“Con Người đến để ban mạng sống Mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy”. Người hỏi: “Các con muốn Thầy làm gì cho các con?” Các ông thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Chúa Giêsu bảo: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được”. Chúa Giêsu bảo: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”. Mười môn đệ kia nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”: Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia: TN29-B51
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ”. Nếu ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là tông đồ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thanh tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giê-su, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giê-su long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).
Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giê-su, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo bằng chia sẻ tình thương
Phải truyền giáo cách nào?
Đối với Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy….. Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân Đức Ki-tô, mà chỉ có một Chúa Giê-su thôi. Người đó phải là người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-xa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người khắp nơi trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Tê-rê-xa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ được lan toả.
Giáo Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ đây là phương thức truyền giáo rất hiệu quả mà mỗi tín hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.
Chúa Giêsu cùng các môn đệ tiếp tục cuộc hành trình lên Giêruslem. Không như những lần trước: TN29-B53
Chúa Giêsu cùng các môn đệ tiếp tục cuộc hành trình lên Giêruslem. Không như những lần trước, lần này Chúa Giêsu tỏ ra cương quyết khi “dẫn đầu” các môn đệ tiến về Giêrusalem trong sự sợ hãi của các môn đệ cũng như những kẻ theo Người. Cũng trong chính hoàn cảnh ấy, Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba – đây là cuộc loan báo có thể nói đầy đủ nhất và sẽ được thực hiện chính xác từng điều một trong cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Đồng thời trước lời yêu cầu của các con ông Dêbêđê, Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ về vấn đề Phục vụ trong cộng đoàn.
Đứng trước cái chết gần kề đe doạ tính mạng của Chúa – như Người đã loan báo, các môn đệ dường như tưởng đó là “chuyện đùa”. Chúa Giêsu loan báo việc Người chịu khổ nạn đến lần thứ ba mà các môn đệ cũng chẳng hiểu nổi ý nghĩa của những lời Thầy mình nói là gì. Tệ hơn, trong tâm trí các ông vẫn quanh đi quẩn lại chỉ mỗi một điều là làm gì đó để kiếm chút “vinh quang, bổng lộc” sau này. Thế nên các ông mới cả gan đến gặp Chúa để xin cho mình được “ngồi bên tả bên hữu Người”.
Có lẽ Giacôbê và Gioan thấy những người đồng hương với mình - quê Bếtxaiđa, là Phêrô và Anrê cũng được Chúa gọi như các ông, cũng bỏ cha mẹ và tất cả mọi sự để theo Chúa mà còn đám hỏi phần thưởng này nọ với Chúa thì việc các ông sắp làm hẳn phải “oai hơn” hai anh em nhà kia. Vả lại, như anh em Phêrô mà còn được phần thưởng “gấp trăm” thì việc các ông xin được ngồi bên hữu bên tả Thầy mình mới xứng đáng với những gì các ông từ bỏ chứ.
Đứng trước “cơn cám dỗ” về uy quyền của các môn đệ, Chúa Giêsu tiếp tục mở trí cho các ông hiểu khi chính Người chất vấn xem các ông có thể chia sẻ với Người những khổ hình mà Người sắp phải chịu không. Chúng ta biết là trong Kinh thánh “chén” và “phép rửa” tượng trưng cho những gì đau khổ, phiền muộn và cái chết (x. Tv 75, 9; Is 51, 17-22; Gr 25, 15-17.28; Ed 23, 31-34). Chính Chúa Giêsu trong cơn hấp hối cũng đã kêu cầu với Chúa Cha: “Xin cho con khỏi uống chén này” (Mc 14, 36). Còn phép rửa (Baptizein) có nghĩa là nhận chìm. Chúa Giêsu muốn nói đến việc Người phải chịu đóng đinh, chịu chết khi liên tưởng đến thánh vịnh 42, 7- 8:
Lạy Chúa, con chìm sâu trong phiền muộn… … Sóng cồn theo nước cuốn, Ngài để cho tràn ngập thân này.
Riêng với thánh Máccô, phép rửa chính là cái chết của Chúa Giêsu như trình thuật Chúa chịu phép rửa tiên báo cái chết của Người.
Cái “liều mạng” của hai anh em Dêbêđê khi trả lời chất vấn của Chúa và đã được Chúa chấp nhận thì cũng chính là bước khởi đầu cho một hành trình theo chân Thầy khi cuộc đời của các ông là những bước tiệm tiến để chia sẻ, để cảm nếm chính “chén” và “phép rửa” của Người. Thật vậy, trong Công vụ tông đồ, chúng ta được biết thánh Gicôbê là môn đệ đầu tiên trong số các môn đệ trở nên “đồng hình đồng dạng” với Thầy mình khi chấp nhận chịu chém đầu vào năm 44 dưới thời vua Herôđê Ácríppa I trị vì Giu-đa và Sa-ma-ri (x. Cv 12, 1-2); Còn thánh Gioan tuy không được phúc tử đạo nhưng cũng phải trải qua nhiều đau khổ. Như thế là, vinh quang nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu muốn chúng ta chia sẻ chính là thông phần vào sự khổ nạn của Chúa, và, sự sống vĩnh hằng chỉ có thể lãnh nhận sau khi chia sẻ “sự bách hại, sự ngược đãi” như chính Chúa. Chúng ta không được phép quên điều tối quan trọng này trong giáo huấn của Chúa Giêsu là để đạt tới vinh quang cần phải đi qua thập giá và không ai là một ngoại lệ
Rõ ràng là việc ước ao bổng lộc, quyền cao chức trọng không chỉ xảy ra nơi anh em nhà Dêbêđê, nơi Phêrô mà còn cho tất cả các môn đệ. Bằng chứng là trước đó ít là một lần, trên đường về Giêruslem, các ông đã sôi nổi tranh luận thử xem ai là người lớn nhất (Mc 9,34); lần này các môn đê khác tức tối khi thấy hai anh em nhà kia dám xin cho mình “chỗ tốt nhất”. Các môn đệ kia tức tối không phải vì các ông chê trách mưu đồ của hai anh em nhà Dêbêđê mà là vì họ sợ hai anh em kia sẽ chiếm mất vị trí quan trọng mà lẽ ra là họ chứ không phải ai khác. Chúa Giêsu một lần nữa phải can thiệp để các ông hiểu rõ giáo huấn của người. Giáo huấn của Chúa Giêsu thật rõ ràng, đó là đừng bao giờ đồng hoá “quyền bính” với “thống trị” – điều xem ra thật hiển nhiên trong các cơ chế xã hội. Theo Chúa Giêsu, những ai có quyền thì phải trở nên người phục vụ (Diakonos) và ai muốn thống trị thì phải trở nên tôi tớ (Doulos) cho mọi người.
Trong cơ cấu phẩm trật của Giáo hội, chúng ta thấy những vị lãnh đạo Giáo hội đồng thời cũng là những “thừa tác viên” - mà nguyên nghĩa Latinh cũng như Hylạp có nghĩa là “những đầy tớ, những nô lệ”, chính vị đứng đầu Giáo hội cũng tự xưng mình là “tôi tớ của các tôi tớ” để phục vụ mưu ích cho Hội thánh chứ không phải để phục vụ cho những nhu cầu, những ước muốn thấp hèn của mình. Chúng ta học được bài học này từ chính cuộc đời của Thầy Chí Thánh là Đức Giêsu Kytô – Người là mẫu gương tuyệt đối cho hết mọi người. Chúng ta học nơi Chúa Giêsu vì như Thánh Phaolô tông đồ đã ví rất hay về Người Thầy Chí ái của mình:
“Đức Giêsu Kytô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì, địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi, bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 6-9)
Lời Chúa hôm nay một lần nữa giúp mỗi Kytô hữu duyệt xét lại đời sống đạo của mình. Theo đó, chúng ta bước theo Chúa Giêsu không phải để được “ngồi bên hữu hay bên tả” mà là đón nhận tất cả nghịch cảnh trong cuộc sống để làm vinh danh Chúa. Bởi Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa cũng phải trải qua những nghịch cảnh của cuộc đời để vinh danh Chúa Cha và cứu độ nhân loại. Chúng ta cũng được mời gọi tiến bước trên con đường Chúa Giêsu đã đi để cho danh Chúa được tôn vinh nhằm mưu ích cho phần rỗi các linh hồn.
Trong Sách Cựu Ước (2 Samuel, chương 15 đến chương 18), có kể câu chuyện về Absalon: TN29-B54
Trong Sách Cựu Ước (2 Samuel, chương 15 đến chương 18), có kể câu chuyện về Absalon. Trong những người con của vua David, Absalon là một người đẹp trai, tài giỏi, được vua David yêu mến, nhưng chính Absalon đã muốn tranh dành địa vị và tự phong vương để làm vua ở Hebron. Cuộc khởi loạn này đã làm cho vua David và cả triều đình phải chạy trốn khỏi thành Giêrusalem, và Absalon đã tiến chiếm kinh thành; nhưng sau này đã bị đại tướng của vua David là Gioab đánh bại và bị giết chết tại khu rừng gần Mahanain. Cuộc chiến tranh để dành ngôi vua này đã giết chết bao nhiêu sinh mạng (20 ngàn quân lính đã bị thiệt mạng!)
Trong lịch sử nhân loại cũng như của mỗi dân tộc đã có bao cuộc chiến tàn khốc vì ‘tranh dành địa vị” để làm bá chủ thiên hạ: A-Lịch-Sơn Đại Đế, Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Nã-Phá-Luân, Hitler và các lãnh tụ Cộng Sản như Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot vân vân… Vì tranh dành và củng cố địa vị, họ đã gây nên những cuộc tàn sát không phải hàng ngàn, hàng vạn mà hàng triệu con người vô tội, cũng như tàn phá bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại.
Tranh dành địa vị vốn là bản tính của con người. Ai cũng muốn mình có địa vị, và được kính nể hơn người khác. Ai cũng muốn làm ông chủ để được hầu hạ.Trong bài Phúc Âm tuần này (Matcô 10: 35-45), chúng ta cũng thấy hai anh em Giacôbê và Gioan xin Chúa được chiếm địa vị cao sang “trong Nước Chúa, là được ngồi bên tả, bên hữu Chúa khi Chúa được vinh quang!” Mười môn đệ khác thấy vậy, liền tỏ ý phẫn nộ với hai ông kia. Chúa Giêsu đã dùng dịp này để dạy các ông bài học phục vụ trong khiêm tốn. Theo tinh thần thế gian thì “những người được coi là thủ lãnh các quốc gia áp đặt trên dân quyền bá chủ; những người làm lớn thì dùng quyền hành sai khiến dân chúng!” Nhưng trong việc tông đồ thì ngược lại: “Ai muốn làm lớn thì hãy phục vụ anh em; ai muốn đứng đầu thì hãy hạ mình làm đầy tớ người khác…” và sẵn sàng uống những ‘chén đắng’ của cuộc sống hàng ngày! Rồi Chúa Giêsu lấy chính mình để làm gương cho các ông “Con Người đến không phải để bắt người khác hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho mọi người.” Đúng như Tiên tri Isaia đã tiên báo trong Bài Đọc I (Isaia 53: 10-11): “Nhờ những thống khổ Người chịu, Người sẽ công chính hóa nhiều người bằng cách gánh lấy những tội lỗi của họ.” Trong Bài Đọc II (Thư gởi tín hữu Do Thái 4: 14-16), Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta: “Chúa Giêsu là vị Thượng Tế đời đời, luôn biết cảm thông những yếu đuối của chúng ta, vì Ngài đã từng chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.” Vì thế, chúng ta “hãy mạnh dạn đến với Ngài là nguồn ơn sủng để chúng ta được xót thương và được ơn trợ giúp mỗi khi cần thiết.”
Nhìn vào đời sống của Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh, chúng ta thấy tất cả các Vị ấy đều đã sống một đời sống khiêm nhường, âm thầm phục vụ Chúa và tha nhân, kiên trì chịu mọi khó khăn, đau khổ là những “chén đắng” hàng ngày. Khi hát bài “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxicô Khó Khăn, và suy gẫm đời sống từ bỏ mọi giầu sang thế gian để “mến yêu Chúa và phục vụ Chúa trong mọi người…”, chúng ta cảm nghiệm được lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ai muuốn theo Ta hãy bỏ mình đi, vác Thánh Giá mình hàng ngày mà theo Ta!” (Matcô 8:34), và lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong thư gởi giáo dân Ephêsô (4:1-3): “Anh em hãy sống cho xứng đáng với ơn gọi Chúa đã ban cho anh em, bằng đời sống thật khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau, hãy cố gắng hết sức để duy trì sự hiệp nhất do Thánh Thần Chúa ban, bằng cách cố gắng sống thuận hòa với nhau.”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện cho chúng ta, các Chủ chăn, các Linh mục, Tu sĩ, giáo dân luôn biết sống khiêm tốn và âm thầm phục vụ Chúa và anh em. Thay vì nuôi tính tranh dành địa vị, và ganh ghét, chúng ta luôn cố gắng sống yêu thương, hoà hợp với mọi người, hầu tạo sự hiệp nhất giữa anh em, và chung tay xây dựng hòa bình thế giới.
Ngày nay, người ta đề cao cái tinh thần phục vu, vì “khách hàng là thượng đế”. Nhưng khi: TN29-B55
Ngày nay, người ta đề cao cái tinh thần phục vu, vì “khách hàng là thượng đế”. Nhưng khi nói đến phục vụ thì người ta thường nghĩ ngay đến hai chữ phục vụ theo kiểu của người đời và có rất nhiều lọai hình phục vụ khác nhau.
Nào là:
Phục vụ theo kiểu quyền hành: là thứ phục vụ lấy quyền hành mà thống trị người khác. Buộc người khác phải làm theo họ. Trong khi đó chính bản thân họ lại chẳng dám nhúng tay vào.
Phục vụ theo kiểu ham danh, lợi lộc: là thứ phục vụ theo kiểu nịnh bợ, tâng bốc... mong sao họ có được một địa vị, một chức quyền nào đó trong xã hội.
Phục vụ theo kiểu vui lòng khách đến vừa lòng khách đi: là thứ phục vụ mà người ta đáp ứng mọi nhu cầu của người khách hàng. Nhưng cái lọai hình phục vụ này không phải là “phục vụ cho không biếu không…” mà là phục vụ theo kiểu “sòng phẳng” Tôi phục vụ anh thì tôi phải được lợi điều gì đó v.v...
Phục vụ theo kiểu (mốt-style) ăn chơi: là thứ phục vụ mà người ta thường thấy xuất hiện nơi các quán Bar, các vũ trường… Nơi mà các thanh thiếu niên, thiếu nữ cũng như những ông lớn tiêu tiền mà không biết xót. Nơi đây, thường thì người ta phục vụ theo kiểu “đổi tình lấy tiền…”
Quả thật, những loại hình phục vụ theo này không biết nó có đem lại cho con người những lợi ích gì không thì không biết nhưng trước mắt là nó đang lan tràn và phá hủy đi cái “tinh thần phục vụ theo kiểu vị tha.” Bởi phục vụ là giúp nhau cùng thăng tiến cuộc sống, làm cho cuộc sống trở nên có giá trị hơn và làm tăng phẩm giá con người v.v...
Người ta bắt gặp được tinh thần phục vụ kiểu vị tha nơi con người Đức Giêsu. Một con người không chỉ hy sinh thời giờ, sức lực để đi đến mọi miền rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh tật, cho kẻ đói ăn được no nê... mà còn dám hy sinh ngay cả tính mạng để “phục vụ con người,” vì tội lỗi chúng ta. Và rồi gần đây nhất, người ta có thể thấy cái loại hình phục vụ này nơi con người Đức thánh cha Gioan Phaolô II, nơi Mẹ Têrêsa Calcutta... rồi biết bao nhiêu người khác nữa vẫn đang ngày đêm âm thầm phục vụ mà không cần người khác biết đến. Một thứ phục vụ không mong đáp đền v.v...
Nếu ai đó có lần đứng trước một cây hoa và chiêm ngưỡng những cánh hoa xinh đẹp. Chẳng hạn như những bông hoa hồng, hẳn người ta luôn trầm trồ, khen ngợi sao cây hoa này lại cho những bông hoa xinh xắn và đẹp thế nhỉ ? Nhưng có bao giờ người ta tự hỏi rằng vậy để có được những bông hoa xinh xắn này thì cần những yếu tố nào, những điều kiện nào v.v... Một trong những yếu tố đó là bộ rễ cây của nó. Hằng ngày nó vẫn âm thầm nằm bên dưới lòng đất và hút các chất dinh dưỡng từ trong lòng đất để phục vụ cho cây xinh ra những bông hoa đẹp làm tăng vẻ đẹp thiên nhiên, và phục vụ cho cuộc sống con người v.v... Môt việc làm của bộ rễ cây không được mấy ai quan tâm, không được mấy ai khen ngợi... Thế mà nó lại trở nên hữu ích không chỉ cho thân cây, mà còn cho cả cuộc sống con người chúng ta.
Cũng vậy, không ai trong chúng ta lại không mong người khác phục vụ mình một cách tận tình, chu đáo. Vậy có bao giờ tôi tự hỏi rằng: tôi đã phục vụ người khác cách tận tình và chu đáo chưa ? hay tôi đang phục vụ họ theo kiểu phục vụ nào đây ? phục vụ theo kiểu của Chúa Giêsu hay phục vụ theo nào đã nói ở trên.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến trần gian để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Xin cho mỗi người chúng con biết nhìn nơi Chúa, để trong cuộc sống, chúng con biết phục vụ anh em như Chúa đã phục vụ chúng con. Amen.
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu: TN29-B56
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: “Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên”. Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu “sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được “toàn dân thương mến” (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội” (Tđcv 2, 47b)
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy “dĩ hòa vi quý” để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa – yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: “Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại”. Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giê-su là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen
Theo tâm lý chung của loài người, ai cũng muốn được giầu sang phú quí, muốn có địa vị cao: TN29-B57
Theo tâm lý chung của loài người, ai cũng muốn được giầu sang phú quí, muốn có địa vị cao, thích ăn trên ngồi trước, muốn được người ta hầu hạ… Nhưng những tiêu chuẩn đó không nhất thiết là của Chúa. Tham vọng lo liệu của những con trai ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã là dịp để Đức Giêsu nói rõ: sự cao trong đích thực ở tại cái gì ?
Đức Giêsu không đáp ứng lời cầu xin của hai anh em Giacôbê và Gioan vì nó không thích hợp với đường lối của Ngài. Nhân dịp này Ngài dạy cho các ông là môn đệ đặc biệt của Ngài, và cũng là cho chúng ta một bài học: Sự cao trọng không cốt ở danh dự, giầu có, chức quyền danh vọng hay sức mạnh… nhưng ở tại sự phục vụ tha nhân. Chính vì vậy, Ngài mới nói: ”Ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ mọi người”. Lời giáo huấn này đi ngược lại với lối hành xử của người đời, buộc chúng ta phải động não !
Đức Giêsu là vị Thượng Tế có thế giá, luôn chuyển cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Ngài cũng đã trải qua những đau khổ trong đời sống trần thế, đồng thời cũng hé mở cho chúng ta thấy được vinh quang của Ngài sau này khi đã sống lại. Mọi Kitô hữu đều có chức năng tư tế phổ quát, nên cũng phải sống và làm chứng bằng đời sống phục vụ.Và nếu cần, họ cũng phải sẵn sàng hiến mạng sống để chứng tỏ sự trung thực của đời sống phục vụ của mình. Yêu thương là phục vụ, càng phục vụ, tình yêu càng dồi dào thắm thiết.
I. AI CŨNG THÍCH QUYỀN CAO CHỨC TRỌNG
1. Tâm lý người đời.
Ngày nay trên khắp thế giới, hầu hết các nước đều có cuộc bầu cử vào quốc hội, bầu Tổng thống hay một chức vụ tại một địa phương nào đó. Bất cứ ai ra tranh cử cũng tỏ ra mình có tài năng, xứng đáng lãnh nhận chức vụ, càng lên cao càng tốt. Thời nào và ở đâu cũng có những người tranh nhau làm lớn để lấy quyền hành áp chế dân, bắt dân phục vụ mình. Đó là lý do người đời tranh nhau địa vị trong xã hội.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung quyền bính được xem như cơ hội để thăng tiến bản thân.
2. Tâm lý các môn đệ Chúa.
Mặc dầu đã đi theo Chúa gần ba năm, nhưng các môn đệ cũng chưa lãnh hội giáo lý của Ngài được bao nhiêu. Ngay sau lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ sự Thương Khó của Ngài: “Nào chúng ta lên Giêrusalem… Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người”(10,32-34), các ông cũng không quan tâm đến lời loan báo ấy, có lẽ chẳng hiểu gì, hơn nữa đầu óc các ông còn đang mơ tưởng đến vương quốc Đức Giêsu sắp lập. Như vậy có nghĩa là vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ, đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự.
Riêng trường hợp đối với Giacôbê và Gioan, theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng đặc quyền của người trong họ: vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con “dòng họ” được tham dự vào vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc như người ta thường nói: ”Một người làm quan, cả họ được nhờ”(Tục ngữ).
Có lẽ vì vậy mà hai anh em Giacôbê và Gioan đã lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền đặc lợi, được tiến cử. Các ông đã xin: ”Khi Thầy ngự trên ngai vinh hiển, xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy”{Mc 10,37).
Lời thỉnh nguyện này đã nói lên tham vọng của hai ông là muốn tham dự vào quyền điều hành trong vinh quang của Đức Giêsu. Thứ “vinh quang” mà các ông xin là vinh quang theo kiểu trần thế vì các ông tin Đức Giêsu sẽ lập nước Israel ở trần gian, chứ không phải vinh quang của Đức Giêsu sau khi tử nạn và phục sinh. Đức Giêsu trả lời ngay: ”Các con không biết điều các con xin”. Khi nói câu này, Đức Giêsu mốn tỏ ra cho các ông biết lời thỉnh cầu của các ông thật là ngây ngô vì các ông chưa hiểu gì về việc tử nạn và phục sinh mà Ngài đã loan báo đến lần thứ ba này. Cho nên Ngài hỏi tiếp:”Các con có thể uống chén đắng Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không”? Nói như vậy có nghĩa là chấp nhận đau khổ và sự chết. Chúa có ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài trên Thập giá. Chẳng hiểu gì, các ông thưa đại đi: ”Thưa được”.
Chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm hai từ “chén đắng” và “phép rửa”.
Trong Cựu ước, “Chén” đôi khi người ta nói đến chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước khi chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp: ”Nhưng đừng theo ý Con, cứ theo ý Cha”.
Còn “phép rửa” trong bí tích rửa tội, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc “chìm đắm” trong cái chết trước khi “chỗi dậy” trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự. Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, trước khi chỗi dậy vào ngày thứ ba (Fiches dominicales, tr 304).
Câu “Thưa được” đã đưa Giacôbê và Gioan đến cái chết. Sự việc xẩy ra: ông Giacôbê đã bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44, Gioan chết trong tuổi già cuối thế kỷ I. Nhưng ông đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết được do phép lạ Chúa làm. Sau đó bị phát lưu ở đảo Patmos trong cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, sống cũng như chết. Như vậy lời Chúa đã được thực hiện đúng.
II. BÀI HỌC CỦA ĐỨC GIÊSU
1. Khát vọng của người đời
Từ 2000 năm trước, Đức Giêsu đã cho thấy: những thủ lãnh các nước lấy quyền sai khiến dân như ông chủ. Ông chủ thời xưa là người đầy quyền lực muốn bắt đầy tớ làm gì, đầy tớ phải làm theo, dù cực nhọc, khốn khổ đến đâu cũng không được từ chối. Nhiều nơi, đầy tớ bị coi như nô lệ, chủ cho sống thì sống, muốn giết thì giết. Vì thế, Đức Giêsu nói: ”Các con biết: những người được coi là thủ lãnh thì cai trị dân như những bạo chúa, những người làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân”(Mc 10,42).
Tuy thế, có những loại quyền bính khác nhau. Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bình áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về…
2. Tiêu chuẩn của công dân Nước Trời
Giáo huấn mới của Đức Giêsu là sự đảo nghịch của Tin mừng. Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai. Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà các xã hội dân sự chủ trương về quyền hành: ”Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”. Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó là Hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ mọi người (J. Delorme).
Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu một mối tương quan mới giữa người với người: ”Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em”.
Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ. Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nhóm nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải là một địa vị thống trị hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn: ”Con Người đến không phải được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45).
Người lãnh đạo trong Hội thánh là “đầy tớ”. Trong các văn kiện, Đức Giáo hoàng thường dùng danh hiệu “Servus servorum”: đầy tớ của các đầy tớ. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là thừa tác hay trợ tá theo đúng nghĩa của chữ Latinh “Minister” là tôi tớ, hoặc tiếng Hy lạp “Diakonos”: đầy tớ và “Doulos” là nô lệ.
Trong các vị lãnh đạo trong Hội thánh cũng phải có phẩm trật như người ta nói: ”Kim chỉ phải có đầu”(tục ngữ), cần phải có một người đứng đầu điều khiển một cộng đoàn, chứ không thể có cảnh “cá đối bằng đầu”(tục ngữ) mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn phục tùng ai. Điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác.
Truyện: Đức Hồng y Roncalli
Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cộng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Đức Gioan 23 vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
III. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA
Chúng ta có quyền tự do chấp nhận hay từ chối lời dạy của Chúa là trở nên tôi tớ của mọi người, nhưng chúng ta phải chịu trách nhiệm về quyết định đó vì hậu qủa của nó sẽ khôn lường. Hãy chọn con đường đúng mà đi.
1. Hai hướng đi trước mắt
Con người chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, cứ bị dẫn đến những ngã ba đường: nghĩa là trước mắt ta luôn có hai ngả mà ta phải chọn một. Hai ngả đó thường dẫn đến hai chiều khác nhau; một hướng vị kỷ và một hướng vị tha.
Hướng vị kỷ có một sức mạnh tự nhiên lôi cuốn ta vào, nó khiến ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, hạnh phúc hay đau khổ của mình, quyền lợi hay trách nhiệm của mình. Nói chung, nó thu hút ta vào chính bản thân ta. Hầu hết mọi người, trong hầu hết mọi trường hợp, đều bị lôi cuốn vào ngả này.
Còn hướng vị tha rất ít khi lôi cuốn ta, nhưng lương tâm ta lại thúc đẩy ta, đôi khi còn ép buộc ta bước vào. Nó đòi hỏi ta phải quên bản thân, quên những gì liên quan tới bản thân, để nghĩ đến người khác, đến đám đông bên ngoài ta, đến hạnh phúc hay đau khổ của họ. Dù đi vào hướng nào, thì sau khi đi một đoạn đường nữa, ta sẽ lại đến một ngã ba khác, cũng với hai hướng vị kỷ và vị tha trước mặt. Mỗi lần gặp ngã ba đó là mỗi lần ta phải lựa chọn hướng đi cho mình (JKN).
2. Phải chọn một hướng đi
Đối với những người theo Chúa, hai hướng ấy vẫn luôn luôn mở ra đòi buộc họ chọn lựa mỗi lần họ phải quyết định để hành động.
Chọn hướng vị kỷ: hướng vị kỷ sẽ cám dỗ họ lợi dụng con đường theo Chúa như một phương tiện để tiến thân, để bước vào vinh quang trần thế, với quyền lực, danh vọng, tiền bạc trong tay, là những thứ mà Giáo hội cũng như xã hội cống hiến cho họ, mong họ dùng chúng để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và mọi người. Nhưng họ lại dùng chúng cho mục đích vị kỷ của mình, mặc dù trên danh nghĩa vẫn là để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và tha nhân. Truyện: Hòn đá vấp ngã Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
Vì lý do gì ông cười như vậy ?
Ông ta trả lời:
Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không ? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
Chọn hướng vị tha: Còn hướng vị tha sẽ khiến người theo Chúa coi việc theo Chúa như một phương cách hữu hiệu nhất để phụng sự Thiên Chúa, nhân loại, quê hương và tha nhân. Họ không quan tâm hay mong muốn chuyện thăng tiến bản thân, không bao giờ coi đó như một mục đích phải đạt tới trong cuộc đời. Nếu họ được giao địa vị, trách nhiệm, với những phương tiện hữu hiệu trong tay, họ sẽ lợi dụng tất cả những thứ ấy để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Điều họ quan tâm là: con người được hạnh phúc, và qua đó Thiên Chúa được vinh danh.
Chúng ta không bao giờ quên được những gương phục vụ một cách xả kỷ vô vị lợi như thánh Đamien tông đồ người hủi, thánh Maximilianô Kolbê xin chết thay cho một vị trung úy trẻ trong trại tập trung Đức quốc xã, các vị khác như Ozanam, chân phước Têrêsa Calcutta…
3. Xem lại con đường đang đi
Đức Giêsu không nài ép chúng ta làm môn đệ Ngài, Ngài chỉ kêu mời chúng ta với tinh thần tự nguyện. Ngày nay chúng ta còn mang cái tâm trạng của các tông đồ ngày xưa khi Đức Giêsu chưa đi vào cuộc tử nạn và phục sinh không ? Lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội thánh, và ngoài xã hội ? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào ? Cứ như cái nhìn của Tin mừng hôm nay, thì kẻ “vĩ đại” là người phục vụ kẻ khác. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng “vĩ đại” trong nếp sống thường nhật chung quanh mình như người cha hy sinh, các bà mẹ chung thủy, dịu dàng, những người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, không cần phần thưởng, cũng không cần lời cám ơn…
Phục vụ là một nhân đức gần gũi với đức bác ái. Nhân đức phục vụ bắt nguồn từ lòng yêu mến tha nhân. Như vậy quyền thế và phục vụ không xung khắc nhau, vì ai có nhiều quyền và quyền lớn thì có khả năng phục vụ nhiều hơn. Phục phụ phải là cái dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Hơn nữa, chính khi phục vụ tha nhân là lúc người ta tìm lại được chính mình vì “chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân”. Chính khi phục vụ tha nhân là lúc chúng ta tìm được hạnh phúc nhự thi sĩ Tagore người An độ đã viết:
Nằm ngủ, tôi mơ thấy đời sống toàn là Niềm vui và Hạnh phúc. Tỉnh dậy tôi nhận ra sống là Phục vụ Tôi dấn thân Phục vụ và tôi khám phá ra rằng Phục vụ là Hạnh phúc.
Đọc Tin Mừng, ta thấy dường như duy chỉ có trường hợp hai anh em nhà Giêbêđê ( hay chính: TN29-B58
Đọc Tin Mừng, ta thấy dường như duy chỉ có trường hợp hai anh em nhà Giêbêđê ( hay chính người mẹ của hai ông này ) đến xin Chúa Giêsu cho xí phần tả hữu khi Chúa được vinh quang nghĩa là khi Chúa làm vua, theo mộng tưởng của hai vị. Dù rằng mười vị còn lại có biết chuyện này, vì các vị đã tức tối ra mặt, nhưng không thấy vị nào mon men đến xin xỏ Thầy một chức vị nào đó cho sau này. Có lẽ lý do là đây: Điều xin thì chưa chắc được nhưng điều không xin thì lại phải bị gánh chịu. “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”( Mc 10,39-40 ).
Phen này đúng là thua to, hai vị nhà Giêbêđê im hơi lặng tiếng đủ nói lên tâm trạng của các vị. Thực ra không phải hai vị mà cả nhóm Mười Hai đã lầm. Cái lầm căn bản của cả nhóm đó là mong sẽ được có chức vị cao trọng ngoài xã hội, và dĩ nhiên sẽ được hưởng vinh hoa phú quý khi đi theo Thầy Giêsu. Vị tôn sư người Nagiarét đủ đầy quyền năng trong lời nói lẫn hành động hẳn phải là Đấng Thiên Sai, nếu không thì cũng là một đại ngôn sứ. Với uy quyền cả thể như thế, chắc chắn Người sẽ giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ ngoại bang và sẽ được phong làm vua. Ngay cả trước khi Chúa về trời thì các ngài cũng còn hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quóc Israel không ?” ( Cvtđ 1,6 ).
Cả nhóm Mười Hai lầm thì cũng dễ hiểu vì các ngài chưa được nghe lời khẳng định của Thầy trước mặt Philatô rằng Người là vua nhưng nước Người không thuộc về thế gian này ( x.Ga 18,33-38 ). Tuy nhiên cần khẳng định với nhau điều này: nơi con người, song hành với tính xã hội thì còn có bản năng thống trị. Ở giữa một tập thể, người ta có khuynh hướng tìm cách làm đầu kẻ khác. Dẫu sao đi nữa, làm dầu con tôm cũng hơn là làm đuôi con rồng. Dù lớn hay bé, khi đã được làm đầu thì không chỉ sẽ được kính trọng mà còn được cung phụng. Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy đây là một chủ đề thường xuyên trở thành nguyên cớ tranh luận giữa tập thể nhóm Mười Hai.
“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” ( Mc 10,44 ). Lời khẳng định của Chúa Giêsu là một mệnh lệnh. Cả nhóm Mười Hai hôm ấy và cả chúng ta hôm nay, chẳng ai chối cãi hay biện bạch. Thế nhưng, thực tế minh chứng cho thấy chúng ta vẫn còn để mệnh lệnh ấy trên giấy cách nào đó. Không riêng gì người theo Chúa, quý vị nắm trọng trách ngoài xã hội cũng khẳng định rằng chính quyền là đầy tớ nhân dân. Thế mà chuyện đầy tớ ăn trên ngồi trước, còn các ông chủ thì khép nép tìm các hạt cơm thừa; đầy tớ thì chễm chệ ghế salon nệm dày, sở hữu nhà cao cửa rộng còn ông chủ lại vất vưởng trong các căn chòi ọp ẹp…đã trở thành “chuyện tử tế” của một thời và hình như là của mọi thời, nhiều nơi.
Có thể có nhiều lý do để biện minh về việc các ngài đầy tớ sở hữu cũng như sử dụng các phương tiện sang trọng. Các vị ấy cần có phương tiện thích ứng để làm đầy tớ tốt hơn, hữu hiệu hơn. Các vị ấy không chỉ cần có tác phong tương xứng, mà còn cần có những cái bên ngoài như y phục, đồ dùng, phương tiện đi lại…cách nào đó cho phù hợp với vai vế hay chức vụ đảm nhận mà thôi ( noblesse oblige ). Đây không phải là lời biện minh, nhưng là lời giải thích khá hữu lý và hợp tình. Thế thì đâu là dấu chỉ một người làm đầu đang thực sự làm đầy tớ ?
Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta một dấu chỉ bằng chính cuộc sống, cung cách hành động của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mc 10,45 ). Có thể nói việc hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người là bằng chứng của việc làm đầy tớ. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại ( x. Dt 4,13 ). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người ( x. Is 53,10-11 ).
Số người được làm đầu con rồng trong Giáo Hội hay ngoài xã hội quả là không nhiều, nhưng số người làm đầu con tôm, tôm to, tôm vừa, tôm bé hay các loại tép thì đếm không xuể. Có một hoặc hai người thuộc quyền của chúng ta, dưới quyền của chúng ta, trong trách vụ của chúng ta thì chúng ta đang được đặt làm đầu. Đó là đàn chiên chúng ta đang chăn dắt, đó là con cái mà ta đã sinh thành, đó là nhóm học sinh ta đang dạy dỗ, đó là những người cô thân, bé phận ngoài xã hội hay trong Giáo Hội, đó là những người yếu đuối, tội lỗi đang cần chúng ta nâng đỡ, dìu dắt, chỉ lối, dẫn đường…Như thế, có thể nói hầu hết chúng ta đã được đặt làm đầu. Đã làm đầu thì phải làm đầy tớ.
Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “ vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” ( Pl 2,6-11 ).
Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thinh vượng hay không, giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ - tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này.
Bài Tin mừng hôm nay là cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu cùng các môn đệ khi đang trên đường: TN29-B59
Bài Tin mừng hôm nay là cuộc trao đổi giữa Ðức Giêsu cùng các môn đệ khi đang trên đường về Giêrusalem, thành đô của vua Ðavít. Cuộc trao đổi này xảy ra sau khi Ðức Giêsu tiên báo, "Con Người sẽ bị nộp…, nhưng ba ngày sau Người sẽ sống lại" (Mc 10,34). Câu chuyện bắt đầu khi hai người con ông Giêbêđê đưa ra một yêu cầu "ngây thơ" - "ngồi bên hữu, bên tả" tức là có quyền lực cai trị. Ðức Giêsu đã không cho là các ông tham vọng, muốn kiếm những chỗ cao, nhưng Người chỉ trách các ông đã không hiểu gì về "con đường vinh quang phải qua đau khổ". Sau đó Ðức Giêsu đã tiên báo Gioan và Giacôbê sẽ phải chịu bách hại, đau khổ và tử đạo. Khi nói quyền ngồi bên hữu hay bên tả "thì không thuộc quyền Thầy ban", Ðức Giêsu muốn điều chỉnh lại một quan niệm vốn có trong xã hội Do thái, đó là quan niệm thưởng phạt, theo đó, với những công việc đạo đức của mình, con người có quyền đòi Thiên Chúa thưởng. Cuối cùng là một giáo huấn "ai muốn làm người cầm đầu, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người" và Ðức Giêsu Ðấng cứu độ con người đến để "ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc".
Tham vọng của con người là một sức mạnh, động lực giúp con người đạt được mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên, đôi khi tham vọng đó cũng cần được thanh lọc để đạt được những điều tích cực, tốt đẹp cho cuộc sống. Gioan và Giacôbê, hai người đã được Ðức Giêsu gọi là "những đứa con của Sấm sét" (Mc 3,17) là những con người tham vọng. Họ đã từng sống mãnh liệt và gắn bó với Ðức Giêsu. Họ muốn được ở gần Người luôn mãi, tuy nhiên họ cũng muốn được một cuộc sống đảm bảo, an toàn trong tương lai. Họ cần có "chỗ cao". Ý định tốt đẹp trên cần được thanh lọc. Ðức Giêsu đã thanh lọc ý định đó bằng cách làm cho các ông nhận ra rõ ràng là để gắn bó với Người, các ông phải "uống chén đắng". Với một lòng quảng đại, các ông đã đồng ý điều này. Như thế, bằng lối sư phạm tiệm tiến, Ðức Giêsu đã dần dần làm cho các ông hiểu và thanh lọc tham vọng của các ông.
Ðoạn Tin mừng này cũng được áp dụng cho hoàn cảnh của chúng ta. Ðôi lúc những ý định tốt đẹp, thậm chí tham vọng cần được thanh luyện. Thiên Chúa không phá hủy những ý định tốt đẹp, tham vọng của con người, Người muốn làm cho nó trở nên tốt hơn. Hơn nữa, "các con không biết các con xin gì" cũng là lời Ðức Giêsu nhắn nhủ chúng ta. Những lời cầu nguyện của chúng ta rất thường là những mong ước "ích kỷ" hơn là những nhu cầu thật sự. Lời Ðức Giêsu "Các con muốn Thầy làm gì cho các con ?" là một nhắc nhở chúng ta cần cầu xin, cần diễn tả ước muốn và nhu cầu của mình cho Thiên Chúa, nhưng cũng cần phải biết rõ điều mình xin. Tốt hơn hết là chúng ta hãy xin đức tin, sức mạnh, lòng can đảm, sự quảng đại và một trái tim rộng mở. Chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chấp nhận những điều chúng ta xin.
Lạy Chúa,
Xin cho kế hoạch của Chúa trên cuộc đời chúng con được kiện toàn, cho dù cuộc đời có những cam go, trắc trở. Nhìn lại cuộc sống cũng như những công việc Chúa đã sắp xếp cho con từ trước tới nay, con thấy rất hài hòa, nhưng đôi khi khiến con cũng khó chịu. Xin cho "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" qua cuộc đời chúng con.
Ngày nay nhiều người không muốn nói đến hi sinh. Vì hi sinh gợi lên những hình ảnh tiêu cực: TN29-B60
Ngày nay nhiều người không muốn nói đến hi sinh. Vì hi sinh gợi lên những hình ảnh tiêu cực, thụ động. Nhất là trong chế độ nô lệ và đô hộ, người ta đã lợi dụng hai chữ hi sinh để biện minh cho những đàn áp bất công của chính quyền và xoa dịu nỗi đau khổ của dân tộc bị trị. Làm cách nào thấy được ý nghĩa đích thực và hình ảnh tươi đẹp của hai chữ hi sinh ? Chính Ðức Giêsu sẽ dùng cả cuộc đời và cái chết để mô tả bản chất, ý nghĩa và giá trị của sự hi sinh.
ÐỒNG HÌNH ÐỒNG DẠNG
Khi thấy đám đông ùn ùn kéo đến với Ðức Giêsu, các môn đệ Giacôbê và Gioan tưởng tượng một tương lai rực sáng sẽ đến với Thày. Các ông liền nghĩ ngay tới miếng đỉnh chung. Sau nhiều đêm suy nghĩ, cuối cùng các ông bạo dạn đến bày tỏ nguyện vọng với Thày (Mc 10:35-37). Thày và môn đệ đều chơi trò hú tim khi rào trước đón sau trước một vấn đề khó nói. Nhưng hai thái độ mang hai ý nghĩa khác nhau. Một đàng sợ không dám đề cập thẳng vấn đề. Một đàng muốn tạo một bất ngờ, khiến các ông chưng hửng. Thầy chỉ nắm chắc phần dành cho thân phận con người. Còn phần dành cho Thiên Chúa, Người không dám đụng tới. Làm thế, Chúa muốn cho các ông biết đã đụng chạm tới lãnh vực Thiên Chúa mà không hay. Hay làm sao được khi tham vọng đã che mờ mắt các ông ?!
Không phải chỉ có Giacôbê và Gioan bị mờ mắt, nhưng thái độ chung của cả cộng đoàn tông đồ đều giống nhau trước tham vọng ngàn đời đó của con người. Cứ tưởng các ông đã mở mắt trước thái độ "tẽn tò" của hai ông. Nhưng không. "Mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan." (Mc 10:41) Ðức Giêsu thật kiên nhẫn khi phải nói "toạc móng heo" cho cả mười hai ông biết một sự thật căn bản trong Nước Thiên Chúa: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người." (Mc 10:44) Tại sao thế ? Vì muốn cứu độ muôn người, các ông không thể dùng cùng một phương cách như những người chỉ sống bằng nghề cỡi đầu cỡi cổ thiên hạ. Muốn cứu người, phải xuống thấp hơn người mới nâng người lên được. Người tài ba nhất và có trách nhiệm nhất là người phải xuống thấp nhất. Ðó là đòi hỏi bình thường.
Nhưng lý do chính yếu là "vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10:45) Hiến mạng sống cũng chỉ là một phương thức phục vụ. Nói khác, từ nay phục vụ có một sức mạnh cứu độ. Nếu muốn chuyên lo việc cứu độ, người môn đệ không thể từ chối trở thành "đầy tớ mọi người". Thật vậy, chắc các ông phải nhớ lời tâm sự: "Thầy sống giữa anh em như một người đầy tớ." Chính thánh Phaolô cũng không ngần ngại nói về chiều kích cứu độ của công việc phục vụ: "Tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người." (1 Cr 9:19) Thánh nhân còn quả quyết: "Chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Ðức Giêsu." (2 Cr 4:5) Nghĩa là muốn noi gương và tiếp nối sứ mạng cứu độ của Người, ông phải phục vụ mọi người.
Phục vụ là đường lối duy nhất thi hành thánh ý Chúa Cha. Bởi đó, khi xuống thế để phục vụ, Ðức Giêsu "đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta." (Dt 4:15) Ngay vào giờ phút cuối đời, Người cũng bị cám dỗ để khỏi uống chén đắng (Mt 26: 39; 18:11) Nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ ghê hồn đó nhờ dõi theo Thiên ý. Chúa Cha muốn Người đem cả mạng sống phục vụ hạnh phúc nhân loại. "Thiên Chúa hài lòng về ơn cứu chuộc như thành quả sau cái chết, chứ Người không vui thú với đau khổ và chính cái chết." (Fahey 1994:673) Chính vì hiểu biết sâu xa về giá trị đau khổ và cái chết như thế, Ðức Giêsu đã "biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta" (Dt 4:15) và có đủ tư thế để kêu gọi môn đệ chia sẻ thân phận và sứ mạng cứu độ: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu," (Mc 10:39) để trở nên "đồng hình đồng dạng với" (Rm 8:29) Thầy.
Nếu Thầy "phải bị nghiền nát vì đau khổ," (Is 53:10) làm sao môn đệ có thể bình chân như vại với những giấc mơ "vinh thân phì da" ? Sở dĩ phải đau khổ vì "người tôi trung phải 'hiến thân làm lễ vật đền tội và gánh lấy tội lỗi' muôn dân."(Is 53:10-11) Theo Thày không phải để đi vào cõi tiêu diệt, nhưng để "làm cho muôn dân nên công chính." (Is 53:11) Ðó chính là ơn cứu độ lớn lao đã thực hiện nơi Thầy và còn phải được tiếp tục nơi các môn đệ. Ơn cứu độ sẽ đem lại tự do. Một khi được giải thoát, con người sẽ reo vui như mở hội. Bởi đó tự do và niềm vui chỉ là những hệ quả hay những dấu chỉ ơn cứu độ. Ơn cứu độ lớn hơn tự do và niềm vui rất nhiều. Ơn cứu độ chính là đời sống sung mãn với và trong Thiên Chúa.
NHU CẦU LỚN LAO
Hơn lúc nào, nhân loại đang khao khát ơn cứu độ. Thống kê mới nhất cho thấy số Kitô hữu mới chiếm gần hai tỉ trong tổng số trên sáu tỉ dân số thế giới. Nhu cầu cứu độ còn quá lớn, nhất là tại Á châu, nơi có quê hương Việt Nam yêu dấu. Nếu các môn đệ chỉ nghĩ tới địa vị cá nhân, làm sao có thể cảm nghiệm được niềm vui khi thấy muôn dân được cứu độ ? Thế nhưng, muốn cứu độ muôn dân, môn đệ phải làm gì ? Phải chăng chỉ cần "giữ vững lời tuyên xưng đức tin" và "mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần" (Dt 4:14.16) ? Ngay cả những ai muốn sống trung thành với Chúa, cũng nên nhớ rằng "Ðức Giêsu định nghĩa sự trung thành trong hành vi là ý chí chấp nhận mạo hiểm (đòi phải có đức tin) để đạt kết quả tốt. Ví dụ làm sáng tỏ vấn đề nhất là dụ ngôn những nén bạc trong Tin Mừng Mathêu 25:14-30. Hai người làm lợi gấp đôi nén bạc, đã được chủ gọi là "đầy tớ tài giỏi và trung thành" (Warren 1995:64).
Ðời sống đạo đức và siêng năng cầu nguyện là ưu tiên số một, nhưng không phải là tất cả. "Thiên Chúa muốn chúng ta trung thành và sinh hoa trái nữa." (Warren 1995:62) Thực vậy, Ðức Giêsu đã nói: "Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại." (Ga 15:16) Hoa trái là gì ? Theo Warren (1995), Tân Ước đã dùng hoa trái Lời Chúa 55 lần để chỉ các dạng hoa trái khác nhau: sám hối (Mt 3:8; Lc 13:5-9), thực hành chân lý (Mt 7:16-21; Cl 1:10), lời cầu nguyện được Chúa chấp nhận (Ga 15:7-8), dâng cúng tiền bạc (Rm 15:28), sống đơn sơ như con trẻ và chinh phục các người vô tín ngưỡng về cho Chúa Kitô (Rm 1:13). Ðó là những hoa trái làm vui lòng Thiên Chúa và đem lại vinh quang cho Người. Quả thật, "điều mà Chúa Cha được tôn vinh là: anh em sinh nhiều hoa trái." (Ga 15:8)
Nhưng trên hết, không có việc nào sinh nhiều hoa trái và làm vinh danh Thiên Chúa bằng việc truyền giáo. Quả thực, "lúa chín đầy đồng . . ." (Lc 10:2) Chủ ruộng là Thiên Chúa. Người mong muốn gì, nếu không phải là thu góp được nhiều hoa màu tươi tốt chất đầy kho lẫm ? Nhận thức như thế, nên Công đồng Vatican đã quả quyết: "Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành trên trần thế là Giáo Hội truyền giáo." (TMD 2) Giáo Hội tiên khởi rất vui mừng khi gặt hái được nhiều hoa trái cho Chúa. Chính thánh Phaolô đã cho thấy những người đầu tiên trở lại đạo tại xứ Akhaia là "những hoa trái đầu mùa của xứ Akhaia." (1 Cr 16:15) Ngày nay, nhiều giáo hội chưa phát triển được vì chỉ thích co cụm lại với những nhu cầu nội bộ. Họ không có nổi cái nhìn của Ðức Giêsu về nhu cầu cứu độ lớn lao của toàn thể nhân loại. Họ đang xa rời lý tưởng phục vụ. Nhưng không có ơn cứu độ nào khác ngoài con đường phục vụ của Ðức Giêsu, Ðấng đã chết để phục vụ hạnh phúc nhân loại.
Lần thứ ba, sau khi Đức Giê-su vừa nhắc lại số phận đang đợi chờ Người ở Giê-ru-sa-lem: TN29-B61
Lần thứ ba, sau khi Ðức Giê-su vừa nhắc lại số phận đang đợi chờ Người ở Giê-ru-sa-lem, các môn đệ bàng hoàng sợ hãi nhưng vẫn theo đuổi những tham vọng của mình. Nếu đọc lại toàn bộ những lời Ðức Giê-su loan báo về cuộc Thương Khó, người ta dễ hiểu tham vọng đã thúc đẩy hai người con ông Dê-bê-đê xin hai chỗ tốt nhất khi Ðấng Mê-si-a được vinh quang. Có lẽ các ông tưởng rằng cứu thế là việc riêng của Ðức Giê-su, Người muốn đi đường nào thì đi, còn các ông chỉ có việc chờ đợi ngày vinh quang của Người. Vì vậy, các ông thưa với Ðức Giê-su: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây." Các ông nghĩ rằng Ðức Giê-su chỉ quan tâm đến công việc của Người và các ông không có chỗ đứng nào trong công việc này. Các ông nghĩ rằng lợi ích của mình là chính đáng và các ông hiểu rõ điều các ông muốn.
Nhưng không, Ðức Giê-su chọn các ông là để các ông ở với Người và chia sẻ số phận của Người. Thầy đi đến đâu, môn đệ cũng sẽ đi đến đó. Ðàng khác, điều các ông xin Ðức Giê-su chứng tỏ các ông chưa hiểu đúng về sứ vụ của Người ; hay nói cách khác, các ông không hiểu điều các ông muốn. Người nói với hai người con ông Dê-bê-đê: "Các anh không biết các anh xin gì !"
Tiếp đó, Ðức Giê-su nói với các ông về một sứ vụ khác, đồng thời sửa lại quan niệm thông thường về phần thưởng, quan niệm cho rằng con người có quyền đòi Thiên Chúa ban thưởng. Người môn đệ đích thực chỉ chú tâm tới một điều duy nhất: chia sẻ cuộc Thương Khó của Thầy mình, chứ không phải là đòi phần thưởng. Việc ban phần thưởng là quyền của Thiên Chúa: "... Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã dọn sẵn cho ai thì kẻ ấy được."
Như vậy, người môn đệ được mời gọi chia sẻ thân phận tôi tớ của Ðức Giê-su, tức là chia sẻ cái chết và cuộc phục sinh của Người. Chia sẻ cho người khác. Quả thế, nét cao cả của Ki-tô giáo được diễn tả qua việc phục vụ, chứ không phải nắm quyền.
Tinh thần phục vụ cũng là nền tảng cho việc cai trị của Hội Thánh. Hội Thánh được thành lập nên do sứ vụ của Ðức Giê-su, và được mời gọi bước theo gương Con Thiên Chúa, Ðấng đã trở thành một tôi tớ, đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình, và đã hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Trong lịch sử, việc cai trị của Hội Thánh lại thường đồng hóa với việc nắm quyền, với việc thống trị. Trong những giai đoạn như thế, Hội Thánh đã lơ là việc quy chiếu sứ vụ của mình với sứ vụ của Ðức Ki-tô chết và sống lại. Theo Tin Mừng, cai trị là phục vụ. Chính vị thủ lãnh của Hội Thánh đã sống như thế. Các vị nắm quyền trong Hội Thánh, nếu có, chẳng còn gì khác để khao khát.
Sống tự do Những lời loan báo của Ðức Giê-su quả là một cú sốc đối với các tông đồ: phải trở thành tôi tớ để phục vụ Tin Mừng, phải từ bỏ tất cả để thi hành công tác này, phải sẵn lòng nhận lại những thử thách - gấp trăm ngay ở đời này. Hai tác giả Mát-thêu và Mác-cô ghi lại: các tông đồ khiếp đảm vì lời loan báo ghê gớm này.
Phần Ðức Giê-su, Người vẫn tiếp tục tỏ cho các ông thấy những ngày đen tối sắp đến: đó là những đau đớn Ðấng Mê-si-a phải chịu, tương tự nỗi đau của người mẹ lúc sinh con.
Chính lúc này, bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Ðức Giê-su. Ðiều này có ý nghĩa gì ?
Trước hết, hai người này còn lệ thuộc vào người mẹ, có thể là quá mức. Các ông là những nô lệ của tình cảm. Chính người mẹ điều hành số phận của các con. Bà đến ngỏ lời với Ðức Giê-su đang khi Người tâm sự với những người thân cận, đang khi Người bày tỏ cho họ những điều sâu xa nhất, những điều làm não lòng. Người đang bận, đang chú tâm đến công việc, còn người ta lại nghĩ đến việc điều hành, xếp đặt chương trình, phân chia ngôi thứ. Trước lời yêu cầu của người mẹ, Ðức Giê-su trả lời: những người con phải khát khao chỗ cuối hết. Tại sao Người lại nói như vậy ? Các ông cần phải được sinh lại, phải được tái sinh để trở thành con người tự do.
Sau này, thánh Phao-lô, người xây dựng nên nền thần học về tự do, đã chú thích rất hay về những lời của Ðức Giê-su. Có thể tóm tắt như sau:
Con người sinh ra trong tình trạng nô lệ, bị đè bẹp dưới gánh nặng do những ham muốn, những ước vọng chiếm đoạt (bản tính nhân loại bị uốn cong, chỉ biết quay về mình). Ðức Giê-su đến và công bố lời mời gọi của Thiên Chúa, kêu mời họ hướng đến tự do. Về phần mình, con người phải luôn thoát ra khỏi lòng mẹ, phải luôn rời bỏ con người xác thịt của mình - "Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con, hay ruộng đất" (Mc 10,29) để lên đường, con đường tiến đến Giê-ru-sa-lem.
Hình ảnh tiêu biểu nhất về con đường u tối này chính là hình ảnh cuộc xuất hành và vượt qua Biển Ðỏ. Dân Do-thái đã mất tất cả tại Ai Cập. Họ bị bắt buộc phải ở một chỗ, không được đi đâu, và bị khổ nhục. Ðó là một dân tộc bị đóng đinh. Ðất Ai Cập, đó là Mô-ri-a, nơi mà các con cái của Thiên Chúa bị đặt dưới lưỡi dao của Chúa Cha. Nói chung, dân tộc ấy đi ngược với hành trình của Áp-ra-ham, người chăn chiên. Thế nhưng, cuối cùng, dân tộc ấy đã trở về Ðất Hứa, trở về cách kỳ diệu. Trong số các dân Ðông Phương, họ đã rơi vào chỗ cuối hết, đã đi vào con đường u tối, đã trải qua nguy hiểm bị dìm mất.
Thế nhưng, chính nhờ điều ấy, họ được Thiên Chúa chọn làm "con ưu ái". Từ nơi họ, Ðấng Mê-si-a, "Người Con duy nhất", đã sinh ra.
Mỗi vị trí là một hồng ân
Vấn đề do thánh Mác-cô đưa ra thật quyết liệt. Ai trong chúng ta lại không muốn được thăng tiến trong đời sống ? Ai lại không muốn tìm một chỗ tốt cho mình ? Tất cả mọi tương giao xã hội đều có liên hệ với khát vọng này: những tương giao gia đình đặt nền tảng trên lòng tuân phục, cũng như những tương giao về nghề nghiệp, về chính trị quốc gia hay quốc tế. Ngày nay, các xã hội của chúng ta thường được xây dựng trên những tương giao dựa vào sức mạnh nên thường kéo thêm bạo lực và bất công.
Tuy thế, vẫn có nhiều người mang những ý nghĩ tốt đẹp: họ nói, họ ước mơ có thể phục vụ. Nhiều đảng phái, nghiệp đoàn, ngân hàng ... và cả Hội Thánh nữa, đều quả quyết rằng mình hoàn toàn vô vị lợi. Nhưng tất cả chỉ là ảo tưởng. Vì khi mơ ước như thế, họ tự định vị trí cho mình. Khi phục vụ, họ lo cho bản thân mình. Ðức Giê-su nói đến vinh quang. Nhưng theo Người, vinh quang là con người được thành toàn vì sống trong ánh sáng. Do đó không có chuyện dùng bạo lực hay đòi cho mình được ưu tiên, nhưng là đi vào tương giao hỗ tương. Vinh quang, đó là điều sẽ được tỏ ra ... trên thập giá.
Sau nữa, Ðức Giê-su nói đến phép rửa và chén ... đi qua vực thẳm: Rõ ràng Người muốn đề cập đến cuộc Thương Khó. Sau cuộc thử thách này, Người sẽ tiến vào Vương Quốc, trong đó mọi tương giao đều được biến đổi. Ai phục vụ đi theo Ðức Giê-su và cảm nghiệm được điều này, người ấy sẽ đi vào thế giới hồng ân, trong đó không còn bán chác, trao đổi: mỗi người sẽ khám phá ra rằng vị trí của mình là một ân huệ Thiên Chúa ban.
|||
Hãy nói to lên, hãy gào lên nữa, vì đã hai ngàn năm Ðức Giê-su vẫn đi và kêu lớn. Vì đã hai ngàn năm mà không ai nghe thấy. Trong gió, lời của Người chẳng hơn gì hạt giống điên dại. Người ta đã phủ lên mình bao nhiêu là vàng bạc. Người ta chỉ nhìn cây thập giá như hai mảnh gỗ được ghép lại.
Đị vị, quyền lợi, danh vọng là những ham muốn của nhiều người ở trần gian. Địa vị, ghế ngồi: TN29-B62
Đị vị, quyền lợi, danh vọng là những ham muốn của nhiều người ở trần gian. Địa vị, ghế ngồi tức quyền lực là nỗi ám ảnh của nhiều người. Thực tế, ai sinh ra trong trần gian này cũng đều muốn mình có một chức vị, một địa vị nào đó trong xã hội, trên đất nước vv…Do đó, học hành, tranh đua nhu để kiếm một ghế ngồi là khuynh hướng cố hữu của con người.
Ở xã hội là thế, nhưng ngay đối với những môn đệ của Chúa Giêsu mà đoạn Tin mừng của thánh Máccô hôm nay tường thuật cũng cho chúng ta thấy cái khuynh hướng nực mùi thế gian cũng đã len lỏi vào giữa các môn đệ của Chúa. Bằng chứng khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết và sự sống lại của Ngài thì chính Gioan và Giacôbê đã xin Chúa Giêsu cho hai ông một người được ngồi bên tả và một người được ngồi bên hữu của Chúa. Điều này chứng tỏ các môn đệ chưa hiểu gì về Vương Quốc của Chúa Giêsu. Các môn đệ cứ tưởng Nước Trời cũng giống Nước thế gian. Chúa lên ngôi và các môn đệ sẽ chia chác ghế ngồi trong Vương Quốc của Chúa. Các môn đệ có thể tẩy rửa lỗi lầm, thanh tẩy tội lỗi, nhưng rời bỏ địa vị, chức vị thì không phải dễ chút nào. Gioan và Giacôbê đã dám thưa với Chúa:” Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây “ ( Mc 10, 35 ). Và rồi mười môn đệ khác bực tức với hai môn đệ này. Chúng ta không thê phủ nhận được họ đang ghen tương với Gioan và Giacôbê. Nói đúng hơn trong thâm tâm của mười môn đệ, họ cũng ước ao được ngồi bên tả, bên hữu Chúa.
Chúa Giêsu đem ra khỏi những ảo vọng, những ham muốn thế trần và đưa họ về thực tế của đời sống làm con Chúa. Các môn đệ tất cả đều muốn chung phần với Chúa trong vinh quang nhưng liệu họ có dám chung phần với Chúa trong đau khổ ? Chúa muốn cho họ được uống chén đắng và chịu chung với Chúa một phép rửa, có nghĩa là chịu chết với Chúa. Đây là điều ước nguyện của Chúa cho các môn đệ. Ngồi bên hữu bên tả trong vinh quang là phần thưởng cao cả của sự trung tín theo Chúa tới cùng. Chúa muốn các môn đệ phục vụ chứ không phải để được người khác hầu hạ bởi vì chính Chúa đã làm gương:’ Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ “ ( Mc 10, 45 ). Người đời thường có thái độ kẻ cả, ăn trên ngồi chốc khi họ có quyền hành đối với Chúa, đối với các môn đệ và Hội Thánh thì không được như thế:” Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm người phục vụ anh em “ ( Mc 10, 44 ).
Đức Kitô mời gọi nhân loại, mời gọi con cái Chúa hãy thay đổi quan niệm, thay đổi cõi lòng. Chúa Giêsu đề xướng một lối lãnh đạo mới: lãnh đạo là khiêm nhượng phục vụ. Chúa Giêsu tới trần gian là để sống yêu thương và phục vụ. Ngài nói và đã thực hiện: “ Đến để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người “ ( Mc 10, 45 ).
Bài Tin mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức: mỗi người chúng ta phải phục vụ, phải hiến mạng sống mình để phục vụ nguồi khác như Chúa Giêsu đã làm cho tất cả chúng ta. Nơi tốt nhất chúng ta khởi đầu việc này là gia đình, học đường, môi trường chúng ta đang sống. Nếu chúng ta bắt đầu từ những nơi, môi trường chúng ta đang sống, chắc chắn việc phục vụ của chúng ta sẽ tỏa sáng đến những nơi khác. Các bài đọc, đặc biệt bài Tin mừng của thánh Máccô mời gọi chúng ta tập phục vụ lẫn nhau, ngay từ nơi chính gia đình, giáo xứ, giáo họ, nơi học đường, nơi môi trường chúng ta đang sống. Chúng ta hãy lắng nghe kỹ Lời Chúa phán:” Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người “.
Hôm nay cũng là Chúa nhật dành riêng cầu nguyện cho việc truyền giáo. Chúng ta hãy mau mắn thực hiện Lời Chúa:” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thơ gặt “. Trên thế giới còn biết bao nhiêu người chưa biết Chúa, chưa được nghe Lời Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải loan báo Tin Mừng cho nhiều người được biết Chúa, nhận ra Chúa và theo Chúa:” Xin cho mọi người hiêp nhất nên một “.
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. +++ Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. +++ Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. +++ Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa ( Chân phước Têrêsa Calcutta ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Vương Quốc của Chúa Giêsu khác thế nào với Vương Quốc đời ? 2.Tại sao Gioan và Giacôbê lại xin Chúa Giêsu điều họ muốn xin ? 3.Các môn đệ khác thì sao ? 4.Các môn đệ có hiểu gì về việc Chúa Giêsu loan báo về sự khổ nạn của Chúa ? 5.Làm lớn làm bé theo quan niệm của Chúa Giêsu ?
Lohser là một Trung úy trong quân đội Đức Quốc Xã. Anh chỉ huy 1 toán quân Đức Quốc Xã: TN29-B63
Lohser là một Trung úy trong quân đội Đức Quốc Xã. Anh chỉ huy 1 toán quân Đức Quốc Xã đóng tại thành phố Molina, nươc (Ý), anh là người Công giáo, nhưng đã bỏ đạo để gia nhập đảng Quốc Xã Phát Xít. Năm 1944, Lohser uống rượu trong quán Graziani đến say đừ. Anh đã rút súng nhắm vào tượng Thánh Giá treo trên tường làm bia biểu diễn. Anh bắn:
- Phát thứ nhất: trúng con mắt phải tượng Chúa.
- Phát thứ 2 và 3: trúng ngực tượng Chúa.
- Phát thứ 4: trúng bàn chân trái tượng Chúa.
Thấy vậy, mọi người hoảng sợ bỏ chạy trốn, chỉ còn lại anh tài lái xe đưa Lohser về đơn vị. . . Khi xe đang chạy trên đường thì bỗng máy bay địch xuất hiện, nhắm vào xe jeep bắn xuống. Lohser bị trúng đạn, máu ra nhiều, nên viên tài xế phải dừng xe để săn sóc vết thương:
- mắt phải trúng 1 viên đạn,
- ngực trúng 2 viên,
- bàn chân trái trúng 1 viên.
Nhưng may là anh ta đã kịp hối lỗi. Anh cầu nguyện với Chúa: "Lạy Thánh Giá Chúa, lạy Thánh Giá Chúa, trong mấy năm qua, con mắt linh hồ con mù quáng, không nhìn ra Chúa, không nhìn thấy đời sau, mà chỉ thấy có tiền tài danh vọng. Nhưng giờ đây, con đã hóo hận, con đã thấy Chúa, thấy sự công bình của Chúa và nhất là lòng yêu thương tha thứ của Chúa. Xin thương xót con".
Mười phút sau đó anh tắt thở.
Ngày nay tượng Thánh Giá mà Lohser đã dùng làm bia được cất giữ trong 1 chiếc tủ kính tại nhà thờ Molina. Cứ vào ngày 15 tháng 6 hàng năm, giáo dân lại tổ chức rước kiệu tượng Thánh Giá này chung quanh nhà thờ để kính nhớ sự tích.
Chúa nhân từ vô cùng đối với những ai có lòng thống hối. Cũng có chuyện như sau:
Vào cuộc di cư năm 1975, nhiều người đã rời bỏ quê hương một mình như trường hợp cụ Bính, Ca lifornia. Hôm đó cũ đang lần lữa mặc áo lạnh, thì bỗng có bà Hoàng Thắm đi nhà thờ ra, bà thấy cụ đang gắng sức mặc áo lạnh, bà liền đến gần hỏi han và giúp đỡ.
Sau đó bà lại gặp cụ lủi thủi đi chợ Bolsa một mình, bà chạy xuống mỉm cười chào hỏi rồi bắt đầu chuyện vãn. Sau một hồi bà mới biết cụ Bính ở khu housing chính phủ ở gần nhà. Tiện đường về bà cho cụ quá giang. Lần quá giang đó đã trở nên hàng tuần cho tới hai năm không gặp cụ. Lần đó bà đánh bạo vô nhà thì thấy cụ đang nằm gần chết mà không được ai chở vào nhà thương. Một vài ngày sau, có tiếng điện thoại báo là cụ Bính có thể sống thêm được vài ngày nữa. Bà Hoàng Thắm liền hỏi y tá:ỂĐã gọi cho họ hàng cụ chưa ?Ể Cô y Tá trả lời:Ể Ông ấy không có ai cả. Ông chỉ bảo:bà là người thân duy nhất để liên lạc khi khẩn cấp Ể. Thì ra cụ Bính chỉ có một mình. Bà liền vội đến nhà thương giúp ông trong giây phút cuối cùng của một đời người.
Long nhân ái và tình đồng loại gắn liền với nhau. Chính Chúa Giêsu cũng đã cứu giúp những người đau khổ, đơn côi trong thời đại Ngài. Chúng ta hãy dùng khả năng Chúa ban để thương giúp đồng loại. Bà Hoàng Thắm đã thực hiện điều Chúa khuyên dạy mà tỏ lòng rộng rãi với mọi người cần đến .
Khi Chúa Giêsu nói với Giacôbê và Gioan: “Các anh không biết mình xin gì” (Mc 10:38),: TN29-B64
Khi Chúa Giêsu nói với Giacôbê và Gioan: “Các anh không biết mình xin gì” (Mc 10:38), không phải là Ngài không biết các ông đang muốn gì. Nhưng lời Chúa nói với các ông mang một ý nghĩa khác trong lãnh vực tâm linh. Điều này phải hiểu là các ông không biết điều mình xin ấy có lợi gì và như thế nào cho số phận đời đời, và sự sống tâm linh của mình. Chính vì thế, trước khi trả lời các ông, Chúa Giêsu đã hỏi lại: “Các anh có uống nổi chén ta sẽ uống hoặc được rửa bằng một cuộc tắm đau khổ như ta không?” (Mc 10:38). Và điều mà như Chúa Giêsu đã nói là các ông không hiểu chính là câu trả lời: “Chúng tôi có thể” (Mc 10:39).
Chưa biết những điều chúng ta xin sẽ làm gì cho chúng ta và sẽ đưa chúng ta đến đâu mà vẫn van xin. Chưa hiểu được điều kiện Chúa đưa ra nặng nhẹ như thế nào mà vẫn chấp nhận, thì đúng là “không biết gì” và “không hiểu gì”. Trong đời sống tâm linh và thường ngày của chúng ta, có lẽ lời Chúa Giêsu nói với Giacôbê và Gioan cũng là lời mà Ngài muốn chúng ta phải suy nghĩ mỗi khi cầu nguyện, mỗi khi thưa truyện với Ngài.
“Các ngươi không hiểu mình xin gì”. Điều này chúng ta có thể nghe được qua những ý lễ và ý cầu nguyện vẫn thường được rao trong các thánh lễ, trong đó có những ý lễ và lời cầu xin mà không cần phải Chúa, nhưng chính chúng ta những người ngồi nghe cũng thấy rằng người xin không hiểu điều mình đang xin gì. Thí dụ, Ông A xin 2 lễ, một lễ mừng kính thánh Phêrô, và một lễ xin cho con cái biết vâng lời cha mẹ và siêng năng học hành. Thử hỏi trên thiên đàng thánh Phêrô làm gì với thánh lễ mừng kính ngài? Còn việc con cái biết vâng lời và siêng năng học hành là việc của cha mẹ và những người có trách nhiệm dậy dỗ, giáo dục tại sao lại mang khoán cho Chúa?
Thánh lễ là Mầu Nhiệm Vượt Qua, trong đó Chúa Giêsu hy hiến mình cho Chúa Cha để đền bù tội lỗi nhân loại và đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Trong thánh lễ Thiên Chúa hướng dẫn và nuôi sống dân Ngài bằng Lời Hằng Sống là Thánh Kinh và Mình Máu Thánh Ngài là Thánh Thể. Chúa muốn chúng ta đến với thánh lễ bằng tâm tình yêu mến, thờ lậy, ngợi khen, và cầu xin những ơn ấy. Thánh lễ đâu có dùng để mua việc con cái biết vâng lời và siêng năng học hành.
Cái nguy hiểm ở chỗ là nếu bỏ tiền xin 1, 2, hoặc 3 lễ mà con cái vẫn không vâng lời, vẫn không siêng năng học hành thì lúc ấy thánh lễ sẽ hết thiêng, và Chúa cũng hết thiêng.
Cái không hiểu và khó hiểu nữa là các linh mục tuy đã biết mình không “làm” ra được lễ, nhưng vẫn “bán” lễ. Vẫn lặng thinh và không giáo dục các tín hữu. Còn các tín hữu vì không được hướng dẫn nên vẫn coi việc mình bỏ ra 20 hoặc 50 chục là để mua lễ, mua sự vâng lời và siêng năng học hành cho con cái. Nghĩ vậy rồi cứ việc ăn nhậu, cứ việc bài bạc, cứ việc gian lận, không cần làm gương sáng cho con cái, vì đã bỏ tiền xin lễ rồi.
“Các ngươi không hiểu mình xin gì”. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta về thái độ khi đến với Chúa, và nhất là khi chúng ta cầu nguyện. Giacôbê và Gioan xin với Chúa cho mình được ngồi hai bên tả hữu Ngài trong nước của Ngài. Khi cầu nguyện, dĩ nhiên, cũng phải nói lên ý muốn của mình, nói lên điều mình mong mỏi, nhưng không phải là những điều mà mình không biết và không hiểu rõ. Để chúng ta ý thức được thái độ cần phải có mỗi khi cầu nguyện, và cách thức cầu nguyện như thế nào, Chúa Giêsu đã dậy chúng ta cầu như sau:
“Lậy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ, xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”. (Mt 6:9-13).
Đơn giản chỉ có thế. Trước hết hãy dâng lời cảm tạ ngợi khen Thiên Chúa. Tiếp đến hãy trình bày với Chúa – Cha ta ở trên trời – những nhu cầu cần thiết của mình. Và để minh chứng được lòng thành của mình, đến lượt chúng ta cũng hãy mở rộng cõi lòng tha thứ cho những xúc phạm anh chị em đã làm cho mình. Và sau cùng khiêm tốn xin Ngài che chở, gìn giữ cho khỏi mọi sự dữ, mà sự dữ nhất là tội lỗi.
“Các ngươi không hiểu mình nói gì”. Không hiểu mình xin gì. Nhiều lần chúng ta cũng không hiểu mình nói gì trước nhan Thiên Chúa. Rất nhiều lần chúng ta đã được nghe những lời tạ ơn như sau:
“Lậy Thầy Chí Thánh, con xin cảm ơn Thầy. Ngàn đời con xin cảm ơn Thầy. Xin anh chị em cũng hãy cùng với em cảm tạ ơn Thầy vì đứa con cả của em là bác sĩ mới lập gia đình với một người vợ cũng là bác sĩ. Còn đứa con trai thứ của em cuối năm nay cũng ra bác sĩ. Và sau cùng là đứa gái út của em mới được nhận vào trường luật để làm luật sư”.
Không biết Chúa nghĩ thế nào. Không biết những người nghe lời cảm tạ này nghĩ sao? Làm sao bây giờ, khi 5 đứa con tôi không đứa nào có mảnh bằng kỹ sư. Chúa ở đâu, mà tôi cầu xin mãi cho đứa con bỏ xì ke mà vẫn chưa được. Và làm sao đây, 2 đứa con tôi chỉ làm assembler và lao công. Như vậy, chúng tôi có cần lên để cảm tạ Chúa không?
Lời tạ ơn và tâm tình này có khác gì với tâm tình và lời tạ ơn của người Pharisiêu mà Chúa Giêsu đã đề cập đến khi ông ta đứng giữa đền thờ, ưỡn ngực ra kể cho Chúa nghe một tuần ông ăn chay mấy ngày, và bố thi bao nhiêu cho kẻ khó; nhưng may mắn và hãnh diện nhất là không giống như tên thu thế kia.
“Các ngươi không hiểu mình xin gì”. Tóm lại, khi xin với Chúa điều gì và khi cầu nguyện với Ngài, việc đầu tiên là phải cám tạ hồng ân Ngài. Nhìn nhận những ơn huệ Ngài ban do lòng rộng rãi của Ngài. Đồng thời trình bày nhu cầu hiện mình đang thiếu thốn và để Ngài định liệu. Và nhất là dâng lên Ngài của lễ hy sinh là lòng bác ái, tha thứ và thương yêu đồng loại.
Lời cầu xin tốt nhất vẫn là lời cầu xin để tìm hiểu được Thánh Ý Ngài và thực hành Thánh Ý ấy trong mọi cảnh ngộ mà chúng ta đang gặp phải dù tốt hay xấu. Không phải “ý con mà là ý Cha”. Và chỉ khi nào chúng ta cầu xin, cảm tạ, ngợi khen theo tinh thần này, lúc đó Chúa mới thực sự hiểu được điều ta muốn xin, muốn nói. Phần ta, chúng ta cũng hiểu được là mình đang muốn gì.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nổi bật lên tinh thần phục vụ: TN29-B65
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nổi bật lên tinh thần phục vụ.
Thực vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta cần phải phục vụ và giúp đỡ người khác như thế nào?
Bác sĩ Tom Dolly, người đã từng hy sinh cả cuộc đời của mình giữa chốn rừng thiêng nước độc ở bên Lào, để giúp đỡ cho những người thiếu may mắn vào khoảng đầu thế kỷ này, đã nói như sau: Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác.
Cũng vậy, dầu bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu chăng nữa, thì chẳng ai là một kẻ vô dụng cho người khác và cho xã hội. Như thế có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều có thể thực hiện được những hành động bác ái yêu thương, phục vụ và giúp đỡ người khác.
Đúng thế, một người ăn xin ư? Họ có thể cho chúng ta một dịp để sống quảng đại và chia sẻ. Một kẻ tàn tật và đau ốm ư? Họ có thể mời gọi chúng ta sống cảm thông và nâng đỡ, đồng thời còn đặt ra cho chúng ta những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ và của sự chết. Một kẻ thù của chúng ta ư? Họ có thể đem lại cho chúng ta một cơ may để sống kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ.
Phải, bất kỳ ai cũng có thể ban tặng cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng cõi lòng để đón nhận hay không? Đồng thời chúng ta cũng phải tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh? Chẳng hạn như một nụ cười, một ánh mắt, một sự lắng nghe, một lời nói cảm thông, an ủi và khích lệ.
Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi việc làm của tình bác ái yêu thương sẽ là như một quà tặng mà từng giây từng phút, chúng ta có thể và phải đem đến cho người khác.
Giữa đám đông dân chúng đang dâng cúng tiền bạc tại đền thờ, đôi mắt Chúa Giêsu đã dừng lại nơi một bà goá nghèo hèn. Bà chỉ bỏ vào hòm tiền có một đồng xu, thế nhưng Ngài đã nhìn thấy giá trị to lớn của hành vi và đồng xu nhỏ bé ấy. Bởi vì dưới cái nhìn của Chúa, mọi sự dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa cũng vẫn có giá trị của nó.
Giacôbê và Gioan không ngần ngại xin Chúa Giêsu điều mà các ông mơ ước có lẽ đã từ: TN29-B66
Giacôbê và Gioan không ngần ngại xin Chúa Giêsu điều mà các ông mơ ước có lẽ đã từ lâu. Trong vương quốc của Ngài, các ông muốn được những chỗ nhất, bên tả và bên hữu Ngài. Mười môn đệ kia nghe các ông xin như vậy thì lấy làm chướng tai... Điều đó cho thấy rõ rằng chính các ông này nữa muốn những chỗ nhất ấy.
Chúng ta đừng nói đó là chuyện trẻ con, là nhẹ dạ. Tự bản chất, con người muốn làm lớn, muốn ở trên kẻ khác, muốn thống trị, thích tìm ngồi chỗ nhất. Xã hội chúng ta lại khuyến khích và khơi dậy ước muốn đó, một ước muốn mà mọi con người bình thường đều có. Xã hội sùng bái những người đứng đầu, chiều chuộng những kẻ giàu nhất, mạnh nhất, thông minh nhất, đẹp nhất, táo bạo nhất. Chỗ nhất! Đôi khi chẳng có gì mà người ta không làm để đạt tới đó. Không phải ai cũng đều thành công, nhưng ai cũng ao ước, ai cũng mơ ước được như vậy.
Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Ta hãy lưu ý rằng Chúa Giêsu không trách hai môn đệ của Ngài vì muốn được gần Ngài trong vinh quang Thiên quốc. Ngài cũng không bảo các ông rằng ước muốn của các ông sẽ không thành đâu. Ngài không biết được. Không phải Ngài quyết định về việc này. "Về việc ở bên hữu hoặc ở bên tả Thầy thì không phải Thầy ban cho được". Tuy nhiên Ngài lợi dụng dịp này để nhắc lại một giáo huấn cơ bản mà các môn đệ của Ngài khó hiểu.
Giáo huấn đã được lặp lại bao nhiêu lần rồi là: Những kẻ cao trọng trước mặt Thiên Chúa không phải là những kẻ để cho người ta phục vụ mình, nhưng là những kẻ phục vụ; những kẻ xứng đáng chỗ tốt trong Nước Trời, không phải là những kẻ chỉ biết ước mơ xin xỏ, nhưng là những kẻ bắt chước Chúa Kitô, uống chén đắng mà Ngài đã uống, làm đầy tớ như Ngài, chịu thanh tẩy bằng đau khổ như Ngài.
Uống chén đắng, được thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy của Chúa Kitô: làm đầy tớ, làm nô lệ mọi người, phục vụ chứ không mong người ta phục vụ mình, hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người, gặp thử thách, bị đau khổ nghiền nát, làm cho cuộc sống của mình trở thành một của lễ hy sinh đền tội... Đó là những từ ta gặp thấy trong các bài đọc hôm nay. Những từ ngày bổ túc cho nhau và diễn tả những gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa và những gì cho phép đạt đến những chỗ nhất bên cạnh Chúa Kitô. Ta có thể tóm tắt giáo huấn này bằng công thức sau đây: Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Một công việc khó nhọc.
Dĩ nhiên chúng ta có ý muốn bước theo Chúa Kitô và thực hành lời giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta biết rằng điều này không dễ. Phục vụ, phục vụ cách vô vị lợi, phục vụ trong sự quên mình và xả thân, phục vụ cho đến nỗi phải đau khổ, không thể trong vòng một ngày mà chúng ta làm được và cứ phải làm lại mãi.
Bao nhiêu người muốn và tự nhủ phục vụ kẻ khác nhưng không phục vụ hoặc chỉ làm nửa chừng thôi. Người bán hàng nói với khách hàng "Xin phục vụ quý vị!". Các nhà chính trị tuyên bố: "Hãy bỏ phiếu cho tôi để tôi có thể phục vụ quý vị!". Các công đoàn tự nhủ sẽ phục vụ công nhân, các công ty lớn khẳng định là đưa tài sản phục vụ sự tiến bộ của xã hội, các bác sĩ muốn phục vụ bệnh nhân, các giáo sư phục vụ sinh viên. Các phụ huynh phục vụ con cái, các cha sở phục vụ con chiên và Giáo Hội phục vụ hết thảy mọi người bắt đầu từ những người nghèo nhất...
Có nguy cơ lạm dụng hai từ phục vụ. Bao nhiêu dịch vụ vẫn chẳng có gì là vô vị lợi cả! Nhiều tham vọng, có thể trà trộn vào ý muốn chân thành phục vụ.
Dù ở địa vị nào trong xã hội của chúng ta, bất chấp dù mức sống cao hay thấp, dù tài năng ra sao, dù làm công việc gì, chúng ta có quan tâm đến phục vụ kẻ khác không? Chúng ta có thực sự phục vụ họ không? Đó là những câu hỏi được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
Vài ghi nhận chi tiết trước khi đi vào một khía cạnh sâu sắc của bài Phúc Âm Giacôbê và Gioan: TN29-B67
Vài ghi nhận chi tiết trước khi đi vào một khía cạnh sâu sắc của bài Phúc Âm Giacôbê và Gioan là con ông Zêbêđê và bà Salômê, bà này có họ xa với Chúa Giêsu. Theo một tục lệ phương đông và đặc quyền huyết tộc, hai anh em có lẽ cho việc cầu cạnh những chỗ trên trước là thường tình vì tất cả tộc họ đều được dự phần vào sự làm nên người trong họ. Mặt khác, ta ghi lại câu đáp của hai anh em trả lời Chúa: Thưa được. Tầm mức của câu đáp đi tới đâu? Có thể họ nghĩ tới sự thiết lập vương quốc mà toàn dân mong đợi, sẽ không tránh được khó khăn và hai anh em tuyên bố sẵn lòng đương đầu. Dường như họ không ý thức được thực tại sau này của Thập Giá. Trong Kinh Thánh, có những đoạn lấy chén uống làm biểu tượng cho niềm vui, trong những đoạn khác làm biểu tượng cho cay đắng, ở đây Chúa theo nghĩa chén uống chỉ sự cay đắng, và phép rửa Người nói đến trong đoạn này có nghĩa tương tự với câu chúng ta thường nói ngày này: 'Bị dìm sâu trong thống khổ'.
1) Chén Ta phải uống... thanh tẩy ta chịu. Chúa dùng những từ ngữ mà mãi sau cuộc Khổ nạn và Phục sinh các môn đệ mới hiểu, để loan báo rằng số mệnh dưới thế của người không phù hợp với khái niệm của các môn đệ. Họ bám chắc lấy phương án trù hoạch, một vương quốc thế gian mà Chúa sẽ là Vua. Khó khăn lắm Chúa mới đảo ngược não trạng đó và chuyển đổi hy vọng của các môn đệ từ tầm mức tham vọng trần tục, đến thực tại công cuộc cứu rỗi. Cũng giống nhiều đoạn Phúc Âm khác, câu hỏi của Chúa chất vấn chúng ta ngày nay. Cuộc phấn đấu nói trong Phúc Âm, chúng ta quan niệm nó như thế nào? Mục tiêu chúng ta là gì? Giả sử nhân danh lý tưởng quảng đại của một nhân loại tốt đang sống, chúng ta phấn đấu cho một ý thức hệ trong đó Phúc Âm chỉ là một sự đóng góp trong giả thuyết ấy, chúng ta sẽ chỉ mưu tìm chiến thắng cho những tư tưởng của chúng ta. Trên hình diện này, ở ngoài Phúc Âm cũng có những chủ nghĩa độ thế có độ lượng nhưng là thứ độ lượng cuồng tín. Lời kêu gọi trước tiên và đặc thù của Phúc Âm thuộc một trật tự khác, Phúc Âm mời chúng ta tham dự thanh tẩy và chén đắng của Chúa Giêsu.
2) Ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì hãy hầu hạ các ngươi. Chúa cố tháo gỡ một thứ xác tín theo bản năng ra khỏi đầu óc các môn đệ, thứ xác tín này khiến người ta nghĩ rằng điều quan trọng là tổ chức thế giới hiện đại theo những lời phán hứa của Thiên Chúa, được họ hiểu theo hướng nghĩ vật chất. Trong thế giới ấy, dịch vụ 'tốt' là chiếm lấy những chỗ tốt nhất. Vậy mà Nước Trời có những quy luật khác. Trước khi chính mình làm gương phục vụ hoàn toàn, Chúa cố giác ngộ các môn đệ cho họ ý thức được sự đòi hỏi đó. Chúa làm họ ngẩn ngơ, họ không hiểu Chúa muốn nói gì, nhưng sau này, họ sẽ hiểu và không quên bài học đó. Sau cuộc khổ nạn và Phục Sinh, họ sẽ phát hiện rằng: Tâm điểm của sự đòi hỏi phục vụ chính là tình yêu. Chúa tự hiến, vì tình yêu cho Cha Người, từ Chúa Cha phát xuất tình yêu của Chúa đối với loài người. Tình yêu thương của chúng ta đối với anh em nhân loại có đích thật vững vàng, bền bỉ, độ lượng, rộng lớn, sẵn sàng phục vụ là tùy thuộc ở mức độ chúng ta bị thâu tóm bởi tình yêu của Đức Kitô.
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi lòai thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. (17) Đây là những dấu lạ sẽ di theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhầm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe. (19) Nói xong Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họat động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
2. Ý CHÍNH:
Trước khi về trời, Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước: TN29-B68
Trước khi về trời, Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời khắp thế gian. ai tin và chịu phép rửa thì sẽ nên dưỡng tử của Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ. còn kẻ không tin là tự loại mình ra khỏi Nước Trời và sẽ bị kết án. Cuối cùng Đức Giê-su còn hứa ban cho các ông quyền làm nhiều phép lạ. Các môn đệ đã vâng lời Thầy đi khắp nơi loan Tin Mừng.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15-16:
+ Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. nhưng sau khi phục sinh, Người lại trao cho các Tông Đồ sứ mạng phổ quát đến với muôn dân
+ Loan báo Tin Mừng: theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Euaggelion) là một “Tin Vui, Tin Mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là chính “Tin Mừng được Đức Giê-su công bố”. hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. + cho mọi loài thọ tạo: Nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi mọi tạo vật nên Trời Mới Đất Mới vào ngày tận thế (x. Kh 21,1).
+ Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người mới, dưỡng tử của Thiên Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời.+ còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên sẽ bị khô héo và bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời (x. Ga 15,5-6).
+ Còn những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố tình làm tay sai cho ma quỷ để làm điều gian ác và không chịu hồi tâm sám hối thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa ngục được lập ra “dành cho ma quỷ và những kẻ đi theo chúng”.
- C 17-18:
+ Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông Đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để các ông xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giê-su lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông.
+ Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông Đồ thực hiện. Chẳng hạn: vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông Đồ (x. Cv 5,12). Tông Đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). còn Tông Đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Ly-tra (x. Cv 14,8-10) ; Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
- C 19-20:
+ Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa.
+ và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22).
+ ra đi rao giảng khắp nơi: các Tông Đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8).
+ có Chúa cùng hoạt động với các ông...: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội Thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần để Hội Thánh tha tội cho người ta giống như Người (x Ga 20,21-22). Người cũng hứa cho Hội Thánh làm được những việc lớn lao hơn Người nữa, đó là đi rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc với quyền năng Thánh Thần (x Ga 14,12).
HỎI: 1) Mầu nhiệm Phục sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi? Các Tông Đồ được Chúa sai đến với những ai?
2) Tin Mừng Đức Giê-su có những ý nghĩa nào?
3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su?
4) Những ai chắc chắn sẽ bị sa vào hỏa ngục? Những người chưa có đức Tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được hưởng ơn cứu độ không?
5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền nào?
6) Trườc khi về trời, Đức Giê-su trao sứ mệnh loan Tin Mừng cho các Tông Đồ kèm theo những dấu lạ nào?
7) Lời Chúa phán về các dấu lạ kèm theo Lời rao giảng của các Tông Đồ đã ứng nghiệm thế nào vào thời Giáo Hội sơ khai?
8) Thời Cựu Ước, Ngôn sứ nào được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa Giê-su thăng thiên khác với việc Mông triệu của Đức Ma-ri-a thế nào?
9) Người lương dân luôn ăn ngay ở lành chết thì có được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su ban cho không?
10) So sánh Lời Chúa Giê-su truyền cho các Tông Đồ trước khi lên trời là “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ...”(x Mt 28,19) và “Hãy nên chứng nhân của Thầy...” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?
11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn hiện diện trong Hội Thánh nữa không?
12-Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội Thánh nhằm mục đích gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
2. CÂU CHUYỆN: VIÊN NHẠC SĨ VÀ CHIẾC VĨ CẦM QUÍ GIÁ
PHÍT KÂY-DƠ-LÊ (fritz kreisler) (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một tài sản đồ sộ nhờ các buổi hòa nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết những của cải kiếm được. Do đó, trong một chuyến đi lưu diễn, ông phát hiện ra một cây vĩ cầm rất đẹp và âm thanh của nó nghe thật tuyệt vời, nhưng ông lại không có đủ tiền để mua ngay. Sau một thời gian để dành, khi ông mang tiền đến mua thì cây vĩ cầm kia đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Phít theo địa chỉ tìm đến chủ nhân mới của cây vĩ cầm để xin được mua lại. Nhà sưu tầm lúc đầu không muốn bán, vì theo ông ta cây đàn này là một bảo vật quí giá. Phít cảm thấy chán nản thất vọng. Tuy nhiên trước khi ra về, ông nảy ra sáng kiến và nói với người chủ mới của cây đàn như sau: “Tôi xin phép được chơi một bài trước khi cây đàn này bị rơi vào cỏi thinh lặng”. Được chủ nhân đồng ý, viên nhạc sĩ tài ba này đã làm cho ông chủ cây đàn vô cùng xúc động khi nghe được tiếng đàn du dương réo rắt của nó qua bàn tay tài hoa của ông, đến nỗi ông ta đã phải thốt lên: “Này Kây-dơ-lê ơi! Tôi không có quyền giữ cây đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới, để thiên hạ được thưởng thức âm thanh tuyệt vời của nó”.
3. SUY NIỆM:
+ Có người lên tiếng chỉ trích công việc truyền giáo của Hội Thánh cho lương dân. Theo họ: “Đạo nào cũng tốt vì đạo nào cũng bắt nguồn từ Trời, và đều dạy người ta phải ăn ngay ở lành. Do đó, cần chi phải rao giảng về đạo Công giáo cho ngừoi ta? Tốt hơn là cứ khuyên họ hãy sống thật tốt theo đúng tôn chỉ của đạo giáo mà họ đang theo”.
+ Thực ra, nếu xét về mặt luân lý tự nhiên thì xem ra mọi tôn giáo đều tốt. Đạo nào cũng dạy người ta phải hướng thượng, phải ăn ngay ở lành, phải giữ công bình và sống từ bi nhân ái. Nhưng về tín lý, mỗi đạo giáo đều có những chân lý chủ quan, có giới hạn và những sai lầm làm méo mó hình ảnh Thiên Chúa, Tùy theo ơn mặc khải mà vị sáng lập đạo đã ngộ ra. Do đó, các tôn giáo không thể có giá trị bằng nhau cả về tín lý cũng như luân lý. Ta có thể ví chân lý của các tôn giáo tự nhiên giống như ánh sáng lu mờ của cây đèn dầu, chỉ có giá trị tương đối về luân lý, và làm cho con người bị lầm lạc khi coi loài thụ tạo là Chúa tể phải tôn thờ. Còn chân lý của đạo Công giáo phát xuất từ Đức Giê-su Con Thiên Chúa làm người, thì như ánh sáng chói chan của mặt trời chính ngọ, giúp người ta nhận biết, tôn thờ yêu mến Thiên Chúa tòan năng chân thật, và nhờ đó, sẽ đón nhận được hạnh phúc đời đời. Công đồng Vaticanô đã dạy: “Tất cả những gì tốt lành chân thật trong các tôn giáo chỉ có giá trị như để chuẩn bị cho họ lãnh nhận Tin Mừng, và như một hồng ân mà Đấng soi sáng mọi người ban cho để cuối cùng họ sẽ được sống đời đời” (LG số 16).
+ Để qui tụ tất cả con cái loài người đã bị tội lỗi làm cho tản mác lạc đường, Thiên Chúa Cha muốn tập họp toàn thể loài người trong Hội Thánh của Chúa Con. Hội Thánh là nơi loài người tìm thấy sự hiệp nhất và ơn cứu độ. Hội Thánh là thế giới đã được hòa giải, là con tàu giúp ta vượt biển trần gian với sức mạnh của gió Thánh Thần, dưới cánh buồm thánh giá của Đức Ki-tô. Hội Thánh còn được ví như con tàu của tổ phụ Nô-e, con tàu duy nhất cứu loài người thoát nạn hồng thủy (x. 1 Pr 3,20-21).
+ Về phần các tín hữu: đã tin Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, đã được tái sinh làm con Thiên Chúa nhờ phép rửa tội để được gia nhập vào Hội Thánh và nhờ đó hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời. Ta phải làm gì để giúp anh em khác nhận biết Thiên Chúa đễ được hưởng ơn cứu độ giống như ta?
4. THẢO LUẬN: 1-Noi gương nhà sưu tập nhạc cụ trong câu chuyện trên, chúng ta phải làm gì với cây đàn quý giá là đức Tin mà chúng ta đã được đón nhận? 2-Trong xã hội hôm nay, chúng ta cần rao giảng Tin Mừng cho anh em lương dân bằng cách nào để đạt hiệu quả nhất?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo. Xin giúp chúng con trở nên chứng nhân giúp người khác nhận biết và tin yêu Chúa bằng lời nói việc làm của chúng con: Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo các tiện nghi để hưởng thụ, xin cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống đơn sơ trong cách ăn ở tiêu dùng các của cải vật chất. Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho chúng con tránh thói tham lam, chỉ lo thu tích của cải cho mình, nhưng biết quảng đại chia sẻ cho những người nghèo đói bất hạnh. Giữa một thế giới khinh thường người nghèo, xin cho chúng con biết quí trọng phẩm giá của hết mọi người. Giữa một thế giới không tìm ra phương hướng cho cuộc sống, xin cho chúng con biết giúp họ nhận biết tin yêu Chúa và phục vụ tha nhân, hầu tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con cảm thông được những cơn đói đang giày vò biết bao người nghèo khó chung quanh chúng con. Xin cho chúng con nghe được Lời Chúa mời gọi: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Ứớc gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa sẽ trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho hết mọi người.
X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA.-Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan.... Đây là hai chàng thanh niên con trai của ông.....: TN29-B69
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây." Đây là hai chàng thanh niên con trai của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới, ở Bết-sai-đa một cảng nhỏ trên bờ hồ Ti-bê-ri-át. Mẹ của họ có lẽ là bà Xalômê, chị em với Đức Maria mẹ Đức Giêsu (Mc 15,10 - 16,l). Theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng các quyền của người trong dòng họ: Vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con cho "dòng họ" được tham dự vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc.
Vả lại Đức Giêsu đã chẳng nói như thế sao: "Các ngươi hãy xin, thì sẽ nhận được". Vậy họ đưa ra một lời xin: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn Thầy ban cho điều mà chúng tôi xin". Đây là một dịp mà chúng ta cần phải nắm vững, vì đôi khi chúng ta cũng ngạc nhiên về một số lời cầu xin của mình không được chấp nhận, 'như' chúng ta mong muốn.
Người hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?"
Lời cầu xin của họ quá mơ hồ. Đức Giêsu bảo họ hãy nói rõ lời yêu cầu đó.
Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy.
Lần thứ ba, Đức Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Người (Mc 10,32-34) "Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem; Con Người sẽ bị giao nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử hình Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người". Vào lúc Đức Giêsu "chọn chỗ chót" thì các ông lại cố "đua nhau" chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ (và đối với chúng ta?), đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự. Vậy tại sao lại không lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền, được tiến cử? Chúng ta chớ nên xét đoán các ông một cách khắt khe.
Chính chúng ta đã không làm như thế, khi chúng ta có dịp hay sao? Đó là chuyện thường tình của con người! Khi chúng ta quen lớn, thì tự nhiên chúng ta không muốn nhờ vả để trục lợi sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn: Đời sống Kitô hữu của chúng ta có phải là một cuộc sống phụng sự Thiên Chúa hay không? Hay đó là một cuộc sống mà chúng ta chỉ muốn Thiên Chúa phục vụ chúng ta? Việc hành đạo của chúng ta có phải là một sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục hướng về Thiên Chúa không? Hay đó chỉ là một thứ "bảo hiểm cho đời sau"? Lạy Thầy, xin dành cho con một chỗ phụ chắc chắn ở trên trời.
"Các anh không biết các anh xin gì!"
Thực vậy, họ đâu có biết "ai" sẽ ở "bên phải và bên trái" của Đức Giêsu, khi Người ở trong "vinh quang" của Người trên thập giá? Họ đang xin mà không biết chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người trên đời. Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi, Đức Giêsu đang cố chuyển biến tư tưởng của họ từ "vinh quang của Đấng Mêsisa" sang "con đường dẫn đến vinh quang" đó. Chúng ta cũng vậy thường chúng ta không biết điều mà chúng ta xin: Đó là lý do tại sao những lời cầu xin của chúng ta không được chấp nhận.
Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa dời chúng ta đi, cho Người sửa đổi lời xin của chúng ta. Thiên Chúa nói: "Các con không biết các con xin những gì, các con hãy tin Ta hơn". "Sự vinh quang" mà các ông xin, hỡi Giacôbê và Gioan, các ông sẽ nhận được vào một ngày nào đó! ước mộng tuổi trẻ của các ông sẽ được thực hiện trong tuổi chín muồi của các ông.
Thực vậy, Giacôbê sẽ là vị tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrông, bị khổ sai tại đảo Patmos (Kh 1,9).
Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Đức Giêsu dùng hai hình ảnh cổ truyền của Kinh Thánh để giúp họ sửa đổi lời yêu cầu và ý muốn của họ: Đó là chén đắng và phép rửa. "Chén" trong Kinh Thánh là "chén đắng", thức uống ghê tởm, khó nuốt. "Chúa cầm chén trong tay". Người rót một thứ rượu thuốc đã lên men: Họ sẽ uống rượu này, họ nốc đến cạn (Tv 75,9). 'Phép rửa' có một ý nghĩa tương tự: Đó là hình ảnh sự nhào nặn, chìm nghỉm; "Hết thảy nước đó sóng tràn ngập lút trên tôi" (Tv 42,9). Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Người. Và Người hỏi hai môn đệ: "Các con có thể uống được chén đắng của sự thương khó Thầy không? Và chịu dìm vào phép rửa bằng máu của Thầy không? Như Thầy và cùng với Thầy, các con có chấp nhận vùi sâu dưới dòng nước chết đuối bi thảm này nghĩa là chia sẻ cái chết của Thầy không?
Các ông đáp: "Thưa được"
Họ tỏ ra quảng đại trong sự hăng say của tuổi trẻ.
Họ sẵn sàng trả giá bằng chính bản thân của mình, để 'uống' chén đắng và bị dìm sâu trong phép rửa. Chúng ta đừng quên rằng khi Máccô viết Tin Mừng của ông, thì đã có 2 bí tích đang được các Kitô hữu thể nghiệm, như chúng ta ngày nay. Chúng ta gán cho Phép rửa tội và Thánh Thể mà ta lãnh nhận ý nghĩa nào? "chén mà chúng ta hiệp thông có thông hiệp với sự hy sinh của Đấng đã hiến ban mạng sống của Người không? Đức tin ngày chịu phép rửa có làm cho chúng ta "Theo Đức Giêsu không? và theo tới đâu?
Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu.
Khi Máccô ghi lại lời tiên tri này của Đức Giêsu, thì nó đã được thực hiện một phần rồi. Vào năm 44, Giacôbê đã tử đạo. Vào thời đó Vua Hêrôđê đã bách hại một số thành viên của Giáo Hội. ông ấy đã cho chém đầu Giacôbê, người "anh em" của Gioan. Và khi nhận thấy người Do Thái hài lòng về việc làm đó, ông lại cho tiến hành cuộc bắt giữ khác (Cv 12,2-3). Kitô hữu là theo Đức Giêsu!
Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.
Một lần nữa Đức Giêsu nói lên những lời khiêm nhường lạ lùng, trước Cha của Người: Người nói Người "không có quyền". Người tỏ ra vâng phục. Qua lời này Người mời gọi chúng ta đến lượt mình, cũng để Thiên Chúa tùy nghi định đoạt về chúng ta. "Vinh quang" đó, Giacôbê và Gioan sẽ nhận được, nhưng không phải là thứ vinh quang mà hai ông ước vọng: Đó sẽ là vinh quang của Đức Giêsu cho. Do đó Chúa đã chấp nhận lời cầu xin của hai ông. Còn chúng ta thì sao? Khi lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được chấp nhận, chúng ta có luôn phó thác nơi Chúa, để Chúa chấp nhận, lời xin đó theo ý của Người hay không? Chính Đức Giêsu cũng đưa dẫn các bạn hữu của Người tới mầu nhiệm không thể dò thấu được của ý định Thiên Chúa.
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan
Các ông bực mình vì các ông cũng có tham vọng như thế!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân
Một lần Đức Giêsu nói về "chính trị" thì Người lại mô tả quá mạnh và khá mù tối. Ta không thể nói, Đức Giêsu muốn thiết lập một thế giới không có hệ thống hành chánh hay san bằng cấp bậc.
Nhưng, một lần nữa như đối với cách sử dụng (tiền bạc hay vấn đề tính dục), Người bác bỏ những lạm dụng: Quyền thế không được áp dụng như một cách để thống trị và hà hiếp, hay như một "tương quan lực lượng" mạnh được yếu thua. Đức Giêsu nói: "Không được như vậy".
Nhưng giữa anh em thì không được như vậy
Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ trong Giáo Hội, trong cộng đoàn Kitô hữu, kiểu quyền bính vẫn được thực thi trên thế giới.
Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.
Đây không phải là một điều luật trong những điều luật khác nhưng đó là "hiến chương" của Giáo Hội, của cộng đoàn các môn đệ: Mỗi người phải trở nên đầy tớ của mọi người.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra ở đây lại càng rõ nét. Ý mà chủ "đầy tớ" không nói ra ở đây, thì từ "nô lệ" lại nói lên một cách mạnh mẽ, bằng cách thêm ý "tùy thuộc" vào người mà ta phục vụ. Trong Giáo Hội, phải triệt để từ bỏ nguyên tắc thăng thưởng, quân hàm, công nghiệp, tước vị huy chương và chỗ danh dự. Chỉ có một nguyên tắc mà thôi: Đó là sự phục vụ, khiêm tốn. Cần nói về những vị có một vai trò đặc biệt, ta sẽ dùng kiểu nói "thừa tác viên" chữ này trong tiếng La tinh có nghĩa là "đầy tớ". Không có lãnh tụ theo nghĩa thế gian trong Giáo Hội. Chỉ có những "thừa tác viên", những "người phục vụ".
Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Lý do căn bản của "hiến chương" nguyên thủy này của Giáo Hội, là Giáo Hội đương nhiên phải bắt chước Đức Giêsu. Cần lưu ý về ý nghĩa tích cực mà Đức Giêsu đã gán cho cái chết của Người. Trong ý thức của Người, Người không nghĩ về cái chết này một cách đau khổ; con đường thập giá đối với Người không phải là "chịu đau khổ" mà là "phục vụ". Mặc dù Người có quyền hạn đầy đủ vì là con Thiên Chúa, thế mà Đức Giêsu đã không hành xử như một vị thống trị, nhưng như "một người đầy tớ". Người đã không đóng vai "lãnh chúa" mà là "gia nhân" (Ga 13,13) bằng cách hầu bàn chiều Thứ Năm Thánh. Các bác cha mẹ Kitô hữu cũng phải hành xử như thế, đối với những kẻ dưới quyền của mình. Các người có trách nhiệm cũng phải hành xử như thế, đối với thuộc cấp của mình. Chúng ta có đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu một cách nghiêm chỉnh không? Chúng ta chớ nên xét lương tâm kẻ khác. Tôi đang có khuynh hướng "thống trị" ai? Tôi phải "thương yêu" ai? Tôi phải "phục vụ"ai?
Ngày 12.10.2012, để vận đông tranh cử vào Nhà Trắng, Phó Tổng Thống Joe Biden đã không ngần: TN29-B70
Ngày 12.10.2012, để vận đông tranh cử vào Nhà Trắng, Phó Tổng Thống Joe Biden đã không ngần ngại dối trá về Sắc Lệnh của HHS: “Về vấn đề có liên quan đến Giáo Hội Công Giáo tôi xin nói tuyệt đối rõ ràng là không cơ sở tôn giáo nào, Công Giáo hay các tôn giáo khác, bao gồm các cơ sở xã hội Công Giáo, bệnh viện Geogetown, Mercy hay bất kỳ một nơi nào khác bị bắt buộc phải cung cấp phương tiện ngừa thai, phải trả tiền phá thai. Không ai phải thi hành các tiến hành ngừa thai trong chính sách bảo hiểm cho nhân viên. Đây chính là sự thật. Đây chính là sự thật.” ( Xin xem: http://www.usccb.org/news/2012/12-163.cfm )
Trong nhiều tháng qua, Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ đã phát động một chiến dịch rộng lớn chống lại Sắc Lệnh HHS vì nó xâm phạm trầm trọng đến sứ mạng Bảo Vệ Sự Sống của Giáo Hội. Theo Sắc Lệnh HHS thì các cơ sở xã hội và bệnh viện Công Giáo phải cung cấp các phương tiện ngừa thai và phá thai cho nhân viên. Chính quyền Obama không hề chùn bước khi cương quyết áp dụng Sắc Lệnh. Nhưng trước mắt để đừng mất thêm phiếu của khối cử tri Công Giáo vốn xem nhẹ việc Bảo Vệ Sự Sống, thì ông phó tổng thống cũng là một người Công Giáo cứ phát biểu sai lạc như vậy. Sau đó, nếu ông Obama được làm thêm một nhiệm kỳ nữa thì sẽ thẳng tay áp dụng ( Theo Ephata 531, Nguyễn Trung, Một trò lường gạt của chính quyền Obama ).
Như thế, để đạt được chiếc ghế thủ lãnh quốc gia người ta không chút ngượng miệng, công khai nói điều dối trá với toàn thể dân chúng Hoa kỳ. Trong trích thuật Tin Mừng hôm nay, hai anh em ông Giacôbê và Gioan cũng mong được hai cái ghế bên tả và bên hữu Chúa Giêsu, khi Người “được vinh quang”, cùng sẵn sàng chấp nhận mọi sự khó trong tương lại.
Quyền bính từ Thiên Chúa
Khi nghe lời khẩn cầu, Chúa Giêsu hỏi lại các ông Giacôbê và Gioan: “Các ông có uống nổi chén thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không ?” Các ông đáp: ”Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” ( Mc 10, 38 – 40 ).
Như thế, Chúa Giêsu khẳng định quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa trao ban, chứ không phải do thế lực tranh đấu, kế thừa, tài năng, hay may mắn tạo nên, như thiên hạ vẫn thường ngộ nhận.
Quyền bính để phục vụ
Nhân tiện, nói về quyền bính, Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt hai loại quyền lực: Thế quyền và giáo quyền. Với thế quyền trong xã hội, thì dùng uy lực để cai trị dân chúng, dùng quyền hành đem lại phúc lợi cho dân, hoặc tệ hại thì đàn áp, bóc lộc dân.
Còn với giáo quyền của Hội Thánh, thì tính cách hoàn toàn trái nghịch, đó là sử dụng quyền hành để phục vụ tận tình mọi người. “Anh em biết, những người được coi là thủ lãnh các dân, thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” ( Mc 10, 43 – 44 ).
Thế quyền bao giờ cũng đi đôi với quyền bính, sức mạnh, danh lợi, vinh hoa phú quý, vinh thân phì gia. Còn giáo quyền trong Hội Thánh thì luôn kết hợp nhuần nhuyễn với bác ái, yêu thương, bất vụ lợi, hy sinh, dấn thân, chân chính làm người đầy tớ mọi người.
Chúa Giêsu đã làm gương sáng, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ ngay trước bữa Tiệc Ly, rồi tiếp theo đỉnh điểm phục vụ, là cuộc Khổ Nạn vô cùng thảm khốc. Chính vì vậy, Đức Giáo Hoàng, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo, nắm giữ một địa vị quan trọng nhất trên thế giới, thế mà ngài vẫn tự nhận cho mình là “Servus servorum”, tôi tớ của các tôi tớ. Đáng tiếc, vẫn còn những người lãnh đạo, cố tình quên đi điều rất căn bản và dị biệt này.
Tận hiến để phục vụ
Nhân tiện, Chúa Giêsu đề cập đến sứ vụ cao quý, mà Người lãnh nhận. Đó là phục vụ nhân loại hết sức tận tình, cho đến hơi thở cuối cùng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mc 10, 45 ). Người mong mỏi người Kitô hữu thấm nhuần tinh thần phục vụ, và hiệp thông vào Ơn Cứu Độ, để được sống viên mãn.
“Lãnh đạo là phục vụ: phụng sự Thiên Chúa, phục vụ người mình điều khiển, phục vụ công ích. Lãnh đạo là nô bộc tình nguyện” ( Đường Hy Vọng, 835 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban con lòng can đảm, dũng mãnh theo chân Chúa, dù phải chịu nhiều cay đắng, ngược đãi, chống báng của thế gian, vẫn một lòng một dạ phục vụ tha nhân và Hội Thánh.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, Mẹ đã đau khổ biết bao dưới chân Thánh Giá, vì Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, xin dạy cho con biết chấp nhận những thử thách cuộc đời, như phần nào được hiệp thông vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 10:35-45)
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giê-su tiên báo lần thứ ba cuộc Thương: TN29-B71
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giê-su tiên báo lần thứ ba cuộc Thương khó của Người. Mỗi lần là một bài học. Bài học Chúa dạy lần này không phải chỉ dành cho mấy Tông đồ thích “làm lớn” hoặc tranh giành địa vị, nhưng cũng dành cho mọi Ki-tô hữu cần phải noi gương Chúa Giê-su, Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Trước hết chúng ta thử tưởng tượng ra khung cảnh Chúa Giê-su và các Tông đồ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Mỗi người nghĩ về chuyến đi định mệnh này theo nguyện vọng của mình. Đối với Chúa, Người lên thánh đô lần này để hoàn tất sứ mệnh “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Trong khi đó, các Tông đồ lại coi cuộc lên đường này như cơ hội để Chúa Giê-su được dân Ít-ra-en tiếp đón và “được vinh quang”. Đó cũng là giấc mơ họ từng ấp ủ khi theo làm môn đệ Chúa, mặc cho Chúa đã ba lần cảnh báo họ phải có cái nhìn đúng đắn về sứ mệnh của Người: Người sẽ bị các nhà lãnh đạo tôn giáo Ít-ra-en bắt giam, bị dân ngoại kết án tử hình, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Ý nghĩa cuộc đời của Người được gói ghém trong hai tiếng phục vụ. Người phục vụ Chúa Cha khi vui lòng “trút bỏ mọi vinh quang và địa vị ngang hàng Thiên Chúa” để đến thế gian, mang thân nô lệ mà thi hành sứ mệnh cứu độ nhân loại. Người cũng phục vụ chúng ta bằng cách rao giảng Tin Mừng và xoa dịu mọi khổ đau của con người khi thực hiện những phép lạ trừ quỷ cũng như chữa lành bệnh tật.
Sự kiện hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đến xin Chúa chỗ ngồi danh dự sau khi Người được vinh quang là cơ hội để dạy mọi người ý nghĩa của việc làm lớn hay lãnh đạo người khác. Lãnh đạo hiểu theo quan niệm của người đời khác hẳn với lý tưởng của Chúa Giê-su. Một đàng thì “dùng uy, lấy quyền” để tỏ ra mình hơn người khác. Nhưng đối với Chúa Giê-su, “làm lớn nghĩa là làm người phục vụ và làm đầu thì phải làm đầy tớ anh em”. Quả thực Người đã đảo lộn trật tự hết rồi! Và như thế, liệu có ai còn dám theo Người nữa hay không? Nhưng Chúa Giê-su không nhượng bộ một chút nào. Đó là con đường duy nhất cho các môn đệ mếu muốn theo Người. Người quả quyết với hai ông cũng như với các Tông đồ khác và cả chúng ta hôm nay nữa: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. Chúng ta sẽ cùng uống cùng chịu với Chúa, cùng ôm ấp một lý tưởng phục vụ Thiên Chúa và anh chị em. Phục vụ không dễ vì nó đi ngược lại lối suy nghĩ của người đời. Cho nên phục vụ được ví như chén đắng hay phép rửa. Chén đắng là những hy sinh và phép rửa là những thử thách chúng ta phải chấp nhận khi phục vụ anh chị em. Nhưng lý tưởng phục vụ của Chúa Giê-su không trông chờ phần thưởng đời này, mà là phần thưởng đằng sau cái chết “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Noi gương Chúa, chúng ta phục vụ vì yêu thương và vì tương lai vĩnh cửu. Chúng ta phục vụ để “Thầy ở đâu, anh em cũng được ở đấy với Thầy”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Quả thực là một bài học khó đối với những ai không muốn “mặc lấy Chúa Ki-tô”. Khi “mười môn đệ kia tức tối với ông Gia-cô-bê và Gio-an, thì Đức Giê-su gọi các ông lại và dạy”. Người luôn mời gọi các ông học bài học phục vụ với Người. Người muốn các ông bỏ đi thái độ “tức tối” kia để mặc lấy tâm tình yêu thương và khiêm tốn phục vụ của Người. Có khi nào chúng ta tức tối vì thấy người khác tỏ ra hách dịch hay làm oai làm phách đối với mình chưa? Có khi nào chúng ta phải đứng chờ ở văn phòng cơ quan và đối diện với thái độ “quyền uy” của nhân viên làm việc tại đó chưa? Ở gia đình, bậc cha mẹ lấy tình thương hay lấy quyền để dạy dỗ con cái? Có biết bao nhiêu cơ hội để chúng ta có thể học bài học phục vụ của Chúa! Điều giúp chúng ta chấp nhận bài học phục vụ là việc phục vụ không làm mất phẩm giá và biến chúng ta thành kẻ hầu hạ bị coi thường; trái lại, phục vụ làm cho chúng ta trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người, giống như Chúa Giê-su được sai đến để phục vụ. Vậy thì Chúa Giê-su đang “gọi” chúng ta lại với Người đấy!
Mc 10:35-45: 35 Giacôbê và Gioan, các con của ông Zêbêđê đến gần Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” 36 Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” 37 Các ông thưa: “Xin cho chúng con, một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy.” 38 Nhưng Đức Giêsu nói với họ: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có thể uống chén Thầy uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” 39 Các ông thưa với Người: “Chúng con có thể.” Rồi Đức Giêsu bảo họ: “Chén Thầy uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy chịu, anh em sẽ chịu. 40 Nhưng việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.” 41 Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với Giacôbê và Gioan. 42 Gọi các ông lại, Đức Giêsu nói với các ông: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. 43 Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; 44 ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. 45 Vì Người Con của Nhân Loại đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc vì ích lợi của muôn người.”
Văn mạch của đoạn 10:35-45 là hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu (10:32-52), trong: TN29-B72
Văn mạch của đoạn 10:35-45 là hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu (10:32-52), trong đó Người loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba (10:32-33); Người trả lời về việc cầu xin của Giacôbê và Gioan (10:35-45); và Người chữa lành người mù Bartimêô (10:46-52). Vì không có những chỉ dẫn về thời gian và không gian, nên có thể hiểu là đoạn 10:35-45 có chung bối cảnh với tiên báo lần thứ ba và liên kết chặt chẽ với phần ấy. Có thể phân chia đoạn nầy thành 2 phần chính: 1- Lời cầu xin của Giacôbê và Gioan và câu trả lời của Chúa Giêsu (10:35-40); 2- Phản ứng tức giận của các tông đồ khác và giáo huấn về phục vụ của Chúa Giêsu (10:41-45). Trong phần một (10:35-40), có thể phân đoạn như sau: - Hai anh em đến và ngỏ lời xin với Chúa Giêsu (10:35-37); - Chúa Giêsu trả lời cho họ (10:38-40); trong khi, ở phần hai (10:41-45): - Sự tức giận về phía các tông đồ khác (10:41); - Chúa Giêsu nhắc lại sự phục vụ (10:42-44); - Mẫu gương phục vụ của Người Con của Nhân Loại (10:45).
Cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan là các tông đồ thân cận nhất của Chúa Giêsu (x. 1:29; 5:37; 9:2; 13:3; 14:33). Tuy nhiên, tương tự như Phêrô bị Chúa Giêsu trách vì không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa (8:33), các ông bị Chúa Giêsu trách vì họ vẫn chưa hiểu Người. Phản ứng của các tông đồ sau lời tiên báo thứ ba không còn là phản đối (8:32) hay không hiểu (9:32), mà là xin được tham dự vào vinh quang và quyền của Người, vì chắc chắn là họ đã nghe và đã có kinh nghiệm về điều nầy (x. 8:38; 9:2-10). Do đó, thay vì tranh cãi với nhau về chỗ lớn nhất (9:33-34), Giacôbê và Gioan tìm một bảo đảm và ưng thuận từ Chúa Giêsu để họ có được những chỗ cao trọng nhất trong nước sẽ đến của Người (c. 36).
Hình ảnh ẩn dụ “ngồi bên hữu và bên tả” ám chỉ sự chia sẻ vinh dự và quyền năng của đấng ngồi chính giữa trên ngai trong vinh quang (c. 37; x. 16:19). Chúa Giêsu không bác bỏ lời cầu xin của họ, nhưng làm cho họ hiểu dần dần tất cả những gì gắn liền với điều họ ước muốn và cầu xin (c. 38). Trước tiên, việc tham dự vào vinh quang của Người giả thiết họ cũng phải tham dự trước vào sự thương khó của Người. “Chén” cũng như “phép rửa” biểu trưng cho cuộc thương khó (14:36; Lc 12:50; Gio 18:11). Tiếp theo, chỗ ngồi trong nước của Người là do Chúa Cha quyết định và ban cho (10:38-39), chứ không thuộc quyền của Người. Vì nếu việc uống chén là do ý muốn của Chúa Cha, cũng chỉ mình Người mới có quyền quyết định ban chỗ cho những ai làm theo ý Người. Chỗ ngồi bên phải trước tiên là của Chúa Giêsu, vì Người đã thực hiện trọn vẹn ý muốn của Cha Người (x. 12:36; 14:62; 16:19). Sau cùng, lời quả quyết “chúng con có thể” của họ (c. 39) sẽ không được thực hiện như lời họ nói. Họ sẽ chạy trốn và bỏ Người (x. 14:27.50). Về các tông đồ khác, ước muốn làm lớn vẫn còn trong lòng họ, được biểu hiện qua sự ghen tức (x. 9:33-34; 10:41). Họ vẫn chưa hiểu tinh thần phục vụ của Người như là con đường họ phải đi qua để nên cao trọng.
Trong đoạn tiếp theo 10:41-45, Chúa Giêsu đối chiếu cách hành xử của người làm lớn và quyền thế giữa đời (c. 42) với cách hành động mà Người muốn có nơi các tông đồ của Người (cc. 43-44) và chính là cách hành động của Người (c. 45). Trong động từ “cai trị”, “hành quyền” (katakyrieuô) có hình ảnh của người chủ (kyrios) (c. 42); trong khi, ở câu Chúa Giêsu nhắn nhủ các tông đồ, có hình ảnh của “người phục vụ” (diakonos) (c. 43) và “người đầy tớ”, “nô lệ” (doulos) (c. 44). Quan niệm của Chúa Giêsu về người đứng đầu hoàn toàn tương phản với quan niệm thông thường của thế gian. Thế gian xem người đứng đầu là “chủ”; trong khi, Chúa Giêsu quan niệm họ phải là “người phục vụ” và “đầy tớ” (x. 9:35; 10:43-44). Hình ảnh “chủ - tớ” nầy tương phản nhau về cả địa vị lẫn vai trò. Người chủ thì cai trị và sai bảo người khác; trong khi, người phục vụ và đầy tớ - nô lệ thì hầu hạ và thậm chí phải hy sinh mạng sống cho chủ. Chúa Giêsu tự nhận địa vị của người phục vụ và vai trò của người đầy tớ “hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người” (x. Is 53:10-12). Người muốn các tông đồ của Người đi theo con đường của Người. Hơn nữa, ở đây Người nhấn mạnh sự tận cùng của con đường ấy là không chỉ trở nên người phục vụ, mà còn tự nguyện trở thành người đầy tớ - nô lệ của mọi người. Cụm từ “giữa các con” được dùng đến ba lần trong hai câu (cc. 43-44 [3x]) như muốn để giải quyết cách dứt khoát vấn đề lớn - nhỏ giữa các tông đồ; đồng thời cũng nhấn mạnh cho họ là ai cũng phải trở nên đầy tớ của nhau.
Vậy, một lần nữa tên gọi “ Người Con của Nhân Loại” được dùng gắn liền với cuộc thương khó, nhưng cũng với vinh quang (x. 13:26; 14:62). Rồi, “chén” mà Chúa Giêsu phải uống (10:38) trước tiên là để cứu chuộc muôn người, chứ không phải để có một chỗ cao trọng như Giacôbê và Gioan nghĩ. Sau cùng, Chúa Giêsu trở nên mẫu gương sống động cho ai muốn làm người đứng đầu.
Đau khổ không thể tránh khỏi ở đời này, nó đã gắn liền với thân phận con người cho đến lúc: TN29-B73
Đau khổ không thể tránh khỏi ở đời này, nó đã gắn liền với thân phận con người cho đến lúc nhắm mắt buông tay. Đau khổ thường cũng không thể giải thích tại sao và được coi như một mầu nhiệm. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay không lý giải về ý nghĩa sự đau khổ, nhưng nêu lên những tấm gương chịu đau khổ để cho ta thấy rằng ý nghĩa của đau khổ không thể tự nó nói lên ý nghĩa, nhưng phải nhờ cách thức con người chịu đau khổ như thế nào thì đau khổ mới mang ý nghĩa đích thực. Cách thức ấy gặp thấy trước hết ở gương người Tôi trung của Thiên Chúa, nhưng nhất là nơi con người của Chúa Ki-tô.
1. Người Tôi trung của Thiên Chúa chịu đau khổ (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 53:10-11)
Bài đọc Cựu Ước trích bài ca thứ tư về người Tôi trung của Thiên Chúa. Đoạn Kinh Thánh không đặc biệt nói đến những thứ đau khổ nào, mà chỉ đề cao thái độ của người Tôi trung khi chịu đau khổ. Thái độ ấy là nhìn nhận đau khổ đến với mình là do ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn người Tôi trung chịu bất cứ thứ đau khổ nào hoặc với mức độ nào thì ngài cũng sẵn lòng làm theo ý muốn của Thiên Chúa, thí dụ dù có phải “bị nghiền nát vì đau khổ” hay “hiến thân làm lễ vật đền tội”, người Tôi trung vẫn một lòng một dạ tuân phục. Thái độ tuân phục khi chịu đau khổ không phải là bạc nhược, thiếu tự quyết hoặc buông xuôi. Trái lại, đó là biểu lộ lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và ý muốn của Người. Đối với người Tôi trung, chịu đau khổ là cách cộng tác tích cực với Thiên Chúa để “ý muốn của Người sẽ thành tựu”. Như vậy, chịu đau khổ không còn mang ý nghĩa tầm thường hoặc sai lầm như đó là hình phạt của Thiên Chúa hoặc do tội lỗi của cá nhân ta nữa, nhưng là cách quảng đại để mình trở thành dụng cụ Thiên Chúa sử dụng mà thực hiện những việc cao cả.
Bình thường ta chỉ nghĩ Thiên Chúa muốn ta làm việc này việc kia để thi hành ý muốn của Người, chứ có mấy khi tin rằng Thiên Chúa lại dùng chính những điều ta không ngờ là chịu đau khổ để làm những việc lớn lao. Ngay cả đau khổ cũng có những giá trị riêng của nó. Gương Mẹ Ma-ri-a cho thấy Mẹ đâu có giảng dạy, làm phép lạ... như Chúa Giê-su, vậy mà Mẹ lại là Đấng cộng tác lớn lao nhất vào công cuộc cứu độ của Con Mẹ. Chỉ là chịu đau khổ theo ý muốn của Thiên Chúa thôi. Mẹ đồng hành với Chúa Giê-su trong hiệp thông và cầu nguyện trong thời gian Người rao giảng Tin Mừng. Mẹ cùng đi với Người con đường thập giá lên Can-vê. Mẹ chia sẻ nỗi đau đớn thể xác và tinh thần của Chúa. Mẹ làm tất cả những điều ấy không phải bằng quyền năng cao cả, nhưng bằng con tim bình thường của một bà mẹ với những nỗi đau như “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2:35). Kết quả của việc Mẹ chịu đau khổ như thế nào ta đã rõ rồi. Lời thưa “xin vâng” của Mẹ chính là thái độ Mẹ chịu đau khổ như thế nào.
Trở lại với người Tôi trung của Thiên Chúa, việc ngài vui lòng chịu đau khổ theo ý Thiên Chúa sẽ đem lại hoa trái vô cùng phong phú. Trước hết “nếu người hiến thân làm lễ đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn”, và “vì đã nếm mùi đau khổ, tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính”. Áp dụng những lời này vào Chúa Ki-tô, người Tôi trung của Thiên Chúa, ta thấy rõ ràng những kết quả do việc Người vui lòng chịu đau khổ theo ý Chúa Cha. Khi hiến thân trên thập giá để đền tội cho nhân loại, Chúa Giê-su sẽ được thấy những kẻ nối dõi Người là “một đàn em đông đúc” của một nhân loại mới (Rm 8:29). Khi “nếm mui đau khổ và gánh lấy tội lỗi” nhân loại, Người đã làm cho họ được trở nên công chính, tức là được làm con cái Thiên Chúa.
2. Chúa Giê-su tự nguyện chịu đau khổ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (bài Tin Mừng – Mác-cô 10:35-45)
Bài Tin Mừng kể lại lần thứ ba Chúa Giê-su báo trước cuộc Thương khó của Người. Sau khi Chúa tiên báo, xảy ra một chuyện thật là tréo cẳng ngỗng! Hai người con ông Dê-bê-đê đến xin xỏ Chúa cho họ được “ngồi bên phải và bên trái Người” khi Người được vinh quang. Chúa Giê-su tội nghiệp cho hai người môn đệ, Người trách nhẹ: “Các anh chẳng biết các anh xin gì!” Vị Thầy đầy lòng nhân từ với anh mắt trìu mến đã nhân cơ hội này dạy cho họ bài học về cách chịu đau khổ. Người hướng họ về cuộc Thương khó Người sắp phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Người gọi cuộc Thương khó khổ đau đó là “chén, chén đắng” và “phép rửa”. Mức đắng của chén đắng và độ đau đớn do phép rửa gây nên như thế nào là tùy thuộc vào sự nặng nề và lớn lao của tội lỗi nhân loại. Như vậy, ta không thể nào tưởng tượng nổi mức độ đau khổ của cuộc Thương khó Chúa Giê-su sắp phải chịu vì tội lỗi loài người to lớn như thế nào. Rồi Người hỏi họ có muốn chia sẻ chén đắng và phép rửa với Người không. Họ trả lời “Thưa được!” Đúng là điếc không sợ súng! Có lẽ lòng ham muốn được “ngồi bên phải và bên trái Thầy” đã khiến họ mờ mắt nên không nhận ra được tầm quan trọng của câu trả lời. Đây là cơ hội để Người dạy anh em Gia-cô-bê và các Tông đồ khác về việc chịu đau khổ. Người bảo họ: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. Thế có nghĩa là Người mời gọi ta hãy chia sẻ đau khổ với Người. Đồng thời ta cũng phải bắt chước Người trong cách chịu đau khổ. Chịu đau khổ trong thái độ hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, chứ không phải để được “ngồi bên phải hay bên trái”. Nếu khi chịu đau khổ, ta chỉ mong được đền bù hay phần thưởng thì khác nào ta muốn đổi chác với Thiên Chúa, Đấng “đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Chúa Giê-su không mặc cả giá cứu độ với Chúa Cha, nhưng Người chỉ biết hoàn toàn vâng phục như người Tôi trung, để “ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu”.
Suy niệm việc chia sẻ đau khổ của Chúa, thánh Phao-lô giúp ta nhận ra giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Trong thư gửi tín hữu Ga-lát, ngài coi việc ta được chia sẻ với đau khổ của Chúa là một điều hãnh diện. Ngài nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian… Điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6:14-15). Không hãnh diện sao được khi đời ta và thân phận ta được thay đổi nhờ sức mạnh vô song của thập giá. Quả thực, nhờ thập giá và đau khổ của Chúa Ki-tô, cả thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá, nghĩa là tất cả tội lỗi của nhân loại đã bị bỏ lại trên thập giá để con người được giải phóng và trở nên con cái Thiên Chúa. Vậy mà giờ đây, ta lại được liên kết đau khổ của ta với đau khổ của Chúa Ki-tô để biểu dương quyền lực của thập giá. Cũng thế, việc ta chịu đau khổ đã có một ý nghĩa mới và cao đẹp. Chịu đau khổ không phải là “bị Chúa phạt” hoặc mang bất cứ ý nghĩa tiêu cực nào, nhưng chịu đau khổ với Chúa Ki-tô là điều hãnh diện. Còn một điều thánh Phao-lô căn dặn ta về việc chịu đau khổ, đó là: “Điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới”. Đau khổ tuy làm ta khó chịu, đau đớn, nhưng lại có sức mạnh giúp ta thay đổi con người, trở nên con người mới.
3. Chúa Ki-tô “đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (bài đọc Tân Ước – Do-thái 4:14-16)
Chúa Ki-tô đã lấy đau khổ thập giá mà biến đổi thân phận nô lệ tội lỗi của ta, Người còn để lại cho ta một mẫu gương rất đặc biệt về việc chịu đau khổ. Đoạn thư gửi tín hữu Do-thái trình bày hình ảnh Chúa Ki-tô là vị Thượng Tế chịu đau khổ và “biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta”. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người thật như ta. Người chia sẻ mọi nỗi yếu hèn của ta. Người cũng có những nỗi đau thể xác vì lao động mệt nhọc, vì đói khát thiếu thốn. Sách Tin Mừng không nói Chúa bị đau ốm, nhưng không có nghĩa là Người chẳng bao giờ bị đau ốm. Làm sao tránh được những khi trái gió trở trời. Thân xác Người cũng như chúng ta, chứ đâu phải mình đồng da sắt. Người cũng có những phiền muộn, những nỗi đau tâm lý và tinh thần. Người không gây ra cho người khác, nhưng người khác gây ra cho Người.
Tuy nhiên khi Chúa Ki-tô phải chịu đau khổ thử thách hoàn toàn giống như ta, Người lại có một điểm khác với ta, đó là Người không phạm tội. Là con người, theo thói thường khi ta gặp phải đau khổ, ta dễ dàng than trách, có khi còn đi xa hơn tới những việc làm tiêu cực như kêu trách Chúa bất công, trả thù kẻ làm ta phải đau khổ, chán nản buông xuôi… Nhưng khi Chúa Giê-su chịu đau khổ, Người không sa vào những lỗi lầm như chúng ta đã phạm, trái lại, Người càng sống tinh thần phó thác trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa hơn, cầu nguyện nhiều hơn, sẵn lòng tha thứ quảng đại hơn, kiên nhẫn hơn. Tóm lại, đau khổ là phương tiện giúp Người biểu lộ đức tin mạnh mẽ hơn. Vậy nếu ta liên kết đau khổ của ta với đau khổ của Chúa Ki-tô và bắt chước thái độ chịu đau khổ của Người, thì mỗi khi gặp đau khổ, ta sẽ “mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp” nhiều hơn. Đồng thời đó cũng là cách “ta giữ vững lời tuyên xưng đức tin” vào Chúa Ki-tô vậy.
4. Sống Lời Chúa
Đề tài chịu đau khổ không xa lạ với ta, trái lại rất thực tế. Tuy nhiên là Ki-tô hữu, ta phải có cái nhìn về thái độ chịu đau khổ khác với thái độ người đời. Người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a và Chúa Giê-su là những mẫu gương sống động cho ta thấy phải chịu đau khổ cách nào để có thể nói lên lòng tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và những ơn lành Người ban cho ta nhờ lòng tin tưởng ấy. Để làm như vậy, Chúa Giê-su mời gọi ta trước hết hãy đáp lời Người mời gọi mà cùng “uống chén đắng và chịu phép rửa” với Người trong niềm tín thác nơi Thiên Chúa.
Suy nghĩ: Mỗi khi phải chịu đau khổ, tôi thường rơi vào những tình trạng “phạm tội” nào? Kêu trách Chúa? Hận thù anh chị em? Không muốn cầu nguyện nữa? Tìm những thú vui khỏa lấp? Gương Chúa Giê-su dạy tôi điều gì về việc chịu đau khổ hoặc vác thập giá?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tạo cho chúng con một tấm lòng trung tín và quảng đại, nhất là phải chịu đau khổ, để chúng con nhiệt thành phụng sự Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Theo ý Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 29 mùa Thường niên).
Với bài đọc của hai Chúa Nhật trước, chúng ta đã có một giới thiệu đầy đủ về vai trò của: TN29-B74
Với bài đọc của hai Chúa Nhật trước, chúng ta đã có một giới thiệu đầy đủ về vai trò của Chúa Ki-tô trong kế hoạch cứu rỗi. Chúa Ki-tô là “vị lãnh đạo thập toàn” (Dt 2:9-11, Chúa Nhật 27) dẫn đưa toàn thể nhân loại về cội nguồn của mình là Thiên Chúa. Đồng thời, Chúa Ki-tô cũng là Lời Thiên Chúa (Dt 4:12-13, Chúa Nhật 28), từ Thiên Chúa mà đến với nhân loại để nói cho nhân loại biết về tình yêu và kế hoạch của Thiên Chúa. Hiểu được vai trò “con thoi” của Chúa Ki-tô giữa Thiên Chúa và nhân loại, chúng ta sẽ thấy dễ dàng hơn để suy niệm về vai trò Thượng Tế của Người. Từ Chúa Nhật 29 hôm nay cho đến Chúa Nhật 33, các bài đọc sẽ quảng diễn đề tài này, đưa chúng ta qua những chương chủ yếu của Thư Do-thái (chương 5-10). Sáu chương này trình bày cao điểm của Ki-tô học và là một trình bày Ki-tô học có hệ thống nhất trong toàn bộ Tân Ước. Riêng bài đọc hôm nay cho chúng ta hai khẳng định và kết luận thực hành.
a) Chúa Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm, đã băng qua các tầng trời. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin.
Phi thuyền con thoi là một tiến triển khoa học vĩ đại của Hoa-kỳ. Hình ảnh bay vút lên trời cao, rồi biến mất trong không gian, đã đem lại hy vọng và tin tưởng cho các khoa học gia và nhiều người khác. Nhưng bên cạnh những thành công, nó cũng để lại nhiều kỷ niệm thương đau. Còn đoạn thư Do-thái hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sống động khác: “Có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời.” Lời giới thiệu thật là độc đáo, nhưng cũng vô cùng ý nghĩa. Người đã băng qua các tầng trời. Để đến với chúng ta. Và để về lại với Thiên Chúa. Các tầng trời là một hình ảnh nói lên khoảng cách giữa chúng ta với Thiên Chúa. Khoảng cách đó là vô hạn vô biên và loài người chúng ta không thể nào vượt qua được. Vì thế Thiên Chúa được gọi là Đấng Tối cao, hoặc siêu việt. Chính Chúa Giê-su đã nói về khoảng cách vô hạn này: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13). Khi xuống thế mặc lấy thân xác con người, Ngôi Lời đã “băng qua các tầng trời” mà đến dựng lều cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1:14). Rồi sau khi hoàn tất cuộc Khổ nạn và Phục sinh, Đức Ki-tô đã “lên trời ngay trước mắt các ông, và có đám mây rước Người lên, khuất mắt các ông” (Cv 1:9). Với vai trò Thượng Tế siêu phàm, Đức Ki-tô “đã băng qua các tầng trời” để tiến vào cung thánh trên trời, đến ngự bên hữu Thiên Chúa. Qua cái chết hy sinh trên thập giá, Đức Ki-tô đã cất bỏ đi tấm màn che cung thánh để Người đến với Thiên Chúa. Từ nay không còn ngăn cách vô biên giữa Thiên Chúa và nhân loại. Tội lỗi ngăn cách giờ đây đã bị xóa bỏ và nhân loại được hòa giải với Thiên Chúa. Sau hết, Đức Ki-tô đã băng qua sự chết để tiến tới cuộc sống vinh quang bất diệt. Tất cả đều nói lên những cách thức khác nhau của cùng một hành vi “băng qua các tầng trời” do Đức Ki-tô thực hiện.
Tuy là một giới thiệu ngắn gọn, nhưng thật phong phú ý nghĩa và có sức mạnh hỗ trợ niềm tin của chúng ta. Lời tuyên xưng đức tin của chúng ta đã được đặt vào lúc trọng đại nhất trong Thánh lễ, ngay sau khi Truyền phép. “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến.” Nếu chúng ta ý thức được vai trò Thượng Tế của Chúa Giê-su, chắc chắn lời tuyên xưng của chúng ta sẽ mang những ý nghĩa mới mẻ hơn.
b) Vị Thượng Tế của chúng ta biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta. Vậy chúng ta hãy mạnh dạn tiến gần ngai Thiên Chúa.
Đối với con người, khi có ai trổi vượt hơn những người khác thì thường một khoảng cách được tạo ra giữa họ với mọi người. Nhưng Chúa Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm của chúng ta không phải như vậy. Siêu phàm không có nghĩa là tách biệt. Trái lại, Chúa Giê-su đã muốn cảm thương với những nỗi yếu hèn của chúng ta. Chính vì muốn như vậy, Người đã chọn con đường Nhập Thể, trở nên giống như chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Người đã sống trọn vẹn thân phận con người của chúng ta, đến độ bản tính Thiên Chúa hoàn toàn dấu ẩn đi. Dân chúng Na-da-rét xầm xì với nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc 4:22). Hoặc “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mc 5:3). Rồi tới các môn đệ là những người đi với Người mấy năm trời mà cũng không nhận ra căn tính và sứ mệnh đích thực của Người. Nhiều người đã phải khó chịu về lối cảm thương của Chúa Giê-su và sẵn sàng lên án Người. “Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: ‘Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nao: một người tội lỗi’.” (Lc 7:39).
Gần với những người tội lỗi và những người bị gạt ra lề xã hội, Chúa Giê-su muốn nói lên điều gì? Người muốn tỏ ra cho nhân loại biết Thiên Chúa cảm thương con người như thế nào. Không phải chỉ là những lời ca tụng trong Thánh Vịnh: Tôi sẽ ca ngợi lòng thương xót của Chúa đến muôn đời. Nhưng là lòng thương xót đã được biểu lộ qua cử chỉ, lời nói, cách đối xử nhân hậu của Thiên Chúa làm người. Lòng thương xót không còn là một ý niệm trừu tượng, nhưng là những điều mắt thấy tai nghe thể hiện qua cung cách của Chúa Giê-su.
Trước khi đi tới kết luận thực hành, tác giả thư Do-thái muốn chúng ta có một xác tín về bản chất của Chúa Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm: Người đã chịu thử thách và cảm nhận được những nỗi yếu hèn của con người. Sở dĩ chúng ta e ngại, không dám tiến gần ngai Thiên Chúa là vì thấy thân phận của mình yếu hèn quá. Nhưng bây giờ, chúng ta đã thấy một người cũng thuộc về gia đình nhân loại chúng ta, đã “băng qua các tầng trời” mà đến được với Thiên Chúa, đã kéo Thiên Chúa cúi xuống với nhân loại, thì chúng ta không còn lý do để ngần ngại tránh né Thiên Chúa nữa. Tiến lại gần ngai Thiên Chúa không chỉ có nghĩa tương lai đời sau, nhưng phải là một lối sống của Ki-tô hữu ngay tại đời này. Chúa Giê-su giúp chúng ta tạo một mối quan hệ với Thiên Chúa ngay đang khi chúng ta còn sống ở trần gian. “Tiến lại gần” diễn tả sự mật thiết mỗi ngày một gia tăng, để rồi sẽ tới một lúc không phải chỉ tiến lại gần, nhưng là ở lại vĩnh viễn trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Nếu Chúa Giê-su đã “băng qua các tầng trời” để đến với tôi, thì tôi cũng phải vượt qua những gì để đến với Người? Làm sao để vượt qua được những trở ngại ấy?
Tôi đã đọc lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su sau phần Truyền Phép với thái độ nào? Lời thư Do-thái hôm nay sẽ giúp tôi thế nào để nói lên lời tuyên xưng đức tin?
Tôi đã để cho Chúa Giê-su giúp tôi “tiến lại gần ngai Thiên Chúa” như thế nào? Những gì cản ngăn tôi? Làm sao tiến đến mỗi ngày một gần Chúa hơn?
Cầu nguyện kết thúc
Nhóm cầu nguyện bộc phát với lời tuyên xưng đức tin sau Truyền phép. Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lệnh Chúa Giêsu truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép: TN29-B75
Lệnh Chúa Giêsu truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 19 – 20 ).
Kinh Tân Phúc Âm Hóa có đoạn:
“Xin đổ Thần Trí của Cha, nhờ đó con được tăng thêm sức mạnh để ra đi và làm chứng nhân cho Tin Mừng mọi ngày trong đời sống của con, bằng lời nói và việc làm.
Trong những lúc hoang mang, xin nhắc con:
Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm ? Nếu không phải là lúc này, thì khi nào Phúc Âm sẽ được loan truyền ? Nếu không phải là chân lý Phúc Âm, thì điều gì con sẽ công bố ?”
“Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm”. Lời kinh mời gọi mỗi chúng ta khẳng định lại sứ vụ truyền giáo mà mỗi Kitô Hữu Công Giáo đã được nhận lãnh ngay trong Bí Tích Thánh Tẩy và phải thi hành sứ vụ ấy như một bổn phận.
Như thế là: không phải ai khác, nhưng chính tôi là người truyền giáo. Không phải lúc nào khác nhưng ngay bây giờ là lúc phải truyền giáo. Không điều kiện nào khác, nhưng chính trong điều kiện này là điều kiện mà tôi phải truyền giáo.
Thiết tưởng cần xóa ngay đi não trạng xưa cũ của một thời mà Giáo Dân và cả các Giáo Sĩ cũng xem việc truyền giáo là chuyện dành riêng của Giáo sĩ mà thôi, và Giáo Dân tự xem hoặc bị xem quá thấp kém, quá tầm thường, có khi là quá tội lỗi nữa, biết gì mà truyền giáo !?! Đúng là một não trạng tệ hại vô cùng !
Và còn tệ hơn nữa khi có Giáo Dân nào đó nhiệt thành quá một chút là có thể bị Giáo Sĩ kết án ngay là “phá hoại” Giáo Hội. Người phá hoại Giáo Hội là người sống không đúng ơn gọi của mình. Người sống đúng ơn gọi của mình không thể kể họ vào loại phá hoại được. Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của tất cả mọi người Kitô hữu Công Giáo, không phân biệt Giáo Sĩ hay Giáo Dân.
Trong điều kiện hết sức khó khăn của những Giáo Dân sống trong thời đại con người ta chỉ lo cơm áo gạo tiền, tôi đã thấy những gương chứng nhân Đức Tin thật đáng kể. Họ là những người Công Giáo tốt từ lúc ăn gạo chợ uống nước sông đến ngày có cơ ngơi vững chãi.
Có người truyền giáo bằng xe hơi vì họ đã có được chiếc xe 7 chỗ hẳn hoi, và họ gọi đó là chiếc xe “7 Hồng Ân”. Mừng cho họ là họ có ý thức tạ ơn và đã dùng xe hơi cho việc truyền giáo. Lại có anh hội viên Legio có xe đạp, truyền giáo bằng xe đạp. Mừng cho anh, tạ ơn Chúa với anh vì anh không chần chừ, không chờ đợi ước mong có xe hơi mới truyền giáo được. Có người có nhà cao cửa rộng họ sử dụng cái giàu có của họ cho việc truyền giáo, còn chị Lòng Chúa Thương Xót, chỉ có mỗi căn nhà lá, trống trước trống sau, làm chỗ học Giáo Lý cho đôi ba người dân tộc. Cảnh thiên đường đẹp quá !
Nhìn lại, những lần Đại Hội Loan Báo Tin Mừng với việc học hỏi các Văn Kiện lớn lao về Truyền Giáo, thành phần được mời tham dự toàn là những người có chức, có quyền, có bằng cấp, có ăn có học, được coi là bậc vị vọng, hoặc ít ra cũng là những người đang có chức vụ trong Giáo Hội. Có ai lại đi mời bà bán cháo lòng, bán bánh canh, bán đậu hủ, bán vé số, người xa quê, kẻ làm thuê, người khuyết tật, kẻ hành khất, hạng nghèo hèn trong xã hội… tham dự đâu ? Có phải vì họ là cấp thấp bé trong Giáo Hội thì biết gì mà loan báo Tin Mừng chăng ? Thiết tưởng, bao lâu người Giáo Dân còn bị đánh giá là thành phần thấp bé hèn mọn dưới con mắt của Giáo Hội Địa Phương, thì bấy lâu, Giáo Hội tiếp tục phạm phải một sai lầm đáng kể.
Này nhé, tưởng là họ đi Lễ họ không chú ý nghe giảng sao ? Không phải thế đâu! Họ đã lắng nghe, nghe rất rõ, nghe rất kỹ đấy. Lại tội nghiệp cho người cố gắng lắng nghe mà nghe không được, bởi Nhà Thờ thì to đùng, xây dựng đủ thứ hạng mục công trình, sắm sửa đủ thứ xa xỉ mà âm thanh lại chẳng nghe được gì, đúng là chỉ để… xem lễ chứ có nghe được gì đâu ? Đáng tiếc mà cũng đáng trách !
Đừng lầm tưởng, hãy biết những Giáo Dân thấp bé kia, không chỉ nghe mà còn muốn nghe thật kỹ, thật rõ, và còn hơn thế nữa, nghe và đối chiếu điều người đã giảng với điều người đã sống. Cuối cùng, may quá, cách thể hiện đạo đức nhất của họ là làm theo những điều đã nghe, chứ không làm theo những điều đã thấy.
Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và hoạt động cách mạnh mẽ nhất, hữu hiệu nhất, ấn tượng nhất trong chính những con người thấp bé ấy. Nhờ ơn Thánh Thần, họ được sức mạnh can trường trong đau thương, họ được niềm vui sống công chính ngay trong “cái túi” của số phận, họ được vinh dự làm chứng cho một Đạo Công Giáo luôn có niềm tin mãnh liệt vào hạnh phúc đời sau, họ được diễm phúc có một hoàn cảnh thấp bé mà sứ vụ truyền giáo thì ngược lại, không nhỏ bé chút nào. Họ sống Tin Mừng cách thiết thực nhất ngay trong điều kiện kém cỏi và hoàn cảnh khó khăn của chính họ. Thật đáng quí công cuộc truyền giáo không tên tuổi, không ai quan tâm của những Giáo Dân mạt hạng, kém trình độ, nghèo khổ, thấp hèn !
Cộng tác vào công cuộc truyền giáo của Chúa Giêsu ngày ấy, nào có phải là những thầy Kinh Sư và thầy Thông Luật đâu, chỉ toàn là những người đánh cá nhiều phần là mù chữ, là mấy tên thu thuế được xếp vào phường tội lỗi, là chị kia năm đời chồng đi kín nước, là cô kia làm nghề buôn son bán phấn, là người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang cần phải lãnh án ném đá cho đến chết, là tên trộm bị trói trên giá ngay bên hữu Chúa, là một người Samari nhân hậu, là người đàn bà bị băng huyết kinh niên, là chú què được nhảy như nai, là cậu mù được sáng mắt, là anh phung cùi được sạch…
Thời nay không còn là thời điểm truyền giáo của những Giáo Dân mạt hạng ấy sao ? Hẳn không phải là thời buổi truyền giáo của những thầy Thông Luật mà lại chẳng giữ luật đấy chứ ?
Hãy đến “xem nơi Người ở, và ở lại với Người”, những con người thấp bé nhất trong xã hội, trong Giáo Hội, họ đang sống rất anh hùng giữa những đau thương của cuộc đời xoàng thường nhất trong thiên hạ, nhưng lại là những chứng nhân sống động nhất của Tin Mừng.
Để kết, xin mượn truyện rất ngắn của tác giả Ba Chuông có tựa đề “Truyền Giáo” tôi vừa mới đọc được trên baicamoi.com:
“Xóm trên, Cậu Út ở với cha mẹ già, đi làm thuê về, xe tông, gãy chân, gãy sườn. Có mấy người hàng xóm đến thăm. Chị Tám bán bánh canh xóm dưới cũng lên thăm. Thấy chạnh lòng, chị rút tờ hai trăm ngàn dúi vào tay vợ cậu Út. Có người nhìn thấy. Người ấy không ai khác là bà Tư, chủ nợ của chị Tám. Bà Tư không phải người Công Giáo.
Chị Tám bán bánh canh, mượn đầu heo nấu cháo, vay bà Tư 3 triệu, hằng tháng trả lãi 7 phân.Cuối tháng, chị Tám đến bà Tư trả tiền lãi. Bà Tư lấy một nửa, cho lại chị một nửa. Còn khen: “Tui không ngờ chị lại có lòng thương người như vậy. Ít thấy được người Công Giáo như chị. Biết sẻ chia lúc hoạn nạn mới là người Công Giáo tốt”.
Lạy Chúa, xin cho mọi việc chúng con làm đều vì danh Cha cả sáng. Chúng con tạ ơn Chúa vì đã và đang có những Giáo Dân thấp bé nhất nhiệt thành sống đức tin giữa hoàn cảnh bi thương nhất trong cuộc đời. Xin cho mỗi ngày một nhiều hơn những Giáo Dân biết tạ ơn Chúa vì ơn gọi truyền giáo và kiên trung sống đời sống Công Giáo công chính theo Tin Mừng, cho danh Chúa được cả sáng. Amen.
Ông Thạc-xỉn, thủ tướng nổi tiếng của Thái Lan, khi vừa ra nước ngoài để làm công tác ngoại giao TN29-B76
Ông Thạc-xỉn, thủ tướng nổi tiếng của Thái Lan, khi vừa ra nước ngoài để làm công tác ngoại giao; thì ở nhà, một số tướng tá trong quân đội đã làm cuộc đảo chính. Thế là mất chức. Phải lang thang ở nước ngoài. Cũng trong thời gian gần đây, xảy ra nhiều cuộc đảo chính ở Trung Đông và Tây Phi. Cũng chỉ là những cuộc tranh giành chức vị, ghế ngồi. Câu chuyện trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng ghi lại một cuộc tranh giành địa vị hơn thua giữa các môn đệ.
Hai anh em Giacôbê và Gioan, cậy dựa vào mối liên hệ huyết tộc với Chúa, định làm một vụ ăn mảnh, liều mạng để xin ghế ngồi. Hai chức vị to nhất trong Nước của Chúa, khi Ngài bước lên bục vinh quang. Nghĩ cũng buồn cười. Ghế ngồi là để phục vụ. Ghế càng cao, tài đức phải cao. Không biết tài năng thật của mình thế nào, mà lại đến để xin. Ngồi trên ghế, không phải lên đấy chỉ để ngồi. Nhưng là, để ngồi ở chỗ cao ấy, có thể nhìn được rộng hơn những như cầu của người khác, để mà phục vụ cho hữu hiệu. Chứ đâu phải lên trên ấy ngồi để mà vắt chân chữ ngũ mà đu đưa. Không có tài đức, mà ngồi ở chỗ cao, sẽ là một tai họa to lớn cho đồng loại. Rất bình thản, Chúa hỏi: liệu các con có thể uống được chén đắng mà Thầy sắp uống không? Dạ được! Liều mạng thật! Có biết chén đắng là gì không mà “được”. Cái lòng ham muốn phồng lên che khuất tất cả lý trí. Cứ cho lên ghế đi, rồi gì cũng được. Chẳng còn biết liêm sỉ là gì! Chúa bảo: Việc ngồi bên hữu hay bên tả, là của Cha Thầy. Chúa từ chối. Việc ngồi ở chỗ nào trong Giáo Hội là sự sắp đặt của Thiên Chúa, chứ không phải là việc của con người.
Nhưng mà, có một chân lý rất quan trọng mà những người “ngồi ghế” trong Giáo Hội của Ngài phải quan tâm: mọi “ghế ngồi” trong Giáo Hội là để PHỤC VỤ. Như chính Chúa đã nói: “Ta đến thế gian là để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ”. Và chính khi phục vụ, là chính lúc đang cai trị. Hay nói cách khác: trong Giáo Hội thì cai trị bằng phục vụ. Vì Nước của Chúa, là Nước Tình Yêu. Cho nên, cai trị bằng tình yêu là cai trị bằng sự phục vụ của mình. Phục vụ như Thầy Giêsu đã làm mẫu sẵn: phục vụ bằng tất cả sự yêu thương thơm nồng. Chúa Giêsu đã quỳ xuống, rửa chân cho các môn đệ.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn đã góp phần gì vào việc xây dựng Nước của Chúa?
2- Bạn có nghĩ, phục vụ người khác là sự hèn hạ? Tại sao?
Qua đoạn Tin Mừng nay, chúng ta thấy rõ được cái tham vọng của Giacôbê và Gioan, đó là cái tham TN29-B77
Qua đoạn Tin Mừng nay, chúng ta thấy rõ được cái tham vọng của Giacôbê và Gioan, đó là cái tham vọng xôi thịt, muốn được chia chác chức vụ nọ chức vụ kia, một khi Chúa Giêsu thành công trong việc giải phóng dân Israel khỏi sự kìm kẹp của đế quốc Lamã, dẫn đưa quê hương này tới một thời đại hoàng kim. Cái nhìn của các ông là một cái nhìn trần tục và ước mơ của các ông là ước mơ được làm lớn trong địa hạt chính trị. Nhân cơ hội này Chúa muốn dạy cho các tông đồ và tất cả những ai muốn làm chính trị một bài học. Người bảo: Trong các nước, những người làm lớn thường sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con, không được như thế, ai trong các con muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh em và ai muốn cầm đầu giữa các con, thì hãy trở nên tôi tớ cho mọi người. Vì chính Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và ban mạng sống làm gái cứu chuộc cho nhiều người.
Quan niệm của Chúa Giêsu thật gần với quan niệm của Nho giáo và hai quan niệm này thì lại khác xa tâm địa của nhiều người, coi làm chính trị là một kế sinh nhai, ăn trên ngồi trốc. Đúng thế, theo quan niệm của Nho giáo thì người cầm quyền chính trị là vua. Vua là người thay Trời để cai trị dân, nên được gọi là thiên tử, hay con của trời. Thế nhưng ông vua phải hành quyền như thế nào? Chữ Vương theo Hán tự, có ba nét ngang và một nét dọc. Ba nét ngang là chữ Tam, hay quẻ Càn, tượng trưng cho tam tài hay ba đạo, đó là thiên đạo, địa đạo và nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý rằng vua là người thụ mệnh trời, đứng ra dung hoà ba đạo: trời đất và người, thành một mối duy nhất. Vì thế Khổng Tử đã nói: Nhất quán tam vi vương là thế.
Còn những người ra giúp vua trị an thiên hạ thì được coi như là con của nhà vua, vì vậy được gọi là quân tử. Người quân tử phải lấy sự học đạo của thánh hiền, tức là lấy sự tu thân làm căn bản. Muốn tu thân cho thành người đức hạnh, trước hết phải giữ tâm mình cho chính. Tâm đã chính rồi thì tự nhiên cái minh đức, hay là lương năng của mình sẽ thành ra mẫn nhuệ, lúc bấy giờ việc làm, cách xử sự sẽ điều hoà, hợp với đạo lý, thuận với thiên lý, tức là theo đúng lẽ trung dung vậy.
Trung dung được thì chính. Chữ chính cũng là chữ vương biến thể. Một bên ngang một bên dọc. Kẻ làm vua quan mà chính thì thiên hạ sẽ được thái bình trị. Cho nên mới gọi là chính trị. Vậy người làm chính trị phải ở cho chính. Nếu họ mà không chính, thì bên dưới sẽ loạn: Thượng bất chính hạ tất loạn. Bởi đó người xưa cũng đã bảo: Dục tri kỳ quốc, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Có nghĩa là muốn trị quốc thì phải tề gia. Muốn tề gia thì phải tu thân. Hay nói một cách vắn gọn hơn, đó là: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có nghĩa là phải tu thân, tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Các bài phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa sự đau khổ trong chương trình cứu chuộc TN29-B78
Các bài phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa sự đau khổ trong chương trình cứu chuộc. Bốn câu thi văn của Isaia về người Tôi tớ đau khổ là chóp đỉnh của Cựu ước, là mạc khải ý nghĩa của sự đau khổ. Trước đây, người ta quan niệm sự đau khổ là hình phạt do tội lỗi. Đành rằng người phạm đến Thiên Chúa thì đáng lãnh nhận một hình phạt, nhưng rồi cả những ngươì trong trắng, các trẻ em vô tội và người công chính, các vị tử đạo cũng phải đau khổ. Người ta đi đến quan niệm rằng người công chính đau khổ có thể chuộc thay tội lỗi của người khác. Người Tôi tớ của Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu đến, dùng sự đau khổ để cứu chuộc nhân loại.
Thánh Thư Hêbrêô gọi Chúa Giêsu là vị Thượng tế, "vì Ngài trải qua thử thách bằng đau khổ, thì Ngài có thể đáp ứng những ai chịu chử thách" (Hêb. 2,17). Ngài cũng là người anh em của chúng ta, vì Ngài cũng chia sẻ sự yếu hèn của chúng ta, khi nhận lãnh sự cám dỗ trên núi, khi lo buồn hấp hối trong vườn Cây Dầu: "Xác thịt thì yếu đuối" (Mt 26,41); "Nhưng nếu chén này không thể qua đi được mà con phải uống thì xin theo ý Cha" (c. 42). Với lời Fiat của Chúa Kitô, chúng ta có thể hiệp thông sự đau khổ của chúng ta làm giá cứu chuộc với Chúa vậy.
Phúc âm kể lại việc can thiệp của hai con của ông Giêbêđê, muốn được ngồi bên hữu và bên tả Thầy trong vinh quang. Việc đó đã gây bất bình cho các Tông đồ khác. Chúa Giêsu dùng dịp này để giải thích điều kiện làm lớn trong Nước Trời. Không có vấn đề nào lớn lao cho bằng vấn đề đau khổ. Vì sao đau khổ? Đây là câu trả lời của Chúa: Đau khổ là để phục vụ, một việc phục vụ công hiệu hơn cả. Cha Maximilien Kolbe đã hy sinh để cứu một người bạn tù khỏi chết phần xác thì Chúa Giêsu đã chết cho mọi người để họ được sống đời đời. Ngài nói: "Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người". Phục vụ là cứu thoát, là dấn thân. Vì thế, trước ngày đi chịu nạn, Chúa đã quì dưới dân các Môn đệ, rửa chân cho họ và phán: "Chúng con hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu chúng con. Thầy ở giữa chúng con như một người tôi tớ".
Như vậy, chúng ta mới hiểu vai trò của quyền bính trong Giáo Hội. Quyền bính được trao cho ai là để người đó giúp đỡ anh em có phương tiện phát triển, là để phục vụ kẻ khác chứ không phải để cho mình tiến thân. Người nắm quyền bính tối thượng trong Giáo hội là người "đầy tớ trên mọi đầy tớ", servus servorum. Ngày này, không ai lại không biết Mẹ Têrêxa, thành Calcutta, một nữ tu Bác ái, áo trắng viền xanh, lặn lội với các chị em cùng dòng, để cứu giúp những người hấp hối nằm la liệt bên vỉa hè thành phố Calcutta, Ấn độ, để "cho họ được hưởng những giây phút hấp hối cuối đời xứng là một con người, trước khi chết". Trước đây, có một vị Sư Phật Giáo nói với Mẹ: "Tôi biết và yêu mến Đức Kitô lắm. Nhưng tôi ghét Hội thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Đức Kitô". Sau một năm làm việc với Mẹ, vị sư phát biểu: "Tôi đã quan sát. Bây giờ tôi thực sự tin các chị chỉ làm việc để phục vụ người nghèo và xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên Chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí".
Phục vụ người nghèo là phương cách làm cho kẻ khác biết Chúa và thương mến Giáo hội.
Dường như hầu hết mọi người đều nghĩ: giầu sang chức quyền, được người khác phục vụ, là điều TN29-B79
Dường như hầu hết mọi người đều nghĩ: giầu sang chức quyền, được người khác phục vụ, là điều đáng ao ước và làm người ta hạnh phúc! Thái độ của các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy như vậy. Gioan và Yacôbê mong ước được ngồi bên phải bên trái khi Đức Giêsu “lên ngôi”, còn các tông đồ khác tức tối khi biết Gioan và Giacôbê “chơi gác” mình. Nếu các tông đồ khác không tham muốn như hai anh em Gioan và Giacôbê, chắc các ngài không đến nỗi phải tức bực như vậy.
Đức Giêsu không cho Gioan và Giacôbê điều các ông mong muốn, vì đó không là điều tốt cho hai ông: “các anh không biết điều các anh xin”! Và Đức Giêsu đã cho hai tông đồ Gioan và Giacôbê điều tốt hơn: “Chén thày uống các anh sẽ được uống”, còn chuyện ngồi bên phải hay bên trái (không cần thiết cho hai anh) thì tùy Thiên Chúa Cha xếp đặt. Ngài sẽ xếp đặt cho ai Ngài thấy tốt nhất, tốt nhất cho người đó và tốt nhất cho cả Hội Thánh nữa.
Có nhiều điều chúng ta xin mà không được, vì điều đó không tốt cho chúng ta.
Phục vụ là hạnh phúc
Đứng trước thái độ của các tông đồ, Đức Giêsu đã gọi họ lại, dạy cho họ biết rằng người đời thì tìm được phục vụ, còn trong vương quốc của Ngài thì không như vậy: “ai muốn làm đầu thì phải làm tôi tớ phục vụ người khác”.
Cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác, đó là một ơn mà ngay cả các tông đồ trong thời gian đầu tiên cũng chưa cảm nghiệm được. Ước gì con người hiểu rằng chính khi mình phục vụ, chính khi mình giúp người khác hạnh phúc, thì chính mình cũng được hạnh phúc.
Yêu thì hạnh phúc hơn là được yêu. Phục vụ thì hạnh phúc hơn là được phục vụ. Ai cảm nghiệm được điều này, thì không ai tước được hạnh phúc nơi họ. Đây là một ơn mà chúng ta cần xin cho nhau.
Phục vụ theo gương Đức Giêsu
Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng làm giá chuộc con người. Ngài trở nên giống con người mọi đàng, Ngài chia sẻ những giới hạn của con người. Có thể nói: ai bị cám dỗ thử thách như thế nào thì Đức Giêsu ít nhất cũng bị cám dỗ và thử thách như vậy.
Ngài trở thành tôi tớ phục vụ con người! Tại sao Ngài phải sinh trong chuồng chiên cừu nghèo hèn như vậy? Tại sao Ngài phải lang thang rong ruổi hết nơi này nơi kia để rao giảng Tin Mừng? Tại sao Ngài phải bữa đói bữa no? Tại sao Ngài phải ngủ bờ ngủ bụi “chồn cáo có hang chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu”? Tại sao Ngài phải nói sự thật để phải chết? Tại sao bây giờ Ngài vẫn tự hủy nơi bí tích Thánh Thể? Tất cả là để phục vụ con người, để con người biết sự thật về Thiên Chúa, về tình yêu Thiên Chúa đối với con người đến độ nào. Và Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người nhận ra sự thật, được giải phóng và hạnh phúc.
Phục vụ là thái độ của người tôi tớ. Tôi tớ không ra lệnh cho chủ, không đòi chủ làm theo ý mình, không đòi chủ phải tôn trọng mình, nhưng sẵn sàng làm tất cả để thực hiện ý chủ. Người tôi tớ là người sau khi phục vụ xong, phải luôn luôn coi mình là tôi tớ vô dụng (Lc.17, 10). Ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ người khác. Đức Giáo Hoàng vâng theo lời Đức Giêsu, nên coi mình là “tôi tớ của các tôi tớ”. Tuy vậy, các môn đệ của Chúa phải phục vụ lẫn nhau: “Thầy đã rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 14). Không ai được đòi người khác phục vụ mình, cũng như không ai được từ chối phục vụ. Thái độ đòi người khác phục vụ mình, cũng như từ chối người khác “rửa chân” cho mình, đều là thái độ của người kiêu ngạo, không phải là thái độ của môn đệ Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn được đánh động bởi gương phục vụ của ai nhất? Về điểm nào? 2. Theo bạn, thái độ phục vụ đích thực đòi hỏi điều gì? 3. Bạn có cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác bao giờ chưa? Làm sao để bạn hoặc người khác cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ?
Ước muốn làm lớn hay ước muốn được trở nên cao trọng luôn được ấp ủ trong nơi sâu kín của tâm TN29-B80
Ước muốn làm lớn hay ước muốn được trở nên cao trọng luôn được ấp ủ trong nơi sâu kín của tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai lại chẳng muốn làm lớn? Ai lại chẳng muốn trở nên cao trọng? Điều này là một thực tại phù hợp với bản tính con người, vì chúng ta là thụ tạo “linh ư vạn vật”, được Thiên Chúa cao cả yêu thương tạo dựng theo giống hình ảnh của chính Người mà!
Điểm đáng lưu ý ở đây là điều gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng thực sự? Đây chính là một trong những chủ đề được nhận thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Trong đời sống xã hội, người ta thường quan niệm việc làm lớn hay trở nên cao trọng luôn gắn liền với quyền bính, chức tước, danh vọng. Như vậy, làm lớn đồng nghĩa với việc được phục vụ, được ca tụng, được ngưỡng mộ. Biết bao người đã xử dụng mọi thời giờ, vận dụng mọi tài sức, chấp nhận mọi hy sinh và lắm khi không từ nan mọi thủ đoạn đê hèn để thực hiện ước muốn đạt được danh vọng, chức tước, quyền bính trong nhiều lãnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn nghệ, thể thao…và cả tôn giáo nữa!
Các môn đệ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu vì vốn nghĩ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Thiên Sai đầy quyền bính trong lời nói và hành động. Như thế, chắc hẳn sẽ có ngày Người đạt tới một thứ vinh quang cao trọng nào đó, như Thánh Vương Đavít năm xưa chẳng hạn. Và chắc chắn họ sẽ được chia sẻ vinh quang với Người. Như để nắm chắc được phần thưởng tương lai, hai anh em con Ông Giêbêđê trong Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn đến bày tỏ với Chúa Giêsu ước muốn thầm kín xưa nay của họ: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy” (Mc10:37). Chúa Giêsu không trách mắng các ông vì sự mê muội của các ông, nhưng Người nhẹ nhàng hướng các ông về mầu nhiệm Thập Giá khi nói các ông: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38).
Vốn có cùng ước muốn làm lớn theo lối thế gian như hai anh em con Ông Giêbêđê, mười môn đệ còn lại trong Nhóm Mười Hai nghe chuyện đó liền bực tức với hai ông. Chúa Giêsu nhân cơ hội này đã dạy các ông một bài học để đời, một bài học về con đường vương giả dẫn đến vinh quang đích thực, giúp người ta đạt được ước muốn làm lớn thực, trở nên cao trọng thực.
Đó là con đường Thánh Giá, con đường yêu thương được thể hiện qua tinh thần khiêm nhường phục vụ, xả kỷ vị tha. Đó là con đường mà chính Chúa Giêsu đã khai mở và bước đi đến cùng để cứu độ nhân loại, để trở thành Vua lòng mọi người, để trở thành gương mẫu tuyệt hảo cho mọi người bước theo. Người nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10:42-45).
Hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu-Đấng Mêsia-được ngôn sứ Isaia đã diễn tả như Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa nơi bài đọc một: “Chúa đã muốn hành hạ Người trong đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ Người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của Người, Người sẽ thấy và sẽ được thỏa mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hóa nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ” (Is 53:10-11).
Tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái trong bài đọc hai cũng nhắc lại việc Đấng Cứu Thế đã vì yêu thương loài người mà gánh lấy mọi đau khổ thử thách để cứu chuộc chúng ta. Chính vì thế mà Người đã trở thành Vị Thượng Tế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta: “Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng Tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4:15).
Theo cùng một tinh thần ấy, tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận ra rằng Thiên Chúa chính là Đấng phụng sự con người hơn là Đấng để cho người ta phụng sự khi viết: “Mọi của con có, mọi cái con dùng để phụng thờ Chúa thảy đều là của Chúa! Mà xét lại, chính Chúa đã phụng sự con nhiều hơn là con phụng sự Chúa. Kìa, trời và đất Chúa đã tạo nên để mưu ích cho người đời; chúng sẵn sàng luôn và ngày ngày thi thành mệnh lệnh Chúa. Hơn nữa, Chúa đã tổ chức nên sứ bộ thiên thần cũng vì nhân loại. Nhưng cái trỗi vượt hơn cả chính là Chúa đã tự hạ để phụng sự người đời, và Chúa đã tự đoan sẽ ban cả mình Chúa cho người đời nữa” (Q. III, Ch. #10).
Bàn về sự cao trọng của con người, Mẹ Terêsa Calcutta nói: “Bạn được dựng nên cho những điều cao cả hơn: để yêu và được yêu”. Và Mẹ luôn tâm niệm: “Hoa trái của yêu thương là phục vụ” và “Yêu thương là trao ban đến đớn đau”. Đó là lý do khiến Mẹ từ giả đời sống êm đềm của một nữ tu dạy học để tìm đến phục vụ những người cùng khổ bị bỏ rơi trên những khu ổ chuột ở Calcutta và lập nên Dòng Thừa Sai Bác Ai. Đó cũng là lý do khiến Thánh Đamien đang là một linh mục Dòng Thánh Tâm tráng kiện tình nguyện đến sống và phục vụ những người phong cùi ở đảo Molokai, và chia sẻ cả bệnh phong cùi với họ, chết giữa họ. Đó cũng là lý do biết bao tín hữu Chúa Kitô tiếp tục dấn thân âm thầm phục vụ tha nhân đến hy sinh chính mình, trong mọi môi trường trong mọi nơi mọi thời mà chỉ có Chúa mới có thể thẩm định đúng mức sự cao cả của tình yêu trong trái tim họ.
Trong tác phẩm Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể về chứng từ của cô Sophie Berdanska. Vì túng nghèo, cô phải đi làm thuê cho một gia đình Do Thái tên là Merston. Công việc của cô là chăm sóc mấy đứa con của ông chủ. Biết Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là cô “không được giảng đạo” cho con cái ông. Tối hôm ấy, Sophie lấy một miếng giấy nhỏ ghi ít chữ vào đó rồi bỏ vào huy chương ba cô trối lại và đeo vào cổ. Các con ông chủ nhiều lần đòi coi huy chương ấy, nhưng cô không cho. Nhờ sự chăm sóc tận tâm của Sophie, các con ông Merston càng ngày càng ngoan ngoãn giỏi giang. Ít năm sau, các con ông lần lượt đau nặng. Cô Sophie tận tình lo lắng phục vụ lũ trẻ, và chúng lần lượt được bình phục. Nhưng vì quá tận tâm lo cho chúng, Sophie kiệt sức và qua đời. Ít lâu sau, ông Merston tình cờ mở chiếc huy chương nàng để lại và đọc được hàng chữ trong mảnh giấy trong đó: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”. Chợt hiểu ra tất cả và cảm phục Sophie, cả gia đình Merston sau đó đã xin theo đạo! Sophie là người đã hiểu và bước theo con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của tình yêu mỹ diệu. Xin Mẹ dạy con biết trung thành và vui tiến trên con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha, để đạt được vinh quang đích thực là được nên giống Chúa Giêsu, nên một với Người, và cảm hóa mọi người thiết tha yêu mến Chúa và Mẹ. Amen.
Khi bước vào trong nhà thờ Công giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu TN29-B81
Khi bước vào trong nhà thờ Công giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu Kitô chết treo trên Thánh giá nơi cung thánh. Thân mình Chúa trần trụi, đầu đội mạo gai, hai chân hai tay bị đóng đinh vào thánh giá, cạnh sườn bị đâm thủng, mình mẩy dính đầy máu và chết trong tư thế gục đầu xuống. Cái chết của Chúa thật bi thương. Những người tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã kính thờ bái lạy và ghi dấu thánh giá trên mình. Chúa đã hiến thân mình làm hy tế để giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Của lễ hiến tế là chính thân xác của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã chết trên Thánh giá và đã sống lại vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha. Nhiều người không biết và không tin vào Chúa Kitô, họ không thể hiểu tại sao người Công giáo lại tôn thờ một Đấng, bị xem như là tội nhân của đế quốc Rôma đã phải xử tội tử hình.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,11). Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra, chỉ có đau khổ mới hoá giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khoẻ mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.
Người Tôi Trung của Tiên tri Isaia là hình ảnh của Đấng Được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hoà. Thư gửi tín hữu Dothái đã viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 14,15). Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thư Dothái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.
Câu truyện trong bài Phúc Âm rất tuyệt vời. Thánh Marcô rằng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Sự khẩn cầu của hai ông cũng giống như sự cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Mở lời cầu xin, nếu nhận được ơn ngay, thì dễ dàng quá. Ai cũng có thể cầu xin được. Chúa Giêsu vạch rõ con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua: Đức Giêsu nói: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”(Mc 10,38). Không trải qua đắng cay thử thách, chúng ta không thể đạt được triều thiên vinh quang. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho hai ông và các Tông đồ về cách sống đạo. Muốn được hưởng vinh quang, các ngài phải uống chén đắng mà Chúa sắp uống. Có nghĩa là phải sống, phải tu luyện, phải phấn đấu trường kỳ và phải chịu mọi thử thách gian nan trong niềm tin.
Ngày nay, có những phong trào đưa dẫn nhiều người đi qua con đường tắt. Họ mở ra cho thấy hào quang thánh thiện hiện diện ngay trong đời sống mà không cần phải trải qua tu luyện và thử thách. Cứ đến mà xin, xin gì được nấy. Không phải tốn phí tiền bạc, thuốc thang, thời gian trị liệu hay phải hy sinh từ bỏ điều gì. Kiểu hành đạo quá nhẹ nhàng, dễ dãi và thoải mái, ai mà không mến chuộng. Có nhiều người quan niệm rằng chúng ta cứ tụ nhóm đọc kinh cầu nguyện và xin ơn chữa lành, Chúa sẽ ban cho tất cả. Trong khi đó chúng ta chối từ chén đắng của sự hy sinh, từ bỏ, sám hối, tránh tội, kiêng cữ và hãm mình. Chúng ta chỉ muốn thực hành đạo tại chỗ nơi hội họp và xin đừng nhắc đến đời sống riêng tư lầm lỗi. 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các Tông đồ về hành trình theo Chúa. Các ngài phải qua thánh giá và đau khổ để bước vào vinh quang.
Chúa Giêsu rất hài lòng với câu trả lời của hai ông: Các ông đáp: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”(Mc 10,39). Chúa Giêsu đã uống chén đắng qua tất cả những khổ đau mà Ngài phải chịu. Chúa bị người đời ruồng bỏ, chống đối, tẩy chay, khinh dể, nhạo báng, đánh đập, xô đẩy, khạc nhổ, la hét, phản bội, chối từ, đóng đinh và chết trên thập giá. Chúa chấp nhận tất cả như người tôi tớ trung tín để cảm thông mọi nỗi cơ cực của con người. Hai Tông đồ Gioan và Giacôbê đã đi trọn con đường theo Chúa. Tông đồ Giacobê là người đầu tiên trong mười hai tông đồ đã đổ máu đào làm nhân chứng cho Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Thánh Gioan đã một đời rao giảng về tình yêu của Chúa và tín trung cho đến giây phút cuối cùng.
Tin vào Chúa là bước theo con đường Chúa đã đi. Chúng ta không thể đi theo con đường tắt để đạt vinh quang. Con đường vắn gọn, thư thái nhẹ nhàng chỉ là bánh vẽ và ảo tưởng. Muốn hành đạo tốt, chúng ta phải bước xuống: “Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”(Mc 10,43). Sống đạo phải khởi đi từ trái tim yêu thương. Chúa Giêsu đã trải nghiệm kiếp người trong khiêm hạ phục vụ. Chúa là Thầy và là Chúa đã quỳ xuống, lấy nước rửa và lau chân cho các môn đệ. Chúa đã không loại trừ một ai, cho dù Chúa biết có những đôi bàn chân không xứng đáng. Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để lãnh nhận công việc của người tôi tớ. Từ đáy vực thẳm thấp hèn, Chúa đã nâng con người lên làm bạn hữu và được đồng thừa tự vinh quang trong Nước Chúa.
“Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10,44). Lấy tinh thần phục vụ để làm thước đo giá trị đời mình. Phục vụ trên môi miệng thì rất dễ dàng nhưng phục vụ qua hành động mới mang giá trị. Đôi khi thực hành một việc rất nhỏ nhưng có giá trị lớn. Tự hỏi: Ai là người tôi tớ phục vụ trong mái ấm đời sống gia đình? Phải chăng là người mẹ. Mẹ không than van hay quản ngại việc gì, dù bề bộn khó khăn, bẩn thỉu và dơ dáy. Hằng ngày mẹ lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn nhà cửa, rửa ráy từng cái ly, cái chén mà chồng con đã vô ý chất chồng trong bồn rửa. Có khi người bố và các con nghĩ rằng đã có người làm việc trong nhà, nên cứ việc bừa bãi. Người mẹ cứ phải nai lưng chịu đựng (after you). Trong đời sống chung, chúng ta đừng quá ỷ lại vào người khác. Mỗi người có thể góp phần phục vụ lẫn nhau, có đi có lại mới toại lòng nhau.
Chúa Giêsu mở con đường phục vụ trong khiêm hạ: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo Hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi xưa là con đường khổ giá, khiêm tốn và phục vụ, xin cho chúng con biết dõi theo lối gót của Chúa để cùng xả thân hy sinh phục vụ tha nhân.
Cách đây vài tuần, chúng ta đã nghe Chúa tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua TN29-B82
Cách đây vài tuần, chúng ta đã nghe Chúa tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua; và qua lần tiên báo ấy, Ngài cũng đã hứa với các môn đệ là Ngài sẽ cho họ được ngồi trên ngai để xét xử mười hai chi tộc Israen; và các ông vẫn cứ đinh ninh rằng Chúa sẽ làm vua thống trị và họ sẽ được một chức vụ nào đó, nên dọc đường, các ông đã tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn cả.
Trên đường lên Giêrusalem lần này, hai con ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Việc hai anh em con ông Giêbêđê xin được ngồi bên tả bên hữu Chúa, một lần nữa, lại gây ghen tức giữa các môn đệ, lại tranh giành địa vị xã hội vào ngày mà họ nghĩ Thầy sẽ lập vương quốc ở trần thế!
Đúng như lời Thầy khiển trách: “Các anh không biết các anh xin gì!”
Gián tiếp Chúa cũng cho các ông biết: anh em lấy tư cách gì để xin ngồi bên tả, bên hữu Thiên Chúa! Ngồi bên tả hay bên hữu là việc Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được; “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Đây cũng là lần tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải chịu.
Hai ông dám công khai xin cho được ngồi bên hữu, bên tả Chúa kể ra cũng là một lời xin lộ liễu trước mặt các môn đệ khác, và tuy chẳng hiểu chén mà Thầy sắp uống, phép rửa mà Thầy sắp chịu là gì, nhưng hai ông vẫn quả quyết: “Thưa được”.
Có lẽ lúc bấy giờ hai ông “Thưa được” là để cho qua chuyện, nhưng về sau, lời quả quyết ấy đã trở nên sự thật. Hai ông đã uống chén đắng như Thầy đã uống và đã chịu phép rửa như Thầy đã chịu: Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua Agrippa đệ nhất. Còn thánh Gioan bị bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng được cứu thoát nhờ phép lạ; và cuối cùng ngài cũng chết anh hùng sau những tháng ngày sống lưu đày trên đảo Patmô.
Giacôbê và Gioan xin cho họ được ở vị trí cao nhất trong vương quốc của Chúa. Họ chỉ nghĩ đến mình nên gây bực tức cho người khác. Hai ông là biểu tượng cho những khát vọng trần thế: điạ vị xã hội, danh lợi, quyền thế, vinh quang, thống trị; đó là khát vọng của người đời.
Thực ra “ai ước mơ được làm thủ lãnh, là mơ ước một điều tốt lành” (1Tm. 3,1); Trong bất cứ tổ chức, tập thể nào cũng cần có người lãnh đạo. Chúa cũng không hủy bỏ vai trò của người đứng đầu, người thủ lãnh; nhưng làm thủ lãnh, làm đầu để phục vụ người khác thì khác với tinh thần làm lớn để người khác phục vụ mình.
Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu người làm lớn, người cầm đầu thiên hạ, người thủ lãnh: mẫu người thứ nhất dùng uy quyền để thống trị và cai quản dân, mẫu người thứ hai đối nghịch với mẫu người thứ nhất là phục vụ và là đầy tớ của mọi người:“Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Mẫu người làm thủ lãnh theo yêu cầu của Chúa Giêsu là phục vụ và làm đầy tớ người khác.
Có ông vua nào trên trần thế này quì xuống mà rửa chân cho các gia nhân trong triều không?
Có người nào giàu nhất thế giới mà chịu sống cảnh không cửa, không nhà, không có gối đầu để tìm đến những người nghèo khổ không?
Có vị thủ lãnh nào dám hy sinh mạng sống mình để cứu muôn người không?
Có vị thủ lãnh nào, bị nghiền nát, chịu kiếp sống lao đao, bị liệt vào hàng ngỗ nghịch vì hạnh phúc của con người không?
Thưa có. Vị vua ấy, vị thủ lãnh ấy là Vua Giêsu Kitô.
Thánh Paulinô, Giám mục thành Nôla ( 353-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình, từ bỏ chức lãnh sự ở Rôma, đã sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh và làm đến chức Giám mục. Khi quân Goths chiếm đóng xứ ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân mình, đi làm nô lệ thay cho con trai của bà góa và bị điệu sang Phi châu. Mãi lâu sau, ngài được trả tự do và trở về lại giáo phận Nôla của ngài trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo hữu.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ mà người thủ lãnh, người cầm đầu cần phải có.
Bất cứ ở địa vị nào, chúng ta cũng có thế phục vụ người khác; nhưng người ở địa vị có quyền lực cao là người có nhiều điều kiện và cơ hội để phục vụ người khác hơn. Quyền bính phải đi đôi với phục vụ và làm đầy tớ mọi người. Người đứng đầu lại là người rốt hết. Người có quyền lực lại là người phục vụ kẻ khác, người tôi tớ của mọi người. Vị trí vai trò đảo ngược trong Vương quốc của Thiên Chúa! Chúa đời hỏi người làm lớn, người có địa vị, quyền lực phải chấp nhận uống chén Thầy đã uống, chịu phép rửa Ngài đã chịu khác với quan niệm của thế nhân là người có quyền lực áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị, bắt nạt người nghèo khó.
Câu hỏi Chúa Giêsu nêu lên cho hai môn đệ Giacôbê và Gioan cũng là câu hỏi Chúa đặt ra cho mỗi người chúng ta: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Chén mà Thầy sắp uống là chén đau khổ trong vườn cây dầu: “ Lạy Cha, nếu có thể, thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không theo ý Con một theo ý Cha mà thôi”; và phép rửa Thầy sẻ chịu là phép rửa bằng máu, là cái chết đau thương trên Thập gía. Tóm lại, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ với Chúa không?
Có lẽ chúng ta cũng “Thưa được” với Chúa, nhưng lại sống khác đi. Miệng chúng ta quả quyết mạnh mẽ là sẽ uống chén Chúa đã uống, sẽ sẵn sàng chịu phép rửa Chúa đã chịu, nghiã là vác lấy Thập gía theo Chúa, nhưng có thể trong thâm tâm chúng ta lại mong muốn có một cây Thập giá nhẹ nhàng, tiện lợi theo ý riêng của mình hơn là vác lấy Thập giá theo thánh ý của Chúa gởi đến cho mình.
Có lẽ chúng ta cũng đã “Thưa được” với Chúa, nhưng vẫn còn e dè tránh né chén và phép rửa Chúa đã đi qua. Chúng ta nói tới chứ chưa dám dấn thân thực sự vào, dầu Chúa đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Làm đầu hay làm người hèn mọn trong Nước trới đều là môn đệ của Chúa, đều được mời gọi phục vụ tha nhân đến quên mình, đến hy sinh mình. Không biết chúng ta đã đổ được bao nhiêu giọt mồ hôi cho Chúa, nói chi đến uống chén của Chúa, chấp nhận cuộc thanh tẩy của Chúa!
Chúa cho tôi một chỗ đứng trong Giáo hội, trong cộng đoàn, dầu chỗ đứng ấy lớn hay nhỏ, hãy lợi dụng nó để phục vụ anh em.
Chén đời sống của chúng ta có chén cay đắng, chén ngọt bùi, chén khó khăn trong việc đi theo Chúa là hy sinh và phục vụ người khác. Ai chia sẻ với Chúa chén cay đắng của Thập giá thì cũng sẽ chia sẻ với Ngài sự vinh quang Phục sinh.
Sống không hơn thua, không tranh giành chắc không thú vị hay sao đó? Hôm nay, chúng ta lại bắt TN29-B83 Lượng
Sống không hơn thua, không tranh giành chắc không thú vị hay sao đó?
Hôm nay, chúng ta lại bắt gặp câu chuyện tranh giành và những người tranh giành không ai khác đó chính lại là những người thân cận, những môn đệ thân tín của mình.
Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa với Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Nghe xong, Chúa Giêsu hỏi luôn: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông nghe thế cũng thưa lại ngay: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy".
Chúa Giêsu hết sức bình thản và từ tốn nới với các ông: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Nghe như thế, tưởng sẽ được Chúa ban cho điều mình xin nên đáp ngay: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định".
Các ông có lẽ buồn thiu trước lời của thầy mình. Tưởng chừng với hai tiếng thưa được đó các ông cũng được điều mà các ông xin.
Sau đó, Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Chúa Giêsu, có lẽ nhân cơ hội này muốn mời gọi các ông nhìn lại con đường của các ông theo Chúa. Con đường theo Chúa không phải là con đường vinh quang mà là con đường thập giá.
Trang sách ngôn sứ Isaia cho chúng ta hình ảnh của người tôi tớ đau khổ. Hình ảnh người ngôn sứ đó là Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ.
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, chúng ta phần nào thấy được cuộc đời của các ngôn sứ và cách riêng với ngôn sứ Isaia. Phải nói là quá đau khổ chứ không phải là đau khổ bình thường nữa. Thế nhưng mà, qua đau khổ đó, Chúa Giêsu cứu độ con người.
Trong thư Do Thái chúng ta vừa nghe, chúng ta lại bắt gặp một lần nữa hình ảnh, thân phận của Chúa Giêsu: Anh em thân mến, chúng ta có một Thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Vậy chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng, ngõ hầu lãnh nhận lòng từ bi và tìm kiếm ân sủng để gặp được ơn phù trợ kịp thời.
Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian! Thánh Gioan đã hơn một lần giới thiệu với mọi người, giới thiệu với chúng ta về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến trong thân phận con người, Ngài đồng thân đồng phận để thông cảm sự yếu đuối của con người và thậm chí Ngài còn chịu những thử thách hết sức nghiệt ngã ngoại trừ tội lỗi để cứu con người tội lỗi của chúng ta.
Hành trình lịch sử, dòng lịch sử cứu độ đã để lại cho chúng ta bài học hết sức rõ ràng về vị ngôn sứ thời đại là Chúa Giêsu.
Quá nhiều lần, chúng ta đã than trách Chúa đủ thứ điều này điều kia hết. Và rồi, khi không được như điều mà ta xin thì ta lại quay quắt với Chúa.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây với ta, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi ta là ta có uống được chén đắng mà Chúa đã uống hay không? Có đi qua con đường thập giá như Chúa đã đi không?
Bao nhiêu lần chúng ta đau khổ với Chúa, bao nhiêu lần chúng ta cũng đã hát thật to rằng con xin theo Chúa đến giây phút cuối cuả cuộc đời nhưng rồi ta có theo thật hay không? Hay là chúng ta cũng chỉ hát ngoài môi ngoài miệng thôi.
Con đường đau khổ mà Chúa đang gửi đến cho chúng ta, chúng ta bình tâm nhìn lại thử xem? Chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người nhưng chúng ta đâu có cảm nhận ra cái hạnh phúc đó để rồi chúng ta càm ràm thế này thế nọ. Và, có những đau khổ do chính chúng ta gây ra nhưng chúng ta không biết đó thôi.
Nhìn lại từ gia đình, từ bản thân chúng ta, Chúa ban cho qua nhiều nhưng rồi chúng ta không nhận ra để rồi cứ mãi ganh tỵ với anh chị em đồng loại thôi. Cũng chỉ vì ganh tỵ mà ngay trong chính gia đình của chúng ta mới xáo trộn.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian này để gánh tội cho chúng ta rồi, xin đừng chất thêm tội trên cuộc đời của Ngài nữa. Hãy bớt đi những lầm lỗi của chúng ta để Ngài bớt đi gánh nặng của chúng ta.
Nhiều lúc, do vô tình hay cố ý, chúng ta lại chất thêm gánh nặng cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
Xin cho chúng ta trong sâu lắng của lòng mình, bớt đi những tôi lỗi, bớt đi những yếu đuối để làm bớt đau khổ cho Chúa. Và nếu có, xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta vác thập giá mà Chúa gửi cho đến hơi thở cuối cùng.
Dõi theo hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, với những làm phép lạ Chúa làm, lời Chúa TN29-B84
Dõi theo hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, với những làm phép lạ Chúa làm, lời Chúa dạy, người môn đệ được dạy về phẩm chất tông đồ. Cùng với các môn đệ Chúa Giêsu tiếp tục hành trình lên về Giêrusalem. Nếu dọc đường có chàng thanh niên đến quỳ gối xin Chúa chỉ cho biết việc phải làm để được sống đời đời (x. Mc 10, 17), thì giữa các môn đệ cũng có sự năn nỉ nài van cho được ngồi ‘bên tả’ hay ‘bên hữu’ Chúa (x. Mc 10, 35-45).
Hôm nay vẫn trong hành trình trước khi vào thành thánh, có chàng thanh niên mù loà con ông Timê tên là Bartimê kêu xin gặp Chúa để được sáng mắt (x. Mc 10, 46-52). Thật lý thú và kỳ diệu biết bao cho những ai khát mong tìm gặp Chúa, họ sẽ rạng rỡ mừng vui, vì có được điều họ tha thiết nài xin.
Chúa là niềm vui của Israel
Khi dân Israel bị bắt đi lưu đày ở Babylon trở về, người trung thành với Chúa chỉ còn là số ít, họ quá yếu đuối, nghèo nàn và dễ bị tổn thương, đến nỗi không có phương tiện trở về từ phương Bắc không thể tự giải thoát. Họ là những kẻ trở về để xây dựng đất nước: "trong chúng có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ". Bàn tay xây dựng lại Israel là những kẻ đui mù, chứ không phải các thanh niên cường tráng! Làm thế nào họ có được khả năng xây dựng lại quốc gia? Thanh niên, người khoẻ mạnh đã bị đế quốc tiêu diệt trong các lao động khổ sai. Họ phải cáng đáng công việc xây dựng lại quê hương.
Trong lúc cùng đường bế tắc như thế Giêrêmia tuyên sấm: Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! " (Gr 31, 7). Không thể vui mừng sao được khi mình đang đui mù, què quăt, mang thai nay có được Thiên Chúa toàn năng trợ giúp dẫn dắt trở về: "Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây" (Gr 31, 8). Theo Dianne Bergant: "Phụ nữ mang thai và các bà mẹ tuy yếu ớt, dễ bị tổn thương nhưng cũng là biểu tượng của phong phú và hy vọng. Họ nắm giữ tương lai trong bản thân mình. Khi họ rời bỏ chốn lưu đày về đất hứa, họ mang theo khả năng sinh sản và khởi sự một tương lai mới".
Đúng là người công chính, đạo đức thực thi công bình, bác ái, sống thánh thiện siêu nhiên, mặc cho thế giới này sa đoạ đến đâu, mặc cho gièm pha độc ác của kẻ giả hình, những vẫn khao khát tìm gặp và cậy dựa vào Chúa, người ấy sẽ có được niềm vui lớn lao. Anh mù thành Giêricô, tên là Bartimê trong Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng.
Chúa Giêsu là niềm vui của anh Bartimê
Chúng ta chiêm ngắm một anh chàng mù, nghèo khổ, gặp được hạnh phúc thật nhờ Chúa Giêsu. Anh thiếu hai điều: cái nhìn thể lý và khả năng tìm kiếm công ăn việc làm để kiếm sống, nên buộc anh phải đi ăn xin. Anh cần sự giúp đỡ và anh ngồi bên vệ đường lối vào thành Giêricô, nơi có nhiều người qua lại.
May mắn cho anh, một hôm chính Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một số người khác đã đi ngang qua đó. Chắc chắn anh mù đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, là Đấng đã làm nhiều phép lạ, Đấng ấy đang đến gần anh ta, chớp thời cơ, anh kêu lên: "Hỡi Con vua Davít, xin thương xót tôi!" (Mc 10, 47). Đối với những người đang đi theo Chúa thì tiếng kêu của anh mù thật khó chịu, họ ích kỷ, không chịu thấu hiểu hoàn cảnh của anh. Nhưng lời kêu xin lớn tiếng của anh chứng tỏ anh khao khát gặp Chúa lắm. Lời ấy vang tới tai Chúa và động đến tâm hồn Chúa Giêsu. Người muốn đáp ứng lời van xin của anh mù ăn mày này, nên truyền gọi anh đến đến và chữa lành anh ta.
Lập tức anh mù được đối diện với Con vua Đavít. Giây phút quyết định là sự khát khao gặp gỡ cá nhân, trực tiếp, giữa Chúa với người đang đau khổ. Hai người đối diện nhau: Thiên Chúa với ý muốn chữa lành và con người với ước ao được chữa lành. Hai sự tự do và hai ý chí đều huớng về một điểm. Cuộc đối thoại bắt đầu kẻ hỏi người thưa, "Chúa Giêsu nói với anh: " Anh muốn Ta làm gì cho anh? "Người mù đáp: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy" Chúa ra lệnh: "Con hãy đi! Ðức Tin con đã cứu chữa con!" (Mc 10,51) Lập tức Chúa Giêsu cho anh thấy, anh hết sức vui mừng và đi theo Chúa.
Chúa là nguồn vui của chúng ta
Niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui của con người. Theo Phúc âm kể tiếp như sau: Bước vào ánh sáng, anh mù Bartimê bắt đầu theo Chúa khắp nơi! Ðiều này có nghĩa là anh mù trở thành môn đệ Chúa và theo Người lên Giêrusalem, để cùng với Chúa tham dự vào mầu nhiệm cao cả của ơn cứu rỗi.
Cái nhìn thể lý thật quan trọng, cái nhìn từ bên trong của Thiên Chúa. Thánh Clêmentê Alexandria nói, "Chúng ta hãy chấm dứt việc lơ là sự thật, hãy ra khỏi bóng tối và sự vô minh, như một áng mây, hãy ra khỏi đám mây che lấp chúng ta để chiêm ngưỡng Thiên Chúa thật".
Chúng ta thường hay than phiền và nói rằng, tôi không biết cầu nguyện. Hãy noi gương anh chàng Bartimê mù trong Tin Mừng: Anh không ngần ngại kêu lên cùng Chúa Giêsu tất cả những gì anh ta cần. Phải chăng chúng ta thiếu đức tin? Nếu thiếu, hãy thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con". Phải chăng chúng ta có người thân bằng hay trong gia đình có người bỏ bê việc sống đạo ? Vậy, hãy cầu nguyện như thế này: "Lạy Chúa Giêsu, xin cho họ được nhìn thấy". Liệu đức tin có quan trọng như vậy không? Nếu chúng ta so sánh cái nhìn thế lý, chúng ta sẽ nói gì đây?
Ðức Tin là cuộc hành trình của sự soi sáng: đức tin khởi sự từ thái độ khiêm tốn nhìn nhận mình cần đến ơn cứu rỗi và đạt đến cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, Ðấng là nguồn vui và là ơn cứu độ. Tình trạng của anh mù thật là buồn, nhưng nhiều người còn chưa tin vào Chúa còn buồn hơn. Chúng ta hãy nói với họ: Thầy gọi anh và hỏi anh cần gì, Chúa Giêsu sẽ đáp trả bạn cách hào phóng.
Lạy Mẹ Maria, xin dẫn chúng con đến gặp Chúa, để chúng con được no thỏa niềm vui ân tình của Chúa. Amen.
Xem ra danh vọng, quyền lực, của cải, giầu sang, địa vị luôn là những điều lôi kéo con người. Người TN29-B85
Xem ra danh vọng, quyền lực, của cải, giầu sang, địa vị luôn là những điều lôi kéo con người. Người ta tranh dành chỗ ngồi, cái ghế.Chỗ nhất trong bữa tiệc, chỗ nhất trong Hội đường, nơi công cộng luôn là nỗi ám ảnh cho nhiều người. Người ta đã có chỗ đứng, lại thích có chỗ đứng cao hơn.
Khi kết nạp các môn đệ đi theo mình, Chúa Giêsu đã dạy dỗ, uốn nắn, rèn luyện các môn đệ. Tuy nhiên, các môn đệ vẫn chưa hiểu điều Chúa nói. Do đó, một hôm trên đường, các Ông tranh luận xem ai làm lớn làm bé trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Cái não trạng đời thường vẫn chưa biến mất khỏi tâm hồn, chưa ra khỏi suy nghĩ của các Ông. Các Ông cứ tưởng Nước Thiên Chúa cũng giống nước thế gian mà các Vua Chúa ở trần gian vẫn sống, vẫn hưởng…Hôm nay, Chúa Giêsu lại dạy cho các Ông một bài học để đời:” Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người “ ( Mc 10, 45 ).
Thực tế, ước mơ của các môn đệ có thể nói một cách âm thầm đều như nhau.Bởi vì, khi Chúa Giêsu loan báo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cái chết của Ngài. Các môn đệ đều mù tịt không biết gì. Nên, mới có chuyện tranh cãi nhau làm lớn làm bé, mới có chuyện bà mẹ của hai Ông Giacôbê và Gioan đến xin cho con mình một người bên tả, một người bên hữu trong Vương Quốc của Chúa Giêsu.Các môn đệ đã bỏ ca mẹ, vợ con, ruộng vườn, của cải, nghề nghiệp để đi theo Chúa Giêsu, nhưng họ lại âm thầm tìm kiếm lợi lộc qua việc từ bỏ của họ. Thật các Ông từ bỏ tội lỗi xem ra dễ, nhưng từ bỏ danh vọng, lợi lộc thì không phải dễ dàng chút nào cả.Chính vì thế, hai môn đệ Gioan và Giacôbê mới đến gần Chúa mà thưa:” Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây “ ( Mc 10, 35 ). Mười môn đệ còn lại tỏ vẻ bực tức với hai Ông và với mẹ của hai Ông. Tức bực vì trong thâm tâm họ cũng ghen tỵ và cũng ước mơ được ngồi bên tả bên hữu Chúa Gie6su.
Chúa Giêsu đã đưa hai môn đệ trở về thực tế của đời sống phục vụ, đời sống đi theo chân Chúa Giêsu. Đức Giêsu đã chẳng từng nói:” Chồn có hang, chim có tổ, con người không đá gối đầu “. Sự thực theo Chúa là chấp nhận đời sống khó nghèo, chấp nhận tay trắng tay và hoàn toàn phó thác nơi Chúa. Theo Chúa không có nghĩa là được ưu đãi, được ghế trong Vương Quốc của Chúa. Theo Chúa không có nghĩa là được mọi thuận lợi, được vinh quang, phú quí, quyền uy, ghế cao như người đời lầm tưởng. Các môn đệ muốn chia phần với Chúa trong vinh quang nhưng liệu các Ông có dám chia phần với Chúa trong sự đau khổ và sự chết không ? Uống chung với Chúa cùng một chén và chịu chung với Chúa trong cùng một phép rửa là chấp nhận chịu đau khổ và chết với Chúa trong cuộc thương khó của Ngài. Theo Chúa, trung tín với Chúa cho tới cùng là phần thưởng cao quí người môn đệ được Chúa thương công. Chúa Giêsu làm Vua, được tôn phong là Vua nhưng không phải như Vua trần gian mà Vua ngồi trên mình lừa, tiến vào thành thánh Giêrusalem để nộp mình chịu chết, cứu rỗi nhân loại. Chúa mời gọi nhân loại, mời gọi con người “ yêu cho tới cùng “ ( Ga 13, 1 ).
Thường nơi trần thế này, người đứng đầu, người làm lớn, người có chức quyền hay có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách đối với thuộc hạ. Chúa có quan niệm hoàn toàn trái ngược với ý nghĩ của con người:” Người làm lớn là người phục vụ “ như lời Ngài nói:” Con người đến để hầu hạ chứ không phải để được hầu hạ “. Đây là ý nghĩa của việc phục vụ của Chúa. Người làm lớn phải là người rốt hết và là người phục vụ. Chúa nói:” Nơi anh em thì không như vậy “ nghĩa là không được thống trị người khác, không được đè nén, áp đảo người dưới. Chúa Giêsu vạch ra một lối lãnh đạo mới cho Giáo Hội của Ngài. Làm lớn, làm đầu là phục vụ. Chúa đã làm gương cho Hội Thánh, cho các môn đệ, Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Làm lớn là làm nô lệ cho mọi người. Chúa Giêsu đề ra một lối lãnh đạo khiêm nhượng và phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim mới, một tâm hồn mới để chúng con biết học nơi Chúa gương phục vụ khiêm nhượng và yêu thương. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Bà mẹ của hai Ông Giacôbê và Gioan dẫn hai con đến gặp Chúa Giêsu để làm gì? 2.Vương Quốc của Chúa Giêsu có khác với nước trần gian không ? 3.Thường người đời khi làm lớn, khi đứng đầu thì làm sao ? 4.Chúa Giêsu đã đề xướng một lối lãnh đạo như thế nào ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 10:42-45)
Để hiểu những lời giáo huấn của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại TN29-B86
Để hiểu những lời giáo huấn của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại những gì xảy ra trước đó. Đây là lần thứ ba Chúa Giê-su báo trước cuộc Thương khó. Sau lần tiên báo này lại có chuyện xảy ra giữa các môn đệ! Hai anh em ông Gia-cô-bê và Gio-an đến xin Chúa dành cho mình địa vị cao trọng khi nào Người được vinh quang. Thái độ tham quyền cố vị của họ đã làm cho các môn đệ khác tức tối. Chính trong bối cảnh này, Chúa Giê-su đã giảng giải cho họ hiểu thế nào là “làm lớn” đối với những ai muốn làm môn đệ Người.
Các môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su, tuy đã “bỏ mọi sự” mà đi theo Chúa, nhưng mỗi người vẫn ôm ấp một hoài bão. Ai cũng nhìn vào những thành công và danh tiếng của Chúa Giê-su để làm nền tảng cho hy vọng tương lai của mình. Đôi khi họ biểu lộ hoài bão ấy qua những tranh luận xem ai sẽ là người lớn nhất trong nhóm. Hôm nay, hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã mạnh dạn đến xin thẳng với Chúa cho họ được ngồi bên tả và bên hữu Người khi Người được vinh quang. Đối với họ, càng tới gần Giê-ru-sa-lem là càng tới gần ngày Chúa Giê-su trở thành vua Ít-ra-en, bất kể lời Người báo trước sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết tại đấy. Cho nên họ phải nhanh chân trước những anh em khác! Họ đã để cho tham vọng che lấp tâm trí, đến nỗi không muốn chấp nhận một sự thật phũ phàng sẽ xảy đến cho Chúa.
Trong kế hoạch cứu độ, Chúa Giê-su đã có ý tuyển chọn Nhóm Mười Hai trong số môn đệ để làm những người lãnh đạo Giáo Hội tương lai. Có thể những người này cũng lờ mờ hiểu được rằng chắc chắn họ sẽ nắm giữ những vai trò nào đó khi thời cơ đã tới. Còn nặng tinh thần thế tục, họ đang nghĩ tới uy quyền Chúa sẽ ban cho mình và họ phải sử dụng uy và quyền sao cho mình được người đời kính nể. Đọc được tâm trí họ, Chúa Giê-su nhân cơ hội này muốn dạy họ một bài học cốt yếu cho những người lãnh đạo tương lai của Nước Thiên Chúa: Con Người đến không phải để được người .ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người. Tuy cuộc Thương khó của Chúa chưa đến, nhưng họ cần phải nhìn vào gương mẫu của Thầy để học sử dụng uy quyền của Thiên Chúa. Người sử dụng uy quyền này không dựa trên thế lực để “thống trị” hoặc “cai quản” người khác. Nếu như Thiên Chúa lấy uy quyền của Người để thống trị và cai quản thì chẳng ai sống nổi, giống như dân Ít-ra-en không được kéo nhau lên núi để xem Đức Chúa, kẻo nhiều người phải chết (Xuất Hành 19:16-25)! Nhưng uy quyền này là uy quyền của tình yêu vô điều kiện, được biểu lộ qua Chúa Giê-su, Đấng được sai đến để phục vụ nhân loại và để “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Vậy nếu các môn đệ được trao nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng cứu độ nhân loại, thì họ cũng phải chọn con đường phục vụ, một phương thức duy nhất để hành xử uy quyền của tình yêu Thiên Chúa vậy.
Đã từ lâu rồi người ta không còn sử dụng hoặc nhắc tới một danh hiệu khá độc đáo để gọi vị giáo hoàng của Giáo Hội Công giáo nữa. Đó là danh hiệu “Đầy tớ của các đầy tớ”. Lại nữa, trong lễ đăng quang của vị tân giáo hoàng, một vị hồng y đi trước kiệu giáo hoàng, đốt lên một nắm bông gòn và nhắc nhở ngài rằng: Xin ngài hãy nhớ, vinh quang trần gian chóng qua giống như nắm bông gòn này đây! Những chi tiết ấy nhắm mục đích nhắc nhở người lãnh đạo Giáo Hội hãy nhớ lời Chúa Giê-su dạy: Con Người đến là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta ai mà chẳng muốn mình có chút uy quyền và hành xử uy quyền ấy. Uy quyền không xấu, nhưng cách sử dụng uy quyền mới quan trọng. Tình yêu là động lực để Thiên Chúa tỏ uy quyền Người với chúng ta. Chính Chúa Giê-su đã dùng sức mạnh uy quyền của tình yêu Thiên Chúa để chiến thắng bệnh tật, tội lỗi, ma quỷ, và cuối cùng là sự chết, để phục hồi căn tính con cái Thiên Chúa cho chúng ta. Các vị thánh và biết bao người đã và đang đi theo con đường phục vụ để biểu dương sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Phục vụ là chìa khóa mở được mọi cánh cửa gia đình, Giáo Hội, xã hội, nhất là cánh cửa tâm hồn!
(35) Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến gần Đức Giê-su và nói: "Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây". (36) Người hỏi: "Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì? " (37) Các ông thưa: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang". (38) Đức Giê-su bảo: "Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?". (39) Các ông đáp: "Thưa được". Đức Giê-su bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. (40) Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được". (41) Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. (42) Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. (43) Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; (44) Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. (45) Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người".
2.Ý CHÍNH:
Sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó Người sắp trải qua, các môn đệ xem ra TN29-B87
Sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó Người sắp trải qua, các môn đệ xem ra vẫn không hiểu và không muốn chấp nhận con đường đó. Các ông vẫn đinh ninh rằng Thầy các ông sắp lên Giê-ru-sa-lem để làm Vua Mê-si-a và các ông đã tranh giành nhau vị trí quan trọng trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập (Mc 9,33-34; 10,35-40); Đức Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ về bổn phận của người làm đầu là phải hầu thiên hạ và nên tôi tớ phục vụ mọi người (9,33; 10,41-45).
3.CHÚ THÍCH:
-C 35-38:
+Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an: Gia-cô-bê và Gio-an là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh em bà con của Đức Giê-su.. Hai ông thuộc Nhòm 12 Tông đồ, được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên và đã mau mắn bỏ thuyền và từ giã cha già mà đi theo Người (x Mt 4,21-22). Hai ông nhiệt thành bảo vệ Đức Giê-su và được Người gọi là "con cái của sấm chớp".
+Chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin: Tin Mừng Mát-thêu thay lời xin của hai anh em bằng lời xin của bà mẹ. Có người cho rằng Mát-thêu muốn làm giảm tính tiêu cực của hai anh em qua việc đổ lỗi cho bà mẹ!
-C 37-38:
+Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang: Hai ông nghĩ Thầy sắp vào trong vinh quang là lên làm Vua Thiên Sai, nên xin hai chỗ vinh dự nhất là được ngồi hai bên tả hữu.
+Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?: Hai ông đã không hiểu được ý nghĩa thực sự và kết cục là cái chết đau thương đang chờ đón Thầy tại Giê-ru-sa-lem, nên Đức Giê-su đã nhắc cho các ông về điều ấy.
-C 39-40:
+"Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu: Đức Giêsu hứa cho các ông được chia sẻ trọn vẹn thân phận của Người. “Chén Thầy sắp uống” tượng trưng cho những đau khổ, “phép rửa Thầy sắp chịu” ám chỉ việc Người sẽ bị dìm trong lòng đất khi chết và được an táng trong mồ. Nhưng ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Lời tiên báo này đã được ứng nghiệm khi Gia-cô-bê là vị Tông đồ đầu tiên chịu tử vì đạo vào n ăm 42 do vua Hêrôđê An-ti-pa, như sách Tông Ðồ Công Vụ đã cho biết như sau: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Gia-cô-bê, anh của ông Gioan" (Cv 12,2). Còn Tông đồ Gio-an thì bị đi đày một thời gian trên đảo Pát-mốt thời hòang đế Do-mi-ti-en. Người đã bị bỏ vào vạc dầu sôi nhưng được Chúa cứu thóat. Ngài qua đời tại Ephêsô (Tiểu Á) dưới thời hòang đế Tra-jan sau năm 98.
+Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được: “Chuẩn bị cho ai” ám chỉ là do ý muốn của Chúa Cha, chứ không phải sự tiền định.
-C 41-42:
+Mười môn đệ kia đâm ra tức tối: Các ông tức tối vì chính các ông cũng muốn được ngồi chỗ nhất trong Nước Thầy sắp thiết lập.
+Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân: Đức Giê-su giáo huấn môn đệ về quyền lãnh đạo: Quyền bính xã hội thường mang tính áp chế do tham vọng ca nhân muốn được ăn trên \ngồi trước.
-C 43-45:
+Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em: Đức Giê-su phân biệt quyền bính trong Nước Trời hay Cộng đòan Hội Thánh mà Người sắp thiết lập.
+Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người: Người đòi môn đệ và các mục tử lãnh đạo Cộng đòan phải noi gương Người để sống khiêm hạ và sẵn sàng phục vụ người dưới.
+Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ: Đức Giê-su thường tự xưng mình là Con Người. Người luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ và đòi môn đệ cũng phải học tập sống như vậy.
+và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người: Giá chuộc ở đây thường là số tiền bỏ ra để mua sự giải thoát cho một tù nhân, hoặc để chuộc lại một người đang làm nô lệ. Tuy Đức Giê-su không bỏ tiền ra chuộc ai cả, nhưng Người chấp nhận trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha giống như giá chuộc để đền tội thay và giải thóat mọi người khỏi án chết muôn đời.
4.CÂU HỎI: 1)Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an là ai? 2)Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an xin Đức Giê-su điều gì? 3)Chén Thầy sắp uống và phép rửa Thầy sắp chịu ám chỉ biến cố gì? 3)Bạn biết gì về cuộc tử đạo của Tông đồ Gia-cô-bê? 4)Tông đồ Gio-an đã uống chén khổ nạn do Chúa trao cho thế nào? 5)Chúa Cha “chuẩn bị cho ai” nghĩa là gì? 6)Tại sao mười môn đệ kia lại tức tối với hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an? 7)Đức Giê-su giáo huấn các ông về quyền lãnh đạo trong Nước Thiên Chúa thế nào? 8)Người muốn các môn đệ và các mục tử sau này phải noi gương Người ra sao? 9)”Giá chuộc muôn người” nghĩa là gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA:“Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người"(Mc 10,45).
2.CÂU CHUYỆN: GƯƠNG HY SINH PHỤC VỤ CỦA ĐÔI TÂN HÔN:
Một câu chuyện phục vụ Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA hay kể lại như sau:
“Vào năm 1982, một hôm có đôi thanh niên nan nữ tới nhà chúng tôi tại Can-quýt-ta đến trao tặng một món tiền lớn giúp bữa ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Do đâu mà hai con có món tiền lớn vậy?” Họ trả lời: “Chúng con vừa tổ chức lễ cưới được hai ngày nay. Trước lễ cưới, chúng con bàn nhau sẽ thuê áo cưới thay vì điu may, cũng không liên hoan linh đình, mà dùng khoản tiền ấy trao tặng cho những người kém may mắn. Vì chúng con yêu nhau và muốn có một kỷ niệm đẹp nhân ngày cưới nhau”.
Ðể biết rõ thêm, mẹ Têrêsa hỏi: “Tại sao chúng con quyết định táo bạo như thế? Chúng con không sợ việc làm như vậy sẽ làm cha mẹ và họ hàng buồn lòng hay sao?” Hai bạn trẻ ấy trả lời: “Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một sự hy sinh mà cả hai đều cùng nhau thực hiện”.
Mẹ Tê-rê-sa kết luận: “Thật là tuyệt vời khi nghĩ đến một tình yêu cao quí như vậy. Tôi luôn cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho những người trẻ ơn thánh và sức mạnh, để trong ngày thành hôn, họ có thể trao cho nhau trái tim trong sạch, trái tim trinh khiết, thân xác trong trắng… là món quà lớn lao của tình yêu nhau”.
3.SUY NIỆM:
1)Con ngư6ời ai cũng muốn được ngồi vào chỗ nhất:
Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã không ngần ngại xin Đức Giê-su cho ngồi hai bên tả hữu Thầy, là hai chỗ tốt nhất khi Thầy lên làm Vua Mê-si-a. Mười môn đệ kia nghe vậy rất bực mình. Điều này cho thấy họ cũng muốn ngồi chỗ ấy.
Thực ra, tự bản chất, mỗi chúng ta đều muốn được “ăn trên ngồi trước”. Xã hội cũng tôn vinh những người địa vị cao, khuyến khích những ngừơi đoạt giải nhất trong các cuộc thi, hoan hô các nhà vô địch “khỏe nhất, nhanh nhất, xa nhất” như trong các Đại Hội Thể Thao Ô-lym-pic…
2)Đức Giê-su “đến để phục vụ hơn là được phục vụ”:
Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ tha nhân: Người đã làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế như: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7,22; Is 35,5-6; 42,7). Để cứu độ chúng ta, Người chấp nhận hy sinh chịu chết trên thập giá, hầu chứng tỏ một tình yêu tột đỉnh (x Ga 15,13). Người cũng nói với các môn đệ rằng: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10.45). Trong bữa tiệc ly Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và sau đó đã dạy các ông bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau như sau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).
3)Chúng ta phải làm gì?
-Bác sĩ TOM DOLLY đã nói như sau: “Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác”. Dù là người bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu, không ai trong họ là người hòan tòan vô dụng”.
-Ở bất cứ đâu và trong bất cứ hòan cảnh nào mỗi người chúng ta đều có thể yêu thương và phục vụ tha nhân: Là người bán hàng: chúng ta có thể nói với khách hàng rằmg: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?”. Là bác sĩ hay y tá bệnh viện, chúng ta có thể ân cần phục vụ bệnh nhân; Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta có thể phục vụ người nghèo, bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Vấn đề là chúng ta có sẵn sàng mở rộng con tim để đón nhận và yêu thương phục vụ tha nhân như chính Đức Giê-su hay không?
-Buổi tối mỗi người hãy dành một phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình: “Hôm nay tôi đã làm gì để phục vụ tha nhân? Như: Nở nụ cười thân thiện với người mới gặp; Trao cái nhìn yêu thương cho một người ăn xin; Lắng nghe cảm thông với một người đang lo âu; Nói một lời an ủi người chán nản …Mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm kèm theo tình thương sẽ là món quà quý phục vụ tha nhân.
4.THẢO LUẬN:
1)Bạn cần làm gì để tránh thói ham mê danh vọng chức quyền thế gian? 2)Tuần này bạn sẽ làm gì để thực tập khiêm hạ phục vụ?
5.LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã hạ mình như đầy tớ phục vụ môn đệ và tình nguyện chịu chết đền tội thay cho chúng con. Xin giúp chúng con hiểu được tình yêu vô biên của Chúa và noi gương Chúa yêu thương phục vụ mọi người. Xin cho chúng con biết năng nghĩ đến người bên cạnh và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa để xứng đáng thành môn đệ thực sự của Chúa.
X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Khi mới đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ còn rất mơ hồ về sứ mạng của Ngài, cũng như về ơn gọi TN29-B88 Luong
Khi mới đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ còn rất mơ hồ về sứ mạng của Ngài, cũng như về ơn gọi của mình. Các ông mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền thế. Các ông tin chắc Chúa Giêsu sẽ tạo cho các ông cơ hội thực hiện giấc mơ trái mùa ấy. Thực ra ngồi bên tả hay bên hữu Chúa không phải chỉ là ước muốn riêng của hai anh em Giacôbê và Gioan, mà còn là điều thèm khát chung của tất cả các môn đệ khác. Chỉ có điều là những người này đã không dám công khai thú nhận mà thôi.
Nhưng họ đã lầm. Giàu sang và thế lực trần gian không phải là con đường được Thiên Chúa chọn để cứu thế. Xoá bỏ tội lỗi của loài người, hoán cải thế giới này để đưa về với Chúa Cha, chỉ cho mọi người thấy được phần nào lòng yêu thương của Chúa Cha. Chắc chắn không phải là con đường bằng phẳng êm ái. Để hoàn thành sứ mạng được trao phó, Chúa Giêsu đã chọn con đường đau khổ và hiến tế của Người tôi tớ. Ngài đã nhận lấy chén đắng và chịu thanh tẩy trong sự chết. Chắc chắn Đấng Cứu Thế là Vua cao cả, nhưng sự cao cả đó được thể hiện trong chính tình trạng tự hạ để phục vụ theo đúng quy luật mà Ngài đã đặt ra: ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ cho anh em mình. Ai muốn thành người cầm đầu thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.
Quy luật này Ngài đã thực hành một cách trọn vẹn và gương mẫu trong chính cuộc sống của Ngài. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu cho thấy: Cứu thế là phục vụ. Mà đã phục vụ thì làm sao tránh khỏi cảnh “uống chén đắng” và “chịu thanh tẩy”. Hy sinh, chấp nhận những thiệt thòi cho bản thân là điều không thể thiếu được của ơn cứu độ. Và chúng luôn có giá trị siêu nhiên to lớn. Bắt đầu các môn đệ còn ngây thơ chưa hiểu thế nào là cứu độ và cứu độ đòi hỏi phải trả giá nào. Nhưng qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã từng bước chỉ cho các ông thấy con đường chính Ngài sẽ phải đi và rồi chính các ông cũng phải bước theo. Dần dần các ông không còn quan tâm đến chỗi ngồi bên tả và bên hữu nữa, nhưng đã bước theo Chúa lên tận đỉnh cao thập giá để cùng uống chén đắng và cùng chịu thanh tẩy.
Lời Chúa nói với các con ông Giêbêđê xưa nay đã được thực hiện. Cuộc khám phá và hành trình của các môn đệ ngày xưa phải chăng cũng vẫn còn là điều mà chúng ta hôm nay phải thực hiện cho chính bản thân mình. Thực vậy, bằng phục vụ Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại, còn chúng ta, chúng ta đã đi con đường nào để lãnh nhận ơn cứu độ cho bản thân và cho những người chung quanh?
Ngay mấy tháng đầu nhận chức vụ, Đức Cha Angelo Giuseppe Roncalli đã âm thầm rảo khắp nước TN29-B89
Ngay mấy tháng đầu nhận chức vụ, Đức Cha Angelo Giuseppe Roncalli đã âm thầm rảo khắp nước Bảo Gia Lợi (Bulgarie). Từ Sofia Ngài đi Burgas, gần Hắc Hải rồi về Yamboli. Trong chuyến hành trình thứ hai, Ngài viếng thăm những địa điểm sát biên giới Hy lạp và Thổ Nhĩ Kỳ như Svilengrad Adrianopoli, Pakrovan, miền núi non hiểm trở, tuy phong cảnh rất ngoạn mục nhưng xa xôi và hay gặp cướp bóc. Những cuộc viếng thăm của Đức Kinh lược Tông Tòa Roncalli chẳng long trọng, tưng bừng như thường thấy, mà tựa như hành trình rao giảng gian lao của Chúa Giêsu trong Phúc âm.
Lúc đi Pakrovan vừa được nửa đường thì cảnh sát phải chận xe Ngài và cho một toán cảnh binh hộ vệ cho khỏi hiểm nghèo. Sau lúc đi được 50 cây số như thế Ngài qua đò. Bên kia sông đã có một con ngựa chực sẵn để đưa Ngài. Ngài ở lại trong một nhà xứ chật hẹp làm bằng đá, không sơn quét gì cả. Nhà tối đen và phải cần đến đường nứt ở vách soi sáng. Trong một góc nhà chỉ có hai cái giường, mà Cha xứ và Cha phó nhường cho Đức Kinh lược và vị thư ký ...
Ngài lại ra đi giữa mưa gió. Lẽ ra có xe hơi đợi Ngài ở bờ sông, rủi thay tài xế sợ quân cướp, nên không đến như đã hẹn. Bây giờ chỉ còn một nước lên ngựa. Đến sườn núi Ngài gặp lính canh biên giới họ đưa Ngài về trại. Đêm ấy đồn trưởng cho Ngài một cái giường xếp, các người khác phải nằm dưới đất, hai hôm sau họ đã thuê được một chiếc xe có hai bò kéo để đưa Ngài đi. Lúc ra đi viên đồn trưởng có lòng lo lắng, yêu cầu Ngài giấu Thánh Giá, nhẫn và những tua ở mũ vì sợ quân cướp để ý. Chúa đã gìn giữ Ngài đi bằng an vô sự. Ngày hôm trước bọn cướp đánh phá xe phát thư và để lại ông tài xế nằm mê man giữa đường. Ngài còn muốn thăm giáo dân ở Malko Ternovo vì đây là pháo đài Công Giáo của nước Bảo. Nhưng phần ở gần biên giới Thổ và Bắc Hải, phần đường sá xa xôi hiểm trở, nên mọi người khuyên Đức Cha rút lui. Nhưng không cầm lòng đậu, cùng với cha Don Stefano Kartev, Đức Kinh lược lên đường lần thứ ba. Ở đây Ngài đã làm êm dịu sự căng thẳng giữa Chính Thống và Công Giáo, Ngài vui vẻ tiếp xúc với mọi người, và để cho dân chúng tiếp đón cho thỏa lòng, họ xin hôn nhẫn, mời chụp hình, họ sắp hàng rước Ngài, trẻ con tung hô mừng Ngài. Đến đâu Đức Cha Roncalli cũng giảng. Đức Kinh lược trình bày ba ý kiến vắn tắt, cha thư ký dịch ra tiếng Bảo, tiếp theo ba ý kiến vắn tắt khác, cha thư ký lại dịch nữa, cứ thế độ nửa giờ, và thính giả chăm chú cảm động vì những lời lẽ thành thực và sự cố gắng của Đức Kinh lược.
Đến đâu Ngài cũng đánh tan ngờ vực, bầu không khí trở nên thành thực, thân mật. Tuy công việc của Ngài thầm lặng, nhưng cả nước Bảo đều chú ý. Báo "La Bulgaria" ở Sofia ngày 7-8-1925, đăng một bài tường thuật rất đầy đủ, kết luận "Dân Bảo đầy thiện cảm với Đức Kinh lược, và chúng tôi khen ngợi đức hy sinh và tính thành thực của Ngài trong công việc nặng nhọc và cao cả hằng ngày." (Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận, Đức Thánh Cha Gioan XXIII)
Năm 1960, qua cuốn sách Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận tường thuật lại thời kỳ Thánh Giáo Hoàng Gioam XXIII còn bôn ba, vất vả làm Kinh lược tại Bulgarie và Thổ Nhĩ Kỳ. Một khoảng thời gian khá dài ít được biết và nhắc đến sau này. Những hình ảnh chân thật của Đức Giám Mục Roncalli phản ảnh khá chính xác Lời Chúa hôm nay: “Ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.“ Đức Kinh lược Roncalli đã không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, đến thăm mục vụ, cùng tận tình phục vụ con chiên xa xôi hẻo lánh.
Nhưng đâu phải chỉ khi có chức cao quyền trọng mới phải phục vụ tha nhân, mà bất kỳ ai ở địa vị nào cũng cần phục vụ người khác. Một người cha, người mẹ, người anh, người em, con cháu, đều cần sống cho nhau, phục vụ lẫn nhau, thì gia đình đó mới yên vui tràn đầy yêu thương và hạnh phúc. Nhất là người gia trưởng cần thiết làm gương sáng phục vụ, để mọi thành viên trong gia đình noi theo. Nếu mỗi người chỉ biết sống ích kỷ, vị kỷ, bất cần quan tâm đến ai, thì tổ ấm gia đình chẳng sớm thì chày trở nên giá lạnh, dần nảy mầm nguy cơ tan vỡ, tan đàn xẻ nghé.
Yêu thương phục vụ
Phục vụ trước hết phát xuất từ con tim mới có ý nghĩa cao trọng. Nếu không chỉ là hành động đơn thuần, tẻ nhạt, tầm thường của kẻ hầu bị bó buộc phục dịch, dĩ nhiên chẳng có chút giá trị cao quý. Yêu thương phục vụ xả kỷ vị tha, hoàn toàn tự nguyện, vô tư, bất vụ lợi, chẳng màng báo đáp, cũng chẳng mảy may cầu cạnh lợi danh. Nhân ái phục vụ, cảm thương phục vụ tha nhân, vì những người nghèo nàn, đói rách, cô quả, cơ nhỡ, đau yếu chính là hiện thân cụ thể của Đức Giêsu Kitô đang chịu đau khổ. "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mt 25, 34- 36)
Thấm nhuần Lời Chúa, Thánh Phaolô ân cần khuyên nhủ, mời gọi tín hữu vùng Galát, cũng như tất cả tín hữu Kitô ở mọi thời đại và mọi nơi:”Hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau!” (Gl 5, 13)
“Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói, mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt, mà tay trái không biết. “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con.”(Đường Hy Vọng, số 755)
Khiêm tốn phục vụ
Phục vụ không phải là trịch thượng ban phát ơn huệ, thương hại gia ân, đua nhau làm công quả, mà cần thiết âm thầm, khiêm tốn, tự hạ mình xuống ngang tầm, ngang vai, đồng cảm, chia sẻ với người được giúp đỡ, phục vụ. Kín đáo, lặng lẽ phục vụ, chia sẻ làm sao tay phải đừng cho tay trái biết, như Đức Giêsu từng dặn dò, nhắn nhủ rất thấu đáo.
Khiêm nhường, chân tình, thân mật, chan chứa yêu thương phục vụ, noi gương Đức Giêsu đích thân lấy khăn thắt vào lưng, đổ nước vào chậu, rửa chân cho từng môn đệ, lấy khăn thắt lưng mà lau. Chẳng thể nào có ai khiêm hạ phục vụ hơn thế nữa !“Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 13-15)
Hân hoan phục vụ
Đức Kinh lược Roancalli luôn lạc quan, hân hoan, vui vẻ đi thăm mục vụ các địa phận trong nước Bảo Gia Lợi và Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù ngài gặp biết bao gian truân, hiểm nguy thách thức trên đường. Hẳn ngài đã rất đồng cảm với các Tông Đồ bước đầu đi rao giảng: “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu.” (Cv 2, 41)
Thánh Phaolô đã không quên khuyên nhủ các tín hữu Kitô luôn trung thành, nhiệt thành và vui vẻ phục vụ trong bất kỳ công việc nào được trao phó: “Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì hãy vui vẻ.” (Rm 12, 7-8)
“Nếu con làm vì Chúa, tại sao con nản lòng? Càng gian truân con càng vui tươi, như Gioan và Phêrô bị đánh đập ở hội đường “ra về vui vẻ vì được xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa”, như Phaolô: “Tôi tràn đầy vui tươi giữa những thử thách của tôi.” (Đường Hy Vọng, số 536)
Hy vọng phục vụ
Dấn thân phục vụ không chút ngần ngại, nửa vời với niềm hy vọng sâu xa là phục vụ chính Chúa Giêsu hiện diện ngay trong những người khốn khổ, đói rách, nghèo nàn, tàn tật, cô đơn,..
Chức vị càng cao càng cần hăng say phục vụ, vì có nhiều khả năng, phương tiện và nhân sự hỗ trợ, nếu dám xả kỷ vị tha, nếu dám hy sinh và dâng hiến cuộc đời cho Chúa và tha nhân.“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy."(Ga 12, 25-26)
Chớ gì từng Kitô hữu đều thấm nhuần lời tuyên bố lẫy lừng của Đức Giêsu, để làm kim chỉ nam cho cuộc đời: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và trao mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người.”
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường mê muội cái bả danh lợi, quyền hành, chức tước, địa vị, không thua kém hai ông con Dêbêđê. Xin Chúa soi sáng và ban chúng con can đảm tránh xa và dứt khoát đoạn tuyệt với thói ăn trên ngồi trốc, để chúng con dám xả thân phục vụ Tin Mừng, cũng như tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn yêu thương, khiêm nhường, gần gũi với những người khốn khó nghèo nàn, như các mục đồng, đến đôi tân hôn khó khăn, để ân cần chia sẻ và giúp đỡ. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
Xin cho hai anh em chúng con, một người ....... thiết tưởng theo tư duy tự nhiên, thì lời khẩn cầu của TN29-B90
“Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”; thiết tưởng theo tư duy tự nhiên, thì lời khẩn cầu của hai anh em nhà Dê-bê-dê rất chính đáng. Phải chăng rất nhiều người chúng ta cũng đã từng có những ước muốn ‘chính đáng’ tương tự; chúng ta đã chẳng mơ ước được một chỗ cao sang trên thiên đàng, được giầu công nghiệp trước mặt Chúa, được phần thưởng trọng hậu là gì? Các môn đệ khác, chứ không cứ gì hai anh em, cũng đã không ít lần bàn cãi về chuyện đó, xem: “ai sẽ là người lớn nhất trong nước trời”. Trước thao thức của các ông, hình như Đức Giêsu muốn nhắc nhở rằng: công nghiệp hay chỗ cao trên thiên đàng là việc dành riêng cho Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”, môn đệ chân chính không nên quan tâm tới. Nếu hiểu đúng ý Đức Giêsu, thì điều duy nhất cần quan tâm trong việc sống Tin Mừng sẽ chỉ là theo sát Đức Kitô Thập Giá, và theo cho tới cùng, là “Uống chén thầy sắp uống, chịu phép rửa thầy sắp chịu”.
Trước hết, Kitô hữu chúng ta cần biết rõ: ‘chén của Thầy, phép rửa của Thầy’ là gì; trên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh báo các môn đệ về cuộc thương khó và phục sinh sắp xảy ra (xem Mc 10:32-34), tuy nhiên bài học này lúc đó hình như các ông không kham nổi, đơn giản là vì các ông không thể hình dung nó sẽ ra sao? Kitô hữu chúng ta ngày nay thì không lạ lẫm gì về diễn biến Thập Giá, khi Đức Giêsu (Lời Thiên Chúa) tự hiến để phục vụ lợi ích thiết thực của con người nhân loại tội lỗi. Thập Giá là bằng chứng thuyết phục rằng: Người đến không phải để luận phạt theo lẽ công bình, mà để hiến mình cứu độ, qua đó chỉ cho mọi người thấy một Chúa Cha vô cùng nhân ái; chính vì vậy mà, trước cuộc thương khó, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, một biểu tượng của hạ mình phục vụ để thanh tẩy và tha thứ (xem Ga 13). Qua hành động này, Đức Giêsu chắc hẳn không nhằm dạy các môn đệ mình một ‘chiến thuật’ để chinh phục và cai trị thiên hạ, như Lão tử - nhà hiền triết Trung Hoa đã từng vịnh rằng: “Sông, biển để làm gì, để cai trị trăm ngàn thung lũng? Nó đặt mình nằm dưới tất cả và vì thế nó cai trị hàng trăm thung lũng. Nếu thánh hiền muốn làm đầu dân tộc hãy học nói năng cho khiêm tốn. Nếu muốn lãnh đạo dân hãy đặt mình vào chỗ rốt hết”; Những lời khôn ngoan thật đấy, nhưng đâu phải là Tin Mừng!
Môn đệ là những người ‘theo Đức Kitô’, vì thế họ có thể tự hào: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo thầy” (Mc 10:28). Nhưng họ cũng cần hiểu rằng: từ bỏ là để đi con đường Thầy đi, và đó là con đường phục vụ, phục vụ tới độ tự hủy, tới độ hiến cả mạng sống mình; “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Điều khó chấp nhận nhất chính là: sự vĩ đại của Thiên Chúa mà lại đồng hóa với việc cúi xuống phục vụ người thấp hèn. Thầy Giêsu đã làm gương và dạy môn đệ làm theo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”.Phải mất một thời gian dài nữa, các ông mới hiểu được điều này; phải đợi tới khi được Thấn Khí tác động, các ông mới dứt khoát “trở nên mọi sự cho hết mọi người…”
Kitô hữu chúng ta cũng vậy thôi! Quyết định theo Chúa đấy, nhưng bài học quên mình phục vụ thì mãi vẫn chưa thuộc. Lý do là vì, chúng ta mơ ước quá nhiều về thiên đàng, còn chiêm ngắm Thập Giá thì lại quá ít. Duy nhất Thầy Giêsu mới là đường, là chân lý, và là sự sống! Do đó thiên đàng không phải là cùng đích, nhất là cái thứ thiên đàng mà ta vẫn thường vẽ ra trong đầu. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân ái và xót thương, thì thiên đàng phải là nơi chan hòa nhân ái; bên hữu hay bên tả của Thiên Chúa nhân ái trên thiên đàng đó sẽ chỉ dành cho những ai có lòng thương xót mà thôi; “Phúc thay những ai xót thương, vì họ sẽ đươc Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).
Nếu vậy, lạy Cha nhân ái, xin cho con được ngồi bên hữu Cha; không phải vì con đạo đức thánh thiện hơn người, nhưng chỉ vì con nhận biết Cha hằng xót thương những con người yếu hèn, nên sẽ yếu mến sự hèn kém của con. Đặc biệt, thể theo lời mời gọi của Cha, con sẽ quyết tâm chia sẻ lòng thương xót đó cho mọi người, đặc biệt cho các tội nhân thấp kém. Amen.
Đức Hồng Y Roncalli đi xa về, phái đoàn tòa giám mục ra đón. Ngài vừa bước xuống xe, mọi người TN29-B91
Đức Hồng Y Roncalli đi xa về, phái đoàn tòa giám mục ra đón. Ngài vừa bước xuống xe, mọi người ngạc nhiên thấy trên áo còn mấy cọng rơm. Có người hỏi thì ngài cười xòa vui vẻ, nhưng các kẻ đi theo ngài thì biết rõ căn do. Trên đường về, ngài thấy chiếc xe bò chở rơm sa hố. Ngài bảo dừng xe lại, xuống phụ đẩy với anh nông dân, nên áo dòng của ngài dính rơm như thế.
Và sau khi lên ngôi Giáo hoàng, ngài lấy tên là Gioan XXIII, ngài vẫn sống giản dị và hy sinh phục vụ như thế. Chẳng hạn một hôm giáo triều báo động “Đức Giáo hoàng mất tích.” Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân ở khám đường Rôma.
2. Hy sinh phục vụ là niềm vui
Vị sáng lập Cộng đoàn Emmaus là cha Pierre, chuyên lo phục vụ người nghèo. Cha kể một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha là một cựu tù nhân lang thang không nhà không cửa. Người đàn ông này thất vọng chán đời đến nỗi dùng dao cắt mạch máu trên tay mình để tự vẫn. Thấy vậy có người điện thoại cho cha hay. Cha lập tức đến nơi, thấy người đàn ông với cánh tay máu chảy đầm đìa. Cha không an ủi mà nói như ra lệnh.
- Anh không được tự vẫn. Còn rất nhiều người kém may mắn hơn anh. Họ đang cần sự giúp đỡ của anh. Và chính tôi cũng đang bệnh và tôi cần đến anh…
Nghe những lời đó, người đàn ông với đôi mắt lờ đờ bỗng sáng lên. Anh để cho người ta băng lại vết thương, và từ đó trở thành cộng sự viên đắc lực của cha Pierre, tận tụy hy sinh phục vụ người nghèo khổ bất hạnh.
3. Hy sinh phục vụ trong gia đình trước
Cậu bé nọ đi học về trễ mãi mà không có lý do. Cha mẹ cậu hết lời khuyên bảo, nhưng cậu cứ chứng nào tật nấy. Quá thất vọng, cha cậu gọi cậu và nói, “Lần sau nếu con còn về trễ nữa, con chỉ được ăn tối với bánh mì và nước lã thôi, ngoài ra con không được ăn thứ gì khác. Con nghe rõ chưa?” Cậu bé nhìn cha nó và gật đầu.
Nhưng vài ngày sau, cậu lại đi về trễ hơn mấy ngày trước nữa. Tối hôm đó, khi mọi người vào bàn ăn, cậu bé thấy trên đĩa của cha cậu đầy dẫy thức ăn, trên đĩa của mẹ cậu cũng thế. Còn đĩa của cậu chỉ có ổ bánh mì, bên cạnh là một ly nước lã. Nhìn thấy đĩa thức ăn của mình, cậu bé buồn tủi đến nỗi chảy nước mắt. Phần vì bụng đói, phần vì biết chắc không thể nuốt trôi. Đây chính là hình phạt cha mẹ cậu đã nói trước.
Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, cha cậu lặng lẽ cầm lấy đĩa thức ăn của cậu đặt trước mặt ông, rồi lấy đĩa thức ăn của ông đặt xuống trước mặt cậu. Cậu bé hiểu ngay việc cha cậu làm. Vì thương cậu, cha cậu hy sinh nhận lấy hình phạt thế cho cậu.
4. Nếu trả lời có
Bác sĩ Lloyd Judd hành nghề ở vùng quê Oklahoma. Nhiều bệnh nhân của ông nghèo và không có phương tiện di chuyển. Vì thế ông thường phải lái xe đến nhà họ và chữa trị cho họ. Một ngày nọ, bác sĩ đau nặng, phải nhập viện và khám phá mình mắc căn bệnh ung thư ở giai đoạn cuối. Ông nghĩ đến các con nhỏ của ông. Ông có nhiều điều muốn nói với chúng, nhưng chúng còn quá nhỏ chưa thể hiểu được. Do đó, ông ghi điều ông muốn nói vào một số cuốn băng. Ông nói với các con:
- Các con có sẵn sàng ra khỏi nệm ấm, xông vào đêm tăm tối giá lạnh, và lái xe suốt 20 dặm để thăm bệnh nhân, dù biết rằng họ không có tiền trả, và họ có thể chờ đến sáng chỉ để được chữa trị không? Nếu các con có thể trả lời “có,” tức là các con có thể theo học y khoa được.
5. Vua phục vụ
Vào thời thập tự chinh, hoàng đế Philippe Auguste có làm cử chỉ đặc biệt. Trước mỗi lần lên đường ra trận, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu xuống đặt nó trên bàn rồi ghi dòng chữ, “Dành cho người nào xứng đáng nhất.” Sau đó ông quy tụ quan quân lại và yêu cầu họ hãy quên ông là vua mà chỉ coi ông là người chỉ huy của họ thôi. Ông nói, “Chiếc vương triều này được dành cho người nào xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.”
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất tốt đẹp. Mọi người hát khúc khải hoàn ca trở về quê hương. Họ tụ hợp lại xung quanh vương triều, một viên cận thần tiến đến cầm lấy chiếc vương triều trước mặt vua và nói, “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất!”
6. Hòn đá vấp ngã.
Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
- Vì lý do gì ông cười như vậy ?
Ông ta trả lời:
- Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không ? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú TN29-B92
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.
Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).
Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.
Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:
“Lạy Chúa từ nhân Xin cho con biết mến yêu Và phụng sự Chúa trong mọi người
Lạy Chúa xin hãy dùng con Như khí cụ bình an của Chúa Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục Ðem an hòa vào nơi tranh chấp Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm Ðem niềm vui đến chốn u sầu
Lạy Chúa xin hãy dậy con Tìm an ủi người hơn được người ủi an Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí Ơn an bình”.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần .......Các con thiếu nhi thương. Thời Thế chiến TN29-B93
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”
Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? “. Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Các con thiếu nhi thương,
Thời Thế chiến, một tù nhân đã vượt ngục trốn khỏi trại tập trung Auschwitz, một nhà tù khét tiếng tàn ác của Đức Quốc Xã tại Ba Lan. Để cảnh cáo những tù nhân còn lại, bọn cai ngục đã bắt mười tù nhân khác phải chịu tử hình để thế mạng. Chúng chỉ ra mười tù nhân, trong đó có một người là bố trong một gia đình. Khi mười nạn nhân bước ra khỏi hàng, thì một người tù khác, cha Maximilianô Kolbê, một linh mục dòng Phanxicô, đã tiến ra và tình nguyện chết thay cho người cha gia đình kia.
Viên sĩ quan cai tù sửng sốt, nhưng cũng chấp nhận lời đề nghị kia. Và Cha Maximilianô đã chết (ngày 14/08/1941). Trong nghi thức phong hiển thánh cho vị tử đạo được cử hành 41 năm sau, người ta đã chứng kiến gương mặt giàn dụa nước mắt của người cựu tù năm xưa đã được thánh nhân thế mạng được truyền hình trên khắp thế giới (10/10/1982).
Ông ấy đã gặp được một con người thực sự có lòng yêu thương: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13).
Các con thiếu nhi thương,
Câu chuyện của cha Maximilianô Kolbê mà các con vừa nghe có vẻ đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên của Nhóm Mười hai Tông đồ trong thời gian đầu đi theo Chúa Giêsu. Các ông muốn nắm hai chức vụ lớn nhất trong Vương quốc mà các ông tưởng rằng Chúa Giêsu sắp thiết lập, điển hình là hai anh em nhà Dêbêđê là ông Giacôbê và ông Gioan.
Hai ông đã xin gì, các con biết không? Thưa, hai ông đã xin rằng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời, như thách thức hai ông cũng như các Tông đồ còn lại: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”.
Đức Giêsu cố ý nói đến cơn hấp hối và cái chết mà Người phải chịu. Hai anh em được thách đố để theo Đức Giêsu đến cùng.
Đức Giêsu kết thúc cuộc trao đổi bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: “Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu”. Nghĩa là hai anh em phải bước theo Đức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Các con thương,
Sau này, khi Chúa Giêsu về trời, các vị Tông đồ Giacôbê và Gioan cùng với các Tông đồ khác đã hiểu được lời của Chúa Giêsu: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Và các Tông đồ đã đem ra áp dụng trong đời sống của mình, khi hầu hết các ông đã chịu chết vì Danh Chúa trong khi các ông phục vụ công việc rao giảng Tin mừng. Làm như thế, các ông đã bắt chước Thầy của mình là: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Các con thương,
Thầy Giêsu, các Tông đồ, Cha thánh Maximilianô đã “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”, trong số đó có cha, có các con và nhiều người khác nữa. Ngày nay, noi gương Thầy Giêsu, các Tông đồ và thánh Maximilianô Kolbê, thiếu nhi có thể làm gì để phục vụ và hiến mạng vì người khác? Cha nghĩ rằng, các con có thể làm những việc nhỏ cụ thể sau đây:
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con biết nghĩ tốt cho bạn bè, không ghen tị, nói xấu hay chửi tục;
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con bớt tiền ăn sáng để đóng góp cùng với nhiều người để cứu giúp những người nghèo khổ, già cả, bệnh tật…
– Phục vụ và hiến thân vì người khác là các con học biết yêu mến Chúa Giêsu và bắt chước thánh Maximilianô Kolbê lòng yêu mến Đức Maria qua tràng chuỗi mân côi trong tháng Mân côi này và đặc biệt trong tháng Mân côi.
Thực hành:
1. Biết sống vì mọi người bằng cách sẻ chia vật chất với ai nghèo khó.
2. Noi gương Chúa Giêsu, tập sống đời phục vụ.
Tâm niệm: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau
1. Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã xin với Chúa Giêsu điều gì? 2. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã dạy họ bài học gì? 3. Để được ở bên Thiên Chúa, các con cần phải trở nên như thế nào?
Đây là câu chuyện vạch rõ cho chúng ta thấy được nhiều điều hay, về 3 tuyến nhân vật: (1) về Matcô, TN29-B94
Đây là câu chuyện vạch rõ cho chúng ta thấy được nhiều điều hay, về 3 tuyến nhân vật: (1) về Matcô, người thuật chuyện; (2) về hai anh em kia, nhân vật phản diện ; và (3) về Chúa Giêsu, nhân vật chính diện
1. Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về Maccô
Matthêu cũng kể câu chuyện này (Mt 20, 20-23) nhưng lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra, nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ Matthêu cảm thấy rằng một lời yêu cầu như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nên nhằm cứu vãn tiếng tăm cho Giacôbê và Gioan, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ. Còn Matco nói rõ: chính 2 ông đến xin. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự thành thực của Maccô.
Người ta kể rằng có một họa sĩ trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell là người đầy mụn cóc. Nghĩ là để làm vui lòng Oliver, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi Cromwell thấy như vậy ông nói "dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức đầy đủ các mụn cóc".
Mục đích của Maccô là muốn chúng ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Khi mười người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông. Không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người bình thường, đầy mụn cóc.
Chúa Giêsu đã dùng những con người tầm thường thế đó để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
2. Câu chuyện cho chúng ta biết vài điều về Giacôbê và Gioan.
- Hai ông vốn có nhiều tham vọng. Họ nhắm những chức vụ cao nhất trong vương quốc của Chúa Giêsu khi cuộc chiến đã thắng và sự khải hoàn đã trọn vẹn. Có thể tham vọng đó đã manh nha, vì nhiều lần Chúa Giêsu từng biệt riêng họ ra trong số ba người chọn lọc tin cẩn. Hiển dung, chữa lành em bé chết sống lại, Lc 8, 51, vườn cây dầu. Có thể họ đã có một chỗ đứng khá hơn những tông đồ khác, dám xin lửa từ trời xuống thiêu đốt làng không cho thầy trò đi qua.
Thân phụ họ vốn khá giả đủ để thuê người giúp việc nên họ tưởng rằng ưu thế và địa vị xã hội có thể giúp họ chiếm được địa vị hàng đầu. Họ lại quen thượng tế: đâu phải dễ. “Môn đệ kia vì quen thượng tế, nên cùng với Chúa Giêsu vào sân trong tư dinh thượng tế” (Ga 18,15). Cho nên với câu chuyện xin xỏ nầy, để lộ cho thấy họ là những con người từ nơi sâu kín của lòng, có tham vọng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong vương quốc trần gian.
- Nó cho chúng ta thấy hai ông hoàn toàn không hiểu Chúa Giêsu. Điều lạ lùng đối với chúng ta không phải là sự kiện ấy đã xảy ra, nhưng là thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra. Lời yêu cầu này khiến chúng ta phải bàng hoàng vì nó được đưa ra hầu như trùng hợp với lúc Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát và báo trước chi tiết về cái chết của Ngài. Chứng tỏ họ đã hiểu quá ít ỏi những gì Chúa Giêsu nói. Lời lẽ của Ngài đã không gột rửa được ý niệm về Đấng Messia với quyền thế và vinh hiển thế gian, vốn ăn sâu trong tâm trí hai ông. [Chỉ có thập giá mới làm nổi việc ấy mà thôi.]
- Nhưng sau khi đã nói tất cả những gì có thể nói chống lại Giacôbê và Gioan thì câu chuyện này cho chúng ta thấy một điểm sáng chói về hai ông là: dù họ đang bàng hoàng, bối rối, họ vẫn tin vào Chúa Giêsu.
Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn còn gắn liền vinh quang với một người thợ mộc dân Galilê, người đã bị các cấp lãnh đạo chính thống giáo thù ghét, chống đối kịch liệt và rõ ràng đang tiến đến chỗ nhận lấy thập giá. Đây là một lòng tin cậy tập trung đáng cho chúng ta phải kinh ngạc. Họ vẫn đánh cuộc, vẫn “bắt” Giêsu (như trong cá cược bóng đá, biết một đội đủ mặt yếu, mà vẫn nhìn thấy được tương lai, tin mãnh liệt, để “bắt” đội đó thắng !). Dù Giacôbê và Gioan đã phạm sai lầm, tấm lòng của họ vẫn nằm đúng vị trí đáng phải có. Họ chẳng hề hoài nghi gì về chiến thắng khải hoàn tối hậu của Chúa Giêsu.
3. Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về tiêu chuẩn vĩ đại của Chúa Giêsu.
Chúa nói: ai muốn làm lớn (vĩ đại), phải trở nên người nhỏ nhất. Ai muốn làm đầu, phải hầu thiên hạ.
Câu nói xem ra nghịch lý nhưng sự đời lại thường như vậy, kiểu như câu nói cán bộ lớn đi xe con, cán bộ nhỏ đi xe lớn.
Nhà chiến lược kinh doanh Bruce Barton chỉ cho thấy rằng căn bản là một hãng ôtô dựa vào để lưu tâm của khách hàng là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe bạn thường hơn, chịu dơ bẩn bất cứ lúc nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn, thì hãng xe của họ lớn mạnh hơn.
Barton cũng chỉ cho thấy rằng trong khi người thư ký bình thường có thể đi về nhà từ 5 giờ 30 chiều, thì ánh đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến tối. Vì sẵn sàng phục vụ thêm giờ mà người ấy đứng đầu xí nghiệp.
Mẹ Têrêxa Calcutta phục vụ những người hèn mọn nhất, những người hấp hối không một chút tiện nghi tối thiểu, những trẻ em bị bỏ rơi, mà rồi trở nên vĩ đại, đến nỗi khi chết, Ấn Độ, một nước Ấn giáo là quốc giáo, cử quốc tang với 21 phát súng tiễn mẹ.
Hôm nay cũng là lễ cầu nguyện cho truyền giáo. Sứ điệp truyền giáo năm nay của ĐGH có chủ đề: “Cùng với người trẻ, chúng ta mang Tin Mừng cho tất cả mọi người” nhân Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang họp tại Roma về chủ đề người trẻ.
Có 1 ông đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá còn trẻ, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: ‘Chị quỳ làm gì thế ?’. Chị trả lời: ‘Tôi cầu nguyện cho ông’. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa. Khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Việc xin ngồi bên hữu bên tả của Thầy rút ra bài học hay này: Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa. Bên phải bên trái là sát bên Thầy. Mà Chúa đồng hóa mình với người tôi tớ, người bé nhỏ, người hèn mọn, cho nên càng là người tôi tớ, càng phục vụ, càng được ở gần Thầy.
Anphong Nguyễn Công Minh, ofm (theo gợi ý của cha Ngọc Hàm)
Sách Giáo Lý Thêm Sức cho các em cấp 2, bài 12 có câu hỏi thưa số 31: H. Vì sao con Thiên Chúa TN29-B95
Sách Giáo Lý Thêm Sức cho các em cấp 2, bài 12 có câu hỏi thưa số 31:
H. Vì sao con Thiên Chúa xuống thế làm người?
T. Con Thiên Chúa xuống thế làm người vì bốn lẽ này: - Một là để cứu chuộc ta khỏi tội lỗi, - Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa, - Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện, - Bốn là để ta được kết hợp với người mà trở nên con cái Thiên Chúa.
Sau khi các em đọc câu hỏi thưa 3 lần, cô Giáo Lý Viên hỏi: “Có em nào biết chữ “chuộc” nghĩa là gì không?” Một em nhanh nhẹn giơ tay xin trả lời: “Thưa cô, chuộc là xin lại. Ví dụ như mình mất cái điện thoại, biết người lượm được, tới xin lại”. “Đúng chưa các em”. “Thưa cô chưa đúng. Tới xin không chắc gì người ta cho lại. Phải đưa tiền chuộc cô ạ!”
…Con người sa ngã phạm tội phản nghịch Thiên Chúa, con người thuộc về Satan, sự dữ, bị Satan làm chủ, thống trị. Thiên Chúa Cha “chuộc tội” cho thiên hạ, tức là, cho con người tái thuộc về Thiên Chúa, thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa, trở lại làm con Thiên Chúa không bằng tiền, không bằng vàng, không bằng ngai tòa Thiên Chúa cao sang quyền quí, nhưng bằng chính Con Một Mình, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Ngài đến để yêu thương và phục vụ cho đến chết.
Cảm ơn cô Giáo Lý Viên.
Vâng, bài đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia loan báo về Đức Giêsu: "Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu" (Is 53, 10 – 11).
Chúa Giêsu là Lễ Vật Đền Tội đẹp lòng Thiên Chúa Cha nhất, nhờ lễ vật ấy, mà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha mở ra, đón nhận lại con người tội lỗi đã được rửa sạch nhờ máu Con Của Ngài.
Chúng ta, những Kitô hữu, được ghi danh vào “dòng dõi trường tồn” nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Và khi đã được ghi tên mình vào danh sách ấy, hẳn phải cộng tác vào Ơn Cứu Chuộc bằng việc noi gương yêu thương phục vụ của Chúa. Đó là đức tin của chúng ta. Hơn nữa phải “giữ vững việc tuyên xưng Đức Tin của chúng ta”, nhờ đức trông cậy, vì lòng khiêm tốn nhận biết mình mỏng dòn yếu đuối (x. Dt 4, 14 – 16).
Ai dám nói mình không hèn mọn yếu đuối trước những cám dỗ của lòng kiêu ngạo về quyền bính, để được phục vụ hơn là phục vụ? Người càng chiều theo những khát khao phù du của lòng kiêu ngạo, càng chứng tỏ sự yếu đuối về Đức Tin về Đức Cậy và cả về Đức Kính Mến Thiên Chúa.
Chuyện hai anh em nhà Dêbêđê: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy" là chuyện thường tình rất con người của chúng ta.
Chúng ta có khác gì? Đôi khi còn tệ hơn nữa. Tệ hơn ở chỗ, không xin nhưng dùng mọi thủ đoạn hạ bệ người khác mà đưa mình lên cao. Chuyện ở đời, người ta thanh trừng nhau để kiếm một địa vị xã hội đã đành, trong Giáo Hội, tâm trạng khắc khoải bồn chồn vì sợ ảnh hưởng của người khác hơn mình vẫn cứ đeo bám.
Giáo Sĩ phải được trọng vọng, được kính nể hơn Giáo Dân, bất kể cuộc sống của ngài như thế nào đi nữa. Linh Mục phải là người lãnh đạo, là người quyết định tối hậu mọi chuyện trong Giáo Xứ, không phải Giáo Dân. Giáo dân biết gì? Bởi vậy có Linh Mục đã từng tuyên bố không cần Hội Đồng Giáo Dân cho đông người, chỉ cần hai người biết nghe gì làm nấy là đủ.
Cái ảo tưởng quyền bính thế gian đã xâm nhập vào Giáo Hội từ lâu rồi, đến mức Giáo Dân phải mang lấy những cái ách nặng nề không đáng có, rồi dù có thấp cổ bé miệng cách mấy cũng phải la toáng lên: Chúa ơi, đây là thời kỳ thống trị của Giáo Sĩ, thời kỳ Giáo Sĩ trị. Thời kỳ ấy có vẻ như vẫn còn kéo dài tới hôm nay!
Không dừng lại ở các Giáo Sĩ, mà bệnh quyền bính còn lây lan sang những Giáo Dân cộng tác, gần gũi với Giáo Sĩ, học đòi cách ăn cách nói cách ứng xử quyền bính mà xem thường kẻ khác cách quá đáng.
Một ông mới được cha sở chỉ định làm Trùm một họ lẻ, đã có thể đập bàn quát tháo với anh em rằng: “Tôi đã bảo không thể là không thể”, hoặc hù dọa bà con rằng: “Sao? Có muốn chôn trong Đất Thánh không đấy?”
Tội nghiệp cho ai bây giờ?
Theo tôi thì thật là tội nghiệp, thật là đáng thương cho những người tưởng mình có quyền bính và dùng quyền bính ấy khiến cho mọi người phải vâng dạ cả những chuyện sai trái, mọi người phải phục vụ mình xứng đáng.
Chúa Giêsu nào muốn cho các môn đệ của Ngài có lối hành xử như vậy? Có Chủng viện nào có đường lối đào tạo linh mục như vậy? Chẳng là vì con người ấy chỉ tu thân cho đến lúc đạt được chức linh mục thôi sao? Đạt được rồi, không cần tu thân nữa sao?
Chúa Giêsu trả lời cho người xin địa vị, quyền bính mà không xin hiến mình phục vụ rằng: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?”
“Uống chén Thầy sắp uống” hẳn không phải uống chén quyền bính, nhưng là uống chén yêu thương, phục vụ, và yêu thương, phục vụ cho đến chết.
Năm Đức Tin mở ra, để mọi người nhìn lại mà sám hối cải thiện cách sống đức tin của mình. Tin vào Chúa Giêsu là phải sống như Chúa Giêsu đã sống. Nếu không sống như Chúa Giêsu đã sống yêu thương phục vụ, thì việc chúng ta rao giảng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa trở nên mất tác dụng, đôi khi còn phản tác dụng và trở nên trò cười hổ danh Thiên Chúa của chúng ta.
Tin Mừng hôm nay thiết thực mời gọi cách sống Đức Tin của những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, kể cả những Giáo Dân được tham dự vào những công việc của Giáo Hội:
"Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc 10, 42 – 45).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng con bằng lòng yêu thương phục vụ cho đến chết. Xin cho chúng con biết cộng tác vào ơn cứu chuộc bằng lòng yêu thương phục vụ hết mọi người. Amen.
Chạy đua tranh giành quyền lực, địa vị là điều thường thấy trong thế gian ở mọi nơi mọi thời. Đó TN29-B96
Chạy đua tranh giành quyền lực, địa vị là điều thường thấy trong thế gian ở mọi nơi mọi thời. Đó đây luôn có người tìm mọi cách để có được địa vị hay nắm được quyền hành trong xã hội, từ nhà nước, đến quyền lực của quân vương, lãnh chúa phong kiến, tới quyền lực của quốc hội, các đảng phái và của các tổ chức khác. Để đạt được mục tiêu, người ta sẵn sàng dùng mọi phương tiện, kể cả những phương tiện xấu nhất. Các môn đệ Chúa cũng không nằm ngoại cái đời thường ấy. Họ ước muốn ngồi trong hàng lãnh đạo cao nhất trong vương quốc vinh quang của Chúa Giêsu nghĩa là, khi Chúa Giêsu chiến thắng quân La mã, tái lập Vương quốc Israel. Lời họ cầu xin với đầy vẻ tự tin cho thấy họ theo đuổi cái hoàn toàn trần thế về đấng Messia.
Sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (x. Mc 8, 31-33) rồi lần thứ hai (x. Mc 9, 30-32), bài học về tư cách của người đứng đầu Chúa dành cho các môn đệ (x. Mc 9, 35-37), cách sử dụng danh Chúa trong cộng đoàn tín hữu dù là môn đệ hay không (x. Mc 9, 38-40); phần thưởng dành cho những ai sống xứng với danh Kitô hữu của mình (x. Mc 9,41); và đương nhiên kẻ làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em sẽ bị trừng phạt thích đáng (9,42), Chúa Giêsu loan báo tiếp cuộc thương khó lần thứ ba (x. Mc 10,32-34). Hôm nay, Chúa Giêsu cho các ông một bài học dài về tư cách của người làm lớn, người có quyền và nhấn mạnh đến sự phục vụ cần phải có đối với các môn đệ Chúa.
Chúng ta tiếp tục cùng với các môn đệ đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và chuyện "ai là người lớn nhất" trong họ vẫn đang được bàn tán, cho dù Chúa Giêsu nói cho họ biết là trong số họ, người lớn nhất là người sẵn sàng làm "tôi tớ cho anh em". Bài học đắt giá như thế, các ông chưa thuộc lòng, tâm trí các ông vẫn không thay đổi là bao, chính vì lẽ ấy mà dọc đàng các ông vẫn còn tham danh vọng, quyền hành và địa vị dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34), tệ hơn nữa Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Thầy vừa loan báo cuộc thương khó lần thứ ba xong thì Giacôbê và ông Gioan lại nghĩ đến ánh vinh quang đang đợi chờ Giêrusalem với Chúa Giêsu. Hai ông hẳn đã thống nhất với nhau giữ lại cho mình những vị thế quyền cao chức trọng, là sẽ được ngồi chỗ danh dự sau này.
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: "Ai trong các con muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm đầy tớ anh em" (Mc 10,44); Và Người nói tiếp: "Cũng vậy, Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người" (Mc 10, 45). Chúng ta không trách hai ông, bởi trên đường đi với Chúa Giêsu, hai ông đã thấy tận mắt Chúa làm nhiều phép lạ và lôi cuốn dân chúng. Hai ông nghĩ rằng khi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu sẽ được tôn vinh là vua, việc ngồi bên hữu bên tả trên ngai vinh quang, quyền thế là có thể. Chắc các ông không nghĩ đến một quền lực nào có thể lật đổ được Chúa Giêsu và đưa Người đến cái chết. Điều Giacôbê và Gioan nài van làm Chúa Giêsu có dịp một lần nữa nhấn mạnh: ai muốn theo Người thì sẽ làm "nô lệ cho tất cả" (Mc 10,44). Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để minh hoạ cho giáo huấn của Người thật rõ ràng. Cũng như Con Người tự nguyện làm nô lệ cho mọi người, như khi quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17), và chết bằng khổ hình thập giá dành cho các nô lệ, người kitô hữu bắt chước Chúa Giêsu cũng phải trở nên người phục vụ anh em.
Lời Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rằng, Nước Thiên Chúa không thuộc về thế gian này, chỉ gồm những người tranh giành quyền lực bằng bất cứ phương tiện nào, hay những kẻ tìm mọi cơ hội để lợi dụng. Trái lại, trong Giáo hội, quyền hành là để phục vụ. Chính Người nói với chúng ta: "Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống làm giá cứu chuộc cho mọi người" (Mc 10,45).
Hôm nay, chúng ta nhớ đến tất cả các linh mục, nam nữ tu sĩ và những người dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều người đang phải đối đầu với đau khổ, bao lực, bách hại, diệt chủng, đói kém. Tất cả chúng ta làm nên một Giáo hội. Trong chính thân thể Chúa Kitô, khi một chi thể đau đớn thì toàn thân đều mang lấy hậu quả. Sứ mạng của Giáo Hội trước tiên là phục vụ, vì thế Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy dấn thân hơn nữa trong việc cầu nguyện, chia sẻ và loan báo Đức Giêsu Kitô. Amen.
Theo Chúa lâu năm, nhưng các Tông đồ vẫn đang còn nuôi mộng làm lớn. Tin mừng hôm nay TN29-B97
Theo Chúa lâu năm, nhưng các Tông đồ vẫn đang còn nuôi mộng làm lớn. Tin mừng hôm nay cho biết, hai ông Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”(Mc 10,37). Mười môn đệ kia, mặc dầu không công khai nói lên điều đó, nhưng khi nghe hai ông lên tiếng, họ đã tỏ thái độ“bực tức”. Chứng tỏ họ cũng không hơn gì hai ông, thích tranh dành quyền lực.
Chúa Giêsu giải thích về sứ mạng của Ngài và mời gọi các ông thông phần: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định"(Mc 10,39-40). Nhân dịp này, Chúa cũng dạy cho các ông bài học về việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10, 43-44). Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta tìm hiểu về tinh thần phục vụ nơi Chúa Giêsu và tinh thần phục vụ của con người qua mọi thời đại.
1. Tinh thần phục vụ nơi Chúa Giêsu
Trong Kinh tin kính chúng ta đọc rằng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thật vậy, cả cuộc đời của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho đến lúc chịu chết trên thập giá, là một chuỗi thời gian phục vụ: Sinh ra trong hang đá nghèo nàn. Lớn lên trong gia đình Nazareth đơn sơ. Trong ba mươi năm sống ẩn dật, Ngài làm nghề thợ mộc kiếm sống. Ngài làm nhiều việc như những người khác (ngoại trừ tội lỗi) để giúp đỡ Thánh Giuse và Mẹ Maria. Đặc biệt, Ngài hằng vâng phục hai ông bà. Trong ba năm hoạt động công khai, tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách rõ nét hơn.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc chọn lựa và huấn luyện các tông đồ. Từ những người quê mùa, dốt nát, ham danh tranh lợi, Chúa đã kiên nhẫn huấn luyện họ trở thành những tông đồ chân chính.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc kiên trì giảng dạy. Mặc dầu “Lời giảng của Ngài có uy quyền” làm cho nhiều người thán phục, nhưng cũng không ít người phản đối, lên án, thậm chí bỏ Ngài mà đi. Dầu vậy, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy, khuyên nhủ trong tinh thần kiên trì, nhẫn nại và yêu thương.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua những phép lạ Ngài làm. Cho kẻ què được đi. Kẻ câm nói được. Kẻ điếc nghe được. Kẻ mù được thấy. Kẻ chết sống lại. Ngài chữa bệnh cho những người bị bệnh phong cùi, người đàn bà bị bệnh loạn huyết mười hai năm. Ngài cho ông Lazarô đã chết bốn ngày được sống lại… Ngài cảm thông những nỗi yếu hèn của loài người vì chính bản thân Ngài cũng từng trải qua đau khổ(x. Bài đọc II).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người tội lỗi: Những người thu thuế và các cô gái điếm. Ngài cho họ cơ hội cải tà quy chính, trở thành người tốt.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc quan tâm đến những người không có chỗ đứng trong xã hội thời bấy giờ, đó là các trẻ em và các phụ nữ. Ngài nói với các tông đồ: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng”(Mt 19,14).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách cụ thể nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đỉnh cao của việc phục vụ là Ngài tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn, hy sinh tính mạng của mình vì người mình phục vụ như lời Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Ngài chính là Người Tôi Tớ Giavê bị nghiền nát vì đau khổ để hiến thân làm lễ vật đền tội và làm cho muôn người nên công chính (x. Bài đọc I).
2. Tinh thần phục vụ nơi con người qua mọi thời đại.
Nhà tu đức Jean Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính: Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị. Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ(x. SCĐ CHÚA NHẬT XXIX TN.B).
Thật vậy, nhìn vào Giáo hội và xã hội hôm nay, chúng ta vẫn thấy tồn tại hai thứ quyền bính trên.
May mắn cho Giáo hội và xã hội vì có rất nhiều những con người phục vụ vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Đó là tinh thần phục vụ của các tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần. Đó là tinh thần phục vụ của Giáo hội qua mọi thời đại. Đó là tinh thần phục vụ của Mẹ Têrêxa Cacutta. Tinh thần phục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tinh thần phục vụ của những người cha người mẹ trong gia đình tận tuỵ hy sinh vì con cái. Tinh thần phục vụ của những người thầy cô giáo vì các học sinh thân yêu. Tinh thần phục vụ của các bác sĩ, y sĩ vì các bệnh nhân. Tinh thần phục vụ vì người nghèo, vì những người thấp cổ bé miệng. Họ phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích người mình phục vụ.
Nhưng vẫn còn đó rất nhiều người trong đạo ngoài đời dùng quyền để “Sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân”(x. Mc 10,42). Họ phục vụ vì mình, vì tiền, vì lợi ích phe nhóm: Thích đến với người giàu, người có chức quyền, ngại gặp người nghèo, người thấp cổ bé miệng. Vì vậy, đối tượng ưu tiên để họ phục vụ là người giàu, người có chức quyền. Người có quyền, có tiền sẽ được phục vụ chu đáo. Người nghèo luôn bị bỏ rơi. Cho nên, vẫn còn đó những bệnh nhân không được phục vụ chu đáo và thậm chí còn bị chết oan trong bệnh viện vì không có tiền “Phong bì”. Có những người dân bị đánh đập dã man và chết oan tại các cơ quan công quyền. Có rất nhiều người nghèo đói, ốm đau bệnh tật không được ai quan tâm. Có thể họ là thành viên trong các cộng đoàn giáo xứ, thậm chí họ ở ngay trong gia đình của chúng ta.
Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi phục vụ kẻ khác theo địa vị và khả năng của mình. Là linh mục, tu sĩ, ban hành giáo, giáo lý viên, thành viên các hội đoàn, cha mẹ, vợ chồng, con cái… Chúng ta đang phục vụ với thái độ nào? Thống trị hay giúp đỡ? Phục vụ vì mình hay vì lợi ích của tha nhân?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có tinh thần phục vụ của Chúa, phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích của người mình phục vụ. Amen.
Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và TN29-B98
Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ...
Trong một cộng đoàn, đăc biệt là Giáo hội luôn cần một cơ chế, một thể chế lãnh đạo. Vì thế, vai trò của người lãnh đạo rất cần thiết, tuy nhiên, lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải theo cách hiểu và sự hành xử quyền bính của thế gian. Lãnh đạo trong Giáo hội là một thừa tác vụ, một chức vụ để phục vụ làm phát triển con người và cộng đồng.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 10,35-45
Ngay sau lời loan báo về cuộc Thương khó, xem ra các môn đệ chưa hiểu và chưa lãnh hội được mạc khải của Chúa Giêsu, các ông đã vội vàng cầu xin một địa vị, một chỗ tốt trong vinh quang Nước Chúa. Nhân đấy, Chúa Giêsu dạy một bài học về tinh thần phục vụ của người lãnh đạo.
1. Lời thỉnh cầu của anh em Giacôbê: Sau lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, Thánh Máccô tường thuật tiếp câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin được ngồi bên hữu và bên tả Chúa trong vinh quang. Rõ ràng lời thỉnh cầu của hai ông thật phi lý và ngây ngô trong bối cảnh này. Chúa Giêsu đã trách cứ các ông: không biết điều các ông xin. Điều các ông xin là quá lớn, không thuộc quyền Chúa Giêsu ban mà thuộc quyền Chúa Cha. Điều các ông xin quả là vô tâm và vô ích, trong khi Thầy đang nói đến cuộc khổ nạn, các ông chưa hiểu, chưa cảm thông, chưa can đảm theo Thầy mà đã vội đòi hỏi vinh quang, đòi chỗ tốt.
2. Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Trước yêu cầu của hai anh em Giacôbê, Chúa Giêsu mời gọi họ uống chén Người sắp uống và chịu cùng phép Rửa Người sắp chịu. Hai hình ảnh Chúa Giêsu dùng "chén và phép Rửa" có nghĩa là chấp nhận đau khổ, chấp nhận tử đạo. Do đó, vinh quang chỉ có thể có, nếu biết can đảm đi vào con đường thập giá với Thầy mình.
3. Con Người đến để phục vụ, chứ không phải để được người ta phục vụ: Lời thỉnh cầu của hai anh em Giacôbê đã tạo nên sự khó chịu nơi các môn đệ khác và cũng lộ ra tính ham địa vị, sự tranh dành địa vị giữa các ông. Chính các ông khi đi đường cũng đã từng tranh luận xem ai là người lớn nhất trong số họ. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, mọi chức tước, quyền bính, địa vị đều nhằm mục đích duy nhất là phục vụ. Các thủ lãnh trong cộng đoàn Giáo hội của Chúa phải hiểu chức vụ của mình là một sự phục vụ. Làm lớn là làm đầy tớ của anh chị em, của mọi người. Như Chúa Giêsu, Người đến để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người chứ không phải để thống trị, để bắt người khác phục vụ mình.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu lại phác họa và đòi hỏi các môn đệ của mình một khuôn mẫu ngược lại. Người lãnh đạo phải là người tôi tớ, người phục vụ. Chính Chúa Giêsu khi nói lên điều ấy, Người đã đi trước, đã thực hiện trọn vẹn điều Người giảng dạy. Người đã hiến mạng, đã phục vụ sự sống nhân loại. Chúa Giêsu là con người phục vụ.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Quyền bính trong Giáo hội đến từ sự phục vụ:
Các môn đệ xin Chúa được ngồi bên hữu và tả Người trong vinh quang, nghĩa là xin có một địa vị cao trọng, quyền thế trong Nước Chúa, trong cộng đoàn. Các ông cũng đã từng tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong số họ. Sự kiện này phản ánh não trạng tham chức, ham quyền, hám lợi danh của con người. Chỉ muốn mình được ở trên người khác, được người khác cung phụng, phục vụ. Lời dạy của Chúa Giêsu chỉ ra cách thế để có địa vị, để được làm lớn, làm lãnh đạo đó là hạ mình xuống làm đầy tớ phục vụ mọi người. Một lời dạy, một cách thế nghịch lý, nếu không muốn nói là phi lý. Đối với Chúa, điều làm nên môn đệ của Người không phải là quyền bính, chức tước mà là sự phục vụ. Quyền bính chỉ có thể đến với những ai biết phục vụ và chân thành phục vụ anh chị em mình. Ai càng biết hạ mình phục vụ, càng có uy thế trước cộng đoàn, trước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đi trước thực hiện trọn hảo điều Người dạy. Người đến để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại. Môn đệ Đức Kitô cũng phải đi vào con đường khiêm hạ phục vụ của Thầy mình. Ngày nay, là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta đã và đang hạ mình phục vụ như thế nào? Hay đang là những người mơ ước và tìm mọi cách ngay cả cách bất chính, bất công để tìm kiếm danh vọng địa vị trần thế.
2. Để trở nên đầy tớ mọi người:
Chức quyền danh vọng, địa vị, tự thân nó không xấu. Trong một cộng đoàn, một xã hội luôn cần có người đứng đầu để điều hành, lèo lái thì cộng đoàn ấy, xã hội ấy mới có thể vận hành tốt và tiến tới. Việc làm hết sức mình vì lợi ích chung, vì mọi người của người lãnh đạo là thái độ phục vụ chân thành. Ngày nay, người ta cũng đã nhận thức được lãnh đạo là phục vụ: nào là "đầy tớ của nhân dân"; quan chức là "nô bộc của dân"… Nhưng để sống tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải là chuyện dễ dàng. Theo tinh thần của Lời Chúa dạy, sự phục vụ có nghĩa là làm cho cộng đoàn được chăm sóc, mọi người được chăm lo, được lớn lên. Do đó, Kitô hữu trở nên người đầy tớ phục vụ anh chị em mình là làm cho họ được yêu thương, được quan tâm, được khơi dậy những tiềm năng phát triển đời sống toàn diện. Ngai vàng, quyền bính mà Chúa Giêsu hứa và mời gọi mọi người là hãy yêu mến như Người, hãy thí mạng sống vì tha nhân như Người.
IV. Lời cầu chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đến trần gian để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại chúng ta. Trong tâm tình tri ân, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Mọi quyền bính, phẩm trật trong Giáo hội đều là các thừa tác viên của Chúa, nghĩa là nhằm để phục vụ Giáo hội, con người và thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và Linh mục luôn thấm nhuần và sống đúng tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người như Chúa Giêsu đã sống và dạy dỗ.
2. Ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh chị em. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia được tràn đầy ơn thánh, luôn ý thức trách nhiệm phục vụ của mình để hết lòng tận tụy phục vụ, làm cho dân nước ngày càng phát triển, được thịnh vượng, tự do và hạnh phúc.
3. Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương phục vụ lẫn nhau trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ bằng sự hy sinh và sự giúp đỡ nhau chân thành.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để phục vụ nhân loại chúng con bằng việc hy sinh chết trên thập giá để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho mỗi người chúng con đây luôn biết mang lấy tinh thần phục vụ của Chúa để sống và đối xử chân thành với nhau trong cuộc sống hằng ngày. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Ai đi sáng tinh sương cũng có kinh nghiệm đi trong sương. Cái mát lạnh buổi tinh sương làm con TN29-B99
Ai đi sáng tinh sương cũng có kinh nghiệm đi trong sương. Cái mát lạnh buổi tinh sương làm con người tỉnh ngủ. Cảnh vật tươi mát, đầy sức sống mang lại niềm hy vọng ngày mới phá tan màn đêm. Ánh bình minh chan hoà sự sáng mang lại nhựa sống cho thảo vật, sinh vật. Sương sáng mang tươi mát, sự sống, niềm hy vọng nhưng sương sáng thường che đường, mờ lối người đi khiến không nhìn thấu suốt và cản trở tầm nhìn xa.
Đi đường mờ sương có nguy cơ sa hố. Sa hố ít nhiều gì cũng cản trở việc tiến tới, hay ít ra tinh thần hăng hái lúc đầu bị chùn lại, không còn mạnh chân tiến bước như lúc mới ra đi. Hơn nữa đường dài tiêu hao sinh lực nên người đi thường hoặc mong cho chóng đến nơi, hoặc mong được dừng chân lấy sức. Trường hợp của anh em Giacôbê và Gioan không mong sớm đến nơi mà mong tột đỉnh danh vọng. Không phải thích thú được ngồi bên phải, bên trái Thầy mà thích được liệt vào hàng ăn trên, ngồi trước. Đây không phải là ước mơ của riêng hai ông mà là ước mơ của các môn đệ theo Thầy. Nhìn thái độ ganh tị, không hài lòng của mười ông khác để biết rõ các ông không hài lòng. Rõ ràng điều các ông mong ước, dù nói ra hay thầm kín trong lòng đều bị một làn sương mù bao phủ khiến các ông không nhìn rõ điều các ông mong.
Có quá nhiều làn sương mù che phủ trong việc theo Thầy.
Thứ nhất các ông tin là Thầy sẽ lập vương quốc trần gian, giải thoát dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Xin ngồi bên phải, bên trái lãnh tụ là xin ghế lãnh đạo.
Thứ hai các ông không dự đoán phản ứng của các môn đệ khác khi các ông xin được ngồi ghế lãnh đạo.
Thứ ba các ông không hiểu về chén Thầy sẽ uống và phép rửa Thầy sẽ chịu vì thế các ông mạnh dạn thưa có.
Thứ tư các ông lờ mờ trong việc làm chứng nhân cho Thầy chính là phục vụ chứ không phải để được phục vụ.
Thứ năm các ông muốn lãnh đạo theo kiểu dân ngoại để hưởng tài lộc và danh tiếng.
Thứ sáu các ông cũng không hiểu giá cứu chuộc Thầy nhắc đến là gì. Bao nhiêu, nhiều ít và trả cho ai?
Điều chúng ta biết rõ là phục vụ đòi rộng lượng và hi sinh. Thiếu rộng lượng và hi sinh thì không thể phục vụ. Giá mà Đức Kitô nói đến không phải là trả cho Chúa Cha, cũng không phải là trả cho ma quỉ, cũng không phải trả cho chính mình cũng không phải trả cho nhân loại. Giá đó chính là giá của yêu mến chân thành, phục vụ thiết tha. Tình yêu chân chính luôn kèm theo hi sinh. Trong khi bản chất thật của hi sinh là từ bỏ. Từ bỏ có thể là từ bỏ thời gian hay ý riêng. Từ bỏ lợi danh hay tư lợi. Từ bỏ thiệt thòi và đau khổ là từ bỏ í riêng. Từ bỏ khó nhất, đau nhất và cao cả nhất là từ bỏ chính mình. Đức Kitô đã chọn từ bỏ cao cả nhất và cũng là giá cao nhất, cao đến độ không còn giá nào cao hơn nên đôi khi người ta nói đến hi sinh của Ngài là hi sinh vô giá. Nghĩa là không còn giá nào có thể vượt qua, thắng nổi giá đó nên trở thành vô giá. Ngài tự nguyện hi sinh để mang lại sự sống cho muôn người. Hi sinh đó được các tiên tri tiên đoán và loan báo nhiều ngàn năm trước.
Người phải bị nghiền nát vì đau khổ, nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội.
Vì nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính. Is 53,10.
Nhờ cái chết và sự phục sinh của Người đánh tan làn sương mù mà các tông đồ sau này trở thành những tôi trung không ngại đau khổ.
Phục vụ là giúp đỡ người khác, có thể đó là việc phải làm theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có TN29-B100
Phục vụ là giúp đỡ người khác, có thể đó là việc phải làm theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là việc muốn làm vì tự nguyện. Tinh thần phục vụ làm cho chúng ta nên cao quí, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của chúng ta cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối.
Hàng ngày, các công ty, các cửa hàng, các quán ăn hoặc giải khát,… luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi làm tầm thường, nhưng thực ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – cũng là một dạng “thiểu não” đấy. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào. Tiền nhân nói: “Nhất sĩ, nhì nông; hết gạo chạy rông... nhất nông, nhì sĩ”. Ảnh hưởng “” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon”. Nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn ai đây?
Ai cũng phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó;… Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,... nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có quy luật sống: “Ai làm đầu phải hầu thiên hạ” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45).
Sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy phục vụ Người (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39). Và rồi chính Chúa Giêsu đã minh định: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22:27). Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi Chúa Giêsu bị bắt, chính Ngài đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy chúng ta về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20).
Chuyện phục vụ cũng liên quan thái độ “chảnh”. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và cứ tưởng thế là oai lắm. Ảo tưởng quá, dại dột quá, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám “hãnh diện”, thế mới chết chứ! Phục vụ là việc bình thường mà lại nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, cũng rất cần phải khiêm nhường mới có thể phục vụ. Không dễ chút nào!
Phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách để “đưa đón” và “đẩy đưa”, đãi bôi, tâng bốc,… cốt để tỏ ra mình “oai”, tìm mọi cách “nịnh trên, đạp dưới”. Thật ra họ chỉ là “cáo mượn oai hổ”, chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ tự thú với người khác rằng “ông ơi, tôi ở bụi này”, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang. Kinh khủng thật! Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bắt thỏ rừng bằng chó săn, bắt đàn bà bằng bạc tiền, và bắt kẻ ngu si bằng lời khen dối trá”.
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu“” (Is 53:10). Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời”, bình dân gọi là “trái khoáy”. Thế nhưng như vậy mà lại không phải như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.
Lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “trắng án” và được công chính hóa – tức là được “giải án, tuyên công”, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Thật hạnh phúc biết bao!
Thiên Chúa công minh và chính trực. Ngài giàu lòng thương xót (Ep 2:4), nhưng Ngài lại thẳng thắn, không thiên vị bất cứ ai (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34). Mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).
Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối (Rm 3:4). Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gc 1:13). Tác giả Thánh Vịnh đã minh chứng: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì” (Tv 33:18-20).
Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là lòng thương xót, là lòng trắc ẩn. Chúng ta có biết yêu thương thì cũng là nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Yêu thương là phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9).
Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản như việc làm Dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn “e ngại”, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” nhưng thực ra là “làm giấu” đó mà!
Thánh Phaolô nói rõ ràng, dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà phải nói là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi. TIN mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!
Kiêu ngạo là ảo tưởng. Vì ảo tưởng mà không yêu thương – mà yêu thương thì rất thực tế, vì cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Tại sao chúng ta khó phục vụ? Bởi vì chúng ta ích kỷ, ỷ lại, ngại khó, sợ hèn, quen “chảnh”. Thánh nữ Têrêsa Avila (1515-1582), Tiến sĩ Thần bí, nhận xét: “Chúng ta quá tự ái, quá vận dụng tài trí trần gian để khoe khoang mình, đó là sự dối trá to lớn và ngông cuồng, các thánh nhân không như thế”.
Chuyện phục vụ có “dính líu” tới chức quyền. Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề này, hầu như lúc nào cũng là vấn đề “thời sự nóng”.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Đức Giêsu trách mắng họ và Ngài cũng nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Nghe lời này, có lẽ họ cảm thấy… “ngại” lắm đấy. Và đó cũng là “tâm trạng” của chúng ta ngày nay!
Sau khi nghe hai anh em nhà Dêbêđê nói vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn trỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người. Tính ghen tỵ dễ thấy trong các cộng động – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác”.
Tại sao lại “ngược đời” vậy chứ? Chúa Giêsu đã minh chứng cụ thể: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây” (Mt 12:33; Lc 6:44).
Trong dịp viếng thăm đất nước Hoa Kỳ (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô đã vấp bậc cầu thang và lảo đảo khi lên máy bay (*). Trong lúc đó, gió còn thổi khăn choàng vai phủ lên đầu, và không có ai đi kế bên ngài. Khi ngài lên tới cửa máy bay, có người muốn xách cặp giùm nhưng ngài từ chối. Gương khiêm nhường và phục vụ rốt rõ nét. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: “Con Người đến KHÔNG phải để ĐƯỢC người ta phục vụ, nhưng là để PHỤC VỤ và HIẾN DÂNG mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Khi ăn uống, ĐGH Phanxicô hòa mình vào với mọi người, thân thiện và gần gũi, không thích ngồi “chỗ danh dự”, không muốn đi ăn với người sang trọng mà thích đi ăn với người vô gia cư.
Còn chúng ta, nhất là những “người lớn”? Thực tế, có nhiều người chưa “lớn” đã chảnh lắm! Trả lời với Chúa Giêsu thế nào đây? Ai “dám” noi gương ĐGH Phanxicô? Có lẽ người ta gãi đầu, ậm ừ, lần lữa, và… hậu xét!
Hôm nay, ngay bây giờ, và hơn bao giờ hết, có lẽ chúng ta phải suy tư nhiều và cố gắng chân thành cầu nguyện theo gương Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mỗi lần các ngươi LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mỗi lần các ngươi KHÔNG LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta” (x. Mt 25:31-46).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận diện chính mình để đủ sức triệt hạ “cái tôi” trong con. Hạt-bụi-con không đáng gì mà đã làm bận mắt Ngài, con chỉ là kẻ vô dụng vì bất tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí cụ bình an và yêu thương, để bất cứ ai gặp con cũng gặp được Ngài, và xin cho con cũng gặp Ngài nơi những người con gặp. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.