Phúc Âm: Mc 12, 41-44 {hoặc 38-44}: “Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, {Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: “Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn”.} Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”: - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Đoạn Phúc Âm này là kết thúc một cuộc tranh luận dài giữa Chúa Giêsu và đám ký lục, biệt: TN 32-B51
Đoạn Phúc Âm này là kết thúc một cuộc tranh luận dài giữa Chúa Giêsu và đám ký lục, biệt phái. Với mục đích giáo huấn môn đệ Chúa tố giác điều khiến những đối thủ của Ngừơi ra như mù lòa, và Chúa lấy ví dụ một chuyện nhỏ để giảng cho môn đệ biết lòng thành thật về tôn giáo là gì.
1) Những quyền lực làm cho mù lòa trước Phúc Âm là gì? Là chuộng hư danh, tham lam và giả đạo đức. Ba tật xấu đó, xét theo tâm lý chúng cấu kết với nhau. Ở căn bản, có một nhu cầu muốn tự đề cao trong con mắt kẻ khác, hơn là nhớ đến vị trí của mình trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn rõ tâm khảm bản thể con người; loài người chỉ nhìn thấy dáng vẻ bề ngoài. Người ta không thể đánh lừa Thiên Chúa, mà chỉ có thể đánh lừa kẻ khác. Nếu lơ là không nghĩ đến tương quan giữa con người với Thiên Chúa, tất bị cám dỗ muốn tự suy tôn trước mặt tha nhân. Những ký lục và biệt phái ngả theo chước cám dỗ ấy và để được người đời trọng nể, họ làm ra vẻ đạo đức, thông thái hơn nữa.
Chúa tố giác rất mạnh việc đưa ra những hành vi đạo đức bề ngoài hòng thu nút sự nể vì của người đời. Tật xấu đó tuy mất dạng trong xã hội chúng ta, nhưng rễ nó vẫn sống dai. Ngày nay có một thái độ tân biệt phái cũng giả dối như thái độ biệt phái thời Phúc Âm. Thái độ giả hình lối mới này chủ trương tự cao bằng những kiểu cách khoa trương cho người khác thấy mình bắt kịp trào lưu, mình theo đúng thị hiếu, trong những lãnh vực liên quan đến học thuật tư tưởng tôn giáo, đến vấn đề thời trang và những dư luận hằng ngày. Đào sâu để cố hiểu thái độ ấy, thường chỉ bắt gặp sự rỗng tuếch, sự thiếu vắng một liên hệ sống động với Thiên Chúa, sự thiếu sót một độ lượng thiêng liêng đích thật. Như vậy người ta đứng trước những dáng vẻ chẳng che đậy một thực chất nào, chỉ thấy bộ mặt của sự giả nhân giả nghĩa.
2) Một ví dụ về lòng thành thật đạo đức sâu xa: đồng tiền bố thí của bà góa. Chúa lưu ý đến thái độ người giàu có bỏ vào quỹ đền thờ cái thăng dư của cải họ có, trong khi bà góa dâng tất cả số tiền cần thiết để sinh sống. Ta tự hỏi cái gì nấp sau sự khác biệt lớn giữa việc đem cho cái mình có và việc hiến dâng chính bản thân mình.
Đem cho cái mình có, là một điều tốt. Tuy vậy cũng cần nhớ rằng phải cho cách thanh khiết. Kẻ giàu nào ném một cách khoa trương hàng nắm tiền vào quỹ đền thờ, kẻ ấy muốn thu hút sự trầm trồ khen ngợi của công chúng. Đó là lối cư xử của kẻ giàu mà xấu. Cũng có những người giàu rộng tay làm phúc trong âm thầm lặng lẽ. Và nếu trong Phúc Âm không thấy những từ ngữ ‘kẻ giàu tốt’ cũng như ‘kẻ nghèo tốt’, Phúc Âm cũng thuật lại tấm gương của mấy người tư sản súc tích tới được rất gần Chúa nhờ một sự vận dụng rộng rãi thành tâm. Bằng cách nào? Họ không những chỉ phân phát của cải, lại còn hiến dâng một sự gì từ chính con người họ. Có thể ông Giuse quê xứ Arimathia ở trong số người này.
Tới đây, chúng ta nhìn rõ cái nền sâu ở dưới tấm lòng rộng rãi của bà góa phụ. Bà đem dâng tất cả số tiền cần thiết để sinh sống, nghĩa là bà ấy hoàn toàn trông cậy Thiên Chúa về miếng ăn manh áo hằng ngày. Bà phó thác mình trong tay Thiên Chúa bằng hành vi lột bỏ, thành tay không, đểt trở nên hoàn toàn khó nghèo trước Đấng Tối Cao, hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa. Tự hiến mình, bà đã dâng cúng nhiều hơn cả tài sản nào to lớn nhất.
Chúng ta hiến dâng Thiên Chúa sự gì? Lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Người sự gì? Phải chăng là những tư tưởng cao đẹp, những tình cảm cao đẹp, những ý nghĩ cao đẹp, để cầu nguyện xong là chúng ta vẫn giữ lại tâm hồn chúng ta? Chúng ta đem phân phát cái phần nào trong tài sản chúng ta? Phải chăng sự vận dụng của chúng ta để tiến đến gần Thiên Chúa là toàn hiến mình ta cho Người, cho dù chúng ta chẳng đáng giá hơn một đồng xu?
Chúng ta có thể xem trên tivi một trong những thí nghiệm, người ta đặt đầy những đồng xu trên: TN 32-B52
Chúng ta có thể xem trên tivi một trong những thí nghiệm, người ta đặt đầy những đồng xu trên lề đường đông người rồi nhìn xem có ai bỏ chút thời giờ cúi nhặt nó không. Thường thường là không có một người nào, bởi vì một xu ngày hôm nay chả có giá trị gì.
Hai đồng bạc nhỏ trị giá một xu, đó là tất cả những gì mà bà góa trong Phúc Âm ngày hôm nay có và đóng góp vào trong Đền Thờ. Vào thời hiện tại, người đàn bà này chắc thì không trẻ, một góa phụ mảnh khảnh và thấp, đi như chạy qua những vùng lân cận với đôi giày vận động viên Nike. Bà ta thì giống với một bà già, nhỏ bé trên đôi giày Nike của hãng K-mart, có lẽ giống như một người không nhà hoặc một người đàn bà xấu xí, một người đáng tức cười và không được kính trọng trong xã hội của chúng ta.
Chúa Giêsu không hề lơ là với người đàn bà nhỏ bé trong Phúc Âm này. Ngài đã xúc động bởi cử chỉ của bà góa này. Người đã nhận ra được món quà giá trị mặc dù giá trị của nó chẳng bao nhiêu, chúng được chọn để góp phần vào xây dựng Đền Thờ, chính điều đó đã làm cho Người chú ý đặc biệt tới bà góa này. Hai đồng bạc nhỏ của bà thật đáng giá, trong đôi mắt cảu Chúa Giêsu bởi vì nó đã giới thiệu một sự quảng đại lạ lùng. Nó là tất cả những gì mà người đàn bà có để sống.
Tôi hy vọng rằng người đàn bà quảng đại này nghe thấy những gì mà Chúa Giêsu đã nói về bà. Nhiều người ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không nói trực tiếp với bà và ngợi khen bà về sự tốt lành của bà. Có lẽ, Chúa Giêsu đã nhìn thấy lòng của bà và nhận biết rằng ân sủng của Thiên Chúa nơi đàn bà này đã thấu hiểu được ý nghĩa gương mẫu trong sách các Vua mà chúng ta đọc trong bài đọc thứ nhất chúa nhật hôm nay. Góa phụ ở Zarephath đã được Thiên Chúa chúc phúc vì sự quảng đại của bà trong việc nuôi nấng tiên tri Êlia, mặc dù có nạn đói xảy ra trong vùng, bà và con trai bà có thể ăn suốt một năm từ hũ bột và bình dầu mà bà đã chia sẻ cho vị tiên tri của Thiên Chúa.
Chúng ta thường được kêu gọi hãy trở nên quảng đại. Một Thánh Lễ Công giáo có vẻ giống như là bất toàn nếu không chú ý tới một khía cạnh đặc biệt, là chúng ta cần phải giúp đỡ những người đang có những nhu cầu khác nhau. Bởi vì một số nhà lãnh đạo đã muốn mở ra nhiều cuộc trợ cấp để thay đổi những số phận, cần cho chúng ta trở nên từ thiện ngay cả khi bị bắt buộc nữa. Mỗi thành phố đều có những người không nhà, người đói, thật không dễ để bỏ đi những sự lười biếng hoặc vô trách nhiệm, nhưng một người Công giáo nhìn họ như là Đức Kitô đang cần giúp đỡ. Mọi người Công giáo phải chống lại sự phá thai, và duy trì sự sống, nhưng chúng ta cũng phải ra tay trợ giúp phụ nữ lỡ thời, phụ nữ trẻ mang thai có đám cưới hoặc không có đám cưới, để cho họ can đảm cho những đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ có cơ hội để sinh ra.
Khi chúng ta quảng đại thì đó không phải là điều sai khi chúng ta nghe Chúa Giêsu nói với Cha Ngài về những điều tốt lành chúng ta làm, nhưng quan trọng hơn là chúng ta phải giữ cho đôi mắt của mình gắn chặt vào Chúa Giêsu. Gương mẫu của Chúa Giêsu là tuôn đổ tình yêu quảng đại dành cho chúng ta mà Ngài đã ban cho chúng ta ở trên thánh giá, Ngài đã vươn mình ra thu góp hết mọi người trong hố sâu tội lỗi để kéo chúng ta đến với Ngài. Không một người nào là không có ý nghĩa đối với Ngài, giống như là một đồng xu của không hề có giá trị của bà góa Ngài đã đánh giá cao. Tất cả chúng ta đều quý giá trong đôi mắt Ngài.
Khi chúng ta đến tham dự Thánh Lễ, chúng ta cảm nghiệm được Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Ngài đã nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Ngài. Bí tích Thánh Thể là một món quà lớn lao và vĩ đại hơn món quà được ban cho bà góa ở Zarephath như chính Chúa Giêsu thì lớn hơn Êlia.
Với món quà của bí tích Thánh Thể như là động cơ thúc đẩy và thêm sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta có thể bắt đầu thực hiện sự quảng đại của bà già nhỏ bé, người góa phụ đã cho tất cả những gì mình có để sống.
Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Đế Quốc Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất: TN 32-B53
Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Đế Quốc Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.
Một lần kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị Tổng Thống. Thế nhưng không hiểu làm thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình. Cậu bé kia thấy buồn thiu, vì em không có gì để dâng lên tặng Tổng Thống. Em cố gắng mò mãi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả trang trọng...
Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay tức khắc đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật. Một Thiên Chúa giàu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh phục vụ quên mình của chúng ta. Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy được cái nhìn trang trọng của Chúa đối với lòng thành của con người.
Tin Mừng hôm nay kể lại, lần kia, Đức Giêsu vào Đền Thờ và quan sát những người đang dâng cúng tiền của. Ai ai cũng bỏ tiền vào thùng tiền. Chợt có người đàn bà góa nọ chỉ bỏ có một đồng xu nhỏ. Thế mà Đức Giêsu đã tuyên bố: “Người đàn bà này đã dâng cúng nhiều hơn ai hết, bởi vì trong khi mọi người bố thí những gì dư thừa của mình, người đàn bà nghèo này dâng tất cả những gì bà có để sống qua ngày”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa luôn trân trọng và quí mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng cho Ngài. Những lễ vật càng đơn sơ nhỏ bé dưới mắt người đời thì lại càng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của những âm thầm đau khổ, của những hy sinh quên mình từng ngày, của những việc làm vô danh.
Một đứa bé vẫn có thể trao tặng cho người khác một quà tặng quí giá, quí giá không phải ở giá trị của món quà, mà ở giá trị của tấm lòng ngưỡng mộ, yêu mến. Nghĩa cử yêu thương, cảm thông thật có giá trị hơn tặng vật. “Cách cho quí hơn của cho”.
Trong một tháng cứu trợ đồng bào bị lũ lụt ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhân dân thành phố ta đã đóng góp hơn 6 tỷ đồng (?)... Có những em bé nhịn ăn quà, những cậu học sinh đập con heo đất đã dành dụm để chia sẻ những nỗi đau thương của đồng bào ruột thịt. Đó là những người đã đóng góp nhiều hơn hết, vì đó là những tấm lòng vàng hơn là những đồng tiền vàng.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa kêu gọi lòng yêu mến quảng đại của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa lại cao sang tuyệt đối. Ngài là chủ tể mọi loài mọi vật. Mọi sự chúng ta có đều bởi Chúa và thuộc về Chúa. Vì thế, chúng ta có gì đáng để dâng Chúa đâu! Chúng ta quá bé bỏng, nghèo nàn trước Thiên Chúa cao sang. Chúng ta có thể nghèo tiền của, thiếu thốn nhiều thứ, nhưng không ai trong chúng ta có thể sống mà không có trái tim với những khả năng yêu thương. Đó là cốt lõi, là cái làm cho chúng nên giá trị trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng sống trong cộng đồng nhân loại. Lễ dâng của chúng ta chỉ đáng Chúa chấp nhận khi nói lên lòng mến và là chính lòng mến của chúng ta.
Ở bài đọc 1, bà góa ở Sarepta cũng đã dâng cho Ngôn Sứ Êlia một chút còn sót lại trong hũ, là khẩu phần cuối cùng của bà và đứa con côi cút của bà. Đối với bà, trong lúc cả nước đói kém và nắng hạn, thì một chút bột này là cả một tài sản đắt giá có thể cứu được mạng sống của bà và con bà. Thế nhưng bà đã nhường lại khẩu phần cuối cùng của mẹ con bà cho Ngôn Sứ Êlia ăn trước. Và Chúa đã trả ơn bà bằng cách cho hũ bột và bình dầu ăn của bà không bao giờ vơi cạn cho đến khi trời hết hạn và mưa lại đổ xuống. Lòng quảng đại dâng hiến sẽ được Thiên Chúa đền bù gấp bội.
Ước gì mẫu gương những tấm lòng vàng và nhất là món quà lớn nhất mà Chúa Cha ban tặng cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Người Con Chí Ái của Ngài, giúp chúng ta được thêm can đảm và quảng đại theo gương Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu không ngừng dâng lên Thiên Chúa và trao tặng mọi người của lễ tình yêu cao đẹp nhất của chúng ta.
Có thể câu đầu của đoạn sách này cùng đi với đoạn này chứ không phải với đoạn trước như: TN 32-B54
Có thể câu đầu của đoạn sách này cùng đi với đoạn này chứ không phải với đoạn trước như bản Kinh Thánh của chúng ta. Cách phân chia câu trong Tân Ước chỉ bắt đầu vào thế kỷ thứ 16 do Stephanus. Người ta kể rằng ông ta đã làm công việc ấy trong khi cỡi ngựa đi từ nhà đến xưởng in của mình. Do đó, cách phân chia không phải luôn thích đáng và dường như đây là một trong nhiều phân đoạn cần phải điều chỉnh lại. Nói cách đúng hơn là dân chúng thích nghe Chúa Giêsu tố giác các Kinh sư hơn là thích nghe một đoạn lý luận thần học. Có nhiều người vẫn bị thu hút bởi những lời công kích.
Trong đoạn này, Chúa Giêsu nêu một loạt nhiều lời tố cáo các Kinh sư. Họ thích mặc áo dài để đi dạo. Bên phương Đông, mặc áo dài quét đất là dấu hiệu của một người khả kính. Và đây là loại áo mà kẻ mặc nó không thể tỏ ra hấp tấp, cũng không thể mặc để làm việc, nên đó là dấu hiệu của kẻ nhàn nhã, khả kính. Có thể câu này cũng có một nghĩa khác. Theo sách Dân số 15,38, người Do Thái mang thêm tua áo ở vạt áo ngoài của họ. Các tua áo ấy nhắc cho họ nhớ rằng họ là dân Chúa. Rất có thể các Kinh sư này mặc những tua áo quá khổ để chứng tỏ địa vị cao trọng đặc biệt của họ. Dầu sao, thì họ cũng thích ăn mặc như vậy để tự hào về vinh dự mà thiên hạ dành cho mình.
Họ thích được người ta chào mình giữa chợ cách kính trọng. Chính danh hiệu Rabbi có nghĩa là “Đại nhân của tôi”. Được chào như vậy thì lòng cao ngạo khoe khoang của họ được thỏa mãn.
Họ thích ngồi chỗ cao nhất trong hội đường. Trong hội đường có một chiếc ghế danh dự đặt trước cái rương nơi đựng các sách kinh, đối diện với dân chúng là chỗ ngồi dành cho những người đặc biệt ngồi. Lợi điểm của chỗ này là ai ngồi đây thì không bao giờ bị khuất cả, mọi người trong cộng đoàn đều nhìn thấy.
Họ thích ngồi chỗ cao trong các đám tiệc. Trong đám tiệc vị trí chỗ ngồi được sắp xếp kỹ lưỡng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải chủ nhà, chỗ thứ hai là bên trái và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra ngay thứ bậc của một người căn cứ vào chỗ ngồi sắp xếp cho họ trong một bữa tiệc.
Họ nuốt tài sản của các bà góa. Đây là một tố cáo nặng lời. Josephus vốn là một người Pharisêu, nói về một số lần âm mưu trong lịch sử dân Do Thái rằng “Người Pharisêu tự đánh giá rất cao về sự hiểu biết chính xác luật lệ tổ tiên họ và phô trương cho người ta thấy họ (người Pharisêu) được Thiên Chúa mến chuộng. Họ dụ dỗ “Nhiều phụ nữ trong các âm mưu tạo phản” của họ. Ý niệm ẩn sâu việc này là, theo quy định, một Kinh sư không hề nhận tiền công khi giảng dạy. Ông ta phải dạy dỗ miễn phí và vẫn làm một nghề bằng lao động chân tay để mưu sinh. Nhưng các Kinh sư có ý giàn cảnh để mọi người hiểu rằng không có bổn phận nào được kể là cao quý, được ưu đãi hơn bổn phận cung cấp nhu cầu cho một Rabbi, việc cung cấp ấy chắc chắn sẽ đem lại cho người làm việc đó một chỗ cao trên thiên đàng. Trong các vấn đề liên hệ đến tôn giáo, có một sự kiện đáng buồn là phụ nữ vẫn thường bị các tay lang băm tôn giáo bắt nạt và dường như các Kinh sư và người Pharisêu ở đây cũng lợi dụng những người chất phác để được cung cấp mọi sự như vậy.
Việc các Kinh sư và người Pharisêu hay cầu nguyện dài dòng thì ai ai cũng rõ. Người ta bảo rằng những bài cầu nguyện ấy không nhắm dâng lên cho Chúa mà nhằm phô trương trước mặt người ta. Họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách mà ai cũng thấy rằng họ là những người ngoan đạo.
Đây là một trong những đoạn sách cho thấy Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm khắc, cảnh cáo chúng ta về ba điểm:
1/ Cảnh cáo việc muốn được chức vị cao. Ngày nay điều này hãy còn đúng, nhiều những nhận một chức vụ trong Hội Thánh, vì nghĩ nhờ có công lao mà mình xứng đáng được chức vị ấy chứ không phải vì muốn phục vụ Chúa và anh em trong Chúa một cách bất vị kỷ. Người ta vẫn còn xem chức vụ trong Hội Thánh như một đặc quyền chứ không phải như một trọng trách.
2/ Cảnh cáo việc muốn được coi trọng. Hầu hết mọi người đều muốn được người khác kính trọng mình. Thế nhưng sự kiện căn bản trong Kitô giáo, là người ta phải tự giấu mình đi, chứ không phải tự tôn mình lên.có chuyện kể rằng ngày xưa có một tu sĩ nhân đức, thánh thiện, được giao cho chức tu viện trưởng một tu viện nọ. Ông ta khiêm hạ đến nỗi khi mới đến, người ta sai ông đi rửa chén trong nhà bếp và chẳng có ai nhận ra ông. Chẳng phản đối nửa lời, ông ta đi làm bổn phận rửa chén đĩa và nhiều việc tay chân khác. Sau một thời gian rất lâu, khi vị Giám Mục Giáo Phận đến, người ta mới phát giác ra sự sai lầm của mình, và người tu sĩ khiêm hạ nọ được đặt làm địa vị thật sự của ông ta. Một người bước vào chức vụ, đòi sự kính trọng dành cho mình thì đã bắt đầu sai lầm, và nếu không chịu thay đổi, sẽ chẳng bao giờ trở thành tôi tớ của Chúa và của anh em mình theo đúng nghĩa.
3/ Cảnh cáo việc buôn thần bán thánh. Ngày nay, thiên hạ vẫn có thể lợi dụng tôn giáo để tìm tư lợi, để được thăng quan tiến chức. Câu chuyện trên đây là một lời cảnh cáo những ai trong Hội Thánh về những gì họ mong có thể lợi dụng chứ không nhằm đầu tư công sức, tài sản nào đó.
CỦA DÂNG NHIỀU NHẤT (12,41-44)
Giữa sân dành cho người ngoại và sân dành cho phụ nữ có Cửa Đẹp. Chúa Giêsu đã đến ngồi yên lặng tại đó sau khi đã tranh luận gay gắt trong sân dành cho người ngoại và các hành lang. trong sân dành cho phụ nữ, có 13 thùng thu tiền mà theo hình dạng của chúng, người ta gọi là “kèn đồng”. Mỗi thùng nhằm một việc phục vụ riêng, chẳng hạn để nhận tiền mua lúa mì, rượu hoặc dầu cho việc tế lễ. Những thùng này đựng của đóng góp cho chi phí tế lễ hàng ngày và chi phí của Đền Thờ. Nhiều người dâng vào đó những số tiền rất lớn. Bấy giờ, có một bà góa nghèo đến, bà ta bỏ vào hai đồng tiền nhỏ. Đó là đồng gọi là Lépton, nghĩa đen là một đồng mỏng, là đồng có giá trị nhỏ nhất trong các đồng tiền. Vậy mà Chúa Giêsu nói bà đã đóng góp nhiều hơn tất cả mọi người khác, vì những người khác chỉ bỏ vào đó số tiền họ đã dành dụm được khá dễ dàng và vẫn còn giữ lại khá nhiều, trong khi quả phụ này đã bỏ vào tất cả những gì bà có. Đây là bài học về việc dâng cúng.
1/ Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực, thì phải là một của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Lòng hào hiệp chân chính là dâng hiến cho đến khi nào chính mình phải chịu tổn thiệt. Phải xét lại xem việc dâng hiến cho công việc của Chúa, chúng ta có chút hy sinh nào không. Có rất ít người muốn sẵn sàng dâng nhiều hơn nữa cho công việc của Chúa. Có thể dấu hiệu về sự suy thoái của Hội Thánh và về sự thất bại của Kitô giáo, là của dâng không còn là tự nguyện nữa và tín hữu sẽ không dâng gì cả nếu không được lại một điều gì. Nhiều người trong chúng ta khi đọc chuyện này không khỏi cảm thấy xấu hổ!
2/ Dâng hiến trọn vẹn. Bà góa này có thể giữ lại một đồng tiền. Một đồng tiền nhỏ thì cũng chẳng bao nhiêu, nhưng dầu sao nó cùng còn một chút gì, dù vậy bà ta đã dâng hết những gì bà ta có. Ở đây có một chân lý biểu tượng quan trọng. Có một điều bi thảm trong đời sống chúng ta là thường vẫn còn một phần nào đó trong đời sống không được chúng ta dâng cho Chúa. Dù sao chúng ta vẫn còn giữ lại một chút gì đó. Chúng ta ít khi chịu tiến đến chỗ thực hiện hy sinh và vâng phục trọn vẹn.
3/ Điều vô cùng lạ lùng và đẹp đẽ, ấy là người được Tân Ước và Chúa Giêsu nêu lên cho lịch sử như một gương mẫu về lòng hào hiệp, lại là một người chỉ dâng có hai đồng tiền nhỏ, bằng một phần tư xu. Chúng ta có thể cảm nhận chúng ta không có gì nhiều trong lãnh vực của dâng vật chất. Nhưng nếu chúng ta sẵn lòng dâng hết những gì mình có cho Chúa, Ngài sẽ dùng làm được nhiều việc quá sức tưởng tượng của chúng ta.
Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị: TN 32-B55
Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị những người hướng dẫn tâm linh quá kiêu căng này. Họ là những người có uy tín trong dân Do Thái những thái độ của họ khiếm nhã. Chúa Giêsu lên án sự phô trương phù phiếm của giới “thượng lưu” này khi họ tìm sự ngưỡng mộ nơi dân chúng (38b-39). Chưa hết, “Họ giành giật tài sản của các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài” (40a). Như thế còn hệ tại hơn là thiếu khiêm tốn. Đó là thói đạo đức giả. Các vị lãnh đạo này không ngần ngại bóc lột những kẻ bần cùng cô thế. Những lời cầu nguyện lê thê của họ nhằm mục đích che đậy tội lỗi của họ, để phình lừa dân chúng. Ta thấy lời kết án của Chúa Giêsu có vẻ quá cứng rắn. Nhiều khi Chúa Giêsu cùng quan điểm với nhóm biệt phái và các thủ lãnh của họ là các kinh sư. Ta cũng đã có lần chứng kiến một số người trong họ thành tâm kiếm tìm Nước Thiên Chúa (12,28-34).
Nhưng nên nhớ rằng mãi 40 năm, Maccô mới viết những đoạn Tin Mừng này. Trong khoảng thời gian trôi qua đó, hình ảnh giới hữu trách Do Thái đã thay đổi. Khi thuật lời đả kích nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với ký lục, Maccô muốn cho độc giả của mình, là các Kitô hữu Rôma thấu đáo về não trạng lẫn hành vi của các thủ lãnh Israel sau khi họ đã bắt bớ Chúa Giêsu. Cuộc khẩu chiến giữa Chúa Giêsu và các kinh sư đã nổ ra ngay từ đầu cũng như sự thù nghịch ngày càng tăng giữa Giáo Hội Kitô giáo non trẻ và hội đường (Do Thái giáo) xảy ra trong những năm 80-90. Ở Luca (11,42-54), và nhất là ở Matthêu (23,13-32), sự phê phán gay gắt giới biệt phái và kinh sư diễn ra theo một tiến trình dễ chấp nhận và phù hợp hơn với lối viết Tin Mừng.
ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA (12,41-44)
Đây là hồi cuối thuật lại cảnh Chúa Giêsu ở Đền thờ. Một hồi thật cảm động. Maccô vừa mới phác họa hình ảnh tàn nhẫn của nhóm kinh sư (“Họ bóc lột của cải các bà góa”) (12,40a) xong, liền đưa ngay ra hình ảnh một bà góa rộng rãi đặc biệt. Hai hình ảnh tương phản hoàn toàn. Những từ “bà góa” nối kết hai đoạn văn thật tài tình.
Cảnh tượng diễn ra trong nơi thánh của Đền thờ, gần bên kho tàng. Đó không phải là nơi chứa tài sản đền thờ, mà là nơi cất chứa lễ vật các tín đồ dâng cúng (2V 12,10). Ở cuối phòng người ta đặt các hòm tiền. Những kẻ giàu có, chiếm phần lớn, bỏ vào đấy “các số tiền lớn” (c. 41b). Nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiến đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiền đến và bỏ vào đó 2 đồng xu” (x. 42). Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt củ nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tàn sản chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy Maccô mới nói: “Người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu (theo đơn vị tiền tệ Do Thái), một món tiền không nghĩa lý gì. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội này hầu qua cử chỉ khiêm tốn đó, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng (43-44). Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược này kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Còn gương nào đẹp hơn? Các bạn hữu Chúa Giêsu hẳn phải nhận ra, nơi góa phụ tuy cơ bần mà độ lượng hình ảnh của một “môn đệ” chân thực. Ta nên lưu ý đặc biệt đến sự thể trong Tin Mừng là Chúa Giêsu thường làm nổi bật đức tính của giới phụ nữ (Lc 10,38-42): Martha và Maria; Ga 4,1-42: người đàn bà Samari) cho các “ông” môn đệ thấy. Sau khi dạy dỗ các môn đệ về sự kiện đời thường này, Chúa Giêsu rời đền thờ (13,1) và Ngài không còn trả lời đó lần nào nữa.
Đức Giêsu nói rằng: "Anh em phải coi chừng những ông kinh sư
Kinh Sư là những nhà chuyên môn và những người giải đáp chính thức Kinh Thánh. Sau một thời: TN 32-B56
“Kinh Sư” là những nhà chuyên môn và những người giải đáp chính thức Kinh Thánh. Sau một thời gian dài học tập vào khoảng 40 tuổi, họ được công nhận thi hành chức vụ của họ và trở nên những người cố vấn chính thức trong những quyết định tư pháp. Đức Giêsu và các tông đồ đã không được đào tạo như thế.
Ngay từ đầu, các "Kinh Sư” luôn tỏ ra chống đối Đức Giêsu. Chỉ trong Tin Mừng Maccô, chúng ta đã thấy nhiều cuộc xung đột (Mc 2,6; 3,22; 7,1; 11,18). Ở đây, Đức Giêsu nghiêm chỉnh cảnh giác chúng ta. Đây là lần cuối cùng Người nói trước công chúng, khoảng vài tuần lễ trước khi Người bước vào cuộc thương khó và bị kết án bởi Thượng Hội đồng mà các Kinh sư thường chủ trì xét xử.
Matthêu đã quy tụ lại thành một diễn từ của Đức Giêsu về đề tài này: "Khốn cho các Kinh sư" (Mt 23). Sự hiểu biết không nhất thiết mang lại cho ta đức hạnh... và than ôi, kể cả sự hiểu biết tôn giáo cũng thế.
Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.
Vẫn còn những Kitô hữu bực tức vì Giáo Hội đang cố gắng gột bỏ mọi vẻ huy hoàng. Tuy vậy, chúng ta phải nhìn nhận rằng sự cố gắng đó dù chưa hoàn tất, nhưng hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu. Giáo Hội trong mọi thời đại; có nguy cơ rơi vào cám dỗ khủng khiếp của uy thế, đặc quyền những "vẻ bề ngoài sang trọng" những tước vị và những chỗ ngồi danh dự. Lạy Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng làm quen với một Giáo Hội, biết gột bỏ những danh dự, chấp nhận nghèo khó. Với các linh mục, biết sống như mọi người, không dành đặc quyền đặc lợi nào cả.
Tính cách Pharisêu mà Đức Giêsu lên án, đó là việc sử dụng những "dấu hiệu bề ngoài" để làm cho người khác nể trọng mình và được hưởng những đặc quyền. Ngày nay, có một phong trào tân Pharisêu cũng giả dối như thế, cốt làm tăng giá trị của mình bằng cách làm ra vẻ "thông thạo thời sự", "giữ đúng thời trang" bằng cách theo nhưng "quan điểm tiến bộ nhất", dù là những quan điểm rỗng tuếch.
Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ
Điều mà Đức Giêsu quở trách kinh sư thời ấy, đó là thái độ "khoa trương", lòng "tham lam", nếp sống "giả hình" của họ. Có lẽ họ đã đòi hỏi những khoản thù lao rất cao đối với những người đến hỏi ý kiến họ, và điều này rất nghiêm trọng vì họ được coi như những người đạo đức, cầu nguyện lâu giờ. Kẻ nào muốn loan truyền những đòi hỏi của Lời Chúa, cũng phải tỏ ra rất khắt khe với chính mình. Khi các Kitô hữu, hay phẩm trật Giáo Hội phạm những bất công xã hội thì đó là điều đặc biệt nghiêm trọng. Thiên Chúa nghe thấy tiếng kêu của những người nghèo khổ bất hạnh, Người ban "công lý" cho kẻ bị áp bức, nâng đỡ góa phụ và cô nhi (Tv 1,45).
Kẻ nào muốn thuộc phe Chúa, thì nhờ cầu nguyện, phải đặc biệt trở nên liêm khiết và công bằng.
Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn
Cộng đoàn của Đức Kitô là Giáo Hội phải nghe lời cảnh cáo này: Người sẽ càng khắt khe hơn với chúng ta, khi chúng ta càng được nhận lãnh nhiều. Chúng ta không thể lừa dối Thiên Chúa! Người thấy tận đáy các sự việc và những sự giả dối của chúng ta sẽ bị lột trần trước mắt Người.
Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao
Maccô là một nhà quay phim tài tình. Chúng ta hãy thưởng thức sự chính xác của thiên phóng sự này. Đức Giêsu đã chọn một điểm quan sát tốt, ngồi trên các bậc thềm, đối diện với các hòm tiền. Người nhìn xem. Đám đông những người hành hương diễn qua trước mặt Người. Chúng ta hãy ghi nhận lòng nhân ái của Đức Giêsu: Người chú ý đến những đám đông, chú ý đến những gì xảy ra chung quanh Người. Chúng ta có biết chú ý không? Chúng ta có biết ngắm nhìn không?
Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.
Vào thời Đức Giêsu cũng như ngày nay các tầng lớp xã hội luôn có những mức lợi tức rất chênh lệch. Điền chủ, thương gia, luật gia, giới tư tế thường là giàu có và là sở hữu chủ tại Giê-ru-sa-lem những dinh thự với tất cả tiện nghi và xa hoa: Nhiều gian phòng, hồ tắm, sân vườn, cột nhà cẩm thạch... Trong khu ở riêng của các người quyền quý một khu đẹp và sang trọng! Còn những người nghèo thì chạy sống từng ngày và ở trong “khu vực thấp hèn" tại Giêrusalem.
Nếu lưu ý đến bản văn của Maccô, chúng ta sẽ thấy ông đã viết "một số" người giàu... nhiều người giàu, đã cống hiến ‘những số tiền lớn’ như vậy, họ cũng thiết thân làm nghĩa vụ đối với Đền Thánh.
Ở đây Maccô không chú thích gì cả, nhưng ông vẫn không thể không so sánh:
Cũng có một bà góa nghèo đến.
Bây giờ nhà quay phim cống hiến cho ta một cận cảnh:
Người đàn bà nghèo khó bước tới gương mặt khiêm tốn giữa các khuôn mặt khác. Không có một chỗ danh dự, không danh tiếng gì. Một người không quen biết. Đó là một người đàn bà, trong thế giới mà người đàn ông thống trị, một góa phụ trong thế giới mà chỉ có người đàn ông mới có quyền được luật pháp công nhận. Một người đàn bà nghèo, không lợi tức. Đức Giêsu đưa mắt nhìn bà.
Bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.
Thật là trái ngược với "số tiền lớn” của những kẻ khác!
Tôi muốn nhìn ngắm hai đồng tiền nhỏ này, hai đồng xu đút giấu kín trong lòng bàn tay bà.
Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.
Cách tính tiền thật là kỳ cục? Bà này đã cho "nhiều hơn" tất cả mọi người. Đức Giêsu đã nói thế. Người làm đảo lộn mọi hệ thống xã hội của chúng ta. Người coi thường hệ thống phân loại, những giai cấp xã hội của chúng ta, với những bậc thang phân biệt rõ ràng mà người ta phải leo lên để "thăng tiến". Ở bậc thang xã hội "cao", thì giàu có được người khác trọng nể; mặc y phục lộng lẫy, được người ta chào hỏi công cộng, có chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc, tất cả những điều này không làm Chúa Giêsu quan tâm đến. Còn chúng ta thì sao?
Phản ứng của chúng ta trước trang Tin Mừng này như thế nào? Hay nó vẫn làm chúng ta thản nhiên, không chút bận tâm?
Trong một xã hội dồi dào của cải mà chúng ta đang sống chúng ta có thái độ nào đối với một số nghề nghiệp dành cho người nghèo? Có những người nào mà tôi khinh khi vì chủng tộc, vì môi trường xã hội, nghề nghiệp hay sự nghèo khó của họ không?
Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản
Người ta không thể đánh lừa Chúa được. Người thấy tận đáy lòng chúng ta. Bà này đã cho "nhiều hơn", vì bà đã cho "tất cả". Muốn biết giá trị của một quà tặng, ta không nên chỉ nhìn vào đồ vật đó, mà còn, phải để ý đến người cho. Thiên Chúa đã nhìn như thế. Người nhìn thấy những gì còn lại trong két sắt hay trong trương mục ngân hàng.
Chúng ta cần suy niệm hai từ mà Đức Giêsu đã dùng. Đó là hai ý niệm đơn giản: ‘Sự túng nghèo’ là tình trạng của người không có đủ yếu tố cần thiết để sống; ‘Điều cần thiết’ là những gì tương xứng cho đời sống bình thường. ‘Của cải thừa’ là những gì chúng ta có nhiều hơn cái cần thiết.
Chắc chắn đó không phải là những giá trị toán học cố định. Vì ta có thể thắc mắc: "Sự cần thiết sẽ dừng lại ở mức nào?". "Sự dư thừa" bắt đầu từ đâu? Nhưng thực tế khiến chúng ta phải nhìn nhận rằng có quá nhiều khác biệt giữa điều kiện sống của con người trong cùng một xứ sở nhất là giữa quốc gia này với quốc gia khác. Với những đồ vứt bỏ trong thùng rác ở New York, người ta cũng có thể cứu sống cho một thành phố với số dân tương đương thuộc thế giới thứ ba. Những phí phạm của chúng ta kêu lên tới Thiên Chúa, và trước mặt người nghèo. Vào thời đó, Đức Giêsu đã dám tố cáo một số người sống quá ‘dư thừa’, còn ngày nay Người sẽ phải nói sao đây?
Tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.
Đức Giêsu không nhìn sự việc như chúng ta. Chính Người cũng là một kẻ nghèo.
Người đã nhìn ngắm và thấy tâm hồn cho đi tất cả. Chúa để mắt trên người nghèo. Họ đang làm vui lòng Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã ca ngợi người đàn bà góa nghèo, cống hiến hai đồng tiền nhỏ. Lạy Chúa, Chúa nghĩ gì về lòng quảng đại của con? Tôi có "cho đi" không? Bao nhiêu? Như thế nào? Ngày nay ta có thể cho rằng người đàn bà này có lý do chính đáng để giữ lại số tiền đó và để cho kẻ khác “cống hiến" thôi! Nhưng Thánh Vinh Sơn đã nói: May thay cho những người nghèo, vì vẫn còn có những người nghèo ‘biết cho’.
Trước khi khởi sự bước vào cuộc thụ khổ, Đức Giêsu cho chúng ta biết bí mật cái chết của Người sắp đến gần: Người đàn bà này là "hình tượng" của Thiên Chúa, Đấng trao ban tất cả, tất cả những gì Người có để sống! "Thiên Chúa dù giàu có, đã trở nên khó nghèo để làm giàu cho chúng ta". Thánh Phaolô đã dám nói như vậy (2 Cr 8,9). Tình yêu không biết tính toán. Chúa là tình yêu. Người đã không tính toán, Người đã cho đi tất cả. Nếu Giáo Hội nguyên thủy đã ghi lại đoạn này bề ngoài xem ra không quan trọng ngay trước cuộc thương khó, là vì Giáo Hội đã tự nhủ: Vâng, Đức Giêsu đã tự nhận ra chính Người nơi người đàn bà này, vì bà đã "cho đi tất cả".
Nếu phải tránh lối mị dân dễ dãi, cho rằng những người có thân phận khiêm tốn đương nhiên: TN 32-B57
1. Nếu phải tránh lối mị dân dễ dãi, cho rằng những người có thân phận khiêm tốn đương nhiên sẵn sàng đối với Vương Quốc Thiên Chúa, thì cũng không nên quả quyết rằng bao người giàu có là bấy nhiêu công dân của vương quốc ma quy. Có những kẻ nghèo nàn nhưng lòng đầy ham hố, tham lam keo kiệt, cũng như có lắm kẻ giàu sang nhưng rộng rãi, biết thi ân và lòng chẳng dính bén. Sự "nghèo khó Tin mừng" không tất nhiên nằm nơi chỗ thiếu thốn của cải, nhưng nằm nơi thái độ từ bỏ, không xem của cải làm cùng đích để lao lực lao tâm, nhưng coi như là phương tiện để phụng sự Thiên Chúa và kẻ khác, và sẵn sàng chịu mất khi cần. Tuy nhiên, sự từ bỏ nơi kẻ giàu vẫn khó hơn nơi người ít của. Hãy cám ơn Chúa vì đã cho xảy đến bao nhiêu hoàn cảnh khiến của cải chúng ta ít đi để ta dễ hướng tâm về của đích thật, sự bảo đảm đích thật là Người.
2. Đoạn Tin Mừng nói về việc bà góa dâng hiến tất cả tài sản của bà tuy ngắn gọn nhưng rất thâm thúy, thật đáng chúng ta lưu tâm. Qua cử chỉ này, như người ta thường nói, bà đã đặt mình vào tình trạng hoàn toàn khó nghèo trước mặt Thiên Chúa. Bà hết mình phó thác cho Thiên Chúa. Những người giàu có cho một phần gia sản của họ; còn bà góa này, bà cho tất cả gia sản của bà và từ đó bà đặt mình dưới sự quan phòng của Chúa. Điều đó có nghĩa là bà đặt tất cả trong niềm hy vọng vào Chúa, cơm ăn cũng như cuộc sống của bà.
3. Thâm sâu hơn nữa, cử chỉ của bà nói rằng bà đi tới Thiên Chúa như tới một kẻ mà bà hết lòng yêu mến và bà tin chắc Ngài có dư khả năng lo lắng cho bà. Bà không chỉ đi thi hành bổn phận tầm thường là đóng góp vào quỹ Đền thờ. Bà không chỉ muốn thi hành một nhiệm vụ. Bà đi quá cả phạm vi bổn phận, phạm vi chu toàn Lề luật. Bà không nghĩ tới vấn đề chu toàn Lề luật, nhưng nghĩ rằng Thiên Chúa rất xứng để bà dâng cho Ngài tất cả và đồng thời chờ đợi nơi Ngài tất cả.
Nếu để ý đến tiến trình của bài Phúc Âm được Giáo Hội sắp xếp cho chu kỳ Phụng Vụ Năm B: TN 32-B58
Nếu để ý đến tiến trình của bài Phúc Âm được Giáo Hội sắp xếp cho chu kỳ Phụng Vụ Năm B ở Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, chúng ta thấy, kể từ sau khi Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các tông đồ biết Mầu Nhiệm Thánh Thể của Người ở những Chúa Nhật từ 17 đến 22, rồi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người ở Chúa Nhật 24, xuất hiện một loạt bài Phúc Âm về những gương mù gương xấu phản đức tin, rồi sau đó là một loạt bài về gương sống đức tin là yếu tố cần thiết để nghênh đón Chúa Kitô tái giáng, một biến cố được Giáo Hội cử hành vào Lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc Năm Phụng Vụ của Giáo Hội.
Về loạt bài Phúc Âm liên quan đến các thứ gương mù gương xấu phản đức tin, trước nhất là gương mù gương xấu của các môn đệ tỏ ra tranh giành địa vị, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25; tiếp đến là gương mù gương xấu của các vị về việc tranh chấp quyền năng phe nhóm, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 26; sau đó là gương mù gương xấu của việc vợ chồng ly dị nhau, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27; và đến nay là gương mù gương xấu về lòng tham lam của cải ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28.
Về loạt bài Phúc Âm liên quan đến gương sống đức tin gồm có, ở Chúa Nhật 29, gương sống đức tin bất chấp thử thách của anh em tông đồ Giacôbê và Gioan muốn được cùng với Thày uống cạn chén khổ nạn; ở Chúa Nhật 30, gương sống đức tin bất chấp áp lực thế gian của người mù ăn xin bên vệ đường ở Giêrichô không sợ đám đông vẫn khinh thường anh ta; ở Chúa Nhật 31, gương sống đức tin của người luật sĩ vốn thuộc về thành phần vốn bị Chúa nặng lời trách móc là giả hình (x Mt đoạn 23) song vì thành tâm tìm kiếm chân thiện nên vẫn nhận ra được tất cả những gì chí lý như ông ta vốn nghĩ nơi câu trả lời của Chúa Giêsu về giới răn trọng nhất; và ở Chúa Nhật 32 tuần này, gương sống đức tin đến hoàn toàn cậy trông phó thác của một bà góa nghèo khó nhưng hết lòng quảng đạo đã dâng cúng cho Chúa tất cả những gì mình có vào công qũi của đền thờ, dù chẳng là bao nhiêu và giá trị gì so với mọi người bấy giờ.
Có thể nói, nếu để ý kỹ, loạt bài Phúc Âm về gương lành gương sáng này là những gì hoàn toàn tương phản với loạt bài Phúc Âm về gương mù gương xấu trước đó. Chẳng hạn, gương sống đức tin đến chấp nhận đau khổ và cùng Thày phục vụ hơn hưởng thụ của cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan đã soi sáng cho gương mù gương xấu tranh chấp nội bộ cũng như tranh chấp phái nhóm của các tông đồ, như được Thánh Ký Marcô ghi lại ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25 và 26. Rồi gương sống đức tin bất khuất của người mù ăn xin bên vệ đường đã là những gì soi sáng cho tình trạng cứng lòng đến mù quáng của con người “yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19) nói chung, một tình trạng cứng lòng đến mù quáng được thể hiện điển hình nhất nơi việc vợ chồng ly dị nhau trong đời sống hôn nhân, như được kể đến ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27. Sau hết là gương sống đức tin nghèo khó mà hết sức quảng đại của bà góa dâng cúng cho đền thờ Chúa cũng đã là những gì soi sáng cho gương mù gương xấu của lòng tham vô đáy nơi thành phần giầu có khó vào nước thiên đàng, như được thấy ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28.
Giới răn trọng nhất ở bài Phúc Âm tuần trước đã hoàn toàn nên trọn nơi trường hợp bà góa dâng cúng tất cả những gì mình có này vào công quĩ đền thờ Chúa. Nếu bà không tin tưởng “Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất”, bà sẽ không thể nào dám liều lĩnh dâng cùng tất cả những gì bà có như vậy cho Ngài. Ở đây không phải là số tiền nhỏ bé ấy của bà, mà là chính mạng sống của bà. Vì số bạc nhỏ bé ấy là tượng trưng cho chính mạng sống của bà, đúng như trường hợp của bá góa trong bài đọc thứ nhất của cùng Chúa Nhật tuần này. Nếu bà góa này đã dâng cho vị Chúa là Thiên Chúa, là Chúa duy nhất của bà, tất cả mọi sự bà có, liên quan đến mạng sống của bà như thế, không phải là bà đã thật sự “yêu Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” của bà hay sao? Nếu thật sự không có Chúa, không có Đấng quan phòng toàn năng đầy yêu thương chăm sóc cho cả chim trên trời là loài động vật lẫn cỏ đồng nội là loài thực vật (x Mt 6:26,28) hoàn toàn thấp kém hơn con người là loài “nhân linh ư vạn vật”, thì việc làm của bà góa này, thay vì là một việc làm của một đức ái trọn hảo, một đức tin tuyệt đối, lại là một việc vô cùng ngu xuẩn và điên khùng, là một việc làm hoàn toàn mê tín dị đoan. Thế nhưng, bà góa mạnh tin ấy có ngờ đâu rằng, việc làm nhỏ mọn bằng tất cả lòng thành trước mắt thế gian ấy, một việc làm đáng hổ ngươi trước mắt thế gian ấy, lại được lọt vào mắt thần của Thiên Chúa, ở chỗ, chẳng những việc ấy được Ngài chứng giám qua con mắt loài người của Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu bấy giờ, mà còn được Ngài khen tặng qua môi miệng của Con Thiên Chúa trước mặt thành phần là nền tảng Giáo Hội của Người Con này nữa.
Nếu Nước Thiên Chúa giống như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống đã mọc lên trở thành cây to lớn, đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó (x Mt 13:31-32), thì việc làm đáng xấu hổ của bá góa trước mắt thế gian bấy giờ, hay mấy đồng bạc cắc chẳng là gì của bà, chẳng khác gì như một hạt cải nhỏ bé nhất, so với các hạt giống đóng góp khác to bự hơn của bà rất nhiều, đã trở thành một cây vĩ đại đến làm gương cho cả loài chim trời có mặt bấy giờ là các tông đồ, thành phần vốn còn tham vọng tranh ngôi thứ, nhất là có cả kẻ tham lam tiền của sắp sửa tới lúc bán thày lấy bạc (x Jn 12:4-6; Mt 27:3).
Trường hợp bà góa mạnh tin trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXII tuần này cho thấy, nếu người giầu có khó vào Nước Trời hơn lạc đà chui qua lỗ kim, như lời Chúa Giêsu khẳng định với các tông đồ ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28, thì người nghèo, như thực tế cho thấy, thường quảng đại hơn người giầu trong việc từ thiện bác ái, đóng góp làm việc chung. Sau đây là mấy trường hợp cụ thể đã được Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta kể lại (xem dongcong.net) trong cuộc đời Mẹ đã phục vụ người nghèo nhất trong các người nghèo. Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla. Ông ta bị toàn thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông.
Hôm ấy, sau khi nhận được 15 Mỹ kim do một người bị bất toại 20 năm gửi tặng, một con người sống cô đơn, chỉ có điếu thuốc lá là người bạn duy nhất của ông, Mẹ Têrêsa đã đến thăm ông và an ủi ông, người đã chân thành nói với Mẹ rằng: - Thưa Mẹ, con đã hết hút thuốc cả tuần nay rồi, và đó là số tiền con dành dụm được để biếu Mẹ hầu Mẹ có thể dùng nó mua cơm bánh cho các người nghèo khổ.
Câu truyện cảm động khác xẩy ra vào thời điểm thành phố Calcutta thiếu đường. Bấy giờ có một cậu bé độ khoảng 4 tuổi đã đến đưa cho tôi một bát đường mà nói với tôi rằng:
- Thưa Mẹ, con đã nhịn không ăn đường suốt cả tuần nay. Đây là chút đường để Mẹ có thể dùng cho các em mồ côi của Mẹ.
Chưa hết, ở một trường hợp khác, có một em nhỏ muốn đem rá gạo tôi mang tới ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng bấy giờ có một người đàn ông đến gặp và nói với tôi rằng:
- Thưa Mẹ, ở gần đây có một gia đình người Ân giáo có 8 đứa con, song cả tuần nay họ chẳng có một thứ gì cho vào bụng.
Nghe thế tôi liên bưng rá gạo theo người đàn ông ấy đến nhà người Ấn giáo ấy. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi thấy những khuôn mặt xanh xao và đang bị quằn quại vì đói. Không thể cầm lòng, tôi đã trao tất cả rá gạo cho người đàn bà ấy. Bà ta cảm động nhận lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia ra làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi . . . một lúc sau mới trở về... Lấy làm ngạc nhiên tôi mới lên tiếng hỏi bà:
- Bà đi đâu thế? Đem gạo cho ai vậy?
Bà ta liền trả lời:
- Người ta cũng đói lắm cơ! - Nhưng họ là ai? - Những ngưới ấy là những gia đình theo Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con đây. Họ ở bên kia đường mà cả tuần nay, họ cũng chẳng có gì để ăn hết.
Chúa Nhật tuần này, Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm B (ngày 9/11/2003), trùng với Lễ Cung Hiến Đền Thờ Gioan Latêranô. Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật tuần này cũng hợp với ý nghĩa về đền thờ. Ở chỗ, như lời nguyện mở đầu cho thấy, Thiên Chúa là Thần Linh ở với Kitô hữu chúng ta nơi tâm hồn hay tấm lòng của chúng ta. Và tâm hồn hay tấm lòng của Kitô hữu chúng ta thực sự là đền thờ của Chúa một khi chúng ta tin tưởng nhận biết Ngài và kính mến Ngài hết mình và trên hết mọi sự. Việc bà góa trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này đã dâng cúng vào ngân qũi của đền thờ tất cả những gì bà có để dâng lên cho Chúa, đã không nói lên việc bà kính mến Thiên Chúa hết mình hay sao, và tấm lòng của bà không phải là đền thờ xứng đáng Chúa ngự trị hay sao? Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho chúng ta thấy cái nhiều nhất, lớn nhất trước mặt Chúa không phải là những gì về vật chất mà là tấm lòng. Bà góa dâng cúng vào đền thờ Chúa ít nhất mà lại đẹp lòng Chúa nhất, vì bà đã quảng đại nhất, yêu mến nhất, dâng lên cho Chúa tất cả những gì mình có.
Lạy Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, thấu suốt lòng của mỗi người chúng con. Vì Chúa ngự trong lòng chúng con như ngự trong đền thờ của Chúa. Xin Mẹ Maria giúp tâm hồn chúng con trở nên đền thờ của Chúa, bằng việc kính mến Chúa hết mình, không tiếc Ngài một điều gì. Amen
Chuyện kể rằng: Có 2 vợ chồng mới cưới đi về miền quê. Trời tối quá Họ vào một căn nhà: TN 32-B59
Chuyện kể rằng: Có 2 vợ chồng mới cưới đi về miền quê. Trời tối quá Họ vào một căn nhà có ánh đèn để xin trọ đêm .
- Làm ơn cho chúng tôi nghỉ qua một đêm, vì đường còn xa quá, mà trời lại tối.
2 vợ chồng chủ nhìn nhau, rồi người vợ gật đầu.
- Chờ chúng tôi ít phút để dọn dẹp.
2 vợ chồng trẻ ngủ ngon lành qua một đêm mệt mã.
Sáng hôm sau, người chồng ký một tấm check để lại trên bàn phòng ngủ và mấy chữ cám ơn, vì phải đi sớm. Khi 2 vợ chồng đi qua phòng khách để ra cửa, họ hết ngức kinh ngạc và thán phục vì 2 vợ chồng chủ nhà đã nhường phòng cho họ, ra nằm ngủ tại nền nhà phòng khách.
Hai vợ chồng nhà chủ nói trên câu chuyện trên đây có lòng quảng đại, thương người, mến Chúa chẳng khác gì bà già góa nghèo nói trong chuyện dụ ngôn hôm nay. Bà đã sẵn sàng dâng tiến Chúa cả tấm lòng, cả của tài sản nuôi sống bà trong cuộc đời.
Chúa xử rộng rãi và ban nhiều ơn cho người quảng đại không tính toán. Nghe câu chuện sau đây cũng đủ để chúng ta bắt chước:
Tại một viện dưỡng lão nọ, ai ai cũng cảm thấy vui vì ngày Chúa Giáng Sinh sắp đến. Các lão ông lão bà trong viện đều cặm cụi suốt ngày để chuẩn bị một món quà gửi tặng cho thân nhân.
Một lão bà ngồi trong góc nhà, không một người thân. Bà chỉ còn một người con trai. Nhưng anh ta coi như đã chết, vì từ lâu anh đã bị ngồi tù chung thân trong trại tù.
Dầu vậy, bà cũng có ý nghĩ gởi cho người con bạc phước của mình một món quà. Nhưng bà không có một đồng xu dính túi! Bà chỉ có cặp kính lão còn đeo trên mắt. Bà ước ao gởi cho con một gói thuốc lá. Thế là bà tìm cách trao đổi cho lão già bên cạnh. Lão chỉ trao gói thuốc với điều kiện là bà phải trao tặng cho lão một món quà nào đó. Bà đành lấy cặp kính trao cho ông. Gương mặt ông sáng lên, vì giờ đây, ông đã có thể nhìn được, đọc được tỏ tường. Bà gói bao thuốc lá lại thành một món quà Giáng Sinh, gửi tặng cho con mình.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc đến hai người đàn bà nghèo. Nhưng đó lại là những người: TN 32-B60
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc đến hai người đàn bà nghèo. Nhưng đó lại là những người nghèo “nhất” thế giới. Bởi vì cả hai nhờ cái nghèo ấy mà được lưu danh muôn thuở, và cũng giống như Mađalêna, Tin Mừng được rao giảng đến đâu, thì hai bà cũng được biết đến ở nơi đó.
Hai người nghèo được Tin Mừng nhắc đến đó là góa phụ mà Êlia người của Thiên Chúa gặp trên đường đi Sarephta thuộc Sidon. Và người thứ hai cũng là một góa phu, bà được chính Chúa Giêsu gặp bên hòm tiền dâng cúng ở Giêrusalem. Người trước được lời hứa của tiên tri là “hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất” (1 Các Vua 17:16). Còn người thứ hai thì được Chúa Giêsu khen: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc 12:43).
Điểm trùng hợp giữa hai người đàn bà này, đó là cả hai đều cùng nghèo. Và tuy nghèo nhưng lại có tấm lòng rộng rãi với Thiên Chúa, với tha nhân. Nhất là cả hai đều bằng lòng chấp nhận và sống bằng an với cái nghèo của mình. Góa phụ thứ nhất nghèo đến nỗi trong nhà chỉ còn thực phẩm cho một bữa ăn cuối. Bà nói với Êlia khi ông xin bà một bữa ăn: “Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ và một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi” (1 Các Vua 17:12). Còn góa phụ thứ hai thì như lời Chúa Giêsu: “Bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống” (Mc 12:44), mà tất cả những gì bà có là “hai đồng tiền là một phần tư xu” (Mc 12:42).
Đọc kỹ 2 trích đoạn Thánh Kinh trên, chúng ta còn thấy rõ một điểm trùng hợp nơi hai bà, là tuy nghèo nhưng không ai than trách và để lộ những thái độ sống thường dính liền với nghèo, đó là: nghèo khổ, nghèo khó, và nghèo hèn.
Kinh nghiệm chung cho thấy nghèo thường đem lại cho con người khổ sở và cùng cực về phương diện tài chính. Do cái khó khăn về tài chánh, thường cũng xui khiến lòng dạ con người làm những điều phi pháp, vô đạo để khiến cho con người đã nghèo về tiền của, nghèo về danh vọng, nghèo về kiến thức, lại nghèo luôn cả đức tính và đạo đức.
Việt Nam ta có câu: “Cái khó nó bó cái khôn” Và: “Bần cùng sinh đạo tặc”. Có nghĩa là nghèo có thể là con đường dẫn tới tội ác như cướp của, giết người. Nghèo cũng đã tạo nên một tầng lớp xã hội mang tính hư đốn, mất hết phẩm giá, và đạo đức, và điều này có thể được nhìn thấy khắp nơi. Những tệ đoan xã hội như trộm cướp, giết người, lường gạt, gian dối, đĩ điếm, mánh mung, sa đọa. Tất cả đều do con người đã không chấp nhận, không vươn lên, và không bằng an được với cái nghèo của mình. Nhưng không chỉ những người nghèo tiền của vật chất, những người nghèo tấm lòng, nghèo đức độ, những kẻ nhờ mánh mung, nhờ lạm dụng quyền thế mà làm giầu trên xương máu của đồng loại thường cũng có cùng một kết quả như nhau.
Nhưng trong trường hợp của hai bà, không những không để cái nghèo khống chế và dìm sâu xuống vũng bùn của tham lam, ham muốn, ghen ghét, giận hờn, co cụm, và đánh mất niềm tin, hai bà đã chứng tỏ ngay trong cái nghèo của mình một tâm hồn cao thượng, một sự mở lòng mình ra đối với những người còn khó khăn, nghèo túng hơn mình. Góa phụ trong thời tiên tri Êlia đã sẵn sàng nhường phần ăn của mình và con mình cho tiên tri, vì lúc ấy ông cũng đang trong tình trạng đói khát. Còn góa phụ trong Tin Mừng Thánh Marcô, bà đã dành phần sống còn của mình cho việc dâng cúng. Và cả hai hành động ấy đều phát xuất từ một lòng yêu mến thẳm sâu, tin tưởng vô bờ bến nơi quan phòng của Thiên Chúa. Đức tin và đức ái của hai bà đã nẩy sinh hành động anh hùng, và đã cho hai bà biết mình phải hành xử như thế nào trước những túng thiếu của kẻ khác.
Thiên Chúa không bao giờ thua lòng rộng rãi của con người. Lòng mến dành cho Thiên Chúa và đức ái thực hành đối với tha nhân của hai bà đã đem lại phần thưởng ngay cho chính hai bà. Thúng bột và bình dầu của bà góa trong thời tiên tri Êlia tuy không đầy hơn, dư hơn nhưng rất lạ lùng là nó không vơi và cũng không cạn. Nó vẫn cứ thế mãi cho đến khi cơn hạn hán của vùng ấy qua đi. Còn trong Tin Mừng của Thánh Marcô đã không thấy đề cập đến cái chết của bà góa sau khi bà đã dâng cúng đến đồng bạc cuối cùng của bà. Đây là những cái nghèo của Phúc Âm, và đây là lối sống nghèo của Tin Mừng. Sống nghèo nhưng không chết vì nghèo. Sống nghèo nhưng tâm hồn thanh thản, bình an và hạnh phúc hơn gấp trăm những người sống cậy dựa vào tiền của vật chất. Vì thúng bột và thùng dầu tâm linh của họ không bao giờ vơi và cạn. Thúng bột và thùng dầu vật chất chắc chắc sẽ vơi và sẽ cạn. Và cũng ở đây chúng ta thấy nổi bật cái mâu thuẫn giữa vật chất và tinh thần. Giữa lối sống Tin Mừng và lối sống theo tự nhiên, giữa cái nghèo Phúc Âm và cái nghèo tiền của vật chất.
Vậy phần tôi thì sao? Tôi đã hiểu, đã thâm tín, và đã sống với tinh thần nghèo của Phúc Âm như thế nào? Một cách thực tế đi vào đời sống thường ngày tôi có bằng lòng, có cảm ơn Thiên Chúa về những gì mình đang có không?
Tôi có hài lòng hoặc ngược lại luôn than trách số phận, than trách Thiên Chúa về cái nghèo của mình không?
Tôi có nhìn của cải và sự giầu sang của người khác bằng cặp mắt ghen tương và hờn giận không?
Và nhất là tôi có để cho cái nghèo khống chế đời mình, hay tôi đã tự mình điều khiển được cái nghèo của mình?
Thật là lạ lùng, trong 8 điều được coi là phúc đức, là những cái đem lại vui mừng và bình an cho con người, thì nghèo được xếp hàng thứ nhất: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo” (Mt 5:3). Tinh thần nghèo được chúc phúc, và những ai có tinh thần nghèo là những người được chúc phúc. Như vậy, nếu Thánh Kinh ca tụng và ghi lại hành động và đời sống nghèo của hai góa phụ ấy, vì họ là những người nghèo nhưng có tinh thần nghèo. Họ tuy nghèo nhưng lòng đầy Thiên Chúa và đức ái của họ tràn dư có khả năng giúp đỡ những người còn nghèo hơn chính họ. Nghèo mà không tham lam. Nghèo mà không hà tiện. Nghèo mà không ghen tỵ. Nghèo mà không mánh mung, cướp dật của người khác. Nghèo mà không phàn nàn, bất mãn về mình nghèo. Nghèo mà không để mất sự bình an của tâm hồn. Bởi vì họ là những người nghèo của Phúc Âm.
Cuộc đời mình cũng đang vụt qua mau, Với bao đỉnh cao và tô vẽ thêm chất chồng thành: TN 32-B61
Cuộc đời mình cũng đang vụt qua mau,
Với bao đỉnh cao và tô vẽ thêm chất chồng thành tích.
Một trăm năm nữa nhìn lại con đường xưa ta đi
Cũng chỉ thấy bồng bềnh vài cụm mây trắng bay bay.
THỬ ĐI GẶP MA
Có ma thật không? Tin hay không tin thì xin mời đến một trong hai ngàn ngôi nhà ma ám có địa chỉ đàng hoàng do William Hauck thu thập trên toàn nước Mỹ, và xuất bản thành cuốn Những Nơi Ma Ám: Sách Hướng Dẫn Về Ma Tới Những Nơi Xẩy Ra Những Hiện Tượng Lạ Thường Trên 50 Tiểu Bang Nước Mỹ (Haunted Places: A Ghostly Guidebook to Sites of Supernatural Phenomena in all 50 States). Đây là những nhà ma có thật chứ không phải những nhà tạo ra để kiếm tiền trẻ em dịp Halloween.
Nguyên ở New Orleans cũng có tới cả chục ngôi nhà ma. Tại địa chỉ 1113 đường Chartres đối diện với nhà dòng Ursuline cũ, lâu lâu người ta thấy hồn tướng Beauregard đi lại điều khiển trận đánh Shiloh với quân quốc rầm rập. Đây là địa điểm xảy ra trận đánh nhau chết nhiều người trước kia có ghi lại trong lịch sử.
Ở ngôi nhà ma số 1447 đường Constance thì thấy hai người lính nét mặt ủ rũ nhợt nhạt đi lại và hát nghêu ngao. Người ta kể lại câu chuyện về hai người lính này vốn là hai người giữ kho thời nội chiến Bắc Nam. Một hôm bị phát giác phạm tội biển thủ lớn nên phải ra tòa án quân sự lãnh án tử hình. Đêm đó hai tên liền rủ nhau kề súng vào nhau mà bắn để cùng chết một lúc.
Hiện tượng thật lạ là ma Hermann Grima ở số nhà 820 đường St Louis không hề phá phách làm ai sợ sệt, nhưng thường tỏa mùi hoa hồng thơm dịu; trời lạnh thì sưởi ấm cho nhà. Nhưng bọn ma LaLaurie Hona ở 1140 đường Royal thì ồn ào động đạc quá sức: chúng là hồn những người nô lệ bị hành hạ trước kia chết ở đây.
Ở ngôi nhà ma Garlette-LePretre ở đường Dauphine thì thường thấy hồn của cặp vợ chồng người Thổ Nhĩ Kỳ bị giết. Và còn nhiều địa chỉ khác nữa như ma Vodoo Queen Marie Lavean ở số 1020 đường St Ann; Ma ở nghĩa địa St Louis I, St Louis II, ma ở 514 đường Chartres; ma ở 739 đường Bourbon v.v.
Mà muốn trải qua kinh nghiệm gặp ma trong tuần này thì xin đến nhà hai nhạc sĩ ở đường Magazine. Larry Jones, 38 tuổi, chơi kèn hắc tiêu và William Moore, 42 tuổi, chơi đàn dương cầm. Hai người mua ngôi nhà này từ bẩy năm qua. Ngay hôm chuyển vào nhà thì hai người đều gặp hồn ma đứng ở hành lang chào đón. Đó là một người đàn ông trung tuổi, nét mặt rất buồn, chằm chằm nhìn vào hai người, nhưng không có tính cách đe dọa, lúc biến đi để lại mùi hoa hồng thơm dịu. Ma này vẫn thường xuyên xuất hiện trong nhà như thế nhưng không phá phách làm hại gì cả nên hai chàng nhạc sĩ sống riết rồi cũng quen. Được hỏi không sợ ma à, thì hai chàng trả lời tỉnh bơ rằng: thì cũng như chấp nhận được khí hậu ở New Orleans, lúc nóng lúc lạnh thất thường. Cái gì cũng quen cả thôi. Cứ coi là có một người thứ ba sống trong nhà.
LÀM SAO CHO HẾT MA ÁM?
Ma hiện hình, đôi khi hiền lành, đôi khi phá phách, đều có một mục đích là nhắc nhở một chuyện: tôi cần bạn giúp tôi! Có thể vì còn quá quyến luyến những người thân yêu hay của cải nhà cửa. Bác sĩ Kenneth McAll trong cuốn Tháo Cởi Dây Trói Buộc trong Dòng Họ (Healing the Family Tree, A Sheldon Press Book, 1982) đã cho biết một số trường hợp hồn người chết nhập vào những người thân còn sống hay gây ra những bệnh lạ.
Những trường hợp ma phá phách ồn ào thường là vì bị chết oan ức tức tưởi như rất nhiều truyện đã kể lại, hoặc hồn vía vẫn lẩn khuất đâu đây vì còn vướng mắc ràng buộc điều gì mà chưa được siêu thoát. Truyện một số tàu hay máy bay bị mất tích không để lại một dấu vết gì ở Tam Giác Bermuda ngoài khơi Florida vẫn là một điều huyền bí. Bác sĩ Kenneth McAll nghiên cứu nguyên nhân thì khám phá ra chi tiết đã được ghi nhận về những chiếc tàu buôn nô lệ từ Phi Châu qua Mỹ. Đã có khoảng hai triệu người Da Đen bị bắt đưa đi bán làm nô lệ. Phim Roots của Haley cũng kể lại chuyện này. Rất nhiều nô lệ đã bị vất xuống biển cho chết trước khi tàu vào Mỹ. Có thể vì những người nô lệ đã quá bệnh và yếu, nhưng vì một điều không ai ngờ là “những tay buôn thường thu được nhiều tiền qua bảo hiểm vì những nô lệ bị mất tích hơn là được bán trực tiếp vào Virginia” (Kenneth McAll, trang 60 sách trên).
Chính bác sĩ Kenneth McAll đã cho biết qua kinh nghiệm về 65 trường hợp trừ được ma ám qua lời cầu nguyện và thánh lễ. Ông kể về một nhà ma ám ở miền Nam nước Anh, cứ nửa đêm là có tiếng động và la hét. Ông đã áp dụng hai điều trên đây thì tự nhiên hết. Ngay trong trường hợp Tam Giác Bermuda từ ngày phát giác ra oan hồn những nô lệ bị vất xuống biển, thì đã có rất nhiều thánh lễ được dâng để xin ơn siêu thoát, và từ năm 1977 tới nay không nghe nói về những trường hợp tàu hay máy bay bị mất tích ở vùng này nữa. Linh mục dòng Biển Đức chuyên môn về trừ quỉ là Dom Robert Petitpierre đã luôn áp dụng bốn bước rất truyền thống trong đạo Chúa để giải thoát ma ám:
Bước 1: Dùng nước thánh để xua đuổi mọi hồn ma ám ảnh trong phòng.
Bước 2: Dâng thánh lễ với ý cầu nguyện cho người chết có hồn ma đó. Trong trường hợp người chết còn quyến luyến chưa dứt bỏ được thì đây là lúc gia đình bằng lòng phó dâng để cho người đó ra đi bình an.
Bước 3: Làm phép toàn thể khu nhà và các phòng.
Bước 4: Dâng một thánh lễ kính vị thánh bổn mạng hay các thiên thần và tạ ơn Chúa, phó dâng mọi sự trong tay Chúa.
TIN VUI GỬI NGƯỜI SỢ THÀNH MA ĐÓI
Dịp đầu tháng 11 ở Mỹ trẻ em có thói chơi trò Ma Đói. Chúng hóa trang thành những con ma với hình dáng ghê sợ khủng khiếp đi từng đàn lang thang xin ăn với lời đe dọa: cho ăn hoặc là bị phá!
Trò chơi này đã trở thành phổ thông đúng là một thời điểm cho tâm trạng con người ngày nay. Trong thâm tâm nhiều người mang mặc cảm tội lỗi khó được siêu thoát mà phải bị “giam hãm” thành những con ma đói. Bởi vì người ta đã phí phạm đời sống, đã chẳng chuẩn bị mang theo gì về đời sau mà xây nhà vĩnh cửu.
Nhìn kỹ và phân tích chất máu con người thời đại, người ta ngỡ ngàng nhận ra khuynh hướng vơ vào hơn là cho ra, lo vun quén cho lợi tức gia tăng, cho những tiêu sài mua sắm. Những từ như hy sinh quên mình, cho đi... hầu như thiếu vắng trong ngôn ngữ thông thường. Và như vậy, con người càng ngày càng trở thành ích kỷ hơn ra chăng?
Có thể vì "trí nhớ ngắn" chẳng nghĩ kịp tới chuyện một ngày gần đây mình cũng sẽ chết. "Con người là con vật kinh tế" mà. Chết như vậy là hết theo nghĩa duy vật và duy con vật. Ra sức mà làm cho mình và người khác ra như vậy mà lại lớn tiếng hô hoán là cổ võ nhân bản mới lạ! Thân xác mình có thể chỉ là một bị thịt bầy nhầy những đam mê dục vọng hay những nhu cầu ăn uống của động vật tính. Cuộc sống không còn lấy một phút an tĩnh để hướng về tâm linh, mà chỉ còn biết vật lộn với những nhu cầu vật chất.
Người đàn bà góa và nghèo trong Tin Vui hôm nay đã biết "đầu tư" một trương mục đường dài, đã biết bỏ vào đó tất cả những gì mình có, để sẵn của mà nuôi hồn chứ không muốn trở thành con ma đói!
Tháng 11 là tháng dừng chân nhìn xa hơn và cao hơn lên một chút, nhìn về đời sau: tôi sẽ đi về đâu sau một quảng ngắn ngủi trên cuộc sống trần gian này? Một bia mộ trong một nghĩa trang đã khắc mấy hàng chữ tóm lược tất cả mọi sinh hoạt cuộc sống trong mấy chục năm trời xoay xở nhớn nhác thu góp tích trữ như thế này:
Những gì tôi đã tích trữ nay không còn nữa.
Những gì tôi đã mua sắm ngay người khác sài.
Những gì tôi đã cho đi nay là của tôi.
Hôm nay con ngồi nhìn lại cuộc sống của mình từ lúc vào đời. Chắc chắn có một ngày mình cũng sẽ chết. Thân xác này sẽ bị hủy hoại thối rữa trong ba ngày hay một thời gian ngắn. Mình sẽ tự hỏi: Những gì còn lại để mang theo vào thế giới bên kia mà xây cho mình một ngôi nhà vĩnh cửu có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị?
Cuộc sống mình càng lo bon chen vơ vét càng thêm đầy đặc đến ngột ngạt căng thẳng mà mãi không thỏa! Lúc này mới thấy cần thiết phải dừng chân dành cho mình một khoảng trống để nhìn lại chính mình mà cất lời trần tình theo lời thơ Nguyễn Trùng Khánh:
Soi gương nhìn lại chính mình
Men say đã thấm nhuộm tình đời cay
Giật mình lạ lẫm thân gầy
Ô hay có phải ta đây không kìa?
Kiếp ngắn dài, một mộ bia
Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian.
Dừng chân đếm túi hành trang
Những gì còn lại chuỗi vàng lời kinh. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
((từ tác phẩm Vũ Khúc Thăng Ca, Thời Điểm xuất bản)
Xin mời thăm gia trang giới thiệu Tư Liệu Xây Nhà Niềm Tin và Văn Hoá Việt: www.dunglac.net
Bà goá ở Sarepta thật nghèo khó nhưng đồng thời lại thật rộng lượng. Bà không còn gì ngoài: TN 32-B62
Bà goá ở Sarepta thật nghèo khó nhưng đồng thời lại thật rộng lượng. Bà không còn gì ngoài một chút bột và một chút dầu đủ cho một bữa ăn đạm bạc cuối cùng, rồi cả hai mẹ con cùng chết. Thế mà bà đã sẵn lòng nhường cho vị tiên tri chiếc bánh nhỏ bé nhưng vô cùng quý giá ấy. Cử chỉ quảng đại của bà đã gặp được lòng quảng đại của Thiên Chúa: Trong suốt cơn hạn hán, bột trong hũ không bao giờ cạn và dầu trong bình không bao giờ vơi. Còn bà goá trong đoạn Tin Mừng vừa nghe cũng thế. Bà nghèo tiền của nhưng giàu lòng quảng đại. Chính lòng quảng đại giữa cảnh túng thiếu đó, trước mặt Thiên Chúa, có giá trị hơn cả vàng bạc của những kẻ dư giả. Người nghèo của thường giàu lòng và Thiên Chúa thì chú trọng đến cõi lòng mỗi người hơn là đến tiền của.
Từ hai câu chuyện trên, chúng ta thấy: Để đánh giá một ai, nhiều lúc chúng ta chỉ dựa vào tiền của. Tiền của trở nên như một thứ thước đo thông dụng, như một thú tiêu chuẩn để xác định ngôi thứ. Kẻ càng có nhiều tiền của thì càng được vị nể và càng có thế lực. Tuy nhiên, cũng có những cái không thể định giá được bằng tiền của, đó là những giá trị tinh thần và trị đạo đức, đó là phẩm chất và cõi lòng con người. Những giá trị này không tuỳ thuộc vào những gì ở bên ngoài, nhưng hệ tại những gì ở trong chính con người.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu không chú trọng đến giá trị kinh tế của hai đồng tiền nhỏ mà bà goá đã bỏ vào hòm. Chúng không là gì cả bên cạnh những đồng tiền lớn của những kẻ giàu sang. Nhưng Ngài đã chú trọng tới tấm lòng của bà, đến giá trị chủ quan của hai đồng tiền nhỏ đối với tình cảnh nghèo túng của bà và đến cách âm thầm khiêm tốn bà dâng tiền vào hòm. Chúa Giêsu không quan tâm đến của dâng cho bằng đến cách dâng và tấm lòng của người dâng. Bởi vì chính tấm lòng chúng ta mới định đoạt giá trị của những việc chúng ta làm.
Thiện căn ở tại lòng ta. Một việc làm tốt rất có thể trở nên xấu vì lòng chúng ta không ngay thẳng, ý chúng ta không trong sáng, chẳng hạn như chúng ta làm để phô trương, để trình diễn, để lấy tiếng, để kiếm chút lợi lộc cá nhân. Trong những trường hợp ấy, chúng ta không làm việc thiện vì chính việc thiện, nhưng vì lợi ích bản thân nhân danh việc thiện mà thôi. Đó là một hình thức ích kỷ rất tinh vi, chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dạy: Đừng để cho tay trái biết việc tay phải làm. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận giá trị thực tiễn của lễ vật hay tặng phẩm. Giá trị kinh tế cũng đáng kể nhưng chưa phải là điểm chính. Nếu được thì của nhiều, lòng nhiều là điều tốt nhất. Còn nếu không được như thế, hoàn cảnh đòi phải chọn lựa, thì của ít lòng nhiều vẫn là điều quý giá hơn. Thực ra khi lòng đã nhiều thì người ta không ngần ngại hiến dâng tối đa những gì mình có. Lòng người đi trước, tiền của theo sau.
Trong câu truyện về bàn góa nghèo dâng hai đồng tiền xu vào Đền Thờ ( Mc 12, 41 – 44: TN 32-B63
Trong câu truyện về bàn góa nghèo dâng hai đồng tiền xu vào Đền Thờ ( Mc 12, 41 – 44 ), Đức Giêsu đề nghị cho các môn đệ của Người một gương mẫu đời sống tôn giáo đích thực và tuyệt vời.
“Khi ấy, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."
Người đàn bà góa bụa nghèo khổ đã chỉ dâng cúng vào thùng tiền Đền Thờ có hai đồng tiền kẽm, tức là một số lượng tiền rất nhỏ. Nhưng theo sự đánh giá của Đức Giêsu, bà đã dâng cúng nhiều hơn ai hết. Nhận định này của Đức Giêsu có vẻ mâu thuẫn và phi lý. Tuy nhiên, cái căn cứ mà trên đó Đức Giêsu đưa ra nhận định độc đáo đó của Người là sự kiện bà đã dâng cúng tất cả những gì bà có, chứ không phải tổng số giá trị vật chất của tài sản đã được dâng cúng. Tiêu chuẩn đánh giá, như vậy, không phải là số lượng tiền, mà là tính cách toàn thể của những gì được dâng và tương quan của những gì được dâng đối với người dâng cúng. Người đàn bà góa bụa và nghèo khổ này đã dâng tất cả những gì bà có trong tay, và là những thứ thiết yếu để nuôi thân bà, tức là bà dâng cúng cho đến mức độ tận cùng, cho dù tổng giá trị vật chất của đồ dâng cúng thật bé nhỏ so với của những người khác.
Đức Giêsu đã coi hành động dâng cúng này là đúng đắn và gương mẫu.
Tác giả Tin Mừng đã cố ý nhấn mạnh trên một chi tiết quan trọng: đây là một người đàn bà góa bụa và nghèo khổ ( cc. 42.43 ). Sự bất hạnh bị nhân đôi: góa bụa và nghèo khổ. Là người phụ nữ giá bụa, bà thuộc về tập hợp những con người bé mọn và yếu thế xét về phương diện xã hội. Bà lại nghèo khổ, có lẽ phải sống nhờ việc ăn mày, vì tất cả những gì bà có chỉ là hai đồng tiền kẽm giá trị một phần tư đồng xu Rôma, tức là bằng một phần sáu đồng quan denarius hay bằng một phần sáu lương công nhật của một người thợ hạng xoàng. Chắc chắn bà chẳng có của nả gì, cũng chẳng có công ăn việc làm gì để nuôi thân, ngoài nghề ăn xin. Bà không chỉ nghèo, mà hơn nữa, bà còn phải hoàn toàn tùy thuộc vào bá tánh để có thể sống qua ngày.
Thế mà bà đã dâng cúng vào hòm tiền Đền Thờ tất cả hai đồng tiền kẽm nhỏ bé ấy.
Có một vài điều cần phải chú ý để hiểu ý nghĩa của hành động này.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là bà đã dâng cúng vào Đền Thờ. Bởi nếu giá trị của hành động nằm ở đó, thì người ta hoàn toàn có thể đặt câu hỏi: tại sao bà góa nghèo này không đem hai đồng tiền kẽm của bà mà bố thí cho những người nghèo khổ khác vốn đầy dẫy xung quanh bà và vốn cần số tiền đó hơn là Đền Thờ ? Quả thực, kho bạc của Đền Thờ chắc chắn đã có nhiều hơn số tiền bà vừa bỏ vào có đến hàng vạn vạn lần rồi. Nếu bà đem hai đồng tiền kẽm bà có mà giúp một người ăn xin bên cạnh bà, thì đó há lại chẳng phải là hành động đáng khen hơn nhiều sao ? Tình yêu đối với những người thân cận nghèo khổ chắc chắn có giá trị gấp nhiều lần tất cả những lễ toàn thiêu và hy lễ, như Đức Giêsu đã từng đồng ý với một ông kinh sư trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước ( x. Mc 12, 33 ). Vậy nếu Đức Giêsu khen bà, thì chắc chắn đó không thể là vì lý do “dâng vào Đền Thờ”.
Vấn đề, thật ra cũng chẳng phải ở chỗ “tất cả tài sản”. Đúng là Đức Giêsu đã từng bảo một người giàu có rằng: “Anh hãy đi bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo... rồi hãy đến theo tôi” ( 10, 21 ). Cho đi tất cả những gì mình có là một giá trị, và là điều không dễ thực hiện, nhất là trong trường hợp một người giàu có. Nhưng trong trường hợp người đàn bà góa nghèo dâng cúng hai đồng tiền kẽm, thì nói như thế là có phần mỉa mai. Bởi lẽ khi dâng cúng hai đồng tiền kẽm này, bà sẽ có thể không quá khó để có hai đồng tiền kẽm khác sau một buổi ăn xin, như bà vẫn làm từ lâu nay. Nếu Đức Giêsu coi hành động dâng cúng hai đồng tiền kẽm của bà có giá trị gương mẫu, thì chắc không phải vì bà đã dâng cúng “tất cả tài sản”.
Vậy đâu là yếu tố làm nên giá trị gương mẫu của thái độ và cách hành xử của bà góa nghèo ở đây ?
Cái làm cho hành động của bà nên gương mẫu là sự tự do của bà trong những nhu cầu của đời sống thế tạm và sự tín thác hoàn toàn của bà vào Thiên Chúa. Có lẽ vì vậy mà Đức Giêsu đã không chỉ nói rằng “bà đã bỏ vào đó tất cả tài sản”, mà là bà đã “bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Người đàn bà góa này đã không lo lắng bận tâm thái quá cho cuộc sống thế tạm, không để cho những lo lắng sự đời xâm chiếm cõi lòng đến độ có thể bóp nghẹt hạt giống Lời được gieo vào lòng ( x. 4, 19 ). Sự tự do và sự tín thác đó mới làm cho hành động của bà góa nghèo nên gương mẫu, bởi nếu không, đó có thể là hành động thiếu khôn ngoan hay liều lĩnh.
Yếu tố thứ hai quan trọng là lòng yêu mến trong hành động dâng cúng này. Trong hoàn cảnh cụ thể của mình, người đàn bà góa đã diễn tả, theo cách thức của bà, lòng yêu mến Thiên Chúa với tất cả sức lực của bà. Đối với bà, hai đồng tiền kẽm này là tất cả những gì làm nên sức lực và sự sống của bà. Và bà dùng nó để diễn tả lòng yêu mến Thiên Chúa theo cách bà có thể làm được. Chính lòng yêu mến Thiên Chúa đã làm cho “tất cả những gì bà có” trở thành có giá trị.
Hai đồng tiền kẽm vốn chẳng có mấy giá trị về vật chất, nhưng việc dâng cúng số tiền ít ỏi ấy của bà góa nghèo lại trở thành gương mẫu cho các môn đệ Chúa Kitô là vì thái độ tâm linh và tôn giáo được thực hiện và hàm chứa trong hành động ấy...
Nếu bà góa Sareptha không lấy chút bột, chút dầu nhỏ bé kia mà làm bánh cho Êlia ăn, thì: TN 32-B64
Nếu bà góa Sareptha không lấy chút bột, chút dầu nhỏ bé kia mà làm bánh cho Êlia ăn, thì mẹ con bà cũng chỉ ăn được trong ngày ấy mà thôi, rồi sẽ chết. Nhưng vì lòng tin và lòng quảng đại, bà nghĩ rằng: nếu ta không lấy chút bột chút dầu kia mà cứu người đang đói là Êlia, thì hẳn Êlia sẽ chết. Việc cần làm ngay là phải cứu người. Còn việc của mình: Chúa sẽ liệu lo.
Và khi bà đã thực hiện như lòng tin và quảng đại, phép lạ đã xảy ra, đó là, hũ bột không vơi, bình dầu không cạn, mẹ con bà không chết đói. “Bà ấy đi và làm như ông Êlia nói; thế là bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán” ( 1 V 17, 15 – 16 ).
Thiên Chúa thật công bằng ! Và công bằng của Ngài không chỉ là trả lại vừa đủ cho ta những gì ta cho đi, mà còn trả lại gấp trăm.
Hình ảnh bà góa Sareptha được nhắc lại trong Tin Mừng theo Thánh Marcô, Nhưng ở đây, đồng tiền của bà góa, đồng tiền nuôi sống bà ta một ngày đời, được kể là đồng tiền có giá trị nhất trước mắt Thiên Chúa. Trong mắt những người bỏ tiền dâng cúng vào hòm, thì có thể họ khinh miệt bà góa ấy, hoặc họ chê trách bà ấy thà đừng bỏ vào hòm tiền thì hơn, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới nhìn thấu tận cõi lòng bà, hiểu được tấm lòng quảng đại của bà, vì đồng tiền ấy là cả sự nghiệp của bà. Bà không đợi đến lúc có dư ra 5 bảy đồng mới dâng cúng được một đồng, nhưng bà dâng ngay tất cả những gì mình có trong lúc cùng cực nhất, bế tắc nhất. “Quả vậy, mọi người điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống" ( Mc 12, 44 ).
Có vài người không bao giờ xin lễ cho các linh hồn, vì cho rằng chưa có lúc nào nhà mình thong thả dư ra được vài chục nghìn.
Cũng có người không thể dâng cúng cho công việc xây dựng Nhà Thờ, vì người ta dâng tiền triệu, há lẽ tôi lại dâng tiền trăm, tiền chục ngàn. Khó coi quá !
Còn có người không thể giúp kẻ hoạn nạn, bởi vì cho rằng tôi còn chưa lo được cho tôi, nói gì đến chuyện giúp người.
Không phải tất cả như thế đâu. May quá, tôi tìm thấy trong danh sách công khai của cha Quang Uy về việc xin trợ giúp các trường hợp bệnh hoạn khẩn cấp của Trung Tâm Mục Vụ DCCT, có cả những người đã giúp 500 USD và cũng có người từng giúp 50.000 VND. Đành rằng có khoản nhiều hơn và ít hơn gấp 200 lần nhưng giá trị trước mặt Chúa không nằm ở những con số. 50.000 VND kia có thể là một ngày công của chị bán bắp, của cô bán xôi, của những người xa quê bán bánh tráng, lạc rang đi suốt một ngày mòn mỏi trên các ngõ phố.
Uống nước trước Bệnh Viện Tim Việt-Pháp, Sàigòn, bạn có thể gặp cả trăm người từ miền Trung vào buôn bán nhỏ. Trước mắt tôi, một chị khoảng 45 tuổi, người Quảng Ngãi, bán bánh tráng, lạc rang, gặp người quen ở quê vào chữa bệnh tim cho con. Sau mấy câu thăm hỏi, chị dúi vào tay chị bạn 80.000 đồng: “Em gửi cho cháu vài hộp sữa. Cầm đi chị, mang tiếng vào Sàigòn làm ăn, nhưng một ngày của em chỉ được chừng ấy”. 80.000 so với ca mổ tim vài chục triệu thì có thấm vào đâu. Nhưng chị kia nắm tiền trong tay mà rưng rưng nước mắt. Tôi tò mò đi theo chị đã làm từ thiện dò hỏi, mới biết, chị vào trong nầy thuê nhà trọ ở chung với con gái đi học đại học. Một là “trông nom con gái, sợ xa cha mẹ ở đất Sàigòn này dễ hư lắm anh ạ”, hai là “kiếm thêm và để dành đóng tiền nhà và tiền học phí cho con”... “Mẹ con em quen ăn mì tôm rồi anh ạ. Ăn mì tôm vài hôm thì cũng dư ra được gần trăm ngàn”. Hỏi chị theo đạo nào, chị nói: “Nhà em không theo đạo nào cả, thờ Ông Bà”.
Như vậy, cũng có người chắt bóp giảm chi tiêu để có được chút gì mà giúp đỡ kẻ khác. Người ấy chắc chưa từng nghe những đoạn Lời Chúa hôm nay, nhưng tấm lòng của họ thật đáng quí. Người Công Giáo vẫn gọi họ là người “lương” đúng nghĩa lương thiện, tốt lành.
Còn người Công Giáo chúng ta thì sao ? Đoạn Tin Mừng về đồng tiền của bà góa nghe đi nghe lại nhiều lần trong đời, nhưng chúng ta vẫn chưa đem ra thực hành chỉ vì một lý do rất đơn giản: Chưa đủ tin vào quyền năng của Thiên Chúa, hoặc tồi tệ hơn, vì vẫn kiêu ngạo mà quá tin vào sức riêng của mình.
Ông C. tim bị hẹp động mạch vành, hay mệt và đã có lần thoát cơn tai biến nhờ cấp cứu kịp. Chị H. mới quen biết ông, nhưng nghe tin ông cần tiền thuốc hằng tháng, chị hẹn xin gặp và trao cho ông bì thư với 3 triệu đồng. Ông C. ngần ngừ không dám nhận. Chị nói: “Có người gửi cho em để giúp kẻ khó. Em đâu được giữ mãi cho em”. Thiết nghĩ đây chỉ là cách nói. Vừa cầm tiền về đến nhà, ông C. nghe tin có một cháu cạnh nhà đi làm về bị tai nạn, bệnh viện trên tỉnh chê rồi, chuyển Chợ Rẫy gấp. Ông C. sang nhà và trao ngay bì thư 1 triệu rưỡi. “Có người mới gửi cho cháu”. Về nhà, ông nghe tim mình nhịp đều những nhịp hạnh phúc.
Ước gì có nhiều người Công Giáo như chị H, như ông C. Những người luôn biết cho đi là những người hạnh phúc.
Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta được hạnh phúc nhờ ĐỨC TIN mà tín thác vào Đấng có thể ban cho chúng ta mọi sự cần. Ngài biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết chúng ta. Ngài lo lắng cho chúng ta nhiều hơn chúng ta lo lắng cho bản thân mình.
Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ “ở hiền, gặp lành” như chị bán bánh tráng, lạc rang, mà các Kitô hữu còn phải biết vượt lên trên cách sống tự nhiên ấy, để mỗi dâng cúng của ta cho người, là một lần minh chứng Đức Tin của chúng ta rằng Thiên Chúa luôn quan phòng gìn giữ những ai sống và thực thi ý muốn của Chúa. Lời Chúa còn nhắc nhớ mỗi chúng ta đừng đánh giá sai lầm những cống hiến âm thầm, nhỏ nhoi, nhưng hãy xét lại những cống hiến của mình xem có phải đã cống hiến vì lòng tin, vì lòng quảng đại hay không.
Trong những cống hiến âm thầm cho nhân loại, tôi phải nghĩ tới những lời nguyện ít ai biết đến, không ai nghe, chẳng ai thấy của những kẻ đau khổ trên giường bệnh, cùng cực trên đường đời, bị áp bức trong nơi tù đày côi cút… Những lời nguyện ấy là sự dâng hiến cho Thiên Chúa cách đáng trân trọng, để Thiên Chúa ban muôn hồng phúc cho mọi người.
Như chú thích cho sự dâng hiến của bà góa, của chúng ta, Thánh Phaolô nhắc đến việc Chúa Giêsu đã “tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” ( x. Dt 9, 24 – 28 ). Vậy mỗi lần chúng ta tín thác vào Thiên Chúa và sẵn lòng mất đi, sẵn lòng chia sẻ sự sống, niềm vui cho người khác, hẳn là chúng ta đang góp phần vào việc tiêu diệt các tội lỗi trong chúng ta để mỗi ngày chúng ta được xứng đáng lãnh hồng ân cứu độ hơn.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi căn bệnh chần chừ, nghi ngại. Xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con biết tín thác vào lòng thương xót và sự quan phòng của Chúa mà dâng hiến cuộc sống của chính mình cho Chúa, cho mọi người. Amen.
Theo một thống kê mới đây, Việt Nam mỗi năm tiêu thụ hơn 200 triệu lít nước mắm, 98%: TN 32-B65
Theo một thống kê mới đây, Việt Nam mỗi năm tiêu thụ hơn 200 triệu lít nước mắm, 98% số hộ gia đình sử dụng nước mắm trong các bữa ăn. Tuy nhiên, rất ít người có thể phân biệt được nước mắm pha chế công nghiệp với sản phẩm được sản xuất theo cách truyền thống, do các chương trình quảng cáo, cũng như trên bao bì các sản phẩm, hầu như không thể hiện điều này.
Mặc dù xuất hiện sau, nhưng dòng sản phẩm nước mắm pha chế công nghiệp đang chiếm từ 60 – 70% thị phần trong nước. Các làng nghề nước mắm truyền thống đang phải vất vả cạnh tranh để tồn tại và ngày càng trở nên yếu thế.
Nước mắm pha chế công nghiệp là loại nước mắm không có vi sinh. Khi nước mắm không có vi sinh là nước mắm giả. Vì theo định nghĩa nước mắm là: Cá ướp với muối trong thùng gỗ, hay chum sành sau một thời gian, nhờ vi sinh kích thích lên men, cho ra một loại nước cốt ( juice ) gọi là nước mắm. Theo quy trình đặc biệt này, nước mắm là sản phẩm độc nhất vô nhị trên thế giới của Việt Nam ( SGTT ). Tuy nhiên, hiện nay nước mắm pha chế công nghiệp đang lên ngôi, dù chẳng cần trang bị thùng chượp, hay chum vại, khiến cho nước mắn chánh hiệu Phan Thiết, Phú Quốc đang phải đối diện nguy cơ phá sản và bị xóa sổ ngay chính trên quê nhà.
Bài tường thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng tha thiết cảnh báo cái thiệt giả về lòng đạo đức. Hôm nay, cũng có thể Người sẽ cảnh báo: “Coi chừng hàng giả !”
Hàng giả lên ngôi
Tuy bề ngoài mẫu mã bắt mắt, quần áo à la mode, cũng tiếp thị phô trương rộng rãi, cũng được chào đón trang trọng, luôn xếp đầu bảng, luôn được thiên hạ ngưỡng mộ, nhưng trang bị toàn đổ giả từ trong đến ngoài, các vị kinh sư đã không thể dễ dàng lọt qua cặp mắt sắc sảo của Chúa Giêsu. Người phải cất tiếng cảnh báo mọi người phải coi chừng, kẻo bị lừa.
"Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” ( Mc 12, 38 – 39 ).
Hàng giả, hàng gian, hàng nhái đó không những độc hại, nguy hiểm, mà còn nhẫn tâm vơ vét hầu bao, vốn đã lép kẹp, của người nghèo khó, bần cùng, Không những tham lam vô độ, mà còn chuộng thói giả hình đạo đức. “Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” ( Mc 12, 38 – 40 ).
Hàng thật quý hiếm
Dẫu vậy, vẫn còn hàng thật quý hiếm khiêm tốn ẩn khuất đâu đó, cũng đang có nguy cơ biến mất trong cái xã hội đảo điên, chuộng đồ giả hơn đồ thiệt. Đó là người sống trung thành với Tin Mừng, nghèo khó, khiêm nhường, vâng phục, nhân ái, nhẫn nhục, tha thứ, hy sinh, tận hiến cho Chúa. Vì số lượng hạn chế, nên hàng thật càng trở nên quý hiếm !
“Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói:"Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” ( Mc 12, 42 – 44 ).
Chúa Giêsu luôn lội ngược dòng đời, không a dua theo thói đời, không bao giờ chấp nhận trò ma mãnh, lọc lừa, dối gian, cũng không chịu khôn ngoan im lặng trước bất công, dù Người biết sẽ phải trả giá cho lời trung ngôn nghịch nhĩ, vì đã sẵn sàng hy sinh làm giá cứu chuộc con người.
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thì Người không khen ngợi bà góa nghèo này, mà chính là ngậm ngùi, thương xót cho thân phận bọt bèo bị áp bức, bị bóc lột thậm tệ bới lớp người lãnh đạo, nhân danh bảo vệ Lề Luật. Các đấng bậc đã dạy bà phải "hy sinh hết mình" và đó là điều đáng tội nghiệp cho người nghèo khổ.
Thưởng phạt công minh
Không ngần ngại, Chúa Giêsu lên án đích đáng hàng giả. “Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn". Một thái độ dứt khoát, không tính toán hơn thiệt, đúng theo sự thật và công lý.
Trong khi thiên hạ cứ mãi khúm núm, kính nể những người khoác bên ngoài cái mã hào nhoáng, bóng bẩy, se sua lụa là, cao sang quyền quý, thì Chúa Giêsu lại phớt lờ họ, không hề tỏ ra gần gũi, hay trọng vọng, vì Người không xem xét hời hợt bên ngoài, mà nhìn thấu suốt tâm can, tình cảm, tư tưởng và hành động, đủ biết họ thế nào.
Ngược lại, Người đặc biệt quan tâm đến những thân phận bần cùng, cơ hàn, thất thế, bịnh hoạn, đui mù, câm điếc, què quặt, xoàng xĩnh, bị rẻ rúng, bị đẩy ra bên ngoài lề xã hội, như bà góa bụa này, như anh mù Bartimê, như bà cụ loạn huyết kinh niên, người phung củi, người quỷ ám…
Chúa Giêsu lý giải minh bạch công đức của bà góa nghèo nàn. Vì bà đã dám từ bỏ hoàn toàn, dám hy sinh cả vốn liếng nhỏ nhoi nuôi thân, chứ không phải của cải dư thừa như người giàu có: “Quả vậy, mọi người điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống" ( Mc 12, 44 ).
Người xác nhận việc công đức của bà góa có gía trị gấp ngàn, gấp vạn lần người dư giả: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” ( Mc 12, 43 ). Như vậy số lượng không thể so sánh với chất lượng, hình thức không thể sánh với nội dung. Những giá trị thế gian không thể sánh nổi giá trị thánh thiêng. Điều mà ngay người Kitô thời nay dễ quên, hay dễ lộng giả thành chân, dễ lẫn lộn giữa giá trị thế gian phù vân với giá trị Nước Trời viên mãn.
“Xin nước bà Samaritana, mượn lừa cỡi vào thành Giêrusalem, mượn thuyền ngồi giảng, mượn phòng lập Phép Thánh Thể, nhìn đồng tiền bà góa bỏ vào hòm cúng, chủ nhân đâu ngờ việc không đâu mà mình được hân hạnh đến thế !” ( Đường Hy Vọng, số 825 ).
Lạy Chúa, xin cho con luôn sống thật thà, không giả hình, và mở rộng lòng con để trao ban quên mình, không chút do dự tính toán, như Chúa Giêsu đã hy sinh cả mạng sống cứu chuộc loài người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp đỡ con đừng vội phán đoán người khác qua vẻ bên ngoài, mà biết nhìn vào tâm hồn tha nhân, để thông cảm, tha thứ, chia sẻ và giúp đỡ trong tình bác ái của Chúa Giêsu Kitô, Amen.
Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi !” Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già: TN 32-B66
“Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi !” Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã đàn ông, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
Gã liếc xuống nhìn xuống những mớ rau rồi đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ ! Rồi phóng xe nhanh. Hắn nghĩ, mình thương người thì ai thương mình. Tiếng vọng của bà cụ vẫn con đó.
Lại có một cô gái nghe bà cụ mời mua rau. Rau như thế thì heo cũng không thèm ăn, nói chi người. Tiếng chát chua phát ra từ miệng cô…
Rồi có một người đàn ông khác đi đến, nghe thấy thế, liền hỏi giá bán rau, và mua hết số rau của bà già, nhưng cũng không quên dặn rằng: “Cho tôi gửi, khi về sẽ ghé lấy…” Ít hôm sau, người đàn ông ghé lại chỗ bà cụ bán rau. Người ta đang bàn tán về bà.
Anh hỏi có chuyện gì vậy, bà cụ bán rau đâu rồi ? Họ trả lời: “Tội nghiệp bà cụ, già cả rồi, vậy mà hôm nọ có người mua rau rồi gửi lại, bà cố ngồi chờ để chủ đến lấy rau nhưng chẳng thấy họ đâu cả. Hôm đó trời lại mưa dữ dội suốt ngày, bà cụ cứ ngồi chờ đợi hoài trong giá rét. Vì lạnh quá bà già chịu không nổi, nên ngã bệnh và đã qua đời…” ( sưu tầm ).
Câu truyện thật cảm động về cảnh nghèo của cụ bà. Tuổi già, đáng lẽ bà được nghỉ ngơi sống an nhàn bên đoàn con cháu. Vậy mà bà vẫn phải tần tảo bán rau kiếm sống qua ngày. Cảnh nghèo của bà thật cảm thương. Đọc chuyện ai cũng cảm phục thái độ sống của bà. Bà không thất hứa cho dù mưa gió bà vẫn chờ đợi để trao tận tay những bó rau đã bán. Có lẽ đây cũng là một bà góa quá nghèo. Bà sống nghèo và chân thành. Bà giữ chữ tín nên đã chết trong mưa rét.
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay kể chuyện hai bà góa. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Ngôn Sứ Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho Ngôn Sứ Êlia một chiếc bánh nhỏ.
Thời Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, vị ngôn sứ được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó, Êlia gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Bà góa có tấm lòng quảng đại nên Chúa đã chúc phúc cho bà: “Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán”.
Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, nghèo nàn. Bà đem hai đồng tiền kẽm là tất cả những gì bà có và dâng vào Đền Thờ. Rất nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa quan sát và khen bà góa đã bỏ nhiều hơn ai hết.
Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng tất cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại Đền Thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.
Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không ? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì ! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà góa bỏ vào thùng tiền Đền Thờ là cả tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà góa xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.
Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng đáng quý. Cho cái mình đang cần mới là thật quý. Cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều.
Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào Đền Thờ, thế mà Chúa chẳng khen ai. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà góa bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Của dâng cúng của bà góa, xét về số lượng chẳng có là bao, nhưng về chất lượng lại đong đầy Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.
Lối đánh giá của Chúa Giêsu giúp ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Lắm khi ta cứ theo hình dáng bề ngoài, theo y phục, theo tiền của mà đánh giá. Chuộng hình thức hơn nội dung. Thích thành tích hơn thực chất. Thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là chất lượng sản phẩm. Hàng hóa thực phẩm giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa.
Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình. Nhiều khi làm điều tốt cho ai, ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác. Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hĩ hơn. Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân. Ta cảm thấy buồn, đau khổ khi bị chê, tự mãn khi được người khác khen.
Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với trọn tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là quà tặng quý hóa nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Theo số lượng thì một phần tư đồng xu là quá ít ỏi. Có thể hai đồng đồng kẽm mua được một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Bà góa cũng không sợ bị chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận mình thấp hèn thua kém người khác. Nhưng với Chúa Giêsu, hai đồng tiền nhỏ của bà lại nhiều hơn hết. Không phải số lượng việc làm hay tiền của dâng cúng mà Thiên Chúa yêu thích, nhưng là một tấm lòng thuộc trọn vẹn về Người.
Thánh Maccô mô tả sự tương phản: các Kinh sư xúng xính trong bộ áo thụng, bà góa đơn sơ nghèo nàn. Bà góa không lo lắng cho chính mình mà chỉ hướng về Thiên Chúa. Bà dâng cúng tất cả những gì đang có vào Đền Thờ. Bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự. Bà thật là người thành tâm, thiện chí. Các Kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì muốn có danh lợi và địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu mong được kính trọng chào hỏi, muốn ngồi chỗ danh dự nhất, lo kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Các Kinh Sư chỉ nghĩ đến mình và tận dụng mọi sự, mọi người và ngay cả việc thờ phượng Thiên Chúa để làm giàu cho riêng mình.
Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.
Lắm người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp. Có những người nghèo khó nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khổ nhưng rất quảng đại. Nhiều người giàu tiền giàu của nhưng lại rất nghèo vì họ không có gì để cho người khác. Họ nghèo lòng nhân ái, nghèo sự cảm thông và nghèo lòng trắc ẩn. Ngược lại, có những người rất nghèo vật chất nhưng lại thật giàu có vì họ luôn có gì đó để sẻ chia. Họ giàu lòng nhân ái, giàu lòng vị tha, giàu tình thương mến.
Mẹ Têrêxa kể lại một câu chuyện. Một ngày nọ, Mẹ đi xuống phố và một người ăn mày đến gặp mẹ và nói: “Thưa Mẹ Têrêxa, mọi người đều cho Mẹ tiền. Tôi cũng muốn cho Mẹ tiền. Hôm nay, suốt cả ngày, tôi chỉ có được ba mươi xu. Tôi muốn cho Mẹ số tiền ấy”.
Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc: “Nếu tôi lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu tôi không lấy, tôi sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương. Vì thế tôi đưa tay ra để lấy số tiền ấy. Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền Mẹ Têrêxa”.
Mẹ Têrêxa nói tiếp: “Đối với người đàn ông nghèo này, phải ngồi suốt cả ngày để chỉ xin được ba mươi xu. Đẹp biết bao, ba mươi xu như thế là một món tiền nhỏ, và có thể tôi chẳng mua được gì nhưng vì anh ta đã cho nó và tôi đã lấy nó, nó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương. Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.
Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có, mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.
Mẹ Têrêxa nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống quảng đại với Chúa và với tha nhân. Amen.
Thiên Chúa chúng ta tôn thờ luôn đứng về phía con người. Ngài thấu suốt mọi bí ẩn. Ngài chạnh: TN 32-B67
Thiên Chúa chúng ta tôn thờ luôn đứng về phía con người. Ngài thấu suốt mọi bí ẩn. Ngài chạnh lòng thương và rộng tay ban phát dư tràn hồng ân cho con người. Như thế, tất cả những gì con người có đều do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa ban cho. Cho nên chúng ta hãy sống tâm tình biết ơn và thái độ sống quảng đại yêu thương là cách đáp trả tích cực làm hài lòng Thiên Chúa nhất. Những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái như luật sĩ và biệt phái tự cho mình là kẻ đạo đức hơn người nên họ dễ lầm lạc khi có thái độ tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu con người. Họ cho rằng cứ đọc kinh nhiều, "nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo" là đặng rỗi. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ tưởng rằng Thiên Chúa là một vị Thần mà người ta có thể hối lộ hoặc kích thích lòng quảng đại bằng những việc đạo đức của họ. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt dựa trên sự công bình: có vay có trả, có qua có lại của con người. Chính quan niệm ấy đã khiến nhiều người xem sự giàu sang phú quý là một chúc lành của Thiên Chúa, còn tai họa rủi ro là một trừng phạt vì tội lỗi; từ đó người ta tự phụ về những công đức của mình và khinh bỉ những người nghèo hèn và những người tội lỗi.
Họ giữ luật nghiêm ngặt, tính toán tỉ mỉ từng cử chỉ: ăn uống phải rửa tay, đi ra ngoài về phải tắm giặt, không hề đụng chạm xác chết, cố tình rình rập xem Chúa Giêsu chữa bệnh ngày Sabat để bắt lỗi...Đáng lý ra họ phải rao giảng và thực thi lòng bác ái hơn, phải đối xử nhân từ với tha nhân, bao dung với kẻ tội lỗi,...Nếu chịu khó nhìn lại bản thân, họ sẽ thấy được sự bất toàn của kiếp người, kể cả bản thân họ cũng từng hơn một lần vấp ngã, lỗi phạm...Thế mà họ không biết thông cảm và yêu thương người đồng loại. Hơn nữa, nếu chịu khó nhìn Thiên Chúa, họ sẽ thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ, sẵn sàng tha thứ và rộng rãi ban ơn cho họ. Những gì hiện họ đang có đều bởi Chúa mà ra. Nếu họ chịu khó nhìn thấy được như thế, nếu họ khiêm tốn thì họ sẽ thấy mình quá bé nhỏ, những gì họ giữ luật lệ, làm cho mình và cho người khác trở nên bé nhỏ, quá ít ỏi so với điều Thiên Chúa ban cho.
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho con người một Thiên Chúa khác so với con người thời ấy tưởng nghĩ. Đó là một vì Thiên Chúa yêu thương mọi người, ngay cả và nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn vào một số công thức "nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo" kia. Hơn nữa, đó là một vì Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt trên mọi tính toán cân lường của con người. Thiên Chúa ban cho con người hơn điều họ mong ước. Bởi vì mục đích là Thiên Chúa muốn tất cả ngững gì con người nhận được đều sinh ích cho họ. Ngay cả điều họ trao hiến cho Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa luôn tôn trọng và quý mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng cho Ngài. Những lễ vật tuy đơn sơ nhỏ bé nhưng chất chứa tình yêu và sự chân thành của chúng ta thì càng được Thiên Chúa đón nhận. Tuy nó nhỏ bé trước mặt người đời nhưng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy được hết những giá trị âm thầm, hy sinh đau khổ của chúng ta, những hy sinh hằng ngày làm nên những giá trị sáng chói trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao. Ngài cho chúng ta thấy Ngài trân trọng và đáng quý trước mặt Ngài biết bao, bởi vì chúng ta là hồng ân của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa kêu gọi lòng yêu mến, quảng đại của chúng ta. Nhưng Thiên Chúa lại cao sang tuyệt đối. Ngài là chủ tể mọi loài mọi vật. Tất cả những gì chúng ta có đều là do bởi Ngài mà ra. Do đó, chúng ta có đáng gì mà dâng cho Chúa đâu. Là thụ tạo, chúng ta quá nhỏ, thân phận nghèo hèn, mỏng giòn, yếu đuối trước một Thiên Chúa cao sang. Chúng ta có thể nghèo tiền của vật chất đủ thứ, thiếu thốn đủ thứ nhưng không ai trong chúng ta có thể sống mà không có trái tim có khả năng yêu thương. Đó là điều cốt lõi, là cái làm cho chúng ta nên giá trị trước mặt Thiên Chúa. Lễ dâng của chúng ta chỉ đáng Chúa chấp nhận khi nói lên lòng yêu mến và chính tình yêu của chúng ta.
Ở Bài đọc 1, Bà goá thành sareptha cũng đã dâng cho ngôn sứ Êlia một chút bột còn sót lại trong hủ, là khẩu phần cuối cùng của bà và đứa con côi cút của bà. Đối với bà trong lúc cả nước đói kém và nắng hạn, thì một chút bột này là cả một tài sản đắt giá có thể cứu được mạng sống của bà và con bà. Thế nhưng bà đã nhường lại khẩu phần cuối cùng của mẹ con bà mà cho Ngôn sứ Êlia ăn trước. Và Thiên Chúa đã trả lại cho bà bằng cách cho hủ bột và bình dầu ăn của bà không bao giờ vơi cạn cho đến khi trời hết hạn và mưa lại đổ xuống. Lòng quảng đại dâng hiến sẽ được Thiên Chúa đền bù gấp bội.
Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta một thái độ đúng đắn phải có, đó là lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy luôn luôn mời gọi chúng ta nhìn vào mọi biến cố cuộc sống với tất cả tin tưởng lạc quan. Khi có một cánh cửa nào đó trong căn nhà của cuộc sống chúng ta bị đóng lại, thì Thiên Chúa lại mở ra những cánh cửa khác. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc và bỏ rơi chúng ta; ngay cả khi đứng trước tội lỗi chúng ta, Ngài cũng không thất vọng, nhưng vẫn luôn luôn tìm một lối thoát tốt đẹp hơn cho chúng ta. Do đó, chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và phó thác vào trong sự an bài của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy sống tình yêu thương bác ái với anh chị em chung quanh chúng ta cho thật tốt theo như ý Chúa muốn, đó là thái độ bày tỏ đức tin của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhìn về Chúa để chúng con thấy Chúa lớn lao, tình thương Chúa dành cho chúng con thật bao la, để từ đó chúng con thấy mình quá nhỏ bé, bất xứng, chỉ biết trông cậy vào Chúa. Và để chúng con luôn biết sống quảng đại với tha nhân như Chúa đã đối xử đại lượng với chúng con. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Amen.
Câu chuyện về hai bà goá được nhắc đến trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu thế nào: TN 32-B68
Câu chuyện về hai bà goá được nhắc đến trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu thế nào về lòng quảng đại của con người. Quảng đại là dám cho đi: cho đi những gì mình đang rất cần đến; cho đi những gì mình đang quí đang yêu ...
Chúa Giêsu đã từng dạy các tông đồ: "cho thì có phúc hơn là nhận". Nói đến việc cho đi thì ta phải nghĩ đến "của cho" và "cách cho". "Của cho" xét cho cùng không quan trọng bằng "cách cho". Cho thế nào để nói lên tấm lòng chân thành của mình và nhất là làm cho người nhận cảm thấy vui lòng. Đặc biệt đối với Chúa, tấm lòng chân thành dâng hiến luôn được Chúa coi trọng: "Ta muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ".
Gần đây báo chí có đăng tin có một anh chàng Việt Kiều đại gia nào đó thích "chơi nổi". Anh ta đừng trên lầu 1 của một khách sạn sang trọng, cầm trong tay một xấp tiền đủ loại mệnh giá, ngoắc tay gọi những người ăn xin, bán vé số lại, rồi tung xấp tiền ấy lên không cho tiền bay tung toé để những người dân nghèo chen chút nhau lụm tiền giữa tiếng kêu la và chen lấn nhau. Và anh ta cảm thấy vui với cách cho tiền của mình như thế. Nhưng những người có lương tri thì cảm thấy ái ngại và xót xa trước việc làm ngông nghênh của kẻ giàu có này, và nhất là Chúa sẽ buồn lắm khi thấy con người hành động theo kiểu "bất nhân" như thế. Cho như thế chắc không đẹp lòng Chúa chút nào!
Cách cho là quan trong. Tấm lòng là quan trọng. "Ai vui vẻ dâng hiến sẽ được Chúa nhận lời". Bà goá ở Xarepta được nhắc đến trong bài đọc 1 hôm nay có vẻ miễn cưỡng, ngập ngừng và lúng túng trước khi cho, vì hoàn cảnh khốn khổ làm cho bà khó giải quyết vấn đề. Nhưng rồi cuối cùng bà cũng dám cho đi cái bà đang rất cần với tấm lòng tin tưởng phó thác và đầy tôn trọng đối với người xin bà. Còn bà goá nghèo được Tin mừng nhắc đến hôm nay có một thái độ rất anh hùng. Chúa Giêsu đã đề cao bà, coi bà như một kiểu mẫu của việc cho đi cách chân thành và không tính toán. Chúa Giêsu muốn các tông đồ nhìn vào đó đẻ học hỏi. Bà goá nghèo ấy đã dám bỏ vào thùng tiền dâng cúng "tất cả những gì bà có để nuôi sống bà", dù số tiền ấy chẳng đáng vào đâu (1/4 xu). Đó là thái độ chân thành và rất anh hùng của người có tấm lòng quảng đại. Chúa Giêsu đã nhìn thấy tấm lòng của bà đối với công việc nhà Chúa mà bà thấy mình phải có trách nhiệm đóng góp vào đó. Cách cho đi của hai bà goá được Kinh thánh nhắc đến hôm nay thật đẹp, thật cao quí.; rất đáng đề cao và rất đáng cho chúng ta học hỏi.
Cho đi cách thật lòng chính là cách khôn ngoan nhất và chắc chắn nhất để ta giữ lại những gì mình có ở trần gian này. Thánh Phanxicô Assisi nói rằng: "chính lúc cho đi là khi được nhận lấy; chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân". Đây không phải là chuyện nghịch lý nhưng là chuyện siêu lý của những người hiểu biết và khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.
Có chuyện kể rằng: có một ông nhà giàu nọ căn dặn người nhà của ông bỏ vào quan tài thật nhiều vàng bạc để khi ông chết đi, ông sẽ có cái mà tiêu xài. Rồi ngày chết của ông cũng đến. Người ta làm đúng theo những gì ông căn dặn. Sang thế giới bên kia, ông nhìn thấy cái gì đựơc bày bán cũng hấp dẫn, nhất là các món ăn. Ông nghĩ rằng phen này tha hồ mà mua sắm và ăn uống thoả thích. Nhưng lạ thay, những người bán ở đây trả lời với ông rằng: tiền của ông ở đây không sử dụng được vì ở đây chỉ sử dụng đồng tiền cho đi chứ không xài tiền thu vào!
Chúng ta đang có đồng tiền loại nào? Chúng ta có dự định sẽ làm gì để có đồng tiền cho đi. Có một nhà tu đức đã nhắc nhở chúng ta rằng:
Những gì chúng ta tiêu xài sẽ tiêu tán mất,
Những gì chúng ta mua sắm thì người khác sẽ dùng,
Những gì chúng ta tích luỹ rồi sẽ phải để lại cho người khác,
Chỉ có những gì chúng ta cho đi là tồn tại mãi.
Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn và tấm lòng của mỗi người chúng ta. Chúa đang xem cách thức chúng ta hành động trong việc cho đi: chúng ta có cho đi những thứ mình đang cần không? Chúng ta có dám cho đi những thứ mình đang yêu thích để chia sẻ cho anh chị em của mình chưa? Hay chúng ta chỉ cho đi những cái dư thừa, những cái bỏ đi vì không ai xài tới. . .? chúng ta có thấy trách nhiệm của mình phải đóng góp vào việc chung vủa Giáo hội không hay chúng ta chỉ là những người đứng ngoài lề, chỉ chờ Giáo hội ban phát cho mình thôi! Chúng ta hãy nhìn lại và tự kiểm điểm của cho, cách cho và trách nhiệm của mình trong thời gian qua như thế nào?!
Ước gì chúng ta hiểu được rằng: cho đi là một hạnh phúc, biết cho đi sẽ làm cho hạnh phúc của mình được nhân lên và tồn tại mãi. Hơn nữa, món quà cho đi sẽ trở nên vĩ đại ở nơi một người có trái tim quảng đại. Hãy học nơi Chúa tấm lòng quảng đại để chúng ta biết cách cho đi đẹp lòng Thiên Chúa. Xin Chúa giúp cho chúng ta hiểu rõ giá trị của những việc làm hy sinh và cho đi với con tim rộng mở và tấm lòng quảng đại theo gương Chúa. Hãy quảng đại đối với c và mọi người để được hưởng tấm lòng quảng đại của Chúa dành cho chúng ta. Amen.
Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh được rao truyền, được giảng giải trong các bài giáo lý và trong: TN 32-B69
Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh được rao truyền, được giảng giải trong các bài giáo lý và trong mỗi Thánh lễ. Thế nhưng có người đọc rồi bỏ qua, có người nghe nhưng không thi hành bởi vì lòng trí đang lệ thuộc vào thế gian, đang đặt danh, lợi, thú làm trung tâm của đời sống, không dành chỗ cho lời Chúa tác động trong tâm hồn mình. Đó là một trong những lý do chính khiến nhiều người chưa theo đạo hoặc theo đạo lấy có, giữ đạo hình thức, giả hình như một số luật sĩ Chúa Giêsu trách cứ hôm nay.
Trong cuộc sống này, tiền bạc, quyền lợi tự nó không tốt cũng không xấu nhưng vấn đề là ở con người. Con người đặt mục tiêu cuộc đời mình ở nơi Chúa hay ở những thứ đó.
Nhiều luật sĩ biệt phái muốn được quyền lợi, được kính trọng nên sinh ra giả hình. Họ đọc kinh dài không vì lòng yêu mến Chúa mà vì lợi lộc trần gian, để "nuốt hết tài sản của các bà góa". Họ là những người học Kinh Thánh và có điều kiện hiểu Lời Chúa hơn những người khác nhưng họ lại sống không đúng lời Chúa dạy. Họ không nhớ rằng: Chúa cần tấm lòng chứ không phải những bản kinh dài mà tâm hồn rỗng tuếch, Chúa lòng chân thành thờ phượng chứ không phải ở kiến thức suông mà thôi .
Đối lại bọn họ, một bà góa nghèo, kiến thức không bao nhiêu nhưng có tấm lòng yêu kính Chúa. Tuy số tiền bà bỏ vào thùng chưa tới 1 xu! Nhưng là người bỏ nhiều nhất, rộng rãi và chân thành nhất: Bà bỏ vào thùng tất cả những gì mình có, bà đã hy sinh cả phần mình đang cần sử dụng để đóng góp cho nhà Chúa. Trong khi đa số những người kia, tuy số tiền nhiều gấp mấy lần nhưng là bỏ phần dư của mình.
Đây là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Chúa chấm công chúng ta không phải ở số lượng và hình thức bên ngoài nhưng ở lòng chân thành của chúng ta khi thi hành những việc đạo đức. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ nhất là lễ Chúa Nhật, chúng ta có đến vì lòng mến Chúa hay vì luật buộc. Nếu chúng ta miễn cưỡng đến vì luật buộc thì chúng ta chẳng khác gì các luật sĩ mà Chúa Giêsu trách cứ hôm nay. Vì Chúa muốn chúng ta giữ đạo vì lòng yêu mến chứ không vì miễn cưỡng. Và để giúp chúng ta giữ đạo vì lòng yêu mến, Ngài đã nêu gương cho chúng ta trước. Sống đạo hết mình, yêu mến Chúa Cha hết linh hồn hết sức lực cho đến hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Đó là lời dạy có giá trị nhất chúng ta cũng hãy noi gương Ngài, bước theo chân Ngài trên con đường về Nước Trời. Chắc chắn, ai giữ đạo thật tình thì Chúa Cha sẽ đón nhận vào Nước Ngài hiển trị.
Chúng ta cùng nhau quan sát sự vật chung quanh, những thứ gần mình nhất, xem có những gì: TN 32-B70
Chúng ta cùng nhau quan sát sự vật chung quanh, những thứ gần mình nhất, xem có những gì tốt đẹp. Nếu nhìn một cái bong bóng được chứa đầy hơi, căng tròn, nó trôi lơ lững nhẹ nhàn, nó dường như muốn bay lên, không chịu bị chôn vùi xuống, nó còn tạo niềm vui cho những đứa trẻ. Nhưng nếu có một bất trắc nào, hay có vật gì chạm đến mà nó không chịu được, nó sẽ vở tan và không còn gì hết, bên trong nó chẵng có gì, nó cũng không còn gì để lưu lại.
Nếu chúng ta nhìn một hòn đá, nó nặng nề nằm sát đất, vị trí rất ổn định không lay chuyển, nó dường như cũng không đèo bồng vươn cao. Có ai đó muốn làm cho nó phải tách ra, việc đó không phải dể, vì thân thể nó không có một chỗ trống nào. Nó không cần vươn cao, nhưng những gì muốn vươn cao cách vững chắc, đều nhờ đến nó. Nó cũng không tạo niềm vui chóng qua, nhưng nó tạo một sự vui mừng vững bền cho những ai biết xử dụng nó cách chính đáng. Những hòn đá nặng nề yên lặng, không vươn cao, nhưng có giá trị vững bền.
Chúng ta vừa nhìn qua hai hình ảnh của con người mà Chúa Giêsu cho chúng ta thấy qua bài phúc âm:
Một hình ảnh hào nhoáng, sang trọng được bao nhiêu người kính phục, bái chào. Hình ảnh cao ngất ngưởng, dường như chỉ biết vươn lên giống như chiếc bong bóng đang lúc căng đầy hơi. Đó là hình ảnh giả tạo, nhở một khi không còn giử được chút hơi nào thì cái dáng vẽ bên ngoài sẽ ra sao, còn con người đó sẽ như thế nào? Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc, vì họ hoàn toàn trống rỗng.
Một hình ảnh đơn sơ nhẹ nhàng, không ai nhìn thấy, nhưng Thiên Chúa nhìn thấy tận trong tâm hồn. Việc làm thầm kín, nhỏ bé, nhưng bằng cả một tâm hồn vĩ đại và chân thành. Tâm hồn đó khó có thể lay chuyển nỗi. Đây là một việc làm có giá trị.
Hai hình ảnh tương phản nhau. Đặt biệt lối nhận xét của Chúa Giêsu, cách nào đó cũng không bình thường như cách của loài người. Những người bình thường vị nể và kính phục sự hào nhoáng bên ngoài, con người chỉ nhìn thấy những gì hiện ra trước mắt và thường chạy theo nó. Chúng ta những người ngồi trong nhà thờ nầy, hoàn toàn là những con người bình thường, nhưng chúng ta có để cho nó trở nên tầm thường như những con người của ngày xưa không ? Suốt cả cuộc đời, và cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn sống, vẫn nhìn, vẫn hành động. Nhưng cái sống, cái nhìn, cái hành động của mình có những lúc nó giống như chiếc bong bóng được căng đầy hơi, nó trương phình lên và bay lơ lững. Nó cũng tự hào vì mình to lớn, nhưng lại quên đi sự trống rỗng của mình, và càng không biết đến một ngày nào đó, nó sẽ nỗ tung, khi đó không có gì tồn tại, vì nó hoàn toàn trống rỗng.
Mỗi người nhìn vào chính mình. Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta ngở mình cao sang, tài giỏi, uy quyền hơn bao nhiêu người khác, để rồi tự mãn kiêu căng, đòi hỏi điều nầy điều nọ. Nhưng thật ra, nếu nhìn kỷ lại, những gì mình hiểu biết, những gì mình đang có, so sánh với những gì mà chúng ta đòi hỏi, nó còn tệ hơn chiếc bong bóng căng đầy hơi. Nó hoàn toàn rỗng tuết và chẵng có chút gì có giá trị. Vậy mà vẫn tự hào. Có những việc làm, chúng ta ngở nó không giá trị gì: Như một chút thương cảm đối với người bên cạnh, trước sự đau khổ, chúng ta tìm cách tạo niềm vui cho họ. Có những lần chúng ta nhín chút thời gian, vì có người cần đến, cũng có những lần chúng ta cố gắng nhường nhịn một câu nói, kềm chế một hành động trả thù, cho hả cơn giận. Có lần chúng ta cố gắng vượt qua được con người yếu hèn của mình, không chìu theo những dục vọng, ước muốn bất chính để sống ngay thẳng trung thực. Đó là những lần chúng ta sống thực sự, bằng hết tâm tình của mình. Khi đó chúng ta giống như người đàn bà nghèo, đã cho tất cả, nhưng không ai nhìn thấy gì hết. Khi đó chúng ta biết tạo cho mình một nền móng vững chắc như những hòn đá và không gì có thể phá vỡ được.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết sống ngay thẳng, trung thực trước mặt Chúa, để những việc làm của chúng ta có giá trị trước Mặt Chúa vì được phát xuất bởi tình Yêu.
"Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống" (Mc 12, 44).
Khi tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ can đảm cho đi tất cả những gì mình đang sở: TN 32-B71
Khi tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ can đảm cho đi tất cả những gì mình đang sở hữu và những thứ làm cho mình tồn tại.
Sách các Vua quyển thứ nhất kể câu chuyện nạn đói xảy ra thời tiên tri Êlia, đời vua Akháp, tại Xarépta thuộc xứ Xiđôn và đối với dân Israel nó làø vùng đất của dân ngoại. Nạn đói hoành hành đến mức nguy hiểm, mọi người trong vùng sẽ phải chết đói. Tiên tri Êlia cũng không ngoại lệ nhưng Thiên Chúa đã cho ông ta gặp một bà goá mà hủ bột trong nhà bà này chỉ còn duy nhất một phần ăn, ăn xong rồi chờ chết. Êlia đến xin bà ta một phần ăn để cho qua cơn đói, một yêu cầu thật sự khó khăn cho bà goá nghèo này nhưng vì niềm tin vào Thiên Chúa và sự can đảm cho đi phép lạ đã xảy ra, hủ bột và dầu trong nhà không hề vơi. Êlia và cả gia đình bà goá được cứu sống.
Trong Tin Mừng Maccô cũng thuật lại hai thái độ trái ngược trong một việc làm. Đó là việc bố thí và thái độ của những người giàu với một người đàn bà nghèo. Một bên phô trương và cho đi những của dư thừa, một bên trong âm thầm và cho đi tất cả những gì mình có để sống. Chúa Giêsu đã đề cao việc làm và thái độ bà goá nghèo.
So sánh hai thái độ, hành động của bà goá trong Cựu Ước và Tân Ước, họ có chung một điểm đó là tinh thần can đảm cho đi và tâm hồn hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Kết quả là họ không mất gì cả mà được tất cả. Bà goá ở Xarépta được một hủ bột và dầu không hề vơi, đời sống của bà được bảo đảm và an toàn, còn bà goá nghèo trong Tin Mừng Máccô tuy chúng ta không biết kết quả sau này của bà ta như thế nào nhưng việc làm của bà lại đẹp lòng Thiên Chúa, như vậy đã đủ đối với một con người tin tưởng vào Chúa. Đây cũng là lời mời gọi cho cách sống của mỗi người chúng ta ngày hôm nay vì đời sống của người kitô hữu không phải sống là để đẹp lòng Thiên Chúa hay sao? Đó là cách sống người kitô hữu phải sốâng và thực hành tinh thần này trong mỗi ngày sống của chúng ta. Cách sống mà Chúa Giêsu đề cao như đối với bà goá nghèo.
Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức của chúng ta, điều cần thiết không phải là cho đi bao nhiêu và cái gì. Vì cho đi bao nhiêu là đủ và làm sao đáp ứng mọi nhu cầu của người khác nhưng quan trọng là chúng ta có can đảm cho đi và cách cho của chúng ta như thế nào. Khiêm tốn, dám cho đi tất cả những gì mình có thể cho, không giữ lại cho mình điều gì, dù chúng ta đang thiếu thốn.
Đây là một bài học và tinh thần sống đòi hỏi chúng ta phải sống, rèn luyện và thực hành hằng ngày. Dù chúng ta có thể hiểu và xác tín lời mời gọi này, cho đi tất cả để được tất cả nhưng xem ra rất mạo hiểm, mất mát. Chúa không bao giờ phụ người có lòng, Ngài luôn công bằng và sẽ đền bù gấp bội những gì chúng ta dám cho đi, ngay cả những thứ chúng ta không cho.
Nhiều lúc chúng ta tưởng, chúng ta cho rất nhiều, cho cả những thứ quý giá và quan trọng nhất đời mình nhưng thật sự đối với Chúa và nhu cầu của tha nhân thì nó thật nhỏ bé.
Chúng ta vẫn biết rằng những gì chúng ta có đều là của Chúa, Ngài chỉ mời gọi chúng có chia sẻ cho những người xung quanh mà thôi. Đời sống chúng ta có Chúa thì chúng ta sẽ can đảm cho đi tất cả, không nệ hà, so đo và tính toán.
Ước gì mỗi người chúng ta dám cho đi những gì mình có, sức khoẻ, thời gian, của cải và ngay cả mạng sống mình vì lợi ích tha nhân và đó là điều mong muốn của Chúa.
Dường như một trong những nỗi lo lớn của con người là phòng thân. Ai cũng tranh thủ lo tích trữ: TN 32-B72
Dường như một trong những nỗi lo lớn của con người là phòng thân. Ai cũng tranh thủ lo tích trữ chút đỉnh tiền bạc của cải để lo cho bản thân mình phòng khi có chuyện bất trắc xảy ra. Khi cần giúp đỡ ai người ta cũng dành lại chút ít chứ khó có trường hợp nào mà người ta dám cho đi tất cả. Ðó là cái nhìn bình thường và tự nhiên ai cũng công nhận.
Ðoạn tin mừng hôm nay cho ta thấy một người dám sống ngược lại với cái nhìn và suy nghĩ bình thường này. Người này đã dám cho đi tất cả. Một người đàn góa nghèo đã dám bỏ vào hòm tiền dâng cúng trong Ðền Thờ một phần tư xu. Số tiền tuy ít ỏi nhưng là cả tấm lòng của bà.
Chúng ta biết người đàn bà theo xã hội Á Ðông phải chu toàn Tam tòng Tứ đức. Người đàn bà này có thể không còn chỗ nương tựa. Bởi lẽ, bà đã xuất giá theo chồng mà chồng lại chết. Và có lẽ bà cũng không có con trai để nương tựa. Do đó, cuộc sống của bà trở nên nghèo khó.
Dầu vậy, chúng ta thấy bà nghèo tiền của vật chất nhưng tấm lòng của bà lại không nghèo. Chúa Giêsu đã ngồi quan sát những người bỏ tiền vào thùng. Ðã có nhiều người bỏ vào thùng này nhưng Người không nói câu gì. Ðến lượt bà Chúa Giêsu đã vội lên tiếng: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Mc 12, 43b - 44)
Chúa Giêsu nhìn thấu cõi lòng con người. Chúa không đánh giá con người theo dáng vẻ bên ngoài. Chúa Giêsu không dựa vào tiêu chuẩn những gì con người có mà Người dựa vào tận thâm sâu tâm hồn mỗi người. Chắc chắn người đàn bà góa nghèo này có lòng tin tưởng thật sự vào Chúa nên bà mới dám cho đi tất cả. Dù rằng một phần tư xu đó là phần nuôi sống bà ngày hôm đó nhưng bà vẫn không giữ lại cho riêng mình.
Mối thứ ba trong cải tội bảy đức dạy chúng ta rộng rãi chớ hà tiện. Rộng rãi với Chúa, rộng rãi với anh chị em. Thế nhưng thực tế chúng ta thấy có nhiều người lại không dám cho đi dù là phần dư thừa. Với Chúa thì họ không dám cho Chúa thời giờ đi dự lễ ngày Chúa nhật cũng như giờ kinh hôm, kinh mai mỗi ngày. Với anh chị em thì họ sống theo châm ngôn "mọi người phải vì mình" .
Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết dám cho đi tất cả vì Chúa và vì anh chị em. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thua sự rộng rãi quảng đại của chúng ta.
Bài giải thích của cha giảng Phủ Giáo Hoàng, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, về các bài đọc từ phụng vụ Chúa nhật 32 thường niên
Ngày kia, Chúa Giêsu đứng trước thùng tiền đền thờ, quan sát xem đám đông dâng cúng tiền. Người: TN 32-B73
Ngày kia, Chúa Giêsu đứng trước thùng tiền đền thờ, quan sát xem đám đông dâng cúng tiền. Người thấy một bà góa đến và bỏ vào thùng tất cả những gì bà có, hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Roma. Người quay về các môn đệ của Người và nói, "Thầy bảo thật anh em, bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó, còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống."
Chúng ta có thể gọi Chúa Nhật này là "Chúa Nhật những bà góa." Truyện một bà góa cũng được tường thuật trong bài đọc thứ nhất, bà góa thành Zarephath, kẻ đã cho tất cả những gì bà có để ăn (một nắm bột và một giọt dầu) đễ dọn một bữa ăn cho tiên tri Elia.
Đây là một dịp tốt để lưu ý đến hai bà goá đó và những ông goá vợ ngày nay. Nếu Kinh Thánh thường nói về những bà góa và không bao giờ nói về các ông góa, là vì trong xã hội ngày xưa người phụ nữ bị bỏ lại một mình là một sự bất lợi lớn hơn người nam bị bỏ lại một mình. Ngày nay không còn sự khác biệt này nữa. Thực sự, nói chung thì bây giờ xem ra những người nữ ở một mình xoay sở tốt hơn người nam.
Trong dịp này tôi muốn đề cập một chủ đề đáng quan tâm dứt khoát không những cho các bà goá và ông góa, nhưng cũng cho tất cả những ai đã kết hôn, cách riêng trong tháng này tháng chúng ta nhớ đến người chết. Có phải sự chết của một người chồng hay bà vợ, đem lại sự chấm dứt hợp pháp của một cuộc hôn nhân, cũng mang theo nó sự chấm dứt hoàn toàn hiệp thông giữa hai người? Có phải một sự gì của dây ràn buộc này đã hiệp nhất rất mãnh liệt hai người trên mặt đất, vẫn tồn tại trên trời, hay là tất cả bỉ lãng quên một khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa vào sự sống đời đời?
Ngày kia, một số người Sadducé trình bày với Chúa Giêsu trường hợp hi hữu về một người nữ vợ liên tiếp của bảy anh em, hỏi Chúa bà ấy sẽ là vợ của ai sau ngày sống lại. Chúa Giêsu trả lời: "Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời" ( Mark 12:25).
Vì giải thích sai lạc lời nói này của Chúa Giêsu, nên một số người chủ trương rằng hôn nhân sẽ không có tiếp tục trên trời. Nhưng với sự đáp trả này Chúa Giêsu loại trừ tranh biếm họa những người Sadducé trình bày về thiên đàng, dường như trên thiên đàng sẽ tiếp tục quan hệ trần tục của vợ chồng. Chúa Giêsu không loại bỏ khả năng họ có thể tái khám phá trong Thiên Chúa dây ràn buộc đã liên kết họ dưới thế.
Theo quan niệm nầy, hôn nhân không chấm dứt hẳn lúc chết nhưng được biến đổi, thiêng liêng hóa, giải phóng khỏi những giới hạn đánh dấu sự sống trên mặt đất, cũng như những sự ràn buộc giữa cha mẹ và con cái hay là giữa bạn hữu sẽ không bị bỏ quên. Trong một kinh tiền tụng cho người chết phụng vụ công bố:" Sự sống được thay đổi chớ không mất đi." Cà hôn nhân, là thành phần của sự sống, sẽ được thay đổi, chớ không bị hủy bỏ.
Nhưng cái gì xảy ra cho những kẻ đã có một kinh nghiệm tiêu cực vế hôn nhân trần tục, một kinh nghiệm về sự hiểu lầm và đau khổ? Ý niệm giây hôn nhân không dứt cho họ lúc chết, có phải thay cho một niềm an ủi, lại là một lý do làm cho họ sợ chăng? Tình yêu đã liên kết họ, có lẽ chỉ một thời gian ngắn, vẫn tồn tại; những khuyết điểm, những hiểu lầm, sự đau khổ mà họ giáng cho nhau, sẽ tiêu tan.
Thật sự, chính sự đau khổ này, chấp nhận với đức tin, sẽ được biến đổi thành vinh quang. Nhiều vợ chồng sẽ cảm nghiệm tình yêu thật cho nhau chỉ khi họ sẽ được tái hiệp nhất "trong Thiên Chúa," và với tình yêu này sẽ có niềm vui và sự hiệp nhất trọn vẹn mà họ không biết được dưới đất. Trong Thiên Chúa mọi sự sẽ được hiểu, mọi sự sẽ được tha thứ, mọi sự sẽ được bỏ qua.
Dĩ nhiên nhiều người sẽ hỏi về những kẻ đã kết hôn hợp pháp với những người khác nhau, những ông goá và những bà góa đã tái kết hôn. (Đây là trường hợp được trình bày cho Chúa Giêsu về bảy anh em lần lượt cưới cũng một người nữ làm vợ.} Cả đối với họ chúng ta phải lập lại cũng một sự: tình yêu và sự trao thân cho nhau thực sự giữa mỗi người chồng và vợ, vì khách quan là một sự lành đến từ Thiên Chúa, sẽ không bị phá hủy. Trên thiên đàng sẽ không có sự tranh đua trong tình yêu hay sự ganh tị. Những sự này không thuộc về tình yêu thật nhưng thuộc về những giới hạn nội tại của tạo vật.
Nói đến bố thí người ta nghĩ ngay đến cho đi những gì thuộc về vật chất như: tiền bạc, cơm ăn: TN 32-B74
Nói đến bố thí người ta nghĩ ngay đến cho đi những gì thuộc về vật chất như: tiền bạc, cơm ăn, áo mặc.
Xin ông bà làm ơn, làm phước cho con xin đồng tiền bát gạo.
Câu xin này khiến chúng ta liên tưởng đến của cải, vật chất khi bố thí. Thực ra việc bố thí bao la hơn câu trên. Bản chất của bố thí là cho đi với lòng yêu mến, vì chạnh lòng thương. Cho vì thương người nghèo khó, túng quẫn. Cho vì lòng mến Chúa thương tha nhân. Cho bao gồm của cải, vật chất, nhà cửa, ruộng vườn, việc làm, thời giờ, sự hiểu biết, tinh thần hoặc ngay cả tình yêu.
CHO HAY BIẾU
Tùy theo đối tượng nhận mà việc cho mang tên thích hợp. Cha mẹ để ruộng vườn, tài sản cho con cái gọi là đất hương hỏa. Con cho cha mẹ thì thành của biếu. Cùng một món quà nếu vua cho dân gọi là lộc vua; dân cho vua phải gọi là tiến vua; bạn bè cho nhau thành quà tặng; giầu cho nghèo biến thành bố thí; giáo dân cho Giáo Hội là dâng cúng. Giáo Hội cho giáo dân là ban ơn. Mang hoa cho Đức Mẹ gọi là dâng, tiến hoa. Cho tiền xây cất tượng đài hay thánh đường gọi là ủng hộ. Bỏ tài lực và công sức phục vụ coi là hy sinh.
CÁCH NHÌN KHÁC NHAU
Phúc âm nhắc việc bà góa bỏ tiền vào nhà thờ. Có hai cách nhìn khác nhau. Ta nhìn bên ngoài để nhận định sự việc. Chúa đánh giá tấm lòng bên trong. Ta nhìn giá trị vật chất đo lường lòng hảo tâm người cho. Chúa nhìn vào giá trị sâu thẳm trong tâm hồn để định lượng sự việc. Ta nhìn vào số tiền dâng cúng đem lòng kính trọng. Chúa nhìn vào tình yêu, lòng mến tỏ lòng quý mến.
' Lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền. Bà góa nghèo bỏ hai đồng. Chúa khen bà: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.' Vì
' mọi người lấy tiền dư bạc thừa của họ và đem bỏ vào đó, còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân.'
Chúa nhìn thấy nội tâm còn chúng ta làm sao biết được lòng người. Chấp nhận lập luận này đồng nghĩa với chấp nhận tránh phán đoán vì không rõ lòng người. Với Chúa kẻ bố thí nhiều không phải là cho nhiều tiền mà cho với nhiều tâm tình. Tâm tình đó đến từ lòng mến, chân thành. Chúa khen bà góa vì bà cho của túng thiếu, tiền dùng mua cơm chiều nay nhưng bà dốc cạn túi dâng cúng.
BỐ THÍ ÂM THẦM
Có nơi vì mong đạt mục đích muốn thực hiện hoặc do quá sốt sắng biến vật chất thành chính, tâm tình hiến dâng thành phụ. Dùng Danh Cha làm sáng danh con. Xấp bạc biến người đó thành ân nhân ưu hạng của cộng đoàn dân Chúa. Ân nhân loại cao cấp được thưởng ba hồi chuông trong ngày lễ an táng, trọn đời hưởng lễ đặc biệt dành cho. Nên nhớ lời Chúa hứa chắc chắn hơn ngàn lần lời cha hứa. Chúa dậy khi làm phúc bố thí đừng khua chiêng gõ mõ. Trong khi đó cha nêu danh cho bá tánh biết để noi gương. Lời hứa khó thực hiện. Khi cha xứ đổi đi nơi khác bàn giao 'ân nhân' cho người thừa kế dù người này không hứa. Đôi khi không bàn giao lời hứa. Chúa không bao giờ nuốt lời hứa nhưng cha hứa đôi khi phải xét lại vì cha cũng có tính mau quên.
Chúa hứa dù cho một chén nước Ngài cũng không quên. Xin nhớ câu tiếp theo 'vì Danh Chúa'. Bố thí vì Danh Chúa sẽ không bị lãng quên, nhưng bố thí cho danh con cả sáng, sổ vàng ân nhân thì lại khác vì đã được đồng đạo ca tụng ban khen.
' Vậy khi bố thí, đừng có khua chiên đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em'. Mat 6,1-4.
Cần nơi thờ phượng khang trang sạch sẽ là điều tốt. Nhà của Chúa nên phải coi trọng. Còn Đền Thờ Chúa Thánh Thần thì sao? Cũng phải coi trọng. Anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần vì thế mà việc bố thí cho kẻ đói ăn, khát uống, lạnh cho áo mặc, rét run sưởi cho ấm, cô đơn đến ngồi bên, bệnh tật cho thuốc uống, quan trọng ngang với xây dựng nhà Chúa. Nhà Chúa nguy nga phản lại đền thờ Chúa Thánh Thần rách nát. Hãy chăm sóc đền thờ sống động nhiều hơn, quan tâm đến đền thờ biết đi, biết xin, biết đói, biết khổ nhiều hơn vì điều đó làm đẹp lòng Chúa. Ngày phán xét Chúa cũng chỉ hỏi có bấy nhiêu.
Hy sinh mong được tiếng sẽ mất tiếng. Hy sinh không cần tiếng lại nổi tiếng. Đó là trường hợp của Thánh Phanxicô thành Assissi, của Vinh Sơn Đệ Phaolô, của Mẹ Têrêsa thành Calcuta, Mary Mc Killop của Úc. Tất cả đều cho đi trong âm thầm khi chết người vang lời ca tụng.
Không ai phủ nhận cho đi là cách làm giầu tốt nhất. Nhưng phải cho đi theo tinh thần của bà góa cho tiên tri Elia (1V 17,10-16) miếng bánh. Đây chính là đền thờ sống động. Cho đi trong tinh thần bà góa Chúa nhắc đến trong phúc âm Mc 12,41-44. Đây chính là đền thờ gỗ đá, nhà Chúa. Cả hai đều tốt vì cả hai đều làm âm thầm, khiêm nhường và yêu mến.
Chúng ta không biết số phận người đàn bà nghèo khó trong Phúc Âm hôm nay sẽ ra sao, sau khi: TN 32-B75
Chúng ta không biết số phận người đàn bà nghèo khó trong Phúc Âm hôm nay sẽ ra sao, sau khi bà ta bỏ hết số tiền mình có vào thùng dâng cúng: "Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma,... Còn bà này đã túng thiếu lại bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân." Liệu sau đó bà chết đói không? Tuy nhiên người đàn bà goá trong bài đọc một hôm nay lại được Thiên Chúa thưởng công: "hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất." Chẳng là vì bà đã hy sinh nắm bột cuối cùng để nuôi sống tiên tri Elia, người của Thiên Chúa. Chúng ta tin chắc Chúa Giêsu không để bà goá ở đền thờ Giêrusalem chết đói. Nhưng chúng ta nghĩ thế nào về những hành khất chung quanh mình? Liệu họ có phải tử vong vì lòng hẹp hòi của chúng ta? Xin đừng môi miệng suông, nhưng xin hãy thực tế. Người xưa đã nói: "Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc giúp cho một người." Ngày nay trên thế giới còn ức triệu người vô danh tiểu tốt, nửa sống nửa chết vì thiếu thức ăn. Liệu chúng ta dám bớt phần phung phí để giúp họ? Liệu chúng ta nghe thủng lời giám mục Herder Camara Châu Mỹ La Tinh: "Giảng về người nghèo thì dễ, sống như họ mới khó", nó đòi hỏi ơn thánh và sự can đảm. Chúng ta rao giảng về sự nghèo khó nhiều rồi, nhưng sống được bao niêu? Hay chỉ khua môi miệng khoác lác. Sống nghèo là một điều kiện cần thiết để theo Chúa.
Trong Cựu Ước săn sóc người nghèo khổ là điều bắt buộc thành luật: "Tuyệt nhiên giữa anh em không có người nghèo"(Đnl 15, 4) nhưng cho đến bây giờ luật này thường bị coi nhẹ bởi những kẻ chỉ lo cho bản thân mình. Cho nên chẳng lạ gì chúng ta được nghe câu truyện hôm nay. Nó nhằm cảnh tỉnh những thính giả của Chúa Giêsu. Chúa muốn nói gì? Thường thường người ta nhắc đến đồng xu của bà goá, khi muốn ca ngợi hay tán dương một tấm lòng rộng rãi. Tuy nhiên nó có nghĩa, việc đóng góp dù nhỏ thế nào cũng có giá trị, nhất là khi người ta đóng góp bằng ngân sách nhỏ bé của mình.
Nhưng câu truyện bà goá dâng cúng được đặt ngay sau lời chỉ trích của Chúa Giêsu về các kinh sư: "Anh em phải coi chừng các ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong bữa tiệc. Họ nuốt hết tài sản cuả các bà goá. Lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ." Chúng ta khó mà tưởng tượng quí vị kinh sư này lao động cực nhọc trong các bộ áo dài. Coi chừng đó cũng là hình ảnh của các đấng bậc ngày nay, khi họ tìm kiếm những lợi lộc trần gian.
Than ôi, liệu chúng ta có thể tránh khỏi lời khiển trách của Chúa Giêsu không? Nếu cứ tiếp tục nếp sống hiện nay? " Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn", bởi vì họ nuốt hết tài sản của các bà goá. Các đồng tiền dâng cúng có lẽ sẽ rơi vào gia đình họ hết thảy vì cầu nguyện lâu giờ. Hoặc họ lợi dụng các của cải nâng đỡ người nghèo khổ trong dân mà lo cho bản thân, còn càc bà goá để mặc lây lất giữa dòng đời: sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Lòng tham lam của con người luôn luôn như vậy, bất chấp lề luật và lời khuyên răn. Liệu bạn có thể tưởng tượng ra lời kết án nào nặng nề hơn lời Chúa Giêsu hôm nay? "Nuốt hết tài sản các bà goá". Nghĩa là họ dùng đủ mọi mánh khoé để có cuộc sống sung túc trên lưng các người nghèo khổ. Nghe câu truyện chúng ta phải mủi lòng: "tất cả những gì bà có để nuôi thân. Liệu có phải đó là điều Thiên Chúa muốn nhắm tới những phung phí trong các bữa tiệc, dạ hội, agape của quan chức Giáo Hội?
Trong nội dung bài Tin Mừng Chúa Giêsu đặt song song hai nhóm người. một, các thày tiến sĩ luật ăn sung mặc sướng, nổi danh giữa đám đông lam lũ. Chúng ta có thể nghe văng vẳng bên tai lời chúc tụng ca khen. Tiếng chào đáp lại sang sảng với nụ cười tươi tắn trên môi. Những xoa đầu thăm hỏi lấy lệ. Họ được mời lên hàng đầu, chỗ danh dự trên cả những ông già bà cả. Tôi còn nhớ như in một linh mục trẻ được mời đến dự tiệc lễ quan thày của một giáo họ nhỏ. Ong bà trùm vì còn líu tiú với các khách khứa khác nên chậm tiếp đón linh mục. Ong tức mình bỏ về với lý do bận việc. Than ôi, môn đệ Chúa rao giảng hùng hồn giữa thánh đường về lòng khiêm nhường, kiên nhẫn giống Chúa Giêsu! chúng ta cũng chẳng hơn đâu. Tuy nhiên không phải Chúa Giêsu kết án tất cả các kinh sư. Tuần trước chúng ta được nghe Ngài khen ngợi một kinh sư khôn ngoan: "Ong không còn xa nước Thiên Chúa đâu." Hôm nay Chúa tập trung vào một loại kinh sư "đặc biệt" tham lam và giả hình. Loại kinh sư quên bẵng ơn kêu gọi của mình là phụng thờ Thiên Chúa chân thật và phục vụ tha nhân khốn khổ.
Nhóm người thứ hai là bà goá, trẻ mồ côi. Họ đứng tương phản sắc nét với các kinh sư, ký lục. Chẳng ai để ý tới họ. Chẳng ai chào hỏi một lời. Họ sống như những chiếc bóng giữa lòng xã hội: yên lặng và nghèo đói. Nguời thì bị bóc lột, kẻ bị các kinh sư nuốt hết gia tài, kẻ khác làm thuê làm mướn được chút lương ít ỏi như bà goá trong đền thờ hôm nay. Dù có ít đi nữa thì họ cũng đóng góp để nuôi sống kinh sư và bảo trì đền thờ. Thời ấy mỗi khi bỏ tiền vào thùng, người ta dơ cao món tiền trước mặt các tính hữu, rồi buông tay, tiền rơi kêu 'xoảng' vào đống tiền khác có trong thùng. Bà goá nghèo khó này chắc chắn ngần ngừ lâu lắm, có thể là đến mấy ngày, vì số tiền ít ỏi, chỉ có hai đồng kẽm là một phần tư xu Rôma. Cuối cùng bà mạnh dạn bỏ vào. Chúa Giêsu trông thấy vì bà cũng phải dơ cao lên cho thiên hạ xem. Xấu hổ chưa? Đúng là người đàn bà đạo đức, làm tròn bổn phận tôn giáo. Các kinh sư ngồi quanh đấy bĩu môi khinh bỉ. Còn Chúa Giêsu khen. Oi nhân tình thế thái. Giả như bà bỏ mấy đồng vàng, hẳn được danh giá. Nhưng không có nên bỏ tất cả những gì để nuôi thân. Trước mặt Thiên Chúa, hy sinh của bà đáng giá hơn các đóng góp to lớn khác của người giàu có.
Chúng ta đang tiến tới kết thúc năm phụng vụ, ít lâu nữa sẽ được nghe Chúa Giêsu nói về ngày cánh chung. Sự an toàn và nơi tin cậy của chúng ta xưa nay sẽ được lật tẩy và lượng giá lại. Liệu chúng ta sẽ bị xét xử khi thế giới của mình sụp đổ? Nếu chúng ta đặt tin tưởng vào vật chất, khinh thường Lời Chúa, chúng ta sẽ bị án phạt. Ngược lại, nếu vâng theo những giá trị Chúa dạy bảo trong các dụ ngôn, chúng ta sẽ được khen thưởng. Câu truyện hôm nay nhắc nhớ tín hữu phải thực hành tôn giáo từ cõi lòng mình với tinh thần ngay thẳng chân thật, chứ không giả đò hoang tưởng. Tinh thần ấy khiến cho mọi người phục vụ lẫn nhau, tìm ích lợi cho nhau trong hy sinh và quảng đại. Thái độ của Pharisêu và kinh sư cảnh tỉnh chúng ta đừng bao giờ lợi dụng kẻ khác. Đạo đức mà không có yêu thương chỉ là lừa dối. Chúng ta thuộc về nhóm nào trong hai hạng người nói trên? Thực tế nên xét lại trong các cộng đoàn tu trì, giáo dân, nhà thờ, giáo hội xem chúng ta sống theo tiêu chuẩn nào? Bày tỏ danh dự và trọng kính đối với ai? Những kẻ nặng túi hay người khố rách áo ôm? Chúng ta săn đón ai? Kẻ nhiều tiền lắm bạc hay hành khất ăn xin? Nếu chúng ta ưu ái tiền bạc hơn nghèo khó thì lúc ấy theo như Tin Mừng hôm nay, cộng đoàn chúng ta có vấn đề. Chúng ta bỏ lỡ lời dạy của Chúa Giêsu về người đàn bà nghèo khó ở tiền đình đền thờ Giêrusalem.
Trong hoàn cảnh của giáo xứ, tôi muốn biểu dương những công việc và hy sinh của các thành viên bé mọn. Họ là những ca viên, cậu giúp lễ, nhóm quét nhà thờ, người giật chuông, ông trùm bà trương, ông già bà cả đọc kinh sáng tối. Những nhân viên bác ái xã hội, người giúp đỡ các kẻ liệt, các đoàn thể. Họ là những linh hồn phục vụ theo khả năng của mình. Không có họ, giáo xứ không sao sinh hoạt nổi. Những đóng góp của họ dù là tiền bạc, dù là công sức rất giá trị trước mặt Đức Chúa Trời và Hội Thánh của Ngài. Ngoài ra còn các bà goá, già cả tật nguyền, cha mẹ một mình. những lao động chân tay trí óc, những lo toan kiếm sống. Tất cả đều cống hiến để xây dựng bộ mặt Chúa Kitô. Chắc chắn Chúa cũng nhìn đến công lao của họ và cũng khen thưởng như khen thưởng bà goá nghèo ở Giêrusalem: "Thầy bảo thật anh em, bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết."
Nếu không liên hệ với toàn bộ câu truyện, đoạn trích bài đọc một hôm nay có vẻ rời rạc, không đầu không đuôi. Số là đất nước Israel thời vua Akhap bị nạn hạn hán ba năm sáu tháng. "Ông Elia, người Títbê, trong số dân cư ngụ tại Galaat nói với vua Akhap rằng: có Đức Chúa Thiên Chúa hằng sống của Israel, Đấng tôi phục vụ: trong những năm tới sẽ chẳng có mưa có sương, nếu tôi không ra lệnh" (1V 17,1). Vị tiên tri chạy trốn nhà vua và hoàng hậu Idaven. Thiên Chúa hưá cho một bà goá nuôi ông. Như vậy mặc dù tài ba và danh tiếng, nhà tiên tri cũng phải hoàn toàn dựa vào Thiên Chúa để sống còn. Chúa nuôi sống ông bằng một bà goá nghèo khó. Cuộc sống của bà và đứa con trai đang bị đe doạ. "Có Đức Chúa Thiên Chúa của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi luợm vài thanh củi rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết." Vị tiên tri nài nẵng bà cho ăn. Ông biết Thiên Chúa dùng bà với phương tiện nhỏ bé để nuôi sống ông. Qua câu truyện chúng ta chứng kiến đức tin sắt đá của dân tộc Do Thái. Thiên Chúa nhìn rõ những nhu cầu của tuyển dân và đã dùng tiên tri để báo trước Ngài sẽ ra tay cứu giúp, bằng những phương tiện hết sức tầm thường, có thể nói là rất bé mọn thấp hèn. Vậy thì tại sao chúng ta lại sống kênh kiệu, khinh khi kẻ nghèo khó, tâng bốc kẻ có nhiều tiền lắm bạc? Thiên Chúa cứu chữa chúng ta qua những điều rất nhỏ mọn, không mấy ai quan tâm.
Ngài vẫn tiếp tục nâng đỡ sự nghèo khó của chúng ta qua các bí tích, nhất là Thánh Thể. Đừng coi thường một hành vi cử chỉ nào của phụng vụ, làm cho qua lần xong việc. Còn bao nhiêu bận bịu khác? Nhất là chúng ta phải có tinh thần chân thành thờ phượng và tạ ơn Chúa ban cho cuộc sống chúng ta muôn vàn ơn huệ, có khi ngộ ra được, nhiều khi không. Người đàn bà goá nghèo hôm nay dâng cúng để nuôi sống các kinh sư, tư tế thì chúng ta cũng được Chúa nuôi dưỡng bằng những phương tiện nhỏ bé như vậy. Đến lượt chúng ta phải nhận ra và giúp đỡ những kẻ nghèo hèn, bên lề, côi cút chung quanh mình, cũng bằng những của cải ít ỏi. Thiên Chúa chẳng hề thua lòng quảng đại của bất cứ ai. Ngài sẽ rộng rãi hoàn lại cho chúng ta gấp bội. Nếu chúng ta chỉ lưu ý đến kẻ giàu sang, danh tiếng, thượng lưu trang hoàng vàng bạc đầy mình. Lúc ấy chúng ta đi chệch con đường Chúa chỉ vẽ và cuộc sống đạo đức của chúng ta có vấn đề. Ước chi mỗi người tín hữu đều tốt lành cả trong các tháng cuối năm này. Amen.
Thường con người ở trần gian luôn dựa vào bề ngoài như danh vọng, tiền của để đo lường sự hơn: TN 32-B76
Thường con người ở trần gian luôn dựa vào bề ngoài như danh vọng, tiền của để đo lường sự hơn thua giữa người này với người khác, giữa tập thể này với tập thể khác. Nhưng đối với Chúa, đối với người đạo đức thì không, Chúa nhìn tấm lòng hơn là dựa vào cái mác, cái nhãn hiệu bên ngoài. Người đàn bà hóa ở Sarepta thật nghèo khó, nhưng tấm lòng lại vô lượng vô biên. Theo sách các vua cuốn thứ nhất trích đoạn I V 17, 10 - 16 ghi lại:" Bà góa ở Sarepta chỉ còn một chút bột, một chút dầu để mẹ con cùng ăn một bữa ăn cuối cùng cho đỡ đói, rồi cùng nhau chấp nhận chết đói. Thế nhưng, bà goá ấy đã quảng đại sẵn sàng nhường phần ăn của mẹ con bà cho ngôn sứ Ê-li-a, người của Thiên Chúa. Cử chỉ yêu thương, rộng lượng của bà đã gặp được lòng thương xót, quảng đại của Thiên Chúa. Suốt mùa hạn hán ở xứ sở, quê nhà, hũ bột của bà không bao giờ cạn và dầu trong bình nhà bà không bao giờ vơi. Nghĩa cử này, thánh sử Marcô cũng thuật lại về việc một bà già nghèo bỏ hai xu nhỏ vào hòm tiền nhà thờ và Chúa đã ca ngợi lòng quảng đại của bà.
Bài đọc I của sách các vua quyển thứ I, đoạn 17, 10-16 đã nói lên tất cả những gì Chúa đòi hỏi nơi con người. Việc hai mẹ con bà goá mở rộng lòng với ngôn sứ Ê-li-a nhường phần ăn cuối cùng của hai mẹ con cho người của Thiên Chúa đã được Thiên Chúa yêu thương, chấp nhận và ban ơn. Nhờ ân huệ của Chúa, phép lạ làm cho hũ bột luôn đầy và bình dầu luôn có sẵn là bằng chứng tình yêu của Chúa đối với những người có tấm lòng quảng đại và thương xót kẻ khác. Đoạn sách các vua hôm nay cũng dẫn con người đi vào tình thương cứu độ của Chúa Giêsu. Ngài là tư tế muôn đời, Ngài chỉ hiến dâng có một lần đủ để cứu độ muôn người khác với chức tư tế tạm thời của dân Do Thái xưa. Chúa yêu thương nhân loại, chạnh thương đám đông đói khát đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dậy, Ngài nuôi họ bằng bánh và cá tiên trưng cho Mình Máu của Ngài sẽ đổ ra để cứu chuộc loài người. Hệ luận này đưa nhân loại đi vào cốt lõi của đoạn Tin Mừng thánh Marcô 12, 38-44: " Bà goá trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng giống như bà goá Sarepta. Bà nghèo của, nhưng giầu lòng. Bà ít tiền, nhưng quảng đại ". Lòng quảng đại của bà đã khiến Chúa mủi lòng. Việc bà bỏ hai đồng xu nhỏ là cả gia tài để bà sống có giá trị hơn vàng bạc, ngọc ngà, châu báu của những người giầu có dư tiền, lắm của. Những người nhỏ bé, khiêm nhu, nghèo khó thường giầu lòng. Mẹ Maria cũng là người nữ hiền lành, khiêm nhượng và nhỏ bé trước mặt Chúa, nhưng Mẹ đã trở nên lớn nhất giữa mọi người nhờ:" Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ những điều trọng đại.."( Lc 1, 49 ). Chính lòng rộng lượng và trái tim nhạy cảm của hai bà goá đã nhận được lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Đánh giá bề ngoài, dựa vào tiền của để xác định tiêu chuẩn ngôi thứ:" Tiền là Tiên, là Phật... là cái đà danh vọng...Tiền là hết ý ". Thước đo và tiêu chuẩn dựa vào tiền của, danh vọng, ngôi thứ trong xã hội chỉ là cái nhìn bề ngoài chưa phải là chính yếu. Chú chồn hoang khi từ giã Hoàng Tử Bé ( Petit Prince ) đã nói với Hoàng Tử:" Bí quyết thật đơn giản, người ta chỉ nhìn thấy tất cả với con tim của mình chứ không bằng đôi mắt ". Đồng tiền, danh vọng, phẩm hàm không phải là những cái không có giá trị, nhưng nếu chỉ dựa trên những tiêu chuẩn như thế để đo lường, để định vị con người, chắc chắn tất cả những cái đó chưa đủ nói lên tất cả. Hai đồng tiền nhỏ của bà goá nghèo dâng cúng không là gì đối với những người khác bỏ vàng, bỏ bạc vào hòm tiền dâng cúng. Nhưng Chúa Giêsu nhìn vào cõi lòng sâu thẳm của bà goá và cử chỉ khiêm nhượng, âm thầm của bà goá khi bà dâng cúng. Đức Kitô không quan tâm nhiều lắm tới bề ngoài của người dâng cúng, nhưng Ngài chú ý tới cõi lòng và cử chỉ, thái độ của người dâng cúng. Nói như thế không có nghĩa là Chúa phủ nhận tất cả những gì người ta dâng cúng nhưng Ngài không chú ý đến lễ phẩm và của dâng nhiều lắm, nhưng Ngài quan tâm tới cách dâng và cử chỉ dâng. Người đời thường nói:" Hữu ư trung xuất hình ư ngoại " ( Trong lòng có mới lộ ra ngoài ). Đúng lòng đi trước rồi của lễ đi sau. Chúa không bao giờ từ chối điều gì tốt con người tiến dâng cho Ngài, nhưng " bà goá đã hiến dâng tất cả những gì mình có để nuôi sống bản thân mình ". Điều Chúa đòi nhân loại, con người là quảng đại chia sẻ cả những cái mình có, chứ không chỉ những của dư thừa. Mà chia sẻ đòi hỏi không giới hạn và không tiếc xót. Đây là bài học quí giá mà phụng vụ Chúa nhật 32 thường niên, năm B đòi hỏi mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim mở rộng để chúng con biết chia sẻ với những người cần chúng con giúp đỡ. Amen.
Vay dầu là việc rất thường trong giới nông dân. Dầu dùng đốt đèn không mua nhiều. Một năm đi: TN 32-B77
Vay dầu là việc rất thường trong giới nông dân. Dầu dùng đốt đèn không mua nhiều. Một năm đi chợ vài lần, mỗi lần mua một lít, dùng hết lần sau đi chợ mua tiếp. Nhà mua hai lít vừa có dầu dùng quanh năm lại có dầu dư dự trữ coi như là giầu, thuộc giới trung lưu.
Gia đình nghèo thường tối thắp đèn mới biết là hết dầu. Trường hợp khẩn cấp như thế mẹ sai con mang cái chai vay mượn dầu, đốt tạm, qua đêm, khi nào ra phố chợ mua dầu về trả lại. Không may nhà kia cũng hết dầu, đành phải sang nhà khác mượn tạm. Dân quê không phải chỉ vay dầu mà đôi khi còn vay cả mỡ, nước mắm, muối. Sau này tình trạng nghèo đói khổ sở hơn nên có thêm tình trạng vay gạo. Không mấy ai vay đường, cafe hay rượu vì chúng thuộc vào hàng xa xỉ, hàng ăn chơi. Thiếu thì chịu khó nhịn, đi vay sợ thiên hạ chê cười. Thiếu ăn uống đã thấy khổ; thiếu ánh sáng, sống trong tối tăm, xem ra khổ sở hơn.
Dầu đốt đèn mang lại ánh sáng cho cả nhà, mặc dù lu mờ nhưng đủ soi sáng trong một vùng giới hạn nào đó. Ánh sáng đèn dầu mang lại tượng trưng cho sự khôn ngoan, ánh sáng trong tâm hồn. Gọi là ơn khôn ngoan vì ơn đó dẫn tâm hồn đến với Chúa. Ơn khôn ngoan soi sáng cho biết tâm hồn ta khao khát Chúa và chỉ trong Chúa linh hồn mới no thoả. Để tâm hồn no thoả không gì bằng sống vâng phục thánh ý Chúa vì thánh ý luôn hướng dẫn ta tới điều thiện hảo. Có thiện hảo là có niềm vui. Niềm vui có được vì tâm hồn bình an, hoan lạc. Tâm hồn an vui no thoả vì được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, không còn đói khát chi.
Ơn khôn ngoan cần cho cả xã hội lẫn Giáo Hội. Ngoài xã hội ơn khôn ngoan giúp ta sống công chính, việc phải làm, điều phải tránh. Ơn khôn ngoan giúp suy tính hơn thiệt và biết chọn lựa điều tốt lành, ngay cả việc bảo vệ công lí.
Ơn khôn ngoan trong Giáo Hội giúp ta tiến trên đàng nhân đức, đàng lành thánh. Ơn khôn ngoan còn giúp ta biết vững lòng cậy trông vào Chúa khi hoạn nạn, tìm ủi an trong đau yếu bệnh tật, phó thác khi đối diện với gian nan, thất bại trên trường đời. Quan trọng nhất là ơn khôn ngoan giúp ta biết dâng lời cảm tạ khi thành công, mạnh khoẻ, cũng như khi gian nan, khốn khó. Nên nhớ mọi ơn đều do Chúa ban, ngay cả sức khoẻ, sự sống. Không dâng lời cảm tạ là sống vô ơn. Gặp gian khó luôn phó thác, không than phiền, phàn nàn nhưng kết hợp đau khổ đời ta với đau khổ thập giá Đức Kitô để cùng chia sẻ chén đắng với Ngài.
Phúc âm nhắc đến hai nhóm người cùng có chung mục đích là dự tiệc cưới, cùng chịu chung hoàn cảnh, chờ chàng rể đến trễ. Năm cô được liệt vào sổ khôn ngoan vì khi đi mang đèn có dầu kèm theo; năm cô liệt vào số khờ dại vì khi đi chuẩn bị mang đèn mà không mang dầu. Dầu cạn, các cô không biết tìm đâu ra nên bị loại, không được tham dự tiệc cưới. Hình ảnh đèn sáng trong tay trái nghịch hình ảnh cầm đèn hết dầu, u mê, tối tăm. Phải chăng hình ảnh đêm tối gắn liền với thất bại. Lấy gì sưởi ấm, soi sáng lúc mây mù che phủ cuộc đời. Thiếu ánh sáng sao biết đường thoát nạn khi cuộc đời gặp hoạn nạn, lúc gian nan. Mặc dù đèn hết dầu vô dựng mà vẫn phải cầm đèn không thể quẳng nó đi. Đèn hết dầu không giúp ích chi còn trở nên tai vạ, mang kè kè bên mình.
Họ chạy đến kêu cầu cứu, chị em bạn xin lỗi không thể giúp. Hãy lo liệu cách khác thì tốt hơn. Không tin tưởng vào Chúa lúc loài người lắc đầu, bó tay chạy vào đâu. Rơi vào tình trạng của các cô khờ dại, nửa đêm hết dầu. Người có ơn khôn ngoan chạy đến cùng Thiên Chúa nhận ơn trợ lực. Nhờ soi sáng, hướng dẫn, đong đầy dầu vào tâm hồn.
Mọi tư tưởng hành động dẫn ta xa Chúa đều không phải do ơn khôn ngoan soi sáng. Bởi vì tư tưởng đó dẫn đến đường cụt, đường cùng, không lối thoát khi gặp nguy biết kêu cầu, chạy đâu tìm nơi nương tựa. Ai cũng có ngày phải chết, tránh không được. Ngày buồn phiền đó sớm muộn gì cũng tới nhưng kẻ tin vào Chúa được Chúa biến ngày đó thành ngày vui hội ngộ. Ngày niềm tin sáng tỏ, ngày hy vọng được toại nguyện.
Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người 1Tx 4,14
Vậy anh em hãy dùng lời đó mà an ủi nhau khi người thân ra đi. Chúng ta cũng xin ơn khôn ngoan, biết chuẩn bị cho tương lai như năm cô khôn ngoan, mang đèn có kèm theo dầu, vì chúng ta không biết ngày giờ nào đèn của mình sẽ tắt.
Trong việc giảng dạy, Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một nhà sư phạm tuyệt vời. Phương pháp Ngài sử: TN 32-B78
Trong việc giảng dạy, Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một nhà sư phạm tuyệt vời. Phương pháp Ngài sử dụng rất sống động, và bài học cũng rất thiết thực. Hôm nay, bài học mà Ngài muốn dạy những kẻ đi theo Ngài, đó là thái độ sống đích thực của người môn đệ Chúa Kitô. Vậy cụ thể đó là thái độ nào ?
Chắc chắn đó không phải thái độ sống của những người Biệt Phái: thái độ háo danh, hám lợi: "Thích được người ta chào hỏi nơi phố chợ, ưa chiếm chỗ nhất trong các hội đường..."; thái độ tham lam tiền bạc: "Muốn nuốt hết tài sản của các bà goá..."; thái độ giả hình giả bộ: "Làm ra vẻ đọc kinh dài dòng...". Đây là thái độ mà Chúa Giêsu cho biết sẽ bị kết án nặng nề. Chắc chắn đó cũng không phải là thái độ sống của những người giàu có, keo kiệt. Họ chỉ dâng cúng tiền dư bạc thừa. Và nếu có dâng cúng nhiều đi chăng nữa cũng chỉ vì họ thích phô trương công đức hơn là vì lòng yêu mến Chúa.
Nhưng đó là thái độ sống của bà goá nghèo: dám sống bằng cả tấm lòng của mình. Một tấm lòng quảng đại: bà đã cho đi tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Hai đồng xu chính là sự sống của bà. Một tấm lòng tín thác: tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và đặt trọn sự sống của mình cho Thiên Chúa định đoạt. Đức Giêsu đã khen ngợi tấm lòng của bà và Ngài đã nêu lên cho các môn đệ thấy để bắt chước thái độ của bà, thái độ sống của người môn đệ đích thực.
Đây chính là thái độ sống phản chiếu hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng đã trao ban tất cả mạng sống của mình và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa Cha trong tâm tình xin vâng.
Chúng ta đang sống thái độ nào của người môn đệ Đức Kitô ? Phải chăng là thái độ háo danh, ham lợi, chuộng hình thức như những người Luật sĩ và Biệt phái ? Phải chăng là thái độ tính toán hẹp hòi của những người giàu có ích kỉ ?
Ước gì trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta luôn có thái độ quảng đại biết cho đi với tất cả lòng yêu mến và tín thác trọn vẹn như bà goá nghèo trong Tin mừng hôm nay.
Người ta vẫn thường bé cái lầm với nhau là những người khá giả, giàu có thì dễ dâng hiến, dễ trao: TN 32-B79
Người ta vẫn thường bé cái lầm với nhau là những người khá giả, giàu có thì dễ dâng hiến, dễ trao tặng hơn người nghèo nhưng không, thực tế hoàn toàn trái ngược. Những người nghèo, những người hơi kha khá một chút thì lại dễ biết chia sẻ, biết dâng hiến hơn những người giàu. Chuyện thực tế ấy ngày hôm nay được vẽ nên bởi hai bức tranh của hai bà goá: một bà thời Cựu Ước và một bà của thời Tân Ước. Hai bức tranh, hai hình ảnh, hai bà goá ấy nhưng tựu trung chỉ có một đó là tâm tình dâng hiến của một con người nghèo, một con người mà thường thì bị xã hội xếp vào hàng thứ yếu.
Bà goá ở cái thành Xarepta ngày xưa thật là hay. Có sao nói vậy, bà đã nói với "kẻ xin ăn" là Êlia rằng bà chỉ còn có một nắm bột trong hũ và một chút dầu trong vò. Dầu và bột đó có chăng chỉ đủ cho một bữa cho hai mẹ con thôi. Bi đát nhất cái câu của bà là "chúng tôi sẽ ăn rồi sẽ chết". Quá bi đát bởi vì thời đó đang bị hạn hán, chẳng có gì mà ăn hết. Mẹ goá con côi chỉ có chút bột, chút dầu ấy vậy mà một chàng thanh niên đến để xin ăn. Sức khoẻ của chàng thanh niên ấy mà ăn mớ bột và dầu được làm thành bánh thì chắc hai mẹ con chẳng còn gì để mà ăn nữa.
Sau khi nghe lời trần tình của chàng thanh niên, bà goá đã chia sẻ bánh cho chàng thanh niên và rồi hũ bột không vơi và bình dầu không cạn như lời Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ Êlia.
Với trang Tin mừng theo Thánh Maccô hôm nay thật là hay. Nơi trình thuật này, Maccô đã khéo léo vẽ lên một hình ảnh đẹp của bà goá nghèo ở đền thờ.
Trình thuật nhỏ này cũng được ghi lại nơi Luca 21,1-4, song không thấy nơi Matthêu. Điều này cũng dễ hiểu, vì đối với Thánh Matthêu, những cuộc tranh luận của Chúa Giêsu về phe ký lục giữ một tầm vóc quan trọng. Nên chi, thánh ký bỏ đi câu chuyện về bà goá nghèo này. Đang khi đó, Tin Mừng Luca lưu ý nhiều đến góc cạnh xã hội. Như vậy, câu chuyện này sẽ luôn là một thứ chủ đề hấp dẫn.
Trở lại với Maccô, câu chuyện hấp dẫn này được phác hoạ như một hình ảnh đối chọi lại với cuộc sống ích kỷ và giả tạo của ký lục mà Chúa Giêsu vừa phác họa.
Xét về nguồn tài liệu, câu chuyện đại loại như thế khá quen thuộc trong truyền thống Do Thái và cả thế giới ngoại giáo. Khiến chúng ta nhớ lại câu chăm ngôn quen thuộc mà các bậc khôn ngoan thởi đó ưa sử dụng: "Hai con chim câu được hiến dâng bởi một kẻ nghèo khó có giá trị hơn 1.000 hy lễ của vua Agrippa"
Có một câu chuyện rất phù hợp với bản văn Maccô như sau: ngày kia có một người đàn bà nghèo đến dâng một nắm bột bé nhỏ. Vị tư tế nhận lễ vật với thái độ khinh bỉ và sau đó ông ta đã ném đi. Ban đêm trong giấc ngủ, ông nghe có tiếng quở trách: "Đừng khinh bỉ bà ta. Đó dường thể bà ấy đã dâng hiến cả cuộc sống mình".
Ngồi đối diện với hòm tiền. Người xin dân chúng bỏ tiền vào hòm tiền như thế nào. Lắm người giàu có bõ nhiều. Bà góa nghèo khó nọ cũng đến và bỏ vào hai trinh, tức một xu (c. 41-42).
Hòm tiền: Hồi đó ở khu tiền đường phụ nữ, người ta xây một "phòng Hòm tiền" gồm 13 hộc, như thể thứ hộc bỏ thư ở bưu điện. Đây là nơi dành cho việc dâng cúng của các tín hữu Do Thái.
Cũng theo thông lệ thời đó, các khách hành hương Đền thờ sẽ không tự ý bỏ vào đó tiền bạc hay lễ vật. Họ trao của dâng cúng cho vị tư tế phụ trách và vị tư tế này sẽ đặt lễ dâng vào một trong các hòm tiền, tùy theo ý lễ.
Bởi thế, Chúa Giêsu có thể ngồi đó và quan sát được số tiền hay lễ vật dâng cúng. Người thấy bà góa nghèo đến bỏ vào hai trinh, tức một xu (c. 42).
Hai trinh, tức một xu.
Thời đó 1 lepton là đồng tiền nhỏ nhất được lưu hành. Nó bằng ½ kodrantes.
Hạn từ kodrantes dịch từ La ngữ quadrans. Như vậy 2 lepta khoảng 1 quadrantes. Lương công nhật của người thợ trung bình là 64 quadrans tức là 128 lepta.
Như vậy, hai trinh của bà góa là một số tiền quá ít oi bé nhỏ.
Người gọi môn đệ lại mà nói: Quả thật, Ta bảo các ngươi, bà góa nghèo khó ấy đã bỏ vào nhiều hơn hết thảy. Vì mọi người đều lấy của dư bỏ vào, còn bà ấy lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có, tất cả của độ thân (c. 43-44)
Hơn... hết thảy Người phụ nữ góa và nghèo này được Chúa Giêsu đánh giá cao nhất: Bà đã dâng cúng hơn mọi người khác, đang khi mà nếu xét theo cái nhìn của người đời, thì 2 trinh của bà là ít nhất. Vì chưng, bà đã "lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có"; Bà dã dâng hiến tất cả của độ thân.
Lồng kết vào trong nhãn quan thần học Maccô, sự dâng hiến đó của người góa phụ là biểu tượng của một thứ lòng đạo hạnh đích thực, khác hẳn với phe ký lục và các thành phần Do Thái tự mãn khác. Vì bởi, sự đạo đức đúng nghĩa là một sự phó thác toàn vẹn cho Thiên Chúa, một thái độ mà qua đó người ta để cho Thiên Chú hoàn toàn thu xếp, không giữ lại sự tính toán nào.
Y hệt như hình ảnh người phụ nữ lấy ngay cả sự túng thiếu của mình mà hiến dâng.
Cách diễn tả đó gợi nhắc đến giới luật trọng nhất mà Chúa Giêsu nêu lên ở trước: yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Và yêu đồng loại như chính mình (Mc 12,29-31).
Trong truyền thống Do Thái, thành ngữ hết sức lực ám chỉ tới mọi nguồn lợi vật chất mà kẻ ấy có.
Bà góa chỉ có 2 lepton. Nếu bà muốn giữ lại 1 lepton chẳng hạn, chẳng ai trách cứ gì bà. Song le, bà đã cho đi tất cả, cho đi chính mình. Một con người như thế ắt sẽ dễ dàng nhìn thấy khổ đau và thiều thốn của đồng loại và cũng sẽ yêu thương đồng loại như chính mình.
Đến đây, chúng ta có thể hiểu rằng: bà góa còn là một thứ biểu tượng của kẻ dám hiến dâng tất cả, dám hy sinh cả mạng sống cho Thiên Chúa cho đồng loại.
Trong bối cảnh kết thúc sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu với viễn tượng tử nạn cận kề, hình ảnh của bà góa phải chăng là sự gợi nhắc trước đến sự hiến dâng mạng sống của Người cho Thiên Chúa ngõ hầu cứu độ nhân loại.
Trong đời sống thường ngày, Thiên Chúa luôn luôn mời gọi con người biết cho đi, biết trao tặng và cũng phải nói rằng có quá nhiều quá nhiều cơ hội để cho đi, để trao tặng. Khi cuộc sống đầy đủ, dư giả mà trao tặng ắt hẳn sẽ không có ý nghĩa cho bằng khi cuộc sống vẫn còn đó trong cái cảnh thiếu trước hụt sau.
Một anh chàng nghèo, vợ mới sinh con đầu lòng được vài tháng cầm 200.000 đồng vào biếu cha để phụ Cha sửa chữa trường cho các em khuyết tật trong giáo điểm của anh. Ngày hôm nay, 200.000 ấy chẳng thấm là bao so với công trình sửa chữa nhưng tấm lòng của anh chàng ấy quá lớn. Chàng thanh niên ấy sống đắp đổi qua ngày với cái nghề buôn bán quần áo sida. Vì hoàn cảnh sinh nhai, chàng thanh niên phải lội ngược lội xuôi về Sài Gòn mua quần áo rồi chạy mãi ra các khu công nghiệp như Nhơn Trạch, Bình Dương để bán. Do đi lại như vậy chàng ít có thời gian ở nhà nhưng ngày nào có ở nhà là ngày ấy chàng đi dự lễ.
Hôm ấy, chàng về đúng cái ngày mà cha đang sửa nhà cho các em khuyết tật, thế là chàng ghé nhỏ vào tai cha: Cha cho vợ chồng con phụ với cha một ít để cha lo cho các em !
Không nỡ cầm 200.000 của chàng thanh niên nghèo nên đã từ chối nhưng không thể nào từ chối được trước cái lòng thành của anh.
Hình ảnh của anh chàng bán quần áo si-da phải chăng là hình ảnh của bà goá nghèo hôm nay trong Tin mừng ? Anh chàng đã cho số tiền thật sự chẳng là bao so với xã hội bây giờ nhưng anh cho với hết cả tấm lòng của anh.
Trong cuộc sống đời thường, có thể nói tâm tình hiến dâng là một tâm tình hết sức là đẹp. Chưa nói đến chuyện dâng hiến cho Chúa mà chỉ cần nói đến chuyện dâng hiến cho nhau. Vợ có dám dâng hiến tất cả những gì mình có cho chồng cho con hay không ? Chồng có dám dâng hiến tất cả những gì mình có cho vợ cho con hay không ? Con cái có dám dâng hết tất cả những gì mình có cho cha mẹ không ?
Khi nói đến dâng hiến, người ta sẽ bảo là người ta đâu có gì để mà dâng hiến để biện luận, để bào chữa cho thái độ ích kỷ của người ta. Có đấy chứ nhưng không chịu dâng hiến đấy thôi. Chẳng lẽ ai trong chúng ta không có sức khoẻ, không có thời gian và không có tiền bạc. Chúng ta có cả một cái quỹ về thời gian, về sức khoẻ, về tiền bạc nhưng chúng ta cứ khư khư giữ cho mình mà chúng ta không dám mở lòng ra để mà dâng hiến, để mà chia sẻ đấy thôi.
Gọi là không có cũng được nhưng chẳng lẽ chúng ta không có tấm lòng ? Chúng ta cứ dâng hiến, chúng ta cứ cho đi tấm lòng của chúng ta cho những người sống chung quanh chúng ta. Mỗi khi chúng ta dốc hết "hầu bao" để dâng hiến cho anh chị em đồng loại chính là lúc chúng ta dâng hiến cho Chúa vậy. Chúng ta cứ quảng đại mở lòng ra dâng hiến cho Chúa như hai bà goá hôm nay trong bài đọc cũng như trong Tin mừng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa sẽ ghi nhận cũng như sẽ ban những ơn lành cần thiết cho mỗi người chúng ta.
Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân ái đến và ở lại với mỗi người chúng ta, mở lòng chúng ta ra để chúng ta cũng biết quảng đại để dâng hiến, để trao dâng tất cả những gì mình có cho Chúa như bà goá ngày hôm nay trong Tin mừng vậy.
Vương quốc Israel và Giuđa không có một quy tắc luật lệ đáng kể. Thực ra, đa số những luật lệ đó là: TN 32-B80
Vương quốc Israel và Giuđa không có một quy tắc luật lệ đáng kể. Thực ra, đa số những luật lệ đó là những thất bại thảm hại. Ngay cả ngày nay, những nhà lãnh đạo chuyên chế và lệch lạc cũng thường gây ra không ít những khốn khó cho đất nước họ đang điều hành - nhất là với những người bần cùng. Điều đó lẽ ra không phải đường lối cho Israel và Giuđa; những nhà lãnh đạo đáng ra phải trung thành với Lời Chúa. Nhưng đa số những nhà lãnh đạo lại bất tín với Lời Chúa nên Ngài gởi các ngôn sứ đến kêu gọi họ trở về sự công chính. Elia là một ngôn sứ như thế, người phát ngôn của Thiên Chúa, không chỉ kêu gọi người lãnh đạo nhưng cũng kêu gọi tất cả những ai đã quay qua tôn thờ thần ngoại và những nghi lễ ngoại bang. Như sự trừng phạt cho tội bất trung với Thiên Chúa, vùng đất đã phải chịu một cơn đói kém, như chúng ta đọc thấy trong bài trích sách các Vua quyển I hôm nay.
Xa-rep-ta, một thành phố ở Phi-ni-xi, là vùng đất của dân ngoại, ở đó dân chúng thờ thần Ba-an. Hoàn cảnh của người đàn bà thật sự tuyệt vọng cho chính bà và con của bà. Bà có thể là một người dân ngoại nhưng Thiên Chúa đã biết nhu cầu của bà. Elia đã an ủi người góa phụ nghèo khổ nhưng, thật ra, có vẻ ích kỷ khi yêu cầu bà làm cho ông một chiếc bánh. Điều tích cực ở đây là phong tục hiếu khách của người Trung Đông - áp dụng với cả người nghèo nhất không có gì, nhưng miếng ăn, cái uống cuối cùng của họ cũng dành cho người qua đường. Tuy nhiên, bên cạnh yêu cầu xin cái bánh là lời hứa Thiên Chúa sẽ cho bà ấy no đầy trong suốt thời gian hạn hán.
Thiên Chúa có thể thực sự làm được như thế, là cung cấp thức ăn cho chúng ta khi mà dường như không còn sự cứu trợ nào? Câu chuyện của Elia quả là một niềm an ủi cho dân lưu đày Do Thái đang sống ở Babylon. Họ đã được khuyến khích tin tưởng vào thông điệp của ngôn sứ: Thiên Chúa có thể kết thúc "cơn hạn hán" của họ - ban cho họ tất cả những gì họ cần trong suốt thời gian lưu đày và cuối cùng chấm dứt tình trạng lưu này, đưa họ trở về quê cha đất tổ. Bà góa và con trai bà đã có đủ thực ăn cho đến "ngày Thiên Chúa cho mưa xuống trên mặt đất." Dân bị lưu đày cũng sẽ không bị hủy diệt ở trên vùng đất ngoại bang, vì Thiên Chúa sẽ cứu thoát họ, như Ngài đã giải thoát cha ông họ khỏi người Ai Cập.
Cái gì bảo đảm cho dân lưu đày này; điều gì bảo đảm cho chúng ta trong thời gian hạn hán? Điều mà họ và chúng ta có được là Lời của Chúa: một lời hứa được nói qua miệng ngôn sứ ngay trong cơn hạn hán: Thiên Chúa sẽ phù trợ chúng ta và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta cho đến cùng. Câu chuyện về bà góa trong bài đọc thứ nhất đưa chúng ta đến với chuyện kể về bà góa trong bài Tin mừng. Cả hai câu chuyện nói cho chúng ta rằng Thiên Chúa biết những điều không ai thấy, không ai biết, những điều bị làm ngơ. Thiên Chúa cứu những người thấp cổ bé miệng và những ai "bé mọn" trong xã hội và trong Giáo hội.
Đức Giêsu ở trong đền thờ cùng với đám đông và Người quan sát kẻ qua người lại. Ở phía sảnh dành cho phụ nữ có một cái thùng cho người ta bỏ tiền dâng cúng. Bà góa tiến đến và bỏ vào thùng "hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư xu Rôma." Đức Giêsu tận dụng cơ hội này dạy cho các môn đệ một bài học. Người gọi các ông đến và bảo các ông quan sát điều vừa mới xảy ra.
Thông điệp Tin mừng mang một bối cảnh là: Đức Giêsu đã tranh luận với những người Pha-ri-sêu và những nhà lãnh đạo tôn giáo. Người đã lên án họ vì họ củng cố quyền lực và sự giàu sang trên lưng những người nghèo kẻ khổ, Người trách họ vì họ đã nuốt hết "tài sản của những bà góa." Dù họ có làm thế, họ vẫn đọc những lời nguyện dài lê thê và tỏ ra mẫu mực trong việc thực hành những điều luật tôn giáo tỉ mỉ. Bà góa nghèo đóng góp phần tiền đó là để tu sửa đền thờ. Chẳng quá đáng lắm sao! Những người lãng đạo tôn giáo và đầy quyền lực sẽ trích phần lợi tức và cấp dưỡng từ chính những người nghèo như bà góa của chúng ta.
Trong bài Tin mừng hôm nay đức Giêsu ngưỡng mộ sự quảng đại của bà góa "đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân." Điều đó có vẻ như một gương mẫu và sự khích lệ cho những ai bé nhỏ từ bỏ nhu cầu của họ - nếu như tách tình tiết câu chuyện bà góa và phần đóng góp của bà ra khỏi bối cảnh ấy. Nhưng phải lưu ý điều mà ngôn sứ Giêsu nói với đám đông: Người nghiêm khắc phê phán thói phô trương đạo đức của những kinh sư, "trong những bộ áo thụng", muốn cho những người nơi cộng cộng biết, ngồi ghế danh dự phía trên trong các hội đường và trong các bữa tiệc. Chúa Giêsu còn thêm rằng họ "nuốt chủng tài sản của các bà góa" trong khi vẫn lải nhải những lời nguyện dài lê thê.
Đức Giêsu lên án những ai chỉ lo theo đuổi địa vị tôn giáo và những lời ca tụng nhưng lại làm gơ hay thậm chí bóc lột người nghèo. Những tâm hồn nhiệt thành và đạo đức đáng nể đó thực chất lại là những người chiếm đoạt tài sản của bà góa nghèo này, mà việc dâng cúng của bà có thể làm bà thêm cùng cực. Chúng ta có cho rằng Đức Giêsu khen ngợi cách trao tặng khiến cho một người đã sẵn thiếu thốn thành ra không còn gì? Theo sách luật và các ngôn sứ, cô nhi quả phụ có một vị trí rất đặc biệt trong trái tim của Chúa. Niềm tin Dothái giáo đã dạy rằng người hèn yếu trong xã hội phải được bảo vệ. Những ai làm tổn hại đến họ thì đáng bị quở trách.
Câu chuyện của bà góa trong bài Tin mừng hôm nay thường được chúng ta sử dụng như cách thức để bắt đầu những chiến dịch kinh doanh hay xây dựng. Thông điệp là, "Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có sẵn lòng trao tặng cho đến cùng không?" Trước khi định soạn bài bài giảng hôm nay về việc cho đi, khích lệ lòng quảng đại khi giỏ được chuyền tay trong nhà thờ, tôi muốn chắc rằng mọi người một lần nữa nghe rõ sự quan tâm của đức Giêsu đến những người nhỏ nhất trong xã hội và làm thế nào mà một người đạo đức lại có thể mất đi tầm quan trọng của người nghèo khổ trong con mắt đức Giêsu. Hãy cứ để những người đó xem xét liệu họ có còn lòng quảng đại hay không; còn chúng ta hãy chắc rằng những người nghèo khi bước vào "đền thờ" của chúng ta thì phải được lưu tâm và được phục vụ.
Những lời của đức Giêsu hôm nay dường như không giống lời khen ngợi bà góa cho bằng một lời than vãn. Người chỉ muốn khuyến cáo các tông đồ về những con người có lòng đạo mà nuốt mất tài sản của những bà góa. Khi người để ý đến bà góa, có vẻ Người muốn nói rằng "Hãy nhìn, đây là một mẫu gương khác của một người nghèo cho đi tất cả những gì bà có vì lợi ích chung." Dù là than vãn nhưng lời của đức Giêsu cũng chứa đựng tin mừng, vì Người cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa thấu suốt cảnh khốn khổ của người nghèo. Người nghèo có thể bị tổ chức tôn giáo bỏ quên nhưng Thiên Chúa biết hoàn cảnh của họ. Chúa biết sự khác biệt giữa những gian lận tôn giáo và lòng đạo đức đích thực, và Thiên Chúa đã thực hiện điều gì đó qua đức Giêsu. Người vô tội gặp phải cảnh trắng tay; nhưng Thiên Chúa thấy được lòng bà và đã khen ngợi bà. Cũng vậy, khi những nhà lãnh đạo tôn giáo băng hoại kia trục lợi từ lòng quảng đại của bà, qua đức Giêsu, Thiên Chúa cũng đã thực hiện điều gì đó với họ.
Dĩ nhiên mẫu gương quảng đại của bà góa là một lời nhắc nhở và đòi hỏi chúng ta về lòng quảng đại. Nhu cầu trong thế quanh ta là rất lớn. Chúng ta đã từng bị đòi hỏi phải cho đi, không chỉ những dư thừa của chúng ta, mà từ chính nhu cầu của chúng ta chưa? Và đó không chỉ là tiền của: có lẽ tài sản quý giá nhất chúng ta có là thời giờ của chính chúng ta. Chúng ta có quá ít thời gian. Đôi lúc cho đi ít tiền lại là điều dễ thực hiện hơn; cái khó là cho đi chính tài năng và khả năng của chúng ta. Như một người kế toán bận rộn, tôi biết ai giúp những gia đình nghèo chuẩn bị thuế của họ. Quảng đại - chẳng phải là những gì chúng ta được đòi hỏi cho đi trong mối tương quan bạn bè, hôn nhân, gia đình và những người thân cận hay sao? Đức Giêsu để ý đến bà góa nghèo, lòng trắc ẩn của Người dành cho bà góa cũng gợi lên trong ta một lòng trắc ẩn tương tự cho những "bà góa nghèo" mà hằng ngày chúng ta bắt gặp.
Đức Giêsu đưa ra hình ảnh bà góa như một ví dụ về người đã đóng góp hết tất cả những gì mình có. Trong tháng này, chúng ta tưởng nhớ những người đã qua đời. Chúng ta đã mừng lễ Các Thánh và Kính nhớ những tín hữu đã qua đời. Khi chúng ta mừng lễ nhớ những người quá cố chúng ta cũng biết rằng ngày nào đó mình cũng sẽ chết; chúng ta cũng sẽ được yêu cầu từ bỏ tất cả những gì thuộc về chúng ta để đặt mình trong bàn tay nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta không thể mang theo vàng hay danh vọng. Như bà góa, chúng ta dâng hiến tất cả những gì thuộc về chúng ta trong sự tín thác. Chúng ta sẽ làm gì để chuẩn bị cho giây phút đó? Chúng ta sẽ chết theo cách mà chúng ta đã sống. Khi chúng ta theo đức Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta cũng được mời gọi cho đi cuộc sống của mình theo cách Người đã làm, để phục vụ anh chị em chúng ta. Điều này đòi hỏi nhiều lần chết từng chút trước khi chúng ta đối diện với cái chết cuối cùng của mình. Có lẽ đó là cách mà chúng ta chuẩn bị cho giờ chết của chúng ta. Từng bước trong suốt cuộc hành trình, với ân sủng trao ban chính mình của đức Giêsu, chúng ta cũng hãy bỏ đi tất cả những gì ngăn cản chúng ta phụng sự đức Kitô: trao tặng chính mình cho những ai chúng ta được mời gọi để phục vụ họ. Một tinh thần tông đồ như thế là một lời "Xin vâng" suốt đời trên cuộc hành trình, để chúng ta có thể nói, trong niềm tin, lời "Xin vâng" tại cuối cuộc hành trình lên Giêrusalem cùng với đức Giêsu.
Nói đến "đồng xu" - tôi mới giảng tại một giáo xứ ở đó có một thùng quyên góp đề là "Tiền lẻ cho người nghèo." Trong các lớp giáo lý, trẻ em được dạy về sự nghèo khó và được khuyến khích đóng góp những đồng tiền lẻ của chúng - đó là một bài học vỡ lòng thật tốt vầ lòng bác ái. Trong khi đó, cha sở không ngừng nhắc nhớ cộng đoàn về cái thùng ở cuối nhà thờ và đảm bảo với họ rằng tất cả số tiền thu được sẽ trao thẳng cho người nghèo; không lấy đồng nào cho việc tu sửa nhà thờ, cho việc quản trị, hay thuế giáo phận, ... Sẽ có những khoản thu khác cho những nhu cầu này! Mỗi tháng thu được khoảng 500 đến 900 đô la trong thùng "Tiền lẻ cho người nghèo." Tôi hỏi cha sở: "Chỉ tiền lẻ thôi ư?" Ngài trả lời: "Không. Người lớn cũng đóng góp cùng với trẻ em, vì họ biết chúng tôi dùng tiền đó để giúp đỡ những ai cần giúp: người thất nghiệp, những bà mẹ độc thân, người bệnh, ..." Đó là một mẫu gương khác mà giáo xứ thực hiện: như đức Giêsu, họ quan sát những người nghèo bước vào đền thờ. Amen.
Lm. Jude Siciliano, OP
Chuyển ngữ Quốc Vinh, OP
Chia sẻ, đóng góp cho việc chung là điều luôn cần phải làm. Bởi vì muốn xây dựng, muốn làm một: TN 32-B81
Chia sẻ, đóng góp cho việc chung là điều luôn cần phải làm. Bởi vì muốn xây dựng, muốn làm một công việc chung nào đó mà không có sự góp tay, góp sức, góp công, góp vật chất của nhiều người, công việc chung khó có thể hoàn thành tốt đẹp. Đối với Giáo Hội cũng thế, muốn thành công trong việc xây dựng chung, Giáo Hội cũng hô hào, mời gọi các Kitô hữu chung tay, góp sức, góp công, góp của để công việc của Giáo Hội, Địa phận, Giáo xứ, Giáo họ được tiến triển, được thành công. Sự thực, khi nói thì dễ, mà thực hiện lại không phải dễ chút nào bởi vì các ông Kinh sư, Luật sĩ trong Do Thái Giáo đã to mồm lớn tiếng, họ hô lớn, nhưng họ đâu có quảng đại, đâu có rộng mở, họ đâu có chia sẻ, đâu có đóng góp nhưng hô để bắt người khác đóng góp, người khác làm mà thôi, họ ra luật để người khác giữ. Hôm nay, Tin Mừng của thánh Máccô đoạn 12,38-44 đưa ra một ví dụ điển hình về việc một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm tiền trong Hội Đường, Chúa đánh giá bà góa này đã bỏ tiền vào thùng nhiều hơn mọi người, vì người ta bỏ của dư, của thừa vào thùng tiền, còn bà góa bỏ tất cả sản nghiệp, tất cả của cải cải mình, số tiền dùng nuôi sống bà trong nhiều ngày…
Đọc đoạn Tin Mừng này, chúng ta cảm động, hết lòng thán phục người đàn bà góa, nhưng chúng ta cũng khó chịu, và không vui khi thấy các kinh sư, Luật sĩ, Pharisêu miệng thì la lớn, hô hào đủ điều, nào giữ luật lệ, nào đóng góp, sống bác ái, quảng đại, nhưng thực tế lại khác hẳn.Chúa Giêsu đã rất dí dỏm, hài hước khi nói về những hạng người này, những người thời Chúa Giêsu họ được muôn vàn đặc ân, ăn sang, mặc đẹp, có địa vị, có danh vọng trong xã hội lúc đó.Chúa nói họ xúng xính trong những bộ áo đẹp, mang thẻ kinh, nới dài tua áo, họ thích được bái chào ngoài đường, nơi công cộng. ăn tiệc họ thích được ngồi chỗ nhất, chỗ cao vv…Họ lợi dụng chức vụ, lợi dụng chức quyền để đàn áp, để ăn hiếp và để bóc lột tiền bạc của những người nghèo. Họ bắt bẻ Chúa, rình rập để ám hại Chúa. Bề ngoài họ giả hình đạo đức,nhưng trong thâm tâm đầy ác độc, dối trá. Họ giống như mồ mả tô vôi bề ngoài đẹp nhưng bên trong thúi tha. Chúa Giêsu đã nhiều lần lột mặt nạ bọn người này và kết án họ nặng nề, Ngài cảnh cáo mọi người phải xa lánh bọn người gian ác, không tốt bụng này.
Rồi Chúa Giêsu cho chúng ta một thực tế đẹp, Ngài vào Hội Đường và quan sát những người bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng. Có nhiều người đến bỏ và vênh vang với số tiền bỏ vào thùng. Nhiều người đánh giá bề ngoài, đánh giá cách bỏ tiền vào thùng,và họ nhận xét sai lạc về những người bỏ tiền. Chúa đã thấy và nhận xét khác hẳn những người khác vì Ngài thấu suốt cả tâm hồn người ta mà.
Chúa Giêsu đã dùng sự kiện thực tế diễn ra trong Hội Đường, nơi thùng tiền để dạy các môn đệ, dạy nhân loại, dạy chúng ta. Chúa đã dùng sự việc tương phản, một bên là những người giầu, lắm tiền nhiều của nhưng không biết chia sẻ, không quảng đại, chỉ bỏ của dư, của thừa vào hòm tiền. Còn bà góa đã bỏ số tiền rất ít ỏi nhưng là bỏ cả cõi lòng của bà vào hòm tiền bởi vì đó là toàn sản nghiệp của đời bà góa.chúa không quan tâm đến bề ngoài, đến số lượng, đến vẻ đạo mạo, xum xuê của con người. Nhưng Ngài đã đề cao vẻ đẹp của tâm hồn con người. Chúa muốn con người quảng đại, rộng rãi chia sẻ chứ không đề cao sự bố thí, làm phúc…Chúa muốn con người phải sống thành thật với chính con người của mình.
Lạy Chúa xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng trươc mọi biến cố của cuộc sống, khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm, hay gặp sự bất trung, bất tín nơi những người con tin tưởng cậy dựa. Xin giúp con gạt mình sang một bên để nghĩ đến hạnh phúc người khác, giấu đi những nỗi phiền muộn của mình để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời để đau khổ làm con thêm mềm mại, chứ không cứng cỏi hay cay đắng, làm con nhẫn nại chứ không bực bội, làm con rộng lòng tha thứ, chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ. Ước gì không ai sút kém đi vì chịu ảnh hưởng của con, không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật, lòng cao thượng, tử tế, chỉ là đã là bạn đồng hành của con trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối, xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương. Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên, tràn trề sức mạnh để làm việc thiện, và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen ( Trích ở Sách Rabbouni ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao các Kinh sư, Biệt phái, Pharisêu lại bị chúa lên án ? 2.Tại sao Chúa lại quan sát người ta bỏ tiền ? 3.Đối với Chúa bà góa nghèo đã làm gì ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 12:38-44)
Hôm nay Chúa Giê-su cho chúng ta một bức tranh đen trắng thật sống động: một phía là những: TN 32-B82
Hôm nay Chúa Giê-su cho chúng ta một bức tranh đen trắng thật sống động: một phía là những ông kinh sư và một phía là bà góa nghèo. Những ông kinh sư này trở nên giàu có vì các ông đã “nuốt hết tài sản của các bà góa”. Có tiền bạc sẵn nên các ông không đi làm, suốt ngày chỉ “ưa dạo quanh” để phô trương sự đạo đức giả của mình. Trái lại, một bà góa đến Đền Thờ để cầu nguyện, rồi bà bỏ vào thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ chỉ có hai đồng tiền kẽm. Nhưng bà lại được Chúa Giê-su khen ngợi là người quảng đại nhất. Làm sao dâng cúng có hai đồng tiền kẽm lại có thể gọi là quảng đại trong khi những người giàu bỏ vào thật nhiều tiền? Chúng ta sẽ nghe Chúa Giê-su giải thích điều này.
Sau khi đã công khai nói với dân chúng về các ông kinh sư, “Chúa Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng Đền Thờ”. Người ngồi đó như một vị quan án để nhìn thấu tâm hồn từng người đến bỏ tiền dâng cúng. Người quan sát cử chỉ của họ. Thái độ khoe khoang của những kẻ giàu có muốn cho người khác “thấy” lòng quảng đại của họ không qua khỏi mắt Chúa. Người chán ngán về việc dâng cúng ấy, vì đó là những thứ “tiền dư bạc thừa của họ”. Họ hoàn toàn không có tấm lòng với Chúa, mà chỉ muốn mượn tiếng leng keng của những đồng bạc bỏ vào thùng để mua lấy sự kính phục của khách hành hương. Họ dùng tiền bạc để bắt những người chung quanh đo lường lòng quảng đại của họ.
Giữa lúc quan sát những người dâng cúng, bỗng mắt Chúa Giê-su sáng lên khi một bà góa nghèo chậm chạp bước đến và bỏ tiền dâng cúng vào thùng. Bà không mắc cở vì số tiền quá ít của bà mà phải giấu diếm hoặc bỏ vào cho lẹ. Nhưng bà bỏ tiền vào với tất cả thái độ cung kính. Bà yêu mến Chúa hết lòng và hết khả năng. Giờ đây, tất cả sự sống của bà và “tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân” chỉ đáng giá “hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma”. Nhưng bà muốn tỏ lòng yêu mến Chúa “hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn”, nên bà dâng cho Chúa cả cuộc đời còn lại của bà gói ghém trong mấy đồng tiền kẽm ấy. Chúa Giê-su mỉm cười mãn nguyện. Người làm phán quan đo lường lòng quảng đại của bà: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”.
Tại Hoa-kỳ, có những giáo xứ Việt-Nam đăng trên tờ Thông tin của giáo xứ danh sách những người dâng cúng tiền bạc. Người đứng đầu danh sách, số tiền cho là mấy chục ngàn, trong khi người cuối cùng là năm, ba đô-la! Phải chăng đó là cách các cha xứ đo lường lòng quảng đại của giáo dân? Hay đó cũng là cách giáo dân muốn cha xứ phải công bố lòng quảng đại của họ? Chỉ có Chúa mới biết được sự thật thôi! Điều chúng ta biết rõ, đó là Chúa muốn chúng ta dâng cúng cho những công cuộc trần thế của Người bằng tất cả tấm lòng của chúng ta.
Chúa đã quảng đại với chúng ta đến mức độ ban cho chúng ta tất cả những gì quý giá nhất, tức là Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người. Chính Chúa Ki-tô cũng quảng đại đến hy sinh mạng sống cho phần rỗi chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta có sáu điều răn Hội Thánh. Nhưng giáo hội Hoa-kỳ thêm một điều răn nữa nói về việc đóng góp của giáo dân, từ tiền bạc cho tới những tài năng và thì giờ để xây dựng Giáo Hội. Các môn đệ Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay chắc chắn có được một bài học ý nghĩa để áp dụng cho đời tông đồ của họ, để mai này họ đem tất cả đời mình phụng sự Tin Mừng Chúa Ki-tô. Chúng ta xây dựng cho đền thờ của mình để xứng đáng làm nơi Chúa Thánh Thần ngự. Nhưng chúng ta cũng không quên xây dựng cho Giáo Hội của Chúa bằng những đóng góp của chúng ta. Gương của bà góa nghèo trong Tin Mừng kêu gọi lòng quảng đại của chúng ta.
Đóng góp cho cộng đoàn, giáo xứ và những tổ chức của Giáo Hội là cơ hội để chúng ta sống lòng quảng đại như một phương thức đáp lại sự hào phóng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đồng tiền đóng góp của chúng ta quan trọng, nhưng tấm lòng quảng đại vì yêu mến của chúng ta phải là một động lực không thể thiếu. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Mc 12,38-44: 38 Trong lúc giảng dạy, Người nói: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư, họ ưa dạo quanh trong bộ áo thụng và được chào hỏi ở những nơi công cộng, 39 và những ghế danh dự trong các hội đường, những chỗ nhất trong các đám tiệc. 40 Họ nuốt hết nhà cửa của các bà goá và giả bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ nhận án phạt nhiều hơn”. 41 Ngồi đối diện với hòm cúng, Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào hòm cúng ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu. 43 Gọi các môn đệ của Người lại, Người nói với họ: “Thật, Thầy nói với anh em: bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn những người bỏ vào hòm cúng. 44 Vì tất cả đều bỏ từ tiền dư giả của họ; còn bà này, từ sự túng thiếu của bà, bà đã bỏ tất cả những gì bà có, tất cả cho sự sống của bà.”
Đoạn 12:38-44 nằm ở cuối những giáo huấn của Chúa Giêsu trong đền thờ (x. Chú giải bài Phúc: TN 32-B83
Đoạn 12:38-44 nằm ở cuối những giáo huấn của Chúa Giêsu trong đền thờ (x. Chú giải bài Phúc âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên B). Đoạn nầy gồm hai câu chuyện của các kinh sư (12:38-40) và bà goá nghèo (12:41-44), trong đó chân dung tương phản nhau của họ được mô tả. Trong câu kết luận của mỗi đoạn, một bên Chúa Giêsu loan báo sự phán xét của Thiên Chúa; bên kia, Người khen ngợi. Hai đoạn liên kết với nhau qua hạn từ “bà goá” (12:40 và 42.43).
Câu chuyện của các kinh sư mở đầu bằng một ngăn ngừa (12:38a) và kết thúc bằng một phán xét của Chúa Giêsu (12:40); phần chính là mô tả cách sống của các kinh sư (12:38b-39). Chúa Giêsu thường xuyên dùng cách ngăn ngừa “Hãy coi chừng” để kêu gọi các môn đệ của Người sẵn sàng nghe một điều gì (13:23.33), nhất là để giữ mình khỏi điều sắp được loan báo: men của người Pharisêu (8:15), cách sống của các kinh sư (12:38), những người bắt bớ ( 13:5.9). Các kinh sư là những người giảng dạy lề luật của Thiên Chúa cho dân chúng và phục vụ cho lề luật ấy. Thế nhưng họ đã lợi dụng vị thế của một kinh sư mà khai thác danh và lợi cho chính mình. Đến lúc nầy, qua lời phê phán của Chúa Giêsu, mới hiểu được tại sao dân chúng đã đánh giá Người trổi vượt hơn họ trong giáo huấn và quyền năng (1:22). Điều Chúa Giêsu trách họ là tham vọng của họ. Marcô mô tả cách sống của họ bằng ba động từ ở thể phân từ hiện tại “muốn” (12:38), “nuốt” và “đọc kinh, cầu nguyện” (12:40). Điều họ muốn trong đời sống thường ngày là mặc áo thụng, dành cho những người có chức tước (12:38; x. Lc 15:22; 20:46), để phân biệt mình trong địa vị so với người khác; muốn được chào nơi công cộng vì muốn xem mình là trung tâm chú ý nơi mà hình như chẳng ai để ý đến ai; muốn chỗ cao trong các đám tiệc, điều mà Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người nên làm ngược lại (x. Lc 14:8). Trong đời sống tôn giáo, họ cũng muốn những chỗ vinh dự trong hội đường. Như thế, họ muốn phô trương chính mình ra ở mọi nơi và giữa mọi người để tìm vinh dự nhiều nhất có thể từ phía con người. Về việc làm, Chúa Giêsu trưng dẫn hai hành động cụ thể: nuốt nhà cửa của bà góa và giả bộ đọc kinh lâu giờ (1:40). Hai hành động nầy gắn liền với nhau. Làm như thế là họ khai thác Thiên Chúa và đánh lừa con người để kiếm lợi lộc vật chất ngay cả của những người nghèo khó nhất. Do đó họ bị kết án nặng nề (x. Xh 22:21-23; Is 1:17; 10:1-2). Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người đừng bắt chước theo lối sống của các kinh sư, vì cách sống ấy đã bị kết án rồi (12:40).
Câu chuyện của bà goá nghèo có thể được phân chia thành hai phần: - Chúa Giêsu quan sát những người bỏ tiền vào hòm cúng (12:38-40); - Người đánh giá việc làm của họ, cách riêng của bà ấy (12:41-44). Khung cảnh của câu chuyện là sự quan sát của Chúa Giêsu và nhiều người đến bỏ tiền vào hòm cúng (12: 41). Sự tương phản giữa những người giàu và một bà góa nghèo được nêu nổi bật suốt câu chuyện. Đây là những tương phản: nhiều người giàu có (c. 41) - một bà goá nghèo (c. 42.43); họ bỏ nhiều tiền (c. 41) - bà bỏ hai đồng xu (c. 42); họ bỏ từ phần dư giả (c.44) - bà bỏ từ sự túng thiếu (c.44). Động từ “bỏ vào” dùng cho người giàu diễn tả sự liên tục và thời hạn; trong khi cũng động từ ấy dùng cho bà goá chỉ một hành động nhanh chóng và đã hoàn tất. Bà chỉ bỏ một lần thôi (cc. 42.43.44). Tuy nhiên, kết quả là một bà goá bỏ nhiều hơn tất cả những người bỏ tiền vào hòm cúng (c. 43).
Trong xã hội Israel thời ấy, bà goá được xếp bên cạnh những trẻ không cha mẹ. Cả hai thuộc về những người không thể tự vệ (Ex 22:22; Đnl 10:18; 14:29). Hơn nữa, bà goá nầy được xác định là nghèo (cc. 42.43). Chữ “nghèo” (ptōchos) nầy còn có nghĩa là “người ăn xin” (x. 10:12; Lc 14:13.21). Để ca ngợi là bà đã bỏ vào nhiều hơn tất cả những người đã bỏ vào đó, Chúa Giêsu dùng công thức long trọng “Thật, Thầy bảo các con”. Trong lý chứng đưa ra (12:44), Người cho thấy sự tương phản của hai việc làm: người giàu cúng đền thờ từ tiền dư thừa, trong khi bà góa từ sự thiếu thốn. Dư thừa là nhiều hơn mức cần thiết; trong khi, thiếu thốn là ít thua mức phải có. Người giàu có đã bỏ vào “nhiều” (12:41), trong khi bà goá nghèo đã bỏ vào “tất cả” (12:44). Tất cả những gì bà có cho đến lúc ấy chỉ là hai đồng tiền. Đó là tất cả phương tiện vất chất nuôi sống bà (x. Lk 8:43). Đối với Chúa Giêsu, điều Người quan tâm không phải là số lượng, vì chắc chắn là những người giàu có bỏ vào nhiều hơn bà, mà là sự trọn vẹn. Trong đoạn trước nói về giới răn yêu thương, Người đòi hỏi sự trọn vẹn (x. 12:30.33). Vậy, bà goá nghèo nầy đã thực hiện giới răn đó, khi dâng cho Thiên Chúa tất cả những gì bà có và đã không dành lại điều gì cho mình.
So sánh với các kinh sư bị phê phán trên, bà goá nghèo nầy rất tự do đối với tiền của và với chính mình. Bà không lo lắng cho chính mình, mà chỉ hướng về Thiên Chúa. Bà hoàn toàn yêu mến Người và lòng mến yêu ấy được biểu lộ qua việc dâng cúng tất cả những gì đang có cho đền thờ của Người. Trong khi đó, các kinh sư chỉ nghĩ đến mình và tận dụng mọi sự, mọi người và ngay cả việc thờ phượng Thiên Chúa cho tham vọng riêng mình. Vì lý do ấy mà trước mặt Thiên Chúa, các kinh sư ấy bị phán xét, còn bà goá nghèo nầy nên cao trọng.
Không phải số lượng việc làm hay tiền của dâng cúng mà Thiên Chúa yêu thích, nhưng là một tấm lòng thuộc trọn vẹn về Người.
Giầu và nghèo là hai trạng thái diễn tả con người. Giầu tiền bạc mà nghèo lòng nhân ái thì cũng: TN 32-B84
Giầu và nghèo là hai trạng thái diễn tả con người. Giầu tiền bạc mà nghèo lòng nhân ái thì cũng chỉ là nghèo. Trái lại, nghèo của cải, nhưng giàu lòng thương người thì lại là những người giầu có. Lời Chúa hôm nay cho ta những hình ảnh đẹp về những người nghèo của nhưng giầu lòng. Hai bà góa trong câu truyện Cựu Ước và câu truyện Tin Mừng là những người quảng đại với tha nhân và cộng đồng. Còn Chúa Giê-su qua đoạn thư gửi tín hữu Do-thái là hiện thân sự quảng đại của Thiên Chúa đối với loài người, đồng thời cũng thể hiện trọn vẹn lòng quảng đại của một người phàm đối với Thiên Chúa.
1. Bà góa quảng đại trong câu truyện ngôn sứ Ê-li-a (bài đọc Cựu Ước – 1 Vua 17:10-16)
Ngôn sứ Ê-li-a trên đường chạy trốn cơn bách hại đi ngang qua Xa-rép-ta. Cả vùng đang gặp cơn đại hạn nên mùa màng mất hết và nạn đói đe dọa. Trước cổng thành, ngôn sứ gặp một bà góa đi lượm củi. Có lẽ trong thâm tâm, ông nghĩ tới cảnh lá rách đùm lá nát nên mở miệng xin bà cứu giúp ông trong cơn đói khát. Xin chút nước xong, ông còn xin bà cho miếng bánh. Nhưng bà làm gì có bánh mà cho, ngoại trừ một nắm bột còn lại trong hũ và chút dầu. Đó là cả sản nghiệp đủ một bữa ăn cho bà và đứa con, ăn xong rồi ngồi chờ chết đói. Vậy mà bà vẫn sẵn sàng hy sinh để cứu giúp vị ngôn sứ. Lòng quảng đại và thương người nơi bà đã được Thiên Chúa đền bù. Thiên Chúa không đo lường lòng quảng đại của bà bằng nắm bột rẻ bèo, nhưng bằng chính sự sống của bà và đứa con.
Tuy nhiên ngôn sứ Ê-li-a cũng không phải là người chỉ nghĩ đến mình. Ông muốn chia sẻ số phận thiếu thốn với hai mẹ con bà. Ông nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con của bà” (1 V 17:13). Ông chỉ xin một “chiếc bánh nhỏ” thôi, đủ cho nhu cầu cấp bách của ông lúc này, chứ không dám xin hết.
Tình huống ấy nói lên tấm lòng những người con cái đích thực của Thiên Chúa. Họ đùm bọc nhau, sống quảng đại với nhau, một miếng khi đói bằng gói khi no. Nếu con cái Chúa đã biết sống như vậy thì Thiên Chúa đành lòng nào để cho họ phải lâm vào cảnh chết đói. Do đó Người đã làm cho “hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).
Câu truyện lòng quảng đại này giúp ta nhận ra con tim của loài người và con tim của Thiên Chúa. Bà góa Xa-rép-ta nghèo khổ trong sự thiếu thốn của phận mẹ góa con côi trong khi ngôn xứ Ê-li-a nghèo khổ trong cảnh trốn chạy vì bị bách hại. Nhưng cả hai đều là những người sống nhờ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Họ muốn sống như con cái đích thực của Thiên Chúa nên sẵn sàng hy sinh mạng sống cho tha nhân. Bà góa muốn chia sẻ tấm bánh cuối cùng để cứu giúp “người của Thiên Chúa”. Còn ngôn sứ Ê-li-a không ngại sống chết để thi hành sứ vụ mà giúp đỡ dân Chúa. Do đó quảng đại là biết hy sinh bản thân để phục vụ Thiên Chúa, tha nhân và cộng đồng. Lòng quảng đại đích thực không có biên giới và không những nó chạm đến những người chung quanh mà còn chạm đến trái tim của Thiên Chúa nữa.
2. Bà góa nghèo quảng đại ở Giê-ru-sa-lem (bài Tin Mừng – Mác-cô 12:38-44)
Thời nào cũng có những bà góa nghèo. Nhưng tìm được một bà góa như trong câu truyện Tin Mừng hôm nay chắc không dễ đâu, vì bà tuy nghèo tiền bạc nhưng lại có tấm lòng rộng rãi với Thiên Chúa và công việc của Người. Thùng tiền dâng cúng đặt ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là để cho khách hành hương bỏ vào đó những đồng tiền giúp bảo trì nhà Chúa và góp phần vào công cuộc bác ái xã hội. Tuy nhiên động lực khiến người ta bỏ vào lại quan trọng không kém, vì nó nói lên giá trị đích thực của đồng tiền. Có người bỏ tiền vào để khoe khoang lòng đạo đức hoặc quảng đại của họ. Có người bỏ tiền vào để “đổi chác” với Thiên Chúa, xin Chúa hãy cho mình điều này điều kia. Có những người giàu có muốn quăng đi nắm bạc thừa để tính toán một công đôi ba chuyện. Dĩ nhiên ngoài những động lực không tốt ấy cũng còn những động lực rất chân thành và thánh thiện giúp người ta góp công góp của cho Đền Thờ và cho Chúa. Điển hình là bà góa nghèo đã bỏ vào thùng tiền chỉ có hai đồng bạc kẽm. Nhưng lại có một người đã quả quyết rằng bà góa nghèo ấy đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn hết mọi người. Người đó là Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su đang hiện diện tại Giê-ru-sa-lem. Thánh sử Mác-cô viết: “Khi ấy, Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ” (Mc 12:41). Thiếu gì chỗ ngồi khác mà Chúa Giê-su lại ngồi “đối diện” với thùng tiền dâng cúng! Hẳn là Chúa cố ý làm như vậy để dễ quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng ra sao. Vừa trước đó, Người đã nặng lời và thẳng thắn tố cáo các kinh sư là những kẻ giả hình giả bộ lại còn đang tâm “nuốt hết tài sản của các bà góa” nữa. Không biết bà góa nghèo này có phải là nạn nhân do lòng tham của mấy ông kinh sư kia hay không. Có thể lắm chứ. Vậy Chúa đã quan sát và Người thấy gì? Người thấy có hai hạng người bỏ tiền vào thùng dâng cúng: nhiều người giàu có và một bà góa nghèo. Nhưng họ khác nhau một trời một vực. Một bên là những người “lấy tiền dư bạc thừa” mà cho, còn một bên là bà góa “bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân” (Mc 12:44). Thiên Chúa không tính toán giá trị những đồng tiền của những người cho, nhưng Người tính toán tấm lòng của người dâng cúng. Khi một người dám dâng cúng “tất cả những gì mình có, tất cả những gì để nuôi thân”, thì người ấy phải có một tấm lòng rộng lớn quý giá hơn cả mạng sống của họ. Quả thực, hôm nay Chúa Giê-su không uổng công ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng Đền Thờ để tìm gặp được một tâm hồn quảng đại đích thực! Chắc chắn là Người vui sướng lắm, nên Người đã vội vàng “gọi các môn đệ lại và nói: ‘Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết’” (Mc 12:43). Liệu các môn đệ có hiểu được ý Chúa muốn nói gì không? Hay các ông vẫn bị vẻ nguy nga tráng lệ của Đền Thờ cuốn hút, để chỉ lưu ý đến những đồng tiền rổn rảng của kẻ giàu có ném vào thùng tiền mà quên đi đồng tiền có giá trị đích thực của bà góa nghèo? Do đó, Chúa đã bảo môn đệ: “Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá hủy” (Mc 13:2). Những gì vĩ đại bề ngoài, cho dù là Đền Thờ đi nữa, cũng sẽ chẳng tồn tại. Chỉ có tấm lòng quảng đại đối với Chúa và tha nhân là tồn tại và đưa ta vào cung lòng quảng đại của Thiên Chúa.
3. Chúa Giê-su, con người quảng đại hết lòng với Thiên Chúa và nhân loại (bài đọc Tân Ước – Do-thái 9:24-28)
Với hai câu truyện về bà góa nghèo trong Cựu Ước và sách Tin Mừng, Phụng vụ Lời Chúa muốn đưa ta đến gặp gỡ Chúa Giê-su, con người quảng đại đã hiến dâng cả mạng sống mình cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và lợi ích của nhân loại.
Sinh ra trong cảnh nghèo khó, Chúa Giê-su đã sống cuộc đời nghèo khó tại mái ấm Na-da-rét. Lên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Người cũng vẫn là kẻ “không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58). Người có gì đâu ngoài tấm thân để phục vụ cùng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân “hết lòng hết dạ và hết sức lực”. Người đã sẵn sàng sử dụng thân mình làm của lễ dâng lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi nhân loại. Người đã đến trước mặt Thiên Chúa, không đem theo máu chiên bò như các thượng tế đã làm để xin xá tội cho dân chúng, nhưng Người đã đem chính máu mình một lần thôi để chuộc tội nhân loại. Máu là sự sống con người, nên Chúa Giê-su đã hiến mạng sống cho Thiên Chúa và nhân loại. Quảng đại đến thế là tuyệt đối rồi. Nhưng động lực nào khiến Chúa Giê-su quảng đại tới mức độ tuyệt đối ấy? Thưa là do tình yêu, lòng mến Chúa yêu người.
Phài nhìn vào kết quả của việc Chúa Giê-su hy sinh mạng sống mình, ta mới thấy được mức độ quảng đại của Người lớn lao chừng nào. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì người mình yêu”. Cũng thế, không có lòng quảng đại nào to lớn hơn lòng quảng đại của Đấng dám thí mạng vì Thiên Chúa và anh chị em đồng loại. Hoa trái lòng quảng đại của Chúa Giê-su không dành riêng cho một dân tộc, nhưng cho toàn thể nhân loại, không giới hạn trong thời gian Người chịu chết trên thập giá, nhưng kéo dài mãi cho đến ngày tận thế. Lòng quảng đại của Chúa Giê-su lớn lao tuyệt đối, vì nó là hiện thân lòng quảng đại của chính Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Vậy chẳng lẽ Chúa quảng đại với ta như vậy mà ta lại có thể so đo tính toán với Chúa hết lần này tới lần khác như thế sao? So đo khi ta bỏ những đồng tiền dâng cúng cho nhà thờ mỗi Chúa Nhật hoặc công cuộc từ thiện. Tính toán khi ta đóng góp công của để xây dựng cộng đoàn. Chúa Giê-su còn gì đâu khi Người chết treo trên thập giá. Cả đến mảnh vải che thân cũng không còn. Vậy mà ta chỉ lấy tiền dư bạc thừa mà “bố thí” cho nhà thờ thì quả thực là bất công. Lòng quảng đại của Chúa đã cứu sống ta, nên ta cũng phải biết ơn mà đền đáp ơn cứu tử ấy thì mới xứng đáng.
4. Sống Lời Chúa Ta được hiện diện trên đời là do lòng quảng đại của Thiên Chúa, được ơn cứu độ do tình yêu quảng đại của Chúa Giê-su. Quảng đại để xây dựng cộng đoàn như gia đình, giáo xứ, Giáo Hội… đòi hỏi ta phải chấp nhận hy sinh. Những bà góa nghèo quảng đại trong Kinh Thánh và nhất là Chúa Giê-su đã trở nên mẫu gương quảng đại. Quảng đại đích thực không hẳn đòi ta phải cho thật nhiều tiền, nhưng là cho hết lòng, ngay cả đến mạng sống mình nữa. Nhưng đặc biệt, quảng đại cần được thể hiện cụ thể trong những đóng góp của ta cho lợi ích cộng đồng và xoa dịu những thương đau của anh chị em nghèo khổ. Hy vọng ta không phải là hạng người phô trương lòng quảng đại, nhưng là những người thực sự “sống lòng quảng đại” trong mọi hoàn cảnh.
Suy nghĩ: Chính Chúa Giê-su đã dạy: “Anh em đã nhận được nhưng không thì hãy cho nhưng không”. Cũng có một câu hát như sau: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?” Vậy tôi đã nhận được những gì và tôi đã cho những gì? Tôi có “một tấm lòng” không? Và tôi đã làm gì với tấm lòng ấy?
Cầu nguyện: Lạy Cha nhân từ, Cha muốn cho con người được hạnh phúc, Cha cũng đã ban trái đất cho con người gìn giữ trông coi. Xin dạy chúng con biết cách dùng của cải chúng con khai thác được từ thiên nhiên, để chúng con vừa có của nuôi mình, vừa tôn vinh Danh Thánh, và mưu cầu lợi ích cho anh em đồng loại. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ tạ ơn sau mùa gặt).
Cuộc sống có những giá trị khác nhau. Nhiều giá trị lớn lao được tạo lập trong những hoàn cảnh: TN 32-B85
Cuộc sống có những giá trị khác nhau. Nhiều giá trị lớn lao được tạo lập trong những hoàn cảnh tầm thường. Không dễ gì nhìn thấy kim cương trong những đống cát. Thế mà Đức Giêsu đã nhìn thấy một giá trị vô cùng lớn lao nơi cử chỉ của một góa phụ tầm thường. Cái nhìn đó đã đảo lộn mọi giá trị và gây nhức nhối cho những người sống dựa trên những tiêu chuẩn bên ngoài. Chúng ta thử tìm lại giá trị và ý nghĩa đích thực của cuộc sống nơi bài học lịch sử sống động đó.
GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC
"Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc." (Mc 12:38-39) Đó là những giá trị bên ngoài nhưng đầy hấp dẫn đối với những người có chức vị trong xã hội như các kinh sư. Suốt đời họ chỉ tìm kiếm những cái bên ngoài đó để bù lấp khoảng trống lớn lao trong tâm hồn. Những giá trị hời hợt đó chỉ dừng lại ở đầu môi chót lưỡi, bộ áo thùng thình, chiếc ghế danh dự và mâm cao cỗ đầy. Không những thế ngay cả đời sống đạo đức cũng trở thành một trò hề. Họ "làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ" (Mc 12:40) để khoe khoang sự đạo đức của mình. Vì nếu không có những kinh nguyện đó, làm cách nào trốn được bổn phận ngoài xã hội ? Việc đạo đức trở thành bức màn che dấu tính hèn nhát, lười biếng, thích ăn bám xã hội. Nhờ thế họ mới có lý do để "nuốt hết tài sản của các bà góa." (Mc 12:40) Từ những hào nhoáng thế gian đến những việc thánh thiêng đạo đức, họ đều đóng kịch. Còn gì là sự thật nơi những nét kịch nghệ đó chăng ?
Hình ảnh vị kinh sư cao ngạo đó chẳng khác những "người giàu bỏ thật nhiều tiền" (Mc 12:41) với một thái độ ngông nghênh, khinh thế ngạo vật. Đồng tiền trở thành một phương tiện để họ khoe cái tôi của mình. Tất cả những nét thời đại đó trở thành một vấn đề lớn trước cái nhìn của Đức Giêsu. Nếu Giáo Hội của Người cũng chỉ toàn những hạng người như thế, hỏi nhân loại còn mong chờ gì nơi Giáo Hội ? Thế nên, Người phải hết sức chú ý để moi lên từ đám đông quần chúng một gương mẫu cho các môn đệ và cả Giáo Hội sau này. Giữa một rừng người đang thi nhau bỏ vào "thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ" những đống tiền kếch sù, "cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma." (Mc 12:42) So với số tiền của người giàu, hai đồng tiền kẽm có nghĩa lý gì ? Mua được mấy viên gạch ? Thế mà bà lại được Đức Giêsu đề cao: "Thầy bảo thật anh em: bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết." (Mc 12:43) Giá trị không căn cứ trên số lượng. Cái không đáng kể mới đáng kể !
Phải có một cái nhìn thật sâu sắc, một quan tâm rất lớn mới thấy được vấn đề quá lớn trong một hành vi nhỏ mọn như vậy ! Chính hành vi nhỏ mọn đó đã lột tả tất cả những hi sinh thật lớn lao vì "bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân." (Mc 12:44) Tại sao bà có thể làm được như thế, nếu không phải vì bà đã cảm nhận được hồng ân cao cả và tin vào Thiên Chúa. Cõi lòng bà đã mở ra để hồng ân tràn trề qua việc hi sinh lớn lao bằng một số lượng rất hạn hẹp. Cả Tân lẫn Cựu Ước đều nêu lên mẫu gương bà góa thật cảm động. Lúc ngôn sứ Eâlia lên tiếng cầu cứu, bà góa Xarépta đã trả lời: "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò." (1 V 17:12) Vì tin tưởng nơi lời Thiên Chúa hứa, "bà đi và làm như ông Eâlia nói." (1 V 17:15) Hai bà đều có một lòng tin như nhau. Nhưng khác với bà góa Tân Ước không được đền bù rõ ràng, bà góa Xarépta được chứng kiến cảnh "hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Eâlia mà phán." (1 V 17:16)
Phải có một đức tin mạnh mẽ vô cùng mới có thể hi sinh tất cả như thế. Cả hai bà góa chỉ là hình ảnh của Đức Giêsu Kitô, Đấng "đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người." (Dt 9:28) Sự hi sinh của Người lớn lao tới mức nào mà có thể xóa bỏ tội lỗi muôn người ? Chắc chắn hi sinh đó không thể thua kém hai bà góa trên. Hi sinh của hai bà chỉ là hình bóng so với hi sinh thật sự của Đức Giêsu trên thập giá. Đúng hơn, hai bà xuất hiện vào những thời kỳ khác nhau, với những hi sinh khác nhau, tuy cùng một mức độ, để chuẩn bị cho một cao điểm, một hi sinh tột cùng. Quả thực, "vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến thân chính mình." (Dt 9:26) Dầu sao, hũ bột và dầu hay hai đồng tiền kẽm vẫn chỉ là những thứ vật chất bên ngoài, chứ chưa phải là chính mạng sống. Còn Đức Giêsu hi sinh chính mạng sống mình. Không còn hi sinh nào lớn hơn !
NHỮNG HI SINH HÔM NAY
Đức Giêsu đã hi sinh để giải thoát nhân loại và đem lại vinh dự làm con Chúa cho đàn em đông đúc. Đàn em đông đúc đó đã làm thành Giáo Hội tiếp tục sứ mạng cứu độ qua muôn ngàn thế hệ. Anh cả Giêsu đang nhìn đàn em tiến lên tiếp nối sứ mệnh hòa bình cho toàn thể nhân loại. Sứ mệnh hòa bình cũng là một mối phúc lớn nhất trong tám mối phúc. Lớn nhất vì chỉ có mối phúc này mới đem lại hồng ân làm "con Thiên Chúa" (Mt 5:9). Lớn nhất vì đòi hỏi nhiều nhất và đụng chạm tới tất cả các mối phúc khác. Muốn trở nên kẻ xây dựng hòa bình, không thể nào không sống công chính (Mt 5:6,10). Muốn sống công chính, chắc chắn phải có "tâm hồn nghèo khó." (Mt 5:3), phải cố tạo một mọi điều kiện cho công lý ngự trị trên trái đất. Vì theo công đồng Vatican II, công lý là danh hiệu mới của hòa bình. Bà góa Xarépta đã biết thương đến người đói khát hơn mình, đã biết chia sẻ với người đói khát hơn mình. Chỉ biết hưởng một mình, sống chết mặc bay, chắc chắn sẽ tạo ra một hố sâu ngăn cách giàu nghèo vùi lấp tất cả trong cảnh hòa bình nghĩa trang. Muốn tránh khỏi thảm trạng đó, Kitô hữu phải noi gương "hiền lành" (Mt 5:4) của Đức Kitô. Hiền lành và bình an như bóng với hình.
Nhưng trên hết, muốn xây dựng hòa bình, tâm hồn Kitô hữu phải đầy ắp tình yêu thương. Làm sao yêu thương người khác được, nếu chúng ta không sống coi người khác là anh em ? Làm sao có thể nhìn người khác như anh em, nếu mình không thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi tha nhân ? Thực tế, chỉ có những "tâm hồn trong sạch" mới "nhìn thấy Thiên Chúa" (Mt 5:8) nơi tâm hồn người khác mà thôi. Bà góa tại Xarépta hay tại cửa đền Giêrusalem đều có tâm hồn trong sạch, vì đã nhìn thấy Thiên Chúa trong tâm hồn Eâlia hay nơi công trình Thiên Chúa. Thời đại hôm nay cũng có thể kiếm thấy những chứng tá hòa bình rất chói sáng. Chẳng hạn Tổng thống Nam Hàn, ông Kim Đại Trọng là một người Công giáo rất nhiệt thành. Theo giáo sư Han Hong Soon, "Kim tổng thống đã làm chứng cho đức tin Công giáo của ông trong các hoạt dộng chính trị mà tiêu biểu nhất là hành vi ân xá cho hai công Chun Doo Hwan và Roh Tanh em Woo, những người đã nhiều lần âm mưu giết ông." (VietCatholic 10.11.2000) Oâng đã kéo chú ý của toàn thể thế giới khi sang thăm viếng Bắc Hàn và nhất là khi lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình. Kim Đại Trọng là niềm hãnh diện chung cho người Công giáo Á châu nói chung, chứ không phải riêng cho dân Đại Hàn vì đã sống theo đúng Tin Mừng.
Nơi phần đất Á Châu đó, hôm nay còn cần rất nhiều chứng tá Phúc Aâm như Kim Đại Trọng. Có thể nói, không lục địa nào trên thế giới cần đến công lý hơn Á Châu. Tranh đấu cho công bình cần thiết hơn làm công tác bác ái. Xoa dịu nỗi khổ đau bên ngoài không bằng tiêu diệt mầm mống bất công nằm sẵn trong tâm hồn con người và cơ chế xã hội. Hơn nơi nào và bất cứ lúc nào, Á Châu đang cần đến những bước chân người rao giảng Tin Mừng hòa bình. Nhưng Tin Mừng hòa bình chỉ được rao giảng bằng sức mạnh tình yêu và chứng từ công lý nơi đời sống Kitô hữu.
Cao điểm của thư Do-thái nằm trong những câu Kinh Thánh của bài đọc hôm nay, giải thích Chúa: TN 32-B86
Cao điểm của thư Do-thái nằm trong những câu Kinh Thánh của bài đọc hôm nay, giải thích Chúa Giê-su là Linh Mục Thượng Phẩm thập toàn. Muốn diễn tả mức độ thập toàn, tốt nhất là so sánh với những gì không hoàn hảo. Đó chính là mạch tư tưởng thư Do-thái đi theo khi so sánh Chúa Giê-su với vị thượng tế theo dòng họ Lê-vi, tác vụ của Người với tác vụ của vị thượng tế và hiệu quả do hiến tế của Chúa Giê-su với hiệu quả do lễ Xá tội của Do-thái. Trong chương 8, thư Do-thái lập luận rằng Chúa Giê-su là vị trung gian của một giao ước hoàn hảo hơn, vì Người đã thi hành một tác vụ tuyệt vời hơn (8:6). Giao ước này đã đuợc ngôn sứ Giê-rê-mi-a tiên báo trong Gr 31:31-34 và lời tiên báo ấy được thể hiện trọn vẹn qua lời khẳng định của Thiên Chúa: “Ta sẽ dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (8:12). Vậy Đức Ki-tô đã thi hành sứ vụ tư tế của Người như thế nào? a) Vào cung thánh
Thánh điện (nơi cực thánh) trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là nơi vị tư tế sẽ vào mỗi năm một lần vào ngày lễ Xá tội. Tại đó ông sẽ thay mặt dân để gặp gỡ Thiên Chúa, dâng lên Người hiến lễ để xin Người tha tội cho mình và cho dân. Sách Lê-vi chương 16 đã mô tả rất chi tiết về tác vụ của vị tư tế, từ việc cử hành lễ xá tội cho thánh điện, cho Lều Hội Ngộ và bàn thờ tới lễ xá tội cho chính mình và cho toàn dân. Tuy nhiên vào cung thánh nhân ngày lễ Xá tội chỉ là một nghi thức diễn tả một cách nào đó sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Nó cần thiết cho con người, nhắc nhớ họ về sự gần gũi của Thiên Chúa, về tình trạng tội lỗi của họ. Nhưng sau bao thế kỷ, sự gặp gỡ ấy vẫn chỉ là “các hình ảnh mô phỏng những thực tại trên trời” (9:23), tức là mô phỏng sự thanh tẩy tạm thời chứ chưa phải là vĩnh viễn sẽ dung thứ những điều gian ác và sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của nhân loại nữa. Chính vì hiệu quả bất toàn đó mà bức màn che thánh điện vẫn phải để nguyên chứ không được cất đi và mỗi năm vị tư tế lại phải đi qua bức màn đó để lập lại nghi thức gặp gỡ Thiên Chúa và cầu xin Người xá tội cho dân.
Thánh điện mà Chúa Giê-su bước vào không phải là “cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật,” nhưng là “chính cõi trời, trước mặt Thiên Chúa.” Khi đến trước mặt Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã giúp cho nhân loại từ nay có thể chạm tới Thiên Chúa, gặp gỡ Người mặt đối mặt. Tội lỗi và sự chết đã là bức màn ngăn cách con người với Thiên Chúa, thì giờ đây sau cái chết hy sinh của Chúa Giê-su trên thập giá, “bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15:38; Lc 23:45). “Để giờ đây Người ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Vậy Chúa Ki-tô đã thi hành tác vụ tư tế của Người như thế nào trước mặt Thiên Chúa? b) “Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội muôn người”
Vị tư tế Lê-vi đã sát tế một con dê đực, một con cừu đực và một con bò tơ để làm lễ xá tội. “Ông sẽ lấy máu con bò tơ và máu con dê mà bôi lên các góc cong của bàn thờ. Ông sẽ dùng một ngón tay rảy máu bảy lần lên bàn thờ, mà thanh tẩy cho khỏi các điều ô uế của con cái Ít-ra-en, và thánh hiến bàn thờ” (Lv 16:18-19). Nhưng tội lỗi và quyền lực của nó vẫn còn đó, không hề lay chuyển. Thi hành phận vụ xong, vị tư tế trở về với cuộc sống bình thường, và cũng như mọi người lại tiếp tục sống dưới quyền lực không thể bị khuất phục của tội lỗi, rồi năm tới ông trở lại Đền Thờ và lập lại cùng một nghi thức.
Còn Chúa Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn của chúng ta, không đem theo máu của tế vật, nhưng Người đã dùng máu của chính mình đổ ra trên thập giá. Bàn thờ của Người không phải bằng đá quý chạm trổ những góc cong mỹ thuật, nhưng là cây gỗ ô nhục người Rô-ma dùng để trừng phạt những kẻ phản loạn. Chiều ngày áp lễ Vượt qua của Do-thái, chiên lễ Vượt qua đã chịu sát tế để tạ tội cho dân. Cũng thế, Chúa Giê-su đã chịu chết trên thập giá vào chiều ngày áp lễ Vượt qua, và sau khi chết, “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19:34). Máu và nước, biểu tượng cho sự sống mới, trào ra và đem lại sự sống cho những ai tin vào Người. Máu của Người không chỉ “thanh tẩy các điều ô uế” nhưng là “tiêu diệt tội lỗi.” Tội lỗi và sự chết đã hoàn toàn mất đi quyền bá chủ vĩnh viễn trên con người. Trước kia con người không thể có được một đời sống mới. Nhưng bây giờ nhân loại được nhận sự sống mới do Thánh Thần sau khi Chúa Giê-su “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19:30). c) Chúa Ki-tô sẽ xuất hiện lần thứ hai để cứu độ những ai trông đợi Người
Hy tế thập giá của Chúa Giê-su đã hoàn tất giai đoạn khởi đầu của chương trình cứu độ, nhưng chưa phải là chung kết. Cái chết của Người đã khởi sự cho cuộc sống mới của chúng ta, để chúng ta sẽ tiếp tục sống như “những ai trông đợi Người.” Trông đợi không phải một cách thụ động, nhưng là tích cực để cho mình được biến đổi nhờ kết hiệp với Chúa Giê-su làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Hai thời điểm rõ rệt của Chúa Giê-su đã vạch ra cho chúng ta một hành trình để tiến về cung thánh đích thực mà gặp gỡ Thiên Chúa. Nói khác đi, chúng ta là những người sống ở giữa thời điểm Phục Sinh của Chúa Giê-su và cuộc tái lâm của Người trong ngày tận thế. Đó là thời gian để chúng ta cùng với Chúa Giê-su bước qua đau khổ và thử thách của cuộc sống để đến gần Thiên Chúa mỗi ngày một hơn. Và cuối cùng, chúng ta cũng theo Chúa Giê-su, bước qua chính cái chết của mình để cùng với Người vào cung thánh đích thực mà gặp gỡ Cha chúng ta trong vinh phúc vĩnh cửu. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Những “bức màn trướng” nào đã ngăn cách tôi với Chúa? Tôi phải làm gì để phá bỏ đi những ngăn cách ấy? Chúa Giê-su dạy tôi đến với Cha như thế nào?
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su cầu nguyện: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17:19). Tôi cảm nghiệm được gì qua lời cầu nguyện này của Chúa Giê-su? Sự thật thánh hiến tôi là sự thật nào?
Là người “trông đợi” Chúa Giê-su lại đến, tôi phải sống như thế nào để Người nhận ra tôi và không nói với tôi: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến” (Lc 13:25)?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng nhau đọc Thánh Vịnh 51, xin Chúa ban cho chúng ta một con tim mới.
ĐỌC LỜI CHÚA · Ed 47,1-2.8-9.12: (1) Người ấy dẫn tôi trở lại phía cửa Đền Thờ, và này: có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông, vì mặt tiền Đền Thờ quay về phía đông.
· 1Cr 3,9c-11.16-17: (16) Anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? (17) Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em. · TIN MỪNG: Ga 2,13-22
Đức Giê-su tẩy uế Đền Thờ
(Mt 21,12-13; Mc 11,15-17; Lc 19,45-46)
(13) Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. (14) Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. (16) Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. (17) Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
(18) Người Do-thái hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (19) Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. (20) Người Do-thái nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” (21) Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. (22) Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói. CHIA SẺ Câu hỏi gợi ý:
Tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra tức giận đến nỗi dùng tới bạo lực như vậy? Sự kiện đó nói lên điều: TN 32-B87
1. Tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra tức giận đến nỗi dùng tới bạo lực như vậy? Sự kiện đó nói lên điều gì? Những điều gì làm Ngài ghê tởm nhất trên đời?
2. Thiên Chúa, Đức Giêsu, việc phụng vụ hay thờ phượng Ngài có thể bị biến thành đối tượng kinh doanh, buôn bán không?
3. Thân xác, tâm hồn hay bản thân ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa. Ta có kính trọng đền thờ nội tâm của ta một cách xứng đáng không? Những hành động nào biểu lộ sự kính trọng hoặc coi thường đền thờ đó? Suy tư gợi ý: 1. Hai điều Đức Giêsu ghê tởm nhất trên đời
Đức Giêsu đã phản ứng hết sức mạnh mẽ trước cảnh tượng đền thờ bị biến thành nơi buôn bán. Trong Tin Mừng, phản ứng mạnh như thế của Đức Giêsu rất hiếm thấy. Có hai lần Ngài phản ứng rất mạnh, khác hẳn với thái độ hiền lành hòa nhã bình thường của Ngài: lần đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ (x. Ga 2,13-16), và lần Ngài chửi bọn Pharisêu thậm tệ (x. Mt 23,13-36). Điều này cho ta thấy hai điều làm Ngài ghê tởm nhất trên đời:
– một là biến nơi thờ phượng thành nơi buôn bán (x. Ga 2,16), biến việc thờ phượng, lời cầu nguyện, lễ nghi tôn giáo thành hàng hóa mua bán, thành đối tượng kinh doanh để sinh sống…
– hai là đạo đức giả, lợi dụng hay núp bóng đạo đức hoặc tôn giáo để tiến thân, để ngồi lên đầu lên cổ thiên hạ (x. Mt 23,2.6), để bóc lột người nghèo (23,14), để thần thánh hóa những thực tại vốn chẳng phải là thần thánh hầu đem lại lợi nhuận (23,16-22), để làm mọi người lầm tưởng mình đạo đức bằng cách giữ nhiệm nhặt những luật lệ không quan trọng nhưng lại bỏ qua những điều quan trọng nhất của lề luật là tôn trọng “chân lý, công lý và tình thương” (x. 23,23-24), hoặc tìm cách tôn vinh các ngôn sứ thời xưa để che đậy việc bách hại hay bạc đãi những ngôn sứ đồng thời với mình (23,29-36)… 2. “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”
Bài Tin Mừng hôm nay nói về điều ghê tởm thứ nhất của Ngài. Phải công nhận rằng Ngài đã phản ứng hết sức mạnh mẽ khi thấy “trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền”. Cách hành xử của Ngài thật là hung hăng và đáng sợ: Ngài “lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc thì đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Trước sự việc ấy, chắc các tông đồ phải lấy làm lạ vì Ngài làm trái với điều Ngài thường dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). Tại sao vậy? – Vì Ngài đang phải đối diện với một cảnh tượng mà Ngài cho là hết sức kinh tởm: người ta đã biến đền thờ hay nhà Cha Ngài thành nơi buôn bán, thành một cái chợ. Trong bài Tin Mừng này, những vật bị đưa ra mua bán chỉ là “chiên, bò, bồ câu” mà Ngài đã phản ứng dữ dội như thế! Không biết Ngài sẽ phản ứng mãnh liệt thế nào khi con người đem chính Thiên Chúa, Cha Ngài, đem chính Ngài, hay chính những lễ nghi thờ phượng Ngài ra làm đối tượng để kinh doanh buôn bán, để mặc cả, trao đổi. Tình trạng tương tự như thế vẫn đang xảy ra nhan nhản trong các tôn giáo. Các thầy cúng mặc cả với tín đồ về số tiền phải trả cho một buổi lễ cúng, không đủ tiền thì thầy không cúng. Hoặc các thầy đưa ra một bảng giá (tarif) cho những buổi lễ tùy theo mức độ trang trọng của chúng, bảng giá đó áp dụng chung cho cả người giầu lẫn người nghèo, v.v… Nhiều thầy cúng coi việc cúng tế như một nghề nghiệp để sinh sống. Lúc ấy thần thánh trở nên một loại phương tiện, một loại hàng hóa phục vụ cho nghề nghiệp của họ.
So sánh với thái độ hiền lành và đầy tính bênh vực của Đức Giêsu trước người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,2-12) với thái độ dữ tợn của Ngài trước cảnh buôn bán trong đền thờ, ta thấy Ngài coi tội sau nặng hơn như thế nào! Và càng nặng hơn biết bao tội buôn thần bán thánh! Trong sách Công Vụ, có thuật lại một trường hợp buôn bán thần thánh như sau: «Ông Simon thấy rằng khi các tông đồ đặt tay cho ai thì Thánh Thần được ban xuống tren người ấy, nên ông đem tiền đến biếu các tông đồ và nói: “Xin cũng ban ban quyền ấy cho tôi, để tôi đặt tay cho ai thì người ấy cũng nhận được Thánh Thần”. Nhưng ông Phêrô đáp: “Tiền bạc của anh hãy tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua được ân huệ của Thiên Chúa!”» (Cv 8,18-21). Quả thật, hiện nay, biết bao kitô hữu đã hành động như Simon, muốn dùng tiền bạc để mua chuộc các ân huệ, sự tha thứ, sự giảm hình phạt của Thiên Chúa, hoặc chức tước trong Giáo Hội cho mình hoặc cho người thân của mình! Họ làm như lòng nhân từ của Thiên Chúa có thể mua chuộc được bằng tiền bạc! 3. Bản thân ta cũng là đền thờ, đừng biến nó thành nơi buôn bán
Thánh Kinh cho biết: đền thờ vật chất ở bên ngoài không quan trọng bằng đền thờ tâm linh ở bên trong ta. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ và muôn loài trong đó, không ngự trong những đền thờ do tay con người làm nên” (Cv 17,24). Thánh Têphanô cũng nói tương tự (x. Cv 7,48). Vậy thì Ngài ngự ở đâu? Thánh Phaolô trả lời: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (…) Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,16-17; x. 2Cr 6,16b). Ngay cả thân xác của chúng ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa: “Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19), thậm chí còn là một phần bản thân của Đức Kitô: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6,15). Sự hiện diện của Thiên Chúa trong đền thờ vật chất không được “đậm đặc” như đền thờ tâm linh trong tâm hồn ta. Thế mà khi nó bị trần tục hóa Đức Giêsu đã tỏ ra tức giận như vậy! Vậy thì khi đền thờ tâm linh trong tâm hồn ta bị trần tục hóa, Ngài sẽ tức giận đến thế nào? Chúng ta trần tục hóa đền thờ trong bản thân ta và người khác khi ta coi thường phẩm giá con người của mình và của người khác. Thiên Chúa đã dựng con người theo hình ảnh của Ngài, giống như Ngài, đồng thời nâng con người lên hàng con cái Ngài. Con người trở nên một cái gì hết sức quí giá trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã phải hy sinh chính Con Một rất yêu quí của Ngài để cứu con người. Thánh Kinh nói Thiên Chúa quí con người đến mức “luôn ấp ủ, dưỡng dục, giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Ngài” (Đnl 32,10). Thiên Chúa quí con người như vậy, nhưng con người lại coi thường chính bản thân, phẩm giá của mình và người khác, đến nỗi sẵn sàng bán rẻ hoặc xúi giục người khác bán rẻ lương tâm và phẩm giá – thậm chí cho kẻ ác – để chỉ nhận được những lợi ích chóng qua: tiền bạc, hư danh, địa vị, sự an toàn bản thân… Không chỉ những phường gái điếm, những tay nghiện rượu, nghiện ma túy mới coi thường thân xác hay linh hồn mình, mà cả những kitô hữu trí thức, những người được coi là đạo đức cũng sẵn sàng coi thường đền thờ Thiên Chúa nơi bản thân. Chẳng hạn sẵn sàng hy sinh sự trong sáng của lương tâm, hoặc hy sinh sức khỏe, sự an toàn bản thân để đổi lấy một niềm vui nho nhỏ của miếng ăn, của thú vui thể xác, của tiện nghi vật chất… để rồi cuối cùng trở nên một con người tầm thường, hoặc chuốc lấy một căn bệnh, một thương tật hoặc có khi mất mạng… Chúng ta trần tục hóa tâm hồn ta khi ta nuôi trong tâm trí những quan niệm sai lầm, những tư tưởng kiêu căng, vị kỷ, những ý định độc ác, những tâm tình ghen ghét, vô ơn, v.v… Chính những tư tưởng này xúc phạm và làm ô uế đền thờ của Thiên Chúa trong tâm hồn ta. Vì thế, để tỏ lòng kính trọng đền thờ này, chúng ta hãy mặc lấy những quan niệm đúng đắn, những tâm tình yêu thương, vị tha, xả kỷ… Những tâm tình này chính là những thứ trang hoàng đền thờ nội tâm ta xứng đáng làm nơi Thiên Chúa ngự. CẦU NGUYỆN Lạy Cha, xin cho con biết thật sự kính trọng đền thờ của Cha nơi tâm hồn và thân thể con. Xin đừng để con làm ô uế đền thờ của Cha bằng những tư tưởng xấu, những tâm tình ích kỷ, kiêu căng. Xin giúp con trang hoàng đền thờ của Cha bằng những tư tưởng và hành động tốt đẹp, bằng những nỗ lực sống thuận theo thánh ý Cha. Để Cha cảm thấy hài lòng khi ngự trong tâm hồn con. Amen.
Chuyện cổ tích Ảrập kể lại rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, nên cửa TN 32-B88
Chuyện cổ tích Ảrập kể lại rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, nên cửa hàng của anh ta luôn bị ế ẩm. Anh ta đã làm đủ mọi cách để câu khách, nhưng chẳng ai thèm đến. Ngày kia có một người ngồi ăn xin nơi lề đường. Ông thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng trên chiếc vỉ sắt. Cuối cùng ông móc trong bị ra một miếng bánh mì, rồi lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh một cách ngon lành. Anh chàng bán thịt thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo người ăn mày đòi tiền, nhưng người ăn mày phân trần: Tôi đâu có lấy thịt anh nướng cùa anh. Khói thịt đâu có phải là thịt. Anh hàng thịt quát lớn: Khói thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi. Hai người đưa nhau lên quan toà xin xét xử. Quan toà truyền cho người ăn mày móc ra một đồng tiền cắc và bảo ném xuống nền nhà, phát ra một tiếng keng. Rồi quan toà nói: Đây là giảp pháp công bằng nhất. Người ăn mày hưởng khói thịt của anh còn anh thì hưởng tiếng keng đồng tiền của ông ta.
Nghe câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ mỉm cười trước thái độ keo kiệt của anh hàng thịt. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác như vậy. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện kể về một người cha tham ăn đang ngồi nướng mấy con cá để nhậu lai rai. Đứa con nhỏ khóc đòi ăn, người mẹ liền dỗ: Con nín đi để mẹ xem có con nào nhỏ, mẹ sẽ xin ba cho con. Ông bố nghe vậy liền quắc mắt quát lên: Cho cái gì? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau.
Tình thương không chia sẻ chỉ là tình thương giả dối, không có thật. Đứng trước những nhu cầu cần thiết của người khác, đôi lúc chúng ta đã tránh né, đã chạy trốn bằng cách trả lời: Chừng nào tôi đủ ăn đủ mặc tôi sẽ cho. Hãy để lúc khác, bây giờ tôi không có khả năng. Và cái lúc khác ấy không bao giờ đến. Chúng ta có tới 1001 lý do để biện minh cho thái độ thiếu thông cảm, thiếu yêu thương của mình.
Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã lên ái thái độ giả dối này: Nếu có ai xin các ngươi áo ngoài, thì hãy cho họ cả áo trong nữa. Nếu có ai xin các ngươi đi với họ một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm. Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi ba goá nghèo chỉ bỏ vào hòm tiền được có 2 đồng tiền kẽm, thế nhưng bà là người đã dâng cúng nhiều nhất bởi vì bà dám hy sinh cả những cái thực sự cần thiết cho cuộc sống của mình. Nhiều lần, Chúa Giêsu đã phán dạy: Hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.
Yêu thương anh em là chấp nhận, khoan dung và hết lòng phục vụ với trọn tình bác ái chân thành của mình.
Ba bài đọc hôm nay đều đề cập đến vấn đề trao ban. Đang lom khom kiếm củi, bà goá Sarepta TN 32-B89
Ba bài đọc hôm nay đều đề cập đến vấn đề trao ban.
Đang lom khom kiếm củi, bà goá Sarepta gặp ông khách bộ hành xin nước. Trong cơn đại hạn, một giọt nước quý như vàng. Thế mà bà không tiếc những giọt nước trong mát đang cần cho cơ thể mình giữa cơn nắng cháy. Bà vui lòng đem vò nước lại cho người qua đường không quen biết.
Đã uống cạn vò nước, người bộ hành lại xin ăn.
Bà goá trả lời: "Tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi bữa cuối cùng. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết."
Nhưng rồi không cầm lòng được, bà đã lượm củi, lấy chút dầu và bột cuối cùng của gia đình, làm bánh cho người khách lạ ăn. (bài đọc I Vua 17, 10-16)
Và thế rồi, hũ bột sẽ không vơi, bình dầu không cạn cho đến ngày mưa xuống dồi dào cho hoa màu tốt tươi.
Lại một bà goá khác trong đền thờ Giê-ru-sa-lem thời Chúa Giêsu. Bà chỉ có hai đồng tiền kẽm, giá trị chỉ bằng một phần tư đồng xu Rô-ma, là tất cả gia sản của mình. Bà đã quảng đại bỏ vào hòm dâng cúng đền thờ. Vì lợi ích chung, bà cống hiến tất cả những gì cần thiết để nuôi sống mình. (bài Tin Mừng Mc 12, 44)
Thư Do-Thái hôm nay lại đề cập đến một Vị Thượng Tế cao cả là Đức Ki-tô, không chỉ trao ban những gì mình có, mà còn trao ban cả bản thân, trao ban đến giọt máu cuối cùng, "tự hiến tế chính mình để xoá bỏ tội lỗi muôn người" (thư Do-Thái 9,28)
Hiến trao là quy luật Thiên Chúa truyền ban để duy trì sự sống cho con người.
Thánh Phan-xi-cô At-xi-di xác nhận chân lý nầy: "Chính khi hiến thân là lúc nhận lãnh, chính khi quên mình là lúc nhận lại bản thân."
Nhưng có người chủ trương ngược lại:
Dại gì tôi phải cho, dại gì phải hiến mình làm thân trâu ngựa cho người khác được nhờ! Đối với tôi, sống là thu vén, là tận hưởng những công lao và thành quả của người khác cũng như của tôi. Của tôi, tôi hưởng tôi xài; đèn nhà ai nấy sáng, việc gì phải cống hiến, phải trao ban!.
Chủ trương như thế là "bế môn toả cảng", là cắt đứt tương quan với tha nhân, đồng nghĩa với tự huỷ diệt.
Trái tim của chúng ta luôn biết trao ban. Trái tim nhận máu rồi thì nó liền trao ban cho toàn thân. Nhờ đó, toàn cơ thể được sống. Ngày nào trái tim ngừng trao ban, đó là tim đứng và toàn thân phải chết.
Hai lá phổi của chúng ta cũng không ngừng trao ban. Chúng liên tục tiếp nhận khí trời rồi chuyển đến cho toàn thân được sống. Ngày nào phổi ngừng trao ban là ngày phổi bệnh và toàn thân phải chết.
Bao tử, ruột non, ruột già trong con người chúng ta cũng không ngừng trao ban. Mỗi khi nhận được thức ăn từ ngoài đưa vào, nó ra công chuyển hoá thành chất dinh dưỡng rồi chuyển đi nuôi toàn thân, nhờ đó toàn thân được lớn lên và mạnh sức. Ngày nào chúng ngừng trao ban, là ngày hệ tiêu hoá lâm trọng bệnh và toàn thân phải chết.
Các tế bào cần trao đổi chất dinh dưỡng cho nhau để duy trì sự sống cho mình. Các cơ quan như tim, phổi, ruột gan.. cũng phải trao đổi những gì chúng nhận được để duy trì sự sống cho mình và cho toàn thân.
Cuộc sống của các thành viên trong gia đình được phát huy và tồn tại cũng hệ tại ở việc nhận và trao.
Cuộc sống của cộng đồng quốc gia được phát huy và tồn tại cũng nhờ tinh thần tương thân tương ái.
Cuộc sống của cả nhân loại cũng đặt nền trên nguyên tắc mình sống cho mọi người và rồi mọi người sống cho mình.
Mỗi cá nhân là một tế bào làm nên một Thân Thể lớn lao là nhân loại nên nó phải trao đổi với tha nhân. Nhận và trao là quy luật sinh tồn.
* * *
Ở Israen có hai biển hồ lớn: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê nằm phía bắc nước Do-thái, nó luôn luôn tiếp nhận nước từ sông Jordanô và sau đó cho chảy thoát ra phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, dòng nước luôn luôn trong lành, trở nên môi trường sống lành mạnh cho bao loài tôm cá, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, nhiều người đến dựng nhà lập nghiệp quanh bờ của nó, thuyền bè tấp nập trên các bến cảng của nó. Nó đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại ấm no, hạnh phúc và nguồn vui cho bao triệu người qua các thời đại. Chính Chúa Giêsu cũng thường lui tới rao giảng Tin Mừng nơi đây.
Nhưng cách đó không bao xa, về phía nam nước Do-thái cũng có một biển hồ lớn được gọi tên là Biển Chết. Nó là biển chết vì nó cũng nhận nước từ dòng sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó cứ khư khư giữ lại cho mình, không ban phát cho ai, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước độc, nó mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
(dựa vào tập sách Lẽ Sống)
* * *
Lạy Chúa Giêsu, con đã nhận được tất cả từ nơi Chúa và tha nhân, vậy mà con muốn nắm ghì thật chặt cho riêng mình.
Nếu ai cũng ích kỷ như con, chỉ biết khư khư giữ chặt mọi thứ cho mình mà không biết mở tay chia sẻ, thì nhân loại sẽ như ra sao?
Xin cho con nhận ra rằng: Sống là sống với, sống là trao đổi, là nhận và trao. Dù có nghèo tiền, con cũng còn nhiều thứ khác để cống hiến, trao ban.
Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác. Họ tự do với bạc TN 32-B90
Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác. Họ tự do với bạc tiền danh lợi, nên có thể tin vào con người và sẵn sàng yêu thương phục vụ hơn.
Hãy coi chừng
Chúa Yêsu nói với mọi người: “hãy coi chừng” những ông kinh sư, họ thích mặc áo thụng xúng xính khác người, thích được chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất, nhưng lại “nuốt” hết tài sản của các bà góa, lại còn giả bộ đọc kinh lâu giờ.
Không phải chỉ những ông kinh sư thời Đức Yêsu thích rồi làm như vậy, mà con người ngày nay cũng vậy nữa: cũng tham của người, ham danh hám lợi, và hay giả bộ “đạo đức”. Nếu đạo đức thật, mà người ta thấy thì cũng tốt vì làm gương sáng; còn nếu không đạo đức mà lại làm như thể đạo đức, là giả hình. Hãy coi chừng.
Nếu ai thích khen, người đó có thể bị điều khiển bằng lời khen; nếu ai tham của, người đó có thể bị mua chuộc bằng tiền của. Người đó đang bị nô lệ, bị sai khiến bởi tiền bạc danh vọng chức quyền. Người đó tưởng họ đang tự do, nhưng thực sự họ đang nô lệ và bị điều khiển mà họ không biết. Hãy coi chừng.
Nếu bạn không nô lệ những điều đó, thì hạnh phúc biết bao!
Người nghèo quảng đại
Tiên tri Elia trên đường lánh nạn đã được Chúa truyền đến sống nhờ một bà goá nghèo. Cũng có thể nói bà goá nghèo và con bà sống nhờ tiên tri, vì chính nhờ tiên tri mà hũ bột không cạn và hũ dầu không vơi. Đúng hơn Thiên Chúa thương cả tiên tri lẫn bà goá nghèo nên đã nuôi sống tất cả.
Bà goá chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu, lượm củi làm cái bánh cuối cùng để “ăn rồi chết”, thế mà bà vẫn tin lời tiên tri, làm cho ông một cái bánh trước khi làm cho con bà và chính bà. Cách hành xử của bà goá này rất đẹp. Tôi có đơn sơ tin người và sẵn sàng giúp người như bà goá nghèo này không? Thiên Chúa qúa tuyệt.
Bà goá trong Tin Mừng được Đức Yêsu khen là quảng đại, dám dâng cúng tất cả những gì mình có. Có người nói rằng: “vì bà goá chỉ có mấy xu nên dễ dàng để dâng cúng tất cả, còn nếu bà goá này thật giầu thì chắc bà chẳng dám bỏ tất cả đâu”! Cũng có thể như vậy, nhưng “những người quảng đại” thường nghèo; có lẽ họ “hay cho” nên mới không giầu. Bà goá đó không giầu được vì bà luôn cho tất cả, dù khi bà có hai xu hay có nhiều hơn hai xu, có lẽ chưa khi nào bà giữ cho mình được mười đồng vì bà vẫn cho những gì bà có. Thiên Chúa cũng cho con người tất cả, ngay cả điều qúy nhất là Chúa Con và Thánh Thần.
Những người “ham tiền” thường ky cóp và không bỏ ra ngay cả một xu!
Người nghèo dễ tự do để chọn theo Thiên Chúa hơn
Có mấy người hiểu được hạnh phúc của người nghèo? Có mấy người hiểu được người nghèo tự do đến mức nào? Trong cuộc sống, bao nhiêu quyết định bị chi phối bởi sợ người này hay không dám làm mất lòng người kia, sợ người khác hiểu lầm mình, sợ người khác không còn đánh giá mình cao nữa, sợ người khác biết sự thật về mình. Vì sợ nên không được tự do.
Xin Chúa cho con nghèo, để con không còn gì để phải sợ, để con chỉ còn biết sống theo Chúa theo sự thật, để chỉ bị tình yêu thương chi phối mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn kể nỗi sướng điều khổ của người giầu? 2. Xin bạn liệt kê điều cực và cái hay của người nghèo? 3. Bạn thường bị nô lệ bởi điều gì nhất khi quyết định? Làm sao để quyết định tự do?
Phụng vụ hôm nay đề cập đến hạng người mà dư luận thương hại hay coi thường là các bà góa. TN 32-B91 Luong
Phụng vụ hôm nay đề cập đến hạng người mà dư luận thương hại hay coi thường là các bà góa. Họ là những người giữa đường đứt gánh, một mình gánh vác giang sơn nhà chồng. Nhưng trong Giáo hội tiên khởi, họ được cộng đoàn săn sóc, có chỗ đứng (1Tm. 5, 9-16) và là những người nhân đức được trọng vọng.
Trong Cựu ước cũng có nhiều đoạn kêu gọi sự chú ý săn sóc đến người cô nhi góa phụ. Họ là hạng người nghèo khó hơn cả. Nhưng các bài đọc hôm nay nhắc đến họ dưới một phương diện khác: Họ là những người đạo đức, có đức tin, biết hy sinh cả những điều cần thiết và trở nên những người mẫu. Bà góa ở Sarepta (giữa Tyr và Sidon) là một gương sáng đức tin, biết đặt tất cả trông cậy vào Chúa và được Chúa thưởng công.
Bài Phúc Âm nói về đồng tiền của một bà góa dâng cúng. Nhưng cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh khác, là sự chú ý của Chúa đến những sự kiện xảy ra xung quanh. Ngài đang ở trên sân đình đền thờ, ngồi trên cấp thang hình bán nguyệt dẫn vào sân nam giới và đưa mắt nhìn về phía trái, nơi có đặt 13 hòm cúng. Ngài chú ý đến bộ điệu khiêm tốn của một bà góa nghèo khổ, đến cả số tiền hèn mọn của bà dâng cúng: hai đồng tiền (một 1/4 xu). Ngài nhìn thấy nhất là tấm lòng của Bà. Nhưng không chú trọng đến cái vỏ bên ngoài mà đi thẳng vào thâm tâm. Người Pharisêu đọc kinh rào rào cho mọi người chú ý, người Biệt phải bỏ tiền lẻng kẻng vào hòm cúng cho mọi người nghe thấy. Ngài không lưu tâm đến những hạng ấy, nhưng Ngài khen ngợi bà góa khiêm tốn đang lẩn vào giữa đám đông.
Chúa liền gọi các môn đệ và bảo: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ tiền vào hòm cúng nhiều hơn cả!” Chúa không nói về phương diện số tiền dâng cúng, mà thật ra cũng cần phải có một số lượng khá để lo việc phụng tự. Nhưng Chúa chú trọng đến tấm lòng của bà. Trong khi các người khác cho một phần của cải dư thừa thì “Bà cho cả những gì bà cần để nuôi sống.” Tình yêu không tính toán, tình yêu không mức độ. Bà ra đi, vui mừng hớn hở vì đã làm được một việc lành.
Câu chuyện bà góa gợi cho chúng ta vài suy niệm sau đây:
Một là các việc tầm thường có một giá trị phi thường, nếu chúng ta biết làm vì yêu mến Chúa. Đời chúng ta phần lớn gồm những việc nhỏ mọn, chúng ta phải biết thánh hoá, biết làm cách khác thường, làm vì yêu mến. Bà Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux là một gương mẫu. Bà đã tìm ra một con đường nên thánh mà Đức Gioan-Phaolô II gọi là “Con đường dựa trên thực tại Phúc Âm”; “Con đường nên thánh của thời đại” (Piô XI). Con đường thơ ấu ấy gồm trong hai yếu tố căn bản: Nhìn nhận sự yếu đuối của mình và hoàn toàn trông cậy phó thác; làm mọi việc bé nhỏ, chịu đau khổ vì yêu mến Chúa.
Hai là việc bà góa bỏ ít tiền vào đền thờ, chúng ta đi lễ cũng bỏ ít nhiều giúp vào công việc nhà Chúa. Trong Cựu ước, Chúa dạy các chị họ Israel phải để ra thập phân để lo việc phụng tự (Lv. 27, 30-32). Trong Tân ước, Thánh Phaolô nói: Người lo việc Chúa có quyền sống nhờ bàn thờ. Tuy Giáo hội từ đầu đã bãi bỏ tục lệ thập phân, nhưng giáo dân đi dự lễ thường mang theo của lễ vật chất: có Thầy Phó tế để lo việc phân phát chia sẻ. Khi số người quá đông, tục lệ biến thành dâng cúng ít tiền. Giáo hội là một tổ chức hữu hình, cần có nơi thờ phượng, đồ thờ và người trách nhiệm.
Của dâng cho Chúa là “của đầu tư thiêng liêng”. Văn hào Louis Veuillot khi chết, có để lại một bao thơ dầy cộm với mấy giòng chữ ghi: “Tiền nhịn hút thuốc trong các mùa Chay để giúp các người nghèo” – “kho tàng của Giáo hội” (Thánh Laurenrô Phó tế).
Từ thiện là việc làm công đức. Người có lòng nhân ái thường hay bố thí, làm từ thiện và thi hành TN 32-B92
Từ thiện là việc làm công đức. Người có lòng nhân ái thường hay bố thí, làm từ thiện và thi hành bác ái. Sống bác ái là sống yêu thương chia sẻ cả tình, nhân và nghĩa. Đức ái hay đức mến là một nhân đức cao đẹp của con người. Mỗi người được sinh ra đời trong một hoàn cảnh khác nhau. Trong cuộc sống có người giầu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn và người thành kẻ bại. Đời người mong manh như hạt sương dễ tan. Không có ai sống mãi trên đời. Cuộc sống của chúng ta giống như những lượn sóng nhấp nhô trồi lên rồi hạ xuống. Không ai là một hòn đảo, chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Mọi người cần nương tựa, cần hỗ tương nhau và sống nương nhờ nhau. Lòng từ thiện trở thành mối giây liên kết giữa người với muôn loài.
Câu truyện của tiên tri Êlia chạy trốn vào thành giữa cơn đói kém, ông đã gặp bà góa nghèo đang đi lượm củi và ông gọi bà ấy và nói: "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.”(Cv 10, 10). Người đàn bà rất tử tế và có lòng bao dung: Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (Cv 17, 11). Tuy gia đình bà nghèo túng, bánh bột sắp cạn hết nhưng bà cũng sẵn sàng cung cấp bánh cho người xin ăn. Không phải ai cũng có thể cử xử tốt lành như bà. Nếu chúng ta ở trong trường hợp này, có lẽ chúng ta đã chần chừ và có khi chối quanh. Tự nghĩ rằng gia đình con cái của tôi còn chưa đủ ăn, làm sao có thể giúp cho người khác. Thế là chúng ta đóng kín cửa tâm hồn trước nhu cầu cần thiếu của tha nhân. Bà góa có thái độ rộng lượng và quảng đại, nên lòng từ của bà đã sinh trổ hoa trái: Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Hồi sinh đứa con của bà goá (Cv 17, 16).
Chúng ta có cơ hội suy nghĩ về việc bác ái và lòng từ của mình. Ai trong chúng ta cũng lãnh nhận rất nhiều ơn. Ơn cha nghĩa mẹ qua công sinh thành dưỡng dục, ơn thầy cô đã truyền thụ kiến thức văn hóa và nghề nghiệp. Ơn sống trong quốc gia có an bình trật tự và xã hội tiện nghi. Ơn làm con Chúa được sống trong một Hội Thánh Công Giáo. Các ơn huệ liên đới trùng trùng điệp điệp trong một kiếp người. Chúng ta đã chịu ơn của biết bao nhiêu người qua bao nhiêu thế hệ. Chúng ta đã nhận lãnh nhiều, nên cũng cần phải chia sẻ. Vì cho thì quí hơn nhận. Ai trong chúng ta cũng có cơ hội để cống hiến cho đời những hoa trái của khả năng, thời giờ và của cải. Biết rằng bất cứ ai gieo hạt, trồng cây thì cũng mong cây sinh hoa kết trái. Cha mẹ sinh con vào đời cũng mong con cái thành đạt và sinh ích cho gia đình, xã hội.
Trong bài phúc âm, kể câu truyện Chúa Giêsu đến giảng dạy trong hội đường. Chúa quan sát những hành vi cử chỉ của những thầy Luật sĩ, Biệt phái, Tư tế và mọi người đến cầu kinh. Chúa đã rút ra những bài học thực tiễn để áp dụng cuộc sống đạo. Con người chúng ta thường đánh giá con người và sự việc theo hình thức dáng vẻ bề ngoài, hơn là quan tâm đến nội tâm. Chúa Giêsu dẫn mọi người đi vào tâm ý của mình và vạch ra cách thế tế nhị, Ngài nói rằng: Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma (Mc 12, 42). Hai đồng tiền kẽm chẳng có là bao so với khối tiền trong thùng dâng cúng. Số lượng qúa nhỏ để nêu danh và ghi công. Chúa Giêsu đã nhìn tận đáy tâm hồn chân chính của người đàn bà góa và Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết (Mc 12, 43).
Với chút ít tiền cúng nhưng đó là số tiền bà đang cần. Bà đã bỏ vào thùng tất cả những gì bà có. Bà không lo lắng cho ngày mai sẽ ăn gì, uống gì và mặc gì. Có nghĩa là bà đã phó thác hoàn toàn trong bàn tay Chúa quan phòng. Bà đã buông xả tất cả cái đang có, bán nghèo mua giầu. Chúa Giêsu đã khen bà: Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.( Mc 12, 44). Không sai, Chúa Giêsu nhắm trúng vào tim đen của mọi người. Nghe thế, có lẽ ai trong chúng ta cũng giật mình. Có rất nhiều lần chúng ta đã làm từ thiện, bác ái và bố thí. Nhiều việc từ thiện của chúng ta đã được ghi công bảng vàng. Chúng ta làm việc bác ái nhưng lại đòi hỏi nhiều điều kiện. Nói thật, so với những gì chúng ta đang sở hữu, tất cả việc từ thiện và bố thí của chúng ta mới chỉ là một góc nhỏ. Biết rằng đồng tiền nào cũng do công lao mồ hôi nước mắt kiếm tìm nên rất quí. Đôi khi tính toán rằng chúng ta có nhiều tiền nhưng chưa đủ, làm sao có dư. Đợi khi nào chúng ta có dư đủ, sẽ giúp người.
Phước báo cuộc đời hệ tại ở việc biết dâng hiến và chia sẻ. Càng cho đi nhiều, chúng ta càng nhận thêm nhiều. Cái tâm từ bi được cởi mở và phát khởi sự tốt lành nơi chính nội tâm. Chúng ta đừng quá quan tâm vào món quà bố thí sẽ đi về đâu. Thường thì ai cũng muốn đồng tiền cho đi được xử dụng đúng chỗ, đến đúng người và dùng đúng mục đích. Đôi khi chúng ta sẽ không hài lòng và không vui khi qùa biếu bị lạc hướng. Số qùa tặng có đến tận tay của người nghèo hay không, còn tùy thuộc qua nhiều trung gian. Cho đi nhiều hay ít thì không quan trọng bằng tâm thiện mở rộng. Điều quan trọng là tâm ý của chúng ta được an lạc vì đã làm một việc thiện. Một việc từ thiện dù nhỏ, chớ khinh. Việc thiện dù nhỏ, không nên bỏ. Làm từ thiện, bác ái và bố thí là chúng ta đang bỏ vào kho tiết kiệm phúc báo của chính mình.
Tác giả của thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét (Dt 9, 27). Mỗi người chỉ có một đời để sống. Sống dài hay sống ngắn không quan trọng cho bằng sống có ý nghĩa. Sống ý nghĩa nhất là sự hiến thân và cho đi. Cho đi như Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hiến dâng thân mình làm hy tế trọn vẹn để tẩy xóa tội lỗi nhân loại. Ngài đã dâng hiến tất cả đến giọt máu cuối cùng. Không phải máu chiên bò hay của cải thế thân, mà chính là sự sống con người toàn vẹn: Cũng vậy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người (Dt 9, 28). Chúa đã thể hiện một tình yêu cao vời tuyệt đỉnh và vô điều kiện là cho tất cả.
Chúng ta được mời gọi thực thi bác ái trong việc hành đạo. Dù là một việc nhỏ giúp người, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Vào ngày phán xét sau cùng, Chúa Giêsu đáp nghĩa: Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mt 25, 35-36). Chúa kể rằng tất cả những gì chúng ta đã làm cho những người nghèo, kẻ bé mọn và người khổ đau là chúng ta đang làm cho chính Chúa. Vậy mà đôi khi chúng ta quá lo lắng cho bản thân và gia đình riêng tư mà quên đi nghĩa vụ phải có đối với tha nhân, giáo hội và xã hội. Chúng ta sợ mất thời giờ phục vụ công ích. Chúng ta ngại ngùng tham gia phục vụ trong các đoàn thể của cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta không dám xả thân giúp đỡ vì sợ phải hy sinh, liên lụy, tốn kém, mất mát và thua lỗ. Nhiều khi chúng ta chỉ muốn thu gom cho cuộc sống mình vì sự ích kỷ hẹp hòi. Chúng ta chỉ thích làm tính cộng mà không muốn làm tính trừ.
Lạy Chúa, tất cả chúng con đang được ngụp lặn trong ân tình của Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con biết rộng lòng chia sẻ cuộc đời với anh chị em chung quanh. Bất cứ điều gì chúng con đã lãnh nhận một cách nhưng không, xin cho chúng con cũng biết cho đi cách nhưng không.
Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược. Một bên là các kinh sư, một bên là TN 32-B93
Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược. Một bên là các kinh sư, một bên là một bà góa. Chúng ta được mời gọi nhìn cách hành xử bên ngoài của họ, từ đó thấy được thái độ nội tâm của mỗi bên.
Các kinh sư thuộc về giới lãnh đạo cấp cao của Do thái giáo. Trong một xã hội được chi phối toàn diện bởi Luật Môsê, thì những người giỏi Luật như các kinh sư đóng vai trò rất quan trọng. Họ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên đời sống tinh thần của dân. Chính vì thế không lạ gì nếu có một số kinh sư đã vấp ngã. Một người vừa có tri thức, vừa có quyền lực, dễ bị vấp vào thói háo danh. Đức Giêsu nêu lên một vài nét chấm phá về họ. Trong hội đường, nơi công cộng hay đám tiệc, họ thích mặc áo thụng, thích được chào, thích chỗ cao. Nói chung, họ thích mình trở nên trung tâm chú ý của người khác. Hiểu biết của họ về Lời Chúa sau bao năm học tập lại trở nên phương tiện để họ tìm vinh danh cho mình thay vì cho Chúa. Tệ hơn nữa, họ lại mang bộ mặt đạo đức khi giả vờ đọc kinh dài. Với uy tín và sự giả hình khéo léo, họ nuốt chửng nhà của các bà góa.
Ngược với hình ảnh của một vị kinh sư cao trọng, quyền uy là chuyện một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm dâng cúng. Đức Giêsu cố ý ngồi gần để quan sát người giàu kẻ nghèo bỏ tiền. Ngài muốn dạy các môn đệ một bài học lớn khi gọi họ lại và khẳng định rằng bà góa này đã bỏ nhiều hơn mọi người khác, mặc dù bà chỉ bỏ vào thùng số tiền rất nhỏ. Nhưng cái rất nhỏ này lại là tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân. Hẳn các môn đệ ngỡ ngàng vì cách đánh giá ấy của Thầy, cũng là cách đánh giá con người của Thiên Chúa. Ngài đánh giá theo tấm lòng, chứ không theo lễ vật. Ngài không mãn nguyện với của dư thừa, nhưng Ngài đòi tất cả. Tất cả của bà góa là hai đồng kẽm, thuộc đơn vị tiền tệ thấp nhất. Hóa ra người túng thiếu cũng có thể dâng chính cái nghèo của mình.
Một kinh sư có học thức, có vai vế và bề ngoài có vẻ đạo đức khác với bà góa cô thân cô thế và túng nghèo, ở chỗ ông quay vào mình, loay hoay với tiếng tăm và lợi nhuận của mình. Còn bà thì quay về phía Thiên Chúa, với thái độ quảng đại, tin tưởng, phó thác và liều lĩnh. Chúng ta ai cũng có hai đồng kẽm. Đừng mặc cảm khi phải bỏ đồng tiền nhỏ nhoi vào hòm tiền, nếu quả thực chúng ta chỉ có hai đồng kẽm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ. Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con. Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.
Chuyện kể rằng có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị một cơn mưa dữ dội TN 32-B94
Chuyện kể rằng có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị một cơn mưa dữ dội không thể đi xa hơn được nữa, họ liền rời khỏi xe và đi bộ đến hướng một ngôi nhà có ánh đèn leo lét. Trong nhà có đôi vợ chồng già. Người thanh niên trình bày tình trạng khó khăn đoạn yêu cầu: "Quý ngài có thể cho chúng tôi trú ngụ đến sáng được không? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được?" Đôi vợ chồng già đưa mắt nhìn thông cảm và nói: "Được chứ các cháu. Chúng tôi vừa có được một căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe, để tôi và chồng tôi dọn dẹp căn phòng cho tươm tất một chút".
Sáng hôm sau đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi, vì không muốn quấy rối hai vợ chồng già. Khi mở cánh cửa thông qua phòng khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy đôi vợ chồng nằm trên chiếc ghế dựa, còn giường của họ thì đã nhường cho khách ngủ.
Cách cư xử của hai vợ chồng giá cũng tương tự như bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ cho phần thừa thải mà cho tất cả những gì mình có. Như vậy trong cả hai trường hợp cho đều có điểm tương đồng là cho một cách quảng đại, cho một cách vui vẻ và tận đáy lòng. Trong cuộc sống có rất nhiều cách cho; có người cho vì bất đắc dĩ thì phải miễn cưỡng bực mình để mà cho. Người cho vì bổn phận thì cũng cho một cách miễn cưỡng vì bị bổn phận trói buộc. Còn người cho vì tình thương thì mới thật lòng. Hình ảnh hai vợ chồng già và bà góa trong bài Tin Mừng hôm nay là hình ảnh tuyệt hảo về sự trao tặng. Cả hai đều cho mà không phải bị ép buộc, hay bị bổn phận thúc đẩy, cả hai đều cho với tất cả tấm lòng.
Khi người ta đã cho vì tấm lòng thì không nghĩ thiệt hơn, không tính toán. Cho nên hành động của họ cũng không còn lố bịch nữa. Khác hẳn với bộ dạng của các luật sĩ vì họ làm việc này việc kia chỉ nhằm cho người ta thấy. Điều đó đã tố cáo họ làm việc chỉ nhằm cho bản thân chứ không phải cho Thiên Chúa... hơn nữa họ làm việc đó một cách khôn khéo do lòng vị kỷ thúc đẩy như: lễ phục lượt thượt, giả bộ đạo đức, thích được người ta đón chào... Họ ích kỷ một cách trắng trợn, thay vì phải nhắm đến giá trị cao siêu bên trong, thì họ lại lo những điều thuần túy bên ngoài.
Tấm gương và lối cư xử của các biệt phái tương phản với hành động khiêm nhường thật lòng của bà góa hôm nay. Bà góa tuy chỉ dâng cúng hai đồng tiền kẽm, nhưng việc làm của bà có giá trị hơn các việc kia gấp bội. Tính về giá trị vật chất thì không thấm vào đâu so với người khác, nhưng đối với bà thì là cả một gia tài. Còn những người khác giàu có cho dù có bố thí nhiều hơn bà thì cũng là của dư bạc thừa. Bà góa đã dâng hiến tất cả vì lòng kính phục Thiên Chúa, thế mà người ta khinh khi bà, chỉ có một mình Đức Giêsu biểu dương và tôn trọng bà.
Sự trao ban thật ra không chỉ nằm ở giá trị vật chất tiền bạc mà còn cho đi chính bản thân và thời gian nữa. Chẳng hạn như chúng ta dám hy sinh công việc nhà để đến với Chúa trong ngày Chúa Nhật. Dám hy sinh thời gian để thắm viếng người nghèo bệnh tật.... Đặc biệt là những người dám hy sinh bản thân qua việc giúp các bệnh nhân phong, họ ăn chung ở, tắm rửa cho các bệnh nhân phong mà họ không hề tính toán e dè họ đã cho đi tường lai và con người họ một cách đích thực. Họ đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng cho đền thờ cả con người của họ. Ôi! Quý biết bao những con người cao thượng, những tâm hồn đẹp đẽ, có thể nói không còn mỹ từ nào có thể diễn tả về ho được.
Những tấm gương ấy như ngọn đèn soi cho ta bước, họ đã cho chúng ta tất cả những gì họ có. Còn chúng ta thì sao? Nếu chúng ta chưa biết cho, chưa biết trao tặng bằng con tim như bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta hãy nghe lời Chúa Giêsu nhắn nhủ như một động lực thúc đẩy ta: "Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại, Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong lại cho enh em bằng đấu ấy.
Lạy Chúa, xin cho con biết hành động bằng tình yêu. Vì chỉ khi nào biết yêu thì con mới dám cho đi bằng cả con tim và bản thân con. Amen.
Chúng ta hãy cho đi, hãy ban phát tình yêu chúng ta đã lãnh nhận cho những người xung quanh. Hãy TN 32-B95
Chúng ta hãy cho đi, hãy ban phát tình yêu chúng ta đã lãnh nhận cho những người xung quanh. Hãy cho đi, cho đến khi nó trở thành một việc hy sinh, vì tình yêu đích thực luôn đòi hỏi hy sinh. Đó là lý do vì sao các bạn phải yêu cho đến khi chính tình yêu đó làm các bạn đau khổ.
Các bạn hãy yêu với thời gian, với đôi bàn tay, với con tim của các bạn. Các bạn cần phải cho đi hết tất cả những gì các bạn có. Trước đây, đường rất hiếm ở Calcutta. Ngày kia, một cậu bé Ấn Độ, chừng bốn tuổi, cùng với bố mẹ, đem đến cho tôi một tách đường. Cậu bé nói: “Em đã nhịn đường trong ba ngày. Bà hãy lấy phần đường của em cho các em nhỏ của bà.” Cậu bé đã yêu đến độ phải hy sinh.
Lần khác, một người thanh niên đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình người Ấn với 3 đứa con, đã khá lâu họ không có gì ăn.” Tôi vớ ngay túi gạo dành nấu bữa tối, đi với người thanh niên tìm đến gia đình này. Tới nơi, tôi thấy ngay bóng dáng của thần chết hiện rõ trên khuôn mặt những đứa trẻ. Thân hình chúng chỉ còn da bọc xương. Tuy bị cơn đói hành hạ, người mẹ cầm lấy túi gạo chúng tôi đem đến, chia làm hai phần, ra khỏi nhà, đem theo một phần gạo.
Lúc trở về nhà, tôi hỏi bà: “Bà vừa đi đâu về ? Bà đã làm gì ?” Bà trả lời tôi: “Họ cũng rất đói.” Tôi hỏi: “Họ là ai ?” Hình như đó là một gia đình Hồi Giáo cùng 8 đứa con, đang sống bên kia đường. Bà ấy thừa biết họ cũng rất đói. Bà ấy biết, nên bà cho đi đến độ phải hy sinh. Đó là điều đánh động tôi. Một nghĩa cử quá cao đẹp phải không các bạn ? Đó chính là tình yêu đang hành động. Người mẹ ấy đã chia sẻ cho người khác đến phải rướm máu trong lòng. Tối hôm đó, tôi đã không đem thêm gạo cho gia đình bà, vì tôi muốn họ cảm nghiệm được niềm vui của một tình yêu chia sẻ. Ước gì các bạn thấy được nét mặt của những đứa con bà ! Chúng chỉ hiểu rất sơ sài những gì mẹ chúng đã làm, tuy nhiên nét mặt sáng lên trong nụ cười. Khi tôi đến trở lại, chúng trông vẫn rất đói và buồn. Nhưng mẹ chúng đã dạy cho chúng hiểu thế nào là yêu thương. Người nghèo khổ của chúng tôi đã là như vậy đó thưa các bạn. ( Thiên Phúc biên dịch, Têrêsa Calcutta, Con Tim Tràn Đầy Yêu Thương ). Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô trong Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu chỉ cho các môn đệ thấy hành động dũng cảm của một bà góa làm công quả. Người ca ngợi bà đã dâng hai đồng tiền là một phần tư xu vào thùng công phúc. Chắc chắn hai đồng tiến bà góa giá trị không kém túi gạo bà mẹ kia chia sẻ cho láng giềng đồng cảnh ngộ, vì bà góa cho đi cả tấm lòng và cả mạng sống.
Cho đi cả tấm lòng
Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết.” Giữa những thầy kinh sư, thầy tư tế, thầy Biệt Phái giàu sụ, rủng rỉnh tiền bạc, xênh sang mũ áo, rổn rảng ném những đồng tiền vào thùng công quả, bỗng dưng xuất hiện một bà góa nghèo nàn, lôi thôi, lếch thếch, tiều tụy, rón rén bỏ vào thùng hai đồng kẽm, chỉ bằng một phần tư xu của đế quốc La Mã. Nếu Đức Giêsu không chỉ cho các môn đệ thấy, có lẽ chẳng ai kịp nhận ra bà góa gầy gò, nhỏ thó, thầm lặng đó.
Thiên Chúa luôn nhìn thấu suốt mọi sự, dù nhỏ bé, tầm thường, thô kệch, quê mùa, nhếch nhác, xác xơ, giữa những cái lớn lao, vĩ đại, hào nhoáng. Hơn nữa, Ngài còn rất quan tâm, ưu ái và yêu thương những thân phận bị quẳng ra bên ngoài lề xã hội, những kẻ nghèo nàn, côi cút, góa bụa, đau khổ, bệnh hoạn, tật nguyền...
Đức Giêsu ca ngợi bà góa quảng đại dâng cúng, vì hai đồng tiền ít ỏi đó là cả một tài sản rất lớn so với thu nhập quá bèo của bà. Như thế bà góa đã cho đi với tất cả tấm lòng chân thành. Chẳng mảy may khoa trương, chẳng chút kiêu căng, chẳng háo danh, mà chỉ vì lòng mến Chúa, đóng góp hết sức vào xây dựng Nhà Chúa.
Mặt khác, bà góa đó còn phản ảnh phần nào chính dung mạo của Đấng Cứu Thế, như Thánh Phaolô đã xác quyết: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” ( 2Cr 8, 9 ). Đức Giêsu nhập thế đã từ bỏ vinh quang, để mặc lấy thân phận nghèo khó, thấp kém, xoàng xĩnh, bị từ chối, bị xua đuổi ngay từ khi còn chưa được sinh ra, rồi chịu đố kỵ, ganh ghét, miệt thị, còn bị vu oan cáo vạ đủ điều. “Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Vì không phải của con, chính là của Chúa trao cho con sử dụng” ( Đường Hy Vọng, số 414 ).
Cho đi cả mạng sống
“Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình." Đức Giêsu không chỉ thấy chân dung thảm thương, hành vi quảng đại của bà góa, mà còn thấu suốt cuộc đời khó khăn, chật vật, vất vả mưu sinh, chạy gạo từng ngày. Bà góa can đảm cho đi hai đồng xu, nhờ trung kiên Đức Tin, nồng nàn Đức Mến, dám cho đi ngay chén cơm, miếng bánh độ nhật, vì mãnh liệt Đức Cậy. Như thế bà góa đã hoàn toàn phó thác vào Lòng Thương Xót vô bờ, vô tận của Chúa. Đấng không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người.
Mặc dù thiếu thốn, bà góa nghèo khổ vẫn thầm lặng hy sinh, sẵn lòng chịu đói khát để dâng lên Thiên Chúa của cải cần thiết để nuôi sống mình. Tấm gương bà góa hiến dâng dẫn dắt người Kitô hữu hướng đến cuộc hy tế vô cùng trọng đại: Đó là “Đức Giêsu đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn, dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” ( Dt 9, 14 ).
“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: là Đấng ấy đã thí mạng mình vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em” ( 1 Ga 3, 16 ). Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân ?” Hãy làm như Chúa Giêsu: “Thí mạng” ( Đường Hy Vọng, số 612 ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tự nguyện từ bỏ Thiên Quốc xuống trần, trở nên tặng phẩm cho nhân loại, cho đi từ cuộc đời rao giảng đến cả cuộc sống, để cứu chuộc con người khỏi phải chết đời đời. Xin dạy chúng con noi gương Người, yêu thương tha nhân biết cho đi, biết dâng hiến cuộc đời cho Chúa và mọi người.
Mẹ Maria ơi, Mẹ đã tận hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân, xin hướng dẫn, chỉ dạy, nhắc nhủ chúng con luôn biết sống cho tha nhân, luôn chia sẻ từ vật chất đến tinh thần, luôn trao nụ cười cùng dấn thân phục vụ mọi người khốn khó chung quanh. Amen.
Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta, Chúa Giêsu cho như một người Thầy, dạy cho chúng ta TN 32-B96
Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta, Chúa Giêsu cho như một người Thầy, dạy cho chúng ta biết về sự thờ ơ mà chúng ta phải sống. Thứ nhất, thờ ơ về danh dự và nhận ra điều chúng ta thường xuyên tìm kiếm: "Hãy coi chừng (...) lời chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc" ( x. Mc 12, 38 – 39 ). Về điểm này, Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về những gương xấu của các luật sĩ. Thứ hai, dửng dưng với của cải vật chất. Chúa Giêsu ca ngợi thái độ của bà góa nghèo và lên án thói đạo đức giả của một số người ( x. Mc 12, 44 ).
Ai không có tinh thần từ bỏ của cải tạm thời, sống với đầy những của riêng tư người ấy không thể yêu mến được. Người có đức tin mà không nghĩ đến người khác: không động lòng trắc ẩn, không thương xót và để ý đến tha nhân, không thể sống trọn đòi hỏi của Tin Mừng là mến Chúa yêu người được.
Đức tin kèm theo tấm lòng vàng của hai bà góa được Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta là hai mẫu gương sống động. Hai bà được trình bày song song với nhau: một bà trong Sách Các Vua quyển thứ nhất ( 17, 10 – 16 ), và bà thứ hai trong Tin Mừng theo Thánh Marcô ( 12, 41 – 44 ). Cả hai đều rất nghèo, và chính trong thân phận ấy hai bà chứng tỏ một niềm tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa.
Tấm lòng vàng
Người phụ nữ thành Sarépta xuất hiện trong trình thuật về Ngôn Sứ Êlia. Trong thời kỳ hạn hán, vị ngôn sứ này nhận được lệnh của Chúa đi tới miền Siđon, tức là ra ngoài Israel, nơi lãnh thổ dân ngoại. Tại đó Êlia gặp bà góa phụ là người Sarépta đi lượm củi, ông cất lời: "Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống… Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh" ( 1V 17, 10 – 11 ). Rủi thay, bà đang trong tình trạng không còn gì để ăn và con bà sẽ chết đói nay mai, nên bà trả lời: "Này tôi đi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn rồi chết thôi" ( 1V 17, 12 ). Thế rồi Êlia nài nỉ và hứa với bà rằng nếu bà nghe lời, bà sẽ không thiếu bột và dầu nữa, bà đã nghe và đã được tưởng thưởng.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người phụ nữ này, đã đi kín nước với tất cả tình yêu của trái tim. Khi bà trở về, Êlia nói với bà: "Cứ đi và làm như bà đã nói… với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem lại đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và cho con trai bà" ( 1V 17, 13 ). Tấm lòng vàng và đức tin của bà góa lúc này bị thử thách, bà chỉ còn một nắm bột, cứ sự thường thật khó để có thể nuôi sống mẹ con bà, nay lại còn làm phần bánh cho cả vị Ngôn Sứ này nữa.
Thái độ của bà góa thành Sarépta làm chúng ta liên tưởng tới một góa phụ khác mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin Mừng Marcô hôm nay. Khi ngồi đối diện với hòm tiền, Chúa Giêsu quan sát thấy bà góa nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu vào đền thờ, ngưỡng mộ bà, Ngài tuyên bố: "Với hai đồng tiền, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống" ( Mc 12, 44 ). Nghĩa cử dâng cúng của bà góa nghèo chứng tỏ nét đẹp của tấm lòng vàng tràn đầy hy vọng và tin tưởng vào Chúa nơi tâm hồn bà.
Tin vào Thiên Chúa
Nếu nói đến mẹ góa con côi, người Việt Nam ta thường nghĩ đến những người khổ cực thiếu thốn tứ bề, từ tình cảm đến vật chất, thì theo Kinh Thánh, thời Trung Cổ, hay quan niệm của người Do Thái, những cô nhi quả phụ tự nó đã là một thân phận thiếu thốn trầm trọng rồi. Họ không còn chồng, không còn cha để mà cậy dựa, hai bà trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là một bằng chứng. Cả hai cùng cực nghèo, nhưng không có ai nghèo túng đến độ không thể cho đi một cái gì. Câu hỏi được đặt ra: Điều gì đã thúc đẩy các bà làm như vậy ? Thưa: Đức tin. Cả hai bà góa hôm nay đều chứng tỏ niềm tin của họ bằng cách thực hiện một cử chỉ bác ái thể hiện tấm lòng vàng: một bà sẵn sàng chia sẻ với vị Ngôn Sứ, và bà thứ hai làm việc phúc đức dâng cúng cho Đền Thờ.
Trong Kinh Thánh, các quả phụ và cô nhi là những người mà Thiên Chúa chăm sóc đặc biệt: họ không còn chỗ nương tựa trần thế, nhưng Thiên Chúa vẫn là vị Hôn Phu, là người Cha của họ. Hoàn cảnh túng thiếu khách quan, hay thân phận góa phụ, vẫn không đủ: Thiên Chúa luôn đòi hỏi sự tự nguyện gắn bó trong niềm tin, và được biểu lộ trong tình yêu đối với Chúa và tha nhân. Qua đó họ chứng tỏ sự hiệp nhất không thể tách rời giữa Đức Tin và Đức Ái, cũng như giữa lòng mến Chúa và yêu người như Tin Mừng đòi hỏi.
Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả đã khẳng định rằng: "Trên cán cân công lý của Chúa không phải trọng lượng của dâng cúng là đáng kể, nhưng là trọng lượng của con tim. Bà goá trong Tin Mừng đã đặt vào hòm tiền của đền thờ hai đồng xu nhỏ và vượt quá tiền dâng cúng của những người giàu. Không cử chỉ từ nhân nào thiếu ý nghĩa trước mặt Chúa, không có lòng từ bi nào mà không có hoa trái" ( Bài giảng về chay tịnh, dec.mems., 90, 3 ).
Sống tín thác vào Chúa
Chúng ta có thể nghĩ tới một phụ nữ góa nghèo khác nữa tên là Maria, dưới chân Thánh Giá Chúa, đã dâng tất cả đời mình cho Chúa. Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo của người tận hiến trọn vẹn qua sự tín thác nơi Thiên Chúa; với niềm tin ấy mẹ nói với Sứ Thần: "Này tôi đây" và đón nhận thánh ý Chúa. Nhờ lời thưa xin vâng ấy, ý Chúa được thể hiện, mầu nhiệm sự sống được trao ban và dâng hiến được thực hiện nơi đồi Golgotha, thế gian có được Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Tại Cana, Mẹ đã xin Chúa Giêsu cứu giúp anh em mình khi nói: "Họ không còn rượu nữa" ( Ga 2, 3 ), và nhận được lời Chúa Giêsu: "Này bà, giữa tôi và bà, nào có việc gì ?" ( Ga 2, 4 ) Mẹ vẫn bảo gia nhân vâng lời Chúa Giêsu.
Bà góa thành Sarépta đã làm những gì Ngôn Sứ Êlia nói với bà, mang cho ông ít bánh. Tương tự như thế, những người hầu bàn tại Cana vâng lời Chúa Giêsu. Sức mạnh tình yêu vô biên của Thiên Chúa, sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô được tái diễn nơi bàn Tiệc Thánh: Này là Mình Thầy hiến tế vì anh em.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp mỗi người chúng con tín thác vào Chúa như Mẹ. Amen.
Lại một lần nữa Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Người “dốt Toán”, theo cách nói của cố Hồng Y F.X. TN 32-B97
Lại một lần nữa Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Người “dốt Toán”, theo cách nói của cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận. Hai đồng xèng trị giá phần tư xu lại nhiều hơn những đồng vàng rủng rẻng ! Cũng may là Chúa Giêsu đã kịp “giải” ngay cho ta “thích” chứ không lại có lắm kẻ bực bội: “Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình” ( Mc 12, 44 ). Sao không bực bội cho được khi thấy những đồng vàng sáng loáng của mình bỗng dưng trở nên vô hiệu trước hai đồng xu hoen gỉ ?
Có một lần đi ăn cưới ở xa, sáng vào quán cà-phê, tôi vô tình nghe lóm được câu chuyện ở một giáo xứ nọ qua đối thoại của hai ông bàn bên cạnh:
Vì là sáng Chúa Nhật sau khi tan lễ Nhất nên quán hơi đông. Một ông sơ mi trắng đóng thùng, cà vạt tươm tất bước vào ngó dáo dác tìm bàn trống thì vừa hay có một ông tóc tai bờm xờm, áo quần bụi bặm đứng dậy bắt tay đón chào:
Chúc mừng bác, Giáng Sinh năm nay hoành tráng quá !
Rõ là miệng thế gian ! Mọi năm cứ mượn vải về vấn lên, trông luộm thuộm quá ! Năm nay tôi mạnh tay chi tiền để thuê trang phục văn nghệ đó !
Ra thế ! Giờ tôi mới hiểu sao họ lại gọi là “diễn viên tuồng”, cũng có nguyên cớ cả. À, mà cái dzụ Thiệp Giáng Sinh cũng là ý của bác đó à ?
Ừ, mà sao ?
Hay ! Độc đáo ! Cái thiệp lãng mạn bỗng gánh thêm “thiên chức” quyên tiền. Nhất cử lưỡng tiện. Không nơi nào trên thế giới có được ! Sang năm, tôi phải xin vài cái để gửi cho vợ con…
Ủa, vợ con bác ở cả đây mà gửi thiệp làm gì ?
Thì… Giáo Dân cũng ở cả đây và Ban Hành Giáo lẫn Cha Sở có thể mừng Giáng Sinh trực tiếp, nóng hổi đó thôi. Nhưng tôi khoái nhất là cái câu… phụ đề ghi trong thiệp: “Sự quảng đại của quý vị là niềm vinh hạnh cho chúng tôi”. Hy vọng bà xã tôi cũng bắt chước mấy bà góa trong giáo khu mạnh tay chi cho tôi chút đỉnh vui chơi Giáng Sinh !
Mấy bà góa nào ?
Thì… mấy bà bó chổi, chằm nón… ngày kiếm vài ba chục. Mấy năm trước chỉ bỏ năm, mười ngàn vô thùng tiền Giáng Sinh, tự nhiên năm nay thấy cái thiệp Giáng Sinh ghi đích danh mình nên phát hoảng. Chạy sang nhà tôi vay một trăm để bỏ vô cho “dễ coi”. Tôi mới cho hai bà vay là… đứt chớn ! Mấy bà sau tôi chỉ qua nhà Tám thợ mộc.
Góp nhiều thì công đức nhiều chứ có ai ăn của mấy bả đâu ! Danh sách thu lẫn các khoản chi đều được thông báo công khai hết mà !
Ừ, thì làm cho Giáo Xứ ! Nhưng có bao giờ Giáo Xứ khen các bà góa như Chúa Giêsu đã làm, hay chỉ khen các bác giỏi vận động quyên góp, có óc tổ chức, thanh liêm, chính trực… Trước khi làm việc gì, các bác có khi nào tự hỏi thầm rằng: “Chúa có vui không ?”
Đoạn đối thoại đến đây là chấm dứt vì ông “cà-vạt” đã vội đứng lên trả tiền sau khi uống ly cà-phê… không đường. Ly cà-phê sữa ông gọi vẫn còn nguyên trên bàn !
Ngay từ thuở bình minh của Giáo Hội Công Giáo, các tín hữu đã theo gương Chúa mà luôn chăm sóc cho các góa phụ: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên” ( Cv 6, 1 ). Tôi cứ tưởng ngày nay trong Giáo Hội chẳng còn chuyện “nuốt tài sản của các bà góa” vì chẳng ai nỡ “ăn” đồng tiền đó. Không, tôi đã lầm ! Không ai “ăn” nhưng người ta dùng tiền của các bà góa để làm vinh danh mình. Bà góa hôm nay còn “thê thảm” hơn bà góa ngày xưa vì bà không chỉ bỏ tất cả những gì mình có mà còn cả những thứ phải đi vay mượn ! Chúa có vui không ?
Anh ( em ) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm ( Đnl 24, 17 ).
Khi anh ( em ) gặt lúa trong ruộng mình, mà bỏ sót một bó lúa trong ruộng, thì không được quay lại mà lấy; bó lúa ấy dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh ( em ), sẽ chúc phúc cho anh ( em ) trong mọi việc tay anh (em) làm. ( Đnl 24, 19 ).
Nhiều khi tôi cũng đóng góp chút đỉnh nhưng cứ mặc cảm đó chỉ là của dư thừa… trước mặt Chúa ! Làm sao đây ?
Cho đến một hôm, tôi được rong ruổi đường trường cùng “ông thầy kinh điển” trên chiếc Honda cub màu da trâu 90 phân khối. Hai thầy trò ghé vào một quán ăn bên đường. Một bà lão chìa tay ra. Ông thầy kín đáo nhét vào đó 500 đồng ( có lẽ tương đương với 10 ngàn hiện nay ). Cơm nước xong, tôi móc gói thuốc ra mời thầy ( dạo đó thầy vẫn còn hút thuốc ). Thầy xua tay lắc đầu. “Lạ à nghen, mới hồi sáng hai thầy trò ngồi uống cà-phê còn ‘chơi’ hai điếu mà bây giờ cai rồi !” Biết tôi thắc mắc, ông thầy mới từ tốn: “Đã cho bà già 500 rồi còn hút thuốc nữa hả ? Vậy là cho của dư thừa rồi. Từ giờ tới tối mình còn phải nhịn ba điếu nữa mới đủ !”
Thì ra thế, tôi cho đi mà tôi chưa hy sinh. Tôi đóng góp mà tôi chưa từ bỏ. Chúa có vui không ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết quan tâm chia sẻ với tha nhân và từ bỏ mình trong từng công việc, trong từng giây phút sống của đời mình. Nhờ đó, chúng con không bị lên án như những luật sĩ mà ngày càng trở nên giống bà góa được Chúa vinh danh. Amen.
Các bài đọc Chúa nhật 32 thường niên, năm B nói đến tấm lòng của bà góa Sarepta và bà góa trong Tin TN 32-B98
Các bài đọc Chúa nhật 32 thường niên, năm B nói đến tấm lòng của bà góa Sarepta và bà góa trong Tin Mừng của thánh Máccô đã bỏ tiền vào thùng tiền của đền thờ Giêrusalem, đã được Chúa ca ngợi là bà đã quảng đại bỏ vào thùng tiền hết cả tài sản của mình với tất cả lòng cậy trông yêu mến Chúa, xây dựng đền thờ. Chúa Giêsu đã cùng với các môn đệ vào đền thờ Giêrusalem, Chúa để ý quan sát những người dâng cúng bỏ tiền vào thùng.Và câu chuyện hôm nay là bài học Chúa dạy con người, loài người ở muôn thời kỳ, ở muôn thế hệ.
Bài đọc thứ nhất cho thấy bà góa ở Sarépta đã quảng đại với ngôn sứ Êlia như thế nào! Dù cả gia đình của bà chỉ còn một chút bột, một ít dầu để làm bánh hầu mẹ con ăn bữa cuối cùng rồi chết. Gia đình của bà thật nghèo, nhưng tấm lòng của bà thật bao la, rộng lượng. Bà đã nhường tấm bánh nhỏ bé vô cùng quý giá,đáng lẽ bà con bà được dùng để ngôn sứ Êlia, người của Thiên Chúa ăn cho đỡ đói. Cử chỉ và hành động của bà góa này đã gặp được lòng quảng đại của Thiên Chúa : Ngài đã làm phép lạ cho hũ bột của nhà bà không bao giờ cạn suốt mùa hạn hán, dầu trong bình không bao giờ vơi.Hình ảnh của bà góa Sarépta gợi lên hình ảnh của bà góa mà thánh Máccô thuật lại đoạn Tin Mừng Mc 12, 38-44. Bà góa này nghèo thật, bà chỉ có hai đồng Lenta…Đồng Lenta nghĩa là đồng xu, đồng tiền nhỏ nhất mà những người nghèo khó thường có. Bà góa này đã có tấm lòng tốt. Bà đã dâng cúng, đã bỏ vào thùng tiền đền thờ phần cuối cùng gia tài bà dùng để sinh sống. Chúa Giêsu đã ghi nhận tấm lòng quảng đại của bà góa này. Bà đã cho của cải mình với tình yêu thương. Cho nhiều tỏ dấu yêu thương nhiều. Cho tất cả là dấu hiệu yêu thương vô bờ bến. Bà góa này không phải chỉ cho phần dư thừa bà dành dụm, mà bà đã cho chính nguồn sống của bà. Bà góa này đã dâng cho đền thờ với tất cả tình thương, quảng đại và cho với tất cả sự vui vẻ của mình.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa không chú trọng đến giá trị kinh tế của hai đồng xu của bà góa bỏ vào thùng tiền. Hai đồng xu làm sao so sánh được với những đồng tiền lớn của những người giầu có. Chúa Giêsu chú tâm và khen ngợi tấm lòng cao thượng, rộng rãi và quảng đại của bà góa. Hai đồng xu là của độ thân, nuôi sống bà góa. Giá trị của bà góa là đã cho trong vui vẻ, cho cách âm thầm, khiêm nhượng của bà. Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta Ngài không quan tâm đến lễ vật, của dâng, nhưng Ngài để ý đến cách dâng và tấm lòng của bà góa. Hữu ư trung xuất hình ư ngoại. Lòng có mới trào ra bên ngoài. Tấm lòng tốt, tấm lòng ngay chính sẽ nói lên giá trị của con người. Một việc làm tốt với ý ngay lành sẽ mang lại kết quả tốt lành cho ta. Một việc làm bác ái, một việc tốt có thể trở nên xấu, nếu con người làm để khoe khoang, kiêu hãnh và muốn được đề cao. Do đó, Chúa Giêsu đã dạy :” Đừng để tay trái biết việc tay phải làm “. Chúa muốn nói rằng việc làm có giá trị là do tấm lòng chứ không phải là hình thức bên ngoài…Chúa đã làm gương cho nhân loại, cho mọi người khi Ngài quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Điều này nói lên sự khiêm nhượng của Chúa. Ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ…Chúa đã trao hiến chính bản thân mình trên thập giá để cứu độ nhân loại bởi vì Ngài yêu thương nhân loại, yêu thương con người đến hy sinh chính mạng sống của mình. Ngài là Vị thượng tế cao cả đền thay tội lỗi cho nhân loại. Chính vì thế, Ngài đã quảng đại, hy sinh trao hiến thân mình làm của ăn của uống cho nhân loại.
Gương bà góa đã dâng cho Chúa tất cả của ăn của uống nuôi sống bản thân của mình là bài học quí giá cho mọi người. Bà góa đã không tiếc xót ngay cả mạng sống của mình để hiến dâng cho Thiên Chúa. Chúa đã ghi nhận tấm lòng của bà và cách dâng cúng, thái độ dâng cúng của bà cho Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một con tim mới, để chúng con biết yêu thương anh chị em của chúng con và chúng con sẵn sàng góp công, góp sức, góp của để xây dựng cộng đoàn và để xây dựng Nhà Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Bà góa ở Sarépta đã làm gì cho ngôn sứ Êlia ? 2.Chúa ghi nhận gì nơi tấm lòng của bà góa trong Tin Mừng hôm nay ? 3.Bà góa Sarépta quảng đại đã gặp được gì nơi Thiên Chúa ? 4.Của cải, vật chất và tấm lòng điều nào cần hơn ? 5.Bà góa Sarépta và bà góa trong Tin Mừng của thánh Máccô dạy cho ta điều gì ?
Qua bài đọc Cựu Ước hôm nay, chúng ta rút ra được ba ý chính:
Thứ Nhất: Bà góa là người ngoại đạo. Bà đang ở vùng đất Xarepta thuộc Xiđôn; vùng đất này không thuộc về Do thái, không có cùng một niềm tin, cũng không thờ phượng Thiên Chúa như người Do thái. Thứ Hai: Sự Thứ Ba: Niềm tin. Dầu biết rằng mình đang đối diện với cái chết, bà vẫn tin vào lời Thiên Chúa phán qua ông Elia: hũ bột sẽ chẳng vơi, vò dầu sẽ không cạn; niền tin này đã được đền đáp cách xứng đáng.
Bài Đọc Hai: Dt 9, 24- 28
Bài đọc trong thư Do thái cho ta ba ý chính:
Thứ Nhất: Đức Kitô không vào cung thánh do tay người phàm làm ra, nhưng Người đã vào cõi trời, ra đứng trước mặt Thiên Chúa để chuyển cầu cho ta. Thứ Hai: Người không dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, nhưng đã hiến tế chỉ một lần để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Thứ Ba: Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để xóa bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 12, 38- 44
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên cho chúng ta hai hình ảnh đối nghịch nhau:
Hình Ảnh Thứ Nhất: Những người Kinh Sư. Họ ưa xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi, ưa chiếm nghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, nuốt hết tài sản của bà góa. Hình ảnh thứ hai là bà góa: Một con người vô danh tiểu tốt, nghèo vật chất nhưng lại quảng đại, sẵn sàng dâng cho đền thờ tất cả tài sản của mình.
2. Suy Niệm
Vào một ngày trung tuần tháng 7/1995, ông hiệu trưởng trường đại học phía Bắc Mssisippi đã vô TN 32-B99
Vào một ngày trung tuần tháng 7/1995, ông hiệu trưởng trường đại học phía Bắc Mssisippi đã vô cùng ngạc nhiên khi một phụ nữ xa lạ tên là Osenola Mc Carty tặng 150.000 đô la làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường. Khi trao số tiền lớn này, bà không cần nhà trường ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Lúc tìm hiểu, nhà trường càng sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ này làm nghề giặt ủi, và số tiền kia được dành dụm cả cuộc đời. Sau khi biết câu chuyện này, tỷ phú Ted Turner, trùm kinh doanh truyền hình cáp ở Mỹ đã tuyên bố góp thêm một tỷ đô la cho quỹ. Ông nói: Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đô la.
Bà Mc Carty qua đời ngày 3/10/1999, hưởng thọ 91 tuổi. Bà đã trở thành biểu tượng “Lòng Từ Thiện” của nước Mỹ.
Điểm nỗi bật trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cũng nói đến hai bà góa: Một bài trong sách Các Vua mà bài đọc một nhắc tới; một bà góa khác được Tin Mừng thánh Maccô thuật lại; một bà đã được Chúa Giêsu gặp ở đền thờ, một bà được tiên tri Elia gặp ở Xarepta; một bà bỏ vào thùng tiền Đền Thờ hai đồng kẽm, còn bà khác đã cho ông Elia một chiếc bánh nhỏ. Các bà được đề cao không phải hệ tại ở giá trị vật chất mà họ đang có, nhưng ở sự quảng đại và phó thác: hai đồng tiền kẽm của bà góa bỏ vào thùng tiền đền thờ là cả tài sản của bà; cũng vậy, chiếc bánh nhỏ mà bà góa xứ Xarepta cho tiên tri Elia là cả cuộc sống của hai mẹ con đang đối diện với cái chết. Các bà đã cho đi tất cả, cho dầu biết rằng hành động này sẽ làm cho cuộc sống gặp muôn vàn gian khó.
Vậy qua tấm gương về sự quảng đại của hai bà góa, chúng ta rút ra những điểm chính sau:
* Lòng Quảng Đại
Mỗi người cần có những phương tiện cần thiết để duy trì cuộc sống. Do đó, khuynh hướng ky cóp, thu gom đã trở thành căn bệnh kinh niên nơi con người. Tuy nhiên, hai bà góa trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cho ta một cái nhìn khác. Các bà đã sẵn sàng trao ban tất cả: khi biết ông Elia là tiên tri của Thiên Chúa, bà góa thành Xarepta đã cho đi nhu cầu cần thiết nhất để duy trì sự sống, và bà góa trong bài Tin Mừng cũng đã dâng cho đền thờ tài sản duy nhất là hai đồng tiền kẽm. Như vậy, mặc dầu niềm tin khác nhau, nhưng qua hành động đầy quảng đại và chất chứa niềm tin này, các bà đã lấy Thiên Chúa làm gia nghiệp và hy vọng Ngài sẽ làm tất cả sinh ích cho ai yêu mến và tín thác nơi Ngài.
* Yêu Thương
Không phải sỉ diện mà hai bà góa đã cho đi những gì mình có, mà được thúc đẩy bởi tình yêu: tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Chính tình yêu là chìa khóa mở lòng bà góa thành Xarepta để trao cho ông Elia chiếc bánh, và như vậy đã trao cho ông mạng sống của hai mẹ con. Cũng chính tình yêu và đặt niềm tin vào Thiên Chúa, bà góa thành Giêrusalem đã dâng cho Thiên Chúa tài sản của mình, cũng là trao dâng cho Thiên Chúa bước đường tương lai của mình. Tuy bà dâng cho đền thờ ít, nhưng lại hy sinh rất nhiều. Cho nên, bà được Đức Giêsu khen là đã bỏ vào thùng tiền đền thờ nhiều nhất, vì đã rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình (Mc 12, 44).
Qua câu chuyện của bà Mc Carty và hai bà góa hôm nay, chúng ta chân nhận rằng của cải vật chất chưa hẳn đã mang lại ý nghĩa hay sự đảm bảo cuộc sống. Đàng khác, giá trị của việc cho đi cũng không thể đông đếm bằng giá trị vật chất mà hệ tại ở sự quảng đại trao ban. Với tấm lòng quảng đại và tình yêu chân thành, người ta có thể biến những cái nhỏ bé, tầm thường thành chiếc phao cứu sinh cho người khác, thành ngọn lửa yêu thương sưởi ấm lòng người, thành chiếc cầu nối của tình bác ái mang lại niềm vui và an hòa cho tha nhân. Amen.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 12:38-44)
Chắc chắn đã có lần chúng ta đến những cơ sở to lớn của Giáo Hội và dừng lại trước những tấm bảng TN 32-B100 Dalat
Chắc chắn đã có lần chúng ta đến những cơ sở to lớn của Giáo Hội và dừng lại trước những tấm bảng ghi ơn các ân nhân đã góp công góp của. Nhiều khi các tấm bảng ấy còn được sắp loại: bảng vàng, bảng bạc và bảng đồng. Việc làm ấy cũng tốt và cũng đáng khuyến khích. Tuy nhiên đôi khi nó làm chúng ta quên mất những bàn tay xây dựng nhỏ bé, nghèo nàn, nhưng chứa đựng những thiện chí không thể đánh giá bằng bảng nọ bảng kia. Chúa không quên những đóng góp nhỏ bé ấy đâu. Bằng chứng là trong bài Tin Mừng hôm nay, Người đã vinh danh một bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền Đền Thờ chỉ có hai đồng tiền kẽm. Giả như Chúa có cho bà một bảng ghi ơn thì cũng chỉ là một bảng… kẽm thôi, nhưng đáng quý vô cùng!
Thánh Mác-cô cho chúng ta hai hình ảnh trái ngược trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Ở công trường ngoài Đền Thờ là những ông kinh sư “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng…”, nhưng lại “nuốt hết tài sản của các bà góa”. Ngược lại là hình ảnh một bà góa cung kính đến gần thùng tiền Đền Thờ và bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Bà đang dâng lên Chúa tất cả những gì mình có, mặc kệ những con mắt soi mói của những người có lẽ đang chê bai số tiền quá ít của bà. Bà chỉ biết có Chúa, Đấng nhìn thấu suốt tâm can con người, chứng giám cho lòng thành của bà. Đúng vậy, Đấng thấu suốt tâm can chính là Chúa Giê-su đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ” để “quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Chúa cho các môn đệ thấy rõ hai thái độ dâng cúng trái ngược nhau giữa người giàu và bà góa nghèo. Người giàu thì lấy tiền dư bạc thừa mà bỏ vào thùng tiền, còn bà góa túng thiếu thì bỏ vào đó tất cả những gì bà có. Dâng cúng cho Chúa là dâng cúng những gì “để nuôi thân”, chứ không phải những gì dư thừa. Chúng ta thắc mắc không hiểu sau khi bỏ tất cả những gì mình có vào thùng tiền Đền Thờ, bà góa này về nhà sẽ còn gì để chuẩn bị cho bữa ăn đây? Chắc chắn bà cũng nghĩ đến điều ấy chứ, nhưng vì tin tưởng vào sự quan phòng của Cha trên trời, nên bà vẫn can đảm hy sinh cho Chúa. Giúp đỡ Đền Thờ hay xây dựng Giáo Hội trước hết đòi hỏi người ta phải có tấm lòng và tấm lòng ấy được đo lường bằng sự hy sinh chứ không phải bằng những tiếng rổn rảng của những đồng bạc người ta ném vào thùng tiền. Như thế bà góa này đã bỏ vào thùng tiền chính tấm lòng của bà và xứng đáng được Chúa Giê-su tuyên dương: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết”. Quả thực hai đồng tiền kẽm đã nói lên một tấm lòng, còn tiền dư bạc thừa của những người giàu có chỉ khoe khoang sự giàu có mà thôi. Người nghèo mà lại “giàu” tấm lòng, còn người giàu thì lại quá “nghèo” tấm lòng!
Nhìn vào công cuộc xây dựng Giáo Hội, cụ thể là việc đóng góp xây dựng giáo xứ hay cộng đoàn, chúng ta gặp được rất nhiều “bà góa nghèo”. Họ không giàu có, không có nhiều tiền đóng góp, không có tên trên những bảng vàng, nhưng lại đóng góp rất nhiều những đồng tiền kẽm! Đồng tiền kẽm của họ là thay vì ngồi năm tụm ba nói chuyện người khác thì họ lẳng lặng đến quét sân nhà thờ, thu dọn lau chùi bàn ghế, làm cỏ, săn sóc cây cối bông hoa. Người biết nghề thì đóng góp bằng cách đến sửa lại cái ghế gãy chân, bắt lại con ốc cánh cửa… Người có kiến thức điện toán, kế toán… thì giúp sổ sách cho giáo xứ. Những đồng tiền kẽm ấy đã dành dụm cho giáo xứ tuy không nhiều, nhưng là tấm lòng yêu mến Giáo Hội và hy sinh đích thực bản thân mình. Có lẽ các cha xứ không cần phải đi xin… tiền, nhưng cứ chịu khó “nhặt tiền kẽm” cũng dư để xây dựng đền thờ giáo xứ mình rồi!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Xây dựng Giáo Hội là bổn phận của mọi người, giàu có cũng như nghèo nàn. Chúa ban cho chúng ta tài năng và cả tiền bạc nữa là để sử dụng cho những công trình của Người. Xây dựng thánh đường là một công trình Chúa muốn chúng ta chung xây. Nhưng làm việc bác ái, tham gia những công tác xã hội, những sinh hoạt đạo đời của giáo xứ, dạy giáo lý, giúp chương trình Việt ngữ…, tất cả cũng là những những công trình của Chúa được thực hiện bằng những đồng tiền kẽm chúng ta bỏ vào quỹ xây dựng giáo xứ vậy!