Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 30-B Bài 51-100 Xin cho con được sáng mắt
----------------------------
TN 30-B51. ĐÔI MẮT.. 2
TN 30-B52. ĐÂU LÀ SỨC MẠNH TRUYỀN THÔNG ?. 5
TN 30-B53. TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXX TN (Nam B): 11
TN 30-B54. KHI NHÃN QUAN CỦA MỘT NỀN VĂN HÓA BỊ ĐÂM CHO MÙ.. 13
TN 30-B55. ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ Ở GIÊRICÔ.. 18
TN 30-B56. CHÚC CHO NGƯỜI MÙ ĐƯỢC THẤY.. 23
TN 30-B57. THIÊN CHÚA THƯƠNG CỨU CON NGƯỜI 29
TN 30-B58. CN 30 TN - B.. 32
TN 30-B59. XIN CHO CON ĐƯỢC SÁNG.. 39
TN 30-B60. LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT TÔI 41
TN 30-B61. KHI CHÚC THƯƠNG.. 42
TN 30-B62. CĂN BỆNH MÙ LOÀ.. 44
TN 30-B63. NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ.. 46
TN 30-B64. LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỪU CHỮA ANH.. 52
TN 30-B65. XIN THƯƠNG XÓT CON.. 55
TN 30-B66. ĐIỆP KHÚC TÌNH THƯƠNG.. 56
TN 30-B67. TIẾNG KÊU BÊN VỆ ĐƯỜNG.. 59
TN 30-B68. VỆ ĐƯỜNG.. 63
TN 30-B69. NGUỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ.. 65
TN 30-B70. MÙ CÓ PHẢI LÀ BẤT HẠNH KHÔNG ?. 66
TN 30-B71. ĐỨC GIÊSU DỰNG NÊN MỘT DÂN MỚI 68
TN 30-B72. “Giới răn trọng nhất”. 72
TN 30-B73. Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy. 76
TN 30-B74. MÙ MÀ SÁNG! SÁNG MÀ MÙ! 77
TN 30-B75. ANH TUNG MÌNH CHẠY ĐẾN VỚI NGƯỜI 81
TN 30-B76. MÙ LÒA.. 83
TN 30-B77. CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN B.. 85
TN 30-B78. CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN. 87
TN 30-B79. TIN, THẤY VÀ ĐI THEO.. 88
TN 30-B80. KHÁT VỌNG CHÍNH ĐÁNG.. 90
TN 30-B81. ƯỚC AO ĐƯỢC NHÌN THẤY.. 91
TN 30-B82. CHÚA NHẬT XXX B.. 93
TN 30-B83. XIN MỞ MẮT LINH HỒN CON.. 94
TN 30-B84. VỈA HÈ.. 97
TN 30-B85. LẠY CON VUA ĐA-VÍT, XIN DỦ LÒNG THƯƠNG TÔI 98
TN 30-B86. XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY.. 100
TN 30-B87. ĐUI CHỘT.. 102
TN 30-B88. XIN MỞ CHO CON ĐÔI MẮT THẤY TÌNH YÊU KỲ DIỆU CỦA CHÚA KHẮP NƠI 105
TN 30-B89. "ANH MUỐN TÔI LÀM GÌ CHO ANH?". 108
TN 30-B90. THẾ GIỚI CỦA CHÚA GIÊSU.. 112
TN 30-B91: THƯA THẦY, XIN CHO TÔI NHÌN THẤY ĐƯỢC.. 114
TN 30-B92: ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ Ở GIÊRIKHÔ.. 117
TN 30-B93: ĐÔI MẮT CỦA CHỊ NỮ TU.. 123
TN 30-B94: Xin Cho Tôi Được Thấy. 127
TN 30-B95: Chúa Nhật 30 mùa Thường niên, B.. 129
TN 30-B96: Người mù. 133
TN 30-B97: XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY.. 134
TN 30-B98: NGỌN ĐÈN CHO THÂN XÁC.. 137
TN 30-B99: TIẾNG KHÓC TỰ TRÁI TIM... 140
TN 30-B100: TRỞ NÊN BARTIMÊ.. 142
-------------------------------
Phúc Âm: Mc 10, 46-52: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”.
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương.
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen,
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn,
Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt,
Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu trọng Lư đã viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
“Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.”
***************************
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.
Thế nhưng, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4–7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr69–71, Linh mục Nguyễn Tầm Thường ) Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
- E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
- Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. ( sđd. tr 72 ). “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. C âu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam – E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Ki-tô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giê-su chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.
“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Ki-tô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin. Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Chúa Giê-su chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-siêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giê-su lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giê-su và được hỏi: “Anh có tin Con Người không ?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Chúa Giê-su tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy. Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giê-su trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Đức Giê-su là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài. Chúa Giê-su cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Gia-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi ( Lc 9, 1 – 10 ). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm ( Lc 7, 36 – 50 ). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương ( Lc 23, 32 – 43 )...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Ki-tô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Ki-tô.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bar-ti-mê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giê-su là Ðấng Mes-si-a "Con Vua Ðavít". Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giê-su đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
***************************
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt. Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt. Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên. Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa. Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen!
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
(CN 30B TN , BĐ 1: Gr.31:7-9 , BĐ 2: Dt 5:1-6 , PÂ: Mc.10:46-52)
-------------------------------
(Mc 10:46-52)
Theo thống kê, trên thế giới trung bình mỗi gia đình coi truyền hình chừng ba hay bốn tiếng một ngày. Phương tiện truyền thông tràn ngập dưới mọi hình thức, nhất là truyền hình, internet v.v. Giáo Hội hôm nay rất quan tâm tới việc rao giảng Tin mừng qua phương tiện truyền thông. Quan tâm như thế có quá trễ không ? Dân Chúa đã nắm bắt được vấn đề như các vị lãnh đạo không ? Nắm bắt được vấn đề, nhưng có cơ hội và phương tiện để thực hiện không ? Ngay tại những nơi truyền thông Công giáo đang hoạt động mạnh như Âu Mỹ, Giáo Hội có thực sự thành công không ? Nếu không, tại sao ?
Ðó là vấn đề có thể tìm được câu giải đáp qua phép lạ Chúa làm cho người mù hôm nay. Giữa đám đông quần chúng, anh chỉ là một chấm nhỏ. Càng nhỏ hơn nữa khi anh thiếu một phương tiện quan trọng nhất trong việc gặp gỡ với tha nhân: đôi mắt. Rất may anh còn cái miệng. Nhưng làm sao anh có thể trấn át đám đông ? Giữa những luồng âm thanh hỗn độn, chắc chắn tiếng nói của anh như rơi vào sa mạc. Vậy mà, thực tế, anh đã thực hiện được mộng ước sau bao năm ấp ủ. Cơ may đã tới với anh khi Chúa Giêsu đi ngang qua Giêrikhô. Anh cương quyết không để lỡ cơ hội ngàn vàng.
Tin mừng Mátcô có hai câu truyện về người mù. Người mù đầu tiên vô danh tại Bếtxaiđa.[1] Người mù thứ hai tên Batimê ở Giêrikhô. Họ cùng chia sẻ một số phận và cùng được sáng mắt. Ði theo người nào cũng có một đám đông. Nhưng diễn tiến và phương cách chữa bệnh khác nhau. Người mù đầu tiên được dân chúng đem đến cho Chúa Giêsu. Tên tuổi và tiếng nói không ai biết. Trái lại, người mù thứ hai có tên. Tiếng anh kêu lớn đến nỗi át cả đám đông.
Ðó là những diễn biến ai cũng thấy. Nhưng tại sao người mù ở Giêrikhô mới có tên và tiếng nói, trong khi người mù tại Bếtxaiđa được chữa trị kỹ hơn nhiều ? Anh mù ở Bếtxaiđa không có một cố gắng nào. Anh hoàn toàn thụ động. Anh được dân chúng đem đến và được Chúa đưa ra khỏi làng. Trái lại, anh mù tại Giêrikhô hoàn toàn chủ động. Anh Batimê có bản lãnh hơn nhiều. Bản lãnh đó chính là niềm tin của anh. Anh không phải là người tầm thường, vì anh không chịu thua đám đông. Anh cũng không chịu đầu hàng trước những tiếng quát nạt, hăm dọa, áp đảo muốn chôn vùi giấc mộng lớn lao của đời anh.[2] Như thế, anh bị hai áp lực rất mạnh buộc anh phải im tiếng. Thứ nhất là sự ồn ào của quần chúng. Thứ hai là sự đe loi của những người lớn tiếng “quát nạt.” Nhưng cuối cùng chỉ có tiếng nói của đức tin mới thắng vượt tất cả và thu hút được quyền năng Thiên Chúa. Ðức tin là yếu tố quyết định sự thành công của anh, chứ không phải tại anh to miệng. Bởi đấy, anh được lưu danh muôn thuở
Bao nhiêu năm chìm đắm trong đêm tối, anh không thấy gì hết, ngoài hình ảnh “ông Giêsu, Con Vua Ðavít”[3] thêu dệt trong tưởng tượng qua những tiếng đồn thổi. Ðức tin đã khiến anh lưu danh muôn thuở. Cũng chính nhờ đức tin, Chúa đã dễ dàng cứu anh khỏi cảnh đui mù mà chẳng cần đụng chạm tới anh. Sau cùng, khác với anh mù ở Bếtxaiđa, nhờ đức tin vững mạnh, sau khi được Chúa thương, “anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.”[4] Người đi đâu, nếu không phải lên Giêrusalem chịu khổ hình thập giá ? Anh đi theo Chúa, chứ không theo đám đông ồn ào. Cùng với anh, nhiều người tội lỗi và đau yếu được Chúa Giêsu quy tụ để làm thành một dân tộc tin theo Chúa.
Khi tuyên xưng Ðức Giêsu là Con vua Ðavít, anh cho thấy niềm tin sâu xa và chân thật vào Ðấng Thiên Sai. Sau khi chữa lành anh, Chúa long trọng vào thành Giêrusalem giữa tiếng hoan hô cùng một nội dung y như anh. Những lời tuyên xưng đó càng làm cho các môn đệ Chúa phấn khởi và nôn nóng về giấc mộng Thiên sai nặc mùi chính trị. Trước khi chữa trị anh Batimê, Chúa đã mở mắt cho hai anh em ông Giacôbê và Gioan cũng như các tông đồ. Nhưng có lẽ các ông vẫn chưa tỉnh ngộ. Bởi thế, “việc chữa lành cho người mù có lẽ trở thành một dụ ngôn nói về những gì sẽ xảy ra cho các môn đệ. Hiện tại, trước ý nghĩa của cuộc thương khó Chúa Giêsu và sự cần thiết phải chia sẻ nỗi thống khổ của Người, các môn đệ đang đui mù. Như các người đó đã nhìn thấy ánh sáng, sau khi Chúa phục sinh,các môn đệ cũng nhìn thấy điều mà nay họ đang mù tịt.”[5]
Ðức tin của anh Batimê hơn hẳn các môn đệ, nhất là sau khi được nhìn thấy ánh sáng và dung nhan Ðấng Thiên Sai anh vẫn mơ ước xưa nay. Anh không ôm hoài bão Thiên Sai như các môn đệ. Bằng chứng, sau khi được chữa mù, “anh đã đi theo Người trên con đường Người đi.” Khác với anh, các môn đệ vẫn theo Chúa trên con đường riêng của họ. Thày Trò đi trên hai con đường song song. Bi thảm thật !
Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật hay kinh nghiệm cũng như những đức tính nhân bản. Có lẽ còn thiếu yếu tố vô cùng quan trọng đó, nên giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet . . . vẫn chưa đạt mục đích và kết quả như mong muốn. Ðó là lý do tại sao Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Tarcisio Bertone quả quyết: “Chúng ta phải là những người thợ đồng hành của sự thật hầu có thể cung cấp Tin Mừng của Chúa trong những hình thái nhiều mặt của truyền thông: nghe, nhìn, đang khi làm chứng cho vẻ đẹp của tạo dựng”[6] Ðồng hành với sự thật chỉ có đức tin. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.
Ðứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện đưa Tin Mừng đến từng nhà ? Ðây là câu trả lời đích xác: “Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á¨[7] Nhưng dù phương tiện hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Nhu cầu quá lớn, số ít giáo sỹ và tu sỹ không thể đáp ứng được. Nhưng không phải vì thế việc loan báo Tin Mừng mới cần đến giáo dân. Tự bản chất, người Kitô hữu có sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Họ được kêu gọi làm ngôn sứ ngay từ khi làm con Chúa tại giếng rửa tội.
Không biết đến bao giờ giáo dân mới có thể ý thức chính họ là Giáo Hội vì Giáo Hội là Dân Thiên Chúa. “Tất cả đều được kêu gọi nên thánh và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa. Mặc dù theo ý Chúa Kitô, có những người được chọn làm tiến sĩ, làm người phân phát các mầu nhiệm hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng giữa tất cả mọi người vẫn có bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô.”[8] Như vậy, giáo dân, tu sĩ, và giáo sĩ đều được mời gọi cộng tác vào công cuộc thi hành sứ mệnh Giáo Hội. Theo Tgm Daniel Pilarczyk, Cincinnati, tự căn bản Giáo Hội là một tổ chức giáo dân được hàng giáo phẩm phục vụ.[9] Tu sĩ hay giáo sĩ cũng xuất thân từ giáo dân. Không có giáo dân, không thể có Giáo Hội. Không có giáo dân, Giáo Hội không thể phúc âm hóa thế giới. Giáo dân được kêu gọi hoạt động để biến đổi thế giới và làm cho Nước Chúa mau trị đến nhờ đời sống gia đình, lao động và những dấn thân chính trị cho một xã hội công bình hơn.[10]
Giữa một thế giới đầy những biến động và ồn ào hôm nay, lương tâm thúc đẩy người giáo dân dấn thân sâu xa và hăng say “làm cho những giá trị luân lý thấm nhập vào văn hóa và các công trình của loài người. Nhờ vậy, cánh đồng thế giới mới được chuẩn bị kỹ càng hơn để đón nhận Lời Thiên Chúa.”[11] Nhưng làm sao có thể chu toàn sứ mệnh đó, nếu giáo dân không cố gắng dành thời giờ học hỏi Lời Chúa ? Lâu nay, có những người phê bình các linh mục không hoạt động để nâng cao trình độ hiểu biết của giáo dân về Lời Chúa và về Giáo Hội, mà chỉ lo gây quỹ xây nhà thờ v.v. Thực tế không phải không có. Nhưng cũng xin nhìn đến các lớp Giáo lý, Kinh Thánh v.v. xem được mấy người tham dự ? Họ kêu gọi các bậc cha mẹ phải lo dạy giáo lý cho con cái, vì các linh mục không quan tâm tới chuyện quan trọng đó nữa. Nhưng thử hỏi được mấy cha mẹ có đủ trình độ hiểu biết về Giáo lý và Kinh thánh để hướng dẫn con cái ?
Rất may có những người quan tâm tới tương lai Giáo hội Việt nam. Nhưng nhiều người chỉ nhằm khơi sâu hố ngăn cách giữa giáo dân và linh mục. Giải pháp tích cực không xuất hiện. Họ chỉ tìm mọi cơ hội để chứng minh cho mọi người thấy một sự bình đẳng tuyệt đối giữa giáo dân và linh mục. Viết về Giáo hội, họ chỉ nhắm triệt hạ hàng giáo phẩm và nâng cao giáo dân tới mức tuyệt đối. Nhưng thử hỏi, làm sao Giáo hội tồn tại trong một tình trạng vô tổ chức như vậy ?
Ðã đến lúc cần làm cho mọi người nhận thức vai trò giáo dân trong sứ mệnh phúc âm hóa thế giới và xã hội hôm nay. Một Kitô hữu “không hoạt động hết khả năng cho thân thể (Chúa Kitô) lớn lên, phải bị coi là vô dụng đối với Giáo hội và chính mình.”[12] Ðặc biệt, rất nhiều giáo dân Việt nam còn đang trong tình trạng mù lòa. Không nhìn thấy những giá trị Tin Mừng, làm sao họ có thể cải hóa và nâng cao thế giới ? Thực tế, “Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình.”[13] Nói khác, “Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống.”[14]
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã kêu gọi con làm Kitô hữu của Chúa. Nhưng con vẫn mù. Xin Chúa mở mắt cho con nhìn thấy những giá trị Tin Mừng và những phương tiện hiện đại hôm nay, để Lời Chúa thành sức mạnh thay đổi thế giới. Amen.
đỗ lực
[1] x. Mc 8:20-26.
[2] x. Mc 10:48.
[3] Mc 10:48.49.
[4] Mc 10:52.
[5] The New American Bible, Saint Jerome Press 1987:1043.
[6] Vietcatholic News ngày 10.10.2006
[7] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48.
[8] Lumen Gentium, số 32.
[9] x. Doyle D.M., The Church Emerging from Vatican II, Twenty-Third Publications, 1992: 112
[10] ibid., 116.
[11] Lumen Gentium, số 36.
[12] Apostolicam Actuositatem, , số 2.
[13] Lumen Gentium, số 31.
[14] trích từ Lumen Gentium, Epist. ad Diongtum, 6, Funk I: 400 – x. Th. Gioan Kim Khẩu, trong Mt, bài giảng 46(47), 2: PG 58, 478, về men trong bột.
******
CHÓI CHANG
(Mc 10:46:52)
Bóng đêm vây phủ quanh tôi,
ngày càng dầy đặc chơi vơi ngàn trùng,
bước đi như giữa quãng không,
tôi tìm ánh sáng cuối vùng trời mây.
niềm hy vọng vuột tầm tay,
bao nhiêu mộng ước vươn dài tháng năm,
càng mong càng thấy bặt tăm . . .
Bóng tối tựa gọng kìm siết chặt
ngàn cân đè đôi mắt ngày đêm,
vùng trời hoang lạnh vô biên,
ngàn cơn uất nghẹn nhận chìm tấm thân.
Nhưng cơ hội ngàn vàng đã tới,
tâm hồn tôi khấp khởi reo mừng,
Bóng đêm như muốn nổ tung,
khi nguồn ánh sáng oai hùng vươn lên.
Từ muôn thuở toàn dân ngưỡng vọng,
bước Thiên Sai mở rộng quan san,
niềm tin tô thắm địa đàng,
từ nay ánh sáng ngập tràn lối đi.
Thày đứng đó uy nghi cao cả,
suối tình yêu nhiệm lạ vô song,
Tiếng Thày vang vọng không trung,
như ngàn thác đổ vào lòng thế nhân.
Con nhận biết muôn phần tội lỗi,
như bức tường đêm tối bủa vây,
từ nguồn ân sủng cao dầy,
từng luồng ánh sáng xé thây đêm trường .
Thày lấy cả tình thương trời bể,
lắng nghe từng lý lẽ con tim,
từ nay sức mạnh niềm tin,
đẩy lui nỗi sợ khỏi miền tử vong.
Khi vào tận cõi lòng hoang vắng,
Thày khơi nguồn ánh sáng chói chang,
bầu trời thánh sủng hân hoan,
dậy niềm hy vọng chứa chan ân tình.
Từ ngày Chúa Phục sinh vinh hiển,
cơn mây mù tan biến hư không,
Thày đi từng bước chập chùng,
gieo mầm sống mới khắp vùng nhân sinh.
Chính khi chọn đóng đinh thập giá,
Thày thực thi “phép lạ” Thiên Sai.
Khi vừa mới gặp chông gai,
môn đồ cao chạy xa bay, mặc Thày.
Khắp thế giới đêm dầy bao phủ,
cúi xin Thày quy tụ muôn dân,
Tin Mừng vang nhịp thiên thần,
trần gian rộn khúc tri ân muôn loài.
Quê hương cát bụi tung bay,
Bao giờ đến lúc đổi thay,
Bao giờ ?!
-------------------------------
XIN CHO CON ĐƯỢC MÙ !
Mc 10,46-52
Coi chừng “cầu được,ước thấy!”.Từ cổ chí kim,ngay cả người bị tâm thần, cũng chẳng ai dại gì mà đi xin được …mù. Nhưng công bằng mà xét, những gì không thực thi chức năng, những gì không làm trọn chức năng hoặc những gì làm sai chức năng, thì sẽ bị đào thải,hủy bỏ,trừng trị. Người ta ví con mắt như cửa sổ linh hồn: thay vì mở ra cho ánh sáng chân lý, đón nhận những hình ảnh đẹp đẽ mà Đấng Tạo Hóa tặng ban và nhìn tha nhân như anh chị em con cùng Cha trên trời, thì những gì lọt qua hai “cánh cửa sổ” ấy lại chỉ là những hình ảnh xấu xa, dâm ô, làm cho tâm trí và linh hồn mờ đục dần, rồi chìm vào bóng tối tội lỗi. Có mắt mà như mù.
Trong Ngày Thị Giác Thế Giới 10.10 năm nay, báo cáo cho biết con số người mù trên thế giới hiện nay là 45 triệu và ở Việt-nam là 386.000 người (0,6% dân số),trong đó tỷ lệ mù trên 50 tuổi là 3%, nam là 2,2% và nữ gần gấp đôi: 3,7%. Theo khảo sát của nghành y tế, có đến 73,2% học sinh bị tật khúc xạ về mắt (cận, viễn, loạn thị), trong đó tỷ lệ cận thị chiếm 47,5%, tức là hơn ba triệu trẻ em độ tuổi cấp 1 và 2. Cứ năm giây thế giới và ‘thế giới tối tăm” lại ghi thêm một người mù và cứ mỗi phút, danh sách trẻ em bị mù lại thêm một cháu rơi vào cuộc sống bất hạnh và khủng kiếp của kiếp mù… Người ta có thể dạy người câm điếc ngôn ngữ ký hiệu, để trao đổi về mọi vấn đề từ thông tin xã hội,đến khoa học,kỹ thuật, nghĩa là làm cho cuộc sống không khác quá nhiều với người bình thường, nhưng người mù thì chịu đủ thiệt thòi: không ai có thể chỉ cho người mù về màu sắc,hình thể của vũ trụ bên ngoài. Khả năng cao nhất người mù đạt được,là về âm nhạc, thì cũng hết sức giới hạn về cả sáng tác,thưởng ngoạn, biểu diễn. Có thể nói: bị khiếm thị là bất hạnh lớn nhất!
Anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay biểu tượng cho những gì là bất hạnh nhất trên trần gian ấy: đói khổ,cô đơn, bị khinh thị và bỏ rơi, sống nhờ vào lòng trắc ẩn của người đời . May mà anh còn có một cái tên: Batimê, để người ta biết anh không phải ở lỗ nẻ chui lên. Anh cũng là một con người, có cha có mẹ và nếu hiểu theo người đời rằng bệnh hoạn tật nguyền là do phạm tội, thì những kẻ hai lần đáng khinh,chính là vợ chồng nhà Ti-mê,hắt hủi bỏ rơi con trai xấu số. Vẫn còn may là cha mẹ Ba-ti-mê chưa biết đến ngón nghề của dân Việt-Nam: không què cũng bẻ cho què,không mù cũng móc mắt cho mù, đem đi hoặc bắt đi ăn xin không chỉ để nuôi,mà để làm giàu cho nhiều kẻ ác. Bẳng đi một thời gian ngắn,cảnh ấy nay lại tái diễn trước các rạp hát đông người. Trong cơn khốn cùng ấy, như giữa dòng nước xoáy bão lụt, bất cứ cái gì có thể làm phao giúp nỗi trên mặt nước, dù không lâu, không bền, cũng đều qúy gía. Ngồi bên vệ đường nhiều năm,anh mù Ba-ti-mê hằng ngày nghe người qua kẻ lại thuật hằng trăm,hàng ngàn câu chuyện về Chúa Giêsu, về những phép lạ cả thể Chúa Giêsu làm. Một cơ hội duy nhất trong đời, làm sao anh ta chịu bỏ qua! Và Chúa Giêsu đã đáp ứng nguyện vọng của anh mù. Có lẽ dân thành Jêricho cũng thở phào nhẹ nhỏm khi Chúa Giêsu cất giúp “biểu tượng” chẳng lấy gì làm đẹp đẽ nầy, mà họ chứng kiến sự hiện diện, lớn lên ngày ngày như một thách đố,như vấn nạn “y hay cha mẹ đã phạm tội” để bắt y phải một đời chịu “hình phạt” nặng nề nầy, mà chỉ có Chúa Giêsu minh oan (Ga 9,2 – 3: không phải anh ta cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội), và “vì Thiên Chúa không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ luân lý,cho dù trực tiếp hay gián tiếp”(Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 311).
Nhưng người mù lại có quyền lên án chúng ta.
Họ - người mù – có quyền lên án vô số người đã để con mắt mờ đục vì tiền tài,danh lợi và đặt chúng trên mọi giá trị khác, kể cả Lời Chúa và giáo huấn Giáo Hội: thấy tiền là đôi mắt tham lam rực sáng và không ngại ngùng làm tất cả để chiếm phần hơn hoặc chiếm đoạt tất cả. Đôi mắt được ví là cửa sổ tâm hồn. Nó chẳng những không giúp cho tâm hồn sáng sủa,thánh thiện hơn, mà lại làm cho tâm hồn thêm vẫn đục, tối tăm, đầy tham sân si, thì 45 triệu người mù trên thế giới đòi công lý. Đó chỉ là công bằng. Món nợ nầy chúng ta không thể phủi tay không trả. Chúa giao cho chúng ta những nén vàng – đôi mắt để sinh lời, chứ không phải để cất dấu, nói gì đến việc làm hư hao gây ra cho bản thân và tha nhân.
Họ - người mù – có quyền lên án biết bao người đã dùng đôi mắt để nhìn những cảnh dâm ô đồi trụy trên sách báo phim ảnh. Bao thanh thiếu niên không được giáo dục tốt đã đắm mình trong những trang điện tử dâm dật nhan nhãn trên internet, bày sẵn ở khắp mọi nơi. Biết bao cảnh vừa đốn mạt,quái đản đến mức khó tưởng tượng, vừa đau lòng, đã xảy đến như là “áp dụng thực hành” những gì đã nhìn,đã đọc, đã thấy: những vụ hãm hiếp, loạn luân, ở những độ tuổi không ai có thề ngờ đến, hiếm nghe thấy trên toàn thế giới. Những vụ giết người dã man phát xuất từ hành vi dã thú sa đoạ. Tất cả những điều nầy được nhắm mắt bỏ qua, thậm chí còn được khích lệ bởi thứ văn hóa vô thần sùng ngoại, bởi những người hữu trách thiếu hiểu biết, thiếu trình độ nhưng thừa vô đạo, sa đoạ . Họ viện đủ cớ và hành xử quyền lực tring tay để thao túng, để ngăn cản những điều đạo đức tốt lành (song không mang lại lợi lộc cá nhân), nhưng sẵn sàng giang rộng đôi tay đón những luống văn hoá độc hại,đồi trụy,vô thần nhất, bất kể tương lai của cả giống nòi dân Việt sẽ bị băng hoại, thối rữa, bạc nhược. Theo dõi đài báo những ngày qua, ai cũng có cảm tưởng đất nước nầy trở thành một thùng rác khổng lồ nhập về, chứa chấp đủ loại độc hại về vật chất, tinh thần: từ thực phẩm hư thúi cho đến rác thải độc hại và sách báo dâm ô, băng đĩa đồi trụy. Tất cả như hẹn nhau trực chỉ Việt-Nam để bán những thứ mà ở đất nước họ phải tốn tiền rất nhiều để thuê đi đổ bỏ! Việt Nam còn là nơi trung chuyển lý tưởng những thứ giết người như cần sa,ma túy, các thuốc gây nghiện, thuốc lắc. Những người mù đòi công lý, bởi vì chút ánh sáng họ thèm được nhìn được một giây thôi trước khi chết, mà chỉ là ảo mộng,thì nhiều người chẳng những phung phí, mà lại dùng làm hại bản thân và làm hại cho nhiều người,nhiều thế hệ. Vô thần về nguyên tắc không đồng nghĩa với xấu xa trụy lạc, nhưng trên thực tế, vô thần ngày càng xấu xa,mất nhân tính,sa đoạ và gieo rắc xấu xa,độc dữ: có mắt mà không nhìn thấy. Họ muốn “thông minh” hơn người. Họ chỉ “thong manh”!
Người ta thường nói: tình yêu mù quáng! Tây phương có câu: le coeur a ses raisons que la raison ignore (con tim có những lý lễ của nó mà lý trí không biết đến) . “Tình sầu” của Trịnh Công Sơn thì nói:”Tình yêu như trái phá con tim mù loà”.Con mắt lý trí rất dễ bị những mảng tối cuộc đời che lấp: cám dỗ tiền bạc, sắc đẹp,đời sống xa hoa,dễ dãi,những lời ngọt ngào trăng hoa,… Hôn Nhân và Gia Đình vì thế trở thành đích nhắm, có nghĩa là Satan và những thế lực vô thần xấu xa trưng ra cái nhãn “tự do”, “bình đẳng”, để con người chỉ còn nhìn thấy “quyền lợi” riêng mà rủ bỏ “trách nhiệm”, chỉ muốn “hưởng thụ” ích kỷ, mà không muốn gánh vác hoặc chia sẻ bổn phận. Ly dị,ngừa tránh thai, nạo phá thai, sống chung trước hôn nhân,là những gì che lấp con ngươi của họ, ngự trị và làm nên sức mạnh của “con tim mù loà”.
Chúa là Thần Ánh Sáng, con không muốn tin theo; con để lòng mình mê say thần bóng tối Satan.Nếu mắt tâm hồn con mãi đắm chìm trong tội lỗi,trong đam mê hư hèn,trong kiêu căng ích kỷ,một chút ánh sáng Tin Mừng cũng không lọt vào được, thì không cần cầu xin, con cũng đã bị mù loà và dù có phủ nhận, thì con cũng là kẻ mù. Cho con chí ít cũng biết kêu lên với anh mù ba-ti-mê hôm nay: Lạy Thầy Giêsu,xin thương xót con!
ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 20
-------------------------------
Lm. Tran Cao Tuong phu trach
Stephen Covey thật hãnh diện với cuốn “Bảy Thói Quen của Những Người Thành Đạt Cao” (The 7 Habits of Highly Effective People), bán chạy bestseller nhiều năm. Thành công hay thất bại, đi lên hay thụt lùi của một người hay của cả một nền văn minh và văn hóa đều nằm ở con mắt nhìn, tức là nhãn quan, cái chủ trương, quan niệm, niềm tin. Stephen Covey gọi là Paradigm. Tức nằm ở những cái "duy" với những chủ nghỉa và ý hệ! Chủ trương duy vật hay duy con vật cũng là một trong những nhãn quan của thời đại, bên đông cũng như bên tây.
Đó chính là con mắt nhìn, mở của sổ nhìn vào cuộc sống với những định giá và kiếm tìm khác nhau. Con mắt này nhiều khi bị cả một hệ thống áp đặt bịt lại hay bắt nhìn theo một quan điểm nhất định, hoặc bị đâm cho mù để dễ bề điều khiển sai khiến theo nhu cầu của dạ dày của "con vật kinh tế"!
LOẠN THỊ VÀ LOẠN SẮC
Gần đến ngày "bớt đầy" (birthday) thêm tuổi mà thằng bé cháu chưa thấy ai động tĩnh mua quà gì cho nó cả. Bà nội vẫn dạy nó muốn gì thì cứ cầu nguyện, nên đang khi bà loay hoay thu dọn ở dưới bếp, nó liền vào phòng nhưng không khép chặt cửa mà để hé mở một chút, và quì xuống cầu nguyện to tiếng: "Lạy Chúa, sắp đến ngày "bớt đầy" của con, xin Chúa cho con một cái xe có máy chạy được, và một đôi giầy Nike giống bạn con mới có."
Bà nội nghe thấy thì buồn cười liền nói vọng vào: "Cháu tưởng Chúa điếc hay sao mà cầu nguyện lớn tiếng vậy?"
Thằng bé liền nhanh nhảu trả lời: "Cháu không sợ Chúa điếc, nhưng cháu chỉ sợ bà không nghe rõ thôi."
Thằng bé trong câu chuyện trên chưa mang nhiều hình ảnh về Chúa. Mắt nó chỉ thấy được một cách mơ hồ qua tình thương của bà, mà tình thương cũng đã bị "Mĩ hóa," tức bị làm cho méo lệch đi, phải đo được bằng những món đồ chơi mắc tiền vào những dịp lễ đặc biệt!
Mắt cũng dễ bị tật lắm. Chưa kể bị mù, nhiều người bị cận thị hay viễn thị nặng phải đeo kính mới thấy được. Nhưng có một số người bị tật loạn thị hay loạn sắc. Loạn thị thì nhìn đường thẳng ra đường cong không thể lái xe được, nhìn hình tròn ra hình méo! Loạn sắc là nhìn màu đỏ ra màu xanh, màu vàng ra màu tím… Đúng là loạn cả lên.
Hồi còn nhỏ mỗi lần vấp té làm bể một đồ vật gì thì tôi thường bị mẹ la là "mắt lợn luộc." Về sau lớn lên có lần tôi thấy hai bà chửi nhau là "mắt lợn luộc" vì bà này vô ý vô tứ đạp nhằm chân bà kia khi đi ngang qua ghế. Thì ra đó là hình ảnh thân quen ở vùng quê xưa. Khi giết một con heo xong thì phải nấu nước sôi nhúng vào để làm lông. Mắt con heo lúc đó mở thao láo có vẻ vẫn "ngước mắt nhìn đời, nhìn đổi thay ta buông tiếng cười " mà thực ra chẳng thấy gì nữa. Đúng là mắt lợn luộc!
ĐIỀM ĐANG CẦN CỨU CẤP CHỮA TRỊ
Tờ The Times-Picayune vùng New Orleans trong mục thời điểm đã có lần diễn tả con mắt người thời đại bằng một hình ảnh dễ cảm về một cảnh cứu cấp: bệnh nhân đang nằm trên xe đẩy, bác sĩ và y tá hối hả vây quanh, người chuyển khí thở, người truyền nước biển, người đo tim… Nhưng nhìn thêm thì thấy đầu bệnh nhân là một cái TiVi có đề chữ "Trung Tâm Phát Tin." Bị bệnh vì tin tức, vì nhìn lệch. Chữa bệnh như vậy phải chữa thông tin trước.
Nhìn hình ảnh này tôi tự nhiên nhớ cảnh ngày xưa ở vùng Chí Hòa thời còn xe thổ mộ, tức là xe ngựa kéo trên đường Lê Văn Duyệt đi Bến Nghé chợ Bến Thành. Xe không có ghế ngồi nên mọi người "tùy nghi" mà nêm cối "điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa." Hành lý là quang gánh của hành khách bình dân đi buôn thúng bán mẹt thì treo lủng lẳng hai bên. Ông Vương Hồng Sển mà tả "Sài gòn Năm Xưa" thì phải thêm mục này nữa mới hấp dẫn. Nhưng hãy để ý con ngựa một tí: nó bị bịt che hai mắt, chỉ hở đủ để thấy được đường phía trước khoảng hai ba mét thôi. Ông tài xe hộp ngồi phía trước không muốn nó "thiếu nhất trí" nhìn đi chỗ khác dễ sinh ra "ý đồ" hoặc "quan điểm" riêng mà đi theo hướng khác, nhưng luôn phải đi tuân lệnh và tuân hướng của ông theo cái nhịp roi đánh. Cuộc đời của nó cứ thế cứ thế, cho đến khi nó không còn đủ sức làm xong cái "dóp" mỗi ngày như mọi ngày nữa.
Thì ra bệnh nhân cứu cấp với cái đầu là cái TiVi cũng chỉ là cảnh mới của chiếc xe thổ mộ Sài gòn năm xưa. Người ngồi đàng sau màn ảnh TiVi chính là ông tài xế hộp, và con ngựa bị che mắt lại cũng có thể là chính mình mới thật tội nghiệp. Vì ai cũng biết, hình ảnh và tin tức ngày đêm "oanh tạc" vào mắt người xem thì đúng là tin ... tức mình. Những chuyện bao nhiêu người mẹ thức khuya dậy sớm lo lắng từng miếng ăn cho chồng con thì chẳng bao giờ được nhắc đến, những chuyện bao nhiêu ông bố phải rúc vào ống sắt để "bắn pháo bông" làm thợ hàn trong những ngày mùa hè nóng kinh khủng hay mùa đông lạnh đông máu cũng chẳng thấy tờ báo nào nói tới làm gì! Những nụ cười thương yêu, những bông hoa vừa nở chẳng được nhắc đến. Nhưng chỉ cần một chuyện chó cán xe, trẻ giết người lớn, buôn xì ke, vợ đập chồng… thì được trình chiếu kỹ lưỡng. Thậm chí như vụ O.J.Simpson hay ông Clinton mà truyền hình và báo chí bỏ ra không biết bao nhiêu tiền và thời giờ. Đúng là chuyện chó cán xe. Bệnh thật. Nhóm Ehrhard làm thống kê trong sáu tháng cho biết tới 30% tin địa phương nói về tội ác chém giết. Khán giả phải la ó: "Nhiều máu quá! Máu chảy làm mùi tử khí lây nhanh, khích động thêm các vụ đổ máu khác nữa." Jane Butler ở Thibodaux Louisiana đã phải lên tiếng: "Xin chiếu cho chúng tôi tin tức mà thôi, các người đừng chỉ chiếu những gì các người muốn chiếu."
Vì hầu hết những người đọc tin và điểm tin đều không được phép đọc quá hàng chữ đang hiện ra trước mắt. Trước khi cho bản tin nào ra thì họ đã biết hướng mà khán giả phải nhìn theo là hướng nào rồi. Quan điểm và giá trị đã được ấn định hẳn hòi. Nhất trí nhá. Đà văn minh là ở đây. Thời trang cũng là đây. Mọi người cứ thế mà theo, và cho đó là hợp thời, tiến bộ; không theo như vậy thì liền mang mặc cảm chẳng giống ai. Tự động không người lái. Chẳng ai có giờ mà tự hỏi giống ai là giống ai, và không giống ai là không giống ai? Cũng một tay tài xế hộp ngồi điều khiển con ngựa kéo xe thổ mộ thời mới mà thôi. Và mắt mình chỉ thấy cuộc đời được có vậy.
TIN VUI MỞ ĐƯỢC NHÃN QUAN MỚI (CN 30B)
Tình trạng bị che mắt mù tối hay cận thị và loạn thị nghèo khổ như con ngựa kéo xe thổ mộ của con người trong thời đại mới bây giờ được Chúa diễn tả như một người mù ăn xin tội nghiệp bên vệ đường ở Giêricô. Anh ta mỗi ngày đều làm cái "dóp" này một cách thản nhiên. Cho đến một ngày nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua. Ai chứ Đức Giêsu thì anh đã nghe tiếng về quyền năng từ những ngày qua. Và anh ta ao ước tìm gặp Ngài. Thì đây dịp may hiếm có. Đám đông đang ồn ào chen lấn. Mặc ai ngăn cản, anh cứ nhào đến cho bằng được, cứ xin, cứ kêu lớn tiếng. Thế là Chúa Giêsu đã dừng lại và bảo gọi anh đến. Anh liệng liền ngay áo choàng, xả buông cả một thế giới tăm tối tù túng cũ để bước tới gặp được Chúa Giêsu, vùng ánh sáng mới thênh thang. Ngài hỏi ngay: anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh liền trả lời dứt khoát:
"Lạy Thầy, xin cho con được trông thấy."
Và Chúa Giêsu đã cho anh ta được sáng mắt: niềm tin của anh đã chữa anh.
Mình cũng đang luẩn quẩn ba cái chuyện lẩm cẩm hằng ngày để rướn lên mà theo cho bằng được cái đà và cái trớn của nếp sống gọi là văn minh, của sự đua chen cho giống được ai, từ cách sắm sửa quần áo, thời trang, máy móc, tậu nhà… Cho đến một ngày mắt mờ đi mỏi mệt, nhìn mà chẳng thấy kẽ sáng nào. Đúng là đang bị che bịt, kềm tỏa do những lệnh vô hình, "không người lái". Kể cả người tin đạo vẫn nghe Tin Mừng của Chúa cũng mang những bộ mặt ủ rũ và những cặp mắt mất hồn không mừng gì, giống như những người đưa đám. Nhà vô thần Nietzche đã có lần chửi vào mặt người tin đạo: "Mấy người hãy tỏ nét mặt tươi lên để chúng tôi tin rằng Chúa của mấy người đã sống lại. Bằng không thì đã chết từ lâu, không sống lại được đâu!"
PHÚT CẢM NHẬN
Con mắt ai đang lo âu mờ tối tuyệt vọng? Nhìn dấu chỉ thời đại mà nhận ra Đức Kitô đã sống lại và vẫn đang hiện diện thì có sức bật sáng mọi con mắt. Đó là con mắt cần thiết vào thời điểm này. Nhìn và thấy được, chứ không phải mắt lợn luộc. Xin mở mắt con để nhìn thấy được. Mọi vật, mọi chuyện sẽ mang được màu sắc mới, cung điệu mới, giá trị mới dưới nhãn quan mới, được giải thoát khỏi vòng u tối. Một bông hoa nhỏ cũng quí trọng dưới con mắt của thánh trẻ Têrêsa. Nhà văn Mỹ là Ralph Waldo Emerson nhìn cây cỏ vạn vật thiên nhiên với một con mắt hồn nhiên trong sáng, và đã khám phá ra vẻ đẹp kỳ lạ.
Đừng bao giờ bỏ mất dị
Nhìn ngắm mọi vẻ đẹp trong cuộc sống.
Vì vẻ đẹp là chữ viết do chính tay Chúa Trời,
Vì vẻ đẹp là chính Chúa hiện ra.
Hãy đón nhận vẻ đẹp qua từng nét mặt tươi,
qua từng khung trời rộng
qua từng bông hoa thắm.
Và hãy cảm ơn Người,
Vì mỗi vẻ đẹp là một chén hồng ân.
Vâng, con đang chờ một phép lạ thay đổi nhãn quan của con. Con đã bị tình trạng mù tối hành khổ con nhiều rồi. Con muốn giũ bỏ cái áo choàng cũ là cái đà trớn đua tranh đang kềm tỏa con mất tự do, như người mù ỡ Giêricô, để bước tới vùng ánh sáng mới là chính Chúa, để được bật sáng nhìn thấy chân trời mới với giá trị mới. Mọi sự đều kỳ lạ quá. Và con bắt đầu biết cảm nhận như Mẹ Têrêsa thấy được vẻ đẹp quí trọng ngay cả nơi một nụ cười:
"Chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy hết được một nụ cười quí giá biết chừng nào. Chiêm niệm là nhìn thấy được mặt Chúa trong mọi sự, mọi người, mọi nơi, mọi lúc, và nhìn thấy được tay Chúa trong mọi chuyện xảy ra."
Và tôi sẽ không bao giờ bỏ mất dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp trong cuộc sống của tôi. Chúa đã và đang làm cho tôi muôn điều kỳ lạ. Mỗi vẻ đẹp đều là một chén hồng ân, một thác nước hồng ân.
Mời vào Mạng Lưới Dũng Lạc, góp tài liệu xây nhà văn hóa & niềm tin www.dunglac.org
Trần Cao Tường, Lm.
-------------------------------
Mc-cơ 10,46-52
Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh mù đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.
Lm. PX Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.
Hai đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);
Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);
Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).
- môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Mc ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1 (lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (10,1). Trong trường hợp 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với Đức Giêsu và các môn đệ Người.
- Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.
- một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.
- Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Ki-tô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.
- nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.
- Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.
- anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos:cc. 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?
- vất áo choàng: Tấm áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25- 26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5) hoặc “đánh mất” (Is 1,30; Dt 10,35). Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).
- đứng phắt dậy (50): Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khíùch (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô- anistêmi ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.
- đến: Đọâng từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.
- Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.
- Thưa Thầy: Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).
- Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).
- anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).
IV. Ý NGHĨA BẢN VĂN
* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)
Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măït biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.
* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)
Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.
* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).
Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).
+ Kết luận
“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.
Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.
Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Chúng ta có thể suy nghĩ về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu người Nadarét”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về Người. Điều đó đã được tác giả Mc diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).
2. Trong đời sống đức tin, đôi khi phải dám “đi ngược giòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im, anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời anh một hướng mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.
3. Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người, cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Và khi đã nghe tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự, như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Phải chấp nhận liều lĩnh, để từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp thông thân tình với Người.
Lm. PX Vũ Phan Long, of
-------------------------------
Mc 10,50
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện anh mù Bartimê kêu xin Ðức Giêsu "Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Và Ðức Giêsu đã cứu chữa anh. Chúng ta cũng có thể dùng lời của Bartimê để cầu xin với Chúa, bởi vì chúng ta cũng mù loà về rất nhiều điều.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta mù lòa không thấy những bằng chứng của tình thương Chúa rất nhiều chung quanh chúng ta và trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta mù lòa không thấy những cảnh khổ của anh chị em chúng ta.
Chúng ta mù lòa không thấy lỗi lầm khuyết điểm của chúng ta.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Gr 31,7-9
Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri về thời giải phóng. Khi đó Thiên Chúa sẽ đưa dân từ chốn lưu đày trở về quê hương; tất cả những người đau khổ, mà đại biểu là những người mù, què, tàn tật sẽ được cứu chữa.
2. Ðáp ca Tv 125
Bài ca mừng cuộc giải phóng khỏi kiếp lưu đày.
3. Bài đọc II Dt 5,1-6 (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do thái tiếp tục suy tư về vai trò của Vị Thượng Tế người phàm: (1) Vị đó được chọn từ giữa loài người, (2) để đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa. (3) Vì cũng mang thân phận loài người tội lỗi, nên chẳng những vị ấy dâng lễ đền tội cho dân, mà còn phải dâng lễ đền tội cho chính mình.
4. Tin Mừng Mc 10,46-52
Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan xin địa vị ưu tiên trong "nước" Ðức Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện anh Bartimê như để "sửa lưng" các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những ai muốn "thấy" Ðức Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn "đi theo" Ngài.
Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết "xin cho tôi được thấy", và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn "đi theo" Ðức Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).
Trước đó, khi được Ðức Giêsu gọi, anh đã từ bỏ ("liệng áo choàng"), thay đổi nếp sống (từ "ngồi ở vệ đường" đến "đứng dậy"), quy hướng về Ðức Giêsu ("nhảy đến với Ðức Giêsu").
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Sáng đôi mắt đức tin
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Ðây là tình trạng của những người mù". Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
|||
"Có đau mắt mới biết thương người mù". Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.
Hôm nay Ðức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, "ngồi bên vệ đường" ăn xin, nghe biết Ðức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: "Hỡi ông Giêsu, con vua Ðavít, xin thương xót con" (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót con". Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: "Lạy Thầy, xin cho con được sáng" (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được. Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Ðức Giêsu, Ðấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: "Ðức tin của anh đã chữa anh" (Mc.10,52).
Ðích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Ðức tin, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế khi gọi Người là "con vua Ðavít".
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
"Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Ðó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".
Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 2. Thị giác và thị lực
Cần phải phân biệt thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy: nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ v.v. Người cận thị chỉ thấy được rất gần; người viễn thị thì thấy xa hơn. Thí dụ này giúp ta hiểu rằng chỉ có thị giác thôi thì chưa đủ, mà còn phải có thị lực tốt.
Hiểu rộng hơn một chút, thị lực không phải chỉ là mức độ thấy của đôi mắt, mà còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.
Ðức Giêsu là người có thị lực rất tốt: Ngài thấy Natanael đang ngồi dưới gốc cây vả trước khi ông tìm đến với Ngài; Ngài thấy tấm lòng của một bà goá dâng hai xu trong thùng tiền đền thờ; Ngài thấy cõi lòng tan nát của người phụ nữ ngoại tình bị lôi đến sân đền thờ để chịu xét xử v.v.
Anh chàng Bartimê trong bài Tin Mừng hôm nay tuy mù nhưng cũng có thị lực tốt vì anh đã thấy được Ðức Giêsu là Ðấng Messia "Con Vua Ðavít".
Không phải chúng ta có đôi mắt tốt thì đương nhiên chúng ta có thị lực tốt đâu. Vậy chúng ta hãy xin với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy xin cho con được thấy".
3. Ðứng trước một người tàn tật
Ðoạn Tin Mừng của Thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ:
1. Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh... Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.
Ðứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó "1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi"; những kẻ có lòng hơn thì không nở chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy đi. Người ta đem bà ra toà vì tội giết con. Nhưng toà án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu.
Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khoẻ xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khoẻ, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được trong xã hội. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Ðó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: "Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan". Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay "Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dân dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt..."
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không bù đắp được mấy khiến loài người mơ tối một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng TC có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Ðó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
* 4. Tâm sự của một người mù
Helen Keller bị mù và điếc từ lúc mới 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau: Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì. Cô bạn đáp: "Chẳng có gì đặc biệt cả". Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ "Không thể nào như thế được". Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và sự mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó. Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, người mù ăn xin đã cảm nghiệm tất cả mỗi khốn cùng của mình, nên khi gặp Ðức Giêsu, anh đã van nài Chúa thương xót. Chúng ta hãy van nài xin Chúa thương xót chúng ta:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn trở thành ánh sáng đem lại hy vọng / cho những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc và thất vọng.
2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết lo lắng cho những người mù lòa bệnh tật / để giúp họ được chữa lành / hoặc được sống trong niềm vui và hạnh phúc.
3. Xin cho những người bị đui mù cả phần xác lẫn phần hồn / được có dịp gặp gỡ Ðức Giêsu / và được Ðức Giêsu thương chữa lành.
4. Xin cho anh chị em giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn ý thức rằng / bệnh đui mù phần hồn còn tai hại hơn đui mù phần xác / để luôn nài xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi căn bệnh tai hại ấy.
Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn yếu kém và nhiều khi còn mù quáng, chúng con nài xin Chúa thương ban thêm đức tin, để chúng con trở nên đèn sáng dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðc Kitô...
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
-------------------------------
Gr.31, 7-9; Dt.5, 1-6; Mc.10, 46-52
Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ
Anh mù ăn xin, con ông Timê, hôm nay được chữa lành. Khi được Đức Giêsu gọi, anh ta vui mừng đã vứt tung cả áo choàng để có thể mau đến với Đức Giêsu. Nhờ đức tin soi dẫn, anh ta đã được sáng.
1. Thiên Chúa- Đấng thương xót con người
Vào thế kỷ VI trước công nguyên, khi dân Do Thái đang lưu đày, Giêrêmia đã nói với tư cách ngôn sứ: Thiên Chúa sẽ đem dân Israel lưu đày trở về. Thiên Chúa sẽ cứu dân Người, sống sót của Israel; ngay cả những người què và đui mù, phụ nữ với trẻ thơ, từng đoàn từng lũ kéo nhau về. Thiên Chúa sẽ an ủi dân Người khi Người đem họ về. Thiên Chúa sẽ dẫn họ tới suối nước, đi trên đường bằng phẳng kẻo họ bị vấp ngã, vì Thiên Chúa là cha của Israel.
Vì tội lỗi của dân, Thiên Chúa để dân Do Thái phải lưu đầy nơi đất khách quê người; và vì lòng nhân từ, Thiên Chúa đưa dân Israel trở về. Đây là những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái trước mắt mọi dân tộc. Khi một dân bị lưu đầy giữa một dân tộc khác, họ sẽ bị kỳ thị, khinh bỉ, hà hiếp, và cảm thấy nhục nhã. Dân Do Thái đã một thời sống nơi đất khách quê người hơn bốn trăm năm, từ thời ông Giacóp và mãi đến thời Thiên Chúa dùng Môsê giải phóng dân Chúa khỏi Aicập và đưa về Đất Hứa. Lần này khi bị lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua người ngoại Kyrô đem dân Ngài trở về quê hương xứ sở. Được trở về quê hương, cũng tương tự như được giải phóng khỏi ách nô lệ, dân Chúa vui mừng dường bao!
Thiên Chúa là Đấng thương xót dân Ngài. Ngài rung động trước nỗi khổ của dân, và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết Ngài là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, quan tâm đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Thiên Chúa rất gần con người, Ngài luôn ở bên con người để có thể nghe được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là người bạn, người anh, người cha và người mẹ đối với con người.
2. Gọi anh ta lại đây
Đức Giêsu trong cuộc đời đi rao giảng, Ngài cũng rung động trước nỗi khổ của con người. Với người nghèo đói, Ngài cho họ cơm bánh; với những người bệnh tật như người mù, người bại liệt, người phong cùi, người điếc lác, Ngài chữa lành họ. Ngài đã trải qua kiếp nghèo nên Ngài dễ thông cảm với người nghèo; Ngài đã khổ nên Ngài dễ thông cảm với những ai đau khổ; Ngài được sinh ra trong hoàn cảnh cùng khổ nhất, nên có thể thông cảm với tất cả mọi người.
Người mù con ông Timê nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua, anh ta kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta quát mắng bảo anh im đi, nhưng anh ta lại càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu của người đau khổ, người cùng khốn, không biết nại vào điều gì để xin người khác ban ơn cho mình, chỉ còn biết nại vào lòng thương xót của người khác. Anh ta không có lý do gì để xin điều mình muốn xin, chỉ nhờ hoàn toàn vào lòng thương của người khác. Đức Giêsu là người cảm thương anh hơn cả; người khác quát mắng đòi anh im lặng nhưng Đức Giêsu thì khác. Người khác có thể không tin, nên đòi anh im lặng; còn anh, anh hy vọng, anh tin, nên anh càng la to hơn. Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi. Đức Giêsu dừng lại. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu cứu, kêu xin Ngài cứu. Ngài không thể bước đi vì tiếng kêu xin này! “Gọi anh ta tới đây”. Anh ta mừng, nhẩy lên, vứt cả áo choàng. Hy vọng tràn trề: Ngài đã cho gọi anh, Ngài đã nghe tiếng anh, đã quan tâm tới anh. “Anh muốn ta làm gì cho anh? Lạy thầy, xin cho tôi được sáng”. Một câu quá ngắn, nhưng lại quá khó khăn đối với con người! “Lòng tin của anh đã cứu anh”.
Đức Giêsu là đại diện Thiên Chúa đối với con người. Ngài sống giữa con người như những người nghèo hèn nhất, cùng khốn nhất; Ngài có thể nghe tiếng kêu cứu của con người. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nghe tiếng dân Israel kêu cứu khi phải sống lầm than ở Aicập, Ngài đã sai Môsê đi cứu họ; ngày nay, Thiên Chúa cũng luôn nghe tiếng kêu cứu của con người. Thiên Chúa cũng sai bao người đại diện Ngài thương cứu con người hôm nay. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho tha nhân.
3. Đức Giêsu- Vị thượng tế cảm thông nỗi khổ đau của con người
Một người không thể là thượng tế theo ý mình muốn, nhưng là một ân huệ được Thiên Chúa trao tặng. Đó là một ơn gọi. Vị thượng tế cũng là một người như bao người khác, cũng yếu đuối và lỗi lầm, nên phải dâng lễ tạ tội cho dân và cho chính mình. Vị thượng tế là người thông cảm với người khác, vì chính ngài cũng cảm thấy mình mong manh mỏng dòn như người khác vậy. Vị thượng tế được chọn giữa bao người, để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Tác giả thư Do Thái nhận ra Đức Giêsu Kitô là vị thượng tế; vị thượng tế này không phạm tội cho dù Ngài chia sẻ hoàn toàn thân phận con người. Vị thượng tế này rất gần con người cho dù Ngài không phạm tội, vì Ngài cũng chia sẻ tất cả những gì là con người. Ngài không là tội nhân vì phạm tội không thuộc về bản chất con người. Thiên Chúa không tạo dựng con người để con người phạm tội, nhưng tạo dựng con người để con người nên giống Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô là biểu lộ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu thương cảm con người, tức là, Thiên Chúa thương cảm con người. Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với con người: Thiên Chúa hiện diện với con người trong mọi nỗi gian khổ và thăng trầm của họ trong cuộc sống, Ngài đói với người đói, khát với người khát; Ngài đau với người đau, khổ với người khổ. Ngài muốn con người nhận ra rằng: Thiên Chúa yêu con người, và Thiên Chúa muốn con người ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương. Ai sống yêu thương là con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương anh em là yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa thương cứu con người nhờ Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Với bạn, từ ngữ nào diễn tả Thiên Chúa cách tuyệt nhất?
Bạn thích Đức Giêsu ở điểm nào nhất?
Bạn ao ước Thiên Chúa làm gì cho bạn?
Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ
-------------------------------
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay nêu bật một chủ đề duy nhất: tấm lòng của Thiên Chúa đối với sự khốn cùng của nhân loại.
Gr 31: 7-9
Bài đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa; khi đã quyết định dẫn đưa những người lưu đày trở về quê cha đất tổ, Ngài bày tỏ tình phụ tử đối với họ.
Dt 5: 1-6
Thư gởi tín hữu Do thái phác họa chân dung vị Thượng Tế Tân Ước biết cảm thương qua dung mạo của vị thượng tế Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế thập toàn vì Ngài là Con Thiên Chúa.
Mc 10: 46-52
Thánh Mác-cô tường thuật việc anh mù thành Giê-ri-cô được nhìn thấy. Đức Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu đầy lòng tin của anh và đã đáp trả ước nguyện của anh.
BÀI ĐỌC I Gr 31: 7-9
Bản văn nầy được trích từ chương 31 tác phẩm của ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Chương 31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ đã viết để ca ngợi tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa.
1. Bối cảnh:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thực thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon, nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh hoang tàn đổ nát của thành thánh và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng loan báo, nhưng đã không thuyết phục được đồng bào của ông.
Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 BC.); chính từ thời kỳ nầy mà bản văn đầy hân hoan nầy được viết; cốt yếu liên quan đến những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Những miền này vào thế kỷ trước đó đã bị đế quốc Át-sua chiếm đóng; một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc Át-sua trở nên suy yếu và bị đe dọa. Nhờ thế, vua Giô-si-gia-hu mới có thể trải rộng quyền hành của mình trên toàn cõi đất nước.
2. Giấc mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, vì ít ra một sấm ngôn về giấc mơ được miêu tả ở 30 và 31: 1-22. Tấm lòng nhạy cảm của Giê-rê-mi-a cùng chung nhịp với tấm lòng của Thiên Chúa; vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11); chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a tưởng tượng Đức Chúa kêu mời muôn dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!”. “Đứng đầu chư dân” vì dân này đã được Thiên Chúa tách riêng ra giữa chư dân và được Ngài rất mực yêu thương.
“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn lại của Ít-ra-en”.
“Số còn lại của Ít-ra-en” nhắm đặc biệt hơn đến những người đã chịu sự thử thách của cuộc lưu đày; số còn lại nầy sẽ như một chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn. Cũng danh xưng nầy sẽ được ban cho những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ theo sau.
3. Ngày trở về:
“Nầy Ta đưa chúng từ đất Bắc trở về”: đây là cách nói kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”. Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. “Ép-ra-im chính là con trưởng”: tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các chi tộc phương Bắc và “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.
Giấc mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện. Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua; cảnh đời nô dịch nầy thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh của vị ngôn sứ chỉ được ứng nghiệm vào thời kỳ lưu đày Ba-by-lon sáu mươi năm sau: Chính cho những người lưu đày Ba-by-lon nầy mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị sẽ lấy lại và khai triển những chủ đề của vị tiền nhiệm mình.
Tuy nhiên, ngôn sứ Giê-rê-mi-a, trong trực giác sâu xa của mình, đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tình phụ tử của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa đau khổ, vị ngôn sứ đã cho giấc mơ của mình một tầm mức mà chính ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.
BÀI ĐỌC II Dt 5: 1-6
Trọng tâm của thư gởi các tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức Ki tô được xem như một vị Thượng Tế thập toàn và vô cùng siêu vượt trên vị thượng tế Cựu Ước.
Hai khía cạnh cốt yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm; mặt khác, ông là người của Thiên Chúa, vai trò của ông là vai trò trung gian giữa con người và Thiên Chúa.
Dưới ánh sáng của sự đòi hỏi kép nầy, tác giả thiết lập một sự đối chiếu giữa chức tư tế của vị thượng tế Cựu Ước và chức tư tế của Đức Ki tô, ở nơi sứ vụ đầy lòng xót thương đối với con người yếu đuối và tội lỗi.
1. Vị thượng tế Cựu Ước biết cảm thương:
Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế: là một con người, ông chia sẻ những yếu đuối của con người; ông lại càng cảm thương hơn nữa đối với những tội lỗi của họ mà chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”.
Nhưng không ai có thể tự phong cho mình quyền là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức tư tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền con nối. Thiên Chúa đã gọi ông A-ha-ron một lần cho tất cả, hàm chứa ở đây hậu duệ của ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).
2. Đức Ki tô, vị Thượng Tế Tân Ước:
Tác giả sẽ đối lập vị thượng tế biết cảm thương của Cựu Ước với Đức Ki tô, vị thượng tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Giê-su, lễ tấn phong mặc hai khía cạnh:
Đức Ki tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa.
Đức Ki tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki tô là vị Thượng Tế biết cảm thương tuyệt vời vì Ngài là vị Trung Gian trực tiếp của lòng xót thương Thiên Chúa; chức tư tế độc nhất vô nhị của Ngài diển tả một chuyển động từ trên xuống: chuyển động của Tình Phụ Tử Thiên Chúa đối với con người.
Quả thật, chính sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận được lễ tấn phong của mình: Tv 2 được trích dẫn để làm bằng chứng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một Thánh Vịnh phong vương. Vào ngày phong vương, thời quân chủ Đa-vít, vị tân vương được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng, tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki tô là đích thực; tước hiệu nầy hàm chứa cuộc Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng cũng là tính cách vương đế của chức tư tế Đức Giê-su. Đức Ki tô vừa là vua vừa là tư tế, như vậy làm trọn giấc mơ Mê-si-a tuyệt vời.
3. Vị Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê:
Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi; Ngài không thể tự nhận mình là tư tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (xem ra thành Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”; ông đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, ông tiến dâng bánh và rượu lên Thiên Chúa; còn ông Áp-ra-ham biếu con người của Thiên Chúa nầy một phần mười chiến lợi phẩm của mình.
Truyền thống đối lập chức tư tế A-ha-ron với chức tư tế Men-ki-xê-đê với, một chức tư tế không giới hạn, không lai lịch, chức tư tế muôn đời, thuộc nguồn gốc từ trời. Chính ở nơi khuôn mẫu của chức tư tế Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men Ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này cũng là một Thánh Vịnh phong vương và phóng chiếu dung mạo của vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy có một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức Ki tô. Đức Ki tô là vị Thượng Tế biết cảm thương, Ngài thực thi chức năng trung gian của Ngài muôn đời bên cạnh Chúa Cha.
TIN MỪNG Mc 10: 46-52
Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
1. Bối cảnh:
Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ về thành thánh Giê-ru-sa-lem, bằng qua thành Giê-ri-cô. Giê-ri-cô là một trong những thành phố cổ xưa nhất miền Pha-lệ-tinh; những cuộc khai quật cho thấy nhiều di tích tường thành niên biểu lên đến thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên. Đây cũng là một trong những ốc đảo xanh tươi nhất ở dưới chân của những ngọn đồi khô cằn sa mạc Giu-đê. Vua Hê-rô-đê và triều thần của ông đã xây dựng nơi nghĩ đông ở đây.
Chính ở thành Giê-ri-cô nầy mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ Pê-rê và miền Thập Tỉnh quy tụ lại trước khi lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số. Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua; nếu đám đông quy tụ đông đúc chung quanh họ, như thánh ký ghi nhận, chính thật ra vì ngày đại lễ nầy sắp đến: thành Giê-ri-cô đông đúc các khách hành hương rồi.
Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca nói khi Đức Giê-su ra khỏi thành Giê-ri-cô, còn thánh Lu-ca nói khi Đức Giê-su đến gần thành Giê-ri-cô, có một người mù “đang ngồi ăn xin bên vệ đường”.
2. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô: Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được mô tả một cách sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang hoạt động nhộn nhịp chung quanh anh. Tuy nhiên, anh không cam chịu hoàn cảnh bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng mà biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây, vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã chữa lành nhiều người mù. Vì thế, anh kêu gào hết sức mình, và bạo dạn gọi Đức Giê-su “Con vua Đa-vít”, tước hiệu của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt bảo anh im đi. Không thể loại trừ những yếu tố thù nghịch trà trộn trong đám đông, có thể có vài người Biệt Phái lắm chứ, họ không thể chịu nỗi bất cứ ai áp dụng tước hiệu “Con Thiên Chúa” nầy cho Đức Giê-su. Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu to hơn nữa át cả những lời quát tháo ngăm đe bảo anh im đi.
Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà không ngăn cản anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải thích sai lạc về vai trò Mê-si-a của Ngài. Bây giờ Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức tước hiệu Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.
3. Đức tin của anh mù thành Giê-ri-cô:
Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy niềm tin vào Ngài của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và nói: “Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức khắc thay đổi thái độ và còn khuyến khích anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
Như thử mình đã được nhìn thấy rồi vậy, “anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su”. Trong Kinh Thánh, y phục tượng trưng cho nhân cách người mặc nó. “Vất áo choàng” chính là vất thân phận bị khai trừ của mình. “Áo choàng” còn là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26). Khi vất áo choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su, lời đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên giàu có. “Đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì đúng là thái độ của đức tin.
Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn luôn trọng tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Rabbouni, xin cho tôi nhìn thấy được”. Thánh Mác-cô đã gìn giữ từ A-ram nầy. Khi ngỏ lời với thầy mình, các môn đệ Do thái thường gọi đơn giản: “Rabbi” (“Thưa Thầy”). Còn ở đây, từ “Rabbouni” mang một sắc thái đầy kính trọng và thân ái hơn, nghĩa là “Thưa Tôn Sư của tôi” hay “Thưa Ngài của tôi”.
4. Anh mù đón nhận nhiều hơn anh ước mong:
Anh mù được nhìn thấy ngay tức khắc do lời của Đức Giê-su: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mang lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi” hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh được ơn cứu độ mà Ngài đem đến nữa.
Anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng: “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Rõ ràng đây là dáng dấp của người môn đệ của Đức Giê-su. Động từ “đi theo” diễn tả lời đáp trả của anh trước động từ “gọi” ở nơi môi miệng của Chúa Giê-su: “Gọi anh ta lại đây!” và ở nơi lời công bố của đám đông: “Người gọi anh đấy!”. Đức Giê-su đã gọi anh mù ăn xin thành Giê-ri-cô, như Ngài đã gọi các môn đệ khác, “họ đã đi theo Ngài” (1: 18; 2: 14). Xem ra anh mù Ba-ti-mê đã trở thành môn đệ của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh đã vẫn lưu lại trong ký ức của các Ki tô hữu tiên khởi.
hư vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng về đức tin đầy tâm huyết và kiên vững trái ngược với thái độ không hiểu và cứng tin của các Tông Đồ; câu chuyện nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Một lần nữa, chúng ta thấy nghệ thuật kể chuyện của Mác-cô đã đạt đến độ hoàn hảo. Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú nhất.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
-------------------------------
TN 30-B59. XIN CHO CON ĐƯỢC SÁNG
Mc 10, 46-52
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Rất nhiều người may mắn không bị mù loà, nhưng hầu như ai cũng có lúc bị mù quáng. Người mù quáng có thể thấy rõ những sai phạm của người khác nhưng mù tối về những lầm lỗi của mình, nên thiên hạ bảo: “việc người thì sáng, việc mình thì quáng."
Một điển hình của tình trạng mù quáng được Kinh Thánh ghi lại như sau: Đa-vít là vị vua khôn ngoan, dũng cảm và đức độ; thế nhưng nhà vua cũng có lúc bị mù quáng nghiêm trọng. Dù đã có nhiều thê thiếp nhưng vua lại mê đắm bà Bát-sa-bê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết Uria ngoài mặt trận, để rồi chính thức cưới lấy bà Bát-sa-bê làm vợ.
Thế là cùng một lúc vua đã phạm hai tội ác tầy đình: tội ngoại tình và tội giết người. Ấy thế mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ra.
Sau đó, Thiên Chúa sai ngôn sứ Na-tan đến cảnh tỉnh nhà vua. Vị ngôn sứ tâu vua rằng: Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà.
Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình thiết tiệc; trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.
Nghe đến đây, vua Đa-vít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: "Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại mà nó đã gây ra."
Bấy giờ ngôn sứ Na-tan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua: vua đã có nhiều vợ con, thê thiếp lại đang tâm sát hại Uria và cướp lấy vợ ông ta!
Bấy giờ vua Đa-vít mới bừng sáng mắt, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11, 1-12,12)
Tuy bị mù loà là một thua thiệt lớn, nhưng không đáng sợ bằng mù quáng, vì người mù loà chẳng làm hại ai; còn người mù quáng có thể gây ra vô vàn điều tai hại cho mình và cho xã hội. Mặt khác, người mù quáng ít khi tự biết là mình mù quáng, vì thế việc chữa trị lại càng khó khăn hơn.
Đã mang lấy phận người, mấy ai không bị mù quáng? Nhưng điều quan trọng là mỗi người có nhận ra tình trạng mù quáng của mình và khao khát được Chúa Giê-su cứu chữa hay không?
Người mù trong Tin Mừng hôm nay (Mc 10, 46-52) có lòng khao khát thoát cảnh mù loà cách mãnh liệt. Khi nghe biết có Chúa Giê-su đi ngang qua, anh liền cất tiếng kêu to: "Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi." Dù người qua kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được ngọn lửa khao khát bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng la to hơn: "Lạy ông Giê-su, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!”
Thế rồi, khi được biết Chúa Giê-su cho vời mình đến, anh vui mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị gậy để đến với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mau mắn thưa ngay: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy."
Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh thấy được Đức Giê-su, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu.
Muốn được chữa lành bệnh mù quáng, chúng ta phải có lòng khao khát mãnh liệt được sáng như anh mù Bartimê. Lòng khao khát đó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Đức Giê-su là Ánh Sáng đích thật và Ánh Sáng của Người sẽ xoá tan sự mù quáng đang vây phủ lòng trí chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ thoát khỏi nhiều sai lầm tai hại.
Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng thế gian,
Người mù quáng sinh hoạt giữa đời cũng giống như tài xế chạy xe giữa đêm đen mà không có đèn chiếu sáng, chắc chắn sẽ gặp phải nhiều nguy hại xảy đến bất ngờ. Nguyện xin ánh sáng của Chúa soi dẫn cho chúng con thấy được nẻo chính đường ngay.
Hôm xưa Chúa đã từng mở mắt cho những kẻ mù loà được xem thấy thì nay xin Chúa xót thương giải thoát chúng con khỏi tình trạng mù quáng khiến chúng con sống trong mê muội, sai lầm. 30
Lm. Ignatiô Trần Ngà
-------------------------------
Mc 10, 46-52
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem để chịu đau khổ, chịu chết và phục sinh như ý định của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu lần này dừng lại ở thành Giê-ri-khô,lúc Ngài ra khỏi thành cùng với các môn đệ, có đông dân chúng đi theo Ngài, họ đang sống tâm trạng lo âu vì những biến cố họ mong manh nghe sẽ xẩy ra tại Giê-ru-sa-lem. Trong khi ấy, bên vệ đường chỗ Chúa Giêsu sắp đi ngang qua, có một người mù tên là Bác-ti-mê có lẽ anh ta đã chờ Chúa Giêsu từ lâu, anh sợ bỏ lỡ cơ hội, nên anh ta đã la to lên, cốt ý cho Chúa Giêsu nghe thấy: ” Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi “( Mc 10, 47 ). Lời van lơn của anh mù càng lúc càng to, càng lúc càng tha thiết hơn như dân Israen trong cơn lầm than cơ cực đã kêu gào khẩn thiết xin Thiên Chúa đến viếng thăm và cứu thoát họ như sách ngôn sứ Giêrêmia đã đề cập tới.
Bactimê, anh mù từ thuở mới sinh đã bất chấp tất cả những ngăn cản, những lời đe dọa của nhiều người, anh đã chồm dậy như một con bần bật, như một chiếc lò xo và chỉ cần một lời truyền của Chúa Giêsu, anh đã chồm tới thật nhanh, bỏ lại chiếc áo choàng và chung quanh chỉ là màn đêm dày đặc.Anh đã tiến tới với Chúa Giêsu. Lạ lùng, kỳ diệu thay. Lời gọi mời của Chúa Giêsu khiến anh trở nên mạnh mẽ vô song, anh đã biến đổi hoàn toàn. Nếu chịu khó suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy trước đó, anh vẫn ù lì, bất di bất dịch, anh chỉ ngồi một chỗ tại một nơi nào đó để ăn xin, nhờ của bố thí thì bây giờ anh mù đã đứng lên, hiên ngang và hạnh phúc đón nhận điều anh hằng mơ ước là được thấy, được sáng mắt. Thái độ hân hoan, phấn khởi của anh mù khi được thấy cũng tựa như thái độ vui sướng của dân Israen khi được Thiên Chúa giải thoát họ, qui tụ họ và dẫn đưa họ về đất hứa.
Báctimê đã có một lòng tin sâu xa, lòng tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh tin, Chúa có thể làm cho anh sáng mắt. Chính lòng tin của anh đã cứu anh. Anh đã được Chúa Giêsu mở mắt và anh đã được Chúa cứu độ, anh đã nhận được hồng ân cao vời của Chúa là làm cho anh nhận ra ánh sáng và anh nhìn thấy tất cả. Niềm vui và hạnh phúc anh có được đến nỗi khi anh đã thấy ánh sáng, anh đã hòa nhập với đám đông theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và tung hô “ Đấng nhân danh Chúa mà đến “. Hạnh phúc là anh Báctimê đã nhận được ơn cứu độ, nhận ra tình thương tuyệt vời của Chúa như dân Israen đã được Chúa cứu thoát khỏi tội lỗi đang bao trùm trên họ.
Sống ở đời: đau khổ, bệnh hoạn, tật nguyền luôn rình mò, bủa vây con người. Những đau khổ ấy dễ làm cho con người mù lòa, nổi loạn và mất hướng đi ? Làm sao để trong những cơn thử thách cùng tột ấy con người vẫn luôn vững một niềm tin. Gương của ông Gióp và biết bao vị thánh đã giúp chúng ta tìm lại phương hướng và niềm tin. Giữa những cơn thử thách đức tin vẫn là điều quan trọng nhất để chúng ta tiến bước.
Người môn đệ Chúa luôn nhìn lên Chúa vị Chúa của tình thương. Chính Chúa cũng đã phải đương đầu với những đau khổ, với sự chết, Ngài đã có lúc thưa với Chúa Cha:” Lạy Cha, nếu có thể thì xin cất khỏi con chén đắng này nhưng không phải là theo ý con mà luôn theo ý Cha “. Chúa đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thấy. Vâng, chỉ trong ánh sáng của Chúa, chúng con mới nhìn thấy ánh sáng. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,CSsR
-------------------------------
Lm. An Phong Trần Đức Phương
Đọc lịch sử dân tộc Do Thái, chúng ta thấy nhiều lần nước Do Thái đã bị ngoại bang xâm chiếm và mọi người bị bắt đi lưu đầy hàng thế kỷ. Nhưng, trong mọi lúc, từ thế hệ này đến thế hệ kia, họ luôn nhớ thương về quê cha đất tổ của họ, và mong đợi một ngày trở về (Thánh Vịnh 136). Trong những ngày bị lưu đầy làm nô lệ, họ đã nhận ra và ăn năn sám hối lỗi lầm, và Chúa lại thương xếp đặt những biến cố lịch sử lạ lùng, để đưa họ trở về cố hương, và lúc ấy họ rất vui mừng ca tụng lòng từ bi của Chúa như trong Thánh Vịnh 125.
Trong Thánh Lễ An Táng người mới qua đời, chúng ta thường nghe ca đoàn hát bài “Ngày Về” (Kim Long): “Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ…” Đó là những lời lấy trong Thánh Vịnh 125, để nhắc nhở và đem lại sự an ủi, lòng cậy trông cho tang gia, và cũng để nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng người quá cố đã qua được cuộc đời lưu đày trần gian này để trở về quê hương thật là quê hương Nước Trời (Sinh ký, tử quy).
Trong Thánh Lễ Chúa Nhật này, bài Đáp Ca cũng trích trong Thánh Vịnh 125 để ca tụng lòng Chúa thương xót đã tha thứ tội lỗi, và đưa Dân Chúa trở về từ nơi lưu đày; từ tình trạng tội lỗi, được trở về làm con cái của Chúa.
Bài Đọc I (Gieremia 31: 7-9) cũng diễn tả niềm vui giải thoát đó, và ca tụng tình thương của Chúa là người Cha giàu lòng thương xót, tha thứ tội khiên, và luôn ở với Dân Chúa trên mọi nẻo đường, giải thóat họ khỏi cảnh lưu đày để trở về làm con cái trong gia đình của Chúa.
Tình thương xót vô biên của Chúa đã sai “chính Con Một của Ngài đến trần gian để rao giảng Tin Mừng tình thương và ơn cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu khi xuống thế gian làm người, đã sống giữa những con người tội lỗi và khổ đau. Nhưng, với lòng thương xót vô biên, Ngài đã kêu gọi mọi người đến với Ngài để tha thứ tội lỗi và chữa lành cho họ. Sau cùng, Ngài đã chấp nhận cái chết đớn đau trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại chúng ta.
Qua các thế hệ, Thiên Chúa cũng chọn một số người “vào chức vụ Tư tế để dâng lễ hy sinh thờ phượng Chúa, đền tội cho chính mình và cho toàn dân…” Các vị thay mặt Chúa để ban ơn Thanh Tẩy và tha thứ tội lỗi cho những ai tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài mà ăn năn trở về. “Noi gương Chúa, các vị cũng phải thông cảm, thương xót và nâng đỡ những người sa ngã vì yếu đuối con người”. (Bài Đọc II: Thư gởi dân Do Thái 5: 1-6).
Để được hưởng lòng thương xót Chúa, chúng ta cần có lòng tin và trông cậy vững vàng vào tình thương xót của Ngài, dù gặp nhiều khó khăn thử thách. Người mù thành Giericô, dù nhiều người la mắng anh, bảo anh im đi, nhưng anh càng kêu lớn tiếng hơn: “Hỡi Ông Giêsu, xin thương xót tôi!” Khi nghe nói “Người gọi anh đấy!” “Ngay lập tức, anh cởi áo choàng, đứng dậy và đi vội về phiá Chúa Giêsu…” Chúa Giêsu đã chữa anh khỏi mù và nói: “Đức Tin của con đã chữa con!” (Phúc Âm theo Thánh Matcô: 10: 46-32).
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để mỗi người chúng ta luôn có lòng tin tuyệt đối vào tình thương xót của Chúa, dù chúng ta đã xa lạc Chúa nhiều năm tháng, dù chúng ta đã sa ngã tội lỗi đến đâu, miễn là chúng ta quyết tâm “đứng dậy” và cầu xin Chúa thương cứu chữa như người mù thành Giêricô hôm nay.
Trong “Năm Thánh Linh Mục”, chúng ta hãy tiếp tục hy sinh hãm mình và cầu nguyện cho các Chủ Chăn, các Linh Mục luôn biết noi gương lòng thương xót Chúa, biết xót thương và nâng đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, đau khổ, những người sa ngã vì yếu đuối, vì “chính các vị cũng là những con người phàm mang đầy những yếu đuối con người… Các vị phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy!” (Bài Đọc II, Thư gởi dân Do Thái 5: 1-3).
Lm. An Phong Trần Đức Phương
-------------------------------
Mc. 10, 46 – 52
Lm JB Phan Kế Sự
Mù lòa là một trong những căn bệnh thể lý nơi con người. Nó làm cho người mù cảm thấy bất hạnh. Nhưng bên cạnh đó còn có một thứ mù lòa đáng trách hơn là cái mù của tinh thần (hay tâm hồn).
Mù thể lý:
Nhiều người khi sinh ra đã mang trong mình căn bệnh mù lòa. Thật tội nghiệp cho họ, vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, không được nhìn thấy những người thân và ngay cả cha mẹ.
Cũng có những người bị mù vì lý do này hay lý do khác v.v... và họ cảm thấy bất hạnh. Bất hạnh vì họ không còn khả năng đi lại, bất hạnh vì họ không còn khả năng nhìn hoặc đọc được chữ để phân tích, để hiểu, để học, để sống v.v… và rồi còn biết bao điều bất hạnh khác nữa mà họ phải gánh chịu. Chẳng hạn như họ không còn tự mình lo cho mình được nữa mà phải cần đến sự giúp đỡ của người khác… họ là những con người thật đáng thương! và có lẽ điều mơ ước lớn nhất trong cuộc đời của họ là được nhìn thấy, như trường hợp của anh mù Batimê trong bài tin mừng hôm nay. Anh đã kêu lớn tiếng khi thấy Chúa Giêsu đến gần: “Xin cho tôi được thấy.” và Chúa Giêsu đã chữa cho anh khỏi mù.
Mù tinh thần (hay tâm hôn):
Trái với cái mù của thể lý là cái mù của tinh thần hay cái mù của tâm hồn. Rất nhiều người trong chúng ta có đầy đủ tứ chi, với đôi mắt sáng… có khả năng đi lại, làm được nhiều công việc khác nhau v.v… Thế nhưng, con mắt tâm hồn lại không nhìn thấy được nỗi thống khổ của anh em. Hằng ngày, khi đi đến công sở làm việc, khi đi trên đường phố, khi đi dạo chơi, khi đi nhà thờ… chúng ta thấy có rất nhiều người đang cần sự giúp đỡ. Như những người hành khất, những người tàn tật, những người đau yếu, những người cô thân cố thế v.v… Thế nhưng, họ có kêu gào to mấy đi chăng nữa thì cũng uổng công, bởi có mấy ai nghe được tiếng kêu xin ấy và đáp lại tiếng kêu đó.
Có lẽ, để nghe được tiếng kêu van, riên xiết của những người anh em đau khổ thì cần phải có một tâm hồn nhạy bén, một trái tim của tình yêu, một tấm lòng của cảm thông và chia sẻ. Quả thật, Chúa Giêsu, Ngài đã chạnh lòng thương khi nghe thấy người mù Batimê kêu xin Ngài cứu giúp và Ngài đã làm cho anh ta được trở nên sáng mắt và được hưởng cái quyền “Tự do” như bao nhiêu người khác. Còn chúng ta hôm nay thì sao ? liệu chúng ta cũng cư xử với mọi người như Chúa Giêsu đã làm cho anh mù batimê không ? hay là chúng ta hắt hủi, khinh rẻ, cho họ là bị phạt vì ăn ở không tốt, bất công chăng v.v… và thậm chí có khi còn cho họ là những người ăn bám và làm khổ xã hội, và là gánh nặng cho họ. v.v… Có trách là trách thái độ sống của chúng ta mới phải. Quả thật, điều tệ hại nhất là ngày nay lương tâm của con người không còn nhạy cảm trước những nhu cầu cấp thiết của anh em và thậm chí người ta còn dung túng cho lương tâm làm những điều sai trái, ngược đời. Và cũng chính điều này mà nhiều lần Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã lên tiếng cảnh tỉnh con người. Đứng trước cái thời đại đầy biến động và xáo trộn, mỗi người chúng ta, đặc biệt là những người kytô hữu hãy nhìn lại cách sống của mình bằng việc lắng nghe, học hỏi giáo lý và nhất là biết sống cái tinh thần yêu thương cụ thể trong cuộc sống của mình, cho dù hòan cảnh đổi thay thế nào đi chăng nữa, nhưng chúng ta vẫn luôn trung thành và giữ vững niềm tin của mình, để làm sao khi chúng ta sống mà không bị mang tiếng là người “có mắt mà không có tròng.”
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, đứng trước nỗi khổ của người mù Batimê Chúa đã không làm ngơ và bỏ qua, nhưng Chúa đã đem lại niềm hạnh phúc cho anh. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết rung cảm trước những khổ đau của người khác và biết chia sẻ và đem lại niềm vui và hạnh phúc cho họ bằng một tình yêu thương chân thành, cụ thể chứ đừng thơ ơ, lạnh nhạt, dửng dưng, hắt hủi, rồi bỏ đi mà không một lời an ủi. Amen.
Lm JB Phan Kế Sự
-------------------------------
Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô kể lại cho chúng ta việc chữa lành người mù thành Giêricô. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là con vua Đavít về phương diện con người, là Đấng mang lại ơn cứu độ nếu chúng ta tin tưởng đón nhận. Nhưng cần phải có đức tin tinh tuyền, can đảm giống như niềm tin của anh mù Bartimê.
Chúng ta cũng là những người mù, những người mù từ mới sinh. Biết bao chân lý căn bản, chúng ta đã không thấu hiểu và vì không hiểu biết những chân lý đó, chúng ta đã không tiến nhanh trên con đường sự sống đời đời. Nhưng Chúa Kitô vẫn hiện diện, sẵn sàng chữa lành con mắt chúng ta. Chúng ta hãy biết cầu cứu Ngài như người mù Giêricô: ”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”.
Sau khi đã được mở mắt tâm hồn để biết Chúa, chúng ta phải tin theo Ngài trên mọi nẻo đường của cuộc sống như anh mù đã làm, không dám ngăn cản người khác đến với Chúa bằng gương xấu, trái lại, phải xin Chúa làm cho “sáng mắt sáng lòng” để lôi kéo ngườ ta đến với Chúa bằng đời sống chứng nhân được thể hiện qua cuộc sống gương mẫu hằng ngày.
I. CHÚA CHỮA NGƯỜI MÙ Ở GIÊRICÔ
1. Bối cảnh.
Hiện nay trên thế giới có nhiều người mù. Trong những xứ nghèo phương Đông, người bị mù khá đông. Trước khi phát minh ra phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh Thánh, người mù là hình tượng của sự đói nghèo, của con người bị bỏ rơi.
Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và đám đông dân chúng ra khỏi thành Giêricô thì gặp một anh mù tên là Bartimê ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh này có một thính giác rất đặc biệt, anh ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nazareth. Anh kêu lớn tiếng: ”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta mắng anh, hãy im đi đừng quấy rầy. Nhưng anh càng la to hơn: ”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đức Giêsu cho gọi anh ta lại. Được tin, anh ta vứt bỏ áo choàng, nhảy chồm lên và đến với Chúa. Tuy biết anh ta muốn xin gì, nhưng Đức Giêsu cũng cứ hỏi: ”Con muốn ta làm gì cho con” ? Anh ta thưa ngay: ”Lạy Thầy, xin cho con thấy được”. Đức Giêsu nói tiếp: ”Cứ về đi, lòng tin của con đã chữa con”. Tức khắc anh ta nhìn thấy được và theo Ngài lên đường.
2. Cách chữa bệnh của Đức Giêsu
Đức Giêsu chữa bệnh lần này hơi khác thường. Marcô nói đến những sự việc chung quanh thì nhiều, làm cho phép lạ càng hoành tráng, còn việc chữa bệnh thì rất ít. Đức Giêsu chỉ dùng một câu và phán một lời thôi. Đang khi có lần khác, để chữa lành một người câm điếc (Mc 7,31-37), Ngài đã làm nhiều cử chỉ, không khác những lang y hoặc pháp sư thời bấy giờ. Ngài đem người có tật ra chỗ vắng, thọc ngón tay vào tai y, nhổ nước miếng và sờ vào lưỡi y, rồi ngước mắt, rên lên, thốt ra một lời lạ tai: Ephphata ! Ngay đến lần chữa người mù ở Betsaida (Mc 8,22-26), Ngài cũng đã dắt y ra ngoài làng, đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó, rồi đặt tay khoa trước mặt nó và hỏi: có thấy gì không ?... Hôm nay, Ngài không làm một cử chỉ nào như vậy. Ngài chỉ nói một câu: hãy đi, lòng tin của con đã chữa con. Và người mù đã được khỏi tức khắc.
Như vậy có nghĩa là hôm nay tác giả Marcô không muốn chú trọng nhiều đến chính phép lạ chữa lành một người mù. Ngài đặt câu truyện này trong một bối cảnh có ý nghĩa cứu độ của nó. Marcô muốn nói Bartimê là con người đại diện của con người thời Cựu ước cũng như thời nay đang mù lòa không thấy gì hết và chẳng biết đường đi. Y ngồi bên vệ đường, không theo được con đường cứu độ mà Thiên Chúa đang đi. Y chỉ biết giơ tay ăn xin, tức là nhân loại chỉ biết cầu cứu được thương xót. Bartimê, người mù Giêricô, chính là kẻ đang ngồi trong bóng tối cho dù chung quanh đều đang hưởng ánh sáng ban ngày. Đó cũng là kẻ đang lầm than khổ sở, bất động và bất di bất dịch. Bóng tối đang bao phủ kẻ ấy, đúng là bóng tối của tử thần.
3. Kết quả.
“Đức tin của con đã chữa con”. Qua lời nói vắn tắt của Đức Giêsu, anh mù được chữa lành. Đúng thực, Bartimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng con mắt đức tin vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Ngài là “Con vua Đavít”.
Bartimê đã mù đôi mắt thể xác nhưng lại sáng mắt tâm hồn. Anh thấy nhiều cái mà người sáng mắt không thấy: anh thấy Đức Giêsu là Con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Đức Giêsu đã thương anh, cho anh được sáng mắt.
II. CÂU CHUYỆN QUANH NGƯỜI MÙ
1. Tâm sự của một người mù
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì ? Cô bạn đáp: ”Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
2. Những đức tính của anh mù
* Có lòng tin vững vàng. Bartimê đã có lòng tin sắt đá. Như tất cả mọi người, Bartimê biết rằng Đức Giêsu là người thợ mộc thành Nazareth. Nhiều người vấp phải vấn đề này. Còn Bartimê biểu lộ công khai niềm tin của mình. Anh là người đầu tiên la lớn lên rằng Đức Giêsu Nazareth là con Vua Đavít, là Đấng Cứu Thế. Đã được soi sáng, người mù nói: ”Lạy Thầy”. Anh ta kêu xin với một niềm tin mạnh đến độ quyền năng của Đức Giêsu có thể biến đổi anh hoàn toàn.
* Nhiệt tình đến với Chúa. Nhiều người khi được nghe tiếng gọi của Đức Giêsu đã thật sự tự nhủ: ”Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Bartimê nghe tiếng gọi, anh lập tức đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xẩy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Bartimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một điều say quấy, muốn hiến thân cho Chúa trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta không chịu hành động ngay, rồi dịp may đó qua đi và chẳng bao giờ còn trở lại.
* Biết đúng nhu cầu của mình. Bartimê biết mình cần gì và tha thiết xin cho bằng được điều đang mong ước với sự khôn ngoan.: “Rabboni, Thưa Thầy, xin cho con nhìn thấy được”. Anh mù đã đáp lại câu hỏi của Chúa, cũng là câu mà Chúa đã hỏi hai người con ông Giêbêđê: ”Con muốn Ta làm gì cho con” ? Đàng sau khát vọng được nhìn thấy, Đức Giêsu đã nhận ra nơi anh đức tin, khát vọng được biết nhiều hơn về Đấng Messia, được nhìn thấy thực tại tối hậu ẩn sau dáng vẻ bên ngoài.
Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giêsu chỉ là một sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ giúp chiếc răng đang đau chứ không chữa bất kỳ một chiếc răng hư nào khác. Giữa chúng ta với Đức Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà ít người muốn đối diện tự xét mình. Khi đến với Đức Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Bartimê, sẽ có chuyện lạ xẩy ra.
* Thể hiện lòng biết ơn. Bartimê chỉ là người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Đức Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo con đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng.
Nếu không có lòng biết ơn khi Bartimê được chữa khỏi, anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt thành của Đức Giêsu. Anh đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Bartimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Giêsu đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Bartimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
III. XIN CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT SÁNG LÒNG
1. Muốn thấy Chúa phải có đức tin
Marcô không muốn chỉ tường thuật một phép lạ mà còn muốn đi xa hơn nữa, muốn ám chỉ việc Chúa đến để thắp sáng đời anh mù bằng nhân đức tin. Vì thế Ngài phán: ”Đức tin của con đã chữa con”. Muốn thấy Chúa, cần phải có nhân đức tin. Đức tin mở mắt chúng ta để nhìn thấy Chúa. Có bao nhiêu người sáng mắt, nhưng mù tối linh hồn.
Trên con đường Damas, Saulê đi lùng bắt giáo hữu, Chúa hiện ra với Saulê. Ông ngã ngựa, đứng lên thì bị mù mắt cho đến khi vào thành Damas, chịu phép rửa tội. “Một cái gì, như những cái vảy bong ra và Phaolô được nhìn thấy”(Cv 9,18). Đức tin mở mắt tâm hồn. Vì thế, giáo hữu thời xưa, gọi phép rửa tội là “phép thắp sáng” (Illuminatio). Và từ đây, chúng ta nhìn thấy Đức Giêsu. Thánh Inhaxiô thành Antiochia nói: ”Với đức tin, tôi được thấy và sờ đụng Ngài”.
2. Tin phải như thế nào ?
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu chỉ làm phép lạ cho những người có lòng tin. Đối với những người không có lòng tin như luật sĩ, biệt phái, những người đồng hương Nazareth thì Ngài không làm phép lạ nào. Để ý nhận xét, trong các phép lạ, Đức Giêsu hay dùng công thức: ”Lòng tin của con đã chữa con”.
Chúng ta nên nhớ, tin không phải là trí khôn chấp nhận một chân lý. Tin còn là tình nguyện đi theo một người, người đó là Chúa. Tình nguyện theo như thế có một phần sáng sủa vì có những lẽ để mà tin, nhưng cũng có một phần mịt mù để việc tin đem lại công phúc. Vì thế kẻ tin thì làm vinh dự cho Chúa phần nào. Tin tức là lựa chọn đứng về phía Chúa. Việc lựa chọn đó là một việc do trí tuệ mà một trật do lòng mến: Scio cui credidi: tôi biết Đấng mà tôi giao phó niềm tin(Trần văn Khả).
3. Tin còn là nhiệt tình theo Chúa.
Khi được Đức Giêsu gọi đến, Bartimê đã vứt áo choàng, nhảy chồm lên mà đến với Ngài. Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chiếc “áo choàng” là biểu tượng cho quyền lực của con người (1Sm 18,4; 2v 2,14). Động chạm đến áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để được lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ “đoạn tuyệt với quá khứ” của anh.
J. Hervieux giải thích: ”Những chi tiết này thật là lạ lùng. Mọi sự xẩy đến dường như Bartimê không còn mù nữa. Khi vứt bỏ áo choàng, anh cũng vứt bỏ luôn tình trạng bị loại trừ (…). Cái áo choàng là vật duy nhất mà người nghèo sở hữu. Vứt bỏ nó, Bartimê đã thực hiện điều mà Đức Giêsu đã không làm được với chàng thanh niên giầu có: anh đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đi theo cách nào ? Anh nhảy lên, đứng phắt dậy. Cú nhảy trong đêm tối là cú nhảy đức tin vì mắt anh vẫn còn mù “(L’Evangile de Marc, Centurion, tr 156).
4. Đừng ngăn cản người khác theo Chúa
Khi nghe anh Bartimê kêu xin Chúa thương cứu, mọi người nạt nộ, không cho anh nói. Thực ra, thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đang thường phải im miệng. Luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những kẻ sống bên lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại.
Còn Đức Giêsu, Ngài nghe, Ngài luôn để tai nghe. Ngài nghe tiếng kêu của những người van xin, Ngài dủ lòng thương xót, van xin Ngài cho họ được trông thấy, được đứng dậy. Nếu chúng ta nhận biết Chúa quan tâm đến tiếng kêu xin của con người, chắc chúng ta sẽ trở thành những người “trung gian” tốt, để nói với họ: ”Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đã được Chúa đến thắp sáng đời ta, chúng ta cũng phải sống đức tin, phải làm tỏa sáng đức tin ấy cho những người chung quanh, không được ngăn cản người ta đến với Chúa, trái lại phải đem họ về với Chúa qua cuộc sống gương mẫu của ta.
Truyện: Thánh Phanxicô Salêsiô.
Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai ? Một bóng người lạ đi tới và nói: ”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng ? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.
Truyện: chiếc đèn lồng.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:
Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng nhu nhau.
Người bạn trả lời:
Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:
Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?
Người kia đáp:
Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên: ”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này: Iesou, Eleison, Iesou, Eleison…
Lm. Giuse Đinh lập Liễm
-------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa
Các đề tài liên quan đến các khuyết tật như câm, điếc, mù lòa…xem ra dễ trình bày và hình như cấu trúc xưa nay ít đổi thay. Trước hết đề cập đến các nổi khổ đau của những người mang khuyết tật về thể lý. Nào là chuyện câm thì không thể, đúng hơn là rất khó giao tiếp với tha nhân, rồi chuyện mù thì không được diễm phúc nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không thấy được vẻ đẹp của hạt sương long lanh trên cành hoa, không thấy được khuôn mặt của người đối diện, vân vân và vân vân. Rồi sau đó lại triển khai nổi khốn khổ của những người mắc các khuyết tật tinh thần hay tâm linh như chuyện có mắt mà như mù, có tai mà chẳng biết nghe hay không thèm nghe…và dĩ nhiên sẽ kéo theo những mối nguy hại cho bản thân họ hay cho xã hội.
Trong văn thơ có thể loại được gọi là “huề vốn” nghĩa là có nói cũng không thêm gì. Một ví dụ: “Đứng bên này sông thấy bờ bên kia sông. Bơi qua bờ bên kia thì thấy bờ sông bên này. Bơi ra giữa sông, hụp đầu xuống thì không thấy bờ sông nào.” Đã là người thì không một ai đành cam chịu cảnh mù lòa khi còn khả năng làm sáng đôi mắt. Cũng chẳng một ai thấy dễ chịu khi đang sáng mắt mà bị chê trách là đui mù. Xin cũng được dùng kiểu nói “huề vốn” để vào thẳng vấn đề, đúng hơn là để luận bàn đôi điều về điều gọi là “thấy”. Ai là người đang bị mù ? Thưa đó là những người không thấy.
Đó là những ai không thấy người anh chị em mình đang túng cực, nghèo khổ mong kiếm cho được ba chục ngàn mỗi ngày để sinh sống, chưa kể nếu có người thân phải cưu mang. Đó là những ai không thấy người anh chị em của mình đang bị bóc lột sức lao công do bởi những người lắm tiền, nhiều quyền trong xã hội. Đó là những ai không thấy anh chị em của mình đang bị đối xử bất công do bởi những người nắm quyền bất nhân hay do bởi các luật lệ bất minh. Đó là những ai không thấy nền giáo dục nước nhà đang loay hoay trong ngõ cụt vì những cơ chế phi lý, lạc hậu, lỗi thời…Đó là những ai không thấy con thuyền của một vài Giáo Hội địa phương xem ra đang vất vả lướt sóng không nguyên chỉ vì bão tố thế gian mà còn có thể vì quá nặng nề với các “lễ hội” bên ngoài, để rồi dù không phải là xao lãng, nhưng chưa xem trọng nghĩa vụ sống yêu thương, làm chứng cho sự thật, bảo vệ công lý, loan truyền Tin mừng…Đó là…
Thế nhưng căn cứ vào đâu để xác định rằng ai đó đã và đang không thấy ? “Phản ứng hay hiệu ứng” là một trong những biểu hiện cho biết là ai đó đang còn thấy. Với người hấp hối hay người gặp một sự cố nặng về thể lý thì người ta thường lấy đèn soi vào mắt hay một kiểu cách vẩy ngón tay sát mắt nạn nhân để xem phản ứng đôi mắt của họ. Khi thấy được vẻ đẹp một cánh hoa, hay một quang cảnh kỳ lạ thì người ta không thể không có phản ứng cho dù có thể mỗi người một cách khác nhau. Một cái thấy được gọi là thấy, khi và chỉ khi đối tượng được thấy gây được một hiệu ứng nào đó nơi người thấy nó. Cũng thế, chúng ta chỉ có thể gọi là thấy, khi những điều đập vào mắt chúng ta làm phát sinh trong chúng ta những tâm tình như vui, buồn, hoan hỷ, giận dữ, đồng cảm, đồng thuận hay bất bình, phẫn nộ…
Nếu làm thống kê thì con số người không thấy có lẽ là rất ít. Dù không thể đòi hỏi cách tuyệt đối, nhưng thử hỏi trong số những người được gọi là có thấy thì được bao nhiêu phần trăm là thấy đúng sự vật hiện tượng, thấy đúng bản chất của đối tượng như nó là ? Mỗi khi đã thấy rõ, thấy đúng thì người ta sẽ dễ có phản ứng chính xác, hợp lý và cả hợp tình. Một nguy hiểm và cũng là vấn đề cần đặt ra, đó là chúng ta chỉ thấy cách phiếm diện, một chiều mà cứ tưởng rằng mình thấy đúng, thấy rõ. Vì thế các phản ứng của chúng ta nhiều khi vừa thiếu chính xác, lại vừa thiếu lý, thiếu tình. Dĩ nhiên với phận phàm hèn, không một ai dám to gan cho rằng mình có thể thấy đúng, chính xác cách hoàn toàn. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể lơ là việc tìm cách để thấy các sự vật, hiện tượng ngày một đúng đắn và chính xác hơn, vì đây là một tiền đề không thể thiếu để có được những phản ứng hợp lý, hợp tình.
“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Câu nói của Chúa Giêsu với anh mù Bactimê trong ngữ cảnh bài Tin mừng đề cập trực tiếp đến thái độ cậy trông của anh Bactimê vào tình yêu và quyền năng của Người. Và thái độ cậy trông ấy được thể hiện bằng việc anh ta cương quyết gặp Chúa Giêsu bất chấp mọi trở ngại. Tuy nhiên câu nói ấy cũng cho chúng ta chiếc chìa khóa giải quyết vấn nạn thấy. Để có thể thấy và thấy đúng thì cần có lòng tin. Chúng ta dễ đồng thuận với nhau về sự thật này nếu chấp nhận rằng tin là nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa. Thế nhưng lại phải tự hỏi với nhau rằng khi nào thì chúng ta đang nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa ? Quả thật, để tìm được câu trả lời khả dĩ có tính thuyết phục thì không mấy dễ. Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng những ai ở trong ân sủng, tức là có sự kết hiệp mật thiết với Chúa thì sẽ biết cách nhìn như Chúa nhìn. Trong vấn đề này, các nhà tu đức chỉ dạy chúng ta kế sách tuyệt với đó là hãy chuyên chăm cầu nguyện: “ Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh này của con, Chúa sẽ thấy sự kiện, vấn đề này ra sao ?”. Qua đời sống câu nguyện, nỗ lực kết hiệp với Chúa thì ta sẽ biết nhìn như Chúa nhìn.
Một kinh nghiệm dân gian có thể nói là khá chính xác: “ Con chim sắp chết hót tiếng bi ai. Con người sắp chết nói lời lẽ phải”. Để nói được lời lẽ phải, thì người cận kề với cõi đời sau hẳn đã thấy được chân tướng các sự vật hiện tượng cách nào đó. Tin Mừng cho ta hay trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu luôn hướng về cái giờ của Người, đó là giờ mà Người sẽ bỏ thế gian này mà về cùng Cha bằng cái chết trên thập giá. Và đây chính là một trong những chìa khóa giúp Chúa Giêsu nhìn thấy các sự vật hiện tượng theo cái nhìn của Cha trên trời, để rồi có được những cách thế phản ứng thuận ý Cha, đẹp lòng Cha ( x.Mt 3,17; Mc 1,11).
Vì sao còn có những phản ứng chưa thấu lý và đạt tình nơi Kitô hữu, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ ? Một trong những nguyên nhân đó là vì ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng. Vì sao ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng ? Vì ta chưa biết nhìn như Chúa nhìn. Chưa biết nhìn như Chúa nhìn, ngoài những lý do khách quan thì rất có thể vì ta chưa thực sự gắn bó thiết thân với Chúa và cũng ít nghĩ đến cái giờ ta rời bỏ thế gian.
Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa
-------------------------------
Lm. An Phong, OP
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù. Ðức Giêsu nói "Ðức Tin của anh đã chữa anh", tức thì anh thấy được và theo Người. Người mù không thấy Chúa bằng mắt trần, nhưng thấy Người bằng đức tin. Anh đã kêu lên "… xin thương xót tôi" đến hai lần, như biểu lộ một lòng tin tuyệt đối, và "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Anh đã được toại nguyện và đi theo Chúa Giêsu. Như thế, phép lạ này được Chúa Giêsu thực hiện để mở con mắt thể lý cũng như con mắt tâm hồn của anh.
Ðược nhìn thấy ánh sáng là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại. Bằng con mắt trần, chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thụ tạo. Bằng con mắt đức tin, chúng ta khám phá Thiên Chúa hiện diện trong thụ tạo.
Vào ngày lãnh phép rửa tại thành Ðamát, thánh Phaolô đã mở con mắt đức tin của người, "tức khắc có một cái gì như cái vảy, rớt khỏi mắt người và người nhìn lại được" (Cv 9,18). Các kitô hữu tiên khởi đã gọi bí tích rửa tội là bí tích "Sáng soi". Ðức tin đã mở mắt cho họ. Thánh Inhaxiô thành Antiôkia thường nói: "Nhờ đức tin, tôi nhìn thấy Chúa và chạm đến Người ở bất cứ nơi nào".
Trái lại, "mù lòa, không nhìn thấy, thiếu ánh sáng" là những biểu tượng của sự xa cách Thiên Chúa. Người mù không nhận ra những vật thể, những con người, vẻ đẹp của thế giới chung quanh bằng chính đôi mắt của mình. Người mù "tâm hồn" không có khả năng nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện trong đời sống của mình. Ðó là sự mù lòa đức tin, điều này còn nguy hại hơn mù lòa thể lý.
Có thể nói, chúng ta cũng là những người "mù lòa đức tin", khi chúng ta không nhận ra Thiên Chúa đang đứng sừng sững trong cuộc đời mình; hoặc hơn nữa, khi chúng ta không nhận ra Thiên Chúa nơi người chung quanh mình. Ðức tin không phải là chấp nhận một bản kinh Tin kính nhưng là tin tưởng, phó thác bản thân mình cho Thiên Chúa. Ðức tin là một cuộc gặp gỡ cá vị, diện đối diện. Hơn nữa, "đi theo Ðức Giêsu" tức là trở thành môn đệ Người, tức là mở mắt để nhìn thấy ý nghĩa sâu xa của đời sống.
Chúng ta cần cầu xin Thiên Chúa mở con mắt đức tin của chúng ta, để chúng ta nhận ra Người trong đời sống hàng ngày.
Lạy Chúa,
Ðôi khi chúng con có mắt mà không nhìn thấy gì hết,
có tai mà chẳng nghe chi, có miệng lưỡi mà lại khô cứng.
Chúng con đã không nhìn thấy Người
đang hiện diện trong cuộc sống.
Sự thiếu đức tin, ích kỷ, ham hố tiền bạc…
là những cái vảy che mắt chúng con.
Xin mở mắt chúng con để chúng con nhìn thấy Người,
mở tai chúng con để lắng nghe lời Người
và mở miệng lưỡi chúng con để ngợi khen,
tôn vinh tạ ơn Người.
Lm. An Phong, OP
-------------------------------
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Nhân loại đang bên bờ vực thẳm hay đang trên đỉnh vinh quang ? Câu trả lời không đồng nhất: TN 30-B66
Nhân loại đang bên bờ vực thẳm hay đang trên đỉnh vinh quang ? Câu trả lời không đồng nhất từ nhiều phía. Nhưng đối với người tín hữu, tất cả đều là Tin Mừng. Chính Ðức Kitô đã có thể lợi dụng đêm đen thập giá để bước lên tột đỉnh vinh quang Thiên Chúa. Ðức Kitô cũng phải đi ngang qua những đêm dài thử thách, mới trở thành nguồn sáng cho toàn thể nhân loại. Hôm nay Ðức Kitô dừng lại, đem niềm vui cho "một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường," (Mc 10:46) và cũng để chứng tỏ cho mọi người biết Người là "ánh sáng bởi ánh sáng."
ÐI TÌM ÁNH SÁNG
Người mù suốt đời không thấy ánh sáng. Ðó là nỗi khổ tâm lớn nhất. Bao nhiêu năm đi trong đêm tối, không thấy cảnh vật và con người. Cuộc sống chìm sâu vào cảnh nghèo nàn, khô khan và cô đơn. Các tương quan nhạt nhẽo và rời rạc. Ai thấu hiểu cho nỗi khổ thống lớn lao đó. Sau khi nghe biết Ðức Giêsu đến gần, người mù Bartimê bạo dạn rống lên cầu cứu: "Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi !" (Mc 10:47) Nhưng càng kêu lớn tiếng, anh càng bị đám đông áp đảo: "Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi." (Mc 10:48) Ðám đông không cần biết đến nỗi khổ tâm của anh. Họ muốn đẹp chuyện cá nhân qua một bên. Chuyện đón rước Chúa quan trọng hơn. Giữa đám đông ấy, chỉ một mình Ðức Giêsu mới hiểu thấu nỗi đau của anh. Thực vậy, "vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bỡi vì chính mình cũng đầy yếu đuối." (Dt 5:2)
Với tấm lòng cảm thông lớn lao đó, Ðức Giêsu đã nghe rất rõ tiếng kêu lớn tiếng của anh. Người đã truyền: "Gọi anh ta lại đây !" (Mc 10: 49) Lệnh đó loan tới anh rất nhanh. Chớp được tin đó, "anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Ðức Giêsu." (Mc 10:50) Thái độ của anh đã đủ diễn tả tất cả những gì đang diễn tiến trong tâm trí và thân xác anh. Chiếc áo choàng đó có lẽ là tất cả gia sản của anh. Nó vừa là áo ban ngày, vừa là chiếc mền ban đêm, đã bảo bọc chở che anh suốt bao năm trường khỏi những cảnh thiêu đốt mùa hè và giá lạnh mùa đông. Chiếc áo đã là tất cả gia bảo, là người bạn đường của anh. Khác hẳn người thanh niên giàu có, vừa nghe tiếng Ðức Giêsu gọi, anh đã sẵn sàng bỏ tất cả những gì thân thương nhất. Thái độ của anh giống hệt bà góa đã bỏ vào hòm tiền đền thờ tất cả những gì mình có.
Thấy thái độ đó, chắc chắn Ðức Giêsu phải hiễu anh đang muốn Người làm gì. Vậy tại sao Người còn hỏi: " anh muốn tôi làm gì cho anh ?" (Mc 10:51) Cùng một câu hỏi đã được Chúa đặt ra cho rất nhiều người (Mt 20:21; Ga 1:38; Ga 5:6). Thế mới biết Chúa rất tôn trọng tự do con người và muốn họ xác định rõ lập trường trước bao nhiêu sức mạnh muốn lôi kéo con người xa tầm tay Thiên Chúa. Chẵng cần suy nghĩ xa xôi, anh nói ngay nhu cầu khẩn thiết nhất. Sung sướng được Chúa đoái thương, anh chụp ngay cơ hội: "Lạy Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." (Mc 10:51) Nói xong, anh rất hồi hộp, chờ đợi xem những gì sắp xảy ra cho mình.
Nhưng anh không phải đợi chờ như người mù Bethsaiđa (Mc 8:22-26) hay người mù từ bẩm sinh (Ga 9:1-41) Chúa chẳng nhắc tới đau khổ của anh chút nào: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh." (Mc 10:52) Thế nghĩa là trước khi nhìn thấy ánh sáng mặt trời, lòng anh đã tràn ngập ánh sáng Thiên Chúa, chính là Ðức Giêsu Kitô. Thật vậy, Chúa đã dõng dạc tuyên bố với người Do thái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8:12) Niềm tin của anh mù đã tìm được đối tượng đích thực. Chỉ có ánh sáng đích thực mới có khả năng đem lại sự sáng cho anh: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người." (Ga 1:9)
Chính ánh sáng niềm tin đã đem lại ánh sáng cho con mắt. Ánh sáng đã mở ra trước mặt anh cả một thế giới màu sắc và đường nét. Ánh sáng đã trả lại cho anh cả một cuộc sống đầy ý nghĩa và giá trị. Bởi vậy một niềm vui đã trào dâng mãnh liệt trong con người và cuộc đời anh. Niềm vui lớn như lúc dân Chúa mới rời miền đọa đầy tăm tối. Anh chẳng khác gì "số còn sót lại của Israel" được "Ðức Chúa cứu" (Gr 31:7) khỏi cảnh lưu đầy Babylon. Ðức Giêsu đã được anh tin tưởng mãnh liệt là "Con vua Ðavít." (Mc 10:47,48) Niềm tin đó đã diễn tả thành lời át cả tiếng ồn ào của đám đông và thấu đến tận tim Chúa. Anh thấy rất rõ Ðức Giêsu đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa về Ðấng cứu độ.
Cảm phục trước niềm tin mãnh liệt đó, Ðức Giêsu đã ban cho anh quá điều anh mong đợi nơi Người. Không những được khỏi bệnh, anh còn được diễm phúc "đi theo Người trên con đường Người đi." (Mc 10:52) Con đường Người đi là con đường đem ơn cứu độ cho nhân loại ngang qua khổ đau và thập giá. Con đường Người đi sẽ dẫn Người tới Giêrusalem để chịu chết theo thánh ý Chúa Cha. Con đường Người đi sẽ tạo nên những đường nét ngoạn mục trong Nước Thiên Chúa. Chắc chắn anh sẽ đủ can đảm theo Chúa đi bất cứ nơi nào, vì đức tin là tất cả sức mạnh của anh. Anh đã trở thành môn đệ của Chúa để loan Tin Mừng phát xuất tự đáy tâm hồn và thân xác anh.
SỨC MẠNH NIÊM TIN.
Hơn lúc nào, nhân loại hôm nay vẫn cần những phép lạ của niềm tin. Vì còn rất nhiều người đau khổ bị bỏ quên và còn nhiều vấn đề vượt quá khả năng con người. Nhưng muốn có những phép lạ đó, trước hết phải có niềm tin như người mù hôm nay. Không có con đường cứu thoát nào khác ngoài Ðức Giêsu Kitô. Tin tuyệt đối. Tin mãnh liệt trước bao nhiêu thách đố của niềm tin. Nếu anh mù cũng tỏ ra nhút nhát, chùn bước trước bao tiếng ngăm đe, nạt nộ của đám đông chung quanh, làm sao phép lạ ánh sáng đến với anh được ?
Ngày nay biết bao người đòi quyền phá thai, đồng tính luyến ái. Vô thần đang ồn ào la ó lấn át niềm tin Kitô. Họ muốn bịt miệng những người đang tuyên xưng niềm tin nơi Ðức Giêsu. Họ thích đề cao những người vấy máu những trẻ em sơ sinh. Con đường cứu thoát đã không mở ra trong những tâm hồn ấy. Chỉ có tiêu diệt và tiêu diệt. Thật là khủng khiếp ! Nhưng Ðức Giêsu đang đến thật gần vì Người đã nghe thấy tiếng khóc than của bao người vô tội. Nhưng đúng hơn, Người đã nghe thấy tiếng kêu gào phát xuất từ niềm tin sâu xa và nóng bỏng của bao tâm hồn tín hữu. Biết bao niềm tin đơn sơ, đơn sơ như người mù hôm nay, đã cứu thoát thế giới này khỏi chìm vào cảnh tăm tối mịt mù của các tà thuyết độc hại.
Ðây là dịp để chúng ta kiểm điểm lại niềm tin và động lực của lời cầu nguyện. Các tông đồ Gioan và Giacôbê cũng tỏ bày ước nguyện và đã được Chúa hỏi như người mù hôm nay. Nhưng lời cầu đó phát xuất từ một tham vọng hoàn toàn trần tục, tham vọng bá quyền. Còn người mù không hề có tham vọng nào ngoài việc xin cho được thấy ánh sáng. Lời cầu nguyện của chúng ta phát xuất từ niềm tin nào ? Tin vào chính mình, tiền bạc, danh vọng hay tin vào Ðức Giêsu là vị "vua hòa bình" (Dt 7:2) ? Vua hòa bình cũng là "vua công chính" giống như Menkisêđê, đã được chính Thiên Chúa tuyển chọn (x.Dt 1:6) Hơn lúc nào, thế giới cần hòa bình. Nhưng hòa bình chỉ được xây dựng trên nền tảng công lý. Bởi thế, không còn danh xưng nào xứng đáng cho chúng ta kêu cầu hơn Thánh Danh Chúa Giêsu Kitô. Cũng chẳng còn danh xưng nào xứng hợp với Kitô hữu bằng danh hiệu "những người xây dựng hòa bình." (Mt 5:9) Bất công càng tràn ngập, Kitô hữu càng cần phải hiện diện để Phúc âm hóa thế giới.
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
-------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Chuyện xảy ra trên đường
Trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi trước và các môn đệ theo sau. Một bầu khí: TN 30-B67
Trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, Ðức Giê-su đi trước và các môn đệ theo sau. Một bầu khí sợ hãi và u tối bao trùm lấy các ông. Trên con đường đi theo Ðức Giê-su, các môn đệ chưa hiểu được rằng Con Người phải chịu đau khổ và chịu chết. Các ông chưa khám phá thấy Ðức Giê-su phải đi đến cùng của sự tự hạ, và ở đó, Người bày tỏ Người là Con Thiên Chúa.
Trình thuật chữa lành người hành khất mù Bác-ti-mê dường như cắt đứt mối liên lục luận lý của Tin Mừng: một câu chuyện phụ, cá biệt trong hành trình lên Giê-ru-sa-lem và hình như chỉ lặp lại những điều người đọc đã biết qua các trình thuật trước đó về phép lạ. Thật ra, câu chuyện hôm nay lại là kết luận cho những trình thuật trên.
Trong những trình thuật này, Ðức Giê-su không ngừng nỗ lực nâng cao tâm trí người đối thoại, hướng tầm nhìn của họ tới một nhãn quan mới về sự vật. Nhưng họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ vẫn còn có thái độ khép kín trước giáo huấn của Người. Nói chung lại, họ là những người mù.
Vậy mà, những người mù vô ý thức này lại ngăn cản, lại quát mắng kẻ biết mình bị mù và đang xin cứu chữa. Người ta bắt anh phải im đi, đang khi anh biết rõ mình bị mù. Nhưng sự hiểu biết này gây phiền toái.
Lúc ấy, anh mù Bác-ti-mê càng kêu lớn tiếng. Tiếng kêu của anh là cả một giáo huấn: "Lạy ông Giê-su, Con vua Ða-vít, xin dủ lòng thương tôi !" Lời kêu xin của anh quả là lạ thường vì "Con vua Ða-vít" còn mang ý nghĩa là Ðấng Mê-si-a. Lời cầu xin của anh có tính cách đặc biệt. Anh không xin Ðức Giê-su như xin những người khác, những người không làm gì khác hơn là bố thí cho anh một chút, để rổi anh vẫn ở trong cảnh mù loà. Anh đã nghe người ta đổn thỗi về ông Giê-su với những điều kỳ diệu, và anh tin rằng ông Giê-su chính là Ðấng Mê-si-a có khả năng cứu chữa anh khỏi cảnh mù loà, đưa anh thoát khỏi thân phận ngổi ăn xin bên vệ đường.
Như vậy, tiếng kêu của anh mù tóm tắt toàn bộ thái độ con người cần phải có trước Ðức Giê-su: đặt tất cả hiện hữu, tất cả cuộc sống của mình trước Ðấng là Sự Sống, là Ánh Sáng, Ðấng có thể làm cho thấy, cho bước đi và cho sống.
Sau đó, việc chữa lành người mù là một lời loan báo việc chữa lành Ðức Giê-su muốn đem đến cho mọi người. Nhưng Ðức Ki-tô biết rằng các kẻ theo Người chỉ có thể được chữa lành một khi họ nhất quyết loại trừ mọi ảo tưởng và can đảm chấp nhận thử thách là thập giá.
Như thế, anh mù Bác-ti-mê đã thoáng cho thấy hình ảnh viên đại đội trưởng chứng kiến cái chết của Ðức Giê-su, cũng như tất cả những ai, vào lúc này nhìn thấy rõ cái chết đó là gì: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa." (Mc 15,39). Anh là một người mù, nhưng anh đã cho mọi người thấy điều mà đức tin đem lại: chính đức tin sẽ giải thoát con người khỏi tình trạng tật nguyền của mình. Và do đó, anh cho thấy ý nghĩa việc Ðức Giê-su làm.
Ai là người mù ?
Nhìn và nghe, điều nào quan trọng hơn ? Theo bản năng, người ta phàn nàn vì mù hơn là vì điếc, vì con mắt cần thiết cho cuộc sống.
Ðàng khác, từ thấy được sử dụng theo cả hai nghĩa thể lý lẫn tinh thần. Theo đó, ánh sáng cũng vừa có nghĩa bên trong, vừa có nghĩa bên ngoài.
Ðiều xảy ra với anh mù Bác-ti-mê nằm trong ý nghĩa đặc biệt này. Câu chuyện chữa lành người mù của thánh Mác-cô đầy những lời kêu xin. Nghe nói người đang đi ngang qua là Ðức Giê-su, anh mù kêu lên: "Lạy ông Giê-su, Con vua Ða-vít, xin dủ lòng thương tôi !" Người ta quát nạt bắt anh im đi, nhưng anh ta càng kêu to hơn. Ðức Giê-su đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây !" Cuối cùng là câu nói của đám đông, câu nói mở ra toàn bộ bản văn: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !"
Tiếng kêu đã làm cho anh đến gần được Ðức Giê-su. Và giờ đây, anh thực hiện một hành vi dứt khoát ra khỏi sự xa cách: vất áo choàng, nhảy chổm dậy và đến cùng Ðức Giê-su. Thái độ này biểu lộ một niềm vui cực độ, một sự dấn thân không tính toán và một niềm tin mạnh mẽ.
Anh đến gặp Ðức Giê-su và được nhìn thấy.
Nếu đọc câu chuyện này và giải thích các từ ngữ theo nghĩa thiêng liêng, người ta sẽ nhận thấy những chi tiết thật thú vị.
Người mù là kẻ không nhìn thấy rõ: anh ta không nhìn thấy con đường dẫn đến Sự Thật.
Người mù là kẻ không nhìn thấy thế giới: anh ta khép kín nơi chính mình với những ý tưởng có sẵn, với những nỗi thất vọng. Nếu muốn được trợ giúp, người mù phải kêu lên. Thế nhưng tiếng kêu ấy lại làm phiền người khác, làm cho người khác khó chịu, bởi vì người mù là kẻ đã bị gạt ra khỏi cuộc sống, không còn chỗ đứng trong xã hội. Do đó người ta buộc anh phải im. Cũng có khi người ta viện cớ: muốn nhận ra tiếng kêu của Chúa để buộc anh phải im. Thế nhưng, Ðức Ki-tô cho gọi anh đến. Ðiều này có nghĩa là Người trao phó cho mỗi người một sứ mạng đi nói với kẻ mù, với kẻ không nhìn thấy: "Cứ yên tâm, Người gọi anh đấy !"
Như thế, mỗi người được Ðức Ki-tô trao phó cho một sứ vụ: nhắc lại lời mời của Người, nói với kẻ khác rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và họ có chỗ đứng trong tình yêu Thiên Chúa. Liệu rằng người ta cứ mãi ở trong tình trạng điếc trước lời mời của Ðấng sai họ đi ?
Kiểu mẫu cho người môn đệ
Anh mù ngổi ăn xin bên vệ đường đã nhận ra Ðức Giê-su, đã tin vào Người. Anh mù về phương diện thể lý nhưng lại sáng về phương diện thiêng liêng. Anh đã bày tỏ xác tín của mình qua những tiếng kêu xin. Chính nhờ lòng tin này, anh đã được cứu chữa. Không những thế, anh còn bày tỏ sự dấn thân đầy năng động của mình: đi theo Ðức Giê-su. Qua thái độ này, anh mù Bác-ti-mê chính là hình ảnh của cộng đoàn trung tín, đổng thời trở nên kiểu mẫu cho người môn đệ đích thực.
Trước kia, khi ngổi ăn xin bên vệ đường, anh mù Bác-ti-mê là hình ảnh của "những ai ngổi nơi tăm tối và trong bóng tử thần" (Lc 1,79), giờ đây, anh trở thành kiểu mẫu cho tất cả những ai biết kêu cầu để thoát ra khỏi cảnh mù tối, và cất bước lên đường.
"Có một Ðấng giải thoát, tôi sẽ nói cho mọi người biết" (Pascal).
Ðó là sứ điệp được anh mù loan báo cho người khác.
Anh là người nhìn thấy tình yêu dưới dấu chỉ thập giá,
nhìn thấy bàn tay dịu hiền của Thiên Chúa đang mở ra
ngay giữa những khỗ đau và chết chóc mà lý trí chưa hiểu được, nhìn thấy khuôn mặt của Con Thiên Chúa bên cạnh người nghèo, và nhìn thấy sự phục sinh đã được thực hiện
qua những cuộc canh tân của Hội Thánh và của thế giới.
Với sự trợ giúp của Con Thiên Chúa, chúng ta có biết gia nhập cộng đoàn những kẻ tin, những kẻ kêu cầu, những kẻ nhìn thấy ?
"Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."
* * *
"Chỉ khi nào chúng ta không còn đặt niềm tin nơi những điều vẫn thường làm ta tự hào, khi ấy ta mới nhận ra có một niềm hy vọng sâu xa hơn, mãnh liệt hơn, vượt lên trên mọi phương tiện phàm trần.
Chúng ta vẫn thường hướng đến một mục đích, và có lúc không đạt được, có khi thất vọng. Nếu lúc ấy, chúng ta hướng về Chúa và kêu cầu Người, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nghe lời ta xin và sẽ trợ giúp chúng ta."
A.Bloom
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
-------------------------------
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Hằng ngày, nếu ngồi vệ đường nhìn bao người qua lại, ta sẽ rất ngạc nhiên bởi nhiều khuôn: TN 30-B68
Hằng ngày, nếu ngồi vệ đường nhìn bao người qua lại, ta sẽ rất ngạc nhiên bởi nhiều khuôn mặt khác nhau. Những khuôn mặt khác nhau diễn tả sự bộn bề của cuộc sống. Cũng với cách nhìn ấy, nếu ngồi tại Thánh Đường, nhìn nhiều khuôn mặt khác nhau, lại thấy nhiều khuôn mặt chung một nét, vứt bỏ mọi lo âu phiền muộn, để sống niềm tin yêu xây lại hạnh phúc đời.
Bên dòng đời. Nếu có một lần ta tự hỏi, giữa dòng đời xuôi ngược quanh năm suốt tháng, ta đi tìm gì, những con người qua lại, những đồng tiền phiêu bạt, những của cải phù vân, những lúc rong chơi vui thỏa. Ra đường, ai cũng có một mục đích để chạy tới chạy lui, có những kiếm tìm khắc khoải; thế nhưng, có biết bao điều tìm kiếm vô ích, có bao điều thấy được để rồi nhàm chán, có bao điều tìm ra lại thất vọng. Ta vẫn tự hỏi, giữa dòng đời ta đang tìm gì mà ý nghĩa cuộc đời vẫn xa. Giống như người hành khất bên vệ đường những gì kiếm được tưởng rằng vô giá, nhưng chiều đến nhìn lại những thứ kiếm được ấy lại thấy nỗi buồn xâm chiếm. Ta mất thời gian, lỡ bao niềm vui vì những cái ta kiếm được chẳng khỏa lấp được nỗi buồn trong tâm. Thương vay cho một phận người rồi cứ long đong, lo buồn được mất, rồi cứ lận đận giữa đau khổ tìm kiếm.
Bờ ảo vọng, như người hành khất ngồi mơ giữa ảo vọng, tìm những bóng chẳng có hình, tìm những thật mà giả. Bởi mắt chưa trong để nhìn cho rõ sự vật, bởi cái đà của đam mê dục vọng vẫn phủ mờ đôi mắt. Tìm lợi nhuận để rồi mất cái tâm, tìm danh vọng để rồi mất nhân, tìm yêu thương để rồi mất tình yêu. Cái tìm được chẳng bù cho được cái mất đi, đời lữ khách bên bờ ảo vọng, buồn như người hành khất, chẳng kiếm được gì dù đã rong ruổi.
Vệ đường hành khất. Cuộc đời mỗi người giống như người hành khất, chờ đợi những con người mang đến lợi lộc hay mất mát cho mình, mang đến hay lấy đi niềm vui, trao tình yêu hay giận ghét. Thương cảm cho nhau những phận người hành khất, ai cũng nghèo như ai, trong hành trang người hành khất chẳng có gì là quý giá, chỉ có kẻ vác nặng người nhẹ vác. Của cải, vinh hoa, phú quý, bần cùng, tả tơi, cũng một phận hành khất, một sớm một chiều rồi để lại tất cả ra đi. Người hành khất buồn như chiều buồn không tên gọi.
Con đường đi đến Giêrikhô cũng vậy, bao nhiêu người mang phận hành khất theo Chúa, bên vệ đường hay trên đường đi. Bao nhiêu hoàn cảnh, bao nhiêu thương tật của những người hành khất. Tìm gì giữa phố đông chen chúc, người qua kẻ lại, nghe gì những tiếng giữa ồn ào huyên náo, thấy gì qua những đôi mắt mở to tìm kiếm. Cái trớ trêu thay người nhìn thấy là kẻ đui mù, kẻ lớn tiếng kêu đích danh lại là kẻ thường ngọng ngịu van xin người qua lại. Kẻ được nhiều nhất lại là kẻ chẳng có gì trong tay ngoài chiếc áo tả tơi. Cái bất ngờ này làm cho chúng ta tỉnh thức, giữa dòng đời hành khất.
Đôi mắt người mù.
Người mù chẳng ai có mắt sáng. Mù lòa là tình trạng rửa tâm, bởi chẳng còn bị nhiễu nhương bởi nhiều hình ảnh mờ ảo của bờ ảo vọng, là lúc ta nhìn thấy rõ nhất. Mù lòa giữa những cảnh đen tối dục vọng để nhìn rõ sự vật và con người trong ánh sáng chân lý. Sự mù tối cần thiết của con đường có được tấm lòng thanh. Lòng thanh tịnh, nhìn thấy Thiên Chúa. Người hành khất mù đã thực sự diễm phúc sống trong mối phúc. Thanh tịnh để nhìn thấy những gì cần thiết cho ý nghĩa cuộc đời, sẽ tìm điều đáng tìm cho phận hành khất thôi hết khất hành. Xin cho con đôi mắt của người hành khất mù để nhìn thấy Chúa.
Đôi tai người mù.
“Khi Thiên Chúa đóng các cửa ra vào, Chúa mở cho cánh cửa sổ trên cao”. Kinh nghiệm đời sống chiêm niệm của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cho thấy hiệu quả của việc Thiên chúa thực hiện. Khi Thiên Chúa đóng đôi mắt kẻ mù, Chúa mở cho anh đôi tai để lắng nghe. Giữa những ồn ào huyên náo, nghe điều đáng nghe là một quá trình đã tập nghe. Nghe thấy tiếng Chúa mặc dầu Chúa chưa lên tiếng, tiếng nghe được ấy phải chăng là tiếng nói từ trái tim, một tiếng nói không lời từ những tâm hồn gặp gỡ. Xin Chúa cho con đôi tai người mù để nghe tiếng Chúa từ tận đáy trái tim, tình yêu đáp lại tình yêu.
Đôi chân người mù.
Bỏ lại tất cả để chạy đến Chúa, dù không thấy đường nhưng vẫn chạy đến. Cái vội vã của gặp gỡ giữa những ngày hành khất, rất khác với hình ảnh người hành khất mù trong bài thơ 50 trong tập “Lời Dâng”, chỉ trao hạt thóc nhỏ, người hành khất gặp Chúa bỏ lại tất cả. Có bao nhiêu lần vội vã chạy tới chạy lui trong cuộc đời để tìm kiếm lợi nhuận, danh vọng, địa vị để rồi thấy đời vẫn trống không. Xin Chúa cho con đôi chân người hành khất mù để nhắm đích chạy đến Chúa, bỏ lại tất cả phía sau, dù là chỉ được Ngài một lần gọi để được Ngài mãi mãi.
Xin cho con được thấy. Sự vật là đúng sự vật, người đúng là người, tất cả thấy rõ ràng trong chân lý, sự thiện và tình yêu. Thấy để yêu thương tất cả, làm triển nở phong phú tất cả những gì con thi hành, sử dụng. Yêu thương con người tất cả những con người con gặp gỡ, trong Chúa và vì Chúa.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
-------------------------------
Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Nói đến tên thành Giêricô, chúng ta nhớ đến câu chuyện người lùn Giakêu. Vì tò mò muốn thấy Chúa, Giakêu đã phải vất vả trèo lên cây sung, khi nghe Chúa đi ngang qua thành Giêricô. Và hôm đó, Chúa Giêsu đã dừng chân ghé lại: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông.”
(Lc 1, 5). Tin mừng của Chúa nhật tuần 30 cũng ghi lại dấu chân của Chúa và các môn đệ đến thành Giêricô, nhưng hôm nay không phải một bác lùn đón Chúa mà là một anh mù có tên: Bác-ti-mê, con ông Ti-mê. Ở cùng một địa điểm, xảy ra trong hai phận người tuy khác nhau, nhưng họ có chung một điểm hẹn: điểm hẹn đó có tên gọi là Giêsu.
Câu chuyện người mù
Người ta kể rằng, ở cuối một con hẻm nhỏ, ngày ngày có một chàng trai mù, khôi ngô tuấn tú ngồi ăn xin ở bên vệ đường. Cũng trong con hẻm không tên tuổi này, có một thằng bé cũng ngày đi bán báo kiếm sống qua ngày. Một hôm, khi nghe tiếng rao mời của thằng bé bán báo. Anh mù bèn kêu thằng bé lại và ngỏ ý mua một tờ. Thằng bé đến gần anh mù và mở tròn xoe đôi mắt, nó ngạc nhiên hỏi anh:
“Chú mù mắt thì làm sao mà đọc?”.
Chàng trai nhẹ nhàng mỉm cười đáp lại:
“Vâng, chú mù không đọc được, chú mua báo của cháu, cháu sẽ đọc cho chú nghe chứ?”.
Mặt thằng bé xịu lại, những giọt nước long lanh trên mi mắt của nó:
“Cháu mù chữ, không thể đọc được”.
Những người đi theo Chúa rất đông, bao gồm nhiều thành phần: Kinh sư, luật sĩ, biệt phái, các môn đệ, đám đông dân Chúa từ khắp nơi. Họ chẳng màng chi đến một kẻ hành khất bên vệ đường. Thân thể khuyết tật, ngày qua ngày sống nhờ vào sự thương hại của những người khác. Thế nhưng xem ra cái mù thể xác không làm cho anh này tuyệt vọng. Trong cỏi tâm hồn, điều gì đó rất mãnh liệt thôi thúc anh hướng tâm hồn mình về phía có Chúa Giêsu đang đi lại. Bất chấp mọi sự cản ngăn của: đố kỵ, ganh ghét, và loại trừ. Vượt ra khỏi những giới hạn về cái nhìn thể xác. Anh Bác-ti-mê vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu (Mc 10, 50). Chính nghị lực phi thường của niềm tin mà anh mù thể hiện, làm cho Chúa Giêsu không bỏ đi được và Ngài đã cứu chữa người mù.
Câu chuyện thời nay
Trong cuộc sống hằng ngày, biết bao người bề ngoài mắt vẫn sáng, thế nhưng tâm hồn thì trở nên mù lòa. Họ không còn lương tri để nhận ra những giá trị cao quý của đời sống tâm linh. Cũng có nhiều người tàn phế đôi mắt thể xác, thế nhưng đôi mắt tâm hồn của họ vẫn rộng mở để đón nhận ánh sáng từ nguồn mạch là Thiên Chúa. Có người mù rất dễ thương như anh mù trong câu chuyện kể trên, cũng có nhiều người mù rất đỗi cương trực như câu chuyện của Tin mừng vừa kể. Xin mượn Thánh Thi của giờ kinh sách sáng thứ năm, tuần II, để thân thưa cùng Đấng có quyền trên mọi phận người:
“ Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.
Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,
Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài…”
Lm. Giacôbê Tạ Chúc
-------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Khi nghĩ đến người mù, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.
Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai. Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Này nha, trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…, bạn có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt ? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, bạn có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó chăng ? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ bạn cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường. Và nếu bạn cất công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn bạn sẽ thất vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai ? Người mù hay người sáng ? Bởi đó, khi nhìn thấy một người mù, bạn khoan đã cho rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêrichô. Không biết anh có thuộc hội người mù nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen, giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những “tội đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng. Và chắc hẳn trong cả cuộc đời, anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.
Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai. Anh không van xin Chúa bằng danh xưng Giêsu Nazaret mà dùng danh xưng Con Vua Đavít – một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn tiếng của anh “Lạy Con Vua Đa vít” đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh.
Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bí đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu. Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình. Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại. Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.
Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Chúa Giêsu, thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô. Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng rỡ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng. Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui tràn trào.
Lạy Chúa, sẽ thật hạnh phúc cho con, nếu con có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời. Ngược lại sẽ thật bất hạnh cho con nếu con có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm 30. Con xin tạ ơn Chúa vì ngài đã ban cho con có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa. Xin Người gìn giữ con để đôi mắt đức tin của con cũng luôn được tinh tường sáng suốt. Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương” như người ta vẫn nghĩ. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
-------------------------------
Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
PHÚC ÂM: Mc 10, 46-52
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi".
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
SUY NIỆM:
Cũng như Chúa nhật tuần trước, hôm nay chúng ta căn cứ vào bài Tin Mừng để tìm hiểu bài tiên tri Giêrêmia và bài thư Do thái. Chúng ta sẽ thấy mạc khải của Ðức Giêsu thật là ánh sáng soi cho chúng ta hiểu hơn mọi lời tiên tri của Cựu Ước. Ðồng thời ánh sáng của Người cũng chiếu trên giáo huấn của các tông đồ khiến những bài Thánh Thư nhờ lời dạy dỗ và gương sáng của Người mà trở nên trong sáng.
1. Ðức Giêsu Dựng Nên Một Dân Mới
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người mù tên là Bartimê. Nhưng ở đây thánh Marcô nói đến chính việc chữa mắt rất ít. Ðức Giêsu chỉ dùng một câu và phán một lời thôi. Ðang khi có lần khá, để chữa lành một người câm điếc (7,31-37), Người đã làm nhiều cử chỉ, không khác những lang y hoặc pháp sư thời bấy giờ. Người đem người có tật ra chỗ vắng, thọc ngón tay vào tai y, nhổ nước miếng và sờ vào lưỡi y, rồi ngước mắt, rên lên, thốt ra một lời lạ tai: Ephphata! Ngay đến lần chữa một người mù ở Betsaida (8,22-26), Người cũng đã dắt y ra ngoài làng, đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó, rồi đặt tay khoa trước mặt nó và hỏi: có thấy gì không?... Hôm nay, Người không làm một cử chỉ nào như vậy. Người chỉ nói một câu: hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Và người mù đã được khỏi tức khắc.
Như vậy có nghĩa là hôm nay tác giả Marcô không muốn chú trọng nhiều đến chính phép lạ chữa lành người mù. Người đặt câu chuyện này trong một bối cảnh rất ý nghĩa, khiến chúng ta phải tỉnh táo nhìn ra.
Người kể rằng hôm ấy Ðức Giêsu ra khỏi Giêricô cùng với môn đồ và rất đông dân chúng. Người tiếp tục cuộc hành trình đi lên Giêrusalem, khởi sự từ Chúa nhật trước. Người đã phải dừng chân nghỉ tại Giêricô và hôm nay lại lên đường tiếp tục đi. Chưa có dấu hiệu gì cho thấy có sự thay đổi nào trong đoàn người đang tiến bước này. Và chúng ta có thể nghĩ, như hôm trước Ðức Giêsu vẫn dẫn đầu; còn môn đồ và quần chúng theo sau vẫn có tâm trạng khiếp sợ. Người muốn lên Giêrusalem để thi hành sứ mạng cứu thế, nhưng những kẻ đi theo Người lại sợ biệt phái và luật sĩ đang âm mưu gì đây. Nhất là các môn đồ, sau khi tiếp thu bài học phải trở nên tôi tớ hầu hạ, lại càng bước đi nặng nề. Ðức Giêsu phải kéo theo một nhân loại chậm chạp và khó khăn. Ðang khi ấy Người ý thức đã đến giờ phải kéo họ lên và đưa họ ra khỏi tình trạng hiện thời.
Có lẽ vì đang bị thu hút vào tư tưởng cứu thế, Ðức Giêsu đã không để ý đến một người ăn xin ở vệ đường. Người cũng chẳng nghe thấy tiếng người đó kêu ca. Vì quả thực, khi nghe biết Người đi qua, kẻ khốn khó ấy đã thốt ra lời của nhân loại lầm than: "Lạy Con Vua Ðavít, xin thương xót tôi". Không phải vì hắn biết Ðức Giêsu là con Ðavít, chúng ta có thể chắc chắn như vậy. Hắn cũng chẳng xin Ðức Giêsu Nadarét chữa hắn. Hắn giống như mọi người dân Cựu Ước và nhân loại lầm than chỉ trông chờ có một vị Cứu tinh mà Sách Thánh bảo sẽ là con Ðavít. Thế nên, hắn đã kêu: "Lạy Con Ðavít, xin thương xót tôi". Và hắn không chỉ kêu một lần, nhưng nhiều lần, và càng kêu to khi bị người ta ngăn chặn quát bảo phải im đi. Hắn thật là hình ảnh của người dân Cựu Ước và của nhân loại không ngớt kêu xin ơn cứu độ. Tiếng cầu cứu cứ trùng trùng điệp điệp vang lên tới trời... cho đến khi Ðức Giêsu nghe thấy. Người đứng lại và bảo gọi kẻ mù.
May mắn cho anh ta! Hạnh phúc cho dân Cựu Ước. Thiên Chúa đã dừng lại và cho gọi con người. Tiếng của Người, Lời của Thiên Chúa đã thay đổi hẳn cuộc sống của kẻ lầm than. Cho đến nay, y mù lòa không thấy gì hết và chẳng biết đường đi. Y ngồi bên vệ đường, không theo được con đường cứu độ mà Thiên Chúa đang đi. Y chỉ biết giơ tay xin ăn, tức là nhân loại chỉ biết cầu cứu được thương xót. Bartimê, người mù ở Giêricô, chính là kẻ đang ngồi trong bóng tối cho dù chung quanh đều đang hưởng ánh sáng ban ngày. Ðó cũng là kẻ đang lầm than khổ sở, bất động và bất di bất dịch. Bóng tối đang bao phủ kẻ ấy đúng là bóng tối của tử thần.
Nhưng Thiên Chúa đã cho gọi kẻ ấy lại. Tiếng của Người có sức mạnh làm sao! Marcô kể: hắn vất áo choàng một bên, nhảy chồm dậy và đến cùng Ðức Giêsu . Chúng ta có cảm tưởng hắn đã khỏi mù rồi. Hắn làm như một người có sức sống mới. Vứt áo choàng ra một bên, không phải là thái độ đập tan định mệnh bao phủ lấy mình từ xưa đến nay sao? Ðó là thái độ đổi đời, nhờ lời Chúa mời gọi. Hắn còn nhảy chồm dậy khác nào như Thánh vịnh nói, khi dân Chúa ra khỏi Aicập núi non gò nổng đã nhảy mừng. Ơn cứu độ đến, tất nhiên phải như vậy, vì không thể có niềm vui nào to lớn hơn! Phép lạ đã xảy ra rồi, nên Marcô không cần mô tả như mọi khi nữa. Chúng ta có thể bỏ qua mấy câu trao đổi giữa Ðức Giêsu và chàng Bartimê. Ðó chỉ là những lời tiếp theo và giải thích tiếng gọi ban đầu, để chứng tỏ ảnh hưởng của việc Ðức Giêsu đã đứng lại và truyền gọi kẻ khốn khổ lại gần. Tuy nhiên chúng ta phải để ý đến lời Marcô kết thúc câu chuyện: "Lập tức hắn đã thấy được và theo Ngài lên đường".
Hắn nhập đoàn những người long trọng vào thành Giêrusalem với Ðức Giêsu. Nói đúng hơn đoàn người này là hắn, là những kẻ như hắn đã nghe tiếng gọi tin vào Người và được cứu độ. Và trong cuộc khải hoàn này, theo Marcô, hắn không còn kêu xin "Lạy Con Ðavít, xin thương xót tôi" nữa; nhưng cùng với mọi người đang phấn khởi; hắn chỉ còn tung hô: Hosanna! Chúc muôn lành cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Với những lời này, chúng ta thấy quả thật đã có một nhân loại mới mẻ. Không còn là đám đông khiếp sợ hoặc ngồi trong bóng tối tử thần nữa, nhưng nhờ việc Ðức Giêsu đã dừng chân ở trần gian và lên tiếng kêu gọi, loài người đã được ánh sáng và sự sống mới để nhận ra Chúa và vui mừng trong đức tin.
Ðức Giêsu đã dựng nên một dân mới, dân có Tin Mừng cứu độ: đó là điều mà thánh Marcô muốn thông đạt cho chúng ta qua câu chuyện chàng Bartimê được chữa lành. Và giờ đây được ánh sáng mới của bài Tin Mừng, chúng ta hãy nhìn lại bài Cựu Ước và nhìn sang bài Thánh Thư. Ý tưởng đúng chắc chắn sẽ dễ hiện ra một cách rõ ràng.
2. Người Hoàn Tất Lời Tiên Tri
Quảvậy, lời sách Giêrêmia chỉ trở nên trong sáng sau ngày Ðức Giêsu đã cải tạo dân mới. Trước đó người ta có thể hiểu những lời tiên tri ấy về cuộc hồi hương của người Dothái ra khỏi cảnh lưu đày. Ðúng ra, trước mắt, Giêrêmia cũng đã nhìn thấy như thế. Ông được Thiên Chúa cho biết phải tuyên sấm về dân đang lầm than. Họ sẽ được Thiên Chúa tập họp lại đưa ra khỏi Assyria để trở về quê cũ. Giêrêmia bảo các nước hãy vỗ tay hoan hô đoàn người đang trở về. Họ được Thiên Chúa đoái thương. Cả những thành phần đui mù què quặt cũng được ơn cứu độ. Hơn nữa Thiên Chúa từ nay còn gọi là "trưởng nam" trong cả gia đình nhân loại và Người sẽ là Cha nhân từ của họ.
Những lời này sẽ không phải là những lời tiên tri, mà chỉ là những câu văn thi vị, nếu chỉ có biến cố hồi hương của người Dothái. Ðoàn người trở về bấy giờ đã chẳng được đón tiếp hân hoan bao nhiêu. Và sau một thời gian ngắn họ lại rơi vào tay quân xâm lược khác. Họ chẳng bao giờ cảm thấy thực sự là trưởng nam giữa các dân tộc. Và việc Thiên Chúa là Cha nhân từ của họ cũng chỉ là một niềm tin rất yếu ớt. Chứng cớ là ở thời Ðức Yêsu, Israel vẫn sống trong sự "kinh hãi" Thiên Chúa, chứ không cảm thấy tình Chúa như hiền phụ.
Do đó những lời của Giêrêmia còn phải đi xa hơn và nhắm chỉ những thực tại khác sâu xa hơn biến cố hồi hương của dân Dothái. Ðó là những lời tiên tri, chỉ được thực hiện nhờ Ðức Giêsu và trên một bình diện khác. Hôm nay trên đường đi Người đã chữa lành một người mù; và người này đã đi theo Người, nhập đoàn với cả một đám đông đang khởi hoàn vào Giêrusalem giữa tiếng tung hô.
Lời sách Giêrêmia đã được thực hiện rõ hơn, nhưng vẫn còn là một hình ảnh về một thực tại sâu hơn. Ðoàn người vào thành hôm nay báo trước quang cảnh của Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian, để chỉ trở thành thực tại trong vinh quang Nước Trời. Ở đó mới sẽ rõ rệt quang cảnh một cuộc hồi hương thật sự. Muôn nước sẽ vỗ tay. Israel sẽ bao gồm tất cả những kẻ đui mù, què quặt được chữa lành. Dân Chúa sẽ là "trưởng nam" và chính Người sẽ là Cha hiền của muôn nước.
Nhưng ngay từ bây giờ thực tại ấy đã khởi sự. Hội Thánh hiện nay đang là đoàn người hồi hương ra khỏi cảnh lầm lạc tội lỗi. Nơi Hội Thánh có rất nhiều tội nhân được chữa lành như những kẻ đui mù què quặt được khỏi bệnh. Và nhất là trong Hội Thánh không bao giờ ngớt lời kinh "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Và tất cả được như vậy đều nhờ ở Ðức Giêsu Kitô cứu thế. Công ơn của Người được lời thư Dothái hôm nay mô tả như sau:
3. Người Là Thượng Tế Ðến Muôn Ðời
Nhân loại sa ngã cần phải tạ tội. Và như vậy cần phải có Thượng tế dâng lễ vật và hy sinh. Người vừa phải được lấy giữa loài người để biết thông cảm mọi yếu đuối và yêu cầu của nhân loại; đàng khác Người phải được chính Thiên Chúa lựa chọn, chứ toàn thể loài người tội lỗi biết chọn ai cho vừa ý Thiên Chúa để làm nhịp cầu tái lập sự giao hòa.
Ðức Giêsu có một điều kiện đó. Vì chỉ một mình Người hội đủ các nhân tố kia. Khỏi nói đến việc Người mang nặng xác thể loài người. Người đã đi sâu vào bản tính nhân loại đến nỗi còn hạ mình, mặc hình thức tôi đòi của kẻ tội lỗi. Chính khi bị treo trên thập giá, Người đã tỏ ra thông cảm với mọi yếu đuối và yêu cầu của loài người hơn cả. Thì cũng chính trong hoàn cảnh ấy, bằng việc cho Ðức Giêsu sống lại làm "trưởng tử" giữa loài người hay chết, Thiên Chúa đã như tuyên bố: "Ngươi là Con Ta, chính Ta hôm nay đã sinh ra con... Ngươi là tư tế đời đời theo kiểu Melkiseđek".
Phải, Ðức Giêsu đã trở thành Con đời đời của Thiên Chúa Cha trong mầu nhiệm phục sinh. Người đã được đặt làm Thượng tế trên bàn thờ Thánh Giá, để lôi kéo mọi người lên, tức cũng là trở về nhà Thiên Chúa, hầu được ơn tha thứ mọi tội và đầy Thánh Thần để từ nay không ngớt kêu: Abba, lạy Cha.
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
-------------------------------
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hoœi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phaœi lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”. Thấy người ấy toœ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu baœo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hoœi Người thêm điều gì nữa.
Thứ nhất “yêu Chúa hết tâm can”:
Suy Diễn:
Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, Ngài đã dựng nên loài người chúng ta theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài, nhờ đó, với tâm linh ý thức và tự do, chúng ta có thể nhận biết Ngài là Đấng Hóa Công và yêu mến Ngài là Đấng Cứu Độ, như Ngài biết Ngài và yêu Ngài, hầu được thông phần vào Sự Sống Thần Linh của Ngài và với Ngài.
Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì loài người tạo vật chúng con đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa và tương tự như Chúa mà chúng con phải yêu mến Chúa hết tâm can của chúng con, bằng không, lòng chúng con sẽ không bao giờ được no thỏa và an bình, đúng như Thánh Âu Quốc Tinh đã “Tự Thú” xác tín: “Chúa đã dựng nên trái tim con cho Chúa nên lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết lòng khi thưa tiếng “xin vâng”, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.
Thứ hai “yêu Chúa hết linh hồn”:
Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, sau khi hai nguyên tổ sa ngã phạm tội, đã nhẹ dạ nghe theo chước cám dỗ của tên sát nhân ngay từ ban đầu là ma quỉ hơn tin tưởng nghe những lời của Thiên Chúa vô cùng chân thiện, những lời ban sự sống, Chúa vẫn không bỏ mặc con người hết sức đáng thương; trái lại, Chúa đã tự hứa cứu độ con người, bằng lời hứa sẽ ban cho họ một Đấng Cứu Độ được sinh ra bởi giòng dõi loài người của họ, bởi một người nữ.
Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì Chúa đã yêu thương chúng con khi chúng con còn là những tội nhân, tức khi chúng con, sau nguyên tội, đã trở thành những tội nhân ô uế đáng kinh tởm trước thánh nhan chí ái chí tôn của Chúa, trở thành những kẻ thù đáng Chúa muôn đời trừng phạt, mà tội nhân diễm phúc chúng con phải yêu mến Chúa là Đấng vô cùng trọn lành hết linh hồn của chúng con. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết linh hồn khi cất tiếng chúc tụng “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.
Thứ ba “yêu Chúa hết trí khôn”:
Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, qua Lịch Sử Cứu Độ, Ngài đã tỏ mình ra khi chọn cho Ngài một dân tộc trong các dân tộc trên trần gian này là dân Do Thái, đã thiết lập giao ước với các tổ phụ của họ là Abraham, Isaac và Giacóp, sau đó đã trung thành giữ tất cả mọi lời hứa hẹn và hoàn tất hết những điều giao ước của Ngài, bất chấp dân Ngài tuyển chọn có liên lỉ bất trung hay bội ước với Ngài bằng việc họ không tuân giữ giới luật thánh Ngài ban.
Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì Chúa hằng quan phòng cho cuộc đời của từng người chúng con trên trần gian này, và đã luôn tìm cách để tỏ mình ra cho mỗi một người chúng con, chẳng những qua tiếng lương tâm, mà còn qua những hoàn cảnh thuận lợi, để chúng con có thể thấy được dấu chỉ thời đại của sự hiện diện Thần Linh và lòng từ ái Chúa đối với cuộc đời của mỗi người chúng con, mà loài người thấp hèn chúng con phải yêu mến Chúa hết trí khôn, bằng việc luôn nhận biết Chúa, và nhận biết Chúa mỗi ngày một hơn. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết trí khôn khi ấp ủ và suy niệm những gì Chúa tỏ ra cho Mẹ, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”Amen.
Thứ bốn “yêu Chúa hết sức lực”:
Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, Ngài đã yêu thương thế gian đến ban Người Con Duy Nhất của mình, để ai tin Người Con là tất cả Mạc Khải Thần Linh của Ngài thì không bị chết song được sự sống đời đời. Và Con của Chúa cũng đã đến để thực sự tỏ Cha của Người ra, bằng cách hoàn trọn tất cả những gì đã được Cha Người tiên báo về Người trong Lịch Sử Cứu Độ, khi Người làm chứng cho sự thật: Người chính là Đấng Thiên Sai được Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất tiên báo cho dân Do Thái qua các vị tiên tri, và đồng thời cũng là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại như Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã hứa với hai nguyên tổ ngay từ ban đầu sau nguyên tội.
Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì loài người tạo vật tỗi lỗi chúng con đã được Chúa tái sinh bởi trời, với quyền được làm con cái Thiên Chúa nơi Phép Rửa trong Thánh Thần và nhân danh Chúa Kitô, nhờ đó chúng con có thể kêu lên “Abba, Lạy Cha”, mà Kitô hữu chúng con phải yêu mến Chúa hết sức lực của mình, bằng việc sống theo tinh thần Chúa Kitô, cũng như theo tác động của Thánh Thần. Xin Mẹ Maria, đã yêu mến Chúa hết sức lực khi lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.
Thứ năm “yêu tha nhân như mình”:
Suy Diễn: Chính vì “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất” mà loài người chúng ta phải kính mến Ngài hết mình và yêu thương tha nhân như mình. Thật vậy, “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, ở chỗ, chẳng những đã ban Người Con Duy Nhất của Chúa cho loài người qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, mà thậm chí còn không dung tha cho Con Mình, một đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta, để thực sự chứng tỏ Ngài không phải chỉ là Đấng Hóa Công, Đấng Cứu Độ mà còn là chính Tình Yêu, một Tình Yêu hiệp thông, một Tình Yêu tha thiết muốn tất cả được hiệp nhất nên một với Ngài và trong Ngài.
Ý Nguyện: Lạy “Chúa, Thiên Chúa của chúng con, là Chúa duy nhất”, chính vì Kitô hữu chúng con, bởi Bí Tích Rửa Tội, đã được trở thành chi thể của Chúa Kitô, để làm nên Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể bao gồm tất cả mọi dân nước và mọi văn hóa trên thế giới, mà chúng con phải yêu thương nhau như chính bản thân mình, nhờ đó chúng con có thể làm cho thế gian nhận biết chúng con là môn đệ Chúa Kitô, hầu thế gian cũng được nên một với Giáo Hội trong Cha và Con và Thánh Thần. Xin Mẹ Maria đã yêu mến loài người bằng tất cả tấm lòng từ mẫu của Mẹ khi Mẹ đồng công đứng dưới chân thập giá Chúa Kitô, giúp chúng con biết “yêu Chúa hết tâm can, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, và “yêu tha nhân như mình”. Amen.
Tổng Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu, xin thực hiện mọi sự Chúa muốn nơi con, để con được trở nên mọi sự cho tất cả mọi người, cho tất cả nên một trong Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Kết: Tất cả cùng nhau hát bài “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxicô Khó Khăn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Những ngày cuối Tháng Mân Côi 10/2003
-------------------------------
(Mc. 10:46-52).
ĐEM LẠI NIỀM VUI CHO NGƯỜI KHÁC
Sau một thời gian dài phục vụ khán gỉa, anh hề gìa về hưu và sống trong cảnh cô đơn buồn tẻ. Nhưng rong cảnh cô đơn buồn tẻ đó, anh gặp được một vũ nữ gìa tên là Mary Saphine, cũng hết thời như anh. Để nguôi cơn buồn tẻ, anh dùng hết tài năng, trí lực, và tài sản để nâng đỡ cô vũ nữ này. Rốt cuộc, cô đã thành công trong xã hội, cả về tiền tài lẫn danh vọng. Trái lại, cô lại không mảy may đoái hoài đến anh hề già, vị ân nhân của mình. Charles Monster lại một lần nữa sống trong cô đơn, nghèo khổ, để cuối cùng, chết trong bệnh tật và đơn chiếc. Nhưng trước khi chết, anh vẫn cảm thấy hài lòng vì suốt cả cuộc đời mua vui cho xã hội, và đem lại nụ cười cho người khác.
Có câu chuyện khác cũng hoàn cảnh nhưng anh biết nghĩ đến ngườu khác. Chuyện là anh Fred Collier là một y khoa nghèo không đủ tiền để tiếp tục học. Bỗng một hôm cầm tờ báo trong tiệp ăn viết về lòng quảng đại của một người nhà giầu, khiến anh viết thư xin giúp đỡ. Sau một thời gian tưởng như thất vọng, anh được ông bà phú hộ giúp đỡ tiền của, phương tiện để đạt được thành công. Anh muốn phát triển nghề nghiệp để có tiền đền ơn đại ân nhân. Nhưng ông bà đại phú lại bảo:”Chúng tôi không cần đền đáp công ơn, miễn là khi nào anh có việc làm thì hãy nhớ giúp đỡ người khác”.
Hai câu chuyện có phần giống ngau ở chỗ thương giúp đền quảng đại không nghĩ đến đền ơn. Cũng giống anh mù biết chạy đến với ông đại thương gia Giêsu đầy lòng thương người nghèo khó. Có lúc người đời không phương cứu giúp nhưng đến với Chúa thì sẽ gặp tình thương. Trong vườn cây dầu Chúa đã cầu nguyện:”Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự” tức là Cha không thể từ chối điều gì. Chúng ta hãy thêm: Xin cho con mạnh khỏe, cho con đủ phương tiện , cho con đủ quyền, cho con thương người như con lãnh nhận ơn lành nơi Chúa để con được hưởng tất cả”.
Cung, CMC
-------------------------------
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nếu “con mắt là cửa sổ linh hồn” thì mù lòa là một tai họa lớn đối với con người vì nó cướp mất khả năng “nhìn thấy” sự vật và khiến con người phải sống trong tăm tối. Phúc Âm Máccô đã tường thuật việc Chúa Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa ngọng (Mc 7,31-37). Nay lại kể chuyện Chúa Giêsu chữa lành người mù ở Giêrikhô (Mc 10,46-52).
Câu chuyện chữa lành người mù hôm nay không chỉ đơn thuần là việc chữa lành thể lý, mà còn là việc chữa lành tâm linh, gắn liền với ơn gọi đi theo Chúa Giêsu Kitô.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Gr 31,7-9: Lời hứa phục hồi Ít-ra-en.
7 Vì ĐỨC CHÚA phán thế này: Reo vui lên mừng Giacóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: "ĐỨC CHÚA đã cứu dân Người, số còn sót lại của Ítraen!" 8 Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo. 9 Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ítraen, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng.
(2) Bài đọc 2: Dt 5,1-6: Vị thượng tế biết cảm thương.
1 Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. 2 Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; 3 mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. 4 Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aharon đã được gọi. 5 Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con,” 6 như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê.”
(3) Bài Tin Mừng: Mc 10,46-52: Người mù ở Giêrikhô (Mt 20,29-34;Lc18,35-43).
46 Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. 47 Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" 48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" 49 Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!" Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!" 50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. 51 Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." 52 Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Gr 31,7-9) là sấm ngôn của Giêrêmia về những kỳ công mà Thiên Chúa sẽ thực hiện cho dân riêng Ítraen, để minh chứng Chúa là Cha của dân và dân là con của Chúa. Các việc Thiên Chúa làm cho Ítraen là hồi hương, qui tụ họ thành một dân, ủi an khi họ sầu khổ và hướng dẫn họ từng li từng tí trong cuộc hành trình trần gian của họ.
(2) Bài đọc 2 (Dt 5,4-6) là những lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái, nói về vai trò trung gian, cảm thông, chia sẻ của các thượng tế trong đời sống tôn giáo của Ítraen. Đứng đầu và vượt trội trên tất cả các thượng tế là Chúa Giêsu Kitô, Vị Thượng Tế siêu phàm và được Thiên Chúa đặt làm thượng tế từ muôn đời muôn thưở.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 10, 46-52) là tường thuật của Thánh Máccô về câu truyện Chúa Giêsu chữa lành người mù ở Giêrikhô. Có nhiều tình tiết “đối kháng” rất lý thú, như:
* Anh chàng mù Batimê chuyển
- từ tư thế của người ở bên ngoài, của kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội (ngồi ăn xin bên vệ đường),
- đến tư thế của kẻ ở bên trong hàng ngũ các môn đệ đi theo Chúa Giêsu (tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi).
* Anh chàng mù Batimê còn sáng suốt hơn hai tông đồ Giacôbê và Gioan và mưòi tông đồ kia.
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: "Anh (các anh) muốn tôi làm gì cho anh (các anh)?"
hai ông Giacôbê và Gioan đã không ngần ngại:
" Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang."
Còn anh chàng mù lại chỉ xin:
" Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."
* Anh chàng mù Batimê không chỉ được gọi đến gần Chúa Giêsu mà anh còn được (mời) gọi đi theo Người trên con đường cứu thế của Người:
" Gọi anh ta lại đây!"
“Người ta gọi anh mù và bảo:
" Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!"
Theo các nhà chú giải Thánh Kinh,
câu chuyện chữa lành mắt anh mù cũng chính là
câu chuyện của ƠN GỌI (CALL) làm môn đệ Chúa Giêsu,
tức đi theo Chúa Giêsu trên con đường tiến về Giêrusalem,
là con đường Thập Giá Cứu Độ (anh đi theo Người trên con đường Người đi).
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp mà ba bài Sách Thánh dành cho chúng ta hôm nay là:
Thiên Chúa, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành khả năng thể lý mà còn chữa lành và nâng cấp khả năng tâm linh, để chúng ta nhận ra Chúa và tiếng GỌI của Người mà đáp lại tiếng GỌI ấy và đi theo Chúa trên con đường cứu nhân độ thế bằng hy sinh thập giá.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực hiện sứ điệp của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm xem tình trạng tâm linh của chúng ta hiện ra sao?
- Nếu chúng ta không còn khả năng nghe tiếng Chúa gọi và bước theo chân Người thì chúng ta phải chạy đến với Chúa để xin Chúa chữa lành tâm hồn chúng ta.
- Nếu chúng ta còn khả năng nghe tiếng Chúa gọi thì phải nhạy bén trước tiếng gọi của Chúa và mau mắn đáp lại tiếng gọi ấy mà gia nhập hàng ngũ những kẻ đi theo Chúa Giêsu, dù có phải theo chân Người đi vào con đường Thập Giá.
IV. CẦU NGUYỆN: CẢM TẠ HỒNG ÂN CHÚA
Hồng Ân Thiên Chúa bao la
Muôn đời con sẽ ngợi ca Ơn Người
Bao năm vụng dại trên đời
Kỳ này Chúa Gọi, nhận lời Xin Vâng
Quyết tìm gặp Chúa Tình Nhân
Mong Thầy biến đổi, dấn thân theo Thầy
Xin Thầy thánh hóa con đây
Để con thuần phục, theo Thầy hiến dâng
Mến Thầy, Yêu Bạn không ngừng
Theo Thầy sai dạy, TIN MỪNG loan đi
Sẳn sàng nhập cuộc xá gì
PHÚC ÂM Truyền Bá, Thực Thi LỜI NGƯỜI
Hãy đi Loan Báo cho Đời
TIN MỪNG CỨU ĐỘ Nước Trời gần xa…..
(Mátthêu Cao Trí Dũng)
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Forth Worth (TX/USA) ngày 13.10.2006
Mân Côi.Ghi nhớ ngày Đức Mẹ hiện ra ở Fatima (Bồ Đào Nha) ngày 13.10.1917.
----------------------------
Điểm đặc biệt của trích đoạn Tin Mừng hôm nay khiến chúng ta cần suy nghĩ, đó là khi nghe người ta nói Chúa Giêsu gọi anh, anh mù Bartimaeus “đã bỏ áo choàng lại và tung người chạy đến với Chúa Giêsu” (Mc 10:50).
Nếu có một đoạn phim quay lại biến cố này, hẳn là chúng ta sẽ thấy anh Bartimaeus mặt mày hớn hở, đôi mắt nhấp nháy, chân thấp, chân cao, lảo đảo lao về phía trước với thái độ tự tin để tìm gặp Chúa Giêsu, mặc dù anh không thấy Ngài. Và chúng ta như thấy nét mặt vui tươi của cả hai người, nhất là nét mặt hiền từ của Chúa Giêsu đang đứng đâu đó, giang rộng hai tay đón lấy anh. Nhưng nhất là nét mặt vui mừng hớn hở của anh Bartimaeus khi được Chúa cho bừng sáng con mắt.
“Đức tin anh đã chữa anh” (Mc 10:52). Đây là câu nói mà hầu hết những lần thi thố phép lạ cho ai, Chúa Giêsu cũng vẫn thường nói. Ở đây chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa không nói những đóng góp công sức, những của lễ ông, bà, anh, chị, em dâng, những lời kêu cầu đã cứu anh, chị khỏi, nhưng Ngài lại nói: “Đức tin con đã chữa con”, hoặc như trong trường hợp này, Ngài nói với Martimaeus: “Đức tin anh đã chữa anh”. Thưa vì chính do sự tin tưởng tuyệt đối, phó thác hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa đã mở lối để Ngài đi vào đời sống của chúng ta, và qua quyền năng ấy chúng ta được chữa lành. Vì thực chất, không ai trong chúng ta có công trạng gì để đáng được lãnh nhận phép lạ.
Đức tin anh hùng:
Thật vậy, khi nói đến đức tin – một đức tin làm nên phép lạ – thì phải hiểu rằng đức tin ấy là đức tin mang những nét anh hùng vượt ra khỏi suy nghĩ thường tình. Một đức tin sống động. Một đức tin không chỉ căn cứ bằng việc tuyên xưng ngoài miệng như chúng ta vẫn thường làm khi đọc Kinh Tin Kính, hoặc đọc kinh ngoài miệng. Đức tin sống động phải dẫn tới việc làm, mà việc làm cần thiết nhất là phải tuyệt đối tin vào quyền năng Thiên Chúa và phó thác nơi quyền năng ấy. Anh Martimaeus đã gào thét, đã van xin Chúa mặc cho người khác cấm đoán. Anh đã bỏ lại áo choàng và lao mình chạy đến với Ngài mặc dù anh không nhìn thấy Ngài.
Anh Bartimaeus đã để lại áo choàng bên vệ đường, lao mình vào vòng tay Chúa. Điều này cũng có nghĩa là anh không xá gì đến con người của mình, đến quá khứ của mình. Trước mặt anh chỉ có Chúa Giêsu, mà với anh, Ngài là tất cả. Anh chấp nhận vấp ngã, chấp nhận rủi ro để lao về phía Ngài, vì anh tin chắc Ngài đang ở đâu đó quanh anh, và không thể để anh vấp ngã. Ở đây đức tin của anh đã đưa ra một mẫu sống thực hành cho tất cả chúng ta, những người đang tin vào Chúa Giêsu.
Nét anh hùng của đức tin được chứng tỏ bằng những việc làm mà con người tình cảm, lý lẽ tự nhiên không làm được. Tổ Phụ Abraham đã dám giết con mình vì tin vào lời Chúa. Những anh hùng tử đạo dám can đảm dâng hiến mạng sống mình vì tin vào Chúa. Tính chất anh hùng ấy phải được tìm thấy qua những hành động thường nhật của chúng ta. Thí dụ, vì tin nhận Chúa và vì tuân giữ lời Ngài, ta dám bỏ đi thói quen nghiện hút, cờ bạc. Dám hy sinh mối tình ngang trái. Dám dấn thân vào những hoạt động tông đồ đòi hỏi hy sinh thời giờ và tiền của. Dám hãnh diện xưng mình là người Công Giáo trong những sinh hoạt xã hội. Dám sống đời hôn nhân một vợ, một chồng trong khi chung quanh mình với bao cám dỗ và mời gọi. Dám sống liêm chính, ngay thẳng và bác ái giữa một thế giới giant ham, lừa lọc, và ích kỷ. Qua cái nhìn đức tin, những hành động lớn lao, anh hùng không mấy khi Chúa đòi hỏi, nhưng những việc làm nhỏ nhoi kia lại là những lời tuyên xưng mạnh mẽ mà Chúa muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu.
Ngoài ra, tin có nghĩa là bằng lòng đón nhận cách vui vẻ tất cả những gì Thiên Chúa ban tặng. Tin chắc chắn rằng điều Ngài ban đó là tốt nhất, cần thiết nhất cho phần rỗi của ta. Và rằng tất cả những gì Thiên Chúa ban cho ta không nhất thiết phải là điều mình xin, hay mình muốn cũng đều phát xuất từ tấm lòng yêu thương vô bờ bến của Ngài – Cha chúng ta ở trên trời.
Đức tin thực hành:
Thánh Kinh còn ghi nhận, liền sau khi Chúa Giêsu cho anh được thấy, thì lập tức Bartimaeus đã “đi theo Ngài” (Mc 10:52). Điều này khiến chúng ta phải nghĩ đến một khía cạnh khác của Đức tin là thực hành. Là làm chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa. Vì tin nhận Chúa, vì đón nhận được phép lạ Ngài ban nên chúng ta gắn bó với Ngài, đi theo Ngài vào những ngả đường truyền giáo làm chứng nhân cho Ngài. Tin không chỉ giúp mình nhìn nhận ra Thiên Chúa, mà còn thúc đẩy ta phải ra đi, vào đời để phổ biến niềm tin ấy.
Thật ra, trong đời sống thường ngày, tất cả mọi người chúng ta đều đang sống bằng những phép lạ Thiên Chúa ban. Sức khỏe, tài năng, trí thông minh, sự bình an trong đời sống, bình an trong gia đình, bình an nơi môi trường chúng ta đang sống. Khí trời, nước uống, gió mát, cây trái, và các thức ăn bốn mùa dư thừa quanh ta. Tất cả những cái này không phải đến với ta và nhân loại từ bàn tay rộng rãi Chúa ban sao. Và chúng chẳng phải là một phép lạ trước con mắt chúng ta sao. Hãy chỉ nhìn vào khu vườn sau nhà chúng ta. Cùng một thửa đất mà mỗi cây trái có mùi vị, và hình thù khác nhau. Mỗi bông hoa đều có những nét đẹp, hương sắc khác nhau. Đó chẳng phải là một phép lạ?!
Những người Do Thái cùng thời với Chúa Giêsu, đặc biệt, những người theo Ngài khi được ăn bánh no trong hoang địa. Những người đã chứng kiến việc Ngài cho Lagiarô và con trai bà góa Naim sống lại. Những người đã nhìn thấy việc Ngài hóa nước lã thành rượu ngon. Hoặc những người đã hân hoan theo Chúa vào thành thánh Giêrusalem, tung hô vạn tuế Ngài, nhưng cũng chính họ do lời xúi bẩy của các thượng tế và kỳ lão đã lại kêu án tử cho Ngài. Những người này tượng trưng cho những kẻ thấy mà không tin.
Trong thực hành, nhiều lần và nhiều cách chúng ta cũng không nhìn ra Chúa qua những biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Giữa những thử thách cuộc đời, chúng ta thường tìm kiếm những lối giải quyết của con người, hơn là nhìn vào thánh ý Chúa để xem Ngài muốn chúng ta làm gì.
Có lẽ chúng ta phải xét lại lối sống của mình. Hành động của mình. Và mức độ tin nhận của mình. Chúng ta có dám từ bỏ tất cả, để lại đàng sau tất cả để lao mình vào vòng tay Chúa một cách tin tưởng tuyệt đối không? Đó là những lúc chúng ta gặp đau thương, thử thách. Đó là những lúc chúng ta gặp thất bại và đau khổ. Trong những lúc ấy chúng ta có dám tin rằng Chúa đang yêu ta, và đang ở đâu đó quanh ta không? Và bằng với hành động phó thác, chúng ta có dám lao mình vào vòng tay ây yếm của Ngài bằng sự chấp nhận và vui lòng với những thánh giá cuộc đời không? Chính ở điểm thực hành này mà đức tin của chúng ta mới đem lại phép lạ. Mà phép lạ lớn lao nhất là sự bình an trong tâm hồn, và lòng yêu mến Thiên Chúa.
“Đức tin anh đã chữa anh”. Ước gì đức tin của chúng ta cũng sẽ chữa lành sự mù lòa tâm linh đang làm cho chúng ta không nhìn ra Thiên Chúa. Sự mù lòa tâm linh thường khiến chúng ta đi trong tăm tối cuộc đời, làm cho chúng ta ngày càng xa Chúa là nguồn ánh sáng giải thoát và bình an. “Lậy Chúa, xin cho con được sáng”.
T.s. Trần Quang Huy Khanh
----------------------------
Mc 10, 46 – 52
Cách đây không lâu khi lớp chúng tôi đến học hỏi thực tập mục vụ tại một họ đao thuộc thành phố Cần Thơ; sau khi nghe cha sở chia sẻ về công việc mục vụ: cha lo lắng cho giáo dân từ tinh thần cho đến vật chất, cha không chỉ chú tâm xây dựng nhà thờ vật chất , mà cha còn lo xây dựng nhà thờ tinh thần trong lòng giáo dân. Nhưng điều làm tôi đánh động nhất chính là cách cha đối xử với người nghèo, người bệnh tật cô đơn... cha luôn quan tâm đến họ cách đặc biệt. Cha thật là người mục tử cho chúng tôi học hỏi và noi theo. Thì hôm nay bài Tin Mừng lại giới thiệu cho tôi một mẩu gương phục vụ tuyệt hảo hơn rất nhiều. Đó là Đức Giêsu người đã động lòng trước sự kêu xin tha thiết của người mù bất hạnh ngồi ăn xin bên vệ đường.
Anh mù hôm nay không hề thấy Đức Giêsu, nhưng anh đã nghe biết nhiều về người, Khi Đức Giêsu đi ngang thì đúng là cơ hội "ngàn năm một thuở". Lập tức anh ta đã kêu to lên để được Đức Giêsu chú ý. Chắc những người đi theo Đức Giêsu lúc đó rất khó chịu, vì họ đang nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu, mà anh mù này lại hét to hết sức có thể, thì đúng là một sự xúc phạm không thể chịu được. Cho nên những người đi trước "mắng bảo anh ta nín đi". Nhưng lúc này không có gì có thể ngăn cản anh ta, anh quyết phải gặp cho được Đức Giêsu con người mà bấy lâu anh hằng mong đợi. Tuy anh không thể thấy nhưng trong tâm trí anh nhìn thấy Đức Giêsu lúc này không phải là một sự mơ hồ, lờ mờ, hoặc do cảm xúc. Nhưng đây là một ước muốn thiết tha. Và cũng chính ước muốn này đã khiến cho mọi sự được thành.
Chính lòng tha thiết mà anh đã được Chúa Giêsu "dừng lại". Vì Ngài không phải là mục tử của kẻ kiêu căng ngạo mạn, mà Ngài là vị mục tử của những người bất hạnh nghèo nàn, là vị cứu tinh nhân hậu, Đặc biệt ứu ái với đám dân kém may mắn. Ngài nhìn đến con người mù lòa. Ngài đã để ý bên vệ đường và thấy tình trạng thống khổ, không ai lưu tâm, không ai lắng nghe lời của một người ăn xin, tệ hơn nữa còn muốn cho anh ta im đi. Nếu Ngài không là người quan tâm đến họ, không tinh ý thì khó có thể nghe thấy được. Việc anh mù ao ước xin chữa lành, còn đáng giá hơn ngàn lần sự cuồng nhiệt của dân chúng. Hay giấc mơ vinh quang và hy vọng tiến thân, tranh giành quyền lực địa vị không chính đáng của các môn đệ....Hình ảnh anh mù lúc này la một tấm lòng tuyệt diệu trong ánh mắt của Đức Giêsu . Ngài đả phá việc cổ vũ cuồng nhiệt bên ngoài mà trong lòng không chút gì khao khát Thên Chúa, Ngài thông cảm giữa bậc cao sang và kẻ hèn hạ, giữa người thông sáng với kẻ mù lòa, giữa người thi ân và kẻ lãnh nhận.
Nếu xét về mù lòa tâm hồn thì không những chỉ có trong đám đông theo Chúa Giêsu hôm nay, nhưng có rất nhiều người kể cả các tông đồ. Khi chữa lành người mù Đức Giêsu nói: "lòng tin của anh đã chữa anh". Ngài muốn gửi đến một thông điệp cho tất cả chúng ta, cũng như cho các tông đồ là phải có niềm tin thì mới được lành mạnh. Nhờ tin mà người hành khất được thấy ánh sáng, cơ hội này cũng là dịp cho các Tông Đồ được mở trí soi lòng và xứng đáng được tháp tùng với Ngài lên Giêrusalem. Người mù đã được sáng, lòng tin là ánh sáng mới, ánh sáng đó đã giúp phát hiện ra những thực tại bị che khuất, giúp khám phá những điều chưa ai biết. Ánh sáng này giúp khám phá những điều vượt khỏi giác quan và lý trí con người. Ai không nhìn thấy Ánh Sáng này mới chính người mù thật sự.
Điều làm cho Đức Giêsu đau lòng nhất chính là những người đang mù mà lại không biết mình mù, cứ ảo tưởng cho mình là sáng, là tốt đẹp...không cần đến ai chỉ đường cả. Thậm chí là Thiên Chúa họ cũng chẳng màng. Chính vì thế đòi buộc người tín hữu phải mau mắn thi hành chức vụ tiên tri mà mình đã lãnh nhận, có bổn phận dìu dắt chỉ đường cho họ biết tìm đến ánh sáng. Nhưng chúng ta phải làm thế nào giữa một xã hội luốn đòi hỏi những chứng cư cụ thể. Vì thể, nếu chỉ rao giảng bằng lời nói thì đó chỉ là thứ lý thuyết suôn vô bổ. Lời rao giảng đó phải được cụ thể hóa bằng hành động, bằng cuộc sống vị tha, bác ái, mới may ra giúp họ nhận ra mình đang bị mù mà nói với Chúa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy"
Cuối cùng tôi xin mươn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô làm lời nguyện: "Lạy Chúa, xin cho con biết đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cây vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu..." Amen.
----------------------------
Mc 10, 46 – 52
"Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh " (Mc 10,52)
Câu chuyện người mù Bactimê được sáng mắt cho thấy sức mạnh của niềm tin nó sẽ cứu chữa chúng ta khỏi đau khổ và bất hạnh. Chúa Giêsu đến để kêu gọi mọi người hãy tin vào Ngài, chính Ngài sẽ giải thoát, cũng như chính Ngài khơi gợi niềm tin trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai tin vào Ngài thì được cứu khỏi tội lỗi và được hạnh phúc.
Trong Tin Mừng có rất nhiều câu chuyện diễn tả về sức mạnh của niềm tin như câu chuyện đầy tớ của một đại đội trưởng Rôma (Mt 8, 5-13) với việc Chúa Giêsu chỉ phán một lời là được cứu sống và người đàn bà bị băng huyết mười hai năm khi chỉ nghĩ rằng đụng vào tua áo của Chúa Giêsu là được khỏi (Mt 9, 20-22), thật sự bà được chữa khỏi mà không cần một hành động hay lời nào của Chúa Giêsu hay người con gái của bà góa ngoại giáo xứ Canana (Mt 15,21-28), khi Chúa Giêsu thử thách bà bằng cách làm ngơ trước sự van xin tha thiết nhưng cuối cùng con gái bà cũng được chữa khỏi...còn rất nhiều câu chuyện khác trong Tin Mừng nói lên sức mạnh của niềm tin.
Ở đây, anh mù Bactinô được sáng mắt do sự kêu cứu quyết liệt và kiên nhẫn của anh ta. Anh không thấy nhưng anh nghe được, anh nghe người khác bàn tán về một ông Giêsu nào đó có khả năng làm nhiều chuyện lạ, có thể nói anh kêu cứu Chúa Giêsu một cách cầu may. Cái mù đã làm anh đau khổ một thời gian dài và hiện tại dù có nhiều người quát mắng, cản trở mình nên anh gào lên thống thiết và mãnh liệt hơn khi nghe tin Chúa Giêsu đã gần đến mình vì bây giờ là cơ hội anh được giải thoát. Chúa Giêsu đã đoái đến và cứu chữa anh.
Nơi Chúa Giêsu, khi thực hiện một việc cứu chữa, Ngài có nhiều cách để thực hiện, bằng lời nói, hành động hay ngay cả một sự thách thức để thử thách. Đó là quyền của Ngài nhưng Ngài luôn biết nhu cầu, ước muốn và suy nghĩ của con người. Ngài đến là để cứu chữa khỏi mọi bệnh tật, tội lỗi của con người, điều còn lại là nơi mỗi người chúng ta có muốn, kiên nhẫn và tin vững vàng vào quyền năng và tình thương của Chúa hay không?
Chúa Giêsu không cho thấy Ngài đã làm gì để cứu chữa anh mù này, Ngài chỉ kêu gọi hãy để anh đến gần mình và người khác đừng cản trở anh chỉ với một câu xác nhận đơn giản "lòng tin của anh đã cứu anh", anh mù Bactimê được sáng mắt, một cuộc sống mới đầy ánh sáng đã đến với anh.
Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người, nơi vũ trụ vạn vật này và sâu xa hơn là Ngài ở trong chính thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta. Làm sao nhận ra, để tin, để xác tín và sống trọn vẹn với Chúa, Chúa vẫn ở ngay trước mặt chúng ta với những gì chúng ta đang có và đang sống hôm nay. Chúa cũng nói với chúng ta niềm tin của con đã cứu con, tin như nào thì được như thế ấy nhưng tất cả điều xuất phát từ nơi Chúa, ơn của Chúa và chính Chúa là Đấng ban ơn. Ơn Chúa luôn dư đầy cho những ai luôn biết mở rộng lòng mình để đón nhận, tin vào Chúa thì cuộc sống sẽ thay đổi tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Niềm tin có sức mạnh giải thoát nhưng chúng ta phải tin vào điều gì và tin vào ai? Đó là điều quan trọng.
Lạy Chúa xin cho con có được niềm mạnh mẽ và sâu xa vào Chúa để đời sống của con được biến đổi và được cứu chữa khỏi mọi tội lỗi.
----------------------------
Mc 10, 46 - 52.
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi nghe bài hát được ca sỹ Nguyễn Hưng diễn tả hết tâm tình, nên tôi rất thích. Bài hát mang tên Đôi mắt, trong đó có những câu:
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,
Để nhìn đời, và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt mầu đen,
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn,Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt,Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Thật thế, đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác của thiên nhiên. Nếu đôi mắt đóng lại, thì mọi hướng đi dường như cũng đóng lại và cuộc đời dường như ở vào một tình thế bất động, ở bên lề của cuộc sống.
Nhìn vào anh mù đang ngồi ở vệ đường. Đôi mắt anh ta không thể mở được, nên anh ta đành ở bên lề cuộc sống, anh ngồi bên lề đường, không thể hòa cùng mọi người để có những bước chân thong dong trên đường. Anh ta còn phải trông chờ vào những của bố thí dư thừa để nuôi sống bản thân. Anh ta cũng trông chờ những tin tức dư thừa để theo dõi tình hình chung quanh một chút ít nào đó, đôi khi còn bị ngăng cản. Anh cũng muốn hòa với mọi người bước trên đường cuộc sống, nên khi được hỏi, không cần suy nghĩ lâu, anh trả lời ngay: "Lạy Ngài xin cho tôi được sáng mắt". Anh không xin tiền bạc hay của nuôi thân. Anh đã vất tấm áo choàng là món đồ nghề của mình, nhảy chồm lên, vượt khỏi tình trạng bất động, bên lề đường, bên lề cuộc sống. Cú nhảy là bước chân đầu tiên để bước vào con đường của cuộc đời. Mặc dù đôi mắt thể chất chưa được sáng nhưng mắt tâm hồn anh đã mở ra, đã nhìn thấy Đấng mở mắt cho mình. Anh bước theo con đường mà ngài dẫn dắt.
Mỗi người chúng ta có được cái tuyệt tác của thiên nhiên, cửa ngỏ tâm hồn đó là đôi mắt. Nhưng vì chúng ta xử dụng quá nhiều để nó trở nên là cái gì quá bình thường, cho đến đỗi nhiều khi chúng ta không còn biết quí trọng nó nữa, thậm chí nhiều khi chúng ta quên mất đi sự hiện diện của cái tuyệt tác này. Khi nào mà đôi mắt có vấn đề, khi đó chúng ta mới cảm thấy phải chú ý, nhưng có khi lại quá trể để không còn có thể làm gì được nữa.
Cái cửa ngỏ của tâm hồn đó nhiều khi cũng bị chúng ta đóng kín nó lại, không cho nó nhìn thấy những điều cần phải thấy, không cho nó nhìn thấy hướng đi đúng đắn để mà đi. Chúng ta muốn ngồi bên lề cuộc sống để hưởng thụ, bất chấp những tiếng xôn xao của cuộc đời, bất chấp những bước chân của sự thật, bất chấp lời mời gọi đứng lên của Thiên Chúa. Chúng ta cố bám lấy chiếc áo choàng của sự ích kỷ để tìm tư lợi bản thân, áo choàng của sự nóng nải, cố chấp để không thể nghe được tiếng mời gọi thống thiết, áo choàng của sự ghen tương đố kỵ, để không thể bước chân trên con đường yêu thương và chấp nhận người khác ở bên cạnh. Chúng cũng không thể vượt qua được sự tự ái quá lớn của bản thân, vì chiếc áo choàng đó quá nặng nề làm trì trệ bản thân. Chính vì thế chúng ta không thể nào có được cú nhảy vọt như anh mù trong bài phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Nhiều lần Chúa đến bên cạnh, hỏi ý kiến, nhưng chúng ta không dám mở lời xin cho được sáng mắt, vì sợ phải bỏ đi chiếc áo choàng nghề nghiệp của mình. Chúng ta cũng sợ phải bước đi theo Chúa, vì con đường của Ngài là con đường Thập Giá, con đường vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là con đường yêu thương. Chúng ta sợ phải vất đi chiếc áo choàng bản thân mình, nên nhiều lần không nhận ra được Ngài trong đám đông qua lại của cuộc đời. Chúng ta vẫn mở mắt nhìn nhưng không thấy gì, vì chỉ thấy chiếc áo choàng của bản thân và những lợi lộc dư thừa đang chứa trong đó. Nếu như thế thì cửa ngỏ tâm hồn mình đã tự đóng lại, vậy thì cái tuyệt tác của thiên nhiên đã phí đi nơi con người của chúng ta. Chẵng lẽ con đường mà Chúa Giêsu bước đi cùng với bao nhiêu người đã từng bước theo, không phải là con đường của chúng ta sao? Chẳng lẽ chúng ta chịu ngồi lì bên lề cuộc sống mãi như thế sao? Vậy thì tương lai mai sau, kết thúc cuộc đời chúng ta cũng đành chịu ngồi bên lề cuộc sống, chứ không chịu vào con đường hạnh phúc mà Thiên chúa mời gọi mỗi người cùng chung hưởng hay sao? Như thế thì cuộc sống đời người vô ích quá.
Xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng ta nhìn thấy đường đi của Ngài và can đảm bước theo.
----------------------------
TN 30-B79. TIN, THẤY VÀ ĐI THEO
Mc. 10, 46 - 52.
"Lạy Thầy xin cho con được thấy"
Các môn dệ và dân chúng gặp Chúa Giêsu, thấy Chúa Giêsu thường xuyên nhưng họ lại không nhận ra Chúa Giêsu là con vua Đavid, là Messia. Họ chỉ nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt người thế, chỉ thấy hình dáng con người của Chúa Giêsu mà không tìm hiểu sâu hơn nữa, nên không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế.
Có lẽ đang lúc đất nước bị đô hộ, người do thái chỉ nghĩ đến một ông vua Messia trần thế để thỏa mãn niềm tự hào dân tộc của họ chứ không nghĩ xa xôi về ơn trọng đại của Thiên Chúa sắp ban cho loài người: ơn cứu chuộc linh hồn, đem lại sự sống đời đời cho mọi người. Lý do chính khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là vì họ nghĩ đến quyền lợi trần thế nhiều hơn lợi ích phần hồn, ưu tiên cho vật chất nhiều hơn tinh thần, bận tâm cho đời này hơn là đời sau.
Những người sáng mắt thể lý mãi lo nghĩ đến vấn đề vật chất, chức quyền nên khó nhận ra chương trình siêu việt của Thiên Chúa. Còn anh mù Bartimê nghe biết Chúa Giêsu bằng con mắt tâm hồn, anh đã tuyên xưng Chúa Giêsu bằng tước hiệu của Đấng Messia: Con vua Đavid. Cho dù nhiều người không muốn cho anh gặp gỡ Chúa Giêsu và nói lên lời tuyên xưng của mình nhưng anh vẫn la to: Lạy Con vua Đavid, xin thương xót tôi.
Chúa Giêsu ở giữa đám đông vây kín, nhưng Ngài vẫn nghe rõ tiếng của anh từ xa. Ngài truyền gọi anh đến. Anh tin tưởng hết lòng vào Chúa Giêsu nên vứt bỏ áo choàng là tài sản rất quan trọng của anh, bỏ vị trí quen thuộc của mình để đến với Chúa Giêsu. Anh đã được toại nguyện và đi theo làm môn đệ Chúa.
Anh mù Bartimê có lòng tin qua những lời người ta thuật lại cho anh về Chúa Giêsu. Anh được Chúa mở mắt và cho làm môn đệ. Còn chúng ta, chúng ta là những người sáng mắt, chúng ta có giống đám đông dân chúng: có mắt mà tâm hồn thiếu ánh sáng đức tin, không nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện bên mình, không biết rằng mình đang được diễm phúc nhìn ngắm, nghe những lời phán dạy trực tiếp từ Người và còn được sờ chạm vào Người nữa. Nếu như đôi mắt tâm hồn của họ mở thì họ đã không giết Chúa Giêsu. Nếu như đôi mắt đức tin của chúng ta mở thì chúng ta sẽ không bỏ lễ Chúa Nhật và rất ham đi lễ hằng ngày để được gặp Chúa, để lắng nghe Lời Người, để được ăn Thịt uống Máu Người trong Bí tích Thánh Thể, được rước Người vào lòng mình. Nếu đôi mắt tâm hồn chúng ta mở rộng thì chúng ta sẽ nhận ra mọi người là anh em, sẽ yêu thương tha nhân và sẵn sàng cứu giúp những người nghèo khổ xung quanh.
Ước gì chúng ta biết đến với Chúa để Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta được sáng thêm, đời chúng ta gắn bó với Chúa hơn như anh mù Bartimê trong Tin mừng hôm nay. Như thế, mọi công việc chúng ta làm hàng ngày đều là làm với Chúa và vì Chúa. Đó là sự an ủi cho những khó nhọc hàng ngày của chúng ta, đó cũng là phần phúc của chúng ta đời này và đời sau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhận ra tình thương và hồng ân Chúa trên chúng con để chúng con biết cảm tạ Chúa và hết lòng cậy trông vào ơn cứu độ của Ngài.
----------------------------
TN 30-B80. KHÁT VỌNG CHÍNH ĐÁNG
Mc 10, 46 – 52
Cuộc sống con người là một chuỗi những khát vọng. Có những khát vọng chính đáng, nhưng cũng có những khát vọng không chính đáng. Khát vọng làm lớn của Giacôbê và Gioan (ngồi bên tả, bên hữu Chúa Giêsu) là không chính đáng. Khát vọng được nhìn thấy của người mù Bartimê trong Tin mừng là rất chính đáng.
Những khát vọng chính đáng mà không khả thi thì cũng chỉ là mơ mộng hão huyền. Khát vọng của anh chàng mù Bartimê đã trở thành hiện thực vì anh đã gõ đúng cửa, tìm đúng nơi để tỏ bày khát vọng của mình. Và Chúa Giêsu đã đong đầy khát vọng chính đáng của anh nhờ lòng tin vào Chúa vững mạnh của anh. Con mắt tâm hồn sáng tỏ sẽ mở ngỏ cho niềm tin đi về và làm lớn mạnh niềm tin ấy.
Có thể nói, trước khi gặp Chúa, con mắt thể xác của anh chàng Bartimê bị mù, nhưng con mắt tâm hồn, con mắt đức tin của anh là rất tốt và rất sáng. Anh đã nhìn thấy được Chúa Giêsu là Con Vua Đavit và là Con Thiên Chúa, Đấng có thể đông đầy khát vọng chính đáng nơi anh: "Lạy Con Vua Đavit, xin cho tôi được thấy". Với con mắt đức tin sáng tỏ như thế khiến cho anh có sức mạnh để đến được với Chúa Giêsu dù bị ngăn cản bởi những người khác. Như vậy, chúng ta có thể nói được rằng: con mắt đức tin quan trọng hơn con mắt thể xác vì khi con mắt đức tin đã sáng rồi thì mọi chuyện cũng trở nên sáng. Con mắt đức tin sẽ giúp cho con người tin nhận Thiên Chúa, Đấng là nguồn Aùnh sáng và nguồn Hạnh phúc của con người trong cuộc đời này. Cho nên, điều quan trọng trong cuộc đời chúng ta là làm sao giữ cho con mắt đức tin của mình đừng bao giờ bị mù hay bị che khuất bởi những dục vọng đen tối của mình.
Nhưng trong thực tế, có rất nhiều người dù con mắt thể xác vẫn sáng, vẫn đẹp nhưng con mắt đức tin của họ đã bị mù. Vì thế, họ không nhận ra được Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, không nhìn thấy người khác là anh em của mình. Mù mắt đức tin sẽ dẫn đến những hậu quả đáng sợ như:
- Thấy mình là tất cả nhưng không thấy Thiên Chúa. Họ không cần ai làm người chỉ đường cho họ trong cuộc đời này. Vì thế, họ bước đi trong cuộc đời này mà không biết mình đi đâu. Nói cách khác là họ không thấy và không biết con đường mình đang đi. Chỉ biết mình đang đi nhanh, đi hết tốc độ. Và vì không biết đường cũng không thấy đường nên họ không đi tới được nơi mình muốn tới, hoặc sẽ bị sa xuống vực thẳm. Có thể nói, tâm hồn của nh?ng ng??i có tâm hồn mù tối như ly nước đã đầy, không thể rót gì thêm vào đó được nữa. Chúa có ban ơn cho họ thì cũng bằng thừa. Thiên Chúa cũng hãy còn xa lạ với họ lắm!
- Không nhìn thấy tha nhân là anh em của mình nên họ sống ích kỷ, tham lam, độc ác với đồng loại của mình. Họ sẽ nhìn người khác theo kiểu: người với người là chó sói của nhau. Ai mạnh thì thắng, ai yếu thì thua. Không có vấn đề tình yêu trong cuộc đời này. Anh mù Bartimê cũng đang bị người ta ngăn cản trong việc anh đến với Chúa Giêsu. Họ cho rằng anh mù này không đáng được xót thương. Nhưng với Chúa Giêsu thì mọi sự đã thay đổi.
- Bất mãn và hay buông xuôi với những gì xảy ra không đúng với ý muốn của họ. Vì họ không thấy được ý nghĩa của những gì mà họ gọi là "đau khổ". Đối với họ, thập giá là điều ô nhục, là dấu chỉ của sự suy tàn trong vô vọng. Họ không thể thấy và không thể hiểu hiểu: " Con đường từ Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang phục sinh huy hoàng".
Chúng ta hãy xét lại xem con mắt đức tin của mình có được sáng hay chưa? Xin Chúa ban cho chúng ta luôn có được con mắt đức tin luôn cháy sáng, để chúng ta biết nhận ra những điều quan trọng trong cuộc đời này là Kính Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Nếu đôi mắt tâm hồn của chúng ta có bị lu mờ hay mù tối thì chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa để được Người chữa lành cho chúng ta để chúng ta biết khao khát những chuyện đẹp lòng Chúa trong cuộc đời này, vì Chúa đã phán: "Phúc cho biết khao khát nhân đức trọn lành, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho no đầy". Amen.
----------------------------
TN 30-B81. ƯỚC AO ĐƯỢC NHÌN THẤY
Mc 10, 46 – 52
Một trong những nỗi khổ tâm của con người là không được nhìn thấy cảnh vật và những người đang sống xung quanh mình. Thà rằng không có đôi mắt chứ nếu có mà không nhìn thấy được thì còn bất hạnh nào hơn. Vì đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn. Nếu rơi vào hoàn cảnh ấy chắc chắn ao ước duy nhất của chúng ta là được nhìn thấy.
Cũng vậy người mù Bartimê trong đoạn Tin mừng hôm nay rất ước ao được nhìn thấy. Hoàn cảnh của anh lại càng đáng thương hơn vì không những anh bị mù mà anh lại còn nghèo nữa. Vì nghèo nên anh phải ngồi ăn xin bên vệ đường ngày này sang ngày khác.
Nghe biết có Chúa Giêsu đi ngang qua, bất chấp tất cả anh đã kêu xin Người: "Lạy ông Giê-su, Con vua Ða-vít, xin dủ lòng thương tôi! " (Mc 10, 47b)
Chúa Giêsu biết nỗi khổ tâm của anh nhưng Người vẫn muốn anh xác định lại một lần nữa: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" (Mc 10, 51). Với tất cả lòng tin và phó thác trọn vẹn vào Chúa Giêsu anh tiếp tục kêu xin Người. "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được" (Mc 10, 51b). Không chần chừ Chúa Giêsu đã cho anh toại nguyện: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" (Mc 10, 52a)
Không những Chúa Giêsu cho anh được sáng đôi mắt thể lý mà Người còn ban cho anh được sáng đôi mắt đức tin. Chính đôi mắt đức tin ấy giúp cho anh quyết định đi theo Chúa Giêsu. Ðể quyết định theo Chúa Giêsu chắc chắn anh đã thấy được mình yếu đuối. Từ sự yếu đuối ấy, anh tin rằng Chúa Giêsu là nguồn sống của đời mình.
Thánh Augustinô đã một lần cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa xin cho con biết con". Biết Chúa là Ðấng yêu thương, là nguồn sống của đời con. Biết con là một thụ tạo mỏng dòn yếu đuối cần được hưởng tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Thánh nhân được sáng mắt đức tin nên ngài đã dâng lời cầu nguyện một cách khiêm tốn và chân thành như thế.
Trong thế giới hôm nay, con người ta rất dễ bị ru ngủ trong tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá. Do đó, người kitô hữu chúng ta không nhiều thì ít cũng bị ảnh hưởng. Bị ảnh hưởng để rồi người tín hữu không còn tin vào Chúa, họ ỷ lại vào sức của riêng mình. Ðây là điều rất nguy hiểm cho đời sống đức tin của người tín hữu chúng ta.
Tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá sẽ làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta không còn biết Chúa là ai cũng như không còn biết là ai nữa. Những lúc đó chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện của Thánh Augustinô mà chân thành khiêm tốn dâng lên Chúa. Chúng ta có thật lòng ước ao được nhìn thấy thì Chúa Giêsu mới chữa lành cho.
----------------------------
Mc 10, 46 – 52
Mắt là một trong những giác quan của con người. Chính nhờ mắt mà chúng ta nhân ra những vật xung quanh. Không cần phải nói chúng ta cũng biết mắt cần thiết thế nào cho con người. Vì thế mà người ta thường nói ghép kết quả của các giác quan khác với thị giác, ví dụ: nghe thấy, ngửi thấy, cảm thấy...cho nên không thể thấy được, đó là một khiếm khuyết, một thiệt thòi, một nỗi bất hạnh của con người.
Thức đêm mới biết đêm dài. Chỉ có người trong cuộc mới có thể cảm nhận được sự việc nó là thế nào. Chỉ có người mù mới cảm nhận được mù khổ như thế nào. Còn chúng ta chỉ có thể dựa vào biểu hiện của họ để có thể biết được phần nào mà thôi.
Phản ứng của anh mù này càng lúc càng quyết liệt: ban đầu anh gào to, khi bị người ta quát nạt, ngăn cản anh càng gào to hơn, khi được Chúa Giêsu gọi đến, anh liền vất áo choàng, đứng phắt dậy đến với Chúa Giêsu. Những biểu hiện đó giúp chúng ta hiểu được cuộc sống trong mù tối nó đã đày đọa anh như thế nào, Còn nữa, lời khẩn cầu thật tha thiết và quyết liệt như thể anh có thể đánh đổi cả sinh mạng để có thể được cứu chữa. Khi được nhận lời, anh vất ngay áo choàng, như thân phận đáng thương của anh để được đổi thay số phận. Chưa biết Chúa Giêsu sẽ làm gì cho anh, nhưng được thấy là tất cả những gì anh chờ đợi, mong mõi. Khi Chúa Giêsu hỏi: "anh muốn tôi làm gì cho anh", anh đã không xin gì hơn là xin được thấy. Và Chúa Giêsu đã không làm anh thất vọng. Mù thì khổ, thấy được là hạnh phúc. Đó là bài học mà thánh Maccô muốn nói với chúng ta.
Chúng ta đâu có mù, vậy bài học này có ích gì cho chúng ta ?
Phải, mắt chúng ta vẫn sáng, chúng ta vẫn còn thấy tiền, vàng, của cải vật chất. Chúng ta nhận ra lỗi lầm của người khác dễ dàng. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta không nhận ra đâu là đúng, đâu là sai, đâu là thiện, đâu là ác, đâu là công bằng, đâu là bất công; đâu là việc phải làm, đâu là điều cấm kỵ, chúng ta không nhận ra thân phận của mình cũng tội lỗi, xấu xa, cũng rất đáng được người khác dũ lòng thương và cứu chữa.
Khổ là ở chổ đó, nguy cũng là ở chổ đó. Người biết mình bệnh thì lo chữa chạy thuốc thang, còn người không biết mình bệnh thì cứ thản nhiên mà sống, có khi lại lây nhiễm cho người khác mà không hay, để rồi đến một ngày, chết mà không hiểu lý do. Hậu quả sự mù lòa của đôi mắt tâm hồn cũng thế.
Nguyên nhân có thể vì chúng ta sống trong thế giới của những người mù nên không thể biết được thế nào là sáng. Cũng có thể do mưu ma chước quỷ làm mờ mắt chúng ta mà chúng ta không hay, nhưng cũng có thể đôi lúc chúng ta tự bịt mắt mình để không phải thấy, không phải biết, nhằm trốn tránh trách nhiệm hay để làm càng điều chúng ta muốn. Những lúc đó, chúng ta có mắt mà cũng như mù thôi.
Dù nguyên nhân nào đi nữa thì mù vẫn là mù. Mù thì phải sống kiếp khổ đau. Người mù đôi mắt thân xác thì sống khổ kiếp sống trần gian, rồi cũng sẽ qua đi, nhưng mù đôi mắt tâm hồn thì sẽ khổ muôn đời.
Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Người đã từng mở mắt trần tục cho anh mù thành Giêricô này thì người cũng sẽ mở mắt tâm hôn cho những ai kêu cầu người, bởi người đã từng tuyên bố: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống.
Lạy chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con, để chúng con nhận ra thân phận đáng thương của mình, để con có thể nhìn thấy Ánh Sáng ban sự sống đời đời.
----------------------------
TN 30-B83. XIN MỞ MẮT LINH HỒN CON
Mc. 10, 46 - 52.
1. LỜI CHÚA: Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng bật dậy mà đến gần Đức Giê-su (Mc 10,50)
2. CÂU CHUYỆN:
Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Ve-ro-na nước I-ta-li-a, khá đông dân chúng tập trung tại sân ga và đang náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: "Mẹ!", và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: "Con ơi, mắt con đã bị mù như thế này thì sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác như vậy?". Anh lính trẻ liền đáp: "Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây để chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên "Mẹ!" và quả thật con đã gặp lại được mẹ đó".
3. SUY NIỆM:
+ Gặp được Chúa nhờ sự mách bảo của con tim:
Người mù thành Giê-ri-cô trong Tin Mừng hôm nay đã đến với Đức Giê-su không nhờ cặp mắt thể xác nhưng nhờ cặp mắt trái tim của anh. Tuy anh không nhìn thấy Đức Giê-su, nhưng chính đức tin đã mách bảo anh và dẫn đưa anh đến được với Người. Trước đó anh đã nghe đồn Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và anh ao ước gặp Người để xin Người cho anh được sáng mắt. Vì thế khi biết có một đám đông đang tiến đến gần và nghe thấy tiếng của một vị Tôn sư (ráp-bi) đang vừa đi vừa giảng, anh mù dò hỏi và biết được vị Tôn sư đang nói kia chinh là Đức Giê-su Na-da-rét. Bấy giờ anh mù cảm thấy sung sướng vì sắp gặp được Đấng Thiên Sai. Anh liền la to lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!". Dù bị nhiều người ngăn cấm, nhưng anh mù đã bất chấp tất cả và còn tiếp tục la to hơn. khi có người cho biết Đức Giê-su gọi anh đến gặp người thì anh liền quăng chiếc áo choàng đang cầm trên tay, nhảy chồm dậy và chạy mau đến với Người, giống như anh chưa từng bị mù. Sau khi hỏi han và biết rõ mong ước của anh, Đức Giê-su đã tuyên bố: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!". Lập tức anh mù đã nhìn thấy được và đã tình nguyện theo Người đi lên Giê-ru-sa-lem.
+ "Lòng tin của anh đã cứu anh!":
Anh mù đã nghe người ta đồn về Đấng Thiên Sai, con cháu Vua Đa-vít đã xuất hiện. Người có quyền năng và đầy lòng từ bi nhân ái. Người hay cứu giúp những kẻ bệnh tật nghèo khổ như anh. Anh mù đã đặt hết niềm tin tưởng và hy vọng ngày nào đó sẽ gặp được Người để được Người chữa lành bệnh mù thể xác. Khi nghe biết Đức Giê-su Vua Thiên Sai đang đến gần, anh mù đã tuyên xưng đức tin qua lời cầu xin thống thiết, phớt lờ sự phản đối của nhiều người trong đám đông. Anh đã vượt qua rào cản để mau chóng đến gặp Đức Giê-su bằng việc đứng bật dậy bỏ lại chiếc áo choàng thiết thân, chạy mau đến xin Người cho anh ơn sáng mắt. Sau đó anh còn tình nguyện đứng vào hàng ngũ các môn đệ đi theo Người lên Giê-ru-sa-lem.
+ Quyết tâm đi theo Chúa trong cuộc sống hôm nay:
Mỗi ngày chúng ta hãy xin Chúa mở mắt linh hồn chúng ta để nhận ra Chúa hiện diện qua những kỳ công Chúa làm trong thiên nhiên, nơi bản thân và dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa.
Mỗi khi gặp sự khó khăn không biết con đường phài đi, chúng ta hãy xin Chúa mở mắt đức tin để lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh, phụng vụ, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng. Khi gặp rủi ro thất bại, chúng ta hãy tín thác cậy trông vào Chúa và theo Chúa đi con đường "Qua đau khổ vào trong vinh quang" như anh mù trong Tin Mừng hôm nay.
4. THẢO LUẬN:
1)Làm thế nào để nhận ra ý Chúa muốn trong cuiộc sống hằng ngày?
2)Khi gặp phải tai nạn hay điều trái ý, bạn cần làm gì để đi con đường "Qua đau khổ vào trong vinh quang" của Chúa Giê-su?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Như người mù ngồi bên vệ đường, xin Chúa hãy mở mắt linh hồn con để con nhìn thấy bản thân con với nhiều yêu hèn khuyết điểm, với lối giữ đạo giả hình bề ngòai mà thiếu chiều sâu đức tin bên trong... hầu con quyết tâm sám hối và nhận được ơn Chúa chữa lành.
Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong lòng con, để con năng tâm sự với Chúa.
Xin cũng mở mắt đức tin giúp con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, để con dâng lời ngợi khen Chúa.
Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thánh lễ và nơi Nhà Tạm để con năng đến nghe Lời Chúa dạy, kết hiệp mật thiết với Chúa qua việc rước lễ và chia sẻ niềm vui của Chúa cho mọi người chúng con tiếp xúc.
Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện diện nơi người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, khuyết tật hay đang tuyệt vọng...để con động viên an ủi và ân cần phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, hầu nên chứng nhân tình thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.
X. Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
LM ĐAN VINH www.hiephoithanhmau.com
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Vỉa hè là nơi mà người có con mắt thương mại buôn bán, kiếm sống; kẻ tàn tật, người mù loà, kiếm ăn hàng ngày. Người mù không nhìn thấy ông đi qua, bà đi lại nhưng nhận biết người đang tiến tới. Người mù không thể nhìn bằng mắt thường nhưng bằng cảm quan để nhận biết những gì xảy ra quanh mình. Người mù không nhìn thấy người cho đồng bạc nhưng biết hành động bác ái của người cho qua việc nghe đồng tiền rơi trong giỏ cói. Người mù qua cảm quan nhận biết sự hiện diện của người đang đứng gần kề. Người mù cảm nhận sự việc đang diễn ra quanh mình. Người mù biết sắp đến là một người hay một nhóm. Người mù cảm nhận khí trời hôm nay nắng đẹp hay mưa phùn hay bầu trời mù mây. Dù không trông thấy nhưng cảm nhận trong trí của anh ta.
Mong muốn có được cái này, cái nọ là ước mong chung của đa số. Khi có được điều ước mong lại không thích, không ưa, không hài lòng, lại muốn có cái khác vì thế mỗi chúng ta đều có những ước mong viển vông, hoặc ngay cả không biết chắc mình muốn gì, thích gì. Trong khi anh mù Batêmô dù không nhìn thấy nhưng lại nhìn rõ trong đầu điều anh ước ao, mong muốn. Anh mong tấm lòng bác ái, cử chỉ từ thiện từ người qua đường. Trong khi đó anh mong được Đức Kitô ban cho mắt sáng. Khi chưa gặp Ngài anh kêu nài
Lậy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con'
Khi gặp Ngài điều xót thương thổ lộ rõ hơn. Anh xin cho được mắt sáng. Điều anh xin hoàn toàn trái ngược với hai người sáng mắt tuần trước nhắc đến của hai tông đồ. Họ sáng mắt thân xác nhưng lại mù mờ mắt tâm linh. Vì thế Đức Kitô nói với hai ông
Các con không biết điều các con xin Macô 10,38
Nhìn thấy mới tin là điều nhiều người mong ước nhưng không có chi bảo đảm điều bạn nhìn thấy là sự thật hay bảo đảm bạn nhìn chính xác, rõ ràng. Nếu nhìn luôn chính xác làm gì có chuyện chọn sai, mua lầm. Nếu nhìn thấy luôn chính xác thì làm gì có chuyện hối hận đã đi sai đường, lạc lối, đã phản tỉnh về nhận thức sai lầm.
Đám đông đi theo Đức Kitô lên tiếng can ngăn anh mù, không cho anh lên tiếng. Càng can ngăn, anh càng kêu to hơn. Đức Kitô dừng lại nói với đám đông để anh ta đến cùng Ngài. Tiếng của Ngài có lẽ nhỏ nhẹ, êm đềm, mời gọi. Dù là tiếng nhỏ nhẹ đó pha trộn với tiếng đám đông ồn ào, huyên náo thế mà anh mù vẫn nghe được tiếng Ngài. Không chần chừ nhưng nhanh chóng đáp lại tiếng Ngài gọi. Anh vui mừng nhảy nhón, chạy đến cùng Đức Kitô. Không phải vì anh nài nỉ dai dẳng mà Đức Kitô chữa anh mà chính là đức tin biểu lộ qua hành động. Điều này chính Đức Kitô xác nhận trước đám đông. Hành động thể hiện đức tin thầm kín trong lòng của anh biểu lộ qua hành động vui mừng nhảy múa, chạy nhanh đến và cuối cùng là đi theo Đức Kitô.
Đức Kitô sau khi cho anh mắt sáng bảo anh.
Anh hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh.
Thay vì ra đi, anh chọn ở lại, chọn đi theo. Anh vất lại sau lưng tất cả để theo Chúa. Anh vất lại đồng tiền xin được trong ngày. Anh vất lại chỗ tốt mà anh ngồi xin bao năm qua mà nhiều người mù khác mong có được chỗ kiếm ăn tốt đó. Anh vứt lại cái khung cảnh quen thuộc và những người giầu bác ái luôn mở rộng tay phát cho anh miếng cơm. Anh vứt lại cái áo choàng duy nhất vật giữ ấm trong ngày giá lạnh. Anh vất lại lối sống cũ để mặc vào người lối sống mới, lối sống không nhà cửa, không chốn dựa đầu nhưng lại thảnh thơi, tâm tư thư thái, lòng an bình. Anh vứt lại í riêng để đón nhận í Chúa soi đường, chỉ lối đời anh.
Người ta khoe mẽ đi nhiều biết rộng đúng câu ca dao, tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Người mù này không đi đâu xa, nếu có cũng chẳng nhìn thấy gì thế mà anh học được sàng khôn. Anh học được sự sống đời đời. Anh học được đức tin để tin vào Đức Kitô và chính niềm tin đó giúp anh sáng mắt. Vì thế đức tin không đến từ bên ngoài mà đến từ bên trong, từ con tim chân thành yêu mến. Con tim biết lắng nghe Lời Chúa và biết đêm ngày giữ trong lòng Lời Ngài. Sàng khôn nằm trong con tim, không phải nơi phong cảnh của đất trời bao la.
Lm Vũ Đình Tường
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Con người sinh ra nơi trần thế không bị tật, không bị thương tổn một bộ phận, một cơ quan nào, chắc chắn con người đó sẽ vô cùng sung sướng. Mắt là cơ quan mong manh, nhưng rất quan trọng vì nhờ đôi mắt con người có thề thấy được vũ trụ, thấy được vạn vật, con người. Không gì buồn và đau khổ bằng hai con mắt bị đui, bị mù vv...Tin mừng của thánh Máccô cho hay anh mù Bactimê làm nghề hành khất, ngồi ở vệ đường nghĩa là anh ta ở ngoài lề xã hội...Anh ước mơ được sáng mắt.
Báctimê bị mù từ thuở lọt lòng mẹ. Anh không thấy được ánh sáng, không nhìn thấy được vũ trụ, vạn vật và con người. Cuộc đời của anh hầu như đã tàn vì suốt cuộc đời không thấy gì được thì thật là thê lương. Anh đã nghe nhiều người kể cho anh ta về ánh sáng, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, vạn vật, con người vv...Anh không thể nhìn thấy cha mẹ, những người thân thương. Nên, anh rất muốn thấy được. Anh đã nghe nói về Đức Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng, có thể làm cho anh ta nhìn thấy được. Anh rất mong ước được gặp Chúa Giêsu. Anh tin vào Ngài và tin Ngài sẽ làm cho anh sáng mắt. Và cơ hội ngàn vàng đã tới. Chúa Giêsu hôm nay đã đi ngang qua đó hay nói một cách thi vị hơn, Chúa đã đi qua đời anh. Báctimê mù lòa không thể đi đâu xa, nên khi nghe tin đám đông và Chúa Giêsu đang đi tới. Một cơ may, một dịp hiếm vô cùng đã tới với anh. Báctimê chỉ chờ đợi giây phút này. Anh chỉ chờ giây phút này, anh đã can đảm, hết sức bình tĩnh để kêu to tiếng, anh tin tiếng kêu của anh sẽ thấu tới tai của Chúa và Chúa sẽ cứu anh. Anh tin và hoàn toàn hy vọng. Anh kêu lớn tiếng: " Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi " ( Mc 47 ). Tin mừng thánh Máccô thuật lại thật rõ: nhiều người nạt nộ bảo anh ta im đi, nhưng càng nạt, càng bảo anh ta im đi, anh ta càng kêu lớn tiếng hơn: " Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi " ( Mc 10, 48 ). Báctimê dứt khoát không sợ ai, không sợ sự nạt nộ, cấm cản của những người khác. Tiếng kêu của anh đã thấu tới tai Chúa Giêsu. Tin mừng viết, Đức Giêsu đứng lại và nói: " Gọi anh ta lại đây " ( Mc 10, 49 ). Thánh Máccô chỉ rõ, Chúa Giêsu bảo gọi anh ta lại đây nghĩa là Chúa Giêsu chưa biết anh ta ở đâu vì Ngài mới chỉ nghe tiếng kêu của anh. Phần Báctimê khi biết mình được gọi, anh ta sung sướng đến nỗi vứt bỏ cả cái áo choàng vướng víu và vui mừng như một trẻ bé chạy đến với Đức Kitô. Thực sự, tuy anh chưa được Chúa Giêsu chữa mắt vì đang chạy tới để gặp Chúa, nhưng lòng của anh thực đã rõ rồi và khi đến trước mặt Chúa Giêsu, anh thưa với Ngài: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được " ( Mc 10, 51 ). Chúa Giêsu chỉ phán có một câu: " Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh " ( Mc 10, 52 ). Đúng là lời của Đấng có uy quyền. Chúa không cần phải chữa như bác sĩ, như lang y, nhưng chỉ một lời của Ngài: " Tức khắc, Báctimê nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi". Thực kỳ diệu. Thực là uy quyền tuyệt đối. Chúa yêu thương và chữa lành, cứu vớt Báctimê vì lòng tin của anh.
Tin mừng hôm nay thúc giục mọi Kitô hữu tự vấn chính mình. Có biết bao người mù, người bị bệnh hoạn tất nguyền đã đến với Chúa Giêsu ? Có biết bao kẻ mù lòa, bao người bệnh hoạn đã bị đối xử, đã bị ngăn cản như Báctimê đã bị ngăn cản ? Và có lúc chính mỗi người chúng ta cũng gây trở ngại cho biết bao người như anh Báctimê đã bị đối xứ ?
Bài Tin mừng này cũng nhằm chất vấn chúng ta xem chúng ta có tỉnh thức để nhận ra điều mà mắt chúng ta không thể nhìn thấy không ? Mù lòa về thể xác đã là điều kinh khủng. Mù lòa về tinh thần còn mệt mỏi hơn mù lòa về thể xác !
Xin được dùng lời thánh Phanxicô khó khăn để giúp mỗi Kitô hữu đem lại an bình và hạnh phúc cho những người khác: " Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con: đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn ưu sầu. Lạy Chúa, xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơm được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được nguồi hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là khi gặp lại bản thân, vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời ".
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Có một anh mù đi thăm một người bạn. Trời tối khuya. Anh sợ người khác đụng vào mình nên anh đã có một sáng kiến. Anh đội đèn lên đầu để người khác trông thấy anh mà tránh. Anh hân hoan bước đi. Thình lình anh va vào một người làm cái đèn rớt xuống bể nát. Anh tức giận và chửi: "Mày mù hay sao mà không thấy đèn của tao". Người kia trả lời rằng: "Đèn mày còn sáng đâu mà tao trông thấy".
Cái đáng thương của anh mù là không biết đèn mình đã tắt. Anh chong đèn không phải để anh bước đi cho rõ mà quan yếu là nhờ ánh sáng để người khác đừng đụng phải anh. Nhưng anh đâu ngờ đèn anh đã tắt tự bao giờ! Vâng, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bất hạnh vì đi lại khó khăn. Bất hạnh vì không còn nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của những người thân yêu, của cuộc sống quanh ta. Song song với cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của mù loà về luân lý, về chân thiện mỹ, đó là sự mù loà của tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của đam mê nhưng không nhận ra sai trái của mình. Họ có cái nhìn lệch lạc về luân lý, về chân thiện mỹ nhưng đáng thương thay, họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình. Chính sự ngộ nhận đó đã giết chết cuộc đời họ và chắc chắn cũng gây nên đau khổ, có khi tổn thất cho những người chung quanh vì sự u tối và dốt nát của mình.
Bài tin mừng hôm nay được thánh Marcô ghi lại, có lẽ không nhằm nói về sự bất hạnh của người mù thể xác. Vì thời Chúa Giêsu cũng như thời nay người mù loà thí rất nhiều. Nhưng Chúa Giêsu chỉ chữa lành một vài trường hợp, trong đó có trường hợp chữa lành người mù thành Giêricô tên là Bactimê. Hơn nữa, những phép lạ của Chúa Giêsu thường liên hệ đến việc chữa lành tâm hồn. Anh mù Bactimê chỉ được chữa lành khi anh cố đến với Chúa. Anh quyết tâm chỗi dậy, dứt bỏ chốn xưa đã giam hãm cuộc đời anh. Anh cậy dựa vào Chúa để mong muốn thay đổi cuộc đời.
Thực vậy, anh mù Bactimê được Chúa chữa lành nhờ thiện chí của anh. Dù rằng người đời cản ngăn anh. Dù rằng thế gian muốn anh mãi mãi là người mù ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Anh đã mạnh dạn kêu cầu Chúa: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít xin dủ lòng thương". Với thiện chí của mình anh đã dũ bỏ áo choàng ăn xin, dũ bỏ góc đường Giêricô mà bấy lâu nay anh vẫn ngồi đó để chờ bố thí, và rồi với đức tin mạnh mẽ anh đã được Chúa chữa lành, để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.
Ngày nay, loại mù về tâm hồn rất nhiều. Nguyên nhân có thể là do hoàn cảnh, do môi trường. Có thể do thiếu hiểu biết. Có thể là do đam mê, lười biếng. Có thể là vì thiếu trách nhiệm nên cố tình mù loà để hưởng bổng lộc của thế gian bố thí.
Có những bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tình, quan hệ nam nữ bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác. Có những cô gái trẻ đã phá đi cái thai là hậu quả của những giây phút bồng bột, lầm lỡ vì họ đã thấy trong gia đình, trong xóm làng đã có nhiều người làm thế nên mình làm theo.
Có những người trở thành những con nghiện của sì kẻ, ma túy do thiếu hiểu biết nên sa vào con đường tội lỗi và tự huỷ diệt thân xác mình mà không hay.
Có những người vì đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen mà hủy hoại thanh danh không chỉ của mình, đôi khi còn ảnh hưởng xấu đến gia đình. Có những người vì rượu chè, cờ bạc đã đẩy gia đình đến khánh tận bần cùng mà họ vẫn trơ trẽn sống theo đam mê của mình.
Có những người vì một chút bổng lộc thế gian đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại anh em. Cuối cùng chỉ còn lại sự thất vọng, cô đơn và chán chường.
Hậu quả của những ngừơi mù mất ý thức này là huỷ diệt chính mình, hủy diệt thân xác và cả linh hồn. Còn đâu sự trong sáng của linh hồn là hình ảnh Thiên Chúa! Tất cả đã bị bôi nhọ bởi chính sự lầm lẫn đáng thương của chính mình.
Xem ra người mù thành Giêricô thật có phúc vì anh ý thức được sự mù loà của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn, không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù loà tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình. Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng của tin mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Chuyện kể rằng, có một thanh niên mù lòa từ thuở mới sinh. Anh phải lòng một cô gái. Càng biết cô, tình cảm anh dành cho cô ngày càng sâu sắc. Với anh, cô thật duyên dáng, thông minh và trìu mến. Từ đó, một tình yêu chân thành và đằm thắm cũng đâm chồi giữa hai người.
Cho đến một ngày kia, có người bạn nói với anh, cô gái ấy không xinh đẹp, không xứng đáng với anh... Hỡi ôi, cũng từ dạo ấy, sự quan tâm anh dành cho cô bắt đầu vơi và tương quan giữa hai người cũng trở nên hờ hững. Kể cũng tệ thật! Vì có bao giờ anh nhìn thấy cô ấy đẹp đâu? Một người mù như anh đâu có phán đoán theo dáng vẻ bên ngoài? Và với anh, để nhìn thấy, đôi mắt đâu phải là tất cả. Anh mù lòa đã đành, nhưng xem ra bạn anh và lòng anh lại đui chột hơn.
Tình yêu đâu chỉ được nhìn từ bên ngoài cũng như tự nguyên ngữ, "trừu tượng" là thuộc tính của tình yêu. Saint Exupéry thật có lý khi nói, "Điều chính yếu thì không thể thấy bằng mắt. Để thấy nó, phải nại đến con tim, nại đến tâm hồn".
Các bạn trẻ thân mến,
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói đến một thanh niên mù lòa khác, tên anh là Bartimê, người đã đến với Đức Giêsu. Thánh Marcô kể, vừa nghe Ngài đang ngang qua, anh bắt đầu kêu lên: "Lạy ông Giêsu con vua Đavid, xin dủ lòng thương tôi", và lập tức quăng lại áo choàng, anh đến với Ngài.
Mỗi ngày, là một kẻ tật nguyền câm nín bên vệ đường, chẳng có gì lạ khi anh xin người khác dủ thương. Nhưng hôm nay, thật lạ, vì với tư cách một thanh niên, anh gọi đích danh một thanh niên khác để xin dủ lòng. Và để có thể lặp đi lặp lại một lời cầu xin khẩn thiết đến thế, hẳn anh phải tin chắc người bạn trẻ ấy có khả năng chữa lành không chỉ đôi mắt xác thể nhưng cả sự u mê dày đặc có thể có trong tâm hồn mình; người thanh niên ấy hẳn không chỉ bứng anh ra khỏi vệ đường nhưng còn đưa "anh đi theo Ngài trên con đường Ngài đi" như Tin Mừng kết thúc. Đây là cao trào của trình thuật. Thật tuyệt vời và huyền nhiệm, hẳn anh sẽ là môn đệ của Đức Giêsu.
Thật đáng cho chúng ta kinh ngạc, vì dẫu Bartimê đang mù loà thể chất, nào ngờ đâu, mắt tâm hồn của anh chẳng vẩn đục chút nào; trái lại, nó thật ngời sáng, đúng hơn, mắt đức tin của anh chói sáng.
Phần chúng ta, chúng ta đang sống trong một thế giới tranh tối tranh sáng, ở đó, bóng tối tưởng chừng như đang nuốt chửng ánh sáng, một thế giới mà khả năng nhìn thấy ánh sáng của đôi mắt đức tin thật cấp thiết và sống còn. Vì lẽ ngoài khuyết tật mù lòa thể chất, thế giới đang chứng kiến nhan nhãn bao hội chứng đui chột tinh thần. Cũng có thể mỗi người chúng ta đang mắc phải một trong những hội chứng đó.
Hội chứng ích kỷ, bức tường che chắn những nhu cầu của anh chị em.
Hội chứng vô cảm, giấy thông hành để vô cảm trước bao vết thương vô tình hay cố ý gây cho người khác.
Hội chứng tự phụ, thảm đỏ trải trên những sai sót của bản thân.
Hội chứng ghét ghen, tảng băng nổi cản lối đại cuộc.
Hội chứng duy vật, mù sương trước những giá trị tinh thần.
Hội chứng nông cạn, voan che các giá trị đích thực của một con người.
Hội chứng hợm hĩnh, man khai phủ lấp một thực tế: mọi người có nhân phẩm như nhau.
Hội chứng thành kiến định kiến, pháo đài án ngự sự thật.
Hội chứng sống hối hả, tính cách của người đánh mất muôn vẻ kỳ diệu chung quanh
Như vậy, một con tim nghèo, một đầu óc hẹp, một tâm hồn nhỏ... tất cả đều dẫn đến hội chứng đui chột, triệu báo một nhãn quan gập gãy, què quặt, phủ đầy bóng đêm lên ngày sống và... thế giới phải hẹp lại (x. F. McCarthy). Vậy thì, không chỉ đôi mắt mới làm cho thấy, chúng ta còn phải thấy bằng trí óc, qua tinh thần và nhờ con tim. Là Kitô hữu, còn hơn thế nữa, Kitô hữu thấy nhờ tin, tin vào Thiên Chúa, tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Đấng ấy chính là Đức Giêsu Kitô, là Ánh Sáng phải đến đã đến trong thế gian mà anh mù Bartimê đã nhận ra.
Vậy là có nhiều thứ đêm tối cũng như có nhiều loại đui chột. Có thứ đêm tối phàm phu, có loại đui chột tục tử. Cũng thế, có thứ đêm tối đức tin, có thứ đui chột của lòng trông cậy. Cảnh vực thần linh còn đó, sự hiện diện của Thiên Chúa còn đây, nhưng sẽ không thấy gì, sẽ không cảm nhận gì nếu không có đức tin. Anh mù Bartimê đã có một đức tin mạnh mẽ, anh đã thấy nhờ tin. Đức Giêsu nói: "Lòng tin của anh đã cứu anh".
Đức tin là ánh quang soi dọi thế giới vô hình, chiếu sáng những điều vĩnh cửu và mặc khải những điều trên cao. Đức tin là những ngọn đèn đường dọc theo đaị lộ dẫn đến cuộc sống đời đời mà những kẻ không tin chẳng bao giờ có thể bước đi trên đó.
Thế nhưng, bạn đừng quên, những ngọn đèn ấy, những ánh quang ấy thường chỉ đủ sáng cho những ai bước từng bước thật nhỏ đang khi trên đầu, mây u ám vẫn cứ giăng mắc và dưới chân, thử thách, chướng ngại vẫn luôn rập rình. Phải chăng, Thiên Chúa để vậy hầu chúng ta chỉ biết hoàn toàn cậy trông và phó thác vào một mình Ngài, Đấng như một con đường mà ai đi trên đó, phải vừa cất bước phải vừa khám phá.
Với thánh vịnh 50, chúng ta có thể cầu nguyện. Lạy Chúa, con sinh ra trong đống tội, mẹ con đã hoài thai con trong tội. Con đui chột, mù lòa chệnh choạng, mắc phải đủ thứ hội chứng; hôm nay, xin cũng chữa lành con, cho con đầy lòng tin để thấy tình yêu Chúa đang ngời sáng trong thế giới u minh này; cho con đầy lòng cậy để thấy Chúa trong anh chị em, nhất là những anh chị em tưởng chừng như họ là con cái của sự tối tăm; cho con đầy lòng mến để con can đảm chỗi dậy sau đêm dài u mê hầu bước đi trên con đường Chúa đi, Amen.
Lm. Minh Anh
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Ngày còn bé, thi thoảng Mẹ và Dì dẫn lên Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Cũng thi thoảng được nghe những sáng tác của Cha Thành Tâm. Một bài hát đã đi vào lòng của mình tự bao giờ chẳng hiểu. Chắc có lẽ nhịp điệu bài hát ấy nó hơi sôi động và dễ hát nên dễ nhập tâm:
"Lạy Chúa xin mở mắt tôi biết nhìn kỳ công của Ngài
Trời xanh tinh tú long lanh, mây ngàn cùng muôn muôn thú
Đồi kia ! Ai đắp nên cao, sóng trào đại dương mênh mông.
Biết rằng: Ngài đã thương tôi thế mà tôi đâu có hay.
Ephata hãy mở ! Mở ra ! Ephata ! Hãy mở ra ! Ephata".
Giờ lớn lên một chút, thi thoảng nghe lại bài hát này thấy vẫn còn hay vì lẽ lời cầu nguyện của bài hát này hết sức mộc mạc và cũng hết sức dễ thương: Lạy Chúa xin mở mắt con !
Vâng ! Nhiều lúc mình có mắt nhưng mắt có chịu thấy đâu để rồi cũng phải xin Chúa mở ra để nhìn thấy kỳ công của Chúa đang thực hiện trên cuộc đời này. Cứ chịu khó xin đi, Chúa sẽ nhận lời nguyện xin của mỗi người chúng ta như Chúa chữa anh chàng mù thành Giêricô hôm nay trong tin mừng Máccô vậy.
Trang tin mừng về việc Chúa Giêsu chữa anh chàng mù thành Giêricô được phác hoạ như là một tiền dẫn để chuẩn bị cuộc tiến vào Giêrusalem chịu khổ hình thập giá của Chúa Giêsu.
Thánh Maccô đã khéo lép sắp xếp cách hành văn để tạo nên một sự song chiếu với trình thuật chữa người mù Betsaiđa (Mc 8, 22-26). Vì chưng câu chuyện chữa người mù thành Betsaiđa cũng đã là một thứ tiền khúc cho cuộc tuyên xưng đức tin của Phêrô (Mc 8, 27-33)
Nói cách khác, phép lạ chữa người mù Betsaiđa cũng như phép lạ chữa người mù Giêricô được Thánh Maccô trình bày như những trình thuật chuyển mạch đưa dẫn tới sự tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Đấng Thiên sai cứu độ.
Và họ đến Giêricô. Lúc Người ra khỏi Giêricô cùng với môn đệ và dân chúng đông lắm, thì có con của Timê là Bartimê, một người ngồi ăn xin dọc đường. Nghe nói là Chúa Giêsu Nadarét đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi. Nhiều người quát bảo hắn im, nhưng hắn càng kêu hơn nữa: Lạy con Đavit xin thương xót tôi (c. 46-48).
Giêricô vốn là một thành cổ xưa nhất của Palestina, nằm cách Biển Chết khoảng 10 km về phía Bắc, cách Giêrusalem chừng 30 km về phía Đông Bắc. Trong Tin Mừng Maccô, đây là nơi dừng chân sau cùng của Chúa Giêsu trước khi tiến vào Giêrusalem. Cũng chính ở đây, Chúa Giêsu chữa lành cho Bartimê, một kẻ ăn xin mù lòa.
Một người mù ăn xin: Trong bối cảnh thời đại ở Đông Phương lúc ấy, bệnh mù mắt được coi như thứ bệnh vô phương cứu chữa và số phận của nạn nhân thường rất bi đát. Đa phần trong họ không có cách kiếm sống nào khác ngoài việc đi ăn xin (x. Ga 9,8). Bởi thế, một cách nào đó, bệnh tật này gợi nhớ nỗi khốn cùng tuyệt vọng của kiếp người.
Trở lại câu chuyện Tin Mừng, người mù này là con của Timê. Tên gọi Bartimê là một ngữ vựng Aram ngữ có ý nghĩa y hệt (Bar = con; Bartimê = con của Timê). Thánh Maccô vẫn có thói quen lấy lại nguyên ngữ Aram. Chi tiết này cũng là bằng chứng cho thấy thánh ký có lấy nguồn tài liệu từ một truyền thống Aram ngữ.
Người mù đó ngồi ăn xin ở vệ đường và khi nghe biết Chúa Giêsu Nadarét đi qua, anh đã lớn tiếng khẩn cầu sự trợ giúp của Người: "Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi". Và khi mọi người quát bảo anh ta im, anh ta lại càng kêu xin lớn nữa: Lạy Con Đavit, xin thương xót tôi (x. c. 47.48).
Trong truyền thống Do Thái, tên gọi Con Đavit là một tước hiệu bình dân gán cho Đấng Thiên sai.
Người mù ăn xin đó đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, vốn được dân Do Thái chờ mong. Anh ta đã khẳng khái tỏ bày sự tin tưởng vào Người, bất chấp sự cản trở của dân chúng.
Cách miêu tả của thánh ký gợi lên sự kiện này: dân chúng háo hức tháp tùng Chúa Giêsu, song họ không có một đức tin chân thực, họ mù quáng về sứ mệnh Thiên sai của Người. Đang khi đó, một kẻ mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường lại đặt tin thác vào Người con Đavit, tức là Đấng Thiên sai được đợi trông. Chắc hẳn lòng tin tưởng đó của anh còn cần phải được soi sáng hơn, y như trường hợp người phụ nữ băng huyết đã được chữa lành và tin tưởng vào Người. Tuy nhiên, có điều chác chắn là người mù đã tin vào sự vĩ đại cũng như quyền lực của nhân vật mà anh ta van xin. Anh ta biết rằng, ít ra chính Thiên Chúa đã ban cho anh cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu. Bởi thế, anh đã không nản lòng van xin sự trợ giúp. Dù biết rằng Chúa Giêsu là người quê ở Nadaret (x. c 47a Giêsu Nadaret), anh ta đã không dừng lại ở gốc gác lý lịch, nhưng đã tỏ bày sự tín nhiệm không do dự: Giêsu con Đavit xin thương xót tôi.
Trong nhãn quan thần học Maccô, người mù ăn xin này nói lên mẫu gương tuyệt vời của một môn đệ dứt khoát chọn theo Chúa Giêsu trên con đường tiến về Giêrusalem, tức con đường khổ nạn.
Đứng dậy, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy ... Hắn vứt áo choàng một bên, nhảy chồm dậy và đến cùng Chúa Giêsu. Người lên tiếng nói vói hắn: Ngươi muốn ta làm gì cho ngươi ? Người mù đáp lại: Rabbuni, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu ngươi. Và lập tức hắn đã thấy được mà theo Người lên đường (c. 49-52).
Khác với nhiều lần trước, lần này Chúa Giêsu không khước từ danh xưng Thiên sai gán cho Người. Người để cho kẻ mù ăn xin lớn tiếng tuyên xưng Người là Con Đavit. Thêm một lần nữa chúng ta phải bắt nhận ra được ý nhắm thần học ở đây trong liên hệ với thần học về Bí mật Thiên sai của thánh ký Maccô. Tại sao Chúa Giêsu không còn căn dặn im lặng hay bó buộc im tiếng ? Độc giả Maccô sẽ không quên rằng Chúa Giêsu đang đi trên đường tiến về Giêrusalem mà Giêricô là trạm chót sắp vượt qua. Người đang trên đường gần kề cuộc khổ nạn thập giá: ý định của Thiên Chúa về công cuộc cứu độ sắp hoàn thành. Bởi vậy không còn lý do gì để giữ mãi những màn che Bí mật Thiên sai: tất cả sắp được tỏ lộ một cách thanh thiên bạch nhật. Đành rằng khó lòng mà tránh được mọi hiểu lầm về một Đấng Thiên Sai chính trị và và trần tục như sau này Người sẽ bị kết án như thế. Song le, không có cản trở nào làm đổ vỡ được hoạch định của Thiên Chúa. Theo ý định của Thiên Chúa cái chết của Người sẽ là con đường dẫn tới ơn cứu độ cho nhân loại. Người thực sự là Đấng Thiên Sai cứu độ, dù rằng khác với cách mơ ước trần tục ích kỷ của người Do Thái.
Người đến đem ơn cứu độ cho tất cả ai đón nhận, mà việc chữa lành người mù ăn xin là một dấu chỉ: dấu chỉ của đức tin cứu độ.
Chính vì thế, Người đã nói với nạn nhân: Đức tin của ngươi đã cứu người. Gợi nhắc sự việc y hệt Người đã chữa cho phụ nữ băng huyết khi bà bị bệnh (Mc 5,34) Và kẻ được chữa lành đã lên đường theo Người (c. 52b). Đó cũng là sứ điệp ngõ cho những ai chọn theo Người. Như đức tin vào Chúa Giêsu đã chữa lành người mù, cũng thế đức tin đưa dẫn kẻ tin Người biết chọn theo Người trên con đường khổ nạn để có được ơn cứu rỗi đích thực nơi mầu nhiệm phục sinh này.
Vấn đề ở chỗ mù là mù đức tin. Cuộc đời của khá nhiều người, mắt vẫn sáng ấy nhưng không nhìn thấy được đức tin và đức tin cũng chẳng thể nhìn bằng con mắt thường nhưng nhìn bởi con mắt của lòng tin, của sự tín thác vào Thiên Chúa. Anh chàng mù hôm nay dù đã bị ngăn cản nhưng anh đã vượt qua cái ngăn cản của con người để đến với Chúa và anh ta đã được toại nguyện.
Chúng ta, có thể được sáng mắt, không cần Chúa chữa cho mình được sáng về thể xác như anh mù nhưng có thể chúng ta bị khuyết tật, bị khiếm khuyết chút gì đó trong con mắt tâm hồn, con mắt đức tin. Và vì vậy, chúng ta nên chăng cũng bắt chước anh chàng mù để xin Chúa chữa con mắt tật bệnh của chúng ta. Lời nguyện trong Thánh Thi kinh sách thứ Năm tuần II thật hay:
Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.
Con mù loà bên vệ đường hành khất,
Xin chữa con để con nhìn thấy mặt Ngài.
Lạy Chúa Giêsu - con vua Đavít, xin chữa cho con để con nhận thấy tình yêu của Chúa thật kỳ diệu xiết bao và đặc biệt là kỳ diệu với riêng mảng đời của con. Chúa đã thương ban cho con qúa nhiều ơn lành nhưng hình như con cứ như mù loà để không nhận ra những ơn ấy. Lạy Chúa, xin mở mắt con.
Anmai, CSsR
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Ở đây, theo tâm lý mà nói, quả thật Ðức Giêsu đã làm một nghĩa cử vô cùng cao đẹp, khi Người hỏi người hành khất mù:« Bác-ti-mê-ô, anh muốn tôi làm gì cho anh ?» - Ðúng vậy, chúng ta ai cũng muốn một lần nào đó trong đời được người khác hỏi như vậy. Một lần nào đó được tự do bày tỏ điều mình mong ước ! Ðôi mắt đứa trẻ sẽ mở rộng tròn xoe một cách vui sướng rạng rỡ, khi bà dì hay ông cậu đầy thương yêu nói với nó: « Cháu có quyền xin bất cứ cái gì cháu thích, bà dì ( ông cậu) sẽ cho cháu ngay ! » Ðứng trước niềm vui được tự do bày tỏ nguyện vọng và chắc chắn sẽ được thoả mãn, tâm lý những người lớn chúng ta cũng không khác tâm lý của những đứa trẻ là bao !
« Anh muốn tôi làm gì cho anh ? » Ðức Giêsu cũng hỏi mỗi người trong chúng ta như thế ! Người mù đã không thể trả lời cách nào khác hơn, là: « Thưa Thầy, xin cho tôi có thể nhìn thấy được ! » Anh ta biết mình bị mù. Và anh cũng biết là không còn gì đẹp đẽ và quan trọng hơn là anh ta lại có thể nhìn thấy được. Còn chúng ta, chúng ta trả lời thế nào câu hỏi của Chúa ?
Có lẽ đối với chúng ta, trước hết chúng ta sẽ phải bắt đầu câu trả lời: « Thưa Thầy, xin cho con biết được là con đang bị mù!" Hay: "Thưa Thầy xin cho biết là con đang thiếu thốn những gì ! » Phải chăng chúng ta không cần phải cầu xin như thế ? Chúng ta không biết mình đang bị mù, đang thiếu thốn gì sao ? Nhất thiết chúng ta phải cầu xin cho mình được thực sự sáng mắt ? Vâng, theo thiển ý, tôi nghĩ rằng đó là điều chúng ta cần phải cầu xin cùng Chúa !
Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy bực mình về con cái chúng ta, vì chúng quá kén chọn, đến nỗi nhiều bậc cha mẹ đã phải than phiền: « Ngày nay người ta chẳng còn biết phải cho con cái điều gì nữa ! » Cũng vậy, nhiều khi các ông bà nội / ngoại cũng đã than thở trước ngày sinh nhật của các cháu mình: « Ngày nay chúng nó đã có tất cả rồi, nên chẳng biết phải lấy gì làm quà cho chúng nó nữa ! » Nhưng có phải thực sự các cháu của họ đã có tất cả rồi chăng ?
« Thưa Thầy, xin cho con biết được điều con - chúng con - đang thiếu thốn ! » Dĩ nhiên, chúng ta còn thiếu rất nhiều thứ: Tương lai, công ăn việc làm, sự bảo đảm an ninh khỏi trộm cắp, kiếm cho con cái một chỗ học hành gần nhà, không mắc phải những chứng bệnh nan y nguy tử, không bị tàn tật, không bị rơi vào hoàn cảnh luôn luôn phải nhờ vả kẻ khác, v.v... Vâng, đó là những nguyện vọng cần phải tỏ bày cùng Chúa. Nhưng phải chăng chúng ta chỉ thiếu thốn những điều đó thôi sao ?
Chúa đã dạy chúng ta phải cầu xin cho mình có đầy đủ lương thực hằng ngày ! Thiên Chúa sẽ không bao giờ xua đuổi bất cứ ai đang trong cơn túng cực và khó khăn mà biết chạy đến kêu xin Người. Trái lại Người còn muốn ban cho chúng ta nhiều hơn nữa, chứ không chỉ có lương thực hằng ngày mà thôi. Với lương thực hằng ngày, Người muốn ban cho chúng ta sự sống, sự sống của Người, sự sống thiên đàng tràn đầy hạnh phúc. Chúng ta có náo nức khao khát được tiếp cận Thiên Chúa và những gì Người hứa ban cho chúng ta không ? Chúng ta có ý thức được rằng tội lỗi chúng ta đã chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa và vì thế chúng ta phải xa tránh bằng sự ăn năn hối cải không ? Cả trong cuộc sống của những người đạo đức cũng không thiếu những mù lòa mà chính đương sự không hề biết. Vì thế, « Thưa Thầy, xin cho con nhận biết điều con đang thực sự thiếu thốn » phải luôn luôn sống động trên môi miệng mỗi người chúng ta !
Nhiều khi chúng ta cũng hãy can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng vì do sự thiếu khôn khéo và nhất là do các lầm lỗi của mình mà một số các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội đã vô tình làm mai một đi nhiều vẻ đẹp và sức hấp dẫn của Giáo Hội cũng như của niềm tin Kitô giáo của chính mình trước con mắt người đời. Chúng ta không khỏi đau lòng khi nhận thấy những người lương dân khi nghe nói đến tiếng « Giáo Hội Công Giáo » là thường nghĩ ngay đến luật lệ cấm phá thai, cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo, cấm đồng tình luyến ái, không cho phép những người ly dị được rước lễ, phụ nữ không được làm Linh mục,v.v... ! Dĩ nhiên, đó là qui luật hiện hành của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội không chỉ quanh quẩn có bấy nhiêu ! Tất cả chúng ta đều mong muốn trở nên một Giáo Hội mà trong đó lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta được rực sáng, trong đó không một ai bị cô lập, nếu như người đó nêu lên những ý kiến có tính cách phê bình và không bị loại trừ, nếu người đó không giữ vuông tròn được các luật lệ. Chúng ta hãy kính nể và biết ơn tất cả những ai đang dấn thân làm chứng nhân cho tình thương xót đó trong Giáo Hội, tức tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con người, như bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo, đặc biệt là những ai đang ngày đêm săn sóc và chăm nom:
những người già nua, những người bệnh tật,
những người tàn tật và những người bất hạnh, đói khổ,
những người ngoại kiều và những người sống ngoài lề xã hội,
những người bị bỏ rơi, bị tẩy chay, bị khai trừ, v.v...
Chúng ta thực sự là Giáo Hội của Ðức Kitô, nếu chúng ta biết sống trọn tình thương đó trong lòng Giáo Hội và giữa chợ đời. Vì không có dấu chỉ nào khác để cho thế gian nhận biết chúng ta thuộc Ðức Kitô hơn là sự thông cảm, tình thương và đức ái!
Dĩ nhiên, bất cứ ở đâu và trong bất thời đại nào, vẫn có những Kitô hữu sống một cách vô ý thức, thiếu hy vọng, và đầy sợ hãi khi phải đưa mắt nhìn về tương lai, hay chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình mà thôi, v.v... Tất cả đều nói lên « mặt trái của một chiếc mề đay », những « con chiên ghẻ » trong đoàn chiên của Chúa. Ðiều quan trọng trong một trường hợp đầy thách đố như thế, là người tông đồ của Ðức Kitô càng phải nỗ lực giữ vững đức tin và không để cho những thử thách, những khó khăn của môi trường sống chung quanh làm tê liệt lòng nhiệt thành với Ðức Kitô và tinh thần phục anh em đồng loại. Thật ra, tương lai còn bao la vĩ đại, chứ không phải chỉ đi tìm sự an ninh, sự bình an và dễ dãi cho mình. Tương lai chứa đựng nhiều thách đố nhiêu khê và người ta cần phải nêu danh chúng ra, dẫu rằng điều đó có thể gây ra những chua cay và bất bình. Nhưng chính điều đó lại có thể động viên được những nguồn sức mạnh để giải quyết tận gốc những khủng hoảng và đưa ra được liều thuốc sửa trị hiệu nghiệm.
Người Kitô hữu nên biết rằng, dù cho tương lai đen tối bao nhiêu đi nữa, Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trong mỗi tương lai ! Người là Thiên Chúa của lịch sử và là Thiên Chúa của thế kỷ hiện tại cũng như của những thế kỷ sắp tới ! Niềm hy vọng Kitô giáo giúp tôi có thêm nghị lực để bước đi những bước mới theo khả năng tôi cho phép, với sự ý thức chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chiếu giọi ánh sáng của Người trên việc làm bé nhỏ của tôi, trên cuộc sống cụ thể hằng ngày của tôi.
Chúng ta không chỉ nài xin Chúa giúp chúng ta đạt được những mục đích quan trọng mà chúng ta cần phải hiện thực, nhưng cả đến khả năng để bước đi những bước cụ thể, nhỏ mọn và đơn sơ, mà tôi - chúng ta - có thể thực hiện được trong gia đình, trong Giáo xứ và làng mạc của chúng ta hay ở bất cứ nơi đâu. Và qua đó, thế giới sẽ trở nên tươi sáng hơn. Ðó chínnh là sứ mệnh của tất cả chúng ta !
« Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm trong những bước mà con sắp sửa đi ! Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa hằng đồng hành với con trên mọi nẻo đường con đi ! »
Ðó là điều cần phải nài xin Chúa ban cho chúng ta. Bởi vì, có những giờ phút trong cuộc sống, Chúa để xảy đến cho chúng ta trở nên vô cảm và nguội lạnh, không còn cảm nghiệm được bất cứ điều gì nữa. Ðó là những giờ phút chúng ta hoàn toàn trở nên trống rỗng và khô cạn, như thể bị căng ra trên thập giá như Chúa xưa kia ở đồi Golgotha vậy ! Tuy nhiên, chúng ta có thể và cần phải tha thiết câu xin:
« Lạy Chúa, xin che chở con, xin che chở cộng đoàn Dân Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được sự gần gũi của Chúa bên chúng con ! »
Nói tóm lại, Chúa đã hỏi người mù Bác-ti-mê-ô - Người cũng hỏi bạn và tôi nữa -:
« Anh muốn tôi làm gì cho anh ? »
Chúng ta hãy trả lời Người với tất cả sự cảm xúc đầy mong mỏi đợi chờ mà mỗi người chúng ta hằng ấp ủ:
Lạy Chúa, xin cho con biết con đang bị mù!
Xin cho con nhìn thấy được điều con đang thiếu thốn, điều con thực sự đang thiếu thốn !
Xin ban cho sự can đảm trong những bước đường sắp tới, chứ đừng để con chỉ ngồi chờ đợi kẻ khác !
Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa luôn ở bên con !
Hy vọng rằng chúng ta cũng sẽ được lãnh nhận tình thương của Chúa, như người mù Bác-ti-mê-ô: Ðức Giêsu đã sờ đến anh. Anh lại có thể nhìn thấy và anh đã theo Ðức Giêsu trên đường Người đang đi.
LM Nguyễn Hữu Thy
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, nhân loại và mọi người có lòng tin như được cuốn hút bởi vô số phép lạn kỳ diệu mà Đức Kitô đã thực hiện trong cuộc đời truyền giáo của mình. Những phép lạ tuyệt vời của Chúa Giêsu khơi lại lòng tin và lời cầu xin của con người đặt vào lòng thương xót của Chúa, do đó, những phép lạ đã xẩy ra trong lịch sử cứu độ. Nếu chỉ nhìn vào các phép lạ của Chúa Giêsu mà thôi để hân hoan, thoả mãn vì Đấng cứu thế có uy quyền đã ra tay cứu vớt con người khỏi tật nguyền, bệnh hoạn thì quả thật chưa đủ, nhưng phép lạ luôn đòi hỏi sự cộng tác và lòng tin sâu xa của con người.
NGÔN SỨ GIÊRÊMIA LOAN BÁO CÔNG VIỆC CỦA ĐẤNG THIÊN SAI:
Ngôn sứ Giêrêmia đã đánh tan mọi ảo vọng của những người đương thời với ông về sự bất khả xâm phạm của Sion. Giêrêmia quả quyết, vì tội bất trung với Thiên Chúa Giavê, thành Giêrusalem sẽ bị thất thủ, rơi vào tay kẻ thù. Lời của vị ngôn sứ Giêrêmia đã được ứng nghiệm vì vào năm 587 trước công nguyên, sự việc đã xẩy ra đúng như lời ngôn sứ này đã loan báo trước. Tuy nhiên, khi đánh tan những mơ ước, ảo vọng của người đương thời, ngôn sứ Giêrêmia cũng đã loan báo những lời đầy hy vọng, đầy tin tưởng:" Thiên Chúa sẽ ra tay cứu dân do lòng thương xót của Ngài đồng thời Thiên Chúa sẽ thiết lập một giao ước mới với dân. Dân sẽ được Thiên Chúa giải thoát và họ sẽ sống trong hòa bình, hạnh phúc". Chính sự giải thoát của Thiên Chúa về mặt xã hội, chính trị cũng sẽ là sự giải thoát tâm hồn và những ân huệ của Thiên Chúa tuôn đổ trên dân do giao uớc mới này đem lại:" Chúa đã cứu dân Người, cứu phần còn lại của Israen " và " trong bọn chúng có kẻ đui mù, có kẻ què quặt, có kẻ mang thai, có người ở cữ, chúng trở về, cả một đoàn người đông đảo". Ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo về dấu chỉ của Đấng thiên sai khi Ngài tới. Và trong trích đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 10, 40-46 ghi lại việc phép lạ Chúa Giêsu chữa cho anh mù Bactimê thấy được. Thánh Marcô đã nhấn mạnh vì tin sâu xa vào Chúa Giêsu nên người mù đã được thấy và khi thấy được mọi người, thấy được vũ trụ vạn vật, nhất là thấy được Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa mình, người mù đã đi theo Chúa Giêsu. Bài đọc 2, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 5, 1-6 đã so sánh tư tế Melchisêđê, nói lên tính ưu việt vĩnh cửu của chức tư tế và Đức Kitô quả thực là tư tế muôn đời. Chúa Giêsu là vị tư tế muôn đời đã hiến mạng sống mình trên thập một lần và chỉ một lần thôi đã cứu rỗi muôn người. Chính vì vậy, lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia về Đấng thiên sai đã được thực hiện trong thời Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ để xua trừ ma quỉ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cho nhiều người, đem lại bình an cho con người và đem lại hạnh phúc cho biết bao nhiêu người. Chúa Giêsu đã làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ mù loà lại thấy, kẻ què quặt đi được, kẻ chết sống lại. Đức Kitô là Đấng thiên sai, là Đấng cứu thế đã đến trong nhân loại, đã đến nơi thế giới con người. Đức Giêsu đã cho anh Bactimê được thấy, đã đem lại ánh sáng cho anh, đã giải thoát anh. Chính ánh sáng đã đem anh vào cuộc sống lạ lùng, mới mẻ mà chỉ có ai mang cảnh mù loà mới hiểu được tâm trạng của anh. Đời anh đã được đổi mới hoàn toàn từ đây. Trong ánh sáng chan hòa nhận được nơi Chúa Giêsu, anh mù Bactimê đã thấy tất cả, đã hiểu mọi sự. Anh đã được sống lại từ trong cõi mù loà. Anh hoàn toàn đi vào một cuộc sống mới từ đây.
ĐỨC TIN GIÚP NGƯỜI KITÔ HỮU NHẬN RA CHÚA, NHẬN RA CUỘC SỐNG MỚI:
Không phải bất ngờ mà Phêrô và Phaolô đã được đổi mới, đã được đổi đời. Phêrô cương quyết đi theo Thầy Giêsu, nhưng trước khi gà gáy, Phêrô đã chối Thầy ba lần. Tội của Phêrô quả thực nặng nề, nhưng từ trên pháp đình, chúa Giêsu nhìn xuống Phêrô. Chúa biết tất cả, Ngài thấu suốt tâm hồn Phêrô. Phêrô quay lại nhìn Chúa. Anh mắt nhân từ, tha thứ của Chúa đã hoán cải Phêrô. Phêrô ăn năn khóc lóc, sám hối, chừa cải và đời Phêrô đã được đổi mới. Còn Phaolô, kẻ bắt bớ Giáo Hội, đồng lõa với những kẻ ném đá Stêphanô. Phaolô bị Chúa đánh cho té ngựa, mắt như bị mù loà hoàn toàn. Ông nghe tiếng Chúa gọi và sẵn sàng đi theo chúa:" Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?". Phaolô đã trở về với Chúa. Đời Phaolô được Chúa đổi mới từ đây. Ông đã trở nên vị tông đồ dân ngoại rất nhiệt thành. Người Kitô hữu nhờ đức tin, Chúa Giêsu đã đưa họ vào cuộc sống mới, đi vào một thế giới hoàn toàn mới, thế giới của Đức Kitô. Thế giới của tình yêu và lòng nhân từ. Đức tin của người tín hữu là một cái nhìn của người đã được đổi mới. Qua đức tin người Kitô hữu nhận ra thế giới của Chúa Giêsu là thế giới của hòa bình, yêu thương và hiệp nhất. Do đó, họ nghiệm ra rằng họ như ở trong sự mù loà nhận ra ánh sánh chan hòa của niềm tin, của yêu thương và hạnh phúc. Như anh mù Bactimê khi đã được thấy, cả cuộc đời anh như được thay đổi hoàn toàn. Chính nhờ đức tin tuyệt đối, một đức tin hết sức sâu xa đặt vào quyền năng của Thiên Chúa mà anh mù Bactimê đã thấy được tất cả. Anh thấy Đức Kitô, vị cứu tinh của anh. Anh đã hết sức vui mừng đi theo Đức Kitô. Người Kitô hữu cũng vậy, nhờ đức tin kiên vững, họ không thể nào không theo Đức Kitô vì họ đã được thấy và nhận ra Chúa, đồng thời nhận nơi Ngài biết bao ân sủng tuyệt vời. Không bước theo Chúa, người Kitô hữu sẽ càng ngày càng lùi dần vào bóng tối như kẻ bị mù loà không thấy gì được. Như thế, đòi hỏi theo Chúa hoặc khước từ Chúa là một sự lựa chọn hết sức gay gắt.
Lạy Chúa Giêsu, xin đánh tan cái dằm nơi con mắt của mỗi người chúng con để chúng con biết nhận ra hình Chúa đang sống động nơi mỗi người anh em chúng con . Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
----------------------------
Mc. 10, 46 - 52.
Vào đầu năm nay, một thay đổi lớn đã xảy ra, tôi chuyển đến sống ở bang Texas. Người dân rất dễ mến, địa thế cũng đáng yêu, nhưng đường xá thì ôi thôi! Một số người bạn chu đáo đã tặng tôi thiết bị "GPS" (hệ thống định vị toàn cầu) đặt trong xe, vì biết rằng tôi sẽ phải chật vật với những con đường xa lạ và bối rối trên những đường cao tốc ở Texas. Nếu không quen, thì đây là cách sử dụng nó. Bạn nhấn vào nơi bạn đang ở và nơi bạn muốn đến, hệ thống sẽ kích hoạt. Một bản đồ xuất hiện trên màn hình và dò tìm lộ trình khi quý vị lái xe đến nơi muốn đến. Trước khi khởi động, quý vị có thể chọn một "lộ trình có cảnh đẹp", hay "lộ trình ngắn nhất". Và, một chút bất ngờ... có một giọng nói cho biết phải làm gì ở mỗi bước tiếp theo trên đường. Quý vị có thể chọn trực tiếp giọng nói mà mình muốn nghe. Tôi đã chọn giọng của "Julie", vì cô nói giọng Anh. Ngay cả khi tôi đi xe một mình, "Julie" cũng ở đó, sẵn sàng hướng dẫn tôi: "Rẽ phải ở ngã tư kế tiếp". Ngạc nhiên hơn nữa là khi tôi quên rẽ "Julie" nhắc nhở và "Tính toán lại". Cô chỉ cách làm sao quay lại. Tiếp đến, cô ấy lại chỉ cho tôi những hướng mới. Cho dù tôi đã làm rối tung lên, nhưng giọng nói vẫn cứ dịu dàng và điềm tĩnh, tự tin và không phiền trách chút nào về lỗi của tôi. Thật là một người bạn đồng hành hoàn hảo! "Tính toán lại".
Không phải quý vị mong cuộc sống được trang bị với hệ thống hướng dẫn sao? Quý vị có thể nhấn vào nơi đang ở lúc này và đích điểm đời mình. Thế nên, ví dụ, đầu tiên đánh vào hàng chữ "Về nhà Chúa" và rồi lắng nghe những hướng dẫn - khi nào phải rẽ phải, khi nào phải rẽ trái và đi thẳng. Giọng nói sẽ luôn phát ra ở đó, hướng dẫn ta từng bước một - hôm nay, ngày mai và ngày sau - "Về nhà Chúa". Khi quý vị phạm sai lầm và đi sai hướng, trong một chuyến đi dù ngắn hay dài (như thỉnh thoảng chúng ta có nguy cơ), thì giọng nói vang lên và rõ ràng, "Tính toán lại". Kế đó quý vị sẽ có những hướng dẫn mới, hầu có thể quay lại đúng đường - "Về nhà Chúa".
Trải nghiệm khó khăn hẳn đã dạy chúng ta rằng chẳng có thiết bị nào như thế, chẳng có con đường nào dễ dàng, chẳng có thiết bị cài đặt hướng dẫn từng bước một sẵn sàng xuất hiện theo yêu cầu của chúng ta. Ngay cả người giàu nhất thế giới cũng không thể mua được nó; nó không tồn tại. Chúng ta phải tiếp tục lên đường với tầm nhìn và sự hiểu biết hiện có. Chúng ta về "Nhà" bằng việc lần bước trên đường Đức Giêsu đã đi qua - và bây giờ đang đi cùng chúng ta. Nếu bị lạc, Người giúp chúng ta "Tính toán lại".
Vâng, chúng ta kết bạn trên đường, chào đón anh Batimê vào cuộc sống chúng ta. Anh không thể nhìn bằng mắt, nhưng chúng ta có nhiều điểm chung với anh ấy lúc này, hay trong quá khứ, bởi vì chúng ta hiểu bị thế nào là mù lòa hay mờ mắt. Bao lần chúng ta đã thừa nhận mình không thấy rõ? Thực vậy, rất nhiều lần chúng ta đã phải thừa nhận: "Chắc hẳn tôi đã mù! Làm sao tôi lại làm hay nghĩ như thế!
Chúng ta tìm thấy anh Batimê ở chỗ nào trong câu chuyện Tin mừng hôm nay? Anh đang ngồi bên vệ đường, mù lòa và xin ăn. Như chúng ta, anh Batimê là một gã lang thang và là một kẻ hành khất. Vào thời Đức Giêsu, nếu một người không giàu có, không may mắn, hay có thể là bất lương, thì họ sẽ phải vật lộn với nghèo đói, như hàng tỉ người nghèo trong thế giới hôm nay vậy. Một người mù, tàn tật hay đau bệnh có cơ hội nào trong hoàn cảnh khốc liệt như vậy? Không nhiều! Anh Batimê, người chẳng thể thấy đường để đi - quay lại làng, về nhà, hay thậm chí theo Đức Giêsu - đã làm tất cả những gì có thể trong điều kiện của mình. Anh đã dừng bên vệ đường và xin người qua kẻ lại.
Ra như anh Batimê không làm được gì cả. Không phải thế - Anh ta có thính giác. (Người ta nói rằng người mù có thính giác rất nhạy bén). Người ăn xin mù cần thính giác tốt, hầu có thể nghe được tiếng dép hay tiếng chân trần của khách bộ hành, và kịp thời kêu xin và chìa tay ra. Thính giác tốt có thể giúp cho người ăn xin mù lòa cơ hội kiếm sống.
Vào chính ngày đặc biệt này, quả thực anh Batimê chắc chắn đã nghe rất rõ. Hôm ấy, anh đã nghe thấy ĐứcGiêsu đang đi ngang qua. Vì thế, anh sử dụng "chiêu thức" hữu dụng khác của giới ăn mày - Anh đã kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi". Chúng ta có ấn tượng rằng anh Batimê biết Đức Giêsu có nhiều thứ cho anh ta hơn là một vài xu. Thính giác đã giúp anh rất nhiều. Phải chăng anh ta đã nghe nói về Đức Giêsu rồi? Đức Giêsu đã chữa bệnh cho dân chúng như thế nào? Đức Giêsu giúp cho dân chúng thấy đường đưa họ về Nhà ra sao? Người mang sự nghỉ ngơi đến cho những tâm hồn mỏi mệt ra sao? Mang bình an cho họ, láng giềng họ và đưa họ đến với Chúa?
Cho dù anh Batimê vẫn còn bị mù đi chăng nữa, nhưng anh có thể thấy, vì anh đã biết Đức Giêsu là: "Con vua Đavít". Anh gọi Đức Giêsu là Đấng Mêsia và, khi có cơ hội, anh đã xin Đức Giêsu một ân huệ lớn, được nhìn thấy.
Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta như đã hỏi anh Batimê: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh Batimê mà chúng ta chào đón vào cộng đoàn niềm tin, cho chúng ta lời đáp đơn giản và trực tiếp. Đó chính là "Lời nguyện xin của Batimê" - "Thưa Thầy, tôi muốn được thấy". Cái nhìn của chúng ta được khởi đi bằng phép rửa, khi mắt chúng ta mở ra và bắt đầu tin. Tuy nhiên, hành trình đức tin của chúng ta vẫn chưa kết thúc.
Gần đây, có một thanh niên nói với tôi: "Con được nhiều phúc lành lắm". Và quý vị biết anh ta đã kể ra những gì không? "Cha mẹ, anh chị, vợ và hai con gái tôi". Để ý, anh ấy đã không gọi nhà lầu hay xe hơi mới là "phúc lành". Anh ta đã mở mắt để thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, trong các mối tương quan. Anh ta thấy!
Vì vậy, chúng ta tự hỏi: chúng ta cần được sáng hơn ở chỗ nào? Làm sao để mở mắt thấy những sai lỗi của mình? Những lời chúc lành?...những thất bại?... Những nhu cầu của tha nhân?... Làm sao cái nhìn của chúng ta lại bị lu mờ bởi một thành kiến này khác?
Hãy điền vào chỗ trống. "Tôi muốn thấy..."
Khi tôi chọn lựa điều ảnh hưởng đến tôi và gia đình tôi.
Những dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa dành cho tôi trong mỗi ngày đời.
Tôi nên chọn lối đi nào cho thời gian tới, khi tôi quyết định lập gia đình... Công việc mới... Trường học... Bạn bè... Giải trí, vv.
Chúa ở cùng tôi, khi tôi phải điều trị bệnh, dẫu cho đó là tin xấu.
Chúa ở cùng tôi, khi tôi ngày càng già đi và những thứ trước đây tôi đã làm dễ dàng, nay lại quá khó khăn.
Những người bị gạt ra bên lề, những kẻ nghèo khó và những người bị đối xử như "không như con người".
Lời cầu xin của anh Batimê - cách nào đó cũng là lời cầu nguyện của chúng ta: "Thưa Thầy, tôi muốn được thấy".
Lm Jude Siciliano, OP
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp
Nguồn vietcatholic.org
----------------------------
(Máccô 10,46-52 – CN XXX TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.
Hai đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);
2) Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);
3) Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
- con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).
- môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Mc ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1 (lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (10,1). Trong trường hợp 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với Đức Giêsu và các môn đệ Người.
- Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.
- một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.
- Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Ki-tô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.
- nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.
- Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.
- anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos:cc. 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?
- vất áo choàng: Tấm áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35)[1][1]. Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).
- đứng phắt dậy (50): Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô-anistêmi ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.
- đến: Đọng từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.
-----------------------
- Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.
- Thưa Thầy: Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).
- Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).
- anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)
Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.
* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)
Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.
* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).
Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).
+ Kết luận
“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.
Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.
Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta có thể suy nghĩ về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu người Nadarét”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về Người. Điều đó đã được tác giả Mc diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).
2. Trong đời sống đức tin, đôi khi phải dám “đi ngược giòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im, anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời anh một hướng mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.
3. Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết mục tiêu của chuyến đi của Người: Người không đi lên Giêrusalem để làm vua, nhưng là để hy sinh mạng sống. Bước theo Người có nghĩa là chịu hy sinh với Người. Người đã nhấn mạnh trên điểm này, nhưng các bạn đồng hành không hiểu. Họ đang bị mù, họ cứ muốn giữ mắt nhắm lại và mơ những chỗ nhất trong vương quốc. Người mù Giêrikhô tượng trưng cho các môn đệ và tất cả những ai chưa được thấy ánh sáng của Đức Kitô, chưa được đón nhận Tin Mừng.
4. Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người, cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Và khi đã nghe tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự, như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Phải chấp nhận liều lĩnh, để từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp thông thân tình với Người.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
----------------------------
Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận kể câu chuyện “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu” thật cảm động.
Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân Phát-xít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phát-xít đến một Nhà Dòng kia, yêu cầu kêu mẹ Bề Trên cho ông ta gặp… Khi vừa giốc cạn ly nước từ tay Mẹ bề trên, viên tướng Phát xít lập tức vào đề: "Xin bà cho tôi gặp chị Maria…" Bà Bề Trên bấm chuông gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sỗ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”.
Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng. Chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một Nữ Tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…” – "Không ! Không ! Tôi yêu chị vì chị có đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá !" – "Không ! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy." – "Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả Nhà Dòng này!"
Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát, nếu không tôi sẽ…”
Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyệt sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt ? Không, không thể được ! hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết ? Không, không bao giờ như thế !”
Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phát-xít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột. Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng… bên cạnh lại có một người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạng đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi… nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”.
Viên tướng Phát-xít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến Nhà Dòng nữa. ( trang 175 – 177 ).
Nữ Tu Maria hy sinh đôi mắt xanh tuyệt đẹp để “dọi ánh sáng vào nơi tối tăm” của cõi lòng viên tướng, nhờ vậy ông ta được sáng đôi mắt và nhìn thấy sự cao quý của một tâm hồn thanh khiết.
Đọc câu chuyện, liên tưởng đến chuyện vua Đavít được Ngôn Sứ Nathan “mở mắt”. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bếtsabê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy Bếtsabê làm vợ. Thế là vua đã phạm hai tội ác tày đình: ngoại tình và giết người. Vậy mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai Ngôn Sứ Nathan đến cảnh tỉnh nhà vua.
Ngôn Sứ nói với vua: "Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách."
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: "Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra." Bấy giờ Ngôn Sứ Nathan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. ( 2 Sm 11, 1 – 12, 12 ).
Câu chuyện cũng gợi nhớ về đôi mắt mù của Nguyên Tổ trong sách Sáng Thế: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” ( St 3, 4 – 7 ).
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua tiến trình 3 bước:
- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
- Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
- Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt Đức Tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “Mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam – Evà đã mở mắt, nhưng họ lẩn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. ( x. Nước mắt và hạnh phúc, trang 69 – 71, Lm. Nguyễn Tầm Thường ).
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.
“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng Đức Tin. Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt Đức Tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisêu đang tra vấn, khủng bố anh: "Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy".
Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: "Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không ?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng Đức Tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.
Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi ( Lc 9, 1 – 10 ). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm ( Lc 7, 36 – 50 ). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương ( Lc 23, 32 – 43 )...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng Tình Yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là Ánh Sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt Đức Tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu. Nhiều Thánh Vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh Vịnh 104, các Thánh Vịnh Gióp 38-39.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin.
Bartimê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Mêsia "Con Vua Ðavít". Anh kêu xin: "Rabbuni, xin cho tôi được thấy", và Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đi ! Niềm tin của con đã cứu chữa con". Bartimê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giêrusalem ( x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trang 13 ).
Bartimê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
“Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu đựng những bàn tay cắt tỉa” ( ĐHV 431 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt; để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên; để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, “Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhường. Con cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con” ( ĐHV 427 ); Xin cho con được thấy bản thân con với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
----------------------------
Chúa Nhật XXX Thường Niên B
Mc 10,46-52: 46 Họ đi đến Giêrikhô. Khi Người đi ra khỏi thành Giêrikhô cùng với các môn đệ và một đám người khá đông, thì con ông Timêô là Bartimêô, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 47 Khi nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!” 48 Nhiều người quát mắng bảo anh để anh im đi, nhưng anh càng kêu lớn hơn: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi!” 49 Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta!” Người ta gọi anh mù và nói: “Mạnh dạn lên, đứng dậy, Người gọi anh đó!” 50 Người mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy và đến gần Đức Giêsu. 51 Hỏi người mù Đức Giêsu nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Rabbôni, xin cho tôi nhìn thấy được.” 52 Đức Giêsu nói người ấy: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường.
Câu chuyện chữa lành người mù nầy nằm ở cuối hành trình của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem (10:46-52); như câu chuyện chữa lành người mù ở Bếtsaiđa được đặt vào cuối những hoạt động của Người tại Galilêa (8:22-26). Đoạn 10:46-52 có thể được phân chia như sau: 1- Bối cảnh và nhân vật (10:46); 2- Lời cầu xin của người mù (10:47-50); 3- Đối thoại, chữa lành và đi theo Người (10:51-52). Câu chuyện được đóng khung trong bối cảnh “trên đường”: đi khỏi Giêrikhô Chúa Giêsu gặp một người mù ngồi bên đường (10:46) và khi đã được chữa lành, người mù ấy bấy giờ đã thấy được theo Người trên đường (10:52).
Hành trình của Chúa Giêsu về Giêrusalem hầu như đã đến đích. Trong đoạn tiếp theo sẽ thấy sự hiện diện của Người tại Bêtania (x. 11:1). Bối cảnh của câu chuyện sắp xảy ra sẽ là trên đường Người đi. Ngồi bên vệ đường, người hành khất tên là Bartimêô sẽ có cơ hội biết Chúa Giêsu đi ngang qua đó. Tư thế ngồi sẽ tương phản với việc đứng dậy và đi theo Người trên đường (x. 2:14). Nghề ăn xin làm cho anh mạnh dạn la lớn tiếng để xin Người chữa anh lành khỏi mù lòa thay vì xin của nuôi thân (10:46).
Tên gọi “Giêsu, người Nazarét” (nazarçnos) được dùng cách đặc biệt ngay từ đầu tin mừng Marcô (1:9; 1:24; 10:47; 14:67; 16:6). Trước tiên, nazarçnos cách đơn giản chỉ người xuất phát từ làng Nazaréth; do đó, tên gọi nầy chỉ nguồn gốc nhân loại của Chúa Giêsu (1:9; 14:67). Đối với người mù, ông đã nhận ra liên hệ gia tộc nầy (x. Mc 12:35; Mt 1:1) khi kêu lên với Đức Giêsu người Nazarét là “Con vua Đavít, xin thương xót tôi” (10:47). Qua đó, người mù đã đặt vào Chúa Giêsu hy vọng về một đấng thuộc dòng dõi Đavít sẽ đến, vì anh nghe biết những việc Người đã làm, kể cả việc mở mắt người mù (x. 8:22-26; Mt 11:5). Đây cũng là hy vọng của toàn dân (x. 11:9-10). Tuy nhiên, hy vọng của người mù vào Chúa Giêsu không hoàn toàn mang tính cách trần thế. Lời cầu xin “xin thương xót tôi” xác nhận lòng tin của ông vào Chúa Giêsu không chỉ là con vua Đavít, mà còn là Con Thiên Chúa, vì chỉ Thiên Chúa mới tỏ lòng xót thương cho con người (x. 9:15). Như thế, tên gọi “Giêsu người Nazaréth” xác định không lẫn lộn chân tính của Đấng mang tên ấy, nhất là khi nó được dùng bên cạnh những tước hiệu khác như “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1:24), “Con vua Đavít” (10:47.48), cũng như trong lời loan báo về sự sống lại của Người (16:6).
Phần tiếp theo là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người mù; sau đó, là việc chữa lành và người ấy đi theo Người (10:51-52). Cùng một câu hỏi cho anh em Giacôbê và Gioan, Chúa Giêsu dùng để hỏi người mù khi mở đầu câu chuyện với người ấy: “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (10:51). Điểm khác biệt là Người thực hiện ngay yêu cầu của người mù; trong khi Người để lại việc thực hiện yêu cầu của hai anh em cho Chúa Cha (x. 10:40). Yêu cầu xin được “nhìn thấy” (anablepô) (10:51) khác hẳn với xin “đụng chạm” đến (8:22). Việc sử dụng từ ngữ ở đây có dụng ý. Trong câu chuyện của người mù ở Bếtsaiđa, mục đích người ta mang người mù ấy đến với Chúa Giêsu là để được chữa lành bệnh mù thể lý. Bởi đó, Chúa Giêsu đã đụng đến mắt người mù và người ấy thấy được (blepô) người ta như cây cối đang đi (x. 8:23-24; xem thêm nghĩa của động từ “thấy” nầy trong 4:12.24; 5:31; 8:18). Trong khi đó, người mù Bartimêô xin Chúa Giêsu cho anh được “nhìn thấy lại” (anablepô) (10:51.52). Người đã không chạm tay đến người ấy, mà chỉ tuyên bố cách ngắn gọn: “Lòng tin của anh đã cứu anh” (10:52); và thế là anh thấy được. Lời tuyên bố nầy cho thấy có một liên hệ mật thiết nào đó giữa việc chữa lành và lòng tin; và ý nghĩa đặc thù của việc “nhìn thấy lại” nầy. Về phía anh, trước khi con mắt thể lý được chữa lành, người mù đã thấy lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và tin vào lòng thương xót ấy. Bởi đó, anh đã đến với Người (10:48), và đã được lòng thương xót ấy chữa lành (10:52). Tuy nhiên, lúc ấy anh chỉ mới nhận biết và tin Người là con vua Đavít (10:47.48). Về phía Chúa Giêsu, khi chữa lành anh, Người đã cho anh được thấy Người còn hơn cả “con vua Đavít”. Bởi đó, anh đã đi theo Người (10:52 ), Đấng mà Phêrô đã tuyên xưng trước đó là “Đấng Kitô” (x. 8:29-34; 10:28-29).
Không thể đi theo Chúa Giêsu nếu không nhận biết Người là ai. Trước khi theo Người vào Giêrusalem để tử nạn, người môn đệ cần được mở sáng đôi mắt để nhìn thấy Người. Chính lúc ấy mới có thể hiệp thông trọn vẹn với Người.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
----------------------------
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật tuần trước nói với ta về việc chịu đau khổ. Mà đau khổ thì cần có ủi an cảm thông. Đây chính là đề tài của Lời Chúa hôm nay. Như người cha nhân từ, Thiên Chúa đặc biệt an ủi dân Người trong những cơn gian nan khốn khó và đau khổ cuộc đời. Lòng an ủi cảm thông ấy được thể hiện cụ thể qua Đức Ki-tô, vị Thượng Tế “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc”. Phép lạ Chúa Giê-su chữa lành người mù tại Giê-ri-khô là một điển hình nói lên trái tim cảm thông và an ủi của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa là một người Cha cảm thông với ta là con cái Người (bài đọc Cựu Ước – Giê-rê-mi-a 31:7-9)
Trong lúc đau khổ, ta mong có người nào đó lắng nghe ta nói, sụt sùi cùng với dòng nước mắt của ta. Sau khi kể lể nỗi niềm, ta thấy vơi đi sầu khổ, lòng nhẹ nhàng hơn và tâm hồn bớt đi nặng nề. An ủi cảm thông ấy đến với ta từ những người thân yêu, nhất là từ cha mẹ hay anh chị em trong gia đình.
Đó cũng là điều dân Chúa cảm nghiệm được qua những lời Chúa phán từ miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Tâm trạng của dân Ít-ra-en bị lưu đày quả thực đau khổ và tủi nhục. Cả một dân tộc vĩ đại giờ đây chỉ là “số còn sót lại của Ít-ra-en”. Rồi ngay trong số còn sót ấy, lại “có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ”. Cảnh sống lưu đày nơi đất khách quê người biết bao giờ mới thoát khỏi nếu không có sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Thiên Chúa đầy lòng xót thương luôn đối xử với Ít-ra-en như “một người Cha” lẽ nào lại để cho con cái mình lầm than khốn khổ mãi. “Nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7:11).
Vậy Thiên Chúa sẽ làm gì cho những đứa con khốn khổ của Người? Trước hết, Người dạy các ngôn sứ hãy loan báo tin vui cho họ: “Hãy vui mừng lên…Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Ít-ra-en” (Gr 31:7). Việc đầu tiên Thiên Chúa thực hiện là “quy tụ dân Người từ tận cùng cõi đất”, biến cuộc trở về thành một “đại hội đông đảo”. Trong cuộc trở về này, họ cảm nghiệm được sự an ủi của Thiên Chúa rất rõ ràng, được diễn tả bằng một hình ảnh sống động: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng” (Gr 31:9). Ra đi để bị lưu đày đã cực khổ, những trở về để hưởng tự do cũng chưa hẳn là không có những khổ đau. Cùng với nước mắt vui mừng cũng có nước mắt buồn tủi. Chắc chắn họ sẽ gặp nhiều khó khăn lúc xây dựng lại đất nước và sự nghiệp. Nhưng Thiên Chúa đã hứa “dẫn đưa họ tới dòng nước, qua con đường thẳng băng”, thì Người sẽ thực hiện. Cuộc lưu đày được ví như sa mạc khô cằn và đường sá gập ghềnh nguy hiểm. Giờ đây, Thiên Chúa đưa họ ra khỏi sa mạc để tới dòng nước và con đường thẳng băng, đó là cách diễn tả việc Người an ủi họ. Song song với cuộc trở về để làm lại từ đầu, dân Chúa mỗi người cũng có những nỗi đau khổ riêng. Đui mù, què quặt, mang nặng đẻ đau… là những đau khổ thể xác, nhưng cũng tượng trưng cho những đau khổ tinh thần khiến cho người ta phải “nước mắt tuôn rơi”. Nhưng Thiên Chúa “sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”, để “chúng không còn vấp ngã”. Nhìn lại những tội lỗi mình, dân Chúa rất đỗi đau buồn, thì bàn tay nhân từ của người Cha sẵn sàng tha thứ và dẫn đưa, giúp họ “không còn vấp ngã”. Tóm lại, việc Chúa an ủi không chỉ bằng lời nói suông, nhưng là những hành vi cụ thể và xứng hợp với con cái Người, “dân đứng đầu chư dân”. Mỗi người chúng ta đều có một lịch sử lưu đày và trở về. Chính trong lịch sử ấy, ta cảm nghiệm được niềm an ủi Chúa ban cho ta qua nhiều cách, nhiều người và nhiều hoàn cảnh. Điều quan trọng là ta có nhận biết sự an ủi Chúa ban cho ta hay không mà thôi.
2. Niềm an ủi tuyệt vời Thiên Chúa ban cho ta, đó là Chúa Ki-tô (bài đọc Tân Ước – Do-thái 5:1-6)
Dân Chúa ngày xưa hay hôm nay không khác gì nhau, vẫn cần đến sự an ủi của Thiên Chúa. Qua các ngôn sứ thời Cựu Ước, Thiên Chúa loan báo Người đã làm những điều an ủi dân Người. Ngày nay, Thiên Chúa thực hiện việc Người an ủi ta qua chính Con Một Người là Chúa Ki-tô. Đoạn thư gửi tín hữu Do-thái đã mô tả Chúa Ki-tô được Thiên Chúa đặt làm Thượng Tế “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc” (Dt 5:2).
Trước hết đoạn thư nói đến chức năng của vị thượng tế trong dân Chúa. Vị thượng tế được Thiên Chúa chọn trong đám dân Người để làm trung gian giữa loài người với Thiên Chúa và “dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội”. Vì là con người như mọi người nên vị ấy có thể cảm thông với những người khác. Vì cũng yếu đuối như mọi người nên vị ấy phải dâng lễ đền tội cho người khác cũng như cho chính mình. Chúa Ki-tô là Ngôi Lời xuống thế làm người và được Thiên Chúa đặt làm Thượng Tế. Người là Thiên Chúa dũng mạnh đã nhận lấy mọi sự yếu đuối của con người. Người là Đấng công chính đã khoác lên vai mọi tội lỗi của nhân loại. Vậy thì với những hành động như thế, hỏi có người nào cảm thông với thân phận của ta hơn được như Chúa Ki-tô đã làm hay không? Trong Cựu Ước, Thiên Chúa an ủi dân Người như một vị Thiên Chúa và trong hoàn cảnh lịch sử của dân Người. Còn trong Tân Ước, Thiên Chúa an ủi ta như một người anh em trong nhân loại và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống của ta. Như vậy, sự an ủi dễ nhận ra hơn và gần gũi hơn, bởi vì Chúa Ki-tô thực sự có “khả năng cảm thông” với ta và hiệu lực “dâng lễ đền tội” cho ta.
Trước mặt Chúa, ta luôn là “những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc”. Ngu muội vì không chịu nhìn nhận tình yêu bao la của Thiên Chúa và lầm lạc vì không chịu đi theo đường lối của Thiên Chúa. Như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo (Gr 31:9), Chúa Ki-tô sẽ an ủi và dẫn đưa ta. Người ở giữa anh chị em của Người để đồng hành và gánh vác khổ đau của họ. Người đến để “khóc với kẻ khóc, vui với người vui”. Người chữa lành mọi vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn. Người chỉ cho họ con đường của Thiên Chúa, thánh ý của Người và nhất là tình yêu của Người. Người tha thứ mọi lỗi lầm của ta và nhất là chết trên thập giá để đền tội cho ta. Quả thực, “hôm nay, Thiên Chúa đã sinh ra Chúa Ki-tô”, để Chúa Ki-tô “sinh ra” cho Thiên Chúa một nhân loại mới gồm những kẻ được quyền gọi Thiên Chúa là Cha!
3. Phép lạ chữa lành anh mù Ba-ti-mê là một hành vi an ủi cụ thể của Chúa Giê-su (bài Tin Mừng – Mác-cô 10:46-52)
Chúa Giê-su là hiện thân sự an ủi Thiên Chúa ban cho nhân loại. Người đang đối diện với đau khổ của con người và muốn “cảm thông” với họ trong cùng hoàn cảnh. Đấng cảm thông ấy cùng môn đệ rời thành Giê-ri-khô, thì có một con người đau khổ đang chờ đợi Người để được an ủi. Đã bao năm anh sống trong mù lòa đêm tối và bao buồn tủi vì không được thấy ánh sáng cuộc đời. Những ngày đêm anh than trách cho phận mình hẩm hiu vì thiếu đôi mắt để khỏi phải nhờ vả và sống nhờ lòng bố thí của người khác. Chắc chắn là anh đã nghe người ta nói về ông Giê-su. Người giảng dạy “không như những người Pha-ri-sêu và kinh sư”. Người đã làm nhiều phép lạ. Nhưng đặc biệt nhất, Người đem ủi an đến cho những ai sầu khổ. Chắc chắn Người sẽ không bỏ rơi anh. Do đó, anh đã mạnh dạn kêu xin, mặc cho đám đông hăm dọa. Thánh Mác-cô đã kể lại lòng tin tưởng của anh với những lời quả quyết như sau: “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: ‘Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!’” (Mc 10:48). Anh kêu lớn tiếng để tìm sự an ủi, không phải từ đám đông chỉ biết dọa nạt anh thay vì cảm thông, nhưng từ Đấng “đầy lòng thương xót” đã “đứng lại và nói: ‘Gọi anh ta lại đây!’” (Mc 10:49). Ôi, làm sao ta có thể tưởng tượng nổi giây phút gặp gỡ giữa con người đau khổ và Thiên Chúa ủi an! Trái tim của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô đang thổn thức quặn đau, còn tâm hồn của con người đau khổ thì mở rộng sẵn sàng đón nhận an ủi. Ta dễ dàng nhận ra niềm vui, tin tưởng qua những cử chỉ hết sức ý nghĩa của anh mù, là “vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su” (Mc 10:50). Chẳng có cái áo choàng nào của loài người có thể an ủi sưởi ấm lòng anh. Chẳng có sợ hãi hay đe dọa nào ngăn cấm nổi lòng tin của anh vào sự an ủi nơi “ông Giê-su, Con vua Đa-vít”. Thế là nhờ lòng tin, anh đã được cứu, được ban cho ánh sáng, để rồi khi nhìn thấy được, anh lại tiến thêm một bước ít người dám làm, là “đi theo Người trên con đường Người đi”. Đúng, trên con đường Chúa Giê-su đang đi, chứ không phải trên con đường của anh, bởi vì con đường của Chúa là con đường “đem ủi an đến chốn u sầu”.
Phép lạ Chúa chữa anh mù cho ta những đề tài phong phú để suy niệm. Tuy nhiên chủ đề Lời Chúa hôm nay muốn ta hướng về một khía cạnh đặc biệt là việc Chúa an ủi ta. Đau khổ là hậu quả tội nguyên tổ để lại và đã trở thành một phần của thân phận con người. Tuy nhiên, nếu “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20), thì cũng thế, ở đâu đau khổ làm con người đau đớn, ở đó bàn tay an ủi của Thiên Chúa qua Đức Ki-tô càng dịu dàng ấm áp.
4. Sống Lời Chúa
Với Phụng vụ Lời Chúa hai Chúa Nhật vừa qua, ta đã nhìn thấy ánh sáng của đau khổ và ủi an. Tất cả đều thể hiện nơi Chúa Ki-tô và mang một ý nghĩa mới. Chính lời giảng và việc làm của Chúa Giê-su đã soi sáng và đem lại cho chúng một giá trị mới, để ta nhận ra rằng đau khổ không phải là điều xấu và đáng ghét, cũng như an ủi là hành động Chúa yêu thương ta. Chính Chúa Ki-tô đã đến với ta như Người đã đến với anh mù ở Giê-ri-khô, để đồng cảm với ta và nhất là để an ủi ta. Tuy nhiên nhận được an ủi của Chúa chưa phải là kết thúc, nhưng ta còn phải tiến thêm một bước nữa, đó là từ bỏ mọi sự để “đi theo Người trên con đường Người đi”.
Suy nghĩ: Dân chuswzzáng bảo anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Có hoàn cảnh nào tôi nghe được những lời tương tự không? Tôi có mau mắn đứng phắt dậy, vứt áo choàng và đến gần Chúa không? Tôi đi tìm sự an ủi nơi Chúa hay nơi những điều khác mỗi khi chịu đau khổ?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn cho mọi người nhận biết Chúa chính là lẽ sống của mình, và Chúa không hề bỏ rơi con cái Chúa. Xin ban cho các anh chị em yếu đau bệnh tật và đang gặp hoạn nạn có thêm nghị lực dể phấn đấu. Giữa cơn đau khổ, xin cho họ nghiệm thấy rằng có Chúa luôn luôn ở kề bên nhờ những anh chị em hết tình nâng đỡ và nhờ niềm trông cậy họ đặt nơi Đức Ki-tô. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho bệnh nhân).
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
----------------------------
Đêm nọ, có một người mù đến thăm bạn. Khi về, người bạn sáng mắt tặng cho anh ta một chiếc đèn lồng theo thói quan của người Nhật thời xưa. Thế nhưng anh mù bèn nói: Tôi không cần đèn, vì đối với tôi, tốt và sáng cũng như nhau. Nhưng người bạn trả lời: Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái, thì người khác có thể chạy đụng vào anh, anh nên cầm đi. Nghe hợp lý, anh mù ra về vời chiếc đèn lồng trên tay. Đi được một quãng, đột nhiên anh bị một người đụng phải. Với vẻ tức giận anh nói: Bộ anh không thấy chiếc đèn của tôi đó sao? Người kia liền đáp: Đèn của anh tắt rồi.
Với câu chuyện này, anh mù tưởng mình thấy, còn người kia thì không thấy chiếc đèn. Thế nhưng chính anh mới không thấy rằng đèn mình đã tắt. Con người tưởng mình thấy được nhiều chuyện nhưng lại quên hay cố tình quên nhiều cái mình không thấy.
Từ những ý tưởng trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh mù mang tên gọi Bartimê, có nghĩa là con của ông Timê: nghề nghiệp ăn xin, địa chỉ cư trú là lề đường thành Giêricô. Anh vừa nghèo nàn lại vừa tàn tật. Và dưới mắt người Do Thái thì đó là dấu chỉ bị Chúa trừng phạt, vì tội lỗi của bản thân hay vì tội lỗi của cha ông thuở trước. Anh bị bỏ rơi và sống bên lề xã hội. Người ta không cho anh nói ngay cả khi anh lên tiếng kêu cầu Chúa giúp đỡ.
Như thế người Do Thái tưởng rằng mình thấy rõ anh, nhưng thực ra họ lại không thấy mình bị sai lầm, không thấy nhu cầu sáng mắt của anh vượt trên những đồng tiền bố thí. Còn anh mù, tuy không trông rõ vạn vật nhưng lại thấy được chiều sâu của con người. Anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít là Đấng Messia. Anh thấy quyền năng của Ngài có thể giúp đõ anh một cái gì khác hơn là tiền bạc. Và như thế có một sự trái ngược: người mù đã thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy.
Chúng ta có thể phân biệt hai loại mù. Mù thể xác và mù tâm hồn. Mù thể xác thì không thấy được vạn vật, còn mù tâm hồn thì đa dạng hơn, chẳng hạn như không hiểu được những gì cần phải hiểu, không khao khát sự công chính và ơn cứu độ. Không phân biệt đâu là chân thiện mỹ... Và trên tất cả, đó là không thấy mình đang sống như người mù. Có mắt mà không nhìn và có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Với chúng ta những người Kitô hữu cũng thế: đừng thấy người nào siêng năng đi lễ đọc kinh, ăn ngay ở lành mà đã vội cho là đủ. Đừng thấy buổi lễ rình rang với trống kèn inh ỏi thì cho rằng lễ đó trang trọng, đạt yêu cầu. Đừng thấy Giáo Hội là một tổ chức chặt chẽ, nhà thờ và tháp chuông được xây cất, vội cho rằng đạo đang được phát triển. Nhưng phải như anh mù xin cho mình được thấy, thấy rõ hơn, thấy chính xác hơn: thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, để rồi như anh mù rời bỏ vệ đường, dứt khoát, tìm đến với Ngài. Mặc dù chúng ta là những người có cặp mắt sáng về thể xác, nhưng biết đâu lại mù loà về tâm hồn, cho nên cùng với người mù qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
----------------------------
Lạy Chúa là Ánh Sáng, xin chữa lành đôi mắt mù lòa của chúng con.
Bao nhiêu người trông nắng có nắng, cầu mưa có mưa, cho ruộng lúa được mùa, cho giàn bông xinh tươi muôn sắc, cho vườn cây sum suê quả ngọt, cho biển mặn cá đầy khoang, tôm đầy thúng, mực đầy nan. Họ đã nhìn thấy những mùa vàng bội thu trên đồng, trên vườn, trên biển. Nhưng người đời vẫn huyênh hoang tự hào: “Bàn tay tay làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” ! Không thấy bóng dáng Thiên Chúa và không tin mọi sự đều là kỳ công của Người.
Năm hạn hán đồng khô hồ cạn, mất mùa trắng mắt, biển dã vắng con tép con còng, vườn cây trái trăng sâu sia đèo điếc, thế là người đời xoay sang chống cằm trách trời ác đức, trách đất vô tâm, trách quỷ trách thần không thương tình phù hộ. Càng không nhắc đến bóng dáng Thiên Chúa và cũng chẳng tin là quyền phép của Người.
Sinh được một cháu trai đầu lòng, to nặng, hình dáng tuấn tú khôi ngô, cái mặt giống cha, con mắt giống ông nội, cả nhà hân hoan mừng rỡ, khen nức khen nở con dâu nhà mình biết chửa, biết đẻ. Không hề có một câu khen mừng Thiên Chúa đã làm điều kỳ diệu lắm thay !
Hết con so đến con rạ, bà mụ vườn chào thua, khoa Sản trên bệnh viện huyện chào thua phải chạy lên khoa Sản tỉnh, cũng chào thua, thôi thì phải đưa gấp vào thành phố. “Biết tướng này sẽ ra sao mà tốn kém quá thể !” Sinh được đứa cháu rạ ọp òi, nhẹ ký, nhỏ người, con gái. Cả tháng sau chưa thấy ông bà nội đến thăm ! Trách móc hờn giận lung tung. Con dâu bị chê chửi là không biết ở biết ăn, quỷ tha ma bắt !
Công trình của Chúa khắp nơi nơi: từ thiên nhiên hùng vĩ, đến vũ trụ bao la, đến cả con kiến đen bé nhỏ, đến vi sinh vật li ti. Mắt người đời nhìn thấy được mọi thứ, mà không nhận ra có Đấng Tác Sinh, lại còn bô bô luôn miệng “cái gì cũng tự nhiên mà có” ! Đến cả sự hiện diện của chính mình trên trần gian này mà người vô thần cũng cho là bởi vật chất mà ra, có ông thủy tổ là một… con khỉ !
Có thời tồi tệ hơn nữa, học sinh sinh viên được dạy rằng: “Con người ta hiện diện trên đời này là kết quả của sự vui chơi mà đàn ông với đàn bà, giống đực với giống cái đã tận hưởng”. Giá trị tình yêu và hôn nhân bị kéo xuống ngang hàng với chuyện tự nhiên của con vật. Mắt con người không mù rồi đó sao ?
Hai ngàn năm Ánh Sáng đã đến trần gian mà con người vẫn còn chìm trong u tối. Càng tưởng mình vĩ đại, văn minh bởi sức riêng của mình, con người càng ngủ vùi mê mệt trong cái vực sâu u tối mà con người tự tạo nên.
Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng. Ngài đem ánh sáng của Thiên Chúa đến. Ánh sáng ấy là chính Ngài đã Mạc Khải cho con người biết có Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần, quyền năng, khôn ngoan, yêu thương con người. Toàn bộ Tin Mừng là mạc khải về Tình Yêu và Ơn Cứu Độ dành cho những ai Tin vào Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Đức Tin là một hồng ân Chúa ban cho hết thảy mọi người. Có người khiêm tốn nhận hồng ân ấy. Còn người kiêu căng thì không. Người nhận hồng ân Đức Tin thì con mắt được ánh sáng Chúa mở ra để nhìn thấy điều mà lâu nay con mắt loài người có nhìn cũng không thấy:
- Thấy công trình của Thiên Chúa mà tin kính, ngợi khen, chúc tụng, tri ân. Công trình của Ngài ngay trước mắt chúng ta trong mọi sự hiện hữu, ngay trong con người chúng ta, và trong cả những điều sẽ đến với chúng ta trên đường đời.
- Thấy mình là vật mọn phàm hèn trước Thiên Chúa Toàn Năng. Thấy mình là loài thọ tạo mỏng giòn yếu đuối, lại hay kiêu ngạo tày trời. Thấy mình là kẻ thọ ơn đã không biết đáp đền thế nào cho cân xứng lại còn bội nghĩa vong ân khi theo đường lối kẻ gian tà mà bất tín bất trung.
- Thấy mình được Chúa yêu thương. Người quan phòng gìn giữ mình trong mọi tình huống cuộc đời, dẫu là gian nan đau khổ, an nhàn thư thái, hay cả những xót xa bất ngờ đều có thể nhìn ra được tình thương của Chúa.
- Thấy nhu cầu của đồng loại mà biết sẻ chia. Từ cơm bánh của nuôi phần xác đến niềm vui của Đức Tin mang lại, đều có thể chia sẻ cho nhau, chia sẻ lời kinh nguyện, chia sẻ lòng Tin, lòng Mến, lòng Cậy…
- Thấy và phân biệt được đâu là lẽ phải, là chân lý, là sự thiện nên làm, đâu là điều sai trái, là bất công gian tà, là sự ác độc mà nên tránh. Bao lâu người ta còn chấp nhận để những sự ác song hành với sự thiện, mà không chịu trừ khử nó di, thì bấy lâu vẫn còn là kẻ mù quáng đi giữa ban ngày.
- Thấy và nhìn ra sự hiện diện của Chúa trong anh em đồng loại, nhìn ra vẻ đẹp tốt lành tự nhiên của các tôn giáo bạn, nhìn ra được những giá trị nhân văn nơi những ý hướng ngay lành nhắm đến phát triển con người toàn diện, nhìn ra được thiện chí của những người giác ngộ sự mê lầm của mình.
Ôi, còn bao nhiêu điều mà một Kitô Hữu phải nhìn thấy bằng con mắt đã được Chúa Giêsu chữa cho lành nhờ ân sủng và Lời Chúa:
- Thấy sự chết là lối vào của sự sống ngàn thu mà tạ ơn Thiên Chúa.
- Thấy thất bại là cái búa đập tan tành cái tôi kiêu ngạo trong ta mà tạ ơn Chúa
- Thấy đau khổ là đường đưa đến vinh quang hạnh phúc mà tạ ơn Chúa.
- Thấy bức bách, nhục mạ, khinh khi là Thánh Giá, là ơn Cứu Chuộc mà tạ ơn Chúa.
- Thấy mỗi lần từ bỏ những sự phù vân vì Chúa Kitô, là mỗi lần nhận lại niềm vui bình an vĩnh cửu, chắc chắn…
Hôm nay, người mù mang tên Bartimê kia đã tìm được ánh sáng nhờ Tin vào Chúa Giêsu đầy lòng thương xót ( x. Mc 10, 46 – 52 ).
Hôm nay, cùng là ngày mỗi chúng ta kiểm tra lại con mắt Đức Tin của mình, xin Chúa chữa lành sự mù lòa tăm tối trong lòng mình.
Lạy Cha giàu lòng thương xót, chúng con tin rằng xưa trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã giải thoát Dân Chúa khỏi kiếp nô lệ, lưu đày và dẫn đưa tất cả kẻ đui mù, què quặt về Đất Hứa, không loại trừ ai ( x. Gr 31, 7 – 9 ), đến thời Chúa Giêsu, Người lại đã thương xót cho anh mù Bartimê được nhìn thấy. Xin Cha cho chúng con có lòng tin, lòng khát khao, và lòng khiêm tốn để quỳ xin Cha chữa lành đôi mắt tâm linh mù lòa của chúng con. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 25.10.2012
----------------------------
TN 30-B98: NGỌN ĐÈN CHO THÂN XÁC
“Con mắt là đèn soi cho thân xác con” ( Mt 6, 22 )
Christine Hà, cô gái khiếm thị đầu tiên tham dự chương trình MasterChef đã khiến mọi người phải kinh ngạc, vì tài năng và nỗ lực hiếm có của cô và giành được giải quán quân Vua Đầu Bếp Mỹ lần thứ ba, vượt qua hơn 100 đầu bếp của nước Mỹ, vừa diễn ra vào tối 10.9.2012.
Trong vòng chung kết, hai thí sinh được yêu cầu nấu 3 món ăn trong vòng hai giờ. Các món của Hà được đánh giá cao về cân bằng dinh dưỡng và thực hiện hoàn hảo, mà cô miêu tả là "bản giao hưởng của những hương vị".
Khi 19 tuổi, Hà được chẩn đoán mắc một chứng bệnh về thị giác rất hiếm gặp khiến cô bị rối loạn khả năng tự miễn dịch và dần dần các dây thần kinh thị giác, và một số dây thần kinh trong tủy sống bị tê liệt. Thị lực của cô mất dần kể từ năm 1999 và hoàn toàn mất hẳn vào năm 2007.
Trước đây, Hà không biết nấu ăn và mới chỉ cách đây vài năm cô mới bắt đầu khởi động từ những món ăn đơn giản nhất. Cô mày mò tự học, dù trước đó cô chưa trải qua một trường lớp, hay được một vị đầu bếp nào đứng ra dạy bảo.
Tường thuật Tin Mừng hôm nay, kể về anh chàng Bartimê cũng mù lòa, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã phải cố gắng vượt qua những rào cản của đám đông, đe dọa, cấm đoán, để xin Chúa Giêsu cứu chữa.
Mù mắt sáng lòng
Tuy bị tách ra khỏi cộng đồng xã hội, ngồi ăn xin vất vưởng vệ đường với đôi mắt mù lòa, anh Bartimê vẫn nóng bỏng niềm hy vọng được cứu chữa. Dù hẩm hiu số phận, anh vẫn chờ đợi và sẵn sàng tỉnh thức, đón nhận phúc lành. “Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, anh nghe nói đó là Đức Giêsu Nadaret, anh ta liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đa vít, xin dủ lòng thương tôi !” ( Mc 10, 46 – 47 ).
Cũng như cô Christine Hà mù lòa, chàng Bartimê được Thiên Chúa bù đắp lại bằng các giác quan còn lại phát triển hơn người bình thường. Điều khác biệt giữa chàng Bartimê và cô Christine Hà, là kết quả nhận được, một bên chỉ là tiền bạc, danh vọng phù vân và bên kia kho tàng viên mãn đời đời.
Nhưng tại sao cả đám đông đang mải mê đi theo Chúa, không một ai công khai xưng tụng danh Chúa Giêsu là Con Vua Đavít ? Đó là tước hiệu của Đấng Mêsia trong dân gian, mà Chúa Giêsu, trong các chương Tin Mừng theo Thánh Máccô trước đây, đã cấm quỷ và người được hưởng phép lạ, cũng như chính các môn đệ, nói ra Người là ai. Nhưng ở đây, chàng Bartimê thoải mái gọi Người ngay giữa đám đông bằng tước hiệu Mêsia, thì Người không cấm nữa. Có lẽ vì lời tuyên xưng đó phát xuất từ Niềm Tin mạnh mẽ, không phải cậy nhờ vào các phép lạ hay dư luận. Trong khi đó, các thầy Tư Tế, Biệt Phái, Luật Sĩ đang ráo riết phủ nhận Người là Đấng Mêsia. Nên ai dám khẳng định điều đó, thì đương nhiên gây thù chuốc oán với họ.
Chính Đức Tin đã soi sáng cho anh Bartimê nhìn thấy Đấng Mêsia, đã ban cho anh thêm sức mạnh, dũng cảm tuyên xưng thánh danh Người. Chính Đức Tin đã thúc đẩy anh công khai cầu xin Chúa, không e ngại bị gây khó dễ, bắt nạt, đàn áp, không sợ bị bịt miệng vì công bố sự thật thánh thiêng. Chính con mắt Đức Tin đã soi đường chỉ lối cho anh.
Vượt qua thách đố
Hành trình của anh Bartimê đến với Chúa Giêsu, lại còn tiếp tục chịu nhiều thách đố trở ngại, tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Đám đông xúm xít rẻ rúng, khinh rẻ, hoặc nghi ngờ, cũng như cảnh giác anh ăn xin Bartimê nghèo nàn rách rưới, hôi hám, dơ bẩn, ngăn cản anh lại gần Chúa Giêsu. Dẫu vậy, anh cứ la lên, lớn tiếng, kêu xin Chúa rủ lòng thương anh. “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: Lạy Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi !” ( Mc 10, 48 ).
Nếu anh Bartimê không giốc lòng, dốc sức kêu van thống thiết, thì liệu anh có át nổi tiếng những tiếng hỗn loạn, đe nạt của đám đông, để thấu nổi đến tai Chúa chăng ? Dẫu vậy, Người không bao giờ bỏ quên những người khốn cùng, bệnh hoạn, tật nguyền, như mù, què, câm điếc, phong hủi.
Nhưng nếu anh cứ do dự, yếu bóng vía, sợ hãi các thế lực đàn áp, những lời hăm dọa, quát nạt, không còn tin tưởng, trông cậy vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa Giêsu, thì liệu anh được đoái thương chăng ?
Đáp lại Ơn Gọi
Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây !” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu” ( Mc 10, 49 – 50 ).
Nghe tiếng gọi, anh Bartimê vội vàng đáp lại, bỏ ngay những gì đang cản trở, thoát khỏi sự níu kéo, ràng buộc vào vật chất, tiện nghi, áo choàng vướng víu, đứng phắt dậy, dứt khoát mau chóng đến với Chúa. Chứng tỏ lòng nhiệt tình, lòng thành tâm sôi sục, sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi.
Dù anh mù lòa, nghèo nàn, bộ dạng xấu xí, thảm não, nhưng lòng anh rạng ngời, luôn sẵn sàng rộng mở, nhạy bén đón nhận Ơn Gọi. Anh đã hân hoan, mừng rỡ nhận lãnh phước lành. “Hai con mắt hướng dẫn chúng ta trên con đường đi tới Nước Trời là con mắt của đức Tin và đức Mến. Lòng tin càng mạnh mẽ và lòng mến càng nồng nàn thì đường đi càng sáng sủa và chắc chắn” ( de Ségur ).
Dứt khoát đi theo Chúa
Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi” ( Mc 10, 50 – 52).
Từ lòng Tin, niềm trông Cậy, lửa Mến đã cháy bừng trong tâm hồn anh. Bartimê đã được giải thoát khỏi sự u mê, tăm tối, khỏi ách Satan ma quỷ giam cầm anh trong bóng đêm dày đặc tội lỗi. Nay anh đã thấy ánh sáng nẻo ngay, chân lý, sự sống viên mãn, sẵn sàng can đảm đi theo Chúa.
“Hãy theo Thầy !” các Tông Đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa. Con có dứt khoát một phen theo Chúa không ? Chúa phải gọi con mấy lần rồi ? ( Đường Hy Vọng, 61 ).
Lạy Chúa, xin cho con luôn sáng lòng, để thoát khỏi u mê tội lỗi giam cần vây hãm, để con nhận ra tiếng Chúa gọi, mà đi theo Chúa mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng lòng trí con luôn nhận ra ánh sáng ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, đang mời gọi, mong chờ con tìm đến, để kết hợp sống chặt chẽ với Người. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
----------------------------
TN 30-B99: TIẾNG KHÓC TỰ TRÁI TIM
Có rất nhiều câu chuyện về phép lạ, mỗi câu chuyện một hoàn cảnh, một thông điệp và để lại ấn tượng khác nhau. Câu chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho người mù ở Giêrikhô hôm nay là một điển hình. Điều đáng ngạc nhiên trước nhất chính là thái độ của người hành khất.
Người mù Bartimê, con ông Timê đang ngồi bên vệ đường, khi vừa được nghe nói có Đức Giêsu Nadarét đến, anh đã kêu la lên: “Lạy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !” ( Mc 10, 47 ). Hẳn người hành khất này phải biết về Đức Giêsu lắm lắm. Có lẽ anh đã từng được nghe về Ngài, cho nên anh đã tin và cầu xin. Lạ thay, nhiều người lại quát nạt và bắt anh ta im đi. Phải chăng vì họ sợ anh đã làm phiền Ngài ? Hay vì anh là kẻ mù lòa, hành khất không được quyền kêu tên Ngài ? Vậy mà, bất chấp lời quát máng của đám đông, anh càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !” ( Mc 10, 48 ).
Lời kêu gọi thống thiết quá. Đó chính là tiếng kêu thét, tiếng kêu gào, tiếng kêu khóc ở tận đáy tâm hồn. Không chỉ bằng lòng tin, mà còn trong cõi thâm sâu của linh hồn, một sự cầu cứu đến tột đỉnh, một sự bấu víu nài nỉ đến tột cùng. Lời cầu cứu không chỉ cho được khỏi bệnh nhưng hơn cả thế mà chính là lời tuyên xưng, tuyên tín, kính trọng, phó thác, yêu mến vô biên vào Thiên Chúa.
Tiếng gọi từ trong tận cùng trái tim anh đã lay động trái tim Thiên Chúa và Ngài đã dừng bước, cúi xuống, trò chuyện: “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” ( Mc 10, 51 ). Câu hỏi của Đức Giêsu mới nghe qua, xem chừng thấy lạ. Một thái độ vừa như hoài nghi, vừa như tôn trọng, như để xác định niềm tin của người vừa cất tiếng kêu van. Anh vừa gọi ai ? Anh vừa nói gì ? Anh vừa tuyên tín tôi là ai ? Và tôi có thể làm gì được cho anh chứ ? Chẳng cần suy nghĩ, anh mù đã nhanh nhẹn trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” ( Mc 10, 51 ).
Nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ nhận ra ngay thái độ xưng hô của anh. Từ một người hấp hối ở tận đáy vực sâu kêu gào lời van xin tha thiết, tâm lý ngôn ngữ của anh đã đột ngột thay đổi khi được Đức Giêsu tiếp chuyện, mời gọi, hỏi han. Anh như đã bắt được làn sóng của Ngài, làn sóng của tình yêu thương và tôn trọng. Anh cảm nhận được sự gần gũi để rồi thân thưa: “Thưa Thầy, Thầy ơi, xin cho tôi nhìn thấy được !”
Tiếng “Thầy” nghe sao mà ngọt ngào thân thương đến thế, không còn khoảng cách, không còn cấp bậc, không còn răn giới mà chỉ còn lại tình thân thiết. Phải, anh đã rờ chạm được đến trái tim Thiên Chúa, anh đã nắm giữ được trái tim của Ngài. Đó cũng chính là phần thưởng của anh, một kho tàng quí giá hơn bất cứ điều gì trên thế gian này: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” ( Mc 10, 52 ).
Đẹp quá, thật đúng là một câu chuyện đầy cảm động. Chỉ cần tin vào Thiên Chúa, chỉ cần đặt niềm tin tưởng vào Ngài là đã có thể hóa giải mọi vấn nạn. Sở dĩ nhân loại còn có biết bao nhiêu con người mù lòa đang khập khiễng, vất vưởng trên con đường lữ thứ trần gian là chỉ vì thiếu niềm tin. Niềm tin như là ánh sáng chỉ đường.
Chính ánh sáng Đức Tin sẽ soi lối mở đường cho ta đi vào con đường sống. Người mù Bartimê bị khiếm khuyết về thể xác, nhưng đôi mắt tâm linh của anh không hề mờ tối. Chính ánh sáng tâm hồn đã mở toang đôi mắt thể xác mù lòa của anh, giải phóng anh khỏi sự kìm kẹp của bóng tối Sự Dữ.
Cũng vậy, thế giới ngày nay, người khiếm khuyết thì ít nhưng kẻ mù tâm linh lại nhiều. Cái mù thể xác không đau đớn bằng cái mù tâm hồn. Người khiếm khuyết đáng thương thật nhưng không bất hạnh, đáng thương bằng kẻ mù lòa tâm linh.
Đó là những con người tội lỗi, ích kỷ và tham vọng. Con mắt tâm hồn của họ bị đui mù bởi tham vọng bạc tiền và nô lệ cho tội lỗi. Bóng tối của Sự Dữ, của tội ác đã bao phủ trái tim vô cảm của họ, để rồi họ không còn nhận biết Thiên Chúa là ai, đâu là sự thiện phải làm và Sự Dữ cần tránh nữa.
Lạy Chúa, hằng ngày có phải có rất nhiều lời cầu xin dâng lên Chúa; những lời kinh nguyện thánh thiện của Giáo Hội, những lời nỉ non thánh thót của các bậc tu trì và những lời kêu van thống thiết của những mảnh đời lang thang vất vưởng, không nhà ở, cơm ăn, áo mặc; người bệnh hoạn, kẻ tật nguyền… trong vô vàn tiếng kêu thống thiết ấy, có lời nào đẹp hơn tiếng khóc của người mù hôm nay: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !”
Xin Ngài hãy dủ lòng thương, xin Ngài hãy dủ lòng thương tôi ! Đó cũng là tiếng khóc ở tận cùng trái tim con. Ước gì, lời cầu xin này con biết thân thưa lên Chúa mỗi ngày để nhận được sự rung động của trái tim Chúa, lời ngọt ngào trao đổi: “Con muốn ta làm gì cho con ?”
Vâng, con xin Ngài cho con nhìn thấy. Xin Ngài cho con nhìn thấy được tình thương, sự bao bọc, chở che và bàn tay quan phòng, quyền năng vô biên của Thiên Chúa đang nâng đỡ con hằng ngày, hầu con có thể kiên vững bước đi trên con đường Ngài đã đi !
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
----------------------------
Trở lại Assisi, một tối kia bè bạn đặt chàng Phanxicô đứng đầu để chi tiêu thỏa thích. Chàng cho dọn một bữa tiệc thịnh soạn như chàng vẫn thường làm trong quá khứ. Ăn uống no nê xong, họ kéo nhau ra khỏi nhà. Đám bạn đi phía trước, vừa đi vừa ca hát qua các ngả đường thành phố. Tay cầm cây trượng thủ lãnh, chàng lùi lại sau họ một ít, không ca hát nhưng mải miết suy tư. Bỗng nhiên chàng được Chúa viếng thăm. Chúa đổ đầy tâm hồn chàng một sự êm dịu lớn lao đến mức chàng không nói năng, hay cử động gì được. Chàng không thể cảm nghiệm và nghe thấy gì khác ngoài sự êm dịu kỳ lạ này, nó khiến chàng thoát ra ngoài mọi cảm giác. Và như Phanxicô sau này cho biết, giả sử lúc đó người ta có định xẻ thịt mình, thì chàng cũng không thể nào cử động được.
Khi các bạn ngoảnh lại và thấy chàng cách họ khá xa, họ liền quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy chàng đã biến đổi thành một con người khác. Họ hỏi chàng: "Anh nghĩ ngợi gì mà không đi theo chúng tôi ? Có phải đang tính đến chuyện cưới vợ không ?" Chàng mạnh dạn trả lời: "Các bạn nói đúng đấy ! Tôi đang nghĩ đến việc cưới một người vợ quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn bất cứ người nào các bạn đã từng thấy." Họ cười nhạo chàng. Thực ra chàng nói câu ấy không phải tự ý mình, nhưng do được Thiên Chúa linh ứng, vì vị hôn thê là đời sống tu trì chân thực, mà sau này chàng sẽ noi theo, một vị hôn thê quý phái, giàu sang và kiều diễm hơn nhờ có Đức Khó Nghèo.
Kể từ giờ phút ấy, chàng bắt đầu coi thường bản thân và khinh chê những gì trước đây chàng ưa thích. Vì chưa hoàn toàn tách khỏi các sự phù vân của thế gian, nên sự biến chuyển vẫn chưa trọn vẹn. Tuy nhiên chàng cũng dần dần rút lui khỏi cảnh huyên náo và bon chen của trần thế và chăm chú tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô trong con người nội tâm.
Để che giấu khỏi tầm mắt những kẻ thích nhạo cười viên ngọc quý, mà chàng đem bán mọi tài sản để mua lấy, chàng thường xuyên và gần như mỗi ngày, lánh mình cầu nguyện ở nơi kín đáo. Chàng được thúc đẩy làm như vậy, vì chính niềm êm dịu đã được nếm trước đó. Nay niềm êm dịu ấy lại viếng thăm chàng thường xuyên hơn nữa, cuốn hút chàng vào cầu nguyện ngay giữa quảng trường hay giữa những nơi công cộng khác.
Mặc dầu từ lâu chàng đã là ân nhân của người nghèo, nhưng kể từ đấy, chàng quyết tâm không bao giờ từ chối bất kỳ người nghèo nào đến xin bố thí nhân danh Chúa, trái lại còn sẵn lòng cho rộng rãi hơn thường lệ. Như thế, mỗi lần có kẻ nghèo đến xin ngoài đường, chàng đều lấy tiền cho. Nếu không sẵn tiền, chàng lấy mũ hay giây thắt lưng của mình cho người ấy, để chắc chắn là người ấy không ra về tay không. Nếu không có cả những thứ ấy, chàng không ngần ngại đến một chỗ khuất, cởi áo ra, đem trao cho người nghèo và năn nỉ người ấy nhận lấy vì lòng mến Chúa. Chàng cũng mua cả những vật dụng để trang hoàng Nhà Thờ, và kín đáo gởi các thứ đó đến các Linh Mục nghèo túng. ( Truyện Thánh Phanxicô do ba người bạn thuật, Ofmvn.org ).
Chàng công tử hào hoa Phanxicô thành Assisiô bất ngờ nghe tiếng Chúa gọi. Chàng cảm thấy ngây ngất, hạnh phúc vô cùng. Con tim mù lòa của chàng được hào quang Nước Trời chiếu dọi vào, trở nên ấm áp lạ lùng. Bỏ mặc những tiếng cười chê của bạn bè, thị phi của thiên hạ, chàng Phanxicô can đảm canh tân cuộc đời, y như anh chàng mù Bartimê được Chúa cho sáng mắt.
Tin Mừng Chúa nhật 30 hôm nay, Thánh Máccô thuật lại hành trình Đức Tin của chàng hành khất Bartimê mù lòa. Công khai hóa niềm tin, tích cực khấn xin chữa lành, anh tìm đến Đức Giêsu, vượt qua gian nan, thử thách, dám từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa.
Tin Người
Giữa đám đông chen chúc, hỗn độn, ô hợp, xô bồ, anh Bartimê mù lòa đang ngồi ăn xin bên vệ đường, được biết Đức Giêsu đi ngang qua, liền cất lên tiếng cầu khẩn:"Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương con" ( Mc 10, 46-47 ). Tiếng kêu tha thiết, mãnh liệt, tràn đầy tin cậy, tưởng chừng lạc lõng, bị lấn át đi, chẳng ai có thể nghe được. Không bỏ cuộc, anh lại lớn tiếng lập lại ước nguyện: "Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi."
Hình như lời xưng tụng “Con Vua Đavít” không được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ ? Bởi vì thiên hạ đang mong đợi một Đấng Mêsia, cứu nhân độ thế, giải phóng Israel khỏi ách nô lệ Roma, phải uy nghi, hùng dũng, tiền hô hậu ủng, chứ không phải ông Giêsu Nadarét bình dân bụi đời. Mặc cho quần chúng sáng mắt nhưng tối lòng, đang vây quanh Đức Giêsu, dọa nạt, cưỡng bức Bartimê phải im lặng, anh vẫn không chịu khuất phục, càng khẳng định, xưng tụng, gào to hơn: “Con vua Đavít !” càng van xin lòng thương xót của Đấng Cứu Thế.
Như ánh sáng chói lọi giữa đêm u ám kiếp mù lòa, Đức Tin anh Bartimê bỗng rạng ngời bừng sáng, không cần giấu diếm, che đậy, không đắn đo, không khôn ngoan theo thế gian, bất chấp những đòn trả thù dã man của những kẻ quá khích kình chống Đức Giêsu, đang lởn vởn vây quanh gầm ghè hăm dọa. Bartimê vẫn anh dũng tuyên xưng Đức Tin.
Tìm Người
Mặc dầu nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi." Giữa tiếng ồn ào, giữa đám đông huyên náo, giữa xã hội nhiễu nhương, đa dạng, Đức Giêsu vẫn luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn đáp lại bất cứ ai khẩn cầu Người, cần đến Người cứu chữa, giúp đỡ, che chở. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh." Không bao giờ Người phụ lòng bất cứ một ai chân thành tìm đến Người cứu giúp. "Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu."
Vượt qua những rào cản hữu hình, vượt qua nỗi sợ hãi đến với Đức Giêsu, anh Bartimê còn can đảm vất bỏ đi tấm áo choàng bất ly thân của anh, vốn gắn bó che thân và mưu sinh. Cương quyết bỏ đi tất tần tật những gì vương vấn, vướng víu, trở ngại để đến với Chúa. Đức Tin trưởng thành của anh dẫn đến hành động xả kỷ rất quyết liệt, rất dũng cảm, không chút e dè, chần chừ, so đo, tính toán, anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu," dứt khoát bỏ mình, dấn thân theo Chúa. Hành trình Đức Tin khi này đưa Bartimê đến tầm cao mới, thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất tầm thường. Thánh Phanxicô cũng đã noi gương anh Bartimê, cho đi áo quần, giày mũ, của cải, để hân hoan, thảnh thơi đi theo Chúa.
Theo Người
Chúa Giêsu đáp: "Được, Đức Tin của anh đã chữa anh." Tức thì anh ta thấy được và đi theo Chúa Giêsu. Dù hoàn toàn hiểu nguyện vọng của anh, Đức Giêsu vẫn tôn trọng tự do của anh, muốn chính anh bộc lộ ra công khai. Rồi chính quyền năng Người đã cứu chữa anh sáng mắt, nhưng Người nhấn mạnh đó là thành quả của Đức Tin đáng được tưởng thưởng của anh Bartimê. Một sự khiêm tốn cả thể và một tầm quan trọng vô cùng của Đức Tin.
Hành trình Đức Tin của Bartimê bắt đầu từ lặn lội đi tìm Chúa, vượt qua gian khó, thử thách, từ bỏ mình, khám phá ra Ánh Sáng, được chiếu sáng cả thân xác lẫn tâm hồn, được nhận biết chân dung nhân ái của Đức Giêsu, tiếp tục dìu dắt anh đồng hành cùng Người, hướng về Giêrusalem theo Thánh Ý Đức Chúa Cha.
“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ thực hiện trong cả cuộc sống” (Đường Hy Vọng, số 69 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trở nên chàng Bartimê mới, biết tin yêu lắng nghe, từ bỏ của cải, bươn chải tìm đến Chúa, hội ngộ với Chúa, được chiếu sáng tâm hồn và được đồng hành với Chúa trên đường hy vọng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từ bỏ mọi sự thế gian, dâng hiến trọn đời theo Chúa, xin cầu bầu cứu giúp chúng con thoát khỏi đêm đen đầy ma lực cám dỗ, để tỉnh thức tìm đến Ánh Sáng Chúa Kitô. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
-----------------------------
[1][1] 1) Bản văn Đệ nhị Luật
- Đnl 26,5 LXX: Syrian apebalen (apoballơ ở dạng aorist) ho patr mou (dịch cho r sắc thi: Cha tơi đ dứt bỏ Syri ra sau lưng)
- Đnl 26,5 Vg: Syrius vagus erat pater meus (Bản văn La-tinh giữ nội dung của Bản LXX, chứ không giữ lại động tù apoballơ: Cha tôi đ l người Syri)
Bản văn Híp-ri là một câu khác hẳn, và được dịch chẳng hạn trong Bd CGKPV: Ông tổ tôi là người A-ram phiêu bạt
2) Bản văn Isaia
- Is 1,30 LXX: esontai gar hơs terebinthos apobeblkuia (apoballơ ở dạng participle perfect) ta phylla (dịch: Vì cc ngươi sẽ ra như cây vân hương mất hết/trụi hết các lá)
CGKPV: Vì cc ngươi sẽ như cây vân hương lá héo tàn
Nguyễn Thế Thuấn: Quả các ngươi sẽ nên như sến lá ú tàn
Hai bản dịch này đều dịch là “lá héo TN ” hay “l TN ” vì dựa vo bản Híp-ri với động từ navl, “to be withered, to becom withered”.
- Is 1,30 Vg: Nam eritis velut quercus, defluentibus foliis
3) Bản văn Thư Do thái
- Dt 10,35 Hy-lạp: M apobalte (apoballơ ở dạng aorist2 subjunctive) oun tên parrêsian hymôn (dịch: Vậy anh em đừng đánh mất lịng tin tưởng mạnh dạn của anh em – CGKPV)
- Dt 10,35 La-tinh: Nolite itaque abicere confidentiam vestram