: “Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”. Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa. - Ðó là lời Chúa.
Vào một buổi sáng mùa đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với: TN 31-B51
Vào một buổi sáng mùa đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành. Họ trao đổi với nhau và tìm cách áp dụng tinh thần yêu thương vào cuộc sống hằng ngày. Căn phòng không đủ ấm vì từng cơn gió lạnh thổi tới. Một tù nhân nghèo túng, trên người chỉ có một bộ quần áo mỏng manh, đang ngồi mà cứ run lập cập. Bên cạnh đó, một bạn tù khoác những hai chiếc mềm. Và thế là, trong lúc mọi người bàn luận về cách thức tương trợ lẫn nhau, người bạn tù đột nhiên đúng dậy, tiến đến và choàng một chiếc mềm lên người tù nghèo túng. Cử chỉ của người bạn tù đã gây được một ấn tượng mạnh mẽ cho cả nhóm hơn bất cứ lời nào họ nói ra để chia sẻ.
Và cũng từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, chúng ta thường nói: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, vì thế sống trên đời chúng ta có hai bổn phận phải chu toàn, đó là mến Chúa và yêu người. Hai bổn phận này phải luôn luôn đi đôi với nhau, như hai mặt của một đồng tiền. Nói cách khác, đó chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, giới luật yêu thương. Chúng ta không thể cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, nếu như chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động bác ái. Thánh Gioan Tông đồ đã xác quyết: Nếu ai nói rằng mình kính mến Chúa là lại ghét bỏ anh em, thì quả thật kẻ ấy chỉ là một tên nói dối, bởi vì hắn ta không thể kính mến Chúa là Đấng hắn chẳng hề trông thấy bao giờ, nếu hắn không yêu thương anh em, là những người hắn luôn thấy được. Chính Đức Kitô cũng đã dạy: Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Hai lệnh truyền này tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không yêu thương anh em thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn kính mến Thiên Chúa nữa. Có một câu danh ngôn đã bảo: Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng làm sao thấy được bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng. Thế nhưng khi tôi tìm kiếm người anh em, thì tôi sẽ gặp được chính Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với những người anh em nghèo khổ: mỗi khi chúng ta cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, người đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.
Thế nhưng, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.
Trái lại, nếu chúng ta yêu quý những người thân cận trong gia đình, thì chúng ta mới có thể yêu quý những người bà con lối xóm. Và một khi đã yêu quý những người bà con lối xóm, thì chắc chắn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng kính mến Thiên Chúa. Dấu chỉ và bộ đồng phục của người môn đệ Chúa phải là lòng bác ái, và ngôn ngữ của người Kitô hữu, thứ ngôn ngữ mà nhờ đó bất cứ ai cũng có thể hiểu được về Thiên Chúa và về bản thân chúng ta, đó phải là ngôn ngữ của tình yêu thương.
Ngày đầu tiên bé vào trường nội trú. Bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Bé tự hỏi: TN 31-B52
Ngày đầu tiên bé vào trường nội trú. Bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Bé tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ, đủ loại này. Nhưng đến chiều, bé gặp bà hiệu trưởng. Bé thấy bà thật hiền hậu, dễ mến. Bà có nụ cười đầy thiện cảm. Bé thấy mến bà và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu, Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: Mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ YÊU.
Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do thái thì vẫn giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một giao ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong tình cha con. Chúng ta sống với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng dựa trên liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta nhận Thiên Chúa là cha và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên mức độ tuyệt đỉnh: phải yêu anh em như yêu Chúa. Ai giúp đỡ một người bé mọn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Ngài như một người cha, nhưng tình yêu này phải được biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu mến anh em mới chứng tỏ mình yêu mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
Tiếp theo các cuộc tranh luận vừa mới xảy ra, đoạn Tin Mừng này có nhiều nét khác với: TN 31-B53
Tiếp theo các cuộc tranh luận vừa mới xảy ra, đoạn Tin Mừng này có nhiều nét khác với những đoạn trước. Có một thầy thuộc giới Kinh sư đến với Chúa Giêsu (c.28a). Và Maccô cho thấy ngay rằng Chúa Giêsu tỏ ra ưu ái ông. Một Kinh sư mà nêu ra một câu hỏi như vậy kể cũng lạ (c.28b). chắc chắn ông ta phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh. Đó là lãnh vực chuyên môn của ông mà! Nhưng vào thời bấy giờ, các Kinh sư thường sôi nổi tranh luận xem giới luật này hay giới luật nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê được tới 630 giới luật của Cựu Ước: Cả một cánh rừng mịt mù đối với dân Do Thái. Nhóm Biệt phái, bao giờ cũng khắt khe về luật lệ, đã rút ra một nền luân lý quá ư tỉ mỉ, phải mất công phân biệt. Người ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu sẽ dựa vào 10 điều răn để trả lời (x.Xh 20,1-17). Nhưng không phải vậy, Ngài lại đọc những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do Thái giáo (tựa như kinh Lạy Cha) (c.29a). Đó là kinh Shema Israel (Hỡi Israel, hãy lắng nghe) (Đnl 6,4-5). Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai (c.31a) là phải yêu mến anh em (Lv 19,18). Trong văn chương Do Thái hồi ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Maccô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó” (c.31b).
Câu trả lời của Chúa Giêsu lập tức thuyết phục được người nghe hoàn toàn. Ở câu 32, người này thực ra chỉ biết lặp lại hai câu Thánh Kinh Chúa Giêsu đã trích dẫn, từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn. Ông ta nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, và chỉ mình Ngài, không có ai khác” (Dt 4,35). Rồi ông kết luận rằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân phải được coi trọng hơn các hiến tế dâng cúng của Do Thái giáo (c.33). Điều này rất phù hợp với ý tưởng của các tiên tri rằng: Chúa phán: “Ta muốn tình yêu chứ không phải lễ vật hy tế” (Hs 6,6). Giới Kinh sư chiếm một vị trí quan trọng trong khu vực đền thánh (từ 11-27). Chúa Giêsu thấy rõ điều đó nên Ngài mới nói: “Ông đã phán đoán khôn ngoan” rồi khái niệm (điều hiếm hoi đối với Chúa) rằng “ông không còn xa Nước Thiên Chúa ” (c.34a). người ta có thể hầu chắc rằng ngay trong giới Kinh sư căm ghét Chúa Giêsu từ thuở đầu (2,6; 3,22 v.v…) thì cũng có những kẻ hướng tìm nguồn sáng. Tóm lại Maccô đã biến cuộc gặp gỡ này thành một khoảnh khắc hạnh phúc. Theo ông trái hẳn với Matthêu (22,34-40) và Luca (10,25-28) –thì không còn một cuộc đối thoại nào theo kiểu vừa nói nữa.
Ẩn sau các câu hỏi đáp này, chính là một cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giêsu với một người Biệt phái cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào cả. Câu chót của đoạn văn có một ý nghĩa đặc biệt. Không còn ai dám hỏi Ngài nữa (c.34b), nghĩa là không còn thời gian thuận lợi để tranh cãi nữa.
Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi. Đức Giêsu bị chất vấn. Người được: TN 31-B54
Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.
Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện "cho các quốc gia" (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,'' Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn "cây vả bị khô héo”, Người đã nói "Con Người" đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, "bị tấn công”, "phản công". Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.
Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:
“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm" (Mc 11,27-33). "Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình" (Mc 12,1-12).
- Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).
- "Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?" (Mc 12,18-27).
Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.
Chúng ta có khuynh hướng "đóng khung" đời sống tôn giáo của mình trong vòng "riêng tư" trong việc "thờ phụng" không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?
Điều răn nào đứng hàng đầu?
Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những "trường dạy Đức tin" gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để "nghiên cứu học hỏi". Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta "chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn" của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để "nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?
Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: "Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi" Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.
Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?
Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất".
"Phải phụng sự Chúa trước hết". Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?
Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!
“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe" Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết "lắng nghe", và để cho Thiên Chúa giáo huấn.
Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh "Shema" Israel (Đnl 6,4-5).
Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.
Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.
Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: "Thiên Chúa là Chúa duy nhất". Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: "Thiên Chúa là một". Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: "Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ "một" có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ "duy nhất". Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn "hợp nhất". Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn "lưu chảy", làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.
Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?
Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. "Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến", nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức" không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.
Điều răn thứ hai là...
Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.
Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.
Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế "yêu Thiên Chúa" là đủ, hay "thương yêu anh em" cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!
Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.
Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ "điều răn" trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.
Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.
“Nước Thiên Chúa" đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.
Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. "Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ "như Ta" để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: "Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!
(Trích trong ‘Đối thoại với Thiên Chúa’ – Fernandez)
1. Giới răn trọng nhất.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng: TN 31-B55
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng như sự hoàn hảo trong Mặc Khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc một, chúng ta được nghe giới răn thứ nhất được tuyên đọc bằng những lời rõ ràng: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi. Câu Thánh Kinh này rất quen thuộc với tất cả những người Do Thái. Họ lặp lại giới răn này hai lần mỗi ngày, trong giờ kinh Sáng và kinh Tối của họ.
Trong bài Phúc âm, chúng ta được nghe về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với một vị kinh sư. Ông này đã lắng nghe cuộc đối thoại giữa Chúa và những người Sa-đốc. Vị kinh sư có một ấn tượng về cách Chúa trả lời những vấn nạn. Và ông đã hỏi Chúa về giáo huấn của Người: Thưa Thầy, giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu dừng lại một chút trước câu hỏi thành tâm này, mặc dù Người thường nghiêm nghị với những kinh sư và những người Biệt Phái. Vào cuội cuộc trao đổi, Chúa đã nói những lời đầy khích lệ với vị kinh sư: Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúa Giêsu luôn sẵn lòng dành thời giờ cho những linh hồn quan tâm đến Người. Chúa đã nhắc lại những lời trong Thánh Kinh: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi...
Đây chính là giới răn trọng nhất trong mọi giới răn, là giới luật tóm kết và cao điểm của mọi giới luật. Nhưng ý nghĩa của tình yêu này hệ tại ở điều gì? Trong một bức thư tưởng tượng viết cho thánh Phanxicô Salê, Đức Hồng Y Luciani - tức là Đức Gioan Phaolô I sau này - đã đưa ra câu định nghĩa như sau: Theo ngài, người yêu mến Chúa phải lên con tàu của Chúa, quyết tâm theo con đường các giới luật của Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị đại diện của Chúa, và trong những tình huống và hoàn cảnh cuộc sống Chúa đã cho xảy đến. Ngài đã tưởng tượng ra cuộc phỏng vấn hoàng hậu Marguerite, khi bà sắp sửa lên đường gia nhập đạo quân Thánh Giá cùng chồng là vua thánh Louis IX của nước Pháp: ‘Thưa quí bà, quí bà định đi đâu?' Đức vua đi đâu, tôi đi đó'. 'Nhưng quí bà đâu có biết đích xác đức vua đi đâu không?' 'Đức vua đã cho tôi biết tổng quát. Tôi không quan tâm đến việc biết đích xác nơi đức vua sẽ đến, tôi chỉ quan tâm đến việc được cùng đi với đức vua'... Đức vua là Thiên Chúa, và chúng ta tất cả là những hoàng hậu Marguerites nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người...
Sống với Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm như một con trẻ trên tay mẹ hiền; dù Người ẵm chúng ta bên tay phải hoặc bên tay trái: chúng ta hãy để tùy ý Người. Chỉ có một điều can hệ: đó là được sống bên Chúa Giêsu. Dù ở đâu, dù chúng ta chịu đau khổ nào, dù thành công hay thất bại - tất cả phải được chúng ta đón nhận. Hoàn cảnh dù thế nào cũng phải giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh nữ Têrêsa: Đừng để sự gì làm bạn xao xuyến; Đừng để điều gì làm bạn kinh hãi; Mọi sự đều qua đi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Sự nhẫn nại đạt được: Tất cả những gì nó gắng đạt đến. Ai có Thiên Chúa sẽ thấy mình không thiếu thốn gì; Một mình Chúa là đủ cho ta.
2. Đáp lại tình yêu Chúa.
Hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong phần đáp ca:
Con yêu mến Chúa, lạy Giavê, sức mạnh của con.
Chúa là đá tảng, là đồn lũy, là đấng giải thoát con. Lạy Chúa Trời con, Người là thuẫn đỡ, là uy tế độ, là đồn trú của con.
Thánh Vịnh 17 có thể được coi là kinh Te Deum vua Đavít đã thân thưa với Chúa. Vua muốn cám tạ Thiên Chúa về tất cả những sự trợ giúp đã nhận được trong cả cuộc đời Chúa đã giải thoát vua khỏi mọi địch thù. Người đã ban cho vua được chiến thắng các dân ngoại. Sau cuộc khởi loạn của Absalom, Chúa đã trả lại thành Jerusalem cho vua. Lúc nào, vua cũng nhận được sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, vua đã dâng lên Chúa lời cám tạ và tình mến: Lạy Chúa, sức mạnh của con, con yêu mến Chúa. Chúa luôn luôn là đồng minh của vua Đavít, là thành lũy, là nơi nương ẩn, và là khiên thuẫn chở che cho vua... Chúa luôn luôn bảo trợ cho vua: Người giải thoát tôi, bởi vì Người hài lòng với tôi. Mỗi người chúng ta cũng có thể lặp lại những lời như thế. Nhân tố quyết định cho cuộc đời chúng ta chính là việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thực tại này phải làm cho lòng chúng ta ngập tràn niềm an ủi và hy vọng: Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Mầu nhiệm Nhập Thể là biểu hiện tối cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người. Tình yêu này còn có trước thời điểm Nhập Thể, vì phát sinh từ bản tính Thiên Chúa: Ta đã yêu thương các người bằng một tình yêu muôn thuở. Tình yêu này đã có trước khi tạo thành trời đất. Thánh Thomas dạy rằng tình yêu này là nguồn mạch mọi ân sủng của chúng ta.
Nhưng điều còn kinh ngạc hơn nữa là tình yêu Thiên Chúa đã được trào đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, đấng đã được ban tặng cho chúng ta. Thánh Augustine đã viết: Chúng ta đã được yêu thương ngay cả khi chúng ta vô tâm nhất. Thiên Chúa đã muốn ban cho chúng ta một điều gì đó để chúng ta ca ngợi Người. Thánh nhân còn nói: Hãy nghe đây! Hãy nghĩ về cách bạn đã được yêu thương khi bạn không đáng được thương yêu. Hãy lắng nghe, bạn đã được thương yêu như thế nào khi bạn vụng về và xấu xa, khi bạn chẳng có gì đáng được yêu thương. Bởi vì bạn đã được thương yêu trước, bạn đã được tạo dựng để được yêu thương.
Chúng ta lẽ nào lại không đáp trả một tình yêu như thế hay sao? Thiên Chúa mời gọi chúng ta yêu mến Người bằng việc làm và bằng những cảm tình của con tim. Mỗi ngày, chúng ta hãy tìm hiểu thêm về nhân tính thánh thiện của Chúa Giêsu, đó là con đường tốt nhất để đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha hằng yêu thương Chúa Con. Người cũng yêu thương chúng la: Cha đã yêu chúng như Cha đã yêu Con. Người càng yêu thương chúng ta hơn nữa khi chúng ta yêu mến Con của Người: Ai yêu mến Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy.
Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm. Tình yêu được thể hiện trong sự tín thác như con trẻ đến cùng người cha khi gặp sự khó. Đây là việc của mỗi ngày. Chúng ta hãy có một tinh thần tri ân vui tươi về bao phúc lành đã được lãnh nhận. Chúng ta hãy tín trung như những người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa, trong những nơi Người đã đặt định cho chúng ta. Trong lâu đài của Thiên Chúa, chúng ta hãy chấp nhận bất kỳ vị trí nào: người nấu nướng hoặc người rửa bát, người phục vụ, người làm bánh, người giữ ngựa. Nếu đức vua muốn gọi chúng ta vào số quần thần ưu tú, chúng ta hãy sẵn sàng mà không xao xuyến, chúng ta biết sự ban thưởng không tùy thuộc vào địa vị, nhưng vào sự tín trung với nhiệm vụ được giao phó. Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc với địa vị của chúng ta. Bao nhiêu lần lẽ ra chúng ta phải thưa với Người: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa..., nhưng xin dạy con biết yêu hơn nữa, yêu thật nồng nàn!
3. Tình yêu thể hiện bằng việc làm.
Một nhà viết tiểu sử thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả tình mến tinh tế từ những ngày đầu của đan viện thánh Giuse: Khi thiếu thốn tiền bạc, các nữ tu sẵn lòng dùng bánh khô, nhưng họ chẳng bao giờ thiếu nến sáp để thắp sáng bàn thờ và những đồ phụng tự đều là thứ tuyệt hảo hết sức có thể. Một linh mục lấy làm khó chịu: 'Cái gì! Một chiếc khăn để lau tay trước khi dâng lễ mà cũng phải tẩm thuốc thơm à?' Với dung mạo tốt lành rạng ngời lửa mến, mẹ Têrêxa đã nhận phần trách nhiệm: 'Chính vì tôi mà các chị em đã mắc sự bất toàn này. Nhưng khi tôi nhớ rằng Chúa đã quở trách bọn Biệt Phái vì không tiếp rước Người xứng đáng, thì tôi lại ước ao mọi sự trong thánh đường này, bắt đầu từ ngưỡng cửa, đều được tẩm dầu thơm...' Chúa rất coi trọng những biểu hiện tình yêu chân thành như thế.
Chúng ta hãy tỏ lòng mến Chúa bằng cách trung thành giữ trọn những giới luật của Người và chu toàn những bổn phận của chúng ta giữa trần gian. Lòng mến của chúng ta sẽ được minh chứng qua việc gớm ghét tội lỗi và mọi dịp tội, qua việc thực thi tình yêu trong những chi tiết nhỏ mọn như bái quì nghiêm trang, giữ đúng giờ những việc đạo đức, cung kính chào ảnh Đức Mẹ... Chính nhờ những việc đạo đức nhỏ bé này mà chúng ta giữ được ngọn lửa tình yêu Chúa của chúng ta được bừng cháy.
Mọi việc chúng ta dâng lên Chúa chỉ có một giá trị tương đối nếu so với tình yêu đi trước của Chúa. Thiên Chúa yêu thương tôi. Thánh Gioan Tông đồ viết: 'Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Người đã yêu thương chúng ta trước'. Và như thế dường như vẫn chưa đủ, nên Chúa Giêsu đã đến với từng người chúng ta, mặc dù chúng ta dơ nhớp, để hỏi chúng ta giống như Người đã hỏi Phêrô: 'Simon, con Giona, con có mến Thầy hơn những người này không?'
Đây là lúc chúng ta phải trả lời: 'Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa!' Tuy nhiên, chúng ta hãy khiêm tốn xin thêm: 'Nhưng xin giúp con yêu mến Chúa hơn nữa. Xin gia tăng lòng mến cho con!'.
Bài Tin Mừng hôm nay ( Mc 12, 28b – 34 ) kể lại một cuộc đối thoại thú vị và quan trọng giữa: TN 31-B56
Bài Tin Mừng hôm nay ( Mc 12, 28b – 34 ) kể lại một cuộc đối thoại thú vị và quan trọng giữa Đức Giêsu và một ông kinh sư Do Thái, ngay sau cuộc tranh luận của Đức Giêsu với những người thuộc nhóm Sađốc.
“Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Sađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” ( c. 28 ).
Các điều răn của Thiên Chúa được coi là thành phần quan trọng và quý giá trong mối tương quan giữa Thiên chúa và dân của Người. Các điều răn bày tỏ cho người ta biết ý muốn của Thiên Chúa, cách hành xử đúng đắn mà người ta cần phải thực hiện, và con đường đưa người ta đến sự sống đích thực. Không ai có thể tự mình ban sự sống cho chính mình. Mọi người đều tùy thuộc Thiên Chúa hằng sống, và do đó, đều phải thực thi các lệnh truyền của Người để có thể đạt tời sự sống đích thực.
Trong thực tế, các vị thầy lỗi lạc của Do Thái Giáo đã đưa ra một tổng hợp gốm 613 điều răn, trong đó có 365 điều cấm làm ( tương ứng với con số 365 ngày của năm ) và 248 điều buộc làm ( tương ứng với con số 248 bộ phận của cơ thể con người theo quan niệm của người xưa ). Vấn đề là trong số 613 điều răn đó, điều răn nào đứng đầu ? Đây quả thực đã là đề tài tranh luận sôi nổi giữa các bậc thầy Do Thái.
Chính trong bối cảnh tư tưởng và thực tiễn như vậy mà ông kinh sư đã nêu vấn đề với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” Câu hỏi này, sâu xa ra, là câu hỏi về điều mà Thiên Chúa quan tâm nhất, cũng là về điều mà con người cần phải chú ý nhất và phải nỗ lực thực hiện ở mức độ cao nhất để đạt tới sự sống đích thực.
“Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” ( cc. 29 – 31 ).
Trước hết, Đức Giêsu lặp lại những lời của Đnl 6, 4 – 5 mà người Do Thái đọc mỗi ngày trong lời cầu nguyện buổi mai và buổi hôm, tức là trong kinh Shema.
Điều răn thứ nhất ( yêu mến Thiên Chúa ) được dẫn nhập bởi một lời kêu gọi: “Nghe đây, hỡi Israel...” Lời được ngỏ không phải cho từng người người cô lập và được hiểu theo nghĩa cá nhân chủ nghĩa riêng biệt, mà là ngỏ với dân Israel và với mỗi người trong tư cách là thành phần của cộng đồng con cái Israel. Họ được mời gọi lắng nghe và nhận biết rằng “Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”. Nói cách khác, họ phải ý thức Đức Chúa mà mình được mời gọi yêu mến là ai. Người là Đức Chúa, là Thiên Chúa chúng ta, và là Chúa duy nhất.
Israel cần sống xác tín rằng Người là “Thiên Chúa chúng ta”, tức là vị Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng của Người. Công thức “Thiên Chúa chúng ta”, vì thế, là công thức diễn tả mối liên hệ đặc biệt của Thiên Chúa với Israel. Trong mối liên hệ đặc biệt đó, tình yêu của Thiên Chúa là yếu tố đi bước trước, và tình yêu mà người ta phải có đối với Thiên Chúa, vì vậy, luôn chỉ là lời đáp trả ( tất nhiên còn ) yếu đuối và bất toàn.
Đồng thời Israel cũng được mời gọi ý thức rằng Thiên Chúa mà chúng ta phải yêu mến là “Đức Chúa duy nhất”. Chỉ một mình Người là Thiên Chúa. Mọi thực tại hiện hữu khác đều chỉ là thụ tạo, nghĩa là được Người tạo nên. Vì thế, người ta phải yêu mến Thiên Chúa hơn hẳn và khác hẳn tình yêu dành cho mọi thực tại khác.
Đối diện với Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta và là Chúa duy nhất đó, Israel được truyền phải yêu mến Người “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”, tức là với con người mình trong hiện hữu, trong ước muốn, trong suy nghĩ và trong hành động. Cả bốn thực tại của con người được liệt kê ở đây ( trái tim, linh hồn, trí khôn và sức lực ) đều được xác định bằng yếu tố “tất cả, hết, toàn bộ”. Nói cách khác, toàn bộ con người phải dấn thân vào trong tình yêu đối với Thiên Chúa, chứ không chỉ là vấn đề cảm giác mà thôi. Con người toàn diện với tất cả những khả năng và sức lực của mình, theo cách thức riêng của mỗi người, phải hoàn toàn hướng về Thiên Chúa trong tình yêu để tìm kiếm Người, yêu mến Người, kết hiệp với Người, thuộc trọn về Người. Đó chính là lệnh truyền đứng đầu trong mọi lệnh truyền.
Rồi lập tức, gắn chặt vào với lệnh truyền thứ nhất đó, Đức Giêsu nêu rõ: ( c. 31a ). Lệnh truyền này được trích từ Lv 19, 18, tức là từ một bản văn khác với bản văn của lệnh truyền thứ nhất nói trên. Nói cách khác, trong Cựu Ước, hai lệnh truyền này không được đặt liền kề nhau và không đương nhiên gắn chặt với nhau. Việc gắn kết hai lệnh truyền này với nhau ở đây quả thực là một việc làm đặc biệt của Đức Giêsu.
Đi liền với “Thiên Chúa của ngươi” trong lệnh truyền thứ nhất sẽ là “người thân cận của ngươi” trong lệnh truyền thứ hai. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa” và “ngươi phải yêu người thân cận” được gắn kết chặt chẽ với nhau. Về cách thức yếu mến, thì một bên là “với hết con người của ngươi” và bên kia là “như chính mình ngươi”. Rõ ràng lệnh truyền thứ hai gắn chặt và phát xuất từ lệnh truyền thứ nhất: tôi không thể yêu mến Thiên Chúa mà đồng một trật lại từ chối và ghét bỏ con người mà Thiên Chúa yêu mến bằng cũng một cách thức và mức độ như Người yêu mến chính bản thân tôi. Tình yêu đối với người thân cận, thực chất, là hiệu quả và là bằng chứng của tình yêu đối với Thiên Chúa.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
1. Thái độ chân thành tìm hiểu xem đâu là điều Thiên Chúa quan tâm và muốn chúng ta thực hiện trước hết và trên hết, là một thái độ tâm linh cần thiết, quan trọng và hữu ích để chúng ta có thể trung thành thực sự trong đời sống tâm linh, tôn giáo và luân lý. Trong Năm Đức Tin này, thái độ đó càng cần được chú trọng nhiều hơn.
2. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực, chính là điều răn thứ nhất, vì nó mang lại ý nghĩa cho tất cả những điều răn khác và bảo đảm thực chất cho việc tuân giữ mọi điều răn khác mà Thiên Chúa ban cho dân Người. Nhưng đồng thời và gắn chặt với nó là điều răn yêu mến người khác như chính mình. Trong quan niệm của Đức Giêsu, hai điều răn nói trên không thể tách rời nhau và “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. Người yêu mến Thiên Chúa thực sự sẽ phải có cách sống và hành xử hoàn toàn giống Thiên Chúa, Đấng luôn luôn yêu mến con người. Việc tuân giữ nghiêm chỉnh hai điều răn này sẽ tạo nên một cộng đồng xã hội thái bình, công minh và chính trực.
3. Điểm độc đáo trong câu trả lời của Đức Giêsu không phải là ở chỗ Người nói đến hai điều răn vốn đã được những người Do Thái thuộc nằm lòng, mà là ở chỗ Người coi hai điều răn đó quan trọng như nhau và là quan trọng nhất trong toàn bộ Lề Luật. Đàng khác, việc gắn kết hai điều răn mến Chúa và yêu người lại với nhau trong bài Tin Mừng hôm nay, quả thực, cũng là một việc làm đặc biệt của Đức Giêsu. Khi hai điều răn quan trọng nhất được nối kết chặt chẽ với nhau, thì tôn giáo của hai điều răn này phải được đưa ra khỏi đền thờ để đi vào cuộc sống thường nhật hàng ngày. Đạo phải là thực tại sống hàng ngày được diễn tiến dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, và con người ta không còn được phép dừng lại trên sự phân biệt giả tạo giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa và những thái độ của họ trong đời sống cộng đồng và xã hội.
Nhớ lại, chiều ngày 23.11.2009, tại Sở Kiện, trong dịp khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 350: TN 31-B57
Nhớ lại, chiều ngày 23.11.2009, tại Sở Kiện, trong dịp khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 350 năm Hội Thánh Công Giáo Việt Nam và 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, tôi đặc biệt tâm đắc lời phát biểu bằng cung giọng miền Nam rất đơn sơ chân chất của Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn, chủ tịch Ủy Ban Năm Thánh Toàn Quốc:
“Người Công Giáo Việt Nam hãy viết lại định nghĩa Đạo Công Giáo vào trong cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đoàn nơi chúng ta sống. Ước mong sử sách sẽ ghi nhận lại định nghĩa này vào trong văn hóa và tiềm thức của mỗi người: Đạo Công Giáo – Đạo Yêu Thương, người Công Giáo là người luôn ý thức rằng Chúa yêu thương mình và do đó ý thức được bổn phận phải yêu thương tất cả mọi người”.
Có thể có nhiều triết gia, nhà thần học, nhà ngôn ngữ học, hoặc những người thông thái cho rằng câu nói tầm thường ấy có gì mà đáng tâm đắc ?!? Nhưng với tôi, tôi tâm đắc ngay chính điểm ngỡ là tầm thường ấy, giản dị ấy, nó chất chứa cả một mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Có người cho rằng việc yêu thương nhau là chuyện hẳn nhiên như… “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” hoặc “thương người như thể thương thân”, “máu chảy ruột mềm”… theo cách văn hóa của người Việt vốn có từ ngàn xưa trong cái xã hội đình làng, lũy tre, bờ xe, bến nước…
Nét đẹp văn hóa ấy ở đâu ra ? Tự nhiên mà có hay là có cùng thời với Tiếng Việt, cùng thời với việc loan báo Tin Mừng cho người Việt bằng Tiếng Việt ? Thiết nghĩ, câu trả lời dành cho các nhà sử học.
Phần chúng ta, có thể hiểu rằng, Tin Mừng đến quê hương này là đã có ngay luật điều căn bản cho người Công Giáo: “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
Những người Công Giáo đầu tiên trên đất nước này đã sống và giữ luật điều quan trọng ấy đến nỗi người lương có thể nhận thấy và chúc tụng: Đạo Công Giáo chính là Đạo Yêu Thương !
Bởi cách thể hiện tình yêu thương của người Công Giáo không giống như của người chưa thấm nhập Tin Mừng. Người Công Giáo yêu thương người vì kính mến Chúa. Người chưa phải Công Giáo thì yêu thương người để được người khác yêu thương lại, để tạo một tương quan thuận lợi trong cuộc sống. Vì kính mến Chúa, vì lề luật tích cực của Chúa trở thành một bổn phận của lẽ công bằng: yêu người vì Chúa đã yêu ta, yêu người như Chúa đã yêu ta, cho nên, người Công Giáo yêu thương cả người thân, kẻ sơ, cả người giàu có lẫn kẻ nghèo khó, cả người thương lẫn kẻ ghét, cả người tôn trọng tự do tín ngưỡng lẫn người bức bách cấm cách, bắt bỏ tù, tra tấn, ngục hình chém giết dã man… Nếu không phải yêu người như Chúa dạy, hẳn là người Công Giáo đã nổi loạn lên rồi, thay vì âm thầm chấp nhận làm chứng cho Đức Tin vào sự sống lại, và cầu nguyện cho người dám đưa chân đạp mũi nhọn biết đàng ăn năn trở lại.
Nhìn lại Đạo Yêu Thương của những người Công Giáo Việt Nam đi trước chúng ta, là cha ông chúng ta, hẳn mỗi chúng ta phải đặt lại cách sống đúng với Tin Mừng như Chúa muốn, như cha ông ta đã nêu.
Đạo Yêu Thương bắt đầu nơi các gia đình: vì yêu Chúa, kính sợ lề luật của Thiên Chúa, cha mẹ sốt sắng thờ phượng Chúa qua các giờ kinh chung tối sáng, giờ cầu nguyện chung trong gia đình, nhắc nhớ nhau đời sống Bí Tích, đời sống Hội Thánh. Nhờ đó, kín múc ân sủng của Thiên Chúa mà trung thành với nhau trong tình yêu hôn nhân để làm gương sáng cho con bằng một nếp sống nhân ái và tận hiến. Gương sáng Đạo Yêu Thương của gia đình này sẽ là ngọn đèn soi cho gia đình kia, tạo nên một xóm làng sống Đạo Yêu Thương, không kể là lương hay giáo.
Đạo Yêu Thương từ Gia Đình đến Giáo Xứ. Uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày mỗi lớn lao, được mọi người tôn kính khi họ nhìn thấy cộng đoàn Giáo Xứ sống chan hòa yêu thương từ mục tử đến đoàn chiên, từ những người giúp việc Giáo Xứ đến những người nghèo khổ nhất. Không có gì đau khổ cho Chúa Giêsu bằng việc chính những người có Đạo Yêu Thương lại không yêu thương nhau, không đoàn kết với nhau, lại còn hơn thua nhau, ganh tị với nhau, tố cáo lẫn nhau, và tồi tệ hơn nữa là tranh giành nhau để có chức có quyền hơn là phối hợp với nhau mà phục vụ mọi người.
Đạo Yêu Thương của Cộng Đoàn Hội Thánh Địa Phương, cấp Giáo Phận, hẳn là bằng chứng hùng hồn nhất của Hội Thánh Chúa Kitô Toàn Cầu. Nếu các Giáo Xứ chân thành nêu gương đời sống yêu thương, hẳn là Hội Thánh Địa Phương của Chúa Giêsu có được một sức mạnh thẩm thấu thế giới này, cho dẫu là thế giới của những kẻ không muốn tin vào Thiên Chúa.
Sự Hiệp Nhất, Nên Một trong Chúa Kitô, nguồn mạch Tình Yêu, nguồn mạch Sự Sống, không cho phép các Kitô Hữu, các cộng đoàn Giáo Xứ tách lìa nhau, tự trị một cách rời rạc, nhưng ngược lại, luôn tương trợ nhau trong đời sống Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Dường như Ông Môsê cũng đang nói với các Gia Đình, các Giáo Xứ, các Giáo Phận, với tất cả chúng ta: "Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài” ( x. Đnl 6, 2 – 6 ).
Và Chúa Giêsu đang nhắc lại: "Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó" ( Mc 12, 29 – 31 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống Đạo Yêu Thương để dạy cho con cháu, hậu duệ bằng gương sống “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
Công ty địa ốc MKB Fastighets AB – trực thuộc Hội Đồng Malmo, thành phố lớn thứ ba của: TN 31-B58
Công ty địa ốc MKB Fastighets AB – trực thuộc Hội Đồng Malmo, thành phố lớn thứ ba của Vương Quốc Thụy Điển, đã bỏ ra 1, 3 triệu kronor ( 197.000 USD ) cho một chiến dịch khuyến khích những người thuê nhà của họ, chào hỏi hàng xóm láng giềng, như trong câu hát “khi mỗi hàng xóm là một người bạn” trong nhạc phẩm bất hủ Happy New Year của ban ABBA.
Chiến dịch “Lời chào đến hang xóm bạn” ( Sag hej till din granne ) được MKB thực hiện từ ngày 7.7.2012, dựa trên kết quả khảo sát vào đầu năm nay: 70% muốn nhờ vả hàng xóm khi cần thiết, 70% tin mối giao hảo với hàng xóm đem lại điều tốt cho mọi người và 80% muốn nói chuyện với hàng xóm.
Từ 15 năm nay số người nhập cư tăng cao, chủ yếu đến từ các nước Hồi Giáo. Nhiều người chọn Malmo vì nằm ở cực Nam, khí hậu ấm áp hơn thủ đô Stockholm. Tuy Malmo rộng chỉ hơn 280.000km2, chỉ có 293.900 người, nhưng có tới 170 quốc tịch và 150 tiếng nói khác nhau !
Điều đáng chú ý là cùng với sự lớn mạnh của các cộng đồng nhập cư thì tình trạng bạo lực, tội phạm có vũ trang, buôn lậu ma túy cũng gia tăng. Đó là chưa kể tình trạng bạo lực gia đình, phổ biến nhất là trong những gia đình gốc nhập cư Hồi Giáo, đến từ Trung Đông và Pakistan.
Chiến dịch chào hỏi của MKB như vậy có thể được xem như một sáng kiến mới của thành phố “nhiều màu sắc” này, làm mọi người xích lại gần nhau hơn, nhất là trong bối cảnh Malmo sẽ là thành phố chủ nhà cho Eurovision 2013, cuộc thi hát uy tín nhất tại châu Âu ( Tuổi Trẻ 12.10.2012 ).
Theo tạp chí The Economist, Thụy Điển đứng đầu về chỉ số dân chủ trên thế giới và đứng thứ bảy trong Liên Hiệp Quốc, về chỉ số phát triển con người. Tuy nhiên theo thống kê, Thụy Điển là một trong những nước vô thần nhất thế giới, vì 85% người dân không tin vào tôn giáo. ( Wikipedia ).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến thái độ đối với tha nhân. Thánh Marcô tường thuật một kinh sư cảm phục Chúa Giêsu đối đáp hay, bèn đến hỏi Người: “Thưa Thầy trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” ( Mc 12, 28 ). Nhưng trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu và Luca, lại nói rõ là vị kinh sư đó, đại diện cho nhóm Pharisiêu đển thử thách Người, ngay sau khi Người “đã làm cho nhóm Xa Đốc phải câm miệng” ( Mt 22, 34 ).
Yêu Chúa yêu người
Đức Giêsu trả lời: Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” ( Mc 12, 29 – 31 ).
Ngoài Lề Luật trong Sách Thánh, các thầy rabbi còn thêm 248 điều răn và 365 điều cấm. Người ta còn phân biệt khoản lớn với khoản nhỏ, điều nặng với điều nhẹ. Như thế, đâu dễ dàng tìm ngay ra một câu giải đáp vắn gọn và đầy đủ như yêu cầu của vị kinh sư. Nhưng Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức, đã khiến vị kinh sư phải tức khắc khẩu phục, tâm phục.
Hai Mặt Bàn Tay
“Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Ngoài Người ra không có đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn lễ toàn thiêu và hy lễ” ( Mc 12, 32 – 33 ).
Nghĩ Chúa Giêsu sẽ sa vào cái bẫy với hàng trăm luật lệ rườm rà, như mớ bong bong, nhưng nghe thấy Người tóm gọn chính xác và vắn tắt điều răn quan trọng, vị kinh sư ngạo mạn phải kính cẩn, chân thành ca ngợi Người và đồng thanh khẳng định lại chân lý đó.
Từ thái độ thách đố, khinh khi, chuyển ngay sang thái độ phục thiện và tôn kính, vị kinh sư đương nhiên hiểu rằng: Yêu Chúa và yêu tha nhân liên kết chặt chẽ như hai mặt của bàn tay, hai mặt của đồng tiền, không thể phủ nhận mặt nào hết, nếu muốn giữ nguyên giá trị.
Cụ thể hóa giới răn hàng đầu
Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: “Ông không còn xa nướcThiên Chúa đâu !” ( Mc 12, 34 ). Người khen vị kinh sư và muốn ông cụ thể hóa điều vô cùng trọng đại đó, áp dụng ngay vào cuộc sống. Còn khoảng không còn xa kia tùy theo cái tâm mỗi người chân thành hay không.
Trở lại câu chuyện bên trên, sở dĩ Cty địa ốc MKB Fastighets AB, phát động “Lời chào đến hàng xóm bạn”, vì dân cư thiếu quan tâm đến tha nhân, chẳng yêu người, vì đã khước từ Thiên Chúa hiện diện trong đời sống.
“Đối với Kitô hữu, không tài nào kính mến Thiên Chúa mà không thương mến nhân loại, thương mến nhân loại mà không yêu thương mọi người, yêu thương mọi người mà không quý mến những người mình biết, với một tình yêu cụ thể và tích cực” ( Madeleine Delbrel ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con yêu mến Chúa, bằng chính cuộc sống thương yêu chia sẻ đến với mọi người con quen biết. Cho con biết yêu người như chính bản thân con.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết chấp nhận và yêu mến mọi người, như xưa kia Mẹ hằng thương yêu, chăm lo, săn sóc các Tông Đồ cùng toàn thể cộng đồng, từ tiệc cưới Cana đến đồi Golgotha, vì tình yêu Thiên Chúa muôn đời. Amen.
Mười điều răn của Chúa được tóm lại trong hai điều: mến Chúa và yêu người. Cũng còn có thể TN 31-B59
Mười điều răn của Chúa được tóm lại trong hai điều: mến Chúa và yêu người. Cũng còn có thể nói mười điều răn của Chúa được tóm lại trong một chữ yêu mà thôi.
Yêu Chúa
Môsê đã truyền cho dân chúng giới luật của Chúa, và nếu dân chúng vâng theo thì sẽ được sống lâu trong đất nước Thiên Chúa đã hứa với cha ông họ. Giới luật của Chúa rất đơn sơ: “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Dnl.6, 5).
Yêu nhau là muốn gần nhau, dành thời gian cho nhau, chọn nhau là nhất trên những người khác, tin tưởng và sẵn sàng cho người kia tất cả. Cũng tương tự vậy nếu con người yêu Chúa, tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, tin rằng Ngài muốn điều tốt cho mình; sẵn sàng dành thời gian cho Chúa, cụ thể dành thời gian cầu nguyện; chọn Thiên Chúa trên những thực tại khác, trên những tà thần như tiền bạc danh vọng chức quyền. Chẳng hạn trọng lịch sử, người Do Thái từ bỏ tà thần để chỉ được thờ một Thiên Chúa mà thôi.
Tình yêu không chỉ bằng lời nói nhưng chính yếu bằng hành động. Yêu thương, là phải chọn. Chọn ai, là yêu thương người đó. Tình yêu được diễn tả qua những gì rất là cụ thể. Yêu Thiên Chúa, là chọn Thiên Chúa trên tất cả.
Yêu người
Cựu ước trong sách Đệ Nhị Luật đòi người ta phải yêu Chúa trên hết mọi sự: hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực. Tin Mừng theo thánh Marcô cho thấy Đức Yêsu đã đặt giới răn “yêu người” ngay sau giới răn “mến Chúa”.
“Phải yêu thương người chung quanh như chính mình”, đó là giới răn thời Cựu Ước. Trước khi dâng hiến đời mình cho con người, Đức Yêsu đã truyền cho các môn đồ: “hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Tiêu chuẩn yêu thương, không còn là “như chính mình” nữa, nhưng là “như Đức Yêsu yêu”. Yêu thương, là hy sinh cho người mình yêu, sẵn sàng chịu thiệt thòi vì lợi ích của người mình yêu. Đức Yêsu đã làm tất cả, để con người được sống và được sống hạnh phúc; cũng tương tự vậy những ai yêu thương theo gương Đức Yêsu.
Thư của thánh Gioan còn liên kết hai giới răn “mến Chúa” và “yêu người” với nhau đến độ không thể tách rời hai giới răn này: “ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là người nói dối” (1Ga.4, 20). “Ai sống yêu thương, thì biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 8). Chính thái độ sống yêu thương con người, là dấu chỉ và thước đo cho thấy người đó có yêu mến Thiên Chúa thật hay không.
Yêu thương anh em, là phải giúp đỡ anh em mình một cách cụ thể: “nếu có người anh em thiếu thốn không có áo che thân và không đủ ăn hằng ngày, mà có người trong anh em nói với họ: “hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có lợi ích gì?” (Gc.2, 15-16).
Yêu người, là muốn điều tốt cho người mình yêu, giúp đỡ cụ thể từ vật chất đến tinh thần, và sẵn sàng chia sẻ cho họ những gì mình có, ngay cả hy sinh chính thân mình.
Yêu thương làm con người sống hạnh phúc
Thù ghét oán hờn, hủy diệt con người. Ai sống trong thù hận, nét cau có hằn trên nét mặt, trở nên già và xấu. Nét “không đẹp” trong tâm hồn sẽ biểu lộ ra trên thân xác, trên gương mặt. Sống yêu thương, nụ cười luôn nở trên môi, làm cho đời đẹp hơn tươi hơn và đáng sống hơn.
Người ta luôn thích người đẹp, luôn muốn ngắm nhìn và sống với người đẹp. Nếu ai mà người khác không muốn sống với, sợ hãi, e rằng người đó không đẹp dù nhan sắc có “nghiêng nước nghiêng thành” hay “chim sa cá lặn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nét đẹp tinh thần vượt xa nét đẹp thể lý. Nét đẹp thể lý có thể lôi kéo con người tức thời nhưng không giữ con người lại với mình lâu được; nét đẹp tinh thần sẽ làm những ai sống với mình được bình an và hạnh phúc.
Xin cho mỗi người chúng ta yêu Chúa yêu người, để chúng ta mang bình an và hạnh phúc cho mọi người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Sống trong thù ghét, người ta được gì và mất gì? 2. Yêu thương, người ta được gì và mất gì? 3. Thế nào là yêu thương? (Khía cạnh tiêu cực, khía cạnh tích cực) 4. Người ta có muốn sống gần bạn không? Đâu là ngăn cản lớn nhất làm bạn khó sống yêu thương?
Thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa bằng "lòng yêu thương và phục vụ" tha nhân.
Trong đạo Do-Thái, từ thập giới, các thầy Ráppi diễn giải thêm thắt luật Môsê thành 613 điều khoản TN 31-B60
Trong đạo Do-Thái, từ thập giới, các thầy Ráppi diễn giải thêm thắt luật Môsê thành 613 điều khoản. Trong đó có 248 điều buộc và 365 điều cấm. Biết cho hết 613 điều luật đó đã là khó, nên chuyện tìm hiểu xem trong 613 điều đó điều nào quan trọng nhất lại càng khó khăn hơn.
Nhưng Chúa Giêsu là Đấng ban lề luật nên Ngài đã nắm luật trong đầu và Ngài là Đấng có thẩm quyền để tuyên bố điều luật nào trọng nhất.
Khi có người thông luật đến hỏi về điều răn trọng nhất, Chúa Giêsu trả lời ngay: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi (Đnl 6,5); Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."
Điều răn mến Chúa nằm ở sách Đệ Nhị Luật, điều răn yêu người ghi ở sách Lê-vi thuộc hai bộ sách khác nhau đã được Chúa Giêsu liên kết thành một điều răn duy nhất là mến Chúa yêu người.
Qua lời dạy của mình, nhiều lần Chúa Giêsu cũng dạy cho biết rằng chính khi yêu người là lúc mến Chúa và tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện qua tình yêu thương người anh chị em chung quanh. Những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa.
Khi Sao lê bắt bớ các tín hữu đầu tiên theo Chúa Giêsu, ông bị Chúa Giêsu quật ngã và nói: "Sao-lê! Tại sao ngươi bắt bớ Ta?". Lúc ấy, Sao-lê chỉ lùng bắt các tín hữu của Chúa Giêsu thôi, nhưng Chúa Giêsu không hạch ông tại sao ngươi bắt bớ các tín hữu của Ta, mà lại nói: "tại sao ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Các kitô hữu là tay chân, là thân mình của Chúa Giêsu, vậy bắt bớ họ là bắt bớ Chúa.
Và trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu dạy: "Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta" và "những gì các ngươi đã không làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã không làm cho chính Ta". (Mt 25, 40.45).
Qua những lời đó, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa bằng cách yêu mến tha nhân. Thiên Chúa đã đồng hoá mình với tha nhân và hai giới răn mến Chúa yêu người cũng chỉ là một.
Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta vẫn chia cắt Thiên Chúa, như là Đầu, ra khỏi thân mình Ngài, và chỉ muốn yêu thương và tôn trọng 'đầu' chứ không quan tâm đến 'thân mình Ngài'.
Xin đan cử một ví dụ:
Thuý Liễu tuổi mới lên mười, là đứa con gái được cưng yêu nhất trong gia đình. Thuý Liễu rất thương mẹ vì mẹ Thuý Liễu rất hiền, rất thương yêu con cái và nhất là có khuôn mặt đẹp như tiên. Trước đây, bà là hoa khôi trong toàn vùng.
Thế nhưng kể từ ngày mẹ Thuý Liễu ngã vào lửa và bị phỏng nặng, sau đó, hai bàn tay bị biến dạng, trở nên sần sùi, nhăn nheo, đen đủi trông rất gớm ghiếc thì Thuý Liễu không còn quấn quít với mẹ như trước nữa. Cô bé không dám nhìn vào đôi bàn tay của mẹ, không để cho mẹ chải đầu cho mình, không để cho mẹ tắm rửa cho mình như hồi mẹ còn đôi bàn tay búp măng xinh đẹp. Thậm chí Thuý Liễu không trực tiếp trao bất kỳ vật gì tận tay mẹ nữa. Khi cần trao gì cho mẹ, Thuý Liễu đặt vật đó lên bàn rồi bảo mẹ đến lấy.
Thuý Liễu ghi lại tâm trạng mình trong cuốn nhật ký: Mình vẫn yêu mẹ vì mẹ có khuôn mặt rất khả ái, nhưng mình cảm thấy sợ hãi với đôi bàn tay của mẹ quá. Mình không muốn nhìn, không muốn đụng chạm đến đôi bàn tay ấy và mong ước đôi tay ấy đừng động đến mình, trông nó ghê sợ quá!
Thuý Liễu yêu khuôn mặt nhưng lại ghê tởm đôi bàn tay của mẹ, như thể khuôn mặt và bàn tay thuộc về hai người khác nhau!
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta yêu mến Thiên Chúa vì Ngài uy nghi cao cả nhưng chúng ta xa lánh, không muốn đụng chạm đến những người chung quanh là chi thể của Ngài, là đôi tay của Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng: Yêu mến Thiên Chúa thì phải yêu cả anh chị em chung quanh vì họ là chi thể, là đôi bàn tay của Ngài. Có như thế mới là mến yêu Thiên Chúa toàn diện. Đến ngày phán xét, Chúa chỉ hỏi chúng con có một điều: ngươi có yêu mến chăm sóc những anh chị em bé nhỏ chung quanh là đôi tay, là thân mình của Ta không?.
Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.
Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để TN 31-B61 luong
Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện "cho các quốc gia" (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,” Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn "cây vả bị khô héo”, Người đã nói "Con Người" đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, "bị tấn công”, "phản công". Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.
Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:
“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm" (Mc 11,27-33).
"Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình" (Mc 12,1-12).
- Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).
- "Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?" (Mc 12,18-27).
Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.
Chúng ta có khuynh hướng "đóng khung" đời sống tôn giáo của mình trong vòng "riêng tư" trong việc "thờ phụng" không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?
Điều răn nào đứng hàng đầu?
Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những "trường dạy Đức tin" gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để "nghiên cứu học hỏi". Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta "chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn" của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để "nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?
Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: "Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi" Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.
Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?
Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất".
"Phải phụng sự Chúa trước hết". Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?
Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!
“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe" Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết "lắng nghe", và để cho Thiên Chúa giáo huấn.
Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh "Shema" Israel (Đnl 6,4-5).
Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.
Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.
Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: "Thiên Chúa là Chúa duy nhất". Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: "Thiên Chúa là một". Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: "Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ "một" có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ "duy nhất". Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn "hợp nhất". Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn "lưu chảy", làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.
Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?
Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. "Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến", nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức" không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.
Điều răn thứ hai là...
Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.
Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.
Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế "yêu Thiên Chúa" là đủ, hay "thương yêu anh em" cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!
Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.
Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ "điều răn" trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.
Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.
“Nước Thiên Chúa" đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.
Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. "Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ "như Ta" để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: "Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!
Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Đối với TN 31-B62 Luong
Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.
Đối với giới luật thứ nhất là kính mến Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận một cách dễ dàng, như một bổn phận đường nhiên. Còn đối với giới luật thứ hai là yêu thương anh em, những con người cụ thể với những giới hạn và khuyết điểm, thì quả thực có nhiều vấn đề cần phải đặt ra. Giới luật này chẳng những là một điều rất khó thực hiện, mà nhiều lúc còn là một thử thách rất lớn cho chính đức tin của chúng ta. Thế mà Chúa Giêsu lại nâng giới luật này lên hàng đầu, ngang bằng với lòng kính mến Thiên Chúa, và còn gọi tình yêu tha nhân là giới luật mới, là dấu chỉ của người môn đệ Ngài.
Sở dĩ được gọi là mới là do ý nghĩa thâm sâu mà Chúa Giêsu đã mang lại cho nó, khi Ngài liên kết con người với Thiên Chúa trong một tình yêu chung. Hai tình yêu ấy hòa nhập làm một hay trở nên hai mặt không thể tách rời của một tình yêu duy nhất. Con người, bất kể là ai, sang hay hèn, tốt hay xấu, đều có phẩm giá và phẩm giá này cần phải được tôn trọng. Phẩm giá ấy không phải do của cải hay địa vị xã hội tạo nên, nhưng nó đã được chôn sâu trong chính con người chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là con cái của Ngài.
Bởi thế, yêu thương con người là yêu thương chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi họ, là yêu thương chính người cha đang ở với mỗi người con. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với con người. Ngài ẩn hình nơi mỗi con người. Vì thế, Ngài buộc các môn đễ của Ngài phải trọng kính và yêu thương mỗi con người: Ai cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ mình trần được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được thăm viếng, thì đó là người ấy đã làm cho chính Chúa được ăn, được uống, được mặc và được thăm viếng vậy. Như thế, tình yêu thương con người đòi hỏi một thái độ đức tin, đó là phải nhìn thấy Chúa trong những người anh em.
Và cũng chỉ có thái độ đức tin mới giúp chúng ta vượt lên trên những ác cảm, những khác biệt, những thù hằn để thương người như chính mình ta vậy. Và hơn thế nữa, với thánh Gioan, thì lòng thương người trở nên như một trắc nghiệm cho tình mến Thiên Chúa, nó chính là thước đo cho tình mến Chúa, bởi vì ai nhận mình kính mến Thiên Chúa, mà lại ghét bỏ anh em, thì kẻ đó chỉ là kẻ nói dối mà thôi.
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người (Th. Augustinô).
Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời TN 31-B63
Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”. Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.
Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.
Giới răn quan trọng nhất
Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.
Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.
Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.
Yêu như Chúa yêu
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.
Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.
Kết luận
Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”
Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).
Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư TN 31-B64
Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”
Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.
Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!
Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).
Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?
Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.
Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu "10 điều răn ấy tóm về hai TN 31-B65
Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu "10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen". Tuy nhiên chúng ta đã không thực hiện đúng như điều ta đã thuộc: một mặt, chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong cuộc sống; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta thực hành hai điều răn quan trọng ấy một cách trọn vẹn hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng con chưa thực sự kính mến Chúa trên hết mọi sự. - Chúng con lỗi phạm rất nhiều về điều răn yêu thương anh em. - Rất nhiều lần chúng con hành động vì bị thúc đẩy bởi lòng giận ghét.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 6,2-6)
Ông Môsê nhấn mạnh cho dân do thái thấy tầm quan trọng của điều răn kính mến Chúa bằng những chữ "hết" được lặp đi lặp lại nhiều lần: "Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em".
Trải qua bao thế hệ, người do thái đã cố gắng tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên giáo huấn của Cựu Ước còn thiếu sót vì chỉ nhấn mạnh đến việc kính mến Chúa mà không quan tâm đủ đến việc yêu thương tha nhân.
Điều thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc.
2. Đáp ca (Tv 130)
Thánh vịnh này là bài ca bày tỏ một tấm lòng yêu mến Chúa thiết tha.
3. Tin Mừng (Mc 12,28b-34)
a. Các luật sĩ tấn công Đức Giêsu: "Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?". Đối với họ, đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi lại rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là một chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
b. Nhưng Đức Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình.
4. Bài đọc II (Dt 7,23-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái so sánh chức Thượng tế trong đạo do thái với chức Thượng tế của Đức Giêsu: (1) Chức thượng tế do thái chỉ có một đời người, khi chết rồi thì mất; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu là chức Thượng tế đời đời, tồn tại mãi mãi; (2) Các thượng tế do thái cũng là người phàm với những tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội; (3) Các thượng tế do thái phải dâng lễ đền tội nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giới luật yêu thương, điểm độc đáo
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi "Điểm đặc biệt nhất của Đạo Công Giáo là gì?". Giáo lý viên đáp: "là Yêu Thương". Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: "Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau". Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ:
1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo;
2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương". Và giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao? Chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.
1. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay là do thánh Marcô chép. Marcô thì quen chép ngắn gọn, nên đôi khi không đủ ý. Muốn đầy đủ hơn, chúng ta phải đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu, cũng chép về câu chuyện này, nhưng đầy đủ hơn. Theo bản chép của thánh Matthêu, để trả lời cho câu hỏi của một người luật sĩ xem điều luật nào trọng nhất, thì CG sau khi đưa ra luật mến Chúa, đã nói "Còn điều thứ hai cũng giống như điều trước" và CG đưa ra luật yêu người. Nghĩa là Đức Giêsu đã xếp luật Yêu thương người nặng với luật mến Chúa. Nói cách khác, CG đã nâng luật yêu người lên cao bằng luật mến Chúa.
Phía trên đã nói rằng mọi người, không phân biệt là có đạo hay không có đạo, đều trân trọng tình cảm yêu thương. Tuy nhiên tình thương của người ta có nhiều cấp bực khác nhau: thương một người bạn thì không bằng thương anh em ruột, thương anh em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Đối với một người có đạo, thì họ nghĩ phải thương yêu Chúa trên hết, kế đó mới là tình thương đối với những người khác. Còn CG thì dạy phải đặt tình thương người và tình thương Chúa ngang nhau. Nghĩa là ta thương Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, ta phải coi người ta như Chúa vậy, và phải thương người ta như thương Chúa vậy. Đó chính là điểm độc đáo thứ nhất của Tình Thương Công Giáo.
2/ Nhưng thương người là thương ai? Về điểm này, chúng ta lại đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Luca để bổ túc cho đoạn của thánh Marcô quá ngắn gọn. Thánh Luca chép thêm rằng người luật sĩ ấy sau khi nghe CG nói về luật thương người, thì hỏi một câu tương tự như câu hỏi tôi vừa đặt ra: Nhưng thương người là thương ai? CG đưa ra dụ ngôn về người xứ Samaria tốt bụng đã tốn công tốn tiến cứu giúp một người Do thái, tức là một kẻ thù của dân Samaria. Ý nghĩa dụ ngôn ấy là: ta phải coi mọi người là người thân, do đó phải biết thương tất cả mọi người, cho dù đó là một người chưa hề quen biết, cho dù đó là một kẻ thù của chúng ta.
Thiết tưởng cũng cần giải thích về bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Người Do thái cũng có luật thương người, luật ghi rõ phải thương người thân cận. Theo lối hiểu của người Do thái, thì người thân cận tức là người cũng dân tộc, cùng tín ngưỡng với mình. Còn những kẻ thuộc dân khác, thuộc đạo khác thì không phải là người thân cận nên không buộc phải thương. Bấy giờ CG qua dụ ngôn về người Samaria đã thương yêu giúp đỡ một người Do thái khác dân tộc và khác tín ngưỡng, đã phá bỏ hàng rào ấy. Theo CG, tình yêu thương không có biên giới. Ta phải thương yêu mọi người, phải coi mọi người đều là kẻ thân cận. Nói cách khác đi, ta không chỉ thương người đồng bào, đồng đạo, đồng chí mà phải thương bất cứ ai ta gặp trên đường đời, bất cứ ai đứng bên cạnh ta trong cuộc đời, ta đều phải thương hết. Người ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, người ta thường đặt hàng rào cho tình thương: ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì thương hết là thương, còn ai ở ngoài thì là người dưng, người lạ khỏi thèm thương. Đức Giêsu khi phá bỏ mọi hàng rào, mọi biên giới, tức là thêm một điểm độc đáo nữa cho Tình Yêu thương Công giáo.
3/ Và điểm độc đáo thứ ba, chúng ta thấy ngay trong đoạn văn của Thánh Marcô. "Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ". Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Đó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người Giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng Tình yêu Thương của Đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả của người không có đạo. Lý do có lẽ là vì Giáo lý viên ấy không thấy 3 điểm độc đáo của Tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện 3 điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện 3 điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo. Xin nói rõ hơn để tóm lại và cũng là để kết thúc:
. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái... Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v... Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
* 2. Hai giới răn đi đôi
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.
Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu: "Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được". Nhưng vua chuột đáp: "Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi".
Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.
Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: "Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính?" Nhưng vua chuột đáp: "Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai".
Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Mến Chúa yêu người (Mc 12,28B-34)
Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục "Giải đáp thắc mắc" như sau:
Bà Ann thân mến
…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.
Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ: "Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình". Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.
Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói: "Mẹ ơi! Con thương Mẹ!" Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi: "Mẹ cũng rất thương con". Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi: "Những cái hôn của mẹ đâu?" Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: "Mẹ thương con. Con biết mà phải không?"
****
Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Người đáp: "Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi" (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: "Mến Chúa yêu người". Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy" (1Ga.4,20).
Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.
Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: "Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau".
Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả: "Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân". Thomas Merton nói: "Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng". Rosalie còn khẳng định: "Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương".
****
Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.
Xin cho chúng con luôn xác tín: Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Thứ tội phạm nhiều nhất
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe "dỏm" cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: "Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?" Anh đáp lại: "Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó"
Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.
Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.
Đức Giêsu nói với người kinh sư "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Các bậc thang yêu thương
Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau:
. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn cưỡng.
. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu cầu của người nhận.
. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận, nhưng đợi người ta xin mới cho.
. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.
. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.
. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận không biết người-cho.
. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không biết nhau.
. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.
* 6. Chuyện minh họa
Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.
Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một số tiền nữa.
Trở về nhà, người ấy nói với vợ: "Ngợi khen Chúa vì đã làm một phép lạ là cho tôi được gãy chân!"
Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi mới giúp.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy rằng: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình; không có giới răn nào khác quan trọng hơn hai giới răn này. Chúa cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu và sống đúng lời dạy của Chúa:
1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn thực thi đúng lời Chúa dạy / để chứng minh cho mọi người hiểu rằng: người công giáo mến Chúa là để yêu người / và yêu người là để chứng tỏ lòng mến Chúa.
2. Xin cho mọi nhà cầm quyền trong xã hội hiểu biết rằng / lòng mến Chúa của người Công giáo không gây thiệt hại gì cho tình yêu đồng loại / trái lại còn giúp họ yêu thương đồng bào trọn hảo hơn.
3. Xin cho mọi người đang thiếu tình thương, thiếu sức khỏe, không có công ăn việc làm / gặp được những người thật tình giúp đỡ vì lòng mến Chúa và vì lòng yêu thương họ.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / biết bày tỏ lòng mến Chúa yêu người một cách thành thật và cụ thể / để loại trừ thói giữ đạo bề ngoài và giả hình.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con sau khi được bồi dưỡng lòng mến Chúa yêu người nhờ Thánh lễ, biết thực thi lòng mến Chúa yêu người đó với mọi người chung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha đến câu "Và tha nợ chúng con", chúng ta hãy chú ý đến phần kế tiếp "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
VII. GIẢI TÁN
Hai điều răn quan trọng nhất và đi đôi với nhau là mến Chúa và yêu người. Trong Thánh lễ, chúng ta đã bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Trở về với môi trường sống hằng ngày, chúng ta hãy thể hiện đức yêu người.
Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ TN 31-B66
Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.
Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.
Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.
Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.
Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: "Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel". Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.
Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:
Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.
Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất TN 31-B67
Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất ít ai đề cập và đào sâu hơn một chút về giới răn mới, giới răn yêu thương của Chúa Giêsu, và điều đó làm tôi ngạc nhiên không ít.
Thưa các bạn,
Phải thú thực là yêu thương người khác được như chính mình như giới răn Chúa đòi dân Do Thái thời Cựu ước, thì cũng là khá trình độ và tuyệt vời rồi. Chúng ta thử tưởng tượng là, nếu các nước ngày hôm nay họ sống yêu thương, đối xử với nhau, lo cho nhau như lo cho chính mình họ, như lo cho chính gia đình họ, thì chắc hẳn là bầu không khí của giữa những con người với nhau, giữa các cá nhân, giữa các gia đình, giữa các quốc gia với nhau sẽ đẹp, thanh bình và hạnh phúc biết bao nhiêu!
Tất cả chúng ta đang được vinh hạnh sống trong thời Tân ước, thời mà Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta, Đấng đã từng phán: Hạnh phúc của Ta là được ở với con cái loài người. Chính Đấng ấy đã mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, và kêu gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt.5,48). Như Cha là Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. (Mt.5,45).
Chúa Giêsu với tất cả tình yêu thương âu yếm,Ngài đến để bảo đảm hạnh phúc cho ta. Ngài bật mí cách thoải mái Tình Yêu Hiền Phụ của Thiên Chúa Cha đối với từng người chúng ta. Ngài dẫn chúng ta đi sâu vào tình thân mật đối với Cha Ngài; Ngài lại còn tỏ cho chúng ta biết phẩm giá vô cùng hạnh phúc lớn lao là chúng ta được nâng lên làm con Thiên Chúa, con đúng nghĩa hơn tất cả những người con với bố nó hợp lại;Ngài mặc khải cho ta về chỉ có Cha là Đấng Nhân Lành đúng nghĩa hơn hết, là Đấng yêu chúng ta chỉ vì Ngài muốn yêu,chứ không phải tại ta có gì tốt mà Ngài mới yêu, rồi khi ta không tốt nữa thì Ngài lại không yêu chúng ta nữa. Không, ngàn lần không, Tình Yêu của Ngài luôn bất biến, dù tình con người có thay đổi đổi thay, nhưng Tình Ngài muôn đời vẫn thế! Ngài say yêu ta, đối xử với ta rất tình Cha với ta,lại còn cho phép và rất muốn chúng ta đối xử thân tình dễ thương với Ngài như những đứa con bé nhỏ thảo mến ruột thịt. Đồng thời, Ngài phá bỏ mọi ranh giới giữa chúng ta với nhau,để nhận ra nhau đều là những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời.
Các bạn kính ái!
Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy luật cũ mà là kiện toàn, siêu thăng, hoàn hảo hóa lên, trình độ hơn, cao cơ hơn…
Thế thì, có phải không? Chúa Giêsu đã từng nói: Anh em đã nghe luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em; nơi khác Chúa nói rõ hơn: Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người ghét các con, chúc phúc cho người nguyền rủa các con, để các con nên giống Cha các con trên trời…Vâng, giới răn cũ và mới khác rồi đấy, các bạn ạ!
Trước đó Chúa còn nói: Luật xưa dạy rằng: Mắt thế mắt, răng thế răng; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy cho nó cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt.5,38-41). Giới răn cũ và mới đã rất khác rồi đấy!
Chính vì thế mà Chúa đã tuyên bố nhiều lần, nhất là trước khi chịu chết là: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc lại giới răn cũ khi người thanh niên đầy thiện chí hỏi Chúa. Sở dĩ Chúa nhắc lại giới răn cũ là bởi vì lúc đó Chúa chưa thiết lập giới răn mới là giới răn mà Chúa chỉ tuyên bố thiết lập khi Chúa đã dạy dỗ đủ điều và đã làm gương. Và Ngài đã chính thức thiết lập Giới Răn Mới trong bữa Tiệc ly, trước khi Chúa đi chịu chết để cứu chuộc nhân thế.
Như vậy bạn và tôi có lẽ chúng ta đã hiểu được tinh ý của Thầy Chí Thánh rồi. Ngài muốn chúng ta yêu nhau, yêu mọi người với mức độ như CHÍNH NGÀI đã yêu, chứ không phải là yêu như CHÍNH MÌNH nữa. Có phải khác biệt nhau một trời một vực phải không, thưa các bạn?
Các bạn ạ!
Cách đây gần mười năm, lúc đấy tôi còn là một ông thầy muôn năm. Hôm đó đi chia sẻ cho một nhóm quý anh chị đã tận hiến cho Đức Mẹ, chủ đề về đức Bác ái, một chị trưởng nhóm có hỏi tôi rằng: Thưa Thầy, ở vùng chúng con có một người đàn ông còn mạnh khỏe mà lại đi hành khất, ban tối lại thấy ông ấy vào nhà hàng để nhậu…,vậy lần sau ông đó đến nhà chúng con xin, chúng con có nên cho nữ hay không? Vì nếu cứ cho thì ra như cho để ông đi nhậu, lại còn vào nhà hàng mà có khi chúng con cũng không dám vào. Ông này cứ đúng như họ kể, thì có lần ban ngày, tôi đã trông thấy mang nạng, chân khèo khèo đi xin; lần khác, lại trông thấy ông vào ban tối, thấy ông vai vác hai cái nạng, ung dung đi đứng rất đàng hoàng như không có bị què gì cả…Vậy nếu người ta hỏi bạn, bạn sẽ giải quyết là nên cho hay không nên cho, hả bạn?
Hôm đó, tôi đã nại vào câu Chúa nói: Ai xin các ngươi cứ cho, ai vay mượn các ngươi đừng từ chối. (Mt.5,42), để trả lời là chúng ta cứ cho. Khi nghe tôi trả lời cứ cho, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lắm! Và tôi nói tiếp, nếu căn cứ theo giới răn cũ (yêu nhau như mình) thì không cho là đúng, nhưng theo giới răn mới (yêu nhau như Chúa yêu) không cho là không đúng; vã nữa, Chúa bảo chúng ta là: Ai xin các con cứ cho cơ mà! Ai mà Chúa nói đây là tất cả mọi người,cả người tốt lẫn người xấu,cả người ngay lẫn người gian.., nên nhiều ít tùy chúng ta,nhưng cứ cho thì sẽ là yêu thương như Chúa yêu thương hơn,sẽ nhân đức hơn… Sau đó, tôi còn nói khôi hài một câu để cho mọi người cười cho vui vẻ là: chúng ta cũng phải để cho họ nhậu, họ bồi dưỡng họ mới có sức khỏe hôm sau đi xin tiếp chứ! Thế là mọi người cười rất to và nhận ra rằng tiền của người ta vất vả nắng nôi, lại còn đóng kịch giả bộ là mình tật nguyền để người ta thương hại mà cho.., là sở hữu của họ, họ muốn nhậu, muốn làm gì tùy họ chứ!
Như vậy là giới răn mới và giới răn cũ rất khác nhau đấy bạn nhỉ? Bạn và tôi, chúng ta đang được hân hạnh sống trong thời đại mới của Tân ước, và dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta sống theo luật mới của Tân ước mà thôi. Rượu mới phải được đổ vào bầu da mới mà, phải không bạn? Cầu chúc bạn tìm được nhiều niềm vui trong việc yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương và làm gương cho chúng ta.
Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước, để mời gọi người đàn TN 31-B68
Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước, để mời gọi người đàn ông nào ưu tú đến ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người.”
Một thanh niên thấy mình có điều kiện đó, nên định đến cho vua chọn. Nhưng khổ nỗi anh nghèo quá, đến mức không có áo quần tươm tất cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự cuộc thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày quần áo và lương thực cần thiết.
Lúc đi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh, “Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương…” Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên, “Thế là bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?” “Đúng vậy.” Anh ta ngạc nhiên hỏi, “Sao bệ hạ làm thế?” “Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng ‘mến Chúa yêu người’ không.”
2. Tôi đi tìm Chúa
Các tu sĩ Ái nhĩ lan có kể giai thoại sau đây. Đêm nọ, vị tu sĩ lão thành thấy một thiên thần đang ngồi viết trong cuốn sổ vàng. Vị tu sĩ rón rén đến hỏi, “Ngài đang viết gì trong sổ đó?” “Tôi đang ghi tên những kẻ ‘Kính mến Chúa và yêu thương người’.”
Lo lắng hồi hộp, ông không biết mình có tên trong sổ đó không, nên hỏi, “Thưa ngài, ngài có ghi tên tôi trong sổ đó không?” Thiên thần lật từng trang mà không thấy tên ông. Ông nài nỉ, “Xin ngài ghi tên tôi như là một tu sĩ thương mến tha nhân.” Sứ thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Hôm sau sứ thần lại hiện ra, mở sổ vàng cho ông xem. Ông lại thấy tên mình dẫn đầu trong sổ những người yêu mến Chúa… Sau khi qua đời, các thầy xem nhật ký của ông, dòng chữ đầu trong nhật ký đó là, “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối. Không yêu mến anh em là kẻ mình thấy thì không thể kính mến Chúa là đấng mình không thấy.”
Và tiếp theo là lời ghi chú của ông, “Tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi lại gặp Thiên Chúa và linh hồn tôi.”
3. Tình yêu bắt nguồn từ gia đình
Một người ở Sun City, Hoa Kỳ, trình bày với người đảm trách “tâm lý trị liệu” như sau. Ba tôi đi làm suốt tuần, mẹ tôi bận việc nhà cả ngày. Ba mẹ tôi không khi nào bộc lộ tình cảm hay nói lời yêu thương với tôi. Vì thế tôi cảm thấy cô đơn buồn tủi mãi. Một hôm tôi có dịp đến ngủ ở nhà chị bạn tôi. Khi chúng tôi lên giường ngủ, mẹ bạn tôi đến hôn hai chị em chúng tôi. Cử chỉ đó làm tôi cảm động, đến độ tôi không ngủ được. Tôi nghĩ mãi chớ gì ba mẹ tôi đối xử với tôi như thế. Và tôi quyết định sẽ làm như thế đối với ba mẹ tôi.
Từ đó tôi bắt đầu hôn ba mẹ tôi thường xuyên. Khi có dịp, tôi nói với ba mẹ, “Ba ơi, con thương ba! Mẹ ơi, con thương mẹ!” Và mọi sự trong gia đình đều hoàn toàn thay đổi. Chúng tôi thương yêu nhau, sống vui tươi hạnh phúc. Tôi lập gia đình khi lên 17 tuổi và có hai con lúc chưa đầy 20 tuổi. Tôi thường hôn con tôi đến khi má chúng ửng hồng lên.
4. Hạt giống tình yêu
Trong giấc mơ, người nữ kia thấy mình đang đứng trước một cửa hàng mới khai trương. Điều làm cho bà ngạc nhiên nhất là thấy Chúa Giêsu ngồi ngay ở quầy tính tiền. Bà liền hỏi, “Chúa bán những món hàng nào?” “Tất cả mọi món hàng mà con người ham thích.”
Vui mừng quá! Bà ta quyết định mua tất cả những món hàng mà người đời thường ham thích. Bà thưa với Chúa, “Con muốn mua, bình an, hạnh phúc, tình thương..” Chúa Giêsu mỉm cười, chậm rãi nói, “Con lầm rồi. Ở đây không bán hoa trái, mà chỉ có bán hạt giống thôi.”
5. Lòng mến Chúa bị suy sụp
Một bà đạo đức cảm thấy lòng kính mến Chúa của mình ngày càng suy giảm mau chóng như sức khỏe thể xác của bà. Bà buồn quá, không biết làm sao nung đốt lại lửa mến Chúa trong lòng mình. Vì nay bà đã gần đất xa trời rồi, sợ với tình trạng tâm hồn nguội lạnh thế này thì khó vào được thiên đàng sau khi nhắm mắt lìa đời. Bà đến gặp linh mục lão thành Zossima, kể cho ngài nghe nỗi yếu kém sa sút của lòng mến Chúa của bà, và xin ngài cho phương cách chữa trị.
Cha Zossima chăm chỉ lắng nghe rồi nói, “Có một phương thế rất hiệu nghiệm.” Bà vui mừng hỏi ngay, “Phương thế nào, thưa cha?” “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu thương những người láng giềng của bà. Càng thương yêu họ, bà càng kính mến Chúa hơn. Bà chắc chắn được Chúa thưởng thiên đàng hơn.”
6. Tiếng chiên con
Một buổi chiều đông giá rét, có người đốn cây trên đồi trở về vui với gia đình trong đêm Giáng sinh, sau bao ngày lao động xa cách gia đình...
Bỗng một cơn bão nổi lên, sấm chớp nổ vang trời, mưa đổ xuống như thác lũ... Anh đang chạy tìm chỗ trú ẩn thì một tiếng sét long trời nổ bên tai, cành cây đổ xuống trên mình anh, máu từ đầu chảy xuống, và anh ngã gục, nằm chờ tử thần!..
Có tiếng bê-bê từ đâu vọng lại. Đó là tiếng một con bê con đang gặp nạn như anh. Thọat đầu anh làm ngơ vì kiệt sức. Nhưng tiếng kêu mỗi lúc một tha thiết khiến anh tự nhủ: "Mình chỉ muốn chết, nhưng con bê kia muốn sống và chắc chắn nó đang cần mình". Thế thì anh cố chỗi dậy, đi theo tiếng chiên kêu.
Anh tìm được nó trong một cái hang. Nó cũng bị thương và lạnh buốt. Anh ẵm nó vào lòng ngực để sưởi ấm cho nó". Một sức sống mới đang vươn lên trong thân xác yếu ớt của anh. Anh cảm thấy muốn sống và muốn sống hơn bao giờ hết".
*****
Chúa đến viếng thăm chúng ta, nên ánh sánh hy vọng của sự sống là bảo chứng của ơn cứu rỗi và là chiến thắng tiêu diệt sự chết..
"Chính lúc chúng ta có can đảm cởi mở tâm hồn đi đến với người khác đang cần được yêu thương giúp đỡ là lúc chúng ta sẽ được nhận lãnh sinh lực mới, sức sống mới, để sưởi ấm sự lạnh lẽo và giải thoát chúng ta khỏi cơ cực lầm than. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập I)
7. Chết vì yêu
Tạp chí bách Khoa Văn học số 6 năm 1991, có đăng câu chuyện "Mùi cọp".
Có đôi vợ chồng trẻ: chồng là giảng sư đại học, vợ là diễn viên và là người tập luyện thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau, chồng thấy nghề dạy thú của vợ có cái gì không bình thường, nhứt là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc từ thân thể của vợ. Cái mùi cọp thật là khó chịu đối với người khác, nhưng đối với nguời dạy thú thì không thể thiếu mùi đó. Chính nhờ cái mùi đó mà bầy cọp mới nhận ra cô và ngoan ngoãn vâng lời.
Rồi hai người giận nhau, và tình trạng kéo dài. Cuối cùng người vợ chủ động làm lành. Cô tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ làm hòa với nhau.
Nhưng đêm sau người vợ đó chết. Cô chết vì con cọp dữ không nhận ra cô nữa, vì mùi cọp quen thuộc của cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp hoảng hốt trước mùi nước hoa lạ lẫm đó nên phải tự vệ bằng cách tấn công cô.
*****
Người vợ vì yêu chồng đã gội rửa chính mình và đã phải hy sinh mạng sống. Yêu đích thực không phải là chết đi một ít mà chết đi trọn vẹn.
Đó là ý nghĩa của cái chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã yêu và yêu loài người đến cùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, và sống lại vinh hiển để đem lại nguồn sống bất diệt cho mọi người.
Tình yêu mời gọi tình yêu. Chúa Kitô yêu thương chúng ta, hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta. Người mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu của Người, hy sinh vì Người và vì anh chị em chúng ta.
ROME - Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào TN 31-B69
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: "Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi." Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải "yêu người thân cận như chính mình."
Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.
Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.
Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.
Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.
Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện:" cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?" và họ trả lời "Phải!" Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: "Các anh chắc không?"
Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: " Lần này cái bình có đầy không?"
Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: "Có lẽ chưa." Rất tốt!" vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.
Rồi ông hỏi lại: "Bây giờ cái bình đầy không?" Và tất cả mọi người trả lời không do dự: "Không!" "Chắc chắn là thế," vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.
Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: " "Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?" Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động--sự quản lý thời gian-- trả lời: " Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm."
"Không," giáo sư trả lời, "Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau."
Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.
Giáo sự nói tiếp: "Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh?
"Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.
"Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: 'Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?' hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh."
Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.
Với 'những viên đá lớn" do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.
Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), TN 31-B70
Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!
Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.
Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.
Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).
Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà “đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”.
Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đanien về việc triều chính.
Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác. Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công nhận tài năng của người giỏi.
Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!
Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Quá thâm độc!
Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới nói tới người khác!
Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4).
Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51).
Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).
Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.
Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!
Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).
Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho người khác, nhất là trao cho những con người bé mọn.
Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).
Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.
Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.
Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất hay do Thánh Marcô thuật lại. Cha đố chúng con TN 31-B71
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất hay do Thánh Marcô thuật lại.
Cha đố chúng con câu chuyện hôm nay có liên hệ đến vấn đề gì trong cuộc sống của mỗi người.
- Thưa cha đó là tình yêu.
- Chúng con giỏi. Đúng là câu chuyện hôm nay có liên hệ đến một vấn đề hết sức quan trọng trong cuộc sống. Đó là tình yêu.
Thế chúng con có biết yêu là gì không?
...................................
1. Tình yêu kỳ diệu lắm chúng con! Chúng ta không thể định nghĩa được tình yêu. Chúng ta không thể cân-đo-đong-đếm-được tình yêu. Nó không có màu sắc, không có trương độ, không mùi vị. Thế nhưng chẳng ai trên đời này mà không biết là có tình yêu. Cha kể cho chúng con câu chuyện có thật này:
Karen là một bà mẹ đang mang thai. Như mọi bà mẹ chu đáo khác, khi biết mình sắp sinh em bé, Karen đã chuẩn bị tinh thần cho cậu con trai 3 tuổi của bà tên là Michael. Tối tối Michael cứ áp tai vào bụng mẹ và hát cho em nghe. Rồi ngày sinh nở cũng đã đến. Sau cơn vật vã, Karen cho ra đời một em bé gái, nhưng đứa bé ở trong tình trạng rất nguy kịch và được cấp tốc đưa vào khu chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh của bệnh viện. Nhiều ngày trôi qua mà tình hình em gái của Michael không hề có dấu hiệu khả quan. Bác sĩ khoa nhi đã nhiều lần nói với bố mẹ cậu rằng hy vọng cứu sống em bé rất mỏng manh; rằng cả nhà hãy chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất.
Vợ chồng Karen đã liên hệ với nghĩa trang địa phương dành một chỗ cho việc mai táng. Trước đây họ đã háo hức sắp xếp một căn phòng đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh. Nhưng bây giờ thì họ thấy mình đang phải chuẩn bị cho một đám tang.
Michael năn nỉ bố mẹ cho cậu được vào thăm em gái:
- Con cần được nhìn thấy em bố mẹ ạ.
Đã qua tuần thứ hai và có lẽ đám ma sẽ diễn ra vào cuối tuần.
Michael vẫn nằng nặc đòi bố mẹ cho em được vào thăm em gái mặc dù trẻ em không được phép vào khu chăm sóc đặc biệt này. Tuy nhiên, bà Karen vẫn quyết định cho cậu vào dù người ta có đồng ý hay không. Bà mặc cho con trai chiếc áo blouse rộng quá khổ, giả vờ là người đẩy xe tã lót và dẫn cậu vào khu chăm sóc đặc biệt.
Không may là bà y tá trưởng nhận ra cậu bé ngay. Bà hét lớn lên:
- Đưa thằng bé ra khỏi đây ngay. Khu vực này cấm trẻ con!
Bản năng người mẹ trỗi dậy trong Karen. Người phụ nữ vốn thường ngày rất dịu dàng này bây giờ trừng trừng hai con mắt nhìn thẳng vào mặt bà y tá trưởng và nói... dằn từng tiếng một:
- Nó sẽ chỉ ra khỏi đây khi nào nó gặp được em gái của nó!
Karen dắt Michael đến giường em gái. Cậu nhìn chằm chằm vào đứa bé sơ sinh đang dần tàn lực trước cuộc tranh đấu giành sự sống.
Sau một khoảnh khắc cậu cất tiếng hát. Giọng hát trong trẻo và tràn ngập yêu thương của một cậu bé 3 tuổi vang lên:
- Em là mặt trời của anh, là ánh mặt trời duy nhất sưởi ấm lòng anh khi bầu trời sám xịt.
Lạ lùng quá! Đứa bé có vẻ phản xạ lại. Mạch đập của bé dịu xuống và ổn định dần.
- Hãy hát tiếp đi Michael!.
Karen động viên con trai mà hai hàng nước mắt cứ trào ra trên má. Cậu bé tiếp tục hát:
- Làm sao em hiểu được lòng anh thương em đến nhường nào. Xin đừng mang ánh mặt trời của anh đi mất nhé!
Khi Michael hát cho em nghe, hơi thở ngắt quãng và khó nhọc của em bé trở nên nhẹ nhàng như một chú mèo con.
- Hát nữa đi con yêu. Karen thì thầm.
- Đêm hôm trước khi anh ngủ, anh tưởng như đang được ôm em trong vòng tay.
Em gái Michael bắt đầu thư giãn. Nước mắt giàn giụa trên má bà y tá trưởng, bà động viên:
- Hát tiếp nữa đi Michael.
Karen đứng bên cạnh, vừa cười vừa khóc trong kinh ngạc.
- Em là ánh mặt trời của anh, xin đừng dập tắt tia nắng duy nhất sưởi ấm lòng anh.
Kỳ diệu thay, ngay ngày hôm sau, cô bé được trở về nhà trước sự ngỡ ngàng đến kinh ngạc của tất cả mọi người.
Thế đấy! Tình yêu luôn có sức mạnh kỳ diệu đến không ngờ như thế đó chúng con. (Huyền Trang)
2. Bây giờ cha hỏi chúng con: Chúa muốn chúng ta yêu ai và yêu như thế nào?
+ Trước hết Chúa muốn chúng ta yêu Chúa.
Tại sao thế chúng con? Tại vì Chúa yêu chúng ta trước. Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu lớn lao không thể tưởng tượng được.
Một ông vua kia có vị thủ tướng rất tài giỏi vì học rộng lắm. Ngày kia vị thủ tướng của vua trở nên tín đồ Kitô giáo và ông công khai đức tin của mình trước mặt mọi người. Ông ấy thường làm chứng rằng mình tin Đấng cứu thế đã đến thế gian để cứu kẻ có tội. Nhà vua không hiểu được sự kiện này nên đã nói:
- Trẫm là vua, nếu trẫm muốn làm điều gì thì chỉ cần truyền lệnh cho thần dân là xong. Lẽ nào Đức Kitô là vua trên các vua mà lại tự hạ mình xuống cứu thế gian như thế? Điều đó thật vô lý!
Vua muốn đuổi vị thủ tướng về vườn, vì thấy ông tin theo Đức Kitô, song vua có lòng yêu mến ông lắm nên hứa rằng nếu ông có thể giải nghĩa xuôi vấn đề này thì sẽ tha lỗi cho và không cách chức.
Vị thủ tướng xin vua cho mình suy nghĩ trong 24 giờ rồi sẽ giải đáp. Vị này liền sai một người thợ mộc rất tài khéo, làm cho ông một tượng gỗ giống hình hoàng thái tử mới hai tuổi và cũng mặc một thứ quần áo giống y hệt hoàng thái tử. Ngày hôm sau vua cỡi thuyền rồng đi chơi với thủ tướng. Thủ tướng đã dặn người thợ mộc đứng bên bờ sông bên kia, hễ xa xa thấy dấu hiệu của thủ tướng thì ném tượng gỗ xuống nước. Vua ngồi trên thuyền thấy tượng gỗ ấy rơi, tưởng con mình ngã xuống sông, không kịp bảo ai, liến nhảy ùm xuống nước, bơi ra cứu con.
Sự việc được phơi bày. Lúc đó vị thủ tướng mới hỏi lại vua sao mà không sai một đầy tớ nhảy xuống nước để cứu hoàng thái tử, mà chính vua lại nhảy xuống nước làm gì, đến nỗi gần phải chết đuối và ướt hết cả long bào. Vua trả lời:
- Đó là do lòng thương.
Vị thủ tưóng liền tâu vua rằng:
- Cũng một lẽ ấy, Đức Chúa Trời là Đấng Thượng Đế dựng nên thần, muôn người muôn vật, cũng không đành lòng sai ai cứu rỗi loài người; nhưng vì lòng yêu thương của Ngài vô hạn, nên Ngài đã sai Con của Ngài từ bỏ ngôi vinh hiển trên trời giáng thế làm người mà cứu chúng ta. Đó cũng là do nơi lòng thương chúng ta vậy!
+ Tiếp đến là yêu người?
Tại sao vậy chúng con? Thưa vì chúng ta là con của Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Ngày kia, tại một làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!"
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
- Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta là người anh lớn của em.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau:
Đạo Công giáo có mười giới răn. Những giới răn này do ông Môsê nhận từ Thiên Chúa trên núi TN 31-B72 Dalat
Đạo Công giáo có mười giới răn. Những giới răn này do ông Môsê nhận từ Thiên Chúa trên núi Sinai, để dạy dỗ dân chúng sống theo luật Chúa. Do Thái giáo khi xưa cũng dựa trên Thập giới để răn bảo dân chúng sống theo đường lối của Chúa. Tuy nhiên, qua nhiều thế hệ, họ đã chú giải thêm thành 613 điều luật.Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm không được làm. Họ không đồng ý với nhau được điều răn nào là điều răn trọng nhất, nên hôm nay mới có câu chuyện một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu:” Trong các giới răn, điều nào trọng nhất ? “.
Vâng, người luật sĩ là người rất thông luật trong Đạo Do Thái, tuy nhiên đứng trước nhiều luật lệ khuyên làm và cấm làm. người luật sĩ này cũng phân vân không biết đâu là điều luật quan trọng và đâu là điều con người phải hết sức trân trọng, giữ gìn. Chúa Giêsu đã không trả lời úp mở với người này. Ngài nói ngay:”Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi.Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi “ ( Mc 12,30-31 ). Chúa Giêsu trích dẫn đoạn văn Shema của dân Ít-ra-en: Sách Đệ Nhị Luật đoạn 6,4-5:” Nghe đây hỡi Ít-ra-en …”. Đây chính là đoạn văn tóm kết tất cả nội dung và giáo huấn quan trọng trong Sách Luật:” Mến Chúa và Yêu người”. Thực vậy, Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người ngang tầm với mến Chúa. Ngài đã đưa luật yêu người lên tầm cao mới, chiều sâu mới nghĩa là “Nếu ai nói mến Chúa mà không yêu người, đó là người nói láo như thánh Gioan đã quả quyết dứt khoát, mãnh liệt:” Nếu ai nói: “ Tôi yêu mến Chúa “ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy “ ( 1Ga 4, 20 ).
Thiên Chúa không hiện ra như đã trực tiếp ở với các môn đệ khi xưa để dạy dỗ, uốn nắn các ngài và minh chứng cho các ngài Lòng Thương Xót của Ngài. Ngài dạy các môn đệ thờ lạy một Thiên Chúa duy nhất và yêu mến tha nhân như chính mình. Ngày nay, Chúa cho chúng ta sống bên cạnh những người xung quanh, họ là hiện thân của Chúa. Chính vì thế, khi chúng ta giúp đỡ,chia sẻ và yêu thương họ là chúng ta cũng đang yêu thương Chúa.Thiên Chúa thật rộng lượng bởi vì qua Đức Giêsu, Ngài đã đồng hóa minh với người đói, người khát, người rách rưới, người nghèo, người tù tội vv…và mỗi lần chúng ta giúp đỡ một trong những người này là gchúng ta đang giúp chính Chúa.
Chúng ta dành cho Chúa những tình cảm sâu xa,trái tim tinh tuyền của mỗi người chúng ta bởi vì Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, chậm bất bình và hết mực yêu thương. Đàng khác với những cử chỉ chân thành, một nụ cười, một lời nói dịu dàng, yêu thương, chúng ta có thể sưởi ấm tâm hồn của những người đang gặp thử thách, những tâm hồn băng giá cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự giới hạn của tình yêu bình thường của con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo của tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa cũng là thước đo tình yêu của chúng ta đối với nhau. Yêu như Chúa yêu:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời nói của thánh Augustinô:” Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo.Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn.Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”.Xin cho chúng con luôn xác tín: Chúng con chỉ thực sự mến
Chúa khi chúng con hết lòng yêu mến tha nhân.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người luật sĩ Do Thai đã hỏi Chúa Giêsu điều gì ? 2.Chúa Giêsu đã đáp lại làm sao ? 3.Tại sao nói mến Chúa mà không yêu anh em là người nói dối ? 4.Thánh Gioan đã nói sao về việc này ? 5.Tại sao không yêu thương nhau, chúng ta không thể mến Chúa ?
----------------------------------------
TN 31-B73: THỰC HÀNH MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI TRONG CUỘC SỐNG
(28b) Khi ấy, có người trong nhóm kinh sư đến gần Đức Giê-su và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?" (29) Đức Giê-su trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. (31) Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó".(32) Ông kinh sư nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, hay lắm. Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Ngòai Người ra không có Đấng nào khác. (33) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ tòan thiêu và hy lễ. (34) Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy thì bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
2.Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho vị kinh sư Do Thái khi ông chất TN 31-B73
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho vị kinh sư Do Thái khi ông chất vấn Người về điều răn nào là quan trọng nhất trong tòan bộ Luật pháp Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều răn quan trọng nhất là mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu chính mình. Ông kinh sư cũng nhất trí như vậy và còn cho rằng hai điều này có giá trị hơn mọi của lễ tòan thiêu và hy lễ dâng lên Đức Chúa tại đền thờ.
3.CHÚ THÍCH:
-C 28b-30:
+Có người trong nhóm kinh sư: Kinh sư hay Luật sĩ là những nhà chuyên môn về Thánh kinh vì nghiên cứu Thánh kinh kỹ lưỡng và lâu dài. Số ít trong nhóm kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là thường dân ủng hộ lập trường của nhóm Pha-ri-sêu. Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân. Các kinh sư là người giải thích và áp dụng Luật Mô-sê vào đời sống của dân chúng. Các kinh sư cùng với thượng tế và kỳ mục là ba thành phần trong Thượng hội đồng Do thái tại Giê-ra-sa-lem (x. Cv 23,6).
+trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?: Trong Tin Mừng Mát-thêu viết cho Kitô hữu gốc Do Thái, câu hỏi là “điều răn nào lớn nhất ?” (Mt 22,35). Còn ở đây Tin Mừng Mác-cô viết cho Kitô hữu gốc lương dân, đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa ưu tiên:”điều răn đứng đầu?. Thực ra các nhà kinh sư thời đó thường tranh cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trong Thánh Kinh, gồm 248 điều buộc và 365 điều cấm, đâu là điều luật quan trọng nhất. Cho tới lúc ấy các kinh sư vẫn chưa thống nhất ý kiến. Ông kinh sư tin Đức Giê-su là “Đấng rao giảng có uy quyền” sẽ cho câu trả lời chính xác.
+Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.: Đức Giê-su đã trích khỏan Luật Mô-sê được những người Do Thái đọc mỗi ngày 2 lần (Đnl 6,5).
+“Nguơi phải yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”: Thiên Chúa là chủ tể muôn loài, là Đấng duy nhất cao cả. Chính Ngài đã dựng nên muôn vật, là nguồn sự sống và là cùng đích mọi loài. Vũ trụ chỉ tồn tại được nhờ Ngài và trong Ngài. Vì thế người ta có bổn phận phải biết ơn và yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
-C 31-33:
+Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình: Người Do Thái vẫn mang nặng khuynh hướng bài ngọai theo Luật Mô-sê: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Ở đây Đức Giê-su thêm “Điều răn thứ hai trích trong Luật Mô-sê (Lv 19,18): Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là bản tóm lược mười điều răn ghi khắc trên hai bia đá là “mến Chúa và yêu người”.
+Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Ngòai Người ra không có Đấng nào khác: Vị kinh sư biểu lộ thái độ đồng ý với quan điểm của Đức Giê-su và nhắc lại câu trả lời của Người để nhấn mạnh tính duy nhất của Thiên Chúa (Đnl 4,35; Xh 8,6; Is 45,21), Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân có liên hệ mật thiết với nhau.
+Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình: Ông kinh sư nhắc lại khía cạnh tri thức của tình yêu.
+ là điều quý hơn mọi lễ tòan thiêu và hy lễ: Khi nhận định như vậy, ông kinh sư không phủ nhận nghi lễ phụng tự tại Đền Thờ, mà cho thấy nghi lễ phụng tự bị hạ thấp giá trị so với việc thực thi lòng mến Chúa và yêu tha nhân.
-C 34:
+Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu: Ông kinh sư đã hiểu biết và đánh giá đúng điều răn quan trọng trong Luật Mô-sê. Điều này cho thấy ông đã suy nghĩ giống Đức Giê-su và có khả năng trở thành thành viên trong Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập (x. 10,13-16).
4. CÂU HỎI:
1) Kinh sư hay luật sĩ là ai? Phân biệt với người Pha-ri-sêu thế nào? 2) Luật Mô-sê gồm bao nhiêu điều khỏan buộc và cấm? Tại sao ông kinh sư lại hỏi Đức Giê-su về điều luật nào quan trọng và đứng đầu trong bộ Luật Mô-sê?
3) Đức Giê-su đã trả lời cho ông kinh sư khỏan luật quan trọng nhất thế nào? Ngừơi Do thái mỗi ngày phải đọc lại khỏan luật này mấy lần?
4) Đức Giê-su cũng cho biết điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém là khỏan luật nào? Hai điều luật này tóm lược Mười điều răn do ai trao cho ông Mô-sê và được ghi khắc trên hai tấm bia đá?
5)Thái độ của ông kinh sư trước câu trả lời của Đức Giê-su thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. (31) Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó"(Mc 12,29-31).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÀM SAO CÓ THỂ YÊU CHÚA ĐƯỢC KHI CHƯA GẶP CHƯA THẤY CHÚA?
Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé tỏ ra bối rối thưa với mẹ: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa được? Con chưa bao giờ gặp Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một món quà gửi qua đường bưu điện, trong đó có một con búp-bê có thể chớp mắt rất đẹp. Bên cạnh có tấm cart Noel ghi hàng chữ: “Chúc mừng Giáng Sinh vui vẻ. Tặng Maria thân yêu con búp bê, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa vì sống cách nhau hàng ngàn cây số. Khi bé Maria ôm con búp bê vào lòng, em nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì đã cho con búp bê rất dễ thương này” Bấy giờ mẹ bé Maria hỏi rằng: “Làm sao con có thể yêu dì Rosa khi chưa bao giờ gặp dì ?”. Maria liền trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì đã gởi cho con con búo bê này”.
2) THƯƠNG NGƯỜI, NHƯNG LẠI SỢ NGƯỜI:
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ lâu đời, trên bia mộ có khắc dòng chữ như sau: “Tôi thương người, nhưng lại khiếp sợ người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong ngôi mộ. Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh học cách tìm mạch nước ngầm nơi một ông thầy giỏi nghề. Bạn bè nói với anh rằng: “Dưới đất lúc nào mà chẳng có nước. Mày học làm chi cái nghề vô tích sự ấy”. Cha mẹ anh em trong nhà cũng mắng anh: “Nếu mày cứ muốn học nghề đó thì ra khỏi nhà và đừng bao giờ vác mặt về nhà này nữa!” Hy Thanh đành phải bỏ nhà ra đi. Ban ngày anh vừa đi học vừa kiếm chỗ làm phu khuân vác để kiếm ăn. Tối đến xin vào ngủ trong nhà chùa. Anh cứ kiên trì theo học nghề tìm mạch nước ngầm ấy nhiều năm. Hai mươi năm sau, gặp lúc trời hạn hán, các giếng trong làng đều khô cạn hết. Nhiều người bị chết khát vì không kiếm đâu ra nước uống. Bấy giờ, người ta mới chợt nhớ đến Hy Thanh và cử người đến yêu cầu anh tìm mạch nước giúp dân làng. Hy Thanh đã sớm tìm ra mạch nước ngầm và khơi được nguồn nước chảy ra lênh láng. Dân các nơi khác nghe tin kéo đến xin nước uống râ71t đông. Họ vui mừng ca tụng về tài năng xuất chúng của anh. Nhưng rồi có kẻ do khát lâu ngày, đã uống quá nhiều nước bị ngã ra chết. Thế là nhiều người thay vì tỏ lòng biết ơn lại quay ra chửi bới mạt sát Hy Thanh thậm tệ. Lũ người nhà của kẻ bị chết còn hè nhau xông vào đánh đập anh đến chết. Trước khi nhắm mắt lìa đời, Hy Thanh thều thào nói: “Tôi thương người, nhưng lại sợ người”.
3. SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu Đức Giê-su trả lời cho ông kinh sư Do Thái khi ông chất vấn Người về điều răn nào là quan trọng nhất trong Luật pháp Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều răn quan trọng nhất là mến Chúa yêu người. Ông kinh sư cũng nhất trí như vậy và còn cho rằng hai điều này có giá trị hơn mọi của lễ tòan thiêu và hy lễ dâng tiến Đức Chúa trong Đền thờ.
1) MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ YÊU THA NHÂN NHƯ YÊU MÌNH:
Ai trong chúng ta cũng đều ý thức về hai bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tin mừng hôm nay đã ghi lại lời Đức Giê-su dạy hai điều răn trọng nhất là “mến Chúa hết lòng hết sức và yêu thương tha nhân như yêu mình”. Hai điều răn này tóm lược tòan thể bộ Luật Tô-ra của Mô-sê. Tuy nhiên Đức Giê-su còn nhấn mạnh điều răn thương người chính là điều kiện để biểu lộ lòng mến Chúa và xứng đáng được Chúa vui nhận lễ vật như sau: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Thế nhưng, cụ thể chúng ta phải yêu thương anh em thế nào?
2) KỶ SỞ BẤT DỤC, VẬT THI Ư NHÂN:
- Truyền thống Do Thái có câu chuyện như sau: Ngày kia một người tìm đến với thầy SA-MAI, thuộc phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi: “Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giê-ru-sa-lem lâu được”. Nghe nói thế, thầy Sa-mai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy GIL-LEN, một người vừa thông thái, vừa cởi mở lại vừa phóng khoáng. Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gil-len đã trả lời ngay: “Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này mà thôi”.
- Trong Cưu Ước, Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con như sau: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Điều không thích còn bao hàm các việc cụ thể như: không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và rất nhiều những điều khác nữa. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ được an vui hạnh phúc. Đức Khổng Tử cũng khuyên đồ đệ tương tự: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Còn trong Tân Ước Đức Giê-su dạy các môn đệ thực hành yêu thương theo hướng tích cực: ”Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
3) THỰC HÀNH ĐIỀU RĂN YÊU NGƯỜI CỤ THỂ:
Yêu thương không chỉ bằng lời nói suông, hay bằng tình cảm nhất thời chóng qua, nhưng bằng các việc cụ thể như kinh Thương Người có mười bốn mối, trong đó thương xác bảy mối và thương linh hồn bảy mối. Thánh Gia-cô-bê cũng đòi các tín hữu phải yêu thương cụ thể như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ?” (Gc 2, 15-16). “Nhờ hành động mà con người nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin” (Gc 2,24).
4) YÊU THƯƠNG CỤ THỂ THEO LINH ĐẠO CỦA MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA:
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã dạy các nữ tu thực hành yêu thương tha nhân cụ thể như sau:
- Hãy bắt đầu yêu thương các người thân trong gia đình: “Tôi luôn luôn nói rằng, tình yêu phải khởi sự từ gia đình trước đã, rồi sau đó mới đến thành phố hay đô thị. Yêu thương những người ở xa chúng ta thì dễ, nhưng yêu thương những người sống với chúng ta hay ở ngay bên cạnh chúng ta thì lại không dễ chút nào.”
- Đừng xét đoán hay nói xấu tha nhân: “Nếu bạn xét đoán, bạn sẽ không còn giờ để yêu họ”.
- Hãy quảng đại cho đi: “Bạn phải cho đi những gì làm bạn bị thiệt thòi. Như thế, không chỉ cho đi những gì dư thừa, nhưng cho cả những gì bạn không thể sống nếu không có nó, những gì bạn thật sự yêu thích. Như thế, món quà của bạn trở thành lễ hy sinh, có giá trị trước mặt Chúa”.
4.THẢO LUẬN:
Để thực hành lối sống yêu thương cụ thể nói trên, bạn cần tập sống tình mến Chúa yêu người theo phương cách nào hữu hiệu nhất?
5. LỜI CẦU: Phục vụ trong yêu thương:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn sống phục vụ trong yêu thương:
Nơi cộng đoàn, biết tâm đầu ý hợp. Trong gia đình, biết mặn mà dễ thương. Ngoài xã hội, biết đối xử tốt và thương xót. Với mọi người, biết nhân nhượng và tôn kính nhau. Khi làm việc, biết siêng năng và tận tình. Trong mọi sự, biết tha thứ, chịu đựng và tin tưởng. Ở mọi nơi, luôn chiếu tỏa lòng Chúa hiền hậu và khiêm nhường. Trước cám dỗ, luôn chiến thắng để bền đỗ trong ơn thánh. Nhờ đó, chúng con trở nên tông đồ được Chúa sai đi, Mà làm chứng về Chúa cho mọi ngươi.- AMEN. (Lời cầu của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta).
Đạo Chúa Giêsu thiết lập là Đạo Tình Thương. Người Do Thái xưa cũng hiểu được rằng yêu là TN 31-B74
Đạo Chúa Giêsu thiết lập là Đạo Tình Thương. Người Do Thái xưa cũng hiểu được rằng yêu là tình cảm, là cái gì đẹp nhất phát xuất từ nội tâm của con người. Họ dựa trên 10 giới răn của Chúa. Nhưng vì quá chú trọng tới Lề Luật, họ chú giải và bầy ra thêm nhiều điều luật, đến nỗi không biết giới răn nào là giới răn quan trọng và trọng nhất. Do đó, hôm nay, một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu:” Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?
( Mc 12, 28 ).
Khi dựa vào thập điều, tức là 10 điều răn, người Do Thái đã hiểu được tầm quan trọng của 10 giới răn. Tuy nhiên, họ luôn phân vân, bối rối không biết giới răn nào là trọng, giới răn nào là đứng đầu. Chúa Giêsu trả lời người luật sĩ:” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực người. Còn giới răn thứ hai: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình “ ( Mc 12, 30-31 ). Chúa đã dùng hai câu của sách Đệ Nhị Luật đoạn 6, câu 5 cho điều răn thứ nhất và sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Ở đây Chúa Giêsu đã nối kết hai giới răn “ mến Chúa yêu Người “ lên ngang tầm nhau để trở thành một giới răn duy nhất “ mến Chúa yêu Người “. Thánh Gioan đã định nghĩa “ Thiên Chúa là Tình Yêu “. Qua câu định nghĩa này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta cũng sống trong Tình Yêu của Ngài và rồi đối lại chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng ta. Thánh Gioan trong thư Gioan thứ nhất đoạn 4 câu 20 đã quả quyết:” Nếu ai nói:” Tôi yêu mến Chúa “ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy “.
Sống ở đời, nói yêu, nói thương thật dễ vì nói ngoài môi miệng thì ai mà chả nói được. Nhưng sống mới là điều quan trọng, mới là điều đáng quí. Trước tiên, chúng ta phải đặt Chúa là ưu tiên, là số một bởi vì chinh Người đã dựng nên chúng ta…Dành cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời, coi Ngài là tất cả, coi Ngài trung tâm của đời ta. Điều răn thứ hai là yêu người thân cận. Ở đây, người thân cận là tất cả mọi người không trừ một ai. Bởi vì, chúng ta là con Thiên Chúa, sống trong Chúa, ta nhận ra người khác là hình ảnh của Chúa. Do đó, nói mến Chúa mà không yêu người, chúng ta là kẻ nói dối, là kẻ phỉnh lừa…Thánh Augustinô cho rằng mình yêu Chúa quá muộn. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhận ra mình chưa yêu Chúa hết mình, chưa yêu Chúa đủ. Nên, Ngài nói làm tất cả mọi sự vì yêu…Người Samaritanô nhân hậu đã yêu thương người bị nạn đến cùng. Chúng ta đã mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn chưa ? Hay chúng ta chỉ nói ngoài miệng, yêu Chúa hời hợt, có lệ vv…Bằng những nghĩa cử yêu thương, bác ái, chúng ta dễ đến với tha nhân, chúng ta dễ gần gũi với người khác. Chúng ta chỉ có thể diễn tả sự thật, diễn tả con người mình cách trọn vẹn khi chúng ta yêu mến Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Chúng ta phải mở rộng con tim để yêu mến Chúa và đồng thời yêu thương anh chị em mình.
Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn hai giới răn này. Ngài sống để yêu và chết cũng vì yêu. Chúa đã đến với mọi thành phần xã hội, đã đối xử với mọi người như nhau. Tình yêu của Ngài là tình yêu trọn vẹn. Trên thập giá, Ngài đã nói lên tất cả tình yêu của Ngài đối với mọi người. Tình yêu của Ngài là tình yêu tự hiến, trao ban.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một trái tim nhạy cảm, xin cho chúng con một đôi mắt yêu thương nhân từ như Chúa để chúng con cũng biết yêu thương anh chị em mình như Chúa đã yêu. Xin cho chúng con hiểu được câu này:” Nước Thiên Đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương “( Rosalie ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chung con cảm nghiệm và sống lời Chúa, gương của Chúa:” Như Thầy yêu “ ( Ga 15, 12 ). Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người Do Thái qua các thế hệ đã chú giải Lề Luật Chúa thành mấy trăm luật ? 2.Người Do Thái dựa trên gì để giữ Lề Luật ? 3.Tại sao Chúa Giêsu lại nâng luật yêu người lên ngang tầm với luật mến Chúa ? 4.Chúa Giêsu đã thực hiện giới răn “ Mến Chúa Yêu Người “ ra sao ?
Bốn chương đầu của Tin Mừng Mátthêu là phần mở đầu (chính xác là đến 4,16). Với chương 5, TN 31-B75
Bốn chương đầu của Tin Mừng Mátthêu là phần mở đầu (chính xác là đến 4,16). Với chương 5, chúng ta bắt đầu thấy Đức Giêsu đi hoạt động công khai. Một câu hỏi được nêu lên: Đức Giêsu có gì cống hiến cho nhân loại? Khởi đầu hoạt động công khai là một câu trả lời cho câu hỏi ấy.
“Đức Giêsu đi khắp miền Galilê/các thành thị, làng mạc/ giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này. Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).
Chắc chắn Bài Giảng trên núi cũng diễn tả Tin Mừng về Nước Trời: đề tài Nước Trời là một trong những điểm nhấn mạnh của Bài Giảng. Ngay ở câu đầu của Bài Giảng, ta đã được đặt trong quan hệ với Nước Trời, với Mối Phúc đầu tiên (5,3; về Nước Trời, xem cả 5,10.19 (2 lần); 6,10.33; 7,21). Bài “huấn giáo” này (tức Bài Giảng trên núi) là một phần nối dài của kêrygma về Nước Thiên Chúa.
Bài Giảng trên núi bắt đầu với 8 Mối Phúc (hoặc là 9, nếu đếm các cụm từ “Phúc thay”; nhưng thật ra “Mối thứ 9” chỉ diễn nghĩa thêm cho Mối 8). Các Mối Phúc này xác định chiều hướng hoạt động của Đức Giêsu. 2.- Bố cục
Đoạn văn này chỉ là phần mào đầu đưa vào Bài Giảng trên núi (ch. 5–7). Từ dikaiosynê (“đức công chính”) cắt các Mối Phúc thành hai nhóm (ở c. 6 và c. 10), mỗi nhóm 4 Mối Phúc. Do đó, ta thể phân bố cục cho bản văn hôm nay như sau:
1) Mở (5,1-2); 2) Nhóm thứ nhất các Mối Phúc (5,3-6); 3) Nhóm thứ hai các Mối Phúc (5,7-10); 4) Diễn nghĩa cho Mối Phúc cuối cùng (5,11-12). 3.- Vài điểm chú giải
- Phúc thay (3): Makarios, “có phúc” (blessed) dịch từ ngữ Híp-ri ’ashrê của Kinh Thánh Híp-ri (45 lần). Khác với từ ngữ Híp-ri bơrakhah (“phúc lành”, blessing) là một lời hướng về tương lai để thực hiện điều nó diễn tả, “mối phúc” (beatitude), được diễn tả bởi một câu bắt đầu bằng makarios (hay ’ashrê), là một tuyên bố về hạnh phúc trong hiện tại. Điểm này còn được hỗ trợ bởi ngữ pháp. Trong vế thứ nhất của các Mối Phúc trong Tin Mừng, không có động từ: trong Hy-ngữ, một câu như thế chỉ có thể có một ý nghĩa ở hiện tại mà thôi.
- Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó (ptochoi tô pneumati, 3): Câu này có nghĩa là “nghèo khó về phương diện tinh thần”. Đây là những người nhận biết mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, nên cũng biết phó thác trọn vẹn cho Người (tương tự các ânâwim trong Cựu Ước). Chúng ta có những điển hình là chính Đức Giêsu (x. Mt 11,29) và các trẻ em (x. 18,4). Có thể nói Mt 5 (bài diễn từ đầu tiên của Mt) và Mt 23 (Bài diễn từ cuối cùng) là hai chương ở thế song đối đối nghĩa.
- Phúc thay ai hiền lành (praeis, 4): Câu này có ý nghĩa tương tự Mối Phúc thứ nhất. Trong Tv 37,11, từ ngữ praeis được dùng để dịch từ Híp-ri ânâwim (x. Tv 25,9ab; 34,3; 76,10; 147,6; 149,4). Từ ngữ praüs diễn tả sự hạ mình, sự khiêm nhường của Đấng Mêsia (x. Mt 21,5). Vậy đây vẫn là một cách thức sống trước nhan Thiên Chúa, trước khi là cách thức sống các tương quan với người khác. Mối Phúc này không phải chỉ lặp lại Mối Phúc đầu, nhưng thêm vào một vài sắc thái mới: người hiền lành thì không nổi giận, không gây áp lực với Thiên Chúa, bình thản, chấp nhận thì giờ và cách thức của Thiên Chúa. Đây cũng là một người đầy nghị lực.
- Phúc thay ai sầu khổ (penthountes, 5): Đây là những người đang sống một nỗi buồn sầu lớn lao (penthos, “một nỗi đau buồn rất lớn”) trong thái độ tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Đặt liên kết với 9,15 (động từ penthein, “chịu phiền sầu”), câu này còn có thể có nghĩa là: họ đau buồn vì thấy trong xã hội, Đức Kitô và Thiên Chúa còn “vắng mặt”; hoặc: họ đau buồn vì thế giới chúng ta quá ít mở ra với những giá trị thiêng liêng, những giá trị của Nước Trời.
- Phúc thay ai khát khao nên người công chính (6): Mối Phúc này được diễn tả dưới hai dạng (cc. 6 và 10) và chia tám Mối Phúc đầu thành hai đoạn, mỗi đoạn bốn câu. Từ ngữ dikaiosynê cũng là một từ ngữ quan trọng trong Bài Giảng. Dựa theo năm chỗ khác trong Mt nói đến “đức công chính (3,15; 5,20; 6,1.33; 21,32), ta thấy rằng đức công chính đây là một cách xử sự của con người phù hợp với những gì Thiên Chúa muốn. Thực thi đức công chính là sống phù hợp với ý muốn của Chúa Cha như Đức Giêsu giảng dạy (Có thể liên kết “làm [poiein] sự công chính” [6,1] với “làm [poiein] ý Cha Thầy [7,21] và “làm [poiein] các lời của Thầy” [7,24]). Và sự công chính phải thực thi vừa liên hệ tới các tương quan với Thiên Chúavà tương quan với kẻ khác.
- Phúc thay ai xót thương người (eleêmones, 7): Trong tiếng Híp-ri, re[k]hem có nghĩa là “dạ mẹ”và “lòng thương xót”. “Có lòng thương xót” là đau “lòng” truớc một hoàn cảnh tiêu cực. Những người có lòng thương xót là những người thực sự mở lòng ra với kẻ khác và làm những cử chỉ để xoa dịu nỗi cùng quẫn của họ. Có hai cách xoa dịu: (1) trợ giúp cảnh túng quẫn (x. 25,31-46: sáu hoàn cảnh khốn cùng cần được trợ giúp theo quan điểm Do Thái giáo, tượng trưng cho mọi cảnh khốn cùng); (2) tha thứ (x. 18,23-35, đặc biệt c. 27: “đau lòng”, “chạnh lòng thương). Xem thêm 9,13; 12,7, và nhất là 23,23 (Mối Phúc “ngược”).
- Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch (katharoi tê kardia, 8): Công thức của Mối Phúc thứ sáu này dường như phát xuất từ Tv 24,4-6 (“Kẻ tay sạch lòng thanh…”. Xem thêm Tv 15,1-2; 51,12; 73,13). Đây là những người trong lòng không có sự xảo trá gian tà, luôn tìm kiến điều thiện hảo, ngay thẳng và chân thật đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đây là những người sống một sự hài hòa giữa những gì họ nghĩ, nói và làm, tức những người “trung thực”: Họ vừa “chân thành” vừa ra sức tìm kiếm chân lý và sự ngay thẳng trong các tương quan với Thiên Chúa và với những người khác, vừa tìm cho có sự trong suốt trong lối sống và trong hành động.
- Phúc thay ai xây dựng hoà bình (eirênopoioi, 9): Công thức “làm hòa bình” chỉ xuất hiện một lần trong Cựu Ước (Cn 10,10 LXX), nhưng rất thông dụng trong các tác phẩm của Do Thái giáo. Đây là làm việc để giao hòa những người đang xung đột với nhau. Ngược lại, danh từ shâlôm (“hòa bình”) được sử dụng rộng rãi trong Cựu Ước, không chỉ với ý nghĩa là “sự ổn định chính trị”, mà còn có nghĩa là “sự phát triển toàn diện con người và các tập thể”. Vì thế, từ ngữ này được dùng để diễn tả kỷ nguyên thiên sai, và còn được dịch là “ơn cứu độ” (x. Is 54,10; Đấng Mêsia được gọi là “Hoàng tử hoà bình”: Is 9,5-6; x. Mk 5,4; Dcr 9,10). “Những người xây dựng hòa bình” không có nghĩa là những người có tính khí an hòa, nhưng là những người “tích cực thiết lập hoặc tái lập hòa bình tại những nơi đang có chia rẽ” (J. Dupont). Có hai cách: (1) mời gọi giao hòa (x. Mt 5,23-24); (2) cổ võ nên công lý nhân bản toàn diện (nghĩa xã hội): không chỉ cố gắng kiến tạo một xã hội vắng bóng chiến tranh, chia rẽ, nhưng còn là một xã hội trong đó mỗi người được hưởng những điều kiện thuận lợi mà tăng trưởng về nhân bản và tinh thần.
- Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính (10-11): Mối Phúc cuối cùng này được trình bày dưới hai hình thức (cc. 10 và 11-12), tuyên bố rằng phúc cho những ai chịu bách hại vì dấn thân sống phù hợp với những gì Thiên Chúa muốn. Hình thức thứ nhất áp dụng cho bất cứ người nào đang bị bách hại vì những xác tín tôn giáo của mình. Hình thức thứ hai, dài hơn, dành cho các môn đệ của Đức Giêsu đang bị bách hại nhiều cách (x. 10,17-25; 24,9): họ có phúc không do bị bách hại, nhưng do trung thành với Đức Giêsu khi phải chịu đau khổ vì Người. 4.- Ý nghĩa của bản văn
Mỗi Mối Phúc có ba phần. Phần đầu là lời công bố Mối Phúc. Phần hai nói về người được đón nhận Mối Phúc. Và phần ba là nền tảng của Mối Phúc (= Mối Phúc ấy dựa trên điều gì). Nền tảng này luôn luôn là một hành động của Thiên Chúa, được khẳng định vững vàng và được đoan hứa chắc chắn. Còn người được hưởng Mối Phúc chính là những người thực hiện một cách sống hay một thái độ được quy định trong Mối Phúc. Họ được tuyên bố là “phúc thay”, bởi vì hành động kia của Thiên Chúa chắc chắn được dành cho họ.
Đức Giêsu không diễn tả các Mối Phúc theo kiểu tình cờ. Người trình bày nền tảng cụ thể của mỗi Mối Phúc. Như chúng ta đã nói, phần thứ ba của mỗi Mối Phúc nói về hành động của Thiên Chúa. Mối Phúc đầu tiên và Mối Phúc thứ tám có cùng một nền tảng: “vì Nước Trời là của họ”. Mt nói về Nước Thiên Chúa chỉ trong một vài đoạn; thông thường tác giả dùng thành ngữ “Nước Trời” là kiểu nói của người Do Thái thời đó. “Nước Thiên Chúa” và “Nước Trời” có ý nghĩa như nhau: không có nghĩa là một lãnh thổ hay một nơi chốn, mà là quyền chúa tể của Thiên Chúa được tỏ bày ra trực tiếp rõ ràng. Vậy “Nước Trời là của họ” có nghĩa là Thiên Chúa với quyền chúa tể là của họ; đây không phải là quyền thống trị của một bạo chúa, mà là hành động quan phòng nhân hậu của một vị Mục tử. Người sẽ chứng tỏ rằng Vương quyền của Người vượt trên mọi thế lực hiện đang thống trị. Những ai sống theo lời Đức Giêsu dạy sẽ thuộc về Người, còn Người, đầy quyền năng và nhân ái, Người sẽ là của họ. Mối Phúc hoàn toàn dựa trên sự hiện diện trong uy quyền và nhân ái của Thiên Chúa. Chính vì thế thành ngữ “Nước Trời” được nói đến ở Mối Phúc đầu và Mối Phúc cuối như một lời mở và kết luận, và có giá trị cho tất cả các Mối Phúc khác[1][1].
Trong phần thứ ba của các Mối Phúc khác, Đức Giêsu diễn tả cho thấy sự hiện diện ấy của Thiên Chúa được bày tỏ ra thế nào, hành động với chúng ta thế nào để ban hạnh phúc cho chúng ta. “Họ được an ủi” có nghĩa là: Thiên Chúa sẽ an ủi họ. Tiếp theo là một loạt những hành động của Thiên Chúa nhằm ban ân huệ cho chúng ta và thỏa mãn mọi ước muốn của chúng ta: Thiên Chúa, như Người Cha của họ, sẽ ban cho họ đất hứa làm gia nghiệp. Thiên Chúa sẽ cho họ được thỏa lòng. Thiên Chúa sẽ thương xót họ. Thiên Chúa sẽ cho họ được trực tiếp nhìn thấy Người. Thiên Chúa sẽ gọi họ là con cái, sẽ đón tiếp họ vào gia đình của Người. Sứ điệp về các Mối Phúc trước tiên là một sứ điệp về Thiên Chúa. Trên nền tảng là sự hiểu biết của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta cách thức Thiên Chúa sẽ hành động với loài người. Chúng ta càng tin và hiểu Thiên Chúa là ai và cách thức Ngài hành động với loài người, chúng ta càng cảm nghiệm được sức mạnh tuyệt vời của Tin Mừng này.
Nhưng Thiên Chúa không muốn chúng ta thụ động; Ngài không muốn rằng đối với chúng ta chuyện gì cũng vậy thôi, hướng theo chiều nào cũng thế cả, sống theo cách nào cũng như nhau! Bởi thế, trong phần thứ hai của mỗi Mối Phúc, Đức Giêsu chỉ cho con người cách sống đúng đắn mà họ cần theo, cách thức họ phải mở ra với hành động của Thiên Chúa để hành động ấy có thể đến được với họ. Từ sự nghèo khó trong tâm hồn đến những bách hại vì sống công chính, Người nói đến những thái độ giúp cho con người sẵn sàng đón lấy hành động cứu độ của Thiên Chúa.
Yếu tố quyết định là ở lại trong hành động của Thiên Chúa. Đây là đối tượng của Tin Mừng mà Đức Giêsu loan báo; mỗi Mối Phúc đều dựa trên nền tảng này. Nhưng để đón tiếp được hành động này của Thiên Chúa, cần phải có những thái độ và phong cách mà Đức Giêsu đã nói đến. + Kết luận
Đức Giêsu đã loan báo hạnh phúc trọn vẹn và niềm vui hoàn hảo tám lần liên tục; tám lần không có nghĩa là tám lần lặp đi lặp lại, mà là “sự đầy đủ hoàn toàn”. Như vậy, Đức Giêsu không bắt đầu sứ vụ của Người bằng một giáo huấn hay bằng một lệnh truyền, nhưng đơn giản, bằng sứ điệp về “Hạnh phúc trọn hảo”.
Lời loan báo một hạnh phúc tròn đầy là niềm vui khôn tả và vô biên ùa vào chiếm trọn tâm hồn con người. Đức Giêsu cho các thính giả hiểu rằng niềm vui của họ sẽ trọn vẹn và vô biên, nếu nó phát xuất từ hành động nhân ái của Thiên Chúa. Khi đó con người sẽ cảm thấy mình được đáp ứng đúng bản tính của mình, ngoài mọi ước mơ và toan tính. Khi đó sẽ biến mất mọi chán nản mệt nhọc, sẽ không còn có cuộc sống vô ý nghĩa và thất vọng, sẽ không có tình trạng buông xuôi và cay đắng, đau thương và mất mát, khổ sở và buồn phiền. Khi đó chỉ còn có hạnh phúc, sự hài hòa chan chứa và sự đồng tâm vô điều kiện, niềm hân hoan vô bờ và niềm vui sướng dạt dào. Niềm hạnh phúc này không do con ngươi tạo ra và không chấm dứt trong nỗi chán chường thất vọng. Niềm hạnh phúc này cũng không dựa trên ảo vọng và không biến mất khi phải đối diện với thực tại. Đây là niềm hạnh phúc chân thật, vì phát xuất từ Thiên Chúa. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Bất cứ ai sống trên trần gian đều mong ước có hạnh phúc. Đó là điều người ta cũng thường xuyên cầu chúc cho nhau (vào các dịp đại lễ, dịp đầu Năm Mới…). Đức Kitô đã đến để chỉ cho người ta biết hạnh phúc đích thực nằm ở đâu, ai là những người thật sự hạnh phúc ở đời này. Không phải những người giàu có, nổi tiếng, oai phong hiển hách, mà là những người nghèo, khiêm tốn, ngay thẳng, biết thương người, xây dựng hòa bình, chịu bách hại… mới hạnh phúc thật. Chẳng phải là Người muốn phá đổ các tiêu chí quen thuộc của loài người để gây chú ý đâu. Người chỉ muốn khẳng định lại cách sống con người phải theo để trở lại đúng với hình ảnh họ đã đánh mất khi phạm tội, để Thiên Chúa lại trở thành tất cả cho con người.
2. Sứ điệp của các Mối Phúc trước tiên là một sứ điệp về Thiên Chúa. Đây là điều Đức Giêsu nhắm khi loan báo lúc bắt đầu sứ vụ công khai: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17). Sứ mạng của Đức Giêsu là giúp các thính giả nhận biết vị Thiên Chúa chân thật và quay về với Ngài. Các Mối Phúc cho thấy Thiên Chúa là Đấng nào, Ngài hành động ra sao, Ngài chờ đợi điều gì nơi con cái Ngài.
3. Các Mối Phúc công bố những thái độ và cách xử sự con người phải theo để được thuộc về Nước Trời, tức để được sống dưới quyền lãnh đạo của Thiên Chúa. Dựa theo thứ tự các Mối Phúc, chúng ta nhận ra rằng chúng ta được mời gọi luôn mở ra với Thiên Chúa (Mối Phúc 1,2 và 3) và cương quyết thực hiện thánh ý Ngài (Mối Phúc 4), để có thể sống các Mối Phúc dấn thân phục vụ tha nhân (Mối Phúc 5,6 và 7). Khi chấp nhận chịu bách hại (Mối Phúc 8) vì kiên trì sống theo đường lối của Thiên Chúa, chúng ta nên giống Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, và Thiên Chúa sẽ hài lòng về chúng ta như vẫn hài lòng về Con yêu dấu của Ngài (x. 3,17). Thật ra, các Mối Phúc chỉ quy về có một Mối: trở nên giống Đức Kitô, bởi vì Người đã sống trọn các Mối Phúc này.
4. Mỗi Mối Phúc có một ý nghĩa và một tầm mức riêng, nhưng kết hợp với nhau như các yếu tố của một bản giao hưởng, làm nên chương trình sống cho người Kitô hữu. Như những ánh đèn tỏa sáng và hướng dẫn trong đêm tối, các Mối Phúc là những nẻo đường hy vọng cho nhân loại.
5. Hôm nay chúng ta mừng các thánh nam nữ là dịp để nhắc nhở ơn gọi của chúng ta là nên thánh. Ai cũng phải nên thánh. Nên thánh trong bổn phận. Nên thánh trong hy sinh vì lợi ích tha nhân. Nên thánh trong việc đón nhận thánh ý Chúa với lời xin vâng trọn vẹn. Nên thánh giữa dòng đời tục lụy là điều rất khó nhưng không phải là không có thể.
Nếu nên thánh là để lại cho đời những gương sáng, những hy sinh, những khước từ ham muốn tầm thường. Con đường nên thánh không khó. Vì nên thánh chỉ đơn giản là làm theo ý Chúa. Ý Chúa dạy chúng ta phải trung thành với bổn phận. Ý Chúa dạy chúng ta đừng để danh lợi thú sai khiến mình làm hại tha nhân. Ý Chúa bảo chúng ta đón nhận mọi sự với niềm tín thác nơi Chúa. Ý Chúa mời gọi chúng ta vui sống với phận mình. Và chắc chắn nên thánh luôn là con đường hoàn thiện mình trên con đường của tám mối phúc, của một lối sống để cho ý Chúa luôn thể hiện trong cuộc đời của mình.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm ----------------------------------------
(Sách Thứ luật 6,2-6; Hipri 7,23-28; Marcô 12,28-34)
Phúc Âm: Mc 12, 28b-34
"Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất".
Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp:
"Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa. Suy Niệm:
Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B
Sách Thứ luật 6,2-6; Hipri 7,23-28; Marcô 12,28-34
Ðức Yêsu đã đến kếp nạp một dân tín hữu là dân mới của Thiên Chúa. Việc này đã được các bài TN 31-B76
Ðức Yêsu đã đến kếp nạp một dân tín hữu là dân mới của Thiên Chúa. Việc này đã được các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật trước gợi lại. Hôm nay hình như Phụng vụ muốn tiếp nối tư tưởng lần trước và nói lên quy chế, hay luật pháp của dân mới. Ðó là luật cũ được kiện toàn. Vì thế chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng bổ khuyết cho bài Thứ luật, luật yêu anh em được đính vào luật mến Chúa. Rồi cũng như trong dân cũ có hàng tư tế, thì vị Thượng tế của đạo mới sẽ vượt xa các Thượng tế xưa, để dân mới luôn luôn đẹp lòng Thiên Chúa.
Tất cả những tư tưởng này rất rõ ràng trong ba bài Kinh Thánh hôm nay mà chúng ta cầu xin ơn Chúa giúp để đọc lại. 1. Ngươi Sẽ Yêu Mến Yavê
Bài sách Thứ luật hôm nay ghi lại lời kinh hằng ngày của người Dothái. Họ đọc lên không phải để thưa với Thiên Chúa nhưng để nhắc nhở cho mình nhiệm vụ căn bản nhất của người dân trong Nước Người. Ðó là lời của Môsê, vị lập quốc và lập luật. Lời vô cùng quan trọng vì sẽ đem phúc đến cho dân khi họ nắm giữ và sẽ làm cho dân nên lớn trong đất chảy sữa và mật. Tương lai và số mệnh của dân tùy ở việc thi hành những lời Môsê truyền hôm nay.
Ông dạy rằng: Hãy nghe, hỡi Israel, Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lập lại cho con cái ngươi.
Phân tách những lời này, người ta sẽ phải kính phục con người nào đã biết diễn tả như thế. Chắc chắn nội dung là của Môsê rồi, nhưng hình thức của các câu văn có thể phải là kết quả của nhiều thế hệ trung thành với truyền thống của Môsê. Quả vậy, chúng ta biết: sách Thứ luật đã không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó càng không phải là tác phẩm của thời Môsê. Nó lấy lại luật Môsê, suy đi nghĩ lại và cộng với kinh nghiệm lịch sử của Dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của cuốn sách này. Họ suy niệm Luật Chúa đêm ngày rồi viết ra để khuyên nhủ đồng đạo. Thế nên nó được gọi là Thứ luật, tức là Luật đến sau Luật trước; luật bổ khuyết và diễn giải Luật pháp Sinai. Nó được công bố vào những năm có nguy hiểm nhất cho dân. Nước nhà phân đôi, miền Bắc đã bị xâm lấn, miền Nam đang ngấp nghé vực sâu. Ông vua yêu nước đã chạy đến truyền thống của dân tộc, đưa sách Thứ luật ra, mưu lập một cuộc canh tân cứu nước... nhưng đã không kịp về mặt chính trị, mà chỉ phục hồi được truyền thống Môsê.
Ðó là truyền thống độc thần, Israel chỉ được thờ một Chúa. Ngài là Yavê. Chính Ngài đã mạc khải danh xưng này cho Môsê trên núi Thánh. Có lẽ trong thời gian đầu Môsê tưởng Ngài chỉ là Chúa của Israel như những vị thần khác là Chúa của các lân bang và chỉ khác ở một điểm: trong khi các dân này thờ nhiều thần và vì thế gọi là đa thần; thì Israel chỉ thờ một mình Yavê và do đó được gọi là dân độc thần.
Sự khác biệt này nhiều khi thật khó giữ. Luôn luôn Israel bị cám dỗ thờ thêm thần khác, nhất là những thần của các sắc dân mạnh hơn, giàu hơn vì tưởng rằng chính các thần ban sự giàu sang sức mạnh cho dân của mình. Các tiên tri phải mạnh mẽ ngăn cản dân đi vào đường lối đó và nhắc đi nhắc lại dân phải trung thành với Yavê. Làm khác đi, thờ thêm thần khác, là "đánh đĩ" và ngoại tình.
Chúng ta không ngại nhắc đến những từ ngữ này. Chúng giúp chúng ta hiểu quan niệm tôn giáo của các tiên tri một cách sâu sắc. Người ta hay nói dân Israel chỉ có một lòng kính sợ Yavê, theo nghĩa họ khiếp sợ Ngài đến nỗi chẳng còn dám xưng danh của Ngài ra nữa. Họ dùng những kiểu nói vòng vo, gọi Ngài là Chúa, là Ðấng Tối Cao... chứ không dám xưng Ngài là Yavê nữa. Thật ra đó chỉ là một diện. Còn nhiều diện khác trong vấn đề này, đặc biệt còn có quan niệm sâu sắc của các tiên tri. Các ngài luôn luôn đề cao lòng yêu mến. Hôsê chẳng hạn đã táo bạo coi tôn giáo là hôn nhân giữa Yavê và Israel; một bên như "chồng" với một bên như "vợ", và tư cách căn bản của lòng đạo đức là nghĩa tín trung. Những tiên tri khác cũng đi vào chiều hướng đó; và trong ngữ vựng của các ngài mới có những từ ngữ như trên để nói đến thái độ thất tín đối với Yavê. Chúng ta phải hiểu quan niệm của các tiên tri như thế mới ý thức được hết sức mạnh của lời sách Thứ luật hôm nay, truyền cho Israel: hãy yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi; nghĩa là phải yêu Ngài với tất cả khả năng và như quên hết mọi sự khác, giống như khi đôi bạn khắng khít yêu thương nhau, mặc cho cuộc đời bể dâu và nước chảy đá mòn.
Cho được đi đến một lòng yêu mến như vậy, Israel đã được dần dần dạy cho biết: Yavê không phải chỉ là Chúa của dân, hoặc chỉ là Chúa trên các Chúa, nhưng Ngài còn là Chúa độc nhất và duy nhất trong tất cả hoàn vũ. Các thần của các lân quốc, chỉ là ngẫu tượng và Yavê phải thống trị địa cầu. Tôn giáo độc thần của Israel sẽ là tôn giáo độc thần của mọi dân nước. Thế nên câu sách Thứ luật hôm nay nói: Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Yavê độc nhất, câu ấy có một ý nghĩa sâu sắc trong lòng các tiên tri, Yavê không phải chỉ là Chúa duy nhất của Israel, mà còn phải là Chúa độc nhất của mọi dân tộc. Và những điều này Israel phải ghi nơi lòng và lặp lại nơi con cái. Chính nhờ sự ghi nhớ và lập lại này mà có truyền thống Môsê, truyền thống độc thần, truyền thống sách Thứ luật chúng ta đọc hôm nay.
Chúng ta cảm mến Thiên Chúa đã mạc khải chân lý độc thần này sớm sủa như vậy và nơi một dân nhỏ bé như thế. Nhiều lý luận loài người còn vấp phải sự kiện lịch sử này. Và chúng ta còn phải kiểm điểm về lòng tin của mình, xem mình có thờ ngẫu tượng naò ở bên cạnh Thiên Chúa hay không (như tiền, tình, quyền...)? Và biết đâu đã không có lúc chúng ta nao núng về niềm tin nơi Thiên Chúa chúng ta thờ? Như vậy chúng ta chưa "gần Nước Thiên Chúa" như người ký lục trong bài Tin Mừng hôm nay đâu. 2. Người Phải Yêu Mến Ðồng Loại
Thánh Marcô thuật câu chuyện này xảy ra trong khoảng thời gian giữa ngày Ðức Yêsu khải hoàn vào Yêrusalem và hôm Người bị nộp. Ðó là thời gian địch thủ tìm cơ hội bắt Người. Họ thay lượt nhau đến gài bẫy, hết các Thượng tế đến các Biệt phái, rồi phe cánh Hêrôđê và những người thuộc bè Sađóc. Hôm nay một ký lục đến hỏi Chúa Yêsu: "Giới răn thứ nhất trên hết là giới răn nào?". Ông không hỏi giới răn nào "trọng nhất", để chúng ta nghĩ đó là điều ông thắc mắc thật sự. Là vì ở thời đó luật Dothái có tới 613 khoản, và phân làm những khoản nặng và nhẹ, trọng và tùy; và sự sắp xếp nhiều khi có thể rõ ràng và dứt khoát. Ở đây, dường như người ký lục không muốn đi vào vấn đề chi tiết tỉ mỉ, ông chỉ muốn đánh giá quan điểm của Ðức Yêsu, xem Người có "chính thống", tức là có ở trong và tôn trọng truyền thống của đạo Môsê hay không? Và đó là điều mà các địch thủ với Người muốn biết.
Nhưng họ chỉ phải bẽ bàng; vì Ðức Yêsu đã có lần tuyên bố: Người không đến để hủy bỏ Luật pháp dù chỉ là một cái chấm hay một cái phẩy, nhưng là để kiện toàn và hoàn tất. Thế nên không có câu trả lời nào chính thống hơn câu của Người hôm nay: "Giới răn thứ nhất là: hãy nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Phải yêu mến Người hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi". Người đã đọc lại kinh Thứ luật. Người có thể dừng lại ở đó. Và người ký lục kia nhất định phải thỏa mãn với câu trả lời.
Nhưng Ðức Yêsu đã không dừng lại. Người không phải như một người học trò thuộc bài và chưa phải là người bị hạch hỏi. Người muốn đóng vai Thầy dạy muôn dân. Thế nên, Người đã thêm: Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Người cũng chỉ nhắc lại một câu trong sách Lêvi. Không ai có thể bảo Người không chính thống. Nhưng Người đã nhắc lại cho người ta một điều rất quan trọng mà thường khi họ sống đạo mà vẫn quên. Họ tưởng đạo chỉ là nhà thờ, kinh kệ và dâng lễ. Không, đạo còn là yêu mến đồng loại như chính mình tức là yêu người khác như bản thân. Ðiều này, trong thực tế, nhiều người giữ đạo "rất chính thống" mà vẫn quên và có ý quên vì nó khó giữ. Ðức Yêsu không đến để nguyên dạy người ta yêu mến Thiên Chúa. Người còn luôn bảo họ phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ trần gian. Hơn nữa Người còn nói rõ không có giới răn nào khác lớn hơn hai việc mến Chúa yêu người này.
Người ký lục tỏ ra rất thông minh, chấp nhận ngay câu trả lời và bài học của Ðức Yêsu. Ông còn phụ họa thêm và nói rằng mến Chúa yêu người như vậy "ắt vượt quá các toàn thiêu và lễ tế thay thảy". Ðức Yêsu không thể không mừng khi gặp kẻ hiểu ý Người như vậy. Người tuyên bố: "Ông không xa Nước Thiên Chúa đâu!"
Lời khen này có thể trở thành một câu chất vấn lương tâm chúng ta. Chúng ta có thường coi các hành vi yêu người như toàn thiêu và lễ tế không? Chúng ta vẫn phải thi hành các nhiệm vụ mến Chúa, vì đó là lẽ sống của chúng ta như lời sách Thứ luật hôm nay nói: Ðó là giới răn thứ nhất, nhưng thứ đến còn phải yêu mến đồng loại như chính mình, điều mà Ðức Yêsu đã đính vào điều răn mến Chúa để làm nên như giới răn của Người. Chúng ta có thi hành không để chứng tỏ mình đang ở trong đạo mới? Ðể thâm tín thêm, chúng ta hãy đọc tiếp bài thư Hipri. 3. Người Là Vị Thượng Tế Thích Hợp
Tác giả so sánh các Thượng tế đạo cũ với vị Thượng tế đạo mới. Họ thì bị sự chết ngăn cấm lưu tồn mãi mãi; còn Ngài thì tồn tại đời đời nên giữ một tế vụ bất hủ. Ðó là sự khác biệt quan trọng. Càng quan trọng hơn nếu ta tìm hiểu sâu về ý nghĩa sự chết theo Thánh Kinh.
Ðối với các tác giả thánh, chết không phải chỉ là một hiện tượng thể lý, giết sức sống trong cơ thể, nhưng còn là hậu quả và hình phạt do tội lỗi. Sự chết không những hủy diệt thân xác, nhưng nhất là còn nói lên sự mâu thuẫn cùng cực với Thiên Chúa là sự sống. Chết và sống khác nhau hơn lửa với nước, nên ai đụng vào tử thi tức khắc đã trở nên ô uế, không được đến gần bàn thờ khi chưa chịu thanh tẩy. Chính điểm nay ngăn cấm các Thượng tế đạo cũ còn lưu tồn mãi mãi. Họ không tiếp tục làm tư tế được không những vì sự chết thể lý, nhưng nhất là vì đã trở thành tử thi, họ xa hẳn Thiên Chúa. Còn Ðức Kitô thì ngược lại. Chính sự chết đã đưa Người vượt qua về với Thiên Chúa và trở thành vị Thượng tế đời đời, sống luôn mãi để chuyển cầu cho nhân loại.
Tư tưởng trên đây dẫn sang một kết luận khác: tế vụ của các Thượng tế đạo cũ khi họ còn sống cũng không hoàn toàn. Vì muốn hoàn toàn, vị Thượng tế phải có khả năng ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng sinh, tức là phải vô tội. Thế mà có ai trong loài người được điều kiện này? Ngược lại Ðức Yêsu là Ðấng vô tội và vô tì, Người cao siêu vượt các tầng trời, nên Người ở gần Thiên Chúa và có khả năng chuyển cầu cho chúng ta...
Có lẽ đối với chúng ta không cần phải nói thêm về sự khác biệt giữa các Thượng tế đạo cũ và vị Thượng tế đạo mới. Nhưng điều quan trọng hơn cho chúng ta là hãy ghi nhớ bản chất của tế vụ mà Ðức Kitô đang thi hành. Người đang ở nơi Thiên Chúa và đứng gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng ta. Người đang nối trời với đất, Thiên Chúa với loài người. Lễ tế của Người vừa để tôn thờ Thiên Chúa vừa để cứu độ chúng ta. Chúng ta giữ đạo của Người, chúng ta vẫn đến nhà thờ dâng lễ và cầu nguyện trong chức tư tế của Người. Lẽ nào chúng ta không nhận ra rằng: một người đạo đức thật như có hai vai phải mang hai nhiệm vụ: mến Chúa và yêu người; phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân?
Vậy nếu chúng ta đã sốt sắng ở nhà thờ đối với Chúa, thì chúng ta hãy nhiệt tình với tha nhân ngoài xã hội. Khẩu hiệu kính Chúa và yêu nước, tốt đời và đẹp đạo có thể được sáng thêm trong phụng vụ hôm nay. Chúng ta hãy tận tâm thi hành trong niềm tin.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) ----------------------------------------
Sống trên trần gian phải có một tấm lòng. Đó là điều kiện thiết yếu và quan trọng để con người TN 31-B77
Sống trên trần gian phải có một tấm lòng. Đó là điều kiện thiết yếu và quan trọng để con người đối xử tốt với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa, con người phải tôn kính, yêu mến Ngài hết linh hồn, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình. Sách Ngũ Thư tóm gọn hai giới răn đứng đầu trong 613 khoản luật. Các bài đọc Chúa nhật 31 thường niên, năm B sẽ cho chúng ta hiểu đâu là giới luật quan trọng nhất của Đạo Công Giáo. Yêu là trao hiến, hy sinh chính mình để sống cho người khác.Tình yêu đích thực không dễ dàng như nhiều người lầm tưởng bởi vì chính Chúa đã làm gương cho nhân loại, cho mỗi người về việc hy sinh, xả thân trao hiến:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu mến “ (Ga 15, 13 ). Tình yêu của Chúa là tình yêu cao vời, tình yêu vô vị lợi. Chết mới nói lên lời. Trên Thập giá Chúa đã trao hiến chính mạng sống mình làm giá chuộc cho mọi người. Tình yêu của Chúa luôn thúc bách chúng ta và hạch hỏi thái độ sống của chúng ta. Tin Mừng của thánh Máccô cho chúng ta hay, một kinh sư đã tới gặp Chúa và hỏi Chúa:” Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu ?”.
Đức Giêsu trả lời:” Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó “ ( Mc 12, 29-31 ). Đối với con người, sống điều răn thứ nhất là hoàn toàn dành ưu tiên cho Chúa, tất cả hướng về Chúa vì Chúa là gia nghiệp, là thuẫn đỡ cho đời mình, để Chúa chiếm trọn đời mình. Điều răn thứ hai là yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người không trừ ai, bởi vì tất cả đều là hiện thân của Chúa. Chỉ trong Chúa chúng ta mới nhận ra anh em của mình là tất cả mọi người chúng ta phải yêu thương. Chúa đã đồng hóa Người với những kẻ khó nghèo, đói, khát, trần truồng vv…Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người.
Như thế, chúng ta nghiệm ra rằng mọi điều răn, mọi giới luật đều qui chiếu về lòng kính mến Chúa và yêu thương con người. Nếu điều răn kính chúa và yêu người còn còn mang ý nghĩa như thế, thì quả thực nó không còn giá trị gì. Bởi vì, đạo mà Chúa Giêsu thiết lập là đạo tình yêu, lời của Chúa rao giảng là Tin Mừng cứu độ. Tất cả đều gắn kết với Chúa Giêsu qua biến cố Nhập thể của Người. Nên, nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương con người là chúng ta nói láo. Chính vì thế, giới kính Chúa, yêu người là hai giới răn nhưng xét cho cùng lại chỉ là một giới răn. Hai mà một, một mà hai là như thế.
Bài Tin Mừng của thánh Máccô nhằm nêu lên một giáo huấn quan trọng trong toàn bộ Phúc Âm. Nó đòi hỏi chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đối với Thiên Chúa như thế nào và đối anh em ra làm sao ? Tin mừng của thánh Máccô hôm nay cho thấy:” Nếu chúng ta nói kính mến Thiên Chúa mà lại khinh khi anh em “ quả thực chúng ta chỉ là những người nói dối, ba hoa chích chòe. Chúa Giêsu đã trả lời vị kinh sư: giới răn đứng đầu, mối quan tâm số một của người Kitô hữu là tình yêu. Vâng, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, vấn đề kính mến Chúa xem ra chúng ta dễ thực hành còn thương anh em xem ra chúng ta dễ bỏ qua một bên. Đời sống Kitô hữu giữ đạo xem ra dễ nhưng đi đến tận cùng của việc giữ đạo là thực hành lời Chúa bằng việc yêu thương tha nhân như chính mình xem ra khó thực hiện. Lạy Cha, Thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong… Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con ( Trích trong Rabbouni ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ ?
1.Vị Kinh sư hỏi Chúa điều gì ? 2.Chúa trả lời làm sao với vị Kinh sư ? 3.Giới răn mến Chúa yêu người là thế nào ? 4.Sách Ngũ Thư nói gì về điều răn quan trọng nhất ? 5.Mối quan tâm hàng đầu của ông bà cô bác anh chị em là gì ?
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI năm B này thắp sáng luật yêu thương: Cựu Ước mặc khải TN 31-B78
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI năm B này thắp sáng luật yêu thương: Cựu Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa”, trong khi Tân Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa và yêu người”.
Đnl 6: 2-6
Bài Đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, chứa đựng lời tuyên tín nổi tiếng của Ít-ra-en: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”.
Dt 7: 23-28
Thư gởi tín hữu Do thái khẳng định chức tư tế của Đức Ki-tô cao vời khôn ví hơn chức tư tế của Cựu Ước.
Mc 12: 28-34
Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su với một kinh sư trong đó Đức Giê-su hiệp nhất “Mến Chúa” với “yêu người”.
BÀI ĐỌC I (Đnl 6: 2-6)
Bản văn này, đỉnh cao sứ điệp của sách Đệ Nhị Luật, giải thích giới răn thứ nhất của Thập Giới, được đặt trên môi miệng của ông Mô-sê.
1. Mến Chúa đối với Ít-ra-en:
Đức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa duy nhất mà con người không chỉ kính sợ nhưng còn phải yêu mến hết lòng hết dạ và hết sức nữa. Đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã bảy tỏ cho dân Ngài, mỗi người phải trọn tình vẹn nghĩa với Thiên Chúa của mình.
Dân Chúa chọn đã hiểu sự mới mẽ tận mức của giới răn này đem lại cho tôn giáo của họ một tính chất đặc thù. Họ đã tuyên xưng giới răn này và đặt giới răn này vào trung tâm của kinh nguyện được gọi kinh Shê-ma (“Nghe đây”), mà suốt nhiều thế kỷ qua những tín hữu đạo hạnh của Ít-ra-en thường ngày đọc vào ban sáng và ban chiều. Vào thời đó, lời tuyên tín này được tôn kính đến mức người ta ghi trên những mảnh vải và cuộn vào hộp kinh để mang trên cánh tay hay trên trán. “Mến Chúa” phải được bày tỏ qua thái độ “kính sợ Chúa”, tuân giữ các giới răn của Ngài và bận lòng thông truyền đức tin.
2. Kính sợ Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài:
Kiểu nói Kinh Thánh: “Kinh sợ Chúa”, không có nghĩa sự sợ hãi; đây là thái độ tôn kính đầy niềm tin, khi ý thức về sự cao cả của Thiên Chúa. Tuân giữ các giới răn là bổn phận xuất phát từ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Sách Đệ Nhị Luật được trình bày như bài giáo lý về Giao Ước. Để đáp trả sự trung thành của Thiên Chúa đối với những lời hứa của Ngài, dân Ít-ra-en phải trung thành với Thập Giới, nền tảng của Giao Ước. Thiên Chúa đã hứa cho dân du mục này một miền đất trong đó họ sẽ được an cư lạc nghiệp và trở thành một quốc gia vĩ đại. Thay vì sa mạc khô cằn nắng cháy, Thiên Chúa đã hứa cho họ “một miền đất tràn đầy sữa và mật ong” với điều kiện là tuân giữ các giới răn của Ngài.
3. Thông truyền đức tin:
Tầm quan trọng của việc giáo dục tôn giáo trong gia đình là lời kêu gọi khẩn thiết của tác giả sách Đệ Nhị Luật. Lời kêu gọi này được lập đi lập lại nhiều lần (Đnl 4: 9; 6: 20; 32: 7). Tác phẩm của ông là lời cảnh giác thường hằng coi chừng những nguy hiểm của môi trường ngoại giáo chung quanh. Việc gìn giữ các truyền thống và bận lòng thông truyền đức tin thuộc vào những đòi hỏi căn bản tất yếu đối với sự tồn vong của dân Ít-ra-en.
Sách Đệ Nhị Luật thấm đẫm tính nhân bản cũng như tính siêu việt. Thiên Chúa mà sách trình bày là một Thiên Chúa gần gũi với dân Ngài, dân mà Ngài bày tỏ lòng trìu mến và xót thương. Sách Đên Nhị Luật mang dấu ấn giáo huấn của các ngôn sứ lớn như A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, đồng thời sách chuẩn bị sứ điệp của Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Dt 7: 23-28)
Sau khi đã chứng minh Đức Ki-tô đã sở hữu những phẩm trật tư tế - liên đới với loài người và được Thiên Chúa đặt làm tư tế – tác giả sẽ cho thấy những nét khác biệt giữa chức tư tế của Đức Ki-tô và chức tư tế của Cựu Ước. Tác giả nhắm đến tác vụ trung gian của Đức Ki-tô phục sinh.
1. Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời:
Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời; Ngài là Đấng trung gian hoàn hảo vì “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến gần Thiên Chúa”. Vị thượng tế Do thái mỗi năm một lần bước vào nơi cực thánh để cầu bầu cho dân vào ngày lễ Xá Tội, còn Đức Giê-su, “thật ra, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ”.
2. Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn:
Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn. Nếu trong cuộc sống tại thế, Ngài đã tự mình liên đới với những người tội lỗi, từ nay Ngài “được nâng cao vượt các tầng trời”, nghĩa là dự phần vào tính siêu việt của chính Thiên Chúa. Trái lại, các tư tế theo luật Mô-sê, những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, phải dâng lễ tế hy sinh, “trước là để đền tội của mình, sau là để đền tội thay cho dân”.
3. Đức Giê-su được đặt làm tư tế với lời thề:
Cuối cùng, một lần nữa tác giả trích dẫn Tv 110 để nhấn mạnh phẩm trật tư tế đặc biệt của Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thượng Tế với lời thề, còn các tư tế theo luật Mô-sê thì không có lời thề. Quả thật, Thánh Vịnh nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê”. Bản văn này đã đến sau này, nghĩa là sau ông Mô-sê, hàm chứa một giai đoạn cao cả trong Mặc Khai và loan báo một mức độ hoàn hảo, mà Đức Giê-su thực hiện với tư cách là Con Thiên Chúa. Tác giả ngỏ lời cách tinh tế với các Ki-tô hữu gốc Do thái trong số họ chắc chắn có những tư tế của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
TIN MỪNG (Mc 12: 28-34)
Thánh Mác-cô cũng như thánh Mát-thêu đặt cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một kinh sư này vào những ngày Đức Giê-su giảng dạy tại Giê-ru-sa-lem. Cuộc đối thoại này liên quan đến điều răn nào là quan trọng nhất trong số 613 giới luật Cựu Ước (365 điều cấm và 248 điều buộc), một đề tài thường được đặt ra cho các kinh sư Do thái. Câu trả lời của Đức Giê-su phối hợp hai câu trích dẫn Cựu Ước: Đnl 6: 4-5 và Lv 19: 18, quả thật nhấn mạnh tính chính thống lời dạy của Ngài như một kinh sư Do thái và minh chứng Ngài đi cho đến tận ngọn nguồn của sự việc. Cuộc đối thoại này quan trọng không chỉ vì sự độc đáo của nó mà còn vì điểm nhấn của nó trên những tư thế nội tâm.
Bản văn này có thể chia làm bốn phần được cấu trúc theo hình thức “đối xứng xen kẻ” như sau:
A - Vị kinh sư hỏi (12: 28). B - Đức Giê-su trả lời (12: 29-31). A’ - Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33). B’-Đức Giê-su khen ngợi (12: 34). A - Vị kinh sư hỏi (12: 28):
“Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau”: Câu này được dùng để nối kết cuộc tranh luận trước đó với cuộc đối thoại theo sau. Ông kinh sư này là một trong những người chứng kiến cuộc tranh luận của Đức Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại.
- “Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi”: Khi thấy Đức Giê-su đối đáp với nhóm Xa-đốc về cuộc sống mai hậu cách khúc chiết, mạch lạc dựa trên nền tảng Kinh Thánh, vì thế ông chân thành muốn hỏi Đức Giê-su để mong gặp thấy một giải đáp. Thái độ thành tâm thiện chí muốn hiểu biết của ông khiến cuộc nói chuyện thành một cuộc học hỏi chân thành và cởi mở hơn là một cuộc tranh luận (khác với Mt 22: 35 và Lc 10: 25).
- “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”: Vị kinh sư nêu câu hỏi nầy không có bất kỳ ác ý nào. Câu hỏi của ông thật sự phản ảnh nỗi bận lòng của trường phái kinh sư vào thuở đó.
Các kinh sư đều xem lề luật là ý muốn của Thiên Chúa, vì thế, thực thi lề luật chính là trung thành với Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Tuy nhiên, có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng tìm cách cách mở rộng lề luật cách vô hạn định ra thành muôn vàn điều luật và quy tắc để làm thế nào lề luật có thể được thực thi trong mọi cảnh huống cuộc sống của dân Chúa chọn. Còn khuynh hướng thứ hai thì cố tìm cách thu gọn lề luật vào trong một câu cô động cái tinh thần cốt yếu của lề luật.
Thật ra, cả hai khuynh hướng: mở rộng cũng như thu gọn lề luật, vẫn thường hằng hiện diện trong những cuộc tranh luận giữa các kinh sư với nhau. Có những người tin trong luật có những vấn đề nặng nhẹ khác nhau, có nhiều nguyên tắc đáng xem là quan trọng hơn mà người ta phải lãnh hội và thi hành trước nhất. Nhưng có nhiều người khác cực lực chống lại, họ chủ trương rằng một nguyên tắc nhỏ nhặt cũng có tính bắt buộc y như một nguyên tắc quan trọng nhất, vì thế cố phân biệt chỗ khác nhau tương đối giữa chúng, là điều vô cùng nguy hiểm.
Khi hỏi Đức Giê-su như thế, vị kinh sư chân thành muốn biết trong số 613 điều luật Cựu Ước (gồm 365 điều cấm và 248 điều buộc) điều răn nào Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước và làm cách triệt để.
B - Đức Giê-su trả lời (12: 29-31)
“Điều răn đứng hàng đầu là: ‘Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất…’”: Đức Giê-su trích dẫn Đnl 6: 4-5, đây là bản văn đầu tiên trong số ba bản văn (Đnl 6: 4-9; 11: 13-21; Ds 15: 37-41) đã trở thành kinh “Shê-ma” (“Nghe đây”) được xem như kinh “Tin Kính” của Do thái giáo và được những người Do thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần. Giới răn mến Chúa phát xuất từ bản tính của Người là Thiên Chúa duy nhất. Bổn phận mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” không nhằm quy chiếu đến những phần riêng biệt của con người, nhưng nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Chúa tận mức, một cách tuyệt đối. Kinh Shê-ma được chép lại trên một tấm vải nhỏ cuộn vào một hộp nhỏ bằng da mà người Do thái ngoan đạo đeo trên trán và trên cườm tay khi cầu nguyện như nhắc nhở tín điều của tôn giáo mình.
“Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”: Dù chỉ được hỏi một điều răn, Đức Giê-su nói thêm điều răn thứ hai khi trích dẫn Lv 19: 18b (x. Rm 13: 9; Gl 5: 14; Gc 2: 8). Khi trích dẫn câu này, Chúa Giê-su sửa đổi một điểm. Trong nguyên văn, “người thân cận” được giới hạn chỉ trong vòng người Do thái chứ không bao gồm dân ngoại như câu mở đầu của huấn lệnh này cho thấy: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi” (Lv 19: 18a). Nhưng trong câu trích dẫn của Chúa Giê-su, yêu “người thân cận” phải bao gồm với hết mọi người và đạt tới mức độ cao nhất như yêu chính mình: “thương người như thể thương thân”, vì theo lẽ tự nhiên, ai nấy đều quý trọng, yêu thương bản thân hơn người khác.
Giáo Huấn của Đức Giê-su mang tính mới mẽ khi Người ghép chung hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” vào với nhau. Trước đó, chưa có một kinh sư nào làm như vậy. Trong bản văn của thánh Mát-thêu, điều răn “Yêu người” đồng nhất với điều răn “Mến Chúa”: “Còn điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy” (Mt 22: 39); còn trong bản văn của thánh Mác-cô, hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” được đặt bên cạnh để chuẩn bị cho việc lượng giá chúng ngang bằng giá trị: “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12: 31). Trong Tân Ước, lời giải thích về “Mến Chúa” và “Yêu người” của thánh Gioan là hay nhất: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy’” (1Ga 4: 20).
A’ - Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33):
“Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng”: Vị kinh sư này tán đồng câu trả lời của Đức Giê-su và bình phẩm câu trả lời của Người mà không có bất kỳ hậu ý nào về sự thù ghét hay châm biếm. Thật ra, vị kinh sư chỉ lập lại hai câu Kinh Thánh Chúa Giê-su đã trích dẫn, với từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn.
- “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác”: Trước hết, ông nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa.
“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu mến người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”: Rồi, ông kết luận rằng “mến Chúa và yêu người” phải được coi trọng hơn mọi hy lễ. Lời này của vị kinh sư khiến chúng ta liên tưởng đến Hs 6: 6 và 1Sm 15: 22. Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không cố ý khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị hủy bỏ, nhưng đã trở nên tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê phán nền phụng tự Đền Thờ như thế (1Sm 15: 22; Tv 51: 20t; 40: 7; Cn 21: 3), đặc biệt với các ngôn sứ như ngôn sứ Hô-sê: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được người nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs 6: 6; x. Is 1: 11-17).
Vì thế, không cần phải giải thích lời của ông như lên án nền phụng tự Đền Thờ. Trong trật tự của ông, mến Chúa và yêu người là những nguyên tắc hàng đầu của nền phụng tự Đền Thờ, là linh hồn của mọi hy lễ dâng tiến Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây, một nhà thần học Do thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.
B’ - Đức Giê-su khen ngợi (12: 34):
“Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy”: Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su thường có cái nhìn về giai cấp lãnh đạo Do thái rất tiêu cực, nhưng ở đây Người nhận định câu trả lời của vị kinh sư này rất tích cực.
- “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”: Còn hơn tương lai, ở đây Nước Thiên Chúa đang ở trong tầm tay và xem ra có một chiều kích không gian. Việc ông hiểu đúng điều gì là quan trọng trong lề luật Cựu Ước đặt ông gần với Nước Thiên Chúa đang đến và chuẩn bị ông đón nhận nước đó một cách thích đáng (x. 10: 13-16).Ẩn sau những hỏi đáp này, chính là cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giê-su với một người kinh sư chân thành cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào.
- “Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa”: Câu này chuẩn bị cho câu chuyện tiếp theo sau, trong đó Đức Giê-su chất vấn các kinh sư về chân tính của Đấng Mê-si-a.
Lm. Inhaxio Hồ Thông ----------------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 12:28b-34)
Qua sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp thấy những xung đột giữa Chúa Giê-su với nhóm Pha-ri-sêu TN 31-B79
Qua sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp thấy những xung đột giữa Chúa Giê-su với nhóm Pha-ri-sêu và các Kinh sư. Tuy nhiên, cũng vẫn có những người Pha-ri-sêu từng là bạn với Chúa và vị kinh sư trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay lại còn là người tán đồng tư tưởng của Người nữa. Ông ca tụng Chúa Giê-su nói hay nói phải. Đổi lại, Chúa Giê-su khẳng định một điều tốt về ông: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Vậy điều gì đã đưa hai người lại với nhau như vậy?
Họ đồng quan điểm về chỗ đứng của hai trong số mười điều răn của Thiên Chúa. Theo câu hỏi của vị kinh sư: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”, Chúa Giê-su phải trả lời dứt khoát cho ông bằng cách trưng ra chỉ một điều răn thôi. Nhưng Chúa Giê-su không làm như vậy. Trái lại, Người đưa ra một lúc hai điều răn: mến Chúa và yêu người. Quả thực, Chúa Giê-su đã đi ngược lại lối hiểu của Pha-ri-sêu về các điều răn. Họ xếp tầm quan trọng của các điều răn theo con số thứ tự: thứ nhất, thứ hai… Đối với họ, yêu mến Thiên Chúa là điều răn quan trọng nhất, nên họ viết điều răn này vào giấy, bỏ vào cái hộp nhỏ và đeo trước trán (shema) để khỏi quên lề luật này! Còn Chúa Giê-su, Người lấy tình yêu làm tiêu chuẩn để xác định tầm quan trọng của điều răn. Đã cùng là tình yêu, thì không có điều này quan trọng hơn điều kia, vì tình yêu không thể xếp theo thứ tự. Cho nên yêu tha nhân cũng có tầm quan trọng ngang với yêu mến Thiên Chúa, và chính vì thế Chúa Giê-su đã trưng ra luôn hai điều răn để trả lời một câu hỏi đòi phải chọn lựa một điều răn mà thôi. Khi Chúa trả lời như vậy, chúng ta không rõ những người Pha-ri-sêu và các ông kinh sư khác phản ứng ra sao, nhưng riêng vị kinh sư này đã thẳng thắn chấp nhận lối hiểu của Người. Cùng với Chúa Giê-su, ông tin rằng cả hai điều răn này đều “quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Ông đồng ý với lời Chúa Giê-su giảng rằng “nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mát-thêu 5:23-24). Ông đã nhận ra được cốt lõi của các điều răn, đó là tình yêu.
Trước sự khôn ngoan và thẳng thắn của vị kinh sư này, Chúa Giê-su đã mở cánh cửa cho ông khi Người nói: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Người sẵn sàng chỉ cho ông thấy Nước Thiên Chúa là nước của tình yêu thương đích thực, chứ không phải chỉ gồm những lễ nghi và luật lệ cứng ngắc như “gánh nặng chất lên vai người ta”. Nếu điều răn thứ nhất, là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả con người mình, thì điều răn thứ hai cũng thế, chúng ta phải yêu tha nhân bằng tất cả tấm lòng, chứ không chỉ bằng lời nói môi miệng.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sự kiện Chúa Giê-su và ông kinh sư đồng ý với nhau về cùng một tầm quan trọng của hai điều răn “mến Chúa yêu người” lại là một câu hỏi đòi chúng ta xét lại lối sống yêu thương của chúng ta. Nếu tình yêu là nền tảng của hai điều răn ấy, thì mức độ và cách biểu lộ cũng phải giống nhau. Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy mức độ và cách biểu lộ ấy khi Người dạy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mẫu yêu thương này trở thành thước đo tình yêu của chúng ta, đồng thời cũng là những cột mốc cho thấy chúng ta “không còn xa Nước Thiên Chúa”. Trong Nước ấy, Người Yêu là Chúa Giê-su đang dẫn đầu một nhân loại mới trong lối sống yêu thương. Chúa Giê-su đã sống điều răn thứ nhất, yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực” khi Người vâng lời Chúa Cha, đến trần gian rao giảng Tin Mừng, bằng lòng chịu chết trên thập giá để chu toàn thánh ý Cha. Chúa Giê-su cũng sống trọn vẹn điều răn yêu thương tha nhân bằng cách chia sẻ thân phận con người chúng ta và đã hy sinh mạng sống để chúng ta được làm con cái Thiên Chúa. Quả thực là một lối sống yêu thương của những ai muốn làm công dân của Nước Thiên Chúa. Nếu chúng ta thực sự muốn làm môn đệ Chúa, chúng ta cũng phải yêu thương như Người đã yêu thương vậy!
Mc 12,28b-34: 28 Có một người trong các kinh sư đến gần và đã nghe họ tranh luận với nhau, thấy Người đối đáp hay với họ, ông hỏi Người: “Điều răn nào là đứng đầu của tất cả?” 29 Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là ‘Nghe đây, hỡi Ítrael. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận của ngươi như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” 32 Ông kinh sư nói với Người: “Tốt lắm, thưa Thầy, Thầy nói rất đúng. Người là Đấng duy nhất, không có ai khác ngoài Người. 33 Yêu mến Người hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là quý hơn mọi lễ toàn thiêu và lễ hy sinh.” 34 Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan, bảo ông: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
Đoạn tin mừng 12:28-34 nằm trong ngữ cảnh của những tranh luận khác nhau của Chúa Giêsu trong TN 31-B80
Đoạn tin mừng 12:28-34 nằm trong ngữ cảnh của những tranh luận khác nhau của Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem (11:1-13:37). Trong ngày thứ ba (11:20-12:44), Người giáo huấn các môn đệ của Người về đức tin và việc cầu nguyện (11:20-25); Người gặp gỡ hội đồng công nghị (11:27-12:12); chuyện nộp thuế (12:13-18); vấn đề sống lại (12:19-27); giới răn trọng nhất (12:28-34); quyền làm con của Đức Kitô (12:35-37); giữ mình khỏi các luật sĩ (12:38-40); câu chuyện bà goá (12:41-44). Về bố cục, đoạn 12:28-34 có thể được phân chia như sau: 1- Câu hỏi của kinh sư (12:28); 2- Giới răn yêu thương (12:29-31); 3- Sự đồng ý của kinh sư (12:32-33); 4- Kết luận của Chúa Giêsu (12:34). Đoạn 12:28-34 được đóng khung bởi hai chữ “thấy” và “đối đáp” (12:28.34). Có thể nhận ra cách dễ dàng hai phần đối xứng trong đoạn nầy (12:28-31 và 12:32-34) qua hai hành động đối xứng nhau của Chúa Giêsu và kinh sư: - kinh sư “thấy” Người “đối đáp” hay nên hỏi Người (12:28), và - Người “thấy” ông “đối đáp” khôn ngoan, nên nói với ông…” (12:34). Giới răn là lời của Thiên Chúa (7:13), trong đó ý muốn của Người được bày tỏ. Tuân giữ giới răn là cách thờ phượng Thiên Chúa đích thật nhất (x. 7:7); nhờ đó, có thể đạt đến sự sống muôn đời (10:17-19). Khi đặt câu hỏi với Chúa Giêsu, ông kinh sư muốn biết Người xếp hạng thế nào các giới răn để biết phải đặt chú tâm vào đâu nhất mà thực hành. “Giới răn đứng đầu” (12:28) là giới răn quan trọng nhất trong bậc thang các giới răn. Điều nầy được lập lại cách khác ở thể phủ định “không có giới răn nào lớn hơn các giới răn nầy” (12:31). Các giới răn (x. 10:19), hay gọi cách khác “giới răn (số ít) của Thiên Chúa” (7:8), là toàn bộ những điều khác nhau phải tuân giữ mà Thiên Chúa đã qui định trong luật Môsê. Giới răn quan trọng nhất đối với Chúa Giêsu là giới răn yêu thương. Hạn từ “yêu thương” được dùng đến 4 lần trong đoạn ngắn nầy. Đây là động từ chính diễn tả trọn vẹn ý tưởng liên quan đến giới răn đứng đầu của Chúa Giêsu. Để trả lời câu hỏi được đặt ra, Chúa Giêsu lấy hai giới răn trong Đnl 6:4-5 và Lêvi (Lv 19:18), và trình bày chúng theo ý muốn của Người. Trong phần đầu (12:29), Chúa Giêsu đã lấy Đnl 6:4, “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, Đức Chúa là duy nhất”. Người dùng công thức long trọng “Nghe đây, hỡi Israel” để mở đầu cho giới răn riêng của Người, như nó cũng được dùng để mở đầu toàn bộ Thập giới (Đnl 5:1) và phần chính của bộ luật Môsê (6:4). Giới răn nầy không mang tính cách cá nhân, mà nói cho toàn thể Israel, nghĩa là cho mọi người. Phải lắng nghe để biết Thiên Chúa chúng ta thờ là ai. Người là Thiên Chúa duy nhất, và không có thần nào khác như Người (x. 12:32). Chỉ mình Người là Đấng tạo dựng mọi loài (13:19), và thực hiện những điều mà chẳng ai có thể làm được (2:7; 10:18). Thiên Chúa ấy không xa lạ. Người là Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp…(12:26) và của chúng ta (12:29). Vậy, nền tảng của sự thờ phượng và việc tuân giữ giới răn là lòng tin chung vào một Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa của chúng ta. Tiếp theo, Chúa Giêsu nói đến giới răn yêu mến Thiên Chúa và người thân cận, dưới dạng một mệnh lệnh “Ngươi hãy yêu mến” (12:30-31). Đại danh từ sở hữu ngôi thứ hai số ít “của anh/ngươi” được dùng ở đây, “Thiên Chúa của anh/ngươi” (12:30), “người thân cận của anh/ngươi” (12:31), thay vì đại danh từ sở hữu ngôi thứ nhất số nhiều như trong “Thiên Chúa của chúng ta”. Việc thay thế nầy nhấn mạnh tương quan cá nhân của người thực hành giới răn với Thiên Chúa và người thân cận. Yêu thương trước hết mang tính cá nhân hơn là tập thể. Bốn khả năng: con tim, linh hồn, trí khôn và sức lực “của ngươi” không thể tách rời nhau. Chúng chỉ một con người toàn vẹn. Như thế, mỗi cá nhân cụ thể phải yêu mến Thiên Chúa với tất cả những gì là chính nó. Giới răn thứ hai được trình bày ngắn gọn hơn “yêu thương người thân cận ngươi như chính mình”. Câu nầy tóm tắt tất cả các giới răn liên quan đến người thân cận (x. Rom 13:9; Gal 5:14). Hai giới răn nầy không thể tách rời nhau, vì: - “Thiên Chúa của chúng ta” là nguồn gốc phát sinh chúng; - Lòng tin chung vào Người đã tạo nên một cộng đoàn “Thiên Chúa - người thân cận - anh/ngươi”; do đó, tình yêu đối với Thiên Chúa và người thân không thể tách rời nhau. Mặt khác, vì Thiên Chúa là nền tảng và động lực của tất cả, nên có thể hiểu là giới răn thứ hai phát xuất từ giới răn thứ nhất, và yêu mến người thân cận là bằng chứng quyết định để biết có tình yêu đối với Thiên Chúa hay không (1Gio 4:20). Vậy có thể gọi đây là một giới răn-kép yêu thương. Ông kinh sư lập lại lời của Chúa Giêsu để bày tỏ sự đồng ý của mình (12:32-33); đồng thời ông cũng thêm một phần câu trích dẫn từ Ôsêa 6:6. Lời của ông ở thể loại so sánh hơn thua, “Yêu thương… thì quý hơn mọi lễ toàn thiêu và lễ hy sinh” (12:33). Trong đó, động từ “yêu thương” được dùng ở dạng nguyên thể để nhấn mạnh chính hành động (12:33), và hành động “yêu thương” nầy thay thế cho “lòng thương xót” và “sự nhận biết” (x. Os 6:6). Theo ngữ cảnh của đoạn 6:1-6, Ôsêa kêu gọi dân Israel sám hối vì Thiên Chúa sẽ phục hồi họ trong công chính. Ông không dẹp bỏ các hình thức lễ tế, mà chỉ kêu gọi dân làm những điều Thiên Chúa ưa thích hơn khi họ phải sửa đổi cuộc sống để trở về với Người. Vậy, yêu thương được đánh giá cao trọng hơn lễ toàn thiêu và lễ hy sinh, vì yêu thương là hoàn tất mọi điều Thiên Chúa muốn (x. Rom 13:8).
Yêu thương và trao ban chính mình cho Thiên Chúa và cho người khác thì cao trọng hơn mọi sự.
Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến ----------------------------------------
Đề tài mến Chúa yêu người được lập đi lập lại nhiều lần trong năm phụng vụ. Không hẳn chỉ TN 31-B81
Đề tài mến Chúa yêu người được lập đi lập lại nhiều lần trong năm phụng vụ. Không hẳn chỉ vì tầm quan trọng của nó, mà cũng là điều ta cần được nhắc nhở thường xuyên vì ta nghe là một chuyện, nhưng thực hành thì lại hay quên. Cuối năm phụng vụ cũng là lúc Lời Chúa đưa ta tới gần cuộc phán xét sau cùng. Điều chắc chắn Chúa sẽ hỏi ta là về lối sống yêu thương Người đã dạy. Do đó, ta hãy xin Chúa soi sáng giúp ta suy niệm đề tài này trong ánh sáng mới của Người, để ta xác tín lẽ sống của ta không thể đi ra ngoài đường lối yêu thương. 1. Lời mời gọi yêu thương dành cho Ít-ra-en dân Chúa (bài đọc Cựu Ước – Đệ nhị luật 6:2-6)
Ta có thể nói toàn bộ sách Đệ nhị luật đều nhắm khai triển một đề tài duy nhất là mến Chúa yêu người, tóm kết của Mười giới răn Chúa ban cho dân Người tại Xi-nai. Sau khi đã ra khỏi vòng nô lệ của Ai-cập, dân Chúa bắt đầu cuộc hành trình của những người tự do. Tự do là điều tốt, nhưng cũng không phải là không có nguy hiểm. Qua cơn khốn khổ, người ta có thể lại quên Chúa, đối xử không tốt với anh chị em, không còn sống như những người con cái Chúa nữa. Bản chất con người là vậy. Do đó ta nhận ra được tầm quan trọng của những lời ông Mô-sê dặn dò dân chúng. Lời lẽ của ông hết sức trân trọng nghiêm túc như một mệnh lệnh. Chính dân Ít-ra-en đã nhận ra tầm quan trọng của mệnh lệnh, nên đã làm mọi cách để ghi nhớ: họ viết nó lên trán, lên cửa nhà hoặc bất cứ nơi nào để đập vào mắt họ, một ngày ba lần họ phải cung kính niệm lại những lời ấy. Vậy mệnh lệnh đó là gì và ông Mô-sê đã truyền lại cho dân chúng như thế nào?
Trước khi nói ra mệnh lệnh, ông Mô-sê muốn dân chúng hiểu rõ tầm quan trọng của việc thi hành mệnh lệnh. Thi hành mệnh lệnh sẽ quyết định cho số phận và tương lai của Ít-ra-en. Nếu thực hành, dân Ít-ra-en “sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật như Thiên Chúa đã hứa” (Đnl 6:3). Đó, tương lai của cả một dân tộc hoàn toàn tùy thuộc vào việc thi hành mệnh lệnh. Sữa và mật là biểu tượng cho sự giàu có, phong phú của đất nước. Ít-ra-en sẽ trở thành một quốc gia hùng mạnh, chẳng những sánh vai với những nước láng giềng, mà còn vượt trên cả họ nữa. Dân số đông đảo, tài nguyên phong phú. Họ sẽ xây dựng những thành quách vững vàng to lớn. Nếu quả như vậy thì chắc mệnh lệnh phải là khó thi hành lắm. Nhưng trái lại, ông Mô-sê chỉ truyền cho dân chúng Ít-ra-en một mệnh lệnh đơn giản, ở trong tầm tay của dân Ít-ra-en. Đó là:
“Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6:4-5).
Thì ra đó không phải là mệnh lệnh phải lấp biển rời non vượt quá khả năng con người, mà là mệnh lệnh yêu mến. Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất của Ít-ra-en. Thiên Chúa đã yêu thương Ít-ra-en “hết lòng hết dạ, hết sức” khi Người làm mọi sự cho họ, nhất là giải thoát họ khỏi xiềng xích Ai-cập và nhận họ làm dân riêng của Người. Cho nên nếu Ít-ra-en có phải yêu mến Đức Chúa “hết lòng hết dạ, hết sức” thì cũng là bổn phận và có gì là quá đáng đâu. Tuy là lời Thiên Chúa truyền dạy qua ông Mô-sê, nhưng Người không thể ép buộc Ít-ra-en yêu mến Người, nên tựu chung vẫn chỉ là lời Người mời gọi họ đáp trả tình yêu thương của Người.
Truyền dạy dân chúng mệnh lệnh này, ông Mô-sê hiểu họ hơn ai hết. Ông biết lòng dạ của họ. Sự tráo trở hoặc chóng quên của họ đã làm ông đau khổ nhiều lần. Vì thế, ông nghiêm nghị bảo cho họ biết: “Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ” (Đnl 6:6). Lịch sử dân Chúa sau này đã chứng minh cho nỗi lo âu của ông Mô-sê rồi! Đây không chỉ là lệnh truyền cho Ít-ra-en, nhưng còn là lệnh truyền cho toàn thể nhân loại nữa. Nhân loại có đáp lại tình yêu của Thiên Chúa hay không? Tội lỗi vẫn tràn đầy, tình yêu của Thiên Chúa vẫn bị chối từ. Người ta chỉ yêu mến Thiên Chúa bằng môi miệng và “hết lòng hết dạ, hết sức” chạy theo lối sống đi ngược lại đường lối của Thiên Chúa. 2. Chúa Giê-su là Người Con đã nên thập toàn nhờ hết lòng yêu mến Thiên Chúa (bài đọc Tân Ước – Do-thái 7:23-28)
Đoạn thư gửi tín hữu Do-thái tiếp tục so sánh Chúa Giê-su với các vị thượng tế khác trong dân Ít-ra-en và gọi Người là vị Thượng Tế thập toàn được Thiên Chúa đặt lên cho đến muôn đời để đem ơn cứu độ cho nhân loại. Vậy thế nào là vị Thượng Tế thập toàn? Đó là “một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:26). Để đạt tới mức thập toàn, “Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ” (Dt 7:27).
Đúng vậy, Chúa Giê-su đã dâng chính mình trên thập giá. Người là vị Thượng Tế, làm trung gian giữa nhân loại và Thiên Chúa, đồng thời Người cũng chính là hiến lễ được dâng lên Thiên Chúa. Tuy nhiên Người là vị Thượng Tế vẹn toàn, khác với mọi vị thượng tế của Ít-ra-en, bởi vì Người đã hy sinh làm lễ dâng Thiên Chúa và động lực khiến Người hy sinh mạng sống là do lòng yêu mến. Nói khác đi, Người đã hiến thân mình là vì Người đã yêu mến Thiên Chúa “hết lòng hết dạ, hết sức” và Người cũng yêu thương anh chị em đồng loại của Người y như vậy. Nếu thế, ta có thể quả quyết rằng Chúa Giê-su là người gương mẫu đã “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của Người và của nhân loại hết lòng hết dạ, hết sức lực Người”. Chu toàn mệnh lệnh yêu mến Thiên Chúa như vậy, Chúa Giê-su mang một danh hiệu và chức phận vô cùng cao quý: Người Con thập toàn của Thiên Chúa. Người không chỉ dành cho mình độc quyền chức phận làm Con Thiên Chúa, nhưng đã chia sẻ với anh chị em nhân loại của Người, để tất cả đều được gọi là con cái Thiên Chúa. Mà “phẩm vị tư tế” của Chúa Giê-su tồn tại muôn đời thì chức phận “Người Con thập toàn” của Người cũng tồn tại muôn đời y như vậy. Liệu ta có thực sự hãnh diện được chia sẻ với Người chức phận làm con Thiên Chúa và sống chức phận ấy một cách xứng đáng hay không? Tình yêu “hết lòng hết dạ và hết sức” ràng buộc gắn bó Thiên Chúa với Đức Giê-su cũng ràng buộc gắn bó ta với các Ngài. Nếu vậy, ta sẽ sống mối quan hệ mật thiết – Thiên Chúa-Đức Kitô-anh chị em – như thế nào cho phải đạo làm con Thiên Chúa và anh em với Đức Ki-tô? Đoạn thư Do-thái hôm nay không chỉ nói về Chúa Ki-tô như Người Con thập toàn, nhưng còn mời gọi ta hãy cung kính nghe lại mệnh lệnh yêu mến Thiên Chúa đã phán với Ít-ra-en ngày xưa và với ta hôm nay rằng: Nghe đây, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em. 3. Mến Chúa yêu người là “điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (bài Tin Mừng – Mác-cô 12:28b-34) Chúa Giê-su đã nói với vị kinh sư về tầm quan trọng ngang hàng giữa hai giới răn mến Chúa và yêu người. Đáp lại, vị kinh sư cũng nêu lên một điều hết sức ngạc nhiên về hai giới răn ấy, đó là: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:33).
Trong sinh hoạt thờ phượng, việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ là điều hết sức quan trọng, quan hệ không những tới đời sống cá nhân mà còn cả cộng đồng nữa. Đó là nhiệm vụ của những tư tế, thay mặt dân chúng để tỏ lòng tôn kính và thờ phượng Thiên Chúa. Lễ toàn thiêu và hy lễ được dâng lên Thiên Chúa để ta nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và Chúa cả trời đất, cảm tạ Người về những ơn lành Người ban, xin Người ban ơn trợ giúp và nhất là để xin Người tha thứ mọi tội lỗi ta xúc phạm đến Chúa và tha nhân. Vậy mà giờ đây vị kinh sư đã thấy giá trị và tầm quan trọng của chúng còn được xếp hạng sau việc mến Chúa yêu người. Đây không chỉ là ý kiến của cá nhân vị kinh sư, nhưng chính Chúa Giê-su cũng biểu đồng tình với ông và thực lòng khen ngợi ông: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Như vậy, rõ ràng điều quan trọng nhất trong Nước Thiên Chúa phải là mến Chúa yêu người, một nguyên lý đơn giản nhưng cũng vô cùng súc tích. Việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ là những dấu chỉ bề ngoài để diễn tả một cách tương đối mối quan hệ giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Còn mến Chúa và yêu người thì không những diễn tả mà còn sống, sống một cách chân thực chính mối quan hệ trên. Khi ta sống mối quan hệ ấy là ta không còn ở xa, nhưng ở ngay giữa Nước Thiên Chúa rồi vậy. Chẳng biết những ông kinh sư và dân chúng đứng chung quanh lúc ấy có hiểu ra được cuộc đối thoại ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa giữa Chúa Giê-su và vị kinh sư đến hỏi Người hay không. Nhưng cứ nhìn vào phản ứng của các ông là ta hiểu được! Thánh Mác-cô viết: “Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa” (Mc 12:34). Nghĩa là họ hiểu trăm phần trăm. Nhưng không biết họ có can đảm để đặt việc dâng lễ toàn thiêu và hy lễ ở dưới việc thực thi mệnh lệnh mến Chúa yêu người hết lòng hết dạ và hết sức hay không. Không phải chỉ có các ông kinh sư ngày xưa, mà ngày nay cũng thiếu gì những “kinh sư” của thời đại! Có cả những vị làm giám mục, linh mục, bề trên, thầy giáo, cha mẹ đã xếp việc mến Chúa yêu người dưới cả những mớ luật lệ cứng ngắc và đối xử không theo đức bác ái Ki-tô. Cả cá nhân ta nữa, đừng sợ trốn tránh không dám nhìn vào sự thật, là chính ta cũng ở trong số những kinh sư ấy nữa. 4. Sống Lời Chúa Đặt lại vấn đề mến Chúa yêu người dưới ánh sáng Lời Chúa luôn luôn giúp ta nhận ra những khía cạnh khác biệt và phong phú của tình yêu. Ta đón nhận giới răn yêu thương Chúa ban qua tay ông Mô-sê. Nhưng tốt hơn nữa, ta chiêm ngưỡng Chúa Giê-su như gương mẫu tuyệt đối thực hành giới răn ấy trong suốt cuộc sống cho đến khi nhắm mắt trên thập giá. Trên thập giá, lễ toàn thiêu và hy lễ Người dâng lên Chúa Cha không chỉ là mạng sống và những giọt máu để đền bù tội lỗi nhân loại, mà còn là tất cả tình yêu của Người, yêu hết lòng, yêu hết dạ và yêu hết sức lực mình, để muôn đời Người luôn là Người Con thập toàn của Thiên Chúa và “người yêu lý tưởng” của toàn thể nhân loại. Suy nghĩ: Chúa Giê-su nói với vị kinh sư đến gặp Người: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Lời này có ý nghĩa gì với tôi? Nếu quả thực tôi còn xa Nước Thiên Chúa thì tôi phải làm sao bây giờ? Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã thu gọn toàn thể lề luật thánh vào giới răn độc nhất là mến Chúa yêu người; xin giúp chúng con hằng vâng giữ điều Chúa truyền dạy, đẩ sau này đạt tới phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 25 mùa Thường niên). Lm. Đaminh Trần Đình Nhi ----------------------------------------
Chúa Ki-tô, vị Thượng Tế siêu phàm, đã đóng vai trò giúp cho Thiên Chúa siêu việt cảm thương nhân TN 31-B82
Chúa Ki-tô, vị Thượng Tế siêu phàm, đã đóng vai trò giúp cho Thiên Chúa siêu việt cảm thương nhân loại và nhân loại nhận biết được tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Vị Thuợng Tế siêu phàm ấy đã được Thiên Chúa tuyển chọn trong số người phàm, không phải từ dòng họ Lê-vi với chức tư tế chưa được hoàn hảo, nhưng “theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” với chức tư tế thập toàn. Bài đọc hôm nay giải thích cho chúng ta thế nào là chức tư tế thập toàn theo phẩm trật Men-ki-xê-đê và trình bày hai đặc nét chính về Chúa Ki-tô Linh Mục: Người là vị Thượng Tế đời đời và vị Thượng Tế thập toàn. a) Phẩm trật A-ha-ron và phẩm trật Men-ki-xê-đê
Trước hết chúng ta nhìn lại cách lập luận của thư Do-thái đề cao chức tư tế của Chúa Ki-tô như thế nào. Tất cả chương 7 thư Do-thái dành cho lập luận này. Đầu tiên là trình bày về thân thế ông Men-ki-xê-đê và sự cao trọng của ông. Với trích dẫn Sáng Thế 14:17-20 nói về thân thế ông Men-ki-xê-đê, thư Do-thái đi tới kết luận: ông Men-ki-xê-đê là “vua công chính, vua bình an”, “mãi mãi ông vẫn là tư tế.” So với tư tế thuộc dòng tộc Lê-vi, thân thế ông Men-ki-xê-đê cao trọng hơn bội phần. Bởi vì dòng tộc Lê-vi là con cháu của ông A-ha-ron và cũng là hậu duệ của ông Áp-ra-ham, nên không thể cao trọng hơn ông Áp-ra-ham. Thế mà so với ông Áp-ra-ham, ông Men-ki-xê-đê còn cao trọng hơn, vì ông Áp-ra-ham phải nộp cho ông một phần mười chiến lợi phẩm và hoa lợi cũng như nhận chúc lành của ông.
Sau khi so sánh chức tư tế theo phẩm trật A-ha-ron với chức tư tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê, thư Do-thái dẫn đến kết luận là phải đạt tới sự hoàn thiện qua những thay đổi: 1) Thay đổi chức tư tế: từ chức tư tế Lê-vi đến chức tư tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. 2) Bãi bỏ Lề Luật cũ để thay thế bằng Lề Luật Mới là chính Đức Ki-tô.
Với dòng tư tưởng lập luận trên, thư Do-thái nhắc lại lời thề của Thiên Chúa Cha nói với Chúa Ki-tô: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế,” và khẳng định hai điểm về chức Thượng Tế của Chúa Ki-tô: b) Chúa Ki-tô là vị Thượng Tế đời đời
Đặc tính vĩnh cửu của chức Thượng Tế nơi Chúa Ki-tô là do Người “hằng sống muôn đời.” Người đã đi qua cái chết thể xác, phục sinh để bước vào cung thánh trên trời và đời đời ngự bên hữu Chúa Cha mà chuyển cầu cho nhân loại. Chức tư tế của Người cần phải vĩnh cửu để “đem lại ơn cứu độ vĩnh viễn” cho những ai muốn trở về và đến với Thiên Chúa. Không ai có đủ tư cách để đảm nhận vai trò trung gian của Chúa Ki-tô giữa nhân loại và Thiên Chúa. Với tất cả vinh hiển và quyền năng Thiên Chúa ban cho Người sau khi Người phục sinh, Người sẽ chuyển cầu cho chúng ta cách hữu hiệu, khác với cách chuyển cầu khi Người còn sống cuộc đời trần thế như chúng ta, nói khác đi cách chuyển cầu của một con người đang chiến đấu khác với cách chuyển cầu của một con người đã được vinh thắng khải hoàn. c) Chúa Ki-tô là vị Thượng Tế thập toàn
Cuộc đời dương thế của Chúa Ki-tô đạt mới mức hoàn hảo khi Người vâng phục Thiên Chúa mà chấp nhận chịu đau khổ và chết khổ nhục trên thập giá (Dt 5:8-9). Bước qua cái chết hy sinh, Chúa Ki-tô trở nên vừa là hy lễ, vừa là Đấng hiến lễ dâng chính mình lên Thiên Chúa Cha để đền thay cho tội lỗi nhân loại. Đặc tính thập toàn đã được Dt 7:26 diễn tả dưới những khía cạnh khác nhau: Chúa Ki-tô là “một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời.” Người đã dâng chính mình làm của lễ vẹn toàn và dâng một lần là đủ.
Trái lại, các thượng tế Lê-vi thì “mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân” chứng tỏ hy lễ cũng như người dâng hy lễ đều không toàn hảo và cần phải lập đi lập lại mãi.
Chính tính cách trường cửu và thập toàn của chức tư tế nơi Chúa Ki-tô đã mở ra cho mọi người để họ có thể liên kết với Người. Từ nay chỉ có một hy lễ và Thượng Tế duy nhất. Mọi người được mời gọi hiệp nhất với Người để hiến lễ của chúng ta trở nên hiến lễ của Người và đáng được Chúa Cha chấp nhận. Lời mời gọi linh mục xướng lên trong Thánh lễ cũng là lời mời gọi của chính Chúa Giê-su, Linh Mục Thượng Phẩm: “Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi và cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha Toàn năng chấp nhận.” Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đoạn thư hôm nay giúp tôi hiểu được gì về vai trò trung gian của Chúa Ki-tô trong lãnh vực dâng lễ đền tội? Chúa Ki-tô đang “đền tội” cho tôi trước mặt Thiên Chúa như thế nào? (Atonement = at-one-ment).
Thư Do-thái quả quyết: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến.” Tôi đã xác tín mình cần đến Chúa Ki-tô chưa? Tới mức độ nào?
Tôi có tâm tình nào trước tình thương cứu độ của Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng tôi Chúa Giê-su Linh Mục Thượng Phẩm? Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng nhau đọc lời nguyện sau đây cầu cho các linh mục: Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người. Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi. Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa, để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con. Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa. Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 80)
Ðaminh Trần đình Nhi
----------------------------------------
TN 31-B83: Phụng thờ Thiên Chúa đi đôi với việc phục vụ con người
(Suy niệm Tin mừng Mác-cô (12, 28-34) trích đọc vào Chúa nhật 31 thường niên)
Trong đạo Do-Thái, từ “Mười Điều Răn” Đức Chúa Trời ban cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai, TN 31-B83
Trong đạo Do-Thái, từ “Mười Điều Răn” Đức Chúa Trời ban cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai, các thầy Ráp-bi diễn giải thêm thắt thành 613 điều luật.
Khi có người thông luật đến hỏi xem điều răn nào trọng nhất trong số 613 khoản luật ấy, Chúa Giê-su trả lời ngay: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi (Đnl 6,5); Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó" (Mác-cô 12, 29-31).
Chúa Giê-su nhập hai giới răn thành một
Điều răn mến Chúa được ghi trong sách Đệ nhị luật, điều răn yêu người được chép ở sách Lê-vi, thuộc về hai bộ sách khác nhau đã được Chúa Giê-su liên kết thành một điều răn duy nhất là mến Chúa yêu người.
Thế nhưng, có nhiều tín hữu vẫn xem việc mến Chúa và yêu người là hai điều riêng biệt, chẳng liên hệ gì đến nhau. Một số tín hữu quan tâm đến việc tôn kính phụng thờ Thiên Chúa nhưng đồng thời vẫn ghét bỏ, bạc đãi con người.
Chúa Giê-su phá bỏ quan điểm sai lầm đó khi nối kết giới răn mến Chúa và yêu người thành một và Ngài nhấn mạnh rằng chính khi yêu người cũng là lúc mến Chúa và tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện qua tình yêu thương anh chị em chung quanh và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa.
Tại sao lại như thế?
Thiên Chúa và con người chỉ là một
Khi Sao-lê bắt bớ các tín hữu đầu tiên theo Chúa Giê-su, ông bị Chúa Giê-su quật ngã trên đường Đa-mát và Ngài lên tiếng quở trách: "Sao-lê! Tại sao ngươi bắt bớ Ta?"
Thực ra, lúc bấy giờ, Sao-lê chỉ lùng bắt các tín hữu của Chúa Giê-su thôi, còn Chúa Giê-su thì đã phục sinh và lên trời rồi thì làm sao có thể bắt bớ được. Vậy mà Chúa Giê-su không hạch ông: “Tại sao ngươi bắt bớ các tín hữu của Ta”, mà lại nói: "Tại sao ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4).
Sở dĩ Chúa nói như vậy là vì các ki-tô hữu là hiện thân của Chúa, là những chi thể trong thân mình Ngài, nên ai bắt bớ họ là bắt bớ Chúa.
Đặc biệt qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su dạy cho ta biết Ngài là một với những anh chị em chung quanh ta, khi phán rằng: "Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta" và "những gì các ngươi đã không làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã không làm cho chính Ta" (Mt 25, 40.45).
Dựa vào lời dạy trên đây của Chúa Giê-su, Đức Giáo hoàng Bê-nê-đi-tô XVI, qua thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” cũng xác nhận rằng Thiên Chúa và con người chỉ là một. Ngài viết:
“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. Ngài phán: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25:40). Như thế, mến Chúa và yêu người đã trở thành một: Trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu… (sđd số 15).
Việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người
Phát xuất từ sự thật Thiên Chúa đồng hóa với con người và những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa Giê-su, Đức Giáo hoàng Bê-nê-đi-tô XVI dạy rằng việc phụng thờ Thiên Chúa phải đi đôi với việc phục vụ con người, không được phép xao lãng một trong hai. Ngài viết: chúng ta “không thể tách rời tình yêu mến Thiên Chúa và tha nhân vì cả hai chỉ là một giới răn duy nhất” (sđd số 18).
Qua số 22 trong sứ điệp nầy, Ngài viết tiếp:
Vì thế, bày tỏ “tình yêu đối với các quả phụ, kẻ mồ côi, người bị tù đày, người bệnh tật và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thì cũng thiết yếu đối với Hội thánh như là cử hành các bí tích và rao giảng Tin mừng. Hội thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban các bí tích và rao giảng Lời Chúa” (sđd số 22).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa tự đồng hóa mình với con người và mỗi người thật sự là một phần thân thể của Chúa là một sự thật lớn lao cao cả vượt tầm hiểu biết của con người nên không mấy người nhận ra; mà vì không nhận ra sự thật cao cả nầy nên con người liên tục gây ra vô vàn đau thương, bất hạnh cho nhau trên cõi đời nầy.
Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con và cho toàn thể nhân loại, để Ngài khai mở tâm hồn mọi người nhận ra sự thật trọng đại nầy; nhờ đó, nhân loại sẽ luôn được sống trong hòa bình và yêu thương.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng Mác-cô 12, 28-34
Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu? "Đức Giê-su trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."Ông kinh sư nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ. "Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu! " Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
- Chúa Nhật XXXI Thường niên B – Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt (Mc 12, 28 - 34)
CÂU HỎI GỢI Ý
So sánh thái độ và câu hỏi của viên ký lục trong bản văn này với bản văn song song của Mt (22,34-40) TN 31-B84
So sánh thái độ và câu hỏi của viên ký lục trong bản văn này với bản văn song song của Mt (22,34-40). Có gì khác biệt?
1. Tại sao Do thái giáo không khám phá ra được "tình yêu” là giới răn trên hết?
2. Câu trích dẫn Đnl 6,4tt có điểm gì đặc biệt so với các xác quyết tương tự của Cựu ước?
3. Theo bản văn này, đâu là lý do khiến ta phải yêu mến Thiên Chúa không giới hạn?
4. Yêu đồng loại "như chính mình phải chăng là làm cho kẻ khác những gì ta làm cho ta?
5. Theo quan niệm Do thái và quan niệm Chúa Giêsu. Đồng loại (cận nhân) là gì (x. Lc 10,25-37) ?
Trong bối cảnh một cuộc tranh luận biện chứng (Mc 12,28-38 và song song), Chúa Giêsu được một ký lục Biệt phái hỏi ý kiến như sau (Mt 22,35): ''Giới răn thứ nhất trên hết là giới răn nào"? (28). Người đáp lại: tình yêu là quy tắc thứ nhất của mọi cuộc sống tôn giáo (các. 29-31)
I. CÂU HỎI CỦA VIÊN KÝ LỤC
Nơi người Do thái, bè Sađucêô và biệt phái tiêu biểu cho hai luồng tư tưởng và cách thế sống đối nghịch nhau (x. Cv 23,8). Một ký lục Biệt phái chuyên viên tỉ mỉ về lề luật – đã theo dõi một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với bè Sađucêô (Mc 12,18-27ss) và nhận thấy "Người đã đáp lại họ cách chí lý (c. 28). Theo Mt, sau khi nghe biết "Chúa Giêsu đã khóa miệng bè Sađucêô", Biệt phái liền tụ họp và cử ra một kẻ trong nhóm để dùng một câu hỏi bắt bí Người (Mt 22,34-35). Theo Máccô thì trái ngược: viên Biệt phái giàu có này đến chất vấn Chúa Giêsu không phải vì óc cuồng tín của phe nhóm cho bằng vì lưu tâm đến giáo thuyết người rao giảng (x. B. van Iersel, Dos lignes fondamentalos de no tre vie chrétiennc trong Assemblées du Seigneur loạt 1,71, tr. 29-31). Vả lại, chính với thiện cảm và xác tín mà ông ta sẽ đón nhận câu tuyên phán của Người: "Phải lắm, thưa Thầy, Thầy đã nói rất thật..." (c.32). Vì thế, Chúa Giêsu, nhận thấy ông tiếp đón giáo huấn Người với lương tri và tế nhị, sẽ bảo với ông rằng: "ông không xa Vương Quốc Thiên Chúa đâu” (c.34).
Trong hai thế kỷ đầu, các giáo sĩ, lấy lại cách phân loại của tiền nhân, đã tính ra có tới 613 giới răn trong Lề luật Do thái: 365 giới răn tiêu cực và 248 giới răn tích cực (H.L.Strack P.Billerbeck, KomTN entar zum N.T. sus Talmud und Midrash, t.I tr.900tt). Trong các giới răn này, một số được gọi là "trọng" hay "lớn", số khác thì “nhẹ” hay “nhỏ”.
Theo Mt 22,35, viên Biệt phái chất vấn: "Giới răn nào lớn nhất trong Lề luật". Nơi Mt 5,19, Chúa Giêsu nói đến sự vi phạm và thực thi những điều luật "nhỏ hèn nhất". Mt thích những cách nói Sêmita: "lớn - nhỏ", "Lề luật" như thế là chuyện thường tình. Không phải ông ngỏ lời với các độc giả được đào tạo theo lối Do thái sao? Nhưng Máccô, vì viết Tin Mừng cho lương dân trở lại, nên không nói đến Lề luật mà chỉ mặc cho câu hỏi của viên ký lục một tính cách phổ quát hơn: Ông chiếu theo các giới răn thuộc mọi loài và mọi phạm trù. Khi ưu tư xác định đâu là giới răn "thứ nhất" trong mọi giới răn, ông thay thế tiêu chuẩn "lớn lao" bằng tiêu chuẩn "ưu đẳng”. Vì thế giới luật tình yêu ở đây sẽ xuất hiện như một cái gì "trên hết".
Dĩ nhiên, pháp học Do thái đã quy định tầm quan trọng lớn nhỏ nhiều ít của các giới lệnh khác nhau trong Lề luật một đoạn sách Talmud (Horayot, ga. Xem Strack-bill sdd, 904) có đặt một câu hỏi tương tự như câu trỏi trong Tin Mừng: "Đâu là giới răn nặng ký hơn mọi giới răn khác ?” Và nó đáp: "lệnh cấm thờ ngẫu tượng". Văn chương Do thái sẽ còn kể nhiều giới răn khác: cấm đổ máu, cấm xúc phạm danh Thiên Chúa, cấm lỗi ngày hưu lễ v.v...; những hình như việc thờ ngẫu tượng, loạn luân, giết người vẫn được coi là những lỗi nặng nề nhất (Ibid., tr.221tt). Do thái giáo đã không thể thấy sự ưu đẳng của giới luật tình yêu, vì tất cả nền tu đức của nó cũng như cuộc sống của nó bị một quan niệm duy luật tỉ mỉ thái quá ám ảnh. Viên ký lục đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu cũng là một nhà luật học.
Tuy nhiên không được quên rằng Do thái giáo cũng đã thành công trong việc phát biểu một cách hay ho giới luật tình yêu, nhất là đối với Thiên Chúa (x. E.Stauflẽr, trong Kittol, T.W.N.T, I, tr.41t). Hai mươi năm trước Chúa Ki-tô, giáo sĩ Hillel đã dạy phải yêu tha nhân bằng những lời này: "Điều gì không làm hài lòng anh, thì đừng làm cho đồng loại anh điều ấy; có là tất cả Lề luật. Mọi cái khác chỉ là giải nghĩa" (x. Stlack-billerbeck, sđd, 460). Hầu như có thể bảo rằng Chúa Giêsu đã sao lại công thức ấy (Mt 7,12). Nhưng nền tu đức Do thái vẫn bị in dấu tì vết bài ngoại chủ nghĩa: "Hãy yêu mến thân nhân và hãy ghét địch thù" (Mt 5,43). "Chúa Giêsu là người đầu tiên đã cho nổ tung những nền móng cũ, để lao mình vào một công trình xây dựng hoàn toàn mới” (E.Stauffer. mục đã dẫn, 43-44).
II. CÂU TRẢ LỜI CỦA ĐỨC GIÊSU
Chính trong bối cảnh giáo thuyết trên mà Chúa Giêsu, khi được một luật sĩ Do thái hỏi ý kiến, đã thốt lên câu tuyên phán của Người (cc. 29-31). Câu đáp của Người đầy quả quyết và mạnh dạn. Nó phát biểu nguyên tắc cơ bản của giáo thuyết Người, công bố "giới răn mới" (Ga 13,34; 1Ga 2,7t ...). Nhưng Chúa Giê-su biết những lời nói của Người sẽ có uy lực hơn trước mắt một ký lục Biệt phái nếu chúng dựa vào Kinh Thánh là cái quen thuộc với ông. Vì thế Người chỉ trích dẫn Đnl 6,4t và Lv 19,18 là những câu có kiểu nói hoàn toàn thích hợp với ý Người.
1. Hãy yêu mến Thiên Chúa, vì ngài là "Chúa độc nhất"
Nhờ câu tuyên tín "độc thần", bản văn của Đnl 6,4 nổi bật hơn nhiều công thức tương tự mà Cựu ước dùng để khắc ghi vào trí não lòng yêu mến Thiên Chúa. Câu dẫn nhập độc thần này (c.29) được Mc cố ý lấy lại: bằng chứng là viên ký lục sau đấy nêu rõ, bằng cách tán thành, đó là một quả quyết về "độc nhất tính" của Thiên Chúa (c.32).
Trong Cựu ước, thường thấy đề cập đến vấn đề sợ hãi hơn là mến yêu Thiên Chúa (Xh 1,21; Lv 19,14-32; Gs 4,24; Lv 18,12...); ngay cả sách Đnl cũng nhiều lần nói như vậy (4,10; 6,24; 14,23...). Trong các thánh vịnh, thành ngữ “sợ Thiên Chúa" chỉ kẻ trung thành với Chúa (22.24; 115, 11 .. .).
Nơi khác lại bảo rằng con người phải làm tôi Thiên Chúa, Thiên Chúa xuất hiện như một ông Chủ tuyệt đối, và các tín hữu như những tên nô lệ của Ngài. Do đó con người phải hoàn toàn thủ phận làm tôi" Thiên Chúa. Thái độ này đưa đến việc biểu lộ ra bằng nhiều cử chỉ bắt chước nghi thức của các tên nô lệ trong triều đình của các bạo chúa cổ xưa (x. H. Rongstorf, trong TWNT II, 269).
Trái lại, Đnl 6,5 nói đến lòng yêu mến Thiên Chúa. Trong toàn bộ Ngũ thư, ý niệm này không thấy ở đâu khác, chỉ có Đệ nhị luật là năng dùng {Đnl 5,10; 6,5.7.9. 10. 12; 11,1. 13.22; 13,3; 19,9; 30,6.16.20. Tuy nhiên có một ngoại lệ là Xh 20,6; kiểu nói ở đoạn Xuất hành này giống Đnl 5,10. Nhiều nhà phê bình thấy khó gán nó cho một nguồn cổ điển. Xeln O. Eissfeldt, Einleitung in des A.T: Tubingen 1965, tr 225,229,255tt}; chung chung ý niệm đó đặc trưng các sách gần hơn của Kinh Thánh. Việc phát biểu cái giới răn "trên hết" như thế đánh dấu một tiến bộ và một sự tinh luyện tâm tình tôn giáo, so với các giới luật liên hệ tới Thiên Chúa của thập điều. Theo Xh 20,1tt và Đnl 5,7tt, các giới luật này có ba: một Thiên Chúa duy nhất, kính trọng danh Ngài, tuân giữ ngày hưu lễ. Ở đây, một công thức duy nhất tóm lược tất cả mọi bổn phận của con người: yêu mến Thiên Chúa không hạn chế.
Tác giả sách Đnl hình như đã lợi dụng công trình tinh luyện thần học của các ngôn sứ; các ông này đã so sánh mối quan hệ của một người phụ nữ với chồng bà: mối quan hệ tình yêu chứ không phải là một nghĩa vụ có tính pháp lý hay tế tự. Thiên Chúa “yêu” dân Ngài, đó là một điều chắc chắn đối với Cựu ước (1V 10 9; 2Sk 2,10; 9,8; Ml. 1,2). "Sở dĩ Giavê đã đem lòng quyến luyến các ngươi và đã chọn các ngươi, không phải vì các ngươi đông hơn các dân khác hết thảy... nhưng vì Ngài yêu các ngươi..." (Đnl 7,7-8). Tình yêu bộc phát này của Thiên Chúa, tình yêu đã kén chọn Israel, là nền tảng tất cả sứ điệp của ngôn sứ Hôsê, kẻ hình như đã là người đầu tiên hiểu theo ngôn ngữ "tình yêu” và "hôn nhân" các mối quan hệ giữa Giavê với dân Ngài. Chủ đề sau đó đã được Giêrêmia, Edêkien, Isaia đệ nhị và Diễm ca khai triển (x. P, Claudel, Dieu époux de son pouple, trong Assemblées du Seigneur loạt 1,16: Hs, tr.56-59; Gr, tr. 59-60; Ed, tr. 60-62; Đnl, tr. 62-64; Dc tr. 64-65).
Chúng ta khám phá ra như thế căn nguyên của giới luật mến yêu Thiên Chúa và quán triệt hơn nội dung của "tình yêu” này. Thực vậy, Hôsê đã cảm thức sâu xa rằng không một tình cảm nào lôi cuốn con tim loài người cho bằng tình chồng vợ. Tình yêu này không đòi hỏi sự hỗ tương sao? Vì thế tại sao qua tiếng nói của các ngôn sứ, Thiên Chúa đòi hỏi dân bất trung của Ngài phải đáp trả tình yêu phụ quân của Ngài. Đấy là một luận cứ còn mạnh hơn cả ý niệm phụ tính phổ quát của Ngài nữa.
Vả lại, đó cũng là lý do mà thánh Gioan đã ám chỉ để thúc đẩy chúng ta mến yêu Thiên Chúa: “Tình yêu Thiên Chúa hệ tại ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu mến chúng ta... chúng ta hãy mến yêu, vì Ngài đã yêu chúng ta trước" (1Ga 4,10. 19). Chính tình yêu này, mà Thiên Chúa biểu lộ "trong chúng ta" (4,7.12.1-7), phải làm cho chúng ta yêu mến Thiên Chúa lại. Chính tình yêu này, mà Thiên Chúa đã thi thố đối với thế gian (Ga 3,16) đối với chúng ta "khi chúng ta còn là những tội nhân" (Rm 5,8), đã được Ngài "đổ xuống lòng ta nhờ Thánh Thần Ngài đã ban cho ta" (Rm 5,5). Đây là vật cầm thế quý nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với những kẻ thuộc về Ngài và là của hồi môn vô giá mà "Hôn phu” thần linh ban tặng cho hôn thê: còn hơn là lý do sau cùng, đây chính là năng lực sinh động con người chúng ta để yêu mến Thiên Chúa và làm cho chúng ta nhận ra Ngài là "Cha" chúng ta (Rm 8, 15). Hôsê cũng như Giêrêmia đã nói cách thích thú hơn: "Hôn phu” chúng ta. Ngoài ra, quan niệm này còn được thánh Gioan theo khi nói về sự cư ngụ của thần tính trong tâm hồn yêu mến Thiên Chúa(Ga 14,23) và về bữa ăn tối mà Chúa Ki-tô chia sẻ với kẻ mở cửa cho Người (Kh 3,20) Thực ra, chính Thánh Thần hoàn tất lời hứa của ngôn sứ: "Ta sẽ đính hôn với ngươi mãi mãi, Ta sẽ đính hôn ngươi trong công chính và lẽ phải trong âu yếm và tình yêu” (Hs 2,21).
Nội dung của “lòng mến yếu” Thiên Chúa và tha nhân phải được hiểu theo các quan điểm ấy, những quan niệm tự chúng đã là rất hùng hồn rồi. Tình yêu không ăn nhập gì với sợ hãi, kính trọng, phụng sự, luật pháp cũng như với một sự bó buộc hay một sự trịnh thượng nào. "Qua hạn từ tình yêu, Cựu Ước thật ra muốn chỉ một tâm tình bộc phát, thúc đẩy hiến thân...Tình yêu là một sức mạnh không thể cắt nghĩa của tâm hồn và ở bên trong con người" (G. Quell, trong TWNT I,21). Đnl và nhiều sách khác của Thánh Kinh đã minh giải điều đó khi bảo rằng mến yêu Thiên Chúa rốt cục là "khăng khít" với Thiên Chúa (Đnl 10,20; 11,22; 13,5; Gs 22,5; 23,8; 2V 5,18). Tác giả thánh vịnh thường diễn tả lòng ao ước nồng nàn của ông là được kết hợp với Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể thỏa mãn ông (Tv 63,2-9; 73,25...). "Sự khăng khít" của con người với Thiên Chúa được biểu thị bởi cùng một danh từ và cùng một ý niệm như sự khăng khít con tim của hôn phu đối với hôn thê (St 2,24; 34,4; Lv 11,2...). Yêu mến Thiên Chúa, chính là kết hợp với Ngài, thắt chặt mối dây tình cảm đến nỗi chỉ còn làm "một" với Ngài mà thôi (x. Ga 17,21tt).
Bản văn Đnl 6,4 dùng đích danh "Giavê" thay vì tước hiệu loại danh "Chúa" (Mc 12,29 trích chữ "Chúa" theo bản 70): "Giavê là Thiên Chúa chúng ta, Giavê là độc nhất. Ngươi phải yêu mến Giavê Thiên Chúa ngươi hết lòng ngươi”. Đọc câu đây, người ta có cảm tưởng "độc nhất tính" của Giavê là lý do đòi buộc mến yêu Ngài.
Người ta không tìm đâu được trong Kinh Thánh một lời tuyên xưng độc thần như ở đây. Công thức duy nhất tương tự trong Dcr 14,9 chỉ nói về tương lai xa và không phải là một xác ngôn luật pháp. Trên phương diện ngữ vượng, có hai trường hợp cấu tạo giông giống: nơi Ed 33,24, "một mình trơ trọi" đối nghịch với nhiều; trái lại nơi Dc 6,9, tiếng độc nhất" không loại trừ các hữu thể khác cùng một bản tính, nhưng biểu thị sát tuyệt hảo so với các hữu thể này (x. 2Sm 7.23).
Từ những nhận xét trên, ta thấy công thức của Đnl 6.4, được Mc 12, 19 lấy lại, quả thực là một lại tuyên tín độc thần. Nhưng còn hơn một định thức triết học khô khan, nó tỏ ra là một khẳng định sinh tử, nhắm truyền cho các kẻ tin một động lực thiêng liêng chi phối cuộc đời của họ (x. C.Spicq, 'Agapè dans le N.T, I, Paris, 1958, tr.86t).
Do đó ở đây "độc nhất tính" của Giavê mang một sắc thái hết sức đặc biệt. Dĩ nhiên "Giavê là Thiên Chúa chúng ta”, nhưng Ngài không phải chỉ là vị Thiên Chúa của Israel, vị Thiên Chúa độc nhất loại trừ mọi thần khác. Càng không phải là vấn đề xác quyết chỉ có một Giavê, vì điều đó quá tự nhiên, nhưng đúng hơn là xác quyết rằng Giavê là "độc nhất", "đơn độc” trong thần tính giữa hết mọi thần mà người ta có thể tưởng tượng (x. 1Cr 8,5; Tv 82,1). Ngài là vị thần lớn nhất hoàn hảo nhất mà người ta có thể quan niệm: đâu có Thiên Chúa nào khác như Ngài, lạy Chúa, và không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ngài" (2Sm 7,22)
Điều này phải làm phát sinh trong con người cái tình yêu bộc phát thúc đẩy con người đi về Thiên Chúa, với lý do duy nhất là Ngài "độc nhất", hay nói cách khác, "Ngài là Đấng hằng hữu” (x. Xh 3,14).
2. Hãy yêu mến đồng loại "như chính mình ngươi"
Về việc yêu mến đồng loại, Chúa Giêsu cũng đã lấy lại một công thức hoàn hảo của Cựu ước: Tv 19,18.34 (x. M.pelfrène, "Tu aimoras ton prochain com me toi-même", trong Assemblées du Seigneur loạt 1,66, tr. 50-57). Tuy nhiên, từ đây không ai bị loại khỏi tình yêu phải thực thi như thế đối với đồng loại chúng ta (x. Mt 5,43).
Giới luật này bao gồm hết mọi giới răn mà Chúa Kitô đã liệt kê trong Mc 10,19. Nhưng công thức của 12,32 đã giản lược các lề luật đa phức ấy thành một luật duy nhất, nhờ tình yêu là cái đơn giản hóa tất cả. Ngoài ra, công thức cũng nhắm truyền tinh thần và sự sống vào cho một bộ xương luật pháp chỉ chú ý đến chất thể tính của giới luật được hoàn thành.
Phải nhấn mạnh đến ý tưởng "mến yêu” tha nhân, cái sức mạnh khiến chúng ta tậm tâm làm điều thiện cho tha nhân là cho tha nhân được thỏa mãn. Chính đó là tinh hoa của các yêu sách Chúa. Tình yêu là sức mạnh của tâm hồn, sức mạnh “khoan dung, nhân hậu, không ghen tương, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không nóng giận, nhưng hết lòng tha thứ, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy và hết lòng kiên nhẫn" (1Cr 13,4-7).
Vẫn biết Tân ước cũng đòi hỏi tình yêu phải được minh chứng qua những thực hiện cụ thể (Gc 2,15; 1Ga 3, 11). Nhưng Tân ước không chấp nhận rằng những thực hiện này là kết quả của một chủ nghĩa xã hội kinh tế thuần túy, hay là phương tiện thỏa mãn lòng kiêu ngạo riêng tư Ki-tô giáo mong muốn mọi hoạt động xã hội hay bác ái phải được thúc đẩy bởi sự hiện thân, hy sinh, từ bỏ và phải kèm theo những chú tâm tế nhị đối với những người túng thiếu. Như thế lòng tốt tự nhiên và kinh tế được đảm nhận trên bình diện cao hơn của đức ái đối thần.
Yêu đồng loại "như chính mình ngươi" không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì người làm cho người, nhưng đúng hơn là phải đối xử kẻ khác với cùng một "tình yêu như ngươi đối xử với ngươi”. Điều đó còn có ý nghĩa cao xa hơn nữa, như Thánh Kinh cho chúng ta thấy khi nói về hai người bạn: “Hồn của Gionathan khắn khít với hồn của Đa-vít và Gionathan đã bắt đầu yêu Đa-vít như chính mình ông (theo nguyên tự: như chính hồn ông: 1Sm 18,1). Tình yêu đích thực, vốn không khác chi tình yêu vợ chồng (x. St 2,23-24, 2Sm 1,26) biến đồng loại của tôi thành "một nửa của hồn tôi” (dimidium animao meo, Horace), hội nhập con người của kẻ ấy vào con người của tôi đến độ cả hai hữu thể chúng tôi chỉ còn là một đối tượng tình yêu duy nhất và một tâm hồn duy nhất (x. Cv 4,32).
Cũng thế, người Samari nhân lành đã không bị một mối ưu tư xã hội hay pháp lý thúc đẩy khi thấy kẻ xấu số, nhưng là “động lòng thương" (Lc 10,33) [Cũng động từ caplaknisthè đây (nguyên tự: bồi hồi ruột gan) chỉ thái độ của người cha đứa con hoang đàng; x. J. Dupont, L'enfant prodigue, trong Assemblées du Seigneur loạt 1,29, tr. 63, chú thích 2]. Trái lại, từ chối thực thi bác ái có nghĩa là "đóng lòng mình, (1Ga 3,17) với người anh em mà ta thấy đang cơn quẫn bách, thay vì động lòng trắc ẩn như lẽ tự nhiên nếu ta không bị tính ích kỷ chi phối ["Đóng lòng mình" là hình ảnh đối nghịch lại hình ảnh trước, và diễn tả qua tiếng splakna; x. J. Dupont, Comment aimel mes frères, trong Assemblées du Seigneur loạt 1,55, tr. 28-30]. “Bác ái" không đáng gọi là "bác ái" nếu không phát sinh từ cái tâm tình thâm sâu, nội tạng mà người ta gọi là tình yêu.
Cũng có mối nguy là tự mãn với nhũng công thức tao nhã, bặt thiệp: "Chúng ta đừng yêu bằng lời, bằng miệng lưỡi, nhưng bằng hành động thực sự" (1Ga 3,18). Đây là kết luận của một lối lý luận rất đơn sơ nhưng rất sắc bén của thánh Gio-an: "Nếu kẻ nào, có của đời này, thấy anh em nó lâm phải túng thiếu và đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong nó được?" (1Ga 3,17; Gc 2,14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải ra mà phụng sự kẻ khác.
Tuy nhiên, tình yêu mà Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta phải có đối với đồng loại, còn đi xa hơn nữa: "Nơi điều này chúng ta biết được tình yêu: là Đấng ấy (Chúa Kitô) đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng sống mình vì anh em" (1Ga 3,16). Đối với chúng ta, đó là một bổn phận, một bắt buộc, một món nợ mắc với Chúa Kitô vì người anh em. Chính trong khung cảnh này mà giới răn mới của Chúa Giêsu nằm vào và được nổi bật: "Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau. Chính nơi điều này mà mỗi người sẽ nhận ra các ngươi là môn đồ Ta: ấy là các ngươi yêu mến lẫn nhau. (Ga 13,34tt). Chỗ khác, Chúa Giêsu còn thêm: "Không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu" (Ga 15,12tt). Tựu trung, tình yêu ấy làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô là Đấng "yêu mến các kẻ thuộc về Người cho đến cùng" (Ga 13, 1).
Bây giờ phải giải quyết vấn đề viên ký lục Biệt phái khơi lên, vấn đề mà Luca có ghi lại sau câu Chúa Giêsu tuyên phán về tình yêu Thiên Chúa và đồng loại (bản văn song song với Mc): "Ai là đồng loại (cận nhân) của tôi? (Lc 10,29). Dụ ngôn người Samari nhân hậu giải đáp câu hỏi đó (10,30-37) (x. F.Dreyfus,"Qui est mon prochain?" trong Assemblées du Seigneur loạt 1,66, tr. 32-49). Sau câu chuyện, Chúa Giêsu hỏi viên ký lục: "Theo ý ông, ai trong ba người ấy: Tư tế, Lêvít, Samari, đã tỏ ra là đồng loại (cận nhân) của kẻ bị rơi vào tay bọn cướp kia?”. Ông thư: “Người đã xử nhân nghĩa với kẻ ấy”. Chỉ qua sự kiện đấy chẳng phải là người đồng hương Do thái, nhưng là người ngoại quốc, chúng ta đã rút ra được một bài học đầu tiên: tình yêu Kitô giáo đạp đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt lên trên mọi óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi thành kiến hay những hiềm khích tổ truyền.
Nhưng điều quan trọng nhất chính là Chúa Giêsu đã xê dịch trung tâm mà từ đó phải lượng giá "sự kề cận" của kẻ khác. Đối với người Do thái, trung tâm là "cái tôi", và những kẻ khác kề cận ít nhiều hay xa cách cái tôi đó, ở bên trong phạm vi Do thái thôi. Chúa Kitô đặt trung tâm trong "người khác" mà chúng ta phải "đến gần", làm cho mình trở nên "kề cận", dù họ ở cách xa trung tâm chúng ta hay ở ngoài vòng chúng ta. Chẳng hạn như người Samari, mà theo não trạng Do thái không thể coi kẻ bất hạnh như đồng loại (cận nhân) với mình, đã trở nên đồng loại (cận nhân) (gegonénai: c.36) vì đã biết đến gần kẻ bất hạnh đó. Thật vậy, sự cận kề của kẻ khác mà Chúa Ki-tô đã tiên liệu để đòi hỏi tình yêu của tôi, không xuất phát từ lợi ích "của tôi" hay từ sự thích hợp với tôi, nhưng từ nhu cầu của kẻ ấy: cái đáng kể là kẻ ấy cần sự trợ giúp, dù tương quan giữa kẻ ấy với tôi thế nào đi nữa. Xét theo phương diện nhân loại, hai người Do thái kia “kề cận” với kẻ bị thương hơn người Samari. Nhưng nếu tôi yêu anh em tôi, tôi không cần bận tâm tìm hiểu xem những kẻ khác có bổn phận giúp đỡ người ấy hơn tôi không; tôi chỉ nhìn đến chính nhu cầu hiện tại của người ấy và điều tôi có thể làm để cứu giúp.
Hãy nêu lên một điểm chót trong bài học bác ái mà người Samari cho chúng ta. Ông thinh lặng làm mọi việc, không phô trương, cũng chẳng chỉ trích lòng ích kỷ của kẻ khác. Tự nhiên, với lương tri, ông chu toàn những sự săn sóc mà hoàn cảnh hiện tại đòi hỏi và dự liệu tương lai cấp thời (cc.34-3.5). Tình yêu đích thực tránh mọi khoe khoang và luôn bình dị, kín đáo.
Tóm lại, khi tôi hỏi "ai là đồng loại của tôi", Chúa Giê-su trả lời: "Cả anh nữa, hãy đi và làm như vậy!" (c.37) để sửa sai chút ít các phạm trù của tôi, vì câu trả lời đó có nghĩa rằng: "Anh hãy trở nên đồng loại (cận nhân) với hết mọi ai mà anh thấy đang có nhu cầu, cần giúp đỡ".
Giáo lý về tình huynh đệ dựa trên nhiều căn bản rất rộng rãi trong Mặc khải Thánh Kinh. Ngôn sứ Malakia đã biện minh tình yêu "đồng loại" trong cộng đoàn Israel bằng luận cứ đẹp đẽ này: "Tất cả chúng ta há chẳng phải có một Cha duy nhất sao?”Không phải một Thiên Chúa duy nhất đã tạo thành chúng ta sao?" (2, 10). Thánh Phao-lô, khi khích lệ các Ki-tô hữu hãy sống trong bình an và "yêu mến" lẫn nhau, đã cho họ thấy tình yêu này dựa trên sự kiện là "chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và là Cha mọi người" (Ep 4,3-6). Đây là cái mặc một chiều kích mới mẻ cho độc nhất tính của Thiên Chúa, tính cách đã được đặt nổi nơi cc.29 và 32 của đoạn văn chúng ta. Ngay từ nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã làm cha hết mọi dân tộc, và một tình huynh đệ phổ quát đã quy tụ họ chung quanh vị Cha chung đó. Thánh Gioan đề ra cho chúng ta một giáo thuyết sâu sắc hơn. Tại sao chúng ta yêu? "Bởi vì tình yêu là Thiên Chúa và ai yêu thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa" (1Ga 4,7). Khi yêu, chúng ta chứng minh rằng sự tái sinh làm con cái Thiên Chúa của chúng ta là thật và chúng ta cảm nghiệm được ai là Cha chúng ta. Trái lại, "ai không yêu thì đã không nhận biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu (4,8). Chúng ta phải yêu "bởi vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước" (4,10.19). Thánh Gioan thích minh chứng làm sao tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân liên kết chặt chẽ với nhau: "Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em, đó là một kẻ nói dối: vì kẻ không yêu anh em nó thấy đó, thì không thể yêu Thiên Chúa, Đấng nó không trông thấy. Vâng, đó là giới răn mà chúng ta đã lãnh nhận nơi Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng hãy yêu mến anh em" (4,20tt). Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như từ nguồn của nó: Chính nhờ tình yêu phong phú này mà Thiên Chúa sinh chúng ta trong tư cách làm "con". Tình yêu được thông ban cho Chúa Kitô và nhờ Người mà đến với nhân loại. Nhân loại phải thông truyền tình yêu đó cho nhau, làm sao cho gia đình Thiên Chúa rộng lớn mãi. Cuối cùng, tình yêu ấy phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích tối hậu của nó, và như vậy phải phát sinh sự "hợp nhất" toàn hảo mà Chúa Ki-tô đã ao ước thực hiện giữa Thiên Chúa, chính ngài và các kẻ tin (Ga 17,21tt).
KẾT LUẬN
Có hai giới luật tình yêu và hai đối tượng khác nhau của tình yêu ấy: Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng thực tế, đó luôn luôn là vấn đề yêu. Yêu là sinh hoạt duy nhất đòi buộc con người: ở nơi con người chỉ có một tình yêu duy nhất, phát sinh từ cùng một khả năng. Sự tóm gọn này xuất hiện rõ rệt nơi thánh Gioan, người chuyên môn nói về "yêu” mà không luôn luôn phân biệt đâu là yêu Thiên Chúa và đâu là yêu đồng loại.
Viên ký lục đi tìm kiếm giới răn thứ nhất, và "Thầy tốt lành" (Mc 10,17) đã chỉ cho ông một giới răn duy nhất: "yêu”. Ông đã hiểu được rằng thế là Thầy đã đặt nền tảng cho một tôn giáo mới "vượt quá các toàn thiêu và lễ tế thay thảy” (c 33; x. Ga 4,20-23). Về phía Chúa Giêsu, người nhận thấy kẻ đối thoại "không xa Vương Quốc Thiên Chúa" (c.34). Tuy nhiên ông ta vẫn chưa vào, vì hiểu giáo thuyết là một chuyện. Đem ra thực hành giáo thuyết lại là một chuyện khác.
Manuel Miguéns, Assemblées du Seigneul: 62, tr 53-62
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng" đó là khiêm tốn mở lòng mình ra với Thiên Chúa, với ánh sáng, lời nói, lòng nhân của Ngài. Ánh sáng, tình yêu chính Ngài ban cho, vì Ngài là Đấng bất khả đạt. Chúng ta đạt tới đó vì Ngài yêu ta trước tiên, vì Chúa Giêsu Kitô đã cho ta đạt tới đó với Người. Lúc đầu, tình ta yêu Thiên Chúa là một sự thán phục đầy biết ơn, một tâm tình tin tưởng, phó thác, một sự gắn bó sâu xa. Yêu mến Thiên Chúa, không phải là cố gắng nói với Ngài rằng ta yêu Ngài, cũng chẳng phải là "làm được nhiều chuyện", nhưng trước hết là khiêm tốn đón nhận sự hiện diện của Ngài, liên kết với mầu nhiệm sự thánh thiện và tình yêu là chính Ngài. Một sự liên kết đầy tin tưởng, chăm chú, lắng nghe. Chúng ta phải học cách nhận ra Ngài và hết mực tôn kính sự hiện diện mầu nhiệm của Ngài trong cuộc đời ta, trong lịch sử. Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa không thể có nếu trong ta không có một ý thức đích thực về Ngài. Nếu không có một ý thức đích thực về Thiên Chúa, thì không phải Thiên Chúa mà chúng ta gắn bó, không phải Ngài mà chúng ta yêu. Nếu không phải Ngài mà chúng ta yêu, thì chúng ta đã yêu những thần giả, những ngẫu tượng. "Chúa là Chúa độc nhất".
2. "Yêu mến đồng loại Thiên Chúa là Đấng độc nhất. Nhưng để Ngài ở trong mình, chính là để cho Ngài biến đổi ta. Bởi vì vinh quang Thiên Chúa chính là con người sống, nên người tín hữu biết mở lòng mình ra với Thiên Chúa và cho Ngài cư ngụ, cũng sẽ dần dần chọn lấy các thái độ mà Ngài muốn ta theo; tôn trọng, niềm nở, ngay thẳng, tốt lành… đối với tất cả những người được Thiên Chúa yêu thương, được làm con Thiên Chúa. Chúng ta cần nhiều "gương mẫu”, nhiều chứng nhân đi trước chúng ta và đã sống kinh nghiệm thiêng liêng này. Chúng ta có thể sung sướng quay về Chúa Giê-su Ki-tô và muôn vàn vị thánh nam nữ đã để mình bị sinh động bởi tình yêu Thiên Chúa đối với họ và đã để mình bị hướng dẫn bởi tình yêu của họ đối với Thiên Chúa và tha nhân.
3. Thánh sử Mátcô nhấn mạnh tới hai thái độ xung khắc nhau: một thái độ bám víu, tựa nương vào môi trường, môi trường của những người trí thức Do thái và thái độ cởi mở cõi lòng của một người có bản lĩnh vững, một người trí thức có can đảm hành động không giống những người khác. Nhân đọc đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy nghĩ tới những người Kitô hữu trí thức đang phải chiến đấu cam go để làm chứng tá đức tin. Những Kitô hữu này sống trong một môi trường đang bị một số người phá thối nhân danh ít điều luật khoa học của họ. Điều luật của họ hẹp hòi, tạm bợ bao nhiêu thì đầu óc họ lại càng cố chấp bấy nhiêu. Trong một môi trường như thế mà phải tiếp tục yêu mến hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực là một chuyện thực sự có giá trị hơn mọi lễ vật hy sinh.
4. Chúa Giêsu đã rõ ràng tách biệt giới luật mến yêu Thiên Chúa và đồng loại ra khỏi toàn thể các quy định khác có tính cách vật chất hay lễ nghi. Làm thế, Người đã xác nhận rằng tôn giáo không hệ tại việc hợp lệ, sòng phẳng với Thiên Chúa bằng việc tuân giữ cách hình thức một số quy tắc. Nếu thực thi các điều luật quy tắc là một bằng chứng tất yếu của một tình yêu thực sự, thì nó vẫn không làm nên tình yêu đó nhưng giả thiết đã có tình yêu đó.
Mục đích của lề luật và các giới răn của Chúa là gì? Những người Pharisêu tự hào vì sự hiểu TN 31-B85
Mục đích của lề luật và các giới răn của Chúa là gì? Những người Pharisêu tự hào vì sự hiểu biết luật Môisen và những đòi buộc quan trọng của lề luật. Họ phải bỏ thời gian cả đời để học hỏi 616 khoản luật Torah – Những cuốn sách Cựu ước chứa đựng luật Môisen – cùng với vô số những lời giải thích lề luật của các bậc thầy. Những nhà cầm quyền tôn giáo đã thử Chúa Giêsu để xem Người có hiểu đúng lề luật như họ không. Chúa Giêsu đã khiến họ phải kinh hãi với sự tóm tắt sâu sắc và thành thạo luật Chúa và những mục đích của nó.
Tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa là lời đáp trả ơn sủng và lòng nhân hậu vô cùng của Người dành cho chúng ta
Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta điều gì? Đơn giản là yêu như Chúa yêu! Thiên Chúa là tình yêu và mọi việc Người làm phát xuất từ tình yêu đối với chúng ta. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, và tình yêu của chúng ta dành cho Người là sự đáp trả ơn sủng và lòng tốt bao la của Người dành cho chúng ta. Tình yêu của Chúa đi trước, và tình yêu tha nhân chắc chắn dựa trên tình yêu của Chúa. Chúng ta càng hiểu biết về tình yêu và chân lý của Chúa, chúng ta càng yêu những gì Người yêu, và loại bỏ những gì đáng ghét và trái ngược với thánh ý của Người.
Đức tin và đức cậy củng cố tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa
Điều gì làm cho tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và các điều răn của Người lớn lên trong chúng ta? Tin tưởng vào Chúa, và hy vọng vào những lời hứa của Người củng cố chúng ta trong tình yêu của Chúa. Chúng rất cần thiết cho mối quan hệ tốt đẹp với Chúa, cho mối thông hiệp với Người. Chúng ta càng hiểu biết Chúa bao nhiêu, chúng ta càng yêu mến Chúa bấy nhiêu. Và chúng ta càng yêu mến Chúa bao nhiêu, chúng ta càng tin tưởng và hy vọng vào những lời hứa của Người bấy nhiêu. Đức Giêsu, thông qua ơn huệ của Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta sự tự do mới để yêu như Người yêu. Bạn có cho phép bất cứ điều gì giữ bạn không yêu mến Thiên Chúa và vui vẻ phục vụ tha nhân với một trái tim quảng đại không? Thánh Phaolô tông đồ nói: niềm hy vọng không làm chúng ta thất vọng, bởi vì tình yêu của Chúa tuôn đổ vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban tặng cho chúng ta (Rm 5,5). Bạn có biết tình yêu chiến thắng tất cả không?
Lạy Thiên Chúa, chúng con yêu mến Chúa, và chúng con ước ao yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn. Xin ban ơn cho chúng con, để chúng con có thể yêu mến Chúa nhiều như chúng con ao ước, và nhiều như chúng con phải làm. Ôi người Bạn thân thiết nhất, Đấng rất đáng yêu mến và đã cứu chuộc chúng con, tư tưởng của Chúa quá ngọt ngào và luôn luôn gia tăng sự ngọt ngào hơn nữa, xin hãy đến cùng với Đức Kitô và ở lại trong linh hồn chúng con, để Ngài canh giữ môi miệng của chúng con, bước chân của chúng con, những việc làm của chúng con, và chúng con sẽ không phải lo lắng cho linh hồn hay thân xác của mình nữa. Xin ban cho chúng con tình yêu, sự ngọt ngào nhất của mọi ân huệ, không hề có thù địch nào. Xin ban cho lòng chúng con tình yêu tinh ròng, được sinh bởi tình yêu của Chúa dành cho chúng con, để chúng con có thể yêu thương người khác, như Chúa yêu thương chúng con. Ôi Cha đáng yêu mến của Đức Giêsu Kitô, từ nơi Cha tuôn đổ tất cả mọi tình yêu thương, xin cho tâm hồn chúng con, đang băng giá trong tội lỗi, đang khô khan với Cha và với tha nhân, được sưởi ấm bởi ngọn lửa thần linh này. Xin trợ giúp và chúc lành cho chúng con trong Con của Cha (Lời cầu nguyện của Anselm, 1033-1109).
Tác giả: Don Schwager (http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/) Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi TN 31-B86
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường.
Ðạo Do Thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?“. Chúa Giêsu, trích dẫn sách Đệ nhị luật, đáp: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và tâm trí của ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Chúa Giêsu nói thêm điều mà vị tiến sĩ Luật không hỏi: “Giới răn thứ hai giống như giới răn thứ nhất: ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Cả giới răn thứ hai này Chúa Giêsu không sáng chế ra, nhưng ngài lấy lại từ sách Lêvi. Sự mới mẻ của Ngài hệ tại đặt hai giới răn này chung với nhau – mến Chúa và yêu người – qua đó Ngài tỏ lộ rằng hai giới răn ấy không thể tách biệt, nhưng bổ túc cho nhau. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã bình giải rất hay về vấn đề này trong Thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu”.
Cũng đặt vấn nạn về điều răn lớn nhất, nhưng Tin Mừng Luca cho ta một câu hỏi lý thú và sâu sắc: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Lc 10,25). Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy điều răn quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất trong toàn bộ cuộc sống con người là điều răn yêu thương: yêu thương Thiên Chúa trước hết và trên hết, rồi đến yêu thương người lân cận như Chúa Giêsu đã yêu thương ta. Yêu mến Chúa nên yêu thương người lân cận, và yêu thương người lân cận chứng tỏ ta có lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu thương Chúa và tha nhân ấy làm ta trở nên giống Chúa, được chia sẻ phẩm chất của Ngài, nghĩa là có sự sống đời đời như Ngài.
Chúa Giêsu đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Ngài đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người“.
1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.
Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái. Cho nên người tín hữu yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.
Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.
Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.
Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.
Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.
Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.
Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.
2. Yêu tha nhân như chính mình.
Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1Ga 2,9).
Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.
Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
3. Việc làm của Đức tin là Đức ái.
Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).
Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.
Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng: “Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì ? Đức tin ấy có thể cứu họ được không? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói: “Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì ? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói: “Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi” (Gc 2,14-18).
Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40): những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13; x. Kh 21,1). (Porta Fidei, Số 14).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).
Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu, tình yêu là mực thước đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo ra khỏi việc phục vụ anh em, những người anh em cụ thể mà chúng ta gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt kinh nguyện, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong các bí tích, khỏi sự lắng nghe tha nhân, gần gũi cuộc sống của họ, nhất là những vết thương của họ.
Luật mới của Chúa Giêsu chính là mức độ hoàn hảo nhất của Mười Điều Răn. Đoạn cuối của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai nầy mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.”
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con: mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất, xin cho con biết sống và liên lỉ thực hành giới răn này trong đời sống thường ngày của con.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su lặp lại lời cầu nguyện của Israel: “Nghe đây, hỡi Israel: Đây là giới TN 31-B87
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su lặp lại lời cầu nguyện của Israel: “Nghe đây, hỡi Israel: Đây là giới luật trọng nhất: Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”. Và Chúa kết luận điều luật này tốt hơn mọi của lễ. Chúa muốn chúng ta yêu Chúa với trọn con người của mình và yêu tha nhân như chính mình. Điều này không dễ thực hiện. Nhưng đó lại là đòi hỏi tiên quyết của Thiên Chúa. Chúng ta biết trong Cựu ước đôi khi Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa hà khắc, ghen tương, chiến tranh và đáng sợ. Nhưng trong Tân Ước Chúa Giê-su đã mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa yêu thương, giầu lòng từ bi, nhẫn nại và hay thương xót…Thiên Chúa này đòi chúng ta phải nên giống Ngài trong tình yêu.
Dẫu thời Cựu Ước đôi khi Thiên Chúa được diễn tả cách hà khắc nhưng trong sách xuất hành đã cho chúng ta biết khi dân Do thái lang thang trong sa mạc thì Thiên Chúa luôn đồng hành với dân, chăm sóc, nuôi dưỡng, dẫn dắt Israel như người mẹ chăm sóc con thơ. Và ngôn sứ Hôsê và Jerêmia không do dự so sánh sự tương quan của Thiên Chúa và con người như mối tình điên rồ của hôn phu đối với hôn thê. Mối tình này được diễn tả qua những vần thơ trữ tình trong sách Diễm Ca. Như thế cả Cựu ước và Tân Ước đều cho chúng ta thấy mệnh lệnh tình yêu là quan trọng. Thánh Phaolo nói: “Dù làm được tất cả những việc lẫy lừng to tát nhưng thiếu đức ái cũng là vô ích”.
Tôi hiện diện trong một xứ đạo truyền thống kia có tiếng là đạo đức vì nhiều người tham gia ít nhất là ba, bốn hội đoàn và tham dự thánh lễ mỗi ngày với những giờ kinh nguyện sáng chiều rất sốt sáng. Điều đáng khen nữa là họ thực hành mệnh lệnh yêu thương của Chúa bằng cách nấu cơm từ thiện và chôn cất các thai nhi. Nhìn họ cầu nguyện mà tôi vui. Một xứ đạo không phải nhắc nhở con chiên đi lễ như các xứ truyền giáo, tưởng như thế là ngon rồi. Nhưng một ngày kia, các bà đạo đức đến nói với tôi: “Dì nói với Cha xứ không cho Ông A kia phục vụ Bàn Thánh. Chúng con không chấp nhận khi thấy ông đi đi lại lại gian cung thánh”. Tôi hỏi: “Tại sao vậy?” Các bà đồng loạt nói: “Ông có một quá khứ đen tối. Ông không xứng đáng đến gần Chúa”. Nghe các bà nói tôi tò mò tìm hiểu. Thì ra ông A trước đây đúng là một mày râu có đủ bốn điểm đáng trách: “tứ đổ tường” như ông cha ta thường nói: trai gái, hút sách, cờ bạc, rượu chè. Nhưng ngày nay thì khác hẳn, ông đã thay đổi. Ông phục vụ bàn thánh sáng chiều, đi sớm về khuya. Ngày có bao nhiêu lễ là ông hiện diện, không phải để che mắt thiên hạ nhưng là để phụng sự Chúa và phục vụ giáo xứ. Ngày nào ông vắng mặt là ngày ấy có vấn đề trong phòng áo cũng như ngoài bàn thánh. Một điều đáng khen hơn nữa là ông giúp đỡ người nghèo. Gia đình ông chỉ đủ ăn nhưng ông đã đưa những người điên cô đơn cô độc về nhà nuôi dưỡng. Tôi đã đến nhà ông và thăm một ông già điên được ông rước về nuôi. Vợ ông than phiền vì phải vất vả phục vụ những con người như thế. Những con người không tự làm gì cho mình, luôn luôn gây phiền hà nhức nhối về mọi mặt. Ông luôn động viên vợ giúp ông thực hiện giới răn yêu thương của Chúa.
Sau khi tìm hiểu, tôi biết ông, biết lòng thống hối chân thành của ông và biết ông là một người thánh thật. Tôi đã ca tụng ông với những người cho mình là giữ luật Chúa, không chấp nhận anh em mình.
Có thể tôi cũng rơi vào trường hợp này: tôi cho mình là đạo đức, sống yêu thương nhưng tôi kết án anh em mình. Tôi hãnh diện vì mình giữ luật, rao truyền Lời Chúa, đưa được nhiều anh em về với Chúa nhưng tôi lo cho bản thân mình hơn lo cho anh em.
Hôm nay Chúa nhắn nhủ tôi điều răn thứ nhất phải là tiền đề dẫn đến điều răn thứ hai. Yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn để rồi yêu anh em như chính mình.
Tôi rất thán phục những mẫu gương xả thân vì anh em. Có nhiều gương sáng đi qua cuộc đời tôi đã cật vấn tôi. Điển hình là cuộc đời mẹ Tê-rê-sa Calcutta: Mẹ đã dành 40 năm cuộc đời cùng với các con cái Mẹ chăm sóc cho người nghèo khổ, bệnh tật và khốn cùng nhất. Tấm gương biết nói đó đã thức tỉnh lương tâm và trái tim của cả thế giới. Tác giả Con Chiên Nhỏ đã viết về Mẹ: “Qua đời sống của Mẹ, người ta cảm nhận được hình ảnh của một Thiên Chúa hiền dịu, yêu thương, xót xa trước cảnh khốn cùng của con người giữa bầu khí tục hóa vô thần vốn dị ứng với niềm tin tôn giáo, với sự vô cảm càng ngày càng gia tăng khắp nơi, và khi cuộc sống con người rất bất an vì loay hoay với biết bao xâu xé bạo lực của con người trong thế kỉ XX. Cuộc đời, hành động và lời nói của Mẹ là một ánh sáng tỏa rạng giữa đêm đen hoảng loạn mà bao người đang phải đối diện, gợi hứng cho bao người tìm thấy lẽ sống và hạnh phúc khi tìm thấy niềm vui trong sẻ chia và phục vụ thay vì chỉ lo hưởng thụ và đau đáu sống riêng cho mình.”
Sống trong thế giới hưởng thụ chúng ta dễ dàng tách hai giới luật mến Chúa và yêu người, và hình như chúng ta thấy mến Chúa dễ hơn là yêu người. Mến Chúa chúng ta tìm được sự an toàn, chỗ dựa dẫm tinh thần trong lúc phong ba bão tố. Yêu người đòi chúng ta phải ra khỏi mình sống vị tha, quên mình hy sinh vì anh em.
Chúa ban cho chúng ta khả năng yêu thương khi Ngài dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, nhưng khổ thay chúng ta đã không dùng nó.
Một câu truyện phải làm chúng ta suy nghĩ: Một người ăn xin nọ đói khát lê bước gõ cửa từng nhà, anh đến nhưng họ đóng cửa và xua đuổi anh cách thậm tệ. Một ngày kia khi đi ăn xin dưới trời mưa dầm, anh bị trượt té và bị gãy chân. Thấy thế, người trong phố đưa anh đến nhà thương chữa trị. Nghe anh bị hoạn nạn người ta đến an ủi, mang thức ăn quần áo. Khi xuất viện họ cho anh quần áo và một số tiền nhỏ để dưỡng bệnh. Trước khi rời thành phố đó anh viết thư cho vợ: Em yêu dấu, hãy tạ ơn Chúa. Một phép lạ đã xảy ra: anh bị gẫy chân! Anh đã được người ta giúp đỡ. Nhưng tiếc thay người ta giúp một người bị ngã hơn là giúp một người khỏi ngã!
Nhiều khi trong cuộc sống chúng ta thương xót một người lâm cơn cùng khốn dễ hơn giúp một người tránh sự cùng khốn. Cha ông chúng ta vẫn thường nói: “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Vực một người sắp lâm nguy dễ hơn là chữa lâm nguy.
Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh mỗi người chúng ta: yêu Chúa và yêu tha nhân. Yêu là bản chất của con người nên khi yêu là chúng ta tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Khi yêu, tình yêu của Chúa luân chuyển trong chúng ta đưa chúng ta vào Gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Lúc đó chúng ta có thể thực hiện được điều Chúa đòi hỏi là yêu như Chúa yêu, yêu cả kẻ thù, trở thành anh em của mọi người không trừ ai.
Xin Chúa cho chúng ta thực thi được giới răn yêu thương như Chúa muốn!
Sợ Thiên Chúa nghĩa là gì? Chúng ta có thực sự sợ Thiên Chúa không? Vâng, chúng ta không bao giờ nên TN 31-B88
Sợ Thiên Chúa nghĩa là gì? Chúng ta có thực sự sợ Thiên Chúa không? Vâng, chúng ta không bao giờ nên giảm thiểu những lời này vì chúng xuất hiện hơn ba trăm lần trong Kinh thánh. Nhưng sợ Thiên Chúa không giống như việc sống trong nỗi sợ hãi Người. Đúng hơn là chúng ta có một sự tôn kính đúng đắn dành cho Người.
Như rất nhiều sự thật khác trong Kinh Thánh, kính sợ Chúa là một điều khác với loại sợ hãi trần gian mà chúng ta đều quen thuộc. Đó là một khuynh hướng tích cực, không phải là khuynh hướng tiêu cực. Đó là một cách để xây dựng đức tin của chúng ta và làm sâu sắc hơn mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, nó không làm chúng ta xa cách với Người.
Cốt lõi của niềm kính sợ Thiên Chúa giúp chúng ta nói không với những ham muốn tội lỗi của chúng ta. Nó có chức năng chủ yếu như một cách bảo vệ hơn là một phương tiện áp bức. Lòng kính sợ Thiên Chúa khiến chúng ta phải nói: “Tôi không muốn nói hay làm bất cứ điều gì sẽ khiến tôi bị tách rời khỏi Cha trên trời của tôi”.
Cha mẹ cũng làm thấm nhuần một “nỗi sợ hãi yêu thương” tương tự nơi con cái của họ. Họ dạy con cái của họ ở trong ranh giới nhất định của lời nói và hành vi để họ có thể lớn lên thành người lớn có trách nhiệm, biết tôn trọng. Về phần mình, trẻ em biết rằng hậu quả sẽ xảy ra nếu chúng vượt qua những ranh giới này. Và vì vậy một “nỗi sợ hãi yêu thương” nhất định đặt nền tảng cho sự khôn ngoan ở trẻ em. Cũng giống như cách Kinh Thánh nói với chúng ta rằng: “Kính sợ Đức Chúa” là sự khởi đầu của sự khôn ngoan (Cn 9,10).
Kính sợ Chúa là một công cụ giúp chúng ta an toàn khi chúng ta lớn lên và trưởng thành. Và giống như tất cả các công cụ học tập, nó chỉ hữu ích trong một thời gian. Cuối cùng, nỗi sợ hãi (thần thánh) đạo đức này phải nhường chỗ cho tình yêu, bởi vì “tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4,18). Tất nhiên, đây là một quá trình cả đời, nhưng thật đáng khích lệ khi biết rằng ngay cả nỗi sợ hãi thần thánh cũng có thể tiêu tan khi tình yêu phát triển.
Vì vậy, tất cả chúng ta hãy tận dụng những mệnh lệnh vĩ đại nhất của Thiên Chúa: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” và “yêu người đồng loại như như chính mình” (Đnl 6,5; Lv 19,18).
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp con sống một cách sống yêu thương hoàn hảo nhất”.
Theo the Word Among us Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương, OP
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXXI Thường Niên, Năm B
Bí tích Rửa Tội đã làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa, và cùng lúc cho chúng ta trở TN 31-B89
TMĐP- Bí tích Rửa Tội đã làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa, và cùng lúc cho chúng ta trở nên anh em với mọi người.
Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu không chỉ ban một lệnh truyền mang tính luân lý khi phán: Dạy bảo họ “tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền” nhưng còn ban chính mình như Bí Tích Tình Yêu khi dặn dò: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Và Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19.20).
Lệnh truyền Đức Giêsu ban là “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”, và “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,29.30).
Thánh Gioan quảng diễn giới luật yêu thương này trong thư của Ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa”, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”. Vậy “ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 20.21).
Nhưng nếu dừng lại ở phạm trù giới luật, thì Tình Yêu sẽ chỉ là đòi hỏi của luân lý, và thuần túy là nghĩa vụ của con người tự nhiên, như chúng ta thường nói: “làm người thì phải ăn ngay ở lành”. Và vì là đòi hỏi nền tảng của con người tự nhiên, nên các tôn giáo đều có chung đòi hỏi tín đồ, giáo hữu phải sống giới luật “làm người ngay lành, lương thiện”. Đây là lý do đã dẫn đến kết luận : đạo nào cũng như đạo nào, vì tất cả đều dậy ăn ngay ở lành.
Đức Giêsu đã truyền dạy giới luật tình yêu, nhưng giới luật Ngài ban không bắt nguồn từ bản tính con người, nhưng từ Ngài; không lớn lên nhờ có gắng sống tốt của con người, nhưng nhờ sức sống của chính Ngài. Và để thực hiện điều này, nghiã là “nâng tầm” giới luật lên hàng bí tích, nâng đòi hỏi luân lý lên hàng siêu nhiên, nâng việc làm tự nhiên lên hàng thánh thiêng, Đức Giêsu đã sai các môn đệ “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19).
Làm phép rửa cho muôn dân là làm cho muôn dân đi vào đời sống bí tích, nghĩa là làm cho mọi người đi vào hiệp thông, hiệp nhất với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, như Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân – Lumen Gentium của Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định về yếu tính của Giáo Hội: “Giáo Hội ở trong Đức Kitô như bí tích hoặc dấu chí và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể” (LG 1) – Bản dịch Việt ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X).
Tại sao Phép Rửa như bí tích của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và với nhân loại?
Thưa, vì Bí Tích Rửa Tội ban cho chúng ta ơn trở nên con Thiên Chúa. Được rửa tội trong Đức Giêsu, tức là “được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu”. Và được dìm vào nước thanh tẩy chính là “được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đuợc sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6, 3-4). Đời sống mới ấy là đời sống làm con Thiên Chúa, nên khi chịu phép rửa, Chúa Cha cũng nói với mỗi người chúng ta như đã nói với Đức Giêsu, khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).
Bí tích Rửa Tội như thế đã làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa, mà đã là con thì yêu mến, hiếu thảo với Cha không còn là bổn phận nhưng là niềm hạnh phúc, nỗi khát khao.
Bí tích Rửa Tội không chỉ làm cho chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, nhưng cùng lúc cho chúng ta trở nên anh em với mọi người. Đây là điểm chúng ta dễ lãng quên, vì không mấy quan tâm, trong khi lại là điều Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh và nhắc nhở trong Tin Mừng. Do đó, tình yêu dành cho Thiên Chúa sẽ chỉ có giá trị và ý nghĩa nếu chúng ta cũng yêu thương anh chị em mình, như hạnh phúc chúng ta khao khát tìm kiếm, mà không như một lề luật nặng nề, trói buộc.
Như kinh sư trong Tin Mừng hôm nay đã được Đức Giêsu khuyến khích: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12,34), xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để yêu mến Chúa và yêu mến mọi người, mà hành động yêu mến cao quý, đẹp lòng Chúa hơn cả chính là “dâng lễ tế hy sinh, trước là đền tội của mình”, để tỏ lòng yêu mến Chúa, và “sau là để đền thay cho người khác” (Dt 7,27), để thực hiện ước muốn yêu thương, phục vụ tha nhân như Chúa dạy.
Khi nói đến giới răn hay huấn lệnh là nói đến sự bó buộc. Quả vậy, một huấn lệnh thường mang nội TN 31-B90
Khi nói đến giới răn hay huấn lệnh là nói đến sự bó buộc. Quả vậy, một huấn lệnh thường mang nội dung yêu cầu phải làm hoặc cấm làm một điều gì đó. Như thế, phải chăng kính mến Chúa là một điều buộc? Nếu coi việc kính mến Chúa là một điều buộc, thì chẳng còn phải là một tình yêu tự nguyện, mà khi không xuất phát từ tự nguyện, thì chẳng còn phải là tình yêu, hay có chăng thì đó chỉ là tình yêu gượng ép.
Bài đọc thứ nhất (sách Đệ nhị Luật) và bài Tin Mừng theo thánh Máccô hôm nay nói với chúng ta về các huấn lệnh. Trong số các huấn lệnh của Thiên Chúa thời Cựu ước, ông Môisen đã nhấn mạnh tới một lệnh truyền căn bản: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái, cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài”. Những lời trên đây thực ra không phải là một điều áp đặt. Đây là những lời đề nghị hay một lời mời gọi, kèm theo lời hứa cho một tương lai tốt lành. Người tin Chúa không bị ép buộc, nhưng khôn ngoan suy nghĩ để lựa chọn và quyết định: nếu yêu mến Chúa và tôn kính Ngài, thì họ sẽ được Chúa chúc lành cho trong mọi ngày của đời sống dương thế, được trường thọ và hạnh phúc. Tác giả Thánh vịnh 17 (Phần Đáp ca) cũng diễn tả lý do yêu mến Chúa, là vì Ngài là sơn động cho ta trú ẩn. Ngài là đá tảng, là chiến luỹ và là vị cứu tinh đối với những ai cậy trông phó thác nơi Ngài.
“Hỡi Israen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy, anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em”. Qua những lời này, ông Môisen muốn khẳng định với những người Do Thái: những mệnh lệnh Chúa truyền dạy không thể chỉ được lắng nghe, nhưng phải được thực hành. Một số người Do Thái đạo đức quá chú trọng đến tuân giữ Lề luật một cách tỉ mỉ, mà lại lãng quên việc thực thi tinh thần của Lề luật. Vì vậy, Chúa đã khiển trách họ: “Dân này chỉ tôn kính Ta bằng môi bằng mép, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6). Thực hành lời Chúa dạy là bảo đảm cho chúng ta được hạnh phúc đời này và đời sau. Lời hứa miền đất tràn trề sữa và mật, trong truyền thống Do Thái, là niềm hy vọng nuôi dưỡng niềm tin của dân riêng Chúa đã chọn. Đối với người Kitô hữu, đó chính là hạnh phúc đời đời Thiên Chúa ban cho những ai thực thi lòng mến Chúa yêu người.
Thực ra mến Chúa yêu người không phải là hai giới răn tách biệt, nhưng là một giới răn duy nhất, như hai mặt của một tấm huy chương. Lòng mến Chúa phải được chứng minh bằng việc yêu người. Tình mến mọi người phải được dựa trên nền tảng lòng mến Chúa, vì đó là lòng mến vô vị lợi, không dựa trên những tiêu chuẩn trần gian, không phân biệt và không biên giới. Thánh Gioan đã khẳng định với chúng ta: ai nói mến Chúa mà không thực hành đức thương yêu với tha nhân thì là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người nhìn thấy mà họ không thương yêu, thì làm sao họ mến Đấng mà họ không nhìn thấy? (x. 1 Ga 4,20).
Người tín hữu có một mẫu gương về lòng mến hoàn hảo, đó là Đức Giêsu Kitô. Người là vị tư tế thánh thiện, vô tội tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Trên cây thập giá Đức Giêsu đã minh chứng tình mến đối với Chúa Cha và tình mến đối với nhân loại. Tác giả thư gửi tín hữu Hípri đã chứng minh Chúa Giêsu là vị tư tế tối cao. Ngày hôm nay, vị Tư tế đó vẫn đang chuyển cầu cho chúng ta (Bài đọc II).
“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”. Đây là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức phải tụng mỗi ngày, để rồi lời ấy vang lên trong mọi giây phút của cuộc sống. Lời ấy cũng là động lực chi phối mọi lời nói, hành vi và ý tưởng của những ai muốn tuân giữ lề luật. Đây cũng là câu Lời Chúa được chọn để đọc trong giờ Kinh Phụng vụ vào tối thứ Bảy hằng tuần. Xin cho lời kinh ấy luôn vang vọng trong tâm trí và cuộc đời chúng ta, để khởi đi từ lòng mến Chúa, chúng ta sẽ thực thi đức yêu người.
Hôm nay là ngày vọng lễ Các Thánh. Các thánh là những người mến Chúa yêu người. Các ngài đã trải qua nhiều gian nan thử thách, nhưng vẫn một lòng tín trung. Có nhiều vị thà hy sinh mạng sống còn hơn là bỏ Đạo. Có nhiều vị chấp nhận một cuộc sống trầm lặng trong suy tư cầu nguyện. Có nhiều vị thánh đã trải qua một cuộc sống rất đơn sơ bình dị, như một người cha, một người mẹ trong gia đình, một công dân của xã hội, một người phong lưu hoặc một người nghèo khó. Tất cả các thánh đều có một điểm chung: đó là lòng mến Chúa yêu người. Thánh Phaolô đã khẳng định: Ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật (Rm 13,8b). Nên thánh chính là thực thi giới răn mến Chúa yêu người.
Lạy Chúa là nguồn mạch sự thánh thiện, xin che chở nâng đỡ chúng con trong hành trình cuộc đời, cũng là hành trình nên thánh. Amen.
Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu không chỉ ban một lệnh truyền mang tính luân lý TN 31-B91
Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu không chỉ ban một lệnh truyền mang tính luân lý khi phán: Dạy bảo họ “tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền” nhưng còn ban chính mình như Bí Tích Tình Yêu khi dặn dò: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Và Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19.20).
Lệnh truyền Đức Giêsu ban là “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”, và “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,29.30).
Thánh Gioan quảng diễn giới luật yêu thương này trong thư của Ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa”, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”. Vậy “ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 20.21).
Nhưng nếu dừng lại ở phạm trù giới luật, thì Tình Yêu sẽ chỉ là đòi hỏi của luân lý, và thuần túy là nghĩa vụ của con người tự nhiên, như chúng ta thường nói: “làm người thì phải ăn ngay ở lành”. Và vì là đòi hỏi nền tảng của con người tự nhiên, nên các tôn giáo đều có chung đòi hỏi tín đồ, giáo hữu phải sống giới luật “làm người ngay lành, lương thiện”. Đây là lý do đã dẫn đến kết luận : đạo nào cũng như đạo nào, vì tất cả đều dậy ăn ngay ở lành.
Đức Giêsu đã truyền dạy giới luật tình yêu, nhưng giới luật Ngài ban không bắt nguồn từ bản tính con người, nhưng từ Ngài; không lớn lên nhờ có gắng sống tốt của con người, nhưng nhờ sức sống của chính Ngài. Và để thực hiện điều này, nghiã là “nâng tầm” giới luật lên hàng bí tích, nâng đòi hỏi luân lý lên hàng siêu nhiên, nâng việc làm tự nhiên lên hàng thánh thiêng, Đức Giêsu đã sai các môn đệ “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19).
Làm phép rửa cho muôn dân là làm cho muôn dân đi vào đời sống bí tích, nghĩa là làm cho mọi người đi vào hiệp thông, hiệp nhất với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, như Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân – Lumen Gentium của Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định về yếu tính của Giáo Hội: “Giáo Hội ở trong Đức Kitô như bí tích hoặc dấu chí và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể” (LG 1) – Bản dịch Việt ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X).
Tại sao Phép Rửa như bí tích của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và với nhân loại?
Thưa, vì Bí Tích Rửa Tội ban cho chúng ta ơn trở nên con Thiên Chúa. Được rửa tội trong Đức Giêsu, tức là “được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu”. Và được dìm vào nước thanh tẩy chính là “được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đuợc sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6, 3-4). Đời sống mới ấy là đời sống làm con Thiên Chúa, nên khi chịu phép rửa, Chúa Cha cũng nói với mỗi người chúng ta như đã nói với Đức Giêsu, khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).
Bí tích Rửa Tội như thế đã làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa, mà đã là con thì yêu mến, hiếu thảo với Cha không còn là bổn phận nhưng là niềm hạnh phúc, nỗi khát khao.
Bí tích Rửa Tội không chỉ làm cho chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, nhưng cùng lúc cho chúng ta trở nên anh em với mọi người. Đây là điểm chúng ta dễ lãng quên, vì không mấy quan tâm, trong khi lại là điều Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh và nhắc nhở trong Tin Mừng. Do đó, tình yêu dành cho Thiên Chúa sẽ chỉ có giá trị và ý nghĩa nếu chúng ta cũng yêu thương anh chị em mình, như hạnh phúc chúng ta khao khát tìm kiếm, mà không như một lề luật nặng nề, trói buộc.
Như kinh sư trong Tin Mừng hôm nay đã được Đức Giêsu khuyến khích: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12,34), xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để yêu mến Chúa và yêu mến mọi người, mà hành động yêu mến cao quý, đẹp lòng Chúa hơn cả chính là “dâng lễ tế hy sinh, trước là đền tội của mình”, để tỏ lòng yêu mến Chúa, và “sau là để đền thay cho người khác” (Dt 7,27), để thực hiện ước muốn yêu thương, phục vụ tha nhân như Chúa dạy.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Trước tiên là yêu mến Thiên Chúa hết lòng TN 31-B92
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Trước tiên là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực, vì Ngài là căn cội và cùng đích của đời sống con người. Tình yêu không thể nài ép mà là nhận ra và đáp trả. Chính sự đáp trả này làm cho con người là người, là con cái của Thiên Chúa và là anh em với nhau. Vì vậy, điều răn đứng đầu gắn liền với điều răn thứ hai:“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Chính trong Chúa, ta nhận ra phẩm giá đích thực của một con người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí. Chỉ trong Chúa, ta mới yêu thương đến cùng, vì nhận ra mỗi người là hình ảnh của Ðức Kitô đang sống.
Có một người kia sau khi ăn chay 70 tuần, thì xin Chúa cho mình hiểu ý nghĩa vài câu trong Kinh Thánh, nhưng Chúa không trả lời. Cuối cùng, người đó phải tìm đến với người anh em để xin giải thích. Khi người đó lên đường, Chúa gửi một thiên thần xuống nhắn nhủ rằng:“Bảy mươi tuần ăn chay của con cũng không làm cho con đến gần Chúa. Nhưng bây giờ con có lòng khiêm tốn đến với người anh em, nên ta được Chúa gởi đến để nói cho con ý nghĩa các lời thánh”.
Nhân danh lòng tin vào Chúa mà không mở lòng mình ra với tha nhân, phải chăng là một thứ kiêu ngạo thiêng liêng? Đó không phải là tin vào Chúa mà là tin vào sự thánh thiện của mình. Tiếng nói của Chúa trong ta không phải là tiếng nói duy nhất của Ngài, mà Ngài còn nói với ta qua sự khôn ngoan và nhãn quan thiêng liêng của người khác. Ta cần mở lòng ra để đón nhận những tư duy mới, các khả năng mới như một cách thức của Lời Chúa. Khép kín với bất cứ một cái gì, hay bất cứ ai, là khép kín khả năng có thể tái sinh chính mình.
Luật thánh Bênêđictô dạy, khi có ai gõ cửa thì phải nói: “Benedicite”, có nghĩa sâu xa rằng: cảm tạ Chúa vì có người đến làm phong phú lương tri của con, chỉ dẫn con cách suy nghĩ, cách sống, và làm cho con vượt ra khỏi thế giới chật hẹp của mình. Mỗi ngày ta cần mở lòng để đón tiếp một kinh nghiệm mới, một tư duy mới, một cái gì đó nơi người khác để khai sáng trí não mình.
Cũng có một giai thoại khác kể rằng, đêm nọ xuyên qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy thiên thần đang ngồi ghi tên những ai yêu mến Chúa vào cuốn sách vàng. Ông hỏi thử xem có tên mình không. Thiên thần giở ra nhưng không thấy. Ông nài nỉ thiên thần: “Xin Ngài ghi tên tôi là người lúc nào cũng yêu mến tha nhân”. Thiên thần cũng chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng. Tối hôm sau, giữa ánh trăng sáng, thiên thần lại hiện ra và mở cuốn sổ vàng cho vị tu sĩ xem. Lần này, ông thấy tên của mình dẫn đầu trong danh sách những người yêu mến Chúa. Sau khi vị tu sĩ già qua đời, các anh em trong tu viện xem lại nhật ký của ông, thấy câu đầu tiên là câu trích dẫn từ thư 1Ga 4, 20: “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”. Tiếp theo, ông ghi chú như sau: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi đã gặp Chúa và linh hồn tôi”.
Ta không thể gặp gỡ và yêu mến Thiên Chúa trong tâm tưởng hay trong ước muốn, mà là nơi chính tha nhân, nơi những hành động cụ thể trong những tương quan hằng ngày. Thiên Chúa và tha nhân hòa hợp làm một trong cõi lòng ta. Ta yêu tha nhân trong Chúa, và yêu Chúa nơi tha nhân. Cầu nguyện là đặt mình trong Chúa để có thể yêu tha nhân như chính mình. Tình yêu với Thiên Chúa đưa ta vào cuộc sống với anh em. Tình yêu thương anh em đòi ta chìm sâu trong Thiên Chúa, để kín múc nguồn sinh lực hầu tiếp tục hiến trao. Cuối cùng tình yêu ấy lại quay trở về với Thiên Chúa như cùng đích tối hậu của nó, và như vậy phát sinh sự “hợp nhất” toàn hảo, mà Đức Kitô đã ao ước thực hiện giữa Thiên Chúa với chính Ngài và các kẻ tin (Ga 17, 21). Đẹp biết bao vương quốc của Thiên Chúa, nơi chỉ có tình yêu chiếu rạng ngời, dành cho tất cả những ai đã một đời phấn đấu để hiến dâng.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Yêu Chúa lúc bình thường thì không khó, nhưng yêu khi đời sóng gió thì không dễ, nhất là khi gặp khốn khó ê chề, khi sa cơ thất thế trở về tay không.
Nhưng con vẫn cứ cậy trông và hy vọng, vì tin Chúa hằng khơi sâu mở rộng, bằng ân ban và sự sống của Ngài.
Yêu mến Chúa xem ra là điều dễ, vì dù sao Ngài cũng vẫn là tình yêu, yêu tha nhân như chính mình mới khó, nhất là khi bị phủ nhận khinh chê, khi bị xử bất công, loại trừ và thay thế, đó là những lúc con đau buồn vô kể, nỗi thù hằn như khống chế tim con.
Nhưng khi bình tâm suy nghĩ lại, con thấy những tổn thương cũng rất cần, để con có kinh nghiệm sống tình thân, vì nhiều lần con cũng xử vô nhân.
Tình yêu luôn mang tính hỗ tương, cả trong đau thương và hạnh phúc, nên yêu thương mà không chịu đau thương, thì cuộc đời con quả là ảo tưởng.
Chúa đã sống tất cả mọi tình trường, muốn cho con nhìn ngắm để noi gương, trong an vui khiêm nhường mà tiến bước, vì đời con là nhân chứng của tình thương.
Xin cho con sống con người mới, bằng tình yêu mà Chúa đã gọi mời, để bừng lên ánh sáng ở mọi nơi, là tình yêu hợp nhất đến muôn đời. Amen.
Để vào được Nước Thiên Chúa, chúng ta cần phải làm gì? Hôm nay, Thầy Giêsu dạy chúng ta TN 31-B93
Để vào được Nước Thiên Chúa, chúng ta cần phải làm gì? Hôm nay, Thầy Giêsu dạy chúng ta cần phải sống hai điều cốt yếu, đó là sống hai điều răn đứng đầu: Mến Chúa và yêu người. Khi có một người kinh sư lên tiếng hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12, 29), Người đã dõng dạc tuyên bố: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12,30-31). Người kinh sư đã tấm tắc khen điều Thầy dạy thật hay và chí lý. Người bảo ông ta: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34).
Trên một chuyến xe, một nhà thơ hỏi các anh chị em đi cùng: “Theo các bạn, để tốt nghiệp trường của Thầy Giêsu, chúng ta cần đạt mấy điểm? Mỗi người trả lời theo cách hiểu của mình. Bấy giờ, nhà thơ trả lời: “Chúng ta chỉ cần đạt hai điểm thôi, đó là mến Chúa và yêu người”. Cả xe bỗng rơi vào thinh lặng trước câu trả lời của nhà thơ. Có lẽ ai cũng đang trở về lòng mình, lắng nghe tiếng vọng của trái tim.
Từ tấm bé, ta đã được học kinh Mười Điều Răn, và Mười Điều Răn ấy tóm về hai điều này là mến Chúa và yêu người. Ta đọc lời kinh đọc trên môi miệng hằng ngày, tâm trí hiểu điều Chúa dạy nhưng nhìn thật sâu vào lòng, ta nhận ra mình chưa yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; chưa yêu người thân cận như chính mình. Sống lời Chúa là một thách đố, bởi Lời Chúa luôn đặt ta trong những chọn lựa: chọn chấp nhận bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa hay chọn chiều theo ý muốn của bản thân; nghĩa là chọn đi trên con đường hẹp dẫn đến sự sống hay chọn đi trên con đường thênh thang, đường đưa tới chỗ diệt vong. Mỗi lần chọn bước đi trên đường hẹp, ta thấy mình được lớn lên trong tình yêu, trái tim của ta được triển nở và mở rộng hơn để đến với người khác. Mỗi lần ta vượt qua được một chướng ngại, bỏ đi được một rào cản trong suy nghĩ, thay đổi cách hành xử với người khác, ta đã biết dùng tình yêu thương để đến với họ. Thế nhưng, cũng không ít lần, ta không yêu người khác như Chúa mời gọi, bởi vì ta chưa để Chúa làm chủ đời sống và con người mình. Thánh nữ Têrêsa Giêsu đã từng nói rằng, ta không thể chắc chắn việc mình yêu Chúa nhưng ta có thể biết chắc mình có yêu anh chị em hay không. Thánh Gioan Tông đồ cũng khẳng định rằng, ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu thương người anh chị em bên cạnh mình, đó là kẻ nói dối. Hiểu lời Chúa dạy là một hồng ân Chúa ban, ta hãy xin ơn biết sống lời Chúa dạy trong từng ngày. Bởi, việc sống lời kinh ấy cần phải được diễn tả từ trong suy nghĩ đến hành động. Nếu ta luôn để cho lời của Chúa vang lên trong lòng, ta sẽ nuôi dưỡng ước muốn sống lời của Chúa. Khi ta suy nghĩ tích cực về người khác, ta sẽ dễ yêu thương họ hơn. Khi tâm trí ta luôn quy hướng về Chúa, ta sẽ sống trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Người sẽ ban ơn trợ lực giúp ta có đủ sức mạnh để sống yêu thương.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, ta được đón Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào lòng, ta mang Chúa đến với những người khác, ta trở nên một món quà tuyệt vời cho người khác, vì món quà ấy là chính Chúa Giêsu đang sống trong ta. Hãy nhìn lại nhé, lần đầu được rước lễ, ta đã làm gì? Ta đã rất hạnh phúc và bằng sự đơn sơ, ta trở về nhà với ý nghĩ tôi đang mang theo Chúa Giêsu trong lòng. Gặp ai ta cũng thấy họ thật dễ thương, ta cố gắng sống thật hiếu thảo, thật dễ thương với tất cả mọi người. Nhìn ai, ta cũng thấy nụ cười của Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đang ở cùng ta. Người làm cho ánh mắt ta nên trong sáng hơn, để ta sống với mọi người bằng cả trái tim. Thời gian dần trôi, tâm trí ta đã dành chỗ cho nhiều điều khác ngoài Chúa: học vấn, của cải, danh vọng, … Cái tôi của ta cũng được nuôi lớn tự bao giờ! Ta cũng đón rước Chúa nhưng dường như ta loay hoay bận tâm đến chính bản thân ta thật nhiều và quên mất Chúa đã ở trong ta. Đức Thánh cha Phanxicô đã từng nói trong một bài giảng của mình rằng: chúng ta đã đẩy Chúa vào một góc của trái tim. Thật đúng như thế, đã bao lần ta đã đẩy Chúa vào một góc của trái tim và chỉ sống điều mình muốn và rồi ta đau đớn. Cuộc sống của ta không phải để sống theo bản năng là làm điều mình muốn và muốn điều tốt nhất cho mình theo lẽ tự nhiên nhưng là dành điều tốt nhất cho Chúa, chỗ duy nhất cho Chúa: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Hãy quay lại con đường hẹp, trở về với Chúa để thấy mình cần Chúa biết bao. Sống Lời Chúa thật khó nếu như ta không đủ khiêm tốn bỏ mình để trở về bên Chúa, nhưng bằng sự khiêm tốn và với sức mạnh tình yêu của Chúa, mọi sự ta làm trong tình yêu lại trở nên thật đơn giản.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã yêu con và không ngừng dạy con biết sống mến Chúa và yêu người. Chúa đã chỉ cho con thấy tình trạng tội lỗi của mình. Chúa vẫn yêu con, dù con đã bao lần đẩy Chúa vào một góc của trái tim và quên lãng Chúa. Xin Chúa thứ tha và xót thương con, cùng khơi lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa và giúp con sống lời Chúa dạy. Amen.
Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Itraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa TN 31-B94
“Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Itraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31). Đó là câu trả lời của Đức Giêsu dành cho ông kinh sư cũng như cho mỗi người chúng ta. Hai điều răn ấy làm nên điều cốt lõi của đạo Chúa – đạo yêu thương.
Muôn vàn lề luật được đặt ra nhằm phục vụ lợi ích, hạnh phúc cho con người. Có những lề luật giúp con người hướng đến Thiên Chúa, cũng có những lề luật giúp con người hướng đến tha nhân, đến chính mình và đến tạo vật, môi trường. Trong muôn vàn lề luật ấy, có một thứ luật được gọi là cốt lõi, là tâm điểm, là điều quan trọng nhất: mến Chúa yêu người. Thật vậy, luật được đặt ra là để cho con người, nhắm đến con người. Trong điều răn mến Chúa, con người được mời gọi dành cho Thiên Chúa một chỗ đứng quan trọng nhất, cao cả nhất trong cuộc đời mình đến độ ta phải yêu mến Người hết lòng, hết cả linh hồn, trí khôn, và sức lực của ta. Thực ra, Thiên Chúa không cần đến lời ca tụng của chúng ta nhưng chính việc yêu mến, tôn thờ, ca tụng của ta mang lại ích lớn lao cho chúng ta như lời kinh tiền tụng trong Thánh lễ có nói.
Đức Giêsu không dừng lại ở chính mình nhưng Ngài còn mời gọi chúng ta hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Đây là điều răn không kém phần quan trọng. Có thể nói, điều răn này là cửa ngõ giúp chúng ta tiến vào tương quan với Thiên Chúa cách cụ thể và sâu sắc hơn. Như thánh Gioan Tông đồ đã từng khẳng định: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4, 20). Lại nữa, vì mỗi người là hình ảnh sống động của Thiên Chúa. Khi yêu mến tha nhân là ta đang yêu mến Thiên Chúa. Đức Giêsu mời gọi chúng ta “yêu người thân cận như chính mình”. “Như chính mình” nghĩ là yêu mình thế nào thì yêu tha nhân làm vậy. Nhưng có một bài toán tương đối khó đó là chúng ta phải biết yêu thương mình đúng cách để có thể yêu thương tha nhân đúng cách.
Để giải quyết bài toán “yêu tha nhân như chính mình”, chúng ta hãy hướng tình yêu của mình về Thiên Chúa. Nghĩa là ta yêu mến Thiên Chúa như Thiên Chúa dạy và nhất là yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương chúng ta. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34 ). Chỉ khi nào thực sự cảm nhận, đụng chạm đến tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, thấy Ngài yêu ta như thế nào thì ta mới có thể họa lại cách yêu của Chúa. Khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta học được cách để yêu thương chính mình và yêu thương tha nhân. Bởi đó, không thể nói yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu mến tha nhân. Mến Chúa yêu người luôn đi đôi, không tách rời. Đó là hai bàn chân của ta trong cuộc đời. Để bước đi trọn vẹn trên đường đời, ta cần cả hai chân, nhấc từng chân một, chân này làm điểm tựa cho chân kia. “Chân mến Chúa” và “chân yêu người” giúp ta nên con cái Chúa. Nếu muốn bước đi, chúng ta hãy sống hai giới răn trọng nhất này. Đó là điều cốt lõi của đạo Chúa – đạo yêu thương.
Người Do thái có 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 TN 31-B95
Người Do thái có 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kể các điều luật phụ nữa. Vị tiến sĩ luật này đã biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là tiến sĩ luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất ?”
1. Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bẫy của họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị tiến sĩ luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta có được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” (Mc 12). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “ Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.
2. Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22, 37-38).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật” (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng “yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta “ (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết, mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: “Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).
Đối tượng thứ hai là “kẻ khác” Chúa phán: “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22, 39).
Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi“, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? “Yêu như chính mình ngươi”.
Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình. Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
3. Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của sự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là kết quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.
Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” (1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính líu gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.
“Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Kinh Mười Điều Răn có câu kết: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến TN 31-B96
Kinh Mười Điều Răn có câu kết: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự; Sau lại yêu người như mình ta vậy.Amen“.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc trao đổi giữa nhóm tiến sĩ luật và Chúa Giêsu về hai điều răn trong Cựu Ước như sau:
Khi một người thông luật hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu trả lời: “Giới răn quan trọng nhất chính là: Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn ấy”. Ông kinh sư hoàn toàn đồng ý với Người và còn thêm lời bình: “Đó là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúa Giêsu được một lần sảng khoái vì gặp một ông kinh sư thân thiện với mình, Người khích lệ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”. Tại sao lại không còn xa? Bởi vì, Nước Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu đang ở trước mặt ông!
Chúa Giêsu kết hợp hai điều răn trong Cựu Ước (Đnl 6,4-5 và Lv 19,18) thành một điều răn duy nhất là Yêu Thương. Chúa Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa trong kinh Shema ở sách Đệ nhị luật với giới răn yêu thương người thân cận trong sách Lêvi.Cái độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giêsu chính là sự liên kết chặt chẽ hai giới luật này với nhau.
“Mến Chúa, yêu người” là nét độc đáo nhất của Kitô giáo. Hai giới luật tạo thành một toàn thể bất khả phân ly và là hai nguyên lý nền tảng của tất cả đạo đức học. Tin Mừng của Chúa Giêsu muốn loan truyền đến mọi người là tình yêu thương. Khi công bố giới luật yêu thương, Chúa Giêsu cũng nêu gương thực hiện giới luật ấy để chúng ta thấy sáng lên tình yêu cứu độ và gặp được những điểm nhấn mà bắt chước thực hành.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.
Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái. Cho nên người tín hữu yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.
Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.
Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.
Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.
Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.
Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.
Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.
Yêu tha nhân như chính mình.
Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1Ga 2,9).
Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.
Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Việc làm của Đức tin là Đức ái.
Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).
Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.
Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40) : những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1). (x.Porta Fidei, Số 14).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).
Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu, tình yêu là mực thước đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo ra khỏi việc phục vụ anh em, những người anh em cụ thể mà chúng ta gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt kinh nguyện, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong các bí tích, khỏi sự lắng nghe tha nhân, gần gũi cuộc sống của họ, nhất là những vết thương của họ.
Luật mới của Chúa Giêsu chính là mức độ hoàn hảo nhất của Mười Điều Răn. Đoạn cuối của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai nầy mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.”
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con: mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất, xin cho con biết sống và liên lỉ thực hành giới răn này trong đời sống thường ngày của con.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4) và là Đấng Cứu Độ duy nhất: “Chính Ta, chính Ta đây là Đức Chúa, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11) Muôn đời Ngài vẫn là Ngài. (Is 43:13) Vì thế, luật yêu thương của Ngài cũng bất biến và vĩnh tồn.
Sau khi bất tuân và phạm tội, gây xáo trộn, con người bị đuổi ra khỏi Địa Đàng, thế nên bắt đầu cần có luật để duy trì trật tự trần gian. Chưa hết, gia đình cũng rắc rối khi Cain giết chính em ruột của mình là Abel vì ghen thét. Do đó, luật càng cần thiết hơn, cần thiết ngay từ trong gia đình nhỏ bé.
Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, tu viện có tu luật. Có nhiều loại luật – cả đạo và đời, ngay trong một nhóm nhỏ, thậm chí chỉ hai người, cũng vẫn có những quy ước nhất định để tránh lạm dụng vì tùy tiện hoặc tùy hứng. Trong mọi mối quan hệ, muốn hợp tác lâu dài với nhau, người ta phải tôn trọng hợp đồng với nhau – dù đó là thỏa thuận bằng miệng hoặc hợp đồng bằng văn bản.
Xét theo luật học, luật pháp được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế. Thường thì luật pháp được thực thi thông qua hệ thống tòa án. Trong đó, quan tòa sẽ nghe tranh tụng từ các bên và áp dụng các quy định để đưa ra phán quyết công bằng và hợp lý. Cách thực thi luật pháp được coi là hệ thống pháp lý, thường phát triển trên cơ sở tập quán của mỗi quốc gia.
Luật có ở khắp nơi, mọi lĩnh vực, với nhiều mức độ: kinh tế, kinh doanh, chính trị, xã hội, môi trường, giao thông (đường thủy, đường bộ, đường hàng không) học tập, hôn nhân,… Nhưng tất cả các loại luật đều phải dựa trên Thiên Luật. Chỉ có Luật Chúa là Đệ Nhất Thánh Luật, là luật quan trọng nhất, dựa trên nền tảng yêu thương: mến Chúa và yêu người.
Thật ngán ngẩm với luật hội đường Do Thái ngày xưa. Có tới 613 điều khoản, bao gồm 365 điều CẤM làm và 248 điều PHẢI làm. Nếu chia đều một năm thì mỗi ngày có một khoản luật cấm. Điều cấm làm nhiều hơn điều phải làm, mà “cấm làm” với “phải làm” cũng đâu khác gì nhau. Mệt mỏi thật!
Ông Môsê nhận lệnh của Thiên Chúa và truyền cho dân chúng: “Đây là mệnh lệnh, là những thánh chỉ và quyết định mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền phải dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em sắp sang chiếm hữu. Như vậy anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em MỌI NGÀY TRONG SUỐT CUỘC ĐỜI, tuân giữ tất cả những CHỈ THỊ và MỆNH LỆNH của Người mà tôi truyền cho anh em và anh em sẽ được sống lâu.” (Ðnl 6:1-2) Chỉ thị và mệnh lệnh là điều phải tuân giữ, xã hội trần gian còn như vậy, huống chi huấn lệnh của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta phải ưu tiên số một, không sợ khi phải chọn lựa, chấp nhận bỏ luật đời.
Giữ Luật Chúa là điều tuyệt đối phải làm, không phải vì miễn cưỡng mà vì yêu mến, và có lợi cho chính chúng ta. Thánh Catarina Genoa (1447-1510) cho biết: “Thiên Chúa Toàn Năng tinh khiết đến nỗi nếu người ta ý thức được dấu vết của sự bất toàn và cũng hiểu rằng luyện ngục được ấn định để loại bỏ sự khiếm khuyết đó, thì linh hồn vào nơi thanh tẩy này vui mừng đón nhận Lòng Thương Xót cao cả của Thiên Chúa. Nỗi đau khổ tồi tệ nhất của các linh hồn nơi luyện ngục là đã phạm tội chống lại Sự Tốt Lành của Thiên Chúa và CHƯA HOÀN THIỆN ở đời này.” Tình trạng bất toàn vì “chưa hoàn thiện” là chưa giữ trọn Luật Chúa. Điều đó chứng tỏ rằng giữ trọn Luật Chúa là điều vô cùng cần thiết và thực sự hữu ích cho người giữ luật.
Chắc chắn rất khó giữ luật, khó thì khổ, nhưng khó mà giữ được mới đáng công. Thật vậy, Thiên Chúa không “đày đọa” ai, vì Ngài hứa ban những điều bất ngờ mà chúng ta không biết: “Hỡi Israel, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA DUY NHẤT. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em PHẢI ghi tạc vào lòng.” (Ðnl 6:3-6)
Chính lời hứa của Thiên Chúa nhắc nhở một điều quan trọng liên quan đức tin: Chỉ có MỘT Thiên Chúa duy nhất mà thôi. (Đnl 6:4; Mc 12:29) Ngoài Ngài, không có bất cứ một vị thần nào khác đáng để chúng ta tin kính và tôn thờ. Đó là điều chắc chắn.
Thiên Chúa duy nhất mà chúng ta tôn thờ chỉ là MỘT nhưng có BA NGÔI. Ngài là Đấng nhân hậu, vô thủy và vô chung, Ngài có nụ cười hiền hậu chứ không nhăn nhó khó chịu. Vì thế, Thánh Vịnh gia đã luôn tôn thờ và kính mến Ngài tuyệt đối: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” (Tv 18:2-3) Không thể kiềm chế niềm hạnh phúc đó, Thánh Vịnh gia đã xác nhận và muốn chia sẻ với mỗi chúng ta: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.” (Tv 18:4) Lời xác nhận này giúp củng cố đức tin của chúng ta, những kẻ hậu sinh hèn yếu.
Không thể im lặng, Thánh Vịnh gia tiếp tục tuyên xưng: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi. Lạy Chúa, Ngài giải thoát con khỏi thù địch cho thắng cả đối phương, cứu khỏi người tàn bạo. Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa. Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Người đã lập.” (Tv 18:47-51ab) Thiên Chúa là “đèn trời soi xét,” (Tv 4:2) Ngài “biết thừa mọi bí ẩn tâm can,” (Tv 44:22) và Ngài biết ai chân thật hay lọc lừa. Ngài thấu suốt mọi sự.
Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4:4b) Ước gì mỗi chúng ta đều có thể thanh thản thân thưa: “Lạy Chúa, xin dò xét và thử thách con, tâm can này, xin đem thử lửa.” (Tv 26:2) Đó là điều không dễ thực hiện, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát, cùng với tình mến chân thành. Luật Chúa là Lời Chúa, là Ý Chúa, là lương thực của các Kitô hữu.
Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm và lễ vật, Ngài cũng chẳng đòi lễ toàn thiêu và lễ xá tội. (Tv 40:7) Ngài muốn chúng ta tuân giữ luật Ngài truyền, nghĩa là vâng lời Ngài. Ngài mở tai chúng ta để chúng ta lắng nghe Ngài, và Ngài muốn chúng ta mau mắn thân thưa: “Này con xin đến!” (Tv 40:8) Ước gì chúng ta luôn chân thành nói với Ngài: “Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:9) Giữ Luật Chúa thì có lợi, không giữ thì thiệt thòi. Ngài không bắt ép, mà là sự công bằng.
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta dù chúng ta bất xứng, Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân kia mà, nghĩa là chúng ta còn dơ bẩn chứ đâu phải đã “tắm rửa” cho bớt hôi thối. (x. Rm 5:8) Đó là bằng chứng minh nhiên về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cho biết: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.” (Dt 7:23-25) Nếu chúng ta yêu ai đó mà không được đáp lại, thậm chí bị phản bội và bị gièm pha, chắc chắn chúng ta nói họ là dại dột, ngu xuẩn, si tình hoặc lụy tình. Thế mà Thiên Chúa là người yêu cuồng si những kẻ phản bội Ngài. Quả thật, chúng ta quá đáng, có trái tim bằng sắt nung chứ không chỉ là gỗ hoặc đá.
Bởi vì chúng ta bất xứng đến nỗi không thể tự đền tội, mà phải nhờ đến Vị Thượng Tế Thập Toàn là Đức Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để ĐỀN TỘI CỦA MÌNH, sau là để ĐỀN THAY CHO DÂN; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.” (Dt 7:26-28)
Điều răn đứng hàng đầu là điều răn quan trọng nhất, được nói tới trong trình thuật Mc 12:28b-34 (≈ Mt 23:34-40; Lc 10:25-28) và cũng đề cập “MỘT Thiên Chúa duy nhất” như Cựu Ước đã nói.
Thánh sử Máccô cho biết rằng có một kinh sư đã nghe nhóm Sađốc tranh luận với Đức Giêsu. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông kinh sư đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Ông kinh sư này ra vẻ thế thôi chứ không hề tâm phục khẩu phục. Kinh sư là ai? Đó là chuyên gia nghiên cứu, khai triển, dạy dỗ và áp dụng luật Cựu Ước. Nhưng khi áp dụng luật thì giá trị của lời dạy được coi trọng hơn chính văn bản luật. Vì thế mà họ hống hách và gây nhiều rắc rối, nhất là khi họ gặp Chúa Giêsu.
Họ hỏi không do lòng thành mà chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu mà thôi. Ngài không nói điều nào trọng nhất, mà Ngài điềm nhiên trả lời bằng một mệnh lệnh: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA DUY NHẤT. Ngươi PHẢI yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” Đó là luật hai-trong-một, một điều to và một điều lớn, điều nào cũng quan trọng. Thật kỳ diệu và độc đáo!
Sau khi nghe Đức Giêsu nói vậy, ông kinh sư thực sự tâm đắc, tâm phục và khẩu phục, và ông nói: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là ĐẤNG DUY NHẤT, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.”
Phục thiện là bắt đầu khôn ngoan. Biết mình sai là bắt đầu sáng mắt. Ngược lại, kẻ cố chấp sẽ mù vĩnh viễn. Còn hơn thế nữa, bởi vì “đứa ngu đần tuy sống mà tệ hơn là chết.” (Hc 22:11) Chúa Giêsu thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan nên Ngài nói: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Tất cả im lặng, không ai dám chất vấn Ngài hoặc nói ra nói vào lời nào nữa. Trứng không thể chọi với đá!
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan, thông minh, sáng suốt phân định vấn đề, và biết ưu tiên việc tuân giữ luật Ngài. Xin thanh tẩy và đổi mới chúng con theo đúng Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay dường như nhắc nhớ mỗi người chúng ta về TN 31-B98
Các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay dường như nhắc nhớ mỗi người chúng ta về đời sống phụng thờ Thiên Chúa của mình. Lòng yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa là cách diễn tả rõ nét nhất lòng tin của mỗi người chúng ta.
“Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”
Đoạn trích trong sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta nghe trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chứa đựng kho tàng quan trọng bậc nhất, mà bất cứ người tin theo đạo Do-thái nào, cũng không bao giờ được quên: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. (Đnl 6,4-5). Thật vậy, chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’ là nền tảng căn cốt nhất của đạo Do-thái. Lời nhắn nhủ này được gọi là Shema, là lời kinh mà tất cả những ai theo đạo Do-thái phải thuộc nằm lòng ngay từ thuở nhỏ. Họ thường lập lại lời kinh này nhiều lần trong ngày để nhắc nhớ bản thân về chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’, cũng như bổn phận phải yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.
Để trả lời cho một người trong nhóm kinh sư về câu hỏi ‘điều răn nào quan trọng nhất’, Chúa Giê-su cũng đã dùng chính lời Kinh Thánh trên để trả lời. Thế nên, lời nhắc nhớ về ‘Thiên Chúa duy nhất’ không chỉ dành cho người theo đạo Do-thái, nhưng còn dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Điều này làm cho chúng ta xác tín rằng, không phải ai khác, hay thần nào khác, nhưng chính Thiên Chúa duy nhất đã vì yêu thương mà đã tác sinh muôn vật muôn loài. Cũng chính Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta biết về kế hoạch cứu độ, hầu mang lại niềm hy vọng cho chúng ta được tham dự vào đời sống vĩnh cửu. Cũng chính vì lòng yêu thương quảng đại của vị Thiên Chúa duy nhất ấy, mà chúng ta vẫn được sống, được hoạt động, được hạnh phúc trong cuộc sống này.
Lời nhắc nhớ chúng ta về ‘Thiên Chúa duy nhất’ đồng thời khơi dậy trong tâm hồn chúng ta tâm tình yêu mến Người: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5). Cần biết rằng, Thiên Chúa là Đấng toàn hảo tự tại, nên lòng yêu mến của chúng ta sẽ chẳng khiến cho Thiên Chúa thêm hoàn hảo thêm chút nào. Đúng hơn, chúng ta tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa trước hết vì những điều thiện hảo mà Thiên Chúa vẫn hằng ban cho chúng ta. Chúng ta diễn tả lòng yêu mến Thiên Chúa với hết cả tâm hồn vì tình yêu vô điều kiện mà Người đã tặng ban cho mỗi người trong chúng ta. Thiên Chúa mong ước chúng ta yêu mến Thiên Chúa không phải vì bản thân Người, nhưng vì chính mỗi người chúng ta. Đúng hơn, chúng ta sẽ chỉ được sống và hạnh phúc khi chúng ta ở với Thiên Chúa mà thôi, vì duy chỉ có Người là nguồn sống duy nhất cho muôn vật muôn loài.
Trong Linh Thao, Thánh Inhaxio Loyola đã cụ thể hóa lời nhắn nhủ này trong ‘Nguyên Lý Và Nền Tảng’:“Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp họ đạt tới cùng đích Đấng Tạo Hóa đặt cho họ. Bởi thế người ta chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở….” (Linh Thao, số 23)
Nguyên lý và Nền Tảng trên đây giúp cho chúng ta thấy mục đích của đời sống con người là để “ngợi khen, tôn kính, và phụng sự Thiên Chúa”. Thế nên, việc sắp đặt trật tự trong đời sống chúng ta thật quan trọng biết bao: Thiên Chúa phải là trước hết và trên hết mọi loài thụ tạo. Khi chúng ta đảo lộn trật tự này, chẳng hạn khi đặt bản thân mình hay các thụ tạo khác lên hàng đầu, chúng ta đang đặt lòng tin của mình ở sai chỗ.
Trong cuộc sống hôm nay, có lẽ chúng ta ít đề cập đến các ngoại thần cho bằng những ‘vị thần’ do chính chúng ta tạo ra. Mỗi người trong chúng ta thử dành ra ít giây phút tĩnh lặng để xem Thiên Chúa đang có vị trí nào trong cuộc đời của mình. Thiên Chúa có phải là quan trọng nhất đối với tôi lúc này hay chăng? Nếu Thiên Chúa không còn ở vị trí số một trong tâm hồn tôi thì ‘vị thần’ nào đã được đặt vào vị trí ấy của Thiên Chúa?
Cần biết rằng, dù chúng ta đang chẳng ưu tiên vị trí quan trọng nhất cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương chúng ta cách vô điều kiện. Thiên Chúa vẫn mong ước chúng ta biết sắp đặt lại trật tự cuộc sống của mình, chẳng phải vì ích lợi gì cho Ngài, cho bằng vì phần rỗi của chính chúng ta. Đúng hơn, chỉ nơi Thiên Chúa duy nhất, chúng ta mới được hiện hữu và hạnh phúc viên mãn mà thôi.
Yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa
Kính thưa quý ông bà và anh chị em, niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất có thể được diễn tả bằng nhiều cách thế khác nhau, nhưng sống động nhất vẫn là trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Bài trích thư gửi tín hữu Híp-ri cho chúng ta biết về vai trò duy nhất của vị tư tế hằng hữu là Đức Kitô, trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Vị thượng tế hằng hữu có vai trò chuyển cầu cho chúng ta tới Thiên Chúa, vì tự bản thân mỗi người chúng ta chẳng thể trực tiếp đến với Người (Hr 7,25). Vì vậy, Đức Giêsu Kitô vẫn hằng hiện diện cách sống động trong mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Khi chúng ta nghe công bố Tin Mừng thì chúng ta thực sự đang lắng nghe Lời của Chúa Giêsu đang nói với chúng ta. Khi vị linh mục truyền phép thì bánh và rượu nhờ quyền năng của Chúa Thần, đã trở nên Mình và Máu thánh Đức Giêsu Kitô, trở nên thần lương nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Đức Giêsu cũng chính là người sai chúng ta ra đi loan báo Tin mừng khi buổi cử hành phụng vụ kết thúc.
Thế nên, việc tham dự vào đời sống phụng vụ của Giáo Hội, đòi hỏi chúng ta tham dự với lòng sốt sáng kính tin của mình. Qua đời sống phụng vụ, chúng ta đang diễn tả đức tin của mình nơi Thiên Chúa, cụ thể qua việc: xám hối lỗi lầm, ca tụng Thiên Chúa, tuyên xưng đức tin, lãnh nhận ơn lành… Thế nên, chúng ta không phải đến ‘xem thánh lễ’ cho xong bổn phận mà Giáo Hội đòi buộc. Đúng hơn, chúng ta được mời gọi để tham dự thánh lễ và cùng hiệp dâng của lễ là đời sống của mình, kết hiệp với của lễ duy nhất của Đức Giêsu xưa kia trên thập giá, mà dâng lên Thiên Chúa Cha (Hr 7,27).
Thực ra, khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta đồng thời cũng đã được lãnh nhận chức vụ tư tế phổ quát. Điều này có nghĩa, cuộc đời mỗi người chúng ta đã được thánh hiến để trở nên của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa. Thế nên, chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng của lễ sống động là đời sống của mỗi người. Qua vị tư tế hằng hữu là Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy mạnh dạn dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn của cuộc sống này. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương chúng ta vô điều kiện chắc chắn sẽ nhậm lời nguyện xin, cũng như đón nhận của lễ mà chúng ta dâng tiến lên Người. Ngoài việc yêu mến phụng thờ Thiên Chúa duy nhất, Chúa Giêsu đưa ra một điều răn khác không thể tách rời, đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31). Chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng việc chúng ta yêu mến và hiến dâng đời sống của mình cho Thiên Chúa và mở lòng đón nhận tha nhân.
Thế nên, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể được hiểu như một cử hành phụng vụ hay một thánh lễ kéo dài. Cuộc đời chúng ta vì vậy là một chuỗi những diễn tả lòng tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất. Lòng tin ấy được diễn tả cách cụ thể bằng cả đời sống của mình, như của lễ toàn thiêu, được hiệp với lễ hy sinh của Đức Giêsu mà dâng lên Thiên Chúa. Amen!
Mến Chúa và yêu người là một điệp khúc quá quen thuộc với Kitô hữu. Từ em bé đã qua tuổi TN 31-B99
Mến Chúa và yêu người là một điệp khúc quá quen thuộc với Kitô hữu. Từ em bé đã qua tuổi “xưng tội rước lễ lần đầu” đến các cụ già mà chưa lẩn trí thì đều nằm lòng câu kết trong kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời: “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy – Amen”. Là người con cái Chúa trong Giáo Hội Công Giáo, có thể khẳng định rằng, hiếm có ai tự nhận mình không yêu mến Thiên Chúa. Dù minh nhiên hay mặc nhiên, chúng ta đều xác nhận rằng mình phải yêu mến Thiên Chúa. Tuy nhiên mức độ của lòng yêu mến ấy đến đâu cũng như cái cách thức yêu mến ấy có đúng hay không thì cần phải xem xét.
Trước câu hỏi của vị luật sĩ về giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu đã lấy lại đoạn sách Đệ Nhị Luật đồng thời có thêm một chút để trả lời: “Nghe đây, hỡi Israel! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất! Người phải yêu mến Đức Chúa, Chúa các ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi…” (x.Mc 12,28-34; x.Đnl 6,2-6). Xin mạn bàn về yếu tố Chúa Giêsu thêm đó là “hết trí khôn”, cụm từ không có trong sách Đệ Nhị Luật.
Trí khôn là một trong hai cơ năng của linh hồn mà Thiên Chúa tặng ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài thụ tạo hữu hình. Đã là người thì ai cũng chân nhận rằng nhờ trí khôn mà con người trỗi vượt các loài vật bậc thấp. Chuyện tích về bác nông phu mưu trí đánh thắng con hỗ là một ví dụ. Cũng là làm việc nhưng nhờ trí khôn, con người ý thức mình làm việc gì với động cơ và mục đích gì. Chính vì thế cung cách làm việc của con người mỗi ngày mỗi mới, phát triển và hoàn thiện không ngừng. Trong khi đó loài vật vì thiếu khả năng này nên cách hoạt động của chúng hầu như không đổi thay mà nếu có thì cũng rất nhỏ và qua một thời gian rất dài chịu điều kiện hóa bởi các yếu tố của giới tự nhiên mà thôi.
Khi thêm vào yếu tố “trí khôn” chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ đề cập đến một nét cao quý của con người mà còn lưu ý đến cung cách “giữ đạo”, “sống đức tin” của dân Chúa xưa và chúng ta mọi thời, mọi nơi. Chúa Giêsu đã từng nhiều lần hữu ý vi phạm luật sạch nhơ và luật ngày hưu lễ của Do Thái giáo thời bấy giờ. Người cố tình làm như vậy, vì người ta đã giữ luật cách máy móc, vụ hình thức mà quên mất mục đích và ý nghĩa của luật. Chẳng hạn luật sạch nhơ có ra là để dân Chúa biết giữ gìn tâm hồn trong sáng và làm thanh sạch cõi lòng khỏi các vết nhơ của tội lỗi, khỏi những tham lam và đam mê bất chính. Do đó cách thế giữ luật phải chú trọng đến tâm hồn hơn là quá tỉ mỉ, chi li với những nghi thức bên ngoài như rửa chén bát, rửa chân tay… Muốn tâm hồn được thanh sạch là phải loại khỏi tâm trí những ý định bất chính, xấu xa và Người đan cử một số điều như: “Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21). Bên cạnh đó để làm cho tâm hồn mình trinh trong thì Người dạy phải sống đức ái qua việc liên đới chia sẻ với tha nhân: “Hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho các ngươi (Lc 11,41).
Với trí khôn thì khi thực hiện các hành vi đạo đức của tôn giáo, chúng ta phải biết rõ hành vi ấy là gì (What?) Vì sao phải thực hiện điều ấy là làm việc ấy để nhằm mục đích gì (Why?). Và rồi chúng ta sẽ biết làm việc ấy như thế nào (How?), ở đâu và trong hoàn cảnh nào (Where? When?). Khi một số biệt phái trách cứ rằng các môn đệ mình không ăn chay thì Chúa Giêsu nhân đó đã dạy họ phải sống đạo với cả trí khôn. Trước hết hãy ý thức ăn chay nghĩa là gì và vì sao ăn chay để rồi biết cách ăn chay đúng đẹp thánh ý Thiên Chúa. Ăn chay là một hình thức sám hối, thú nhận tội lỗi, nhất là tội nghiêm trọng.
Xưa vua quan dân thành Ninivê đã dùng sự ăn chay để bày tỏ sự ăn năn sám hối về tội lỗi tày trời họ đã phạm khiến Chúa đe phạt hủy diệt cả thành. Trong khi đó nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời Chúa Giêsu không chỉ lầm mà còn giảng dạy sai lạc. Họ lầm tường rằng ăn chay là một trong những cách thế thu tích công đức trước mặt thiên hạ và cả trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng kể câu chuyện có người biệt phái vào đền thờ ngửa mặt kể lễ công trạng ăn chay với cả Thiên Chúa. Để khẳng định điều này thì Người nói rõ: “Không lẽ thực khách hay các phù rể có thể ăn chay khi tân lang đang còn ở với họ. Khi nào tân lang bị đem đì thì bấy giờ họ mới ăn chay” (x.Lc 5,33-39). Khi đang còn ở với Thầy Giêsu thì cách nào đó các tông đồ đang còn ở trong ân sủng. Khi phạm trọng tội là lúc chúng ta xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình và lúc đó mới thực sự cần phải ăn chay.
Không dám hồ đồ nhưng có vẻ đến hôm nay còn không ít Kitô hữu từ giáo dân đến tu sĩ, giáo sĩ vẫn sống đạo một cách máy móc, nếu không muốn nói là thiếu ý thức đúng và đủ những gì mình thực hành. Vừa qua Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ra lệnh Kitô Hữu Công Giáo ăn chay một ngày (22/10) và mời gọi đoàn tính hữu sống mùa dịch bệnh trong tinh thần chay tịnh. Nếu không được hướng dẫn thì đoàn tín hữu dễ lầm tưởng rằng vì nhân loại tội lỗi nên bị dịch bệnh, khiến cho một số người hiểu lầm như nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu. Và cũng có thể có nhiều người nghĩ rằng ăn chay hãm mình hy sinh như lễ vật dâng lên Thiên Chúa hầu mong Người đoái thương khử trừ dịch bệnh. Thế mà đã gần hai năm nay biết bao lễ vật hy sinh trên khắp thế giới cùng với lời cầu nguyện dâng lên mà như chưa thấu đến Đấng Toàn Năng. Tình cảnh này có thể làm cớ cho nhiều người hoài nghi và than thở như cố nhạc sĩ họ Trịnh là “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người…”.
Chuyện chay tịnh, hãm mình, hy sinh thì ai ai cũng mến phục. Tuy nhiên việc sống khắc khổ, kiêng khem trong tình cảnh mà người dân, nhất là người nghèo, người đang thiếu thốn lương thực cần phải có đủ sức đề kháng để chống dịch thì xem ra cần được giải thích và hướng dẫn cho thấu tình đạt lý dưới ánh sáng đức tin. Truyền thống là tốt. Thế nhưng nhiều khi nó cũng có thể kìm giữ chúng ta trong lối mòn của thứ rượu cũ. Rượu mới phải đổ vào bầu da mới, nhưng người ta lại thích rượu cũ và giữ mãi cái bầu cũ hơn. Đức Phanxicô đã từng cảnh giác về kiểu biện bạch để khỏi canh tân, đổi mới đó là: “xưa đã là như vậy rồi”. Với cả trí khôn thì việc sống đức tin đòi hỏi chúng ta phải trưởng thành mỗi ngày. Chắc hẳn có đó nhiều cơ chế, luật lệ và hình thức sống đạo trong Giáo hội cần đổi thay khi đoàn con cái Chúa biết sử dụng trí năng để sống đức tin cách ý thức trong tình liên đới và tinh thần trách nhiệm.
Một Kinh Sư hỏi Đức Kitô, ‘Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào quan trọng hơn cả’ Mc 12,28. TN 31-B100
Một Kinh Sư hỏi Đức Kitô, ‘Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào quan trọng hơn cả’ Mc 12,28.
Ông ta hỏi Đức Kitô vì vấn đề này nhóm Kinh Sư từ lâu tranh luận với nhau, và không đồng nhất điều răn nào quan trọng hơn cả. Đức Kitô tóm gọn tất cả các điều răn dậy trong sách Dân Số 6:4-5 và sách Lêvi 19:18 trong một câu vắn gọn, đó là ‘Mến Chúa và yêu tha nhân’. Nhóm Kinh sư giải thích luật bằng cách theo sát từng câu, từng chữ; trong khi Đức Kitô chú trọng đến bản chất, tinh thần của luật lệ. Ngài nói với họ,
‘Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình’ Mc 12: 30-31
Quan hệ tình cảm con người dành cho nhau rất đơn giản và cũng rất phức tạp. Đơn giản, nhẹ nhàng khi tình cảm đầy tràn thân thiện. Phức tạp khi tình thân biến mất, cãi cọ, tranh biện, ăn thua đủ liên tục xảy ra. Trong trường hợp này, thay vì dùng tình cảm, cảm xúc của con tim, con người đối xử với nhau bằng lí trí, lí luận, tranh biện, hơn thiệt, phải trái. Đức Kitô dậy để giải quyết vấn đề cách nhẹ nhàng, cần đối xử với nhau như chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ai cũng có kinh nghiệm đuợc Thiên Chúa yêu thương, tha thứ. Hãy dùng kinh nghiệm trên để giải quyết mọi tranh chấp, bất hoà. Yêu Thiên Chúa, mến những gì Thiên Chúa tạo dựng là giữ trọn luật yêu thương. Yêu tha nhân như chính Thiên Chúa yêu chúng ta là điều luôn đúng trong mọi trường hợp. Đặt Thiên Chúa là trọng tâm trong đời; mọi lời nói, hành động phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa chính là làm Sáng Danh Chúa trong cuộc sống của ta.
Nhóm Kinh sư trước đây vẫn nghĩ sát tế lễ vật dâng Thiên Chúa là quan trọng hơn cả. Đức Kitô dậy dâng hiến toàn thể con người cho Thiên Chúa quan trọng hơn. Giáo huấn trên đưa cho anh cái nhìn mới. Anh rất thán phục điều Đức Kitô phán dậy. Đức Kitô nói với anh,
‘Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu’. Mc. 12: 35. Phúc Âm thuật lại, sau đó không còn ai dám hỏi Ngài nữa. Người ta không dám hỏi nữa có lẽ họ sợ biết sự thật về chính mình. Bởi càng hỏi, càng để lộ ra cái thiếu sót, thiếu hiểu biết về tình yêu Thiên Chúa. Như thế họ sẽ bị mất uy tín trong việc giảng dậy. Đức Kitô nói vị Kinh Sư đến gần Nước Thiên Chúa, nhưng chưa thuộc về Đức Kitô. Ông đến gần Ngài hơn hết trong số bạn cùng ngành.
Kinh Sư là nhóm kịch liệt chống đối Đức Kitô. Họ chất vấn Ngài ai cho phép Ngài trừ quỉ. Họ đặt vấn đề Ngài ngồi cùng bàn ăn với kẻ tội lỗi. Họ trách môn đệ ngài ăn mà không rửa tay. Họ kết án Ngài chữa bệnh trong ngày hưu lễ. Vì thái độ chống đối đó mà hầu hết học giả Kinh Thánh cho là vị Kinh Sư khâm phục ơn khôn ngoan nơi Đức Kitô nhưng không thành tâm yêu mến, tin theo Ngài. Giải thích như trên có nghĩ là vị Kinh Sư này cũng như những vị khác. Trong khi những vị khác đến chất vấn, gài bãy, tìm cách bắt bẻ. Thực tế cho thấy, vị Kinh Sư này hành xử rất khác. Ông đến hỏi Đức Kitô, vừa thán phục vừa ca tụng Ngài. Ông thành tâm trong việc đến gần Đức Kitô. Rất có thể đây là bước đầu, đặt nền tảng cho bước tiếp theo.
Có kiến thức về Kinh Thánh và tin Kinh Thánh là hai sự việc hoàn toàn khác biệt. Dùng Kinh Thánh để biện hộ cho hành động, lời nói, mong thắng thế khi bàn thảo, lí luận, không sinh ích gì cho đức tin. Rất có thể người đó không có niềm tin, dùng Kinh Thánh cho lợi ích cá nhân. Tìm hiểu để hiểu biết thêm về Kinh Thánh với mục đích tăng niềm tin, thực thi đúng điều Kinh Thánh hướng dẫn là điều quan trọng. Như thế mới đúng là sống đời sống đức tin.
Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu dâng hiến trọn vẹn, toàn thể con người cho Thiên Chúa, không phải chỉ một phần mà toàn phần: Khối óc, con tim, linh hồn, trí khôn và toàn thể sức lực. Như thế mới là dâng hiến trọn vẹn.
-----------------------------
[1][1] Đây là kiểu hành văn “đóng khung”: tất cả bản văn nằm giữa hai thành ngữ ấy phải được giải thích dưới ánh sáng của thành ngữ ấy.