Thiên Chúa chỉ muốn chúng ta cậy dựa vào một mình Ngài. Sống trước nhan Ngài như một người nghèo và chờ đợi tất cả từ tay Ngài. Vì Nước Trời thuộc về những ai có tinh thần nghèo khó.
Câu chuyện chàng thanh niên giầu có mà thánh Máccô thánh sử thuật nay hôm nay thật sự đã làm TN 28-B135
Câu chuyện chàng thanh niên giầu có mà thánh Máccô thánh sử thuật nay hôm nay thật sự đã làm cho nhiều người suy nghĩ. Đây là một dụ ngôn rất ấn tượng, làm động não nhiều người. Chàng thanh niên giầu có này cứ tưởng đã giữ moi điều luật các ngôn sứ nói và các giới răn Chúa truyền là đã hoàn thành trách nhiệm và đã đạt được Nước Thiên Chúa.Tuy nhiên, có một điều chàng thanh niên này không dám làm hay nói cách nôm na hơn, chàng ta còn bám víu lấy của cải, danh vọng, giầu sang phú quí mà không dám làm theo đề nghị của Chúa Giêsu là đi về bán hết của cải phân chia cho người nghèo khó và đi theo Chúa…
Đọc câu chuyện này, chúng ta rất thương tình đối với chàng thanh niên này, nhưng chúng ta cũng rất ngạc nhiên, xem ra khó chịu, khó hiểu vì chàng thanh niên chỉ còn có một bước nữa: thắng lòng ham muốn của mình, vượt lên cao hơn của cải chóng qua ở đời này để làm một điều là để hai bàn tay mình trong trắng, trơn tru, với con tim mở rộng để lắng nghe lời của Chúa và thực thi ý Chúa…Đúng, chàng thành niên giầu có ở đây đã làm được những điều thật đáng khen ngợi mà rất ít người đã làm được như chàng ta, nhưng có điều lòng tham tiền bạc, của cải vật chất đã bóp nghẹt con tim của chàng, bởi vì tình yêu của chàng thanh niên chưa đủ mạnh để làm được điều Chúa Giêsu đề nghị, hướng dẫn …Thực tế, chàng thanh niên giầu này chưa cảm nghiệm sâu xa lời thánh Phaolô gửi tín hữu Roma 7, 15 khi Ngài viết:” Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm “. Thánh Phaolô giải thích, đó là tội lỗi, sự dữ trong ta, thúc đẩy ta làm điều không nên làm, còn nếu ta tin tưởng phó thác vào Chúa thì chính Ngài sẽ giải thoát chúng ta…Thánh Gioan định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu thúc bách chúng ta làm điều thiện, điều tốt. Yêu Chúa sẽ khiến chúng ta yêu mến anh em và không làm ngơ trước những nhu cầu khẩn thiết của anh chị em, của đồng bào mình.
Vâng, theo Chúa là trở nên tay không, trở nên trong trắng nhưng thực tế lại trở nên giầu có vì con người biết chia sẻ, biết cảm thông với những khó khăn, thử thách của con người. Theo Chúa lại trở nên giầu có vì coi anh em là huynh đệ, là con chung một Cha, là ra khỏi sự ích kỷ, tự mãn của lòng tham con người để đi vào bốn bể là anh em. Theo Chúa là mở ra lòng trao hiến, để biết phân chia những gì mình có, những gì mình coi là của cải mong manh, chóng qua ở đời này. Theo Chúa là mở toang cánh cửa cõi lòng, con tim để đón nhận anh em, đặc biêt là đón nhận những anh chị em nghèo, để chia sẻ, giúp đỡ họ với tấm lòng quảng đại của mình. Chúa Giêsu đã nói:” Con lạc đà chui qua lỗ kim, còn dễ hơn người giầu có vào Nước Trời “. Câu nói xem ra mỉa mai, nhưng thực tế là để diễn tả việc làm rất khó khăn, đòi hỏi con người phải có sức mạnh ở trên cao như lời thánh Phaolô đã viết:” Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “. Phải có ơn Chúa, Phaolô mới vượt thắng được những cam go thử thách đã làm Ngài hầu như không thể chịu đựng nổi. Theo Chúa để mất đi những gì thế gian coi là quí hóa như vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, vật chất, của cải theo như thế gian đong đếm, coi trọng. Theo Chúa để được lại gấp trăm ngay từ đời này, và nhất là được sự sống đời đời.
Phaolô đã bỏ tất cả sự nghiệp cùng với danh vọng khi bị ngã ngựa ở Đamas, tuy nhiên Phaolô đã trở nên tông đồ kiên cường và nhiệt tâm cho dân ngoại, đã được Chúa cho lãnh triều thiên Nước Trời.Phêrô cũng vậy, khi Ông bỏ nghề đánh cả ở biển hô Galilê, Chúa lại cho Ông trở nên ngư phủ đánh lưới người. Khi Ông bỏ vợ, gia đình, con cái để đi theo Chúa, Chúa đã đặt Ngài làm đầu Hội Thánh,. Các Tông đồ khác cũng vậy, theo Chúa,các Ông đã được gấp trăm ở đời và được Chúa làm gia nghiệp. Do đó, theo Chúa chúng ta được lại rất nhiều và được Nước Trời, được chính Đức Giêsu (Pl 3, 8).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết vươn cao hơn để chúng con biết nhạy cảm trước nỗi đau khổ của kẻ khác và biết chia sẻ, cảm thông với những kẻ khó nghèo vv…Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Anh nhà giầu đã thưa với Chúa Giêsu thế nào? Chúa Giêsu có buồn khi anh nhà giầu không dám làm theo đề nghị của Chúa không? Theo Chúa là gì? Của cải, vật chất có tồn tại không? Theo Chúa sẽ được những gì?
Ngày nay làm bất cứ công việc gì cũng có thưởng, kể cả đi mua hàng hóa ngoài chợ cũng có thưởng. TN 28-B136
Ngày nay làm bất cứ công việc gì cũng có thưởng, kể cả đi mua hàng hóa ngoài chợ cũng có thưởng. Phần thưởng núp bóng dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở trường đơn giản đóng dấu vào tay học sinh, ở nhà thưởng cái kẹo, cuối năm tên trên bảng danh dự. Ngoài xã hội thưởng cho vé bớt giá xăng dầu, mua đủ số lần được bớt dăm ba phần trăm. Phần thưởng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta làm vì thưởng, vui nhờ được thưởng. Phần thưởng khuyến khích làm việc tích cực hơn với mục đích rõ ràng. Chúng ảnh hưởng đến tâm lí con người và thúc đẩy con người làm công việc đó. Thành công thì vui, thất bại thì buồn như thế phần hưởng ảnh hưởng đến tình cảm vui buồn của cuộc sống hàng ngày. Người giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng mong được thưởng. Anh giầu có trọng luật lệ nên anh giữ trọn lề luật và hãnh diện về việc không phạm luật của mình.
Giầu có trần thế anh cảm thấy không yên tâm, vẫn thấy thiếu sao đó nên anh đến gặp Đức Kitô hỏi Ngài làm cách nào để anh được cảm thấy ấm lòng, bình yên trong tâm hồn. Đức Kitô vạch cho anh con đường bảo đảm phần thưởng trường sinh. Nghe xong anh không vui, buồn rầu bỏ đi. Đối với anh cái giá cho phần thưởng trường sinh quá lớn, lớn hơn cả gia tài. Chúng ta không biết rõ gia tài của anh giá trị ra sao, Phúc âm cho biết anh rất giầu và không muốn mất cái giầu có đó nên anh buồn rầu bỏ đi. Trọng luật cùng nghĩa với trọng tình nghĩa. Đức Kitô có lần cho biết tất cả mọi lề luật tóm gọn trong hai điều răn đó là mến Chúa và yêu người. Người ta có thể giữ kĩ các luật, mến Chúa hết lòng nhưng lại coi thường anh em, coi nhẹ luật yêu thương. Trọng Thiên Chúa nhưng lại khinh người có khác nào tử tế với cha và xử tệ với con. Đối với Thiên Chúa ngoài mến Chúa ra luật yêu thương là luật quan trọng nhất, con người lại bỏ qua hay coi nhẹ. Anh nhà giầu coi trọng luật lệ nhưng coi nhẹ việc giúp người nghèo túng. Đức Kitô nhắc anh cần làm tốt điều đó, luật yêu thương.
Ngày nay nhiều thương gia sống theo cách thức anh nhà giầu. Thành công, nổi tiếng, tự làm chủ, không bị lệ thuộc ai là điều các thương gia đang nhắm đến. Thành công và thành danh thì cứ tiếp tục tiến bước, dại gì mà thay đổi. Con người kinh tế muốn hoàn toàn tự lập và độc lập, không muốn dưới quyền ai và không muốn bắt chước ai và cũng không cho ai bắt chước cách thức dẫn họ đến thành công. Họ có thể gia nhập nhóm thành công để tạo thêm thế lực, nhưng họ vẫn độc lập làm ăn riêng rẽ và sống cho mình. Lối suy nghĩ này trái với đường lối Phúc Âm là chung sống, chia sẽ và hỗ trợ nhau. Phúc âm kêu gọi sinh hoạt cộng đồng, cùng hy sinh, cùng nhau phục vụ bởi tất cả đều là anh chị em, đều là con cái Thiên Chúa.
Cuộc sống ảnh hưởng bởi văn hoá ta đang sống và văn hoá đó thể hiện qua cuộc sống. Anh nhà giầu sống trong văn hoá của người giầu và anh quen với lối sống đó. Bán cả gia tài phân phát cho người nghèo để sống cuộc sống nay đói, mai khát là điều anh không thể làm, không hiểu. Anh thiếu văn hoá Phúc Âm trong cuộc sống bởi văn hoá đó kêu gọi đặt trọn niềm tin vào Chúa, sống hy sinh và phục vụ. Bởi thiếu văn hoá này mà anh không thể đáp lại điều Đức Kitô mời gọi. Muốn có loại văn hoá này anh cần để Phúc âm thấm nhập vào tâm hồn và muốn được thấm nhập thì phải từ bỏ văn hoá giầu sang để chung sống, cảm thông và hiểu như cầu người mình đang phục vụ.
Đức Kitô cho biết ai trọng của cải hơn con người thì không thể làm môn đệ Ngài. Ai trọng của cải hơn sự sống thì chưa sẵn sàng phục vụ nước Trời.
Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy TN 28-B137
Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Đây là một cảnh sống động. Một người đầy ham muốn: Người ấy chạy đến và sụp quỳ dưới chân Đức Giêsu, vừa thở hổn hển, người ấy vừa đặt câu hỏi.
Khi ta biết người này là ai (nhờ đoạn tiếp sau của trình thuật ta sẽ ngạc nhiên, vì đây là một người có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường: Anh ta giàu sang, có nhiều “của cải lớn”, hơn nữa, cuộc sống anh ta ngay thẳng, anh tuân giữ những giới răn từ thuở còn nhỏ. Trong mọi tương quan với người khác. Chắc hẳn anh ta được kính nể. Vậy anh ta còn thiếu điều gì? Anh ta còn cần gì nữa? Tại sao anh ta lại mong ước điều gì khác?
Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”.
Đó là câu trả lời sắc bén như dao. Con người giàu có này đã quen với những “tước vị”. Vì quá hâm mộ, anh ta nói thêm. Thường thường người ta chỉ gọi Đức Giêsu bằng “Thầy”, còn anh ta quen giao thiệp rộng nên đã thêm từ “nhân lành”. Đức Giêsu không thích những kiểu nói tâng bốc đó. Người thích sự đơn giản hơn, Người khước từ những tước vị mang tính khoe khoang. Hơn nữa, Đức Giêsu là Người luôn nói về Thiên Chúa. Người luôn hướng về Chúa. Ở đây chúng ta nghe người thốt lên một lời dễ gây ngạc nhiên: Dường như Đức Giêsu không biết Người là Thiên Chúa! Người khước từ chữ “nhân lành”. Đây không phải là trường hợp – duy nhất mà Đức Giêsu khiêm tốn tự cho mình là “thấp kém” hơn Chúa Cha, hơn Thiên Chúa: Một hôm khác người còn dám quả quyết, Người “không biết ngày chung thẩm, mà chỉ có mình Chúa Cha mới biết” (Mc 13,32).
Đức Giêsu nói chỉ có một mình Thiên Chúa mà thôi. Tôi cầu nguyện từ lời quả quyết triệt để này.
“Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”.
Danh sách và thứ tự các giới răn làm cho ta ngạc nhiên. Trước tiên, Đức Giêsu không nêu những giới răn “đối với Thiên Chúa” như là giới răn đầu tiên. Hình như qua tình yêu tha nhân, ta chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa. Thông thường tự nhiên ta dễ nghĩ đến những “bổn phận” về tôn giáo hơn, để đạt đến sự sống đời đời. Một lần nữa, Đức Giêsu hướng chúng ta thiết thân gắn bó với những người anh em của mình, với những mối tương quan nhân bản.
Hơn nữa, Đức Giêsu đã thêm một điều răn mới rất ý nghĩa vào mười giới răn cố hữu: “Chớ làm thiệt hại ai” như thể điều răn này tóm tắt các điều khác. Chúng ta cũng nên để ý rằng, “bổn phận đối với cha mẹ” được kể cuối cùng. “Điều răn thứ bốn” được đời ra sau chót, như Đức Giêsu đã muốn đặt lên hàng đầu những cám dỗ đối với người có tiền của: Lấy của kẻ khác, làm thiệt hại kẻ khác, làm giàu cách bất chính…
Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.
Quả thật đây là một người ngay thẳng, có hướng tâm.
Anh ta tuân giữ lề luật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Người ta tưởng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây. Đây là một người có quyền hưởng sự sống đời đời! Chúng ta hãy nghe đoạn sau.
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Đó là cái nhìn của Đức Giêsu. Tôi cố tưởng tượng lại: Một cái nhìn đầy thương yêu. Đức Giêsu tỏ vẻ trìu mến. Người đang yêu thương. Người cảm động.
Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.”
Vậy sống lương thiện và tuân giữ mọi giới răn cũng chưa đủ sao?
Ta tưởng rằng con người này trung thành không có gì chê trách được, thế mà bây giờ lại gặp một đòi hỏi mới, sẽ rọi chiếu vào tận đáy lòng anh: Anh có tự do không hay chỉ là nô lệ? Thái độ của anh đứng trước tiền bạc của cải vật chất như thế nào?
Thật lạ lùng và đáng ngạc nhiên khi ta liên tục gặp thấy đòi hỏi trên đây của Đức Giêsu. Người không ngớt nhắc lại điều này. Đó là lời kêu gọi đầu tiên của Người: “Hãy theo Ta”, tức khắc họ bỏ lưới và cha của mình dưới thuyền… (Mc 1,18-19). Đó cũng là chỉ thị đầu tiên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người sai các ông đi thi hành sứ vụ,Người truyền cho họ không được đem gì đi đường, không bánh, không bị, không tiền trong thắt lưng! (Mc 6,8).
Đó còn là hệ luận đầu tiên phải rút ra từ lời loan báo cuộc thương khó của Chúa: “Kẻ nào muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình” (Mc 8,34). Đức Giêsu đã không bao giờ nói khác Người có những ý nghĩ theo nhau rõ ràng. Người yêu cầu một sự lựa chọn dứt khoát. Người đòi hỏi “trọn vẹn”. Muốn theo Người, phải bỏ tất cả. Đây là một đòi hỏi vô biên. Tin Mừng không phải là một cách giải quyết dễ dàng cho mọi vấn đề, mà là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, đầy nguy cơ liều lĩnh tối đa. Thật là một tham vọng quá lớn.
Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải
Đây là một người cũng giống chúng ta thôi. Chúng ta chớ nên lên án anh ta. Chúng ta cũng không thường mong muốn nếp sống hoàn hảo và sự sống đời đời sao?
Thế mà lại không nhất quyết trả giá cho những điều đó Trình thuật về ơn gọi lúc này, nhắc chúng ta rằng chính chúng ta cũng đã từng khước từ những lời mời gọi của Thiên Chúa tới hưởng nguồn vui, mặc dầu bề ngoài chúng ta phải dứt bỏ nhiều thứ sự “buồn bã” của người này rất có ý nghĩa: Anh ta có nhiều tiền, có nhiều của cải lớn, và với sự sung túc này anh ta vẫn không được hạnh phúc. Đó không phải là hình ảnh của phương Tây quá tràn đầy của cải vật chất sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn, và hãy can đảm nhìn nỗi đau buồn đang làm tối sắm khuôn mặt của anh. Đấy phải chăng là dấu hiệu hồng ân đầu tiên đã bắt đầu đến với anh sao? Cho đến lúc đó, anh không ý thức được điều cốt yếu mà anh còn thiếu. Anh vẫn tưởng rằng, của cải là đủ. Bây giờ anh mới biết, anh còn có một định mệnh khác.
Lạy Chúa xin biến những nỗi buồn của chúng con trở nên tích cực, có thể đánh thức chúng con ra khỏi không ảo ảnh và ngủ mê. Chúng con đã được tạo dựng cho Chúa. Tâm hồn chúng con, ước muốn của chúng con quá cao không thể chỉ thỏa mãn những của cải hữu hạn trần gian: “Lạy Chúa, xin hãy đến, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng con được no thỏa”.
Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ
Một lần nữa, Thánh sử Máccô ghi nhận ánh mắt của Đức Giêsu. Chúa nhìn tôi. Chúa nhìn những người mà tôi thương yêu. Chúa nhìn thế giới của chúng ta. Chúa nhìn những đám đông ở những siêu thị. Chúa nhìn dân chúng trong những nước thuộc thế giới thứ ba. Và cái nhìn này không thể lãnh đạm Người bắt đầu nói:
Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Một lần nữa Đức Giêsu tố cáo quyền lực ghê gớm của tiền tài. Đây là một sự cảnh giác thường xuyên trong suốt thời gian rao giảng của Đức Giêsu: “Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và Mammon cùng một lúc” (Lc 16, 13).
Người giàu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần gì đến Thiên Chúa nữa (Lc 12,16-20). Người giàu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy người anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giàu sang bóp nghẹt Lời Chúa (Mt 13,22).
Một lần nữa, chúng ta không nên lên án kẻ khác. Hãy nhận mình cũng là những người giàu: Số tiền trợ cấp thất nghiệp của một người Pháp là cả một sản nghiệp đối với một người châu Phi hay châu Á.
Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ.
Sự kinh ngạc của những môn đệ không phải là không có ý nghĩa. Tâm trạng người Do Thái đinh ninh rằng, sự giàu sang là một ân huệ của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế gian này, nhằm xây dựng và làm cho thế gian thêm giá trị sao? (St 1,27-31). Nhưng phải thú nhận rằng, chính chúng ta cũng không chấp nhận lời này của Chúa Kitô. Thế kỷ 20 càng sẵn sàng hơn để đón nhận luân lý cách mạng sau đây:
– Phải chăng chúng ta làm việc để “kiếm tiền”, càng nhiều càng tốt.
– Phải chăng chúng ta mong cho con cái chúng ta làm một nghề “có nhiều tiền”.
– Phải chăng hàng ngày chúng ta thường bị sự quảng cáo tấn công, thúc đẩy chúng ta tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và ám chỉ rằng, càng có nhiều, càng hạnh phúc.
Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”
Thay vì rút lại sự cứng rắn trong lời vừa nói, Đức Giêsu lại tăng cường một hình ảnh không thể quên được. Đức Giêsu nhà thuyết giảng nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh và dễ nhớ: Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý. Thực sự, chúng nói lên mạnh mẽ rằng, giữa giàu sang và sự cứu rỗi, luôn có tình trạng xung khắc nhau: Chúng ta phải chọn lựa giữa hai kho tàng này, kho tàng trần gian, kho tàng trên trời. Tiền của là cần thiết. Đức Giêsu không phủ nhận điều đó. Tiền của phục vụ chúng ta, Đức Giêsu đồng ý. Nhưng nếu tiền của thống trị chúng ta, và chúng ta trở nên nô lệ của nó, thì Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi.
Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”
Lại một lần nữa, cái nhìn của Đức Giêsu, được ghi nhận lần thứ ba trong cùng một trang Tin Mừng. Ở đây Đức Giêsu trích một lời trong Thánh Kinh dành cho Abraham (St 15,14). Mặc dầu tuổi cao, không đủ điều kiện thể lý. Bà Xara sẽ sinh ra một con trai, vì tất cả có thể được đối với Thiên Chúa. Thiên Thần Gabriel cũng đã nói điều này với Mẹ Maria (Lc 1,37). Vậy sau khi lên án khắt khe thái độ chiếm hữu của chúng ta, Đức Giêsu đã mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng.
Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, Chúa đòi hỏi điều không thể làm được. Xin hãy đến giải thoát chúng con! Và tay chúng con sẽ mở ra trước Chúa, để đón nhận những gì còn thiếu trong tình thương của chúng con.
Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng thật hay do Thánh Marcô thuật lại. Theo câu chuyện thì TN 28-B138
Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng thật hay do Thánh Marcô thuật lại.
Theo câu chuyện thì chúng con thấy người thanh niên giầu có này là người thế nào? Anh ta có phải là người tốt không chúng con?
- Dạ thưa cha... tốt.
- Đúng, con trả lời rất đúng. Đây chúng con hãy nghe lại cuộc nói chuyện giữa anh và Chúa Giêsu: "Hôm ấy, Ðức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" 18 Ðức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ". Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ".(Mc 10,17-20)
Quá tốt phải không chúng con!
Cha thấy ở đời khó có người giữ được như vậy nhất là ngày hôm nay. Chính vì thế mà sau khi nghe anh ta trả lời chúng con thấy chính Chúa Giêsu cũng phải phục: "Ðức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến"(Mc 10,21).
Thế nhưng câu chuyện có được diễn tiến theo chiều hướng tốt đẹp mãi như thế hay không thì Tin Mừng cho chúng ta biết là không. Lý do tại sao thì Chúa cho chúng ta biết: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi"( Mc 10,21) Và kết quả như thế nào chúng con?."Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải."(Mc 10,22). Thế là kết thúc một câu chuyện ban đầu thật đẹp nhưng cuối cùng thì thật buồn. Buồn cho cả Chúa và buồn cả cho người thanh niên. Lý do vì anh ta đã không dám sống chia sẻ như Chúa mời gọi anh.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này. Một bác nông dân người Anh nọ có dịp nghe John Wesley giảng. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của.
Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng: Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh:
- Đúng lắm!
Rồi Wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng.
Bác nông dân xuýt xoa:
- Bài giảng thật tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm như vậy.
Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình.
Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…
Tiền bạc nguy hiểm vậy đó chúng con.
Nó nguy hiểm vì nó có sức huỷ hoại cả những ước muốn tốt đẹp nơi một con người.
Thánh Antonio, là giám mục của vùng Firenze nước Ý vào khoảng thế kỷ thứ 15, có kể lại một câu chuyện mà ngài đã tận mắt chứng kiến trong đời mục vụ tông đồ của ngài:
Một hôm, đang đi trên đường thì Thiên Chúa cho ngài thấy có một vị thiên thần cứ bay lượn bên trên một ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Ngài ghé vào hỏi thăm cha sở vùng ấy thì được biết gia đình này tuy rất nghèo nhưng lại rất đạo đức và tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thánh Antonio động lòng thương, hiểu ra ý Chúa muốn soi sáng cho mình, ngài bèn trích quỹ từ thiện, kín đáo trợ cấp hàng tháng một số tiền vừa đủ để gia đình này có vốn liếng mà chí thú làm ăn cho đỡ nghèo khổ.
Bẵng đi một thời gian, ngài lại có việc đi qua vùng ấy. Ngài chợt giật mình trông thấy một tên quỉ xấu xa đang bay lượn trên mái một ngôi nhà khang trang đẹp đẽ nhất vùng. Ngài lại ghé vào cha sở để hỏi thăm, thì hóa ra đó chính là ngôi nhà của gia đình mà ngài đã từng trợ cấp lâu nay. Ngài biết họ đã cố gắng ăn nên làm ra, nhưng dần dần, vì tham lam, họ đã học đòi những thủ đoạn mánh khóe bất lương để làm giàu nhanh chóng, đời sống họ hoàn toàn vô đạo đức, trở nên ích kỷ và độc ác, khinh bỉ xua đuổi những người nghèo khổ láng giềng ngày xưa. Hiện tại họ lại còn thói ăn chơi trụy lạc.
Thánh nhân đau lòng quyết định cắt đứt nguồn trợ cấp, mong cho họ sớm hiểu ra mà sám hối quay về đường ngay nẻo chính.
Quả thật, của cải vật chất xa hoa dễ làm cho con người ra hư đốn xa đường lối của Thiên Chúa.
Và đây là câu chuyện khác:
Một người giàu có thường đến xưng tội với thánh Philiphê Neri, nhưng không thấy tiến bộ trên đường thiêng liêng nên ông đã chán nản thất vọng đến nỗi bỏ luôn việc xưng tội. Thánh nhân tìm đến nhà ông, sau một lúc chuyện trò thân mật, ngài nhìn lên cây thánh giá treo trên tường và cân nhắc độ cao của thánh giá, rồi đề nghị với người giầu có rằng:
- Ông thử đưa tay với thánh giá xem có tới không?
Người đàn ông cao lớn vươn cánh tay dài của mình ra, nhưng không thể nào chạm tới được thánh giá. Bấy giờ thánh nhân mới dùng hết sức đẩy cái tủ đựng tiền của người giàu có đến bên cạnh ông rồi ngài bảo ông hãy đứng lên cái tủ ấy để với tới thánh giá.
Quả thật ông đã sờ được Chúa Giêsu trên thập giá.
Lúc đó thánh nhân mới nói:
- Để có thể chạm được Chúa Giêsu, để tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải ở "đứng trên tiền bạc"
Làm sao để có thể đứng trên tiền bạc chúng con?
- Khi Steve Jobs thấy nhiều người trong công ty Apple của ông vì tranh giành quyền lợi mà sinh ra bất hoà với nhau, ông đã nghiêm chỉnh đưa ra một quyết định cho cuộc đời của mình: "Tôi thề sẽ tránh sống xa hoa và tôi thề không để tiền bạc hủy hoại cuộc đời tôi." Và ông đã giữ được điều đó cho tới khi ông qua đời.
- Năm 1830 khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho ngài một đồng bạc, một loại tiền thời bấu giờ để dâng cúng vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan không dám nhận, nên đã nói với bà rằng:
- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi; nhưng vì bà quá vất vả và thiếu thốn, nên bà hãy giữ lấy đồng bạc, để tiêu xài những thứ cần thiết.
Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:
- Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con dâng cúng cho Chúa ít, nhưng với cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được cái gì cao quí, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.
Đẹp quá phải không chúng con?
LM GIUSE ĐINH TẤT QUÝ
--------------------------------
TN 28-B139: Hãy bán những thứ anh có cho người nghèo, rồi hãy theo Tôi
Nghe nói Chúa Giê-su là một người tốt lành và nhân từ, một tin tri cao cả giảng dạy như Đấng có TN 28-B139
Nghe nói Chúa Giê-su là một người tốt lành và nhân từ, một tin tri cao cả giảng dạy như Đấng có quyền, đươc Chúa Cha sai đến chỉ cho nhân loại con đường để được sống đời đời...., một chàng thanh niên giàu có chạy đến Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời”? Tin Mừng còn mô tả: chàng thanh niên này nói với Chúa Giêsu rằng anh đã giữ 10 giới răn Thiên Chúa từ lúc còn nhỏ. Như thế chúng ta có thể nói rằng anh là người tốt: “Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh và đem lòng yêu mến”.
Nhiều bà mẹ hôm nay cũng thích có những đứa con như thế..! Nếu có được những đứa con như vậy, đừng vội tâng bốc chúng và khoe mẽ với xóm làng, mà cần theo dõi và hướng dẫn chúng hướng đến những điều tích cực hơn, theo cách giáo dục của Chúa Giêsu.
Thấy chàng thanh niên có thiện chí như vậy, Chúa Giêsu nói với anh: “Anh chỉ còn thiếu một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy theo Tôi”.
Đây có phải là một đòi hỏi quá đáng không? Chắc chắn là không! Chúa Giêsu không cấm việc sử dụng tiền của. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy:
- Một số chi em đạo đức theo Chúa đã mang theo tiền bạc để lo toan những nhu cầu cần thiết cho Chúa.
- Chị Maria không ngần ngại “phung phí”xức một bình thuốc thơm cho Chúa mà Giu-đa đánh giá khoảng 25 triệu đồng tiền Việt-nam.
- Chúa không từ chối được mời ăn tại nhà người biệt phái và thu thuế giàu có.
Như vậy, Chúa Giêsu muốn nói gì về sự giàu có và tiền của?
- Chúa băn khoăn về nhiều người không biết làm chủ tiền của,
- Chúa chê trách nhiều người quá gắn liền với tiền của: người đời thường nói: “đồng tiền đi liền khúc ruột”.
- Chúa lên án những người nô lệ đồng tiền.
- Chúa chỉ trích người hà tiện và ích kỷ.
Chàng thanh niên đặt một câu hỏi rất tích cực: “Phải làm gì để được sống đời đời”. Nhưng có lẽ anh lầm là để có được một điều gì cao quý hơn, kể cả sự sống đời đời cho riêng anh. Chúng ta đang sống trong một thế giới cần được chia sẻ. Chia sẻ là chúng ta đi theo cách thế của Thiên Chúa. Thiên Chúa chia sẻ tất cả những gì Ngài có và tất cả những gì Ngài là. Chàng thanh niên đó sống keo kiệt, không biết chia sẻ tiền của, nên khi Chúa nói: “hãy bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy theo Tôi”, anh đã “sa xầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi”.
“Hãy theo Tôi”! Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta theo Ngài. Hãy theo Chúa Giêsu vì Ngài là Thiên Chúa tốt lành trên chặng đường của chúng ta. Ngài bước đi trước chúng ta, Ngài chia sẻ cho chúng ta nhiều điều tốt...
- Để theo Chúa Giêsu, Phero và Anre đã bỏ nghề chài lưới.
- Để theo Chúa Giêsu, Giacobe và Gioan đã bỏ cha và những người làm công..
- Để theo Chúa Giêsu, Mattheu còn bỏ cả công việc bàn giấy thu thuế, kiếm bộn tiền.
Sau khi chàng thanh niên bỏ đi, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Người giàu có thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao...Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa”. Nghe vậy, các môn đệ sửng sốt và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu độ”? Có lẽ chúng ta và nhất là nhiều người giàu không những sửng sốt, mà còn rất khó chịu khi nghe Chúa nói những câu như vậy. Tin mừng làm rối lòng rối trí. Thánh Phaolo nói: “Lời Chúa sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí”. Nhưng Chúa giải thích cho các môn đệ và cho cả chúng ta: “Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được.”
Đúng vậy, Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta bước đi theo Ngài và làm cho chúng ta trở nên có thể đối với những gì là không có thể trước mặt người đời. Đọc lịch sử cứu độ cũng như lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có rất nhiều vị vua và người giàu đã trở nên thánh vì các ngài biết cho đi tài năng, sức lực và của cải cho người khác trong tình yêu Thiên Chúa... Chúng ta đang sống trong một thế giới tiêu thụ. Người ta tiêu dùng thoải mái cho sướng. Nhưng thực sự họ vẫn không hạnh phúc. Người ta chỉ hạnh phúc đích thực khi yêu và được yêu. Tiền bạc phải được sử dụng theo tiêu chuẩn đó. Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ tàn bạo.
Biết sử dụng tiền bạc thế nào cho tốt. Của cải, tiền bạc và sự giàu có đều là nén bạc Thiên Chúa giao phó cho chúng ta. Chúng ta cần phải làm lãi cho Thiên Chúa và cho người khác nữa. Đó là cách thế khôn ngoan mà bài đọc I hôm nay nói: “Đức khôn ngoan tôi đã quý trọng, còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với đức Khôn Ngoan”. Một câu châm ngôn thời cổ đại nói: “Người ta chỉ có cái mà người ta cho đi”. Sách Tông Đồ Công Vụ cũng viết: “Cho đi thì có phúc hơn là nhận”.
TN 28-B140: Lấy của cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững
Mc 10, 17 – 30
Chàng thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là người nhìn xa thấy rộng. Tuy có đầy đủ tiền bạc TN 28-B140
Chàng thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là người nhìn xa thấy rộng. Tuy có đầy đủ tiền bạc của cải nhưng tâm hồn anh luôn khắc khoải vì có một khao khát chưa được lấp đầy: khao khát được sống đời đời. Vì thế anh tìm đến với Chúa Giê-su mà anh xem như một bậc Tôn sư lỗi lạc, “quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Chúa Giê-su dạy anh phải giữ các giới răn. Anh đáp: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã giữ từ thuở nhỏ."
"Bấy giờ Đức Giê-su nhìn anh và đem lòng yêu mến, Ngài bảo: "Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi."
Qua lời dạy nầy, Chúa Giê-su đề nghị anh đánh đổi của cải phù du đời nầy để chiếm hữu kho tàng vô giá đời sau, nhưng khi "nghe lời đó, anh sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải" (Mc 10, 17-30).
Lời đề nghị với người thanh niên giàu có năm xưa lại được Chúa Giê-su gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta phải khôn ngoan đem những của cải tạm bợ đời nầy đổi lấy kho tàng vững bền trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là hãy "bỏ con tép bắt con cá", mà cá đây lại là cá voi, vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.
Phần thu lớn lao nầy đã được Chúa Giê-su xác nhận với thánh Phê-rô và các tông đồ: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời" (Mc10, 29-30).
Đổi tiền giấy lấy vàng
Vào khoảng năm 1975-80, kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng trầm trọng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá. Vì thế, không ai dại dột giữ tiền trong tủ. Khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả lượng vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế mới an lòng chắc dạ.
Đổi vàng và của cải để lấy công phúc
Những người khôn lúc đó đều có một chọn lựa sáng suốt là đổi tiền giấy lấy vàng. Thế nhưng vàng cũng không còn giá trị đối với người đã nhắm mắt xuôi tay, chẳng còn ích chi cho người đã lìa cõi thế. Do đó, một chọn lựa cũng rất sáng suốt cho chúng ta hôm nay là phải đổi tiền, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ “quý kim” muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.
Mai đây, cái chết sẽ thình lình chụp xuống. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người tay trắng, chẳng còn gì mang theo khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!
Xét về một vài khía cạnh nào đó, mỗi người chúng ta đều là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng giàu thời giờ, giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ...
Thời giờ ta đang có sẽ trôi qua nhanh chóng như nước chảy qua cầu, hết phút nầy đến phút khác;
Sức khỏe ta đang hưởng hôm nay cũng sẽ hao mòn theo năm tháng;
Của cải tiền bạc rồi cũng sẽ không cánh mà bay;
Khả năng làm việc cũng suy giảm dần dần...
Thế thì, tại sao ta không nhanh chóng đem những thứ “của cải tạm bợ” nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hao vơi trước khi chúng kịp bốc hơi?
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải phù du thành công đức bền vững cho mai sau.
Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ... để phụng sự Chúa, để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội và phục vụ mọi người. Đó là cách biến gia sản chóng qua đời nầy thành thành của cải muôn đời tồn tại mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng con.
Vừa lên đường Đức Giêsu đã gặp một học trò hiếu học, thao thức mơ mộng tiến đức đón đầu quỳ sụp trước mặt: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17). Mừng mừng vì anh này nhận biết và tín nhiệm mình, Đức Giêsu tỏ vẻ ngạc nhiên mà bảo chỉ có Thiên Chúa mới nhân lành thôi, sao lại là tôi? Mới hỏi qua Ngài đã nghe anh trả bài thật suôn sẻ, anh cũng “nhân lành” từ bé! Anh thảo hiếu với cha mẹ, không làm hại ai, không lấy gì của ai (công bằng tuyệt đối), nói gì đến giết người với cả ngoại tình? Đức Giêsu ngắm lại anh cách trìu mến rồi đòi hỏi thêm: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21b). Đi bán rồi cho? để nên trọn lành và theo làm môn đệ của Ngài? Nghe cái điều kiện cực kỳ khó khăn này, anh giật mình thất vọng ngán ngẩm và chạy… mất dép: “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.” (Mc 10,22). Anh thì buồn rầu bỏ đi, còn Đức Giêsu thì buồn rầu nhìn theo bóng anh, mất khách, “bó tay.com”! Ngài phải kêu lên: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mc 10,24-25). Phải, cái sung sướng của anh là có nhiều của cải, bây giờ ung dung rồi thì “phú quý sinh lễ nghĩa” thôi, chứ muốn tiến đức mà phải bỏ toàn bộ cái anh có, anh đang yêu thích ôm chặt lấy mà đem chia cho người khác thì còn gì để mà vui sướng? Gia tài sản nghiệp hạnh phúc của anh chứ phải đâu chuyện đùa? Làm sao anh dại dột mà vứt đi để theo làm môn đệ Ngài được? anh không thể… khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim! Đến các môn đệ còn sửng sốt sững sờ, chỉ dám hỏi nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10,26). Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông mà nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.” (Mc 10,27). Đối với loài người thì càng nhiều tiền càng bảo đảm hạnh phúc, muốn gì được nấy, càng có nhiều càng bảo đảm tương lai, an tâm hưởng thụ. Nhưng với người có “đức tin đã được tinh luyện” sẽ có cái nhìn về hạnh phúc từ “trời cao” của Thiên Chúa.
Chúa ơi! ngày nay chúng con muốn theo Chúa mà vẫn nặng lòng với tiền, tình, bản thân và ham mê đủ thứ thì làm sao bước tới? Xin đừng để chúng con mê say đến độ quên mất Chúa, Chúa thành bé nhỏ trong chúng con. Xin Chúa cầm tay mà dẫn chúng con đi, đi lên đến đỉnh tuyệt vời của tâm hồn yêu Chúa thật sự. Yêu Chúa chúng con sẽ dấn thân để theo Chúa, vượt qua con đường hẹp của Tin Mừng với tình yêu thênh thang rộng mở và đến với anh em. “Kho bạc” của chúng con là chính Chúa, mọi sự khác sẽ rơi rụng dù chúng vẫn có đó. Chúa sẽ thực hiện trong chúng con những điều kỳ diệu. Chúa sẽ không phải buồn rầu nhìn theo bóng chúng con như anh thanh niên giàu có hôm nào. “Vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”
Câu chuyện người thanh niên giầu có trong Tin Mừng của thánh Marcô mà Phụng vụ Chúa nhật 28 TN 28-B142 Dalat
Câu chuyện người thanh niên giầu có trong Tin Mừng của thánh Marcô mà Phụng vụ Chúa nhật 28 thường niên, năm B trình bày hôm nay đã gây ấn tượng và để lại cho mọi người ở mọi thế kỷ những suy nghĩ, cảm nghiệm và trải nghiệm khôn lường. Thật vậy, trên thế giới mọi thời: giầu có, địa vị, danh vọng, của cải, tiền tài luôn luôn là những cám dỗ, thử thách và quyến rũ làm xiêu ngã nhiều người. Thường con người vẫn chạy theo những lợi nhuận, những phù phiếm chóng qua, nhưng nó lại là những việc thu hút con người, làm cho con người khó dứt bỏ những vinh hoa phú quí, mau tàn, chóng qua. Chúa Giêsu lại dạy người thanh niên và cả nhân loại chúng ta muốn đạt được Nước Thiên Chúa, con người phải dứt bỏ những quyến rũ mau qua của trần gian và cậy trông, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa… Vâng, người thanh niên giầu có đến gặp Chúa Giêsu hôm nay là một con người đạo đức, đã cố gắng rất nhiều để sống tốt, giữ luật Thiên Chúa. Anh đã thưa với Đức Giêsu: “ Tất cả những giới răn của Chúa, con đã giữ từ thuở nhỏ “ ( Mc 10, 20 ).Tin mừng viết:” Chúa Giêsu chăm chú, yêu thương nhìn anh và đem lòng thương mến sự thiện chí, lòng đạo đức của anh “. Tuy nhiên, để khuyến khích anh bước thêm một bước trên đường nhân đức, Người đã nói với anh:” Hãy đem bán hết gia tài, của cải con có , bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta “ ( Mc10,21 ). Người thanh niên giầu có trong Tin mừng của thánh Marcô đã không mau mắn như một Phanxicô Assisi, như một Têrêsa Calcutta, như một Đa Minh, Antôn Padua hay như một Anphongsô, mà anh đã sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh đã có quá nhiều của cải.
Người thanh niên giầu có ở đây, mặc dầu có lòng đạo đức thật, nhưng anh ham tiền, ham của cải phù phiếm chóng qua, anh đã không dám làm theo lời đề nghị của Chúa, thật đáng tiếc ! Trên thế giới đã có rất nhiều người dám làm theo lời đề nghị của Chúa, họ đã hy sinh, đã bán tất cả để đi phục vụ người nghèo, người bệnh tật trong các bệnh viện xa xôi, họ đã dám chống lại cả quyền lực những lời đe dọa của những kẻ có thể giết mình khi chống đối nạn kỳ thị chủng tộc, nạn buôn bán nô lệ, nạn lạm dụng tính dục, nô lệ tình dục vv…Đọc Kinh Thánh, chúng ta cũng thấy rất rõ một Mađalêna đã vì tin tưởng, vì tình yêu, sự tha thứ của Chúa, cô đã dứt bỏ tội lỗi để chỉ một lòng đáp trả tình yêu đối với Chúa, nên cô đã không sợ chết, luôn có mặt nơi nhạy cảm nhất mà Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của mình đang phải đuyơng đầu: trên đường khổ giá, nơi chỗ Chúa chịu đóng đinh, nơi táng xác Chúa và rồi chính tình yêu, chính lòng quả cảm, sự trung thành tuyệt đối của cô, Chúa đã trao sứ mạng đầu tiên cho cô loan, báo Chúa sống lại.Thật là sự cương quyết của một con người xem ra liễu yếu đào tơ, nhưng thật lòng đi theo Chúa Giêsu. Thánh Phaolô quả đã không ngoa khi nói:” Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm “ ( Rm 7, 15 ).
Thánh Phaolô quả quyết tội lỗi không thể thắng được Chúa, nhưng chỉ có tình yêu, sự phó thác, tin tưởng tuyệt đối vào Chúa mới giúp con người chúng ta thoát ra khỏi những cám dỗ của satan, ma quỷ vv…Thánh Gioan những ngày cuối đời luôn nói về tình yêu: “Hãy yêu rồi muốn làm gì thì làm “, thánh Augustinô cũng nói:” Hãy yêu rồi làm những gì mình muốn “. Tình yêu sẽ thúc bách chúng ta không thể lám ngơ trước những đau khổ của anh em.Nói yêu mến Chúa mà làm ngơ trước nỗi khốn cùng của nhân loại, của tha nhân là điều không thể chấp nhận được…Chúa Giêsu khi đến thế gian, Người đã không tách rời với những gì đang thuộc thế gian ngoại trừ tội lỗi, nên Ngài đã tới với từng lớp người, đã yêu thương từng người, đặc biệt với những con người tội lỗi yếu hèn. Ngài đã từng bị Pharisêu lên án đồng bàn với những người tội lỗi, quân thu thuế vv…Chúa Giêsu không lên án những người giầu có nhưng có lòng quảng đại, chia sẻ nhưng Ngài chỉ kết án những người quá bám víu, coi tiền của là mục đích, là cứu cánh, không dám mở lòng ra đối với tha nhân, với công trình yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, xin ban sự can đảm, lòng quảng đại cho chúng con, để chúng con không khư khư giữ lấy, không biết chia sẻ đối với những người nghèo khó, và dám đi theo lời mời gọi của Chúa, đừng để chúng con buồn rầu, sụ nét mặt, bỏ đi trước sự mời gọi của Chúa. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Người thanh niên trong Tin Mừng của thánh Marcô trình bày thuộc hạng người nào ? 2.Anh chứng tỏ với Chúa thế nào ? 3.Chúa đề nghị gì với anh ? 4.Anh đã đáp trả thế nào trước lời mời gọi của Chúa ? 5.Còn chúng ta, chúng ta đã có thái độ thế nào trước lời mời gọi của Chúa Giêsu ?
Nhiều khi chúng ta nhận được những quảng cáo rất tuyệt vời. Nhưng nếu chúng ta không đọc thật TN 28-B143
Nhiều khi chúng ta nhận được những quảng cáo rất tuyệt vời. Nhưng nếu chúng ta không đọc thật kỹ, nhất là vài dòng chữ lí nhí ở cuối trang, rồi đưa bút ký là vỡ nợ vì bút sa gà chết! Đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su thì mọi sự phải rõ ràng, không thì nói không, có thì nói có, thêm bớt là trò của ma quỷ. Vì thế trong việc chọn lựa Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa cũng như chọn lựa làm môn đệ Chúa Giê-su, mọi điều kiện đều rõ ràng. Quyết định theo hay không theo là tùy thuộc quyền lựa chọn của con người. Hôm nay Phụng vụ Lời Chúa trình bày việc lựa chọn ấy qua bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng, đồng thời cũng giới thiệu với chúng ta một phương thức lựa chọn qua đoạn thư gửi tín hữu Do-thái.
Bài đọc Cựu Ước chia sẻ với chúng ta tâm tình của một người quyết định chọn Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa, thay vì chọn tất cả những gì quý báu nhất và được trân trọng nhất của người đời. Đối với vị này, Đức Khôn Ngoan có một giá trị tuyệt đối không gì có thể so sánh được. Trên đời có biết bao nhiêu cái nhất: giầu có nhất, địa vị cao nhất, quyền lực nhất, nên thông thường ai cũng muốn có được ít ra một cái nhất. Vậy mà đối với vị này, vương trượng ngai vàng, trân châu bảo ngọc, vàng bạc, ngay đến sức khỏe và sắc đẹp, tất cả chỉ là “cát bụi, bùn đất”, nếu đem so với Đức Khôn Ngoan. Bởi đâu Đức Khôn Ngoan có một chỗ đứng tối cao như thế? Bởi vì xuất xứ của Đức Khôn Ngoan là từ Thiên Chúa mà đến; vị này đã kêu cầu Thiên Chúa và Người đã “ban cho” vị này Đức Khôn Ngoan. Khôn Ngoan là sở hữu của Thiên Chúa nên Thiên Chúa tặng cho ai nhận biết giá trị của Khôn Ngoan. Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu nên Đức Khôn Ngoan của Người cũng tồn tại muôn đời, khác hẳn với những gì quý giá của thế gian là những thứ sẽ bị rỉ sét mối mọt theo thời gian. Tuy nhiên vị này đã phải trả một cái giá thật đắt, là đánh đổi tất cả những gì có giá trị tạm bợ để được Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa; vị này đã bỏ đi cái lợi gần để nhận lấy cái lợi xa. Vì lựa chọn ấy, Thiên Chúa để cho “mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể”. Đúng vậy, của cải quá nhiều ở đây là những phúc lành Thiên Chúa ban xuống tràn đầy trên kẻ biết chọn đường lối Người.
Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nhập thể làm người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Gio-an 1:14. Cho nên chọn Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với việc chọn Chúa Giê-su để đi theo làm môn đệ Người. Bài Tin Mừng cho chúng ta hình ảnh sống động về sự chọn lựa ấy. Chúa Giê-su lên đường. Con đường Người đi cũng là con đường các môn đệ phải đồng hành với Người. Đã có lần Người nói với các môn đệ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Gio-an 14:6). Bỗng nhiên có một người đến gặp Chúa. Anh ta quỳ xuống trước mặt Chúa Giê-su và gọi Người là “Thầy nhân lành”. Đây là cử chỉ tôn thờ dành riêng cho Thiên Chúa. Chúa Giê-su không ngần ngại chấp nhận lời tuyên xưng của anh. Người không ngần ngại làm một cuộc “điều tra lý lịch” người môn đệ tương lai này. Thực ra thì Chúa muốn giúp anh nhận ra chính con người anh có đầy đủ điều kiện để lựa chọn Người. Nhưng để dứt khoát theo Người, anh cần một điều kiện cuối cùng: bán mọi sự anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy theo Chúa. Nói khác đi, người thanh niên giàu có này chỉ có một lựa chọn duy nhất, là hoặc bán đi tất cả để theo Chúa, hoặc bỏ Người mà đi để giữ lấy của cải. Nếu so sánh với câu chuyện lựa chọn Đức Khôn Ngoan trong bài đọc 1, chúng ta nhận ra sự trái ngược. Trong khi kẻ chọn Đức Khôn Ngoan coi của cải danh vọng như bùn đất, thì người thanh niên này lại thấy của cải lớn hơn cả Chúa Giê-su là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa nhập thể. Chúa Giê-su có lẽ tiếc thay cho anh ta, nhưng Người không níu kéo, không ép buộc, vì Người tôn trọng sự tự do lựa chọn của anh. Cái giá phải trả để làm môn đệ Chúa quá đắt đối với anh. Việc lựa chọn đặt căn bản trên sự nhận định giá trị đích thực. Đúng thế, phải là giá trị đích thực! Để giúp chúng ta biết được đâu là giá trị đích thực, đoạn thư Do-thái cho chúng ta một bí quyết: hãy lấy lời Thiên Chúa mà phân biệt mọi sự phải hay trái, đúng hay sai, tạm bợ hay vĩnh cửu. Nhưng Lời Thiên Chúa giúp chúng ta phân biệt như thế nào? Đặc điểm của lời Thiên Chúa là “sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm linh cũng như tư tưởng của lòng người”. Do đó, lời Thiên Chúa có thể giúp chúng ta nhận ra rõ ràng giá trị vĩnh cửu của Tin Mừng Chúa Giê-su khác với giá trị tạm bợ của tiền bạc của cải. Lời Thiên Chúa giúp chúng ta hiểu được sự giàu có đích thực là “kho tàng trên trời” khác với sự giàu có của thế gian là tiền tài vàng bạc chóng qua.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta đã lựa chọn làm môn đệ Chúa qua Bí tích Rửa tội, khi ta hứa từ bỏ ma quỷ, tội lỗi để tin vào Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Người nhờ Chúa Giê-su và Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên lựa chọn ấy không phải là một lần cho tất cả. Bí tích Rửa tội không phải là cái vé bảo đảm cho ta vào thiên đàng, mà chỉ là bước đầu. Ta phải tiếp tục thể hiện sự chọn lựa ấy bằng đời sống Ki-tô đích thực!
Tôi nguyện xin, Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi. TN 28-B144
Tôi nguyện xin, Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi. Tôi quí trọng Khôn Ngoan hơn cả ngai vàng, trân châu bảo ngọc, vàng bạc, sắc đẹp. Tôi quí chuộng Khôn Ngoan hơn cả ánh sang, vì vẻ rực rở của Đức Khôn Ngoan không bao giờ tàn lụi. Cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
Bài Đọc 2: Dt 4, 12- 13
Anh em hãy đề phòng, đừng để lòng dạ ra xấu xa chối bỏ đức tin mà xa lìa Thiên Chúa. Trái lại, anh em hãy khuyên bảo nhau kẻo ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt.
Bài Tin Mừng: Mc 10, 17- 30
Người thanh niên hỏi Đức Giêsu phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Trong khi đó, những điều luật như: chớ giết người, chớ ngoại tình, trộm cắp, anh đã tuân giữ từ nhỏ. Đức Giêsu nhìn anh với sự trìu mến và nói: hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi. Anh ta buồn sầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Đức Giêsu nói với các môn đệ: người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao. Thấy các ông ngạc nhiên và thắc mắc: ai có thể được cứu? Đức Giêsu trả lời: Đối với con người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể. Sau đó Người nói lên phần thưởng cho những ai từ bỏ mọi sự mà theo Ngài: nhận được gấp trăm ở đời này và sự sống đời đời làm gia nghiệp.
2. Suy Niệm
Trong cuốn sách “Cơ Hội Của Chúa”, Nguyễn Viết Hà đã nói: “Muốn biết rõ về ai nên nhúng người ấy vào dung dịch tiền. Cái thứ dung dịch siêu thặng này làm trôi đi tất cả những gì màu mè bên ngoài”. Câu nói này có thể đụng chạm tới ai đó, nhưng cũng phần nào diễn tả được sức mạnh của đồng tiền. Nó có thể là đầy tớ tốt giúp chúng ta đạt được những ước nguyện lành thánh; nhưng cũng có nguy cơ trở thành ông chủ độc tài, thành ma lực cuốn hút con người vào vòng xoáy của áp bức, bốc lột, mánh khóe và gian dối.
Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay đã tuân giữ từ nhỏ những gì luật dạy, nhưng tâm hồn vẫn cảm thấy bất an. Có thể, dưới con mắt của người khác, anh trở nên thần tượng vì sống giữa giàu sang mà vẫn tuân giữ các giới luật cách nghiêm nhặt. Vậy mà tâm hồn anh vẫn chưa tìm được sự bình an khi xây dựng trên những điều luật và được bao bọc bởi của cải. Cho nên, anh ta đã hỏi Đức Giêsu phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đức Giêsu đã khai mở cho anh một hướng đi: “Hãy đi bán những gì anh có cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10, 21 ).
Anh thanh niên không làm gì gian ác, không bốc lột ai và cũng không sử dụng của cải để ăn chơi. Nhưng con đường theo Chúa của anh lại bất thành, vì bị của cải xây nên hàng rào ngăn cách anh đến với Chúa và mở ra với tha nhân. Cuộc đời anh đã bất an, giờ lại thêm nỗi buồn vì sự dang dở của anh trên con đường trọn lành. Từ thâm tâm, anh muốn trút bỏ tất cả để bước theo Chúa, bởi cảm nhận được sự chống tàn mau qua nơi tiền của. Thế nhưng, sức nặng của tiền tài đã dìm anh trong sự an phận với những gì đang có: tiền tài đã đóng khung khiến anh thiếu khả năng xoay vần cuộc sống.
Như thế, khi đối diện với Chúa Giêsu, con người thật của anh đã bị lộ diện: sự giàu sang, trung thành tuân giữ luật đã không trở thang giá trị giúp anh đạt tới sự trọn lành. Nó chỉ là bức bình phong che đậy một tâm hồn bất an. Cho nên, anh tiếp tục chọn tiền tài hơn là từ bỏ tất cả để chọn Chúa làm gia nghiệp.
Chắc hẳn, hình ảnh người thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay cũng phần nào phản ánh cuộc sống và sự chọn lựa của mỗi người chúng ta. Trong thực hành đức tin: tuân giữ lề luật, ăn chay hãm mình, siêng năng tới nhà thờ; những hình thức này là điều cần thiết, nhưng chưa phải là tất cả. Điều Chúa muốn không chỉ là tuân giữ các điều luật, mà còn sẵn sàng buông bỏ tất cả để theo Chúa và hướng tới phục vụ anh chị em, nhất là những ai đang gặp cảnh khốn cùng.
Chúng ta không thể nói: tôi có gì để bán, để cho khi bản thân cũng đang gặp cảnh “khố rách áo ôm”. Chúng ta có muôn vàn thứ để bán và có ngàn cách để cho. Của cải ở đây là tiền tài, danh vọng, nhưng cũng có thể là cái tôi ích kỷ, sự oán hờn, báo thù; những thứ này luôn là cho ta cảm thấy bất an, cho dù siêng năng thực hành các điều luật mà Giáo hội buộc. Chúng ta cần buông bỏ những thứ đó, cho dầu nó làm cho chúng ta nhói đau và luyến tiếc, nhưng lại là điều cần thiết để Thiên Chúa rót vào cung lòng mình sự êm dịu của tình yêu và niềm vui trao ban. Nó là một thứ “ruột thừa”, cắt đi mới mang lại cho cuộc sống sự an lành trong hành trình theo Chúa. Đàng khác, người nghèo ở đây là người thiếu cơm ăn áo mặc, những kẻ thấp cổ bé miệng, những người bị gạt ra bên lề xã hội, những người yếu đức tin. Do đó, sự chia sẻ của chúng ta có thể là giúp đỡ vật chất, một lời an ủi khích lệ hay một cử chỉ yêu thương, một sự gần gũi đầy cảm thông.
Dĩ nhiên, điều chúng ta cần ưu tiên là chuyển tải cho người khác Tin Mừng của Chúa Giêsu ngay trong hoàn cảnh và bậc sống của mình. Trong lần nói chuyện tại Assisi ngày 14/10/2013, đức thánh cha Phanxicô đã nói: “Cha không có vàng bạc để tặng các con, nhưng cha có một điều giá trị hơn nhiều là Tin Mừng của Chúa Giêsu. Với Tin Mừng trong quả tim và trong tay mình, hãy làm chứng cho đức tin bằng cuộc sống của các con: hãy mang Đức Kitô vào trong nhà các con, hãy rao giảng Người cho bạn bè của các con, hãy chào đón và phục vụ người nghèo”.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho mỗi người sự quảng đại và ơn can đảm để dứt bỏ những vướng bận, hầu hành trình theo Chúa của mỗi người luôn chất chứa niềm vui và sự bình an.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 10:17-27)
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay dường như làm chúng ta chóng cả mặt! Những lời Chúa Giê-su nói TN 28-B145
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay dường như làm chúng ta chóng cả mặt! Những lời Chúa Giê-su nói với người giàu có đến xin Người lời khuyên để được sống đời đời, những đối thoại giữa Chúa và các môn đệ, và sau cùng, điều Người nói với ông Phê-rô và các bạn về việc họ theo Người, tất cả đã khiến chúng ta có cảm tưởng theo Chúa là việc khó có ai làm nổi. Vậy để theo Chúa, chúng ta phải làm gì? Chúa trả lời: Con chỉ thiếu có một điều… Điều thiếu ấy là gì đối với mỗi người chúng ta?
Trước hết chúng ta thử suy nghĩ về điều duy nhất còn thiếu nơi người giàu có đến gặp Chúa. Mục đích anh đến với Chúa Giê-su là xin Người dẫn đường chỉ lối, để anh “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Quả thực đến gặp Chúa là anh đã đến gặp đúng người đúng việc! Ai có thể giúp anh nếu không phải là “Thầy nhân lành”? Tính từ “nhân lành” chỉ áp dụng cho Thiên Chúa mà thôi. Như vậy là anh đã coi Chúa Giê-su như Thiên Chúa của anh rồi. Là Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã thấu rõ con người của anh. Nhưng Người muốn cho chính anh thấy rõ con người mình. Người muốn chính miệng anh kể ra những gì là đầy đủ mà anh đang có. Dưới con mắt người đời, anh là một người có đầy đủ mọi sự. Về vật chất, anh là người giàu có. Về đạo đức, anh đã tuân giữ các giới răn Thiên Chúa từ thuở nhỏ đến bây giờ. Hiện tại thì anh không thiếu điều gì. Nhưng về tương lai, anh vẫn lo lắng làm sao có được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Cho nên anh mới đến với Chúa để xin Người giúp đỡ.
Khi đưa mắt nhìn anh, Chúa Giê-su yêu mến anh, vì anh có thiện chí muốn tìm kiếm sự sống đời đời. Đáp lại thiện chí ấy, Chúa Giê-su mách cho anh phương thức tốt nhất, đơn giản nhất, nhưng cũng đòi hỏi lòng quảng đại nhiều nhất, đó là: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Chúa Giê-su đề nghị chỉ một điều thôi! Nhưng đấy là điều quan trọng, điều duy nhất anh ta đang thiếu. Anh muốn được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Tuân giữ mọi giới răn của Thiên Chúa là việc tốt, nhưng vẫn chưa đủ để được sống đời đời. Nên Chúa Giê-su mách cho anh chỉ một điều phải làm thôi. Anh đã có kho tàng dưới đất là của cải. Nhưng anh cần có kho tàng trên trời. Nếu anh bán đi kho tàng dưới đất và đem cho những người nghèo, lập tức Cha trên trời sẽ dành cho anh kho tàng trên ấy, kho tàng không bao giờ bị mối mọt ten sét.
Tuy nhiên thật đáng buồn, vì đề nghị của Chúa Giê-su không được anh chấp nhận. Câu chuyện không có kết thúc đẹp. Anh ta buồn và bỏ đi, vì anh không đủ quảng đại dứt bỏ sự đầy đủ trần gian để đổi lấy sự đầy đủ trên trời! Nhưng có lẽ người buồn nhất trong câu chuyện chính là Chúa Giê-su, vì Người vừa mất đi một ứng viên sáng giá của Nước Trời!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta chia sẻ nỗi buồn của Chúa Giê-su khi người giàu có không đủ quảng đại để bỏ mọi sự mà theo Chúa. Nhưng ngay sau đó, chúng ta lại thấy Chúa được an ủi do sự gắn bó của Phê-rô và các bạn. Ông nói với Chúa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Có lẽ ông đã nhận ra gương mặt Chúa vảng vất nét buồn. Chắc là ông muốn nói với Người: “Thầy ơi! Mặc kệ cho anh ta bỏ đi. Còn tụi con đây nữa mà. Mười hai đứa chứ bộ!” Chúa khích lệ họ với lời hứa: Ai bỏ mọi sự vì Thầy và vì Tin Mừng, sẽ không bị thiệt thòi đâu, nhất là được sự sống vĩnh cửu ở đời sau!
Nhưng Chúa vẫn muốn nhắc nhở các tông đồ và cả chúng ta cùng một điều Người đã đề nghị với người giàu có. “Bán đi những gì chúng ta có mà cho người nghèo” là điều kiện bất cứ ai muốn theo Chúa cũng phải làm. Nếu đây là việc duy nhất Chúa muốn chúng ta thi hành, thì điều kiện duy nhất giúp chúng ta làm nổi việc này, đó là lòng quảng đại. Chúa Giê-su đã “bán đi” địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để hiến thân cho chúng ta (Phi-líp-phê 2:6-7). Người đã quảng đại đem cho chúng ta hết. Giờ đây, Người mời gọi chúng ta hãy theo gương Người, để chúng ta cũng được chung hưởng một gia nghiệp với Người.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân TN 28-B146
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
{Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".} Suy Niệm:
Chúa Nhật XXVIII Thường Niên Năm B
Khôn ngoan 7,7-11; Hipri 4,12-13; Marcô 10,17-30
Hằng tuần và có khi hằng ngày, chúng ta họp nhau lại đây cử hành thánh lễ để làm gì? Có lẽ cuối cùng chúng ta phải dựa vào các bài Thánh Kinh hôm nay để trả lời một cách thỏa đáng. Chúng ta muốn bắt chước vua Salomon đến đây cầu xin ơn khôn ngoan để biết sống ở đời. Và hơn nữa, chúng ta muốn như chàng thanh niên trong Phúc Âm xin Chúa chỉ đàng cho chúng ta như lời bài Thánh Thư hôm nay không? Do đó những bài Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc, rất đáng suy nghĩ và phải được đem ra thực hành. Chúng ta hãy đọc lại. 1. Cầu Xin Ơn Khôn Ngoan
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta được nghe lại chính lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời. Về điểm này ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc "đông đúc"; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Ðiều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu truyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù nên Ta se cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Không dễ trả lời câu hỏi này đâu. Ðọc sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này. Cuối cùng chúng ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Ðó mới thật là sự khôn ngoan mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin. Ðừng quý gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta. Nếu muốn cụ thể hơn, chúng ta hãy nói rằng sự khôn ngoan mà chúng ta phải cầu xin chính là ơn cứu độ mà Ðức Kitô đã mang đến, là chính Ðức Yêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã giáng sinh làm người. Chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay. 2. Hãy Ði Theo Chúa
Thánh Marcô kể hôm ấy Ðức Yêsu đang đi đường. Người lên Yêrusalem để thụ nạn cứu thế và ban hạnh phúc cho mọi người. Một chàng thanh niên chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa với Người như một bậc "tôn sư": "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp". Anh chưa thấy Người khác mọi bậc thầy và khác với mọi sư phụ. Anh tưởng Người cũng giống như bao luật sĩ hoặc nhà truyền đạo đã thay lượt nhau đến dạy đường khôn ngoan cho loài người. Có lẽ anh chỉ coi Người hơn họ một chút xíu thôi.
Nhưng Người không phải như vậy. Người không đến dạy sự khôn ngoan, nhưng là chính sự khôn ngoan nhập thể. Người không chỉ dạy đàng dẫn đến sự sống đời đời, nhưng có chính sự sống ấy để ban cho những ai biết đón nhận... Thế nên Người đã nhắc nhở anh nghĩ tới điều đó và phải nhận ra Người không phải là một bậc Thầy thông thường. Người bảo anh: "Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa". Nghĩa là nếu ngươi nói Ta là tốt lành, thì ngươi nên nhận ra thần tính ở nơi Ta; Ta là Thiên Chúa giáng trần. Thế nên lời Ta nói đây không phải là ý kiến của một luật sĩ hay của một nhà truyền đạo, nhưng là của chính Thiên Chúa. Và Người đã nhắc lại cho anh những giới răn trong Luật pháp. Chàng thanh niên vội thưa: "Lạy Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé". Lời anh nói làm chúng ta liên tưởng tới ý kiến của Phaolô phát biểu sau này: "Ðời tôi từ lúc thiếu thời... đã sống theo phái nhiệm nhặt trong tôn giáo chúng tôi...". Hoặc chúng ta cũng có thể nghĩ tới lời tự tín của người biệt phái nọ lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa, tôi đội ơn Người, vì tôi không phải như những người khác... mỗi tuần tôi ăn chay 2 lần, tôi nộp thuế thập phân...".
Quả thật, chàng thanh niên đang đứng trước mặt Chúa Yêsu, là hình ảnh của biệt phái, của những con người tưởng rằng có thể chiếm được Nước Trời bằng cách giữ luật hoặc thi hàn các nguyên tắc khôn ngoan này, khôn ngoan khác. Ðức Yêsu nhìn chàng thanh niên ấy; Người muốn yêu những tâm hồn như vậy; Người muốn cứu độ họ thật sự. Người bảo anh ta: ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! Có gì thì đem bán hết mà chi kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta.
Thánh Marcô kể tiếp: "Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều của". Có thể thánh nhân đã viết như vậy để chuyển ý sang đoạn văn sau nói về nguy hiểm do của cải, đối với Nước Trời. Ðúng hơn người đã áp dụng ý của Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả tác phẩm của người. Những người này là các tín hữu đã tin vào Ðức Kitô chứ không phải là các biệt phái nữa. Họ cũng phải giữ Lời Chúa. Và cho được như vậy phải biết áp dụng Lời của Người vào trường hợp của mình. Vậy lời của Người khi xưa, tức là lúc Người đang ở trần gian, đã trực tiếp nói với chàng thanh niên đã giữ các giới răn từ thuở bé, tức là vẫn tưởng rằng có thể dùng sức mình và theo sự khôn ngoan của mình mà được sự sống đời đời. Không, người ta phải từ bỏ mọi ảo tưởng đó, phải khước từ hết, phải bắt chước Salomon trông cậy nguyên vào Chúa. Người ta phải đi bán tất cả, từ bỏ tất cả vì Nước Trời, rồi đến đi theo Chúa.
Lời Ðức Yêsu nói với chàng thanh niên có giá trị tổng quát và triệt để. Chúng ta phải ghi nhớ tính cách tuyệt đối này. Người ta không được cậy dựa gì ngoài Chúa. Của cải chỉ là một diện phải từ bỏ, tuy là diện khá quan trọng.
Nhưng vì sao thánh Marcô lại chú ý đến diện này? Phải chăng như lời Tin Mừng Luca viết: "Biệt phái vốn tham tiền"? (16,14). Hay là tại vì ở thời Marcô viết sách Tin Mừng, của cải đã trở thành vấn đề trong đời sống đạo? Tín hữu phải tự đồng hóa mình với hạng "nghèo khó được rao giảng Phúc Âm". Như vậy sẽ không được giàu có sao? Và như vậy sẽ được gì?
Chúng ta có thể coi lời Phêrô hỏi Chúa hôm nay như phản ảnh tâm lý và những thắc mắc này. Và chúng ta thấy câu trả lời thật khôn ngoan. Kẻ bỏ mọi sự mà theo Chúa vẫn có mọi sự ở đời này và cộng thêm sự bị bắt bớ. Ðàng rằng chỉ có Marcô thêm chữ "bị bắt bớ" này vào câu trả lời của Chúa. Có lẽ vì hoàn cảnh đặc biệt của Hội Thánh thời Marcô viết tác phẩm Tin Mừng. Nhưng ai cấm chúng ta suy nghĩ rằng: theo thánh nhân, môn đệ của Chúa ở đời này không tất nhiên phải biến mình trở thành khố rách áo ôm. Như mọi người, họ vẫn có nhà để ở, áo để mặc, cơm để ăn, họ hàng bè bạn để tương giao... và còn có hơn vì tình huynh đệ và tương trợ trong Hội Thánh; nhưng họ hãy có như không có, hưởng như không hưởng, vì họ phải sống mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô mà viễn tượng "bị bắt bớ" luôn nhắc nhở người ta phải có tinh thần từ bỏ tuyệt đối vì Nước Trời. Và của cải là diện khó từ bỏ, đến nỗi con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Trời.
Các môn đệ của Ðức Yêsu đã ngạc nhiên trước những đòi hỏi như vậy. Họ sợ ít người có thể vào được Nước Thiên Chúa. Ðúng, với sức mình, với sự khôn ngoan của mình, loài người không làm gì được đâu. Nhưng, "mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa"; tức là người ta phải trông cậy vào Chúa và chỉ trông cậy vào một mình Người mà thôi. Salomon đã có thái độ như vậy trong bài sách Khôn ngoan hôm nay... Còn chàng thanh niên kia, giống như các biệt phái, không muốn bỏ mọi sự và quan điểm của mình mà theo Chúa và thi hành Lời của Người. Tại sao vậy? Chúng ta hãy nghe lời thư Hipri. 3. Hãy Thi Hành Lời Chúa
Thư Hipri bàn rất nhiều và sâu sắc về chức tư tế trong đạo mới. Ðạo cũ tức là Dothái giáo có hàng tư tế đông đảo và lễ nghi sầm uất. Số lượng tế vật cùng khói hương và huyết chảy không thể tưởng tượng được. Nhưng tất cả để làm gì? Chỉ là một thất bại hoàn toàn; một bất lực không hơn không kém. Tội lỗi của dân chúng vẫn còn đó. Chính vì vậy mà Cựu Ước cứ phải dâng lễ không ngừng.
Trong Tân Ước trái lại, máu Ðức Yêsu đã rửa sạch mọi tội. Người chỉ dâng lễ một lần. Người đã đi vào cung thánh của chính bản tính Thiên Chúa qua mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ta chỉ còn phải tham dự vào lễ tế vô giá ấy.
Nhưng đi vào lễ tế này sao được khi không để thân thể mình nát ra như chính của lễ hy sinh trên thập giá? Và phương tiện phân nát thân thể con người chính là Lời Chúa. Vì đây không phải là ý tưởng, mà là sự sống. Ðó là sự sống bởi trời xuống, đi vào thân xác con người, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi và đâm phập vào tận ranh giới hồn phách... cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ. Người ta cứ xem Ngôi Lời đã thành nhục thể. Người đã sống một cuộc đời gian khổ như thế nào. Cuối cùng Người đã chết trên thập giá để trở thành của lễ cứu độ và trở nên vị Thượng tế của đạo mới. Người ta cũng phải để cho Lời Chúa thấm nhập tâm can... đóng đinh dục vọng và xác thịt vào thập giá. Có như vậy con người mới trở nên của lễ và mới tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô, mới được khỏi tội và ngang qua các tầng trời đi vào nơi yên nghĩ ở trong Thiên Chúa.
Cái lầm của đạo cũ là thái độ vụ hình thức, là não trạng tưởng rằng giữ được Luật pháp là có sự sống đời đời. Thật ra điều quan trọng là phải từ bỏ "sự sống của mình", của con người cũ ở nơi mình và nhận lấy sự sống mới đến từ Thiên Chúa. Salomon đã biết từ bỏ mọi sự để được sự khôn ngoan; Ðức Yêsu bảo người thanh niên phải đi bán tất cả để đến đi theo Người; tác giả thư Hipri khuyên chúng ta hãy để cho Lời Chúa thấm nhập biện phân tình và ý tưởng của lòng dạ. Ai sẵn sàng làm như vậy?
Chúng ta hãy chạy đến Thánh Thể, tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô. Hãy hòa mình vào tâm tình xả kỷ cứu thế của Người. Hãy sống chân thật theo lương tâm và Lời Chúa dạy bảo và thôi lấy hình thức che đậy tâm can. Ai làm như vậy mà còn sợ sẽ không được sự sống đời đời? Ðó là người khôn ngoan hơn hết, hơn cả Salomon, vì ở đây nơi bàn thờ, còn có Ðấng trọng hơn Salomon và còn dạy đường khôn ngoan hơn Salomon. Chúng ta hãy đến và nhận lấy Người. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) --------------------------------
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXVIII, Thường Niên, Năm B
Đức Khôn Ngoan mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta, chính là Đức Khôn Ngoan của TN 28-B147
TMĐP- Đức Khôn Ngoan mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta, chính là Đức Khôn Ngoan của Từ Bỏ.
Những nuối tiếc, hối hận làm ray rứt con người hơn cả, nhất là khi về già, chính là những chọn lựa và quyết định thiếu khôn ngoan, những hành vi dạo dột, thái qúa bất cập, và thiếu chuẩn mực của mình trong quá khứ, bởi càng sống, người ta càng cảm nhận đức khôn ngoan thực “quý hơn trân châu bảo ngọc”, chẳng gì sánh được, “vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi” (Kn 7, 9).
Thực vậy, Đức Khôn Ngoan quý hơn cả “sức khoẻ và sắc đẹp”, “vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi” (Kn 7, 10.11). Nhưng đâu là Đức Khôn Ngoan mà Thiên Chúa muốn ở con người? Đâu là Đức Khôn Ngoan làm cho chúng ta được trở nên “bạn hữu với Thiên Chúa, và được Ngài tin cậy ” (Kn 7, 14) ?
Thánh Phaolô trả lời cho cộng đoàn tín hữu Do Thái: Đó là Lời Thiên Chúa, vì là “lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Dt 4,12. Theo thánh nhân, Lời Thiên Chúa giúp chúng ta nhận định rõ vấn đề, phân tích ngọn ngành, đến nơi đến chốn và phân định chính xác để đúng đắn chọn lựa.
Sở dĩ Lời Chúa ban ơn khôn ngoan cho chúng ta trong mọi lựa chọn, vì tất cả con người của ta được lộ nguyên hình trước ánh sáng của Lời Chúa, như thánh nhân quả quyết: “Không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bầy trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4, 13).
Chính vì được phơi bày trần trụi trước Lời Chúa, mà những bóng tối thành kiến, thiên kiến, những mảng tối ích kỷ, tham lam, ganh ghét, thù hận trong chúng ta được ánh sáng Lời Chúa xua đuổi, quét sạch, để chúng không ảnh hưởng trên phân định và chọn lựa của chúng ta, nhờ thế, chúng ta có sự khôn ngoan khi phân định, khôn ngoan khi chọn lựa, khôn ngoan khi hành động.
Qua kinh nghiệm bản thân, chúng ta không khôn ngoan, phần lớn vì đã kiêu căng, tìm danh vọng, quyền lực, và ích kỷ, tham lam, đố kỵ, hận thù; chúng ta thiếu khôn ngoan vì đã không đủ yêu thương tha thứ, không đủ quảng đại chia sẻ, không đủ kiên trì chịu đựng, và nguyên nhân đưa đến những “thiếu khôn ngoan, không khôn ngoan” ấy, chính là vì Lời Chúa là Ánh sáng đã không chiếu sáng tâm trí, Lời Chúa là sự sống đã không nuôi dưỡng tâm hồn, Lời Chúa là Nguồn Vui, Hy Vọng đã không làm tươi trẻ đời sống chúng ta.
Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy sự cần thiết của Đức Khôn Ngoan để người môn đệ đi theo Ngài nhận ra: đâu là mục đích của đời mình, đâu là cùng đích của đường đời, đâu là bến bờ sẽ phải đạt tới?
Khi hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10, 17), người thanh niên giàu có đã nói lên mục đích tối hậu của đời người là được sống đời đời trong Nước Thiên Chúa. Hơn nhiều người, anh đã biết: chỉ sự sống đời đời mới là gia nghiệp đích thực, mới là Hạnh Phúc vĩnh cửu mà con người đi tìm trên hành trình cuộc sống.
Khi trả lời anh, Đức Giêsu cũng khẳng định Nước Trời là mục đích tối hậu con người phải tìm đạt tới khi nói với anh và những người có mặt: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 1, 21). Điều này đồng nghĩa với điều kiện để đi theo làm môn đệ Ngài.
Như thế, Đức Khôn Ngoan mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta, chính là Đức Khôn Ngoan của Từ Bỏ, như Đức Giêsu “vốn dĩ là Thiên Chúa” “nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nõi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6. 7-8).
Đức Khôn Ngoan ấy chắc chắn không phải sự khôn ngoan của loài người, bởi Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa không đi tìm những sự thế gian tìm, không mơ ước những điều thế gian mơ ước. Trái lại, những gì bị coi là “điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất” lại là khôn ngoan “đối với những người được cứu độ” (x. 1 Cr 1,18), và thánh Tông Đồ dân ngoại quả quyết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa . Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 22-25).
Chính vì nhận ra sự khác biệt quá lớn giữa Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của loài người, và vực thẳm khó vượt qua của người giàu không biết từ bỏ đã được Đức Giêsu so sánh: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10,25) mà các môn đệ đã sửng sốt thưa với Ngài: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10,26).
Vâng, “thật khó biết bao!” (Mc 10, 24), vì “đối với loài người thì không thể được” (Mc 10, 27), với sự khôn ngoan của loài người thì chẳng bao giờ đạt tới Thiên Chúa, hay vào được Nước Trời, nhưng “đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”, vì Đức Giêsu chịu đóng đinh chính là “sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1, 24), bởi Ngài “đã cam chịu tử hình, đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ” (Dt 2, 9), là mục đích tối hậu của Đức Khôn Ngoan nơi những người lắng nghe Lời Chúa hằng thao thức, khao khát kiếm tìm.
Một bạn trẻ đã đến với Chúa Giêsu và đặt câu hỏi: Thưa Thày, tôi phải làm gì? Bạn trẻ này là TN 28-B148
Một bạn trẻ đã đến với Chúa Giêsu và đặt câu hỏi: Thưa Thày, tôi phải làm gì? Bạn trẻ này là đại diện của số đông những người đang đi kiếm tìm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời. Quả vậy, cuộc sống là một hành trình liên lỉ kiếm tìm hạnh phúc. Có điều là quan niệm về hạnh phúc nơi mỗi người lại khác nhau. Chàng thanh niên trong Tin Mừng được kể là một người đạo hạnh. Từ thuở nhỏ, anh nghiêm túc tuân giữ những gì Chúa dạy trong luật Môisen: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ. Anh rất tự tin để khẳng định với Chúa Giêsu về những thực hành đạo đức của mình. Tuy vậy, Chúa muốn cho anh tiến xa hơn trên con đường trọn lành. Xem ra Chúa chưa hài lòng về những gì anh đã và đang làm. Người đặt ra một điều kiện: ai muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mọi sự. Khi Người yêu cầu người thanh niên bán hết mọi gia sản, tức là Người đòi hỏi anh phải từ bỏ những gì gắn bó, thậm chí từ bỏ chính bản thân để theo Chúa.
Tôi phải làm gì? Đó cũng là câu hỏi mà chúng ta phải đặt ra thường xuyên, để lượng giá những việc mình đang làm và mục đích mình đang hướng tới. Câu hỏi này cũng giúp chúng ta nhìn lại bản thân, để nhận ra sứ vụ mà Chúa muốn mình phải thực hiện trong cuộc sống. Sống trên đời, mỗi người có một sứ vụ phải hoàn thành. Tuy vậy, để nhận ra sứ vụ đích thực của cuộc đời là một vấn đề khó khăn. Có nhiều người long đong lận đận, ôm nhiều ảo mộng, nên đã ở tuổi xế chiều vẫn chưa xác định được sứ mạng cuộc đời của mình.
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời? Thưa cần có ơn khôn ngoan. Bài đọc I chỉ cho chúng ta thấy sự cần thiết của ơn khôn ngoan. Tác giả đã nói đến giá trị của sự khôn ngoan như sau: “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không. Tôi cũng không so sánh nó với kim cương, vì mọi thứ vàng đem so sánh với nó thì kể như hạt cát nhỏ bé, và bạc đem để trước nó thì kể như đất bùn”. Theo giáo huấn của Giáo Hội, ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần. Ơn này giúp chúng ta nhìn rõ bản chất của sự việc hay của một con người, chứ không quan sát theo cảm tính hay theo vẻ hào nhoáng bên ngoài. Vì những gì bóng bẩy bên ngoài thì hay đánh lừa giác quan. Giống như cách tiếp thị của dịch vụ quảng cảo trên các phương tiện truyền thông. Trong số những quảng cáo này, có nhiều sản phẩm là hàng giả hoặc kém chất lượng, nhiều người đã bị lừa và tiền mất tật mang.
Cũng theo giáo huấn của Giáo Hội, sự khôn ngoan đích thực là Thiên Chúa. Sự khôn ngoan ấy được ngôi vị hoá nơi Ngôi Lời nhập thể là Chúa Giêsu Kitô. Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống”. Qua lời tuyên bố này, Người khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Người dẫn tới Chúa Cha, là nguồn mạch của mọi ơn phúc.
Tin vào Đức Giêsu Kitô, đó là bí quyết để đạt được khôn ngoan và cũng đạt được hạnh phúc đời này và đời sau. Khi nghe Chúa Giêsu so sánh việc vào nước trời khó khăn giống như con lạc đà chui qua lỗ kim, thánh Phêrô đã nói với Chúa: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Lời thánh Phêrô diễn tả mối băn khoăn của ông khi theo Chúa. Đó cũng là mối băn khoăn của chúng ta: theo Chúa thì được gì? biết bao nhiêu người không theo Chúa mà cũng hạnh phúc sung sướng. Chúa hứa với thánh Phêrô và các môn đệ: họ sẽ được gấp trăm những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Thực tế đã chứng minh: đối với linh mục và tu sĩ, là những người từ bỏ mọi sự trần gian để theo Chúa, Chúa ban cho họ gấp trăm, thậm chí gấp ngàn lần.
Cùng với tác giả Thánh Vịnh 89, chúng ta cầu nguyện: “Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con”. Giữa thời buổi bất an và tràn ngập những ưu tư lo lắng, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan và nghị lực để chúng ta can đảm chọn lựa Chúa, với xác tín Chúa sẽ thưởng gấp trăm những gì chúng ta dám hy sinh vì Ngài.
Tôi phải làm gì để không thua chị kém em, tôi phải chăm chỉ làm ăn như thế nào để đủ điều kiện TN 28-B149
Tôi phải làm gì để không thua chị kém em, tôi phải chăm chỉ làm ăn như thế nào để đủ điều kiện nuôi sống gia đình ? Biết đặt câu hỏi, biết gợi lên những thắc mắc về cuộc sống hiện tại và tương lai của mình, đã khá lắm rồi. Cha ông chúng ta quả là dầy dạn kinh nghiệm, khi nói: biết đặt câu hỏi ngu ngốc, cùng lắm bị xem là ngốc nghếch dăm ba phút, nhưng kẻ không dám đặt câu hỏi, sẽ ngu ngốc suốt cả cuộc đời. Thực ra, được thành đạt về công danh sự nghiệp, khoẻ mạnh tinh thần và thể xác, bao giờ cũng là mơ ước chính đáng. Chúng ta quan niệm: người giầu là người nhiều tiền lắm của, người tài giỏi là người thông minh, thắng vượt được những khó khăn, biết cư xử hợp tình hợp lý trước mọi tình huống cuộc sống, thì không sai. Nhưng trên hết, cuộc sống có dư đủ mọi thứ, mà thiếu tình yêu, bạn vẫn là kẻ thất bại hoàn toàn.
Có hay không: kẻ giầu sang phú quý đi đến đâu cũng thấy bạn, kẻ nghèo hèn, có thể gục ngã rồi vẫn chẳng thấy bạn đâu ! Đúng, sai, bạn ngẫm nghĩ thử coi, cùng đích đời người là gì ? Dẫu quyền quý thanh cao hay bần cùng túng thiếu, ai cũng có một lần an giấc ngàn thu. Cả giầu sang lẫn vĩ đại, đều không thể mang đến cho bạn hạnh phúc. (La Fontain). Có phải tình yêu, bình an, hay đời sống tinh thần được thanh thản, đang gợi lên mơ ước cho bạn, đang hé mở cho bạn hạnh phúc thật, ở nơi đâu ? Vâng, “tôi phải làm gì để được hạnh phúc, để có sự sống đời đời” ? Phải là người khôn ngoan, bạn mới đi tìm kiếm hạnh phúc, phải là người nhạy bén, bạn mới biết đặt vấn đề sự sống đời đời. Vị Thầy Giêsu đã thắp lên một tin vui, thúc đẩy mọi người phải dứt khoát: “ngươi chỉ thiếu một điều, hãy bán hết của cải, rồi theo Ta”.
Người thanh niên “giầu có” trong tin mừng bỏ lỡ một cơ hội, anh ta không đủ mạnh dạn từ bỏ của cải để làm môn đệ Thầy Giêsu. Người thanh niên đó thiếu một điều quan trọng, từ bỏ bao giờ cũng khó, đồng tiền dính liền khúc ruột, tiền của vật chất có sức mạnh đáng sợ đối với con người tự nhiên là thế đó. Có khi nào bạn thắc mắc bao nhiêu tuổi đời thì được gọi là khôn, duy chỉ một con đường theo Thầy Giêsu, mới tìm thấy hạnh phúc đúng không ? Người thanh niên đã bộc bạch, anh ta không làm điều xấu, đã nghiêm túc sống giới luật Chúa ngay từ thuở nhỏ. Rõ ràng không làm điều xấu, nhưng phải làm điều thiện, cả 2 vế đều có liên hệ với nhau. Biết tìm đến Đức Giêsu, nghe, hiểu, quyết tâm rũ bỏ mọi sự theo Ngài làm môn đệ, nhất định bạn phải là người khôn ngoan, bạn sẽ được cảm nếm sự sống đời đời.
Ngươi chỉ thiếu một điều, Thầy Giêsu có nguyên tắc quá không, có khắt khe không ? Vâng, chúng ta sẽ không phải thắc mắc, không phải tìm kiếm con đường dẫn tới hạnh phúc, hoặc tôi phải từ bỏ những gì để có sự sống đời đời, cuộc đối thoại giữa Thầy Giêsu và người thanh niên quá rõ rồi. Người Hy-lạp định nghĩa hạnh phúc là người hội đủ 3 thứ: sức khoẻ, trí thông minh, sự giầu sang. Cha ông chúng ta thì nói: hạnh phúc không phải là không có rắc rối, nhưng hạnh phúc là có đủ bình tĩnh để đối phó trước những rắc rối. Tin và theo Đức Giêsu, làm môn đệ Thầy Giêsu, nghĩa là ta đang từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày làm nhân chứng tình yêu. Là chúng ta đang thấy rõ hơn: hạnh phúc là được yêu khi trẻ, thành đạt lúc trung niên, và bình an trong mọi lứa tuổi.
Ngươi chỉ một điều, đó là mến Chúa nhưng chưa yêu người. Ngươi chỉ thiếu một điều, tin Thầy, theo Thầy, nhưng lại tự ý làm việc và hoạt động theo cảm tính của mình, chẳng muốn làm đúng ý Thầy. Ngươi chỉ thiếu một điều, có thể bạn là môn đệ Thầy, là anh em con cháu của Thầy, nhưng chưa xả thân, chưa dám bỏ mình, bỏ tâm tính ích kỷ của mình, nên bạn chỉ có danh mà sẽ không có phận. Ngươi chỉ thiếu một điều, đó là bạn tin vào của cải vật chất và tìm sự sống ở đời này, do đó bạn vẫn mãi là tên hề, đang lẫn lộn giữa hạnh phúc thật và giả. Đúng, “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước Thiên Chúa” ! Người khôn ngoan là người biết làm việc thiện, xa tránh điều xấu, người tin theo Thầy Giêsu là đi con đường Thầy đi, con đường chật hẹp, con đường có tên là yêu thương, có sức mạnh của Giêsu.
Ngươi chỉ thiếu một điều, hãy mặc lấy tinh thần mới của Đức Kitô, không phải bán gia tài theo nghĩa đen, hãy nhận lấy, giữ lấy, niềm tin yêu và khao khát được phục vụ trong đức ái Kitô. Hãy thử suy xét xem, tại sao cha ông ta lại nói: người làm điều thiện, phúc dù chưa tới, hoạ đã rời xa; người làm điều ác, hoạ dù chưa đến, phúc đã ra khỏi ta rồi. Đi tìm hạnh phúc, tìm sự sống đời đời là đúng, ấy vậy, hạnh phúc không tự nhiên đến, hạnh phúc sẽ đến từ chính hành động của ta. Sự sống đời đời không thể mua bằng tiền, sự sống sẽ đến từ tâm hồn có tình yêu Chúa, có những việc làm bằng tình yêu Chúa. Ngươi chỉ thiếu một điều, mến Chúa mà không yêu người, giầu tiền lắm của mà không sử dụng, ngươi có khác gì người nghèo không ? Hy vọng rằng, ai trong chúng ta cũng đủ khôn khi theo Chúa làm môn đệ: ở có nhân, mười phần chẳng khốn, ở có đức mặc sức mà ăn. Amen.
Những nuối tiếc, hối hận làm ray rứt con người hơn cả, nhất là khi về già, chính là những chọn lựa TN 28-B150
Những nuối tiếc, hối hận làm ray rứt con người hơn cả, nhất là khi về già, chính là những chọn lựa và quyết định thiếu khôn ngoan, những hành vi dạo dột, thái qúa bất cập, và thiếu chuẩn mực của mình trong quá khứ, bởi càng sống, người ta càng cảm nhận đức khôn ngoan thực “quý hơn trân châu bảo ngọc”, chẳng gì sánh được, “vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi” (Kn 7, 9).
Thực vậy, Đức Khôn Ngoan quý hơn cả “sức khoẻ và sắc đẹp”, “vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi” (Kn 7, 10.11). Nhưng đâu là Đức Khôn Ngoan mà Thiên Chúa muốn ở con người? Đâu là Đức Khôn Ngoan làm cho chúng ta được trở nên “bạn hữu với Thiên Chúa, và được Ngài tin cậy ” (Kn 7, 14) ?
Thánh Phaolô trả lời cho cộng đoàn tín hữu Do Thái: Đó là Lời Thiên Chúa, vì là “lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Dt 4,12. Theo thánh nhân, Lời Thiên Chúa giúp chúng ta nhận định rõ vấn đề, phân tích ngọn ngành, đến nơi đến chốn và phân định chính xác để đúng đắn chọn lựa.
Sở dĩ Lời Chúa ban ơn khôn ngoan cho chúng ta trong mọi lựa chọn, vì tất cả con người của ta được lộ nguyên hình trước ánh sáng của Lời Chúa, như thánh nhân quả quyết: “Không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bầy trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4, 13).
Chính vì được phơi bày trần trụi trước Lời Chúa, mà những bóng tối thành kiến, thiên kiến, những mảng tối ích kỷ, tham lam, ganh ghét, thù hận trong chúng ta được ánh sáng Lời Chúa xua đuổi, quét sạch, để chúng không ảnh hưởng trên phân định và chọn lựa của chúng ta, nhờ thế, chúng ta có sự khôn ngoan khi phân định, khôn ngoan khi chọn lựa, khôn ngoan khi hành động.
Qua kinh nghiệm bản thân, chúng ta không khôn ngoan, phần lớn vì đã kiêu căng, tìm danh vọng, quyền lực, và ích kỷ, tham lam, đố kỵ, hận thù; chúng ta thiếu khôn ngoan vì đã không đủ yêu thương tha thứ, không đủ quảng đại chia sẻ, không đủ kiên trì chịu đựng, và nguyên nhân đưa đến những “thiếu khôn ngoan, không khôn ngoan” ấy, chính là vì Lời Chúa là Ánh sáng đã không chiếu sáng tâm trí, Lời Chúa là sự sống đã không nuôi dưỡng tâm hồn, Lời Chúa là Nguồn Vui, Hy Vọng đã không làm tươi trẻ đời sống chúng ta.
Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy sự cần thiết của Đức Khôn Ngoan để người môn đệ đi theo Ngài nhận ra: đâu là mục đích của đời mình, đâu là cùng đích của đường đời, đâu là bến bờ sẽ phải đạt tới?
Khi hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10, 17), người thanh niên giàu có đã nói lên mục đích tối hậu của đời người là được sống đời đời trong Nước Thiên Chúa. Hơn nhiều người, anh đã biết: chỉ sự sống đời đời mới là gia nghiệp đích thực, mới là Hạnh Phúc vĩnh cửu mà con người đi tìm trên hành trình cuộc sống.
Khi trả lời anh, Đức Giêsu cũng khẳng định Nước Trời là mục đích tối hậu con người phải tìm đạt tới khi nói với anh và những người có mặt: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 1, 21). Điều này đồng nghĩa với điều kiện để đi theo làm môn đệ Ngài.
Như thế, Đức Khôn Ngoan mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta, chính là Đức Khôn Ngoan của Từ Bỏ, như Đức Giêsu “vốn dĩ là Thiên Chúa” “nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nõi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6. 7-8).
Đức Khôn Ngoan ấy chắc chắn không phải sự khôn ngoan của loài người, bởi Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa không đi tìm những sự thế gian tìm, không mơ ước những điều thế gian mơ ước. Trái lại, những gì bị coi là “điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất” lại là khôn ngoan “đối với những người được cứu độ” (x. 1 Cr 1,18), và thánh Tông Đồ dân ngoại quả quyết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa . Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 22-25).
Chính vì nhận ra sự khác biệt quá lớn giữa Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của loài người, và vực thẳm khó vượt qua của người giàu không biết từ bỏ đã được Đức Giêsu so sánh: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10,25) mà các môn đệ đã sửng sốt thưa với Ngài: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10,26).
Vâng, “thật khó biết bao!” (Mc 10, 24), vì “đối với loài người thì không thể được” (Mc 10, 27), với sự khôn ngoan của loài người thì chẳng bao giờ đạt tới Thiên Chúa, hay vào được Nước Trời, nhưng “đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”, vì Đức Giêsu chịu đóng đinh chính là “sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1, 24), bởi Ngài “đã cam chịu tử hình, đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ” (Dt 2, 9), là mục đích tối hậu của Đức Khôn Ngoan nơi những người lắng nghe Lời Chúa hằng thao thức, khao khát kiếm tìm.