------------------------------------------ Phúc Âm: Mc 10, 17-30: “Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu trả lời: “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”. Người ấy thưa: “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”. Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!” Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”. Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Như vậy thì ai có thể được cứu độ?” Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: “Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”. {Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất”.} - Ðó là lời Chúa.
Là con người, chúng ta phải liên tục chọn lựa giữa những giá trị cao thấp khác nhau, có khi là giữa những thứ đối nghịch nhau nữa.
Là Ki-tô hữu, chúng ta phải chọn đi theo Chúa Giê-su Ki-tô, sống theo gương Ngưòi trên con đường thập giá là hy sinh, từ bỏ.
Các bài Thánh Kinh hôm nay soi sáng cho chúng ta biết cách chọn lựa và biết cách theo chân Chúa Giê-su. Chúng ta hãy lắng nghe và mở rộng tấm lòng để đón nhận ánh sáng và sức mạnh thần linh của Lời Chúa.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Kn 7,7-11: Sự cao trọng vượt bực của Đức Khôn Ngoan.
7 Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi. 8 Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan. 9 Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất. 10 Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. 11 Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.
(2) Bài đọc 2: Dt 4,12-13: Sức mạnh của Lời Chúa.
12 Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. 13 Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 10,17-30: Người giầu có muốn theo Đức Giêsu- Người giầu có khó vào Nước Thiên Chúa - Chúa Giêsu hứa phần thưởng cho người biết từ bỏ (Mt 19,23-30; Lc 18,18-30).
17 Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? " 18 Đức Giê-su đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." 20 Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ." 21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." 22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! " 24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai có thể được cứu? " 27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được." 28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy! " 29 Đức Giê-su đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau”.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Kn 7,7-11) là quan điểm của tác giả Sách Khôn Ngoan về giá trị của Đức Khôn Ngoan so với của cải vật chất, châu báu ngọc ngà, sức khỏe và sắc đẹp. Tất cả những thứ này không đáng kể gì so với Đức Khôn Ngoan.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đều hiểu Ðức Khôn Ngoan là Thần Khí của Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa.
(2) Bài đọc 2 (Dt 4,12-13) là những lời của Thánh Phao-lô nói với các tín hữu Do Thái, về vai trò và giá trị của Lời Chúa. Lời Chúa phải là tiêu chuẩn, là định hướng cho cuộc sống Ki-tô hữu. Mọi việc chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói đều phải căn cứ vào Lời Chúa, đối chiếu với Lời Chúa, đặt dưới ánh sáng hướng dẫn và chịu sự phán xét của Lời Chúa.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 10,17-30) là tường thuật rất sống động và nhiều ý nghĩa của Thánh Mác-cô. Có 3 ý chính liên kết chặt chẽ với nhau:
* Các câu 17-22 là truyện kể về cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Chúa Giê-su và một chàng thanh niên giầu có. Nhưng câu truyện kết thúc không lô gích và không có hậu, vì hai nhân vật trong truyện không đi cùng một hướng:
* Còn chàng thanh niên thì sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi.
Nguyên nhân là vì anh ta có nhiều của cải và không muốn từ bỏ những của cải ấy để sống theo Chúa Giê-su.
* Các câu 23-27 là kết luận Chúa Giêsu rút ra từ sự kiện vừa xẩy ra khiến mọi người phải sửng sốt:
“Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!… Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa.”
Rất may là Chúa Giê-su đã nói thêm câu này:
“Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”
* Các câu 28-31 là giải đáp của Chúa Giê-su cho thắc mắc chính đáng của Phê-rô về phần thưởng hay sự bù đắp mà ông và các môn đệ khác hy vọng có được, khi đã từ bỏ mọi sự mà theo Thầy.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh hôm nay gồm hai phần:
- Phần thứ nhất: Tiền bạc, của cải, sức khoẻ, sắc đẹp … là con dao hai lưỡi:
Dù “đồng tiền có là tiên, là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là đà thăng tiến xã hội” (1), thì người Ki-tô-hữu cũng phải coi chừng, vì “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!… Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”.
- Phần thứ hai: Theo Chúa, hy sinh, từ bỏ (bất cứ cái gì) vì Chúa không bao giờ phải thiệt thòi vì Chúa Giê-su đã hứa:
"Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (2).
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được thể hiện bằng hai cách:
* Cách thứ nhất: Có một quan niệm hay đánh giá đúng đắn về của cải, tiền bạc, sức khỏe, sắc đẹp và các thứ khác (địa vị, chức tước, quyền hành): chúng là những con dao hai lưỡi, là những tên nô lệ (công cụ) đắc lực, nhưng lại là những ông chủ bà chủ rất nguy hiểm và độc ác (3).
* Cách thứ hai: Chọn con đường theo Chúa Giê-su, tin tưởng vào Lời Chúa Giê-su hứa mà sẵn sàng và quảng đại hy sinh từ bỏ (càng nhiều càng tốt) vì Người.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã lưu ý chúng con rằng người giầu có rất khó vào Nước Thiên Chúa vì tiền bạc của cải rất dễ trở thành chủ nhân ông thống trị tâm hồn chúng con. Chúa cũng đã dạy chúng con rằng con đường từ bỏ là con đường dẫn tới sự sống và hạnh phúc thật.
Chúng con nài xin Chúa hãy ban cho chúng con Đức Khôn Ngoan và sức mạnh thần linh để:
* chúng con có thể chống lại sự quyến rũ của giầu sang, danh vọng, quyền lực và lạc thú là những thứ nguy hiểm cho sự sống đời đời của chúng con và biết xử dụng của cải như phương tiện cần thiết và hữu ích cho đời sống mà không trở thành nô lệ hay dính bén nó một cách tội lỗi, trái với tinh thần của Chúa, và để
* chúng con có đủ dũng cảm chọn con đường theo Chúa, sẵn sàng và quảng đại hy sinh, từ bỏ vì Chúa và vì Nước Trời. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
New Orleans (LA/USA) 30.09.2006
Lễ Thánh Giêrônimô, Bổn Mạng.
……………
Ghi chú:
(1): Ðó là câu phương châm hiện đại đề cao giá trị của đồng tiền, của đồng đô la trong xã hội ngày nay.
(2): Mc 10, 29-30.
(3): Có ý nói nếu chúng ta biết dùng của cải, sức khỏe, sắc đẹp, địa vị, chức tước, quyền hành …. một cách tốt lành (theo giáo huấn của Chúa) thì những thứ ấy sẽ đem lại những lợi ích lớn lao, thậm chí cả đời sống vĩnh hằng cho chúng ta; còn nếu chúng ta để cho những thứ ấy làm chủ chúng ta và chúng ta nhận làm nô lệ cho chúng, thì chúng sẽ gây cho chúng ta những tai hại khôn lường, thậm chí đưa chúng ta vào cõi hủy diệt muôn đời.
Trong một thế giới vật chất, văn minh: các phương tiện kỹ thuật càng lúc càng đi đến chỗ tinh vi, kinh tế, vật chất, tiền của luôn là những vấn đề sôi bỏng, luôn là những điểm nóng trong sinh hoạt hằng ngày, liệu nói về Thiên Chúa có còn hợp thời nữa không ? Bài đọc thứ I trích trong sách khôn ngoan 7, 7-11 sẽ trả lời cho mọi người, cho mỗi người vấn nạn thời sự ấy. Khôn ngoan là kho tàng vô giá, là sự giầu sang thật. Khôn ngoan vừa là đặc tính siêu việt của Thiên Chúa, vừa là hồng ân Ngài trao tặng cho nhân loại, cho con người.
KHÔN NGOAN CỦA THIÊN CHÚA LUÔN ĐỐI CHỌI VỚI MAMMÔN, VỚI TIỀN CỦA THẾ GIAN:
Đọan sách khôn ngoan hôm nay cho ta một bài học thật quí hoá vì trước mặt Thiên Chúa:” Đức khôn ngoan hơn vương trượng, ngai vàng…của cải bằng không. So với đức khôn ngoan, vàng chân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát,
bạc chẳng qua như chút bùn”. Khôn ngoan là sự giầu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người có tinh thần nghèo khó khi phải đương đầu với thế lực của Mammôn, Satan, tiền bạc. Dù rằng trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã có lúc tham dự những bữa tiệc thịnh soạn, linh đình của những gia đình giầu có, những gia đình của những người biệt phái, từng ăn uống tại gia đình của những người thu thuế lắm tiền, từng nhận lãnh những ân huệ của những người phụ nữ tốt bụng, đạo hạnh nuôi dưỡng Chúa và các tông đồ. Chúa đã từng nói:” Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa” ( Mc 10, 25 ). Chúa nói câu nói ấy để minh chứng:” thực hiện được như sách khôn ngoan đối với của cải vật chất là điều thật kho”. Đoạn sách khôn ngoan hôm nay muốn làm nổi bật ý nghĩa của sự từ bỏ, đừng ham hố tiền của quá sức, coi bạc vàng, châu báu, của cải là cùng đích, là thần tượng của đời mình, coi Mammôn, Satan như là cứu cánh của cuộc đời con người, mà quên đi cốt lõi của đời là bác ái, chia sẻ để đạt được Nước Trời. Chàng thanh niên trong Tin MừngMc 10, 17-30 là một người tỏ ra hết sức đạo đức. Chàng đã thưa với Chúa Giêsu:” Những giới răn như chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ, chàng đã giữ từ hồi còn nhỏ “ ( Mc 10, 20 ). Chúa Giêsu khi nghe chàng thanh niên giầu có trả lời như thế, Ngài đã chạnh lòng thương chàng và muốn chàng đi xa thêm một bước nữa để có thể đạt đươc Nước Thiên Chúa. Do đó, Chúa âu yếm nói với chàng:” Hãy đem bán hết gia tài ngươi có, đem bố thí cho người nghèo khó, rồi hãy đi theo Ta “ ( Mc 10, 21 ). Câu nói của Chúa Giêsu đòi hỏi chàng thanh niên từ bỏ dính bén tiền của là thứ làm cản ngăn đường tới Nước Trời. Chàng thanh niên chỉ muốn sống mức độ bình thường của đời mình mà thiếu sự cảm thông, chia sẻ, bác ái đối với người khác. Chàng thiếu thật sự sự siêu thoát về tiền của, thiếu lòng thành đi theo Chúa vì Chúa:” Không có nơi nương tựa, không đá gối đầu “. Chúa đã sống sự siêu thoát, Ngài cũng muốn các môn đệ của Ngài hãy sống siêu thoát như Ngài. Đây là sự từ bỏ, siêu thoát mà người môn của Chúa phải có để có thể nối gót bước chân của Ngài. Chàng thanh niên đã để cho lòng ham muốn của cải níu kéo và bóp chết con tim của mình. Chàng đã để cho Mammôn, Satan và tiền của đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
CHÚA ĐÒI HỎI NHỮNG MÔN ĐỆ CỦA CHÚA:
Đọc Tin Mừngcủa Chúa Giêsu, chúng ta thấy nhiều đoạn Chúa Giêsu nói về những điều kiện để theo Ngài. “ Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mỗi ngày mà theo Ta “” Ai đã cầm cầy mà còn ngoái lui, không xứng đáng làm môn đệ của Ta”. Thật vậy, Chúa đòi hỏi các môn đệ của Ngài một sự dứt khoát tận căn, đến nỗi khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Ngài đã căn dặn các ông:” Đừng mang tiền, đừng mang bao bị…”. Đây là sự từ bỏ tột đỉnh mà các môn đệ phải có khi các Ngài ra đi loan báo Tin mừng. Sự siêu thoát tiền bạc, của cải sẽ giúp các môn đệ của Chúa thanh thoát trong công việc loan báo Nước Trời. Không phải Chúa Giêsu muốn các môn đệ của mình bần cùng hoá thế giới, hoặc sống đời sống bần cùng mà Ngài muốn các môn đệ phải có con tim nhạy cảm, lòng bác ái chân thành. Do đó, sự siêu thoát là đòi hỏi căn bản của Chúa Giêsu đối với các môn đệ. Chúa muốn các môn đệ” có tinh thần nghèo khó “. Tinh thần nghèo khó khác với tình trạng nghèo khổ. Sống tình trạng nghèo khổ, chắc không ai dám mong ước vì tinh thần nghèo khổ biến thế giới thành khốn khổ, khó nghèo. Tình trạng nghèo khó gây ra những tệ nạn xã hội, còn tinh thần nghèo khó là sự siêu thoát và từ bỏ mà Tin Mừng đề cao.
Tinh thần nghèo khó luôn giúp các môn đệ Chúa giữ được thế quân bình, siêu thoát với của cải cho dù mình dư ăn, dư của để dành nhưng họ biết dùng của cải đúng mục đích và biết liên đới, chia sẻ và bác ái với người khác. Chính vì thế có”tinh thần nghèo khó” là biết sống phó thác, cậy trông, yêu mến dù rằng mình giầu có, dư của, dư tiền, dư vật chất. Siêu thoát là tột đỉnh của từ bỏ. Nên, Chúa Giêsu đã từng nói:” Người ta sống nguyên bởi bánh mà còn bởi Lời Thiên Chúa phán ra “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết sống từ bỏ mà phục vụ Chúa trong sự chia sẻ, cảm thông, bác ái với anh em chúng con. Amen.
Chúng ta chú ý đoạn đầu bài Phúc Âm hôm nay là "cái ông giàu có" tới hỏi Chúa Giêsu xem phải làm gì để được sống đời đời này, đã thực hiện cặn kẽ từ nhỏ tất cả những việc tiêu cực phải giữ như: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không chứng gian, không quịt người khác... Nhưng về phương diện tích cực chỉ có một điều duy nhất phải làm là "bán hết của cải giúp người nghèo khó rồi tới theo Chúa" (Mc 10,21) thì người ấy đã và vẫn không muốn làm. Do đó Chúa Giêsu mới tiếc cho ông ta: "Người giàu có khó vào nước thiên đàng biết bao" (Mc 10,23). Sau đó Ngài còn nói mạnh thêm: "Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng" (Mc 10,25).
Vậy kể như là người giàu có thì không thể vào nước thiên đàng được. Điều đó đúng. Nhưng phải hiểu thế nào là giàu có? Giàu có là những người có nhiều của cải tài sản vật chất, đó là dĩ nhiên. Nhưng điều quan trọng Chúa Giêsu có ý nhấn mạnh là lòng ham ước của cải. Nói khác là sự ham hố say mê vật chất mà quên phụng sự Chúa, là sự nô lệ của cải, coi của cải vật chất là cùng đích là chúa tể. Chính tinh thần nô lệ và coi của cải vật chất là chúa tể này làm ta không còn tìm Chúa, không còn tìm hạnh phúc thiên đàng thì làm sao ta có thể được Chúa, được hạnh phúc thiên đàng. Không thể vào nước thiên đàng được, như vậy là tất nhiên, bởi không tìm không muốn chứ không phải tại Chúa không muốn cho họ vào.
Vì thế không phải chỉ những ai giàu có mà cả những kẻ nghèo xác xơ nhưng để tinh thần ham mê của cải vật chất làm quên Chúa, quên hạnh phúc thiên đàng thì cũng vẫn không thể vào nước thiên đàng được. Trái lại những ai tuy giàu có vật chất nhưng không để lòng ham hố của cải cản trở việc tìm Chúa, tìm hạnh phúc thiên đàng mà chỉ dùng của cải như phương tiện để làm những việc đó thì vẫn vào thiên đàng được. Đó chính là cái chìa khóa để người giàu vào thiên đàng. Đó chính là bí quyết làm cho người giàu có thành nghèo khó trước mặt Chúa. Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu nói: "Điều loài người không làm được thì Thiên Chúa làm được" (c. 27): Sự giàu có mà trong đó con người làm chủ thì không thể, nhưng để Thiên Chúa làm chủ thì lại có thể được. Vì thế Chúa mới nói "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước Trời là của họ" (Mt 5,3).
Ở đây chúng ta cũng lại cần lưu ý: Việc từ bỏ của cải, nếu cần, luôn là một chứng minh của tinh thần nghèo khó bên trong. Đó cũng là cái trắc nghiệm mà Chúa Giêsu đã thử đối với cái ông giàu có trên kia: ông ta không muốn bỏ của cải gia tài mình, vậy ông không có tinh thần nghèo khó thực. Của cải giàu sang vật chất tự nó không xấu, không đáng trách. Cái xấu, cái đáng trách chính là tính ham mê, đến nô lệ của cải mà quên Chúa.
Lạy Chúa, con quyết dùng của cải vật chất mà, "mua lấy nước thiên đàng" (Lc 16,9) vì "Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì!" (Mt 16,26)
Câu hỏi của chàng trai đạo đức cũng là câu hỏi của mỗi người chúng ta. Cũng là câu hỏi của nhân loại. Câu hỏi ngàn đời chỉ có tôn giáo mới trả lời được hay nói đúng hơn chỉ có Chúa và tôn giáo thật mới trả lời được. Khổng Tử người được coi như vạn thế sư biểu, khi được hỏi câu này đã tránh né chỉ trả lời là: chuyện sống biết chưa hết cần chi biết đến chuyện sau khi chết. Phật Thích Ca khi được hỏi cũng chỉ trả lời gián tiếp: Khi người gần chết đuối thì lo mà cứu người ta đã, lo gì những chuyện lý thuyết sau khi chết có lên niết bàn hay không.
Ngày nay Giáo hội thay cho Chúa trả lời câu hỏi đó rõ ràng trong tài liệu mới nhất Christus Dominus trong đó cho ta thấy câu trả lời rõ ràng và phương thế để đạt tới hạnh phúc đời đời và đây là con đường đến Chúa thật sự, con đường duy nhất là chân lý mang đến hạnh phúc đời đời.
Mỗi Kitô hữu cũng có sứ mạng trả lời cho câu hỏi đó bằng chính cuộc sống của mình. Chàng trai trong tin mừng hôm nay biết con đường nhưng còn mê của cải quá nên khó vào Thiên đàng. Chúa nhìn anh thương anh nhưng tiếc xót cho một linh hồn còn qúa dính bén thế gian. Chúng ta trong khoảnh khắc nào của cuộc sống, cũng làm như không có sự sống đời đời coi mình làm chủ của cải thay vì chỉ là quản lý, coi như sống mãi ở trần gian này thay vì coi như cõi tạm quên mất ý nghĩa đích thực của cuộc sống chỉ là sửa soạn, là hành trình cho cuộc sống viên miễn trong hạnh phúc của nước Chúa.
Mỗi lần đi tham dự thánh lễ ta muốn nói với Chúa là chúng ta tin Chúa sẽ cho ta hạnh phúc đời đời miễn là chúng tha thực thi như lời thánh Phao lô: hưởng thụ trần gian như không hưởng thụ, để chỉ là người lữ hành trên đường về quê trời. Giáo Hoàng Gioan Phaolô viết: “Người thời nay cần quay về với Chúa một lần nữa để nhận được câu trả lời của người về những càu hỏi về tốt và xấu.”
Cô Elizabeth Assis là nhân viên thu ngân, nhân viên tính tiền của một hiệu bán quần áo tại Sao: TN28-B55
Cô Elizabeth Assis là nhân viên thu ngân, nhân viên tính tiền của một hiệu bán quần áo tại Sao Paulo, Ba Tây, quốc gia vô địch túc cầu thế giới kỳ năm 94. Cô đã bị dị ứng trong nhiều cơ quan trên thân thể: luôn sổ mũi, mắt mờ, và có cảm giác như kim chích khắp nơi trên cơ thể. Cô đã cố tìm nguyên do gây ra tình trạng dị ứng đó, cô nói: “Tôi đã quét bụi, giặt thảm trải nhà, trồng lại các loại cây cối khác trong vườn, đổi hết quần áo... Vậy mà vẫn không hết bị dị ứng.”
Cùng đường, cô không thể đến sở nữa, đành phải ở nhà. Nhưng điều ngạc nhiên là cũng từ đó, từ khi cô ở nhà, thì bệnh dị ứng bớt dần rồi dứt hẳn.
Bác sĩ của cô cuối cùng đã phát hiện rằng cô bị một loại dị ứng khá đặc biệt, đó là dị ứng với tiền bạc, những đồng tiền nhỏ, mực và bụi bẩn trên tiền giấy đã gây một thứ phản ứng mà cơ thể của cô không chống lại được.
Hiện nay Elizabeth chỉ được dùng cheque (ngân phiếu) thay tiền, và nếu vô ý đụng phải bất cứ thứ tiền gì là lập tức trong người lại cảm thấy khó chịu, phải dùng đến thuốc ngay. Cô Elizabeth tâm sự: “Từ nay tôi phải xa lánh tiền bạc. Mà khổ thay, đó là cái mà tôi yêu nhất trong cuộc đời.”
Đức Cha Bùi Tuần đã viết: “Tiền không bao giờ nói, nhưng bao giờ cũng có tiếng nói về tiền. Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền... Tiền dù rách, dù hôi, vẫn được quí trọng. Dù đẹp dù xấu, tiền vẫn được người ta dành cho nhiều cảm tình.” Đâu đâu đồng tiền cũng nắm một vai trò quan trọng, chúng ta quá rõ sức mạnh của tư bản ở nước Mỹ. Đâu đâu tiền bạc cũng được coi là một giá trị làm nên mọi giá trị. Người có nhiều tiền được kính nể, nghề có nhiều tiền được coi là quí. Người khéo kiếm tiền được coi là người giỏi.
Nếu giàu sang là điều đáng ước mơ đáng kiếm tìm, vậy tại sao Chúa lại đưa ra lời cảnh cáo đáng suy nghĩ: “Những người giầu có vào nước thiên đàng khó biết bao... Những kẻ cậy dựa vào tiền bạc thật khó mà vào nước Thiên Chúa. Con lạc đòa chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa.”
Thật sự của cải tiền bạc tự nó không phải là một điều xấu: nó còn là một sự cần thiết giúp con người sống xứng đáng với nhân phẩm.
Tuy nhiên tiền bạc vẫn là con dao hai lưỡi như chúng ta thường nghe: “Tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu.” Lời Chúa nhắn nhủ: “Của bay ở đâu lòng bay ở đó,” đã cho thấy sự nguy hiểm dể dính bén của những người nhiều tiền lắm của.
Bài Phúc âm hôm nay cho thấy anh thanh niên giầu có chạy lại quì xuống trước mặt Chúa và hỏi: “Con phải làm gì để được sống đời đời?” Đó là điều không mấy người giầu có chịu làm.
Anh là một người tốt, anh đã chu toàn các giới luật Chúa truyền một cách đầy đủ, và tâm hồn anh đang khao khát cái gì cao hơn, xa hơn. Cuộc sống vật chất đầy đủ không làm anh thỏa mãn, hạnh phúc. Anh muốn sống đời đời và đang kiếm tìm, đang mong chờ tiếng Chúa nhắn nhủ. Thấy con người anh và thiện chí của anh, Chúa âu yếm và đem lòng thương yêu mời gọi anh theo Ngài. Nhưng thật đáng buồn, đáng thương, anh đã bỏ đi khi nghe Chúa bảo bán tất cả của cải, bố thí cho kẻ nghèo rồi đến theo Chúa. Phúc âm còn ghi lại, nét mặt anh sụ xuống và buồn rầu bỏ đi vì anh có nhiều của cải. Lòng dính bén của cải đã làm cho anh không có can đảm theo Chúa, đã làm cho anh không quảng đại được để dấn thân hy sinh cho tha nhân. Sự ham muốn dính bén của cải trần thế đã làm cho anh xa Chúa, và đó là điều đáng buồn, đáng tội nghiệp.
Tại một đạo việc trong dãy Hy mã lạp sơn có khá đông người Âu Mỹ đang theo học với đạo sư. Trong một buổi đàm đạo, một môn sinh hỏi: “ Có tiêu chuẩn nào giúp để biết được mình đang sống gần kề hay cách xa Thượng đế không? “ Vị đạo sư trả lời: “Câu hỏi này hay lắm, và dĩ nhiên có tiêu chuẩn chứ, nhưng trước hết, tôi muốn hỏi các bạn một câu. Các bạn có bao nhiêu ham muốn?”
- Ham muốn loại gì?
- Bất cứ loại gì, thí dụ như muốn có căn nhà xinh đẹp, muốn có xe hơi, muốn có nhiều tiền, muốn có bạn gái duyên dáng dễ thương, bạn trai khỏe mạnh hùng tráng... Các bạn hãy lấy giấy bút ra, ghi chép tất cả những ham muốn mà các bạn đang ao ước rồi đếm xem bạn có bao nhiêu ham muốn ?
Sau khi mọi người ghi chép xong, đạo sư lên tiếng hỏi từng người: “Bạn có bao nhiêu ham muốn?”
- Tôi có ba mươi sáu cái.
- Tôi có sáu mươi điều.
- Tôi có mười tám điều.
- Được lắm, bây giờ các bạn hãy tưởng tượng rằng có một cây thước đo bề dài các điều mà các bạn ham muốn và các bạn đã có tiêu chuẩn rồi đó,
- Chúng tôi không hiểu?
- Này các bạn, cái bề dài của danh sách ham muốn, đó chíng là khoảng cách xa giữa bạn và Thượng đế. Danh sách ham muốn càng dài bao nhiêu thì khoảng cách giữa bạn và Thượng Đế càng xa bấy nhiêu. Nói một cách khác: Khoảng cách giữa ta và Thượng đế có thể tượng trưng bằng con số của các ham muốn mà ta có trong lòng. Chúng ta càng ham muốn nhiều, càng để lòng dính bén của cải nhiều thì khoảng cách giữa ta và Thiên Chúa càng xa bấy nhiêu. (Minh triết trong đời sống, trang 120-121)
Một ông đi dạo ở bãi biển và may mắng đụng chạm được một cây đèn thần, vị thần xuất hiện và hứa sẽ ban cho ông một điều ông xin. Quí ông bà anh chị em biết ông xin gì không? Ông xin cho có một tờ báo cùng ngày một năm sau đó có trang đăng các cổ phẩn (stocks) có giá trị của các công ty. Ông vừa ước xong, vị thần biến mất, và trong tay ông có tờ nhật báo của một năm sau đó. Với lòng tham, ông quyết định tìm dò xem các cổ phần nào khá, có lời nhiều để đầu tư, để sinh lợi, vì đã may mắn biết trước được tương lai. Nhưng khi mở sang trang kế tiếp ông tiu nghỉu buồn rầu khi thấy tên mình được đăng ở đầu trang trong mục (Death notices) loan báo những người chết hôm trước.
Khi một nhà triệu phú chết, người ta tò mò hỏi: “Ông ta đã để lại những gì vậy?” Vị luật sư thừa hành đã trả lời một câu đầy ý nghĩa: “Ông đã để lại tất cả. Ông đã để lại tất cả.”
Nếu một năm sau đây, chúng ta chết rồi tên mình được đăng trên báo và khi chết chúng ta sẽ để lại tất cả, ngày hôm nay và những ngày kế tiếp đây chúng ta sẽ làm gì và suy nghĩ ra sao?
Hơn gì nhau giữa một người có 30 tỷ dollars và một người có 1 tỷ dollars, khi mỗi người đều chỉ: TN28-B56
Hơn gì nhau giữa một người có 30 tỷ dollars và một người có 1 tỷ dollars, khi mỗi người đều chỉ có một bụng để ăn, chỉ có 24 giờ để ăn chơi, cũng không thể ngủ quá 24 giờ một ngày, cũng chẳng thể sống quá 100 năm! “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người hỏi Đức Yêsu câu này quả là người có đầu óc, và cũng có thể được coi là người khôn ngoan.
1. Khôn ngoan qúy hơn vàng bạc
Đã có thời người Do Thái tự hào với lề luật của mình: thập giới là 10 lời Thiên Chúa ban cho dân, là những lời giúp dân thấy được điều hay lẽ phải để theo, điều dữ phải tránh. Thập giới đã mang lại cho dân bình an. Quả vậy, ba giới răn đầu tiên về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp con người không tin vào bất cứ thần linh nào khác; và điều này giúp con người được tự do không phải sợ hãi bất cứ uy quyền nào, vì Thiên Chúa là Đấng tối cao trổi vượt tất cả thần thánh. Thờ phượng Ngài, được Ngài yêu thương và bảo vệ, thì còn sợ ai nữa?
Tuân giữ ba giới răn về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp người ta sống an bình. Những giới răn tiếp sau, từ giới răn thứ tư đến thứ mười, giúp người ta đối xử công bình với tha nhân: bảo vệ quyền lợi của tha nhân, cũng là bảo vệ quyền lợi của chính mình, cũng là bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người. Con người có một số quyền căn bản mà người khác không được phép tước đoạt, cho dù nhân danh bất cứ điều gì chăng nữa, vì nó gắn liền với phẩm giá con người. Tôn trọng quyền lợi của người khác, và người khác tôn trọng quyền lợi của mình, làm cho xã hội an ninh, và con người sống an bình. Khôn ngoan là tuân giữ luật Thiên Chúa.
Đức Giêsu xuất hiện như một giá trị. Tin Mừng cho thấy người giầu có này truy tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp; anh ta mong muốn điều trường tồn tuy dù anh ta giầu sang nhiều của. Anh ta có mong ước tốt lành; điều này đã làm Đức Giêsu rung động. Ngài nhìn anh đem lòng yêu mến! Ngài nói: anh chỉ thiếu một điều. Đi và bán tất cả những gì anh có mà cho kẻ nghèo, rồi đến theo tôi. Đi theo Đức Giêsu, là điều khôn ngoan và giá trị hơn cả giầu sang.
2. Bán hết của cải mà cho người nghèo
Để có thể đi theo Đức Giêsu, phải bán những gì mình có mà cho kẻ nghèo. Nếu không dứt khoát đi theo Chúa bằng bán tất cả, thì e rằng sẽ quay đầu trở lại. Nếu không bán tất cả, khi gặp cảnh túng nghèo không có gì để ăn, phải tuốt lúa dọc đường mà ăn cho đỡ đói, anh ta sẽ quay về. Đức Giêsu cũng có lúc đói lúc khát, cũng mong cây vả bên đường cho một trái để ăn mà cũng không có. Bao nhiêu lần trong đời, Đức Giêsu đã ngủ ngoài trời. Đã bao nhiêu lần Đức Giêsu và các tông đồ đã qua đêm ở trên vườn dầu! Nếu không từ bỏ tất cả, nếu không từ bỏ tiền của, làm sao có thể theo Đức Giêsu cho được! Đức Giêsu đã sống nghèo, vì Ngài thấy giá trị của cái nghèo. Ngài cũng muốn người khác chọn lựa như Ngài. Hãy bán hết những gì anh có mà cho kẻ khó, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo tôi.
Theo Đức Giêsu là một điều gì quý hơn cả vàng bạc, mà anh thanh niên giầu có và nhiều người không hiểu được. Người ta thích tiền, nghĩ rằng tiền của có thể mang lại cho người ta nhiều điều nếu không muốn nói là tất cả: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của tuổi già, cái đà của danh vọng, cái lọng để che thân, cán cân của công lý”. Đức Giêsu không nghĩ như vậy, Ngài lại cho rằng tiền của làm người ta khó vào Nước Trời.
Với Đức Giêsu, điều gì quý hơn tiền của? Tiền của, là điều người ta sở hữu, điều người ta có; còn nghèo là tình trạng một người không có tiền của, không coi tiền của là quan trọng. Không có gì, cũng có thể là tình trạng của một người tự do. Một người đeo đầy vàng trên tay, và một người không có gì trên tay, bàn tay nào thanh thoát và nhanh nhẹn hơn, bàn tay nào tự do hơn? Một người có của, coi trọng tiền của, phải lo giữ tiền, bất quá cũng “thủ tài chi lỗ”. Một người nghèo có cái thú và tự do của người nghèo mà người giầu không thể có được. Nếu người giầu luôn có những người ham tiền mà nghèo đeo bám để xin xỏ, cách này hay cách khác, thì người nghèo quả thật là người có cái thú tự do mà người giầu không có được.
3. Hãy đến theo tôi
Theo Đức Giêsu, là điều quý: không chỉ là không có gì như một lối sống thanh thoát, mà chính yếu là trở thành một thực tại cao quý hơn. Sống theo Đức Giêsu là một giá trị. Các tông đồ khi theo Chúa vẫn còn ham danh lợi, còn tranh nhau ngồi bên phải bên trái, tranh nhau “làm lớn” ngay khi thầy mới báo tin Ngài sẽ bị bắt bị giết; nhưng các tông đồ đã ra khác vì các ngài được diễm phúc sống với Đức Giêsu, sống bên một người thanh thoát với tất cả, tự do với tất cả, và phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Các tông đồ nhận ra thầy mình thực sự là ai, một khi các ông biết Đức Giêsu đã thực sự sống lại. Ngài là Đấng rất đặc biệt của Thiên Chúa, người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, người được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngôn từ diễn tả về chân tướng của Đức Giêsu thời các tông đồ chưa rõ ràng; từ ngữ thông dụng để chỉ một người rất đặc biệt là tiên tri, Đấng Kitô (Đấng được xức dầu); cũng có một vài từ ngữ đặc biệt khác như con người, con người ngự bên hữu Thiên Chúa, người tôi tớ của Thiên Chúa, con chí ái của Thiên Chúa; và mãi trễ sau, công đồng chung Nicea (325) dùng từ ngữ triết học diễn tả chân tướng của Đức Giêsu: đồng bản tính với Thiên Chúa: “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”.
Thời Đức Giêsu đang tại thế, người ta khó hiểu tại sao Đức Giêsu lại đòi người nhà giầu này bỏ tất cả để theo Ngài, mặc dù thực tế các tông đồ cũng là những người đã bỏ tất cả mà theo Đức Giêsu. Với các tín hữu ngày nay, điều này dễ hiểu hơn khi người ta biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu thực là Người từ cõi trên, có nguồn gốc thần linh, thì việc đòi người ta bỏ tất cả để đi theo Ngài là điều có thể hiểu được. Các tông đồ cũng chỉ hiểu về chân tướng của Đức Giêsu khi Ngài đã từ cõi chết sống lại, khi các ngài đã được ơn Thánh Thần, và được dẫn vào sự thật trọn vẹn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ 1. Tại sao con người của mọi thời đại ham thích có nhiều tiền của? 2. Tiền của quan trọng đến mức nào để giúp con người hạnh phúc? 3. Tại sao theo Đức Giêsu lại có thể giúp con người sống hạnh phúc?
Lời mời gọi xuyên suốt của Tin Mừng đó chính là bước theo Đức Kitô Đấng Là Đường, Sự Thật và Sự: TN28-B57
Lời mời gọi xuyên suốt của Tin Mừng đó chính là bước theo Đức Kitô Đấng Là Đường, Sự Thật và Sự Sống. Cách riêng, sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật hôm nay muốn chúng ta tập chú vào việc theo Đức Kitô bằng con đường từ bỏ, bằng sự quảng đại biết chia sẻ, trao ban và tận hiến. Đó cũng có nghĩa là chấp nhận tự bóc lột chính mình để trở nên giàu có nơi Thiên Chúa và làm phong phú cho tha nhân. Đây quả là một cuộc vượt qua anh hùng cần sức đỡ nâng của Thiên Chúa, cần niềm trông cậy vững vàng để con đường dẫn tới Thiên Chúa và đến với anh em không bị chắn lối bởi sự “giàu có thế gian”, để ánh sáng tình yêu và chân lý không bị vụt tắt trong cõi lòng vì những chướng ngại của gia tài thế tục.
Giờ đây…….
Giảng Lời Chúa:
1. Khi con người hăm hở đi tìm giàu có:
Trong những năm vừa qua, trên những nẻo đường Đất Nước, người ta hay nói tới hai loại “đi tìm” được rất nhiều người hưởng ứng: Tìm vàng và tìm trầm. Bởi chưng được vàng hay được trầm đều là được của cải, sẽ dẫn tới giàu sang phú quí. Trong mấy tháng vừa qua ở cái đất Phú Yên nầy đi nơi nào cũng nghe kháo láo về một dân đi điệu trúng Trầm đậm ở Hòa Vinh. Nghe người ta được trầm mà trong lòng ai ai cũng tỏ ra háo hức. Quả thật của cải, sự giàu sang có một mãnh lực thu hút đến diệu kỳ. Chẳng thế, mà có không biết bao người vì ham mê của cải đã táng tận lương tâm, đã không từ một thủ đoạn gian ác nào để có cho bằng được. Bao nhiêu vụ tiêu cực bê bối tham nhũng của cán bộ nhà nước được báo chí phanh phui trong những năm tháng qua phải chăng cũng do nguyên nhân chính yếu là ham mê của cải, ham muốn giàu sang. Có tiền mua tiên cũng được mà ! Hay sung sướng hả hê như tên trọc phú được Chúa Giêsu hư cấu trong câu chuyện ngụ ngôn nơi tin mừng Ma-cô 12, 16-21:
“Có một người phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng:”Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu !” Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế nầy: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã!”
Quả thật, nếu hăm hở đi tìm của cải, sự giàu có để rồi dừng lại tại cái biên giới của sự hưởng thụ ích kỷ và ăn chơi phóng đãng, thì quả thật, đó là một sự giàu có đáng bị lên án như chính Chúa Giêsu đã làm: "Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có.." (Lc 6, 24), một sự giàu có được Ngài nhận định cách rất bi quan: "Người giàu khó vào Nước Trời" (Mt 19, 23-24).
Mà không phải chỉ dừng lại ở chỗ ăn chơi phóng đãng và ích kỷ hưởng thụ, sự giàu có bị Thiên Chúa kết án, bị Đức Kitô điểm mặt còn là sự giàu có vênh váo bất cần Thiên Chúa và kiêu căng bũn xĩn xa cách anh em đồng loại:
"Vì Dân Ta đã làm hai điều bất hảo:chúng đã bỏ Ta, mạch nước hằng sống, để đào cho mình những cái bể rò, không chứa được nước" (Gr 2, 13).
- La-da-rô nghèo khổ, thèm ăn những thức ăn trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho no nhưng chẳng ai cho (Lc 16, 19-21).
Như vậy, liệu còn có sự giàu có nào đáng được trân trọng và nỗ lực kiếm tìm hay không ?
Có lẽ câu chuyện “người thanh niên giàu có đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mác-cô vừa mới được công bố hôm nay: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” là một câu trả lời hết ý !
2. Một sự giàu có đích thực đáng phải đi tìm:
Trong ánh mắt của Đức Kitô, người thanh niên “có nhiều của cải” lại “biết tuân giữ các lề luật ngay từ thuở nhỏ”, nhất là các lề luật nhân bản “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ” quả thật anh ta đã bước gần tới ngưỡng cửa Nước Trời, bước gần tới cái giàu có trọn lành trọn hảo mà không phải ai cũng có thể đạt được. Chính vì thế, “Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.
Nhà chú giải kinh thánh J.Putin trong tác phẩm “Jésus, l'histoire vraie” đã nhận xét thâm thúy trích đoạn Tin Mừng nầy bằng những lời sau:
Một ánh mắt đầy âu yếm và quý trọng, được diễn tả ngay thành một lời mời gọi tha thiết: "Anh chỉ có thiếu một điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi".
Đức Giêsu đề nghị anh đi xa hơn nữa trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, con đường tuy gồ ghề nhưng chỉ là nối tiếp con đường anh đã đi từ thuở nhỏ để được sự sống đời đời làm gia nghiệp; đó là: từ bỏ của cải để cho người nghèo.
Nhưng điều hoàn toàn mới nằm trong lời mời gọi ở câu kết: "Rồi hãy đến theo tôi". Đức Giêsu mời gọi người Do thái trung thực này vượt lên khỏi đức tin của cha ông để gắn bó với Người, là trở nên môn đệ của Người.
"Nghe lời đó", cuộc gặp gỡ đầu tiên đến đây đã diễn tiến đầy hứa hẹn, bỗng đột ngột chấm dứt: "Người thanh niên sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi". Thánh sử cho ta biết, bởi vì "anh ta có nhiều của cải".
"Trên đường đi theo Đức Giêsu, người thanh niên giàu có này vấp phải một chướng ngại, đó là lòng gắn bó với gia tài sản nghiệp. Của cải như tấm kính mờ đã che lấp ánh sáng, lúc ánh sáng muốn thâm nhập vào lòng anh. "Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi". Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến anh. Nếu niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng tới Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui to lớn thế nào thì giờ đây, thay vào đó, là một nỗi buồn sâu xa không kém" (Jésus, l'histoire vraie", Centurion, tr-234).
Như vậy, có một một sự giàu có đáng phải bỏ công kiếm tìm, cho dù phải trả giá đắt đó chính là “đáp lại tiếng gọi của Đức Kitô”, đó chính là biết sẵn sàng sẻ chia bác ái, đó là bỏ lại đằng sau tất cả để tiến bước trên con đường của Tin Mừng; đó cũng chính là sự khôn ngoan đích thực như sách Khôn Ngoan đã ví von: “vì vàng trên cả thế giới so với Đức Khôn Ngoan cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.” (BĐ 1)
3. Đừng để ánh sáng vụt tắt trong cõi lòng !
Người thanh niên giàu có vừa đi khỏi, Đức Giêsu liền đưa mắt nhìn các môn đệ đang "ở chung quanh Người".
+Người tuyên bố: "những người giàu có thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao". Người còn làm cho các môn đệ sững sờ hơn khi nhấn mạnh theo kiểu Phương Đông: "Con lạc đà chiu qua lỗ kim còn khó hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa".
+J.Putin giải thích: "Các môn đệ càng thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giàu càng có nhiều thuận lợi. Có nhiều tiền thì người giàu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo... Dường như có một thoả thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giàu. Như vậy, giàu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa đó sao?" (Sđd, trang 234).
Bởi đó mới có câu hỏi: thế thì ai mới có thể được cứu rỗi? "Nếu người giàu không được cứu rỗi, thì còn ai có thể được?". J.Putin giải thích tiếp: "Nếu họ theo sát lối tư duy của đạo truyền thống, họ là những người không có đủ tiền mua những lễ vật dồi dào, cũng không mua được những bộ chén dĩa cần thiết để giữ luật lệ về sạch sẽ. Còn người giàu, họ có thể mà!" (Sđd, tr-235).
+Nhìn các môn đệ một lần nữa Đức Giêsu nói thêm: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được". Đây là lời tuyên xưng niềm tin-cậy đã ghi một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Kitô giáo ngay từ buổi đầu. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Apraham về việc Sara sẽ làm mẹ, dù bà hiếm muộn và đã già: "Có phép lạ nào mà Chúa không thực hiện được?". Và thiên thần đã chẳng tuyên bố với Đức Maria về việc bà Êlisabét sắp sinh con trong lúc tuổi già: "Bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được" đấy sao? Chúng ta không được cứu độ bằng việc thực thi các lề luật, hoặc nhờ những của lễ sang trọng quý giá, hay nhờ việc từ bỏ, hy sinh anh hùng; ơn cứu độ là ân huệ cần phải đón nhận, chính Thiên Chúa đưa ta vào Nước Trời, ân sủng của Người có thể làm nên những việc lạ lùng. Câu nói trên của Đức Giêsu là một lời cổ vũ làm cho cái khó của sứ điệp trước giảm nhẹ đi.
Và cũng từ lời phát biểu đó, chúng ta mới thấy tỏa sáng lên chân lý khó hiểu và ngược đời của tin Mừng Tám Mối Phúc Thật: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ”.
Câu chuyện kết thúc khi Phêrô hỏi: "Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Đức Giêsu hé mở cho thấy niềm vui "gấp trăm lần", những gì đã từ bỏ, niềm vui ấy bất cứ ai đã bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng sẽ cảm nghiệm được "ở đời này" và "đời sau". Nhưng Người cũng không che dấu những cuộc "bách hại" đang chờ họ. J.Putin kết luận: "Người môn đệ phải tham gia vào việc rao giảng Tin Mừng với Đức Giêsu... Nhưng cũng như Người, giữa niềm vui về những điều thiện hảo của Nước Chúa, họ phải chuẩn bị để chịu những cuộc bách hại. Ngay từ buổi đầu, Đức Giêsu đã đào tạo họ theo chiều hướng này! Phạm trù để phân xử đều bị đảo lộn. Người giàu mà ta trông thấy đang ở chỗ nhất, nay bị đưa xuống chỗ rốt hết trong Nước Trời. Còn môn đệ và người nghèo được mời lên mời vào chỗ nhất, sau khi đã cùng Thầy mình trải qua thử thách của sự bách hại" (Sđd, tr-235).
Tóm lại, sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm Nước Thiên Chúa, tìm kiếm sự trọn lành thông qua con đường do chính Chúa Giêsu đề nghị: con đường của khó nghèo, khiêm hạ, con đường biết quảng đại bóc lột chính mình, bán đi những của cải cồng kềnh, những gia tài nặng nề che chắn lối đi tới Thiên Chúa và nẽo đến với tha nhân. Đó chính là sự từ bỏ và hy sinh của một trái tim anh hùng và quảng đại, một trái tim thà bị rướm máu vì mất tất cả chứ không thể để ánh sáng vụt tắt đi vì bị bao vây bởi những gia tài và của cải trần tục như chàng thanh niên Do Thái hôm xưa: “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”.
Trong lịch sử Hội Thánh đã có biết bao con người nam cũng như nữ đã mạnh mẽ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu “hãy đến theo tôi” sau khi đã anh hùng hy sinh tất cả, cho đi tất cả, cả mạng sống của mình.
Người ta nói rằng: Bất kỳ ai xin vào Tu hội Nữ Tử Bác Ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đều nhận được một tờ giấy có ghi câu hỏi này: Tại sao bạn muốn trở nên một Nữ Tử Bác Ái? Các bạn trẻ thường trả lời:
- Con muốn tìm một đời sống cầu nguyện
- Con muốn sống đời sống khó nghèo
- Con muốn hiến thân phục vụ người nghèo
Và một trong các bạn trẻ đã viết như sau: “Thưa mẹ, đã nhiều lần con như nghe thấy tiếng Chúa Giêsu mời gọi con tận hiến trọn đời sống cho Ngài. Con đã suy nghĩ nhiều, tự hỏi chính mình và các vị linh hướng xem Chúa muốn con vào dòng nào. Cuối cùng con đã quyết định chọn tu hội của Mẹ vì con muốn có cơ hội từ bỏ mọi giầu sang trần thế, để bước vào cuộc sống nghèo khó và hy sinh.”
Và không chỉ nghèo khó hy sinh cho riêng mình nhưng là để sẻ chia và làm cho kẻ khác được sống và sống phong phú, như sự hy sinh của ông họa sĩ già trong câu chuyện “chiếc lá cuối cùng” của J. London:
Có một người nữ bệnh nhân đếm từng ngày sống thoi thóp của mình bằng những chiếc lá rụng dần từ một cành cây nhìn thấy qua khung cửa sổ. Đến khi trên cành chỉ còn một chiếc lá duy nhất, cô nói với người thân của mình: “Nếu đêm nay, chiếc lá cuối cùng không còn nữa, em sẽ chết!” Ở phòng trọ bên dưới, có một hoạ sĩ tình cờ nghe được. Nửa đêm, giữa trời tuyết lạnh lẽo, ông bắc thang vẽ một chiếc lá vàng ở bức tường sát cành cây khô. Lúc hoàn tất kiệt tác cũng là lúc người ta thấy ông chết trong băng giá. Nhưng sáng hôm sau, người bệnh thức dậy, nhìn lên cành cây và reo lên: “Em vẫn còn có thể sống một hôm nữa!”
Không biết cô gái ấy sống bao nhiêu nữa, nhưng điều chắc chắn là người họa sĩ đã nằm xuống trong hạnh phúc tuyệt vời. Ông đã dám sống từ bỏ, đã quảng đại hy sinh mạng sống mình để kéo dài sự sống cho người khác.
Và chúng ta tin rằng, những nghĩa cử hy sinh như thế sẽ làm cho những trái tim trở thành bất tử, bởi vì ánh sáng không bao giờ vụt tắt trong cõi lòng của họ.
Cuộc gặp gỡ giữa Ðức Giêsu và người thanh niên giàu có mà bài Phúc Âm hôm nay tường thuật lại TN28-B58
Cuộc gặp gỡ giữa Ðức Giêsu và người thanh niên giàu có mà bài Phúc Âm hôm nay tường thuật lại, đã trình bày và làm nổi bật nội dung đời sống Kitô giáo thực sự là gì ! Câu hỏi: « Tôi phải làm gì để được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp ? » là một câu hỏi về một cuộc sống chân chính, hiển đạt, thành công và được chúc phúc thực sự. Và người nêu lên câu hỏi có lẽ đã cảm nghiệm được rằng cuộc sống thành đạt và được chúc phúc mà anh ta nói đến, chắc chắn có tương quan với con người Ðức Giêsu. Anh ta biết rằng những lời Ðức Giêsu nói ra có thể giúp cho anh trong cuộc sống. Anh đã được Ðức Giêsu cảm hóa bởi các giáo lý chân thật về Nước Trời đã được Người công bố một cách đầy ấn tượng, vì thế anh ta đã mạnh dạn thưa chuyện với Người và hỏi: « Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì ? »
Và Ðức Giêsu thay vì trả lời trực tiếp thẳng vấn đề mà người thanh niên giàu có đang muốn biết là anh ta « phải làm gì ? », Người đã đi thẳng vào trọng tâm vấn đề mà câu hỏi của người thanh niên đã vô tình nêu lên, đó là sự « nhân lành ». Vì sự nhân lành thánh thiện đem lại cho cuộc sống con người ý nghĩa đích thực, là chìa khóa mở cửa bước vào đời sống vĩnh cửu. Ðàng khác câu trả lời của Ðức Giêsu cũng đã làm cho ta cảm nhận được sự dửng dưng của Người trước lời xưng hô đầy kính nể của người thanh niên: « Thưa Thầy nhân lành ». Bởi vì Người không muốn trở nên thần tượng hay « siêu nhân » cho thiên hạ kháo láo khâm phục. Người hướng tầm nhìn và sự khâm phục của con người đến chính Ðấng mà sứ điệp cũng như cả cuộc sống của Người nhắm tới như là mục đích tối hậu: Ðó là Thiên Chúa ! Qua đó Ðức Giêsu đã thẳng thắn khẳng định rằng lòng khao khát được đời sống vĩnh cửu làm gia nghiệp không dừng lại nơi một lời xưng hô trân trọng, như « thưa thầy nhân lành » hay nơi những lời kinh đầu môi chóp lưỡi trống rỗng, nhưng là phải thực sự trung thành sống đời Kitô hữu chân chính, là thực thi một cách quyết liệt và bền bỉ thánh ý của Thiên Chúa đã được ghi rõ trong Thánh Kinh !
Vì thế, khi chàng thanh niên giàu có đến cùng Ðức Giêsu và chàng muốn nghe Người nói về một điều đặc biệt, chứ không phải về những điều mà ai cũng có thể nói được: Về điều kiện để được hạnh phúc đời đời, Chúa Giêsu đã nhắc cho người thanh niên cần phải sưu tầm những điều kiện đó qua lời Thiên Chúa đã phán dạy trong Kinh Thánh. Vì thế, Người đã hỏi anh: « Chắc hẳn anh biết các giới răn của Thiên Chúa ? » Và Người đã nêu lên một ít giới răn có liên quan đến các cận nhân ! Có lẽ trong thâm tâm, người thanh niên kia đã tự hỏi: Chỉ có vậy thôi sao ? Còn điều mới mẻ, điều chưa hề được nghe mà Ðức Giêsu mang đến là gì ?
Với lời « chắc hẳn anh biết các giới răn của Thiên Chúa », Ðức Giêsu muốn nói rằng trước hết điều kiện để được thừa hưởng Nước Trời tùy thuộc vào việc chu toàn những bổn phận trong cuộc sống cụ thể hằng ngày mà giới răn Thiên Chúa đã dạy. Và khi được biết người thanh niên đã cẩn thận giữ trọn các giới răn đó từ lúc còn thơ dại, Ðức Giêsu đã tỏ vẻ quí mến anh và tìm cách giúp anh càng tiến xa hơn nữa trong cuộc sống trọn hảo, nên Người đã nói với anh: « Ngươi chỉ còn thiếu một điều nữa ! »
Bởi vì là Thiên Chúa chân thiện mỹ tuyệt đối, là lẽ sống, là hạnh phúc và cùng đích của con người, nên con người phải bán hết tất cả, phải loại bỏ tất cả những gì có thể gây càn trở cho con người trên đường đến cùng Thiên Chúa. Ở đây người ta có thể nói được rằng vương quyền của Thiên Chúa cũng quyết liệt và nghiêm trọng như sự chết vậy. Vâng, những gì chúng ta không có thể mang theo sau khi chết, thì đứng trước vương quyền Thiên Chúa đang đến dần, chúng ta cũng phải buông bỏ tất cả mọi sự, chứ không thể níu kéo lại được bất cứ thứ gì.
Còn lời « hãy bán hết tất cả những gì ngươi có » có nghĩa là trong cuộc sống của ngươi với Ðức Giêsu chỉ còn lại một điều quan trọng duy nhất: Ðó là Thiên Chúa ! Vì thế, chúng ta phải luôn luôn tính lại sổ sách đời mình và phải tự hỏi chúng ta còn cần phải « bán hết » những thứ gì nữa. Dĩ nhiên, ở đây chúng ta không chỉ nghĩ đến những của cải vật chất bên ngoài mà chúng ta thường để lòng dính bén vào mà thôi, nhưng cả đến những điều làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa, chẳng hạn: Các ý nghĩ đen tối, các tư tưởng xấu xa sai lầm, các bạn bè xấu, các cuộc vui chơi quá độ, các yếu đuối và các tội lỗi, v.v…
Nhưng chỉ « đem bán hết tất cả » một mình mà thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải can đảm theo Ðức Giêsu nữa: « … rồi hãy đến theo Ta ! » Vậy, việc « đem bán hết mọi sự » chưa phải là mục đích, nhưng là con đường dẫn tới mục đích. Mục đích là liên kết và hiệp thông với Ðức Giêsu, vì Thiên Chúa hằng hiện diện trong Người và nhờ Người chúng ta được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
Nhưng điều Ðức Giêsu đòi hỏi không dễ dàng đối với những con người bình thường, tức những người còn đang bị ràng buộc chặt chẽ với vật chất, đang mang trong mình nhiều tham vọng trần thế. Ðiều đó được chứng minh qua sự phản ứng của người thanh niên giàu có: « Nghe xong lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải », cũng như qua chính thái độ của các môn đệ: « Nghe Người nói thế, các môn đệ đâm ra sững sờ… ».
Tuy nhiên, Ðức Giêsu vẫn không hề thay đổi lập trường, không hề giảm thiểu sự gắt gao của những đòi hỏi đó. Người chỉ mở ra một chân trời mới, để những kẻ còn yếu đuối không mất hết hy vọng vào hạnh phúc vĩnh cửu khi Người nói: « Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể ! » Ðiều đó có nghĩa là: Ðiều Thiên Chúa đòi hỏi ta, Người sẽ ban cho ta !
Nói tóm lại, trở thành người Kitô hữu thực sự, có nghĩa là phải gặp gỡ và tiếp cận với Ðức Giêsu cũng như để cho Người cảm hóa, và khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Ðức Giêsu. Trở thành người Kitô hữu thực sự có nghĩa là trong cuộc sống cụ thể hằng ngày biết chu toàn các giới răn của Chúa; là qua Ðức Giêsu, được tham dự vào đời sống vĩnh cửu của Thiên Chúa ngay ở đời này và không để cho mình dính bén vào sự giàu có vật chất và những giá trị trần thế. Sau cùng, trở thành người Kitô hữu thực sự, không nhất thiết là phải ăn chay đánh tội, nhưng là hãy tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa; hãy để cho Thánh Thần của Người tự do tác động trong cuộc sống mình và luôn ngoan ngoãn bước đi theo sự hướng dẫn dìu dắt của Người.
Vậy, điều Ðức Giêsu muốn nói qua bài Phúc Âm hôm nay có thể được tóm tắt như sau: Trong cuộc sống, chúng ta đừng ra công tìm kiếm những gì đặc biệt mà chúng ta luôn ham muốn và theo đuổi, nhưng hằng ngày phải biết trung thành tìm kiếm và vâng theo thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là giữ trọn các giới răn của Người đã được ghi rõ trong Thánh Kinh - Mười Ðiều Răn, Tám Mối Phúc Thật, Kinh Lạy Cha, các giáo huấn của Giáo Hội, v.v… - và sống theo tiếng lương tâm. Ngoài ra còn phải can đảm bước thêm một bước cuối cùng nữa: Ðó là giải thoát tâm trí và lòng mình ra khỏi tất cả mọi ràng buộc, mọi vướng mắc và mọi dính bén vào bất cứ thứ gì không thuộc về Thiên Chúa! Vì như thế, chúng ta sẽ hoàn toàn được tự do, lòng trí và linh hồn chúng ta được thanh thoát, nhẹ nhàng và rồi chúng ta sẽ cảm nghiệm sự sống kết hiệp với Thiên Chúa thật êm ái, ngọt ngào và hạnh phúc biết dường nào !
Trong chuỗi các sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo huấn ban cho các môn đệ, phân đoạn: TN28-B59
Trong chuỗi các sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo huấn ban cho các môn đệ, phân đoạn này phù hợp với 10,1-12. Cũng như trong trường hợp ấy, ở đây, phần giáo huấn cho các môn đệ đã được thêm vào sau, bởi vì ta thấy truyện người giàu có (cc. 17-22) tự nó đã kết thúc và được khoanh vùng rõ ràng.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (10,17-22);
2) Gíáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (10,23-27);
3) Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (10,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu vừa lên đường (17): Ekporeuomenon autou eis hodon, ở dạng “thuộc-cách tuyệt đối” (absolute genitive), một lối hành văn rất quen thuộc của Mc.
- có một người chạy đến: Chỉ khi đến cuối câu truyện, ta mới biết anh này là một người giàu (10,22). Không có một ghi chú nào về tuổi của anh (x. Mt 19,20).
- quỳ xuống: Cử chỉ này cho thấy người này hết sức kính trọng Đức Giêsu (x. 1,40).
- Thưa Thầy nhân lành: Lời xưng hô kiểu này rất hiếm trong Do-thái giáo thời Đức Giêsu, cho dù từ “nhân lành” thường được áp dụng cho Thiên Chúa ở trong Cựu Ước (x. Tv 117/118,1; 1 Sb 16,34; 2 Sb 5,13). Nói chung, người Do-thái cho rằng chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là “nhân lành”, còn không ai khác là “tốt” cả (x. Rm 7,18). Tuy vậy, khẳng định này cũng không tuyệt đối, bởi vì tạo vật cũng được mô tả là “tốt” (St 1,31). Phaolô cũng nói như thế về Lề Luật trong Rm 7,12.16. Đức Giêsu cũng có nói đến người “tốt” và kẻ “xấu”.
- tôi phải làm gì: Người này lấy mình làm điểm chuẩn: “tôi cần làm gì để thủ đắc sự sống đời đời”.
- sự sống đời đời (x. 10,30): Đây là công thức của Đn 12,2 (LXX), có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Có thể coi như đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47).
- Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa (18): Không thể giải thích là có một vực thẳm giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, vì như thế thì quá mâu thuẫn với truyền thống Tin Mừng. Có thể coi đây là một phản ứng của Đức Giêsu nhằm trắc nghiệm người ấy hoặc một phương thức sư phạm nhằm gián tiếp giới thiệu về mình như là Con Người.
- anh biết các điều răn (19): Loạt các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần hai của Thập Điều (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), là phần nói về những quan hệ giữa người với người.
- đem lòng yêu mến (21; thì quá khứ aorist của agapaô): Hẳn là Đức Giêsu thấy anh này đơn sơ chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ các điều răn; Người “đem lòng yêu mến” anh. Tình thương này đi đến chỗ gọi anh làm môn đệ.
- Anh chỉ thiếu có một điều: Dù anh đã cam đoan là giữ tất cả các điều răn từ thuở bé, Đức Giêsu bảo rằng anh vẫn “còn thiếu” (hystereô, manquer, to fail).
- hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo: Câu này nên hiểu như một thách đố Đức Giêsu đề ra cho anh này hơn là một nguyên tắc chung của đời sống ki-tô hữu hoặc thậm chí, nền tảng của một bậc sống đạo cao hơn. Người ấy không được hiểu rằng mình chỉ cần làm một điều tốt hơn, là được thừa hưởng sự sống đời đời! Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm tựa an toàn để tín nhiệm vào bản thân và sứ vụ của Người: “Rồi hãy đến theo tôi”.
- anh ta có quá nhiều của cải (22): Anh đã hỏi, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu thật quá khó đối với anh.
- các môn đệ sững sờ (24): Các ông sững sờ kinh ngạc bởi vì Đức Giêsu vừa nhận định rất tiêu cực về của cải, trong khi các ông trung thành với truyền thống Do-thái giáo, coi của cải là một dấu chỉ về phúc lành của Thiên Chúa, với điều kiện là bố thí cho người nghèo. Thật ra, cái khó không nằm ở chính của cải, nhưng những cám dỗ chúng gây ra.
- con lạc đà …. lỗ kim (25): Mặc dù trong quá khứ, các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh một cái cổng lớn ở tường thành Giêrusalem, mà một con lạc đà không thể đi qua, và mặc dù có một vài thủ bản nhỏ đọc là kamilos (sợi dây thừng) thay vì kamêlos (con lạc đà), chúng ta phải kết luận rằng đây là một ví dụ về lối nói ngoa, thậm xưng (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42).
- đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được (27): Trước khi nói câu này, Đức Giêsu “nhìn thẳng vào các ông”, một công thức riêng của Mc để nêu bật tầm quan trọng của câu nói sau. Đức Giêsu nhấn mạnh tới quyền năng của Thiên Chúa và sự ký thác cậy dựa vào Thiên Chúa để được cứu độ.
- chúng con đã lìa bỏ mọi sự mà theo Thầy (28): “Lìa bỏ” (aphêkamen) ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi đã hoàn tất, còn “theo” (ekolouthêkamen) ở thì vị hoàn, để diễn tả một hành vi còn đang thực hiện.
- vì Tin Mừng (29): Chi tiết của riêng Mc, nhằm đồng hoá Đức Giêsu với Tin Mừng.
- sự ngược đãi (“bách hại”, 30): Đây cũng là một xác định riêng của Mc, để nói rằng bước theo Đức Kitô, là phải chấp nhận bị bách hại như Thầy mình đã từng bị bách hại.
- mà bây giờ, ngay ở đời này… và sự sống đời đời ở đời sau (30): Đức Giêsu hứa ban phần thưởng không chỉ vào đời sau nhưng ngay vào lúc này, khi các môn đệ được hưởng một tình bằng hữu phong phú về mặt xã hội và về mặt tôn giáo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (17-22)
Điều gì thật sự có giá trị? Điều gì thật sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết thúc với cái chết. Người giàu đến gặp Đức Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy có trách nhiệm đối với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian thế nào để không mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp Đức Giêsu, và chờ đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn tới sự sống đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ các điều răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà bảo anh về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo Người. Người chỉ cho anh thấy một nôïi dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói, nhìn xem các công việc Người làm, có đầy Thần Khí của Người, ở lại mãi mãi với Người, chia sẻ lối sống của Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh đến chỗ hiểu thế giới và đời sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống đời đời, nghĩa là cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Ở đây Đức Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi thánh ý Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều răn. Và Người cũng khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối chắc chắn đến sự sống đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn đệ đầu tiên (x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh buồn rầu.
* Giáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27)
Đức Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là “con” (chỉ có ở đây trong TM Mc) cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có những câu với nọâi dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr 18,6.
* Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30)
Trong câu trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là người ta có thể đạt được sự sống này nếu liên kết với bản thân Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ với của cải và với gia đình mình, mà gắn bó với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một người đi vào trong gia đình những người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại những của cải và các người thân thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng thời người ấy lại đang ở trên con đường chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin Mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người, người ta có thể đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá trị không thể triệt tiêu.
+ Kết luận
Khuôn khổ trong đó bản văn hôm nay được đặt vào khiến chúng ta phải lưu ý: đây là những điều xảy ra trong cuộïc hành trình Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để ở đó, Người cảm nhận sự từ bỏ đau đớn nhất, tức là cái chết. Giữa lần loan báo Thương Khó lần hai (9,30-31) và lần ba (10,32-34), chủ đề “Con đường” thúc bách chúng ta xem xét những điều kiện để theo Đức Giêsu và để được vào Nước Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng ra đón tiếp, đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để đi theo Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa có thể đưa đến những thiệt thòi trong cuộc sống hiện tại, nhưng nối kết chúng ta với ý muốn của Thiên Chúa, tức là với chính Thiên Chúa. Như thế, nền móng của sự sống vĩnh cửu đã được củng cố. Quả thật, chỉ từ sự kết hợp với Thiên Chúa, là Đấng Sống vĩnh cửu và tuyệt đối, mới trào vọt ra sự sống đời đời.
2. Mọi người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin Mừng, trước tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của người đương thời (x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng kết dệt một liên hệ mới, có được một nội dung mới cho cuộc sống.
3. Lời kêu gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng và thật ra là một đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn, đặc quyền này đã không được ban cho người ở Ghêrasa sau khi đã được giải thoát khỏi ma quỉ (5,18t). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tách mình khỏi của cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự do và có khả năng liên kết với Người.
4. Ta chỉ có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và đầy tin tưởng vào Người. Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia đình Người, ta nhận được sự sống đời đời như một ân huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu không bị hủy diệt bởi cái chết.
Có một số người nghĩ rằng giàu có là một cái họa khi nghe Chúa Giê-su tuyên bố rằng: TN28-B60
Có một số người nghĩ rằng giàu có là một cái họa khi nghe Chúa Giê-su tuyên bố rằng:
• Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi (Lc 6:24).
• Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! … Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa (Mc 10:23,25).
Nói về người giàu, thánh Gia-cô-bê cũng khắt khe với họ không kém: “Hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người” (5:1).
Bạn thấy sao? Tôi thấy lập luận của những người này cũng có lý đấy chứ! Giàu có mà sau này không được hưởng Nưóc Trời, không được hưởng phúc nơi Thiên Quốc và phải rên rỉ, than van khóc lóc … thì đúng là. .. ĐẠI HỌA chứ còn gì nữa???
Thế nhưng! Đọc Kinh Thánh kỹ một chút thì tôi thấy Chúa Giê-su đâu có ghét mấy ngưòi giàu đâu??? Trái lại Ngài đã từng có những mối quan hệ rất tốt đẹp với những người giàu có kia mà!
• Ngài đã ghé thăm, dùng bữa và ở lại qua đêm ở nhà ông Da-kêu, một viên quan thuế, thuộc loại giàu có nhất nhì ở thành Giê-ri-cô: “Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có” (Lk 19:1-2).
• Ngài đã từng thâu nhận hai đệ tử thuộc loại giàu. Người thứ nhất là Matthew, (từng là quan thuế) và người thứ hai là một người giàu sang …[ở] thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-xếp, và cũng là môn đệ Đức Giê-su (Mt 27:57) người vào xin quan Phi-la-tô cho phép tháo đanh và đem thi hài Chúa Giê-su đi án táng trong mồ.
• Ngài cũng đã từng nhận sự giúp đỡ của những người phụ nữ giàu có trong suốt thời gian công khai rao giảng ở miền Ga-li-lê (Mt 27:55). Trong số đó có một người phụ nữ đã dùng nguyên một bình dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền… [giá hơn ba trăm quan tiền] đổ trên đầu [của Ngài] (Mc 14:3-9). (Ai dám dùng loại dầu thơm giá tới hơn ba trăm quan, đắt gấp mười lần giá tiền Giu-đa bán Chúa Giê-su, để xức lên đầu người khác nếu không phải là dân nhà giàu? Bạn nghĩ phải không?)
Như vậy, giàu có là PHÚC chứ đâu phải là HỌA, phải không? Được ăn uống, được đồng bàn với Chúa Giê-su, được phục vụ Người, được Ngài binh vực, che chở và được Ngài ở lại trong nhà của mình thì là ĐẠI PHÚC đấy chứ làm gì có chuyện TAI HỌA ở đây?
Như vậy hoá ra giàu có vừa là HỌA mà cũng vừa là PHÚC à? Bạn có nghĩ vậy không? Theo tôi, giàu có tự nó không thể là PHÚC hay là HỌA hay là vừa PHÚC lại vừa là HỌA! Nhưng PHÚC hay là HỌA là còn tùy vào thái độ và cách xử dụng tiền bạc, vật chất… của chúng mình.
Thật vậy, sự giàu có, lắm tiền, nhiều bạc… sẽ là ĐẠI PHÚC cho tôi và cho bạn nếu như chúng mình sống quảng đại, rộng rãi, hào phóng và rộng tay trong những việc bác ái. Biết quan tâm, chăm sóc và nâng đỡ những người cô thế, cô thân, đơn dộc, ốm đau bịnh tật trong các nhà thương, trong các viện dưỡng lão…
Còn ngược lại, sự giàu có, lắm tiền nhiều của … sẽ là ĐẠI HỌA cho bạn và tôi nếu chúng mình:
• Có thái độ lạnh lùng, không thèm động lòng trắc ẩn, không có lòng thương xót, và nhẫn tâm, dửng dưng trước những nỗi thống khổ và nghèo túng của tha nhân giống y như Người Nhà Giàu đối xử với Anh La-da-rô Nghèo Khó (Lc 16:19-21).
• Sống một cách ích kỷ, keo kiệt và tính toán chi li, chỉ biết tích trữ, bo bo giữ lấy của, và tôn thờ của cải vật chất giống hệt như Tên Phú Hộ Ngu Ngốc ở trong Phúc Âm của thánh Luca (Lc 12:16-21).
• Chỉ tích trữ trong những két sắt, trong những nén vàng hoặc chỉ lo đem đi dấu trong ngân hàng, trong những cổ phần, trong việc đầu tư… không chịu hoặc ngần ngại, lần lừa trong việc làm phúc, bố thí, giúp đỡ, chia sẻ cho những người kém may mắn, đau khổ, nghèo khó…
Bạn thân mến, nếu bạn nhận tên TRÙM SÒ là anh em họ hàng hay làm cố vấn cho bạn thì chắc chắn Chúa Giê-su sẽ phán với bạn trong ngày phán xét rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời…. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:41-43).
Bạn có muốn sự giàu có của bạn tồn tại và trở nên ĐẠI PHÚC cho bạn hay không? Nếu bạn muốn thì tôi đề nghị với bạn ba việc sau:
• Nộp đơn ra tòa xin từ, xin chấm dứt quan hệ họ hàng với lại tên TRÙM SÒ ngay lập tức. Sau đó hãy ăn mừng bằng cách gửi checks hay money orders đến các trại cùi, các trại mồ côi, hoặc gửi cho các cơ quan thiện nguyện như Nhóm Lửa Việt, Hội Bác Ái Teresa, Hội Bác Ái Phan-xi-cô…
• Để mắt đến những nhu cầu bức thiết đang sống chung quanh bạn. Những người đó có thể là ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, anh chị em hay có khi chính là người vợ, người chồng, hoặc con cái của bạn đấy! Họ đang túng cực về mặt tinh thần, họ đang thiếu thốn sự quan tâm, sự chăm sóc và những lời thăm hỏi của bạn! Đừng nhắm mắt làm ngơ như ông nhà giàu đã đối xử với La-za-rô. Căng đấy!
• Quan tâm đến sức khoẻ của người khác, hãy trị bịnh cao máu của ban chấp hành hội đồng giáo xứ, của cha sở, của cha quản nhiệm bằng cách mở bóp của bạn … to hơn một chút để những tờ $5, $10, $20 có cơ hội… nhảy vào trong những giỏ tiền collection mỗi Chúa Nhật. Bạn hãy hào phóng trong những công việc đóng góp, giúp bảo trì, sửa chữa nhà thờ và quỹ điều hành giáo xứ, hãy sống rộng rãi hơn, đừng chỉ bỏ giỏ mỗi $1! Không ổn đâu!
Thay cho lời kết, tôi xin gửi đến bạn lời khuyên của thánh Phao-lô: “[Nếu anh chị em là] những người giàu ở trần gian này … [thì hãy lo] làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, [hãy] ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy [là anh chị em đang] tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1 Tm 16:17-19).
Cuối cùng, xin bạn đừng quên rằng THIÊN CHÚA MỚI LÀ CHỦ của tất cả mọi sự mà chúng mình đang sở hữu như: tài sản, tiền bạc, trí tuệ, tài năng... Bạn và tôi chỉ là quản lý của Ngài mà thôi. Bạn quản lý mà không khéo thì coi chừng! Có ngày Ngài sẽ nói nhỏ với bạn rằng: “Công việc quản lý của anh [có vấn đề lớn] anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Mt 16:2), thì kể như…toi mạng! Hãy quản lý cho khéo khéo một chút! Sống keo kiệt mất chức ráng chịu!
“Có tài mà cậy chi tài; chữ tài liền với chữ tai một vần”: vẫn là câu lục bát trong truyện Kiều, nhưng chữ ‘TÀI” ở đây không còn hiểu theo nghĩa ‘nôm’ của Cụ Nguyễn-Du nữa, mà là theo nghĩa Hán Việt: “TIỀN”. Đồng tiền mà người ta hài hước ví ‘là tiên,là phật;là sức bật tuổi trẻ;là sức khoẻ tuổi già”. Đồng tiền vạn năng trong giao tế: ‘có tiền mua tiên cũng được’. TIỀN – TÀI ấy, hôm nay bị lật mặt nạ,là tác nhân cản trở con người vươn tới hoàn thiện, tới Đấng Hoàn Thiện và mất cả sự sống đời đời. Ở điểm nầy, chữ ‘tài’ đúng là liền với chữ ‘tai’!
Năm 1963, bắt đấu áp dụng tại Mỹ luật “Cơ hội bình đẳng trong nghề nghiệp” (Equal Employment Opportunity - EEO), là luật yêu cầu tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người lao động. Theo đó, người chủ lao động tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, thăng tiến, và sa thải người lao động phải công bằng và bình đẳng dựa vào những yếu tố như năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm và những thành quả lao động, không được đưa dựa vào những yếu tố có tính cách phân biệt đối xử như chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, nguyên quán, tuổi tác, bệnh tật, tình trạng hôn nhân, xu hướng chính trị. Nhưng không phải nói đâu xa: con số 18 triệu người thất nghiệp ngay tại đất nước Mỹ tư bản giàu có, trong cuộc khủng hoảng kinh tế hiện tại, cũng cho thấy “cơ hội bình đẳng” vẫn chỉ là giấc mơ, tuy không ảo tưởng và mị dân như thiên đường trần thế của chủ nghĩa cộng sản. Hố sâu giàu nghèo vẫn ‘nghìn trùng xa cách’ và ngày càng không thể lấp đầy được. Cái “Tâm” cá nhân,tập thể,quốc gia,còn quá nhỏ bé,bị chi phối bởi ích kỷ,hưởng thụ,tham vọng, để chữ ‘tài’ có thể trở nên lợi ích đồng đều cho nhiều người và mang lại giá trị đạo đức cho con người. Cuối cùng nó vẫn chỉ là vật cản trở con người nên hoàn thiện, đến nỗi hậu quả nó gây ra nghe thật đáng sợ, khi mà hình ảnh kinh hoàng ấy lại do chính miệng Chúa Giêsu nói ra: ‘lạc đà chui qua lỗ kim,còn dễ hơn người giàu vào được nước trời” (Mc 10,25).
Chữ “tài” mà chúng ta muốn nói tới hôm nay,được diễn đạt rõ ràng và đầy đủ nhất trong từ tiếng Anh “resource”, là những gì con người có thể có về tinh thần và vật chất, nội tại,ngoại tại và môi trường quanh ta. Anh thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là một người như thế: một người rất giàu về nhiều phương diện, một loại “gentleman”. Chúa Giêsu cũng phải thầm khen, vì anh ta biết dùng chữ “tài” để làm cho cái “tâm” được sáng, cho việc giữ các giới răn được đúng đắn. Anh sớm thoả mãn với bản thân, với điều kiện vật chất và những nỗ lực giữ lề luật truyền thống. Đi tìm Chúa Giêsu,đến với Người và hỏi Chúa về điều mà anh ta cho là duy nhất mình còn thiếu và cần thực hiện: ‘để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (x. Mc 10,17). Chính lúc ấy trong anh nãy sinh kiêu ngạo và đinh ninh sự sống đời đời cũng chỉ như một điều luật, một giới răn – có thể khó khăn,hao tổn công sức thời giờ hơn – nhưngt chắc chắn anh ta sẽ làm được,giữ được và đạt được. Anh nhà giàu không phải đi tìm ‘sự sống đời đời’,-như miệng anh ta nói – mà chỉ là bổ sung vào bộ sưu tập của anh ta, như người ta sưu tập một món đồ cổ, hoặc một bức tranh nghệ thuật hay đơn giản là một con tem.
Anh ta đã thất bại.
Điều kiện Chúa Giêsu đưa ra không quá khó,nhưng hoàn toàn trái ngược mọi suy nghĩ,toan tính của anh ta, của hầu hết thế nhân mà của cải có nguồn ‘trong sạch’, được cho là sử dụng đúng đắn, để chu toàn việc đạo, làm việc thiện. Nay phải từ bỏ hết, là đòi hỏi ngoài sức tưởng tượng đến mức phi lý. Theo Đạo không khó. Giữ đạo - lễ lạy, giữ các điều răn Đức Chúa Trời và Hội Thánh – là điều không vượt quá sức con người. Nhưng sống đạo, - nên thánh, nên chứng nhân và đem Chúa đến với mọi người - quả là không dễ dàng, nếu không muốn nói là nhiệm vụ “bất khả thi”, nếu như không có Chúa trợ giúp (x. Mc 10,27; Lc 1,37)
Trong những ngày nầy, Giáo Hội hoàn vũ nói chung và Giáo Hội ở Canađa, đau xót và ê chề nhục nhã, khi một giám mục bị bắt giữ ( và lệnh kiểm soát kỹ các phi trường,do sợ ngài bỏ trốn), vì trong máy tính xách tay (laptop) có vô số tài liệu và hình ảnh khiêu dâm và ấu dâm, phải ra toà nhiều lần và chắc chắn sẽ nhận án phạt không nhỏ. Điều đáng nói là gương mù gương xấu của tội ác nầy không chỉ là cái vả vào mặt Giáo Hội, mà chẳng khác nào đem đổ sông đổ biển bao hy sinh gian khổ truyền giáo của tín hữu Canada và cả hoàn cầu. Satan hẳn vô cùng mừng vui,vì hái quả ngon,mà không tốn chút công sức nào, hơn thành quả mà y và các thế lực vô thần xấu xa bỏ công làm hằng thế kỷ! Nhưng có một điều lạ trong Tin Mừng, nghĩa là trong những lời rao giảng của Chúa Giêsu, hầu như không đề cập gì nhiều về khiết tịnh hoặc các tội liên quan, mà hể có dịp là nhấn mạnh về tiền tài và những hậu quả xấu xa nó gây nên, khiến có khi người ta có cảm tưởng ‘anh bần cố nông’ Giêsu ghen ăn tức ở với những ‘cường hào ác bá’,’trọc phú’, ‘tư bản’ và sẵn sàng trút giận lên đám người nầy. Nhưng ý tưởng hết sức rõ ràng,không thể lẫn lộn:”Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).
Lịch sử nhân loại, tâm lý học, cho thấy đầu dây mối nhợ của mọi tội ác chống con người,chống nhân loại, chia rẽ, hận thù, ghét ghen, đều từ chữ ‘Tài” (tiền), do chữ “Tâm” yếu thế,lép vế . Không phải lúc để phân tích chi tiết về những điều nầy. Chúng ta có thể kết luận rằng ‘tài’ sinh ‘tình”,chứ không phải là ngược lại. “Tình’ là cái có thể chợt nẩy sinh, khiến kẻ nào yều đuối sẽ dễ bị vấp ngã. Nhưng tiền không đến bất chợt, mà phải tích tụ nhiều năm tháng và cùng với độ cao đợ dày của những cọc tiền,độ nặng của vàng ngọc, là sự tích tụ lòng tham, ích kỷ và thèm khát vật chất ngày càng tăng,càng đậm, đúng như cha ông nói: đồng tiền liền khúc ruột. Lấy đi, cắt bớt tiền bạc của những người nầy,chẳng khác nào cắt đứt ruột họ hoặc lấy đi tính mạng họ. Văn hào Molière Pháp đã tả rất hay qua hài kịch “Lão Hà Tiện” (Le Harpagon). Khi đã có tiền, khi đã gắn bó với tiền, thì ‘tình’ - ngoại tình,sa đoạ, quan hệ bất chính,…- chỉ là điều xảy ra tất yếu. Trong sự khôn ngoan và tình thương vô biên của Người, Thiên Chúa không dùng hai điều răn để ‘trị’ cặp bài trùng “TIỀN – TÌNH”, mà là hai cặp giới răn, chiếm hơn một nửa con số bảy giới răn về “tương quan người - người”.
Cũng vì thế, được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, Giáo Hội lấy nghèo khó làm phương châm sống và tuyên bố Giáo Hội là của người nghèo,luôn đứng về phía người nghèo, khác với những chủ thuyết,chế độ lợi dụng người nghèo ‘không còn gì đế mất’, để đấu tranh quyền lực và vật chất cho phe đảng, rồi sau đó vứt bỏ ‘đám dân ngu’ như vứt trái chanh hết nước, và quay lại bợ đỡ, sùng bái,cung phụng những kẻ họ đã dùng đám bần cố lật đổ. Số phận, đích đến của tín hữu Công giáo cũng sẽ như thế, nếu chỉ máy móc nói về nghèo khó,hô hào sống nghèo, mà trong thâm tâm,trong thực hành, lại vun vén ích kỷ, làm mọi sự và mọi cách - kể cả trái lương tâm - để có tiền, có nhiều tiền. Thần Mammon là cái hic et nunc, là ‘tiên là phật”: một sự gắn bó giữa Chủ (Mammon) và Nô (con người). Thần Tài đối nghịch với Thiên Chúa. Nước Trời - sự sống đời đời – không dành cho những ai gắn bó và tôn thờ thần Mammôn. Trong bức tranh “Chết Dữ”, con người khi sống đã gắn bó thờ phụng bạc tiền, thì khi hấp hối cũng chỉ nghĩ đến tiền bạc,không màng đến sự sống hoặc hình phạt đời đời.
Lạc đà chui qua lỗ kim: không tưởng! Nhưng lời Chúa hứa ban ơn giúp biến điều không thể thành hiện thực: Với Ơn Chúa, Gia-kêu đã làm được. Với Ơn Chúa, Phanxicô Atxidi đã làm được. Với Ơn Chúa, bao nhiêu linh muc, tu sĩ ( và cả giáo dân) đã khấn hoặc hứa và đã trọn đời sống Đức Khó Nghèo, bởi hiểu rằng không có khó nghèo, sẽ không thể nên thánh và không thể sống các nhân đức khác được, cũng như sẽ dễ dàng gục ngã trước những cám dỗ. Không dứt khoát giã từ vật chất,tiện nghi, xa hoa, không kiên quyết chặt đứt những cái vòi bạch tuộc - tiền tài bám víu và níu kéo, bất cứ ai cũng sẽ bị lôi chìm xuống đáy sâu tối tăm tội lỗi.
Con người có tham lắm thì cũng chỉ một túi ba gang. Túi to hơn, gấp năm gấp ba lần, thì phải trả giá cho lòng tham và cái giá không hề nhỏ: sự sống. Người anh xấu trong truyện ‘Ăn khế trả vàng” đã xứng đáng chịu như thế. Cái giá con người gắn bó với tiền, bỏ ngoài tai tiếng gọi của Chúa còn đáng sợ hơn: sự sống đời đời.
Ngày 06 tháng 06 năm 1976, nhà tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ mỹ kim. Sau năm cuộc hôn nhân và năm lần lần ly dị, ông đã tuyên bố với phóng viên báo chí: “Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi lo không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân”. Một lần khác ông cũng thú nhận rằng mình đã không đạt được hạnh phúc trong gia đình. Và ông đã kết luận: “Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.”
***
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến một chàng thanh niên giàu có. Anh sống một đời sống luân lý tốt đẹp, nhưng anh vẫn cảm thấy còn thiếu vắng một cái gì đó. Và rồi Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho anh biết điều thiếu vắng ấy: Ngươi hãy về, bán tất cả những gì ngươi có, làm phúc bố thí cho kẻ nghèo túng, rồi hãy đến và theo Ta (Mc.10:21). Thế nhưng chàng thanh niên đã buồn bã, cúi mặt bỏ đi vì anh là một người có nhiều tiền bạc.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay giúp ta cảm nếm được nỗi buồn của Đức Giêsu và của anh nhà giàu. Đức Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến. Chúa buồn vì anh đã gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa. Anh thanh niên buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân. Anh đã phấn khởi đi tìm gặp Chúa, nhưng rồi anh đã bỏ Chúa mà ra đi với tấm lòng đầy muộn phiền.
Thầy Giêsu đòi anh hy sinh đúng cái điều anh muốn giữ lại. Vì của cải vốn là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc bỏ chỗ dựa này. Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì. Tiếc thay anh không có can đảm ra khỏi sự nô lệ này dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Bi kịch của chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng cũng là bi kịch của mỗi người chúng ta hôm này.
Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Ta làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ ta và trở thành thịt xương mà ta không thể dứt bỏ. Không chắc người thanh niên giàu có này sẽ bị luận phạt, nhưng chắc chắn anh ta khó có hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống và làm theo ý Chúa. Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa, ta sẽ đạt được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả, vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát điều gì khác nữa.
Người có của khó vào Nước Thiên Chúa biết bao (Mc.10:23). Vào thời Đức Giêsu, giàu có được coi là một ơn phúc. Vậy mà Ngài lại coi đây là một cản trở nguy hiểm. Của cải dễ làm người ta khép kín trước Thiên Chúa và nỡ tâm chà đạp lên quyền lợi của anh chị em mình.
Đức Giêsu và các môn đệ đã sống nghèo, sống như những người lữ hành, không chỗ cậy dựa, để tín thác vào Chúa Cha và dễ dàng đến với anh chị em. Theo Đức Giêsu là chấp nhận tay trắng, bấp bênh. Nhưng đừng quên rằng theo Ngài cũng là trở nên giàu có. Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến. Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà cửa; ruộng vườn, bỏ những người thân yêu…mà là bỏ đến cả mạng sống của mình. Theo Ngài còn là được gấp trăm ở đời này và ngay cả cuộc sống đời đời mai sau.
***
Lạy Chúa! Giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn và luôn lôi kéo con trong cuộc sống hôm nay. Chúng trói buộc con, không cho con được tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin Chúa giải phóng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được sự phong phú của kho tàng vĩnh cửu trên trời.
Ước gì con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con.
Lạy Chúa! Xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc và là gia nghiệp của đời con. Amen.
Ngày 06.6.1976, một nhà tỷ phú, giàu có và hạnh phúc nhất trên thế giới, là ông Paul Getty, đã qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với một phóng viên báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi lo không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân. Có lần ông cũng đã thú nhận rằng mình đã không đạt được hạnh phúc trong gia đình. Và ông đã kết luận: Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Từ hình ảnh nhà tỷ phú Paul Getty chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chàng thanh niên giàu có, sống một đời sống luân lý tốt đẹp, nhưng chàng vẫn cảm thấy còn thiếu vắng một cái gì đó. Và rồi Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho chàng biết điều thiếu vắng ấy: Ngươi hãy về, bán tất cả những gì ngươi có, làm phúc bố thí cho kẻ nghèo túng, rồi hãy đến và theo Ta. Thế nhưng chàng thanh niên đã buồn bã, cúi mặt bỏ đi vì chàng là một người giàu có.
Câu chuyện về chàng thanh niên giàu có sẽ đem lại cho chúng ta những kết luận cụ thể nào? Trước khi trả lời, chúng ta hãy lưu ý tới hai sự kiện:
Sụ kiện thứ nhất, đó là từng người một, bất luận giàu sang hay nghèo túng, chúng ta đều phải thực hiện điều Chúa Giêsu đòi hỏi, là từ bỏ mọi sự chúng ta đang có, nhất là khi chúng ta phải đối đầu với cái chết. Thực vậy, khi thần chết đã lên tiếng gọi, thì chúng ta không thể mang theo bất cứ tiền bạc của cải vật chất nào sang thế giới bên kia, vì đó là một chuyến đi, một cuộc hành trình cô đơn nhất.
Sự kiện thứ hai, đó là trong dòng thời gian, có biết bao nhiêu người, nam cũng như nữ, đã từ bỏ mọi sự để dâng hiến trọn vẹn cho Chúa, sống trong những dòng tu cũng như sống giữa lòng cuộc đời, để nhờ đó được tự do phụng sự Chúa.
Vậy Chúa Giêsu có truyền cho tất cả chúng ta phải từ bỏ mọi sự mình có và Ngài có mong cho tất cả chúng ta đều trở thành linh mục, tu sĩ hay không? Dĩ nhiên là không, hoàn toàn không. Thế nhưng Ngài truyền cho chúng ta phải biết dùng của cải một cách nào đó, để sinh ích cho linh hồn chúng ta, cũng như đừng bao giờ quên rằng Thiên Chúa, là Cha trên trời, Đấng đã ban cho chúng ta tất cả những cái đó.
Ngoài ra sự tiết kiệm, góp vốn, phòng xa có phải là điều sai quấy hay không? Dĩ nhiên là không, hoàn toàn không. Cái sai quấy của sự giàu có là tôn thờ tiền bạc, phục vụ tiền bạc, tin tưởng vào tiền bạc như một đấng vạn năng thay cho Thiên Chúa.
Trước những khó khăn là như thế, các tông đồ đã hỏi Chúa Giêsu: Vậy thì ai có thể được cứu rỗi? Chúa Giêsu đã tuyên bố: Đối với người ta thì không thể được, nhưng không phải là đối với Thiên Chúa vì Ngài làm được mọi sự. Như thế người giàu cũng có thể được cứu rỗi nhưng phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Bởi đó, hãy biết tìm kiếm tiền bạc một cách công bằng và hãy biết xử dụng tiền bạc một cách chính đáng, vì của cải vật chất cũng là một thứ hồng ân của Thiên Chúa. Cái khó là đừng để cõi lòng mình quá quyến luyến, quá dính bén, quá đam mê chạy theo tiền bạc, để rồi bỏ quên Chúa và bóc lột những người anh em của chúng ta.
Thánh Marcô thuật về Chúa Giêsu trong một hoàn cảnh đáng nhớ trong cuộc đời làm sứ giả Nước của Cha Người. Chúa vừa lấy 1 đứa trẻ làm gương cho thái độ con người phải có trước mặt Thiên Chúa. Lời giảng dạy và lòng tốt lành của Chúa chắc hẳn đã cảm kích một thính giả. Người này chạy theo để gặp Chúa lúc đó vừa lên đường y hỏi Chúa: phải làm gì để có được sự sống thật, sự sống bên Thiên Chúa. Ta đã biết cuộc đối thoại như thế nào, kết thúc ra sao. Con người được đặt trước một sự chọn lựa, hoặc bằng lòng với nếp sống tuân giữ đúng Lề luật hoặc gắn bó theo Chúa Giêsu. Ta nhớ lại rằng nếu Chúa không ý thức rõ rệt Người là Con Thiên Chúa thì đã chẳng bao giờ Người đề nghị một sự lựa chọn như vậy, vì lẽ chỉ Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi con người gắn bó theo Thiên Chúa. Toàn thể đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho phép ta nhận xét như thế, bởi lẽ Chúa Giêsu được thánh chép sử kể lại Người là một Thày khác hẳn một Thày khác hẳn một thày Rabbi thường.
Sự thoái thác rút lui của ‘cậu con nhà giàu’, làm cho Chúa phán dạy những lời nghiêm trọng về nguy cơ do sự giàu có đem đến cho con người. Đã có nhiều sự khai thác theo nhiều lối về đoạn Phúc âm này. Chúng ta chỉ giữ lại điểm suy niệm:
1) Chúa không lên án của cải vật chất vì cớ chúng biểu lộ sự giàu có. Chúa cảnh giác về của cải vật chất dễ khiến cho con người thành nô lệ tiền bạc. Ở đây, là vấn đề tự do để tâm hồn sẵn sàng đáp ứng Thiên Chúa.
Bằng tấm gương đời mình, Chúa cho thấy Người không có mặc cảm khi sử dụng của cải vật chất. Của cải là tốt vì do Chúa Cha tạo nên. Nhưng Chúa Giêsu không lụy vào của cải. Ngoại trừ những đoạn thuật lại thuở thơ ấu của Chúa, người ta không bao giờ thấy Chúa lựa chon sự nghèo túng. Là công nhân, Chúa làm việc để hằng ngày được dùng đủ. Rồi tới thời kỳ làm sứ giả loan Tin mừng, nay đây mai đó, Chúa đã chấp nhận để cho người khác lo cho Chúa đầy đủ. Trong cả hai trường hợp, Chúa không chịu một ràng buộc nào do của cải thế gian.
Một ngạn ngữ, ngay ở thời Chúa đã thuộc loại rất cổ xưa, nói rằng một sự an lạc tối thiểu cần thiết cho việc thực thi nhân đức. Chúa không đứng ra làm lý thuyất gia cho sự thật hiên nhiên đó. Cách cụ thể, Chúa sống với một sự an lạc tối thiểu, ở cái mức mà tâm hồn Chúa được tự do để phụng thờ và phục vụ, để tận hiến cho Chúa Cha và cho nhân loại.
Cho nên Chúa cảnh giác đừng để cho của cải vật chất nô lệ hóa, hoặc là của cải đang sở hữu, hoặc là thứ của cải người ta mong ước được sở hữu. Sự giàu có trở thành xấu từ lúc, hoặc trong thực tế, hoặc trong mơ ước, nó vật chất hóa tâm trí, lý tưởng, ước vọng, nghĩa là từ lúc sự giàu có lấy mất đi tự do của trái tim.
2) Theo quan điểm này, những kẻ giàu có không nhất thiết là những kẻ như ta tưởng. Những kẻ bị Chúa tuyên bố là để có nguy cơ bị trục xuất khỏi Nước Trời, chính là những kẻ tôn thờ ngẫu tượng giàu có vật chất, nó khiến cho họ xa cách Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng từng có những người bạn vào bậc giàu có trong xã hội và nếu họ cư xử bất công, thì ân sủng thân hữu và mãnh liệt của Chúa đã làm cho họ trở lại. Trong Chúa, người ta không đấu tranh gây hấn chống nhà giàu. Chúa vượt lên rất cao khỏi những hố sâu xã hội. Chúa không đấu tranh chống một tình trạng xã hội hầu đưa người nghèo từ giai đoạn nghèo tiến lên giai đoạn giầu. Sự lầm than xã hội chỉ là một diện của sự lầm than mênh mông của nhân loại và ở tầm cỡ đó, Chúa không suy tính, Chúa đến với tất cả mọi người nghèo. Trước lối nhìn của Chúa, nguy cơ có thật của sự giàu có chính là quyền lực của chúng khiến người ta xa lánh Thiên Chúa. Sự bi đát của thanh niên giàu có là ở chỗ anh ta xa Chúa chỉ vì còn quyến luyến tài sản của mình. Ở đây, hay ở đàng kia, chúng ta có chăng một ‘tư sản’ nào cần bỏ lại để theo sát Chúa hơn?
Nhiều năm trước ở tiểu bang California phải đối đầu với một quyết định quan trọng. Trong việc khuếch trương đường cao tốc 101 thành một đường xa lộ tốc hành về Los Angeles xuyên qua Ventura County, những người hoạch định dự án đã phải đối đầu với dãy núi chắn ngang trên con đường của họ. Một quyết định phải được thực hiện, hoặc là tiếp tục con đường xa lộ đi thẳng lên phía bắc vòng theo sườn để lên trên đỉnh núi. Và một quyết định khác là đi thẳng phía trước, đặt mìn phá một con đường xuyên qua thung lũng Conejo và tiếp tục con đường xa lộ trên con đường thẳng. Kế hoạch thứ hai đã được chọn, đó là một chọn lựa đúng.
Chúa Giêsu mời gọi người đàn ông giàu có trong Phúc Âm làm một chọn lựa. Chúa Giêsu đã yêu cầu anh ta bán tất cả những gì mình có mà bố thí cho người nghèo khó và đi theo Người. Người giàu có đã làm một quyết định sai. Ông ta đã quá dính bén đến của cải khiến ông ta không thể từ bỏ. Của cải của ông ta thì giống như một dãy núi, tách riêng ông ta với Chúa Giêsu. Ông ta thấy chướng ngại đó quá lớn và không thể vượt qua. Chúng ta cũng không biết điều gì xảy ra cho ông ta. Có thể dần dần ông ta tìm thấy một con đường đi vòng để theo Chúa Giêsu nhưng để trở thành môn đệ, ông đã bỏ lỡ cơ hội đầu tiên.
Một số người nam và người nữ qua lịch sử của Giáo Hội đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu theo cách trên đây. Họ đã thật sự từ bỏ tất cả mọi của cải, vật chất để bước theo một đời sống ẩn tu hay tu sĩ hoặc là những nữ tu. Hầu hết mọi người chúng ta thì không nồng nhiệt cho lắm theo gương của họ, sự thật là Giáo Hội và xã hội sẽ không hiện hữu nếu tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Không phải mọi người trong Giáo Hội đều có cùng một ơn gọi hoặc cùng một lời kêu gọi như nhau, và chúng ta không thể đơn giản giảm nhẹ lời mời gọi của Chúa Giêsu như là không liên quan hoặc là một điều không thể.
Thật là thích hợp để kết luận rằng Chúa Giêsu không xem của cải như là một chướng ngại, Chúa Giêsu đã nói với người đàn ông giàu có bỏ của cải, bởi vì của cải của ông ta đã là một vấn đề, một mối bận tâm và là sự hấp dẫn đối với ông. Chúa Giêsu qua Phúc Âm đã nói với chúng ta về những gì trong cuộc sống đã ngăn cản chúng ta thành người môn đệ tốt hơn hoặc là để cho những thành phần nên tốt hơn hoặc trở nên những phần tử tận tụy của Giáo Hội. Khi chúng ta xem xét những lời của Chúa Giêsu một cách nghiêm chỉnh, chúng ta thấy rằng những lời đó sắc như dao hai lưỡi. Nó xuyên qua cuộc sống của chúng ta, cắt ngang những hấp dẫn, tội lỗi, những thất bại, và những chướng ngại của chúng ta để chấp nhận ân sủng làm môn đệ.
Chúng ta phải làm gì? Đó là câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải trả lời. Có lẽ chướng ngại là sự ích kỷ hoặc chán nản trong đời sống hôn nhân, chúng luôn muốn cho con đường của chúng ta bị phá vỡ khi chúng ta không tiếp tục. Nó có thể là khuynh hướng ngồi lê đôi mách, tìm sự sung sướng trong khi hạ những người khác xuống hoặc lan truyền những câu chuyện khủng khiếp về họ. Chúng ta có thể thuộc típ người coi thường những kẻ không nhà, khinh bỉ những kẻ lãnh trợ cấp và cảm thấy oán ghét đối với dân nhập cư. Chúng ta phải tìm kiếm trong lương tâm của chúng ta. Không phải là tuyệt diệu sao khi Chúa Giêsu đã đứng trước chúng ta, cho chúng ta một câu trả lời? Có thể là lời của Người sẽ làm đau giống như con dao hai lưỡi, có thể chúng ta sẽ quay đi giống như người đàn ông giàu có. Trong Thánh Lễ này ân sủng Thiên Chúa thì ở với chúng ta, câu chuyện trong Phúc Âm giúp chúng ta sẵn sàng chấp nhận thách đố này. Ngày hôm nay con đường cao tốc 101 được như thế vì đã quyết định đúng khi băng qua bình nguyên Conejo vào trong những gì được biết như là thung lũng Pleasant Valley. Khi có thể làm một quyết định đúng, chúng ta đã vượt qua chướng ngại để trở nên môn đệ, chúng ta sẽ tìm thấy điều đó trong cuộc sống của chúng ta, không phải luôn luôn dễ dàng, để sống trong thung lũng Pleasant Valley tình yêu của Đức Kitô dành cho chúng ta.
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng; Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Đúng lắm! Rồi wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt xoa: bài giảng tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm. Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…
Anh chị em thân mến
Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay cũng thế. Anh muốn theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu bảo: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng thương tiếc, vì anh ta vốn là một người rất tốt. Anh đã tuân giữ các điều răn của Chúa từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô Giáo không phải chỉ là việc tuân giữ các điều răn một cách tiêu cực: “Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai…”. Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều. Chúa Giêsu nói thẳng với anh chàng giàu có: anh chưa bao giờ làm gì gây thiệt hại cho ai, vì anh có nhiều tiền của, có vợ đẹp con khôn, đâu cần phải đi ăn trộm, ăn cướp hay ngoại tình… nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người trần trụi ăn mặc, cho kẻ vô gia cư có nơi trú ngụ chưa? Chính khi nghe điều này, anh chàng giàu có kia đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khiếm khuyết biết bao. Vì vậy, Chúa Giêsu mới thách thức anh: Nếu muốn theo Tôi, anh hãy thay đổi cách nhìn đi. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, chẳng hạn như không gây thiệt hại cho ai. Anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ những người nghèo đói. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau. Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho chàng thanh niên giàu có có thể tóm lược như sau: Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo Tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống đời đời không? Anh chàng giàu có trả lời: Thưa Thầy, tôi cũng muốn theo Thầy lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia! Thế là chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Thưa anh chị em.
Nhiều người trong chúng ta có lẽ cũng giống như chàng thanh niên giàu có kia. Chúng ta biết rõ mình có thể trở thành một Kitô hữu tốt hơn, nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để sống tích cực Tin Mừng của Chúa. Chúng ta đã tuân giữ các điều răn, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại đối với những người túng thiếu, trần trụi, đói khát. Vì việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy sinh đó là cần thiết để đem lại bình an và niềm vui trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của các điều răn: không hại người, không gian dối, không trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại nàng, không nói dối, không xúc phạm đến nàng. Tình yêu khiến anh phải làm tích cực hơn như thế rất nhiều, vì nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những điều răn Chúa dạy, chúng ta chỉ là người “quen biết” Chúa chứ chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa yêu Chúa và chưa yêu tha nhân.
Thưa anh chị em,
Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì đã được biết Chúa, tự mãn vì mình đã giữ các điều răn của Ngài từ thuở nhỏ, giống như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Đó là một điều rất đáng khen, vì Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì chúng ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước nữa, đó là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Chúa và cho anh em. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, cần đến sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta. Chúng ta không thể nói mình yêu Chúa mà lại làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu thiết yếu của anh em. Và chúng ta cũng cần có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất.
Chàng thanh niên nghe Chúa Giêsu nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh quá thiết tha với tiền của. Từ đó Chúa Giêsu đưa ra nhận định: “Người giàu có khó vào được Nước Trời”. “Khó vào” chứ không phải là không vào được, nếu không biết chia sẻ, giúp đỡ những người túng thiếu, nghèo đói, để được một kho tàng trên trời. Dĩ nhiên, tiền của cần cho cuộc sống, nhưng tiền của dễ làm cho con người trở nên mù quáng và ích kỷ. “Tiền của là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người, nhưng khi chúng ta coi tiền của như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ trở thành ông vua thống trị với những luật lệ ác nghiệt của nó, nó hành hạ, sai khiến chúng ta như tên nô lệ. Vì thế, Chúa đã nói: “Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của” (Lc 16,13). Phải lựa chọn một.
Chúa Giêsu đã tỏ ra tuyệt đối trong đòi hỏi của Ngài: “Ai trong anh em không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Thầy” (Lc 14,33). Từ bỏ của cải không nhất thiết là từ bỏ quyền sở hữu. Từ bỏ đây, đối với đa số Kitô hữu là có của mà lòng không tham lam, không nô lệ cho tiền của. Có của mà biết dùng của để mua sắm kho tàng không bao giờ hư nát trên trời. Có của mà biết quan tâm đến nhu cầu của người khác, coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thộc trách nhiệm của mình. Đó phải là cách sống của tất cả những ai muốn thực sự là môn đệ của Chúa Kitô.
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe Dôn Oets-lây (John Wesley) giảng. Oets-lây là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Hôm đó ông giảng về việc sử dụng tiền của.
Oets-lây bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng, phải ra công tích lũy tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Hay lắm.
Rồi Oets-lây khai triển điểm thứ hai: phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí xa xỉ, tiêu xài quá đáng. Bác nông dân suýt xoa: Bài giảng tuyệt vời. Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm.
Cuối cùng nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Hãy chia sẻ tối đa. Phải quan niệm sự thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe thế, bác nông dân lắc đầu bỏ nhà thờ đi ra.
Người thanh niên mà Tin Mừng kể hôm nay, anh cũng có nhiều đức tính, vốn thi hành luật Chúa từ nhỏ, nhưng khi nói tới tiền của, phải hy sinh tiền của cho người khác thì anh không chấp nhận.
Khi người thanh niên hỏi Chúa: Phải làm gì để được sống đời đời. Chúa đã kể ra những việc phải làm. Chúa chỉ kể ra những việc mà Chúa cho là quan trọng: đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cướp, đừng làm chứng gian, đừng lừa dối ai, hãy thảo kính cha mẹ. Nói tới điều quan trọng nhất trong việc giữ đạo, ta thường nghĩ tới việc thờ phượng, đọc kinh xem lễ. Nhưng trong cách diễn tả của Chúa Giêsu thì quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người, mà hai điều đó giống nhau (Mt 22,39). Hay đúng hơn phải bắt đầu bằng biểu lộ bác ái yêu thương với anh chị em đồng loại, vì chính đó là dấu hiệu của lòng mến Chúa.
Nhưng những việc luật đòi giữ đây mới là phần tiêu cực, và Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ. Chúa đòi ta chia sẻ với anh chị em những gì mà ta quý trọng nhất, những gì tha thiết nhất với chúng ta. Chúa bảo ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu, và chúng ta biết Chúa yêu thương cho tới cùng, cho tới hiến cả mạng sống mình. Chúng ta phải sẵn sàng chia sẻ những gì thiết thực nhất, trong đó có tiền của và có thể coi tiền của là một thước đo mức độ bác ái của ta với anh em.
Anh thanh niên nghe Chúa nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, có nghĩa là anh quá thiết tha với tiền của. Và từ đó Chúa đưa ra nhận định: Người giàu khó vào Nước Thiên Chúa. Tiền của cần cho cuộc sống. Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người. Những ý niệm này rất đúng, và Chúa Giêsu hoàn toàn tán đồng. Nhưng khi chúng ta coi tiền như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ là một ông chủ khắc nghiệt, nó hành hạ, sai khiến chúng ta. Và khi đó Chúa không chấp nhận, “Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của” (Lc 16,13), phải chọn một.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến những người anh chị em nghèo khó, sẵn sàng chia sẻ cho họ những gì chúng con có, để chúng con xứng đáng làm môn đệ Chúa và được thừa hưởng sự sống muôn đời.
Đây là một trong những bức tranh sinh động nhất trong các sách Phúc Âm.
1/ Chúng ta cần ghi nhận người này đến với Chúa như thế nào, và Chúa Giêsu tiếp người ấy làm sao. Người ấy đã chạy đến rồi quỳ dưới chân Chúa Giêsu. Thật đáng ngạc nhiên khi chàng thanh niên giàu có, quý phái này lại quỳ xuống trước mặt vị ngôn sứ người Nazaret không một xu dính túi, sắp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Anh ta bắt đầu nói: “Thưa Thầy tốt lành”. Chúa Giêsu trả lời ngay “Thôi, đừng nịnh hót như vậy, đừng nói tôi là tốt lành, hãy dành tiếng đó cho Thiên Chúa”. Thoạt nhìn dường như Chúa Giêsu đang cố làm cho người này cụt hứng, và dội nước lạnh, dập tắt lòng nhiệt thành của anh ta. Ở đây có một bài học. Rõ ràng chàng thanh niên này đã vội vàng đến với Chúa Giêsu trong lúc bị xúc động mạnh mẽ. Tất nhiên là Chúa Giêsu như có sức thu hút và thôi miên người ấy. Chúa Giêsu đã làm hai việc mà bất kỳ một nhà truyền giáo, một thầy dạy nào cùng phải nhớ đến bắt chước. Trước hết, Chúa Giêsu có ý muốn nói: Hãy dừng lại và suy nghĩ đi, vì ngươi đang mất bình tĩnh, xúc động mạnh! Ta không muốn ngươi chạy đến với Ta trong lúc đang cảm xúc mạnh như vậy. Bình tĩnh lại và suy nghĩ xem người đang làm gì đây? Chúa Giêsu không hề làm người ấy phải cụt hứng. Ngài đang nhắc người ấy phải nghĩ đến cái giá mình phải trả ngay lúc chưa nhập cuộc. Thứ hai là Chúa Giêsu muốn bảo “Người không thể trở thành Kitô hữu vì xúc động mạnh khi thấy Ta. Ngươi phải nhìn vào Thiên Chúa”. Giảng dạy bao giờ cũng có nghĩa là truyền đạt một chân lý qua trung gian một nhân cách đây là chỗ có nguy cơ to lớn của các vị giảng dạy. Cơ nguy đó là người học trò non trẻ có thể quá chú ý đến ông thầy hoặc nhà truyền giáo mà lầm tưởng rằng mình đang chú ý gắn bó với Thiên Chúa. Thầy dạy và nhà truyền giáo đừng bao giờ chỉ vào chính mình, mà phải luôn luôn chỉ vào Thiên Chúa. Trong việc dạy dỗ thật sự bao gồm cả việc giấu mình. Thật vậy, chúng ta không thể nào bảo tồn nhân cách đồng thời chứng tỏ sự trung thành cá nhân đầm ấm được, nếu có thể chúng ta cũng không muốn làm như thế. Nhưng vấn đề vẫn chưa dừng ở đó. Nói cho cùng thầy dạy và nhà truyền giáo chỉ là những ngón tay chỉ Thiên Chúa cho người ta mà thôi.
2/ Câu chuyện này đã cho ta thấy rõ chân lý thiết yếu của Kitô giáo không phải chỉ kính trọng là đủ. Chúa Giêsu đã nêu ra các điều răn vốn là nền tảng của một đời sống đạo đức, đáng kính trọng. Chàng thanh niên nọ không chút do dự đáp ngay rằng mình đã giữ trọn tất cả. Tuy nhiên, cần ghi nhận điều này, ngoại trừ một điều còn tất cả các điều kia đều là những mệnh lệnh tiêu cực, và điều răn ngoại lệ đó chỉ được thực thi trong phạm vi gia đình. Thật ra chàng thanh niên đã nói “Cả đời tôi chưa hề làm thiệt hại ai bao giờ”. Đúng vậy, nhưng vấn đề thật ra là “Ngươi đã làm được việc tốt lành gì cho tha nhân? Ngươi đã tỏ ra những gì để nâng đỡ, an ủi, khích lệ kẻ khác như điều ngươi đáng phải làm”. Nói chung, coi trọng tôn kính chỉ là không làm điều nay, điều nọ. Kitô giáo đòi phải hành động. Đây chính là chỗ thất bại của chàng thanh niên này, cũng như nhiều người trong chúng ta.
3/ Chúa Giêsu đã tiếp đón chàng thanh niên này bằng một thách đố. Ngài muốn nói “Hãy vượt khỏi thái độ tôn kính về mặt luân lý đạo đức ấy đi. Đừng tưởng chỉ cần không làm việc này, việc nọ như thế thì đã là nhân lành, thiện hảo. Hãy đem bản thân, đem tất cả những gì ngươi có, và dùng mọi sự cho người khác. Rồi sẽ tìm thấy chân hạnh phúc cả ở đời này lẫn đời sau”. Nhưng chàng thanh niên đó không làm được điều ấy, anh có nhiều tài sản lắm, điều mà anh ta đã không thể làm nổi. Anh không hề trộm cắp hoặc lường gạt ai, nhưng anh chưa bao giờ ép buộc mình trở nên một người nhân từ cách tích cực và hy sinh.có thể con người khả kính này không bao giờ tham lam của ai, nhưng Kitô hữu phải cho kẻ khác điều mình có. Thật ra, Chúa Giêsu đã buộc chàng thanh niên phải đối diện với một vấn đề thiết yếu và cơ bản “Ngươi có được bao nhiêu tính chất Kitô giáo đích thực? Ngươi sẵn sàng bỏ hết tài sản mình đang có để được nó hay không?” và chàng thanh niên ấy đã trả lời rằng “Tôi rất muốn được mang bản chất Kitô giáo, nhưng tôi không muốn được nó nhiều đến mức đó”. Trong “The Master of Ballantrae”. Robert Louis Stevenson có mô tả một ông chủ phải bỏ ngôi nhà thừa tự của tổ phụ mình để ra đi lần cuối cùng. Ông ta rất buồn và nói với người quản gia trung thành của gia đình mình “Anh Kellar này, bộ anh tưởng tôi không bao giờ hối tiếc sao?” Kellar đáp “Tôi không nghĩ là ông lại có thể tệ đến mức đó, trừ khi ông có đủ cả mọi sự để trở thành một người tốt”. Người chủ nói “Không phải là tất cả đâu, anh lầm rồi đó, đó là căn bệnh không thiết có”. Chính căn bệnh không muốn có là tấm thảm kịch của chàng thanh niên này. Đó cũng là căn bệnh mà phần đông chúng ta đều mắc phải. Mọi người đều muốn sống tốt lành thánh thiện, nhưng lại có quá ít người tha thiết muốn được nó đến mức chịu trả giá cho nó.
Chúa Giêsu nhìn anh ta trìu mến. Trong cái nhìn của Chúa Giêsu có khá nhiều điều. (a) có tiếng gọi của tình yêu Chúa Giêsu không giận anh ta, nhưng lại yêu mến anh rất nhiều. Đây không phải là một cái nhìn giận dữ, nhưng là tiếng gọi của tình thương. (b) có lời thách thức hãy hy sinh. Đây là cái nhìn để tìm cách kéo anh ta ra khỏi đời sống dư dả, ổn định để sống phiêu lưu mạo hiểm của việc làm một Kitô hữu chân chính. (c) đây là cái nhìn buồn rầu. Sự buồn rầu này là nỗi buồn khiến người ta đau lòng hơn khi thấy một người tự ý chọn sự thất bại trong khi đáng lý ra người ấy có thể đã và đang trở thành người xứng đáng. Chúa Giêsu đã nhìn chúng ta bằng tiếng gọi của tình thương, bằng sự thách thức, hãy dũng cảm tiến trên đường cao thượng của Kitô giáo. Thiên Chúa chẳng bao giờ muốn nhìn chúng ta một cách đau buồn như nhìn theo một người thân yêu đã ngoan cố không chịu sống như một con người xứng đáng.
NGUY CƠ CỦA GIÀU CÓ (10,23-27)
Người trẻ tuổi ấy không chấp nhận lời thách thức của Chúa Giêsu đã buồn bã bỏ đi. Chắc chắn lúc anh bỏ đi, cả Chúa Giêsu lẫn các tông đồ đều nhìn theo anh cho đến khi khuất hẳn. Rồi Chúa Giêsu quay sang các môn đệ Ngài và nói “Những người có của sẽ khó vào Nước Thiên Chúa biết bao?” Chữ Chúa Giêsu dùng để chỉ tiền bạc là chremata đã được Aristote định nghĩa là “mọi vật mà giá trị được cho bằng tiền đúc”. Chúng ta ngạc nhiên tại sao câu nói ấy lại khiến các môn đệ sững sờ. Sự kinh ngạc của họ được nhấn mạnh hai lần. Họ tin thật giản dị rằng sự hưng thịnh là dấu hiệu chứng tỏ một người tốt. Nếu ai giàu có, phát tài, thì người ấy đã được Thiên Chúa tôn trọng và chúc phúc. Giàu có là bằng chứng người làm chủ nó là người có đức hạnh, được Thiên Chúa ban ơn. Tác giả Kinh Thánh đã tóm tắt như sau “Trước tôi trẻ, rầy đã già, nhưng chẳng hề thấy người công chính bị bỏ, hay là dòng dõi họ đi ăn mày” (Tv 37,25). Chẳng trách tại sao các môn đệ lại ngạc nhiên. Họ có thể lý luận một người càng hưng thịnh thì càng chắc chắn vào được Nước Thiên Chúa. Vì thế Chúa Giêsu đã lập lại câu nói của Ngài bằng cách hơi khác đôi chút để làm sáng tỏ hơn điều Ngài ngụ ý “Ngài phán”: kẻ trông cậy ý lại vào sự giàu có của mình, sẽ rất khó vào được thiên đàng.
Chưa hề có ai thấy nguy cơ sự thịnh vượng và tài sản vật chất rõ ràng hơn Chúa Giêsu. Các cơ nguy đó là gì?
1/ Của cải vật chất dễ làm người ta gắn bó vào đời này. Người ấy sẽ bám chặt lấy đời này, quan tâm quá nhiều vào đời này đến nỗi khó nghĩ đến điều gì vượt ra khỏi đó, đặc biệt là khó nghĩ tới chuyện có thể rời bỏ. Có lần tiến sĩ Johnson được đưa đi xem một tòa lâu đài nổi tiếng và khu đất đẹp đẽ. Khi xem xong, ông quay sang các bạn và nói “đây là những điều làm cho người ta khó mà muốn chết được”. Sự nguy hiểm của tài sản, là nó buộc chặt các tư tưởng và sự quan tâm của con người vào thế gian này.
2/ Nếu mối bận tâm chính yếu của con người là việc chiếm hữu của cải vật chất thì nó khiến người ta có khuynh hướng nghĩ về mọi sự bằng cách lượng định giá cả. Cách đây ít lâu,vợ một người nuôi cừu trên núi có gửi môt thư hết sức lý thú cho một nhật báo nọ. Con cái họ vốn được nuôi dưỡng trong cảnh yên tịnh của vùng núi, chúng đều chất phác, ngay thật. Sau đó, chồng bà ta trở thành một người đó địa vị trong thành phố, bọn trẻ đã từng sống trong miền núi ấy được đưa vào thành phố. Chúng đổi thay rất nhiều nhưng lại thay đổi để trở thành tệ hại hơn. Đoạn chót bức thư ấy được viết như sau “…cái gì là tốt hơn cho việc dưỡng dục một đứa trẻ; một chỗ thiếu xa hoa trần thế, nhưng có cách cư xử tốt hơn, với những tư tưởng thật thà, giản dị hay một nơi đô hội với các thói quen đương thời chỉ biết giá của mọi vật mà chẳng biết gì về giá trị đích thực của bất kỳ một vật nào cả”. Nếu mối bận tâm chính của một người là của cải vật chất, thì người ấy chỉ biết có giá cả mà không biết gì đến giá trị. Người ấy chỉ nghĩ đến những gì người ta chúng ta mua bán bằng tiền bạc và người sẽ quên phứt đi rằng có những giá trị ở đời mà người ta không thể nào mua bán bằng tiền bạc. Có những điều vốn vô giá, quý báu mà tiền bạc không thể nào mua được. Thật là tai hại khi một người bắt đầu nghĩ tất cả mọi điều đáng có đều có thể mua bằng tiền bạc.
3/ Chúa Giêsu muốn nói rằng của cải vật chất có hai tác dụng. (a) đó là một trắc nghiệm khó vượt qua cho con người. Trong khi có một trăm người chịu nổi và vượt được nghịch cảnh thì chỉ có một người vượt được sự giàu có. Của cải rất dễ khiến người ta trở nên khoe khoang, kiêu căng, tự mãn, phàm tục. Phải là một vĩ nhân, một người thánh thiện đích thực mới xứng đáng được giàu sang. (b) nó là một trách nhiệm. Con người luôn luôn bị phê phán căn cứ trên hai tiêu chuẩn, người ấy thâu góp tài sản như thế nào và sử dụng của cải ấy làm sao. Càng có nhiều bao nhiêu, người ấy càng có trách nhiệm bấy nhiêu. Anh ta sẽ sử dụng nó cách ích kỷ hay hào hiệp? Anh ta sẽ sử dụng nó như đó là tài sản thuộc riêng về mình chẳng có ai tranh chấp được hay sẽ dụng nó mà luôn nhớ mình chỉ tạm giữ nó trong tay như người quản lý của Chúa?
Phản ứng của các môn đệ với câu nói của Chúa Giêsu là nếu đó là sự thật thì hầu như được cứu là chuyện không thể nào có được. Chúa Giêsu đã khẳng định trọn vẹn giáo lý về sự cứu rỗi trong một câu ngắn gọn. Ngài phán “Nếu sự cứu rỗi tùy thuộc các nỗ lực của con người, chẳng hề có ai nhờ cố công ra sức mà được cứu cả. Nhưng sự cứu rỗi vốn là một ân huệ của Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự”. Người nào tin cậy vào chính mình hoặc của cải mình có, chẳng bao giờ được cứu. Người nào tin cậy vào quyền năng cứu rỗi và tình yêu thương của Chúa, sẽ được cứu rỗi. Đó là tư tưởng mà Phaolô viết từ bức thư này sang bức thư khác. Và đó cũng còn là tư tưởng dành cho chúng ta để làm nền tảng cho đức tin.
CHÚA KITÔ CHẲNG MẮC NỢ AI (10,28-31)
Tâm trí Phêrô đang suy nghĩ và ông không thể im lặng. Ông vừa chứng kiến một người từ chối không chịu đi theo tiếng gọi “Hãy theo Ta” của Chúa Giêsu. Thật vậy, chính ông vừa nghe Chúa Giêsu bảo như vậy là, người nọ đã tự mình đóng cửa Nước Thiên Chúa lại đối với chính mình. Vì thế Phêrô đã không thể không nêu lên nét tương phản giữa người ấy và chính ông cùng các bạn ông. Người nọ đã từ chối tiếng gọi “Hãy theo Ta” của Chúa Giêsu, nhưng ông và các bạn ông đã chấp nhận và với lòng thành thật, hết sức bộc trực, Phêrô muốn biết khi đi theo Chúa như vậy, ông và các bạn ông sẽ được gì. Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm ba phần.
1/ Chúa Giêsu bảo chẳng hề có ai vì danh Ngài và vì Phúc Âm của Ngài, từ bỏ bất cứ điều gì mà không nhận lại được gấp trăm. Việc xảy ra ngay trong Hội Thánh, điều đó đã nghiệm đúng theo nghĩa đen của nó. Người theo Kitô giáo có thể bị mất hết nhà cửa, bạn bè, những người thân yêu của mình, nhưng việc người ấy gia nhập Hội Thánh Chúa đưa người ấy vào một gia đình gồm toàn bà con thuộc linh rộng lớn hơn nhiều so với gia đình mình vừa lìa bỏ. Việc ấy đã thực sự xảy ra với Phaolô, chắc chắn khi Phaolô trở thành Kitô hữu, cánh cửa nhà ông và nhà bà con đóng lại ngay trước mặt ông. Nhưng điều chắc chắn là khi đi từ thành phố này sang thành phố khác, thị trấn này sang thị trấn khác, làng này qua làng khác tại cả Âu Châu lẫn Tiểu Á. Phaolô tìm thấy một nhà đang mong chờ ông, một gia đình Chúa Kitô tiếp rước ông. Điều lạ lùng là ông thường dùng những từ có tính cách gia đình. Trong Roma 16,13, ông bảo mẹ của Raphô cũng là mẹ ông. Trong Philêmon câu 10, ông bảo Ônêximô là con ông đã sanh ra trong lúc bị tù. Đối với các Kitô hữu thời Hội Thánh sơ khai, mọi việc đều là thế, khi bị chính gia đình từ bỏ, người ấy gia nhập vào đại gia đình rộng lớn của Chúa Giêsu.
Khi Egerton Young rao giảng Tin Mừng lần đầu tiên cho người da đỏ ở Saskatchewan, ý niệm về Thiên Chúa là Cha mọi người đã thu hút những con người mà từ trước đến bây giờ chỉ thấy Chúa trong sấm sét giông bão. Một tù trưởng cao niên hỏi Young “Có phải ông đã thưa với Chúa rằng “Lạy Cha của chúng con không?”. Young đáp “Phải” vị tù trưởng tiếp tục hỏi “Vậy thì Ngài cũng là cha của tôi phải không?” Young đáp “Chắc chắn như vậy”. Gương mặt vị tù trưởng bỗng sáng rực lên cách khác thường, ông ta vung tay lên và nói như người mới khám phá được một điều gì khác thường, ông bảo “Vậy thì tôi với ông là anh em”. Có người phải hy sinh nhiều mối dây ràng buộc với những người thân yêu để trở thành Kitô hữu. Nhưng khi làm như vậy, người ấy đã trở thành một thành viên và anh em trong một gia đình rộng lớn bằng cả thế gian này với thiên đàng.
2/ Thêm vào đó, Chúa Giêsu còn nêu lên hai điểm này nữa. Một là Ngài thêm những từ thật đơn giản: với sự ngược đãi. Mấy chữ này làm cho vấn đề trở thành hết sức sáng tỏ, chẳng úp mở gì cả. Chúng cất đi ý niệm về phần thưởng vật chất cho những hy sinh vật chất. Chúng nói với chúng ta hai điều. Trước hết là lòng thành thật của Chúa Giêsu. Ngài không hề đề nghị một con đường dễ đi. Ngài nói thẳng với người ta răng làm Kitô hữu thì phải trả giá đắt. Thứ hai chúng cho ta thấy Chúa Giêsu chẳng bao giờ dùng của hối lộ, đút lót người ta theo Ngài. Ngài dùng thách thức. Ngài phán “Chắc chắn là các ngươi sẽ được phần thưởng, nhưng các ngươi phải chứng tỏ mình là một con người xứng đáng, một nhà thám hiểm dũng cảm, đủ điều kiện để được lãnh phần thưởng ấy”. Điều thứ hai Chúa Giêsu thêm vào là ý niệm về đời sau. Ngài không hề hứa sẽ tính sổ sòng phẳng, thiết lập quân bình trên cán cân thấu xuất của thời gian và không gian hiện có. Ngài không kêu gọi người ta đến lãnh nhận các phcu1 lộc của cõi đời đời. Thiên Chúa không phải chỉ có một cõi đời này để trả công cho chúng ta thôi đâu.
3/ Rồi Chúa Giêsu thêm một câu cảnh cáo có tính cách dí dỏm “Đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”. Thật ra đây là lời cảnh cáo Phêrô. Có thể chính lúc đó Phêrô đang tự đánh giá mình, tự định đoạt lấy phần thưởng dành cho mình, ông đang đánh giá chúng rất cao. Điều Chúa Giêsu ngụ ý là “Tiêu chuẩn để phán xét tối hậu vốn ở nơi Chúa, nhiều người có thể được người ta coi là tốt, là hay; nhưng đối với phán xét của Chúa có thể trái ngược với phê phán của loài người. Hơn nữa nhiều người có thể tự phê cho mình là tốt, là hay, nhưng cuối cùng sẽ thấy Chúa đánh giá mình cách trái ngược hẳn lại”. Đây là một lời cảnh cáo đối với mọi thái độ kiêu ngạo. Đây là lời cảnh báo phán xét chung thẩm vốn thuộc về Thiên Chúa là Đấng duy nhất biết rõ mọi động cơ thúc đẩy trong lòng người ta. Đây là lời cảnh báo phán xét trên thiên đàng sẽ trái ngược với danh tiếng dưới thế gian này.
Một khung cảnh khá thi vị đã đưa đoạn Phúc Âm mới mẻ này vào mục bàn về cách thức để trở nên môn đệ CHúa Giêsu. Một người đàn ông chợt xuất hiện cản lối Chúa Giêsu (c.17a). như ta sẽ thấy, người Do Thái này biểu lộ lòng kính trong hiếm có đối với Chúa. Cử chỉ quỳ gối của anh ta nằm trong nghi thức phụng vụ (chúng ta đã thấy cử chỉ này nơi người phong hủi: 1,40). Con người vô danh nọ khen tặng Chúa Giêsu bằng cách gọi Ngài là “Thầy nhân hậu” (c.17b). Tuy nhiên, Chúa Giêsu thoái thác lời ca tụng này. Ngài tuyên bố: “Không có ai nhân hậu cả trừ mình Thiên Chúa” (c.18). Hẳn người ta ngạc nhiên về lối đối đáp này. Đứng trước kẻ lạ mặt tượng trưng cho “dân Chúa chọn” trước hết Chúa Giêsu muốn tái xác định điều cốt lõi trong đức tin Do Thái. Chỉ mỗi Thiên Chúa, trong sự siêu vượt tuyệt đối của Ngài mới thủ đắc: “Sự nhân hậu”. Sau khi tán dương Chúa Giêsu người nọ liền đưa ra một câu hỏi thích đáng: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?” (c.17c). Lo tìm hạnh phúc tương lai là điều đáng khái niệm nơi những người Do Thái đạo đức, dẫn đầu là đám biệt phái. Chắc hẳn Chúa Giêsu tán đồng câu hỏi này. Và rồi như bất cứ vị giáo sĩ đương thời nào Chúa Giêsu bắt đầu nêu lên rõ ràng những gì theo truyền thống Do Thái cũng như tư tưởng riêng cá nhân Ngài cho là cốt lõi của luật Môsê. Với tư cách sành sỏi lề luật, trước hết Chúa Giêsu trưng dẫn cho anh ta những đoạn rút từ Mười giới luật (Xh 20,1-17) tức những giới luật Chúa truyền dạy liên quan đến tình yêu đồng loại. Câu “chớ làm hại ai” được thêm vào bản văn Kinh Thánh nhưng tóm tắt được tinh thần toàn bộ văn bản.
Như thế trước con mắt Chúa Giêsu, thực thi giới luật của Chúa là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “cuộc sống đời đời”. Là người thân thiết với bộ luật Torah, anh nọ liền mau mắn trả lời với Chúa Giêsu anh đã “giữ” tất cả các giới luật này từ thời niên thiếu (c.20). Điều ấy chứng tỏ sự ngay thẳng và ngoan đạo của người Do Thái này. Chúa Giêsu lấy làm phấn khởi, và Maccô thích thú ghi nhận điều đó (c.21a). Nơi tác giả Phúc Âm này, cái nhìn của Chúa Giêsu luôn chứa đựng một điều gì đó khó quên được. Đa số thường là cái nhìn giận dữ (3,5; 10,14) hoặc dò xét (3,34; 5,32; 10,23); thế mà ở đây lại là cái nhìn đầy trìu mến, quý chuộng sâu xa. Thành ngữ kế tiếp: “Ngài đem lòng yêu mến” diễn ta một sự phong phú bất ngờ. Trong Cựu ước, tình yêu Thiên Chúa đã khiến Ngài chọn Israel làm dân riêng Ngài (x.Đnl 7,7-8). Cũng chính tình yêu Thiên Chúa thôi thúc Chúa Giêsu chọn lựa người Do Thái tín trung này. Sự chọn lựa được biểu lộ bằng một lời kêu gọi có tính cách đòi hỏi khác thường (c.21b).
Lời kêu gọi ấy đã nhận được một âm hưởng sâu xa trong Giáo Hội. Trong Giáo Hội sơ khai một trong những dấu chỉ của sự “hoán cải về với Chúa Kitô” và thuộc về cộng đồng Kitô hữu chính là sự chia sẻ của cải để phục vụ những kẻ nghèo khó nhất (Cv 2,44; 4,32-35). Tuy nhiên, ở đây trước hết phải nhớ rằng lời kêu gọi của Chúa Giêsu đang ngỏ với một trường hợp riêng biệt, tức ngỏ với người đàn ông đang đứng trước mặt Ngài. Ngài yêu cầu anh ta bỏ tất cả mọi sự để theo Ngài. Đây là lời yêu cầu không phải được nói với tất cả mọi người. Vào đầu Phúc Âm, người ta tìm thấy lời yêu cầu này khi Chúa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20). Chỉ với một số người, chứ không phải với tất cả mọi người, Chúa Giêsu đề nghị họ giải thoát mọi vướng bận để bước theo Ngài. Trước hết, chính kiểu sống này đã được Chúa Giêsu chọn cho mình trong khi thi hành sứ vụ: Ngài là một thừa sai lang thang, hy sinh tối đa những điều kiện của một cuộc sống bình thường, chẳng hạn một mái ấm gia đình và của cải. Hiện nay, Chúa Giêsu vẫn còn đưa ra lời kêu gọi kiểu ấy. Tuy nhiên tất cả ý nghĩa lời mời gọi Ngài nói với người Do Thái trung tín đang chất vấn Ngài hệ tại những từ ngữ này: “Hãy đến và theo tôi” (c. 21d), nghĩa là hãy “đi xa hơn đức tin của cha ông anh” và hãy khởi sự một hành vi hoàn toàn mới mẻ là trở nên “môn đệ của” Đấng Mêsia là chính tôi đây (x.1,17; 2,l4). Sự vượt qua này quả không dễ dàng đúng như sự từ chối của người nọ chứng tỏ (c.22) chỉ mãi đến lúc này chúng ta mới biết được người ấy rất giàu và chính sự giàu có đã ngăn cản không cho anh ta tích cực đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu. Trong cuộc trò chuyện tiếp theo sau đó với các môn đệ, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh điều ấy: Chiếm hữu của cải là một chướng ngại lớn lao ngăn cản người ta bước theo Ngài, bởi vì điều này đòi hỏi sự siêu thoát tự nguyện (x.10,23-31). Ngay lúc đó, chỉ cần người đàn ông được Chúa Giêsu ngỏ lời biết rằng sau khi siêu thoát mọi của cải trần thế của mình, anh ta sẽ được “một kho tàng trên trời” (c.21c)!
Đoạn Phúc Âm này cho chúng ta tham dự vào một ơn kêu gọi bất thành. Tuy nhiên vượt qua trường hợp cá biệt được nêu ra đây, toàn thể truyền thống Phúc Âm đều xem đó là một “bài học kiểu mẫu” (Mt 19,16-22 và Lc 18,18-23). Đằng sau khuôn mặt người Do Thái tín trung với lề luật Môsê từ tấm bé diễn ra lịch sử dân tộc Israel, một dân tộc lấy Thập giới làm quy luật sống để hướng tới “cuộc sống vĩnh cửu” là kho tàng Thiên Chúa hứa cho dân Ngài. Còn ở đây Chúa Giêsu được trình bày như là Đấng Mêsia đến để mặc khải một đòi hỏi cao hơn tôn giáo của người Do Thái. Ngài đòi hỏi đám dân biết tuân giữ luật Thiên Chúa một điều “cao hơn nữa” (x. “Anh chỉ còn thiếu có một điều...” (c.21a). Tin Mừng Chúa Giêsu đề nghị là lời kêu gọi vượt cao hơn. Trung thành với giới luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước “theo” chính Đấng Mêsia nữa. Điểm chính yếu trong trình thuật này không phải hệ tại việc từ bỏ của cải mà hệ tại việc gắn bó với chính Chúa Giêsu; đức tin Kinh Thánh vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do Thái giáo. Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện người đàn ông giàu có này được kể lại ngay giữa cuộc hành trình quyết liệt của Chúa Giêsu tiến về cuộc khổ nạn của Ngài (từ 9,30-31). Không thể theo Chúa Giêsu, tức không thể trở thành Kitô hữu, nếu không biết tự thoát.
NƯỚC THIÊN CHÚA VÀ CỦA CẢI (10, 23-31)
Lời từ chối vừa rồi của người đàn ông giàu có (10,17-22) là dịp để Chúa Giêsu giúp các môn đệ hiểu biết thêm. Giữa Nước Thiên Chúa và của cải có sự tương hợp nào chăng? Một lần nữa Chúa Giêsu đảo mắt nhìn các môn đệ (x. 3,34-35) điều này dự báo Ngài sắp sửa đưa ra một lời dạy quan trọng (c.23a). Và đây là lời dạy đó: “ Những người có của mà vào được trong Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!” (c.23b). Phản ứng của đám bạn hữu Chúa Giêsu cho thấy rõ tâm trí họ phản đối không muốn tiếp nhận một sứ điệp như thế (c.24a). Chúa Giêsu buộc phải nhấn mạnh lần nữa lời cảnh giác của Ngài (c24b). Và để minh họa rõ sự khó khăn này, Ngài đã sử dụng một hình ảnh mà sau này đã trở nên phổ biến: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (c.25). Ở đây rõ ràng Chúa Giêsu sử dụng phép khuyếch đại. Người Đông phương rất thích dùng những kiểu nói khoa trương như thế để kích thích sự chú ý. Và vào thời đó, hình ảnh con lạc đà chở nặng trên mình diễn đạt tuyệt hảo hình ảnh người giàu bị vướng tay vướng chân vì của cải.
Chúa Giêsu rất rành nghệ thuật kích thích cho kẻ khác phải suy nghĩ. Các môn đệ cực kỳ chưng hửng đã đạt ra cho Ngài câu hỏi sau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (c.26). Ai cũng biết Maccô thường có thói quen nêu bật “sự ngu muội” của các môn đệ trước lời giảng dạy khó hiểu của Thầy mình. Lần này, họ cũng ráng hỏi xem cho biết có kẻ nào, ở vào những điều kiện giàu có này, được cơ may cứu độ chăng. “Chúa Giêsu nhìn họ (một lần nữa Ngài muốn khắc ghi vào đầu óc họ tư tưởng của Ngài) và trả lời: “Đối với loài người thì không thể được nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (c.27). Lời quả quyết này rất rõ ràng. Ơn cứu độ hoàn toàn vượt qua những khả năng của loài người. Đó là một ơn nhưng không của Thiên Chúa vì chỉ mình Thiên Chúa mới “có thể” cứu độ loài người.
Chắc chắn quan điểm này còn khiến các môn đệ hoang mang hơn lời cảnh giác trước đó nữa. Bằng chứng là phản ứng của Phêrô người đứng đầu trong nhóm họ (c. 28). Nhân danh nhom Mười Hai, Phêrô thắc mắc muốn biết sự dấn thân của toàn nhóm họ theo Chúa Giêsu có được thưởng gì không? Người ta còn nhớ rõ Maccô đã đánh giá cao việc các môn đệ đầu tiên khi vừa nghe Chúa gọi đã bỏ gia đình và của cải để trở thành môn đệ Ngài (1,16-20). Không lẽ lòng quảng đại lớn lao của họ lại vô ích sao? Nếu đám người giàu có, mặc dù lắm của cải vẫn không thể vào Nước Thiên Chúa thì đã dành, còn những kẻ từ bỏ cả những của cải hợp pháp nhất liệu không có cơ may được vào nơi đó? Những kẻ từ khước các người thân yêu và của cải quý giá để gắn bó với Chúa Giêsu thì chắc chắn sẽ lãnh được một phần thưởng không nhỏ. Và lần này Chúa Giêsu lại dùng phép khoa đại theo lối Đông phương. Họ sẽ nhận “gấp trăm”: trăm lần nhiều hơn những gì họ đã từ khước.
Maccô rất ý thức rằng những gì ông viết ra đây tác động mạnh đến tâm hồn các Kitô hữu Rôma của ông. Để hoán cải về với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài (“vì Thầy và vì Tin Mừng”) một số người trong họ đã phải chịu những chia lìa đớn đau với cha mẹ cũng như phải từ bỏ quyền tài sản của mình. Phúc Âm gia nhấn mạnh: theo gương Chúa Giêsu Đấng đã từng hứng chịu những sự chia lìa này, các Kitô hữu đã tìm thấy được trong cộng đoàn Kitô hữu một gia đình mới và những của cải mới (x, 3,31-35). Ngay từ bây giờ, Chúa Giêsu đã cho họ nếm được chút ít hương vị của diễm phúc tương lai tức “cuộc sống vĩnh cửu”. Tuy nhiên Maccô vẫn nhận thức rõ hiện trạng của các Kitô hữu này không phải là không đen tối. Là người thực tế, Maccô đã chêm “những cuộc bách hại” vào trong chuỗi “phần thưởng” được hứa hẹn! Ông đã đọc lại bằng những từ ngữ tương tự những gì trước đó Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Kẻ nào đánh mất mạng sống vì Thầy và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (8,35). Đoạn Phúc Âm này kết thúc bằng một câu nói mang dáng dấp ngạn ngữ: “Nhiều người trước hết sẽ thành rốt hết, và những người rốt hết sẽ thành trước hết” (c. 31). Câu này xem ra chẳng liên hệ gì đến những điều Chúa Giêsu vừa mới nói về trở ngại của sự giàu có ngăn cản người ta vào Nước Trời. Đây hẳn là một câu nói “trôi nổi” đâu đó của Chúa Giêsu mà các Phúc Âm gia đã quên mất là Chúa đã nói câu ấy chính xác vào dịp nào. Mỗi người tháp nhập câu nói ấy vào một mạch văn khác nhau (x. Mt 19,30 và 20,16). Khởi đầu, câu ấy có thể nhắm đến việc thay đổi tình trạng. Những “kẻ trước hết” tức những người Do Thái, thành viên của dân được Chúa chọn, đã không đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Họ đã đánh mất đi hồng ân được Chúa chọn. Còn “những kẻ rốt hết” tức đám dân ngoại thay thế chỗ của dân Do Thái, đang ào ạt gia nhập Giáo Hội. Tuy nhiên ở đây đối với Maccô, câu nói lẻ loi này mang một ý nghĩa khác, khá phù hợp với tình cảnh hiện thời. Các Kitô hữu bị bách hại được xếp vào hạng người rốt hết trong nhân lọai! Và họ được hứa hẹn sẽ hoàn toàn thoát ra khỏi tình cảnh hiện tại của họ.
Toàn bộ những gì chúng ta vừa đọc nơi Maccô (10,23-31) hầu như cũng thấy ghi lại trong Phúc Âm Matthêu (19,23-30) và Phúc Âm Luca (18,18-30). Điều đó chứng tỏ đây là một giáo lý rất lâu đời nói về “những cám dỗ của sự giàu có” rất dễ bóp nghẹt Lời Chúa trong trái tim các tín hữu. Tư tưởng Chúa Giêsu khởi từ những của cải vật chất (c. 23-27) để lan rộng đến những mối dây liên hệ gia đình (c. 28-31). Chắc chắn tư tưởng này đáp ứng được những vấn đề đặt ra cho Giáo Hội sơ khai một khi nó bành trướng đến những vùng dễ sống hơn. Cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên đã cố gắng nêu gương bằng cách phân chia của cải chung với nhau đến nỗi ở đó không còn người nghèo nữa (x. Cv 4, 32-34).
Cùng đọc song song ba Phúc Âm Maccô, Matthêu và Luca, chúng ta sẽ thấy các vấn đề liên quan đến “đời sống cộng đoàn” đều được mỗi tác giả gom chung vào với nhau. Chính vì thế mà trong ba Phúc Âm nhất lãm, các ý kiến sau đây về các vấn đề của Chúa Giêsu được xếp chung theo cùng một trật tự – Vấn đề hôn nhân và ly dị (Mc 10,1-12) – Trẻ em và những và những kẻ giống như chúng (Mc 10,13-16) – Kêu gọi người đàn ông giàu có (Mc 10,17-22) – Nước Thiên Chúa và của cải (Mc 10,23-31).
Khuôn khổ mà các chủ đề này được đề cập đến thích hợp thật diệu kỳ với chúng ta. Đây là dịp Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để Ngài cảm nhận ở đó sự từ bỏ chua cay nhất là tức là cái chết. Giữa lần loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn (9,30-31) và lần thứ ba sắp xảy ra (10, 32-34), chủ đề “Con đường đạo” đương nhiên cho phép chúng ta xem xét đến những điều kiện để theo Chúa Giêsu và để được vào Nước Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng tiếp nhận đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để theo Chúa.
Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"
Đây là một cảnh sống động. Một người đầy ham muốn: Người ấy chạy đến và sụp quỳ dưới chân Đức Giêsu, vừa thở hổn hển, người ấy vừa đặt câu hỏi.
Khi ta biết người này là ai (nhờ đoạn tiếp sau của trình thuật ta sẽ ngạc nhiên, vì đây là một người có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường: Anh ta giàu sang, có nhiều "của cải lớn", hơn nữa, cuộc sống anh ta ngay thẳng, anh tuân giữ những giới răn từ thuở còn nhỏ. Trong mọi tương quan với người khác. Chắc hẳn anh ta được kính nể. Vậy anh ta còn thiếu điều gì? Anh ta còn cần gì nữa? Tại sao anh ta lại mong ước điều gì khác?
Đức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”.
Đó là câu trả lời sắc bén như dao. Con người giàu có này đã quen với những "tước vị". Vì quá hâm mộ, anh ta nói thêm. Thường thường người ta chỉ gọi Đức Giêsu bằng “Thầy", còn anh ta quen giao thiệp rộng nên đã thêm từ "nhân lành". Đức Giêsu không thích những kiểu nói tâng bốc đó. Người thích sự đơn giản hơn, Người khước từ những tước vị mang tính khoe khoang. Hơn nữa, Đức Giêsu là Người luôn nói về Thiên Chúa. Người luôn hướng về Chúa. Ở đây chúng ta nghe người thốt lên một lời dễ gây ngạc nhiên: Dường như Đức Giêsu không biết Người là Thiên Chúa! Người khước từ chữ "nhân lành”. Đây không phải là trường hợp - duy nhất mà Đức Giêsu khiêm tốn tự cho mình là "thấp kém" hơn Chúa Cha, hơn Thiên Chúa: Một hôm khác người còn dám quả quyết, Người "không biết ngày chung thẩm, mà chỉ có mình Chúa Cha mới biết" (Mc 13,32).
Đức Giêsu nói chỉ có một mình Thiên Chúa mà thôi. Tôi cầu nguyện từ lời quả quyết triệt để này.
“Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”.
Danh sách và thứ tự các giới răn làm cho ta ngạc nhiên. Trước tiên, Đức Giêsu không nêu những giới răn "đối với Thiên Chúa" như là giới răn đầu tiên. Hình như qua tình yêu tha nhân, ta chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa. Thông thường tự nhiên ta dễ nghĩ đến những "bổn phận” về tôn giáo hơn, để đạt đến sự sống đời đời. Một lần nữa, Đức Giêsu hướng chúng ta thiết thân gắn bó với những người anh em của mình, với những mối tương quan nhân bản.
Hơn nữa, Đức Giêsu đã thêm một điều răn mới rất ý nghĩa vào mười giới răn cố hữu: "Chớ làm thiệt hại ai" như thể điều răn này tóm tắt các điều khác. Chúng ta cũng nên để ý rằng, "bổn phận đối với cha mẹ" được kể cuối cùng. "Điều răn thứ bốn” được đời ra sau chót, như Đức Giêsu đã muốn đặt lên hàng đầu những cám dỗ đối với người có tiền của: Lấy của kẻ khác, làm thiệt hại kẻ khác, làm giàu cách bất chính...
Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.
Quả thật đây là một người ngay thẳng, có hướng tâm.
Anh ta tuân giữ lề luật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Người ta tưởng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây. Đây là một người có quyền hưởng sự sống đời đời! Chúng ta hãy nghe đoạn sau.
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Đó là cái nhìn của Đức Giêsu. Tôi cố tưởng tượng lại: Một cái nhìn đầy thương yêu. Đức Giêsu tỏ vẻ trìu mến. Người đang yêu thương. Người cảm động.
Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi."
Vậy sống lương thiện và tuân giữ mọi giới răn cũng chưa đủ sao?
Ta tưởng rằng con người này trung thành không có gì chê trách được, thế mà bây giờ lại gặp một đòi hỏi mới, sẽ rọi chiếu vào tận đáy lòng anh: Anh có tự do không hay chỉ là nô lệ? Thái độ của anh đứng trước tiền bạc của cải vật chất như thế nào?
Thật lạ lùng và đáng ngạc nhiên khi ta liên tục gặp thấy đòi hỏi trên đây của Đức Giêsu. Người không ngớt nhắc lại điều này. Đó là lời kêu gọi đầu tiên của Người: “Hãy theo Ta", tức khắc họ bỏ lưới và cha của mình dưới thuyền... (Mc 1,18-19). Đó cũng là chỉ thị đầu tiên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người sai các ông đi thi hành sứ vụ,Người truyền cho họ không được đem gì đi đường, không bánh, không bị, không tiền trong thắt lưng! (Mc 6,8).
Đó còn là hệ luận đầu tiên phải rút ra từ lời loan báo cuộc thương khó của Chúa: "Kẻ nào muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình" (Mc 8,34). Đức Giêsu đã không bao giờ nói khác Người có những ý nghĩ theo nhau rõ ràng. Người yêu cầu một sự lựa chọn dứt khoát. Người đòi hỏi "trọn vẹn". Muốn theo Người, phải bỏ tất cả. Đây là một đòi hỏi vô biên. Tin Mừng không phải là một cách giải quyết dễ dàng cho mọi vấn đề, mà là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, đầy nguy cơ liều lĩnh tối đa. Thật là một tham vọng quá lớn.
Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải
Đây là một người cũng giống chúng ta thôi. Chúng ta chớ nên lên án anh ta. Chúng ta cũng không thường mong muốn nếp sống hoàn hảo và sự sống đời đời sao?
Thế mà lại không nhất quyết trả giá cho những điều đó Trình thuật về ơn gọi lúc này, nhắc chúng ta rằng chính chúng ta cũng đã từng khước từ những lời mời gọi của Thiên Chúa tới hưởng nguồn vui, mặc dầu bề ngoài chúng ta phải dứt bỏ nhiều thứ sự "buồn bã" của người này rất có ý nghĩa: Anh ta có nhiều tiền, có nhiều của cải lớn, và với sự sung túc này anh ta vẫn không được hạnh phúc. Đó không phải là hình ảnh của phương Tây quá tràn đầy của cải vật chất sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn, và hãy can đảm nhìn nỗi đau buồn đang làm tối sắm khuôn mặt của anh. Đấy phải chăng là dấu hiệu hồng ân đầu tiên đã bắt đầu đến với anh sao? Cho đến lúc đó, anh không ý thức được điều cốt yếu mà anh còn thiếu. Anh vẫn tưởng rằng, của cải là đủ. Bây giờ anh mới biết, anh còn có một định mệnh khác.
Lạy Chúa xin biến những nỗi buồn của chúng con trở nên tích cực, có thể đánh thức chúng con ra khỏi không ảo ảnh và ngủ mê. Chúng con đã được tạo dựng cho Chúa. Tâm hồn chúng con, ước muốn của chúng con quá cao không thể chỉ thỏa mãn những của cải hữu hạn trần gian: "Lạy Chúa, xin hãy đến, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng con được no thỏa”.
Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ
Một lần nữa, Thánh sử Máccô ghi nhận ánh mắt của Đức Giêsu. Chúa nhìn tôi. Chúa nhìn những người mà tôi thương yêu. Chúa nhìn thế giới của chúng ta. Chúa nhìn những đám đông ở những siêu thị. Chúa nhìn dân chúng trong những nước thuộc thế giới thứ ba. Và cái nhìn này không thể lãnh đạm Người bắt đầu nói:
Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Một lần nữa Đức Giêsu tố cáo quyền lực ghê gớm của tiền tài. Đây là một sự cảnh giác thường xuyên trong suốt thời gian rao giảng của Đức Giêsu: "Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và Mammon cùng một lúc" (Lc 16, 13).
Người giàu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần gì đến Thiên Chúa nữa (Lc 12,16-20). Người giàu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy người anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giàu sang bóp nghẹt Lời Chúa (Mt 13,22).
Một lần nữa, chúng ta không nên lên án kẻ khác. Hãy nhận mình cũng là những người giàu: Số tiền trợ cấp thất nghiệp của một người Pháp là cả một sản nghiệp đối với một người châu Phi hay châu Á.
Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ.
Sự kinh ngạc của những môn đệ không phải là không có ý nghĩa. Tâm trạng người Do Thái đinh ninh rằng, sự giàu sang là một ân huệ của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế gian này, nhằm xây dựng và làm cho thế gian thêm giá trị sao? (St 1,27-31). Nhưng phải thú nhận rằng, chính chúng ta cũng không chấp nhận lời này của Chúa Kitô. Thế kỷ 20 càng sẵn sàng hơn để đón nhận luân lý cách mạng sau đây:
- Phải chăng chúng ta làm việc để "kiếm tiền", càng nhiều càng tốt.
- Phải chăng chúng ta mong cho con cái chúng ta làm một nghề "có nhiều tiền".
- Phải chăng hàng ngày chúng ta thường bị sự quảng cáo tấn công, thúc đẩy chúng ta tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và ám chỉ rằng, càng có nhiều, càng hạnh phúc.
Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”
Thay vì rút lại sự cứng rắn trong lời vừa nói, Đức Giêsu lại tăng cường một hình ảnh không thể quên được. Đức Giêsu nhà thuyết giảng nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh và dễ nhớ: Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý. Thực sự, chúng nói lên mạnh mẽ rằng, giữa giàu sang và sự cứu rỗi, luôn có tình trạng xung khắc nhau: Chúng ta phải chọn lựa giữa hai kho tàng này, kho tàng trần gian, kho tàng trên trời. Tiền của là cần thiết. Đức Giêsu không phủ nhận điều đó. Tiền của phục vụ chúng ta, Đức Giêsu đồng ý. Nhưng nếu tiền của thống trị chúng ta, và chúng ta trở nên nô lệ của nó, thì Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi.
Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?" Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”
Lại một lần nữa, cái nhìn của Đức Giêsu, được ghi nhận lần thứ ba trong cùng một trang Tin Mừng. Ở đây Đức Giêsu trích một lời trong Thánh Kinh dành cho Abraham (St 15,14). Mặc dầu tuổi cao, không đủ điều kiện thể lý. Bà Xara sẽ sinh ra một con trai, vì tất cả có thể được đối với Thiên Chúa. Thiên Thần Gabriel cũng đã nói điều này với Mẹ Maria (Lc 1,37). Vậy sau khi lên án khắt khe thái độ chiếm hữu của chúng ta, Đức Giêsu đã mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng.
Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, Chúa đòi hỏi điều không thể làm được. Xin hãy đến giải thoát chúng con! Và tay chúng con sẽ mở ra trước Chúa, để đón nhận những gì còn thiếu trong tình thương của chúng con.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng này cũng giống như Chúa nhật trước, đó là cuộc hành trình lên Giêrusalem, đây là dịp hai lần, và còn lần thứ ba nữa, Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Khi Đức Giêsu vừa lên đường có một người chạy đến trước mặt Người. B.Standaert nhận xét: "Cuộc gặp gỡ với người thanh niên giàu có nêu lên một đề tài quan trọng trong giáo huấn đầu tiên của Kitô giáo: vấn đề giàu có. Thánh sử đạo diễn tấn kịch này hết sức cẩn thận. Từng nấc một, ông đã đưa người ta tiên dần đến điểm giới hạn tột cùng: "Như vậy thì ai có thể được cứu: Có thể nói sự giàu có là một vách đá vững chắc mà mỗi khi vỗ vào các đợt sóng cố gắng của con người đành phải vỡ vụn, cho đến khi Thiên Chúa can thiệp: "Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được" (10,27)" ("L'evangile se lon Marc", Cerf, trang 80).
- Từ lúc đầu của cuộc gặp gỡ, mọi sự báo trước một kết thúc may mắn:
+ Dáng vội vã của người thanh niên "chạy đến" và "quỳ xuống" trước mặt Đức Giêsu, một cử chỉ trong nghi thức phụng vụ.
+ Thái độ sẵn sàng nội tâm ta có thể cảm nhận được qua câu hỏi anh đặt ra: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Trong câu trả lời của Đức Giêsu, Người đã tự xóa nhòa trước Thiên Chúa duy nhất, khi nói chỉ mình Thiên Chúa mới nhân lành, và dành ưu tiên cho mối tương quan với tha nhân, khi Người hướng dẫn người thanh niên về lề luật Thiên Chúa: "Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ”.
+ Lòng ngay thẳng và trung thực của anh được bộc lộ qua câu trả lời Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi tuân giữ từ thuở nhỏ” J.Potin nhận xét: "Đức Giêsu biết mình gặp được một người Do thái sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và luôn cố gắng tôn trọng tha nhân trong mọi hoàn cảnh. Hẳn người này thuộc hạng người có phẩm chất tốt hơn những người giàu có khác mà Chúa thường gặp" ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 233).
Bấy giờ Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh (lưu ý là trong vài câu thôi mà Máccô đã nói tới ba lần về điểm này) và Người mời anh. Lời mời gọi này là chóp đỉnh và khúc ngoặc quyết định vì cuộc gặp gỡ này.
+ Đức Giêsu "đưa mắt nhìn anh ta" và "đem lòng yêu mến”.
+ Một ánh mắt đầy âu yếm và quí trọng, được diễn tả ngay thành một lời mời gọi tha thiết: "Anh chỉ còn thiếu có 1 điều là hãy bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”.
Đức Giêsu đề nghị dẫn anh đi xa hơn nữa trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, con đường tuy gồ ghề, nhưng chỉ là nối tiếp đường anh đã đi từ thuở nhỏ để được sụ sống đời đời làm gia nghiệp; đó là: từ bỏ của cải để cho người nghèo.
Nhưng điều hoàn toàn mới nằm trong lời mời gọi ở câu kết "Rồi hãy đến theo tôi” Đức Giêsu mời gọi người Do thái trung thực này vượt lên khỏi đức tin của cha ông để gắn bó với Người, là trở nên môn đệ của Người.
“ Nghe lời đó”, cuộc gặp gỡ từ đầu đến đây đã diễn tiến đầy hứa hẹn, bỗng đột ngột chấm dứt: "Người thanh niên sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi”, thánh sử cho ta biết, bởi vì "anh ta có nhiều của cải”.
Trên đường đi theo Đức Giêsu, người thanh niên giàu có này gặp phải một chướng ngại, đó là lòng gắn bó với gia tài sản nghiệp. Của cải như tấm kính mờ đã che lấp ánh sáng, lúc ánh sáng muốn thâm nhập vào lòng anh. “Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi". Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến anh. Nếu niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng tới Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui to lớn thế nào thì giờ đây, thay vào đó, là một nỗi buồn sâu xa không kém. (Sđd, trang 234).
2. Đến mắt Chúa nhìn các môn đệ
- Người thanh niên giàu có vừa đi khỏi, Đức Giêsu liền đưa mắt nhìn các môn đệ đang "ở chung quanh Người”.
+ Người tuyên bố: "những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”. Người còn làm cho các môn đệ sững sờ hơn khi nhấn mạnh theo kiểu phương Đông: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.
+ J. Potin giải thích: "Các môn đệ càng cảm thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giàu càng có nhiều thuận lợi. Có tiền thì người giàu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo Luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo. Dường như có một thoả thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giàu. Như vậy, giàu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa đó sao?" (Sđd, trang 234).
Bởi đó mới có câu hỏi: Thế thì ai có thể được cứu rỗi? Nếu người giàu không được cứu rỗi, thì còn ai có thể được? J. Potin giải thích tiếp: "Nếu họ theo sát lối tư duy của đạo truyền thống, những người không thể có đủ tiền mua những lễ vật dồi dào, không mua được những bộ chén dĩa cần thiết để giữ luật lệ sạch sẽ; còn người giàu, họ có thể mà!" (Sđd, trang 235).
+ Nhìn các môn đệ một lần nữa, Đức Giêsu nói thêm: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. Đây là lời tuyên xưng niềm tin cậy đã ghi một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Kitô giáo ngay từ buổi đầu. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Apraham về việc Sara sẽ làm mẹ, dù bà hiếm muộn tuổi già: "Có phép lạ nào mà Chúa không thể thực hiện được?”. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Đức Maria về việc bà Êlisabét sắp sinh con trong lúc tuổi già: "Bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được" đấy sao? Chúng ta không được cứu nhưng việc thực thi các lề luật, hoặc nhờ những của lễ sang quí giá, hay nhờ việc từ bỏ, hy sinh anh hùng; ơn cứu độ là ân huệ cần phải đón nhận, chính Thiên Chúa đưa ta vào Nước Trời, ân sủng cao cả của Người có thể làm nên những việc lạ lùng. Câu nói trên của Đức Giêsu là một lời cổ vũ làm cho cái khó của sứ điệp trước giảm nhẹ đi. Câu chuyện kết thúc khi Phêrô hỏi: “Thầy coi, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy”? Đức Giêsu hé mở cho thấy niềm vui ‘trăm lần’ những gì đã từ bỏ, niềm vui ấy, bất cứ ai đã bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng sẽ cảm nghiệm được ở đời này và đời sau. Nhưng Người cũng không che giấu những cuộc bách hại đang chờ họ. J. Potin kết luận: "Người môn đệ phải tham gia vào việc rao giảng Tin Mừng với Đức Giêsu. Nhưng cũng như Người, giữa niềm vui về những điều thiện hảo của Nước Chúa, họ phải chuẩn bị để chịu đựng những cuộc bách hại. Ngay từ buổi đầu Đức Giêsu đã đào tạo họ theo chiều hướng này! Phạm trù để phán xử đều bị đảo lộn, người giàu mà ta trông thấy đang ở chỗ nhất trong Nước Trời, nay bị đưa xuống chỗ rốt hết. Còn môn đệ và người nghèo được mời lên ngồi vào chỗ nhất, sau khi đã cùng Thầy mình trải qua thử thách của sự bách hại”. (Sđd, trang 235).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Con đường khó đi
Đức Giêsu lên đường. Ta sẽ biết con đường ấy dẫn đến đâu: "Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp…”. Ngay lúc ấy, có một người đến tìm Người. Anh ta đi tìm sự sống, sự sống đời đời. Anh ta đã nghiêm túc tìm kiếm bằng con đường tuân giữ các giới răn: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Anh ta cảm thấy cần phải tiến xa hơn, nên đến hỏi Chúa: "Tôi phải làm gì?”. Và Đức Giêsu đem lòng yêu mến anh. Người yêu mến sự tìm kiếm và lòng quảng đại của anh. Người chỉ đường cho anh: "Anh chỉ còn thiếu một điều: hãy đi bán những gì anh có…” Nhưng con đường này làm người thanh niên khiếp sợ bởi vì anh ta có nhiều của cải? Con đường này cũng khiến các môn đệ khiếp sợ vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa: "Như vậy thì ai có thể được cứu?” Bấy giờ, Đức Giêsu mời gọi nhìn vào cái vô hình. Người bảo đảm với người thanh niên: “Anh sẽ được kho tàng ở trên trời? Nói với Phêrô, Người hứa ban "gấp trăm lần" và mai sau được sống đời đời. Như Đức Giêsu, số phận của các môn đệ được sắp đặt trên nền tảng của sự vĩnh cửu. Vật đặt cược chính là sự sống đời đời. Và cái khó ở đây là phải ưu tiên cho cái vô hình trước cái hữu hình ta đang có. “Đối với loài người thì không thể được”. Đây là một cuộc Vượt qua của Đức Giêsu. Đức Giêsu sắp hy sinh mạng sống. Người mời gọi ta theo Người, từ bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng. Hy sinh mạng sống vì những điều này cũng đáng lắm, nhưng thực hiện cuộc vượt qua này trong đức tin và không có cái hữu hình lôi cuốn mình là điều không phải dễ. Chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới có thể thực hiện điều đó nơi ta: đối Thiên Chúa mọi sự đều có thể được? Nhưng còn cần ta để cho Người thực hiện.
2. Bước vào con đường khôn ngoan đích thực, khôn ngoan của Thiên Chúa.
"Parole de Dieu pour la méditation ét l'homélie", tr. 124-125).
Đức Kitô là Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa nhập thể. Ai đặt tin tưởng vào Đức Kitô, thì từ nay sẽ không theo sự khôn ngoan nào ngoài Lời của Đức Kitô. Thư gởi tín hữu Do Thái dạy ta điều này rất rõ. Đối với người Kitô hữu, Đức Kitô, Lời chân thật của Thiên Chúa trở nên một tiêu chuẩn tối hậu để nhận biết sự khôn ngoan đích thực. Bởi vậy, lời của Đức Giêsu tuy có vẻ điên rồ trong cách suy luận của ta, nhưng vẫn là lời khôn ngoan hơn bất cứ danh ngôn phàm trần nào.
Chính điều đó đã thể hiện trong truyện người thanh niên giàu có theo Tin mừng Máccô. Anh chạy đến Đức Giêsu. Anh đi tìm sự khôn ngoan. Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời? Đức Giêsu nói theo lương tâm đạo đức ngay thẳng của ngươi thời đó, Người nhắc nhở anh về những giới răn của luật Môsê. Nhưng tất cả các giới răn đó anh đã giữ cặn kẽ từ nhỏ. Nếu anh đến tìm Chúa, là vì anh khao khát điều gì khác, điều mà việc tuân giữ các giới răn đã không thoả mãn được.
Đức Giêsu chăm chú nhìn anh. Trước khát vọng của anh, Người ban cho anh một thời mới mẻ. Người mở ra trước mắt anh một con đường, mà dù có trung thành cặn kẽ mấy đi nữa, anh cũng không nghĩ ra. Người đề nghị với anh một điều có vẻ điên rồ trước mắt người đời: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, rồi hãy đến theo Tôi.
Ta chỉ hiểu những lời này qua hệ luỵ chúng gây ra trong cuộc sống của ta thôi. Nào là bỏ tất cả, mất tất cả, bán tất cả, cho tất cả. Nhưng điều quan trọng không ở đó. Điều quan trọng nằm ở phần thứ hai của câu nói: Rồi hãy đến theo Tôi! Theo Đức Giêsu là theo Lời Thiên Chúa, là theo Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là muốn Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa hơn tất cả mọi sự. Chỉ có lòng yêu mến như vậy, tuy không thấy, không nắm bắt được, mới biện minh cho hành vi từ bỏ tất cả mọi sự được. Khốn nỗi, việc mất đi mọi sự che lấp chân trời rộng mở, cản trở ta cảm nghiệm được Sụ Khôn Ngoan đích thực của Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là dám liều mất tất cả. Và đó là điều Chúa đòi hỏi. Bạn có đủ tin tưởng vào Tôi để nghe theo lời tôi khuyên nhủ không? Thực sự, bạn chỉ cảm nghiệm được giá trị của nó sau này thôi! Còn lúc này, bạn có thể tin tôi không, khi tôi nói rằng bạn sẽ được thoả lòng?
Thật ra, Đức Giêsu đặt người thanh niên vào đúng vị trí của ông Apraham. Cha của Người trong đức tin. Người đề nghị với anh hãy tin và hãy tín nhiệm vào Lời vừa đòi hỏi vừa hứa hẹn.
Tin Mừng thuật rằng: người thanh niên bỏ ra về, bởi vì anh có nhiều của cải. Và Tin Mừng cũng nói rõ thêm: Anh sa sầm nét mặt. Niềm vui đã tan biến. Khát vọng chân thật mà người thanh niên bộc lộ lúc ban đầu gặp Chúa, bây giờ tàn lụi, tắt ngấm. Nó không còn có thể làm nẩy sinh niềm vui đến từ lòng khát vọng sống động.
Trình thuật này được viết ra không phải để chúng ta buồn lòng về trường hợp người thanh niên ấy, nhưng để Lời Chúa đánh động tâm hồn ta. Lời Chúa cũng muốn vươn tới khát vọng chân thật của ta, cũng muốn khát dậy đức tin chân thật nơi ta, Người muốn đưa ta vào con đường khôn ngoan chân thật, là Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với người giàu có (10, 17-22) là tổng hợp một giai thoại tiểu sử trong đó có một chuyện xảy ra giữa hai người và một đối thoại giáo huấn trong đó vấn đề được bàn cãi dưới hình thức hỏi thưa. Câu hỏi được người kia đặt ra nhằm chuyện đạt tới sự sống đời đời (10, 17).
Đối tượng của câu hỏi này - sự hoàn thành cánh chung không có gì là khác thường cả. Kẻ đặt ra nó muốn đối thoại về điều phải làm cách cụ thể để đi theo con đường dẫn đến sự sống mới. Nhưng khi đáp (10,18), Chúa Giêsu không lưu tâm mấy đến nội dung câu hỏi, mà chỉ chú ý đến cách thức kẻ kia xưng hô với Người: "Thầy tốt lành". Người từ chối cách gọi, viện lẽ rằng không được gọi một ai là "tốt lành", ngoài Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người kia, một kẻ vùa giàu có vừa đạo đức, phản ảnh cả một ngộ nhận. Qua cử chỉ quỳ gối (10,17) và Cách xưng hô của ông, Chúa Giêsu gặp được cơ hội để đánh tan ngộ nhận này. Chỉ Thiên Chúa là “tốt lành” thôi. Khi nhất quyết chỉnh lại điều người trẻ tuổi đã nói như thế, Chúa Giêsu chuyển hướng anh ta khỏi bản thân Người. Sứ mạng của Người đòi hỏi chỉ mình Thiên Chúa mới đáng nhận các vinh dự thần linh. Ta không thể hiểu lầm ý hướng này trong câu trả lời của Chúa Giêsu được, dù cho tiếng xưng hô “Thầy tốt lành" có thể chỉ là một công thức lịch sự quy ước (trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã dùng chữ "tốt lành" cho một nghĩa mà người kia đã không hề nghĩ tưởng), hoặc cho dù - trái ngược với mọi quy ước - tiếng xưng hô đô đã diễn tả tính cách độc đáo của vị "Thầy" này. Trong cả hai trường hợp Chúa Giêsu muốn tránh bị đồng hóa với Thiên Chúa bằng một cách có thể là một sự ngộ nhận. 10, 19 trả lời cho đối tượng của câu hỏi 10,17. Chúa Giêsu nhắc lại cho kẻ đối thoại điều anh đã biết từ lâu: nếu muốn tham dự vào sự sống mới, phải chu toàn các nghĩa vụ đối với tha nhân đã được liệt kê trong Thập Điều. Nhưng câu “Tôi phải làm gì?" thực tế có nghĩa "tôi phải làm sao": tôi phải sống làm sao để tuân giữ giới răn Thiên Chúa, làm sao tôi có thể vâng theo Lề luật? Nên Chúa Giêsu không trả lời được câu hỏi của người giàu có, khi chỉ nhắc lại cho anh các nghĩa vụ đối với tha nhân; và ngay tức khắc anh muốn có những chỉ dẫn chính xác hơn, bằng cách nhấn mạnh rằng mình vẫn trung thành giữ Lề luật (10,20). Vì chợt hiểu rằng kẻ đối thoại muốn xin mình một điều gì khác hơn là giáo huấn xưa nay của bất cứ một giáo sĩ nên Chúa Giêsu chăm chú nhìn anh, và có thế bảo Người nhận ra anh trong giây phút đó; Người đem lòng yêu mến anh, mời gọi anh đi theo làm môn đồ Người (10,21) trước câu hỏi về "sự sống", Chúa Giêsu đáp lại bằng cách gọi anh vào số các môn đồ, đề nghị anh đi theo Người chẳng đưa ra phương thức, "mẹo vặt" để hoàn tất các quy khoản của Lề luật. Điều Người muốn nói không thể bàn bạc trong khung cảnh một cuộc đàm thoại thầy trò. Con đường dẫn đến sự sống mà người đưa ra phải đi qua việc bắt chước Người, qua việc sống chung với Người, bởi vì không có cách nào khác để hiểu được sự mới mẻ mà Người muốn mặc khải. Nhưng đi theo Người, nghĩa là trước tiên chấp nhận sống với Chúa Giêsu một cuộc đời lang thang, đầy bất trắc và thiếu thốn, chỉ có thể thực hiện với một điều kiện: phải độc lập. phải thoát khỏi mọi ràng buộc vong thân. Chính vì thế Chúa Giêsu đòi hỏi người giàu có trước tiên phải bán gia tài và cho kẻ nghèo tất cả tiền bạc. Đòi hỏi này được ngỏ cho những ai, với tư cách là môn đồ và về sau là sứ đồ, thuộc nhân thân tín nhất của Chúa Giêsu. Không nên nới rộng nó cho bất cứ ai muốn tiếp nhận sứ điệp của Người. Và đòi hỏi chẳng phải là một lời nguyền rủa quyền chấp hữu kiểu nhị nguyên thuyết (điều hoàn toàn ngược với Do thái giáo và như thế với lịch sử), cũng không phải là một quan niệm xã hội về sự phân phối của cải vật chất. Nó chỉ nhằm sự độc lập của môn đồ. Lời cam kết "kẻ bán tất cả và cho kẻ nghèo khó hết sẽ nhận được một kho báu trên trời" muốn diễn tả, dưới một hình thức châm ngôn, rằng trước mắt Thiên Chúa, cách hành động như vậy là phải.
Câu 22 kể lại cách thật vắn tắt một ơn gọi thất bại như thế nào: người được gọi chẳng sẵn sàng từ bỏ của cải. Không trình bày các lý do chủ quan, trình thuật chỉ cho ta thấy một con người đã không thể hiểu rằng điều kiện của một cuộc sống môn đồ là sự độc lập, và vì thế đã "buồn bã bỏ đi". "Con đường đến sự sống" mà Chúa Giêsu chỉ cho anh vượt quá anh. Trong tư tưởng các người Do thái đạo đức, mối bận tâm lo lắng cho các kẻ nghèo được kể là sự thực hành chính yếu Lề Luật. Nhưng chính vì lý do này mà tài sản đã mang tính cách một điều kiện cần thiết để hành động trong chiều hướng Lề luật đó. Thành thử chính những nghĩa vụ xã hội và tôn giáo bén rễ sâu đã cản trở người giàu có đáp ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu. Lời mời gọi này có tính cách cá nhân, nó kêu mời một cá nhân cụ thể hãy bỏ môi trường sống của mình. Thế nhưng, lời rao giảng Kitô giáo sơ khai đã muốn chuyển tiếng gọi này của Chúa Giêsu vào trong một cuộc sống đặc biệt. Bên kia chi tiết tiểu sử về vận mạng của người giàu có, nhưng cũng bên kia những tổng quát hóa thiếu suy nghĩ, cần phải làm nổi bật sự đòi hỏi đối với người môn đồ là độc lập với của cải và những trói buộc xã hội, đồng thời phải cho thấy sự giàu có trói buộc và nô lệ hóa con người đến chừng nào.
II. NGUY HIỂM CỦA CỦA CẢI ĐỐI VỚI VIỆC ĐI VÀO VƯƠNG QUỐC THIÊN CHÚA.
Việc nối kết trực tiếp đoạn 23-27 với văn mạch trên cho ta thấy tư tưởng vừa nói có một tầm mức tổng quát. Trong khi nơi giai thoại kêu gọi chàng thanh niên giàu có, điểm chính yếu là ơn gọi cá nhân của một môn đồ và sự thất bại của ơn gọi này, thì trong đoạn tiếp theo, đó là vấn đề sự nguy hiểm tổng quát của của cải đối với việc đi vào Vương Quốc Thiên Chúa. 10,23 và 10,25 hình như đi chung với nhau. Chúa Giêsu nêu lên một nhận xét: mặc dù kẻ giàu có mà Người vừa muốn chọn làm môn đồ, đã có thái độ nghiêm chỉnh đối với sự sống đời đời và con đường đưa tới đó (x. 10. 17.20), nhưng còn quyến luyến của cải đã khiến anh không thể đáp ứng lời mời gọi. Những người giàu có cũng vậy, không thể vào Vương Quốc Thiên Chúa. Trong khi c.23 chỉ là một lời than thở: “Khó biết bao...", thì hình ảnh con lạc đà không thể chui qua lỗ kim (10,25) nói rõ rằng trong thực tế một người giàu có vào được Vương Quốc Thiên Chúa là một chuyện không thể được (chứ chẳng phải là có thể, nhờ một quyết định tự do nào đó). Câu châm ngôn đưa ra hình ảnh còn vật lớn nhất có thể có và lỗ nhỏ nhất có thể có, nhắm mục đích cho ta như sờ tận tay tính cách bất khả: sự giàu có và những trói buộc nó gây ra có sức độc chiếm mạnh đến nỗi con người hầu như không còn sức lực và sự chú tâm mà quyền tối thượng của Thiên Chúa đòi hỏi.
Những lời buồn bã, trầm tư của Chúa Giêsu khiến các môn đồ (10,24) và dân chúng phát sợ (10,26). "Thế thì ai còn có thể được cứu?". Trong câu trả lời (10,27), Chúa Giêsu không làm nhẹ bớt tính cách nghiêm khắc của lời vừa nhận định trên. Trái lại, Người chấp nhận cho người ta nới sự bất khả đó không những đối với các kẻ giàu, mà còn đối với tất cả mọi người nữa; và Người tuyên bố: chẳng ai có thể tự cho mình có đủ điều kiện để vào Vương Quốc Thiên Chúa được. Nhưng đối với Thiên Chúa, việc tạo nên tức khắc cái còn nếu nơi con người là chuyện có thể. Lời này chứng tỏ rằng, theo giáo huấn của Chúa Giêsu, chẳng ai, dù là kẻ giàu có không sẵn sàng trước quyền tối thượng thần linh, bị loại ra khỏi lòng thương xót của Thiên Chúa: Thiên Chúa có thể ban sự tham dự vào đời sống mới cho bất cứ người nào, mà không lệ thuộc vào những dự kiện của người đó.
III. PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO NHỮNG KẺ TỪ BỎ MỌI SỰ.
Với c. 28 bắt đầu phần thứ 3 trong đoạn nói về việc bắt chước Chúa Giêsu và sự độc lập mà việc bất chước này đòi hỏi đối với những sở hữu vật chất. Đáp lại câu hỏi của Phêrô liên quan đến phần thưởng cho những kẻ đi theo Chúa Giêsu (10,28), Chúa Giêsu trả lời bằng cách lấy lại ý tưởng phần thưởng: kẻ tháo gỡ tất cả mọi liên hệ nhân loại và vật chất (10 29) để sống như môn đồ Chúa Giêsu và sứ đồ Tin Mừng thì sẽ nhận được một tiền lương "gấp trăm những gì đã rời bỏ.
Tiền lương đó gồm có không gì thì Chúa Giêsu nói bằng một ám dụ bởi vì việc lặp lại trong c.28 những của cải đã từ bỏ không có nghĩa gì khác hơn là một ám dụ). Tất cả những gì họ dã rời bỏ sẽ được ban lại cho các môn đồ ngay từ đời này "cùng với những sự bắt bớ" - và còn trong đời sau, họ sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu. Lời này phản ảnh rõ ràng hoàn chỉnh của cộng đoàn sơ khai và chắc đã phát xuất từ cộng đoàn dưới hình thức đó. Vì chính Chúa Giêsu, khi nói về phần thưởng, chắc đã chỉ nói đến "sự sống đời đời" thôi. Phần thưởng khi "ngay từ đời này" - gia đình và của cải - được nêu lên dựa vào hoàn cảnh của cộng đoàn sơ khai; bởi vì đối với người Tông đồ, cộng đoàn thay thế và tượng trưng gia đình, của cải và công việc Cộng đoàn xem việc không nên để người loan báo Tin Mừng ra đi hai bàn tay trắng như là một nghĩa vụ.
10,31 là một châm ngôn thông dụng trong nhóm thân hữu của Chúa Giêsu, nó chỉ đảo ngược các ngôi thứ vào ngày tận cùng. Ý nghĩa của câu tùy thuộc mỗi hệ thống quy chiếu. Trong văn mạch của Mc, cần phải tuy chiếu nó với vấn đề được thảo luận ở trên: một người vì Tin Mừng mà sống bên lề xã hội sẽ trở nên thế nào? Khi đời sống mới sẽ được thiết lập, những "kẻ sau hết" trong bậc thang giá trị xã hội sẽ trở nên những "người trước hết", nghĩa là những người được trọng vọng nhất, những người có giá trị tiêu chuẩn. Bởi thế lời này vốn cũng có thể hiểu như một lời cảnh cáo tính kiêu căng, ở đây mang tính chất một lời hứa đầy an ủi, một lời phấn khích cho các môn đồ vì lòng bất vụ lợi của họ.
Ingo Hermann, L’Evangile de Saint Marc. II, tr.40-46.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đoạn Tin Mừng về người giàu có được Chúa Giêsu để ý vì đem lòng yêu thương, nhưng ông đã không thể yêu thích lời mời gọi Chúa Giêsu hơn là giàu có của cải, là một đoạn rất được biết đến. Có một câu tuy ngắn, nhưng ý nghĩa lời rất thâm sâu: ông ta sa sầm nét mặt lại và buồn bã bỏ đi. Đó là cái buồn vì phải thất bại. Lựa chọn bước theo Tin Mừng là thành công của con người, cũng như làm nô lệ cho tiền bạc thế gian khiến họ thất bại. Hai điều đều đúng như nhau. Tin Mừng luôn luôn nhắc lại cho chúng ta nghịch lý này: Ai từ bỏ chính mình và thế gian vì muốn theo Chúa Kitô sẽ được.hưởng niềm vui vì đã thành công ở trong cuộc sống; trái lại ai từ chối chúa Giêsu và thập giá Người vì quá gắn bó với mình và với vật chất sẽ gặp u buồn vì đã thất bại ở trong đời mình.
2. Tại sao trong thế giới văn minh vật chất hiện nay, người ta thường nói tới hưởng thụ mà ít nói tới niềm vui. Vì khi con người chỉ biết bám riết vào thế giới này, xem nó như là tuyệt đối thì đương nhiên đã phát sinh lầm mống thất bại, làm mất linh hồn. Nào có ích gì cho con người nếu chiếm được trơ trụ mà mất linh hồn? Ngày nay, chúng ta chứng kiến biết lo âu lo khắc khoải, xung đột, u buồn trong thời đại ta, một lời đại chỉ biết tích trữ "của ăn vật chất" để rồi sẽ nổ tung ra. Ngày nay hơn bao giờ hết, môn đồ Chúa Kitô phải biết làm chứng cho Người. Tiến bộ kỹ thuật rất tốt, nhưng với một điều kiện là chúng không được làm chúng ta xa rời đức công bình, tình yêu thương và lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúa Giêsu kêu mời môn-đồ Người làm chứng rằng Người đặt ưu thế giá trị thiêng liêng ở trên việc hưởng lạc vật chất; là ưu thế này phải có không những trong cuộc sống riêng tư mà còn trong sinh hoạt xã hội, nghề nghiệp, chính trị. Để tránh cho thế giới khỏi phải sống không có niềm vui, người Kitô hữu có sứ mệnh đáp lại lời mời gọi đó của Chúa Kitô.
3. "Anh chỉ thiếu một điều...". Điều duy nhất mà người kia còn thiếu chính là điều anh vẫn thiếu từ bao lâu. Điều duy nhất đó, Israel đã tìm kiếm trong suốt cả lịch sử. Điều duy nhất đó là chính Thiên Chúa duy nhất bây giờ đã trở nên rất gần trong Chúa Giêsu đến nỗi chỉ có một việc là đi thro Người. Đối với chàng thanh niên giàu có, tuân giữ các giới luật bây giờ chính là đi theo Chúa Giêsu, là tiếp tục tuyên xưng lòng tốt lành của Thiên Chúa duy nhất mà bây giờ tự ban mình trong bản thân Chúa Giêsu.
4. Ở đây, lại một lần nữa, Chúa Giêsu loan báo một sự đảo ngược các giá trị. Người đã nói rằng: sự giàu có, theo quan niệm Do thái, là một dấu chỉ được Thiên Chúa chúc phúc, thì trong thực tế nó đã trở thành một tai họa. Giờ đây Người đang rao giảng giá trị thiêng liêng cao quý của việc từ bỏ mọi liên hệ mật thiết nhất: cha mẹ, nhà cửa, ruộng vườn. Trọng tâm Lời Chúa dạy nằm trong câu ngắn gọn này: Không ai vì Ta và vì Tin Mừng từ bỏ nhà cửa. Câu "vì Ta" là câu căn bản. Có sự đảo ngược các giá trị không phải vì biết chọn một điều khôn ngoan, một hệ thống triết học, một ý thức hệ, mà chính vì tình yêu Chúa Kitô, vì biết quyết định để theo con người Chúa Kitô.
Mỗi nền văn hóa hay mỗi lớp dân đều có những cái nhìn, quan niệm, tức niềm tin để đo giá trị đời sống, cho cái gì là quí, là sang giầu.
ĐI THĂM LÀNG AMISH
Đầu tháng 10 năm 2006 xẩy ra vụ anh chàng Mỹ điên Roberts chạy vào một nhà trường của dân Amish ở Pennsylvania bắn chết 5 em bé gái đã làm cả thế giới sửng sốt. Và nhiều người đi tìm hiểu thêm một lớp dân rất lạ này.
Tháng 10 năm 2006 tôi cũng có dịp ghé tận ngôi trường của dân Amish này ở quận Lancaster bang Pennsylvania nơi xẩy ra vụ án mạng. Nguyên vùng này cũng đã có khoảng 50 ngàn người Amish. Dân Amish ở vùng bắc nước Mỹ có một lối sống rất khác đời, bơi ngược nền văn hóa đương đại, nhưng lại xem ra rất giầu có và an bình hạnh phúc. Họ thuộc một lớp dân theo hệ phái Kitô giáo đặc biệt do Jacob Amman qui tụ, vì thế gọi là Amish. Họ từ Thụy Sĩ bị bách hại phải chạy sang Đức rồi sang Mỹ khoảng năm 1730, nhất định sống với nhau thành những cộng đồng riêng biệt trong những nông trại ở một số tiểu bang miền Bắc Mỹ. Một trong những phong tục đặc biệt của người Amish là khi con gái đi lấy chồng, bà mẹ tự tay làm cho con một búp bê không mặt, nghĩa là trên mặt không vẽ mắt, mũi, miệng, tai gì hết, và các ngón tay ngón chân cũng không rõ nét. Mà bà mẹ nào cũng làm như vậy, không cần phải đẹp đẽ cầu kỳ gì cả, nhưng mỗi búp bê đều mang sắc thái riêng, nhận ra ngay nét riêng biệt của người mẹ mình làm. Trao búp bê không mặt cho con là trao một của hồi môn đầy ý nghĩa, sẽ làm cho con giầu lắm, chứ không bao giờ trao vàng bạc gì cả, vì người Amish không đeo vàng, không trang điểm. Thậm chí áo họ mặc thường ngày cũng không có cúc, vì cúc cũng là đồ trang sức khoe mẽ.
Con búp bê đó sẽ để mãi trong phòng, luôn nhắc nhở cho con rằng không cần phải sơn trét vào mặt những vinh hoa giả tạo. Vì mặt con được tạo dựng giống Chúa rồi. Còn mặt nào đẹp hơn? Bên trong nội tâm con, dưới mái nhà con, đã sẵn kho tàng giầu có rồi, con hãy hướng vào mà khai mỏ, mà xây dựng cho gia đình con thành một tổ ấm. Con hãy tập âm thầm chịu đựng, ẫn mặt đi và bằng lòng thua thiệt thì gia đình mới hạnh phúc được. Còn cứ đua đòi lo giương mặt ra, thì dễ thành mặt thớt, mặt mo, mặt mẹt...
Đạo sống diễn tả qua nét văn hóa của họ là không để thói phô trương chạy theo thị hiếu làm hủy hoại đời sống hạnh phúc giản đơn, nên nhà họ không có những gì mà khoa học thời mới phát minh ra như điện, xe hơi, điện thoại, Tivi. Khó có thể tưởng tượng nổi rằng ở ngay trên đất Mỹ này bây giờ mà vẫn có nhiều người như thế chủ ý không sài đèn điện, không mua sắm Tivi, tủ lạnh, máy giặt, máy sấy, không mất tiền cho bất cứ gì gọi là máy móc. Họ có một đời sống rất ngăn cách với thế giới bên ngoài, không chịu để người lạ bước vào trong gia đình họ. Quần áo của họ thường mang mầu đậm và rất giống nhau, hầu như đồng phục như các cộng đoàn tu sĩ, nên cũng chẳng có nhu cầu hơn kém đua đòi.
Quả thực, niềm tin của họ đã diễn ra thành một nếp sống văn hóa rất đặc sắc. Bao lâu còn phải mải miết tìm kiếm vơ vào tức là còn thiếu, còn chưa giầu đủ. Người dân Amish thì nhìn thấy rõ rằng cuộc đời này tự nó đã là giầu có rồi. Được sinh ra trên mặt đất này, được hưởng sự sống lại chẳng phải là điều vui thoả lắm sao? Bầu trời kia, sông núi kia là nhà mình chứ sao cứ phải lo vun quén dựng rào dậu mà ngăn chận co rúm lại?!
KHI NGƯỜI NHẬT NẢN CHÂN BON
Hết hội nghị thượng đỉnh G8 lại đến G20, gồm những anh giầu nhất thế giới, gọi là cường quốc kinh tế, đều do ông Mỹ dẫn đầu. Ngày 15 tháng tám năm 1995, Nhật kỷ niệm 50 năm bại trận, đầu hàng vô điều kiện sau hai trái bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Nagasaki và Hiroshima. Ngày 15.8.1945, Nhật là một trong những nước nghèo nhất thế giới, các thành phố bị san bằng. Nhiều người chỉ được ăn mỗi ngày một củ khoai.
Năm mươi năm sau, Nhật thành cường quốc kinh tế thứ nhì chỉ sau Mỹ, nhưng lợi tức mỗi gia đình là 31 ngàn rưởi Mỹ Kim một năm, so với Mỹ chỉ có 24 ngàn. Thế giới có 500 công ty lớn nhất thì Nhật chiếm 149, Mỹ chiếm 151. Hai anh chàng “tuy hai mà một” của hệ thống tư bản này chiếm 3/5 thế giới rồi còn gì.
Phép lạ gì vậy? Người ta tha hồ mà ca tụng hệ thống tổ chức xí nghiệp và tinh thần của Nhật. Nhưng điều then chốt vẫn là chương trình viện trợ Marshall theo đường dây toàn cầu hóa "Trật Tự Mới" của tư bản Mỹ cộng với cái máu người Nhật. Họ mê làm, ham học theo, hết mình cho hãng sở và đề cao tăng gia chất lượng sản xuất.
Người Nhật nghiện làm, quên cả ăn, quên cả hưởng, và khá keo. Họ sẵn sàng hy sinh cá nhân để theo kỷ luật chung, miễn là làm cho nước Nhật phải vượt lên, phải hơn các nước khác. “Chúng tôi chỉ có làm, làm, và làm. Hãng chúng tôi không nghỉ thứ bẩy và Chúa Nhật”, đó là lời ông Tadac Takubo, 62 tuổi. Cái máu hiếu thắng này đã khiến Nhật khi chiếm được các nước Á Châu thời đại chiến thứ hai với chiêu bài Đại Đông Á thì đã tỏ ra dữ tợn độc ác hơn cả người Da Trắng đi chiếm thuộc địa mà “khai hóa các dân ngu muội.” Đại Hàn, Tàu đều là nạn nhân khủng khiếp. Nạn đói ở Bắc Việt mà Nhật để mấy triệu người chết chẳng bao giờ xóa mờ được trong ký ức của nhiều người Việt. Bây giờ không đánh nhau bằng súng, thì đánh nhau bằng tiền, cũng vẫn là một thứ máu: thích đè bẹp lân bang, như anh chàng Đức phải cho giống người mình là số một.
Đấy cũng là một lối tìm và một lối sống, tạo nên một nền văn minh, thành một nước giàu mạnh. Nhưng những ai đã từng ở Nhật thì đều thấy rằng người Nhật chỉ lo làm, đầu tắt mặt tối hối hả tối ngày. Đất đai chật hẹp, nhà cửa và vật giá thì quá cao, thành thử đời sống thật căng thẳng. Thiền là một từ ngữ xa lạ chỉ dành cho mấy tay Âu Mỹ hiếu kỳ thích tìm thứ mới lạ mà thôi, chứ người Nhật chẳng có giờ cho mấy thứ "trà dư tửu hậu" đó.
Dịp kỷ niệm 50 năm bại trận, cũng là 50 năm thanh công vượt bậc, thủ tướng Nhật Tomiichi Murayama lại phải buồn phiền thốt lên: “Nhiều người Nhật đang bất mãn về cuộc sống hiện tại và âu lo về tương lai.” Anh hùng bắt đầu thấm mệt rồi. Ngựa đã nản chân bon!
THỜI ĐIỂM POCAHONTAS KHÁM PHÁ KHO GIẦU MỚI
Điều ngán ngẩm của người Nhật âu cũng là dấu chỉ thời đại. Những người ở các nước Âu Mỹ thì càng ngày càng nhận ra điều đó thật rõ nét. Những phim nổi tiếng thu hút rất đông người xem những năm qua như Forrest Gump, Pocahontas, The Joy Luck Club, The Secret Garden… đều nói lên một điều rất đơn giản: con người đã mệt mỏi, và đang đi tìm một giá trị mới, đi tìm những tiêu chuẩn làm cho con người sống giầu đích thực, tìm về thiên nhiên, tìm về những gì thật giản đơn đã có sẵn trong cuộc sống, nguồn phú túc đã được Chúa Trời bày biện như bữa tiệc sẵn sàng. Hạnh phúc là biết mở mắt nhận ra mà lãnh nhận chứ đâu có quá vất vả như con người ngày nay! Bước vào ngàn năm mới, con người mới giật mình nhận ra đâu là lối tìm hạnh phúc và lối sống giầu có thật.
Anh chàng John Smith và đám lính Da Trắng người Anh trong câu truyện Pocahontas đã đổ bộ sang Mỹ vào năm 1607 để chiếm đất của người Da Đỏ vùng Virginia. Họ phá hủy núi rừng đẹp đẽ để đào bới vàng. Người Da Trắng tưởng vàng là nhất, là có thể làm cho mình hạnh phúc. Nhưng có ngờ đâu khi gặp cô bé Pocahontas, thì John Smith nhận ra một giá trị mới, một nhãn quan mới. Một hôm tò mò về thái độ đào bới thật kỳ cục của người Da Trắng với kiểu ăn mặc bó sát chật chội, Pocahontas đã hỏi John Smith:
- Các anh tìm gì vậy?! - Tụi này đi tìm vàng để làm giầu. - Vàng là cái gì?
Thực sự Pocahontas chẳng hiểu vàng là cái gì mà người Da Trắng lại có thể ham mê tới cỡ đó. Rồi không biết phải so sánh giá trị làm sao, cô bé bèn cầm lấy trái bắp vàng mà giơ lên hỏi "vàng là cái này á?"
Câu hỏi đơn sơ của cô bé Pocahontas khiến người Da Trắng giật mình nhận ra một điều rất quan trọng: núi rừng kia, thác nước kia, sông hồ kia, trái bắp kia, mới là vàng, mới là giầu có thật, và mới là vườn địa đàng. Còn vàng của người Da Trắng chỉ là một thứ kim khí hiếm, do người ta ước định mà gán cho là quí báu khiến phải chém giết nhau để đạt lấy cái “địa đàng” kiểu ấy mà thôi. Mấy đứa trẻ ở Nam Phi xưa vốn lấy vàng làm đồ chơi, vì nước này đầy vàng, có ai đếm xỉa gì đâu, có ăn được đâu.
LỐI NGƯỜI VIỆT LÀM GIẦU
Nhà ảnh Mark Sindler đã từng lăn lộn nhiều năm trong cộng đồng người Việt vùng New Orleans. Anh tìm chụp những nét tiêu biểu của lối sống Việt Nam để giới thiệu cho người Mỹ. Mới đây trong Jazz Festival, một số tấm hình anh chụp được triển lãm trong khu vực sắc thái các dân.
Đây là hình chụp cảnh một gia đình Việt thật giầu: hai ông bà mặc áo dài khăn đóng chỉnh tề, chung quanh có vẻ chả có gì ngoài cái bàn ăn thô thiển và cái bộ sa-lông cũ rích, nhưng nét mặt ông bà rất hãnh diện và sung mãn đứng trước bàn thờ trong gia đình, ra như bảo tên chụp hình rằng: ừ thì anh đã thấy chỗ chúng tôi đào vàng rồi.
Một tấm hình khác chụp cảnh một ông già đang cầu nguyện trong ngôi nhà thờ nhỏ. Tấm này chụp ngay trong những năm đầu mới sang Mỹ. Giữa những rối loạn tan hoang và tuổi già bơ vơ thừa thãi, hình ông cụ như một hiện thân của an bình, của niềm tin. Nhìn vào đó, ai mà chả cảm thấy lòng mình tĩnh lại thảnh thơi, mọi phiền não tan biến, ra như chả có gì trên đời có thể làm xao động nổi nữa. Ở giữa cơn bão vẫn có “mắt” tĩnh mà. Mark Sindler rất đắc ý về tấm hình này, anh đã lột được cõi tâm của người Việt, cho thấy được linh hồn giầu có của lớp dan tỵ nạn. Giầu có vì niềm tin.
TIN VUI CẤY HỒNG TÌNH YÊU (CN 28B)
Rốt cuộc rồi con người khám phá ra mình với bằng ấy văn minh và giành giật, vẫn không mặc đẹp hơn bông hoa tươi nở bên gềnh đá, không thảnh thơi hơn con chim đang đậu trên cành kia, hay con cá đang tung tăng vui đùa dưới dòng nước. Chúa Giêsu đã nói như vậy từ lâu. Cũng được sinh ra trên mặt đất mà không một con vật nào phải đi mỹ viện hay bác sĩ thần kinh như con người. Siêng năng cần mẫn như con kiến mà cũng không phải lo đủ thứ bảo hiểm, không phải đặt ra lý thuyết lao động vinh quang hay "người là con vật kinh tế" để mà giành giật nhau từng miếng ăn, từng "dóp thơm, dóp giổm" để mà phải đấu tố giết nhau một cách man rợ.
Chúa Giêsu báo cho con người ở thời điểm này một Tin Vui lớn như đã từng bảo người nhà giầu trong Kinh Thánh khi đến hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời, để được thực sự hạnh phúc:
"Bạn chỉ còn thiếu một điều, là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và bạn sẽ được một kho báu trên Trời."
Đúng là Tin Vui khi mình bỗng nhận ra rằng những tiêu chuẩn con người đang đặt ra để đánh giá nhau như vàng bạc, tiền của, không thực sự làm cho mình sống thảnh thơi hạnh phúc. Những cái đó đâu là gì khi so sánh với nguồn phú túc Chúa Trời đang trao ban từng giây từng phút. Cuộc sống còn nhiều cái giầu quí hơn mà mình ít nhận ra. Biết dừng lại để thưởng thức một nụ cười, một bông hoa, một cành lá, một cử chỉ tình thương, một việc bác ái, một buổi kinh đêm… Chẳng quí chẳng giầu lắm sao? Giàu tiền mà không biết cười, không biết yêu thương, không biết hưởng sinh thú cuộc sống thì cũng chỉ là một tên hành khất ăn xin bên lề đường thật tội nghiệp.
Mẹ Têrêsa có lần sang thăm nước Mỹ một vòng đã cho biết: "Không một nước nào mà trẻ em nghèo bằng nước Mỹ!"
Mâu thuẫn chưa? Nước Mỹ giầu nhất thế giới mà trẻ em lại nghèo nhất thế giới sao?! Mẹ có ý bảo: trẻ em nghèo quá vì thiếu sự hiện diện săn sóc yêu thương của cha mẹ. Ai cũng bận quá! Bận lo đi kiếm tiền, bận đua đòi cho kịp thời trang… Trẻ em nghèo quá vì không được dẫn vào chỗ đào vàng thật nơi "đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát trong" của những buổi kinh tối, của giá trị đời sống cầu nguyện.
Tháng Mười được truyền thống Công Giáo gọi là Tháng Mân Côi, tháng trồng Hồng. Mỗi kinh đọc là một bông hồng tình yêu, là chìa khóa mở vào kho tàng nội tâm. Lâu nay đời sống mình có cái gì lỏng lẻo khô cằn và nghèo nàn làm sao ấy! Vì mình quá hối hả và mải mê tìm vàng, tìm tiền, mà bỏ bê kho tàng nội tâm, tách lìa khỏi dòng nhựa sống. Vậy tại sao mình không tìm lại một cái gì thật đơn giản là kinh Mân Côi, có thể trồng hồng làm hoa nở mọi nơi, mọi lúc, nhất là mỗi tối trước khi đi ngủ. Bí mật Fatima là đây.
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy gẫm về vấn đề vinh hoa phú quý đối chiếu với lý tưởng minh triết hay lý tưởng Tin Mừng về đức nghèo khó.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Kn 7: 7-11
Bài đọc I, được trích từ sách Khôn Ngoan, ca ngợi giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan, còn quý hơn mọi vinh hoa phú quý trần thế.
Dt 4: 12-13
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái, Lời Chúa được gợi lên với tất cả quyền năng của nó: ban sự sống, chức năng xét xử; Lời Chúa xuyên thấu tận cõi thâm sâu nhất của con người chúng ta.
Mc 10: 17-30
Tin Mừng tường thuật câu chuyện một người giàu có. Đức Giê-su đề nghị anh từ bỏ của cải mà theo Ngài, nhưng anh không thể. Đức Giê-su nêu vấn đề về sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ.
BÀI ĐỌC I (Kn 7: 7-11)
Sách Khôn Ngoan được viết bằng tiếng Hy-lạp vào khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, bởi một người Do thái quê A-lê-xan-ri-a. Trước những nguy hiểm của việc Hy lạp hóa đang đe dọa Do thái giáo, tác giả lại tôn vinh những giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan Kinh Thánh.
Tác phẩm bao gồm ba phần. Phần thứ nhất về Đức Khôn Ngoan và vận mệnh con người; phần thứ hai về bản chất và nguồn gốc của Đức Khôn Ngoan; và phần thứ ba về hành động của Đức Khôn Ngoan trong lịch sử. Trong phần thứ hai tác phẩm của mình, tác giả, bằng hư cấu văn chương, đặt lời trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là người khôn ngoan nhất. Đoạn văn chúng ta đọc được trích dẫn từ diễn từ của vua Sa-lô-mon. Vị quân vương vừa mới nhắc nhớ rằng ông không khác với những con người khác, ông chia sẻ thân phận con người như bao nhiêu người khác; đức khôn ngoan ở nơi vua không là một đặc sủng mà tự nhiên ông được ban cho khi trở thành quân vương: vua đã đạt được đức khôn ngoan là do thành tâm cầu nguyện.
1. Lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon.
“Tôi đã nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết; tôi đã kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi”.
Việc vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan là một sự kiện truyền thống được kể ra trong sách Các Vua quyển thứ nhất (1V 3: 4-14), được nhắc lại trong sách Sử Biên quyển thứ hai (2Sb 1: 1-12) và tác giả của sách Khôn Ngoan sáng tác một đoạn văn từ câu chuyện nầy (9: 1-18). Vua Sa-lô-mon, xúc động vì được kế nghiệp thân phụ của mình là vua Đa-vít khi hãy còn tuổi niên thiếu, cầu xin Đức Chúa ban cho mình những đức tính cần thiết để hướng dẫn một dân tộc quan trọng như thế.
Sách Khôn Ngoan trình bày lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon không có trong bối cảnh gốc, nhưng theo cách riêng của mình để đánh động những đọc giả của thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên: vị vua Ít-ra-en xưa đã không có gì phải tự hào vì mình được sở hữu những ân ban của Thiên Chúa; ông phó thác sự yếu đuối của mình vào chỉ một mình Thiên Chúa đích thật, Đấng phân phát sự khôn ngoan, ngược lại với các bậc quân vương thời Hy lạp.
2. Lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan:
Vua Sa-lô-mon công bố lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan của mình. Bản văn nhắc lại câu trả lời của Đức Chúa cho vị vua trẻ theo 1V 3: 11, được tô điểm bằng những chủ đề truyền thống minh triết.
“Tôi đã trọng Đức Khôn Ngoan hơn vương trượng, ngai vàng”, nói như thế, không có nghĩa vua Sa-lô-mon đã muốn từ chối ngai vàng của vua Đa-vít, nhưng vì “vì Đức Khôn Ngoan đưa ông lên hàng vương đế”. Tác giả đã khai triển chủ đề nầy ở trên: “Như vậy, chính lòng khao khát Đức Khôn Ngoan đưa chúng ta lên hàng vương giả. Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các dân, nếu chư vị quý chuộng ngai báu và vương trượng, thì hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan, để chư vị được trị vì mãi mãi ” (Kn 6: 20-21).
Những châm ngôn theo sau là di sản chung mà chúng ta gặp lại trong sách Châm Ngôn, sách Huấn Ca, vân vân, chưa nói đến các Thánh Vịnh. Ví dụ như “Khôn ngoan quý hơn cả trân châu, không bảo vật nào của con so sánh nổi” (Cn 3: 15) hay còn: “Hãy đón nhận lời nghiêm huấn của ta quý hơn cả bạc, hãy đón nhận tri thức quý hơn cả vàng ròng. Khôn ngoan quý hơn cả trân châu, không báu vật nào so sánh nổi” (Cn 8: 10-11).
“Tôi đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng”; bằng những lời nầy, vua Sa-lô-môn nhắc nhớ rằng ông đã không cầu xin Thiên Chúa một cuộc sống trường thọ. Rời bỏ cuộc sống hay rời bỏ ánh sáng là những cách nói tương đương trong văn chương kinh thánh cũng như trong văn chương của các dân tộc Đông Phương và ở Hy-lạp.
3. Thành quả của Đức Khôn Ngoan:
Trong sách Các Vua, Đức Chúa đã ca ngợi phẩm chất của lời nguyện xin của vua Sa-lô-mon; để tưởng thưởng cho vua, Ngài đã ban cho ông không chỉ Đức Khôn Ngoan nhưng mọi vinh hoa phú quý mà nhà vua đã không xin.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học gần như thế. Mến chuộng Đức Ki tô hơn sự giàu có là con đường dẫn đến Nước Trời, và “đối với những ai từ bỏ mọi sự vì Ngài và vì Tin Mừng, thì ngay ờ đời nầy sẽ nhận được gấp trăm và đời sau sẽ được hưởng sự sống đời đời ”.
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 12-13)
Thư gởi các tín hữu Do thái được gởi đến những người Ki tô hữu gốc Do thái, họ sống xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và luyến nhớ các nghi lễ Cựu Ước; hơn nữa, vì những bách hại, vài người mất can đảm đã muốn bỏ rơi niềm tin Ki tô giáo của mình. Bức Thư nầy nhằm an ủi họ và tăng cường đức tin của họ.
Đoạn văn chúng ta đọc hình thành nên một phần của những lời khuyến dụ dài mời gọi hãy trung tín và kiên trì. Tác giả vừa mới gợi lên tấn thảm kịch đối với những ai bất tuân; họ đã không được chấp nhận vào Đất Hứa nhưng phải vùi thây trong sa mạc.
Vì thế, chúng ta hãy giữ mình khỏi bất trung nếu chúng ta muốn đi vào Đất Hứa đích thật, vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ nầy, kẻo có ai cũng theo gương bất trung đó mà sa ngã” (Dt 4: 11).
1. Nhân cách hóa Lời Chúa.
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi”. Đây không là lần đầu tiên Kinh Thánh dâng hiến cho chúng ta nhân cách hóa Lời Chúa như vậy. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã mô tả Lời Chúa, xuống từ trời để đem lại sống cho toàn cõi thế và chỉ trở về với Ngài một khi sứ mạng đã được hoàn thành (Is 55: 10-11). Sách Đệ Nhị Luật cũng đã trình bày Lời Chúa như một sức mạnh nội tại, nguồn sống, nhưng cũng là chứng nhân lên án: “Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh báo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật nầy. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông để chiếm hữu” (Đnl 32: 46-47).
2. Chức năng xét xử của Lời Chúa.
Lời Chúa được nêu lên như vậy vì Lời Chúa có chức năng giáo huấn. Tác giả của thư gởi tín hữu Do thái chuyển từ Lời Chúa có chức năng giáo huấn đến Lời Chúa có chức năng xét xử, đây không phải là một ví dụ độc nhất. Thánh Gioan cũng chuyển dời viễn cảnh như vậy: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết” (Ga 12: 48).
Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với thanh gươm hai lưỡi; không cốt là thanh gươm Công Lý, mà sách Khải Huyền trang bị cho Con Người vào ngày tận thế, vào ngày Chung Thẩm (Kh 1: 16; 19: 15). Từ ngữ gợi lên một dụng cụ của nhà giải phẩu, như một con dao mổ, Lời Chúa “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó là lời phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”. Cuối cùng, tác giả đồng hóa Lời Chúa với chính Thiên Chúa: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ ra trước lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc được gởi đến cho các Ki tô hữu mà đức tin của họ đang chao đảo, nhưng tác giả ngay tức khắc liên kết vị Thượng Tế biết cảm thương, là Đức Ki tô với những nỗi yếu hèn của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 10: 17-30)
Câu chuyện về một người giàu có nầy đều được cả ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật, bởi vì đây là dịp thuận tiện, là cơ hội dể thấy mà Đức Giê-su lợi dụng để minh họa bài học kiểu mẫu cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài. Cả ba đều đã cho bài trình thuật của mình tính cách xúc động và thống thiết, nét đặc trưng rất dể thấy tại Mác-cô.
Đức Giê-su vừa lên đường về Giê-ru-sa-lem bằng cách băng qua thung lũng của sông Gio-đan, thì “có một người chạy đến”. Thánh Mác-cô thích làm sinh động những bài trình thuật của mình bởi những động từ chuyển động; ở đây, chi tiết nầy có giá trị của nó: nó chỉ ra sự hối hã và thiện chí, chuẩn bị tương phản với thái độ sau cùng.
1. Sự sống đời đời:
“Sự sống đời đời” là diễn ngữ then chốt của toàn bộ câu chuyện nầy; nó được nêu lên ngay từ đầu với câu hỏi mà người nầy nêu lên và ở cuối với câu trả lời của Đức Giê-su. Đây không chỉ là một ví dụ điển hình về kỷ thuật văn chương đóng khung, nhưng còn định vị tấm thảm kịch sắp diễn ra trong chiều kích cốt yếu của nó. Vấn đề về những mối tương quan giữa người Ki tô hữu và của cải được đặt ra tùy thuộc vào vấn đề cốt yếu nầy: cuộc sống tương lai; vì thế, các môn đệ xao động tận đáy lòng.
Nỗi ưu tư của người nầy phù hợp với những nỗi bận lòng của những môi trường đạo hạnh Do thái giáo ở đó người ta tranh luận về những viễn cảnh cánh chung: sự sống đời đời, chính là gia nghiệp mà Thiên Chúa hứa vào thời tận thế. Phải làm gì để đảm bảo sự sống đời đời?
Người nầy ca ngợi Ngài “Thưa Thầy nhân lành” với một cử chỉ hết mực cung kính: “quỳ xuống trước mặt Người”. Thái độ nầy làm chứng rằng Đức Giê-su nổi tiếng là một vị kinh sư đặc biệt và người nầy tin rằng chỉ có Ngài mới có thể ban cho ông những lời khuyên có giá trị.
Tại sao Đức Giê-su thoái thác phẩm chất “nhân lành” nầy, trong khi lòng nhân hậu của Ngài thì hiển nhiên? Nếu không để hướng tâm trí của người đối thoại về Đấng là nguồn mạch của mọi lòng nhân hậu? Nếu Đức Giê-su thì nhân hậu, chính vì Ngài đón nhận lòng nhân hậu từ Thiên Chúa. Tại Mát-thêu, sắc thái thì hơi khác. Chàng thanh niên hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?”. Đức Giê-su đáp: “Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi” (Mt 19: 16). Tại các thánh ký có mối bận lòng là không quên thân phận con người của Đức Giê-su, nhất là tại Mác-cô.
Sau khi đã hiệu chính, Đức Giê-su sắp trả lời một cách tích cực, như minh chứng rằng: “Tôi không đến hủy bỏ, nhưng kiện toàn Lề Luật”.
2. Lời kêu gọi kép được gởi đến cho người giàu có:
Thập Giới là nền tảng hàng đầu của Lề Luật. Đức Giê-su chỉ trích dẫn phần thứ hai của Thập Giới, phần liên quan đến những bổn phận đối với anh em đồng loại của mình. Như thế, đối với Đức Giê-su, thực thi giới luật mà Đức Chúa đã truyền dạy là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “sự sống đời đời”. Người này mau mắn trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Điều nầy chứng tỏ tấm lòng thành tâm thiện chí của anh trên con đường khao khát sự sống đời đời. Câu trả của anh gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giê-su. Mác-cô là thánh ký duy nhất cung cấp chi tiết cảm động nầy: “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.
Đối với con người thành tâm thiện chí nầy, Đức Giê-su đề nghị đi xa hơn trên con đường sự sống đời đời: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. Đây không chỉ là tinh thần siêu thoát mà Đức Giê-su đòi hỏi anh, nhưng một sự từ bỏ của cải để đạt cho bằng được: “kho tàng trên trời”. Đây là theo cách Thiên Chúa. Đối với ai muốn bước đi trên con đường nhân đức, Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi thêm nữa. Những ai Thiên Chúa đem lòng yêu mến, Ngài không để cho kẻ ấy sống trong một cuộc sống tầm thườngnhư bao nhiêu người khác. Thiên Chúa đã xử sự với các ngôn sứ của Ngài như vậy; Đức Giê-su hành xử với các môn đệ của Ngài cũng theo một cách như vậy. Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chỉ mãi đến lúc nầy chúng ta mới biết được người ấy rất giàu và chính sự giàu có đã ngăn cản không cho anh tích cực đáp lại tiếng gọi trở thành môn đệ của Đức Giê-su.
Tuy nhiên, lý tưởng của sự nghèo khó không xa lạ gì đối với Do thái giáo; các ngôn sứ đã ca ngợi lý tưởng nầy; họ đã công kích những kẻ giàu có; họ đã công bố ơn cứu độ của Ít-ra-en nhờ một nhóm nhỏ còn lại, bị tước đoạt tất cả, chỉ còn lại một niềm tin tưởng vào Đức Chúa…tuy nhiên, vẫn hiện diện trong tâm thức ý tưởng Thiên Chúa hứa ban muôn vàn của cải như phần thưởng cho ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Vì thế, ở nơi người Do thái trung thành với luật Mô-sê ngay từ khi còn bé nầy chúng ta gặp thấy lý tưởng của những người Do thái đạo hạnh, họ lấy Thập Giới làm quy luật sống để hướng tới “sự sống đời đời” là kho tàng Thiên Chúa hứa ban cho dân Ngài.
Còn ở đây, Chúa Giê-su được trình bày như là Đấng Mê-si-a đến mặc khải một lý tưởng còn cao hơn lý tưởng của dân Ít-ra-en: “Anh chỉ còn thiếu có một điều”: trung thành với giới luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước theo Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Trọng tâm của câu chuyện nầy không phải hệ tại ở việc từ bỏ của cải nhưng là gắn bó với Đức Giê-su, yêu mến Ngài trên tất cả. Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện về ơn gọi bất thành nầy được ghi lại trên con đường Đức Giê-su quyết liệt tiến về cuộc khổ nạn của Ngài. Như vậy, đức tin Ki tô giáo vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do thái giáo. Người ta không thể trở thành người Ki tô hữu nếu không xem Đức Giê-su là trung tâm và là cứu cánh cuộc đời của mình được. Như một người gặp được viên ngọc quý hay kho tàng chôn dấu trong ruộng, người ta sẳn sàng đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được Ngài như lời của thánh Phao-lô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi lòng mến đối với Đức Ki tô”.
3. Lời mời gọi được gởi đến với mọi người:
“Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh”. Đây là một ghi nhận đặc trưng của thánh Mác-cô (3: 5; 5: 32; 9: 8; 10: 23; 11: 11). Đây không nhằm chi tiết điểm tô; ý nghĩa của nó thì rõ ràng: Đức Giê-su ngỏ lời với dân chúng, chắc chắn đám đông vây quanh Ngài, nhưng không được kể ra, và đám đông vô hình của những Ki tô hữu của mọi thời: “Những người có của mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.
Vì các môn đệ hết sức kinh ngạc, Đức Giê-su lập lại đến hai lần lời cảnh giác của Ngài: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.
Việc sánh ví với con lạc đà chui qua lổ kim còn dể hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa là một kiểu nói khoa trương Đông Phương để kích thích sự chú ý. Sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ. Đức Giê-su đã nói rồi: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6: 24). Sự cố mà các môn đệ đã chứng kiến mang đến một bằng chứng tỏ tường.
“Thế thì ai có thể được cứu?”, các môn đệ nêu lên câu hỏi nầy không vì những người gắn bó với của cải thì đầy dẫy chung quanh họ, nhưng họ sửng sốt bởi những lời nghiêm khắc của Thầy mình. Đức Giê-su trấn an họ bằng cách khai mở tâm trí của họ vào mầu nhiệm Thiên Chúa, không có gì là không thể đối với Thiên Chúa, mầu nhiệm ân sủng, mầu nhiệm của lòng xót thương… Thánh Lu-ca tường thuật câu chuyện của ông Da-kêu không xa mấy sau câu chuyện nầy, như vậy cho một ví dụ về ơn cứu độ của một người giàu có. Ông Da-kêu đã không bao giờ nghĩ bố thí một phần của cải của mình cho những người nghèo, nếu Đức Giê-su đã không viếng thăm gia đình của ông. Vấn đề là câu trả lời của con người trước việc Thiên Chúa đi bước trước.
4. Một phần thưởng kép?
Các tông đồ không thể không so sánh thái độ của họ với thái độ của người giàu có nầy: họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài; ông Phê-rô nhân danh tất cả môn đệ nhắc lại điều đó. Đức Giê-su trả lời khi nêu lên hai loại phần thưởng: phần thưởng được ban cho “bây giờ, ngay ở đời nầy” và phần thưởng được ban cho trong thế giới tương lai: “sự sống đời đời”.
Có lẽ phải hiểu một chuỗi những phần thưởng đầu tiên theo nghĩa đen. Chắc chắn, ai từ bỏ các người thân yêu và của cải quý giá của mình vì Đức Giê-su, người ấy sẽ gặp thấy ở lòng cộng đoàn Ki tô hữu, một đại gia đình. Nhưng lời giải thích tinh thần thì có vẻ thật hơn; thánh Mác-cô xem ra hiểu như vậy bởi vì thánh ký đặt sự bách hại giữa những phần thưởng trần thế.
Chính ở nơi những của cải nầy mà những Ki tô hữu đã sở hữu rồi, thánh Phao-lô ám chỉ đến khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “…coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6: 10). Lm. Ignatiô Hồ Thông
Chúa nhật 28 thường niên, năm B trình bầy cho mọi người về một câu chuyện hết sức thực tế, một chàng thanh niên đạo đức, muốn theo Chúa nhưng lại không muốn từ bỏ. Đồng tiền làm anh hoa mắt, của cải làm anh mù tối, do đó, dù anh đã giữ mọi giới răn, xem ra con đường của anh đã rộng mở thênh thang, nhưng để bước một bước tốt đẹp hơn nữa, Chúa nói: ” Anh hãy về bán hết những gì anh có, phân chia cho người nghèo khó và đi theo Ngài “. Chàng thanh niên đâu có làm theo lời Chúa, anh tiu ngỉu, cúi xầm mặt và bỏ đi…
Tin mừng cho thấy nỗi buồn của Chúa Giêsu và chàng thanh niên con nhà giầu. Chúa Giêsu rất yêu thương người thanh niên, Ngài rất vui khi gặp anh ta và ngược lại anh ta cũng rất sung sướng vì gặp Chúa Giêsu. Bởi vì khi gặp Chúa, anh ta thưa Ngài là: ” Thầy nhân lành mà “.Chàng thanh niên nói trúng phóc điều lề luật đòi buộc:” Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ làm chứng gian, chớ trộm cắp, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ “. Toàn là những chuyện lớn, quan trọng nhưng anh đều giữ cẩn thận từ bé. Điều đó thực đáng khen. Tuy nhiên, Chúa muốn hơn thế nữa, Chúa muốn anh phải hy sinh, từ bỏ, cắt bỏ những gì là dính bén, mới có thể thanh thản đi theo Ngài được và quả thực anh đã lúng túng, không dám từ bỏ, không dám tiến tới, anh chỉ dừng lại nơi vật chất, nơi của cải của anh mà thôi. Anh không dám ra khỏi con người, ra khỏi nô lệ tiền của. Anh muốn ước ao sự sống đời đời, nhưng thực tế, anh không dám cắt bỏ, không dám ra khỏi cái giằng co của tiền của và cái hạnh phúc đời đời. Chúa Giêsu còn nói người có của khó vào nước Thiên Chúa biết bao. Chúa nói điều ấy dù rằng vào thời của Ngài, giàu có được coi là một phúc lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa vẫn coi của cải là một trở ngại nguy hiểm bởi vì của cải dễ khiến con người khép kín lòng mình trước mặt Thiên Chúa và dễ dàng chà đạp lên quyền lợi của anh em, của tha nhân. Chúa Giêsu và các tông đồ, môn đệ của Ngài đã sống nghèo khó, sống như những người bơ vơ vất vưởng để dễ đặt lòng tin vào bàn tay của Thiên Chúa Cha.Theo Chúa Giêsu là chấp nhận tay trắng bấp bênh, chấp nhận đời sống khó nghèo. Nhưng chúng ta đừng quên theo Ngài cũng là để trở nên giầu có. Theo Chúa không phải để được giầu có theo sự khôn ngoan, theo sự suy nghĩ của con người, của trần gian. Theo Chúa không phải là bỏ nhà cửa, ruộng vườn, vợ con, cha mẹ, những người thân thương, ngay cả đến mạng sống của chính mình. Theo Chúa là được gấp trăm ngay cả ở đời này và nhất là đời sống vĩnh cửu sau này.Bằng chứng là các tông đồ khi họ bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp lập tức họ đạt được chính Chúa và có nhiều người làm anh em. Phêrô được đứng đầu Hội Thánh khi ông từ bỏ vợ con, gia đình bé nhỏ của mình. Theo Chúa Giêsu, điều quan trọng nhất là chúng ta có được chính Chúa Giêsu.
Vâng, cái bi kịch của người thanh niên giầu có cũng là bi kịch của chúng ta. Chúng ta luôn có ước mơ chiếm được nước Trời nhưng đồng thời chúng ta vẫn bị ghì chặt bởi những của cải vật chất và tiền tài danh vọng. Của cải vật chất, tiền tài luôn có sức hấp dẫn thu hút chúng ta. Một đàng chúng ta muốn bỏ nó để bay cao, bay xa, nhưng đàng khác nó vẫn níu kéo chúng ta lại. Lòng ham mê của cải đã thắng con người, đã thắng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham lam đã bóp nghẹt con tim của mình đến nỗi thánh Phaolô đã nói: ” Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm “ ( Rm 7, 15 ). Đây là tội lỗi gây nên cho con người. Chỉ có Đức Kitô mới giải thoát chúng ta ra khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu đã từng ngồi đồng bàn với những người giầu có, những người biệt phái, những người thu thuế. Ngài đã từng chịu ơn những người phụ nữ đạo đức giúp đỡ Ngài và các tông đồ. Chúa chỉ lến án những ai dùng tiền của như mục đích, coi của cải như chúa tể của mình mà tự đóng lòng không dám mở ra và sống quảng đại với tha nhân, với Thiên Chúa.
Mọi Kitô hữu muốn sống đúng theo Tin Mừng, thì điều quan trọng là phải biết từ bỏ. Từ bỏ không có nghĩa là khinh chê của cải, bần cùng hóa xã hội, nhưng biết hòa mình, chia sẻ, quảng đại với mọi người. Đồng thời luôn ý thức đồng tiền, vật chất không thể nào mua được nước Trời.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con luôn có con tim biết nhạy cảm để mở ra, chia sẻ và quảng đại đối với tha nhân.
Một thanh niên nọ đến gặp Cha viện trưởng để xin đi tu. Nhìn người thanh niên, Cha viện trưởng nói: “Trong tu viện tôi, có quá nhiều Tu sỹ tốt rồi. Tôi cần những Tu sỹ thánh. Nếu anh muốn nên thánh, thì xin mời vào tìm hiểu và sống đời sống dòng”. Câu chuyện trên có điều gì đó tương đồng với câu chuyện của Tin mừng hôm nay. Trên đường tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu và các môn đệ gặp một thanh niên Dothái giàu có và cũng là người yêu mến và tuân giữ giới răn Thiên Chúa cách triệt để. Thế nhưng, với Chúa Giêsu, đó có phải là mẫu người tốt hoàn hảo chưa, hay còn thiếu một điều gì đó để trở nên người môn đệ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa? Chúng ta hãy xem giáo huấn của Tin mừng hôm nay nhắn nhủ điều gì.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay quả là mẫu người tốt và nhiệt thành không chỉ với tín ngưỡng anh đang theo mà còn với các mối quan hệ xã hội nữa. Bằng chứng là cách anh ta “chạy đến” và “quỳ xuống” trước mặt Chúa Giêsu – một cử chỉ mang tính cách phụng vụ, cho ta thấy chỉ có những người siêng năng đến Đền thờ để tham dự các nghi lễ tôn giáo mới có những tâm tình như vậy. Rồi cách thức anh ta thưa với Chúa Giêsu “lạy Thầy nhân lành…” cũng đủ cho chúng ta biết anh là người đang muốn kiếm tìm một điều gì đó sâu hơn, xa hơn so với lề luật mà anh tuân giữ từ nhỏ.
Qua cuộc đối thoại với Chúa Giêsu, chúng ta biết người thanh niên quả là một người Dothái mẫu mực, chân chính, thực thi lề luật Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Bằng chứng là khi Chúa Giêsu trưng ra những giới luật được trích trong sách Xuất hành và Đệ nhị luật, nào là: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ (x. Xh 20,12-16; Đnl 5, 16-20), anh ta nói rằng những điều ấy anh đã tuân giữ từ nhỏ. Anh đã tuân giữ tất cả các giới luật từ thuở nhỏ đến giờ? Thật đáng nể! Bởi chúng ta biết Lề luật Dothái được ghi trong thời ông Môsê, nhưng cho đến thời Chúa Giêsu, các biệt phái và các Kinh sư đã “tạo” thêm những khoản luật cách tỉ mỉ lên đến 613 điều để bắt dân chúng tuân theo, ai không tuân giữ rất dễ bị ném đá. Người thanh niên trong Tin mừng đã sống trọn vẹn tất cả các giới luật, quả là điều đáng trân trọng.
Chúa Giêsu yêu mến anh ta và đưa ra lời đề nghị: Anh chỉ còn thiếu mỗi một điều, là bán hết những gì anh có, cho người nghèo rồi đến theo Người. Thật đáng tiếc cho người thanh niên này, anh ta nghe lời đó của Chúa Giêsu thì sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi. Vì sao vậy? Thánh Máccô cho ta biết, vì anh ta có quá nhiều của cải. Anh ta không thể dứt được của cải trần thế – những của cải tạm bợ nay còn mai mất, để chiếm được “sự sống đời đời làm gia nghiệp”.
Đứng trước sự kiện này, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: người giàu khó vào nước Thiên Chúa, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn nhiều! Đây là một lối nói ngoa ngữ theo kiểu phương Đông. Bình thường thì con lạc đà – một loài vật sống rất nhiều trong các sa mạc ở Trung cận đông- to lớn, gồ ghề làm sao có thể chui lọt lỗ kim dùng để khâu vá áo quần. Thế nhưng đó lại là điều dễ hơn nhiều so với việc người giàu vì quyến luyến của cải trần thế nên không thể dứt bỏ để bước theo lời mời gọi sống Tin mừng của Chúa.
Như thế, xét cho cùng, người thanh niên trong Tin mừng tuân giữ các huấn lệnh của Chúa ngay từ nhỏ chỉ vì anh ta được sống trong một môi trường đầy đủ tiện nghi, giàu sang phú túc, nên anh không cảm thấy mất mát gì cả. Anh ta chưa nghiệm ra rằng những ai đi theo Chúa, sống cho Chúa, tuân giữ lời Chúa dạy và chung phần sự bách hại và mất mát như chính Chúa Giêsu để có thể chiếm trọn phần thưởng nước trời mai sau.
Phần chúng ta, những Kytô hữu của thời đại hôm nay, chúng ta đã, đang và sẽ theo Chúa ở mức độ nào? Có thể chúng ta là những người rất nhiệt thành tuân giữ các giới răn Thiên Chúa, là những người rất ngoan đạo nhưng chưa phải là người thánh để có thể chiếm trọn phần thưởng đời đời. Hãy duyệt xét lại cách thức và thái độ bước theo Chúa của mình. Bởi nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái “giậm chân tại chỗ” hoặc không còn nghĩ đến chuyện phải thăng tiến đời sống đạo mỗi ngày. Điều Chúa muốn không chỉ là việc tuân giữ các giới răn, siêng năng kinh lễ mỗi ngày mà còn là việc hướng đến tha nhân- những người nghèo khổ, để chia sẻ với họ những gì họ đang cần. “Trong tu viện tôi, có quá nhiều Tu sỹ tốt rồi. Tôi cần những Tu sỹ thánh”. Thiết nghĩ đây là bài học thiết thực nhất để chúng ta tự vấn lương tâm khi suy niệm về đoạn Tin mừng hôm nay.
Đói thì đầu gối phải bò. Hết gạo chạy rong, nhất nông nhì sĩ. Có thực mới vực được đạo. Nhiều câu thơ, nhiều ngạn ngữ dân gian như muốn khẳng định rằng cuộc sống con người như mãi long đong, vất vả vì các nhu cầu căn bản để sinh tồn xét như là một sinh vật. Chuyện cơm áo, gạo tiền nó nhũng nhiễu con người mãi không ngơi. Chưa hết, bên cạnh cái trí khôn ý thức về sự cao quý của phận làm người thì cái ý chí tự do lại thúc bách con người tìm kiếm, thủ đắc các như cầu ngày càng cao và đa dạng. Ăn no, mặc ấm vẫn chưa đủ, còn phải ăn ngon và mặc đẹp. Trong cuộc sống, người ta không chỉ trông mặt mà bắt hình dong mà còn thường hành xứ theo kiểu đồng tiến đi trước, mực thước theo sau. Cảnh đời tréo nghoe mà không hiếm: “Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”.
Không giới hạn trong tương quan giữa người với người, ngày nay, khi có những chuyện bất bình giữa các quốc gia hay tập thể, người ta cũng lại sử dụng đòn chiêu: trừng phạt kinh tế. Đồng tiền dính liền khúc ruột. Để có được sự tự do với tiền của, thì quả là không mấy dễ, ngay cả với những người thường lên tiếng trong các lãnh vực đạo đức, tôn giáo. Xin chớ vội trách người thanh niên có nhiều của cải mà Tin Mừng tường thuật. Nếu như giờ này Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Hãy về bán đi tất cả những gì người có mà cho người nghèo, rồi đến mà theo Ta”, thử hỏi có được bao nhiêu người đáp trả dứt khoát và triệt đễ như thánh Phanxicô thành Axidi năm nào ?
Người ta dễ dàng chấp nhận với nhau rằng tiền của chỉ là cái góp phần xây dựng hạnh phúc chứ không phải chính là sự hạnh phúc. Người ta cũng dễ dàng đồng thuận với nhau rằng tiền bạc chỉ là tên nô lệ chứ không phải là ông chủ. Người ta không chối cãi sự thật là tiền của mang tính “phù hoa” và nhất là nó không thể theo chúng ta vào huyệt lạnh. Thế nhưng, nói thì dễ nhưng sống thì không dễ chút nào. Không ai muốn tự chặt đứt khúc ruột của mình cả. Chẳng ai muốn từ bỏ một thứ sức mạnh vốn rất hiệu nghiệm trong rất nhiều trường hợp đó là đồng tiền, vì “tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng che thân…”.
Dù là một kiểu nói ngoa ngữ, phóng đại để muốn nhấn mạnh, nhưng chúng ta không thể không giật mình trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Đàng” ( x.Mc 10,23-26 ). Ngay các tông đồ cũng sửng sốt và nói với nhau: Thế thì ai có thể được cứu rỗi, nghĩa là hưởng phúc Thiên đàng ? Khi giải đáp thắc mắc cho các tông đồ rằng đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được, thì Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta nhận ra sự thật này: hạnh phúc Nước Trời tiên vàn là quà tặng Chúa trao ban chứ không phải do công sức của loài người chúng ta.
Đã hơn một lần Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về mối nguy cơ của tiền bạc khi nó được phong làm thần thánh: “Không được làm tôi hai chủ …”( x.Mt 6,24; Lc 16,13 ). Chước cám dỗ xem tiền là tiên là phật tuy có đó nhưng xem ra không bằng chước cám dỗ xem đồng tiền có sức mạnh vạn năng kiểu có tiền mua tiên cũng được, có tiền là mua được cả nước thiên đàng. Khi chiều theo chước cám dỗ đề cao sức mạnh của đồng tiền thì người giàu có bị cám dỗ xem hạnh phúc nước trời là điều mình có thể mua, có thể trao đổi bằng công sức hay tiền bạc.
Hẳn chúng ta đồng thuận với nội hàm một ngạn ngữ Trung Quốc rằng tiền bạc có thể mua được đồng hồ quý nhưng không mua được thời gian; tiền bạc có thể mua được giường sang, nệm êm, chăn ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; tiền bạc có thể mua được cao lương mỷ vị nhưng không mua được sự ngon miệng… Thế nhưng trong thực tế chúng ta lại hành xử theo kiểu như tiền bạc là nền tảng, là nguyên nhân đem lại hạnh phúc. Nếu đã xác tín rằng hạnh phúc đích thật là hạnh phúc nước trời, tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa, thì những gì chúng ta thu được mà chủ yếu bằng việc trao đổi, mua bán bằng của cải, tiền bạc chắc chắn không phải là hạnh phúc vĩnh cửu. Với luận lý này, chúng ta mới hiểu lời khẳng định của Đấng Cứu độ: “người giàu có khó vào Nước Trời hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim”. Lời Chúa thật săc bén hơn cả thanh gươm hai lưỡi ! (x. Dt 4,12 ).
Ngoài ra chúng ta cần chân nhận hiện thực này: khi đã đủ đầy, sung túc của tiền thì con người rất dễ bị biến tướng, bị tha hóa, bị thoái hóa. Vốn là một trong những thiện hảo tự nhiên Chúa dựng nên và ban tặng, nhưng của cải, tiền bạc rất dễ trở thành miếng mồi nhữ của thần dữ như trái táo trong vườn địa đàng khiến chúng ta đi trệch hay đi ngược với huấn lệnh Chúa truyền. Không chỉ có chuyện “no cơm ấm cật, dậm dật khắp nơi” mà các mối tương quan cũng dễ bị sứt mẻ do bời của cải tiền bạc. Tình bác cháu như Abraham với Lót, tình anh em ruột thịt như Êsau và Giacóp cũng khó bền vì của cải. Thánh Kinh ghi cùng một câu trong cả hai trường hợp: “họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được” ( St 13,6; 36,7 ). Một khi đã không thể “ở chung” với nhau được thì làm sao có thể ở cùng Thiên Chúa, Đấng là Cha của hết mọi người ? Và biết bao nhiêu chuyện chẳng hay, làm nứt vỡ tình mẹ cha, nghĩa huynh đệ… vẫn xảy ra trước mắt chúng ta mà nguyên nhân chính là vì tranh chấp của cải. Thánh Tông đồ dân ngoại đã nói với môn đệ Timôtê rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” ( Tim 6,10 ).
Trong kiếp lữ thứ này, chúng ta không thể sống như thiên thần, không màng gì đến chuyện vật chất của tiền, vì không chừng sẽ rơi xuống thành loài vật ( Pascal ). Vấn đề đặt ra đó là phải biết làm chủ vật chất, tiền bạc cũng như phải biết tự do với nó. Một mẫu gương đáng cho chúng ta noi theo mà Tin Mừng hôm nay ghi lại đó là Phêrô. “ Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Chúa Giêsu không phản bác nghĩa là Người chân nhận điều ấy. Không phải Phêrô đã vất bỏ mọi sự, của cải vật chất. Nhà của ngài còn đó, thuyền của ngài còn đó…nhưng ngài sẵn sàng trao dâng cho Chúa khi Chúa cần dùng vì lợi ích của tha nhân, sẵn sàng gác nó một bên để lên đường đi rao giảng tin mừng.
Biết rằng đồng tiền dính liền khúc ruột, tuy nhiên khi khúc ruột ấy là khúc ruột thừa đã bị viêm hay là khúc ruột non dính ung bướu thì không thể không cắt bỏ đi. Nhiều thánh giáo phụ như Hiêrônimô, Âugustinô khẳng định rằng những gì chúng ta đang sở hữu trên mức cần thiết đều là của người nghèo. Ước gì thỉnh thoảng chúng ta biết tập sống anh hùng một chút khi sẵn sàng dâng trao vài trăm ngàn, dăm bảy triệu vì một việc từ thiện nào đó hay vì công cuộc truyền giáo nào đó. Quả là không dễ, nhưng không cái khó nào là không thể vượt qua, nhờ ơn Chúa giúp và quyết tâm của chính chúng ta.
Kitô hữu đôi khi khuyến khích nhau tích trữ ân sủng nước trời qua các câu "mua nước trời; mua thiên đàng; sắm gia tài bất diệt; ngân hàng thiên quốc".
Trên đời hễ có kẻ bán là có người mua, mại cả nước trời. Cách ví von dễ hiểu nhưng rất tai hại, gây hiểu lầm nguy hiểm cho đức tin. Kitô giáo có nhiều từ diễn tả tâm linh, tu đức và bác ái tốt hơn là các câu nêu trên. Dùng từ đơn giản diễn tả Nước Trời một sự thật cao quý, trọng đại là một nghệ thuật. Dùng sai mất nghệ thuật, sai ý muốn diễn tả, đưa tới hiểu lầm cho cả tín hữu lẫn kẻ tìm hiểu đạo. Những câu thắc mắc có thể của cải, vật chất mua nước trời kẻ nghèo lấy gì mua vì không có của. Vật chất mua được nước trời thì giải thích thế nào về mầu nhiệm thập giá. Đức Kitô có cần xuống thế để cứu chuộc nhân loại. Thiên đàng cho kẻ giầu; hỏa ngục cho kẻ nghèo. Hỏa ngục ồn ào hơn vì kẻ nghèo nhiều hơn kẻ giầu. Cần tránh cách ví von nguy hiểm đó.
Nước trời không thể mua sắm, không sang nhượng, không ai có để bán, cũng chẳng ai đủ xứng đáng để mua. Không thể bán thứ mình không làm chủ. Nước trời là vô giá nên không thể buôn, bán. Giá trị nước trời vô biên, không thể đo lường. Vật chất, tiền tài, con người làm chủ, mỗi thứ có giá trị riêng của nó. Mọi giá trị vật chất đều giới hạn nên không thể dùng để so sánh, chưa nói đến buôn bán. Khi so sánh của cải, vật chất lời khuyên thường là: hãy coi thường của cải vì chúng mau hư, chóng mục; khi nói về nước trời thì lại ví von mua nước trời. Dùng vật tầm thường mua của cao trọng là điều không thể xảy ra.
Nói đến buôn bán, con người nghĩ đến của cải, vật chất. Ngôn từ dùng cho việc buôn bán, thương mại, trao đổi hàng hóa. Ngôn từ thương mại không thích hợp để diễn tả nước trời, thiên đàng, vĩnh cửu. Phúc Âm xác quyết một điều là không thể dùng của cải để mua nước trời. Chuyện anh thanh niên giầu có lại coi trọng luật lệ trả lời cho vấn đề đang bàn thảo. Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?’
Chúa đưa mắt nhìn anh trìu mến nhắc khéo. ‘Anh chỉ thiếu có một điều’. Thoáng nghe thấy nhẹ nhàng. Thiếu có một điều mà cần bán hết gia tài. Khó tin. Chúa nhìn anh bằng cái nhìn trìu mến. Đúng thế vì anh quỳ trước mặt Chúa, nơi công cộng, đông người. Điều này mấy ai làm được. Chúa mến anh vì anh chân thành, anh hiểu lầm giữa giữ đạo và hành đạo. Trong anh có niềm tự hào vì tuân giữ các lề luật, không phải mới đây mà là từ nhỏ. Đáng tự hào lắm chứ.
Anh thiếu một điều. Anh giữ đạo có phân nửa. Để thành tông đồ anh cần thực thi nửa kia. Giữ đạo là điều một; hành đạo là điều hai. Người thanh niên có điều một; thiếu điều hai. Nói rõ hơn anh thiếu hẳn phân nửa lề luật Chúa truyền tức là phần hành đạo. Tất cả lề luật trong đạo tóm gọn trong hai điều "mến Chúa, yêu người" ( Mc 12,34). Anh mến Chúa nhưng chưa yêu người. Chúa nhắc mến Chúa suông chưa đủ; phải thực hành giới răn yêu người như thế mới giữ trọn lề luật. Chúa đề nghị anh bán tài sản cho người nghèo là một trong nhiều cách thực hiện lòng bác ái. Bán hết gia tài chia cho người nghèo. Chúa kêu gọi người thanh niên giầu có hãy sống chung với anh em, đừng phân biệt giai cấp giầu nghèo. Môn đăng hộ đối không phải là lối sống Tin Mừng, tinh thần Phúc Âm.
Chúng ta trở lại câu: Lậy Thầy nhân lành. Ý tưởng con người dù tốt lành đến mấy cũng bất toàn. Anh thanh niên giầu có kia giữ trọn lề luật từ tấm bé. Lầm tưởng như thế là nhân lành. Chúa nhìn anh trìu mến vì tấm lòng chân thành của anh. Anh thành thật, ngây thơ đáng thương hơn đáng trách. Với anh, giữ trọn lề luật là trở nên trọn lành, có được sự sống đời đời. Nghĩ và tin như thế. Chúa nhắc anh giữ trọn lề luật từ tấm bé rất tốt nhưng chưa trọn lành đâu. Vì thế Chúa nói: không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Có nhiều của, giữ lề luật anh thấy an tâm cho là như thế là đủ. Chúa dậy như thế chưa đủ vì còn thiếu tình thương. Giữ luật là sống cho riêng anh. Chúa gọi anh sống cho tha nhân. Anh từ chối lời mời đó. Anh đâu biết chu toàn lề luật chưa chắc có tự do. Lề luật không cứu được con người.
Khi Chúa sửa sai hẳn phải có vấn đề. Chúa hỏi sao anh nói Tôi là nhân lành. Dường như có ẩn ý trong câu nói của người thanh niên. Nếu không nằm trong câu hỏi thì tiềm ẩn trong câu đáp. Có thể anh hiểu giữ trọn lề luật là trở nên nhân lành nên anh hãnh diện thưa cùng Chúa tôi tuân giữ từ thuở nhỏ. Chúa cho biết không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Liền sau đó Chúa dậy anh về giới luật yêu thương. Bán những gì anh có mà cho người nghèo. Thực hành điều đó anh sẽ được một kho tàng trên trời. Kho tàng trên trời không mua bằng vật chất, của cải mà là tình thương và lòng mến trong thời gian sống tại thế.
Điểm cuối, người thanh niên giầu có kia coi Chúa như một vị thầy. Có lẽ điều anh muốn là Chúa xác nhận công việc anh đang làm là đúng, con đường anh đang đi là phải, đường đó giúp anh trở nên ’nhân lành’. Trở nên nhân lành vịn vào lề luật. Chúa không xác định điều đó lại còn cho biết anh còn thiếu, chưa giữ đúng luật. Điều anh mong đợi không toại nguyện, việc anh làm không được ca khen, chỉ nhận được cái nhìn trìu mến. Hẳn nhiên mặt anh xìu xuống, không còn tươi tỉnh như khi đến. Anh buồn rầu bỏ đi. Không tin Chúa nên không đáp lại lời Chúa. Anh đâu biết có những luật để giữ nhưng có những luật để thực hành. Luật thực hành Chúa muốn nói đến là luật yêu thương và luật bác ái. Luật này không phải để giữ mà phải thực hành, sống bác ái.
Ai muốn trở thành môn đệ Chúa người đó phải sống tinh thần yêu thương, thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Luật lệ làm cho ta sống yên ổn nhưng luật không ban sự sống.
Câu này kết án những người dùng sự khôn ngoan thế gian để lừa lọc người khác, thu lợi cho mình, nhất là trong việc buôn bán. Đó là sự không ngoan qủy quyệt, lừa đảo để kiếm lời, và đưa đến bất công xã hội.
Nhưng trong Thánh Kinh Cựu Ước, cuốn sách Khôn Ngoan ca ngợi sự Khôn Ngoan thật sự; đó là “Khôn Ngoan” do ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn (Sách Khôn Ngoan 1: 6). Sự Khôn Ngoan đây là sự khôn ngoan của người công chính, trái với sự khôn ngoan thế gian của những kẻ bất lương, gian ác, “lường thưng, tráo đấu!” Hơn nữa, sự Khôn Ngoan thật của Thiên Chúa đưa đến thực hành đức Bác Ái, làm đẹp lòng Thiên Chúa và đem lại cuộc sống đời đời; còn sự khôn ngoan xảo trá thế gian thì “ích kỷ hại nhân,” làm xáo trộn trật tự xã hội, và cuối cùng bị phơi bày ra trước mặt Thiên Chúa, và lãnh hình phạt ở cuộc sống đời sau (Thư Do Thái 4: 13).
Bài Đọc I Thánh Lễ hôm nay trích trong Sách Khôn Ngoan(7: 7-11) ca tụng sự Khôn Ngoan thật do Thần Khí Thiên Chúa ban cho: qúy giá hơn sự giầu có, vàng bạc, của cải thế gian, hơn cả sức khỏe và sắc đẹp, đem lại điều công chính, giúp con người làm lành, lánh dữ, và gặt hái được những hoa trái tốt lành.
Bài Phúc Âm (Matcô 10: 17-30) cũng cho chúng ta thấy sự Khôn Ngoan thật giúp chúng ta biết “làm sao để được sống đời đời”. Đó là biết giữ đầy đủ giới răn của Chúa: không hại người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt…thảo kính cha mẹ. Ngoài ra, còn biết xử dụng của cải thế gian ‘để mua lấy Nước Trời’ bằng cách giúp đỡ những người nghèo khó. Hơn nữa, cũng chính do sự Khôn Ngoan do Thần Trí hướng dẫn, người ta mới dám “bỏ mọi sự mà theo Chúa” để dâng hiến cả cuộc đời phục vụ Chúa và tha nhân, dù nhiều khi vì thế mà bị thế gian khinh chê, kết án và bách hại. Chính sự Khôn Ngoan thật dẫn đưa chúng ta đến phần rỗi đời đời, là cứu cánh của cả đời sống đức tin của chúng ta. Cuộc đời của mỗi người chúng ta có nhiều bí ẩn không ai biết được, nhưng trước mặt Chúa, thì “không gì có thể che dấu được; mọi sự đều phơi bày tỏ tường trước mặt Chúa, và mỗi người chúng ta đều phải “trả lẽ về những việc chúng ta đã làm!” (Bài Đọc II: thư Do Thái 4: 12-13).
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện cho mọi người chúng ta luôn được tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần, được khôn ngoan sáng suốt để luôn biết sống theo thánh ý Chúa. Xin Chúa cho ‘mọi việc chúng ta làm, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa” (Kinh Sáng Soi), theo đúng đường lối của Chúa, để đem lại phần rỗi đời đời cho chúng ta. Trong “Năm Linh Mục”, chúng ta cũng cầu nguyện cho các vị Chủ Chăn và các Linh Mục luôn khôn ngoan, sáng suốt để biết vâng theo Thánh ý Chúa trong mọi sự, và biết hướng dẫn Dân Chúa đi theo đúng đường lối của Chúa và Giáo Hội. Lm. Anphong Trần Đức Phương
Theo tâm lý chung của con người, ai cũng thích được giầu sang phú quí, của cải dư dật, có kẻ hầu người hạ, nhưng Hội thánh muốn dùng những bài đọc hôm nay để cảnh giác chúng ta: của cải, sự giầu sang có thể là một trở ngại cho đời môn đệ. Cần phải biết cách làm chủ chúng, và chấp nhận sự hy sinh trong việc sử dụng. Tuy nhiên, so với những hy sinh mà đời môn đệ phải có thì phần thưởng được ban cho đời môn đệ thật vô cùng lớn lao.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc một chàng thanh niên giầu có đến xin Đức Giêsu chỉ bảo cho cách thức để chiếm được gia nghiệp đời đời và đi theo Ngài. Đức Giêsu liền đưa ra cho anh một điều kiện tiên quyết là phải bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó, rồi đến làm môn đệ Ngài. Nhưng tiếc thay, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta quá dính bén với của cải vật chất.
Nhân dịp này, Đức Giêsu khuyên các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát đối với của cải vật chất. Hãy dùng nó như phương tiện chứ đừng tôn nó lên làm chúa tể vì Chúa nói:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan như Salomon để biết quí trọng sự sống đời đời, biết dùng của cải vật chất cho xứng đáng và luôn có tinh thần chia sẻ với người khác.
I. KHÔN NGOAN TRONG VIỆC LỰA CHỌN.
1. Salomon khôn ngoan lựa chọn.
Bài đọc 1 cho chúng ta biết Salomon là một ông vua có sự khôn ngoan đặc biệt.. Ôâng đã xin Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông, ông cũng biết quí nó hơn hết mọi sự ở trên đời.
Về điểm này, Sách Các Vua quyển I (3,3-14) cho biết: khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ôâng dâng cả ngàn lễ vật lên Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện ra với ông và hỏi ông muốn xin gì ? Ôâng khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân “đông đảo”, nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe Lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Điều ông xin đã đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông theo ý sở nguyện.
Đó mới thật là sự khôn ngoan mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin. Đừng quí gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta.
2. Người thanh niên thiếu khôn ngoan.
a) Xin làm môn đệ Đức Giêsu.
Khi Đức Giêsu đi trên đường thì có một anh thanh niên chạy đến và sụp quì dưới chân Ngài. Có lẽ đây là một người giầu sang, có nhiều cuả cải, có địa vị trong xã hội, được nhiều người kính nể. Anh ta có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường của người đời.
Nhưng anh ta còn có một ước vọng cao quí hơn nữa, đó là phải làm gì để được sống đời đời làm gia nghiệp. Đức Giêsu rất ưng ý và vạch ra một số việc phải làm như “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta lanh lẹ trả lời:”Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ từ thưở nhỏ”(Mc 10,20).
Đây quả là một người ngay thẳng, có lương tâm trong sáng. Anh đã tuân giữ lề lật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Ngài có cái nhìn yêu thương trìu mến đối với anh, nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài nói tiếp làm cho anh ngỡ ngàng:”Anh chỉ còn thiếu có một điều là: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho trên trời. Rồi hãy đến theo Ta”(Mc 10,21).
b) Từ chối lời mời gọi.
Khi Đức Giêsu nói những lời đó:”Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”(Mc 10,22). Anh ta không ngờ Đức Giêsu đã đưa ra một điều kiện mà anh không thể vượt qua được.
Thái độ này diễn tả rằng lời mời gọi của Đức Giêsu đã khác hẳn với ý nghĩ của anh và vượt quá sức của anh vì anh chưa sẵn sàng từ bỏ của cải, đang khi anh là người giầu có, và vì anh đã không hiểu rằng điều kiện của một cuộc sống theo Chúa là phải có sự độc lập với của cải vật chất và với những trói buộc xã hội. Đàng khác anh cũng chưa nhận ra sự giầu có trói buộc và nô lệ hóa con người cách khắt khe đến như vậy, nên anh “buồn rầu bỏ đi”.
3. Những khó khăn trong việc theo Chúa.
Sau khi người thanh niên bỏ đi, Đức Giêsu nhìn chung quanh nói với một giọng tiếc rẻ:”Những người giầu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao”(Mc 10,23).
Đây là cái nhìøn tỏ lòng thương tiếc đối với những tâm hồn đang bị của cải vật chất chi phối đến nỗi không thể vươn mình lên để vào Nước Trời được; vì thế, Chúa mới nói với các môn đệ:”Những người giầu có ở đây là những người có tiền tài, có kho tàng bảo vật, của chìm chủa nổi, động sản hay bất động sản…”. Tất cả những cái đó kìm hãm họ, không cho họ có thể vươn lên tới Nước Trời là thiên đàng.
Truyện: Đạo một mắt.
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không, có nguy cơ bị mù. Ôâng hỏi:
- Nhưng giá bao nhiêu ? - Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù lòa. Rồi ông nói với bác sĩ :
- Tôi chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn !
Nhiều người vẫn cầu nguyện:”Xin mở mắt để con thấy kỳ công của Chúa…” Nhưng xem ra nhiều Kitô hữu chỉ muốn mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để trông coi gia sản !
II. LỰA CHỌN THIÊN CHÚA HAY TIỀN CỦA.
1. Người giầu có và con lạc đà.
Nghe Đức Giêsu cho biết kẻ giầu có khó vào Nước Thiên Chúa khiến các môn đệ kinh ngạc. Vì sao lại kinh ngạc ? Vì tâm trạng người Do thái đinh ninh rằng sự giầu sang là ân huệ của Thiên Chúa. Ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế giới này, nhằm xây dựng và làm cho thế giới thêm giá trị sao (St 1,27-31) ?
J. Potin giải thích:”Các môn đệ càng cảm thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giầu càng có nhiều thuận lợi. Có tiền thì người giầu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo Luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo… Dường như có một thỏa thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giầu. Như vậy, giầu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa sao” (Fiches dominicales, tr 298) ?
Đức Giêsu lại bồi thêm một câu nữa làm cho các ông càng kinh ngạc:”Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa”(Mc 10,25) Chúng ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu như thế nào ?
Có những người nghĩ rằng: câu nói phóng đại thái quá, muốn làm dịu bớt. Thay vì chữ lạc đà, có người thay vào chữ “Giây cáp”. Người khác giữ chữ lạc đà, nhưng cho rằng cái lỗ kim phải hiểu là tên một trong các cửa thành Giêrusalem. Thực ra phải giữ nguyên cả con lạc đà lẫn lỗ kim. Trong những sách các thầy rabbi viết, cũng đã có những phóng đại như vậy, thí dụ con voi chui qua lỗ kim (sách Talmud). Đức Giêsu cũng đã có lần nói đến, khi trách người biệt phái:”Quân dẫn đàng mù quáng ! Các ngươi gạn lọc con muỗi, nhưng lại nuốt trửng con lạc đà”(Mt 23,24) ? Thực ra so sánh người giầu vào nước Trời với con lạc đà chui qua lỗ kim, không phải Chúa có ý nói người giầu vào Nước Trời khó mà thôi, mà Chúa có ý nói là việc không thể có (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr 324-325).
Đức Giêsu là một nhà giảng thuyết nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh để dễ nhớ. Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý.
Ngay trong văn chương Việt nam chúng ta, người dân quê cũng dùng những kiểu nói ví von phóng đại và nghịch lý tương tự như Đức Giêsu đã nói. Ví dụ:
Lỗ mũi em thì tám gánh lông, Chồng yêu chồng bảo tơ rồng trời cho.
Hoặc câu khác nhẹ hơn:
Cổ tay em trắng như ngà, Con mắt em sắc như là dao cau.(Ca dao)
Nghe lời Đức Giêsu nói, các môn đệ kinh ngạc và tỏ ra thất vọng, vì sức con người yếu đuối trước sự trói buộc do tiền của vật chất gây ra, nên đã thốt lên:”Vậy thì ai có thể được cứu độ” ?
Nhưng Đức Giêsu đã khích lệ và nâng đỡ các ông đang kinh ngạc trước sự nguy hiểm của vật chất và Ngài trấn an các ông bằng cách chỉ dẫn cho các ông một chân lý căn bản là sự cần thiết của ơn Chúa:”Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”(Mc 10,27).
2. Chúa không lên án người giầu có.
Thực ra, Đức Giêsu không lên án người giầu co,ù cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người “đàn bà thánh thiện”đi theo Chúa, họ là những người giầu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Marta và chị của Lazarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng). Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy Chúa lên án những gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ cho tiền của. Thật khó cho người giầu có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
3. Tiền của cần thiết cho đời sống.
Ai cũng phải công nhận rằng: của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả Tây phươgn lẫn Đông phương đều có chung một quan niệm - “Manducare priusquam philosophare”: ăn đã rồi hãy triết lý,
-“Dĩ thực vi tiên”: cái ăn phải đứng hàng đầu, - “Có thực mới vực được đạo”.
Tiền của cần thiết như thế nên Đức Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là người giầu. Ngài biết con người phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Ngài biết “đồng tiền liền khúc ruột”, cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiếu bần cùng là một sự dữ, loài người không ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào.
4. Những nguy hại do tiền của.
Tiền của có thể gây nguy hại cho người giầu có vì tiền của có sức mạnh khống chế con người. Vì thế người ta mới nói:
Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của lò xo, Là thước đo của lòng người, Là nụ cười của tuổi trẻ, Là sức khỏe của người già Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân.
Người xưa cũng thường nói:
”Hoàng kim hắc thế tâm nhân”:
Đồng tiền không phấn không hồ, Đồng tiền khéo điểm khéo tô mặt người.
Tiền bạc của cải luôn là con dao hai lưỡi: nó có thể trở nên ông chủ khắc nghiệt hay trở nên một đứa đầy tớ trung tín, tùy theo cách người ta sử dụng nó: nếu nó được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với nhân phẩm của mình; trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh của cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần.
Nói khác đi, tiền của tự nó vẫn tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem xử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời, có thể làm những điều bất chính, tội lỗi, nhất là vì ham mê tiền của mà quên cả Chúa, quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào Nước Trời.
III. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
1. Đừng “bắt cá hai tay”.
Đây là một câu tục ngữ người Việt ta thường dùng. Dĩ nhiên, muốn bắt một con cá thì phải dùng cả hai tay thì mới bắt được, nhưng ở đây có ý nói: không phải là hai tay định bắt một con cá mà mỗi tay định bắt một con. Câu này thường dùng để chỉ người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc nọ thì được việc kia.
Về vấn đề này, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng:”Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền của cùng một lúc”(x.Lc 16,13), hoặc:”Người giầu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần đến Thiên Chúa nữa”(x. Lc 12,16-20). Người giầu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giầu sang bóp nghẹt Lời Chúa (x. Mt 13,22).
Truyện: Con lừa trước sự lựa chọn.
Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghiệm như sau: Ôâng để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hết nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt lả mà chết (Cử hành Phụng vụ CN, tr 174).
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán:”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6,24).
2. Phải có tinh thần siêu thoát.
Ai muốn làm môn đệ Chúa phải có tinh thần siêu thoát đối với tiền của. Siêu thoát đây không có nghĩa là phải bỏ hết mọi sự để sống một đời sống nghèo nàn tuyệt đối như thánh Phanxicô Assisi. Phanxicô đã nghe bài giảng trong Thánh lễ có câu:”Anh chỉ còn thiếu một điều: hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”. Phanxicô lập tức thực hiện câu Tin mừng nên đã bán hết những gì mình có, bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.
Chúa không đòi chúng ta phải sống nghèo khó tuyệt đối như thánh Phanxicô. Ngài chỉ đòi chúng ta phải có tinh thần siêu thoát đối với tiền của, không để cho của cải vật chất chi phối làm cản bước đường tiến tới sự trọn lành mà chỉ dùng của cải như bàn đạp để tiến lên, tiến tới đỉnh trọn lành và đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Truyện: Đứng trên của cải.
Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ôâng có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có:”Ôâng là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ôâng làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông:”Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”. Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.
Một phương thế Chúa dạy chúng ta là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều lần.Theo kinh Hòa bình của thánh Phanxicô Assisi thì chính lúc cho đi là lúc được nhận lãnh và được lãnh nhận dồi dào, nhất là lãnh nhận ở đời sau.
Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã có một lần nói với nhà tỷ phú Bill Gatte rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Nhà tỷ phú trả lời rằng: “Sẽ có một ngày tôi trả lại cho thế giới những gì mà tôi đã thu lại hôm nay”. Câu trả lời này xem ra có sự tiến bộ hơn chàng thanh niên trong đoạn Tin mừng hôm nay. Anh thanh niên nghe Chúa nói liền buồn rầu bỏ đi. Nhà tỷ phú khôn ngoan trả lời rồi để đó. Ngày mai sẽ làm nhưng không phải là ngày hôm nay. Ngày mai có thể là một ngày không xa nhưng cũng có thể là một ngày rất xa, xa lắm. Điểm chung của cả hai là: đều “lắm tiền, nhiều của”. Cả hai đều làm ra tiền bằng chính mồ hôi công sức của mình. Có thể nói cả hai đều hoàn hảo về mặt đạo đức. Họ đều thành đạt trong cuộc sống. Họ đều có một vị trí tốt trong xã hội. Họ đều có cố gắng vươn lên bằng chính sức lực, trí tuệ của mình. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại đề nghị anh thanh niên phải bỏ tiền ra cho người nghèo? Tại sao ĐHY lại nhắc nhở Bill Gatte phải quan tâm tới những người kém cỏi hơn mình? Họ đâu có lỗi với người nghèo? Họ đâu cản trở sự tiến bộ của người khác? Họ đâu lấy chiếc bánh của người nghèo, họ cũng không cản bước con đường thành công của người nghèo hay được lợi từ sự thiếu may mắn của người bất hạnh. Họ đâu phải chịu trách nhiệm về sự nghèo đói của những người chung quanh? Vậy đâu là điểm then chốt mà Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay?
Thưa, bởi vì cả hai đều thiếu sự chia sẻ. Họ có tất cả nhưng không có lòng quảng đại. Họ giầu có về vật chất nhưng không giầu có về tấm lòng. Sống ở đời cần có tình có nghĩa. Nghĩa và tình đều là hoa trái của sự trao ban. Tình yêu cần có sự trao ban. Ân nghĩa cần có sự đền đáp. Dòng sông luôn có bên lở bên bồi mới cải tạo lại ruộng đất, làm phong phú hoa màu. Con người sống ở đời cũng cần có tình có nghĩa mới làm phong phú cho cuộc đời và hữu ích cho tha nhân. Chính Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."
Nhưng tiếc thay, sự ích kỷ đã bóp chết con tim của anh. Anh không thể trao ban vì lòng ích kỷ của anh lớn hơn lòng quảng đại. Núi tiền của anh chất quá cao nên anh không thể nhìn thấy sự khốn cùng của tha nhân. Lòng tham của anh quá sâu nên không thể lấy ra để trao ban. Chúa đã đau xót nhìn anh bước đi trong vùng tối của cõi lòng. Anh đã tự đi vào trong sự cô đơn đầy chán chường. Con người sinh ra là để sống với đồng loại. Không ai sống một mình. Cuộc sống chung đòi hỏi phải chia sẻ, phải trao ban mới mang lại những giây phút hạnh phúc trong cuộc đời. Cuộc sống mới thi vị và đầy ý nghĩa. Anh thanh niên giàu có đã không có niềm vui của sự trao ban. Anh có tiền nhưng đồng tiền không sinh lời cho cuộc đời của anh. Anh lo cất giấu đồng tiền như cất giấu cuộc đời anh trong một thế giới rộng lớn bao la mà lòng anh vẫn cô đơn chán chường, bởi thiếu tình liên đới, chia sẻ với tha nhân. Anh không dám dùng đồng tiền mua lấy lòng nhân. Anh đã đánh mất cơ hội dùng của cải Chúa ban để mua lấy bạn hữu nước trời. Cuộc đời anh đã chết bởi thiếu giá trị sự hiện diện hữu ích cho tha nhân.
Đó chính là thảm cảnh của cuộc sống hôm nay. Người ta có tiền nhiều nhưng lại có rất ít bạn thân. Người ta dùng nhiều thời gian cho việc kiếm tiền nhưng lại rất thiếu thời gian cho thân nhân bạn bè. Người ta tìm cách sở hữu thật nhiều của cải nhưng lại ít khi trau dồi nhân cách cho bản thân. Người thời nay giỏi tìm cách mưu sinh nhưng lại không biết tạo dựng cuộc sống cho có giá trị và ý nghĩa. Người thời nay sống thọ hơn nhưng tình người lại mong manh dễ tan vỡ. Con người dường như đang vong thân, đang đánh mất ý nghĩa của cuộc đời, đang giảm dần giá trị sự hiện diện của mình giữa tha nhân, bạn bè.
Vâng, có thể khi nghe đoạn tin mừng hôm nay, nhiều người cho rằng Chúa không nói với tôi, vì tôi vẫn còn nghèo lắm! Tôi đâu có gì để cho! Chúa đang nói với người hàng xóm ích kỷ gần cạnh nhà tôi. Chúa đang nhắc nhở những người giầu có ở trong xứ đạo của tôi. Thế nên, tôi an tâm. Vì Chúa không trách cứ những người nghèo đói như tôi. Vâng, có lẽ nhiều người đã nghĩ như vậy. Có những người cả một đời chưa một lần bố thí cho một ai đó. dù chỉ là một chén cơm, một chút mắm muối gọi là “tối lửa tắt đèn có nhau”. Có những người cả một đời chỉ biết dùng đôi tay để nhận lãnh mà quên rằng đôi tay còn có khả năng để trao ban. Có những người chỉ chờ mong anh em nói tốt về mình, nhưng bản thân lại chưa một lần nói tốt cho anh em. Cuộc đời họ vẫn còn thiếu. Thiếu lòng quảng đại. Thiếu tấm lòng chia sẻ, trao ban. Họ cần phải bán đi cái tôi ích kỷ của mình để mở rộng trái tim đến với anh em. Họ cần bán đi một chút nhu cầu của bản thân để chắt chiu từng nghĩa cử tốt với tha nhân. Họ cần bán đi bản tính tự cao tự đại của mình để sống khiêm nhường với tha nhân. Có như vậy, cuộc đời họ mới thực sự có ý nghĩa. Vì giá trị sống ở đời là trở nên có ích cho đồng loại, nếu cuộc đời của chúng ta thực sự không mang lại ích lợi gì cho gia đình, cho xã hội thì cuộc sống đó có dài đến trăm năm vẫn là con số không, hay chỉ là một đời sống thực vật, vì trái tim đã không đủ cung cấp nhựa sống cho cơ thể của mình.
Ước gì mỗi nguời chúng ta luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban để luôn trở nên có ích cho gia đình và xã hội. Vì sự khôn ngoan đích thực là hãy Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Amen
Tin mừng hôm nay trình thuật về một người thanh niên giàu có đi tìm "để được sống đời đời". Anh hãnh diện vì đã giữ các điều luật của Môsê từ thuở nhỏ. Ðức Giêsu "chăm chú nhìn anh, động lòng thương và bảo: 'Anh chỉ còn thiếu một điều là hãy đi bán tất cả gia tài, bố thí cho người nghèo, rồi bước theo tôi'. Nhưng anh ta 'buồn rầu bỏ đi'." Tiếp theo đó là những giáo huấn về "những người cậy dựa vào tiền bạc, khó vào Nước Trời", về "Thiên Chúa làm được mọi sự" và về những hứa hẹn của những ai từ bỏ mình, bước theo Thầy chí thánh.
Con người đi tìm để được sống đời đời trong Tin mừng hôm nay là con người thành tâm thiện ý, nhìn nhận chỉ có Thiên Chúa là Ðấng tốt lành. Anh đã giữ cặn kẽ các điều luật ngay từ khi còn trẻ. Nhưng anh không hài lòng với việc tuân giữ các điều luật như thế, anh đi tìm điều gì khác còn hơn thế nữa. Ðiều này cho thấy lòng khắc khoải tìm kiếm điều gì khác vượt trên cả lề luật. Ðức Giêsu đã cho thấy anh đã có tất cả, anh chỉ thiếu một điều. Ðiều anh thiếu đó là khước từ của cải, từ bỏ con người mình. Một khi coi trọng những gì khác hơn là Thiên Chúa, con người không thể đạt đuợc Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống. Một khi coi trọng cái tạm bợ, con người không thể có được cái vĩnh cửu. Một khi còn bám víu vào những thực tại chóng qua, con người không còn có khả năng để bám víu vào Thiên Chúa. Ðức Giêsu đề nghị với anh những điều mà Người không đề nghị với Lazarô, với Maria, với Matta, với Nicôđêmô, và với bất cứ những ai khác muốn đi theo Người. Ðức Giêsu có lý do để hành động khác thường như thế. Người biết rằng con người dễ dàng và sẵn sàng bước theo Người, nhưng không dễ dàng gì để khước từ quyền tư hữu, một quyền lợi căn bản của con người. Ðức Giêsu đã đề nghị người thanh niên cần "thanh thoát", tự do, không bị ràng buộc bởi những gì tạm bợ chóng qua. Giới luật con người phải yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, không chấp nhận một luật trừ nào, chỉ có Thiên Chúa là thiện hảo duy nhất, tối thượng cho cuộc đời những ai muốn bước theo Người. Ðức Giêsu nhìn thấu tâm hồn con người. Người nhìn thấy cái thiếu nơi chàng thanh niên, đó là anh vừa muốn đời sống vĩnh cửu, nhưng lại muốn gắn bó với của cải tạm bợ này. Anh chỉ có thể được "thanh thoát" với một sự tự nguyện khước từ của cải. Vì như thế, anh khước từ tạo vật để gắn bó với Ðức Giêsu. Ngày xưa anh đã từng "bước theo luật lệ" (tức là chu toàn các bổn phận), bây giờ anh bước theo một con người, Ðức Giêsu.
Tất cả những ai muốn theo Ðức Giêsu, tin vào Người cũng được mời gọi khước từ cái tạm bợ và gắn bó với Ðức Giêsu như chàng thanh niên trong Tin mừng hôm nay.
Lạy Chúa, Xin dẫn dắt chúng con, để chúng con hướng nhìn lên Ngài,
dõi theo bước chân Ngài đi, kết hiệp với Ngài. Và cứ như thế, Chúa vẫn ở mãi bên chúng con, biến mỗi giây phút đời sống của chúng con mỗi ngày thêm mới mẻ, trong sáng và rực rỡ. Xin dẫn bước chúng con trong bình an của Ngài.
Tiền bạc có một sức mạnh kinh hồn. "Có tiền mua tiên cũng được." Ai có thể thoát được ma lực của: TN28-B83
Tiền bạc có một sức mạnh kinh hồn. "Có tiền mua tiên cũng được." Ai có thể thoát được ma lực của đồng tiền ? Nhưng Ðức Giêsu sẽ cho thấy có những giá trị không thể mua bằng tiền. Những giá trị cao vượt đó chỉ có thể tạo được khi thoát khỏi mọi ma lực của đồng tiền. Ðó là điều rất khó hiểu. Nhưng đó cũng là sự thật.
ÐỒNG TIỀN LIỀN KHÚC RUỘT
Một hôm, có chàng thanh niên con nhà giàu đến gặp Ðức Giêsu. Chàng có nhiều đức tính thật dễ thương. Khác với những bạn đồng lứa ăn chơi xa xỉ, chàng cố giữ những điều luật luân lý nghiêm nhặt. Mọi người đều nhìn vào anh như mẫu người lý tưởng. Chính Ðức Giêsu cũng "đem lòng yêu mến."(Mc 10:21) Anh chẳng thiếu thứ gì trên đời. Nhưng anh vẫn không hoàn toàn hạnh phúc. Anh thấy còn thiếu một cái gì trong cuộc đời. Anh ưu tư, khắc khoải. Bởi đó nêu thắc mắc với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?" (Mc 10:17) Có mấy công tử bột có thể nêu được câu hỏi sâu sắc đó ? Anh đã bị dằn vặt rất nhiều vì không thấy thỏa mãn hoàn toàn với những hứa hẹn vật chất. Anh tin Ðức Giêsu sẽ trả lời dứt khoát và rõ ràng về vấn đề quan trọng cho cuộc đời anh.
Xưa nay anh cứ tưởng một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức. Tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất. Ðời sống như thế đã quá đủ tiêu chuẩn đạt hạnh phúc. Nhưng anh không thể ngờ hạnh phúc lại vượt lên trên những tiêu chuẩn tầm thường đó. Hạnh phúc là quan tâm tới người nghèo. Quan tâm tới độ "bán những gì anh có mà cho người nghèo." (Mc 10:21) Bán sạch. Trở nên nghèo vì người nghèo. Chính lúc nghèo như thế, "anh sẽ được một kho tàng trên trời." (Mc 10:21) Kho tàng đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Bởi đó Ðức Giêsu mới nói: "Rồi hãy đến theo tôi." (Mc 10:21) Ðức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là "sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa." (1 Cr 1:24) "Trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết." (Cl 2:3) Gia tài của chàng thanh niên đó là cái gì so với Ðức Khôn Ngoan ? Nếu biết Ðức Giêsu là Ðức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói: "Tôi coi của cải chẳng là gì so với Ðức Khôn Ngoan. " (Kn 7:8)
Chàng thanh niên là người có thiện chí, nhưng vì chưa ý thức được kho tàng khôn ngoan nơi Ðức Giêsu, nên đã không thể có một lựa chọn đúng. Có lẽ anh kinh ngạc về đề nghị và mời gọi của Ðức Giêsu. Anh không thể tưởng tượng có một thứ hạnh phúc ngoài tiền bạc. Ðể theo đuổi hạnh phúc đó, Ðức Giêsu đề nghị anh dấn thân cho ngươì nghèo và mạo hiểm theo Người đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng "nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi," (Mc 10:22) vì trong anh đang nổi lên một cơn thất vọng và cuộc xung đột giữa hai tiêu chuẩn hạnh phúc: hạnh phúc do tiền bạc và bổn phận, hạnh phúc do từ bỏ và dấn thân.
Trước khi nói tới lời mời gọi tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ðức Giêsu muốn cho mọi người thấy mối nguy hiểm của tiền bạc hay của cải: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao !" (Mc 10:23) Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. "Có của" không đương nhiên là xấu. Thái độ khi "có của" mới xác định giá trị con người. Giáo Hội từng có những vị thánh xuất thân tự ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stephan nước Hung. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho ngươì nghèo.
Của cải chính một phúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, "chính phúc lành của ÐỨC CHÚA cho ta được giàu sang." (Cn 10:22) "ÐỨC CHÚA bắt phải nghèo và cho giàu có." (1 Sm 2:7) Người giàu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Ðức Giêsu cũng giao du với những người giàu sang quyền quí, như Giakêu, Nicôđêmô, Máthêu v.v. Như vậy cả tiền bạc lẫn người giầu có đều không phải là đối tượng của lời nguyền rủa. Ðức Giêsu muốn cho thấy cái đáng quan tâm là mối tương quan giữa con người và tiền bạc. Ưu tư quá về tiền của đến nỗi không thể dấn thân cho người nghèo và Tin Mừng là đánh mất cơ hội lớn nhất cuộc đời: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao !" (Mc 10:23)
ÐÒI HỎI GẮT GAO
Ðầu óc bình thường coi đạo nào cũng như đạo nào. Nhưng Ðức Giêsu muốn môn đệ phải sống trên mức đạo đức bình thường, không thể thỏa mãn với những đòi hỏi luân lý mà thôi. Chính khi vượt lên trên hạnh phúc bình thường, họ mới thấy rõ giá trị tiền bạc. Chính tiền bạc sẽ trở thành phương tiện giúp đỡ và cứu thoát những người anh em nghèo khổ khỏi cơn túng quẫn. Nếu "từ bỏ mọi sự" một cách tuyệt đối, sẽ chẳng còn phương tiện nào để làm việc bác ái. Bởi đó, đúng hơn phải nói về "tinh thần khó nghèo," (Mt 5:3) một tinh thần cần thiết để sẵn sàng lên đường với Ðức Giêsu, chấp nhận mọi thử thách thương đau vì hạnh phúc đồng loại. Ðó là con đường làm vinh danh Thiên Chúa.
Mặc dù đã "bỏ mọi sự" theo Chúa, Phêrô cũng không chấm dứt mọi tương quan với bên nhà vợ. Chính ông đã mời Ðức Giêsu vào nhà mình và xin Người chữa bà mẹ vợ mình khỏi cơn sốt (Lc 4:38-39; Mt 8:14; Mc 1:30). Mối liên hệ vẫn còn đó. Phải chăng Phêrô chưa "bỏ mọi sự" ? Vậy làm sao hưởng gấp trăm ? Phải chăng lời Chúa mâu thuẫn với thực tế ? Mâu thuẫn vì có nhiều nhà truyền giáo sống rất nghèo khổ, bị tù đầy, đói khát, chết chóc vì Chúa thì sao ? Suốt đời họ chẳng được gấp trăm, mà chỉ toàn bị "ngược đãi" (Mc 10:30). Lời Chúa được thực hiện ở đâu ? Vả lại có những người không hề biết đến từ bỏ, lại được hưởng gấp trăm ngàn lần những người đã hiến thân theo Chúa.
Ðúng hơn, Ðức Giêsu muốn so sánh hạnh phúc tự nhiên với siêu nhiên. Thực vậy, "đời sống cộng đoàn Kitô hữu sẽ thay thế cho sự hỗ trợ và hạnh phúc gia đình cũng như của cải đã từ bỏ. Ðời sống Kitô hữu "ở đời này" tràn đầy niềm vui." (Faley 1994:661) Ngay trong bắt bớ, niềm vui đó vẫn không chấm dứt, vì phát xuất tự Thiên Chúa. Niềm vui từ của cải hay huyết tộc làm sao so sánh với niềm vui là chính Chúa ? Cuộc sống hôm nay đang thiếu vắng niềm vui chân thật đó. Vì thế gian không chịu nổi sự phân rẽ của lời Chúa. "Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người." (Dt 4:12) Lời Chúa gây nhức nhối và thách đố cho lương tâm thời đại. Ðúng như Chúa nói: "Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo." (Mt 10:34) Lời Chúa vẫn còn đó như một tra vấn liên tục, khiến họ không thể ngủ yên. Quả thực, "lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy," (Dt 4:12) nghĩa là vào chỗ sâu kín nhất: lương tâm con người. Không ai có thể trốn chạy Lời Chúa. "Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa." (Dt 4:13)
Lời Chúa hôm nay đang thúc bách chúng ta dấn thân hơn nữa vào việc xây dựng Nước Chúa, tức là đem cả nhân loại vào "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần." (Rm 14:17) Không còn con đường nào khác ngoài việc hiến thân, từ bỏ và mạo hiểm vì Nước Trời. Cuộc mạo hiểm đầy thú vị, nhưng cũng chan chứa niềm hi vọng, vì Ðức Giêsu đã quả quyết: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất." (Mt 28:18)
Mặt giáp mặt. Ðức Giê-su và chàng thanh niên giàu có.
Chàng thanh niên đến gặp Ðức Giê-su và trình bày nỗi khát vọng của chàng - cũng là khát vọng sâu: TN28-B84
Chàng thanh niên đến gặp Ðức Giê-su và trình bày nỗi khát vọng của chàng - cũng là khát vọng sâu xa nhất của con người, của cuộc sống: "Tôi phải làm gì để hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp ?"
Mối quan tâm của anh hướng thẳng đến điều cốt yếu. Mối quan tâm này phù hợp với toàn bộ tinh thần Tin Mừng: Ðức Giê-su đến trần gian để mặc khải cho con người biết rằng họ được Thiên Chúa mời gọi sống chính sự sống của Thiên Chúa. Vậy phải làm gì để đạt được mục đích này ? Ðức Giê-su trả lời từ từ.
Tuân giữ các điều răn
Trước tiên, câu trả lời của Ðức Giê-su rất đơn giản: Mười Ðiều Răn đã ghi rõ và bất cứ ai đã nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa cũng đều biết. Trong câu trả lời, Ðức Giê-su chỉ kể ra phần hai của Mười Ðiều Răn, tức là thái độ đối với tha nhân. Tuy nhiên, một loạt những phủ định trong câu trả lời của Ðức Giê-su không làm cho chàng thanh niên thoả mãn. Anh cảm thấy rõ ràng những điều này không làm cho cuộc sống được tròn đầy. Anh đã tuân giữ những điều đó từ thuở nhỏ, và anh nhận thấy dường như toàn bộ cuộc sống đã được ấn định trong những tương giao xã hội không thay đổi và tạo nên một thứ trật tự ổn định. Anh thèm tự do, anh "mơ" đến một thế giới khác.
Ðức Giê-su hiểu rằng người đối thoại muốn xin một điều gì đó khác với giáo huấn xưa nay của các nhà thông thái. Người nhìn anh và đem lòng yêu mến. Người đề nghị với anh một đòi hỏi cao hơn, không có ghi trong lề luật.
"Hãy đến theo tôi"
Ðức Giê-su mở ra một con đường khác, con đường Người đang đi. Con đường dẫn đến sự sống đời đời phải đi qua việc bắt chước Người, phải sống chung với Người, bởi vì không có cách nào khác để hiểu được nét mới mẻ mà Người muốn mặc khải. Ði theo Ðức Giê-su có nghĩa là chấp nhận một cuộc đời nay đây mai đó, đầy bất trắc và thiếu thốn. Ðể có thể đi theo Ðức Giê-su, trước hết phải thoát khỏi tất cả những gì ràng buộc, phải trở nên nhẹ nhàng. Chính vì vậy, Ðức Giê-su đưa ra cho chàng thanh niên một đề nghị thực hành: "Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó hãy đến theo tôi."
Có lần Ðức Giê-su đã nói Nước Trời ví như một viên ngọc quý, và người lái buôn khi tìm được, liền bán tất cả tài sản để mua viên ngọc ấy (Mt 13,45-46). Viên ngọc ấy là sự sống đời đời, có giá trị hơn mọi của cải trần gian. Nhưng ai là người có đủ say mê để dám liều như thế ? Chỉ có người nào muốn làm môn đệ Ðức Ki-tô, muốn đi theo Người mới đủ can đảm như thế.
Nghe câu trả lời, chàng thanh niên sa sầm nét mặt. Ðối với anh, đề nghị của Ðức Giê-su quả là một điều liều lĩnh, liều lĩnh quá lớn. Thế là giấc mơ của anh tan tành, anh buồn rầu bỏ đi. Nói cho cùng, đề nghị của Ðức Giê-su thật khó mà chấp nhận: nó vượt quá suy nghĩ của con người. Chính Ðức Giê-su nói: "Những người có của mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao ... Con lạc đà chui qua lôỵ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa."
Chàng thanh niên không chấp nhận lời đề nghị của Ðức Giê-su, anh bỏ đi. Anh không hiểu rằng, để được hưởng sự sống đời đời, cần phải để Thiên Chúa làm việc. Anh thiếu một điều gì đó, và điều này làm cho anh thiếu tất cả. Người ta không trao tặng Thiên Chúa điều gì một khi người ta không sẵn sàng trao tặng tất cả. Sự dâng hiến trọn vẹn này được cô đọng trong lời mời: "Hãy đến theo tôi." Ði theo Ðức Giê-su không phải chỉ là đời sống đạo đức hay khổ chế, nhưng là gắn bó với Người, đặt tất cả vào Người, Ðấng đang trên đường thực hiện tình yêu của Thiên Chúa.
Khi ông Phê-rô đặt câu hỏi về phần thưởng, Ðức Giê-su trả lời ngược lại. Người muốn ám chỉ đến gia đình mới do các Tông Ðồ tạo nên, một gia đình mà ngay ở đời này đã cho người ta cảm nghiệm được mối tương giao đích thực, mối tương giao nảy sinh trong dòng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Ðối với người môn đệ Ðức Ki-tô, cộng đoàn thay thế và tượng trưng gia đình, của cải và công việc.
Chỉ là người quản lý
Trong thực tế, điều vững chắc có phải là điều người ta có, điều người ta là ? Phải chăng của cải lại không tạo nên một sự an toàn tưởng tượng và làm sai lệch sự an toàn duy nhất, an toàn đích thực ? Tiền bạc vẫn luôn là vấn đề, mặc dù ngày nay được nêu lên bằng nhiều từ ngữ khác. Ðây không phải chỉ là vấn đề cá nhân, nhưng còn là vấn đề của cộng đoàn, của tập thể. Người ta vẫn tìm thấy những nhà giảng thuyết - có vẻ như hiểu biết sâu xa, xác định rằng sự nghèo khó đích thực là ở trong tâm hồn, và Tin Mừng chỉ nhắm đến những của cải chiếm hữu cách bất hợp pháp.
Thực ra, vấn đề không chỉ là chuyện tổ chức: trước hết cần phải thay đổi não trạng, phải học nhìn sự vật, nhìn của cải theo nhãn quan của Thiên Chúa. Chỉ có cái nhìn này mới cho phép mỗi người dám thực sự đem của cải để phục vụ tương giao nhân loại.
Ðức Giê-su đã cho thấy mối tương giao của Người với sự giàu có ; trong chuyện này, Ðức Giê-su là người tấn công. Người lật đổ bàn đổi tiền trong Ðền Thờ, Người trình bày tiền bạc như một tên bạo chúa: không ai có thể vừa phục vụ tiền bạc vừa phục vụ Thiên Chúa được. Người cảnh cáo những loại của cải bất chính vì Người đã tuyên bố: "Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có."
Phải nói rằng, tiền bạc tự nó không tốt không xấu. Nó là phương tiện để trao đổi, và theo khía cạnh này, nó tốt vì giúp cho đời sống xã hội được dễ dàng hơn. Nó là phương tiện cũng như người ta có căn nhà. Thế nhưng nó trở nên xấu khi nó được phân phối không đều, và nhất là nó làm cho con người quyến luyến với nó mà quên đi mục đích cốt yếu của mình là sự sống vĩnh cửu, là Thiên Chúa. Vì vậy, tương quan giữa tiền bạc với từng cá nhân Ki-tô hữu hay mỗi cộng đoàn được đặt lại từ cơ bản. Thật là quá đơn giản khi người ta nghĩ rằng tiền bạc chỉ là một thứ tai nạn và chỉ xảy ra cho người khác. Phải nói rằng nó là một chứng ung thư. Và như mọi chứng bệnh khác, nó sẽ phát triển và lan rộng ra mãi. Do đó, người Ki-tô hữu không được ảo tưởng về tiền bạc, không được cho rằng mình vượt lên trên những thứ ngẫu nhiên này và cứ giữ kín những nguổn lợi và tài khoản, vừa đáng nghi ngờ vừa ngược với Tin Mừng.
Như thế, là người nam hay người nữ, là tu sĩ hay không, khi chấp nhận chia sẻ của cải, thì không nhằm để giữ cho tay mình được sạch, nhưng là để làm chứng rằng mình chỉ là người quản lý, chứ không phải là sở hữu chủ những của cải trần thế, và mình có những món nợ với người nghèo, tức Thiên Chúa.
Gắn bó với sự giàu sang đích thực Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết từ bỏ lối đạo đức chỉ lo tìm sự hoàn hảo để đi đến thứ lý luận của đức tin, để chúng con không còn coi mình là trung tâm, nhưng là chọn lựa sống theo Tin Mừng, đi theo Ðức Giê-su. Khi ấy, đối với chúng con, chẳng còn vấn đề tìm xem điều nào là "giới răn", điều nào là "lời khuyên". Khi ấy, chúng con chẳng tự mình tìm Nước Trời, chẳng tự mình tìm kiếm ơn cứu độ, nhưng là chính Chúa, Ðấng có thể làm tất cả, hoạt động trong chúng con. Bởi vì đó chính là Tin Mừng.
Lạy Chúa, xin giật tung khỏi con mọi trung tâam điểm giả tạo. Nhất là, xin đừng để con biến chính mình thành trung tâm điểm. Xin giúp con hiểu, một lần thay cho tất cả, là ngoài Chúa, tất cả chúng con và mọi sự nơi chúng con đều trở nên kỳ quặc.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
{Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".}
Suy NiỆm:
Hằng tuần và có khi hằng ngày, chúng ta họp nhau lại đây cử hành thánh lễ để làm gì? Có lẽ cuối cùng: TN28-B85
Hằng tuần và có khi hằng ngày, chúng ta họp nhau lại đây cử hành thánh lễ để làm gì? Có lẽ cuối cùng chúng ta phải dựa vào các bài Thánh Kinh hôm nay để trả lời một cách thỏa đáng. Chúng ta muốn bắt chước vua Salomon đến đây cầu xin ơn khôn ngoan để biết sống ở đời. Và hơn nữa, chúng ta muốn như chàng thanh niên trong Phúc Âm xin Chúa chỉ đàng cho chúng ta như lời bài Thánh Thư hôm nay không? Do đó những bài Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc, rất đáng suy nghĩ và phải được đem ra thực hành. Chúng ta hãy đọc lại.
1. Cầu Xin Ơn Khôn Ngoan
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta được nghe lại chính lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Do-thái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời. Về điểm này ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc "đông đúc"; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Ðiều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu truyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù? nên Ta sẽ cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Không dễ trả lời câu hỏi này đâu. Ðọc sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này. Cuối cùng chúng ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Ðó mới thật là sự khôn ngoan mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin. Ðừng quý gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta. Nếu muốn cụ thể hơn, chúng ta hãy nói rằng sự khôn ngoan mà chúng ta phải cầu xin chính là ơn cứu độ mà Ðức Kitô đã mang đến, là chính Ðức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã giáng sinh làm người. Chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Hãy Ði Theo Chúa
Thánh Mác-cô kể hôm ấy Ðức Giêsu đang đi đường. Người lên Yêrusalem để thụ nạn cứu thế và ban hạnh phúc cho mọi người. Một chàng thanh niên chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa với Người như một bậc "tôn sư": "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp". Anh chưa thấy Người khác mọi bậc thầy và khác với mọi sư phụ. Anh tưởng Người cũng giống như bao luật sĩ hoặc nhà truyền đạo đã thay lượt nhau đến dạy đường khôn ngoan cho loài người. Có lẽ anh chỉ coi Người hơn họ một chút xíu thôi.
Nhưng Người không phải như vậy. Người không đến dạy sự khôn ngoan, nhưng là chính sự khôn ngoan nhập thể. Người không chỉ dạy đàng dẫn đến sự sống đời đời, nhưng có chính sự sống ấy để ban cho những ai biết đón nhận... Thế nên Người đã nhắc nhở anh nghĩ tới điều đó và phải nhận ra Người không phải là một bậc Thầy thông thường. Người bảo anh: "Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa". Nghĩa là nếu ngươi nói Ta là tốt lành, thì ngươi nên nhận ra thần tính ở nơi Ta; Ta là Thiên Chúa giáng trần. Thế nên lời Ta nói đây không phải là ý kiến của một luật sĩ hay của một nhà truyền đạo, nhưng là của chính Thiên Chúa. Và Người đã nhắc lại cho anh những giới răn trong Luật pháp. Chàng thanh niên vội thưa: "Lạy Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé". Lời anh nói làm chúng ta liên tưởng tới ý kiến của Phaolô phát biểu sau này: "Ðời tôi từ lúc thiếu thời... đã sống theo phái nhiệm nhặt trong tôn giáo chúng tôi...". Hoặc chúng ta cũng có thể nghĩ tới lời tự tín của người biệt phái nọ lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa, tôi đội ơn Người, vì tôi không phải như những người khác... mỗi tuần tôi ăn chay 2 lần, tôi nộp thuế thập phân...".
Quả thật, chàng thanh niên đang đứng trước mặt Chúa Yêsu, là hình ảnh của biệt phái, của những con người tưởng rằng có thể chiếm được Nước Trời bằng cách giữ luật hoặc thi hành các nguyên tắc khôn ngoan này, khôn ngoan khác. Ðức Giêsu nhìn chàng thanh niên ấy; Người muốn yêu những tâm hồn như vậy; Người muốn cứu độ họ thật sự. Người bảo anh ta: ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! Có gì thì đem bán hết mà chi kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta.
Thánh Mác-cô kể tiếp: "Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều của". Có thể thánh nhân đã viết như vậy để chuyển ý sang đoạn văn sau nói về nguy hiểm do của cải, đối với Nước Trời. Ðúng hơn người đã áp dụng ý của Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả tác phẩm của người. Những người này là các tín hữu đã tin vào Ðức Kitô chứ không phải là các biệt phái nữa. Họ cũng phải giữ Lời Chúa. Và cho được như vậy phải biết áp dụng Lời của Người vào trường hợp của mình. Vậy lời của Người khi xưa, tức là lúc Người đang ở trần gian, đã trực tiếp nói với chàng thanh niên đã giữ các giới răn từ thuở bé, tức là vẫn tưởng rằng có thể dùng sức mình và theo sự khôn ngoan của mình mà được sự sống đời đời. Không, người ta phải từ bỏ mọi ảo tưởng đó, phải khước từ hết, phải bắt chước Salomon trông cậy nguyên vào Chúa. Người ta phải đi bán tất cả, từ bỏ tất cả vì Nước Trời, rồi đến đi theo Chúa.
Lời Ðức Giêsu nói với chàng thanh niên có giá trị tổng quát và triệt để. Chúng ta phải ghi nhớ tính cách tuyệt đối này. Người ta không được cậy dựa gì ngoài Chúa. Của cải chỉ là một diện phải từ bỏ, tuy là diện khá quan trọng.
Nhưng vì sao thánh Mác-cô lại chú ý đến diện này? Phải chăng như lời Tin Mừng Luca viết: "Biệt phái vốn tham tiền"? (16,14). Hay là tại vì ở thời Mác-cô viết sách Tin Mừng, của cải đã trở thành vấn đề trong đời sống đạo? Tín hữu phải tự đồng hóa mình với hạng "nghèo khó được rao giảng Phúc Âm". Như vậy sẽ không được giàu có sao? Và như vậy sẽ được gì?
Chúng ta có thể coi lời Phêrô hỏi Chúa hôm nay như phản ảnh tâm lý và những thắc mắc này. Và chúng ta thấy câu trả lời thật khôn ngoan. Kẻ bỏ mọi sự mà theo Chúa vẫn có mọi sự ở đời này và cộng thêm sự bị bắt bớ. Ðàng rằng chỉ có Mác-cô thêm chữ "bị bắt bớ" này vào câu trả lời của Chúa. Có lẽ vì hoàn cảnh đặc biệt của Hội Thánh thời Mác-cô viết tác phẩm Tin Mừng. Nhưng ai cấm chúng ta suy nghĩ rằng: theo thánh nhân, môn đệ của Chúa ở đời này không tất nhiên phải biến mình trở thành khố rách áo ôm. Như mọi người, họ vẫn có nhà để ở, áo để mặc, cơm để ăn, họ hàng bè bạn để tương giao... và còn có hơn vì tình huynh đệ và tương trợ trong Hội Thánh; nhưng họ hãy có như không có, hưởng như không hưởng, vì họ phải sống mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô mà viễn tượng "bị bắt bớ" luôn nhắc nhở người ta phải có tinh thần từ bỏ tuyệt đối vì Nước Trời. Và của cải là diện khó từ bỏ, đến nỗi con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Trời.
Các môn đệ của Ðức Giêsu đã ngạc nhiên trước những đòi hỏi như vậy. Họ sợ ít người có thể vào được Nước Thiên Chúa. Ðúng, với sức mình, với sự khôn ngoan của mình, loài người không làm gì được đâu. Nhưng, "mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa"; tức là người ta phải trông cậy vào Chúa và chỉ trông cậy vào một mình Người mà thôi. Salomon đã có thái độ như vậy trong bài sách Khôn ngoan hôm nay... Còn chàng thanh niên kia, giống như các biệt phái, không muốn bỏ mọi sự và quan điểm của mình mà theo Chúa và thi hành Lời của Người. Tại sao vậy? Chúng ta hãy nghe lời thư Do-thái.
3. Hãy Thi Hành Lời Chúa
Thư Do-thái bàn rất nhiều và sâu sắc về chức tư tế trong đạo mới. Ðạo cũ tức là Do-thái giáo có hàng tư tế đông đảo và lễ nghi sầm uất. Số lượng tế vật cùng khói hương và huyết chảy không thể tưởng tượng được. Nhưng tất cả để làm gì? Chỉ là một thất bại hoàn toàn; một bất lực không hơn không kém. Tội lỗi của dân chúng vẫn còn đó. Chính vì vậy mà Cựu Ước cứ phải dâng lễ không ngừng.
Trong Tân Ước trái lại, máu Ðức Giêsu đã rửa sạch mọi tội. Người chỉ dâng lễ một lần. Người đã đi vào cung thánh của chính bản tính Thiên Chúa qua mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ta chỉ còn phải tham dự vào lễ tế vô giá ấy.
Nhưng đi vào lễ tế này sao được khi không để thân thể mình nát ra như chính của lễ hy sinh trên thập giá? Và phương tiện phân nát thân thể con người chính là Lời Chúa. Vì đây không phải là ý tưởng, mà là sự sống. Ðó là sự sống bởi trời xuống, đi vào thân xác con người, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi và đâm phập vào tận ranh giới hồn phách... cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ. Người ta cứ xem Ngôi Lời đã thành nhục thể. Người đã sống một cuộc đời gian khổ như thế nào. Cuối cùng Người đã chết trên thập giá để trở thành của lễ cứu độ và trở nên vị Thượng tế của đạo mới. Người ta cũng phải để cho Lời Chúa thấm nhập tâm can... đóng đinh dục vọng và xác thịt vào thập giá. Có như vậy con người mới trở nên của lễ và mới tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô, mới được khỏi tội và ngang qua các tầng trời đi vào nơi yên nghĩ ở trong Thiên Chúa.
Cái lầm của đạo cũ là thái độ vị hình thức, là não trạng tưởng rằng giữ được Luật pháp là có sự sống đời đời. Thật ra điều quan trọng là phải từ bỏ "sự sống của mình", của con người cũ ở nơi mình và nhận lấy sự sống mới đến từ Thiên Chúa. Salomon đã biết từ bỏ mọi sự để được sự khôn ngoan; Ðức Giêsu bảo người thanh niên phải đi bán tất cả để đến đi theo Người; tác giả thư Do-thái khuyên chúng ta hãy để cho Lời Chúa thấm nhập biện phân tình và ý tưởng của lòng dạ. Ai sẵn sàng làm như vậy?
Chúng ta hãy chạy đến Thánh Thể, tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô. Hãy hòa mình vào tâm tình xả kỷ cứu thế của Người. Hãy sống chân thật theo lương tâm và Lời Chúa dạy bảo và thôi lấy hình thức che đậy tâm can. Ai làm như vậy mà còn sợ sẽ không được sự sống đời đời? Ðó là người khôn ngoan hơn hết, hơn cả Salomon, vì ở đây nơi bàn thờ, còn có Ðấng trọng hơn Salomon và còn dạy đường khôn ngoan hơn Salomon. Chúng ta hãy đến và nhận lấy Người.
Phanxicô Assisi là con một người giầu có, vang tiếng cả nước Bồ đào Nha và nước Pháp thời trung cổ. Khi trưởng thành chàng đã là một chàng trai trưởng giả và ăn chơi khét tiếng. Thế mà trong cơn bạo bệnh sau khi bị thương ngoàI chiến trường, chàng được Chúa kêu gọi, đã không quản ngaị từ bỏ mọi sự, tuốt bỏ cả quần áo trước mặt quan tòa và cha mẹ để theo ChúaGiêsu sống một đời khó nghèo cho đêns chết.
Sự hưởng ứng của chàng thanh niên giầu có Phanxicô nhắc nhớ chúng ta dụ ngôn người gieo giống, không phải là hạt rơi trên vệ đường (chọn rồi bỏ lửng) hay bụi gai (mọc lên rồi bị nghẹt) mà đặc biệt là hạt rơi vào đất tốt. Người thanh niên giầu có trong Phúc Âm làm lu mờ lời Chúa, còn người thanh niên Phanxicô làm rạng danh cho Chúa trong việc tù bỏ.
Bài đọc thứ hai nhắc chúng ta rằng: Một ngày nào đó chúng ta phải tính sổ cuộc đời, chúng ta phải chịu trách nhiệm, phải trả lời về mọi hành vi của ta, phải trả lẽ về lời mời gọi mà không thoát được.
Cũng có một câu chuện khac rằng: Có môt thày tu sống khổ hạnh trong rừng sâu lâu năm. Lại được một cô gái hèn mọn thường mang đến cho thày những giỏ trái cây ngon và bầu nước suối mát. Đã đến lúc thày tu phải rời bỏ khu rừng dể vào hang đông tịnh tu cho đắc đạo hơn. Thấy vậy, cô bé nước mắt lưng tròng, buồn bã hỏi:
- Tại sao Thầy lại nhẫn tâm tước mất của con sự may mắn được hầu thày ?
Không nỡ gạt bỏ lòng tốt của cô bé, Thày nán lại chỗ cũ. Phần Thầy, cố gắng tu luyện và phạt xác cho tới khi thành công. Chúa liền sai Thiên Thần đến báo tin ngày về thiên đàng của Thầy đã tới. Thày xin Thiên Thần thưa lại cùng Chúa:
- Đã lâu rồi con không cần nó nữa!
Thiên Thần bảo:
- Thày muốn được Chúa ban phần thưởng nào?
- Tôi muốn được cô gái hèn mọn.
Câu châm ngôn: “Ra đi cấm kỳ trở lại” hay “Đã tra tay vào cầy mà còn ngoảnh lại đàng sau thì không xứng với Thầy”.
Trong loạt bài Phúc Âm gần đây, kể từ sau bài Phúc Âm Chúa Nhật 24 về Mầu Nhiệm Vượt Qua bắt đầu được Chúa Giêsu tỏ cho các tông đồ biết sau khi các ngài tuyên xưng niềm tin của mình vào Người: “Thày là Đức Kitô”, chúng ta thấy hiện lên một loạt những gương mù gương xấu. Trước hết là gương mù gương xấu của các môn đệ tỏ ra tranh giành địa vị, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25; tiếp đến là gương mù gương xấu của các vị về việc tranh chấp quyền năng phe nhóm, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 26; sau đó là gương mù gương xấu của việc vợ chồng ly dị nhau, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27; và đến nay là gương mù gương xấu về lòng tham lam của cải ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28 tuần này. Đối với gương mù gương xấu về tinh thần tranh ngôi giành chức của nội bộ tông đồ đoàn, Chúa Giêsu đã dạy các vị tinh thần phục vụ hơn hưởng thụ. Đối với gương mù gương xấu về tinh thần tranh chấp quyền năng phe nhóm đối ngoại của các tông đồ, Chúa Giêsu dạy các vị hãy có tinh thần đoàn kết và hợp tác với tất cả mọi người vì Người. Đối với gương mù gương xấu về tinh thần chia rẽ hôn nhân, Chúa Giêsu đã dạy con người thành hôn nói chung và thành phần thông luật nói riêng phải trở về nguồn, trở về với dự án nguyên thủy của Thiên Chúa đối với cơ cấu hôn nhân được chính Ngài thiết lập. Đối với gương mù gương xấu về lòng tham lam của cải sản vật trần gian, Chúa Giêsu dạy con người nói chung và thành phần giầu có nói riêng phải có một tinh thần nghèo khó.
Thật vậy, không có tinh thần nghèo khó, con người sẽ không được vào Nước Trời, tức không được rỗi, được sự sống đời đời. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định ngay trong mối Phúc Đức thứ nhất ở Bài Giảng Trên Núi của Người: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về họ” (Mt 5:3). Đó cũng là lý do, người thanh niên giầu có, giầu tiền lắm của này đã hỏi Chúa Giêsu về vấn đề sự sống đời đời: “Lạy Thày thiện hảo, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống trường sinh?” Vấn nạn của người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này dầu sao cũng cho chúng ta thấy của cải sản vật không thể nào làm cho con người được hoàn toàn và vĩnh viễn thỏa mãn. Chính vì Thiên Chúa đã dựng nên lòng con người hướng về, khao khát và tìm kiếm sự thiện vô cùng, một tâm trạng đã được một Âu Quốc Tinh sau cuộc đời trác táng về nhục thể và lạc loài về tâm linh đạo lý đã phải “Tự Thú” là lòng mình khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa, mà người thanh niên sống trong nhung lụa trong bài Phúc Âm vẫn cảm thấy không yên tâm về phần rỗi của mình, cho dù anh đã giữ trọn các giới răn cản bản nhất của Chúa. Theo bài Phúc Âm Thánh Ký Mathêu (19:16-22) cũng thuật về câu truyện này thì chàng thanh niên giầu có ấy còn hỏi thêm Chúa Giêsu một câu nữa, một câu chứng tỏ cái bất an và áy náy về phần rỗi của anh ta dù đã giữ trọn các giới răn: “Tôi đã giữ tất cả những điều ấy rồi. Tôi còn phải làm gì hơn nữa chăng?”
Qua câu này, người ta cũng có thể hiểu là anh chàng thanh niên giầu có ấy muốn khoe lòng đạo đức của mình nữa. Anh ta cứ tưởng anh ta đã giữ tất cả những giới luật căn bản ấy rồi là đủ, không cần phải làm gì hơn nữa, không còn gì đối với anh ta nữa. Nhưng qua thái độ của anh ta được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại: “một người nam chạy đến chặn đường Người quì xuống mà hỏi”, thì anh chàng thanh niên giầu có này rất chân thành, muốn đi tìm chân lý, lòng đầy khắc khoải băn khoan về đời sau trước tất cả những phú túc ở đời này. Nếu anh chàng này không chân thành, mà chỉ giả hình như thành phần Pharisiêu bị Người quở trách nặng lời, thì Chúa Giêsu, qua ngòi bút tỉ mỉ đặc thù của Thánh Ký Marcô, đã không “trìu mến nhìn anh ta mà nói”. Chúa Giêsu “trìu mến” nhìn người thanh niên giầu có thành tâm thiện chí này là vì Người thấy anh ta giầu có mà vẫn giữ đạo hẳn hoi. Chúa Giêsu “trìu mến” nhìn người thanh niên giầu có đầy thành tâm thiện chí này là vì Người muốn anh ta nên hoàn thiện hơn. Đó là lý do trong bài Phúc Âm của Thánh Mathêu, Chúa Giêsu nói với anh ta: “Nếu anh muốn nên trọn lành…”.
Như thế, qua trường hợp của người thanh niên giầu có này, theo Phúc Âm Thánh Mathêu, có hai vấn đề rõ ràng, vấn đề được rỗi và vấn đề nên trọn lành. Vấn đề được rỗi chỉ cần giữ trọn các giới răn, còn vấn đề nên trọn lành cao hơn cần phải trước hết có tinh thần nghèo khó. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Marcô thì nếu không có tinh thần nghèo khó cũng không thể được cứu độ, được sự sống đời đời. Thật vậy, theo Phúc Âm Thánh Marcô, người thanh niên chỉ hỏi một câu, đó là làm sao để được sự sống đời đời, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời làm hai phần, phần đầu là giữ các giới răn, và phần sau, sau khi nghe thấy anh ta đã giữ các giới răn, Người nói thêm “anh còn cần phải làm một điều nữa…”. Nghĩa là, căn cứ vào mạch truyện và câu Chúa Giêsu nói ở đây thì người thanh niên giầu có này chẳng những cần phải giữ trọn các giới răn mà còn cần phải có tinh thần nghèo khó nữa, bằng không, như Chúa Giêsu khẳng định sau khi thấy người thanh niên giầu có buồn bã bỏ đi, là “kẻ giầu có khó vào nước Thiên Chúa là dường nào!... Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một con người giầu có vào nước Thiên Chúa”. Nếu vào nước trời chỉ cần giữ các giới răn thì có vẻ dễ đối với người thanh niên giầu có này, con người như thế được cả hai đời, đời này đã được giầu có sung sướng, đời sau lại còn được hưởng vinh phúc trường sinh. Bởi thế, vào nước trời bao gồm cả tinh thần nghèo khó nữa mới được, cả lòng khao khát nên trọn lành nữa mới đáng gọi là khó hơn lạc đà chui qua lỗi kim.
Đúng thế, thực tế cho thấy, nếu không trọn lành, hay ít là “có lòng khao khát nhân đức trọn lành” (Mt 5:6), con người theo tự nhiên thường có khuynh hướng hưởng thụ hơn phục vụ, vơ vét hơn cho đi v.v. Sở dĩ họ giữ được các giới răn cản bản, như người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm, là vì họ sợ mất linh hồn, chỉ vì họ lo cho bản thân của họ hơn là hoàn toàn thuần túy vì lòng mến Chúa, họ giữ luật vì luật hơn là vì Đấng ban lề luật, và họ cho rằng chính việc giữ luật của họ làm cho họ nên công chính chứ không phải bởi quyền năng của lề luật, bởi tinh thần của lề luật, hay bởi Đấng ban lề luật. Bởi vậy, nếu không có hỏa ngục, chưa chắc họ đã giữ các giới luật căn bản ấy. Trường hợp của người thanh niên giầu có này là trường hợp cụ thể đã được Chúa Giêsu sánh ví như người phú hộ trong dụ ngôn với Lazarô (Lk 16:19-31; 18:15-30). Người phú hộ không hề xúc phạm đến Lazarô, như xua đuổi, chửi rủa, khinh bỉ Lazarô, (có thể suy đoán ông ta là người biết tự trọng, không hề phạm những thứ tội bị Chúa Giêsu liệt kê trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: sát nhân, ngoại tình, trộm cắp, làm chứng dối, lường gạt gian lận; trái lại, ông còn tỏ ra biết tôn kính mẹ cha nữa), thế mà, cuộc đời của ông cuối cùng đã kết thúc vĩnh viễn trong vực thẳm tử vong, chỉ vì ông không biết chia sẻ những gì ông có cho Lazarô, một người anh em vô cùng khốn nạn của ông, ở ngay cổng ra vào nhà ông, tức ở ngay trước mắt ông.
Như thế, tinh thần nghèo khó trọn lành ở đây, trước hết, không phải là lòng khinh bỉ của cải trần gian nói riêng hay tất cả những gì tốt lành được Chúa dựng nên nói chung, trong đó có cả vấn đề sinh dục, trái lại, trên hết, chính là nhận thức và thực hiện đúng vị thế và trách vụ của mình đối với những gì Chúa ban cho mình, đúng hơn những gì Chúa ký thác cho mình, những nén bạc được Ngài trao ban không phải chỉ để canh giữ (đem chôn sợ mất) như người đầy tớ kia (x Mt 25:24-25), mà còn để phân phát như người quản lý khôn ngoan coi sóc nhà cửa cho chủ (x Lk 12:43). Tuy nhiên, tinh thần nghèo khó không phải chỉ được tỏ hiện qua việc biết sử dụng tất cả những gì mình có theo vị chủ nhân ông Thiên Chúa Tạo Hóa của mình, mà còn được cụ thể hóa một cách trọn lành hơn nữa qua việc, như trường hợp các tông đồ trong bài Phúc Âm, “bỏ mọi sự mà theo Thày”, Đấng vô cùng viên mãn trọn lành đã trở thành đầy tớ phục vụ đến hiến mạng sống mình cho nhân thế (x Mt 20:28).
Sau đây là hai câu chuyện về người nghèo (xem dongcong.net) được chính vị sáng lập hội dòng phục vụ thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là Mẹ Têrêsa Calcutta, vị tân chân phước của Giáo Hội vào Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, kể lại rất cảm động như sau:
Tại bên Úc, Mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, Mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, mình mẩy anh ta bầm tím hết. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh:" Ai đã đánh anh ?" thì anh thanh niên này nhất định không trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh ta và bỏ ra về. Lúc đó, Mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:
- Sao con không khai người đã đánh đập con với cảnh sát?
- Thưa Mẹ, nếu con khai ra, người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng không thể làm giảm đi nỗi khổ đau của chính con!
Người nghèo giầu tình thương biết bao! Chúng ta bảo họ nghèo, nhưng thực sự, chính họ lại giầu có. Họ giầu tình thương và giầu lòng nhân ái. Chúng ta cần phải có một tình thương và đôi mắt nhân hậu để có thể khám phá ra những hạt giống tốt đã được gieo rắc trong tâm hồn họ và giúp cho những hạt giống ấy phát triển thêm nhờ vào cách đối xử nhân từ của chúng ta đối với họ.
Một lần, có một người đàn bà giầu có người Hindou đến thăm Mẹ. Bà ta nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con ước ao được chia sẻ với Mẹ và cộng tác với Mẹ trong các hoạt động từ thiện.
- Tốt lắm ! Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.
Rồi bà ta thú thực với Mẹ là bà ta có một điều rất khó bỏ, dó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xari, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc bộ áo xari trị giá 65 đôla, trong khi chiếc áo xari của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ đáng giá 65 xu, chưa đầy một đôla. Như được ơn trên soi sáng, Mẹ Têrêsa bỗng nảy ra một tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với Mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:
- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ aó xari trị giá 65 hoặc 100 đôla, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đôla thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari đơn sơ khác dành cho người nghèo.
Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của Mẹ, rồi dần dần bà đã biết dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà ấy đã thú nhận với Mẹ Têrêsa rằng:
- Thưa Mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn những gì con đã cho đi và chia sẻ với những anh chị em nghèo khó !
Bài đọc1: Kn.7,7-11: Đem so sánh sự giầu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giầu sang như không. Bài đọc 2: Dt.4,12-13: Lời của Chúa phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn. Phúc âm: Mc.10,17-30: Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta.
Ông vua nọ có lối sống đặc biệt. Thay vì lấy quyền hành cai trị dân, bắt dân suy phục mình thì ông ta lại phục vụ dân, hy sinh vì dân. Ngoài giờ làm việc lo cho đất nước được an bình phát triển, ông đến với người dân, giúp đỡ kẻ nghèo, phụ giúp người túng thiếu, chăm sóc kẻ bệnh tật. Nói chung là ông hy sinh lo cho dân được an cư lạc nghiệp.
Nhân dân thấy vị vua của mình tận tuỵ hy sinh thương giúp họ như thế thì hết lòng ngưỡng mộ biết ơn. Và để tỏ lòng biết ơn, họ bàn với nhau:
Chúng ta hãy xây cho quốc vương thân yêu của chúng ta một lâu đài đẹp hơn 100 lần lâu đài hiện nay.
Thế là họ bắt tay xây dựng. Và khi hoàn thành thì thật đây là lâu đài đẹp nhất chưa từng thấy: Tường bằng cẩm thạch trong suốt, các ngọn tháp xây bằng đá kim cương, mái lâu đài dát vàng, nền tráng bằng ngà….
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Marcô tả lại một mẫu gương rất đạo đức: Một người khao khát sự trọn lành đến quì gối trước Chúa Giêsu xin học hỏi để được sống đời đời. Người ấy từ thuở nhỏ đã luôn đi trong đường lối Chúa: Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt, và luôn thảo kính cha mẹ. Tuy nhiên có một điều cuối cùng Chúa yêu cầu là hãy bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó, rồi sẽ được một kho báu trên trời.
Nhưng người ấy nghe lời đó, thì sụ nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Như vậy chúng ta thấy là “đồng tiền liền khúc ruột”, khó có ai mà đi bỏ khúc ruột của mình. Một con trâu chỉ cần một sợi dây thừng cũng đủ làm nó dừng lại tại chỗ! Ở đây chỉ cần một lý do cũng đủ làm cho người đầy thiện chí phải lui bước.
Con người là thế và sự kiện về người thiện chí đến với Chúa hôm nay cũng không có gì lạ theo định luật chung của phàm nhân. Nhưng có điều hồi đó người ta quan niệm rằng những người nghèo nhiều khi rất đau khổ vì chẳng có gì để mà dâng Chúa, nuốn góp phần vào đền thờ một chút cũng khó khăn, tìm lễ vật dâng lễ đền tội cũng chẳng có, muốn bố thí cho kẻ khó thì chính mình lại là kẻ khó, như thế lấy gì mà lập công phúc để mong hưởng Nước Trời. Còn người giầu có họ dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo luật buộc để được xá tội: dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo… Hơn nữa người Do Thái tin rằng sự hưng thịnh là dấu hiệu chứng tỏ một người tốt lành. Nếu ai giầu có, phát tài, họ tin rằng người ấy được Thiên Chúa tôn trọng, yêu mến và chúc phúc cho họ. Giầu có còn là bằng chứng người có đức hạnh được Thiên Chúa ban ơn. Tác giả thánh vịnh đã tóm tắt như sau: “Từ thuở nhỏ, tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ” (Tv.36,25). Thế mà hôm nay Chúa lại nói: “Người giầu có khó vào Nước Trời biết bao”. Tóm lại là người nghèo chẳng có gì dâng Chúa, còn người giầu thì khó vào Thiên Đàng, bởi vậy các môn đệ rất kinh ngạc vì những lời đó và hỏi nhau rằng: “Như vậy thì ai có thể được cứu độ”. Vả lại Chúa nói là từ bỏ của cải sẽ được kho báu trên trời. Thế mà các môn đệ đã bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng, riêng Phêrô đã bỏ mọi sự , đã cùng sống với Chúa, mà không biết được gì đây? Sau khi thắc mắc, Chúa lại càng xác quyết hơn: “Sẽ được gấp trăm ở đời này và đời sau được sống vĩnh cửu. Nếu còn khúc mắc nữa chúng ta hãy cầu xin Chúa cho hiểu rõ hơn về mầu nhiệm Nước Trời.
Thực ra của cải vật chất có khuynh hướng gắn chặt tấm lòng người ta vào đời này “của đâu, lòng đấy”, suốt ngày chỉ lo mơ tưởng đến tiền bạc. Giầu có rất dễ khiến người ta trở nên khoe khoang, kiêu căng, tự mãn, phàm tục, ăn chơi, tội lỗi. Có người coi đồng tiền là sức mạnh hậu thuẫn cho bản thân; tiền để mua chuộc bạn bè, mua chuộc quan toà, dùng tiền để làm phương tiện cai trị thế gian thiên hạ. Chỉ có một số vị thánh thiện, các vĩ nhân, những người rất tự chủ mới biết dùng đồng tiền để làm ích lợi cho bản thân và làm vinh danh Thiên Chúa.
Còn những người nghèo khó, chúng ta hãy nhớ lại một lần kia Chúa quan sát xem đám đông bỏ tiền vào thùng dâng cúng. Có lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư xu Rôma. Chúa Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng dâng cúng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc.12,41-44).
Như vậy sự nghèo khó cũng không thể làm chúng ta bất nghĩa với Chúa; trái lại nghèo nàn càng tiện cho việc tâm hồn cố gắng chiếm hữu chính Thiên Chúa. Còn người giầu có phải đề phòng tiền bạc, đừng vì đồng tiền mà tách rời khỏi tình yêu Chúa, chính Chúa mới là Đấng bảo trợ cho đời này và đời sau.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn dậy chúng ta rằng những ai muốn sống đời hiến dâng cho Thiên Chúa thì phải quyết tâm từ bỏ mọi ràng buộc của cải trần thế, và sẽ được phần thưởng bội hậu ngay ở đời này cũng như đời sau. Ngày xưa các môn đệ đã can đảm từ bỏ tất cả mọi sự trần thế. Ngày nay cũng có đông vô số kể những linh hồn tiếp nối các môn đệ theo chân Chúa để chỉ mong tìm phần thưởng bội hậu trên Thiên Quốc.
“Sao anh gọi ta nhân lành?” (Mc 10:18). Câu hỏi này Chúa Giêsu cũng đang muốn hỏi mỗi người chúng ta. Ngài muốn biết chúng ta nghĩ gì, nói gì, và coi Ngài như thế nào? Tại sao chúng tin Ngài, mến Ngài, và theo Ngài?
Cũng như chàng trai mà thánh ký Marcô đã ghi lại, anh ta làm ra vẻ biết Chúa nhiều, nắm giữ các giới luật của Ngài, và cũng muốn đi theo làm môn đệ của Ngài. Ở một phương diện nào đó, có lẽ anh ta cũng đã nhận ra được nơi Ngài một cái gì đó khiến anh ta có thể tin được và yêu mến được. Hay ít nhất anh ta cũng đang băn khoăn về số mệnh đời đời của mình và muốn Ngài cho một lời chỉ dẫn: “Lậy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” (Mc 10:17). Nhưng trước khi chỉ cho anh con đường đi tới sự sống đời đời, Ngài đã hỏi anh là tại sao anh lại biết Ngài nhân lành: “Sao anh gọi ta nhân lành?” (Mc 10:17).
“Sao anh gọi ta nhân lành?” Hỏi anh câu đó, vì Chúa Giêsu đã biết rõ anh không quan tâm mấy đến sự nhân lành của Ngài, hơn là nhờ một người tốt (nhân từ, nhân lành) như Ngài chỉ cho anh con đường về vĩnh hằng. Tuy nhiên, Ngài vẫn thỏa mãn ý nguyện của anh. Ngài bảo anh “theo Ngài”. Và kết quả là người thanh niên ấy đã không làm như Ngài đề nghị: “Nghe vậy, anh buồn rầu và bỏ đi” (Mc 10:22). Mà vì không làm theo đề nghị của một người mà anh cho là nhân lành cũng có nghĩa là anh bắt đầu nghi ngờ tính chất nhân lành của người ấy. Anh biết Chúa qua luật lệ, qua những ràng buộc của đạo giáo, nhưng thật ra anh không hề biết Chúa bằng cảm nghiệm cuộc sống.
“Sao anh gọi ta nhân lành?” Hình ảnh người thanh niên mà Marcô đã ghi lại hôm nay cũng chính là hình ảnh mỗi người chúng ta. Trước những khát vọng kiếm tìm sự sống đời đời, trước những thôi thúc của đời sống nội tâm, Chúa Giêsu cũng muốn hỏi chúng ta: “Sao ngươi gọi ta nhân lành?”.
Thường ngày chúng ta vẫn đọc kinh rang rang, rước sách và ca hát tưng bừng, hội họp và hồi tâm liên miên, nhưng thử hỏi trong những kinh nguyện ấy, trong những rước sách ấy, và trong những hội họp ấy chúng ta có thật sự cảm nhận, yêu mến và tin thật Ngài là Thiên Chúa nhân lành không? Và chúng ta có sẵn lòng làm chứng nhân cho sự nhân lành ấy hay không? Một đời sống chứng nhân được thẩm định bằng cả gia tài mạng sống mình, như Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên rằng nếu muốn thật sự làm môn đệ Ngài, muốn Ngài chỉ đường cho lên cõi hằng sống, thì phải bán hết gia tài của anh đi.
Trong đời sống tâm linh và giữa muôn vàn thử thách của cuộc sống hiện nay, dám tin nhận, dám đi theo, và dám làm chứng cho một Thiên Chúa nhân lành không phải là chuyện dễ dàng và ai cũng có thể làm được. Chính các tông đồ khi nghe Chúa Giêsu nói với chàng thanh niên những điều kiện để theo Ngài, các ông đã phải thốt lên: “Vậy thì ai có thể được cứu rỗi?” (Mc 10:26). Có lẽ đấy cũng là tâm trạng hoang mang của chính các ông. Bởi vì lúc đó các ông vẫn chưa hoàn toàn theo Ngài vì mến và tin nhận Ngài.
Thật vậy, chúng ta có dám tin rằng Chúa rất nhân lành giữa những thử thách về đời sống thường nhật như nghèo khổ, thất bại trong công ăn việc làm, gia cảnh gặp khó khăn, vợ chồng bất hòa, và con cái hư hỏng không?
Chúng ta có thật sự tin rằng Thiên Chúa tốt lành giữa những thử thách gây ra do bệnh tật, hoặc con cái chúng ta gặp tai nạn, người nhà chúng ta bị đau ốm liên miên không?
Chúng ta có nhìn ra và tin nhận thật sự Thiên Chúa tốt lành khi chúng ta gặp phải tai bay, vạ gió, bị người đời hất hủi và ức hiếp không?
Trong tất cả mọi rủi ro, khó khăn, trăn trở của cuộc đời, chúng ta có dám nói như Thánh Gióp trong những đau thương và thử thách rằng: “Của Chúa ban, Chúa cất lấy, xin chúc tụng Chúa” (Job 1:21) không?
Nhìn ra xã hội bên ngoài, chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, bão lụt, ôn dịch, động đất, mất mùa, khủng bố. Trong tất cả những biến cố ấy, chúng ta có khám phá ra được bộ mặt nhân từ của Thiên Chúa không? Và chúng ta có dám hiên ngang tin nhận Ngài mặc dù bị người đời chê bai, đàm tiếu không? Đôi khi bị bắt bớ, và bị bỏ mạng vì sự tin nhận ấy hay không?
Nếu chúng ta chỉ nhìn ra Thiên Chúa tốt lành trong những lúc thanh bình, an vui, và gặp may mắn, thì việc nhìn nhận ấy cũng giống như chàng trai kia. Anh ta cũng đã giữ tất cả các lề luật một cách đầy đủ ngay từ tấm bé. Những điều đó chỉ minh chứng điều này là anh biết Chúa nhân lành qua lề luật, qua những việc làm mà mọi người đã làm. Một cách nào đó, anh biết Chúa nhân lành vì chưa gặp thử thách. Và sự thử thách đến là khi Chúa đề nghị anh bán hết gia tài của anh để theo Ngài, thì anh đã rút lui.
Kitô hữu chúng ta nếu theo Chúa để đọc kinh, để rước sách, để hội hè, thảo luận thì đó là một hình thức biết Ngài qua kinh bổn, rước sách, hội hè. Cái biết ấy không thay thế được sự hiểu biết cần thiết khi đối diện với những thử thách và đau khổ.
Tóm lại, qua người thanh niên trong Thánh Kinh, Chúa Giêsu cũng muốn hỏi tôi, hỏi anh, hỏi chị, hỏi em, hỏi chúng ta một câu tương tự: “Sao con gọi ta nhân lành?” Và nếu trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống chúng ta trả lời được câu hỏi ấy, tức là chúng ta thật sự biết Chúa và xứng đáng là môn đệ của Ngài.
Đầu tháng 10 năm 2006 xẩy ra vụ anh chàng Mỹ điên Roberts chạy vào một nhà trường của dân Amish bắn chết 5 em bé gái đã làm cả thế giới sửng sốt. Và nhiều người đi tìm hiểu thêm một lớp dân rất lạ này.
Dân Amish ở vùng bắc nước Mỹ có một lối sống rất khác đời, bơi ngược nền văn hóa đương đại, nhưng lại xem ra rất giầu có và an bình hạnh phúc. Họ thuộc một lớp dân đặc biệt từ Thụy Sĩ bị bách hại phải chạy sang Đức rồi sang Mỹ khoảng năm 1730, nhất định sống với nhau thành những cộng đồng riêng biệt trong những nông trại ở một số tiểu bang miền Bắc Mỹ. Nguyên ở quận Lancaster bang Pennsylvania nơi xẩy ra vụ án mạng có khoảng 50 ngàn người Amish.
Một trong những phong tục đặc biệt của người Amish là khi con gái đi lấy chồng, bà mẹ tự tay làm cho con một búp bê không mặt, nghĩa là trên mặt không vẽ mắt, mũi, miệng, tai gì hết, và các ngón tay ngón chân cũng không rõ nét. Mà bà mẹ nào cũng làm như vậy, không cần phải đẹp đẽ cầu kỳ gì cả, nhưng mỗi búp bê đều mang sắc thái riêng, nhận ra ngay nét riêng biệt của người mẹ mình làm. Trao búp bê không mặt cho con là trao một của hồi môn đầy ý nghĩa, sẽ làm cho con giầu lắm, chứ không bao giờ trao vàng bạc gì cả, vì người Amish không đeo vàng, không trang điểm. Thậm chí áo họ mặc thường ngày cũng không có cúc, vì cúc cũng là đồ trang sức khoe mẽ.
Con búp bê đó sẽ để mãi trong phòng, luôn nhắc nhở cho con rằng không cần phải sơn trét vào mặt những vinh hoa giả tạo. Vì mặt con được tạo dựng giống Chúa rồi. Còn mặt nào đẹp hơn? Bên trong nội tâm con, dưới mái nhà con, đã sẵn kho tàng giầu có rồi, con hãy hướng vào mà khai mỏ, mà xây dựng cho gia đình con thành một tổ ấm. Con hãy tập âm thầm chịu đựng, ẫn mặt đi và bằng lòng thua thiệt thì gia đình mới hạnh phúc được. Còn cứ đua đòi lo giương mặt ra, thì dễ thành mặt thớt, mặt mo, mặt mẹt...
Đạo sống của họ là không để thói phô trương chạy theo thị hiếu làm hủy hoại đời sống hạnh phúc giản đơn, nên nhà họ không có những gì mà khoa học thời mới phát minh ra như điện, xe hơi, điện thoại, Tivi. Khó có thể tưởng tượng nổi rằng ở ngay trên đất Mỹ này bây giờ mà vẫn có nhiều người như thế chủ ý không sài đèn điện, không mua sắm Tivi, tủ lạnh, máy giặt, máy sấy, không mất tiền cho bất cứ gì gọi là máy móc. Họ có một đời sống rất ngăn cách với thế giới bên ngoài, không chịu để người lạ bước vào trong gia đình họ.
KHI NGƯỜI NHẬT NẢN CHÂN BON
Thế giới có 8 nước giầu nhất gọi là cường quốc kinh tế G-8:. Mỹ, Đức và Nhật đang dẫn đầu. Ngày 15 tháng tám năm 1995, Nhật kỷ niệm 50 năm bại trận, đầu hàng vô điều kiện sau hai trái bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Nagasaki và Hiroshima. Ngày 15.8.1945, Nhật là một trong những nước nghèo nhất thế giới, các thành phố bị san bằng. Nhiều người chỉ được ăn mỗi ngày một củ khoai.
Năm mươi năm sau, Nhật thành cường quốc kinh tế thứ nhì chỉ sau Mỹ, nhưng lợi tức mỗi gia đình là 31 ngàn rưởi Mỹ Kim một năm, so với Mỹ chỉ có 24 ngàn. Thế giới có 500 công ty lớn nhất thì Nhật chiếm 149, Mỹ chiếm 151. Hai anh chàng “tuy hai mà một” của hệ thống tư bản này chiếm 3/5 thế giới rồi còn gì.
Phép lạ gì vậy? Người ta tha hồ mà ca tụng hệ thống tổ chức xí nghiệp của Nhật. Nhưng điều then chốt vẫn là chương trình viện trợ Marshall theo đường dây "Trật Tự Mới" của tư bản Mỹ cộng với cái máu người Nhật. Họ mê làm, ham học theo, hết mình cho hãng sở và đề cao tăng gia chất lượng sản xuất.
Người Nhật nghiện làm, quên cả ăn, quên cả hưởng, và khá keo. Họ sẵn sàng hy sinh cá nhân để theo kỷ luật chung, miễn là làm cho nước Nhật phải vượt lên, phải hơn các nước khác. “Chúng tôi chỉ có làm, làm, và làm. Hãng chúng tôi không nghỉ thứ bẩy và Chúa Nhật”, đó là lời ông Tadac Takubo, 62 tuổi. Cái máu hiếu thắng này đã khiến Nhật khi chiếm được các nước Á Châu thời đại chiến thứ hai với chiêu bài Đại Đông Á thì đã tỏ ra dữ tợn độc ác hơn cả người Da Trắng đi chiếm thuộc địa mà “khai hóa các dân ngu muội”. Đại Hàn, Tàu đều là nạn nhân khủng khiếp. Nạn đói ở Bắc Việt mà Nhật để mấy triệu người chết chẳng bao giờ xóa mờ được trong ký ức của nhiều người Việt. Bây giờ không đánh nhau bằng súng, thì đánh nhau bằng tiền, cũng vẫn là một thứ máu: thích đè bẹp lân bang, như anh chàng Đức phải cho giống người mình là số một.
Đấy cũng là một lối tìm và một lối sống, tạo nên một nền văn minh, thành một nước giàu mạnh. Nhưng những ai đã từng ở Nhật thì đều thấy rằng người Nhật chỉ chỉ lo làm, đầu tắt mặt tối hối hả tối ngày. Đất đai chật hẹp, nhà cửa và vật giá thì quá cao, thành thử đời sống thật căng thẳng. Thiền là một từ ngữ xa lạ chỉ dành cho mấy tay Âu Mỹ hiếu kỳ thích tìm thứ mới lạ mà thôi, chứ người Nhật chẳng có giờ cho mấy thứ "trà dư tửu hậu" đó.
Dịp kỷ niệm 50 năm bại trận, cũng là 50 năm thanh công vượt bậc, thủ tướng Nhật Tomiichi Murayama lại phải buồn phiền thốt lên: “Nhiều người Nhật đang bất mãn về cuộc sống hiện tại và âu lo về tương lai”. Anh hùng bắt đầu thấm mệt rồi. Ngựa đã nản chân bon!
THỜI ĐIỂM POCAHONTAS KHÁM PHÁ KHO GIẦU MỚI
Điều ngán ngẩm của người Nhật âu cũng là dấu chỉ thời đại. Những người ở các nước Âu Mỹ thì càng ngày càng nhận ra điều đó thật rõ nét. Những phim nổi tiếng thu hút rất đông người xem những năm qua như Forrest Gump, Pocahontas, The Joy Luck Club, The Secret Garden… đều nói lên một điều rất đơn giản: con người đã mệt mỏi, và đang đi tìm một giá trị mới, đi tìm những tiêu chuẩn làm cho con người sống giầu đích thực, tìm về thiên nhiên, tìm về những gì thật giản đơn đã có sẵn trong cuộc sống, nguồn phú túc đã được Chúa Trời bày biện như bữa tiệc sẵn sàng. Hạnh phúc là biết mở mắt nhận ra mà lãnh nhận chứ đâu có quá vất vả như con người ngày nay! Sửa soạn vào ngàn năm mới, con người mới giật mình nhận ra đâu là lối tìm hạnh phúc và lối sống giầu có thật.
Anh chàng John Smith và đám lính Da Trắng người Anh trong câu truyện Pocahontas đã đổ bộ sang Mỹ vào năm 1607 để chiếm đất của người Da Đỏ vùng Virginia. Họ phá hủy núi rừng đẹp đẽ để đào bới vàng. Người Da Trắng tưởng vàng là nhất, là có thể làm cho mình hạnh phúc. Nhưng có ngờ đâu khi gặp cô bé Pocahontas, thì John Smith nhận ra một giá trị mới, một nhãn quan mới. Một hôm tò mò về thái độ đào bới thật kỳ cục của người Da Trắng với kiểu ăn mặc bó sát chật chội, Pocahontas đã hỏi John Smith:
- Các anh tìm gì vậy?!
- Tụi này đi tìm vàng để làm giầu.
- Vàng là cái gì?
Thực sự Pocahontas chẳng hiểu vàng là cái gì mà người Da Trắng lại có thể ham mê tới cỡ đó. Rồi không biết phải so sánh giá trị làm sao, cô bé bèn cầm lấy trái bắp vàng mà giơ lên hỏi "vàng là cái này á?"
Câu hỏi đơn sơ của cô bé Pocahontas khiến người Da Trắng giật mình nhận ra một điều rất quan trọng: núi rừng kia, thác nước kia, sông hồ kia, trái bắp kia, mới là vàng, mới là giầu có thật, và mới là vườn địa đàng. Còn vàng của người Da Trắng chỉ là một thứ kim khí hiếm, do người ta ước định mà gán cho là quí báu khiến phải chém giết nhau để đạt lấy cái “địa đàng” kiểu ấy mà thôi. Mấy đứa trẻ ở Nam Phi xưa vốn lấy vàng làm đồ chơi, vì nước này đầy vàng, có ai đếm xỉa gì đâu, có ăn được đâu.
LỐI NGƯỜI VIỆT LÀM GIẦU
Nhà ảnh Mark Sindler đã từng lăn lộn nhiều năm trong cộng đồng người Việt vùng New Orleans. Anh tìm chụp những nét tiêu biểu của lối sống Việt Nam để giới thiệu cho người Mỹ. Mới đây trong Jazz Festival, một số tấm hình anh chụp được triển lãm trong khu vực sắc thái các dân.
Đây là hình chụp cảnh một gia đình Việt thật giầu: hai ông bà mặc áo dài khăn đóng chỉnh tề, chung quanh có vẻ chả có gì ngoài cái bàn ăn thô thiển và cái bộ sa-lông cũ rích, nhưng nét mặt ông bà rất hãnh diện và sung mãn đứng trước bàn thờ trong gia đình, ra như bảo tên chụp hình rằng: ừ thì anh đã thấy chỗ chúng tôi đào vàng rồi.
Một tấm hình khác chụp cảnh một ông già đang cầu nguyện trong ngôi nhà thờ nhỏ. Tấm này chụp ngay trong những năm đầu mới sang Mỹ. Giữa những rối loạn tan hoang và tuổi già bơ vơ thừa thãi, hình ông cụ như một hiện thân của an bình, của niềm tin. Nhìn vào đó, ai mà chả cảm thấy lòng mình tĩnh lại thảnh thơi, mọi phiền não tan biến, ra như chả có gì trên đời có thể làm xao động nổi nữa. Ở giữa cơn bão vẫn có “mắt” tĩnh mà. Mark Sindler rất đắc ý về tấm hình này, anh đã lột được cõi tâm của người Việt, cho thấy được linh hồn giầu có của lớp dan tỵ nạn. Giầu có vì niềm tin.
TIN VUI CẤY HỒNG TÌNH YÊU
Rốt cuộc rồi con người khám phá ra mình với bằng ấy văn minh và giành giật, vẫn không mặc đẹp hơn bông hoa tươi nở bên gềnh đá, không thảnh thơi hơn con chim đang đậu trên cành kia, hay con cá đang tung tăng vui đùa dưới dòng nước. Chúa Giêsu đã nói như vậy từ lâu. Cũng được sinh ra trên mặt đất mà không một con vật nào phải đi mỹ viện hay bác sĩ thần kinh như con người. Siêng năng cần mẫn như con kiến mà cũng không phải lo đủ thứ bảo hiểm, không phải đặt ra lý thuyết lao động vinh quang hay "người là con vật kinh tế" để mà giành giật nhau từng miếng ăn, từng "dóp thơm, dóp giổm" để mà phải đấu tố giết nhau một cách man rợ.
Chúa Giêsu báo cho con người ở thời điểm này một Tin Vui lớn như đã từng bảo người nhà giầu trong Kinh Thánh khi đến hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời, để được thực sự hạnh phúc: "Bạn chỉ còn thiếu một điều, là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và bạn sẽ được một kho báu trên Trời".
Đúng là Tin Vui khi mình bỗng nhận ra rằng những tiêu chuẩn con người đang đặt ra để đánh giá nhau như vàng bạc, tiền của, không thực sự làm cho mình sống thảnh thơi hạnh phúc. Những cái đó đâu là gì khi so sánh với nguồn phú túc Chúa Trời đang trao ban từng giây từng phút. Cuộc sống còn nhiều cái giầu quí hơn mà mình ít nhận ra. Biết dừng lại để thưởng thức một nụ cười, một bông hoa, một cành lá, một cử chỉ tình thương, một việc bác ái, một buổi kinh đêm… Chẳng quí chẳng giầu lắm sao? Giàu tiền mà không biết cười, không biết yêu thương, không biết hưởng sinh thú cuộc sống thì cũng chỉ là một tên hành khất ăn xin bên lề đường thật tội nghiệp.
Mẹ Têrêsa có lần sang thăm nước Mỹ một vòng đã cho biết: "Không một nước nào mà trẻ em nghèo bằng nước Mỹ!"
Mâu thuẫn chưa? Nước Mỹ giầu nhất thế giới mà trẻ em lại nghèo nhất thế giới sao?! Mẹ có ý bảo: trẻ em nghèo quá vì thiếu sự hiện diện săn sóc yêu thương của cha mẹ. Ai cũng bận quá! Bận lo đi kiếm tiền, bận đua đòi cho kịp thời trang… Trẻ em nghèo quá vì không được dẫn vào chỗ đào vàng thật nơi "đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát trong" của những buổi kinh tối, của giá trị đời sống cầu nguyện.
Tháng Mười được truyền thống Công Giáo gọi là Tháng Mân Côi, tháng trồng Hồng. Mỗi kinh đọc là một bông hồng tình yêu, là chìa khóa mở vào kho tàng nội tâm. Lâu nay đời sống mình có cái gì lỏng lẻo khô cằn và nghèo nàn làm sao ấy! Vì mình quá hối hả và mải mê tìm vàng, tìm tiền, mà bỏ bê kho tàng nội tâm, tách lìa khỏi dòng nhựa sống. Vậy tại sao mình không tìm lại một cái gì thật đơn giản là kinh Mân Côi, có thể trồng hồng làm hoa nở mọi nơi, mọi lúc, nhất là mỗi tối trước khi đi ngủ. Bí mật Fatima là đây.
Người ta ở đời có đủ mọi thứ lo toan và họ vất vả vì những thứ lo toan đó. Những mối lo có thể giúp con người đi đến một quyết định sáng suốt làm hạnh phúc vững bền cho cuộc đời mình nhưng ngược lại có những mối lo làm cho người ta không được như thế. Chàng thanh niên trong bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy, anh có đủ mọi thứ vì anh là người giàu có. Những thứ anh có không làm cho anh hạnh phúc nên anh đang lo toan và chạy đến van xin Chúa Giêsu chỉ cho bí quyết sống đời đời. Như thế, anh có đủ mọi thứ nhưng chỉ thiếu sự sống đời đời. Chúa Giêsu đã chỉ cho anh bí quyết như anh mong muốn nhưng anh không thể làm theo lời chỉ dạy này.
Thật thế, anh thanh niên này được các tác giả Phúc âm nhất lãm đề cập đến (Mt 19, 16 -22; Lc 18, 18 -23). Anh ta là người giàu có, không thiếu thứ chi. Giàu có từ của cải đến giàu có từ những việc anh giữ lề luật của Thiên Chúa đầy đủ, anh đã giữ giới răn Thiên Chúa thật kỹ lưỡng, giữ cẩn thận từ thuở nhỏ. Anh chưa hề làm sai luật. Anh chưa hề làm thiệt hại cho ai điều gì. Có thể nói anh là người hoàn hảo. Vật chất, của cải là những phương tiện giúp anh ta tiến thân trong xã hội. Những thứ lề luật luân lý Do Thái bảo vệ anh ta trong tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ. Thế nhưng những thứ đó không làm cho anh ta an tâm, không làm cho hạnh phúc. Trong anh ta còn khát khao một điều gì đó ngoài những thứ kia, một cuộc sống tâm linh, một sự sống thần linh, một sự sống đời đời. Anh ta đang đi tìm nó. Anh mong được điều đó dù phải tốn công sức. Vì thế, khi hay biết Chúa Giêsu là người khôn ngoan chỉ dạy điều hay lẽ phải nên anh ta mong được gặp Ngài, mong Ngài chỉ cho biết làm cách nào để được sống đời đời: " Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? " (Mc 10, 17)
Đây là một câu hỏi khá thú vị mà Chúa Giêsu nhận được. Chúa Giêsu biết anh ta, Ngài quý mến anh. Ngài trân trọng anh. Ngài ban cho anh một mệnh lệnh là một điều rất lý tưởng: "hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." (Mc 10, 21). Nếu những gì anh có được mà không làm cho mình hạnh phúc thì nó còn ích lợi gì mà chẳng phải bán nó đi để bước theo Ngài như lời mời gọi đáp trả. Chúa Giêsu muốn anh sẵn sàng hy sinh của cải, chấp nhận thiệt thòi, đi theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Anh hãy bán, hãy bỏ mà cương quyết bước theo Thầy.
Còn phần anh, anh nghe những lời trên thấy hay lắm, anh cũng muốn đi theo Thầy nhưng làm sao anh có thể chấp nhận hy sinh của cải, chấp nhận thiệt thòi. Thế là anh ta đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu, anh ta bỏ đi: "Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải." (Mc 10, 22). Anh ta phải đối diện với thực tế, đối điện với sự chọn lựa: đi theo Ngài mà phải từ bỏ của cải sao? Nó phiêu lưu quá! Khó chấp nhận quá! Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh. Cuối cùng anh ta quyết định không nghe theo Chúa Giêsu nữa, chẳng cần sự sống đời đời đâu.
Khi đọc bài Phúc âm này chúng ta thấy được nỗi buồn của Chúa Giêsu và của anh nhà giàu. Chúa Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến. Anh ta buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân. Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi đầy muộn phiền. Chúa Giêsu đòi anh đúng cái điều mà anh muốn giữ lại. Của cải vốn là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc bỏ chỗ dựa này. Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì. Tiếc thay anh không có can đảm bước ra khỏi sự nô lệ này dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Có lẽ chúng ta từng bị giằng co như thế. Của cải vật chất, chức quyền và danh vọng có sức hấp dẫn mãnh liệt. Của cải vật chất cần thiết cho cuộc sống con người nhưng nó dễ làm cho chúng ta thành kẻ nô lệ nếu không biết sử dụng chúng. Tiền của là đầy tớ đắc lực nhưng cũng là ông Vua thống trị ác liệt nhất, nó dễ dàng sai khiến chúng ta. Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ tôi. Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống theo ý Chúa.
Chúa Giêsu đòi hỏi kẻ theo Chúa phải từ bỏ của cải vật chất để đi theo Ngài (Lc 14, 33). Ngài và các môn đệ đã sống nghèo, sống như người lữ hành, không chỗ cậy dựa, "không nơi gối đầu" để tín thác vào Cha và dễ dàng đến với người ta. Theo Chúa Giêsu là chấp nhận một con đường. Theo Chúa là chọn theo một lối đi. Trên lối đi đó, người môn đệ làm theo lời mời gọi của Thầy Giêsu, dám từ bỏ tất cả, chấp nhận sống bấp bênh. Theo Ngài bằng tim, bằng tâm, bằng tình yêu thì sẽ dễ dàng và sẽ bình an hạnh phúc. Theo Thầy là đạt nguồn hạnh phúc nhất, nơi của cải chưa thể có được. Hơn nữa theo Ngài cũng là trở nên giàu có. Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến, trao tặng, trao ban. Không phải sự giàu có do chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà cửa, ruộng vườn, bỏ người thân yêu, bỏ đến cả mạng sống. Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay từ đời này, và nhất là đời sống vĩnh cửu mai hậu. Theo Chúa Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Cái được quan trọng nhất là được Chúa Giêsu (x. Pl 3,8). Theo Ngài là được sự sống tình yêu và niềm hạnh phúc vững bền.
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, của cải vật chất...hấp dẫn chúng con. Nhưng chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Xin cho chúng con can đảm bước theo Chúa, tin tưởng, phó thác nơi Ngài. Amen.
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi (Mc 10,21).
2. CÂU CHUYỆN: CẦN SỰ NHIỆT TÌNH VÀ QUYẾT TÂM CAO:
Có một người kia làm nghề bán sách rong. Anh ta đi từ nhà này sang nhà khác, mang theo một túi to chứa nhiều loại sách quí. Một hôm anh ta bước vào nhà một bác nông dân. Ông này đang ngồi đu đưa trên chiếc ghế xích đu ở sân trước nhà, với dáng điệu của người ung dung nhàn hạ. Người bán sách liền tiến đến gần ngỏ lời: "Thưa ông, tôi xin giới thiệu với ông một cuốn sách dạy về một phương pháp canh tác mới, sẽ làm phát sinh hoa trái gấp 10 lần phương pháp canh tác hiện nay". Nhưng bác nông dân cứ tiếp tục đu đưa chiếc xích đu mà không quan tâm đến lời của người bán sách dạo. Sau một lúc im lặng, cuối cùng bác nông dân mới liếc mắt nhìn người bán sách và nói rằng: "Này anh bạn trẻ, nói thật với anh: Chẳng cần đến sách của anh, tôi cũng biết cách làm cho cây cối ra hoa trái gấp mười lần hiện nay đấy".
3. SUY NIỆM:
1) Không làm được việc tốt vì thiếu động lực:
Bác nông dân trong câu chuyện trên tuy biết cách làm hoa trái tăng lên gấp mười lần, nhưng đã không làm, vì thiếu quyết tâm cao. Cũng vậy, chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy có thiện chí muốn nên trọn lành để được sống đời đời nhưng lại không quyết tâm làm theo lời dạy của Đức Giê-su, cụ thể là từ bỏ của cải để sống siêu thóat vì Nước Trời (x Mc 10,21). Anh ta đã buồn bã rút lui vì Đức Giê-su đòi anh phải từ bỏ thứ mà anh vốn yêu thích và tin tưởng như chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Đức Giê-su đòi hỏi trừ việc từ bỏ của cải. Cũng như chàng thanh niên trong Tin Mừng, nhiều người chúng ta hôm nay cũng biết rõ Đức Giê-su đòi phải sẵn sàng chia sẻ một phần của cải cho người nghèo khổ bất hạnh để nên hòan thiện, nhưng chúng ta đã không làm được vì thiếu quyết tâm cao.
2) Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!:
Ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co giữa một bên là ước muốn nên hòan thiện và bên kia là sức quyến rũ lôi kéo của tiền bạc. Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay đã không muốn chia sẻ gia sản cho người nghèo, vì anh coi sự giàu có là phúc lành do Thiên Chúa ban, thế mà Đức Giê-su lại coi nó là trở ngại phải từ bỏ trước khi đi theo làm môn đệ của Người.
3) Giá trị của lối sống từ bỏ siêu thóat của Đức Giê-su:
Đức Giê-su đã cho biết về lối sống nghèo khó siêu thóai của Người: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Mt 8.20). Người cũng đòi môn đệ phải sống khó nghèo khi đi thực tập truyền giáo: ""Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo (Lc 9,3). Tuy nhiên, theo Đức Giê-su: sự từ bỏ này không những không bị thiệt thòi mà còn được Chúa bù đắp: "Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau" (Mc 10,30).
Như vậy: Đức Giê-su đòi môn đệ phải biết từ bỏ của cải vật chất đời này để được giàu có ân sủng sau này: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25,40). Vì đối với Chúa Giê-su: "Cho thì có phúc hơn là nhân" (Cv 20,35). Nhất là khi biết từ bỏ của cải vật chất, các môn đệ sẽ nhận được mối lợi quan trọng nhất là chính Đức Giêsu như lời thánh Phao-lô: "Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người" (Pl 3,8).
4) Động lực đời sống siêu thóat là lòng mến Chúa:
Một người chồng thực sự yêu thương gia đình, sẽ không bằng lòng với việc tránh làm điều thiệt hại cho vợ con như: không nói dối, không đánh đập, không la mắng vợ con... Nhưng sẽ luôn hy sinh bản thân cho vợ con mình được bình an và hạnh phúc. Khi đối mặt với bọn cướp, tình yêu thực sự sẽ làm cho người chồng dám hy sinh tính mạng để đứng ra bảo vệ vợ con khỏi bị hãm hại. Cũng vậy, trên con đường nên hòan thiện, chính "Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi" (2 Cr 5,14). Chỉ nhờ tình yêu Chúa thôi thúc, chúng ta mới có thể quảng đại chia sẻ của cải vật chất cho tha nhân theo lời Người dạy, vượt qua đòi hỏi của Lề luật là: "Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai..." (Mc 10,19).
5) Chúng ta phải sống từ bỏ thế nào?:
Trong thực tế, ngòai một số tu sĩ được ơn kêu gọi đặc biệt dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân trong đời dậng hiến, còn nói chung các tín hữu không nhất thiết phải cho đi tất cả tài sản hợp pháp của mình, vì "phú quí sinh lễ nghĩa; bần cùng sinh đạo tặc!". Như bao người khác, chúng ta cũng cần phải có tiền bạc để không nên gánh nặng cho tha nhân (x 2 Tx 3,8), không bị lệ thuộc hoặc và đánh mất phẩm giá của mình khi bị "khố rách áo ôm", không nhà cửa tiền bạc... Điều Đức Giê-su muốn mọi tín hữu thực hành là: "Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16,13). Đừng coi tiền bạc là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ, vì: "Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng là đầy tớ tốt". Một khi là phương tiện, tiền bạc sẽ giúp chúng ta làm được nhiều việc lớn lao, chu tòan được sứ vụ "Làm vinh danh cho Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi anh em".
4. THẢO LUẬN: 1- Mỗi buổi tối trước khi nghỉ đêm, bạn hãy dành vài ba phút để tự vấn lương tâm về quyết tâm như sau: Hôm nay tôi đã làm được việc nào hữu ích cho cha mẹ, chồng vợ hay một ai thực sự cần sự trợ giúp hay không?
2- Để thực hành câu "mỗi ngày làm vui lòng ít nhất một người", ngòai quyết tâm cao, chúng ta còn phải làm gì?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay con hiểu rằng: Vào Nước Trời thật khó biết bao! Cái khó ấy phát sinh từ lòng tham không đáy của con: Là người giàu có, con sẽ coi của cải là tài sản riêng mình. Còn nếu nghèo khó, con lại ước mơ giàu sang vượt quá khả năng của con. Xin Chúa giúp con ý thức rằng: Của cải vật chất tuy có giá trị nuôi sống con người, nhưng lại không mấy bền vững. Chúa muốn con trước tiên phải "lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn việc ăn gì, mặc gì, làm gì thì Chúa sẽ lo giúp con sau". Xin dạy con luôn biết quảng đại dấn thân phục vụ Chúa trong mọi người để đáp lại lời mời gọi của Chúa vì biết rằng: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; Chính khi thứ tha là khi được tha thứ; Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời" (Kinh Hòa Bình).
X. Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
Trong những ngày vừa qua, những người VN chịu biết bao cảnh vất vả do Thiên tai. Nào là những trận mưa bảo ở miền trung, còn miền nam thì đặt biệt những tỉnh miền tây có một số người ngày ngày phải lênh đênh trên giòng nước, vì không nhìn thấy đất nơi đâu. Họ phải từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, cả những gì là tài sản, là phương tiện sinh sống của đời người để ra đi. Họ từ bỏ tất cả không mang theo được gì. Họ ra đi để tìm sự sống. Nếu họ không ra đi, cứ bám vào nhà cửa, tài sản của mình thì có lẽ cả mạng sống của họ cũng không được bảo đảm, đừng nói chi đến tài sản. Chính vì thế họ quyết định từ bỏ tất cả để tìm sự sống, đi tìm cái mà họ biết mai nầy đây họ cũng sẽ mất nó. Cuộc đời của con người được bao nhiêu năm. Thế mà họ vẫn đánh đỗi bằng cả tài sản mình có.
Chàng thanh niên đến với Chúa Giêsu để tìm sự sống. Anh ta tự hào vì mình đã giữ những điều theo lề luật từ thuở bé. Anh ta tự hào vì mình không làm điều gì sai lỗi; điều đó cũng đồng nghĩa với việc anh ta không làm được điều gì tốt. Chúa Giêsu động lòng thương, nói với anh ta. "Anh chỉ còn thiếu một điều, là bán đi tất cả những gì anh đang có, bố thí cho kẻ khó và đến mà theo Ta". Anh buồn bả bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Những thứ đó đã nhận chìm cuộc đời anh, những thứ đó đã cướp đi sự sống mà anh đang và đã cố công tìm kiếm bấy lâu nay. Những thứ đó đã lôi kéo, làm cho anh không thể bước đi nỗi để tìm sự sống. Những thứ đó đã giết chết cuộc đời của anh, trong khi anh ở kề bên nguồn sống đích thực. Chúa Giêsu đành thất vọng đưa mắt nhìn anh ta ra đi, với những cơn lũ lụt của cuộc đời sẽ nhận chìm anh ta.
Ngày nay những cơn lũ lụt ngày càng nhiều và mỗi ngày một tàn phá cách mãnh liệt hơn. Những ai không biết thoát ra khỏi , sẽ bị nó nhận chìm không thương tiếc. Mỗi người trong chúng ta cũng đang ngụp lặn dưới dòng nước của cơn lũ. Những cơn lũ của tiện nghi vật chất, những cơn lũ của danh vọng giàu sang, cơn lũ của sự tham lam tranh chấp, của sự kiêu căng tự phụ, của sự ích kỷ hẹp hòi. . . .
Chúa Giêsu cũng đưa mắt nhìn mỗi người chúng ta và động lòng thương, Ngài cũng nói với chúng ta: "Con chỉ còn thiếu một điều". Cũng biết bao lần chúng ta buồn bả bỏ đi như chàng thanh niên kia, vì chúng ta có nhiều của cải. Những thứ đã bao vây cả cuộc đời đã nhận chìm không cho chúng ta bước đi thoải mái, vì nó làm nặng nề những bước chân muốn thăng tiến. Nhiều khi chúng ta cũng bàu chữa rằng mình đâu có nhiều của cải vật chất. Đúng đấy, không có nhiều của cải vật chất, nhưng chúng ta có nhiều thứ không thể bỏ đi được. Ai cũng mơ ước đạt đến sự sống đời đời, nhưng không thể bước lên nổi, vì những dòng nước của sợ sệt đã nhận chìm chúng ta. Đó là những lần đáng lẽ phải ra tay cứu gíúp người khác trong cơn hoạn nạn mà chúng ta đã không làm, chúng ta sợ mất mát thiệt thòi, sợ bị phiền hà đến bản thân. Những dòng nước của sự ích kỷ cũng nhận chìm không biết bao nhiêu người vì sự bủn xỉn tính toán lợi lộc bản thân. Đó là những lúc chúng ta làm ngơ trước những sự bất công, đôi khi chúng ta còn cộng tác trực tiếp hay gián tiếp vào đó nữa. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy bán những thứ đó đi cho ngưới nghèo khó để có thể nhẹ nhàng mà bước đi theo Ngài. Bao nhiêu lần chúng ta quay lưng lại, bao nhiêu lần chúng ta không muốn tìm đến sự sống, mặc dù rất nhiều lần chúng ta ở kề cận bên ngồn sống của Thiên Chúa. Nhiều lần chúng ta vẫn thích ngụp lặn dưới những cơn nước lũ của cuộc đời hơn là bỏ đi một chút của cải riêng tư, bỏ đi một chút tính toán, bỏ đi một chút nóng nảy ganh tỵ, để cho con người chúng ta nhẹ nhàn mà tìm đến sự sống. Chúng ta càng không dám tự hào như chàng thanh niên là đã giữ trọn các điều răn từ thuở bé. Vậy thì có gì để bám víu mà không chịu bước đi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ những gì làm vướng bận, để tìm được nguồn sống đích thực.
Sách "Dụ ngôn đời thường" của linh mục Frank Mihalie - SDV kể câu chuyện "Khôn một xu, ngu một pound" như sau: Một con mọt báo chí keo kiệt có thói quen để dành tất cả những tờ ghi chú mới chỉ viết một mặt giấy. tự nhiên việc làm kinh tế ấy đã để dành cho ông một ít tiền ... nhưng cũng đốt đi rất nhiều thời gian của ông... cuối năm, ông ngồi lại tính toán.
Để dành được được 30 xu tiền giấy vụn.
Đánh mất 1 dollar thời giờ.
Nếu nói thời gian là vàng thì con mọt trên không chỉ mất 1 dollar . Một công việc tưởng rất khôn ngoan hóa ra lại quá dại.
Khôn ngoan là điều ai cũng muốn, cũng mong. Bởi nhờ khôn ngoan mà con người nhận được nhiều thành công trong những chọn lựa của mình.
Phúc âm Chúa Nhật XXVIII này kể chuyện một thanh niên giàu có tìm đường vào Nước Trời nhưng cuối cùng đã chẳng vào được do một quyết định thiếu khôn ngoan. Mà anh thanh niên này thiếu ngoan thật. Bởi anh đã chọn cái chóng qua thay cho cái vĩnh cửu. Anh biết Thiên Chúa là nhân lành nhưng anh không làm theo hướng dẫn của Đấng nhân lành. Anh khao khát Thiên Chúa nhưng anh không với được Thiên Chúa bởi hai tay anh đang bận ôm kho tàng của của cải của mình. Anh hiểu thiên đàng là tuyệt đối nhưng anh không dám bỏ những cái tương đối để đạt được thiên đàng. Anh có thiện chí nhưng lòng đam mê thế tục đã dập tắt ý chí phấn đấu. Anh giữ nghiêm nhặt lề luật nhưng anh không biết được cái tâm của lề luật. Giá mà anh dám bám hết tài sản để bố thí cho người nghèo thì thiên dàng đã có tên anh rồi. Anh đi sai nước cờ khi cho rằng mấy đồng tiền lớn hơn hạnh phúc Nước Trời. Anh đã hiểu mọi thứ lề luật nhưng có một điều anh không hiểu là Nước Trời mới là tài sản quý nhất, dù phải đổi lấy mạng sống để đạt được thì cũng quá rẽ nói gì là tiền của.
Thói thường chúng ta hay chọn những gì mà thấy kết quả ngay trước mắt hay những gì làm thỏa mãn sở thích của mình. Tiền của chính là thứ mà ai cũng lao vào tìm kiếm.Thế nhưng, cũng chính tiền làm con người mất mát nhiều nhất. Mấy ai ôm được tiền để lên trời? Mấy ai giữ được tiền mãi suốt đời. Biết bao kẻ chết vì tiền, tan nhà nát cửa cũng vì tiền. Chỉ trong một cái nháy mắt một đại gia trở thành kẻ ăn mày, một tỉ phú trở thành con nợ, một thư sinh thành một tên cướp. Đúng là tiền mua tiên cũng được nhưng tiền cũng mua được địa ngục nữa. Chúng ta phải biết rằng tiền của chỉ là phương tiện chứ không là cùng đích của cuộc đời. "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ít gì". Thánh Phanxicô Assisi đã rất khôn ngoan khi chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình.
Ở đây ta cũng thấy anh thanh niên này thiếu kiên nhẫn. Nếu anh nán lại ít giây nữa chắc anh đã không u sầu bởi những mối lợi quá lớn khi theo Chúa. Ở đây không phải bỏ một được mười mà được trăm. "Chẳng ai bỏ nhà cửa, ruộng đất... vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ ở đời này lại không nhận được nhà cửa, ruộng đất ... cùng với sự bắt bớ gắp trăm và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10, 29-30).
Kể về giai thoại các thánh tử đạo việt Nam thì không ai có thể quên được câu nói đầy niềm tin của thánh Phanxicô Nguyễn Cần (1803 - 1837) một thầy giảng quê ở tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Trước những lời dụ dỗ, đe dọa cho thầy bỏ đạo. Thầy đã khẳng khái trả lời: "Dù Thiên Thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng không tin". Còn Thánh Gioan Maria Vianney thì xuống hỏa ngục cũng được miễn là nơi đó có Chúa. Ước gì chúng biết bắt chước Vua Salômon trong Cựu Ước. Ông đã không xin gì ngoài sự khôn ngoan để dẫn dắt dân Chúa. Ông đã được sự khôn ngoan mà trước và sau ông không ai bằng ông, cùng tất cả những sự giàu sang khác.
Ước chi cúng ta cũng biết quý chuộng Sự Khôn Ngoan trên tất cả mọi sự (x. Kn 7,7-11). Và Sự Khôn Ngoan ở đây không gì khác chính là Thiên Chúa.
Tóm lại, "Tiền bạc dẫu sinh năm đẻ bảy, lòng chẳng nên gắn bó làm chi". "Tiên vàng hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, mọi sự khác Người sẽ ban cho". Xin Thánh Thần Chúa ban cho con đức khôn ngoan của Ngài để con luôn biết chọn Chủa là vĩnh cửu của đời con.
"Có tiền mua tiên cũng được" hay "Có tiền mới có quyền ăn, quyền nói". Dường như đây là châm ngôn sống của nhiều người. Bởi lẽ, trong cuộc sống người ta thường đánh giá nhau trên những gì mình có. Từ đó, người ta tìm mọi cách để làm sao có được thật nhiều tiền bạc của cải cho dù kiếm được bằng những cách bất chính.
Khi có được nhiều tiền của, người ta sẽ tự khẳng định mình trước người khác để rồi xem thường hay sai khiến người khác. Ðó là cái nhìn bình thường của người thế gian hay nói rõ hơn là của những người không có đức tin.
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta cách sử dụng tiền của sao cho thật khôn ngoan theo cái nhìn của người có đức tin. Sử dụng tiền của như thế để đổi lấy kho tàng bền vững trên trời.
Ngày nọ, có một người thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? " Chúa Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ."Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ." Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (Mc 10, 17 - 22)
Phản ứng của người này có thể là phản ứng của nhiều người trong chúng ta. Ðúng như người ta thường nói: "Ðồng tiền dính liền khúc ruột" hay "người đâu của đó". Chúng ta cảm thấy xót xa khi phải bỏ tiền của mình ra cho dù là cộng tác vào những chuyện có ích lợi cho người khác. Chính những cơ hội đó sẽ giúp chúng ta tích trữ cho kho tàng trên trời.
Người này đã tuân giữ tốt các giới răn từ thuở nhỏ. Thế nhưng, anh vẫn còn ích kỉ. Chúa Giêsu muốn người này biết sống mở ra cho người khác theo đúng bản chất của con người. Người muốn giúp cho người này chuẩn bị cho kho tàng trên trời.
Chúng ta nhớ dụ ngôn người quản lý khi hay tin mình sẽ bị cất chức anh ta đã biết lo xa để khi rớt chức anh sẽ được nhiều người đón nhận (Lc 16, 1 - 13). Chúa Giêsu đã khen anh biết lo xa cho tương lai. Cũng thế, hôm nay Người cũng muốn chúng ta sống với tầm nhìn xa như thế. Ðó là biết sử dụng tiền của cách khôn ngoan bằng cách quan tâm chia sẻ cho những người kem may mắn hơn mình. Ðó cũng là những cơ hội cho chúng ta tích trữ cho kho tàng trên trời.
Của cải vật chất là phương tiện cần thiết trong cuộc sống. Vì thế người ta dễ coi trọng tiền bạc và có xu hướng đánh giá người khác qua túi tiền, người ta thường tôn trọng người giàu hơn người nghèo khó! Còn Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa bảo người thanh niên giàu có: hãy về bán hết của cải, cho người nghèo rồi hãy theo Chúa.
Xem ra, người thanh niên này xưa nay vẫn coi của cải là chỗ dựa cho mình. Vậy mà bây giờ Chúa bảo bỏ chỗ dựa đó. Chúa muốn anh dứt khoát mọi của cải vật chất thế gian và đặt hết niềm tin tưởng vào Chúa, nhưng anh đã từ chối làm theo lời chỉ bảo của Ngài.
Chúng ta hôm nay có tiếc cho người thanh niên giàu có lúc đó không? Nếu Chúa mời gọi chúng ta với điều kiện đó, chúng ta có mau mắn đáp trả hơn người thanh niên giàu có đó không? Của cải vật chất là cái có giá trị cho phần xác: và người ta đề cao nó 'có tiền mua tiên cũng được". Tiền bạc là một thứ bảo đảm tạm bợ trước mắt và người đời hay bám chặt vào như cái neo của họ, để không bị người ta khinh khi, để sống ổn định. Bây giờ Chúa bảo người thanh niên hãy buông cái neo đó, bám vào neo mới là Chúa Giêsu: một người rày đây mai đó, không có hòn đá gối đầu và sẽ bị treo trên thập giá.
Vậy thì môn đệ Chúa sẽ dựa vào đâu bảo đảm cho cuộc sống của mình. Chỉ có duy nhất một niềm tin.
Tin và bước theo dù cho cuộc đời phiêu bạt đến nơi đâu đi nữa. Tuy nhiên, ai cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa sẽ không phải lo sợ vì cho dù có phong ba bão tố, thì vẫn có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vấn đề là chúng ta có tin hay không?
Người thanh niên giàu có tin tưởng vào của cải vật chất hơn nên đã từ chối làm theo lời đề nghị của Chúa Giêsu, và vì thế Chúa Giêsu đã nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời" Không biết người thanh niên đó sau này sẽ làm gì, nhưng khi còn bám víu và đặt tin tưởng nơi của cải hơn là bám vào Chúa thì không thể làm môn đệ Chúa được.
Mỗi người chúng ta khi theo Chúa, chúng ta coi trọng Chúa hơn thế gian hay chưa? Có khi nào chúng ta coi trọng của cải, sự nghiệp, thời giờ, bạn bè, gia đình hơn Chúa.
Các bạn học sinh coi chừng có lúc nào đó có coi trọng việc học hơn Chúa nên lo đi học thêm mà bỏ lễ Chúa Nhật hoặc đi lễ trễ. Hoặc có khi các bạn sinh viên coi trọng bạn bè hơn, sẵn sàng theo bạn bè đi chơi, đi ăn uống mà quên bổn phận đối với Chúa.
Một số người lớn coi trọng việc kiếm tiền hơn Chúa và xao lãng việc cầu nguyện, đi lễ.
Tất cả những trường hợp đó đều tương tự như trường hợp người thanh niên giàu có trong Tin Mừng: coi của cải vật chất hơn Chúa. Và như vậy làm sao chúng ta làm đẹp lòng Chúa, và xứng đáng là con cái Chúa.
Chúa thương yêu chúng ta, Chúa thông cảm với những yếu đuối của chúng ta nên Ngài đã một phen xuống thế, chịu đau khổ để sửa lại những sai lầm của con người, dạy dỗ và ban lề luật, chỉ rõ con đường về nước trời. Cho nên, phần chúng ta là đi theo con đường Chúa chỉ, đi theo con đường Chúa Giêsu đã đi thì bảo đảm sẽ không lạc đường về nhà Cha.
Con đường về nhà cha không phải con đường của thế gian, không phải con đường tìm về giàu sang vật chất và những đam mê xác thịt. Con đường đó là con đường từ bỏ. Con đường phục vụ anh em mình, con đường thập giá. Có một điều chắc là thập giá của chúng ta nhẹ hơn thập giá của Chúa Giêsu vì Ngài đã vác phần nặng mà để phần nhẹ cho ta. Và nhứt là có Chúa cùng đi ta không ngại gì gian khó. Hãy vững lòng tin, vì Thầy đã thắng thế gian.
Nói chung, Chúa không buộc mỗi người chúng ta phải bán hết của cải tài sản, nhưng Chúa muốn chúng ta biết dụng của cải đúng đắn, cư xử tốt với nhau, và ưu tiên cho Chúa, cho phần rỗi linh hồn. Chúng ta hãy nhớ: cuộc sống này là tạm bợ, cuộc đời này chóng qua. Tài sản của mình dù có tích trữ nhiều cũng chưa chắc mình được hưởng, vì không biết ngày mai mình còn sống chăng!
Vậy hãy làm việc vì Chúa, vì người khác, và hãy bám vào Chúa là Đấng ban cho ta cuộc sống vĩnh cửu thiên đàng mai sau.
Chắc ai trong chúng ta cũng phải công nhận rằng tiền bạc có một sức hút và một sức mạnh lạ lùng, đến độ một số người phải tôn sùng nó là vị thần (thần tài) của mình để đi theo làm tôi cho vị thần ấy. Một số người khác dù không tôn sùng tiền bạc như vị thần, nhưng lại coi nó là "khúc ruột" của mình: "đồng tiền đi liền khúc ruột". Cho nên, khi phải bỏ tiền ra, hoặc tốn hao tiền thì đau khi ruột mình bị cắt vậy! Nhưng rồi chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng thần tài rất là bạc bẽo với con người. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi chúng ta nằm xuôi tay nhắm mắt. Nghịch lý ở tiền bạc là khi còn sống chúng ta nghĩ tưởng đến tiền nhiều nhất và trước nhất nhưng khi chúng ta vừa nằm xuống thì nó là người bỏ chúng ta trước nhất: bỏ một cách vô tư, lạnh lùng và tàn nhẫn. Nó không hề khóc thương ta, không hề đưa tiễn ta ra đến mộ phần dù chỉ một bước cũng không.
Người có suy tư một chút thì đều nhận ra rằng: tiền bạc chỉ là phương tiện. Nói cách khác, tiền bạc là một đầy tớ rất tốt, nhưng sẽ là một ông chủ rất xấu. Người khôn ngoan là người biết sử dụng và làm chủ Tiền của mình. Họ thực sự là người giàu có trước mặt Thiên Chúa. Nhưng khốn cho ai tôn sùng Tiền của và để nó làm chủ cuộc đời của mình, vì đó là Con Đường SựChết. Con đường dẫn tới diệt vong. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần chứng kiến cảnh tượng "huynh đệ tương tàn" cũng chỉ vì vấn đề tranh giành Tiền của.
Có một chuyện kể rằng: Ở nơi một vùng núi xa xôi hẻo lánh nọ, có một vị ẩn tu thánh thiện đang. Một ngày kia, ngài đi dạo và phát hiện có một kho báo trong vùng núi đó. Vừa thấy kho báo, ngài vội vàng bỏ chạy ra và hô to: "thần chết, thần chết, tôi nhìn thấy thần chết". Thình lình có 3 người đàn ông trong bộ dạng rất là hung tợn đi tới. Nghe vị ẩn tu vừa chạy và la thét như vậy thì hỏi có cớ sự gì. Vị ẩn tu đã chỉ vào chỗ có kho báo cho 3 người đàn ông và cũng nói một lời như trước. Tôi đã thấy thần chết. Ba người đàn ông đó đã đi vào hang đá và phát hiện một thùng to chứa đầy vàng ngọc. Họ vui mừng không thể tưởng. Nhưng để lấy kho báo đó ra, họ phải đào bới cửa hang cho rộng mới có thể đi vào được. Sau một thời gian đào bới, họ thấy đói bụng nên cử một người đi mua thức ăn về, còn 2 người ở lại tiếp tục làm công việc đào bới cửa hang. Chuyện xảy ra là khi đi dọc đang, người được ủy nhiệm đi mua thức ăn sinh ra ý định sẽ chiếm đoạt số báo vật đó cho riêng mình nên dự tính khi mua thức ăn sẽ bỏ thuốc độc vào trong đồ ăn để khi hai người bạn của hắn ăn xong sẽ ngã chết để hắn tự do sử dụng số báo vật đó một mình. Đang khi đó thì hai người ở lại đào bới cửa hang cũng dự tính với nhau sẽ tìm cách hạ sát người anh em của mình khi mua thức ăn trở về để số kho báo được chia hai mà thôi thay vì chia ba. Và họ đã hành động đúng như đã dự tính với nhau. Sau khi giết người anh em của mình và ném xác xuống sườn núi, họ chia nhau thức ăn và ăn ngấu nghiến vì đói. Vừa ăn xong thì cả hai đau đớn giãy giụa vì thuốc độc đã thấm vào người. Sau một vài phút, cả hai người đó cũng tắt thở. Thế là kho báo vẫn còn đó, mà 3 người đàn ông tham lam đã chết cách thảm thiết! Và lời cảnh báo của vị ẩn tu đã thành sự thật: Tôi đã thấy thần chết (= thấy con đường của sự chết).
Cái nguy hiểm của vấn đề Tiền của là như thế đấy! Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh giác con người về sự nguy hiểm của Tiền Của. Dĩ nhiên, chúng ta cũng hiểu là Chúa Giêsu không có ý định lên án sự giàu có hay những người giàu có. Ngài chỉ nói và giúp người ta nhận thấy rằng: giàu có có thể là một cản trở lớn cho con người tiến vào đời sống vĩnh cửu. Khi con người ta mải mê và lo đi kiếm tìm chỗ dựa của mình nơi Tiền Của thì lòng họ sẽ gắn bó với Tiền Của và không còn dành chỗ xứng hợp cho Thiên Chúa tình yêu trong cuộc đời của mình nữa. Chúa Giêsu cũng mạnh mẽ nói cho con người biết rằng: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được".
Nghe câu chuyện trong Tin mừng hôm nay, chắc ai trong chúng ta cảm thấy tiếc cho anh thanh niên giàu có. Không chỉ có chúng ta tiếc cho anh mà chính Chúa Giêsu ngày xưa cũng quá tiếc nuối về anh. Anh đã đã tìm và đã gặp được "chiếc thang" Sự Sống, nhưng tiếc là anh ta không đủ can đảm vứt bỏ những gói hành lý cồng kềnh trên vai để leo lên đó, mà chỉ đứng nhìn rồi buồn bã bỏ đi, vì sức mạnh và sức nặng của Tiền của đã kéo ghì anh ta xuống. Từ đây, chắc cuộc đời của anh ta sẽ buồn lắm sau lần gặp Chúa hôm nay, vì anh ta sẽ phải sống trong sự giằng co dữ dội giữa Thiên Chúa và Tiền Của trong lòng mà anh ta không có sức chiến đấu và chiến thắng nổi. Thật đáng tiếc làm sao! Anh đã dừng lại trước CON ĐƯỜNG SỰ SỐNG.
Hãy nhìn hình ảnh của người thanh niên giàu có đó mà suy nghĩ và xét lại chính mình! Chắc chắc, nhiều người trong chúng ta đây còn thua anh thanh niên này về nhiều mặt lắm, thua anh ta về đời sống đạo đức (vì anh này giữ rất kỷ các giới răn của Chúa từ thưở nhỏ), thua cả về đời sống vật chất nữa (vì chúng ta đâu được gọi là người giàu có đâu). Rồi chúng ta hãy xét xem, chúng ta thường có thái độ nào trước vấn đề Tiền Của đây? Quyến luyến cách lệch lạc với nó hay sử dụng nó cách khôn ngoan và đúng đắn. Bao lâu chúng ta còn vì Tiền của mà xem nhẹ hoặc bê trễ việc thờ phượng Thiên Chúa cũng như việc đạo đức là chúng ta đã đặt thần tài lên trên Thiên Chúa rồi đấy. Bao lâu chúng ta còn xem nặng đồng tiền mà làm mất tình nghĩa với anh em, hà tiện, ích kỷ. . . là chúng ta đã không biết cách sử dụng Tiền của và đang làm có nguy cơ để Tiền của làm chủ cuộc đời của mình tồi đấy! Bao lâu, chúng ta thấy vui trong việc hưởng thụ và kiếm tiền mà thấy nặng nề hay không tìm thấy niềm vui trong việc dự lễ, đọc kinh, làm việc phước đức, bố thí . . . Là chúng ta chưa sống tinh thần nghèo khó mà Phúc Aâm kêu mời! Chưa tìm thấy con đường sống. Xin Chúa giúp chúng ta biến đổi đời sống để chúng ta biết cách sử dụng Tiền của theo đúng ý Thiên Chúa và cũng để tìm ra cho mình CON ĐƯỜNG SỰ SỐNG. Amen.
Một câu hỏi quan trọng dành cho mọi người nhưng đặc biệt hơn đối với người kitô hữu. Mọi người đều nổ lực để có một cuộc sống tốt đẹp ở giây phút hiện tại và có những dự định tốt đẹp cho tương lai của cuộc đời mình. Nhưng cái quan trọng hơn hết đó là ngoài cuộc sống ở trần gian này còn có một cuộc sống bền vững và vĩnh cửu. Có mấy ai quan tâm đến cuộc sống vĩnh cửu này?
Mọi người vất vả chỉ mong muốn mình có một đời sống đầy đủ, sung túc và dư đầy; tất cả lo tích trữ cho mình của cải, danh vọng, các mối tương quan có lợi, uy tín...có khi con người đã đạt được những thứ đó nhưng khát vọng cuối cùng vẫn là làm sao được sự sống đời đời. Có người vì cuộc sống nghèo đói, đau khổ muốn sớm chấm dứt cuộc sống hiện tại và mơ tưởng về sự sống đời sau sẽ hạnh phúc và an toàn hơn. Có người thì cuộc sống này đang tràn đầy hạnh phúc, mãn nguyện thì mong sao cho cuộc đời này kéo dài để tận hưởng và qua cuộc sống trần gian này nó vẫn còn kéo dài đến đời sau để tận hưởng hạnh phúc đó. Có rất nhiều lí do con người trăn trở về cuộc đời của mình. Hạnh phúc có rồi đau khổ đó, vui đó rồi buồn đó, có đó rồi mất đó.
Chúa Giêsu sẽ cho mọi người thấy giá trị đích thực của kiếp người đó là gì? Hạnh phúc không phụ thuộc vào của cải, không phải có đời sống hoàn hảo không một chút tì vết nào cũng không phải sở hữu nhiều thứ mà đó chính là "sự sống đời đời làm gia nghiệp". Muốn có được sự sống này thì phải có lòng nhân từ, khiêm tốn, sống trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa và cuối cùng là tin tưởng phó thác hoàn toàn vào thánh ý của Ngài.
Mỗi người kitô hữu cũng đang sống từng ngày với những bổn phận và trách nhiệm, chu toàn bổn phận với Chúa, với mọi người cũng để có được sự sống đời đời. Đó là mục đích cuối cùng của đời người và những gì muốn thể hiện trong cuộc sống hôm nay. Điều quan trọng đối với Chúa Giêsu là biết phó thác tin tưởng hoàn vào Chúa còn những điều đằng sau đó Chúa sẽ lo liệu và điều chắc chắn khi con người hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa, con người sẽ được sự sống đời đời.
Lạy Chúa xin cho con biết sống khiêm tốn, tin tưởng vào Chúa và cho con luôn ý thức rằng không phải vì sức riêng của mình làm được mọi sự nhưng tất cả là do Chúa. Xin cho con biết sống cuộc sống ở trần gian này theo thánh ý Chúa để có được sự sống đời đời.
Từ ngàn xưa qua các thời vua chúa đã có rất nhiều người phải tốn công sức thời gian, thậm chí cả tính mạng để tìm loại thuốc có thể làm cho mình được sống trường sinh bất tử. Nhưng cuối cùng thì cũng với chữ thất vọng và thất vọng. Vì đã là người thì không thể tránh khỏi sinh - lão- bệnh - tử . Người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế, anh ta nhận ra được sự sống tạm bợ, thời gian ngắn ngủi ở đời này. Vì vậy cần "phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp". Ai cũng có thể thấy được anh thanh niên hôm nay thật là rất may mắn, anh đã tìm được đúng người có thể chỉ cho anh biết cách tìm đến sự sống đời đời. Và cũng chính người này đã đưa ra cho anh hai điều kiện để được sự sống đó:
1. Giữ các điều răn.
Giữ các điều răn là một phương thế rất phổ thông và truyền thống trong đạo Do Thái, nó vốn là một nền tảng của đời sống đạo đức. Vì thế chàng thanh niên đã không chút do dự đáp ngay rằng mình đã giữ trọn tất cả. Nhưng suy cho cùng chàng thanh niên mới giữ những điều trên một cách rất tiêu cực, mới chỉ giữ được trong phạm vi gia đình, mới giữ luật để đừng bị phạm luật, chứ chưa giữ luật cách tiêu cực, chẳng hạn như qua việc anh ta khẳng định từ nhỏ đến giờ chưa làm hại ai. Nghĩa là anh ta chỉ làm việc bổn phận trong cá nhân mình, anh còn vo tròn trong ốc đảo bản thân. Nếu mà Đức Giêsu hỏi: "Ngươi đã làm được việc tốt lành nào cho tha nhân?" hoặc "với tài sản tiền của và tất cả những gì của ngươi bỏ ra thì người đã làm được việc tích cực nào cho tha nhân? Ngươi đã bỏ ra những gì để an ủi khích lệ kẻ khác như điều ngươi đáng phải làm?". Thì anh ta sẽ khó mà trả lời được. Nhìn chung người thanh niên này chỉ mới giữ luật vì luật mà thôi, và chỉ mới giữ cho bản thân chứ chưa hướng đến tha nhân và cho tha nhân. Đó cũng là cách giữ luật mà ngay nay ta thấy nhan nhãn trong cuộc sống. Nhất là trong giới trẻ và xã hội thời nay; một tuần người ta chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật để khỏi bị mắc tội, để giữ đúng luật, khi đi dự lễ thì lại không có tâm tình gì, cũng chẳng có con tim nên khi đi tham dự thánh lễ thì cắt xén đứng ngoài, cầu cho mau hết giờ để đi về. Đó chính là cách giữ luật của người thanh niên hộm nay.
2. Bố thí của cải cho người nghèo
Sau khi đưa ra điều kiện thứ nhất, người thanh niên đã giữ thì "Đức Giêsu đem lòng yêu mến" , Ngài muốn anh thực hành một điều nữa hoàn troàn anh có thể làm được, là chia sẻ cái anh có cho người nghèo, nhưng anh ta lại sa sầm nét mặt buồn rầu và bỏ đi. Vì anh ta có nhiều tài sản. Đức Giêsu đã kêu anh ta làm một công việc mà anh ta không hề muốn, nên khi được gợi ý anh ta đã không thể làm được vì trong đầu anh không bao giờ suy nghĩ là phải hy sinh những gì mình đang có. Như vậy lời Chúa kếu gọi đối với người khác thì bình thường, nhưng đối với anh ta là một thử thách quá lớn. Vì anh còn quá xem trọng giá trị vật chất khi đặt lên bàn cân thì tài sản hiện tại nặng hơn kho tàng vĩnh cữu, làm cho anh không thể theo Đức Giêsu nữa.. Đó cũng là căn bệnh mà phần đông chúng ta đều mắc phải, ai cũng muốn sống tôt lành thánh thiện, nhưng có ít người tha thiết muốn được nó đến mực phải chịu trả giá cho nó. Tuy nhiên cũng có nhiều mẫu gương cho chúng ta noi theo; như các thánh tử đạo, các ngài không những từ bỏ của cải vợ con mà còn chính mạng sống của mình. Khi mà người ta biết được gia trị của cuộc sống đời sau, biết được gia tài Chúa sẽ dành cho mình. Nhất là khi họ đã cảm nhận bằng tình yêu thì việc từ bỏ không những không nặng nề mà nó còn là một niềm vinh hạnh cho bản thân, họ xem đó như một ơn ban mà không phải ai cũng có được.
Cũng có những người dễ dàng theo Chúa khi họ không phải từ bỏ, không phải hy sinh, nhưng khi có công chuyện, nhà thờ họ đạo cần đóng góp, cần giúp đỡ cho người nghèo thị họ phàn nàn không muốn giúp đỡ, không muốn từ bỏ vì "đồng tiền liền khúc ruột". Cũng chính đồng tiền mà người ta có thể đánh mất lý tưởng của cuộc đời, vì đồng tiền mà người ta có thể đáng mất chính phẩm giá của mình và sẵn sàng chà đạp lên phẩm giá của người khác, vì tiền bạc của cải người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Nếu mối bận tâm chính của một người là của cải vật chất, thì người đó chỉ mới biết đến giá cả, mà không biết gì đến giá trị, chỉ nghĩ đến những gì người ta có thể mua bán bằng tiền bạc, mà quên đi còn cò những cái mà người ta không thể nào mua được bằng tiền bạc. Đó chính là cuộc sống vĩnh cữu, là sự sống đời đời.
Lạy Chúa, của cải vật chất có thể làm cho con lạc hướng, làm cho con không còn mạnh dạn bước theo Chúa. Xin cho con biết sử dụng của cải vật chất đời này như một phương tiện làm giàu cho cuộc sống mai sau . Amen
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b)
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giê-su là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen