: “Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”. Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa. - Ðó là lời Chúa.
Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau. Yêu là: TN 31-B1
Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau. Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật. Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa hơn. Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân, là hy sinh chính mình để sống cho người khác.
Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Một vị kinh sư tốt lành hỏi Đức Giêsu về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật. Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai điều răn chính: yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.
Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.
"Yêu mến là chu toàn lề luật" (Rm 13,10).
Thánh Âu-tinh phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn. Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt.
Khi nghe Đức Giêsu nhắc lại lời kinh của người Do Thái: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi, với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi...", ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa. Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.
Cụm từ "với trọn cả" được lặp lại nhiều lần như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.
Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa. Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình.
Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng. Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.
Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Đức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy. Ngài sống để yêu và chết vì yêu. Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.
Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu để thấy mình còn yêu quá ít.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đâu là chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời bạn? Nếu bạn xếp hạng, bạn thấy Ngài bị đặt dưới những thụ tạo nào?
Bạn thấy yêu tha nhân có dễ không? Bạn làm gì khi phải sống với một người không hợp tính với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con. Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con. Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con. Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con. Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con. Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con. Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con. Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con. Trước khi con đặt Chúa lên trên hết, Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy. Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi. Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ. Chín mươi chín ngôi nhà trong: TN 31-B2
Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ. Chín mươi chín ngôi nhà trong làng đều được thiết kế giống nhau: một thửa vườn xanh um được một tường bức kiên cố bao bọc.
Nhưng điều đáng nói hơn cả là ở trước cổng, nhà nào cũng có một cái chuồng chó. Chín mươi chín con chó có nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa và dân làng. Một bóng người thoáng qua trước cửa cũng đủ làm cho con chó sủa vang. Có khi cả chín mươi chín con cùng sủa một lúc.
Vì sống quá cách biệt, dân làng cũng chẳng có gì để nói với nhau. Âm thanh duy nhất mà họ được nghe suốt ngày là tiếng chó sủa. Dần dần âm thanh ấy trở thành quen thuộc đến nỗi người dân trong làng tưởng rằng đó chính là ngôn ngữ của họ. Mở miệng ra để nói với nhau thì ai cũng gào, cũng sủa.
Tình cờ có một người khách đi qua. Tếng chó sủa hàng loạt làm cho anh ta muốn tìm hiểu về ngôi làng. Anh ta đến gần một người đàn bà để hỏi chuyện, thế nhưng anh ta vô cùng ngạc nhiên bởi vì chính người đàn bà đã nói với anh ta bằng cách sủa.
Anh ta lại tiếp tục điều tra và càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy tiếng nói của bất kỳ ai trong làng cũng chỉ là tiếng sủa mà thôi. Và rồi anh ta đã kết luận:
- Chắc hẳn đây là một thứ bệnh dịch cần phải báo cho hội đồng làng để tìm cách chữa trị.
Gặp ông chủ tịch, anh đã đề nghị trước hết phải phá đổ những bức tường và cổng nhà. Tiếp đến là đưa chó vào rừng để săn bắn, nhờ đó chúng sẽ trở nên hiền hòa hơn. Và sau cùng, tổ chức một ngày đại hội để mọi người làm quen với nhau và tập nói lại ngôn ngữ của loài người.
Vừa nghe xong, ông chủ tịch cũng chỉ thốt lên những tiếng gâu gâu như tiếng chó sủa. Anh ta buồn bã bỏ làng ra đi. Sau lưng còn vang vọng những tiếng sủa không phải của chín mươi chín con chó, mà còn có sự phụ họa của cả dân làng.
*****
Trong cuộc sống chúng ta thấy quyền tư hữu là điều căn bản, nó gắn liền với sự sinh tồn. Xây một ngôi nhà, dựng một bức tường là để thể hiện quyền lợi ấy. Ai cũng muốn của cải của mình được an toàn.
Thế nhưng, sự phòng vệ nào cũng có thể đưa tới cực đoan. Thay vì phòng vệ để sống, thì người ta chỉ còn sống để mà phòng vệ. Thay vì sống với người khác, thì họ chỉ sống để chống lại người khác. Cuộc đời dần dần mất đi ý nghĩa của nó, người ta không còn sống như con người mà chỉ còn sống với nhau như những con vật, đúng như một câu danh ngôn đã diễn tả:
- Người với người là chó sói của nhau.
Sống như con người hay sống như con vật đó là một thách thức ngàn đời của nhân loại. Muốn sống như con vật chúng ta chỉ cần trang bị cho mình ngôn ngữ và nanh vuốt dễ gầm gừ và cắn xé lẫn nhau. Còn nếu muốn sống như con người, chúng ta cần phải đánh đổ mọi bức tường ngăn cách, cần phải bẻ gẫy mọi nanh vuốt và nói với nhau bằng ngôn ngữ của tình yêu, của cảm thông , của tha thứ…Có nghĩa là chúng ta cần phải thực thi lời Chúa truyền dạy:
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả n: TN 31-B3
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều răn này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm hại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Kitô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: tạ ơn Đức Kitô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Kitô và nhất là được hiệp thông với Ngài, chúng ta xin được thêm mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình ? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Kitô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Kitô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy luận của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
Một trong các công việc thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện: TN 31-B4.
Một trong các công việc thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện việc đi đến Méc-ca, nơi sinh của Môhamét. Đó là một trong năm điều căn bản nhất của đạo Hồi.
Ngày xưa có ông vua mèo thực hiện một cuộc hành hương đến Méc-ca. Khi ông vua mèo trở về, ông vua chuột thấy mình có bổn phận phải đến chúc mừng vua mèo. Nhưng khi những con chuột khác nghe được điều ấy, chúng lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. “Mèo là kẻ thù của chúng ta, nhà vua không thể tin hắn được”. Chúng nói.
“Ồ, giờ đây ông ấy đã đi hành hương Méc-ca, ta hy vọng nhìn thấy một sự thay đổi lớn lao nơi ông ta. Ta nghe nói ông ta đã cầu nguyện năm lần mỗi ngày”, vua chuột đáp lại.
Thế là vua chuột ra đi. Khi đến vương quốc của mèo, vua chuột nhìn thấy đối thủ của mình từ xa và những gì vua chuột nhìn thấy thật ấn tượng. Vẫn còn mặc bộ y phục hành hương, vua mèo đang đắm chìm trong kinh nguyện. Tuy nhiên khi vua chuột vừa mới đến gần hơn, vua mèo đã nhảy đến để vồ chụp con mồi. May mắn là vua chuột đã nhanh chân trốn thoát xuống một cái lỗ. Sau đó nó gặp lại những con chuột khác.
“Nhà vua du hành thế nào” ? Đám bề tôi chuột nóng lòng hỏi. “Có thật là kể từ lúc ông ta đi hành hương Méc-ca về, ông ta là một con mèo đã thay đổi ?”
“Tôi e rằng anh em đã nói đúng”, vua chuột đáp. “Mặc dầu hắn cầu nguyện như một người đi hành hương, hắn vẫn cứ vồ chúng ta như bất cứ con mèo nào”.
Tách rời hai giới răn cao trọng thì dễ dàng biết bao và nghĩ rằng chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận.
Hai giới răn ấy có quan hệ qua lại với nhau một cách thiết yếu. Lòng yêu thương chân thành người lân cận trào ra từ lòng yêu mến Thiên Chúa; mặt khác, không thể có lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành nếu lòng yêu mến này không được thể hiện bằng lòng yêu thương người lân cận. Điều này còn tốt hơn việc dâng của tế lễ. Người ta dễ dàng lấy nghi thức thế chỗ cho tình yêu thương. Và rồi người ta đi đến một thứ tôn giáo không có tình yêu thương.
Tội lớn nhất của chúng ta không phải là chúng ta không yêu thương người lân cận mà là chúng ta không thèm biết đến họ. Như thế, làm sao có thể là người lân cận của họ theo ý nghĩa của Tin Mừng ? Điều tệ nhất là sự lãnh đạm, thờ ơ.
Kinh Thánh nói chúng ta phải yêu thương người lân cận và cũng phải yêu cả kẻ thù của mình. Theo G.K.Chesterton, lý do của điều này có lẽ là một cách tổng quát, họ cùng là một dân tộc. Và có một lý do nhân bản của điều đó. Chúng ta nghĩ về một người xa lạ trên con đường thẳng: thế thì chúng ta nghĩ về người ấy như một con người. Nhưng chúng ta không nghĩ về người ấy giống như người lân cận ở kế bên nhà chúng ta. Người ấy không là một con người mà chỉ là một môi trường: một tiếng chó sủa, hoặc tiếng mũi khoan hay tiếng dương cầm.
Nhiều người gặp các vấn đề khó khăn do một người đặc biệt gây ra. Người này có thể là một người láng giềng hoặc là một thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể làm gì ? Chúng ta nên tránh hành động kiểu ăn miếng trả miếng. Làm như thế chỉ làm cho tình tình xấu thêm. Chúng ta phải cố gắng duy trì sự liên lạc với người ấy, dù rằng chỉ là vấn đề nói một tiếng chào buổi sáng hoặc buổi tối. Và rồi chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy. Nếu chúng ta có thể cầu nguyện cho một người một cách chân thành thì điều này giữ cho tâm hồn chúng ta khỏi chất chứa những điều đắng cay và thù hận.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy gieo trồng yêu thương và sẽ gặt được yêu thương.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy đem đến yêu thương và sẽ tìm thấy yêu thương.
Tôi tìm Thiên Chúa và đã không thấy Người. Tôi tìm linh hồn tôi và nó tránh né tôi. Tôi tìm người lân cận và đã tìm thấy cả ba.
Thiếu sót tình yêu thương là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một: TN 31-B5
Thiếu sót tình yêu thương là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một tội. Người ta thừa nhận là có tội khi nó gây thiệt hại cho người lân cận nhưng không coi là tội khi thiếu sót hoặc từ khước yêu thương.
Người ta kể lại một câu chuyện về người bán chiếc xe “dỏm” cho một người nước ngoài, rồi đi xưng tội. Sau đó, người ấy gặp một người bạn cũ trong quán rượu. Khi người bạn này nghe nói ông ta đã đi xưng tội, liền nói “Tôi hy vọng anh đã kể lại cho linh mục nghe anh lừa gạt người mua xe như thế nào”.
“Đời nào tôi làm thế”, ông ta trả lời. “Tôi xưng ra các tội của tôi cho linh mục. Nhưng linh mục không có quyền biết công việc kinh doanh của tôi”.
Nguy hiểm lớn đe dọa người-đi-nhà-thờ là họ không biết mối liên quan giữa việc họ làm trong nhà thờ ngày Chúa nhật với việc làm trong quan hệ với người lân cận vào những ngày khác trong tuần.
Người ta có thể xem xét lương tâm mình nhưng không đụng gì đến toàn cảnh: Người có lương tâm làm tròn bổn phận của mình, lương thiện trong công việc làm ăn, công bằng, tôn trọng và hợp tác với những người sống cùng một mái nhà v.v… Với những người như thế, tôn giáo tách rời khỏi đời sống và trở thành một vấn đề riêng tư giữa họ và Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, một tôn giáo như thế giống là sự bóp méo, xuyên tạc. Tệ hơn nữa là một điều đáng ghét.
Phân ly hai giới răn lớn ấy là việc rất dễ dàng. Trong một ý nghĩa nào đó, chỉ có một giới răn duy nhất – giới răn của tình yêu. Nó giống như một đồng tiền, một thực thể có hai mặt. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, không phải chúng ta ghét những người lân cận của chúng ta. Không, chúng ta không ghét những người lân cận. Nhưng chỉ vì chúng ta khước từ đưa họ vào trái tim chúng ta. Nếu sự thật được nói ra, chúng ta lãnh đạm và thờ ơ với họ.
Mọi người trong chúng ta có khả năng yêu thương to lớn, nhưng khổ nỗi, hiếm khi chúng ta sử dụng hết. Diễn viên Christopher Reeve, nổi tiếng về hình tượng siêu nhân mà ông thể hiện trong phim ảnh. Tuy nhiên, trong một tai nạn té ngựa, ông bị liệt từ cổ trở xuống và phải ngồi xe lăn. Ông nói ông đã nhận được 100.000 lá thư bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của quần chúng. Điều này dẫn ông đến chỗ hỏi rằng: “Tại sao cần phải có một bi kịch trước khi chúng ta bày tỏ sự cảm kích của chúng ta đối với một người khác ?”
Chúng ta bày tỏ điều đó quá chậm và đầy sự hối tiếc. Chúng ta chờ cho đến khi quá muộn để nói và tỏ cho người khác thấy rằng chúng ta yêu họ. Chúng ta bày tỏ quá muộn ý muốn sửa chữa một mối bất hòa, quá chậm nỗi vui mừng về sức khỏe và quà tặng của con cái hoặc cha mẹ chúng ta.
Đức Giêsu nói với người Kinh sư: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu !” Biết rõ về hai giới răn quan trọng nhất là bước đầu tiên. Đem chúng ta thực hành là bước thứ hai. Chúng ta không còn xa nước Thiên Chúa là bao – Chỉ cần thêm một bước nữa. Để thực hiện được bước này, chúng ta cần Thiên Chúa chạm tay Người vào tâm hồn chúng ta
Chúng ta sống trong một thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng: TN 31-B6
Chúng ta sống trong một thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng viên vào cơ quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá hơn bốn năm trước đây không ?” Điều đánh vào ích kỷ cá nhân này thành công nhiều hơn khi hỏi các người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không ?”
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng ta.
Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.
1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.
3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.
4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.
8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.
“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ”. (Mark Twain)
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi: TN 31-B7
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì ?”. Giáo lý viên đáp: “Là yêu thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên.
Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”.
Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ:
1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn người không có đạo;
2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí !
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương.
Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao ? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao ?
Nếu đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương trong Kitô giáo như sau:
1. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
2. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
3. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quí hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo. Lý do có lẽ là vì giáo lý viên ấy không thấy ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện ba điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo.
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của: TN 31-B8
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomét. Có một câu chuyện kể lại rằng:
Ngày xưa vua các loài Mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài Chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu: “Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được”. Nhưng vua Chuột đáp: “Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi”.
Thế là vua Chuột tìm đến hoàng cung của vua Mèo. Mới tới cửa thì vua Chuột đã thấy vua Mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua Chuột thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua Mèo chồm lên định vồ lấy vua Chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua Chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.
Khi vua Chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: “Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua Mèo đã thay tâm đổi tính ?” Nhưng vua Chuột đáp: “Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai”.
Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu.
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài. Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi. Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba.
Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là: TN 31-B9
Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.
Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy ? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.
Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó ?
Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:
1. Mến Thiên Chúa thì ta phải:
Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).
Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.
Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).
Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).
Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không ?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).
2. Yêu người thì ta phải:
Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.
Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).
Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).
Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11; 2Cr. 5, 14).
Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.
Đạo là đường. Con đường của tình yêu dẫn con người tới Chúa. Người ta có thể đi trên con đường: TN 31-B10
Đạo là đường. Con đường của tình yêu dẫn con người tới Chúa. Người ta có thể đi trên con đường của đạo nhưng vẫn không gặp được Chúa vì đi đạo, theo đạo là một chuyện mà gặp được Chúa lại là chuyện khác.Chúa vẫn đi bước trước để tới với con người, gặp gỡ, yêu thương con người. Ngài đã tự giới thiệu: “Ta là Đường, là sự Thật và là sự Sống”. Theo Chúa có nghĩa là chấp nhận con đường của Ngài mà con đường của Ngài là con đường của đức tin. Tin là nhận Chúa với tất cả con người của Ngài. Chúa Giêsu đã vạch ra một con đường, đã thiết lập một đạo gồm tóm trong hai giới răn, qui lại thành một: “Mến Chúa, Yêu người”. Yêu người sẽ gặp Chúa và mến Chúa sẽ gặp người. Đi theo Chúa, liệu con người có chấp nhận giới răn: “Mến Chúa, Yêu người” như là lẽ sống của đời mình hay không?
Đây là vấn nạn được đặt ra cho mọi người mọi thời, mọi lúc và mọi nơi: Người luật sĩ đồng ý với Chúa là phải mến Chúa và yêu người đồng loại. Tuy nhiên, cái lẩn quẩn, lấn cấn ở đây vẫn “phải hiểu người đồng loại là loại người nào?”. Theo hiểu biết của người Do Thái thì người đồng loại có nghĩa là người cùng phe, người ở trong chứ không phải người ở ngoài: người Do Thái là người Do Thái. Người đồng loại là mọi thành phần của dân Chúa, tức là người Do Thái với nhau. Người không phải là Do Thái không được kể là người đồng loại: họ được coi là người ngoại và không bắt buộc phải yêu thương. Còn đối với Chúa Giêsu, Ngài đã có một cái nhìn hoàn toàn mới về người đồng loại: Ngài qui tụ, tìm kiếm, chứ không loại trừ. Đối với Chúa Giêsu tất cả đều là anh em, đều là người đồng loại vì mọi người đều có một Cha chung ở trên trời. Chúa bỏ chín mươi chín con chiên để tìm một con chiên lạc...
Chúa đã đảo ngược quan niệm của người Do Thái về người ở trong và người ở ngoài Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người Samaria nhân hậu để trả lời cho người luật sĩ đặt câu hỏi với Ngài: “Ai là người đồng loại của tôi” quả là một đảo lộn hoàn toàn với cái nhìn của người Do Thái.
Giới luật: “Mến Chúa, Yêu người” quả thực bao gồm toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu về con đường tình yêu, về đạo Kitô do Ngài thiết lập, do Ngài mạc khải. Đạo của Chúa là đạo tình thương được diễn tả ra bằng chính lời rao giảng, các phép lạ, các việc làm, cuộc sống và cái chết của Ngài trên thập giá: “Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”. Chúa đã vén lộ tình thương của Thiên Chúa qua việc sai Con Một của Người nhập thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria và làm người để sống với con người, mang lại hạnh phúc và ơn cứu độ cho con người, làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin vào Chúa. Với những dụ ngôn Chúa dùng để giáo huấn, dậy dỗ và trình bầy nước trời như dụ ngôn: “người Samaria nhân hậu”, “người con hoang đàng” hay “ngày phán xét cuối cùng”, Chúa Giêsu muốn trình bầy một giáo lý gồm tóm hai giới răn: “Mến Chúa và Yêu người” thành một giới răn duy nhất. Mến Chúa sẽ gặp người và yêu người nhất định sẽ gặp Chúa. Chúa đồng hóa mình với người nghèo, người đói, người khát, người bị tù tội, người rách rưới. Làm những việc như cho kẻ đói ăn, băng bó vết thương cho kẻ bị thương chính là làm cho Chúa. Yêu thương người đồng loại hay nói cách khác những cử chỉ làm cho những người đồng loại cho dù nhỏ nhặt nhất vẫn có giá trị lớn hơn cả những lễ vật, những nghi lễ vì nơi những kẻ bé mọn Chúa Giêsu được tôn vinh và chính Chúa cũng muốn nâng cao những kẻ bé mọn: “Lạy Cha là Chúa trời đất con xưng tụng Cha vì Cha đã mạc khải nước trời cho những kẻ bé mọn” hay như Đức Trinh Nữ Maria cất cao lời trong kinh ngợi khen Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa... Ngài đã nâng cao kẻ bé mọn, khó nghèo”. Chúa Giêsu qua cái chết đã minh chứng cho nhân loại rằng tình yêu hy sinh, từ bỏ, xả kỷ đã thắng tất cả và chỉ có tình yêu vô biên, vô giới hạn mới nói lên tất cả lòng mến gói trọn “Mến Chúa và Yêu người” thành một: “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Thánh Gioan cũng đã liên kết chặt chẽ lòng mến Chúa và yêu người: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình. Đó là kẻ nói dối”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết thực thi giới răn: “Mến Chúa, yêu người” với tất cả đức tin của chúng con.
GỢI Ý CHIA SẺ?
1. Bạn cảm nghiệm thế nào về dụ ngôn người Samaria nhân hậu? 2. Bạn hiểu thế nào về: “Mến Chúa, Yêu người ?”. 3. Bạn hiểu sao về câu: Một tình yêu. Hai đối tượng?
Tại sao Đức Giêsu lại ghép hai điều răn khác nhau - mến Chúa, và yêu người - thành một: TN 31-B11
1. Tại sao Đức Giêsu lại ghép hai điều răn khác nhau - mến Chúa, và yêu người - thành một điều răn duy nhất?
2. Có thể mến Chúa mà không yêu người, hay yêu người mà không mến Chúa được chăng?
3. Theo tinh thần Tin Mừng, thì giữa việc tham dự các nghi thức phụng vụ và việc thi hành giới răn «mến Chúa yêu người», việc nào cao quí và quan trọng hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Điều răn quan trọng nhất của Kitô giáo
Trong bài Tin Mừng này, ta thấy Đức Giêsu đã ghép hai điều răn được ghi ở hai nơi khác nhau trong Cựu Ước - điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật 6,4-5, điều răn sau trong sách Lêvi 19,8 - làm thành một điều răn duy nhất, một điều răn «kép», nghĩa là một điều răn nhưng hai đối tượng, hay hai mặt khác nhau. Và điều răn «kép» này là điều răn quan trọng nhất trong Do Thái giáo, nhất là trong Kitô giáo. Tại sao lại ghép hai điều răn ấy thành một điều răn duy nhất? Đó là điều đáng chúng ta suy nghĩ.
Thông thường, chúng ta hay phân biệt yêu Chúa và yêu người. Có người cho rằng yêu Chúa quan trọng hơn yêu người rất nhiều, có người lại cho rằng: Chúa thì trừu tượng quá, yêu không nổi, nên yêu người mới là quan trọng. Cũng có người cho rằng có thể yêu Chúa mà không yêu người, và ngược lại. Thực ra, giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là «phải yêu thương», nghĩa là phải có tình yêu, tình thương. Và tình yêu này phải hướng cùng một lúc về hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Và hai đối tượng này không thể tách rời nhau, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: không thể có mặt này mà không có mặt kia. Nghĩa là không thể yêu Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại. Nói khác đi, hễ thật sự yêu Thiên Chúa thì tất nhiên sẽ phải yêu người, như thánh Gioan đã từng nói: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4,20). Và hễ yêu người thật sự thì cũng chính là đã yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu đối với tha nhân đã ngầm bao hàm tình yêu đối với Thiên Chúa, và ngược lại. Thật vậy, khi nói về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu đã xác định rằng: yêu tha nhân là yêu chính Thiên Chúa (xem Mt 25,40.45). Và thánh Phaolô cũng đã viết: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”» (Gl 5,14); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2).
2. Yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến tầm quan trọng tối thượng của giới răn yêu mến Thiên Chúa. Nếu xét một cách tách biệt hai mặt trong giới răn cao trọng nhất này, thì việc yêu mến Thiên Chúa quan trọng hơn việc yêu mến tha nhân. Và con người phải yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Nhưng trong thực tế, không thể có sự tách rời giữa hai mặt ấy được, vì hễ đã thật sự yêu mến Thiên Chúa thì tất nhiên phải đồng thời yêu thương tha nhân. Vì thế, nếu thật sự yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực», thì cũng phải yêu tha nhân «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Đó là điều tất yếu, không thể khác được.
Để tỏ lòng yêu mến, thuận phục và thờ phượng Thiên Chúa, người Do Thái xưa đã sát tế những con chiên, con bò làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, thay vì sát tế chính mình, để nói lên quyền tối thượng của Ngài trên mọi sự, trên cả mạng sống mình. Nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho ta tất cả và có quyền lấy lại tất cả bất kỳ lúc nào. Ngày nay, chúng ta không còn sát tế chiên bò, cũng không phải sát tế chính mình để nói lên quyền tối thượng của Ngài nữa. Điều chúng ta nên làm, là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để làm đẹp lòng Ngài, để tỏ ra ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự, nhất là hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… đó chính là một hình thức sát tế và thờ phượng Thiên Chúa cao cả nhất.
Nhưng theo tư tưởng của Đức Giêsu và thánh Phaolô, thì chắc chắn Thiên Chúa muốn ta thể hiện tình yêu của ta đối với Ngài bằng tình yêu dành cho tha nhân, một cách cụ thể là sẵn sàng hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… cho hạnh phúc và sự tốt đẹp của tha nhân
3. «Hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực»
Yêu «hết lòng, hết trí khôn» thì quả là một điều khá trừu tượng và xem ra có vẻ dễ thực hiện, vì lòng và trí khôn là thứ không thể đếm được, khó kiểm chứng, và dường như có thể dùng hoài, cho hoài không hết. Nhưng còn việc yêu «hết sức lực» thì quả thật là khó, vì lực là một cái gì mang tính vật chất, rất cụ thể, và rất hạn chế. Sức lực ở đây nói một cách cụ thể là thì giờ, tiền bạc, của cải, sức khỏe, công lao. Vì nó giới hạn, nên ta không thể cho một cách thoải mái được. Cho thì hao tổn, thì sẽ hết. Nhưng có yêu «hết sức lực» thì mới chứng tỏ được là đã «yêu hết lòng, hết trí khôn». Ai nói rằng mình yêu Chúa, yêu người «hết lòng, hết trí khôn» mà lại không yêu «hết sức lực» - cụ thể là sẵn sàng hy sinh thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công lao cho Chúa, cho tha nhân - thì người ấy nếu không nói dối thì cũng là kẻ ảo tưởng về chính mình. Chắc chắn Chúa muốn chúng ta thay vì hy sinh những thứ ấy cho Chúa, thì hãy hy sinh cho tha nhân, vì hy sinh cho tha nhân chính là hy sinh cho Chúa.
4. «Điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ»
Rất nhiều Kitô hữu không hiểu được cốt yếu của việc giữ đạo là gì, họ cho rằng việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích là những điều quan trọng nhất. Và họ cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những thứ ấy chỉ là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là «mến Chúa, yêu người». «Mến Chúa, yêu người» chính là mục đích của những việc đạo đức trên. Nếu thực hiện những phương tiện ấy mà không đạt được mục đích của chúng thì thử hỏi việc thực hiện ấy ích lợi gì?
Trong bài Tin Mừng, ông kinh sư nói: «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ». Lời đó đã được Đức Giêsu xác nhận là khôn ngoan, đúng đắn. Cứ theo tinh thần câu nói ấy thì yêu Chúa và thương người hết sức mình quan trọng và quí giá hơn việc tham dự các nghi thức phụng vụ, các bí tích, các kinh nguyện. Chính Đức Giêsu mạc khải cho ta biết điều ấy khi nói về ngày phán xét cuối cùng: Thiên Chúa không hề phán xét về việc ta có tham dự các nghi thức phụng vụ hay không, hay tham dự thế nào, mà chỉ xét về việc ta đã làm gì để tỏ ra mình yêu thương tha nhân mà thôi. Đức Giêsu đã tỏ ra trọng phong cách đối xử với tha nhân, sự hòa thuận với những người chung quanh còn hơn việc dâng lễ vật toàn thiêu cho Thiên Chúa nữa (xem Mt 5,23-25).
Biết bao người chu toàn hết sức tốt đẹp những nghi thức phụng vụ mà lại đối xử với tha nhân chẳng ra làm sao, chẳng có tình có nghĩa gì cả, thì thử hỏi đạo đức kiểu ấy có ích lợi gì cho họ trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu có nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào mà thôi. Vì thế, trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ sao?” và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”» (Mt 7,21-23). Xin cho con hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời nói đó. Xin cho con nhận ra điều quan trọng nhất trong đạo của Cha mà con phải tuân giữ là thực hiện thánh ý Cha, mà điều cốt yếu nhất của thánh ý Cha chính là mến Chúa - cũng là yêu người - hết lòng hết sức. Amen.
Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ngụ tại Giê-ru-sa-lem chuẩn bị hoàn tất sứ vụ của Người: TN 31-B12
Chúa Giêsu cùng các môn đệ đang ngụ tại Giê-ru-sa-lem chuẩn bị hoàn tất sứ vụ của Người ở trần gian. Chính tại đây, Chúa Giê-su đã “đụng” với các thế lực quyền uy nhất thành đô, đó là giới Pha-ri-sêu, Kinh sư, phe Hê-rô-đê và nhóm Sa-đốc. Tin mừng Chúa nhật hôm nay chính là một trong ba cuộc tranh luận tay đôi giữa Chúa Giê-su nhóm người trên. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến vấn đề điều răn nào là điều răn đứng đầu trong toàn bộ lề luật.
Câu hỏi của người Kinh sư liên quan đến điều răn nào trọng nhất không khỏi làm chúng ta có cảm giác rằng chính ông tuy là người sau bao nhiêu năm miệt mài nghiên cứu và đã trở nên một nhà chuyên môn về Kinh thánh; là người kế thừa truyền thống các Ngôn sứ, có đầy đủ quyền để giải thích và áp dụng lề luật tuỳ theo từng hoàn cảnh; là một trong những nhân vật quan trọng trong Thượng hội đồng Dothái, thế nhưng khi đứng trước lời giáo huấn- hay đúng hơn trước những cuộc tranh luận đầy Thượng trí và khôn ngoan của Chúa với những người cùng giới - trong tận sâu thẳm nơi con người ông có một sự lung lay trước vấn đề mà có lẽ sâu bao năm tìm kiếm ông vẫn chưa thể nào hiểu thấu: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”. Chúng ta biết là, ngoại trừ Lề luật đã được ghi trong Sách thánh, chính giới Kinh sư này còn bày vẽ hàng loạt những điều luật khác với con số ớn lạnh: 613 điều trong đó gồm 248 điều khuyên làm và 365 điều cấm. Chính vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Kinh sư kia túng túng không biết đâu là thực đâu là giả trong khu rừng lề luật dù ông là bậc Rápbi của Do thái!
Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi của ông, đáp lại, Người đọc đoạn kinh có tên là “Shema” là kinh mà mỗi người Dothái đều đọc mỗi ngày để tuyên xưng niềm tin. Kinh này được trích trong sách Đệ nhị luật (x. Đnl 6, 4-5). Và điều răn thứ hai được Chúa Giê-su đọc trong sách Lê-vi khi nói về bổn phận phải yêu thương người thân cận như chính mình (x. Lv 19, 18). Người đưa đến kết luận: chẳng có điều răn nào khác lớn hơn hai điều răn ấy.
Người Kinh sư đã bị thuyết phục trước giáo huấn của Chúa Giê-su. Con mắt tâm hồn ông giờ đây đã được khai mở sau bao nhiêu năm mờ khuất: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”.
Thưa ông Kinh sư, ông đã đúng. Tình yêu Thiên Chúa và mối tình đối với tha nhân phải được xem là “quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúng ta thấy tư tưởng này trước đây Ngôn sứ Hô-sê đã quảng diễn khi nói về tình yêu của Gia-vê: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6). Tư tưởng của ông Kinh sư giờ đây đã rất gần với tư tưởng của Chúa Giê-su khi tìm ra chân lý tối việt cho hành trình theo Chúa của mình.
Như thế là, Lời Chúa nhắc nhớ mỗi người chúng ta điều quan trọng này, đó là tình yêu của chúng ta đối với tha nhân phải đạt tới mức cao nhất. Nghĩa là mức độ đó phải làm sao cân bằng với mức độ mà chúng ta yêu chính bản thân mình. Thánh Bê-na-đô viết: “Giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn”. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta biết là theo sự thường, ai trong chúng ta cũng đều quý mình hơn tha nhân, xem mình hơn người. Thế nên, để được như điều Chúa muốn thật khó nhưng không phải là không thể bằng cách siêng năng chạy đến với Chúa mỗi ngày qua kinh nguyện, qua bí tích; đến với tha nhân trong sự chia sẻ, thăm viếng khi họ gặp khốn khó. Hy vọng với ơn Chúa biến đổi sẽ giúp cho mỗi người chúng ta ngày càng mến Chúa và yêu người hơn.
Quan niệm của Đức Giêsu về hạnh phúc so với quan niệm thông thường của người đời có khác: TN 31-B13
1. Quan niệm của Đức Giêsu về hạnh phúc so với quan niệm thông thường của người đời có khác nhau không? Hai quan niệm ấy, mỗi quan niệm được xây dựng trên nền tảng nào?
2. Giữa hai quan niệm ấy, quan niệm nào khôn ngoan hơn? Tại sao? Mấu chốt của sự khôn ngoan ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Hai quan niệm trái ngược về hạnh phúc
Những điều nói trong bài Tin Mừng này thật trái ngược với quan niệm thông thường nếu chưa muốn nói rằng chỉ có người bất thường mới nghĩ như vậy. Quan niệm thông thường và chung chung của mọi người là: muốn hạnh phúc thì phải giàu sang, phú quí, có nhà cao cửa rộng, có vợ đẹp con khôn, có kẻ hầu người hạ, có địa vị, có quyền lực, được hưởng mọi của ngon vật lạ, mọi thú vui trên đời… Và quan niệm thông thường đó đã thúc đẩy con người tìm đủ mọi cách để đạt được những thứ ấy. Để đạt được những thứ ấy, người ta không ngại cố gắng, gian nan và đau khổ, thậm chí không ngại làm những việc độc ác, thất nhân tâm. Viễn ảnh hạnh phúc theo quan niệm thông thường ấy khiến người ta sẵn sàng chấp nhận những khó khăn rắc rối nhiều khi vượt quá sức chịu đựng của con người. Mọi người đều nghĩ rằng quan niệm ấy là hiển nhiên và đúng đắn.
Nhưng quan niệm của Đức Giêsu về hạnh phúc trong bài Tin Mừng hôm nay thật trái ngược lại với quan niệm thông thường ấy. Những ai theo quan niệm Ngài thì thường bị người đời cho là bốc đồng, dở hơi, điên khùng hoặc giả hình. Nhiều người mang danh là theo Đức Giêsu cũng phán đoán y như vậy về những kẻ thật sự sống đúng theo quan niệm của Ngài. Sở dĩ họ phán đoán như vậy là vì họ không tài nào hiểu được phần thưởng đời sau dành cho những ai sống theo quan niệm của Đức Giêsu to tát như thế nào.
2. Quan niệm nào khôn ngoan hơn?
Giữa quan niệm thông thường của người đời và quan niệm khác thường của Đức Giêsu, quan niệm nào là đúng, là khôn ngoan? Người kitô hữu phải theo quan niệm nào? Để rộng đường suy nghĩ, ta nên nhớ: Đức Giêsu, người đưa ra quan niệm khác thường ấy không phải là người điên hay bất thường, mà là người được cả thế giới công nhận là khôn ngoan thuộc loại bậc nhất. Ngài được người Kitô hữu nhìn nhận là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, là hiện thân của Chân Lý. Như vậy, quan niệm về hạnh phúc của Ngài chắc chắn là một quan niệm khôn ngoan vượt khỏi sự khôn ngoan thông thường của con người. Chính vì không hiểu được sự khôn ngoan ấy nên người bình thường cho đó là ngu xuẩn.
Thật ra, sự khôn ngoan của bài Tin Mừng này chỉ có thể hiểu được trong niềm tin, tin rằng: đời sau thì vĩnh cửu còn đời này chỉ là tạm bợ mau qua, nhưng cách sống ở đời này quyết định cho số phận vĩnh cửu đời sau. Đây chính là mấu chốt của vấn đề: nếu không có đời sau, thì quan niệm như Đức Giêsu đúng là một quan niệm ngu xuẩn! Đời sống thật ngắn ngủi, không biết hưởng thụ nó thì thật là dại dột: «Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau» (Ca dao). Nhưng nếu có đời sau, một đời sau vĩnh cửu - mà đời sau hạnh phúc hay đau khổ lại hoàn toàn tùy thuộc vào cách sống ở đời này - thì quan niệm như Đức Giêsu mới là khôn ngoan.
Thật vậy, nếu chết rồi là hết, nếu sự sống chỉ tồn tại ở cuộc đời ngắn ngủi này, thì những điều nói trong bài Tin Mừng quả là điên rồ: sống nghèo khổ thiếu thốn, chịu bách hại vì Chúa, vì đạo rj quả là ngu xuẩn! khổ cực như thế thì ích lợi gì? Nếu chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi này để sống, thì mục đích của đời này chỉ là hạnh phúc của chính nó, dù chóng qua giả tạm đến đâu. Nhưng nếu còn một đời sau lâu dài hơn, và nếu hạnh phúc đời sau tùy thuộc vào đời này, thì sự khôn ngoan đòi buộc phải lấy hạnh phúc đời sau làm mục đích, còn mọi sự đời này phải được coi là phương tiện. Do đó, phải sống cuộc đời ngắn ngủi này cách nào để đời sau vĩnh cửu được hạnh phúc. Nếu sẵn sàng chấp nhận đau khổ vĩnh cửu ở đời sau để được hạnh phúc chóng qua ở đời này thì thật là ngu xuẩn, tương tự như giữa hai món tiền: 1 triệu đồng và 1 đồng, lại đi chọn 1 đồng mà bỏ 1 triệu. Nếu giữa hai phải chọn lấy một, thì phải chọn cái nào có giá trị hơn, lâu dài hơn mới là khôn ngoan.
3. Mấu chốt của vấn đề: có đời sau hay không?
Đối với một bào thai, cuộc sống tăm tối trong bụng mẹ chỉ là cuộc sống tạm bợ ngắn ngủi trong 9 tháng 10 ngày. Cuộc sống ấy không chỉ kéo dài tới đấy là hết, mà toàn bộ cuộc sống ấy là để chuẩn bị cho một cuộc sống khác dài hơn gấp bội, có thể tới 90 năm. Cũng vậy, người kitô hữu quan niệm rằng đằng sau cuộc sống ngắn ngủi này là cả một đời sống vĩnh cửu dài vô tận. Vì thế, người kitô hữu - những kẻ theo Đức Giêsu - tuy sống trong thế giới này nhưng tâm hồn vẫn hướng về một thế giới khác tốt đẹp hơn, rộng lớn hơn, lâu dài hơn rất nhiều. Họ coi thế giới mai hậu ấy mới là đích điểm phải nhắm tới, chứ không phải thế giới này. Vì thế, đối với họ, mọi cơ cấu và thực tại trần gian tự bản chất đều là giả tạm, phụ thuộc.
Tuy nhiên, không vì thế mà họ coi thường cuộc sống hay thế giới này. Họ vẫn coi nó là quan trọng, vì cuộc sống này chính là điều quyết định cho số phận đời sau. Mà yếu tố quyết định cho số phận đời sau chính là tình yêu, niềm tin, lòng thành thật, sự công chính ngay ở đời này. Do đó, họ vẫn sống đời sống hiện tại một cách tích cực, vẫn hăng say xây dựng cuộc sống và thế giới này cho tốt đẹp. Nhưng dù coi cuộc sống này quan trọng đến đâu thì họ cũng chỉ coi nó là phương tiện dẫn đến cùng đích là đời sống mai hậu, chứ không bao giờ coi nó là cùng đích cả. Có quan niệm như thế ta mới hiểu được tinh thần bài Tin Mừng này.
Quan niệm ấy được mô tả trong câu chuyện sau đây. Một linh mục thánh thiện, khi được hỏi về những hy sinh vĩ đại của ngài, đã trả lời: «Tôi chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục thế mà mua được cả một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian mới là người từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường». Như vậy, ai mới là người thật sự hy sinh, và hy sinh cái gì cho cái gì?
4. Sự khôn ngoan của người kitô hữu
Chọn lựa khôn ngoan trên đã được Đức Kitô cụ thể hóa bằng dụ ngôn kho báu và ngọc quí, trong đó người thương gia sẵn sàng bán hết gia tài của mình để mua kho báu hay viên ngọc ấy (x. Mt 13, 44). Lý do, kho báu hay viên ngọc ấy giá trị gấp nhiều lần tài sản của ông ta. Đức Kitô cũng dạy ta: «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?» (Mt 16, 26). Chính vì nhắm đến hạnh phúc đời sau mà người kitô hữu sẵn sàng chấp nhận những thua thiệt, nghèo khó, bị bách hại, đau khổ ở đời này. Thánh Phaolô nói: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta?» (Rm 8,18). Để được hạnh phúc đời đời, Đức Kitô chỉ cho ta bí quyết: «Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,25).
Chỉ trong nhãn quan đức tin ấy, người ta mới hiểu sâu xa nội dung bài Tin Mừng về Bát Phúc hôm nay, và nhận ra rằng chỉ có những người sống theo tinh thần Bát Phúc mới là những người khôn ngoan đích thật. Và nếu thật sự sống tinh thần ấy, người Kitô hữu sẽ được hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Thật vậy, con người sẽ được hạnh phúc trong đức tin nếu hết lòng gắn bó với đức tin ấy. Hạnh phúc đó có được là do họ coi nhẹ bản thân và những lợi ích chóng qua, nhờ đó, họ dễ dàng hy sinh cho người khác. Chính sự cao thượng này trở thành niềm vui cho họ trong cuộc đời này.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con biết thế nào là sự khôn ngoan của Cha. Khôn ngoan của Cha là thứ khôn ngoan luôn luôn nhắm đến hạnh phúc đích thực và trường cửu. Còn khôn ngoan của thế gian chỉ nhắm tìm kiếm những hạnh phúc tạm bợ chóng qua, mà quên đi hạnh phúc lâu dài. Nó tương tự như sự khôn ngoan của những người sẵn sàng chấp nhận huy hoàng trong giây lát để rồi ân hận và đau khổ suốt cả đời. Vì thế, khôn ngoan của người đời xét cho cùng chỉ là ngu dại mà thôi. Xin đừng để con khôn ngoan một cách ngu xuẩn như thế!
Bên nước Ý, trong một xứ đạo kia có cha sở tên là Đông Ca-min-lô (Don Camillo). Cha là một: TN 31-B14
Bên nước Ý, trong một xứ đạo kia có cha sở tên là Đông Ca-min-lô (Don Camillo). Cha là một linh mục vừa có óc hài hước lại vừa khỏe mạnh và có nhiều tài năng trổi vượt. Trong giáo xứ có ông xã trưởng là một người có ác cảm với đạo Công Giáo.
Một hôm trong một bữa liên hoan mừng đám cưới, ông xã trưởng đã phát biểu ý kiến, trong đó gián tiếp châm biếm chỉ trích Giáo Hội như một tổ chức lạc hậu, phản dân chủ, phản khoa học và theo đuổi chính sách ngu dân… cụ thể ông nhắm vào cá nhân vị linh mục chính xứ Đông Ca-min-lô.
Nghe người ta thuật lại điều ấy, cha Đông Ca-min-lô rất tức giận và muốn cho ông ta một bài học để chừa cái thói khích bác kia đi. Vốn có lòng đạo đức, nên trước khi ra tay hành động, cha vào trong nhà thờ, quì trước Nhà Tạm và thưa với Chúa rằng:
“Lạy Chúa, xin cho phép con nện cho tên vô đạo xấc xược kia một trận, để hắn chừa cái thói hay khích bác nói xấu Giáo hội của Chúa. Chính con đây cũng vừa bị hắn bêu riếu hạ nhục trong một bữa tiệc cưới”.
Bấy giờ từ trong NhàTạm, Ca-min-lô nghe thấy tiếng Chúa Giêsu phán rằng: “Hỡi Ca-min-lô, con nên nhớ rằng; Con là linh mục, là môn đệ yêu quý của Ta mà sao lại không yêu thương kẻ khác giống như yêu bản thân con ?”. Ca-min-lô đáp: “Con biết Chúa muốn con phải yêu hết mọi người. Nhưng đối với tên lưu manh vô đạo kia thì xin Chúa cho con được xét lại ! Vì con không thể yêu thương tha thứ một kẻ vừa gian ác, vừa quỷ quyệt ấy được !” Bấy giờ Chúa nói tiếp: “Con nên nhớ trong ngày thụ phong linh mục, bàn tay con đã được xức dầu hiến thánh, để chỉ dùng mà chúc lành, ban ơn tha thứ và cử hành các phép Bí Tích cứu độ người ta…”
Đông Ca-min-lô cúi mặt xuống như để suy nghĩ. Rồi ngay sau đó, ông lại ngẩng đầu lên, mỉm cười vui vẻ như đã tìm ra một giải pháp thỏa đáng. Ông thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, con nhớ ra rồi: Hôm ấy chỉ có đôi bàn tay của con là được Đức Giám Mục xức dầu hiến thánh, còn đôi chân của con đâu có được xức dầu ? Con nghĩ chỉ cần xử dụng nguyên đôi chân thôi thì cũng quá đủ để cho hắn một bài học nhớ đời rồi !”
- Suy niệm:
+ Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Ngài diễn tả tình yêu bằng việc sai Con Một đến thế gian, làm của lễ đền tội, hầu mang lại sự sống cho chúng ta để kêu gọi chúng ta yêu thương nhau (x. 1 Ga 4,9-11). Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tóm lược toàn bộ Lề Luật trong hai điều răn trọng nhất. Điều thứ nhất là: “Nghe đây, hỡi Ítraen. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Đnl 6,5); Điều thứ hai là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn hai điều răn đó” (Mc 12,29-31).
+ Yêu thương nhau là điều quan trọng nhất trong đạo Công Giáo: Thánh Gioan là tông đồ được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, đã cảm nghiệm được tầm quan trọng của Đức bác ái. Tục truyền rằng: Gioan sống thọ tới 100 tuổi. Nhưng khi về già, mỗi lần được các đồ đệ cáng ra ngồi giữa cộng đoàn tín hữu để khuyên bảo họ thì ngài luôn khuyên bảo với nội dung: “các con hãy thương yêu nhau”. Có người thắc mắc tại sao ngài cứ nhắc đi nhắc lại chỉ một chủ đề đó, thì Gioan đã trả lời rằng: “Vì yêu thương là điều quan trọng nhất, là tóm lược toàn bộ Luật Chúa. Khi thương yêu là các con đã giữ trọn Lề Luật rồi vậy”.
+ Phải yêu người thân cận như yêu bản thân mình: Vậy người thân cận ta phải yêu là những ai ? Người Do thái quan niệm rằng: người thân cận chính là bà con họ hàng ruột thịt, là bạn hữu, là người đồng hương đồng đạo. Còn người ngoại bang ngoại giáo thì phải tẩy chay và xử theo luật quả báo: “Mắt đền mắt, răng đền răng” Mt 5,38). Đối với Đức Giêsu thì các môn đệ phải yêu hết mọi người. Ngài nêu ra tấm gương người Samari đã giúp đỡ tận tình một nạn nhân là người Do thái (x. Lc 10,33-35). Người không kết án người thiếu phụ phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,11), Người sẵn sàng tiếp xúc với một người đàn bà Samari không mấy đạo đức bên bờ giếng Giacóp (x. Ga 4,7-26)…
+ Yêu người như vậy không phải là điều dễ làm: Bình thường người ta dễ chấp nhận yêu mến Chúa hết lòng hết sức…Nhưng thật khó có thể yêu người khác như yêu mình. Tôi phải yêu những ai đây ? Làm sao tôi có thể thương được con mẹ hàng xóm hay đưa điều đặt chuyện để nói xấu tôi ? Làm sao tôi có thể thương được ông chồng vô trách nhiệm, đã nhiều lần phụ bạc tôi ? Làm sao thương được thằng con rễ trời đánh chuyên ăn nói xấc xược, hành hạ vợ con ? hay đứa con dâu hổn láo dám cãi tay đôi với tôi ? Hay bà mẹ chồng luôn cau có đối xử cay nghiệt với tôi ?… Có lẽ chúng ta sẽ nói với Chúa: “Xin Chúa cho con xét lại trước khi quyết định tha hay không !” như linh mục Đông Ca-min-lô trong câu chuyện trên.
+ Yêu thương là giới luật mới: Đây không phải là một lời khuyên, nhưng là một lệnh truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; 15,12). Yêu thương còn là dấu chỉ người môn đệ thực sự của Đức Giêsu: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35)
Sống Lời Chúa: Trong những ngày này tôi quyết tâm phải làm gì để thực hành yêu thương đối với kẻ cố tình chống đối, đã từng làm hại tôi cả về vật chất cũng như tinh thần ? Tôi sẽ làm gì đối với một người tự nhiên có ác cảm, không muốn tiếp xúc ?
2) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):
Câu chuyện 2: Thánh Máctinô thành Tua:
Máctinô thành Tua (Martin thành Tours) là một quân nhân Rôma và cũng là một dự tòng có đức tin mạnh. Một hôm ông gặp một người hành khất đang ngồi ăn xin bên vệ đường trong thời tiết gía lạnh. Chiếc áo mỏng manh vá chằng vá đụp đang mặc cũng không đủ giữ lại hơi ấm cần thiết. Bấy giờ Máctinô thương hoàn cảnh của người ăn xin. Nhưng ông chẳng có cái gì đáng giá ngoài chiếc áo choàng của người lính. Bấy giờ ông đã rút gươm ra và cắt chiếc áo choàng làm hai rồi đem một nữa phủ lên người ăn xin rét run kia. Hôm sau, Máctinô được thấy Chúa Giêsu hiện ra với ông. Người mặc nửa chiếc áo choàng mà ông đã tặng cho người an xin hôm trước. Thì ra người hành khất ấy không ai khác hơn là chính Chúa.
Suy niệm:
+ Yêu người là yêu Chúa: Thật vậy, Đức Giêsu đã tự đồng hóa với người chung quanh chúng ta, đặc biệt là những người nghèo hèn đau khổ, những người bệnh tật không tiền thuốc thang, các cô nhi quả phụ, những người già cả neo đơn, những kẻ lang thang không nhà, những người nghèo đói…Gặp gỡ và giúp đỡ họ là gặp gỡ và giúp đỡ chính Đức Giêsu. Xua đuổi khinh dể họ là xua đuổi khinh dể chính Chúa.
+ Phải tránh sự phân biệt đối xử dựa trên sự giàu nghèo: Thánh Giacôbê đã dạy: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn cũng bước vào. Mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”. Còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó !” hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây !”, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao ?…Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ? Thế mà anh em, anh em lại khinh dể người nghèo !” (Gc 2,2-6).
+ Đừng chỉ yêu thương bằng lời nói, nhưng phải bằng việc làm cụ thể: Đức Kitô, Vua Thẩm phán sẽ đến trong ngày Tận Thế để xét xử và sẽ thưởng phạt dựa trên việc họ đã làm hay bỏ qua không làm cho người đói khát, khách lạ, rách rưới, bệnh tật, ở tù…: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Sống Lời Chúa: Tôi quyết tâm thực hành đức yêu người bằng những việc cụ thể như sau:
** Khoan dung tha thứ: Phải tha thứ cho tha nhân để chính anh em cũng xứng đáng được Chúa thứ tha (x. Mt 6,12-15). “Phải tha bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21).
** Chan hòa yêu thương: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán” (Mt 7,1); “Điều gì anh em muốn thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).
** Nhẫn nhịn hiếu hòa: Phải làm hòa trước khi dâng lễ (x. Mt 5,23-24); “Ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái” (Mt 5,39)
** Quảng đại cho đi: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44); “Cho thì có phúc hơn nhận” (Cv 20,35). “Cho một trong những anh em bé nhỏ ăn uống, thăm viếng, an ủi…là làm cho chính Chúa” (x. Mt 25,40).
** Khiêm nhường phục vụ: “Hãy học với tôi vì tôi hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29); “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14).
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Khi con đói, xin Chúa gửi đến cho con một người cần có của ăn. Khi con khát, xin Chúa gửi đến cho con một người cần có nước uống. Khi con rét lạnh, xin Chúa gửi đến cho con một người cần được sưởi ấm. Khi con bị xúc phạm, xin Chúa gửi đến cho con một người cần được an ủi. Khi thập giá đè nặng trên con, xin cho con cảm thông gánh nặng của người khác vàsẵn sàng ghé vai vác đỡ như Si-mong Ky-rê-nê xưa đã làm cho Chúa. Khi con lâm cảnh đói nghèo, xin cho con gặp một kẻ túng cực để cảm thông và chia sẻ nỗi khốn cùng của họ. Khi con không có thời giờ rảnh, xin Chúa gửi đến cho con một người cần được lắng nghe tâm sự. Khi con bị lăng nhục, xin cho con biết vững tâm khen ngợi kẻ khác. Khi con chán nản, xin Chúa gửi đến cho con một người cần được khích lệ. Khi con cần sự cảm thông, xin cho con một người cần được cảm thông. Khi con cần người chăm nom săn sóc, xin gửi đến cho con một người cũng cần được săn sóc như con. Cuối cùng, khi con ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến con, xin cho con biết quên mình để nghĩ đến người khác.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Có những lúc con đã lầm tưởng rằng: việc đọc kinh dự lễ là quan trọng nhất, việc hy sinh hãm mình hoặc chu toàn lề luật là điều cần phải làm ngay. Đang khi qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy con rằng: Tình yêu mến Chúa và thương yêu đồng loại mới là điều quan trọng nhất: Vì yêu mến Chúa, nên con sẽ chu toàn mọi điều luật dạy, sẽ tham dự Thánh Lễ và đọc kinh cầu nguyện sốt sắng, sẽ yêu thương anh chị em như yêu bản thân mình.
Lạy Mẹ, yêu thương tha nhân phải trở thành một điểm sáng trong cuộc đời con. Con biết rằng: Muốn sống yêu thương như lời Chúa, đòi con phải hy sinh rất nhiều. Xin Mẹ hãy đổ đầy tình yêu Chúa vào trái tim khô cằn của con, để con đủ quảng đại: Sẵn sàng cho đi mà không cần tính toán. Xin Mẹ hãy thấp sáng tin yêu trong trái tim con, để con tiếp tục làm sáng lên tình yêu trong những trái tim khác, để hợp tác xây dựng gia đình, giáo xứ thành một cộng đoàn đầy tình thương. Giờ đây con xác tín rằng: điều quan trọng nhất để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là chúng con phải sống tình yêu thương. Xin Mẹ giúp con luôn sống gắn bó với Chúa Giêsu giống như cành nho gắn liền với thân cây nho. Nhờ đó, con mới có khả năng thể hiện tình thương của Chúa bằng sự hy sinh quên mình, sẵn sàng dấn thân phục vụ tha nhân, nhất là những người đau khổ và bất hạnh, đang cần sự trợ giúp của con hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Gợi ý Chọn kết hợp hai điều răn lớn nhất trong Đạo
Tại quảng trường thành phố lớn nhất bên Tô Cách Lan, là Gơ-lát-gô (Glasgow), ngày 10-3: TN 31-B15
Tại quảng trường thành phố lớn nhất bên Tô Cách Lan, là Gơ-lát-gô (Glasgow), ngày 10-3-1615, dân chúng Tin Lành cũng như Công Giáo, tụ lại khá đông. Họ tò mò muốn theo dõi cuộc xử giảo một linh mục dòng Tên. Đó là cha Gioan Ô-gin-vi (Ogilvie) 35 tuổi. Người ta đặc biệt chú ý tới cố gắng của vị Mục Sư Giáo Hội Tô Cách Lan ly khai, đang ra sức cứu linh mục dòng Tên này thoát khỏi án tử vào phút chót.
Cha Ô-gin-vi: Tôi muốn sống lắm, nhưng phải có tước và bổng lộc mới được.
Mục Sư: Ông sẽ có đủ cả chức tước lẫn bổng lộc.
Cha Ô-gin-vi: Đồng ý.
Cha Ô-gin-vi liền ra hiệu cho dân chúng đứng đó: "Thưa đồng bào, Mục Sư muốn nói đôi lời với tất cả đồng bào!" Lập tức Mục Sư hướng về phía dân chúng mà nói để mọi người đều nghe được: "Tôi hứa nếu ông Ô-gin-vi bỏ đạo, thì không những thoát khỏi án tử, mà còn được làm con rể Đức Tổng Giám Mục, cũng như được hưởng bổng lộc nữa." Cha Ô-gin-vi liền hỏi đám đông: "Đồng bào có nghe rõ Mục Sư nói gì không? Xin đồng bào làm chứng hộ tôi với." Đám đông xôn xao: "Nghe rõ, nghe rõ. Xuống đi, xuống đi!" Người ta cứ tưởng Cha Ô-gin-vi bước xuống ngay khỏi đoạn đầu đài, nhưng Cha còn muốn hỏi thêm.
Cha Ô-gin-vi: Sau này tôi còn bị phạt về tội phản quốc gì không?
Đám đông: Không đâu, phản gì mà phản!
Nghe Cha Ô-gin-vi nói, người Tin Lành có vẻ đắc thắng. Ngược lại người Công Giáo cảm thấy buồn bực khó tả: Mới hôm nào Cha Ô-gin-vi tỏ ra can trường khiến mọi người Công Giáo phải thán phục; tại sao hôm nay Cha lại như đang mặc cả để bán linh hồn lấy chút vinh hoa! Hôm ấy trước toà án, ai là người Công Giáo cũng lấy làm thích thú về lời tuyên bố của Cha Ô-gin-vi khi Cha nói: "Nếu mỗi sợi tóc của tôi là một linh mục, thì tất cả mọi sợi tóc của tôi cũng trở về Tô Cách Lan với tôi!" Thế mà hôm nay Cha Ô-gin-vi hành xử khác hẳn.
Dù sao, mọi người nơi quảng trường cũng chú ý tới những lời Cha Ô-gin-vi nói tiếp với dân chúng.
Cha Ô-gin-vi: Vậy là hôm nay tôi bị xử tử chỉ vì lý do tôn giáo thôi, phải không?
Đám đông: Đúng rồi còn gì nữa!
Cha Ô-gin-vi ngừng nói, đảo mắt nhìn khắp quảng trường, rồi dõng dạc tuyên bố: "Thưa đồng bào, tôi chỉ mong được đồng bào xác nhận cho như vậy. Tôi không hề phản quốc. Tôi bị xử tử chỉ vì lý do tôn giáo. Nếu vậy, dù phải chết ngàn lần, tôi cũng sẵn sàng. Ai muốn tước đoạt mạng sống tôi thì cứ làm, nhưng đức tin của tôi không ai bẻ cong được đâu." Nghe vậy người Công Giáo bỗng cảm thấy được nhẹ nhõm. Trái lại, người Tin Lành đứng đó tiu nghỉu nói với nhau: "Thật là ma giáo!"
Lời tuyên tín độc đáo của Cha Ô-gin-vi tự nhiên làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động. Lời tuyên tín ấy đã đưa Cha tới cái chết qua hai điều răn mến Chúa và yêu người thực sự đã nên một trong một của lễ toàn thiêu tuyệt hảo!
Giữa cả một rừng luật
Bài Tin Mừng hôm nay trước tiên đặt ta trước bối cảnh của cả một rừng luật nơi não trạng của người Do Thái. Với họ "Luật Môsê" bao gồm mọi luật buộc mà Gia-vê Thiên Chúa đã mạc khải cho Ít-ra-en ngang qua nhà lãnh đạo Môsê. Nhưng các bậc thầy Do Thái còn thêm 248 điều buộc và 365 điều cấm. Vì thế tín đồ đạo Do Thái gặp phải thắc mắc là: Luật nào đứng hàng đầu giữa cả một rừng luật mà họ được dạy để tuân theo? Khi nghe Đức Giêsu trả lời bằng cách trích sách Đệ Nhị Luật của Môsê để nói "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi" (6,4-5). Câu đó mọi người Do Thái đều thuộc lòng. Sẽ không có vấn đề để họ nhìn nhận tình yêu mà họ dành cho Thiên Chúa phải là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu của con người mà dừng lại ở bất cứ thọ tạo nào để không quy hướng về Thiên Chúa thì tình yêu ấy sẽ bị lệch lạc, không thể thành tựu được.
Nhưng đó là xét về mặt lý thuyết. Trong thực hành chính điều răn thứ hai là: "Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình" (c.31), điều răn ấy mới làm cho chỗ đứng của điều răn thứ nhất kia bị xáo trộn, do sự lệch lạc của tình yêu nơi con người. Tông đồ Gioan kể tội ghét anh em mình là tội nói dối vì ngài bảo "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì kẻ ấy là người nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Tác giả thư của Giacôbê qui trách nhiệm sự thiếu vắng tình yêu đối với tha nhân về một đức tin đã chết khi nói: "Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no" nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (2,15-17).
Thế nào là yêu tha nhân như chính mình?
Thực ra, yêu tha nhân như chính mình hiểu ngầm một tình yêu đích thực đối với bản thân. Đó là điều Đức Giêsu muốn nói khi nêu điều kiện phải có để theo Người. Người nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy." (Mt 16,24-25). Câu nói đó sẽ dễ hiểu khi ta ý thức ta hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa trong mọi sự. Tại sao ta ngần ngại không chịu hoàn toàn phó thác bản thân ta cho Thiên Chúa? Chính Người an bài và sắp xếp mọi sự để ta đạt tới mục đích như ý Người muốn, là được sống một cách vĩnh viễn với Người trong cõi phúc. Chính trong tinh thần hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa như vậy ta mới có thể yêu mình và yêu tha nhân một cách đích thực.
Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu đích thực đó một cách tuyệt hảo khi Người nối kết hai điều răn mến Chúa và yêu người trong cái chết cao quý hơn bất cứ lễ toàn thiêu và lễ vật hy sinh nào khác, khi Người hy sinh mạng sống mình vì yêu Cha và yêu cả nhân loại. Tất cả các thánh tử đạo cũng theo cùng một con đường hy sinh đó. Thực ra mọi Kitô hữu chúng ta cũng không có con đường nào khác để đi ngoài con đường Đức Giêsu đã đi. Là Kitô hữu tức là người khi chịu phép rửa, ta được dìm trong sự chết của Đức Kitô, để khi chỗi dậy, ta sống sự sống mới do Đức Giêsu ban cho. Đó là sự sống hoàn toàn lệ thuộc vào thánh ý của Cha. Ta chết đi cho tội lỗi để sống sự sống tràn đầy của tình yêu sung mãn đối với Thiên Chúa. Chính Thần Khí của Chúa Giêsu dạy ta phải làm gì để có thể yêu thương tha nhân như chính mình. Thần Khí của Chúa có thể ban cho ta diễm phúc được nên một với Người trong cái chết cứu thế mà Người đã tự nguyện chịu lấy cho cả nhân loại. Đó chính là điều đã xảy ra cho cha Ô-gin-vi.
Sinh ra tại Tô Cách Lan năm 1579. Vốn là con của một gia đình Tin Lành thuộc giáo hội Tô Cách Lan ly khai, cậu Gioan được gởi đi du học bên Pháp từ tuổi 13. Nhân cơ hội được học tại một trường phổ thông của các cha dòng Tên, cậu đã theo dõi những buổi thảo luận về Đức Tin nên sớm biết đạo Công Giáo và đã xin gia nhập Đạo ở tuổi 17. Ba năm sau cậu đã xin gia nhập dòng Tên và được tuần tự huấn luyện qua 2 năm tập viện, 3 năm triết học, 3 năm thực tập, 3 năm thần học rồi được chịu chức linh mục tại Paris năm 1610.
Đây là lúc phải giúp đỡ đồng bào tôi
Khi ở Pháp, cha Ô-gin-vi năng được gặp các vị thừa sai dòng Tên lén lút về Tô Cách Lan để phục vụ các tín hữu Công Giáo. Tin tức mà cha nhận được về Tô Cách Lan không mấy sáng sủa. Nhưng tình hình của Đất Nước càng mờ mịt thì lòng nhiệt thành của cha càng được củng cố. Cha nói: "Đây chính là lúc phải giúp đỡ đồng bào tôi." Cha được sai về phục vụ tại quê nhà mùa thu năm 1613. Hoạt động tông đồ của cha kết quả tới mức trở nên sự đe dọa cho giới chức trách đạo đời. Đầu tháng 10 năm 1614 cha bị bắt và ngày 10 tháng 3 năm 1615 cha đã bị hành quyết như nói trên.
Quả thật nơi cái chết tử đạo của cha Ô-gin-vi, người ta thấy hai điều răn mến Chúa yêu người được nối kết chặt chẽ với nhau trong một của lễ toàn thiêu vì lòng mến Chúa và yêu người.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn hiểu thế nào về câu nói trong thư của Gioan là "Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì kẻ ấy là người nói dối." (1Ga 4,20) Nói dối theo nghĩa nào? Người không biết Thiên Chúa có thể yêu đồng loại một cách sung mãn chăng?
2. Phải yêu tha nhân như chính mình (c.31) nhưng lại phải từ bỏ chính mình để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu (Mt 16, 24-25). Nói như vậy có sợ mâu thuẫn chăng? Làm thế nào giải toả được mâu thuẫn đó?
Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta chứng kiến một cuộc đối thoại rất "dịu dàng" và rất hiếm: TN 31-B16
Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta chứng kiến một cuộc đối thoại rất "dịu dàng" và rất hiếm khi xẩy ra giữa Chúa Giêsu với nhóm luật sĩ. Có lẽ chúng ta đã từng thắc mắc như người luật sĩ thiện tâm này: trong các luật lệ của Chúa điều nào quan trọng nhất? Tóm lại chỉ có hai điều là mến Chúa và yêu người, thoạt nghe thật là đơn giản, nhưng không dễ để thi hành.
Người ta thường nói: yêu Chúa thì dễ, mà yêu người thì khó. Thật ra yêu Chúa theo đúng nghĩa thì không phải dễ đâu, yêu không phải chỉ bằng môi miệng mà thôi, nhưng phải minh chứng bằng hành động cụ thể. Làm thế nào để chứng tỏ tình yêu của ta dành cho Chúa? Có phải chỉ đi lễ ngày Chúa nhật và đọc kinh hằng ngày là đủ? Nếu chỉ như vậy thì yêu Chúa dễ thật. Khi xưa Chúa Giêsu đã từng quở trách nhóm luật sĩ bằng lời của ngôn sứ Isaia: "Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta" (Mc 7:6). Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm cho nhóm biệt phái phải khó chịu vì Ngài không giữ luật trong ngày Sabát và hay giao tiếp với những người tội lỗi. Chúa Giêsu đã khiển trách họ là bọn giả hình, nói mà không làm (Mt 23:13). Ngài đến thế gian để kiện toàn lề luật, Chúa đòi hỏi lòng bác ái cao thượng hơn, không phải là: "răng đền răng, mắt đền mắt", nhưng là yêu thương cả kẻ thù của mình (Mt 6: 44). Lề luật được làm ra vì con người, chứ con người không bị lệ thuộc vào lề luật, "Ta muốn lòng nhân , chứ không cần lễ tế..." (Mt 12:7).
Tất cả mọi tình yêu phải được xuất phát từ Thiên Chúa thì mới chân thật và bền vững, vì Chúa là tình yêu, chỉ có Chúa mới hoàn hảo, toàn mỹ toàn thiện. Chúa là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta và đã ban tặng cho ta cả vũ trụ bao la tuyệt vời này. Món quà quý giá nhật là chính Chúa Giêsu đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta và ở lại với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Tình yêu đáp lại tình yêu, với tình con thảo chúng ta đáp lại tình Chúa bằng tấm lòng tri ân cảm mến. Có nhiều người theo đạo Công Giáo vì thấy gương lành của người có đạo, và ngược lại cũng có nhiều người đã mất niềm tin vì nhìn thấy những gương mù của những người mang danh là Kitô hữu. Niềm tin chúng ta tại sao lại lệ thuộc vào người khác? Chúng ta theo Chúa Chứ không phải theo người này người nọ.
Tất cả chúng ta đều có khát vọng hướng tới sự thánh thiện chứ chưa phải là thánh. Chúa biết con người dễ sa ngã, hay thay đổi nhưng Ngài vẫn chấp nhận, vẫn thương yêu và sẵn sàng tha thứ khi chúng ta biết chạy đến với Ngài qua Bí tích Hoà Giải. Còn chúng ta, là những người cũng có những lầm lỗi như bao người khác, tại sao lại xét đoán và không chấp nhận những yếu đuối của anh chị em mình? Yêu người mà không vì Chúa thì thật là khó yêu lắm. Nếu chúng ta tin Chúa hiện diện trong mọi người thì ta không thể ghét ai được. "...Yêu người thân cận như chính mình", chúng ta không thể yêu người khác khi không thấy mình đáng yêu. Không thể cho cái mình không có, làm sao người khác có thể cảm thấy niềm vui khi trên khuôn mặt của mình còn nặng trĩu những nỗi u sầu? Trong cuộc sống, thường những người mình khó thương lại chính là những người gần mình nhất, vì biết rõ khuôn mặt thật của nhau nên dễ mất đi sự tôn trọng nhau. Thật mâu thuẫn khi một người rất hăng say trong việc tông đồ tại Giáo xứ và có lòng bác ái thương người đối với những người ngoài mà thôi, còn chính gia đình họ thì như bãi chiến trường hay như một căn nhà hoàng nguội lạnh thiếu vắng tình người. Những người hiện diện trong cuộc đời chúng ta không phải là ngẫu nhiên: người chồng, người vợ, đàn con... đó chính là những món quà quý giá mà Chúa ban tặng để chúng ta được tăng trưởng trong tình yêu. Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm với nhau, chúng ta là những cánh tay nối dài của Chúa để làm cho mọi người xung quanh cảm nhận được, nhiều khi chỉ cần một cử chỉ đơn sơ cũng đủ làm cho người khác ấm lòng: một nụ cười trao nhau, một lời thăm hỏi ủi an, một ly nước lạnh sau một ngày mệt mỏi... Lòng bác ái thật sự phải đi từ trong gia đình, từ những người gần gũi với mình nhất, nếu không thì chỉ là "bác ái giả hiệu". Gia đình có đạo đức và êm ấm thì Giáo Hội mới có những con chiên tốt lành và xã hội mới được an bình.
Lạy Chúa! xin cho con có một trái tim như Chúa, một trái tim biết yêu thương, quảng đại và vị tha, biết nhạy cảm trước những nhu cầu của người khác, biết cho đi mà không cần đáp trả. Nhờ lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin cho con trong Năm Thánh này biết chạy đến cùng Chúa để hàn gắn những vết thương trong tâm hồn, những rạn nứt trong gia đình, trong cộng đoàn và trong các mối liên hệ với những người quanh con để tình Chúa được chan hoà cho mọi người Chúa gửi đến trong đời con. Amen
Suy Niệm: “Yêu Chúa và yêu nguời là 2 giới răn trọng nhất, tóm gọn các giới luật”(Mk 12:33)
Không khí cần cho sự sống của con nguời cũng như vạn vật. Hơn nữa, tình yêu lại làm cho: TN 31-B17
Không khí cần cho sự sống của con nguời cũng như vạn vật. Hơn nữa, tình yêu lại làm cho sự sống thêm tròn đầy và tăng thêm tuổi thọ. Từ cổ chí kim, các danh nhân đều cố gắng định nghĩa “tình yêu”, nhưng vẫn chưa diễn tả cách tròn đầy ! Hillel dạy học trò rằng, `yêu tức là: `đừng làm điều con không thích cho kẻ khác'. Akiba tích cực hơn, `con hãy yêu kẻ khác như chính con'. Đạo Do Thái lại quên về phía tình người, mà chỉ nghĩ đến Thiên Chúa, như trong bài đọc hôm nay, dạy rằng: “Hãy yêu Chúa hết lòng, hết sức nguơi.”
Khi Đức Giêsu đến, Ngài thăng hóa hai thái cực, và nâng Tình Yêu lên mức tròn đầy: “Kính Chúa yêu nguời”. Ngài làm lời Ngài nói và kiên trung với chân lý đến cùng, cho dù phải chết. Chính sự chết cho tình yêu với Chúa Cha và để cứu nhân loại, mà tình yêu vĩnh cửu được ?san sẻ cho loài nguời. Nhờ sự yêu thương và hy sinh cho nhau đã đem hạnh phúc cho nhiều gia đình.
Thực Hành: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu.”(Mk 12:33) Những điều Đức Giêsu dạy, không phải là không thể thực hiện được. Có những nguời đã sống được điều đó và để gương cho đời. Chẳng hạn thi sĩ Tagore biết nhìn ra được hình ảnh sống động của Chúa trong tha nhân. Một hôm tiễn khách ra về, ông gói trọn tình quyến luyến trong mấy vần thơ:
Nguời rời gót ngọc ra đi,Tim tôi cảm nhận điều gì khó quên! Nghĩ ra mới biết `thiên ân' Từ trời ban xuống, ủi an kiếp nguời.
Ước chi mỗi Kitô hữu được rung cảm tình trời với nguời.
Chúa Giêsu đã từng phán: "Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn”. Phụng vụ Lời: TN 31-B18
Chúa Giêsu đã từng phán: "Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn". Phụng vụ Lời Chúa hôm nay minh chứng điều đó: "Luật mới hoàn hảo hơn luật cũ."
Phúc Âm, (bài đọc 3) kể lại người luật sĩ kia, có vẻ lúng túng vì luật lệ đạo cũ quá nhiều và phức tạp, đến hỏi Chúa Giêsu rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?" Và Chúa Giêsu, sau khi kê hai giới răn, mến Chúa, yêu người, đã thêm rằng: "Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó." Chúa không đưa ra điều răn nào mới lạ cả. Điều răn thứ nhất rút ra trong sách Đệ nhị luật (bài đọc 1) ông Môisen bảo dân Do Thái: "Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi..." Điều răn thứ hai rút trong sách Lêvi (19,18): "Ngươi sẽ không báo oán cừu hờn với các dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình..." Có điều mới lạ chăng? Là Chúa ráp hai giới răn đó lại làm một: vì quan trọng như nhau và không tách rời nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng mến Chúa thì càng yêu người. Yêu người, không những bà con bạn hữu mà lại cả kẻ thù nghịch nữa. Chính ông luật sĩ cũng đã tán đồng ý tưởng Chúa: "Đúng lắm! Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu người như chính mình, thì hơn mọi lễ hy sinh".
Trong thơ gởi tín hữu Do Thái (bài đọc 2), Phaolô cũng minh chứng Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ. Thánh nhân lấy ví dụ người tư tế. Theo Cựu Ước, người tư tế và lễ vật hiến tế khác nhau. Theo Tân Ước, Tư tế và lễ vật cũng là một. Chúa Giêsu vừa là Thầy Tư tế vừa là Lễ vật. Chúa tự dâng mình làm lễ tế thượng tiến Chúa Cha. Xưa phải có nhiều tư tế: vì các tư tế hay chết, nên phải có nhiều để tuần tự nối tiếp nhau mà tế lễ. Nay một mình Chúa Giêsu, vì Người không chết nữa, là thượng tế đời đời. Lễ Misa hằng ngày cũng là lễ tế xưa Chúa truyền lại để nhắc đến Người: "Các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta". Vậy Phaolô quả quyết rằng: "Người làm việc ấy chỉ có một lần, khi hiến dâng chính mình. Vì lề luật thì đặt nhiều người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng Tế đến muôn đời". Cho nên Lễ tế mới hoàn hảo hơn Lễ tế cũ.
Có xưa mới có nay, có cũ mới có mới, luật cũ, luật mới cũng đều do Chúa ban ra cả. Chúa dùng Môisen truyền rao luật cũ, Chúa sai Con Một mình là Đức Kitô rao truyền luật mới. Chúa dùng vật chất cụ thể đưa lần người ta đến trừu tượng thiêng liêng. Tân Ước chính là viên mãn Cựu Ước mà Chúa là tác giả chính: Vì chỉ có mình Chúa mới có quyền ra lề luật cho nhân loại.
Tân Ước hay Cựu Ước đều là Lời Chúa hay ban sự sống. Chúng ta có bổn phận phải lĩnh hội để được sống. Như Chúa Giêsu đã phán: "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra". Ý thức như thế, âu là được Chúa cũng sẽ bảo như đã bảo ông luật sĩ: "Ông không xa nước Thiên Chúa bao nhiêu".
Từ năm 1975 tới nay đã có rất nhiều sách vở và những cuộc khảo cứu về: TN 31-B19
Từ năm 1975 tới nay đã có rất nhiều sách vở và những cuộc khảo cứu về hiện tượng những người đã chết đi rồi bỗng sống lại, gọi là "Near Death Experience" (NDE). Hai người nổi tiếng nhất trong lãnh vực này là bác sĩ Raymond Moody với cuốn "Đời Sau" (Life After Life) và mới đây bác sĩ Melvin Morse với cuốn "Được Ánh Sáng Biến Đổi" (Transformed by the Light). Kimberly Clark Sharp với cuốn "Sau Ánh Sáng" (After the Light) và Betty Eadie với cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (Embraced by the Light) là hai trường hợp kể lại kinh nghiệm của chính mình đã thấy gì ở bên kia cửa tử.
Đã chết thật khác với tình trạng hôn mê bất tỉnh. Vì tình trạng hôn mê vẫn chưa phải là chết thật. Những gì xẩy ra trong thời gian một người đã thực sự chết rồi sống lại? Có người chết 5 phút, có người chết nửa giờ. Cả mấy trăm trường hợp như vậy được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng. Những gì thuật lại đã được bác sĩ Melvin Morse của trung tâm Seattle chứng nghiệm là có thật, chứ không phải do phản ứng của thuốc hay cơ thể lúc chết do ảo giác vì thiếu dưỡng khí hay vì những thần kinh óc bị hủy hoại. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính:
1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh.
2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài như Bà Betty Eadie kể lại trong cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (trang 39) Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới. 3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria như bà Betty Eadie: "thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi" (trang 191). "Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật. Không còn chỉ tin vào một lực vũ trụ, mà tin vào một Đấng đàng sau sức mạnh đó. Tôi thấy Đấng đầy yêu thương đã dựng nên vũ trụ và đặt mọi khôn ngoan vào đó. Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương..." (trang 61). "Tôi cảm nhận tình yêu của Chúa vô điều kiện, vượt trên mọi tình yêu trần thế... Và tôi được ấp ủ trong cánh tay của ánh sáng vĩnh cửu này" (trang 53).
Lúc đó hồn được soi sáng nhìn lại và thấy tất cả cuộc đời của mình hiện lên trong một nháy mắt. Đạo Chúa vẫn gọi là phán xét. "Tôi thấy tôi là chính những người tôi xúc phạm, và cũng là chính những người tôi giúp đỡ". Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong "Ánh Sáng Muôn Năm" (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27).
4. Được biến đổi: "Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết" (Được Ánh Sáng Biến Đổi, trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa "Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới. Một số người tự nhiên thông minh hơn ra nhiều... biết nhiều nguyên lí toán học ngay cả về nguyên tử... thuyết tương đối của Einstein ...phát triển nhiều khả năng tâm linh..." (trang 9-10).
HÀN MẶC TỬ THẤY ĐƯỢC NHỮNG HUYỀN BÍ
Trong thơ Hàn Mặc Tử, có nhiều ý tưởng và hình ảnh kì lạ khó hiểu. Một vài người vội nghĩ ngay đó chỉ là những tưởng tượng hay bám víu vào niềm tin cho khuây khỏa cơn bệnh, hay chỉ là những kiểu chơi chữ cho bay bướm cao siêu. Nhưng qua những khảo cứu và những khám phá khoa học trên thì chắc chắn ai cũng phải nhận rằng những ý tưởng và hình ảnh này đúng là của một người đã chết, đã thấy nhiều điều huyền bí từ "cõi chết", rồi sống lại trở về kể lại như một lời chứng. Ông Trần Thanh Mại trong cuốn "Hàn Mặc Tử" có nhắc tới việc Hàn Mặc Tử chết đi sống lại trong thời gian bị bệnh cùi hành hạ khủng khiếp ở Qui Hòa: đôi ba lần (trang 55, 80) rồi bốn năm lần (trang 136). Thật lạ lùng, các diễn tiến trong thơ Hàn Mặc Tử cũng giống hệt như 4 điểm chính trong khảo sát của bác sĩ Melvin Morse:
Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịtĐể chập chờn trong ánh sáng mông lung.
(Sáng láng)
Nhất là trong "Hồn Lìa Khỏi Xác", Hàn Mặc Tử đã diễn lại y như bác sĩ Melvin Morse đã khảo sát trong giai đoạn sau khi chết bị hút vào ống tối dài, mà Betty Eddie tả là thung lũng bóng tối sự chết:
Há miệng cho hồn văng lên muôn trượngRồi hồn ngắm tử thi hồn tan rãBốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa.
Thấy ánh sáng muôn năm là yếu tố then chốt trong thiên tài nghệ sĩ sáng tác của Hàn Mặc Tử. Ông thấy và diễn tả lại một cách trung thực. Không phải như một luận đề, suy diễn, hay kết luận của hệ thống giáo lí nào cả, mà là một thực chứng. Vì thế mà thơ ông mang rất nhiều hình ảnh siêu thoát.
Ai tới đó mà chẳng nao thần tríTòa châu báu kết bằng hương kì dịCủa Tình Yêu rung động lớp hào quang
TIN VUI TẮM GỘI Ở TRONG NGUỒN ÁNH SÁNG
Tất cả những cái thấy trên đúng là như vẽ ra cảnh thiên đàng trong hình ảnh Kinh Thánh. Thánh Phaolô có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: "Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm (hồn còn ở trong xác hay đã ra ngoài xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó (hồn còn ở trong xác hay đã ra khỏi xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra. Đó là người tôi muốn khoe chứ tôi đây thì khoe làm gì, vì chỉ thấy những điểm kém hèn. Giả tỉ tôi nhất định khoe thì cũng chớ ai cười tôi là khùng, vì tôi nói đúng sự thực; nhưng tôi sẽ không nói nữa, vì những vụ thị kiến kia quả là vĩ đại khác thường, tôi sợ vì đó mà có người đánh giá tôi cao hơn những tư cách họ mắt thấy tai nghe ở nơi tôi" (2Co 12:1-6).
Cũng đúng là thị kiến của Gia-cóp, của các tiên tri, thật lạ lùng vượt qua sức hiểu biết con người, nhưng có thực, giống như cái thấy của thánh Gioan trong Khải Huyền:
"Tôi thấy một trời mới và một đất mới, cảnh trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến dạng, cả biển cũng không thấy đâu. Tôi thấy thành thánh, thành Giêrusalem mới, từ Thiên Chúa trên trời hạ xuống, xinh đẹp như một tân nương trang điểm chờ chồng. Rồi tôi nghe có tiếng lớn phán ra từ bảo tòa: Ngươi có thấy đô thị này chăng? Tại đây Thiên Chúa sống giữa loài người. Người sẽ đặt trú sở của Người giữa chúng; và chúng sẽ lã thần dân của Người, và chính Người sẽ là Thiên Chúa của họ, đúng như mấy chữ Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Người sẽ lau mắt họ cho ráo lệ sầu, sẽ không còn chết chóc, không còn tang chế hay là buồn rầu nữa. Thế giới cũ đã qua" (Khải Huyền 21:1-4).
Tháng 11 trong truyền thống đạo Chúa là tháng dừng chân nhìn về đời sau. Có ai sống mãi được đâu. Nhưng chết chưa phải là hết, mà là ngưỡng cửa bước vào một cuộc sống mới. Hàn Mặc Tử cũng như những người đã chết rồi bỗng sống lại đã làm chứng thấy được những gì bên kia cửa tử: người ta có hồn, ra khỏi xác thì chạm tới thung lũng bóng tối sự chết, có phán xét, có thiên đàng, có hỏa ngục, mọi buồn vui đắng ngọt rời rạc vô nghĩa sẽ "qui tụ thâu về trong một mối", và nhất là có Chúa là Nguồn Ánh Sáng Tình Yêu chứ không phải là một lực vô vi vô vị.
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miềnKhông u tối như cõi lòng ma quỉVì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trịNhạc thiêng liêng dồn trổi khắp u linh.
Xin cho con được mở con mắt nhìn xa và cao hơn, vượt ra khỏi những gì bầy nhầy giam hãm trong cuộc sống tranh lộn hằng ngày, vượt lên khỏi những ngấn lệ trầm luân trong quãng thời gian ngắn ngủi trên mặt đất này, để thấy được vùng ánh sáng mới như Hàn Mặc Tử:
Tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyênTa ước ao đầu đội mũ triều thiênVà tắm gội ở trong nguồn ánh sáng.
Nói đến bác ái và lòng yêu mến Chúa phải chăng là điều nhàm chán ? Nhưng: TN 31-B20
Nói đến bác ái và lòng yêu mến Chúa phải chăng là điều nhàm chán ? Nhưng lời Chúa lúc nào cũng mới mẻ. Chả vậy mà thánh Gioan tuổi đã già mỗi lần môn đệ khiêng ra nhà thờ cho ông cụ làm lễ và giảng Ngài chỉ nói đi nói lại một điều: mến Chúa và yêu người. Các môn đệ thưa ngài sao nói mãi biết rồi khổ lắm thì ngài bình tĩnh trả lời: đó là cốt tính của đạo Chúa.
Điều này phù hợp với triết lý Đông Phương của Khổng Tử. Chỉ xin nhắc lại hai câu tử viết: nhân giả, nhân dã và nhân giả dã, nhân dã. Câu nhất có nghĩa là người có lòng nhân mới là người. Còn câu hai có nghĩa cái lý tưởng đòi hỏi cho con người đạt tới chính là lòng nhân. Như vậy đạo làm người cũng phải là đạo yêu thương và khi thánh Gioan trịnh trọng viết trong thư của Ngài: dios es amor có nghĩa là muốn làm con Thiên Chúa muốn nên một với Thiên Chúa muốn thành Chúa con người phải yêu thương nhau như thánh Au tinh đã nói: Thiên Chúa làm người cho con người thành Thiên Chúa. Mà tình yêu này theo nghĩa kinh thánh nó cụ thể, như tình yêu vợ chồng nên cũng cũ Khổng Tử nói: tình yêu phu phụ là đầu gối của lòng nhân như tình yêu Cha đối với Con nhiệm xuất ra Thánh Thần và giao ước trong Thánh Kinh là bức thư tình của Thiên Chúa yêu chết mê chết mệt con người nên đã phó con mình đến chết cho thế gian để thế gian nhờ cái chết đó được sống được yêu và được chết cho tình yêu. Tình yêu Ba Ngôi chính là hình ảnh là gương mẫu cho tình yêu vợ chồng theo ý nghĩa tình yêu đó phải là sáng tạo như Thiên Chúa đã tạo dựng và vợ chồng đúng nghĩa phải có con cái là hoa quả tình yêu.
Hỏa ngục là không yêu nhau. Kinh nghiệm nhiều gia đình cho thấy điều đó. Triết gia hiện sinh J. P. Sartre còn nói mạnh hơn: Kẻ khác là hỏa ngục (l'enfer c'est les autres). Khi không yêu nhau được và thấy trong cuộc đời này không thể yêu nhau làm sao thấy được hạnh phúc và Thiên Chúa vắng bóng khi không có tình yêu và lúc đó chỉ còn tội lỗi và chết chóc. Ma quỉ chỉ đem hận thù ghen ghét và tội tổ tông chính là khi không thể yêu thương, khi khó có thể yêu thương, khi tội lỗi ngăn cách yêu thương. Trong mỗi tình yêu hình như có bóng dáng của cái tôi, cái ngã, cái chấp ngã theo ngôn ngữ nhà Phật, nên không thể có tình yêu trọn vẹn lý tưởng trên đời này theo như lý tưởng Chúa Giêsu đã nêu ra:Nadie tiene mayor amor que el que da su vida por sus amigos (Joan XV, XIII) Không ai yêu bạn cho bằng kẻ dám chết vì bạn. Tuy nhiên với ơn Chúa và sự kết hợp với Chúa Giêsu chúng ta có thể yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn trong thánh lễ Misa khi Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu Cha vô cùng thay cho ta. Thánh lễ Misa là cách thế duy nhất để con người có thể mến Chúa hết lòng và cũng trong thánh lễ mà con người có thể mượn tình yêu vô cùng của Chúa Giêsu để yêu nhau thân thể hao mòn, yêu nhau đến chết vẫn còn yêu nhau.
Truyện cổ kể Giới Tử Thôi dám cắt thịt mình cho vua ăn. Chưa có người nào dám cắt thịt cách thiêng liêng cho người mình yêu thương. Chỉ mình Chúa Giêsu đã ban cho ta chính châu thân Ngài trong bí tích Thánh Thể để nói lên rằng nếu không yêu nghiêm túc thì đừng yêu vì đó chỉ là giả dối và người ta có thể bi quan nói rằng trên đời này có tình yêu đích thực và lý tưởng như Chúa đã nêu ra trong Kinh Thánh hay không ? Xin nhắc lại giáo huấn của hai thánh tông đồ: Yêu thương là làm trọn lề luật và yêu thương tẩy xóa tội lỗi. Hay nói như thánh Âutinh: Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm hay như lời thánh Phaolô: đối với những người yêu Chúa mọi sự đều tốt đẹp.
Người Việt nam khi đi xưng tội hay để ý đến điều răn thứ sáu nhưng tội lỗi công bình bác ái cũng nặng nề hơn chúng ta thường sao lãng. Ngày thế mạt Chúa cũng chỉ phán xét ta về tình yêu và ông trộm lành lên thiên đàng ngay với Chúa chẳng qua vì ông đã có hành động yêu thương tuyệt vời khi dám nói lên chân lý: Ngài có tội gì đâu trước mặt đám đông coi Ngài là người có tội và bị cả Thiên Chúa bỏ rơi. Thánh nữ Têrêxa trong nhật ký có cho rằng ơn gọi của Ngài trong thân thể Chúa là ơn gọi tình yêu, ơn gọi chính yếu nhất và sự thánh thiện hệ tại tình yêu khi ngài nói: làm những việc thường cách khác thường nghĩa là với tình yêu tuyệt vời vô cùng của Thiên Chúa. Mỗi lần đi phụng thờ Thiên Chúa trong nhà thờ chúng ta coi đó là hành động yêu mến hay chỉ là hành động theo thói quen hay truyền thống ? Khi thống hối chúng ta có thống hối tội không yêu thương hay không ? Trong cuộc sống công giáo chúng ta để ý đến chuyện bên ngoài nhiều quá như Matta khi Chúa đến nhà trong khi chỉ có một chuyện cần Maria đã chọn phần tốt nhất là ngồi bên Chúa, nói rõ hơn là yêu Chúa và nếu cuộc đời chúng ta chỉ làm một việc là yêu Chúa cũng đủ rồi. Khi chúng ta yêu Chúa thật tình yêu đó sẽ lan tỏa trong cuộc sống và chúng ta sẽ ban phát tình yêu đó cho tha nhân để cuối cùng nhìn ra nơi tha nhân chính là hình ảnh cụ thể của Thiên Chúa như Thiên Chúa đã đồng hóa tình yêu Ngài nơi tình yêu tha nhân nhất là những người bị bỏ rơi, bách hại, nghèo đói sống bên lề xã hộinhững người nghèo tàn nghèo mạt, nghèo khạc ra tro nghèo ho ra bụi nghèo lủi vô bờ nghèo mờ con mắt nghèo thắt xường sườn nghèo cong xương sống.Nhưng nghèo của cải không khổ bằng nghèo tình thương đâu và có thể là khi chúng ta thực thi tình yêu chúng ta sẽ là cho trái đất này thêm giàu có và có hình ảnh của Thiên Chúa tình thương. Mỗi người hãy tự hỏi mình: tôi đã yêu thương chưa ? Tôi biết yêu thương theo đúng ý Chúa chưa ?
----------------------------------------
TN 31-B21: Mến Chúa yêu người là cốt lõi của Kitô giáo
Ngày 19.10.2003 vừa qua, Mẹ Têrêxa thành Calcutta (An độ) được Đức Thánh Cha Gioan: TN 31-B21
Ngày 19.10.2003 vừa qua, Mẹ Têrêxa thành Calcutta (An độ) được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II tôn phong lên hàng Chân Phước. Sự kiện lịch sử này đem lại Niềm Vui lớn lao cho mọi người công giáo khắp năm châu và mang nhiều ý nghĩa đặc biệt vì hơn ai hết, Mẹ Têrêxa đáng được tôn vinh là “mẫu mực” của đời sống Kitô giáo: Mẹ Têrêxa đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức của Mẹ. Đồng thời Mẹ Têrêxa cũng đã yêu thương tha nhân như chính mình, đúng như Lời Chúa trong Sách đệ nhị luật và trong sách Phúc âm Máccô đã dạy chúng ta hôm nay.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1.1 Bài đọc 1: Đnl 6,2-6: Là một đoạn Sách đệ nhị luật chép lại những lời truyền của lãnh tụ Môsê cho toàn dân Ítraen, dân riêng của Thiên Chúa: “Anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh em, và anh em sẽ được sống lâu.
“Hỡi Ítraen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành: như vậy anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, đã phán với anh em. Nghe đây hỡi Ítraen! Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay anh em phải ghi lòng tạc dạ”
Chúng ta nên ghi nhận điều này: theo quan niệm của tác giả Sách đệ nhị luật thì yêu mến Thiên Chúa là điều kiện để dân Ítraen sống lâu, sống hạnh phúc và phát triển thành một dân tộc đông đảo và hùng mạnh.
1.2 Bài đọc 2: Dt 7,23-28: Là những lời của Thánh Phaolô nói tiếp về Đức Giêsu Kitô là Thượng Tế. Thượng Tế Giêsu Kitô “hằng sống muôn đời nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy Người hằng sống để chuyền cầu cho họ”
Thánh Phaolô viết tiếp: “Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ".
Khẳng định của Thánh Phaolô không thể hiểu cách khác được: Chỉ một mình Đức Giêsu Kitô là Thượng Tế vô tội, vẹn toàn, không cần phải làm chi để đền tội của mình (vì Người có tội gì đâu mà phải đền!). Nhưng Người đã tự nguyện dâng hiến cả cuộc đời, để đền tội thay cho nhân loại.
1.3 Bài Tin Mừng: Mc 12,28b-34: Là tường thuật của Máccô về cuộc trao đổi hay đối thoại thân tình và cởi mở giữa Đức Giêsu và một kinh sư, về một chủ đề thần học rất quan trọng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo. Vấn đề được vị kinh sư đặt ra là “trong mọi điều răn của Đạo Chúa, điều răn nào đứng hàng đầu?” tức điều răn nào quan trọng nhất? Đức Giêsu trình bày quan điểm của Người một cách hết sức rõ ràng, minh bạch: “Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là Đức Chúa duy nhất. Người phải yêu mến Đức Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó” Nói vắn gọn: mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất của Đạo Kitô. Mến Chúa là điều răn quan trọng nhất thì rõ rồi, không có gì phải bàn cãi. Nhưng mến Chúa hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực thì không phải là ai cũng thực hiện được. Còn yêu người là điều răn quan trọng ngang bằng với điều răn mến Chúa thì quả là mới mẻ và là nét riêng của Đức Kitô. Vì thế mà sau này Đức Giêsu mới gọi đó là điều răn mới, điều răn riêng của Người: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 14,34-35).
II. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
2.1 Điều cốt yếu nhất của Kitô giáo là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Điều cốt yếu tương tự là yêu tha nhân như chính mình
Nếu chỉ đọc lướt qua lời Thánh Kinh, chúng ta không nhận thấy sức nặng của điều răn mến Chúa và yêu người. Phải đọc chậm rãi và tập trung, chúng ta mới thấy hết sức nặng ấy: “Điều răn đứng hàng đầu là: Người phải yêu mến Đức Chúa của ngươi - là Đức Chúa duy nhất - hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đo” Yêu Chúa chừng mực nào đó và yêu tha nhân sơ sơ thì chắc mọi Kitô hữu đã thực hiện được. Nhưng yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực thì nhiều người trong chúng ta chắc chắn chưa thực hiện được. Cũng thế yêu tha nhân như chính mình thì ít có ai dám chắc là mình đã yêu người khác như yêu chính bản thân mình. Thế có nghĩa là chúng ta còn ở rất xa so với đòi hỏi của Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta! Để dễ dàng kiểm chứng chính mình, chúng ta thử đặt câu hỏi: “Tôi đã làm gì mà dám cho rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực? - Tôi đã làm gì mà dám nghĩ rằng mình đã yêu tha nhân như chính mình?” Tôi đã dành bao nhiêu tài năng, tiền của, thời gian cho Thiên Chúa và cho tha nhân?
2.2 Vì sao phải mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người như chính mình?
Trong bối cảnh các dân tộc vùng Cận Đông thời Cựu Ước thờ nhiều thần (đa thần) khác nhau, như các dân tộc ít người Miền Tây Nguyên hay Miền Bắc của chúng ta, mà Ítraen luôn trung tín với một Vị thần duy nhất là Giavê Thiên Chúa thì cũng là một hiện tượng lạ thường. Nếu đọc Thánh Kinh Cựu Ược chúng ta có cảm tưởng là Giavê Thiên Chúa luôn ra sức bảo vệ cho Ítraen tránh khỏi sự lây nhiễm thứ tôn giáo đa thần của các dân ngoại chung quanh. Đó cũng chính là nội dung của Giao Ước cũ: “Thiên Chúa là Chúa của Ítraen và Ítraen là dân riêng của Thiên Chúa” Vì thế, dân Ítraen không được thờ một chúa, một thần nào khác ngoài Đức Chúa của mình. Nếu trên cõi trần này chỉ có một Chúa duy nhất, thì mọi sự đều ở trong tay Người, đều ở dưới quyền Người, đều tùy thuộc vào Người. Chính vì thế mà Người có quyền được loài người yêu mến hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực.
Nhưng Thiên Chúa của Ítraen và của Kitô giáo chẳng những là Chúa của hết mọi người, mà Người còn là Đấng Tạo dựng nên hết mọi người theo hình ảnh Người, giống như Người (xem Sách Sáng Thế, chương I) và là Cha của hết mọi người, vì thế mà mọi người là đồng loại, là anh em chị em của nhau, trong đại gia đình của Thiên Chúa. Chính vì thế mà điều răn “yêu người như chính bản thân” có giá trị ngang bằng với điều răn “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực.”
2.3 Cách thể hiện lòng mến Chúa và yêu người của Kitô hữu ngày nay.
Ngày nay người tín hữu thể hiện lòng “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” không chỉ ở trong thánh đường và trong những giờ phút cầu nguyện mà còn thể hiện lòng mến Chúa ấy trong việc dùng hết trí khôn và tài năng của mình cũng như tài nguyên và thời cơ mà xã hội đem đến, để làm vinh danh Thiên Chúa.
Ngày nay người tín hữu thể hiện lòng “yêu thương tha nhân như chính mình” không chỉ bằng cách chia sẻ của cải, thời gian cho họ mà còn bằng cách cùng với người nghèo đấu tranh chống đói nghèo, áp bức, bất công xã hội, dưới bất cứ hình thức nào, xuất phát từ bất cứ nguồn gốc nào. Nếu chúng ta muốn có những tiêu chuẩn cụ thể, thì chúng ta hãy đọc đi đọc lại Kinh “Thương người có mười bốn mối, thương xác bẩy mối, thương linh hồn bẩy mối” mà tổ tiên đã truyền lại cho chúng ta. Nếu chúng ta muốn hiện đại hóa (up-date) các tiêu chuẩn ấy thì chúng ta hãy giúp tha nhân thăng tiến về một trong sáu hay cả sáu chiều kích của cuộc sống con người: (1) kinh tế, (2) xã hội, (3) chính trị, (4) văn hóa, (5) môi sinh và (6) tâm linh là chúng ta thể hiện lòng yêu người như yêu chính mình.
Cách riêng ngày hôm nay và trong tháng 11 này chúng ta hãy thể hiện lòng yêu người đối với những người đã khuất là tổ tiên ông bà cha mẹ va người thân, là ân nhân của chúng ta. Chúng ta cũng không quên thể hiện lòng yêu người đối với những người đã khuất bị lãng quên, vì không có ai nhớ đến họ.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con cám ơn Chúa đã nhắc nhở chúng con điều cốt lõi của ĐẠO Chúa là luật Mến Chúa yêu người. Sinh ra trong trần gian với thân phận một con người, Chúa đã thực hành luật ấy một cách tuyệt hảo. Xin Chúa giúp chúng con biết sống giống như Chúa đã sống, biết yêu giống như Chúa đã yêu. Amen.
Trước một bản liệt kê dài những khoản luật chi li, người Do-thái vẫn đặt câu hỏi đâu là điều: TN 31-B22
Trước một bản liệt kê dài những khoản luật chi li, người Do-thái vẫn đặt câu hỏi đâu là điều chính yếu và họ phải có thái độ nào ? Một kinh sư đã đem vấn đề này ra hỏi Đức Giê-su. Do nhiệm vụ, kinh sư là một người nắm giữ kiến thức: ông biết giải thích các bản văn Thánh Kinh. Trước mặt công chúng, ông là một thầy dạy. Ông đến gặp Đức Giê-su và đặt câu hỏi để kiểm tra kiến thức của Đức Giê-su, và để xem đạo lý của Người có chính thống hay không.
Phần Đức Giê-su, bất chấp ý đồ của người đặt câu hỏi, Người trả lời bằng cách nhắc lại một quy tắc đạo đức của người Do-thái, một điểm then chốt của lề luật: "Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi ... Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
Câu trả lời của Đức Giê-su có hai nét độc đáo. Bắt đầu từ một công thức mà người Do-thái đạo đức vẫn đọc hai lần một ngày, Đức Giê-su nêu lên điều răn phải yêu mến Thiên Chúa. Nếu như Thiên Chúa là Đấng duy nhất, không một ai khác có thể giống như Người, và mọi loài chỉ có giá trị một khi liên kết với Người, thì tất nhiên điều răn trước hết và trên hết là yêu mến Người. Tuy nhiên, Đức Giê-su còn hướng vị kinh sư đến một điều răn nữa: đó là yêu mến tha nhân. Đối với Đức Giê-su, điều răn thứ hai này, tức là lòng yêu mến tha nhân, không thể tách rời khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa. Quả thế, chính lòng yêu mến tha nhân làm cho con người nên giống Thiên Chúa, và tham dự vào sự sống của Người. Đó lại không phải là mục đích của lề luật ?
Câu trả lời của Đức Giê-su rất phù hợp với nhãn quan của vị kinh sư, người vẫn ra sức bảo vệ độc thần giáo. Ông công nhận Đức Giê-su là một thầy dạy: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng."
Từ nhận định khôn ngoan của vị kinh sư, Đức Giê-su thay đổi mối tương quan: điều răn có liên quan đến một sự kiện khác, đó là Nước Thiên Chúa. Chính điều này gây lúng túng cho vị kinh sư và mọi người, đến nỗi sau đó không ai dám chất vấn Đức Giê-su nữa.
Dấu chỉ cho thấy một người không còn xa Nước Thiên Chúa, đó là khả năng yêu thương. Không chỉ là một người chăm chú giữ các giới răn, nhưng là một người biết yêu thương và dùng tình yêu của mình để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vì không có giới răn nào quan trọng hơn những điều này. Không biết yêu thương, toàn bộ lâu đài đạo đức bị sụp đổ.
Như vậy, trình thuật Tin Mừng này giúp giải quyết cuộc tranh luận về các kiến thức hay giáo lý. Người ta vẫn thường nêu lên mối xung đột giữa kiến thức thủ đắc qua học hỏi và kiến thức do hiểu biết trực tiếp. Vị kinh sư là người đại diện cho khuynh hướng thứ nhất. Ông chỉ là người đọc lại các giới răn, mặc dù cũng có chút xác tín như Đức Giê-su đã công nhận. Trong khi đó Đức Giê-su là người biết, tức là nhận ra sự thống nhất giữa các giới răn, nhận ra điều nào quan trọng cần phải làm.
Thế nhưng, Đức Giê-su đặt hiểu biết này trong viễn tượng hướng tới một dự phóng: Nước Thiên Chúa.
Trước một vị kinh sư chuyên chú vào các giới răn, Người đáp lại bằng cách nêu lên cuộc sống đức tin. Vị kinh sư là người nêu lên những điều cần phải giữ, còn Đức Giê-su đáp lại bằng một lời mời gọi:
Tất cả đều được biến đổi.
2. Lắng nghe tiếng nói của Tuyệt Đối
Bản văn này nêu lên điều cốt yếu: yêu mến. Yêu thương chính mình, yêu thương người khác, yêu mến Thiên Chúa: tất cả chỉ là một và đều ở trong cùng một viễn tượng.
Người nào không biết cầu nguyện thì không biết liên đới với người khác. Họ cũng không nhìn thẳng vào chính mình: đó là sự cô đơn. Nỗi cô đơn này giết chết họ, bởi vì tình trạng này ngược với bản tính tự nhiên của con người.
Đứa trẻ không biết tình yêu là gì. Theo nguyên tắc, nó chìm ngập trong tình yêu thương của cha mẹ, nhưng nó không thể định nghĩa yêu thương là gì.
Người bạn trẻ khám phá ra tình yêu khi khám phá ra rằng mình có thể được yêu thương. Và người bạn ấy sẽ mau chóng chuyển từ tình trạng được yêu thương sang tình trạng biết yêu thương. Nhưng thực sự, anh vẫn chưa biết yêu thương là gì.
Sau này, người bạn trẻ ấy yêu một ai đó, và như vậy anh vượt qua bước khởi đầu. Điều cốt yếu là anh ra khỏi mình, rời bỏ vòng mê hoặc với những ảo ảnh.
Tuy nhiên, người bạn trẻ còn phải vượt qua một bước nữa mới thực sự là người trưởng thành: với khả năng yêu thương và trở thành người được yêu, anh không chỉ sống tình yêu với người bạn đời của mình, nhưng là với người khác, với cả vũ trụ. Tình yêu giữa một người nam và một người nữ, nếu chỉ khép kín nơi mình, sẽ trở thành một tình yêu hủy diệt, vì nó không làm thoả mãn niềm trông đợi tuyệt đối vẫn tồn tại bên trong tâm hồn con người.
Nghe nói đến các giới răn, người ta sợ.
Nhưng, xin lắng nghe.
Lắng nghe thân xác, Lắng nghe tâm hồn của bạn. Lắng nghe điều làm cho bạn hăng hái. Lắng nghe Lịch Sử, và lịch sử riêng của bạn Lắng nghe tiếng lao xao trong tâm hồn đang hướng bạn về Đấng duy nhất. Lắng nghe tiếng mời gọi của Thánh Thần để thấy rằng: tình yêu là quy luật nội tâm của bạn.
Khi một đứa trẻ úp vỏ ốc biển vào tai, người lớn hỏi nó: Em có nghe tiếng biển ?
Và đứa trẻ nghĩ rằng mình nghe được tiếng của biển, đang khi nó chỉ nghe tiếng lao xao trong tâm hồn.
Dầu vậy, đứa trẻ vẫn đúng, bởi vì tiếng lao xao trong tâm hồn chính là tiếng lao xao của Tuyệt Đối.
3. Yêu thương là con đường
Câu trả lời của Đức Giê-su với vị kinh sư giúp ta quên hết những chỉ dẫn phức tạp để hướng tới điều cốt yếu: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi ... Ngươi phải yêu người thân cận ..."
Ta không thể đạt tới Nước Trời bằng kiến thức, cũng không bằng ý muốn của mình. Ta chỉ có thể đạt tới Nước Trời bằng yêu mến. Biết rằng tình yêu là con đường dẫn tới Nước Trời, chừng ấy chưa đủ, còn phải bước đi trên con đường ấy. Chính vì vậy, bài Tin Mừng nêu lên cho mỗi người chúng ta hôm nay một câu hỏi: "Bạn có đang bước đi trên con đường yêu thương ?"
Tình yêu đúng nghĩa phải loại bỏ mọi thái độ ghen ghét, thù hận, và nhất là, tình yêu ấy được thể hiện qua thái độ tha thứ, tạo cho người khác cơ hội sống tốt đẹp hơn, cả về thể lý lẫn tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người khác. Cả hai chỉ là một. Không thể hủy diệt điều này để thực hiện điều kia. Bởi vì lòng yêu mến Thiên Chúa sẽ đưa tới hành vi yêu thương người khác, và lòng yêu thương người khác sẽ quy hướng về tình yêu đối với Thiên Chúa.
"Lạy Thiên Chúa toàn năng, là Đấng Tạo Thành và là Cha chúng con, xin dạy chúng con biết yêu mến Chúa hết lòng, hết sức lực chúng con. Xin cho Hội Thánh luôn bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa duy nhất.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin dạy chúng con biết yêu mến người khác, như Chúa đã yêu mến chúng con. Xin cho chúng con biết mở lòng, để chia sẻ cho người khác của cải, thời giờ, sức lực của chúng con."
Chủ đề: Nếu anh em của ngươi là những người ngươi thấy được mà ngươi lại không yêu thương, thì làm sao ngươi có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng ngươi không thể thấy được?
Cha George Anderson là tuyên uý cho một nhà tù hết sức nghiêm khắc tại RikerỴs Island: TN 31-B23
Cha George Anderson là tuyên uý cho một nhà tù hết sức nghiêm khắc tại Riker’s Island thuộc tiểu bang New York. Cha thành lập một nhóm bàn việc cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa cho một số tù nhân. Nhóm này thường đọc đoạn Kinh Thánh nói về người Samaritanô nhân hậu dụ ngôn đứa con hoang đàng. Sau đó họ thường yên lặng suy gẫm đoạn Thánh Kinh đó rồi chia sẻ với nhau về cách thức áp dụng tinh thần của đoạn Kinh Thánh đó vào cuộc sống hằng ngày của họ.
Một buổi tối nọ, có một tù nhân tên Richard, thuộc khu những người rối loạn tâm thần, lần đầu tiên đến chia sẻ với nhóm. Cha Anderson mô tả câu chuyện xảy ra như sau:
“Đó là một buổi tối có gió vào tháng Ba. Trong phòng không đủ ấm. Người bạn ngồi đối diện với Richard chỉ mặc một chiếc áo mỏng và chiếc quần dài nên đang lạnh run. Trên vai Richard thì khoác những hai chiếc mềm. Thế là trong lúc chúng tôi đang bàn luận về ý tưởng tương trợ lẫn nhau, đột nhiên Richard đứng lên, tiến đến người bạn tù kia, và choàng một chiếc mền lên người bạn ấy.
Cử chỉ không lời của Richard gây ấn tượng mãnh liệt cho cả nhóm hơn bất cứ mọi lời đang thốt ra. Nó cũng nêu ra được điểm quan trọng mà chính Chúa Giêsu đã đề cập trong bài Phúc Âm hôm nay.
Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai tình yêu đi đôi với nhau như hai mặt của một đồng tiền không thể tách rời nhau được. Nói cách khác, chúng ta không thể cầu nguyện với Chúa bằng những lời thật dễ thương giống như những tù nhân đã cầu nguyện trong nhóm chia sẻ của họ, nếu chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động và cử chỉ đầy yêu thương.
Thánh Gioan tông đồ đã nhấn mạnh điểm này trong lá thư thứ nhất của Ngài. Ngài nói thẳng thừng: “Nếu ai nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, kẻ ấy là một tên nói dối. Bởi vì hắn ta không thể yêu mến Chúa là Đấng hắn không thấy, nếu hắn không yêu người anh em hắn là kẻ hắn thấy được. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta huấn lệnh này: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” ( 1 Gn 4: 20)
Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Ngài đòi buộc chúng ta yêu mến Thiên Chúa, hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi chúng ta không yêu thương anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Thực thế, chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn tiếp xúc được với Thiên Chúa và với linh hồn bất tử của mình nữa. Một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau:
“Tôi tìm linh hồn tôi, nhưng hồn tôi nào thấy được. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lại lẩn tránh tôi. Tôi tìm kiếm anh em tôi, thì tôi lại gặp được cả ba người tôi muốn tìm ấy”.
Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
Bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy ví như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng sẽ chẳng gặp được người kia.
Bài Phúc Âm hôm nay bao hàm một trong những giáo huấn quan trọng nhất trong toàn bộ Phúc Âm. Nó mời gọi chúng ta tự đặt cho mình một trong những câu hỏi quan trọng nhất.
“Chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào?” Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa nồng nàn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Cách đây ít lâu, tờ Dallas Morning News (Dallas Tin Sáng) có đăng lá thư của một thiếu phụ nọ viết nhân cái chết của mẹ mình, trong đó có đoạn này:
“Mẹ tôi sống gần chỗ tôi, việc dành chút ít giờ pha cho mẹ một tách trà nóng, hay tỏ ra một cử chỉ yêu thương đối với mẹ lẽ ra đối với tôi phải là một việc rất dễ dàng& khi tôi gọi địên thoại cho mẹ, tôi lại nói quá vắn tắt và vội vàng. Tôi cảm thấy thật xấu hổ khi nghĩ lại những lần tôi cúp điện thoại cho lẹ khi nói chuyện với mẹ. Lúc đó tôi nói với mẹ: “Tiếc quá, con phải đi ngay, mẹ ạ !”. Thế giới đầy dẫy những người giống như tôi. Tôi hy vọng trong số những người con ấy, nhiều người sẽ nhận ra điều này& và biết rút ra bài học cho mình”.
Tôi chắc chắn nhiều người trong chúng ta cảm thấy những lời nhận xét của thiếu phụ này cũng đúng đối với mình. Chúng ta cũng đã từng cư xử với cha mẹ con cái chúng ta hoặc những ai cần đến tình thương và sự âu yếm của chúng ta, một cách tương tự, như người thiếu phụ trên.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xem xét lại cuộc sống và tự vấn xem chúng ta có giống người thiếu phụ viết lá thư đăng trong tờ “Dallas Tin Sáng” kia không? nếu có thì bài Phúc Âm hôm nay là lời kêu gọi của chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta làm một điều gì đó để sửa đổi lại thái độ của chúng ta.
Để kết thúc, tôi xin lặp lại những lời trích từ Phúc Âm ngày hôm nay; Một vị tiến sĩ luật tiến đến hỏi Chúa Giêsu: giới luật nào là quan trọng nhất? Chúa Giêsu trả lời; Giới luật quan trọng nhất là; Ngươi hãy yêu Chúa ngươi hết lòng, và giới luật thứ hai cũng quan trọng như thế: Ngươi hãy yêu láng giềng ngươi như chính ngươi. Không giới luật nào quan trọng hơn hai giới luật này .
Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường. Và chán ngán. Cô: TN 31-B24
Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường. Và chán ngán. Cô tự hỏi không biết làm sao mình giữ nỗi cả cuốn luật lệ đủ thứ đủ loại này. Nhưng đến chiều, Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chả có gì khó lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín đồ Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi; Luật nào là quan trọng nhất? nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu, Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hêt lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là; ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoảng luật vào một câu vắn tắt: Mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm gọn vào một chữ:Yêu.
Ịối với Thượng Ịế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục, đối với người Do Thái thì vẫn cần giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Ịộc đáo của Cựu ước là hướng dẫn con người trung thành trong một giao ước tình yêu. Ịặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong tình cha con. Chúng ta sống với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Ịiều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng do trên liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta coi Thiên Chúa là cha, và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa; Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn hơn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo yêu mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng minh là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm: TN 31-B25
Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người.” Ít ngày sau cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa” (Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số.
Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa qúa! Dì cho con cuốn sách đẹp này!” Người mẹ phản đối: “Nhưng con chưa bao giờ thấy dì Rosa mà.” Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này”.
Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?” Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.
Dĩ nhiên một cách nào đó, chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa trong hình dạng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa làm người. Hôm nay nói lại cho chúng ta rằng: chúng ta phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và hết sức lực. Sẽ giúp chúng ta hiểu và giữ luật này nếu hôm nay chúng ta chỉ nhìn một góc cạnh của giới răn: “Yêu Chúa.. với tất cả tâm trí.
Để yêu ai, trước tiên chúng ta phải biết người ấy. Để biết ai, chúng ta phải dùng tâm trí. Làm sao chúng ta có thể biết Chúa?
Làm sao tôi biết một người trong các bạn? tôi phải nói với bạn là lắng nghe khi bạn nói. Đối với Chúa, chúng ta gọi là cầu nguyện. Bạn hãy gọi như thế nếu bạn muốn. Chúng ta không thể biết Chúa, trừ khi chúng ta nói với Người. Đó là lý do tại sao Giáo hội kêu gọi chúng ta cầu nguyện với Chúa, ít nhất là sớm mai và chiều tối. Đó là lý do bạn và tôi cầu nguyện với Chúa bất cứ lúc nào trong kinh nhật tụng, và nhất là trong thánh lễ.
Chúng ta biết một người do công việc họ làm hoặc họ là thợ mộc, là hoạ sĩ biếm hoạ hay một đầu bếp.
Chúng ta biết Chúa qua những việc Chúa đã làm cỏ cây, chim chóc, gió mây, sao trời& Nói với chúng ta về Chúa. Tất cả những cái đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng lý trí.
Muốn hiểu biết một người, chúng ta cố gắng gặp người đó càng nhiều càng hay. Chúng ta gặp Chúa trong mỗi ngày, trong mỗi cuộc sống chung quanh, nhất là chúng ta gặp Chúa trong Giáo hội, trong Thánh lễ, rước lễ và các Bí tích.
Chúng ta cũng biết một người do những điều một người khác biết về người đó nói với chúng ta. Linh mục của bạn, Ngài đã dùng nhiều thì giờ học hỏi về Chúa, nói về Chúa. Các ngài có thể nói nhiều về Cha trên trời, về Thiên Chúa làm người, về Chúa Thánh Thần cho bạn. Cha mẹ nói cho chúng ta về Chúa. Thực sự các ngài là thầy tốt nhất nói về Chúa. Giáo lý viên. Báo chí, tạp chí và sách vở công giáo nó với chúng ta nhiều sự thật về Chúa.
Sử dụng lý trí để tìm hiểu, mọi cái về Chúa. Như thế bạn yêu Chúa với tất cả lý trí của bạn.
Thầy kinh sư hỏi về một giới răn trọng nhất, Đức Giêsu trình bày với ông hai giới răn song song: TN 31-B26
Thầy kinh sư hỏi về một giới răn trọng nhất, Đức Giêsu trình bày với ông hai giới răn song song, tuy hai mà một. Hai giới răn đó, các tín hữu Công giáo Việt Nam thuộc nằm lòng từ thuở còn thơ bé: "Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy".
Hai giới luật, nhưng gồm tóm lại một tình yêu. Mến Chúa hết lòng, yêu người hết dạ, hai điều ấy chỉ là một. Yêu người anh em, tức là mến Chúa rồi. Đọc Tin Mừng theo thánh Matthêu chương 25 đoạn nói về ngày chung thẩm, chúng ta thấy Chúa nói rất rõ về chân lý này: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Một vị thánh môn đệ của Chúa cũng nói rõ điều đó: "Anh không yêu người thân cận mà mắt anh nhìn thấy, thì làm sao anh có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng anh không hề nhìn thấy?".
Thời Đức Giêsu, người ta tranh luận về một số vấn đề thần học. Một trong những vấn đề đó đã được thầy kinh sư đem ra hỏi Chúa, với thiện chí, như hỏi ý kiến một vị tôn sư. Và ông đã được Đức Giêsu trả lời thỏa đáng: mến Chúa, yêu người là điều răn quí trọng nhất, và cả hai là một. Vị kinh sư rất thỏa mãn trong bụng, tâm phục khẩu phục Chúa. Ông gọi Chúa là Thầy: "Thưa Thầy, hay lắm. Thầy nói rất đúng". Ông lại đưa lời sách ra bàn bạc, cho vấn đề thêm sáng tỏ: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ". Trước đây, người ta cứ cho rằng giết chiên giết bò làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa là đẹp lòng Ngài. Thực ra không của lễ nào quí trọng bằng tình yêu. Đó là điều Đức Giêsu hằng rao giảng. Nay thấy vị kinh sư này thấm thía được điều đó, Đức Giêsu rất mừng và khen ngợi ông: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!".
Thật vậy, vương quốc Thiên Chúa chính là vương quốc của những yêu người thương nhau, vì họ là anh em của một Cha trên trời, điều mà "ngôn sứ" Khổng Tử đã tiên báo trong khái niệm "Tứ hải giai huynh đệ" (người trong bốn bề đều là anh em).
Sợ Thiên Chúa nghĩa là gì? Chúng ta có thực sự sợ Thiên Chúa không? Vâng, chúng ta không bao giờ nên TN 31-B27
Sợ Thiên Chúa nghĩa là gì? Chúng ta có thực sự sợ Thiên Chúa không? Vâng, chúng ta không bao giờ nên giảm thiểu những lời này vì chúng xuất hiện hơn ba trăm lần trong Kinh thánh. Nhưng sợ Thiên Chúa không giống như việc sống trong nỗi sợ hãi Người. Đúng hơn là chúng ta có một sự tôn kính đúng đắn dành cho Người.
Như rất nhiều sự thật khác trong Kinh Thánh, kính sợ Chúa là một điều khác với loại sợ hãi trần gian mà chúng ta đều quen thuộc. Đó là một khuynh hướng tích cực, không phải là khuynh hướng tiêu cực. Đó là một cách để xây dựng đức tin của chúng ta và làm sâu sắc hơn mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, nó không làm chúng ta xa cách với Người.
Cốt lõi của niềm kính sợ Thiên Chúa giúp chúng ta nói không với những ham muốn tội lỗi của chúng ta. Nó có chức năng chủ yếu như một cách bảo vệ hơn là một phương tiện áp bức. Lòng kính sợ Thiên Chúa khiến chúng ta phải nói: “Tôi không muốn nói hay làm bất cứ điều gì sẽ khiến tôi bị tách rời khỏi Cha trên trời của tôi”.
Cha mẹ cũng làm thấm nhuần một “nỗi sợ hãi yêu thương” tương tự nơi con cái của họ. Họ dạy con cái của họ ở trong ranh giới nhất định của lời nói và hành vi để họ có thể lớn lên thành người lớn có trách nhiệm, biết tôn trọng. Về phần mình, trẻ em biết rằng hậu quả sẽ xảy ra nếu chúng vượt qua những ranh giới này. Và vì vậy một “nỗi sợ hãi yêu thương” nhất định đặt nền tảng cho sự khôn ngoan ở trẻ em. Cũng giống như cách Kinh Thánh nói với chúng ta rằng: “Kính sợ Đức Chúa” là sự khởi đầu của sự khôn ngoan (Cn 9,10).
Kính sợ Chúa là một công cụ giúp chúng ta an toàn khi chúng ta lớn lên và trưởng thành. Và giống như tất cả các công cụ học tập, nó chỉ hữu ích trong một thời gian. Cuối cùng, nỗi sợ hãi (thần thánh) đạo đức này phải nhường chỗ cho tình yêu, bởi vì “tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4,18). Tất nhiên, đây là một quá trình cả đời, nhưng thật đáng khích lệ khi biết rằng ngay cả nỗi sợ hãi thần thánh cũng có thể tiêu tan khi tình yêu phát triển.
Vì vậy, tất cả chúng ta hãy tận dụng những mệnh lệnh vĩ đại nhất của Thiên Chúa: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” và “yêu người đồng loại như như chính mình” (Đnl 6,5; Lv 19,18).
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp con sống một cách sống yêu thương hoàn hảo nhất”.
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương, OP
Đường đời vòng quanh như một con rắn tự ngoặm lấy đuôi mình. Con người trần trụi từ lúc bắt: TN 31-B28
Đường đời vòng quanh như một con rắn tự ngoặm lấy đuôi mình. Con người trần trụi từ lúc bắt đầu mở mắt, năm này qua năm khác, đi lên cho tới giữa cuộc đời, vào tuổi trung niên, rồi dần dần đi xuống. Rốt cuộc, với tấm hình hài trần trụi, con người lại trở về vị trí khởi hành.
Dần dần, con người tăng trưởng, tầm vóc cao lên. Rồi một ngày, lưng thêm còng, gối thêm mỏi, thân hình như lụn dần, cuối cùng thì nghiêng mình cúi xuống cát bụi.
Dần dần con người khai triển ngũ quan, mở rộng tầm nhìn tầm nghe, những quan năng khác cũng tăng tiến hoàn chỉnh như thể buổi sáng mở toang các cánh cửa sổ. Rồi mỗi ngày, mắt thêm mờ, tai thêm lãng, khép dần các ngũ quan như thể đóng cửa về đêm.
Mỗi ngày một chút, kiến thức đủ loại tích lũy trong trí nhớ. Đến lúc về già, nói trước quên sau, để đâu quên đấy.
Mỗi ngày một chút, chân thêm vững, tay thêm khéo, miệng thêm lưu loát. Tới ngày xế bóng, tay chân run rẩy vụng về, nói năng chậm chạp lung túng.
Một ngày trước kia bắt đầu tập nói. Một ngày sau này lại nói chẳng ra hơi.
Một ngày trước kia rời vòng tay mẹ, chập chững biết đi. Một ngày sau này không còn sức xê dịch, phải vịn cánh tay con cháu.
Thuở còn nằm nôi, mẹ cho bú mớm, thay lót đổi tã. Rồi sẽ tới ngày phải nằm liệt, con cháu chăm nom, lau mặt thay áo, xúc cơm đổ thuốc.
Một ngày trước kia mở mắt chào đời, làm quen với thế giới chung quanh. Rồi sẽ tới ngày nhắm mắt buông xuôi, vĩnh biệt dương thế.
Một ngày trước kia lần đầu hô hấp, con người sinh ra. Rồi sẽ tới ngày thở hắt ra lần cuối, đi vào cõi chết.
Một ngày xa xưa, trước khi ra đời, chín tháng mười ngày nằm trong dạ mẹ ấm áp, thêm thịt thêm xương mà hình thành cơ thể. Tới ngày cuối cùng đi vào lòng đất giá lạnh, hình hài dần dần phân hóa, thịt xương trở về với tro tàn.
Một ngày xa lắm, con người xuất phát từ người cha mình như một hạt giống truyền sinh. Tới ngày chấm hết cuộc đời trần thế, con người trở về trong Cha của mọi người cha phàm trần, để rồi được tái sinh nơi cõi trường sinh bất tử.
Tới lúc đó, trong một bản thể mới, tất cả lại bắt đầu...
MARIE NOEL ( 1883 – 1967 ),
TRÍCH TỪ “NOTES INTIMES” NGƯỜI DỊCH:
AN-TÔN LÊ VĂN LỘC
Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI trong chuyến về thăm Nước Đức hồi tháng 9 vừa qua, đã nhắn: TN 31-B29
Ðức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI trong chuyến về thăm Nước Ðức hồi tháng 9 vừa qua, đã nhắn nhủ những người đồng huơng của Ngài rằng:
“Các dân tộc Á Phi ngưỡng mộ trước những thành tích kỹ thuật và khoa học của chúng ta, nhưng đồng thời họ cũng kinh hoàng đứng trước một thứ lý lẽ hoàn toàn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi viễn tượng của con người, để rồi coi đó là hình thức cao cả nhất của lý trí, cần phải áp đặt cho nền văn hóa của Á Phi.” (1).
Lời và ý của Ðức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI trong lời phát biểu trên chỉ là tiếng dội (echo) của Lời Thánh Kinh trong Sách Ðệ Nhị Luật và Sách Phúc Âm theo Thánh Máccô mà Giáo Hội đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Đnl 6,2-6: Anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên dông đảo.
2 Như vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em), và anh (em) sẽ được sống lâu. 3 Hỡi Ítraen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em).
4 Nghe đây, hỡi Ítraen! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng.
(2) Bài đọc 2: Dt 7,23-28: Vị Thượng Tế thập toàn.
23 Anh em thân mến, lại nữa, trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. 24 Còn Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. 25 Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.
26 Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. 27 Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 12,28-34: Ðiều răn đứng đầu (Mt 23,34-40; Lc 10,25-28).
28 Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?" 29 Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." 32 Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ." 34 Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!" Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Đnl 6,2-6) là một đoạn Sách Ðệ Nhị Luật chép lại những lời truyền của Môsê, nhà lãnh đạo, cho toàn dân Ítraen dân riêng của Thiên Chúa: Họ phải tuân giữ luật kính mến, tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự, vì đó là bí quyết hạnh phúc, là chìa khóa tương lai và điều kiện để dân Ítraen sống lâu, sống hạnh phúc và phát triển thành một dân tộc đông đảo và hùng mạnh.
(2) Bài đọc 2 (Dt 7,23-28) là những lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái, nói tiếp về Đức Giêsu Kitô là Thượng Tế. Khẳng định của Thánh Phaolô không thể hiểu cách khác được: Chỉ một mình Đức Giêsu Kitô là Thượng Tế vô tội, vẹn toàn, không cần phải làm chi để đền tội của mình (vì Người có tội gì đâu mà phải đền!). Nhưng Người đã tự nguyện dâng hiến cả cuộc đời, để đền tội thay cho nhân loại.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 12,28-34) là tường thuật của Thánh Máccô về cuộc trao đổi thân tình và cởi mở giữa Đức Giêsu và một kinh sư, về một chủ đề thần học rất quan trọng của Đạo Do Thái và cũng là của Kitô Giáo:
Mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất của Đạo Do Thái và của Kitô Giáo.
Mến Chúa là điều răn quan trọng nhất thì rõ rồi, không có gì phải bàn cãi.
Nhưng mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn thì không phải là ai cũng thực hiện được.
Còn yêu người là điều răn quan trọng ngang bằng với điều răn mến Chúa thì quả là mới mẻ và là nét riêng của Chúa Giêsu Kitô. Vì thế mà sau này Chúa Giêsu Kitô gọi đó là điều răn mới, điều răn riêng của Người: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (2).
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay cũng là Bí Quyết (đem lại) Hạnh Phúc và Chìa Khóa (mở vào) Đời Đời là:
Yêu Chúa và yêu tha nhân chút chút thì không thành vấn đề. Nhưng yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn thì không dễ dàng gì! Cũng thế yêu tha nhân sơ sơ thì không khó khăn gì lắm, nhiều người làm được; nhưng yêu tha nhân như chính mình thì ít ai làm được, vì đòi người ta phải hy sinh rất nhiều.
Để kiểm chứng chúng ta tự đặt câu hỏi: Ngày hôm nay/trong tuần/tháng/năm này
-TÔI ĐÃ LÀM/HY SINH/HIẾN DÂNG NHỮNG GÌ CHO/VÌ THIÊN CHÚA?
-TÔI ĐÃ LÀM/ HY SINH/HIẾN DÂNG NHỮNG GÌ CHO/VÌ THA NHÂN?
Xét mình, chúng ta sẽ thấy còn ở rất xa so với đòi hỏi của Thiên Chúa! Từ đó, chúng ta sẽ khẩn cầu và rèn luyện trong kiên nhẫn và khiêm tốn hơn.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng con,
Chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã nhắc nhở chúng con nhớ Điều Răn cốt lõi của Đạo là mến Chúa yêu người.
Sinh ra làm người trong trần gian, Chúa đã thực hành luật ấy một cách tuyệt hảo.
Chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã chỉ cho chúng con biết Bí Quyết Hạnh Phúc Thật là mến Chúa yêu người.
Sinh ra làm người trong trần gian, Chúa đã nắm vững bí quyết Hạnh Phúc ấy.
Chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con Chìa Khóa mở Cánh Cửa Đời Đời là mến Chúa yêu người.
Sinh ra làm người trong trần gian, Chúa đã dùng Chìa Khóa ấy mà trở lại Trời Cao sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha giao phó.
Chúng con xin Chúa giúp chúng con biết sống giống như Chúa đã sống, biết yêu giống như Chúa đã yêu. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Atlanta (GA/USA) ngày 21.10.2006
…………
(1) Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, bài giảng cho hơn 250 ngàn tín hữu tham dự Thánh Lễ Sáng Chúa Nhật ngày 10.9.2006 tại Munich.
Trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, đặc biệt ba năm đi rao giảng Nước Thiên Chúa, Chúa: TN 31-B30
Trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, đặc biệt ba năm đi rao giảng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu luôn bị những người lãnh đạo tôn giáo lúc đó hạch hỏi có ý để gài bẫy bắt bớ Ngài. Họ đã hỏi Chúa tại sao lại xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ Giêrusalem ? Có được nộp thuế cho vua Cêsarê hay không ? Bài Tin Mừng của thánh Marcô 12, 28b – 34 hôm nay cho biết một ông kinh sư Do Thái nào đó đã hỏi Chúa:” Điều răn nào là quan trọng nhất “?.
ĐIỀU RĂN NÀO LÀ QUAN TRỌNG NHẤT ?:
Sở dĩ ông kinh sư Do Thái tới hỏi Chúa Giêsu câu hỏi xem ra hốc búa và khó nuốt. Bởi vì luật Do Thái gồm có 613 điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không được làm. Đây là những điều luật mà những vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái, các kinh sư, Pharisiêu bầy đặt ra nhằm chất trên vai gánh nặng cho những người dân, còn chính họ không hề lấy ngón tay lay thử. Tuy nhiên, chính các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng không đồng ý với nhau được điều nào là chính, điều nào là quan trọng nhất. Sách đệ nhị luật chứa đựng phần chính yếu nhất của luật Môsê và bài Tin Mừng hôm nay lại là đoạn quan trọng nhất trong sách đệ nhị luật:” …Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, và hết sức lực ngươi “là tột đỉnh của tôn giáo độc thần, là nội dung cốt lõi của Giao ước và một điều nữa của sách Lêvi:” Ngươi phải yêu mến người lân cận như chính mình”. Chúa Giêsu khi đưa ra điều thứ hai là yêu người, Ngài kiện toàn luật cũ, Ngài xác định giá trị của giới luật cũ:” Mến Chúa” và gắn chặt giới răn:’ Mến Chúa “ với giới răn thứ hai là:” Yêu người”. Ngài liên kết hai giới răn đến nỗi mến Chúa thì phải yêu người và như thế, yêu người trở thành một bằng chứng, một dấu chỉ, một điều kiện để mến Chúa. Chúa Giêsu xác nhận điều răn quan trọng của đạo công giáo là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của tình yêu, đến nỗi bỏ một điều tức là bỏ cả hai vì đã mến Chúa phải yêu thương anh em. Thánh Gioan đã bảo:” Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1 ga 2, 9 ) hoặc “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô”( Gl 6, 2 ).Nơi khác thánh Phaolô viết:” Vì tất cả lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”( Gl 5, 14 ). Yêu Chúa sẽ gặp con người và yêu người sẽ gặp Chúa.
VẪN LÀ PHẢI KÍNH MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI:
Mến Chúa xem ra dễ dàng hơn vì đã theo Chúa, nhận biết Chúa chắc chắn con người dễ mến Chúa hơn. Đây là một điều hết sức tự nhiên và đương nhiên phải như thế vì Chúa ở xa con người nếu con người quan niệm Chúa ở trên cao, ở xa con người. Còn giới luật thứ hai là yêu người nhất là con người cụ thể bằng xương bằng thịt chúng ta vẫn tiếp xúc hàng ngày. Con người cụ thể là con người có những giới hạn và những khiếm khuyết không sao tránh nổi. Yêu người xem ra là một điều luật khó thực hành nhất là những con người cụ thể chúng ta ít có thiện cảm hay họ đang là những chướng ngại cho chúng ta. Yêu người nói cho cùng nhiều khi cũng là thử thách đức tin của chúng ta. Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại nâng yêu người lên hàng đầu của đòi hỏi Tin Mừng và gọi yêu người là “ điều luật mới” hay “ điều luật hoàn hảo”. Luật mới vì Chúa mặc cho nó một ý nghĩa thâm sâu đến nỗi không thể tách rời một vế trong hai vế:” yêu người” và “ mến Chúa” hoặc ngược lại. Con người tất cả đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, con người đều có nhân phẩm và cần phải được tôn trọng vì tất cả đều họa lại hình ảnh của Thiên Chúa Giavê. Yêu mến Chúa nghĩa là cũng yêu thương con người vì Thiên Chúa đang sống trong con người. Chính Chúa Giêsu đã tự đồng hoá mình với những người bé nhỏ, người đói, người khát, người bị tù đầy vv…( Mt 25, 31 –46 ). Ai cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù đầy là làm cho chính Chúa. Như vậy, yêu người đòi hỏi chúng ta một thái độ đức tin, nhìn nhận Chúa đang hiện diện nơi tha nhân, nơi những người anh em. Thái độ đức tin vượt lên trên ác cảm, hằn thù, ghen ghét…để dễ thương người đồng loại hơn. Thánh Gioan cũng nối kết rất tuyệt vời:” Ai bảo yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình là kẻ nói láo”. Xem ra đó là một tình yêu nhưng hai đối tượng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết yêu mến anh em chúng con và nhận ra Chúa đang hiện diện trong anh em chúng con. Amen.
Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613: TN 31-B31
Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613 khoản luật. Trong số này có 365 luật truyền, luật tích cực, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 luật cấm, luật tiêu cực, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ thời Chúa Giêsu thì giới răn nào cũng quan trọng, bỏ 1 điều là bỏ cả lề luật.Thế nhưng trong thực tế,chẳng người Do Thái nào có thể giữ được tất cả 614 khoản luật. Vậy, làm sao có thể trở nên trọn lành? Người ta đã phải tìm xem khoản luật nào quan trọng hơn để cố gắng tuân giữ triệt để, còn khoản luật nào kém quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy.
Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô ghi nhận lại cho chúng ta một sự việc trớ trêu. Một luật sĩ, giới người này thường tự hào về sự hiểu biết về luật, và có quyền giải thích luật lại đi hỏi Chúa Giêsu mà đối với người Do Thái không thuộc nhóm luật sĩ. Vì thế câu hỏi: "thưa thầy đâu là giới răn trọng nhất " của luật sĩ này mang tính tra vấn xem Chúa Giêsu theo phe nhóm nào hơn là tìm kiếm chân lý.Phần Chúa Giêsu, bất chấp ý đồ của người hỏi, Ngài hướng mọi người nghe lời Ngài đến một điểm then chốt của lề luật, là Thánh ý Thiên Chúa:"Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình" và Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm:"không có giới răn nào lớn hơn các giới răn ấy".
Xét một cách tổng quát, câu hỏi của luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay cũng là câu hỏi quen thuộc của rất nhiều người vụ hình thức và ưa số lượng.
Đối với những việc phải làm, những điều phải tuân giữ, họ thường xét xem có quan trọng hay không. Nếu không quan trọng thì không làm, không giữ, hay chỉ làm và tuân giữ khi nào thuận tiện. Những công việc mà họ biết là quan trọng, thì họ còn cẩn thận xem xét tuân giữ và làm bao nhiêu là đủ, bỏ qua bao nhiêu lần thì không mắc tội trọng. Cách sống đạo như thế có khác gì luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu người đi dự lễ Chúa nhật thản nhiên đến nhà thờ sau bài đáp ca hay vội vã ra về khi cộng đoàn còn đang rước lễ vì lý luận rằng: chưa mất một phần quan trọng của Thánh lễ.
Đối với những điều luật cấm cũng vậy. Cố gắng lắm họ mới không phạm đến những điều họ biết là tội trọng. Còn nếu biết là chỉ mắc tội nhẹ thì họ yên trí. Chỉ nguyên đặt vấn đề:" làm việc này, việc kia có tội hay không " đã là một bất xứng đối với một Kitô hữu chân chính rồi.
Thưa anh chị em, Lời Chúa dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người và mọi người chúng ta đều thuộc lòng giới răn đó. Nhưng trong chúng ta vẫn có những người sống đạo như biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Lý do là vì họ thiếu tình yêu, hay đúng hơn họ chỉ yêu mình chứ không yêu Chúa và yêu thương người khác.
Vì không yêu Chúa nên người ta chỉ thi hành những điều Chúa dạy một cách miễn cưỡng, tắc trách, qua lần chiếu lệ.
Vì không yêu mến Chúa nên người ta không sợ làm phiền lòng Chúa trong những điều ít quan trọng. Có tránh phạm tội trọng chẳng phải là để kính sợ Chúa mà là vì sợ chết sa hoả ngục.
Vì lòng không yêu người cho nên trong cuộc sống không cần tôn trọng quyền lợi, danh dự, phẩm giá của bất cứ ai. Điều ngăn cản để người ta không xúc phạm đến anh em, không sa phạm vào tội ác, cũng chỉ là vì sợ phải sa hoả ngục. Còn nếu không tin có hoả ngục, thì dầu còn tin vào Thiên Chúa, người ta vẫn dám phạm đủ mọi loại tội trái nghịch với đức bác ái và yêu thương.Đó là một hậu qủa của một lòng đạo thiếu trái tim, thiếu tình yêu, không muốn tuân giữ giới răn mến Chúa và yêu người.
Tóm lại: chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới có thể yêu thương đến vô cùng. Chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay một người mất trí. Tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa sẽ đưa mỗi chúng ta về với anh em. Tình yêu anh em đòi mỗi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.
Nếu chúng ta xem truyền hình hay nghe truyền thanh, chúng ta thấy chương trình nhiều lúc bị: TN 31-B32
Nếu chúng ta xem truyền hình hay nghe truyền thanh, chúng ta thấy chương trình nhiều lúc bị gián đoạn, xen vào đó là những khẩu hiệu của nhà nước, chẳng hạn:
- Thanh niên hăng hái làm nghĩa vụ quân sự.
- Đồng bào hãy tích cực đóng thuế.
Hồi trước năm 1975, người ta tổ chức những chương trình phát thanh thương mại, để quảng cáo các sản phẩm bày ban trên thị trường. Những lời quảng cáo ấy ăn sâu vào đầu óc thính giả đến nỗi ra chợ muốn mua một hộp kem đánh răng là người ta bèn nhớ ngay đến “anh bảy Chà Hynos”, muốn mua mấy viên thuốc bổ cho con, người ta bèn nhớ ngay đến Activit, “thuốc bổ gan bò tươi Hà Lan”. Sự lặp đi lặp lại đã tác động mạnh trên tâm trí và dẫn đến những hành động thích hợp.
Giáo hội là một người mẹ luôn để tâm giáo dục chúng ta, không phải là không biết đến cái định luật tâm lý ấy. Giáo hội đã áp dụng định luật ấy để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta. Giáo hội không ngừng lặp đi lặp lại cho chúng ta biết cái bí quyết tạo hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn nhắc cho chúng ta hai giới luật quan trọng, đó là mến Chúa và yêu người.
Hãy thử xét mình xem chúng ta đã thực hiện như thế nào ? Hay chúng ta chỉ là những kẻ giả dối vì việc chúng ta làm không phù hợp với lời kinh chúng ta đọc. Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh kính mến, chúng ta thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng… lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Chúng ta không cảm thấy ngượng ngùng khi đọc như thế hay sao ?
Khi kính mến ai hết lòng, chúng ta tránh làm cho họ buồn lòng và cố gắng đem lại hạnh phúc cho họ. Đằng này, chúng ta không vâng lời Chúa, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta kính mến Chúa hết lòng. Chúng ta mong ước cho kẻ khác gặp phải tai ương. Chúng ta giận hờn họ, nói hành nói xấu họ, chúng ta không thèm chào hỏi họ, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta yêu thương họ như chính mình chúng ta.
Chúng ta tưởng rằng mình là kẻ ngoan đạo chỉ vì chúng ta chăm chỉ đi lễ, siêng năng đọc kinh và cảm thấy yên lương tâm. Nhưng nếu tạm gác những hình thức bề ngoài ấy để căn cứ vào tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, thì liệu người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không ? Nếu chịu khó đọc lại những bức thư của thánh Gioan, chúng ta thấy ngài luôn luôn lặp đi lặp lại cái chủ đề yêu thương. Chính ngài đã xác quyết:
- Nếu ai bảo rằng mình mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em, thì họ chỉ là phường nói dối, vì ai không yêu thương kẻ khác là người mình trông thấy, thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà mình chẳng nom thấy bao giờ. Phải chăng đó là một lời kết án gay gắt nhất cho những kẻ không yêu thương.
Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì lại khó, vì trong đời sống chúng ta có quá nhiều va chạm. Nào là cạnh tranh nghề nghiệp, củng cố địa vị, giành giật quyền lợi. Nào là những khác biệt về tính tình, tuổi tác và văn hóa… Vì thế, để yêu thương người khác, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, nhất là phải cần đến ơn Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng: Muốn chiếm đoạt nước trời, thì phải kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Tình Chúa và tình người là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta vào nước trời.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện như sau: Shirieda là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống sót sau một lần ném bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu hàng, khi quả bom nguyên tử rớt xuống Nagasaky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết định đi ăn trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào kho của nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy, nhưng liền bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân anh trở lại nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:
- Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.
Anh ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về hành động bác ái trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề trên:
- Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.
Và cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục công giáo.
Hãy tuân giữ giới luật yêu thương, để chúng ta xứng đáng là những người môn đệ của Chúa. Và hơn thế nữa, chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn người khác đến cùng Chúa.
Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật: TN 31-B33
Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là
Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không? 2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân? 3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?
Những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh: TN 31-B34
Những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh đạo Do Thái thay phiên nhau chất vấn để gài bẫy Ngài. Họ đã hạch hỏi Chúa lấy quyền gì mà xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ ? Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêda không ? Bài Tin Mừng hôm nay lại cho biết: một ông kinh sư hỏi Chúa điều răn nào đứng đầu ? Sở dĩ ông ta hỏi Chúa câu này, là vì luật của Do Thái lúc ấy gồm 613 điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không được làm. Nhưng giới lãnh đạo không đồng ý với nhau điều nào đứng đầu, tức là điều nào quan trọng nhất, mỗi nhóm đặt nặng một điều. Vì thế, ông kinh sư này muốn hỏi Chúa để biết quan điểm của Chúa ra sao. Chúa đã trả lời ngay bằng cách trưng ra một điều trong sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức”, và một điều nữa trong sách Lêvi: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Câu trả lời của Chúa hay quá, đúng quá, khiến mọi người hết sức kinh ngạc, và Tin Mừng cho biết: “Từ lúc ấy không ai dám chất vấn Chúa thêm điều gì nữa”.
Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: điều quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một tức là bỏ cả hai. Nói khác đi, nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”: yêu Chúa và yêu người.
Yêu Chúa thì chắc chắn tất cả chúng ta đều có thể quả quyết dễ dàng chúng ta yêu Chúa. Nhưng lấy gì làm bằng chứng ? đó là lòng yêu người, nghĩa là căn cứ vào tình yêu của chúng ta đối với tha nhân mà người ta biết chúng ta có lòng yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu đã có lần nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Vậy chỉ còn một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu là chúng ta phải thực hiện lòng yêu người như thế nào.
Trước hết, chúng ta phải yêu thương bằng lời nói: yêu ai, người ta ca tụng họ, yêu mọi sự của họ, yêu cả nết xấu của họ nữa: “Yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhưng ghét ai, người ta dùng ba tấc lưỡi để hành tỏi, nói xấu họ hết lời: “ghét ai ghét cả đường đi lối về”, “ghét cả tông chi họ hàng”. Cho nên, một thứ thước đo chính xác để biết mình có yêu thương người khác hay không là mình có nói tốt hay nói hành nói xấu họ. Người ta nói xấu nhau vì ghét nhau, vì không ưa nhau, vì thù oán nhau. Càng có nhiều liên hệ với nhau, người ta càng dễ nói hành nhau, mà cũng vậy, không gì đau khổ hơn và gương mù hơn khi những người thân thuộc nói xấu nhau.
Thể hiện tình yêu thương bằng lời nói, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là yêu thương bằng việc làm. Việc làm đây là sự giúp đỡ bằng tay chân hành động, bằng sức khỏe, bằng thời giờ, bằng đời sống phục vụ… Đây là một cách thể hiện tình yêu thương rõ ràng và cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương trong lòng, bằng ước muốn tốt, bằng thông cảm… thì vô hình không kiểm chứng được; yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là lý thuyết suông, đầu môi chót lưỡi. Nhưng yêu thương bằng sự tận tâm giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh phiền toái của phục vụ… thì mới là yêu thương thực sự và dễ gây được kết quả tốt. Chẳng hạn: khi làm việc, biết nhận lấy phần trách nhiệm nặng hơn, không dừa cho người khác, sẵn sàng cho vay mượn khi cần thiết, khi có khả năng, khi có dịp; coi công việc của người khác cũng là của mình. Có những người chỉ cần chúng ta giúp một quyết định, một an ủi, một khích lệ, một lời cầu xin, một sự thông cảm, một lòng tôn trọng, một sự tha thứ… Có biết bao nhiêu dịp và biết bao nhiêu cách chúng ta có thể làm để giúp ích người khác.
Sau hết, yêu người, yêu thương nhau là chứng tích cho người ta nhìn nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa, có nhiều người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau thì không ai đánh giá sai lầm về đạo của chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không ? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.
Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Marcô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về: TN 31-B35
Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Marcô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.
Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Chúa Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.
1) Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.
Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 giới luật trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?
2) Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.
Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn quan trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi …”. Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi, thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất … Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.
Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do thái. Thiên Chúa đã chọn họ, Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất” bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn … Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân của Ngài.
Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của Ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.
Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.
3) Thương yêu đồng loại như chính mình.
Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
GỢI Ý
1) Đối với tôi, Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? 2) Trung tâm đời sống tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân? Lời Chúa và Thánh Thể
Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.
Một trời một vực” là hình ảnh mà người ta dùng để mô tả khoảng cách vô cùng lớn lao giữa: TN 31-B36
“Một trời một vực” là hình ảnh mà người ta dùng để mô tả khoảng cách vô cùng lớn lao giữa hai chủ thể tinh thần hoặc vật chất. Trong Thánh vịnh, thành ngữ nầy – cũng giống như thành ngữ “nghìn trùng xa cách” - được dùng để chỉ tư tưởng của Chúa và tư tưởng của loài người. Nhưng với Lời Chúa được mạc khải và nhất là Ngôi Lời nhập thể làm người, thì khoảng đó bỗng nhiên bị xoá nhòa, bởi trời cao đất thấp gặp nhau và việc nghe và giữ Lời Chúa trở thành Lẽ Sống của con người. Còn lại là chúng ta làm cho khoảng cách giữa Thế Gian và Nước Trời biến đi hay nói đúng hơn, làm cho con người và cuộc đời trần thế trở nên con người va cuộc đời Thiên Đàng hoặc làm cho khoảng cách ấy nới rộng mãi, đến lúc không thể với tới được nữa.. Đó chính là ý nghĩa câu nói của Chúa Giê-su với người kinh sư: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa là mấy !”
Năm 1963, thế giới nín thở theo dõi động thái giữa hai nguyên thủ quốc gia đứng đầu hai phe “chiến tranh lạnh” là Tổng Thống Mỹ John Kennedy và Tổng Bí Thư Cộng Sản Liên Xô Nikita Krouchev: tối hậu thư mà tổng thống Mỹ gửi cho lãnh tụ Cộng Sản, buộc ông nầy phải cho tháo gỡ giàn hoả tiễn mà Liên Xô bố trí tại Cuba ngay lập tức và vô điều kiện. Nếu không, Mỹ sẽ dùng nguyên tử tấn công Liên Xô. Căng thẳng, hồi hộp, lo sợ, vì cả thế giới đang ở trên bờ vực Thế Chiến thứ ba, mà sức hủy diệt sẽ vô cùng thảm khốc.
Cuối cùng, Liên Xô đã phải nhượng bộ. Rất nhiều nguồn tin đáng tin cậy cho biết: kết cục sẽ đã chẳng như thế, nếu không cósự can thiệp trực tiếp của Đức Thánh Cha Gio-an XXIII, Vị Giáo Hoàng Nhân Hậu được mọi người yêu mến, kính trọng ( sau đó, Krouchev đã cho con gái Svetlana Krouchev và con rể sang triều yết Đức Giáo Hoàng ): Hoà Bình và Chiến Tranh chỉ ở một giây ngắn ngủi.
Những ai ưa chuộng các môn thể thao như bóng đá, bóng rỗ, nhiều phen phải xuýt xoa khi trái bóng đi trệch mục tiêu chỉ trong gang tấc: hoặc chạm cột dọc, xà ngang hay là chạm vành rỗ rồi ra ngoài, khiến người xem ngẫn ngơ tiếc nuối, nhưng nhất là cú đá, cú ném ấy lẽ ra đã có thể làm thay đổi hoàn toàn kết quả của trận đấu. “Già’ một chút hay “non” một chút, chỉ cần mạnh hơn hoặc nhẹ hơn, thì cục diện đã khác hẳn rồi. Nhưng tiếc nuối vẫn chỉ là tiếc nuối: Sự việc đã thành “điều-kiện-cách quá khứ” – conditionnel passé irréel – không còn có thể vớt vát hay làm lại được nữa.
Những người chơi xổ số hoặc lô đề, cất công “theo” những con số mơ thấy hoặc suy diễn tưởng tượng ra, sẽ tiếc hùi hụi khi chỉ sai lệch một chữ số là trúng lô độc đắc, thay vì cay đắng nhận lô “an ủi”. Rồi họ lại lao đầu vào giấc mơ những con số và đàng sau là những ảo mộng phú quý vinh hoa, với suy nghĩ; không còn xa may mắn là bao ! Giữa lô trúng và lô trật, cũng chỉ được quyết định bằng một vài con số vô nghĩa. Biết bao người quẫn trí hành động dại dột chỉ vì tuyệt vọng.
Con người chạy theo một cách đam mê những gì không thuộc quyền quyết định của mình hay nói đúng hơn, là những gì mà vận mệnh của họ hoà toàn lệ thuộc may rủi của số phận. Họ không đủ can đảm để bắt tay vào những cái trong tầm tay, những gì họ có thế quyết định bằng ý chí và nỗ lực. Những con số gần nhau, từ không đến chín, lại “nghìn trùng xa cách” dường nào !
Nước Việt Nam không thiếu những người có những sáng chế rất hữu ích và thực tế, giá cả lại rất phải chăng, có thể áp dụng trong nhiều lãnh vực nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ, nhưng với đầu óc sính hàng ngoại và nhiều “uẩn khúc” bên trong, người ta vẫn thích bỏ tiền mua máy móc hàng ngoại. Không chỉ lý thuyết không được quan tâm, mà ngay cả các thành tựu khoa học cũng bị xếp xó. Từ lý thuyết tới áp dụng mới xa xôi làm sao ! Có khi cũng “nghìn trùng xa cách” !
Chẳng biết ông kinh sư khi nghe Chúa Giê-su khen, đã nghĩ như thế nào, nhưng rõ ràng từ những gì ông hiểu – vô số người cũng hiểu được như vậy và có khi còn hiểu nhiểu hơn nữa – đi đến thực hành trong cuộc sống, còn một khoảng cách không nhỏ. Song từ những nhận định ấy để đến được với Đức Tin, thì nếu không có ơn Chúa, sẽ là “một trời một vực”.
Lạy Chúa, có một chuyện mà Ki-tô hữu chúng con ví như trúng số độc đắc, song không bấp bênh phù du như những con số ghi trên các tấm vé. Đó là Nước Trời. Nhưng cách nghĩ cách làm của chúng con có lẽ khiến Chúa cũng phải giật mình, htu ngay lại câu đã nói với người kinh sư. Chúng con “không còn xa Nước Trời”, song không phải do cuộc sống đức tin và việc tông đồ bác ái, mà do chúng con cho rằng “sự việc phải như thế’, rằng Nước Trời ipso facto thuộc về những người mang danh Ki-tô hữu và có cuộc sống không đến nỗi nào ( tiêu chuẩn so sánh, đáng buồn thay, lại là những kẻ hoang đàng, sa đoạ, ươn ái, ích kỷ ).
Những ngày qua, ở nhiều miền trên đất nước nghèo khổ lạc hậu của con, biết mấy vụ đắm tàu thảm khốc: những chiềc đò bé nhỏ ngang nhiên dồn khách gấp nhiều lần sức chở. Không cần nước chảy xiết, không cần gió cuốn mưa sa cũng đủ gây chết người. Người ta gọi đó là “điếc không sợ súng”. Một quãng sông suối chẳng là gì so với biển khơi, đại dương, nhưng cái khoảng cách không lớn đó vẫn đòi hỏi những tiêu chí về người, về phương tiện, mà đáp ứng đầy đủ được, thì mới “đi tới nơi, về tới chốn”.
Khoảng cách “không còn xa Nước Trời” cũng không khác là bao: nó gần cho những người luôn tỉnh táo và tuân giữ những quy luật, những điều kiện tối thiểu và biết vững vàng cậy tin; còn với những người ỷ lại, không có định hướng và hết sức cố gắng, thì sẽ bị “chìm lỉm” giữa dòng đời. Khoảng cách tưởng là không ăn thua gì ấy, lại trở nên vô tận.
Con nhớ lại Lời Chúa nói với các môn đệ khi các ông hốt hoảng vì nghe Chúa nói ‘người giàu có vào Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim’: “với Thiên Chúa, không có gì là không thể”. Con lại phải “ỷ lại”, nhưng lần nầy không phải là thụ động, mà xin đặt tin cậy nơi Ngài, xin dồn hết sức, hết tâm trí, hết linh hồn để yêu mến Chúa và anh em, không cần biết Nước “không còn xa” hoặc “còn mịt mùng trùng khơi”. Con chỉ xin được cố gắng, kiên trì và tín thác nơi Ngài.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới: TN 31-B37
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là lòng mến Chúa và tình thương người.
Trước hết là lòng mến Chúa.
Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.
Thánh Gioan vị tông đồ, thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.
Như thế, chúng ta thấy lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh, là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng cuộc đời của mình.
Thánh nữ Têrêsa đã viết: Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện. Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.
Người ta kể lại thánh Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau, rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ vì Chúa là được hạnh phúc.
Tiếp đến là tình thương người.
Trong Phúc âm Chúa phán: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Thánh Augustinô đã giải thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.
Đức Giám mục Bossuet cũng nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ. Bên Âu Mỹ, người ta thử nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy, con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.
Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.
Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa: TN 31-B38
Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa muốn làm cho con người trở nên như thể một người bạn ‘đôi lứa’ trong một liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, một liên hệ yêu thương mà nhân loại thụ tạo chúng ta sự sống, Người khai triển trong con người 1 khả năng nhận biết, nghênh tiếp và đáp ứng Thiên Chúa, khả năng này thần hóa con người. Cựu Ước từng công bố nhu cầu cấp thiết phải kính mến Thiên Chúa, một nhu cầu đưa đến hệ quả: phải yêu mến tha nhân. Do đó Cựu Ước chuẩn bị cho một mạc khải viên mãn mà Tân Ước đem đến cho nhân loại. Một luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu. Hai bên đối đáp, đi tới chỗ ông phải đọc lên giới luật thứ nhất, và Chúa nói: Ông không xa nước Thiên Chúa đâu. Câu nói ngắn đó là chìa khóa để hiểu đoạn Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, Chúa loan báo rằng Nước Thiên Chúa được bao thế kỷ lịch sử Israel chuẩn bị cho người ta nghênh đón nay đã tới. Nước Thiên Chúa tới như thế nào? Tới trong con người Chúa Giêsu. Nói rằng luật sĩ không xa Nước Thiên Chúa, tức là nói rằng ông không xa bao nhiêu giây phút ông sẽ tân đồng, sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Đức Kitô làm cho sự mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa được đầy đủ, và Người đến với thế gian trong tư thế đó. Con người có một nhu cầu cấp thiết cho nhân loại và nhân loại được chuẩn bị nghênh đón Đức Kitô. Nếu ta thắc mắc: ‘Làm thế nào để đem giới luật kính mến Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta? Trường hợp đó ta phải chia câu hỏi trên thành hai câu hỏi khác: ‘Nghênh đón Đức Kitô thế nào, và trả lời Người thế nào?’
1) Nghênh đón Đức Kitô thế nào? Nghênh đón Người bằng niềm tin vào Người, tin vào sứ điệp của Người. Niềm tin ấy không dễ gì có được, mà phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Tại sao khó có được niềm tin ấy? Bởi vì nếu ta nhân định về chỗ đứng nhỏ mọn của mình trong vũ trụ; nếu ta ngó vào bản ngã mình mà chỉ thấy một thứ gì mong manh, chóng qua đi, nếu ta trông thấy đại dương mênh mông khổ ải và chết chóc, tất nhiên ta khó chấp nhận rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương từng cá nhân trong một đám chúng sinh. Vậy mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người thương yêu chúng ta bằng một tình yêu hiện diện trong mỗi người. Người thân mật âu yếm gọi tên từng người. Chỉ có hành vi tin mới giúp ta nghênh tiếp Chúa Giêsu thân thiết ngự đến trong chúng ta.
2) Trả lời Chúa thế nào? Bằng cách chấp nhận để Chúa chiếm lấy chỗ của Người trong ý thức tôn giáo của ta: một cuộc điều tra của tổ chức SOFRES năm 1972 phát hiện rằng trong số 84 người Pháp tự nhận là công giáo, chỉ có 41 người tin rằng ngày nay Chúa Giêsu đang sống động. Người ta tự hỏi có gì trong một ý thứ Kitô hữu vắng bóng Đức Kitô sống động. Tình yêu theo Phúc Âm và thiếu nguồn mạch sống động sẽ biến thành gì? Điều cần thiết phải có, nếu thiếu sẽ mắc họa chết về phần hồn, là trong linh hồn, trong trí tuệ, trong trái tim chúng ta, chúng ta phải để Chúa Giêsu Kitô ngự ở tâm điểm. Bằng cách nào? Chúng ta chớ nên lấy làm thỏa mãn vì ta ấp ủ lý tưởng Phúc Âm, vì ta thuộc về Giáo Hội. Hễ là Kitô hữu, thì phải ý thức rằng một Đấng mời mọc chúng ta hãy liên hệ mật thiết với Người. Liên hệ đó là Thiên Chúa, Đấng vô biên, tự hiến cho con người qua Đức Kitô – và qua Đức Kitô, con người tự hiến cho Thiên Chúa.
Khi tổng thống Harding chết vào mùa hè 1923, phó tổng thống Calvin Coolidge, đang giúp: TN 31-B39
Khi tổng thống Harding chết vào mùa hè 1923, phó tổng thống Calvin Coolidge, đang giúp cho cha ông ở nông trại tại Verment, cha của ông là một công chứng ở tòa án. Lúc vẫn còn ở nông trại ông đã chứng nhận lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho con ông. Một người nào đó sau đó đã hỏi ông: “Ông có biết là ông đã chứng nhận lời thề tổng thống cho con ông không?”. Ông trả lời: “Tôi không biết điều tôi không thể”.
Một câu trả lời ngắn gọn đầy ấn tượng của Coolidges, đã diễn tả cảm tính của nhiều người mà chúng ta chia sẻ. Chúng ta muốn sự tự do. Chúng ta muốn tin rằng bất cứ những gì không bị cấm thì được phép. Có lẽ với sự ngạc nhiên của chúng ta là Chúa Giêsu cũng cảm thấy như thế, Người yêu thích sự tự do.
Câu hỏi và luật sĩ đã đặt cho Chúa Giêsu thì không phải là vô bổ: “Điều gì là quan trọng nhất trong các Lề Luật”. Dĩ nhiên ông ta đã suy nghĩ về những điều luật được tìm thấy trong Cựu Ước. Theo những thầy Rabbi giải thích luật đã quyết định rằng nó có 613 khoản luật, 248 khoản tích cực và 165 khoản tiêu cực. Vị luật sĩ đã chân thành khi ông hỏi: “Điều nào là điều quan trọng nhất”. Bởi điều mà ông ta muốn nói, điều luật nào là điều luật lớn nhất? Chúa Giêsu đã trả lời không do dự, Ngài lập tức trích dẫn sách Đệ nhị luật, bài đọc I mà chúng ta đọc trong ngày chúa nhật hôm nay: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”.
Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.
Chúng ta có thể cũng hỏi Chúa Giêsu: “Có một điều luật lớn nhất hay là hai?” Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ có một điều luật duy nhất, bởi vì các con không thể yêu Thiên Chúa thật nếu các con không yêu mến anh em và các con không thể yêu mến anh em nếu các con không yêu mến Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã vươn ra khỏi sách Đệ nhị luật để đến với sách Lêvi và nối kết hai điều luật riêng biệt thành một.
Một số người Công giáo đã phàn nàn về những cáo thị của Công Đồng Vatican II nói về tình yêu tương quan. Họ muốn chúng ta đi trở lại với cung cách cũ, nhấn mạnh đến những điều luật và những quy tắc. Họ có một quan điểm. Chúng ta không hề coi nhẹ những Lề Luật trong Thánh Kinh và những quy tắc khác của Giáo Hội. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu không hề giảm nhẹ hay coi thường những Lề Luật của Cựu Ước. Ngài không hề nói chúng vô ích. Nhưng Người đã tiếp tục duy trì và tóm kết tất cả trong một Lề Luật của tình yêu. Thông thường dễ dàng hơn khi theo một Lề Luật, đó là yêu mến Thiên Chúa cách hoàn toàn và yêu mến tha nhân như chính mình. Tình yêu giải thoát chúng ta khỏi tính tự mãn, điều đó là nền tảng của mọi tội lỗi. Sự tự do thất không cho chúng ta làm những gì chúng ta muốn. Đó là sự tự do làm những gì mà chúng ta phải làm để yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân.
Theo truyền thuyết khi thánh Gioan đã già, ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại trong bài giảng của mình: “Hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến anh em của mình”. Khi một số môn đồ của ngài cảm thấy bực bội bởi ngài cứ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất, đã hỏi ngài tại sao nhấn mạnh cùng một sứ điệp tình yêu như thế. Ngài trả lời: “Bởi vì nếu chúng ta tuân giữ nó thì điều đó đã đủ rồi”.
Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện: TN 31-B40
Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.
Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.
Thưa anh chị em,
Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.
Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.
Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.
Thưa anh chị em,
Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…
Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).
“Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).
Thưa anh chị em,
Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây: TN 31-B41
Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây:
Thứ nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy chúng ta chẳng những phải kính mến Chúa hết mình mà còn phải yêu thương nhau như mình nữa mới trọn, chứ không phải chỉ kính mến Chúa hết mình, nói cách khác, kính mến Chúa hết mình còn ở tại việc yêu nhau như mình nữa, hay yêu nhau như mình là dấu chứng tỏ kính mến Chúa hết mình.
Thứ hai, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, chúng ta còn thấy, con người chỉ có thể kính mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình khi họ tin nhận “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” mà thôi. Hay nói cách khác, chính vì con người tin nhận chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài ra không còn Vị Chúa Tể hay thần tượng hoặc ngẫu tượng nào khác, mà họ phải kính mến Ngài hết mình và yêu nhau như mình.
Thứ ba, cái quí giá nhất trên đời này, trước mặt Chúa cũng như trước mắt thế gian, đó là yêu thương: yêu thương trọng hơn tất cả mọi lễ vật hiến dâng lên cho Chúa là thế, đúng như người luật sĩ thưa với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, và cũng hợp với những gì Chúa Giêsu dạy ở bài giảng trên núi về việc về làm hòa với người xúc phạm tới mình trước khi dâng của lễ trên bàn thờ (x Mt 5:23-24).
Thứ bốn, thế nhưng, nhận biết giá trị tuyệt hạng của giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như người luật sĩ trong bài Phúc Âm mà thôi chưa đủ, còn phải mang ra thực hành nữa mới được, mới được rỗi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với nhà luật sĩ này sau khi ông trình bày cảm nhận của mình về giới răn trọng nhất, như sau: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
Chúa Nhật XXXI Thường Niên Quanh Năm, dù thuộc chu kỳ nào đi nữa, A, B hay C, cũng thường ở trong thời điểm cuối tháng 10 hay đầu tháng 11, hoặc vào chính ngày Lễ Trọng Kính Chư Thánh Nam Nữ hay vào Lễ Các Đẳng (năm A: 31/10/1999, 1/11/1987 và 3/11/2002; năm B: 30/10/1994 và 2/11/1997 hay 2/11/2003; năm C: 1/11/1992 hay 1/11/1998, 2/11/1986). Riêng chu kỳ Năm B 2003, Lễ Các Thánh rơi vào ngày Thứ Bảy 1/11 và Lễ Các Đẳng vào Chúa Nhật 2/11. Tuy nhiên, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXXI Năm B tuần này cũng rất hợp với ý nghĩa của cả hai lễ này. Ở chỗ, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy một yếu tố then chốt để nên thánh, đó là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình. Đức Ái chẳng những là yếu tố then chốt để nên thánh mà còn là yếu tố cần thiết để đền tội nữa, đền tội cho chính bản thân mình và đền thay cho nhau nữa, nhất là cho những linh hồn trong luyện ngục. Thánh Phêrô tông đồ đã khẳng định “tình yêu bù đắp muôn vàn tội lỗi” (1Pt 4:8), và chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định về người phụ nữ tội lỗi trong thành đã tỏ lòng ăn năn thống hối là “chị ta được tha nhiều vì đã yêu nhiều” (Lk 7:47).
Thật vậy, điều quan trọng nhất trên trần gian này không phải là được làm lớn, làm tổng thống về phương diện chính trị, làm thần tượng về phương diện nghệ sĩ, hay làm giám mục, giáo hoàng về phương diện tôn giáo, mà là làm thánh. Không làm thánh thì làm gì thì làm con người nói chung và Kitô hữu nói riêng cũng có thể làm mất lòng Chúa, vì họ chỉ sống theo tự nhiên, sống theo xác thịt là những gì vốn phản lại với Thần Linh, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt; cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh” (Jn 3:6), hay với các tông đồ: “Thần Linh mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63)). Điển hình nhất là trường hợp đã xẩy ra cho tông đồ Phêrô, dù có ý hết sức ngay lành trong việc can thiệp vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, vị tông đồ này cũng đã bị Người nặng lời khiển trách là đồ Satan (x Mt 16:22-23). Thật ra, Kitô hữu chúng ta đã được thánh hóa, đã là Thánh ngay từ khi được lãnh nhận Phép Rửa. Bởi vậy, là những ngọn đèn đã được Chúa Kitô thắp lên để trên cao hầu soi sáng cho cả nhà thế gian, chúng ta phải sống đúng với ơn gọi “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) của mình. Mà ánh sáng chúng ta chiếu giải để soi sáng thế gian tăm tối sặc mùi tử khí văn hóa sự chết đây là gì nếu không phải là một đức ái trọn hảo.
Nếu theo Mạc Khải Thần Linh qua phần Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, Phúc Âm nói riêng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói đến giới răn cao trọng nhất là giới răn yêu thương, yêu Chúa hết mình và thương người như mình, thì trong phần áp dụng thực hành những gì Chúa tỏ dạy cho chúng ta biết ấy, chúng ta cảm nhận và đáp ứng thế nào trước Lời Chúa? Chắc mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy khó nên thánh quá! Lời Chúa khó áp dụng quá! Nhưng cũng chính vì Lời Chúa siêu việt trên cả trí khôn hiểu biết của loài người lẫn khả năng thực hiện của họ mới thực sự chứng tỏ cho thấy “Đó là Lời Chúa”, chứ không phải là lời thường, lời của con người, dù là của các bậc hiền triết thánh nhân, những lời Chúa siêu việt này đều “là thần linh và là sự sống” (Jn 6:63), như Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ. Đó là lý do, để phấn khích tinh thần Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta có các tấm gương của những vị thánh, những con người cũng hèn yếu như chúng ta. Chẳng hạn như vị tân chân phước Têrêsa Calcutta được Giáo Hội tuyên phong vào chính Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, “một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”, như ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố ngày 20/10/2003 với phái đoàn hành hương đến dư # lễ tuyên phong của Mẹ, vị mà trong hồ sơ phong chân phước đã được gọi là “biểu hiệu của Đức Ái Kitô giáo”, căn cứ vào các việc bác ái anh hùng được tỏa sáng từ người nữ tu thánh sống này.
Mẹ Têrêsa Calcutta, sau khi đã nghe thấy tiếng Chúa nói trong tâm hồn của Mẹ, kêu gọi Mẹ là: “Hãy đến, hãy trở thành ánh sáng của Cha. Hãy mang Cha tới hang hầm tối tăm của thành phần nghèo khổ”, Mẹ đã bắt đầu đi vào đêm tối tăm nội tâm, một đêm tối tăm bắt đầu xuất hiện khi Mẹ mới bắt tay vào việc phục vụ người nghèo cho tới khi Mẹ qua đời, một đêm tối tăm, như Mẹ chia sẻ với cha linh hướng và Đức Tổng Giám Mục địa phương, có những lúc Mẹ thấy thiên đàng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, Thiên Chúa không còn hiện hữu nữa v.v., nhưng đồng thời đời sống Mẹ lại thực sự chiếu tỏa “rạng ngời chân lý” Chúa Kitô, mang “Phúc Âm sự sống” chẳng những đến cho thế giới Ấn Giáo mà còn cho cả thế giới văn minh duy nhân bản, duy thực dụng, duy vật vô thần của thế kỷ 20 nữa. Sau đây hai trường hợp điển hình do Mẹ kể lại cho chúng ta.
“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.
“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.
Đó là lý do, trong bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTC Gioan Phaolô II chẳng những đã đề cập đến cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ Maria liên quan đến lòng mến Chúa hết mình của Mẹ, mà còn hết lời ca ngợi đức ái xả thân quên mình của Mẹ trước thế giới nơi thành phần cùng khốn nhất loài người như sau:
“’Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta’ (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu” (Đoạn 4).
Phần Kitô hữu Công giáo chúng ta, đôi khi chúng ta khiêm nhượng quá đến trốn tránh trách nhiệm, đến sống phản lại sự thật. Điển hình nhất là việc thực hành ơn gọi Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta đây. Không phải hay sao, trong khi Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng “Các con là ánh sáng thế gian”, thế mà có ai trong Kitô hữu chúng ta dám tự nhận mình “là ánh sáng thế gian” không? Chính vì chúng ta không dám nhận mình “là ánh sáng thế gian”, hay thậm chí phủ nhận căn tính Kitô giáo “là ánh sáng thế gian”, là truyền giáo, là làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa Kitô như thế, mà chúng ta đã tiếp tục sống tầm thường, sống phản lại với tinh thần của Chúa Kitô, sống trong tăm tối, theo khuynh hướng dễ dãi tự nhiên, theo xác thịt phản lại Thần Linh ban sự sống.
Phải, chỉ khi nào chúng ta dám chân nhận mình tôi “là ánh sáng thế gian”, chúng ta mới nỗ lực làm gương sáng, mới có thể tỏa Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” ra, mới trở thành chứng nhân trung thực phản ảnh Chúa Kitô, mới phát tỏa Tin Mừng Sự Sống cho thế gian vốn yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng này. Nếu đức ái trọn hảo của Kitô giáo “là ánh sáng thế gian” thì ánh sáng đức ái này được chiếu tỏa từ ngọn đèn đức tin. Đức ái càng sáng chứng tỏ đức tin càng mạnh và sự sống nội tâm càng dồi dào nơi thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô. Nếu đức tin thuộc về hay liên quan đến đời sống nội tâm cầu nguyện thì đức ái thuộc về hay liên quan tới đời sống hoạt động tông đồ. Trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao Giêsu chỉ cần xem quả biết cây (x Mt 7:15-20), chỉ cần phán xét đức ái là biết đức tin của con người (x Mt 25:34-37): cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời không thấy Chúa, nhưng thành phần chiên dù không thấy vẫn làm việc bác ái.
Đó là hình ảnh một con chiên Têrêsa Calcutta, dù không thấy Chúa, tức nội tâm của con chiên này bị tối tăm cả nửa đời người (1947-1997), tức suốt thời gian phục vụ người nghèo, không thấy Chúa đâu, nhưng vẫn hăng say làm việc bác ái, vẫn lấy đức tin nhìn nhận Người nơi “những người anh em hèn mọn nhất” của Người tại miền đất bần cùng nhất trên thế giới. Chính việc bác ái Kitô hữu thực hiện chứng tỏ họ thực sự yêu mến Thiên Chúa, hay thực sự họ nhận biết Thiên Chúa, một Thiên Chúa chân thật duy nhất là Đấng họ phải kính mến hết mình, “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”, như Chúa Giêsu tái xác nhận với người luật sĩ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Và chính kiến thức thần linh, được sáng tỏ qua đức bác ái, đã cho thấy người Kitô hữu này đã thực sự sống dồi dào “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3).
Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là: TN 31-B42
Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là một nghĩa vụ tuyệt đối khẩn thiết, một giới luật trọng đại nhất chúng ta phải chu toàn đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI TUYỆT ĐỐI
Maisen thừa lệnh Chúa truyền dạy: "Hỡi Israel hãy nghe đây: Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết sức anh chị em.
Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em:
* Hãy ghi tạc các luật đó vào tâm khảm anh chị em,
* Hãy thuật lại cho con cháu anh chị em đến muôn đời,
* Hãy suy niệm các luật đó lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm nghỉ cũng như lúc thức giấc,
* Hãy buộc chặt các luật đó vào tay mình, như dấu hiện hữu và máy động trước mắt anh chị em,
* Hãy viết bằng chữ lớn các luật đó trên cột và trên mi cửa nhà anh chị em" (Deut 6:4-9).
II. LÝ DO GIỚI LUẬT CHÚA TRUYỀN
Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là Cha Nhân Từ, là vị Đại Ân Nhân của chúng ta; Chúa có quyền đòi buộc chúng ta phải kính mến Chúa; đó là giới luật công bằng hợp lý hợp tình. Nhưng chúng ta có kính mến Chúa, chúng ta cũng chẳng thêm gì cho Chúa, vì Chúa hoàn toàn sung mãn, không một thụ tạo nào có thể thêm bớt cho Người, Người hoàn toàn hạnh phúc. Chính vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc mà Chúa đã truyền dạy chúng ta phải kính mến Chúa. Chúng ta hãy nghe tiếp huấn lệnh của Chúa, mà tổ phụ Maisen truyền lại cho chúng ta: "Anh chị em phải kính mến Chúa, tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của anh chị em, hết linh hồn, hết lòng mình và tuân cứ các lề luật, lễ nghi của Người như ta truyền cho anh chị em hôm nay, để anh chị em được hạnh phúc" (Deut 10:13).
Thánh tổ phụ còn nhấn mạnh: "Hôm nay ta bày tỏ trước mặt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
* Anh chị em sẽ được chúc phúc, nếu anh chị em tuân giữ các huấn lệnh Chúa truyền,
* Anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân và đi trệch đường lối Chúa chỉ dạy" (Deut 11:26-28).
III. NHỮNG DẤU CHỈ LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG
Loài người chúng ta thường thán phục trước tấm lòng hào hiệp, thường cảm động tri ân trước tấm lòng quảng đại trao ban, thường tôn kính mến yêu những vị làm ơn lành cho mình. Vậy đâu là những dấu chỉ của lòng Chúa yêu thương chúng ta?
Đối với chúng ta, không những Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, ban cho chúng ta mọi ơn lành hồn xác, lại quan phòng gìn giữ chúng ta, không những như một Đấng Tạo Hóa, hay như một Vị Đại Ân Nhân, nhưng còn hơn nữa như một Người Cha Nhân Từ hằng hết lòng yêu thương, săn sóc, che chở chúng ta như con cái rất yêu dấu của Người.
Như một người Cha, trước khi dựng nên chúng ta, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ bao la với muôn loài muôn vật, muôn cảnh sắc huy hoàng lộng lẫy kỳ diệu, để chúng ta được hưởng dùng, được nhận biết và chiêm ngắm, mà ca ngợi uy quyền và tình thương của Chúa. Chẳng khác gì một bà mẹ trước khi sinh con, bà sắm sẵn các đồ dùng cũng như những nhu cầu cần thiết cho con, để khi con bà vừa chào đời, đã có sẵn mọi vật dụng cần thiết cho cuộc sống của con.
Như một bà mẹ thương yêu cưng chiều con bà thế nào, Chúa cũng thương yêu chúng ta như vậy, chính Chúa mạc khải điều đó qua lời tiên tri Isaia: "Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, được nâng nui trên đầu gối; như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng sẽ vỗ về âu yếm, yêu thương các con như vậy" (Is 66:12-13).
Chính Chúa Kitô còn nhắc lại tình âu yếm yêu đương đó trong Tin Mừng khi Ngài thương khóc thành thánh Jerusalem: "Đã bao lần Ta tụ họp con cái các ngươi như gà mẹ túc con dưới cánh, mà các ngươi không biết" (Mt 23:27). Tình Chúa yêu thương nhân loại đã được bày giãi trước mắt chúng ta, bằng muôn vàn cách thế tràn ngập trong vũ trụ, như những dấu chỉ minh chứng tấm lòng yêu thương của Người.
Thánh Terexa Hài Đồng một hôm đang đi dạo tại vườn hoa, Chị trông thấy một hình ảnh thơ mộng, một con gà mẹ âu yếm ấp ủ bày gà con dưới cánh, trước con diều hâu đang bay lượn tìm bắt... Chị đã nhớ đến lời Chúa phán trên đây và động lòng thổn thức tưởng nghĩ đến lòng Chúa yêu thương, đến nỗi Chị không thể tiếp tục đi dạo, trở về phòng ôm mặt khóc và hết lòng tri ân kính mến Người.
Nhiều vị Thánh khi đọc tới kinh "Lạy Cha", các ngài cảm thấy lòng mình thổn thức rạo rực, rộn lên niềm hân hoan vui sướng, khiến đôi dòng châu lệ tuôn trào trước cái diễm phúc, vì mình có một người Cha Nhân Từ hằng yêu thương săn sóc, lo cho mình mọi sự, khiến các ngài được ngây ngất sảng khoái như cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng, đến nỗi không thể đọc hết lời kinh thơm xinh đó được nữa.
Đứng trước vũ trụ tràn đầy những kỳ công huyền diệu, những cảnh sắc tuyệt vời, ghi dấu tình Chúa yêu thương nhân loại, các Thánh được tràn đầy sung sướng, hết lòng ngâm ngợi ca khen tình Chúa yêu thương, khiến các ngài bùng cháy lên ngọn lửa mến yêu Chúa tha thiết, đến sẵn sàng hy hiến cả cuộc đời để phụng sự và yêu mến Chúa, nỗ lực làm tông đồ đến kiệt quệ thân xác để Chúa được tôn vinh, được phụng sự và yêu mến.
Kết luận
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn nhận ra lòng Chúa yêu thương chúng ta, để chúng ta được chu toàn giới luật Chúa truyền dạy: "Phải kính mến Chúa", hầu chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng ngay cả lúc chúng ta gặp rủi ro bất trắc, như gương Thánh tổ phụ Job xưa. Chớ gì chúng ta luôn nhớ thực thi lời Chúa dạy Chị Dòng Bénigna trong cả cuộc sống: "Con hãy đọc lời: "CHA YÊU CON" trên bánh con ăn, trên giường con nằm, trên nhà con ở, trên các dụng cụ con dùng". Và, quyết tâm gắng sức hoạt động mọi cách làm cho nhân loại được nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa cách xứng đáng như Chúa đáng mến.
Đang nằm thiêm thiếp trong giấcngủ. Em bỗng Victor nghe có tiếng động ở tầng dưới. Vì tò: TN 31-B43
Đang nằm thiêm thiếp trong giấcngủ. Em bỗng Victor nghe có tiếng động ở tầng dưới. Vì tò mò và vì muốn bắt gặp Chúa Hài Đồng Giêsu đến tặng quà, em rón rén bước xuống cầu thang. Em nhanh tay bật công tác đèn, ánh đèn sáng choang soi rõ khuân người đang đứng sững trước lò sưởi. Trên tay người lạ ôm là một quả cam và một hộp sôcôla. Em reo lên:
- Thì ra không phải Chúa Hài Đồng. Ccháu hiểu ra rồi. Ông là thánh Giuse phải không ? Ông có buồn khi cháu đến quấy rầy ông không ? Ông đang soạn cam và sôcôla cho cháu đấy phải không ?
- Ông ăn trộm yên tâm. Đó ông chính là tên ăn trộm, nhưng em bé kia không hề biết. Càng lúc ông đạo chích càng cảm thấy có thiện cảm với em vì em đã gán cho ông tước hiệu 'Thánh Giuuse của đêm Noel !
Trong khi đó em vẫn say sưa phỏng vấn:
- Thưa thánh Giuse, ngài đem gì cho ba má con đây ?
Ông ăn trộm liền điềm tĩnh đặt hộp sôcôla và trái cam vào chiếc giầy của em, rồi rút từ chiếc túi rút phồng trên bàn ra 1 ống điếu và 1 bao thuốc lá đặt vào chiếc giày của người cha, rút chiếc khăn trùm đầu đặt vào chiếc giày của người mẹ.
Sau khi tên ăn trộm phân phát quà xong, em chạy lại nắm tay ông. Bỗng đôi dòng lệ bắt đầu tuôn chảy nơi khoé mắt ông. Em bé nói:
- Khi nào ba má về, con sẽ khoe rằng con đã được gặp ngài !
- Đừng con ! Mặt ông bỗng đanh lại khi nghĩ đến lúc người lớn trở về. Ông dợm bước đi.
Sau khi liếc nhìn các thứ lần cuối, ông ăn trộm khoác chiếc bị xẹp lép lên vai, mở cửa bước vào đêm đen, trên đôi mắt vẫn còn đọng lại 2 hàng lệ. Xa xa, vẳng tiếng hồi chuông tan lễ reo vui. . .
Chuyện khác kể rằng: Mẹ Têrêsa thường bảo rằng Ềđể có thể đem Chúa Giêsu đến với người khác, điều quan trọng chính là cách chúng ta thực hiện và điều chúng ta làm cho những anh chị em nghèo hènỂ. Mẹ đã kể lại 1 câu chuyện cảm động như sau:
Hôm ấy có 1 người lạ mặt đến thăm các bệnh nhân. Ông đến nhà vào lúc các xơ vừa đem 1 người hấp hối ở ngoài đường về. Mình ông phủ đầy giòi bọ, trông thật ghê tởm. Thế nhưng, không 1 chút ái ngại, Xơ nhặt từng con giòi, rửa sạch sẽ mọi chỗ, vừa làm vừa mỉm cười với tất cả lòng thương mến, không bận tâm để ý đến ai. Trong khi đó, người khách lạ đứng nhìn từng cử chỉ của Xơ. Sau cùng, người khách lạ đến gặp tôi và trút hết tâm sự:
- Thưa Mẹ, sáng nay con đến đây với tâm hồn của 1 kẻ vô thần. Lòng con đầy căm hờn và oán giận. Nhưng bây giờ. . . con ra về với 1 tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin vào Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả 1 cách cụ thể qua hành động và qua cách Xơ đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa, không thể nào có đủ nghị lực để yêu mến tha nhân được.
Mẹ Têrêsa chưa từng gặp người khách lạ và cũng không biết ông là một kẻ vô thần.
Trong bậc thang giá trị giữa biết và sống, thì sống có giá trị hơn biết. Và đây cũng là điều: TN 31-B44
Trong bậc thang giá trị giữa biết và sống, thì sống có giá trị hơn biết. Và đây cũng là điều mà chính Chúa Giêsu đã nói khi đứng trước cái biết mà không thực hành của một luật sĩ. Thánh sử Marcô ghi nhận, sau cuộc trao đổi về lề luật giữa Chúa Giêsu và người luật sĩ, và đứng trước sự hiểu biết về lề luật của ông, Chúa Giêsu đã nói với ông: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu” (Mc 12:34).
“Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Nhưng cái bao nhiêu đó là bao nhiêu thì ngài lại không cho người luật sĩ ấy biết. Dường như ngài muốn để chính ông ta tự đo lường lấy chỗ đứng của mình và khoảng cách giữa nơi đó với nước Thiên Chúa. Vì rằng ông đã hiểu biết rất rõ về lề luật. Biết rất rõ về những gì mình phải làm đối với lề luật.
Ngoài ra, theo Thánh Ký ghi nhận thì ông cũng là một người rất khôn ngoan và lợi khẩu. Nhất là ông đã biết khen chê người đúng lúc và đúng cách, đến nỗi theo Thánh Ký, thì ông là người có những “ý kiến khôn ngoan” (Mc 12:34). Không những thế, ông còn tỏ ra là người rất sành về tâm lý khi áp dụng lời khen để làm vui lòng Chúa Giêsu trong câu truyện trao đổi giữa ông và ngài. Chúng ta hãy nghe lời ông nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dậy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất; và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn lễ vật toàn thiêu, và mọi lễ vật hy sinh” (Mc 12:32-33).
Người luật sĩ này phải chăng là hình ảnh của tôi, của bạn, của chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng tỏ ra rất khôn ngoan, hiểu biết, và rành rẽ về luật lệ, về giáo lý, và về Phúc Âm. Như người luật sĩ này, chúng ta cũng biết thế nào là đường đưa chúng ta đến Nước Thiên Chúa. Thế nào là những luật lệ đòi hỏi cần thiết để đạt được sự sống đời đời. Nhưng chúng ta lại không đến, không lên đó mà chỉ đứng xa nhìn, nói và nhận xét về Nước Thiên Chúa. Tức là không bước vào thực tế với những gì mình biết, đó là “Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hức sức mình, và yêu tha nhân như chính mình”.
Mến Chúa và yêu tha nhân. Hai giới luật cần thiết để vào Nước Thiên Chúa tức chiếm hữu Nước Trời, chiếm hữu Thiên Đàng, là những gì mà người luật sĩ này đã tóm lược từ câu trả lời của Chúa Giêsu khi ông hỏi ngài về giới luật trọng nhất trong lề luật. Ngài đã trả lời ông: “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israen, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12:29-31).
Và như vậy là rõ ràng, không còn giới luật nào trọng hơn hai giới luật trên. Đó là hai mặt của đồng tiền, hai mặt của bàn tay. Đó là đôi chân tinh thần để chúng ta đi tới với những người khó nghèo và cùng cực. Đó là đôi tay tinh thần để chúng ta xoa dịu những đau khổ, rộng rãi bố thí cho những anh chị em gặp túng nghèo, thiếu ăn, thiếu mặc. Đó là hai con mắt tinh thần để chúng ta nhìn thấy những nỗi bất hạnh của những người chung quan mình mà rộng rãi giúp đỡ, an ủi. Và đó là đôi tai tinh thần để chúng ta nghe được những tiếng rên rỉ, tiếng nức nở của những kẻ bị hà hiếp, những kẻ bị đời bạc khinh mà rộng lòng xót thương giúp đỡ.
Nói hai giới luật “mến Chúa và yêu người” là đôi chân tinh thần, là đôi tay tinh thần, là cặp mắt tinh thần, và đôi tai tinh thần vì chỉ trong cái ý nghĩa tâm linh và cao cả ấy, chúng ta mới thật sự cảm được, nghe được, hiểu được, nhìn được Thiên Chúa qua tha nhân để rồi rộng rãi hy sinh và giúp đỡ. Và cũng chỉ có lòng kính mến Thiên Chúa và đức ái thực hành mới đem ta vào được Nước Thiên Chúa, nơi chúng ta được hạnh phúc và bình an vì được sống trong tình yêu thương của Thiên Chúa và anh chị em mình.
Tai và mắt tự nhiên chỉ nhìn, chỉ nghe những cái tự nhiên. Cũng vậy, tay và chân tự nhiên chỉ làm những việc tự nhiên, và đi tới những nơi mà con người tự nhiên muốn tới.
Trong ngày chung thẩm, chúng ta sẽ bị phán xét theo hai điều răn này. Được thưởng Nước Trời hay bị loại ra khỏi Nước Trời là do có thực tâm yêu kính Thiên Chúa và bác ái với tha nhân hay không: “Khi ta đói các ngươi cho ta ăn, ta khát cho ta uống, ta là khách các ngươi tiếp rước, mình trần cho ta áo mặc, đau ốm các ngươi an ủi, tù tội các ngươi thăm hỏi” (Mt 25:35-36). Theo Chúa Giêsu, Đấng sẽ phán xét chúng ta, thì khi ta làm những việc ấy hoặc không làm những việc ấy cho những anh chị em mình với lòng yêu mến Thiên Chúa, nhân danh tình yêu ngài, thì ngài kể là làm cho chính ngài hoặc không làm cho chính ngài.
“Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu” (Mc 12:34). Hẳn là khi Chúa nói câu này với người luật sĩ, ngài cũng đã nhìn thấy cái yếu tố có thể đem ông lại gần và vào được Nước Trời, bởi vì ông đã hiểu và đã biết. Chỉ tiếc một điều, là có thể, trong thực tế ông ta đã làm ngơ, hoặc rất thiếu sót thi hành những điều ấy. Có thể ông đã nhận ra đâu là những cận thân, anh chị em mà ông cần giúp đỡ, và đôi lúc ông cũng đã làm một vài việc bố thí nhỏ, nhưng cốt lõi có lẽ ông không giúp đỡ, thăm hỏi, và ủi an thật tình. Ông sợ mất thời giời, tiền bạc, sức khỏe và danh giá. Cũng có thể ông đã nghĩ đến địa vị và vai trò luật sĩ của mình nên sự hòa mình và rộng rãi, thân mật, xót thương người cùng khổ, người sa cơ, lỡ bước, lầm đường là điều khó vì ông nhìn họ với cái nhìn của một luật sĩ.
“Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu” (Mc 12:34). Ứng dụng vào đời sống đức tin và việc thực hành bác ái của Kitô hữu, chúng ta cần tự hỏi: “Câu nói này có phải là câu nói mà Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi không?”. Bởi vì tôi cũng như người luật sĩ kia rất sợ mất mặt, mất thế giá. Sợ người đời dị nghị. Sợ mất mối làm ăn. Sợ mất cơ hội làm giầu. Sợ giúp một người thì nhiều người khác sẽ tìm đến, sẽ làm phiền. Và cứ thế tôi đã nhắm mắt, bịt tai trước những nỗi đau khổ và tiếng kêu cứu của tha nhân. Và cứ thế tôi co rúm đôi tay không vươn ra giúp đỡ, và tự xích đôi chân không đi tới những nơi mà những nỗi khổ đau đang diễn ra, những tiếng kêu rên xiết đang vang vọng đến trời cao, đến những nơi bất hạnh, bùn lầy nước đọng, những căn nhà ổ chuột hôi thối nơi anh chị em tôi đang sống và đang cần được giúp đỡ. Và nếu đó là nước trời, là Nước Thiên Chúa, thì thực tôi đã đứng tại sân nhà bạc triệu của mình, ngồi trong chiếc xe bóng loáng của mình, mà nhìn vào Thiên Đàng, vào Nước Trời chứ không bước tới. Như thế, tôi không còn phải là “xa Nước Thiên Chúa” mà là không muốn vào đó, và cũng không có điều kiện để vào. Bởi vì tôi không thật lòng yêu mến Thiên Chúa và thiếu hẳn đức ái thực hành: “Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn lễ vật toàn thiêu, và mọi lễ vật hy sinh” (Mc 12:33).
“Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu” (Mc 12:34). Cũng như người luật sĩ trong Tin Mừng, tôi cũng đã nghe, đã đọc, và đã biết về Nước Thiên Chúa, nhưng liệu tôi có muốn thực hành, muốn sống những điều mình đã nghe, đã đọc và đã biết để đạt được Nước Thiên Chúa không? Biết và sống là hai thái cực khác nhau của cuộc đời.
Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình: TN 31-B45
Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa. Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.
Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.
Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,
Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.
Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân... Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.
Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.
Vì thế, trong năm sống đức tin, đây là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: "Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau" (1Ga 3, 16; 4, 11). Tóm lại, chúng ta hãy sống đức tin bằng tâm tình của Giáo Hội theo ý muốn của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương như chính Lời Chúa mời gọi. Chúng con phải yêu thương hết mọi người. Lòng yêu thương này bắt nguồn từ lòng yêu mến Thiên Chúa.Amen.
Khi đứng ngắm nhìn một ngôi nhà cao tầng, chắc mọi người không khỏi thán phục vẽ huy: TN 31-B46
Khi đứng ngắm nhìn một ngôi nhà cao tầng, chắc mọi người không khỏi thán phục vẽ huy hoàng tráng lệ của nó. Ngôi nhà mà chúng ta đang xử dụng đây cũng thế. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những mảng tường, những gạch vụn không cùng liên kết với tổng thể, mà lại tách rời ra. Tôi chợt suy nghĩ: Ngôi nhà kia có được vẽ đẹp như thế, là nhờ những thứ dường như chẵng ra gì, nếu nó chỉ ở một mình. Chúng ta thử nghĩ, những viên đá nhỏ kia có thể làm được việc gì, chỉ là những thứ phải bỏ đi. Những hạt cát dơ bẩn kia cũng thế, nhiều khi chỉ làm cho chúng ta khó chịu vì sự hiện diện của nó bên cạnh chúng ta. Vậy mà khi chúng liên kết lại với nhau, nằm cạnh bên nhau, biết yêu thương giúp đỡ nhau, thì điều kỳ lạ đã xảy ra. Nếu có những hạt cát, hay những mãn gạch vụn tự tách lìa khỏi tổng thể đó, thì chính nó đã tự chọn con đường diệt vong, nó không thể tồn tại được. Nếu nó biết yêu thương giúp đở những bạn bên cạnh nó, thì nó cũng nhận sự giúp đở, để có thể vươn cao cùng các bạn. Nếu nó tự tách lìa, chỉ biết yêu thương có chính bản thân mình, không muốn yêu thương giúp đở các bạn ở bên cạnh, thì chẵng những nó không được yêu thương mà còn bị loại trừ ra khỏi cuộc sống.
"Điều răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây. Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi".
Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố như thế để xác định lại qui luật sống cho những kẻ theo Ngài. Giới luật sống chỉ tóm gọn lại trong hai chữ Yêu Thương. Ngài đã yêu thương bằng hành động cụ thể, yêu thương bằng sự hòa nhập với người mà Ngài yêu thương, yêu thương để liên kết họ lại, để xây nên lâu đài của Tình Yêu. Nếu người nào muốn tách rời khỏi lâu đài tình yêu, chẵng những họ không được Yêu thương mà họ còn tự đi tìm con đường hủy hoại chính mình.
Chúng ta những con người đang sống, đang nắm vận mạng của vũ trụ, đang tận hưởng những tinh hoa của các bậc tiền bối, đang xây dựng lâu đài để truyền lại cho thế hệ tương lai. Chúa Giêsu nhìn chúng ta, mỉm cười nói rằng: "Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu". Nếu trong đời sống chúng ta có thể sống hòa nhập với mọi người, nhìn thấy được nhu cầu của người khác để sẳn sàng phục vụ với tất cả tấm chân tình. Nếu chúng ta biết lắng nghe những tiếng kêu than, những lời nói chân thực nhưng đôi khi khó nghe, để biết sửa đối chính mình cho tốt hơn. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn thấy những cảnh thương tâm, để biết mở rộng đôi bàn tay mà giúp đở, hành động những gì cần thiết. Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình từng ngày, từng giờ, từng phút của cuộc sống, để nhìn thấy những gì cần phải sửa đỗi cho tốt hơn và can đảm sửa đỗi. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta rất xứng đáng nhận câu nói thấm đượm tình yêu thương của Chúa Giêsu. "Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu". Trái lại nếu trong đời sống, chúng ta không thể hòa nhập, hay vì sợ tổn hại bản thân, mà tìm những lợi ích riêng tư, khi đó chúng ta không khác gì hạt cát, cũng như những viên đá chỉ nằm riêng lẻ, cô đơn, không ích lợi gì, nó không thể cùng các bạn vươn cao trong ngôi nhà, hay lâu đài của Tình Yêu.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho những gì chúng ta đọc bằng môi miệng qua mười điều răn, cũng khắc sâu vào tâm hồn, để biến thành hành động Yêu Thương thiết thực trong cuộc sống.
Mười điều ấy, tóm lại hai điều nấy mà chớ,
trước kính mến một ĐCT trên hết mọi sự,
sau lại yêu người như mình ta vậy.
Cuộc đời của con người luôn xoay vần, luôn chuyển xoay theo thời gian Xuân, Hạ, Thu, Đông: TN 31-B47
Cuộc đời của con người luôn xoay vần, luôn chuyển xoay theo thời gian Xuân, Hạ, Thu, Đông. Sống là phấn đấu, sống là đấu tranh để bảo vệ sinh tồn. Đời con người có hỉ, nộ, ai, ố, có tham sân si, có yêu thương, có ghen ghét, có hận thù. Luật của Môsê trong Cựu Ước qui định về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người rất khắt khe: " Nghe đây, hỡi Israen: Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng, hết dạ, và hết sức ngươi. Những lời này ta truyền cho ngươi hôm nay, ngươi phải ghi lòng tạc dạ " ( Đnl 6, 6 ). Chúa Giêsu đến, Ngài đã tái xác nhận lại luật Cựu Ước, nhưng làm cho nó hoàn thiện hơn: "Yêu người thân cận như chính mình ". Đây là luật mới, luật Tân Ước: Giới luật yêu thương.
Chúa Giêsu đã nối kết hai nội dung yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, nên một luật mới là kính Chúa yêu người. Luật yêu thương của Chúa liên kết thật chặt chẽ với nhau bởi vì đã kính mến Chúa thì phải yêu thương con người, yêu thương tha nhân. Giới răn này rất chặt chẽ với nhau đến nỗi ai bảo kính mến Thiên Chúa mà không yêu thương anh em thì họ là người nói láo ( 1 Ga 4, 20 ). Đối với Chúa, Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau như Ngài đã yêu. Trước hết, chúng ta hãy yêu thương những người thân thương trong gia đình của chúng ta, những người thân thiết nhất đối với chúng ta. Nếu, chúng ta đã không yêu thương những người thân thuộc trong gia đình chúng ta thì chúng ta cũng không thể nào yêu thương những người khác được. Ngộ giả không yêu thương những người khác thì chúng ta cũng không thể nào kính mến Thiên Chúa được. Đó là nghịch lý quan trọng trong đời sống con người. Nên, yêu thương người sẽ gặp Chúa và yêu thương Chúa sẽ gặp con người. Đây có thể gọi được là chân lý của Đạo Đức Kitô. Chúng ta có tử tế, có yêu thương nhau trong gia đình, trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong khu xóm, làng thôn, gương ấy mới tỏa lan đến mọi người và đến với người khác được. Tục ngữ Việt Nam có câu trứ danh: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Ngạn ngữ Trung Hoa cũng có câu: "Hãy tử tế khi còn gần nhau, để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau". Vâng, trong sa mạc của cuộc đời nhiều chuyện đã làm cho con người chới với, nhiều vấn đề đã làm cho con người mệt mỏi, nếu chúng ta biết thông cảm, chia sẻ, yêu thương nhau, nở nụ cười cảm thông chắc chắn đời sống sẽ nở hoa, sẽ tốt đẹp hơn. Những cử chỉ yêu thương, bác ái chắc chắn sẽ làm cho đời đáng sống, thích sống hơn. Tình yêu giữa con người với nhau là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan đã nói đi nói lại: " Hãy yêu thương rồi làm gì hãy làm". Trên hành trình cuộc sống, biết bao cảnh đau thương tang tóc do chiến tranh, thiên tai, do bệnh hoạn gây ra, tình thương, bác ái sẽ giúp con người vơi đi nỗi đau khổ.
Đời sống của nhiều Kitô hữu đọc kinh, đến nhà thờ thì dễ nhưng đến với những người nghèo, những người hoạn nạn khổ đau, họ lại không thể làm được việc đó. Bởi vì Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với những em bé, những người tàn tật, những người bơ vơ, vất vưởng, những người khổ đau. Chúa đang chờ chúng ta gặp Ngài nơi những người đó. Yêu thương chính là cho đi. Yêu thương chính là quên mình, hy sinh, từ bỏ, thua thiệt mà.
Chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi để sống yêu thương, để sống như Chúa đã yêu. Chúa Giêsu đã sống để yêu, đã chết vì yêu. Ngài đã sống tận cùng đời sống của Ngài. Do đó, thánh Gioan đã có nhận định rất chí lý: " Ai nói yêu Chúa mà lại ghét anh chị em mình, họ là kẻ nói dối".
Chúa nhật hôm nay, Hội Thánh dùng để mừng lễ các thánh Nam Nữ trên trời. Các vị thánh này là những người gần gũi chúng ta, có khi là ông bà, cha mẹ, những người thân thương của chúng ta. Chúng ta xin các thánh nam nữ cầu bầu cho chúng ta trước mặt Chúa để chúng ta được nên thánh như các Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, xin cho chúng con luôn bắt chước gương Chúa sống để yêu và chết cũng chỉ để yêu . Amen.
Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: TN 31-B48
Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: "hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình". Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.
1. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng
Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: "Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em". Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?" Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: "Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này".
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.
Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.
2. Con người tự do chọn lựa
Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.
Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: "giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa". Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?
Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.
Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người "yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình" sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng "mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình". Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.
ROME - Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều: TN 31-B49
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: "Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi." Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải "yêu người thân cận như chính mình."
Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.
Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.
Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.
Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.
Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện:" cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?" và họ trả lời "Phải!" Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: "Các anh chắc không?"
Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: " Lần này cái bình có đầy không?"
Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: "Có lẽ chưa." Rất tốt!" vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.
Rồi ông hỏi lại: "Bây giờ cái bình đầy không?" Và tất cả mọi người trả lời không do dự: "Không!" "Chắc chắn là thế," vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.
Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: " "Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?" Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động--sự quản lý thời gian-- trả lời: " Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm."
"Không," giáo sư trả lời, "Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau."
Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.
Giáo sự nói tiếp: "Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh ?
"Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.
"Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: 'Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?' hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh."
Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.
Với 'những viên đá lớn" do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.
Tư tưởng xuyên suốt trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay đó là giới răn YÊU. Vâng, nhân loại: TN 31-B50
Tư tưởng xuyên suốt trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay đó là giới răn YÊU. Vâng, nhân loại được dựng nên là do Thiên Chúa yêu con người, vì thế trong Cựu Ước ông Moisen đã dạy dân điều răn trọng nhất là yêu mến Chúa(Đnl.6,2-6), với tâm tình yêu mến thiết tha như Tv.130 diễn tả ( Đáp ca). Nhưng rồi các Luật sĩ, Pharisiêu...đã chú giải thêm làm cho luật YÊU ấy trở thành hình thức với những luật lệ khuyên làm và cấm làm tới 613 luật, làm cho dân chúng không biết cái nào là chính, cái nào là phụ, và chính họ cũng bị rối, nên câu hỏi mà chúng ta vừa nghe trong bai Tin Mừng" điều nào răn nào trọng nhất?", tuy để thử Chúa Giêsu nhưng cũng để họ nhận định lại. Chúa Giêsu đã lợi dụng dịp may này để chấn chỉnh lại giới răn yêu bằng câu trả lời " yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình" (Mc.12,28b-34). Chúa Giêsu đã đặt tình yêu người và tình yêu Chúa ngang nhau.
Con người được sinh ra là do tình yêu giữa cha- mẹ, lớn lên cũng nhờ tình yêu và sống được cũng phải có tình yêu. Đứa trẻ bị còi cọc và không trở thành người trưởng thành được cũng vì chúng bị thiếu tình yêu hay không có tình yêu. Yêu là tình cảm cao đẹp trong con tim mọi người và là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Yêu thương là cho đi, cho đi chính mình. Người Do Thái cũng có luật yêu người " thương người cận nhân" và họ hiểu thân cận là là người cùng dân tộc, cùng tín ngưỡng, cùng quê...họ đã hiểu sai lề luật nên Chúa Giêsu phải sửa sai: yêu mọi người, cho dù khác ngôn ngữ, mầu da, tôn giáo...yêu người chưa hề quen biết và yêu cả kẻ thù, yêu bất cứ ai chúng ta gặp trên đường đời, Chúa Giêsu đã dạy một tình yêu không biên giới.
Chúng ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, đặt hàng rào cho tình thương: ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì yêu hết mình, còn ai ở ngoài thì là người dưng, không cần phải yêu. Vì thế, Chúa Giêsu phá bỏ hàng rào ngăn cách đó " yêu mọi người như mình thì hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ". Chúng ta có thể yêu mến Chúa nhiều lắm nhưng nếu không yêu thương bằng Chúa thì chúng ta không khác gì người ngoại. Chúng ta yêu những người thân, những người họ hàng thân thích mà chúng ta không coi mọi người là người thân, để yêu thương thì chúng ta cũng như người ngoại và có khi còn tệ hơn người ngoại. Chúng ta hào phóng dâng cho Chúa những bàn thờ rất đẹp, rất quí, những quả chuông ngoại đắt tiền, những hoa nến đầy các bình, và cả nhưng hi sinh hãm mình .... Mà chúng ta không yêu mến tha nhân thì những của lễ ấy chả có giá trị gì " Thiên Chúa thích tấm lòng hơn của lễ". Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn mạch tình yêu, nếu yêu Thiên Chúa thật thì cũng phải yêu người. Yêu Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối, vì anh em ngươi là người ngươi trông thấy mà không yêu thương thì làm sao có thể yêu Thiên Chúa mà ngươi không thấy (x.1Ga.4,20).
Chúa Giêsu đến trần gian là vì yêu dạy con người yêu, yêu Thiên Chúa và yêu con người. Nhưng để có thể yêu như Chúa yêu chúng ta phải thực tập yêu, trước tiên là yêu những người trong gia đình, cha mẹ, anh chị em ...những người thân thiết liên hệ với chúng ta. Nếu chúng ta không yêu được những người trong gia đình, trong giòng tộc thì chúng ta không thể yêu người khác và cũng không thể yêu mến Thiên Chúa được, vì thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Thánh Phaolô cho chúng ta thấy rằng " yêu thì nhân hậu, yêu là phục vụ, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không nóng giận, nhưng hết lòng tha thứ, kính tin, trông cậy và kiên nhẫn"(1Cor.13,4-7) và yêu là trao hiến bản thân như Chúa Giêsu đã trao ban chính mình vì yêu.
Chúa Giêsu sống đến cùng hai giới răn Chúa dạy, Ngài sống yêu, dạy yêu và chết vì yêu, nên ngày phán xét Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về tình yêu (x.Mt.25...) yêu Thiên Chúa bằng tất cả con người mình, ưu tiên một cho Chúa trong mọi ưu tiên, đừng để phải hối tiếc như Thánh Augustinô yêu Chúa quá muộn, hay yêu Chúa quá ít và không yêu tha nhân. Tình yêu thực sự với Thiên Chúa phải đưa chúng ta đến với anh em và tình yêu anh em đòi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, để kín múc nguồn sức mạnh mà tiếp tục hiến trao, nghĩa là trong Chúa chúng ta nhận ra tha nhân là anh em con một Cha, hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: yêu anh em trong Chúa và yêu Chúa nơi anh em.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết xóa bỏ hận thù, chia rẽ, kỳ thị chủng tộc, những âm mưu bá chủ quyền lực bằng chiến tranh hạt nhân, hóa học...thay vào đó là sự yêu thương, hiệp nhất để mọi người được sống trong cảnh thái bình thịnh vượng, hầu xây dựng một thế giới tốt đẹp đúng ý Chúa. Sr Mai An Linh OP