Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14-C Bài 51-100 Hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về
---------------------------------------
Phúc Âm: Lc 10, 1-9 {hoặc Lc 1-12. 17-20}: "Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi'.
{"Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Bảy mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".} - Ðó là lời Chúa.
---------------------------------------
TN 14-C51. Chúa sai tôi đi - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt Web. 2
TN 14-C52. Ai là công nhân mùa gặt của Chúa?. 4
TN 14-C53. Hãy đi giảng dạy. 5
TN 14-C54. Sai 72 môn đệ đi rao giảng – McCarthy. 8
TN 14-C55. Suy niệm của R. Gutzwiller 9
TN 14-C56. Chú giải của Noel Quesson. 13
TN 14-C57. CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN.. 17
TN 14-C58.THI HÀNH SỨ MẠNG CỦA ĐỨC KITÔ.. 19
TN 14-C59. SỨ GIẢ HOÀ BÌNH.. 21
TN 14-C60. SAI Đ I LOAN BÁO TIN MỪNG.. 22
TN 14-C61. SAI ĐI 24
TN 14-C62. Chúa Nhật 14 Thường Niên Năm C.. 26
TN 14-C63. CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN.. 32
TN 14-C64. Tinh thần người tông đồ. 34
TN 14-C65. ĐỒNG LÚA MÊNH MÔNG.. 39
TN 14-C66. LẮNG NGHE, SỐNG VÀ THỰC THI LỜI CHÚA DẠY.. 40
TN 14-C67.LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG.. 42
TN 14-C68. SỨ MỆNH HÒA BÌNH.. 44
TN 14-C69. CHỦ NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN.. 47
TN 14-C70. Chúa Nhật 14 quanh năm.. 50
TN 14-C71. Chúa Nhật 14 Quanh Năm.. 54
TN 14-C72. CHÚA NHẬT 14 QUANH NĂM... 56
TN 14-C73. NHƯ CHIÊN GIỮA SÓI RỪNG.. 60
TN 14-C74. Người Sai Cứ Từng Hai Người 62
TN 14-C75. Chúa Nhật 14 Thường niên, C.. 64
TN 14-C76. Sứ giả an hòa (an bình và hòa thuận) 66
TN 14-C77. Bình An, Hành trang của người truyền giáo. 68
TN 14-C78. HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA.. 70
TN 14-C79.NÉP MÌNH BÊN CHÚA.. 72
TN 14-C80. Bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy. 74
TN 14-C81. SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA.. 77
TN 14-C82. MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA.. 78
TN 14-C83. CHỌN MỘT MỤC TIÊU XỨNG ĐÁNG CHO ĐỜI MÌNH.. 79
TN 14-C84. Thời điểm CÔ NÀNG POCAHONTAS. 82
TN 14-C85. Vì tên các con đã được ghi trên trời 86
TN 14-C86. Bình an của Chúa. 88
TN 14-C87. Nghịch lý. 90
TN 14-C88. Phúc âm hoá bản thân mình trước hết. 91
TN 14-C89. Truyền giáo bằng đời sống. 94
TN 14-C90: Phúc âm hoá bản thân mình trước hết 96
TN 14-C91: LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG MÀ THIẾU THỢ GẶT.. 98
TN 14-C92: 72 MÔN ĐỆ ĐƯỢC SAI ĐI 100
TN 14-C93: CHÚA NHẬT 14 TN C.. 102
TN 14-C94: BÌNH AN ĐÍCH THỰC.. 103
TN 14-C95: CHỨNG NHÂN NƯỚC TRỜI 105
TN 14-C96: NÀY THẤY SAI ANH EM ĐI 106
TN 14-C97: NHƯ NGƯỜI MẸ HIỀN.. 108
TN 14-C98: MỪNG VÌ ĐƯỢC GHI DANH NƯỚC TRỜI 113
TN 14-C99: VÔ NGHĨA.. 116
TN 14-C100: CHÚA SAI CÁC MÔN ĐỆ.. 117
---------------------------------------
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân: TN 14-C51 FB
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
4- Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
---------------------------------------
- Charles E. Miller
Ngày kia có một người nhận xét, ông ta nghe thấy từ”ơn gọi” trên bục giảng có vẻ như ám chỉ”ơn: TN 14-C52
Ngày kia có một người nhận xét, ông ta nghe thấy từ”ơn gọi” trên bục giảng có vẻ như ám chỉ”ơn gọi” đến từ Thiên Chúa chứ không phải chỉ dành cho chức linh mục hoặc tu sĩ. Đây là lúc: Mọi người Công Giáo đều có một ơn gọi đến từ Thiên Chúa.
Phúc Âm ngày hôm nay thường được cắt nghĩa theo ý nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta xin với chủ ruộng sai nhiều thợ gặt đến để gặt lúa, nhiều người đã suy nghĩ rằng Người muốn chúng ta cầu nguyện cho có nhiều vị linh mục. Thật sự ra chủ ý của Chúa không giới hạn trong ơn gọi đó.
Công đồng Vatican II nói rằng: “Tất cả những người Công Giáo đều tham dự đầy đủ và tích cực trong phụng vụ và trong sứ vụ của Giáo Hội. Đó là một ơn gọi”. Trong Thánh Lễ được cử hành trước Công đồng, vị linh mục đã tự mình làm hết mọi sự, vị linh mục được trợ giúp bởi một cậu trai nhỏ như là một cậu giúp lễ. Và tất cả cộng đoàn hiện diện trong một vai trò thụ động. Linh mục đã đọc tất cả mọi lời nguyện, tất cả các bài thánh thư và Phúc Âm trong Thánh Lễ, và tất cả cộng đoàn im lặng lắng nghe ngay cả việc rước lễ cũng được trao ban bởi chính ngài hoặc đươc giúp đỡ bởi các vị linh mục khác. Chỉ có cậu bé giúp lễ mới được đáp lại những lời nguyện của vị linh mục, còn cộng đoàn thì giữ im lặng. Những người đời không được phép đọc Thánh Kinh hoặc đọc những lời nguyện nào hoặc trợ giúp trong việc rước lễ. Nhiều người ngạc nhiên khi không quen với sách lễ trước đây hoặc quên đi thời hiệu của nó, sự thật chỉ một mình vị linh mục được đọc kinh”Lạy Cha”. Thật vậy, người giáo dân thì không được phép đọc kinh”Lạy Cha”. Vai trò thụ động của người giáo dân là một khoảng trống lớn, phản ánh sự thiếu toàn tâm toàn ý trong sứ vụ của Giáo Hội. Vì một công việc xem ra là của người giáo dân thì vị linh mục đã phải làm tất cả.
Công đồng Vatican II đã ra quyết định phục hồi và đề xướng phụng vụ thánh với mục đích giúp cho mọi người đều tham dự một cách đầy đủ, sinh động và ý thức bởi tất cả mọi người (x. Hiến chế về Phụng vụ số 14). Nhưng việc tham dự vào phụng vụ thì cũng bất toàn cho đến khi dẫn đến việc tham dự đầy đủ vào sứ vụ của Giáo Hội.
Chức linh mục thừa tác là nền tảng cho Giáo Hội. Điều đó không thể thay đổi. Nhưng Thánh Thần qua Công đồng đã kêu gọi tất cả những người Công Giáo đều phải trở thành những phần tử có trách nhiệm của Giáo Hội. Không để mọi sự cho vị linh mục nữa. Cũng không trốn tránh những ai thách đố về đức tin của chúng ta bằng việc nói với họ là chúng ta sẽ nói cho linh mục. Không sợ tỏ ra đức tin của người Công Giáo trong việc làm ở bất cứ nơi nào. Không miễn cho đức tin của chúng ta là cá nhân và riêng biêt và sẽ không ảnh hưởng đến chúng ta là cá nhân và riêng biệt và sẽ không ảnh hưởng đến chúng ta trong chính trị. Sự thật là tất cả mọi người chúng ta đều được kêu gọi đặc biệt, qua bí tích Thêm sức, để hoạt động, liên hệ và trở thành những người Công Giáo có trách nhiệm.
Giáo Hội làm viên mãn hình ảnh của Giêrusalem như là một người mẹ (x.bài đọc I). Giáo Hội qua sự hợp nhất với Đức Kitô đã sản sinh ra những người con và nuôi dưỡng chúng bằng Lời và các bí tích. Giống như những người cha mẹ tốt, Giáo Hội cũng là thầy dạy và là người hướng dẫn. Từ hình ảnh này và thực tại của Giáo Hội mà mọi người chúng ta phải rút ra sự hướng dẫn và sức mạnh để trở thành những người Công Giáo năng nổ nhiệt tình.
Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng;”Tên của chúng ta đã được viết ở trên trời rồi”. Vì thế mà chúng ta phải vui mừng. Nhưng cho đến khi Chúa lại đến trong vinh quang để mang chúng ta về trời, chúng ta phải nhớ rằng công việc của Thiên Chúa trên trái đất này qua Giáo Hội của Người phải thật sự là của chính chúng ta.
---------------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Hãy đi giảng dạy!”. Đó là câu châm ngôn của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn: TN 14-C53
“Hãy đi giảng dạy!”. Đó là câu châm ngôn của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình mà Giáo Hội Việt Nam nói chung và Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã cử hành đại tang lễ. Ngay từ ngày thụ phong giám mục, Đức Tổng Giám Mục đã chọn cho mình câu châm ngôn “Hãy đi giảng dạy” cũng là mệnh lệnh truyền giáo của chính Chúa Giêsu. Đức Tổng Giám mục là một Giám mục truyền giáo. Quả thật, 40 năm kể từ ngày thụ phong Giám mục cho đến lúc từ trầ, Ngài đã thể hiện câu châm ngôn sống: “Hãy đi giảng dạy”. 40 năm, con đường thật dài và khúc khuỷu. Khúc khuỷu vì những biến động của thời đợi, khúc khuỷu vì những đổi thay của thể chế xã hội, chính trị và kinh tế. Và khúc khuỷu của lòng người vốn khó thăm dò. Nhưng dẫu khó khăn và khúc khuỷu đến đâu, Ngài vẫn Đi. Đi trong suy tư và cầu nguyện. Đi bằng thái độ hiền hòa, khiêm tốn và kiên nhẫn. Đi trong tin tưởng và phó thác. Và Đi để Giảng dạy. Vì xác tín rằng, ẩn bên trong những khúc khuỷu của thời đại và lòng người, vẫn là khát vọng được sống, sống mãnh liệt và phong phú. Và cũng xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới là Đấng đáp trả và đong đầy khát võng sống mãnh liệt ấy, nên Ngài không ngừng nỗ lực giới thiệu Đức Kitô cho mọi người.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng là một Giáo hoàng truyền giáo. Ngài đã ra khỏi giáo triều ở Rôma nhiều nhất để đi đến với muôn dân trên khắp năm châu. Đến đâu Ngài cũng luôn rao giảng Tin Mừng Đức Kitô cho mọi người. Những chuyến công du mục vụ ấy đã cho Ngài thấy rằng: Mệnh lệnh “Hãy đi rao giảng Tin Mừng” của Chúa Giêsu chưa được các Kitô hữu thi hành. Đối với Đức Thánh Cha, vấn đề cấp bách là: phải đem Tin Mừng đến cho những vùng đất mênh mông chưa biết Chúa. Phải tái Phúc Âm hóa những vùng đất xa xưa đã một lòng tôn thờ Chúa nhưng nay đã lơ là, bỏ Chúa. Phải đem Tin Mừng thấm nhập các sinh hoạt xã hội loài người.
“Lúa chín đầy đồng, thợ gặt quá ít”. Một nhận định vừa hân hoan vừa báo động. Đối với chúng ta hôm nay là một lời báo động, vì nếu lúc chín vàng đồng mà gặt không kịp, lúa sẽ rụng hết. Một thực tế bi đát vì tình trạng thiếu thợ gặt so với cánh đồng lúa chín vàng bát ngát. Mười hai Tông đồ được sai đi, rồi lại thêm 72 môn đệ nữa, cũng chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Các Giám mục, các linh mục, rồi các tu sĩ nam nữ cũng còn quá ít, cần phải có sự tiếp tay của các giáo dân nữa.
Vào tháng 10 năm 1987, Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới đã khai mạc tại Rôma. 232 Giám mục từ khắp năm châu kéo về Rôma để cùng nhau nghiên cứu vấn đề “ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay”. Vì là vấn đề liên quan đến giáo dân, nên bên cạnh các Giám mục, người ta còn thấy có 53 giáo dân: 27 nam và 26 nữ. Nếu chúng ta đối chiếu 12 Tông đồ với các Giám mục thì sự hiện diện của 27 ông và 26 bà trong Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới ở Rôma là một sự kiện mới mẻ, như trong Tin Mừng hôm nay: “Chúa Giêsu chọn thêm 72 môn đệ nữa”. Từ Thượng Hội Đồng nầy, một tông huấn mang tựa đề: “Ngừoi Kitô hữu giáo dân” đã được công bố. Trong đó, Đức Thánh Cha nói: “Giáo dân, vì là thành phần của Giáo Hội, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng. Các bí tích khai tâm kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng và thúc giục họ thi hành sứ vụ của mình” (số 33). Đức Thánh Cha còn nói: “Chắc chắn rằbg: mệnh lệnh của Chúa Giêsu ‘Hãy đi loan báo Tin Mừng’ vẫn mang giá trị trường tồn và đặt ra một cách cấp bách. Tuy nhiên, tình trạng hiện nay trong thế giới, đang đòi hỏi tuyệt đối phải thực thi mệnh lệnh của Chúa một cách khẩn trương và quảng đại hơn. Một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời đáp trả của riêng mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Cho hay, cái mới mẻ trong việc thực thi cuộc loan báo Tin Mừng là tất cả toàn dân Chúa, không phân biệt nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, mạnh yếu. Tất cả đều được sung vào việc tông đồ truyền giáo.
Trước tình trạng khẩn trương ngày nay, chúng ta đâu có quyền trông đợi những vị truyền giáo ở các nước ngoài đến giảng đạo cho chúng ta như ngày xưa đã đến giảng đạo cho ông bà chúng ta. Giờ đây, chính những linh mục đã được chọn giữa chúng ta cũng chưa bù đắp được gì cho số người đông đúc và đa dạng ngày nay. Vì thế, Đức Thánh Cha hô hào: “Giá dân ngày nay phải dấn thân vào công tác truyền giáo của Giáo Hội”. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã định nghĩa vị thế độc đáo của người giáo dân giữa lòng Giáo Hội và giữa thế giới bằng hai mệnh đề như sau: “Giáo dân là ‘ người của Giáo Hội’ trong lòng thế giới”. “giáo dân là ‘người của thế giới’ trong lòng Giáo Hội”. Là người của Giáo Hội, người giáo dân phải đem Giáo Hội và Chúa Giêsu vào trong thế giới. Và là người của thế giới, giáo dân phải đem thế giới đến cùng Giáo Hội và Chúa Kitô.
Tông huấn “người Kitô hữu Giáo Dân” vẫn nhắc lại sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vatican II để kêu gọi giáo dân ý thức nhiệm vụ làm tông đồ trong môi trường của mình. Chính người tín-hữu-thương-gia, tín-hữu-công-nhân phải đem Chúa đến và làm gương sáng cho anh em mình nơi đồng ruộng, ngoài thị trường, trong cơ quan xí nghiệp của mình. Hãy coi nơi mình đang ở, chỗ mình đang làm việc là những nơi Chúa sai mình đến “như chiên ở giữa đàn sói”, không phải để bị sói vồ chụp cắn xé, nhưng để biến sói thành chiên; không phải lấy sức mạnh đọ lại với sức mạnh, không phải dùng mưu mô đối lại với mưu mô, nhưng khí giới của chúng ta là khí cụ bình an và hiên hòa, theo gương cuộc sống của Đức Cố Tổng Giám Mục của chúng ta. Bởi vì Chúa không cho những người được sai đi mang theo gì cả, không được dự trữ tiền của hoặc võ trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huốc trắc trở. Chúa muốn chúng ta phải đến với những người anh em mình một cách đơn sơ chân thành, không băn khoăn bối rối, không rào trước đón sau. Hơn nữa, còn phải loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật, nghĩa là phải lo cho anh em phần hồn, phần xác.
Đi đến với người mạnh cũng như kẻ yếu; quan tâm đến tinh thần và cả đến đời sống vật chất nữa. Như vậy tức là để ý đến con người toàn diện và tất cả mọi người. Các người chung quanh chúng ta, bà con hàng xóm láng giềng, các bạn đồng nghiệp của chúng ta trong cơ quan, xí nghiệp nhất định sẽ tin vào Chúa Kitô, nếu chúng ta loan báo Chúa Kitô với tinh thần dịu hiền, vô vụ lợi, hoàn toàn phục vụ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Mọi người sẽ tin vào chứng ta của chúng ta khi thấy chúng ta sống yêu thương nhau, cộng tác với nhau cách chân tình, không ganh tị và định kiến, biết tôn trong chân lý và công bình, sẵn sàng phục vụ lợi ích chung của đồng bào và đất nước. Nhờ sự hiện diện và hoạt động tích cực giữa đời như vậy, anh chị em sẽ làm sáng danh Chúa và góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng Nước Trời. Sống như thế, anh chị em mới có lý do chính đáng để hân hoan vui mừng, vì như Chúa đã bảo đảm: “Anh chị em hãy vui mừng vì tên tuổi anh chị em sẽ được ghi đậm nét ở trên trời”
---------------------------------------
Suy Niệm 1. Mùa gặt bội thu
Kitô giáo là một tôn giáo thực hành. Catherine de Hueck Doherty là một Kitô hữu nổi tiếng: TN 14-C54
Kitô giáo là một tôn giáo thực hành. Catherine de Hueck Doherty là một Kitô hữu nổi tiếng. Sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Nga, bà sống phần lớn cuộc đời ở Mỹ. Bà nói: “Ngay khi còn nhỏ tuổi, tôi biết rằng Tin Mừng là để sống”.
Khi đã trưởng thành chị làm công việc của một người bưng nước trong một quán ba ở Manhattan. Trong một dịp kia, chị thông báo cho một nhóm lính Mỹ và những bạn gái của họ (họ đều biết chị là người Công giáo) đã đến giờ đóng cửa (4 giờ sáng) và chị phải về.
“Chị đi đâu, Latie?” họ hỏi.
“Hôm nay Chúa nhật, tôi đi dự Thánh lễ”.
“Vâng, ra cô là người Công giáo?”.
“Vâng” chị đáp.
Họ không thể nào hiểu nổi sự kiện chị là một người Công giáo hành đạo mà lại làm việc ở một nơi như thế. Tất cả bọn họ đi theo chị đến nhà thờ dự Thánh lễ. Hai tuần sau, một cô gái trong nhóm trở lại. Cô ấy nói: “Chị làm tôi suy nghĩ. Nếu chị có thể sống một đời sống tốt lành khi phải làm việc ở một nơi như thế này, vì thế có lẽ tôi cũng có thể làm được”.
Một lần khác Catherine đi tàu điện ngầm ở Montrial thì gặp một phụ nữ già, cô độc nói với chị: “Chị có muốn nói chuyện với tôi một lúc không?”. Họ làm hai chuyến đi từ đầu này đến đầu kia của tàu điện ngầm và nói chuyện hết thời gian. Họ trở thành bạn tốt của nhau, và thường viết thư cho nhau cho đến lúc người phụ nữ ấy qua đời.
Mùa gặt dĩ nhiên là bội thu đối với những người có con mắt nhìn nó và một tâm hồn đáp lại. Mùa gặt ấy trong các bệnh viện, gia đình, trường học, nhà tù, công trường, vùng phụ cận. Mỗi ngày là một ngày gặt hái.
Đức Kitô sai các Tông đồ ra đi giúp Người thu hoạch mùa màng. Chúng ta có khuynh hướng để việc ấy cho những nhà chuyên môn: cho các linh mục, nữ tu, các nhà truyền giáo. Những người mà Đức Kitô sai đi không phải là những nhà chuyên môn. Tuy vậy, họ đã trở thành những công cụ của người. Trao trách nhiệm cho một cá nhân và để cho người ấy biết bạn tín nhiệm người ấy là đem lại cho người ấy một sự giúp đỡ mà ít có sự giúp đỡ nào bằng.
Nhóm bảy mươi hai bắt đầu là những môn đệ của Người. Rồi Người hướng họ đến mục tiêu bên trên họ với việc làm cho họ thành những Tông đồ. Đó là cách thức phải luôn luôn được thực hiện. Chúa yêu cầu chúng ta chia sẽ với những người khác điều mà chúng ta đã nhận được từ Người. Có những điều vẫn còn chưa làm được nếu chính chúng ta không làm. Chúng ta nâng cao chúng ta lên trong mức độ chúng ta nâng cao người khác lên.
Làm một Tông đồ có nghĩa là một người được sai đi. Để có thể làm được công việc của Đức Giêsu. Chúng ta không cần phải là một loại thiên tài hoặc siêu nhân nào đó. Có sự khác nhau giữa một Tông đồ và một thiên tài. Sự khác nhau ấy ít liên quan đến tài năng và trí tuệ, mà có liên quan đến mục đích và sự dấn thân.
Bởi lẽ người ta được kêu gọi không có nghĩa để được trở thành thông minh hơn hoặc có nhiều tưởng tuợng hơn trước đó. Không, người ta vẫn có quan hệ với những ơn tự nhiên. Nhưng giờ đây, họ có nhiều quyết tâm hơn, nhiều sự dâng hiến hơn. Điều ấy đã tạo ra sự khác nhau to lớn.
---------------------------------------
TIẾP NHẬN NGÀI (10, 1-12)
Nhiều người muốn theo Chúa, song thái độ của họ chưa thực tình dứt khoát hoặc còn giả tạo nữa: TN 14-C55
Nhiều người muốn theo Chúa, song thái độ của họ chưa thực tình dứt khoát hoặc còn giả tạo nữa. Ngài muốn họ lưu tâm đến cái quyết định quan hệ của họ và những điều kiện theo sau quyết định ấy. Mặt khác, Ngài vẫn sai bảy mươi hai môn đệ đi trước.
1. Sứ mệnh.
Họ phải dọn đường cho Ngài. Ngài nói rõ Ngài sẽ đến những nơi họ đến trước. Họ chỉ là sứ giả, còn Ngài mới là Vua. Họ là những người khai phá, tiên phong, mở đường, để chính Ngài sẽ đi trên con đường ấy. Họ làm đất sẵn còn Ngài gieo vãi hạt. Họ dựng khung còn Ngài xây tường. Họ mở cửa để Ngài bước qua. Trách vụ ấy là của mọi chủ chăn, mọi tông đồ giáo dân trong nước Chúa.
Con người chẳng thể ban phát của Thánh được mà chỉ được coi là người thừa hành trợ tá thôi. Nước Thiên Chúa không phải do con người lập nên và lời Chúa không thể do con người suy tưởng ra được. Dẫu vậy, Thiên Chúa lại muốn dùng những tạo vật Ngài dựng nên để thực hiện các việc ấy và Ngài còn muốn con số tạo vật ấy phải thật nhiều: ‘Mùa màng nhiều, thợ gặt ít’.
Như thế, con người cũng có một vai trò khá quan trọng trong công việc của Chúa, phải xin Chúa ban cho thật nhiều ơn gọi: ‘vậy hãy xin chủ mùa sai thợ gặt đồng lúa của Ngài’. Đã hẳn, Chúa quá rõ việc thiếu các linh mục và thật sự thiếu. Vì nhiều người được gọi mà họ từ chối. Còn nếu bình thường mà vẫn thiếu thì hẳn là do giới trẻ không sống xứng đáng. Vì thế cần phải cầu nguyện cho ơn thiên triệu và như thế là đáp ứng đúng đòi hỏi của Chúa Giêsu.
Hai mặt của sứ điệp ban cho các môn đệ là: loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành tật bệnh. Vì thế mới có vấn đề lo cho phần hồn và săn sóc phần xác, đi đến với người mạnh và kẻ yếu, quan tâm đến phần tinh thần và cả đến những phần thuộc trần thế nữa. Và như thế, tức là để ý đến con người toàn diện và toàn thể nhân loại.
2. Mệnh lệnh.
‘Này Ta sai các anh như chiên vào giữa sói’. Như vậy không phải là chuyện những con sói này đối địch với những con sói kia, hay một con sói phải đương đầu với bầy sói. Nhưng chính là con chiên vào giữa đàn sói. Chúng ta chẳng thể lấy sức đọ sức, dùng mưu đối mưu, bằng cách lấy sức mạnh của tiền tài và thế lực của các tổ chức, nhưng khí giới của ta là khí cụ bình an, khí cụ kiên tâm chịu đựng đau khổ và hy sinh.
Như thế, tỏ rõ cho ta thấy rằng linh mục ở trong thế gian như ‘chi thể xa lạ’, ‘một chiên giữa bày sói’ vừa xa lạ với những người khác, vì thế không thể gây chú ý. Giáo Hội luôn tỏ rõ là không quyền lực đối với các quốc gia, Giáo Hội sẽ được giải thoát, thật tuyệt vọng xét phía nhân loại, thật có cơ biến dạng, duy chỉ có uy lực và quyền thế của Chúa đỡ nâng.
‘Đừng mang ví tiền, bao bị, giày, dép’. Như thế là không có vấn đề bảo đảm, an toàn theo kiểu thế tục, cũng không có chuyện đề phòng dự liệu, trang bị cần thiết, tiên liệu những gì có thể xảy ra, võ trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huống trắc trở. Kết quả tinh thần không lệ thuộc vào những thành tố ấy cũng như những trở lực ngoại tại.
Con người phải đến với người anh em mình với thực chất của mình, thật đơn giản và chân thành, không băn khoăn bối rối, không rào trước đón sau. Tức là, con người sẽ chẳng là chi khác hơn dụng cụ của Thiên Chúa và được sử dụng như tính cách dụng cụ.
3. Định mệnh.
Đức Giêsu nói đến sự được đón tiếp và bạc đãi. Tức là, sẽ có những người vì Nước Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận đức tin, và cũng có những người khác cố chấp và dễ dàng từ chối bằng tiếng ‘không’ khô cằn. Sự kiện từ chối ấy quả quá nặng đến nỗi Chúa phải quan tâm đặc biệt. Khi bị từ chối, môn đệ phải rút đi, và phủi chân khỏi bụi của nhà hay làng ấy. Tức là dứt khoát tuyệt giao với họ và tiếp tục lên đường. Họ sẽ tránh khỏi hình phạt và án xử hòng đến.
‘Ngày ấy, Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành ấy’, khi vinh quang Nước Thiên Chúa tỏ hiện trọn vẹn. Vì trách vụ của mình, môn đệ đặt niềm tin vào Thiên Chúa thì những ai môn đệ đến gặp cũng được ở trong tay Chúa như thế, hoặc bị Ngài phạt hoặc được Ngài thưởng.
Các chủ chăn cũng như những giáo dân trợ tá, tất cả những ai đã cam kết phục vụ nước Thiên Chúa, thì đều phải dự đoán được những thành công và thất bại để luôn sẵn sàng với ‘ưng thuận đón tiếp’ cũng như ‘chối từ không nhận’. Thất bại không làm lung lay nao núng, khiếp sợ….
Vì thế, Đức Kitô đã cẩn thận tiên báo hết sức rõ ràng, với giọng điệu thật nghiêm nghị. Khi thi hành phận sự nước Chúa. Ai để mình thất vọng tức là đã không am hiểu Tin mừng.
Chúng ta không thể lấy mất sự lựa chọn khỏi các cá nhân; chúng ta phải đặt các cá nhân đó đối mặt với sự lựa chọn ấy, là chính sự lựa chọn có giá trị ngàn đời.
MÔN ĐỆ (10, 17-20)
Sự cao cả của các môn đệ được thể hiện dưới hai phương diện. Trước hết, đó là uy quyền họ được uỷ thác để thi hành nhiệm vụ mình: ‘Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỉ cũng phải luỵ phục chúng tôi’. Đức Kitô liền khẳng định: ‘Ta đã thấy Satan như chớp nhoáng từ trời sa xuống. Nầy Ta ban cho các anh quyền dẫm lên rắn rít, bò cạp và trên mọi quyền năng kẻ thù và tuyệt nhiên không có gì làm hại các anh được’.
Môn đệ Chúa được chính Chúa nâng đỡ để phục vụ Ngài. Nếu Ngài chẳng tha phép, thì không một tai hoạ nào có thể phạm đến họ được. Vì thế Ngài có trách nhiệm và bổn phận phải lưu tâm đến đó. Tuy nhiên, không phải chỉ mình Chúa mà thôi, những cả những ai được Ngài dùng nhân danh Đức Kitô. Ngài có thể tránh cho họ khỏi ách thống trị của các hung thần, vì Ngài có quyền trên quỉ ma.
Thế giới quỉ ma là một thực tại vô hình. Satan là một uy lực thiêng liêng. Bởi thế quyền lực của các môn đệ Chúa không phải là cái từ bên ngoài đụng đến hay áp lực. Dẫu vậy, rõ ràng là những sự việc lại xẩy ra dưới hình thức hữu hình, khiến nhãn quan nhân loại có thể cảm nhận được. Ai chỉ tin vào sức mạnh của thân thể, chỉ tin vào thần tài, vào ảnh hưỡng chính trị, vào quân sư, vào hoàn cảnh xã hội, thì chẳng thể hiểu thực sự được các biến cố ấy.
Hoạt động của Giáo Hội được thực hiện theo chiều cao và sâu. Mà chỉ ở đời sau con người mới nhận ra được đặc tính đặc biệt và lạ lùng của uy quyền mà Chúa ban cho Giáo Hội. Tuy nhiên, sự việc được quyền lực ấy chỉ là cái thêm vào. Điều lớn lao hơn là: ‘Hãy vui mừng vì tên các anh đã được ghi trên trời’.
Điều làm cho các môn đệ vui mừng, có quyền tự hào và thực sự phấn khởi, không phải là sự lớn lao và sức mạnh của việc họ đã làm, nhưng là mầu nhiệm họ được lựa chọn. Nói tóm, con người chẳng thể tự mình định đoạt đời mình, mà là được chọn; được Chúa ban ơn cho cách nhưng không.
Những chọn lựa ấy ở giữa vương quốc tối tăm của Satan và vương quốc huy hoàng của Thiên Chúa. Kẻ được tuyển chọn, được làm con sự sáng. Không phải chỉ có hoạt động thôi, nhưng cả đời sống vượt khỏi những giới hạn hẹp hòi, thế trần. Danh tánh kẻ ấy ‘được ghi trên trời’. Bởi vậy, xét theo mục đích và bản chất, sự việc môn đệ được kêu gọi, quả là một sự cao cả đặc biệt.
---------------------------------------
Sau đó. Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.
Là bạn đồng hành của Phaolô, tông đồ các dân ngoại Luca nhấn, mạnh đến điểm này của cuộc đời: TN 14-C56
Là bạn đồng hành của Phaolô, tông đồ các dân ngoại Luca nhấn, mạnh đến điểm này của cuộc đời Đức Giêsu. Trong số bốn thánh sử, Ngài là người duy nhất thuật lại giai đoạn này. Trong lúc Luca viết ra, Ngài đã thấy các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa các đô thị và vùng đất của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được khai sinh không phải do hoạt động của các tông đồ được chính thức ủy nhiệm, nhưng do hoạt động tông đồ của giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề nghiệp và họ đã loan báo Đức Giêsu (Rô-ma 16).
Luca nhấn mạnh rằng chính Đức Giêsu đã thiết lập việc tông đồ của các môn đệ. Đức Giêsu không chỉ sai Nhóm Mười Hai đi (Lc 9, l-6). Người cũng đã sai bảy mươi hai môn đệ,ra đi và hầu như trong cùng một thời gian (Lc 10, 1,20) để thực hiện cùng một sứ mạng... vả lại với nhiều tình huống hơn sứ mạng của hàng giáo phẩm. Người ta sẽ không bao giờ kể lại điều đó cho đầy đủ, Giáo Hội không chỉ và không trước tiên là Giáo Hoàng và các Giám Mục mà là “dân Thiên Chúa", là mỗi Kitô hữu.
Tôi có tin rằng Đức Giêsu sai tôi đi không? Rằng tôi là “sứ giả” "Người được sai đi" của Chúa đến với người này, người nọ không? Phải có cả các phụ nữ trong số những người được sai đi đó (Lc 8, 13)
“Bảy mươi hai"... ám chỉ tính toàn cầu của các dân ngoại được kể ra trong sách Sáng Thế (St 10), một số thủ bản nói về con số bảy mươi. Dĩ nhiên, con số không hạn chế và cũng không phải là con số của số học. Tất cả mọi người! Tất cả mọi dân tộc.
Cứ từng hai Người một"... Đây là con số mà Luật đòi hỏi để một chứng từ được nhận là có giá trị (đệ nhị luật 19,15). Đó cũng là tập quán của những Kitô hữu đầu tiên đi truyền giáo, không bao giờ họ đi một mình: Phaolô và Bác-na-bê... Bác-na-bê và Máccô... Phaolô và Si-la...
Đời sống hiện đại, công việc nghề: nghiệp, khoa học, học đường, văn hóa đã đề cao giá trị của việc kết hợp thành tổ nhóm. Có phải tôi đang là một ky sĩ độc hành không?
"Đi trước... các nơi mà Người sẽ đến... " Công việc tông đồ lúc nào cũng phải khiêm tốn. Người ta chỉ có thể chuẩn bị mà thôi. Chính Đức Gỉêsu sẽ đến làm công việc thật sự. Chúng ta chỉ là những kẻ mở đường.
Người bảo các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về".
Trong viễn cảnh mà Đức Giêsu nhắm đến, rõ ràng là con số bảy mười hai người đầu tiên tuy khá lớn nhưng sẽ không đủ Những người thợ mới phải không ngừng bắt tay vào công việc. Đức Giêsu nhìn xa trông rộng? "Mùa gặt" là một hình ảnh truyền thống trong Kinh thánh để nói về thời kỳ: sau hết, sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời mạt thế (Gian 4,13; Mát-thêu 13,39; Khải Huyền 14, 15-16). Trong Đức Giêsu, thời kỳ sau hết này đã bắt đầu. Đức Giêsu nhìn thấy sự dồi dào của "mùa gặt thánh thiêng" ấy mà Thiên Chúa là chủ mùa gặt.
Tôi có thật sự tin chắc rằng nhiều người, đàn ông cũng như đàn bà sẵn sàng đi theo Tin Mừng? Nhưng các thợ gặt đang thiếu, Đức Giêsu nói. Tức khắc, trước sự thiếu thợ gặt đó (do vậy không chỉ là một nhược điểm của thời đại chúng ta), Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giải pháp duy nhất là sự cầu nguyện. Đối với Người, rõ ràng là việc tông đồ không phải là một công việc của con nguời như tuyên truyền hay quảng cáo, nhưng là một công việc của Thiên Chúa, một ân sủng. Tôi có cầu nguyện để có thêm nhiều thợ gặt không? Trước hết là giáo dân... nhưng cả các linh mục, tu sĩ nam nữ. Phần tôi? Tôi có phải là một người thợ gặt làm việc cho công cuộc cứu chuộc không?
Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con di vào giữa bầy sói.
Anh em hãy ra đi? Đây là một mệnh lệnh. "Thầy" sai anh em...
Đức Giêsu không che giấu sự khó khăn trong công việc Và chúng ta tiếp tục ngạc nhiên vì có nhiều người bỏ mất đức tin vì chưng thất bại to lớn trong việc truyền bá đức tin. Tuy nhiên chúng ta đã được cảnh báo rõ. Hình ảnh cũng làm ta kinh ngạc và khó chịu: tín hữu như một con chiên con bị một bầy sói tấn công. Chúng ta chớ gán cho hình ảnh những ý nghĩa mà nó không có. Mọi dân ngoại, mọi người vô ưu đều được Thiên Chúa yêu thương. Nhưng "đàn chiên bé nhỏ" rất cần có chủ chăn bảo vệ (Ga 15, 18; 10, 1.16). Đức Giêsu đã báo trước chó Giáo Hội của người: Giáo Hội thường xuyên ở trong tình trạng nguy hiểm? Những thời kỳ yên tĩnh, bình an đúng ra phải làm chúng ta ngạc nhiêm... Vậy thì hãy có lòng trông cậy.
Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép...
Điều đáng lưu ý là Đức Giêsu sẽ không đưa ra một hướng dẫn nào về "học thuyết"! Người không nói về nội dung của đttc tin... nhưng nói về các thái độ cụ thể của những người đi thuyết giảng! Y phục, hành trang, cách giao tiếp. Các nhà truyền giáo trước hết loan báo Nước Thiên Chúa bằng cách sống của họ!
Trước tiên, Đức Giêsu đặt ra yêu sách sống nghèo khó Không nên ỷ vào các phương tiện của con người.. Đức Giêsu đã không sử dụng các vũ khí của quyền lực, của sự giàu sang của vẻ lộng lẫy, huy hoàng... Đức Giêsu không ra vẻ "trịnh trọng"; Người "vốn giàu sang đã trở nên nghèo hèn". Yêu sách đầu tiên của Giáo Hội là theo hướng của thầy mình, là trở nên nghèo khó.
Đừng chào hỏi ai dọc đường...
Đây không phải là một mệnh lệnh về sự vô lễ, nhưng về sự cấp bách! Không nên mất thời gian vì những cử chỉ lễ phép quá, mức và dài dòng, vì những lề thói thế tục.
Trong Luca, điều gây ấn tượng mạnh là các sứ giả của Tin Mừng "chạy” khắp nơi: Đức Maria chạy, đi thăm viếng, các mục đồng chạy đến máng cỏ, Phi-líp-phê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người ê-thi-óp (Công vụ 8,30). Còn tôi thì sao? Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói! "Bình an cho nhà này!". Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đậu trên người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ quay về với anh em. Giờ đây là một phong cách sống nào đó: sự bình an, niềm vui trong sáng. Một sự hiệp thông của bình an và mềm vui. Hãy có nơi chính mình một sự bình an và chuyển sự bình an ấy cho người khác "Bình an của anh em sẽ đậu trên người ấy..." Tin Mừng cũng chính là điều đó? làm chuyển động một dòng chảy sung mãn hài hòa giữa các con người.
Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.
Những vấn đề về ăn uống này đối với chúng ta dường như rất ty tiện. Khi người ta biết những cấm đoán theo đúng nghi lễ của người Do Thái, những lời ấy của Đức Giêsu vang lên như một 'sự giải phóng phi thường: anh em hãy ăn mọi thứ thức ăn mà không cần bận tâm xem những thức ăn ấy tinh khiết hay ô uế. Ở đây, Đức Giêsu xuất hiện với chúng ta như một người thật sự đi trước thời đại của mình. Thật vậy; Người biện hộ cho một sự cởi mở phóng khoáng đối với tục lệ và tập quán của những người khác chấp nhận các tục lệ văn hóa của các dân tộc mà chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng! Điều đó đi rất xa.
Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
Tin Mừng này trước tiên rất cụ thể; rất thực tiễn. Đó là một Tin Mừng, bằng hành động làm điều thiện, đẩy lui điều ác an ủi, cứu chữa...
Triều đại của Thiên Chúa. Kế hoạch của Thiên Chúa. Dự án của Thiên Chúa. Người ta chờ đợi Triều đại đó cho thời kỳ sau hết. Triều Đại ấy. có ở đó, Đức Giêsu nói... rất gần? Rất gần anh em. Triều đại trong đời thường, thông thường nhất, của anh em, và anh em không biết khám phá sự gần gũi ấy. Triều đại của Thiên Chúa là gì? Chính là Đức Giêsu. Đó là hạt giống mầu nhiệm của Thiên Chúa được đặt vào chính tấm lòng của con người. Với Đức Giêsu, Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa ở đó, ngay từ bây giờ. Trong Đức Giêsu, sự hoàn thành của thế gian đã được lan rộng. Tin Mừng là một điều gì rất đơn giản: chính nghĩa của Thiên Chúa sẽ chiến thắng và chính nghĩa ấy là tương lai tuyệt đối của con người, và nó đã bắt đầu! Thế gian sẽ không trường tồn mãi mãi, lịch sử của nhân loại sẽ có lúc kết thúc, nhưng sự chấm dứt này không phải là hư vô, mà chính là Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa, chính là tham dự trước vào sự thành công ấy, chính là ngay từ bây giờ làm cho chính nghĩa của con người thành công vì chính nghĩa của con người chỉ là một với chính nghĩa cửa Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Một cách cụ thể, Triều đại của Thiên Chúa chính là "thực thi thánh ý của Thiên Chúa": Nguyện "Nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới đất! Và thánh ý của Thiên Chúa, chính là điều tốt lành trọn vẹn của con người: sự chữa trị các bệnh tật thực sự hư hỏng tính toàn vẹn của con người) là một dấu chỉ của thánh ý ấy: "Anh em hãy cứu chữa con người? " Triều đại của Thiên Chúa ở đó, rất gần!
Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin gửi trả lại các ông. 'Tuy nhiên các ông phải biết điều này. Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. "Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy thành Xơđom còn được xử khoan hồng hơn thành đó".
Rõ ràng Đức Giêsu đắ đối diện với các thất bại, các sự khước từ không tin... Nhưng sự báo trước chính nghĩa của Thiên Chúa phải thành công (cũng là sự thành tựu của chính nghĩa con người?) vẫn tồn tại; dù các ông, có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, và đó là Ngày Phán Xét... dĩ nhiên, các ông là những người cố tình và ngoan cố chối từ, các ông sẽ ở lại bên ngoài sự thành công ấy mà lẽ ra làm sự thành công của các ông.
Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: “Thưa Thầy nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. Đức Giêsu bảo các ông: “Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Nhóm Bảy Mươi Hai đầu tiên không chỉ có thất bại công việc tông đồ của họ đã thành công: những quyền lực của sự ác đã lùi ' bước. Đó là một nỗi vui mừng Đức Giêsu làm giảm nhẹ chủ nghĩa đắc thắng có hơi ngây thơ và rất tự nhiên của họ: anh em hãy thán phục, phải! Nhưng nhất là hãy tạ ơn, hãy đi vào nội tâm! Niềm vui chủ yếu là được tham dự vào Thiên quốc, và đã tham dự rồi.
---------------------------------------
Lc 10,1-2.17-20
Anh chị em thân mến.
Trong thời buổi kinh tế thị trường, tất cả mọi mặt hàng đều phải có chất lượng, nếu muốn được: TN 14-C57
Trong thời buổi kinh tế thị trường, tất cả mọi mặt hàng đều phải có chất lượng, nếu muốn được đứng vững. Chúng ta nhìn thấy có rất nhiều nhóm người, họ mặc đồng phục, trên nón và trên áo có ghi tên sản phẩm mà họ mang đi. Đó là những chuyên viên tiếp thị.
Họ đi giới thiệu sản phẩm. Không biết sản phẩm họ giới thiệu như thế nào, mọi người đều chưa biết. Nhưng trước tiên, những con người này phải có một phong cách cho xứng đáng, thì sản phẩm của họ mới được nhiều người biết đến. Thế mà cũng có những người lừa đão. Họ cũng giới thiệu sản phẩm và có trúng thưởng. Rất nhiều người bị sụp vào bẩy, họ phải trả một số tiền, để nhận món hàng cùng với quà trúng thưởng mà cay đắng. Những chuyên viên tiếp thị như thế, chắc không ai muốn nhìn thấy họ thêm lần nào nữa.
Chúa Giêsu nhìn thấy những khách hàng của Ngài đang thiếu thốn, đang khao khát. Ngài sai các chuyên viên tiếp thị của Ngài đến với họ. Các chuyên viên này không giới thiệu mặt hàng để mang mối lợi về kinh tế. Nhưng giới thiệu Nước Trời. Những người được sai đi cũng phải có phong cách của Nước Trời. Họ đến đem sự Bình an cho những khách hàng của họ, đồng thời còn chữa lành những chứng bệnh, những đau khổ của con người. Muốn được như thế trước tiên họ phải co, thì mới có thể cho được. Họ không được mang gì hết, không được tìm những phương thế để bảo vệ cho thân xác. Nhưng mang hành trang của nước trời, đó là sự bình an.
Họ đã thành công, đã tìm được thị trường cho Nước Trời. Họ vui mừng báo tin cho chủ mình. Niềm vui của họ còn được đong đầy thêm vì đã được chắm công để trọng thưởng, không phải như niềm vui chóng qua, nhưng là phần thưởng đời đời cho những người xứng đáng.
" Lúa chính đấy đồng mà thợ gặt thì ít."
Mỗi ngày lời mời gọi càng cấp thiết hơn. Mỗi ngày nhu cầu con người càng cần thiết hơn, càng chờ đợi, càng khao khát nhiều hơn.
Thị trường hôm nay rất cần những chuyên viên tiếp thị cho nước trời. Chúa Giêsu cũng nói với những con người của thời đại mới, những người trong chúng ta:" Lúa chính đầy đồng mà thợ gặt thì ít." Ngài cũng sai chúng ta làm những chuyên viên tiếp thị cho Nước Trời. Chúng ta cũng đã gia nhập, đã lãnh sứ mạng. Mỗi người cũng đã ra đi, đã rao giảng. Có người trở về báo cáo được vui mừng vì kết quả tốt đẹp, nhưng cũng có người không dám nói gì hết, vì đã hoàn toàn thất bại.
Giờ này đây, mỗi người ngồi trước mặt Chúa và báo cáo thành tích của mình đi. Trải qua bao nhiêu năm tháng của đời người, đó là những năm tháng mà Thiên Chúa mời gọi đi rao giảng, đi tiếp thị, giới thiệu Nước Trời cho người khác. Mỗi người một hoàn cảnh, một môi trường khác nhau. Rao giảng tiếp thị không chỉ bằng lời nói suông, nhưng còn bằng cả con người, cả cuộc sống. Cứ nhìn lại xem, những người chung quanh, khi nhìn vào đời sống của chúng ta và họ nhận ra được gì? Họ nhận ra được một Chúa Kitô đang sống, đang hoạt động, đang mời gọi họ, đang phục vu, đang yêu thương tất cả mọi người. Hay họ nhận ra một con người trần thế, với những tiền bạc, với những tham lam, những nóng nãy giận hờn, với những ích kỷ nhỏ nhen, với những mánh khóe mưu mô mà họ không dám đến gần được nếu không muốn bị hại.
Nhìn lại quãng đời đã qua như thế, chúng ta sẽ thấy được báo cáo của mình mang lại niềm vui hay nỗi buồn. Nếu là vui mừng, chúng ta cũng được vui mừng thêm vì tên chúng ta đã được ghi trên trời. Còn nếu chưa hòan thành được trách nhiệm của một chuyên viên tiếp thị cho Nước Trời, thì giờ đây cũng vẫn còn thời gian để chúng ta làm lại, sữa đỗi lại cách giới thiệu, qua việc sữa đỗi cách sống, cho xứng đáng, thích hợp hơn. Có như thế, chúng ta sẽ đạt được niềm vui nước trời.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe mệnh lệnh của Chúa, để hoàn thành trách nhiệm thật tốt trong hoàn cảnh sống và đạt được niềm vui Nước Trời.
---------------------------------------
Lc 10,1-9
Anh chị em thân mến!
Sau một thời gian được ở với Thầy nay các môn đệ được Chúa Giêsu sai đi làm công tác tông đo: TN 14-C58
Sau một thời gian được ở với Thầy nay các môn đệ được Chúa Giêsu sai đi làm công tác tông đồ, loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân mà ưu tiên là dân Israel. Hôm nay thánh Luca ghi lại khung cảnh “xuất quân” của đoàn môn đệ Chúa Giêsu. Qua đoạn Tin mừng Lc 10, 1-9 ta được đọc hôm nay ta học được tính chất của sứ điệp cũng như nội dung của sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ mình loan báo. Chúa Giêsu sai các môn đệ và Ngài cũng sai mỗi người chúng ta cộng tác để cho Nước Chúa được lan rộng. Ta hãy suy niệm để biết phải thực hiện như thế nào và cần loan báo những gì cho triều đại Nước Thiên Chúa.
Trước hết người môn đệ rao giảng tin mừng phải là người được Chúa Giêsu sai đi, đi từ hai người một và vào các thành mà chính Chúa Giêsu sẽ đến. Nhiệm vụ của các môn đệ này là như những nhà tiền trạm, dọn đường để Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng. Nhưng phải đi hai người một và không mang bao bị, túi tiền, giày dép… cho thấy nhiệm vụ này là một nhiệm vụ khẩn thiết phải biết bỏ đi những gì thứ yếu để chọn cái chính yếu là loa n báo Đấng Cứu Thế. Phải đi hai người một vì là người minh chứng nên chứng này phải thật mà thật thì phải có hai người trở lên như quy ước thời ấy. Vả lại việc loan báo tin mừng không phải là việc của cá nhân riêng lẻ mà là việc của cộng đoàn và cũng không phải là độc quyền của riêng ai nhưng phải liên kết với nhiều người khác. Ý thức mình là người được sai đi chứ không phải là chủ nên người môn đệ phải xin chủ ruộng chính là Thiên Chúa cho mình được làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa tức là làm người loan báo tin mừng. Chúa Giêsu còn dạy tỉ mỉ các môn đệ về các vấn đề cơ bản của công tác truyền giáo như “Đừng mang theo bao bị, túi tiền, giầy dép… đừng đi nhà này sang nhà kia…”. Như đã nói sứ điệp nước Thiên Chúa là chính yếu phải làm sao cho sứ điệp ấy được loan báo. Nhưng sứ điệp đó là gì? Sứ điệp đó là Bình An, là Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Nều liên kế với những câu trước ta thấy ChúaGiêsu chính là Bình An, là Triều đại Nước Thiên Chúa đang đến các môn đệ đang mở đường để Chúa Giêsu đến được với mọi người. Chúa Giêsu đang đến với con người, Ngài là Vua Bình An, là Đấng Cứu Độ, ai đón nhận Ngài thì được hưởng sự bình an, được hưởng ơn cứu độ, con ai từ chối Ngài thì đã tự tách mình ra khỏi sự sống ắt hẳn đi đến diệt vong.
Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy sứ mạng loan báo Tin mừng là công việc của chính Thiên Chúa nên muốn là thợ gặt phải cầu xin chủ ruộng để được là thợ gặt. Người loan báo tin mừng phải là người được sai đi nên ta hãy ý thức việc loan báo tin mừng không phải là phát kiến từ cá nhân nhưng là từ Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên thợ gặt của Chúa. Y thức đây là việc của Chúa nên ta hãy biết phó thác trông cậy vào Chúa, và để khi thành công ta không tự hào tự mãn cũng như khi thất bại ta không chán chường buông xuôi. Tất cả là do thánh ý Thiên Chúa, chúng ta là người được Thiên Chúa mời gọi cộng tác.
Được mời gọi theo Đức Kitô, làm công việc của Đức Kitô ta hãy nghe lời Ngài mà trang bị hành trang lên đường thật nhẹ nhàng khiêm tốn. Hãy tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khi Chúa sai chúng ta đi chắc chắn Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta mọi thứ để chúng ta có thể chu toàn sứ mạng quan trọng là chúng ta có biết phó thác hay không. Ngày nay là thời của tiến bộ khoa học, nhưng đòi hỏi của tiền tài vật chất lôi kéo chúng ta và đôi khi làm ta mờ tối đến độ coi đó như là những nhu cầu chính yếu để ta có thể loan báo Tin mừng hiệu quả. Hãy nhớ rằng ta đang loan báo sự gì, loan báo tin mừng của Chúa hay chính bản thân chúng ta. Cái gì là chính yếu Lời Chúa hay tiền tài vật chất.
Người môn đệ của Chúa Giêsu cũng đòi hỏi phải là con người của bình an. Bởi Chúa Giêsu chính là bình an đích thực. Loan báo Chúa Giêsu là loan báo sự bình an, mà có loan báo sự bình an được đòi hỏi người môn đệ phải là người có sự bình an trước tiên. Bình an không chỉ là thư thái, thoải mái mà là Nước Thiên Chúa đang đến, là ơn cứu độ đang đến.
Ước gì ta biết sống khiêm tốn, giản dị để biết phó thác mọi sự cho Chúa.
Ước gì tha nhân nhận được nơi chúng ta sự bình an đích thực khi ta biết sống gắn bó với Chúa.
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta thực hiện được căn tính của mình là đem Tin mừng cho những người xung quanh.
---------------------------------------
Lc 10,1-2.17-20
Giả như có một gia đình hay một cộng đoàn vì lý do nào đó phải sống trong tình trạng bất hoa: TN 14-C59
Giả như có một gia đình hay một cộng đoàn vì lý do nào đó phải sống trong tình trạng bất hoà. Các thành viên chống đối và tìm nhiều cách để hại nhau. Lúc ấy chắc chắn những người trong cuộc không còn sáng suốt nữa. Từ đó họ trở nên những người gây mất bình an cho nhau. Bởi lẽ, họ đang có xung đột nội tâm. Trường hợp như thế rất cần một hay nhiều người ngoài cuộc đến giúp kiến tạo hoà bình.
Con người dường như sống trong bất cứ thời đại nào cũng đều có khuynh hướng gây bất hoà cho nhau. Ngay từ những trang đầu của Bộ Kinh Thánh đã cho thấy ông Ađam đã hớn hở reo lên khi Thiên Chúa dẫn đến cho ông bà Eva: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (St 2, 23). Tuy nhiên, sau khi phạm tội thì ông lại trở mặt với bà. Chúa hiện đến hỏi, ông đã vội vàng đổ lỗi cho bà cách không thương tiếc: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (St 3, 12). Con người trở nên bất hoà nhau kể từ đấy. Vì ghen tỵ mà Cain đã không ngần ngại giết chính em ruột của mình là Abel (St 4, 1-16).
Các Tông đồ theo Chúa Giêsu cũng không tránh khỏi khuynh hướng ấy. Các ông đã tranh giành địa vị lẫn nhau (Mc 10,35 - 40). Càng sống trong tình trạng như vậy chúng ta sẽ càng trở thành những người mất bình an. Hiểu được tình trạng đó nên Thiên Chúa đã dùng mọi cách đem lại bình an cho con người chúng ta. Chính Chúa Giêsu là hiện thân, là sứ giả hoà bình hoàn hảo của Thiên Chúa. Ngày Chúa Giêsu sinh ra các sứ thần đã tung hô: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14).
Chúa Giêsu cũng muốn cho có nhiều người chia sẻ sứ mạng ấy với Người. Vì thế, hôm nay Người chỉ định thêm 72 môn đệ nữa. Con số 72 là con số hoàn hảo theo quan niệm của người Do thái. Nghĩa là Người muốn cho mọi người được hưởng sự bình an. Đồng thời, Người cũng muốn cho mọi người biết đem đến sự bình an cho nhau.
Người ta thường nói: “An cư thì mới lập nghiệp” hay “Người ta không thể cho cái gì họ không có”. Do đó, làm sao chúng ta có thể là sứ giả hoà bình khi trong chính tâm hồn của mình còn sự xung đột. Để tránh sự xung đột ấy Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cũng như cho chúng ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này” và “Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia”. Điều quan trọng là hãy loan báo “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.
Chúng ta đang sống trong thế giới mà phần đông người ta chỉ biết đổ xô nhau tìm kiếm những tiện nghi vật chất đời này. Họ tưởng rằng tiện nghi vật chất đời này sẽ đem lại bình an. Nhưng thật ra tiền bạc vật chất chỉ là phương tiện cho cuộc sống. Nếu chúng ta xem nó như cứu cánh đời mình thì nó chỉ đem lại sự bình an giả tạo. Bởi vì để có nhiều tiền của, người ta có thể bất chấp tất cả. Thậm chí anh chị em ruột cũng sẵn sàng hại nhau.
Chỉ khi nào sống theo Lời Chúa dạy và những chỉ dẫn của Giáo hội chúng ta mới có được bình an đích thực. Khi đó tự nhiên những ý muốn và những cách sống ghen tỵ, ganh ghét, chia rẻ...sẽ tự nhiên biến mất khỏi ta. Và khi ấy chúng ta đang là sứ giả hoà bình đích thực của Thiên Chúa cho những anh chị em xung quanh.
---------------------------------------
Lc 10,1-2.17-20
Cách đây ít lâu, có một cô giáo, sống xa nhà thờ hàng chục cây số, đến gặp tôi, cô nói rằng: TN 14-C60
1. Cách đây ít lâu, có một cô giáo, sống xa nhà thờ hàng chục cây số, đến gặp tôi, cô nói rằng: “Thưa cha, có một số con em của gia đình Công giáo gần chỗ con ở, đến tuổi học giáo lý rước lễ, thêm sức rồi mà không có điều kiện đến nhà thờ để học giáo lý dịp hè nầy. Con có thể tìm cách giúp cho các em nầy được hay không ?”. Tôi biết cô nầy có khả năng dạy giáo lý, nên tôi nói với cô rằng, việc đó quá tốt, tôi hoàn toàn ủng hộ cô.
Có rất nhiều Kitô hữu tuy không sống trong bậc tu trì nhưng rất tích cực trong việc loan báo Tin Mừng, những người nầy cách nào đó đã hiểu được lời dạy về việc truyền giáo của Đức Kitô. Như trong đoạn Tin Mừng được chọn đọc Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu không những chọn và sai nhóm Mười Hai mà còn chọn và sai 72 môn đệ làm việc tông đồ nữa. Điều này cho thấy Chúa muốn mọi tín hữu đều phải tham gia vào việc tông đồ. Bởi con số 72 ở đây không những tượng trưng cho số nhiều mà còn mang tính toàn thể, số 72 đây là số các dân tộc của loài người mà sách Sáng thế chương 10 đã đề cập đến.
2. Lời mời gọi truyền giáo của Đức Giêsu vẫn như đang gởi đến với mỗi chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Thật vậy, sau 2.000 năm Tin Mừng được rao truyền, ta thấy khắp nơi có bóng thánh giá, đó là điều đáng mừng. Thế nhưng chúng ta nghĩ gì khi số người tin vào Chúa mới khoảng 2 tỉ, trong khi đó khoảng hai phần ba nhân loại còn lại chưa biết Chúa!? Còn tại Việt Nam chúng ta, số người tin vào Chúa chỉ khoảng mười phần trăm! Có nơi cả huyện chỉ có một ngôi nhà thờ Công giáo, dĩ nhiên do nhiều nguyên nhân! Nhưng dầu sao cũng làm cho chúng ta suy nghĩ cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ chăm sóc, gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn dày đặc của bóng tối, sự dữ… rất cần ánh sáng của Tin Mừng soi dọi. Cho nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
3. Đức Giêsu đã ra đi loan báo Tin Mừng Nước Trời, người cũng sai các môn đệ phải ra đi. Thánh Phaolô đã từng thốt lên rằng: Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm, khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng (x.1Cr 9,16)! Công đồng Vaticanô II cũng đã khẳng định:“Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (Ad Gentes 2). Cuộc sống con người đa dạng, phong phú thì việc truyền giáo cũng có thể thực hiện bằng nhiều phương cách, chẳng hạn như:
- Có thể đó bằng phương cách dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ mà trong những tháng hè nầy như là mùa thu hoạch ơn gọi qua những lễ khấn dòng, truyền chức mà chúng ta tham dự.
- Có thể đó là cộng tác với các linh mục, tu sĩ. Bởi có những họ đạo có đến hàng trăm em học sinh giáo lý, nếu không có các giáo lý viên cộng tác, thì làm sao các linh mục có thể giúp cho các em học tốt được! Có thể cộng tác bằng việc giúp đỡ tài chính cho việc truyền giáo nữa.
- Có thể đó là việc hy sinh của các giáo lý viên đến tận gia đình những người muốn học để chia sẻ niềm tin, do họ rất xa nhà thờ nhưng không có điều kiện đến để học giáo lý.
- Có thể là chia sẻ, dạy về Chúa cho những người gần gũi, con em ngay trong gia đình mình. Bởi không phải nơi nào giáo dân muốn tụ họp lại để học giáo lý, đọc kinh thì có thể thực hiện được cách dễ dàng. Thật vậy, có những nơi muốn phục hồi lại nơi thờ tự bị chiến tranh tàn phá thì không đơn giản gì và rất nhiều nơi lẽ ra phải có nhà thờ thì không dễ gì thực hiện được! Tôi được biết có gia đình ở cách nhà thờ gần nhất là trên 20 cây số. Nơi linh mục tới lui không phải thuận lợi, nhưng các thành viên trong gia đình nầy vẫn giữ vững đức tin, qua hàng chục năm như thế, do đâu ? Thưa do người cha của gia đình nầy hằng ngày cùng với con mình đọc kinh hôm, kinh mai, kể những câu chuyện về Đức Giêsu cho con cháu mình nghe.
4. Một phương thức rao giảng Tin Mừng rất hữu hiệu đó là dấn thân phục vụ xã hội theo tinh thần công bình, bác ái của Đức Kitô. Đây là phương cách mà Kitô hữu nào cũng có thể thực hiện được nơi môi trường mình sống, mình làm việc. Xã hội xem ra đang phát triển, nhưng nhìn kỹ lại đang tụt dốc về nhiều phương diện, nhất là về đạo đức, một thực tế không ai chối cãi được. Cho nên hơn bao giờ hết Tin Mừng của Chúa cần phải được rao giảng, nhất là bằng đời sống chứng nhân. Người ta thường nói: “lời nói lung lay, việc lành lôi kéo”.
Trước những điều xấu trong xã hội, chúng ta thường làm thinh bỏ qua hay phàn nàn, trách móc. Hãy chọn phương cách tích cực hơn, như một danh nhân đã nói:“Thà đốt lên một ngọn nến tuy nhỏ, nhưng hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng đêm”. Thật vậy, trước cảnh gian lận trong cuộc sống, một đời sống ngay lành của người Kitô hữu quả là một ngọn nến. Trước cuộc sống buông thả của các thanh niên nam nữ, một đời sống trong sạch của các Kitô hữu không là một ngọn nến sao? Trước lời thô lỗ, tục tằn của các bạn trẻ, một lời nói thanh tao của ta quả là một ngọn nến… Như các ngọn hải đăng không ồn ào mà chúng chỉ lặng lẽ chiếu sáng, nhưng ánh sáng của nó thật hữu ích. Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu cũng thế.
5. Như người thợ làm việc tích cực, đúng cách, bao giờ cũng mang lại hiệu quả tốt đẹp; cũng vậy, chắc chắn những hy sinh, cố gắng của chúng ta trong việc truyền giáo theo ý Chúa cũng sẽ mang lại hiệu quả. Điều nầy làm chúng ta vui mừng, nhưng đáng vui mừng hơn đó là tên của chúng ta được ghi trên trời (x. Lc 10,20), hay nói cách khác, phần thưởng cách xứng hợp mà Thiên Chúa sẽ tặng ban cho những ai tích cực làm tông đồ Ngài.
---------------------------------------
Lc 10,1-2.17-20
“Không có vị tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình..” (Lc 3, 24)
Bài TM hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi loan báo TM về Nước Thiên Chúa: TN 14-C61
Bài TM hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi loan báo TM về Nước Thiên Chúa. Trước khi sai đi, Chúa ân cần dạy dổ họ nhiều điều… Và rồi, họ đã ra đi và trở về trong hân hoan, tường thuật lại kết quả họ làm được…Câu chuyện về việc ra đi truyền giáo của Đức Cha Lambert de la Motte, GM tông tòa đầu tiên của địa phận Đàng Trong VN (từ sông Gianh trở vào Nam), là điển hình của câu chuyện TM Chúa sai các môn đệ ra đi hôm nay….Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Có mấy điểm chúng ta sẽ theo dỏi tìm hiểu hôm nay:
* Phúc âm ghi (Lc c.1-3): Chúa sai 72 môn đệ khác, ngoài nhóm 12: “ Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít…Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói.” Chúa Giêsu đã có chủ ý chọn các môn đệ, dạy dổ họ rồi sai họ đi. Đây không phải là việc tình cờ… Năm 1659, Tòa thánh đặt Cha Lambert de la Motte làm GM tông tòa đầu tiên địa phận Đàng Trong. Trước đó đã có các nhà truyền giáo đến xứ này, nhưng chưa chính thức. Xưa Chúa sai các môn đệ ra đi như chiên giữa bầy sói, nay Tòa thánh cũng sai Đức Cha Lambert và các Lm đến VN đầy gian nan thử thách. Dự định đi tàu, tàu vỡ; đành phải đi bộ. Bệnh hoạn giữa đường tưởng mạng vong. Ngài đến đất Thái Lan vẫn chưa yên, còn bị người Bồ Đào Nha đòi bắt và trục xuất (vì lúc đó Tòa thánh muốn thoát khỏi quyền bảo hộ của nhà vua Bồ). Ngài còn bị viên quan trấn thủ Nha Ru đầu độc, vì ông này theo người Bồ, suýt chết, phải hơn tháng mới khỏi bệnh…
* Lc c.4: Chúa nói: các con đừng mang túi tiền, bao bị, dày dép: Chúa dạy hãy tin cậy vào Chúa, đừng tin và cũng đừng lo cho bản thân… Những năm đầu tiên trên đất truyền giáo, Đức Cha Lambert và các vị thừa sai đã thảo luận và soạn “huấn thị cho người tông đồ”. Ngài sẽ gởi về tòa thánh xin phép cho họ thực hành bộ luật này. Ngày nay khi đọc lại bộ luật đó, người ta sẽ rất ngạc nhiên vì tính nghiêm túc và khắc khổ của nó. Ngoài việc tuân giữ bình thường của giới tu sĩ, các ngài còn tự nguyện hãm mình phạt xác để cho kết quả truyền giáo lên cao như: cấm ăn thịt và uống rượu – ăn chay cả tuần trừ chúa nhật và lễ nghỉ– ngủ nghỉ đơn giản – nguyện ngắm lâu giờ trong ngày. Cuối cùng Tòa thánh không chấp nhận những luật lệ gắt gao này như: ăn chay trường kỳ và cấm tuyệt đối không ăn thịt… Dù vậy khi biết ý của Tòa thánh, Đức Cha là người vâng lời Tòa thánh trước tiên và sốt sắng nữa.
* Lc c.5.9: Chúa nói: khi vào nhà nào, hãy chúc lành cho họ…hãy chữa những ai đau yếu và nói với mọi người: Nước Thiên Chúa đã đến gần… điều bận tâm cả đời của Đức Cha Lambert, dù ngài là một ông tây, một Giám mục, là xem coi giáo đoàn ngài có trách nhiệm phát triển đến đâu. Đi đến đâu, ngài đều được mọi người yêu mến, yêu mến vì lòng đạo đức, đơn sơ và khiêm tốn của ngài. Ngài ăn uống đạm bạc, ăn ít, không bao giờ uống rượu. Dù rất ghét ăn thịt, nhưng khi biết ý chỉ của Tòa thánh và hội Thừa sai Paris , ngài vâng lời cho dọn thịt lên bàn ăn ngay. Lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo, bệnh tật không biên giới. Cứ ba tuần, ngài cử người đi thăm các tù nhân, giúp đở tiền bạc rộng rải cho họ. Vì quá lo lắng cho công cuộc truyền giáo, ngài rất bận tâm đào tạo hàng giáo sĩ, thày giàng, thành lập dòng MTG thuộc quyền địa phận. Cuộc đời truyền giáo của ngài xem ra cũng được Chúa thưởng công bằng một số việc lạ như: chữa cho hoàng đệ của vua Xiêm khỏi liệt một phần– trừ quỷ cho một cô gái – cứu sống một hài nhi coi như đã chết – và sau khi chết còn chữa cho một anh thanh niên mù 8 năm được sáng mắt…
b. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu đã nói với các mộn đệ được sai đi: đừng vui mừng vì ma quỉ bị khuất phục, nhưng hãy vui mừng vì tên của anh em được ghi trên trời. Đức Cha Lambert chắc chắn đã vui mừng như lời Chúa Giêsu nói. Còn phần chúng ta, vui mừng cách nào đây?
---------------------------------------
Chúa Muốn Cứu Độ Mọi Người
(Isaia 66,10-14c; Galát 6,14-18; Luca 10,1-12.17-20)
Phúc Âm: Lc 10, 1-9 {hoặc Lc 1-12. 17-20}
"Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy".
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi'.
{"Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Bảy mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".}
Suy Niệm:
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy đòi hỏi tổng quát quyết liệt của ơn gọi tông đồ nói riêng: TN 14-C62
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy đòi hỏi tổng quát quyết liệt của ơn gọi tông đồ nói riêng và ơn gọi Kitô hữu nói chung. Mọi người muốn theo Chúa đều phải từ bỏ bản thân, dứt khoát với nếp sống cũ kỹ của con người xác thịt và thế gian. Hôm nay bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa sai những con người từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, và cánh đồng truyền giáo. Người sai họ đi khắp nơi, làm công việc cứu thế. Người bảo đảm thành công cho họ. Vì kế hoạch cứu thế làm cho cả nhân loại được hạnh phúc là điều Chúa đã hứa ban ngay từ thuở ban đầu, như bài sách Isaia hôm nay loan báo. Tuy nhiên các tông đồ và tín hữu của Chúa phải bắt chước Phaolô trong bài thư hôm nay, trung thành yêu mến mầu nhiệm thánh giá Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy xem Chúa dự định cứu nhân loại thế nào? Người thi hành việc ấy làm sao? Và chúng ta sẽ góp phần gì vào công việc cứu thế này?
1. Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi Người
Bài sách Isaia có giá trị cho mọi thời vì nói lên kế hoạch cứu độ trước sau như một của Thiên Chúa. Ðoạn sách ấy trích trong phần thứ ba, hay quyển thứ ba sách Isaia, nói về thời sau lưu đày.
Chúng ta biết dân Chúa ngày xưa phải lưu đày sang Babylon trên dưới 40 năm. Nhiều người đã chán nản, nghĩ rằng chẳng bao giờ khôi phục được Giêrusalem nữa. Nhưng một số ít người đạo đức, thuộc thành phần khó nghèo, vẫn tin tưởng vào Chúa là Ðấng trung tín sẽ giữ lời giao ước. Chính Người sẽ ra tay cứu dân và đưa họ về quê cha đất tổ mặc dầu họ không xứng đáng. Niềm tin ấy đã không phải hổ ngươi, vì quả thật khi Hoàng đế Cyrô lên ngôi, ông đã ban phép và khuyến khích những ai yêu mến Giêrusalem hãy trở về xây dựng lại đền thờ.
Ðó là niềm vui bất ngờ. Người ta kéo nhau về hân hoan như được sống lại. Công cuộc tái thiết bắt đầu rất hăng say. Nhưng chẳng bao lâu mây đen đã kéo đến chân trời. Các khó khăn liên tiếp và dồn dập xảy ra. Do các mối bất hòa đến từ tứ phía, các cánh tay đang tái thiết bỗng rã rời và chỉ muốn buông xuống. Chính lúc ấy tiếng tiên tri lại vang lên, an ủi khuyến khích và phấn chấn lòng người. Người của Chúa không đưa ra những luận lý mới mẻ. Ông không tự ý hứa hẹn những điều hão huyền. Là phát ngôn viên trung thành của Thiên Chúa, ông chỉ lặp lại, nhắc nhở kế hoạch cứu độ ngàn đời của Người. Ông hô: hỡi những ai yêu mến Giêrusalem hãy hân hoan lên vì nó; hỡi những ai đã có lần khóc lóc với nó (trong cảnh cùng quẫn), hãy với nó phấn khởi lên vì Chúa sẽ đem hòa bình đến cho Giêrusalem: nó sẽ trở nên trù phú: mọi dân sẽ tuốn đến uống sữa no nê của nó vì chính Chúa sẽ bồng bế mọi người ở Giêrusalem để hết thảy sẽ được hồi sinh và tươi mát.
Ngày nay chúng ta dễ hiểu những lời tiên tri này. Ðây không phải là những lời hy hữu, lẻ loi, nhưng chỉ diễn tả đề tài cố hữu và chính yếu của mạc khải. Ngay từ thời Abraham, Thiên Chúa đã hứa cho ông được dòng dõi đông đúc và hạnh phúc. Dòng dõi này sẽ bao trùm mọi sắc dân. Với Môsê Chúa đã tái xác nhận như vậy. Các tiên tri không làm gì hơn là giúp người Do Thái biết hiểu giao ước và lời hứa theo ánh sáng siêu nhiên và phổ quát hơn. Bài sách Isaia hôm nay nằm trong viễn tượng và cố gắng ấy. Tội nghiệp cho những ai không tin rằng: Lời Chúa sẽ được thực hiện. Nhưng cũng tội nghiệp không kém cho những kẻ chỉ hiểu Lời Chúa hứa theo ý nghĩa xác thịt và thế gian.
Giêrusalem của lời hứa không phải đô thị ở trên mảnh đất Do Thái. Thái độ này chỉ là hình ảnh và điểm tựa để Thiên Chúa nói đến Nước ân sủng của Chúa Cứu Thế, nơi Người sẽ tập họp hết mọi người được cứu độ. Chính Ðức Giêsu đã bảo: cứ phá Giêrusalem vật chất đi, Người sẽ xây lại nó trong ba ngày. Người muốn nói thân thể phục sinh của Người và mọi dân được cứu độ. Ở đó, nơi thân thể có cạnh sườn mở ra của Người sẽ có dòng nước Thánh Thần chảy theo dòng máu hy sinh của Người để làm cho mọi người được no nê, hồi sinh và tươi mát. Thiên Chúa sẽ yêu dấu chúng ta nơi Ðức Giêsu Kitô, người con chí ái của Người.
Lời sách Isaia hôm nay, cuối cùng là như vậy. Nó là sứ điệp Tin Mừng Thiên Chúa gửi đến cho mọi người ở mọi thời, tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời hứa ấy trong một hoàn cảnh đen tối của lịch sử dân Chúa để gây tin tưởng nơi lòng mọi người. Hôm nay và hằng ngày trong cuộc sống, đặc biệt trong những lúc bi đát và nao núng niềm tin, Lời Chúa vẫn còn đó để nhắc nhở chúng ta. Người là Ðấng trung thành đã hứa thì sẽ giữ mọi điều của kế hoạch yêu thương cứu độ. Tất cả chỉ còn tùy nơi chúng ta có muốn tin hay không?
Thực ra chúng ta có điều kiện để dễ tin hơn các thế hệ ngày trước. Bởi vì từ ngày có lời tiên tri trong sách Isaia, đã có biết bao nhiêu biến cố lịch sử chứng tỏ Thiên Chúa hằng trung thành thực hiện dần dần kế hoạch cứu độ của Người.
Ðặc biệt đã có cuộc đời và sự nghiệp của Ðức Giêsu mà đoạn sách Luca hôm nay còn nhắc lại một trong rất nhiều biến cố rất ý nghĩa.
2. Chúa Muốn Các Dân Tộc Ðược Cứu Vớt
Nếu thực sự được phép nối liền hai bài Tin Mừng của Chúa nhật trước và Chúa nhật này, chúng ta thấy đoạn văn hôm nay thổi lên một luồng gió phấn khởi. Chúa nhật trước, bài sách Luca nói đến thái độ của dân Samari chặn đứng cuộc hành trình của Ðức Giêsu khiến hai môn đệ tức giận chỉ muốn xin lửa từ trời xuống đốt dân thành ấy. Hôm nay, Ðức Giêsu và các môn đệ của Người như đang đứng trước toàn những đô thị dân ngoại. Nhưng Người giơ tay trỏ cho họ thấy kìa mùa gặt rất phong phú. Nhưng sao ít thợ gặt thế! Hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa chín của Người. Và Ðức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi giảng đạo trong mọi đô thị và xóm làng mà Người sẽ đến.
Tác giả Luca đã có nhiều ý kiến khi thuật lại câu chuyện này. Ông nói đến 72 môn đệ chứ không phải chỉ 12 tông đồ được sai đi. Ông nghĩ đến các thế hệ tông đồ sau này sẽ được gởi đến mọi nơi trên mặt đất sao? Hay ông nghĩ đến các người đi giảng đạo ở thời ông mà không phải là đoàn 12. Rất có thể là ông đã theo gương tác giả sách Khởi nguyên đoạn 10, tính tổng số các dân ngoại là 72 do 3 người con của ông Noe sinh sản ra. Dù sao ngụ ý của tác giả ở đây là muốn cho việc truyền giáo các dân ngoại được phát xuất và khởi sự ngay từ Ðức Giêsu. Chính Người đã sai môn đệ đi tới hết mọi dân tộc và mọi nơi chốn mà Người (tức là ơn cứu độ của Người) sẽ đi đến. Bởi vì với việc đi lên Giêrusalem chịu chết và sống lại của Người, cả thế giới đã trở thành như ruộng lúa chín vàng đang chờ thợ gặt.
Hình ảnh này, các sách Kinh Thánh vẫn dùng để gợi lên mùa cứu độ cũng như mùa xét xử. Ðức Giêsu đến là để nhiều người được chỗi dậy và nhiều kẻ bị hư đi, như lời Simêon tiên báo. Người mang tin mừng và Ơn cứu độ trải ra khắp địa cầu như người ta thả lưới để kéo vào và lượm ra các thứ cá. Việc rao giảng Nước Trời cũng giống như mùa gặt để thu lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt đi. Không dân tộc nào ngăn chặn được ảnh hưởng của công cuộc truyền giáo vì tiếng các ngôn sứ đã vang cùng thế giới. Kế hoạch đem mọi dân tộc vào hạnh phúc đã được hứa cho Abraham mà bài sách Isaia hôm nay cho thấy hằng được rao giảng qua mọi thế hệ, kế hoạch ấy đang thực hiện trước mắt các môn đệ của Chúa Giêsu.
Và họ được sai đi làm công việc ấy với những chỉ thị rõ ràng. Người bảo họ: hãy đi, này Ta sai các ngươi như chiên đi vào giữa sói. Câu nói này có thể hiểu theo nghĩa các tông đồ được sai đi làm một công việc khó khăn, nguy hiểm. Nhưng đúng hơn nên nhớ lại văn chương của Kinh Thánh thường so sánh dân ngoại như chiên với sói, để hiểu câu văn này chỉ có ý nói đến mệnh lệnh truyền giáo đi vào dân ngoại.
Chúa bảo các môn đệ đừng mang theo tiền nong, bao bị, giày dép và đừng chào hỏi những người qua đường vì Người muốn họ phải lanh lẹ, nhẹ nhõm đi lo việc Chúa. Tâm hồn họ chỉ để vào việc truyền giáo, nên vào nhà nào, họ phải nói ngay: Bình an cho nhà ấy. Ðó là lời chúc cổ điển của Kinh Thánh, lời bao gồm tất cả niềm tin ở giao ước. Muốn cho ai được bình an theo nghĩa đó, là muốn cho họ nhận được ân phúc mà Thiên Chúa đã từng hứa từ thời Abraham, để họ được ân sủng yêu thương của Người và được cứu độ, khiến họ không còn thiếu gì khác nữa. Với lời chào bình an, người tông đồ mang đến cho người ta kho tàng cứu độ và lời hứa trung tín của Thiên Chúa như bài Isaia trên kia đã cho chúng ta thấy. Việc được như vậy hay không là tùy thái độ của từng người. Còn người tông đồ cứ ở lại đó, tiếp tục rao giảng cho người ta về Nước Trời và chữa bệnh tật cho người đau yếu để làm chứng ơn cứu độ đã đến cho người ấy. Và người tông đồ luôn luôn chỉ quan tâm đến phận sự rao giảng, không chút mảy may để ý đến cách thức người ta cho mình ăn uống thế nào. Và nhất là không được nay ở nhà này mai đổi sang nhà khác để được tiếp đãi no đủ hơn.
Có thể có những tông đồ bị hắt hủi. Nhưng Chúa sẽ phán xét thái độ của người ta. Người tông đồ không nao núng, cứ rao giảng Nước Trời. Tuy nhiên, tác giả Luca không muốn chấm dứt bài tường thuật với giả thiết ít lạc quan ấy. Người nhìn thấy chung cuộc việc truyền giáo cho các dân ngoại rất kết quả. Người kể cho chúng ta ngày các tông đồ trở về hân hoan vì thấy ảnh hưởng của thần dữ đã bớt đi trên thế gian và Ðức Giêsu đã nhìn thấy Satan đã lao mình xuống khỏi trời như một tia chớp. Những tư tưởng này làm chứng rồi ra kế hoạch của Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Mọi dân tộc sẽ được cứu vớt. Bình an và phúc lành của Thiên Chúa hứa cho loài người sẽ đánh tan ảnh hưởng xấu xa của Satan và tên các tông đồ sẽ được ghi ở trên trời.
Như vậy bài Tin Mừng hôm nay đã thực hiện lời tiên tri trong sách Isaia. Chúng ta được chỉ dẫn cho thấy kế hoạch cứu độ ngàn đời của Thiên Chúa đang thực hiện qua Giêrusalem mới là Hội Thánh với đoàn tông đồ đông đảo đang được sai đi đến các dân tộc để nhân danh Ðức Giêsu đem phúc bình an đến cho mọi người. Chúng ta để ý đến chương trình cứu độ chắc chắn đầy thành quả của Thiên Chúa; nhưng cũng không nên quên các yêu sách của chương trình này mà tác giả Luca đã một phần nào gợi lên khi đưa ra các chỉ thị truyền giáo. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đã tóm tắt các yêu sách lại trong một quan niệm: hãy mang lấy các đau khổ của Ðức Giêsu Kitô.
3. Miễn Là Chúng Ta Sống Mầu Nhiệm Thánh Giá
Chắc chắn là không ai bằng thánh Phaolô có khả năng nói với chúng ta về kinh nghiệm truyền giáo. Người đã mở đường và đi tiên phong trong việc đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Kế hoạch cứu độ các dân tộc của Chúa nhờ Người đã đem lại những kết quả cụ thể. Và bài thư hôm nay là những lời tâm huyết của Người, viết ở cuối bức thư gửi người Galát. Chính tay Người thảo ra những dòng chữ "lớn lao" này để khẳng định một lần cuối cùng rằng: muốn cho các dân tộc được cứu độ, phải cư xử theo thánh giá Chúa Kitô. Người nói như vậy vì Người thấy có nhiều kẻ muốn làm tông đồ và rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa nhưng lại dùng đường lối không phù hợp với thánh giá. Họ sợ gặp khó khăn khi thi hành việc giảng đạo, nên tuyên bố tín hữu phải cắt bì để lấy lòng người Do Thái và để hạng người này không phá rối việc giảng đạo của họ. Nhưng như vậy còn nói đến Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô làm gì nữa? Chính Người đã đến để giải thoát người ta ra khỏi luật pháp Do Thái cũng như mọi luật tôn giáo khác để mọi người từ nay được cứu độ nhờ Niềm Tin. Thế mà bây giờ có những tông đồ còn bảo tín hữu phải chịu cắt bì! Không, họ không phải là tông đồ đâu. Họ không rao giảng ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban. Thế thì họ giảng đạo làm gì, nếu chẳng phải nguyên để được vinh dự và tiếng tăm!
Không, không ai được gọi là tông đồ nếu không được sai đi. Và người được sai đi phải thấy việc rao giảng Tin Mừng là một sứ mệnh đè xuống trên vai mình và bắt mình phải hy sinh chứ không phải để được tiếng tăm và vinh dự. Người tông đồ chân chính không những phải rao giảng niềm tin vào mầu nhiệm Thánh giá, mà hơn nữa còn phải nên như thập giá sống động ở trước mặt mọi người. Họ phải nói như Phaolô: Tôi không lấy gì làm vinh dự, ngoài Thánh giá Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó thế gian đã bị đóng đinh cho tôi và tôi cho thế gian. Chỉ những ai cư xử như vậy mới được bình an và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ tông đồ nào như thế mới đem lại bình an và thương xót của Chúa cho các dân tộc và cho mọi người. Tất cả chúng ta muốn sống đạo và truyền đạo phải lấy đó làm nguyên tắc hành động. Mỗi người phải suy nghĩ và diễn tả nguyên tắc mang Thánh giá Ðức Giêsu Kitô ra trong đời sống. Ai mang trong thân mình những vết hằn (tức là những dấu vết) của Thánh giá như Phaolô, mới là tín hữu và tông đồ chân chính.
Nhưng ai trong chúng ta lại đã không được ghi dấu thánh giá? Không những từ ngày chịu phép rửa tội, mà hằng ngày không biết bao lần chúng ta được ghi dấu thánh ấy? Chỉ còn phải hỏi đời sống và hành động của chúng ta có phù hợp với thánh giá hay không? Thánh lễ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá một cách đặc biệt. Chúng ta cố gắng tham dự thánh lễ tốt. Nhưng chúng ta còn phải quyết tâm hơn nữa đưa tinh thần mầu nhiệm thánh giá nơi bàn thờ đây vào trong đời sống. Chỉ khi nào chúng ta thi hành tinh thần ấy, ơn cứu độ mới được ban cho chúng ta và đời sống của chúng ta mới mang ơn cứu độ đến cho người khác. Chương trình và kế hoạch cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa mới thực sự được thi hành cho chúng ta và nhờ chúng ta cho mọi người.
Đức Cố Giám Mục Barthôlômêo Nguyễn Sơn Lâm
---------------------------------------
8-7-2001
Lời Chúa hôm nay đặt chúng ta đối diện với những trạng huống khác biệt của những: TN 14-C63
Lời Chúa hôm nay đặt chúng ta đối diện với những trạng huống khác biệt của những con người thật khác nhau: đây là dân chúng thành Giêrusalem trong một thành đô bị nghiền nát sau bao cuộc chiến tranh xâm lược, kia là những môn đệ Đức Giêsu sau những thành công rực rỡ của những ngày công tác truyền giáo, và rồi còn hình ảnh một Phaolô trước một giáo đoàn bị xâu xé bởi bao nhiêu tệ đoan xâm nhập... ở trong mọi cảnh vực, mọi hành trạng của con người đều có những thái quá và bất cập. Điều ấy vẫn là một hiện thực cho con người thời đại hôm nay.
Ở đất nước Việt Nam, luôn bị dày xéo bởi thiên tai (chính lúc này, dân chúng Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng đang bị lũ lụt cuốn trôi ruộng vườn, nhà cửa... và miền đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long đang nơm nớp vì mức thủy văn đang lên trên mức báo động 3...), bởi nền kinh tế mong manh vì chính sách toàn cầu: mọi nông sản đều mất giá thảm thương, thêm vào đó tình hình xã hội luôn bị hụt hẫng bởi tài nguyên và tài sản chấp cánh bay vào cõi "u minh", con người thường than vắn thở dài không tránh khỏi tâm trạng thất vọng và chán chường.
Ở đất nước Hoa Kỳ, những tiến bộ văn minh kỹ thuật, những ngân hàng dự trữ liên bang nhiều thặng dư, thậm chí người ta phải hồi lại thuế cho dân... nhưng cuộc sống cũng cạnh tranh, bon chen vất vả. Gần đây thị trường tài chánh xuống dốc thê thảm, biết bao người đã rơi vào tình trạng phá sản, nhiều công ty hàng đầu cũng bị cơn sốt tài chánh vật vã đưa đến tình trạng hàng ngàn công nhân bị sa thải...
Nếu nhìn vào những vùng đỏ lửa: Đông Âu, Nam Á, Phi Châu, thì con người quả thật đang là những tế vật của bao thứ tham vọng và quyền lực.
Tuy thế, ở giữa thành đô Hà Nội, người ta vẫn thấy khắp phố phường những quán nhậu, những nơi vui chơi giải trí sầm uất... ở đó, dường như con người đạt tới một sự phú túc đáng kinh ngạc. Nói gì ở những trời Âu Mỹ, với nền văn minh tiêu thụ, con người luôn cảm thấy thoải mái trong mọi ước vọng của họ.
Nhưng Lời Chúa vượt lên trên mọi cảnh huống cụ thể soi sáng những thái quá và bất cập của con người. Trong mọi hoàn cảnh Lời Chúa đề nghị một cách tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách hoàn toàn mới mẻ. Isaia nói đến Quyền Lực Chúa sẽ đổ xuống cho các tôi tớ Người, Đức Giêsu thì nhắc nhở môn đệ đừng thấy cái trước mắt "ma quỷ bị anh em khuất phục" mà mừng rỡ, vì niềm vui đích thật chỉ đến khi "được ghi danh trên trời", còn Phaolô đúc kết ý nghĩa và cùng đích đời sống con người chính là ở Thánh Giá Đức Giêsu. Tuy bằng những kiểu nói khác nhau, nhưng vẫn chỉ là trong mọi cảnh huống con người chỉ có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn khi đính kết đời mình bằng niềm tin yêu và hy vọng nơi Quyền Năng Thương Xót của Thiên Chúa đã trao ban cho họ trong Đức Giêsu. Trong niềm tin yêu và hy vọng ấy họ là Tạo Thành mới. Điều mà họ đã được kêu gọi tới để làm nên một Thân Thể trong Đức Giêsu. Và họ được Đức Giêsu sai đi để kiến tạo Thân Thể mầu nhiệm Người.
Để chuẩn bị cho họ vào đời, Đức Giêsu ban cho họ nhiều quyền năng, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi họ một cách dứt khoát: có một tương quan hoàn toàn mới mẻ với anh chị em mình. Họ phải trao ban sứ điệp bình an, nhưng đồng thời cũng phải bằng lòng với những gì anh chị em họ trao ban. Và một cách nào đó họ phải giũ lại tất cả để đến với mọi người: người thiện cảm cũng như người không thiện cảm. Và nơi mọi người, họ phải loan báo Nước Thiên Chúa đã gần đến. Trong bối cảnh của Tin Mừng, Nước Thiên Chúa chính là Đức Giêsu. Đây là trọng tâm của mọi ứng xử, mọi nỗ lực của họ. Họ phải biết chuẩn bị để Đức Giêsu có thể đến với anh chị em mình.
Có lẽ mọi người làm tông đồ cần phải nghiêm chỉnh xem lại mọi nỗ lực của mình có sa#n sàng nhường chỗ tốt nhất nơi anh chị em họ cho Đức Giêsu chưa? Đức Giêsu chẳng đã đòi hỏi "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép đó sao ? Một thái độ như thế là căn bản, để họ khỏi chiếm đoạt chỗ của Đức Giêsu nơi mọi người.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
---------------------------------------
Chúa Nhật thứ 14 Thường Niên
(4-7-2004)
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is 66,10-14c: (14) Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết, và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ thù
· Gl 6,14-18: (15) Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới.
· TIN MỪNG: Lc 10,1-12.17-20
Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi giảng
(1) Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. (2) Người bảo các ông:
«Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (3) Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (4) Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. (5) Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: «Bình an cho nhà này!» (6) Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. (7) Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. (8) Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (9) Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: «Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông». (10) Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: (11) «Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần». (12) Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơđôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó».
«Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời»
(17) Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: «Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con». (18) Đức Giêsu bảo các ông: «Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. (19) Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. (20) Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
72 người được Đức Giêsu sai đi trong bài Tin Mừng khác với nhóm 12 ở chỗ nào?: TN 14-C64
1. 72 người được Đức Giêsu sai đi trong bài Tin Mừng khác với nhóm 12 ở chỗ nào? Họ có phải là tông đồ không? tông đồ theo nghĩa nào?
2. Điều quan trọng để trở thành tông đồ đích thực là tinh thần tông đồ hay là danh hiệu tông đồ?
3. Những hành trang nào là thật sự cần thiết cho người tông đồ? Những hành trang ấy thuộc lãnh vực tinh thần hay vật chất?
Suy tư gợi ý:
1. 72 người được sai đi là những tông đồ không chính thức
Bài Tin Mừng cho thấy ngoài 12 tông đồ là những người chính thức được Chúa chọn với chức danh tông đồ chính thức, Ngài còn sai 72 người – tức 36 cặp – đến các thành, các nơi mà Ngài sẽ đến để chuẩn bị cho Ngài. 72 người này chỉ được nói tới hai lần, duy nhất ở đoạn 10 của Tin Mừng Luca mà thôi. Họ là những tông đồ không chính thức như nhóm 12, nhưng vẫn có thể là những tông đồ đích thực. Phải chăng ơn gọi của 72 người này biểu trưng cho ơn gọi tông đồ giáo dân?
Làm tông đồ là bổn phận của mọi Kitô hữu không trừ ai, chứ không phải là bổn phận riêng biệt của các linh mục hay tu sĩ. Mọi Kitô hữu đều được Đức Giêsu sai đi làm tông đồ khi lãnh nhận bí tích rửa tội và thêm sức, và nhất là khi họ cảm thấy tiếng Chúa thôi thúc trong tâm hồn, mời gọi họ làm tông đồ của Ngài. Điều quan trọng để làm tông đồ đích thực là phải có tâm hồn tông đồ chứ không phải chỉ có danh hiệu tông đồ, vì «chiếc áo không làm nên thầy tu». Nghĩa là chính tâm hồn tông đồ làm cho người ta thành tông đồ đích thực chứ không nhất thiết phải là người có chức thánh. Tâm hồn tông đồ chính là lòng yêu thương các linh hồn khiến ta sẵn sàng hy sinh mọi sự cho hạnh phúc vĩnh cửu của mọi người. Người không yêu thương và không sẵn sàng hy sinh cho phần rỗi các linh hồn, thì dù có chức thánh, có là linh mục hay giám mục, thì cũng không phải là những tông đồ đích thực (x. Rm 2,25-29).
2. «Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít»
Nhìn vào nhu cầu loan báo Tin Mừng cho thế giới, Đức Giêsu nhận thấy số người đi loan báo so với số người cần được loan báo quả thật quá ít. Vì thế, điều Ngài yêu cầu là «hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về». Nghĩa là Ngài yêu cầu ta hãy cầu xin Thiên Chúa làm cho số thợ gặt đông lên. Điều lý thú ở đây là Ngài chưa yêu cầu chúng ta làm tông đồ, mà hãy cầu nguyện cho có nhiều tông đồ đã. Khi cầu nguyện như thế, ắt những người cầu nguyện ấy sẽ có nhiều người được ơn Chúa thôi thúc để sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình cho công việc tông đồ.
Thông thường, nói tới việc xin Chúa ban thêm nhiều tông đồ, người Kitô hữu thường nghĩ ngay đến việc xin Chúa ban thêm nhiều linh mục. Thật ra, làm tông đồ không nhất thiết cứ phải là linh mục. Và cũng không phải hễ cứ là linh mục thì sẽ là tông đồ đích thực. Điều chúng ta phải cầu xin là xin Chúa ban cho có những tông đồ đích thực, nghĩa là những «thợ gặt» lành nghề, chịu khó, có tinh thần và lương tâm tông đồ, chứ không phải là những «thợ gặt» lười biếng, thích «chém vè», hưởng thụ, thích ăn trên ngồi trốc, thích được phục vụ hơn là dấn thân phục vụ. Thỉnh thoảng chúng ta hãy để ý nghe trong thâm cung lòng mình xem có khi nào Chúa mời gọi ta làm tông đồ trong môi trường mình sống không? Cho dù chúng ta là giáo dân hay linh mục, Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta làm tông đồ đích thực của Ngài. Một tông đồ đích thực, dù là giáo dân, vẫn rất ích lợi cho Thiên Chúa và Nước Trời của Ngài.
3. «Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói»
Làm tông đồ là phải chấp nhận bị nguy hiểm, bị bạc đãi, bị lâm cảnh «chiên con đi vào giữa bầy sói». Thời Đức Giêsu, sói ở đây có thể là người đồng đạo với mình, có thể là những tư tế, luật sĩ, kinh sư, là những người không thích nghe sự thật, không thích nghe những điều khác hơn những điều họ đã tin, đã biết, nhất là ghét nghe những gì đi ngược lại quyền lợi của họ. Cho dù họ mang danh là theo đạo Chúa, nhưng một khi đã không chấp nhận điều ta rao giảng, họ có thể kết án ta là phản đạo, và sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn có thể rất độc ác để loại trừ ta, cho dù miệng họ vẫn luôn nhiệt thành rao giảng về tình yêu. Chính Đức Giêsu và các tông đồ đã từng là nạn nhân của các tư tế, luật sĩ, kinh sư thời ấy, đến nỗi các Ngài hầu hết đã bị họ giết một cách rất thê thảm.
Số phận của những tông đồ đích thực là như thế. Đức Giêsu đã báo trước số phận của những tông đồ đích thực: «Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em» (Ga 15,20). Chính việc bị bách hại ấy chứng tỏ được ai là tông đồ hay ngôn sứ đích thực: «Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế» (Lc 6,22-23). Trái lại, khi ta được mọi người ưu đãi, thì hãy coi chừng, vì Đức Giêsu đã từng nói: «Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế» (Lc 6,26).
4. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép», hãy trang bị những thứ cần thiết hơn
Đức Giêsu không muốn người làm tông đồ trang bị cho mình quá nhiều vật dụng không cần thiết. Khi làm tông đồ, nhiều người nghĩ rằng phải trang bị cho mình thật nhiều những phương tiện cụ thể. Họ nghĩ: nhờ những phương tiện ấy, việc tông đồ của mình sẽ thuận lợi: vừa đỡ mệt vừa có hiệu quả cao. Chẳng hạn như xe cộ để di chuyển; điện thoại, máy vi tính, internet để thông tin liên lạc, để tìm tài liệu; sách vở, tài liệu, v.v… Thực ra, hành trang vật chất này không quan trọng và cần thiết bằng hành trang tinh thần. Người tông đồ nào đặt quá nặng hành trang vật chất chứng tỏ họ chưa có đủ hành trang tinh thần mà Đức Giêsu đòi hỏi người tông đồ phải có.
Theo Tin Mừng, ta thấy hành trang mà Đức Giêsu đòi hỏi là:
– Lòng yêu mến Thiên Chúa: Khi trao sứ mạng chăn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu đã cẩn thận hỏi Phêrô đến ba lần: «Này Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy (hơn các anh em này) không?» (x. Ga 21,15-17).
– Tình yêu thương tha nhân: Theo quan niệm Đức Giêsu, tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện thành tình yêu thương những người mà ta gặp trên đường đời, đặc biệt những người gần gũi với ta nhất, những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, bị áp bức bất công, không trừ một ai, kể cả những người thù nghịch hay cố tình làm hại ta.
Không có hai thứ tình yêu trên, người tông đồ không phải là tông đồ đích thực, vì họ không thể có động lực trong sáng để làm tông đồ.
– Đức tin mạnh mẽ nơi tình yêu, nơi quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa: Có tin như thế, ta mới có cảm nghiệm đích thực về Thiên Chúa. Có cảm nghiệm về Thiên Chúa, ta mới đủ xác tín vào những lời rao giảng của mình. Và lời rao giảng của ta phát xuất từ cảm nghiệm của bản thân chứ không phải từ những kiến thức ta học được hay nghe được của người khác.
– Tinh thần quên mình, từ bỏ mình, sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì tình yêu: «Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo» (Lc 9,23). Có quên mình thì mới có thể yêu thương được; có sẵn sàng chấp nhận khó khăn và đau khổ mới có thể hy sinh cho tha nhân để thể hiện tình yêu ấy.
– Tinh thần cầu nguyện, kết hiệp với Thiên Chúa: Ta không thể yêu thương, không thể có sức mạnh để cảm hóa… nếu không kết hiệp với Thiên Chúa là nguồn mạch của yêu thương và sức mạnh. Thật vậy, Đức Giêsu nói: «Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5b). Nhưng với Thiên Chúa, ta sẽ làm được tất cả: «Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự» (Pl 4,13), vì «đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37).
– Sau cùng mới là sự hiểu biết thông thái về Thiên Chúa, những kiến thức thần học, sức khỏe tâm lý và thể lý, cùng những phương tiện vật chất. Hãy xem linh mục Gioan Vianney, cha sở họ Ars, tuy rất kém về mặt thông thái, về kiến thức thần học, và có rất ít những phương tiện vật chất, nhưng lại là một tông đồ nổi tiếng về khả năng cải hóa các tâm hồn. Tại sao? Vì ngài có đầy đủ những hành trang tinh thần cần thiết mà Đức Giêsu đòi hỏi người tông đồ phải có.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin Cha ban cho nhân loại thật nhiều tông đồ đích thực, thiện nghệ, có tình yêu thật sự đối với Thiên Chúa và tha nhân, để họ dám hy sinh cho vinh quang của Cha và hạnh phúc của mọi người. Nhờ đó, Nước của Cha sẽ được thực hiện ngay trên trần gian này.
(JK)
---------------------------------------
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN, năm C
Lc 10, 1-12, 17-20
Thế giới thật mênh mông, thênh thang và rộng lớn.Nơi đâu cũng có người, nơi đâu Tin Mừng cũng: TN 14-C65
Thế giới thật mênh mông, thênh thang và rộng lớn.Nơi đâu cũng có người, nơi đâu Tin Mừng cũng cần phải được rao giảng. Thật vậy, cánh đồng truyền giáo lúc nào cũng bao la bát ngát, Chúa Giêsu đã gợi ý cho các môn đệ:” Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít “ ( Lc 10, 2 ). Do đó, lệnh truyền giáo của Chúa quả lúc nào cũng có ý nghĩa:” Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ…mà làm cho nhiều người trở thành môn đệ “…
Đứng trước đồng lúa mênh mông, Chúa Giêsu đã thấy mọi vấn đề khó khăn của việc loan báo Tin Mừng và trách nhiệm, vai trò của những môn đệ của Chúa, nên Ngài đã sai các môn đệ:” anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói “ ( Lc 10, 3 ). Tuy giống như chiên ở giữa sói rừng nghĩa là các môn đệ, các tông đồ sẽ gặp khó khăn, sống bấp bênh, không được đảm bảo:” Không được mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép. Không được lân la, trò chuyện, chào hỏi ai dọc đường “ ( Lc 10, 4b ). Chúa dặn các môn đệ ra đi truyền giáo phải sống hiền lành và siêu thoát. Chúa cho các môn đệ thấy thi hành sứ mạng rao giảng không thể lệ thuộc vào của cải ở trần gian, không bám lấy những gì chóng qua, không phí phạm thời giờ vì những chuyện phù phiếm ở đời, đơn sơ đón nhận sự giúp đỡ của người khác về ăn ở, tôn trọng việc tin hay không tin của kẻ khác, cứ kiên nhẫn chờ đợi, phó thác, cậy trông vào Chúa và sự tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa nói với các môn đệ:” Anh em hãy ra đi “.
Ra đi có nghĩa là không ở lại, không bám víu vào bất cứ sự gì chóng qua, mà ra đi là đi mãi, đi hoài, đi không ngừng và loan báo Tin Mừng cho tới khi không còn hiện diện ở thế giới này nữa. Chúa Giêsu đã làm gương cho các môn đệ vì Ngài được sinh ra ngoài đồng, sống và loan báo Nước Thiên Chúa ngoài đường, không nhà, không cửa, không nơi tựa đầu. Đời của Chúa là một cuộc hành trình không ngừng. Ngài đã làm mọi việc, đã rao giảng và chết ở ngoài đường, ở trên đồi vắng. Chúa Giêsu đã không lên đường và không ngừng ra đi. Chúa dạy các môn đệ và mọi người phải truyền giáo, phải loan báo Tin Mừng, không ai được lẩn trốn trách nhiệm rao giảng Tin Mừng. Từ Chúa Giêsu cho đến ngày nay, dân Chúa đã không ngừng lên đường và ra đi. Hãy nhìn một cách tổng quát cánh đồng thế giới ngày nay: cả nhân loại sống trên mọi nước cho tới giờ phút này đã hơn 7 tỷ người, người tin vào Chúa kể cả Công giáo, Tin lành, Chính thống giáo mới được hơn 1 tỷ. Lục địa Á Châu rất đông dân nhưng tỷ lệ biết Chúa mới được hơn 3%, do đó, việc loan báo Tin Mừng luôn trở nên khẩn thiết, cấp bách.
Người biết Chúa chỉ chiếm 1/7 tỷ lệ dân số thế giới. Lúa chín vàng không có thợ gặt. Thế giới hình như vẫn còn bước đi trong dò dẫm, trong đêm tối âm u của nhiều tranh chấp, hận thù, sự dữ và thế giới này đang cần, thật cần tình thương, cần sự an bình, quảng đại, khoan dung, và tha thứ. Lời của thánh Phanxicô khó khăn:” Đem tình thương vào nơi tranh chấp, đem ủi an đến chốn ưu sầu “ quả thực là lời tình yêu khẩn thiết:” Yêu đến quên mình. Yêu đến chấp nhận cái chết trên thập giá. Yêu mới nói lên lời. Yêu để tha thứ “. Chúa vẫn sai nhân loại, sai con người ra đi đem sự an bình, đem tha thứ. Đi để chữa lành và đi để loan báo rằng Nước Chúa đã gần đến. Hội Thánh qua nhiều thời đại đã không ngừng sai các tông đồ ra đi loan báo Nước Thiên Chúa. Công Đồng Vaticanô II đã nói:” Bản chất Giáo hội là truyền giáo “ và Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nói:”…Không một ai được miễn trừ sứ vụ cao cả này “.Thánh Phaolô xác tín cách thâm sâu:” Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng “ ( 1 Co 9, 16 ).
Lạy chúa Giêsu, xin sai Thánh Thần đến biến đổi tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con can đảm, hiên ngang ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
---------------------------------------
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN, năm C
Lc 10, 1-12.17-20
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sống trong một thời đại mà con người thường dùng tiền, của cải vật chất để đo lường: TN 14-C66
Sống trong một thời đại mà con người thường dùng tiền, của cải vật chất để đo lường mọi sự, để tính lợi thiệt hơn thua, lời Chúa nói trong Tin Mừng của thánh Luca:’ đừng mang ví tiền, giầy dép, bao bị… đừng chào hỏi ai dọc đường” xem ra thực chói tai, gai mắt quá. Chúa muốn các môn đệ của Ngài phải hành động thế nào đây khi Ngài nói:” Đừng mang theo túi tiền”. Người môn đệ Chúa có nghe văng vẳng bên tai lời nói buồn cười, nhưng hết sức thực tế của thế gian:” Tiền là Tiên, là Phật. Tiền làm nổi bật cuộc đời. Tiền là cái đà danh vọng”. Để rao giảng Tin Mừng, để hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó, người môn đệ chỉ cần có nhiệt tình phục vụ và hiểu rõ rằng mình được Chúa sai đến nơi Ngài muốn và Chúa biết mình cần gì và Chúa muốn cái gì nơi mình.
CHÚA MUỐN GÌ NƠI NGƯỜI MÔN ĐỆ:
Những điều Chúa nói:” Đừng mang tiền, giầy dép, bao bị…đừng chào hỏi ai dọc đường” xem ra có vẻ lý thuyết, và lơ lửng trên mây, trên trời, nhưng quả thực nó lại rất hợp với người tông đồ khi họ có tấm lòng nhiệt tình, thiện chí và đức tin son sắt, phó thác nơi Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ phải có tinh thần nghèo khó đích thực. Sự từ bỏ, khước từ mọi của cải vật chất, những tiện nghi ở đời là chọn lựa của Chúa Giêsu và cũng phải là sự lựa chọn của các tông đồ. Chúa Giêsu đã sinh ra trong nghèo khó, lớn lên trong cảnh khó nghèo, chấp nhận cuộc đời rao giảng khó nghèo, chết trần trụi hoàn toàn khó nghèo. Sai các môn đệ đi rao giảng Chúa khuyến dụ các môn đệ hãy sống khó nghèo: ra đi hai bàn tay trắng, ai tiếp đón thì ở lại, ai không tiếp đón thì dũ bụi ra đi. Đây là hình ảnh siêu thoát của người môn đệ Chúa Giêsu. Của cải vật chất là phương tiện để sống nhưng con người phải biết giữ khoảng cách đối với của cải, chứ không được nô lệ của cải. Do đó, người môn đệ phải biết xử dụng của cải để xây dựng những giá trị Nước Thiên Chúa như công bình, bác ái, chia sẻ, quảng đại với người khác. Nghèo đói nhưng vẫn giữ được bàn tay trong trắng không làm điều gian ác, bán rẻ lương tâm và luôn tin cậy vào Chúa. Đó là sự thanh thoát Chúa muốn người môn đệ phải sống và thực hiện trong cuộc đời rao giảng của mình.
SỐNG SIÊU THOÁT SẼ ĐEM LẠI NHỮNG THÀNH QUẢ TỐT ĐẸP:
Các môn đệ của Chúa được Chúa chọn và sai đi đợt trước phục sinh của Ngài là 72 người. Các ông ra đi rao giảng gặp nhiều chống đối, gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công trong những ngày làm việc truyền giáo. Sở dĩ các môn đệ đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp như thế vì khi ra đi với hai bàn tay trắng, các môn đệ không có một thứ khí giới nào khác ngoài sự siêu thoát và vững tin vào quyền năng của Chúa Giêsu, đến nỗi khi các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình khi đi truyền giáo, Chúa Giêsu đã thốt lên:” Ta đã thấy Satan như tia chớp từ trời rơi xuống”. Và Chúa gọi đây là sức mạnh của những kẻ bé mọn.
NGƯỜI KITÔ HỮU CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC NHỮNG ĐIỀU PHI THƯỜNG:
Ở muôn thời, Chúa vẫn kêu mời mọi người ra đi loan báo Tin Mừng với cung cách của các môn đệ xưa. Và người Kitô hữu có thể làm được nhiều điều phi thường, đem lại những thành quả như các môn đệ xưa nếu họ biết trang bị cho mình một niềm tin sâu sắc vào quyền năng của Chúa Giêsu và biết sống siêu thoát, cao thượng như các môn đệ Chúa. Người Kitô hữu khi đi loan báo Tin Mừng vẫn luôn ý thức rằng ngoài Chúa ra họ không thể làm gì được. Tín thác, cậy trông vào Chúa với đức tin thâm sâu, với lòng mến dạt dào, người Kitô hữu luôn biết chấp nhận ngay khi gặp những thất bại, đau khổ, họ sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc và niềm vui đích thực mà các môn đệ Chúa đã bầy tỏ khi gặp lại Ngài sau khi các ông trở về trong cuộc hành trình truyền giáo. Sở dĩ các môn đệ có thể hân hoan chia sẻ với Chúa niềm vui vì họ đã biết lắng nghe, sống và thực thi lời Chúa trong cuộc đời, trong cuộc hành trình truyền giáo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được niềm vui hằng ngày trong cuộc sống vì chúng con đã cậy trông và tín thác vào Chúa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Bạn hiểu gì về sự siêu thoát ?
Những kẻ bé mọn của Chúa là ai ?
Tại sao các môn đệ lại hớn hở chia sẻ niềm vui với Chúa Giêsu sau những ngày đi truyền giáo về ?
---------------------------------------
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN, năm C
Lc 10,1-12.17-20
Mỗi lần nghe bài hát xem ra đã quá quen thuộc từ bao năm nay:” Lạy Chúa xưa Chúa đa: TN 14-C67
Mỗi lần nghe bài hát xem ra đã quá quen thuộc từ bao năm nay:” Lạy Chúa xưa Chúa đã phán, lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt. Chúa hãy ban nhiều thợ biết nhiệt thành, để nước Chúa rộng lan khắp nơi, xin Chúa ban cho đoàn chúng con nên tông đồ mở nước Chúa trời “, chúng ta vẫn như cảm thấy có một cái gì đó thôi thúc chúng ta hăng say phục vụ, mau mắn loan truyền Tin Mừng, giới Đức Giêsu Kitô cho nhiều người. Thế giới hôm nay vẫn còn quá nhiều người chưa nhận ra Chúa, vẫn còn không biết bao nhiêu người không được nghe Lời Chúa, không được loan báo Tin Mừng cứu độ. Lời của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta:” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt “( Lc 10, 2 ).
MỘT THẾ GIỚI MÊNH MÔNG CHƯA ĐỦ NGƯỜI LOAN BÁO TIN MỪNG:
Thử làm con tính nhẩm, chúng ta sẽ thấy rất ngạc nhiên và lạ lùng vì trên thế giới hiện giờ có hơn 7 tỷ người, nhưng mới có hơn 1 tỷ biết Chúa. Tại Á Châu, một lục địa rộng lớn chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng số người theo Chúa, gia nhập đạo Công giáo chỉ đếm trên đầu ngón tay, chưa tới 3% người theo Kitô giáo. Thế giới quả thực rất mênh mông, rộng lớn, nhiều mảnh đất, nhiều nước, nhiều lục địa hầu như vẫn còn đang bị bỏ hoang không thợ gặt. Các đồng lúa chín vàng trĩu hạt, nhưng thợ gặt lại quá ít oi, thiếu thốn thợ gặt trầm trọng. Thế giới chúng ta đang sống xem ra vẫn còn bóng đêm dầy đặc bao phủ, vẫn còn chiến tranh, thù nghịch, chia rẽ và sự dữ bủa vây. Do đó, thế giới vẫn cần ánh sáng của tình thương, của bao dung, tha thứ. Chính vì thế, không lạ gì khi Chúa Giêsu đã nói:” Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”( Lc 10, 3 ). Cuộc ra đi của các tông đồ xem ra phải đối diện với trăm ngàn thử thách, phải đương đầu với những khó khăn nguy hiểm, với túng thiếu, với bấp bênh vv…Vì Chúa nói:” Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” ( Lc 10, 4 ). Tuy vậy, các tông đồ và các sứ giả Tin Mừng vẫn phải ra đi. Ra đi chứ không ở lại, ra đi chứ không ù lì, đứng im tại chỗ. Ra đi là một lệnh truyền, chứ không chỉ là lời khuyên mà thôi. Chúa Giêsu nêu gương cho các tông đồ và Giáo Hội về kiếp sống của Người ở trần gian. Cuộc đời của Người là một cuộc hành trình không ngơi nghỉ. Từ lúc sinh ra cho đến khi chịu treo trên thập giá, Chúa Giêsu luôn chấp nhận sự thiếu thốn, bấp bênh:” Chồn có hang, chim có tổ, con người không nơi tựa đầu…”. Đời của Chúa Giêsu là một cuộc lên đường không ngừng.
ƠN GỌI CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU LÀ RA ĐI:
Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt: đó là hoàn cảnh của thế giới hôm nay. Một thế giới đông người, nhưng thiếu ánh sáng Tin Mừng. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định:”…Hội Thánh lữ hành phải truyền giáo “ ( TG 2 ). Không ai được miễn trừ lệnh truyền của Chúa Giêsu:” Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”( Mt 28, 19 ). Lệnh truyền của Chúa Giêsu được vang lên không chỉ đối với các môn đệ, các tông đồ khi xưa mà nó còn vang vọng tới mọi người trong mọi thời đại. Ra đi để đem sự an bình cho con người, cho mọi người vì sự bình an do chính Thiên Chúa trao ban nhưng không cho nhân lọai. Sự bình an mà chính các thiên thần đã hát vang ngày sinh nhật của Chúa Giêsu:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm” ( Lc 2, 14 ). Giáo Hội lữ hành luôn có sứ mạng loan báo ơn cứu độ và mọi người luôn được mời gọi loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Đức Giáo Hòang Gioan Phaolô II đã nói:” Không một ai tin Đức Giêsu, không một tổ chức nào trong Hội Thánh được miễn trừ sứ mạng cao cả: “ Loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc “ ( Sứ vụ Đấng Cứu Thế, 3 ). Thánh Phaolô cũng đã không ngần ngại thốt lên:” Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng “( 1 Co 9, 16 ). Chúa Giêsu sai các môn đệ và chúng ta đi rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu ra đi làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh. Chính vì thế, ơn gọi của người Kitô hữu là ra đi thả lưới, ra đi làm chứng cho Nước Trời, nước công chính và bình an.
Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con trở nên những sứ giả nhiệt thành loan báo Tin Mừng và giới thiệu Nước Thiên Chúa. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCC
---------------------------------------
Chúa Nhật 14C Thường Niên
Điều quan trọng nhất trên đời này là cái gì ? Chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời vừa lòng mọi: TN 14-C68
Điều quan trọng nhất trên đời này là cái gì ? Chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời vừa lòng mọi người. Tùy cái nhìn, mỗi người sẽ có câu trả lời khác nhau. Câu trả lời sẽ xác định tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời.
ĐIỀU QUAN TRỌNG
Thánh Phaolô đã đưa ra câu trả lời chính xác nhất: “Điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6:15) trong Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là, nhờ cái chết và phục sinh, Đức Kitô đã trở thành Ađam mới để biến cải toàn thể tạo vật tự bên trong. Vạn vật sẽ sống trong trời mới đất mới, tràn ngập “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17)
Đó là lý tưởng phải đạt tới ngay trên mặt đất này. Quả thực, chính để xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian, Đức Giêsu mới sai các môn đệ “như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10:3) với một sứ mệnh duy nhất là loan báo cho muôn dân biết “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” (Lc 10:9.11) Dù phải thực hiện sứ mệnh cao cả và vô cùng khẩn thiết đó giữa bầy sói, người môn đệ không bao giờ được phép chối bỏ bản chất “chiên con” của mình. Đánh mất bản chất hiền lành, họ không thể thực hiện sứ mệnh hòa bình giữa muôn dân. Làm sao có thể sống và thể hiện sứ mệnh đó giữa một thế hệ sa đọa gian tà này ? Đức Giêsu đã hứa: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.” (Lc 10:19) Nếu tin, người môn đệ sẽ thấy tất cả sức mạnh Tin mừng.
Để thi hành sứ mệnh hòa bình, trước tiên người môn đệ phải sống và thể hiện sứ mệnh đó ngay trong cuộc sống. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu “sai các ông cứ từng hai người một.” (Lc 10:1) Theo đường hướng đó, các môn đệ dễ hỗ trợ nhau và làm cho chứng từ của họ có tính cách xác thực (Đnl 19:15) Ngay từ đầu Giáo hội đã có một cặp truyền giáo nổi tiếng là thánh Phaolô và Banaba (x. Cv 13). Các ngài đã thành công vì suốt đời không ngừng đeo đuổi sứ mệnh hòa giải và hòa bình giữa muôn dân.
Còn biểu tượng nào diễn tả cảnh hòa bình cho bằng cảnh chiên con nằm chung với chó sói (x. Is 11:6; 65:25). Đó là hình ảnh tuyệt vời đến siêu thực. Đó cũng là sứ mệnh hòa giải khó khăn nhất người môn đệ phải thực hiện trên bước đường truyền giáo. Dĩ nhiên đứng trước sói dữ, chiên con hoàn toàn bất lực. Cũng thế, vì thiếu phương tiện tự vệ, các nhà truyền giáo cũng không thể đối đầu với kẻ thù. Đức Giêsu đã biết trước tất cả những nguy hiểm đó. Chính Người cũng đã phải đối mặt với khổ đau và cái chết. Người môn đệ cũng phải chia sẻ cùng một thân phận. Nhưng khổ đau và cái chết không phải là dấu chỉ của sự bất lực hay thất bại. Trái lại, đó là một niềm vinh dự lớn lao như thánh Phaolô nói: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.” (Gl 6:14)
Người mạnh mẽ bảo đảm với các môn đệ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên mọi thế lực Kẻ Thù.” (Lc 10:19) Các môn đệ chia sẻ cùng một quyền bính với Thầy. Quyền năng ấy phát sinh từ ánh sáng Phục sinh. Thực thế, “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18) Các quyền lực ác thần đã bị tấn công và thảm bại nơi sứ vụ của Đức Giêsu và Giáo hội. Trong Công vụ Tông đồ, thánh Luca thường kể lại cách thức Chúa Giêsu đã cứu các nhà truyền giáo thoát khỏi những lực lượng phá hủy (ví dụ 28:1-6) Những lực lượng đó là tất cả các loại ác thần, biểu tượng qua các hình ảnh rắn rết và bọ cạp (x. The New Jerome Biblical Commentary 1990:701).
Chiến thắng các lực lượng đó không phải là nguyên nhân làm cho các môn đệ hăm hở trên bước đường chinh phục thế giới cho Đức Kitô. Nguyên nhân chính là ân huệ lớn lao Chúa dành cho trên trời. Nơi đó họ hoàn toàn trở thành thụ tạo mới với tất cả niềm vui lớn lao phát sinh từ lòng Chúa xót thương. Từ đó họ mới thấy tất cả ý nghĩa và giá trị của một cuộc sống bình an và ân sủng trên quê trời. Họ trở thành công dân Nước Trời.
PHÚC ÂM HÓA
Nhưng để đạt mục tiêu đó, ngay từ bay giờ người môn đệ Đức Kitô phải nhận định rõ thực tại cuộc sống và nỗ lực phúc âm hóa môi trường theo đúng sứ mệnh Chúa đã trao. Xã hội Hoa kỳ đang đối mặt với thách đố phải phúc âm hóa “mô#t xã hội ngày càng lâm nguy vì quên mất nguồn gốc linh thiêng của mình.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Mọi cơ cấu và sinh hoạt đang bị trần tục hóa.
Trước tình trạng đó, người môn đệ Đức Kitô phải làm gì ? Trước hết, họ phải biết đây là “giờ hành động của giáo dân.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Giáo dân không còn phải là thành phần thụ động, nhưng phải tích cực hoạt động cho việc phúc âm hóa môi trường. Họ hiện diện khắp nơi. Sự hiện diện đó phải có một ý nghĩa và chiều kích mới. Chiều kích đó bắt đầu từ việc “chấp nhận thách đố. Điều đó đòi phải có một sự hiểu biết sâu rộng và thực tiễn về những dấu chỉ thời đại để triển khai việc trình bày đức tin Công giáo sao cho thuyết phục được người nghe.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04) Dĩ nhiên không tùy thuộc vào khoa hùng biện cho bằng một đời sống gắn liền với đức tin. Giáo Hội Hoa Kỳ “được kêu gọi đáp ứng những nhu cầu và khát vọng tôn giáo của một xã hội ngày càng có nguy cơ lãng quên những nguồn gốc linh thiêng của mình và bị khuất phục trước một thế giới quan hoàn toàn duy vật và vô hồn.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)
Muốn hoàn thành sứ mệnh cao cả giữa một xã hội như thế, người Kitô hữu phải bắt đầu từ đâu ? Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến nhu cầu “chuẩn bị cho giới trẻ đặc biệt biết đối thoại với những người đồng thời về sứ điệp Kitô và sự thích hợp của sứ điệp ấy trong việc xây dựng một thế giới công bình, nhân bản và hòabình hơn. Trên hết, bây giờ là thời điểm giáo dân được kêu gọi thi hành sứ mệnh ngôn sứ của Giáo hội mà phúc âm hóa các lãnh vực khác nhau trong đời sống gia đình, xã hội, nghề nghiệp và văn hóa, vì họ được kêu gọi uốn nắn thế gian theo Tin mừng.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)
Công cuộc lớn lao đó không thể thực hiện nếu chỉ nhắm vào cá nhân. Trái lại, “với hệ thống các cơ quan giáo dục và bác ái vĩ đại, Giáo hội Hoa Kỳ đứng trước thách đố phải phúc âm hóa văn hóa để có thể lấy ra ‘những thứ mới cũ’ từ kho tàng khôn ngoan của Tin mừng.” (Gioan Phaolô II: Zenit 28.05.04)
Sống trong xã hội Hoa kỳ, người Công giáo Việt Nam không thể không quan tâm đến những vấn đề lớn lao đó. Từ niềm tin đặc thù của mình, liệu chúng ta có thể góp phần cho Giáo hội tại đây vượt qua những thách đố của thời đại hôm nay hay không ? Tự bản chất linh thiêng của nền văn hóa Việt Nam, nếp sống đạo của chúng ta liệu có thể làm sống lại những gì đã mất trong xã hội Hoa kỳ hay không ?
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
---------------------------------------
08-07-2001
NGHE
BÀI ĐỌC 1: Is 66, 10-14c.
Thành Đô Giê-ru-sa-lem được Thiên Chúa thương yêu và cưng chiều cách đặc biệt. Ngài tuôn đổ ơn thái bình và của cải tràn lan như thác vỡ bờ lên Thành Đô. Chúng ta hãy vui mừng cùng Giê-ru-sa-lem, vì từ nơi đó ta sẽ múc lấy bao hồng ân của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC 2: Gl 6, 14-16.
Điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới, một thụ tạo có Thần Khí, đi ngược với những gì mà thế gian xem là cao trọng và ngược với những gì mà xác thịt quyến rũ.
BÀI TIN MỪNG: Lc 10, 1-9
Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông:" Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói:"Bình an cho nhà này! Nếu ở đó, có ai đáng thưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đến đậu trên người ấy; bằng không, thì bình an đó sẽ quay về với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ:" Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông". Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói:" Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần". Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đom còn được xử khoan hồng hơn thành đó".
Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói:" Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con". Đức Giê-su bảo các ông:" Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời".
NGẪM
CÂU HỎI GỢI Ý:
Chủ đề của các bài đọc hôm nay? 2. Hội Thánh của Thiên Chúa có những đặc điểm: TN 14-C69
1. Chủ đề của các bài đọc hôm nay?
2. Hội Thánh của Thiên Chúa có những đặc điểm gì?
3. Nhiệm vụ của chúng ta, người được sai đi?
SUY TƯ GỢI Ý:
1. Chủ đề: Hội Thánh
Nếu tinh ý, ta nhận ra ngay ý tưởng chủ đạo mà Giáo Hội muốn truyền đạt cho ta qua các bài đọc, đó là Hội Thánh. Trong bài đọc một, Ngôn sứ I-sai-a diễn tả Thành Đô Giê-ru-sa-lem hết sức vui tươi, đáng yêu và đầy ân sủng. Thành Đô có khả năng thoả mãn chúng ta trong việc cho ta nếm trải mùi vinh quang, sự an bình, nỗi ủi an, niềm hoan lạc. Thực ra, Giê-ru-sa-lem là trung tâm văn hoá và tôn giáo của Ít-ra-en thời đó. Tuy dù đền thờ này có nguy nga và tráng lệ đi nữa, nó cũng không thể được diễn tả như một nhân vật toàn năng muốn ban phát cho ai ơn gì tuỳ thích. Đó phải là thuộc tính của một thực tại khác, một thực tại siêu nhiên huyền nhiệm hơn. Lại nữa, I-sai-a là một ngôn sứ, nhiệm vụ chính yếu của ông là tiên đoán những sự việc của tương lai. Vì thế chắc chắn ông không nhằm mỗi một mục đích là miêu tả Thành Đô của thời bấy giờ. Mà qua thành đô, ông muốn diễn tả một thực tại khác: Hội Thánh, một Giáo Hội đầy ân sủng. Đây là thành Giê-ru-sa-lem mới, một thành đô thượng giới (x Gl 4, 26), (x Kh 21, 1-7; 9b-14; 22-23).
Trong bài Tin Mừng, Thánh sử Luca đã hai lần nhắc lại:" Triều đại Thiên Chúa đã đến gần" ( Lc 10, 9b. 11b). Vậy Triều Đại Thiên Chúa là gì nếu không là Hội Thánh, là nước Chúa? Và bài đọc hai cũng cho ta biết những ưu điểm đặc biệt của con dân sống trong NƯỚC này. Bề ngoài, họ vẫn là người trong một xã hội với những chiều kích giới hạn, đầy tội lỗi, đau thương và cực nhọc như bao người chưa có đức tin. Nhưng bên trong, họ hãnh diện về Thập giá Đức Kitô, suối nguồn của sự sống mai hậu. Những gì mà thế gian cho là nhục nhã thì họ cho là nguồn đem lại vinh quang. Những gì thế gian cho là đau khổ thì họ lại đánh giá là nguồn đem lại hạnh phúc vĩnh cữu. Họ không còn là nô lệ của luật Môi-sê, nhưng được tự do làm bất cứ điều gì mà Tình Yêu thúc đẩy. Như vậy, Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới có những đặc điểm gì?
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH GIÊ-RU-SA-LEM MỚI (Hội Thánh)
Thành Đô mới tức là Hội Thánh có những đặc điểm:
- Duy nhất. Ta thấy Cựu Ước không dặt một thành nào khác ngang hàng với Giê-ru-sa-lem. Thật sự không có một thành đô nào sánh bằng Giê-ru-sa-lem về bất cứ phương diện nào. Thành Đô này huy hoàng nhất, được Thiên Chúa yêu thương nhất, được ban nhiều ân huệ nhất, được chọn làm biểu tượng của sự hiệp nhất dân Chúa (x Is 2, 1-5);(x Mk 4, 1-4). Còn Tân Ước xem Hội Thánh là THÂN THỂ thể của Đức Kitô.
- Thánh thiện. Đền thờ do vua Salomon xây cất và được vinh quang Thiên Chúa hiến thánh (x 1V 8, 1-7; 9-12; 22-23.). Hội Thánh có Chúa Kitô là đầu, nên Hội Thánh vô cùng thánh thiện.
- Công giáo. Thành đô mới không những là nơi tụ họp và thờ phượng của con cái Ít-ra-en mà còn cho cả ngoại kiều (x Is 56, 1-3); (Gl 4, 27). Chúa Giê-su hoá bánh ra nhiều không những dể đám đông theo Chúa ăn no nê, mà còn dư ra mười hai thúng đầy. Cho ai? Há chẳng phải là Chúa Giê-su có ý dành cho những kẻ sẽ gia nhập vào đoàn chiên Ngài trong tương lai?
- Tông truyền: Thành Đô được các ngôn sứ ca tụng trong Cựu Ước. Còn Hội Thánh được chính các tông dồ cộng tác với Chúa để thiết lập, củng cố và phát triển mỗi ngày cho đến tận cùng trái đất.Mỗi khi có dịp, chúng ta đều tuyên xưng một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Nhưng ta có sa#n sàng tiếp nối công việc của các tông đồ không?
3. Sứ mạng truyền giáo
Tốt khoe, xấu che. Ta biết Hội Thánh của Chúa tuyệt vời và đem lại sự sống trường sinh.
Thế tại sao ta không tích cực giới thiệu cho những nguời chung quanh ? Theo nếp nghĩ thông thường , việc truyền giáo là bổn phận của hàng giáo sĩ và tu sĩ. Nhưng Chúa Giê-su đã không chỉ sai mười hai Tông đồ, mà Ngài còn sai bảy mươi hai môn đệ đi loan báo Tin Mừng của Ngài. Con số 72 có ý nghĩa vô lượng, gồm có ta trong đó. Vấn đề là ta cần có gì cho hành trang của mình?
- Gọn nhẹ. Tư trang chỉ cần điều kiện ắt có và đủ. Phải có tinh thần từ bỏ, không dính bén. Ta đừng tuyên khấn đức khó nghèo để bắt người khác phải giữ. Còn chính ta thì nệ vào điều kiện tối thiểu để ăn sung mặc sướng.(Lc 10, 4a)
- Hành động. Thường người ta nói nhiều làm ít. Người dạy tâm lý thì có cuộc sống không hoà hợp với tha nhân. Kẻ chủ trương vô sản thì giàu có nhất vùng. Đừng ba hoa,hãy bắt tay (Lc 10, 4b).
- Khiêm nhường. Điều đầu tiên các tông đồ khoe với Chúa Giê-su là họ vui mừng vì đã trừ được quỉ. Chúa Giê-su thì lại khuyên họ đừng hãnh diện về việc ấy. Nhưng hãy vui vì mình đã làm được một điều thiện (Lc 10,20).
NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su, xin cho con có lòng yêu mến Giáo Hội mà Chúa đã thiết lập. Xin cho con biết chứng tỏ lòng yêu mến ấy bằng hành động thiết thực. Để những ai tiếp xúc vớicon đều ao ước được gia nhập vào một ràng chiên có cùng một Chúa chiên. Amen.
Anrê Nguyễn Hữu Nghĩa.
---------------------------------------
(Lu-ca 10: 1-12.17-20)
Tiếp nối đề tài những điều kiện để theo Chúa Giê-su là việc Chúa sai bảy mươi hai môn đệ đi: TN 14-C70
Tiếp nối đề tài những điều kiện để theo Chúa Giê-su là việc Chúa sai bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Sau khi xác tín những điều kiện phải có của người môn đệ và cam kết ra đi theo bước chân Thầy Giê-su, giờ đây các môn đệ được sai đi. Ngoài điều kiện tiên quyết là phải từ bỏ mọi sự để theo Chúa, các môn đệ còn được Thầy dặn dò chỉ bảo kỹ càng, để họ có thể đảm trách được sứ mệnh một cách tốt đẹp và hiệu quả. Vậy Chúa Giê-su đã cho họ những huấn thị nào để thi hành sứ vụ tông đồ?
1) “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”
Trước hết Chúa muốn các môn đệ nhận định rõ môi trường hoạt động tông đồ. Người dùng một hình ảnh hết sức quen thuộc nhưng phong phú ý nghĩa để nói lên Người rất cần sự giúp đỡ của họ. Đó là hình ảnh đồng lúa chín vàng. Gần tới mùa gặt, lúa chín rộ lên trong ít tuần lễ. Hàng triệu triệu hạt lúa mọng vàng đong dưa theo từng cơn gió, như thúc giục chủ ruộng hãy mau mau thu góp chúng về để khỏi rụng rơi vào lòng đất. Niềm vui của chủ ruộng dâng cao khi nhìn đồng lúa chín, nhưng nỗi lo lắng băn khoăn làm sao gặt lúa càng mau càng tốt cũng khiến cho ông mất ăn mất ngủ.
Qua hình ảnh ấy, Chúa Giê-su muốn nói lên tâm trạng của Người. Người đến trần gian và khai mạc thời cánh chung qua sứ vụ cứu thế. Người đã đem lời Thiên Chúa gieo vào các tâm hồn và tỏ cho họ thấy tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ đã sinh hiệu quả nơi nhiều người, tựa như hạt lúa mọc lên và sinh bông hạt. Hình ảnh lúa chín không chỉ giới hạn trong những vùng Ít-ra-en thời ấy, nhưng là hình ảnh của toàn địa cầu trong mọi thời đại. Hạt giống cứu độ vẫn tiếp tục được gieo rắc khắp nơi nhờ việc truyền giáo của Giáo Hội. Ngay cả những nơi người ta tưởng hạt giống lời Chúa đã bị ngăn chặn, thí dụ giáo hội Trung Hoa hay những vùng nằm trong ảnh hưởng Hồi giáo hoặc Phật giáo, ơn cứu độ vẫn tiếp tục bành trướng và số người tin vào Chúa Ki-tô lại gia tăng hơn lúc nào hết.
Lúa chín thì ai có thể ngăn cản nổi. Điều ấy cho thấy hiệu quả vô song của lời Chúa, đồng thời cũng cho ta có cơ hội được chia sẻ niềm vui với Chủ ruộng. Nhưng ta cũng không được dửng dưng trước băn khoăn của Người khi nhận ra thực trạng “thợ gặt lại ít”. Ngoài ra, điều ấy cũng ngầm nói lên tính cách cấp bách của mùa gặt tức là thời cánh chung và lời mời gọi của Chủ ruộng muốn ta tham gia vào công trình của Đức Ki-tô sao cho kết quả tốt đẹp.
2) “Anh em hãy ra đi”
Đó là lệnh lên đường, không chỉ dành cho những người có chức vị trong Giáo Hội, nhưng cho mọi phần tử không trừ ai. Đi đâu và đi làm gì? “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15)
Cũng như thợ gặt được trang bị đầy đủ để chu toàn việc gặt hái, người môn đệ Chúa cũng phải có tất cả những đức tính cần thiết để làm công việc gieo rắc và gặt hái lời Chúa. Vậy đức tính đầu tiên và có lẽ cũng quan trọng nhất, đó là ra đi “như chiên con đi vào giữa bầy sói”. Sự đối nghịch giữa tinh thần môn đệ Chúa Ki-tô và tinh thần của người đời là như vậy. Môn đệ Chúa phải luôn luôn hiền lành nhịn nhục như con chiên, còn thế gian thì lấy sức mạnh khí giới, tiền bạc và chức vị để đàn áp môn đệ Chúa. Tuy nhiên, Chúa không để cho chiên bị sói làm hại đâu, vì Người là Mục Tử Nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ chiên của Người (Ga 10:11tt). Một con sói đủ làm cho bầy chiên tán loạn, vậy mà ở đây Chúa lại sai ta đi như một chiên con giữa bầy sói! Tại sao Chúa làm chuyện ngược đời như vậy? Là để ta nhận biết quyền năng, tình yêu và chăm sóc của Người.
Đức tính tiếp theo là môn đệ phải biết chú tâm vào công việc chính yếu của sứ mệnh, đừng để mình bị chi phối do những chuyện không thực sự quan trọng hoặc bị lôi cuốn do những lợi nhuận. Về điểm này Chúa Giê-su đi vào một vài thí dụ cụ thể. Thí dụ việc chào hỏi là quan trọng. Nhưng theo thói đông phương, việc chào hỏi thường dài dòng. “Chào” thì ít, mà “hỏi” thì nhiều, lắm khi khiến cho người bị chào phải lúng túng không muốn trả lời hoặc nếu có thể được thì tránh mặt luôn! Túi tiền, bao bị, giày dép là những vật liệu của người đi buôn bán, làm bi-di-nét, chứ thường không phải là những trang bị cần thiết của người tông đồ.
Rao giảng là rao giảng lời Chúa, chứ không phải cà kê dê ngỗng, rồi ngồi lê đôi mách, đem hết chuyện người này nói với người kia. Hoặc “đi hết nhà nọ đến nhà kia” là để tìm một nơi thoải mái nhất để làm nhà mình! Sống hòa mình với mọi người, nhưng đừng để cho ai hoặc tình cảm nào lôi kéo và làm sao lãng việc thi hành bổn phận. Chúa cũng không quên cho môn đệ biết việc chính yếu của sứ mệnh là: “Hãy chữa những người đau yếu trong thành và nói với họ: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Chữa lành và rao giảng Nước Trời đã đến là nhiệm vụ chính yếu. Toàn bộ Tin Mừng nhấn mạnh hai sinh hoạt này trong sứ mệnh của Chúa Giê-su. Qua việc “chữa lành”, người ta sẽ nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa, và qua việc rao giảng Tin Mừng, người ta sẽ được chuẩn bị để đáp lại và sống những giá trị của Tin Mừng. Vì là điểm chính yếu trong sứ mệnh rao giảng, nên ngay trong trường hợp người nghe không muốn chấp nhận, môn đệ không được bỏ cuộc, mà vẫn phải tiếp tục lên tiếng vì bổn phận của môn đệ là cứ nói, còn “ai có tai nghe thì nghe” (Lc 8:8).
Trước thất bại, người môn đệ không nản lòng, thì sau thành công, họ cũng không vì thế mà vênh vang tự đắc. Bảy mươi hai môn đệ được Chúa sai đi đã trở về và báo cáo công tác. Họ vui lắm, có pha chút hãnh diện. “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. Như ông thầy khéo léo dạy dỗ, Chúa Giê-su không làm cho các môn đệ phải cụt hứng, trái lại, Người khích lệ và khéo léo nhắc nhở rằng những khả năng và quyền hành các ông có không phải là họ tự tạo được, nhưng là do “Thầy đã ban cho anh em quyền năng”. Vui mừng vì những gặt hái mùa màng, nhưng hơn thế nữa, vui mừng vì chính thân phận ta cũng được cứu rỗi khi ta cùng nhau làm việc cho cánh đồng truyền giáo.
3) Người môn đệ Chúa hôm nay
Là Ki-tô hữu hôm nay, liệu những huấn thị truyền giáo của Chúa Giê-su còn thích hợp cho ta không? Thời thế và não trạng con người có thay đổi ít nhiều, nhưng nhân loại vẫn cần được nghe Tin Mừng cứu độ và lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Ngày cánh chung đang chờ đợi ta như mùa gặt đợi lúa được thu góp về. Lời Chúa hiệu triệu “Anh em hãy ra đi” nhiều khi không được người ta nghe vì có quá nhiều âm thanh khác lọt tai hơn. Cũng nhiều khi người ta từ chối không muốn đi vì sợ bầy sói dữ. Hoặc người ta ngại phải đối phó với những xua đuổi, tẩy chay khi họ đem lời Chúa đến cho người khác. Tuy nhiên, ngoài những vị chấp nhận ra đi, đến với những nơi chưa được đón nghe lời Chúa, hầu hết ta đều được mời gọi đi ra khỏi thế giới cá nhân riêng tư của ta để đến với anh chị em ngay trong môi trường ta sống. Những người anh chị em ấy là gia đình ta, những người lối xóm, những người làm chung một sở, những giáo dân cùng một cộng đoàn...
Ta không bị bắt buộc phải bỏ nhà sang tận Phi-châu hoặc những nơi hẻo lánh trên thế giới. Ta không cần phải có tài ăn nói thuyết phục, nhưng cần có một đời sống Ki-tô gương mẫu, biết yêu thương chăm sóc cho người khác. Ta không cần làm những việc lớn lao như xây nhà thờ, nhưng là những việc bác ái nho nhỏ biểu lộ căn tính Ki-tô của ta, như đem lại an bình cho anh chị em, băng bó những vết thương tinh thần của họ, giúp họ thấy Triều Đại Thiên Chúa không phải ở trên trời, nhưng ở ngay đây và trong lúc này. Quyền năng Chúa ban cho ta là ơn thánh của Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Sức mạnh của ta là Thánh Thể và khôn ngoan của ta là Thánh Thần. Điều duy nhất ta phải làm là có lòng quảng đại và yêu mến đủ để đáp lại Chúa: Lạy Chúa, con đây, này con xin đến.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Đề tài truyền giáo thường được lập đi lập lại nhiều lần. Nhưng tôi có thực tâm lắng nghe, suy nghĩ về việc đáp lại, hay tôi vẫn cho đó là việc của các ông cha bà sơ?
Đâu là cánh đồng truyền giáo dành cho tôi? Tôi có để ý chăm sóc hay bỏ mặc?
Nếu tôi phải nói cho người chung quanh biết “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”, thì tôi phải hiểu tôi đang nói điều gì? Đâu là những dấu chỉ của Triều Đại ấy?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giê-su,
xin dạy chúng con sống thực tế, nhưng không thực dụng;
biết xoay sở, nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân, nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. A-men.
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 77)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
---------------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Ga-lát 6: 14-18
Đoạn thư Ga-lát cuối cùng được sử dụng trong Phụng vụ Lời Chúa là một phần của Lời: TN 14-C71
Đoạn thư Ga-lát cuối cùng được sử dụng trong Phụng vụ Lời Chúa là một phần của Lời cuối thư. Những dòng này chính thánh Phao-lô tự tay cầm bút viết xuống và viết bằng chữ lớn. Việc làm ấy là để chứng thực rằng lá thư là của ngài và để ngăn ngừa những thư giả mạo. Tuy nhiên tầm quan trọng của những dòng cuối thư này còn được nói lên trong chính nội dung của chúng. Đó là tóm kết những điểm chính của toàn thể bức thư và cũng là một lời nhắn nhủ chí tình.
Sau phần thanh minh, bênh vực cho sứ vụ tông đồ của mình (1:11 - 2:21), thánh Phao-lô đi vào phần giáo thuyết (3 - 4), trình bày nền tảng ơn công chính hóa là do lòng tin vào Đức Ki-tô chứ không phải do giữ trọn Lề Luật Mô-sê. Phao-lô sử dụng mọi phương cách, từ lý luận đến chia sẻ chính xác tín cá nhân của mình, để khuyến dụ tín hữu Ga-lát đừng nhẹ dạ để cho những người chủ trương duy trì Do-thái giáo (Judaizers) dụ dỗ theo họ mà bỏ Đức Ki-tô. Vậy những người chủ trương đó muốn tín hữu Ga-lát làm gì? Họ muốn tín hữu Ga-lát hãy giữ Lề Luật bằng cách chịu cắt bì. Trước hết Thánh Phao-lô đã mỉa mai nêu lên cái "lợi" cám dỗ tín hữu Ga-lát chịu cắt bì. Cái lợi ấy là "để khỏi bị ngược đãi vì thập giá Đức Ki-tô" và được "nở mày nở mặt theo tính xác thịt" hoặc "được hãnh diện nơi thân xác" (6:12).
Đồng thời, ngài vạch ra ý đồ và bộ mặt thật của những người chủ trương ấy. Họ chịu cắt bì để tự phụ là những người giữ Lề Luật, rồi muốn những người khác cũng phải làm như họ. Nhưng nực cười vì chính họ lại là những người không giữ Lề Luật chút nào. Nhận xét này của thánh Phao-lô lập lại những gì Đức Ki-tô trước đây đã tố cáo bọn kinh sư và Pha-ri-sêu giả hình (Mt 23:3-4).
Rồi Phao-lô "tương kế tựu kế"! Những người chủ trương duy trì Do-thái giáo lấy tự phụ của họ để "nhử" tín hữu Ga-lát theo họ, thì thánh Phao-lô cũng dùng cái tự phụ của ngài để khích lệ tín hữu Ga-lát. Tự phụ của ngài không phải là ba cái chuyện vớ vẩn cắt bì hay không cắt bì, nhưng là tự phụ được "trở nên một thụ tạo mới" nhờ thập giá Đức Ki-tô. Đối với dân Do-thái, thập giá là sự chúc dữ, đối với dân ngoại là hình khổ ghê tởm, đối với thánh Phao-lô là một sự hãnh diện. Người vui sướng được khổ vì Đức Ki-tô, ngược với người Do-thái sợ bị ngược đãi vì Chúa Ki-tô (chú thích r bản dịch của Nhóm Phiên dịch các Giờ kinh Phụng vụ)#. Thập giá Đức Ki-tô đã thay đổi số phận của Ki-tô hữu. Những gì thuộc về thế gian nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá, để chúng ta được sống tự do làm con cái Chúa và làm môn đệ Đức Ki-tô. Cuộc đóng đinh liên tục ấy là một tiến trình trở nên thụ tạo mới nơi những ai tin theo Chúa Ki-tô. Và đối với thánh Phao-lô, tiến trình đó cũng là một "quy tắc" sống cho Ki-tô hữu nếu họ muốn "được hưởng bình an và lòng thương xót" của Thiên Chúa.
Từ niềm hãnh diện vì thập giá Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đi tới một thái độ bình an và tin tưởng, không còn sợ chịu khổ vì Đức Ki-tô nữa. Như nô lệ mang dấu hiệu của chủ trên người mình, thánh Phao-lô cũng mang thương tích vì Đức Ki-tô, thương tích do anh em đồng chủng gây ra (2 Cr 11:24; 4:10; 6:4-5; Cl 1:24). Dấu vết thương này còn quý hơn dấu cắt bì của những người chủ trương duy trì Do-thái giáo (2 Cr 11:18; Pl 3:7) và hùng hồn nói lên lòng yêu mến của Phao-lô đối với Đức Ki-tô và ước mong được nên "đồng hình đồng dạng" với Người.
Cuối cùng là lời cầu chúc của Phao-lô, mong anh chị em tín hữu Ga-lát được đầy tràn ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, như bản thân ngài đã được.
Qua những dòng chữ đầy xác tín và yêu thương, cao điểm của tư tưởng và tâm tình thánh Phao-lô chính là nguyên tắc sống theo thập giá Đức Ki-tô. Sống theo thập giá Đức Ki-tô là chấp nhận đau khổ vì Đức Ki-tô và với Đức Ki-tô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Với thánh Phao-lô, "Niềm hãnh diện duy nhất của tôi là thập giá Đức Ki-tô" đã đưa tới một nguyên tắc sống. Còn tôi, điều gì giúp tôi có một nguyên tắc sống, và nguyên tắc sống ấy là gì?
Đâu là những điều "hãnh diện" của tôi? Giầu có? Xe đắt tiền? Nhà đẹp...? Tôi có sa#n sàng hãnh diện chịu thiệt thòi vì Đức Ki-tô không? Tại sao?
Tôi đã và đang đóng đinh những gì của đời tôi vào thập giá Đức Ki-tô để trở nên thụ tạo mới?
Chia sẻ về những phiền lòng tôi phải chịu vì Đức Ki-tô. Tôi đã có được một thái độ bình tâm trước những đau khổ vì Đức Ki-tô chưa? Làm sao có được?
Tôi học hỏi được gì qua thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể hát bài hát thích hợp, thí dụ "Lời vọng tình yêu" (Ca nguyện Linh Thao, 154), hoặc "Vinh quang của ta là Thánh Giá..." (Thánh Vịnh Huyền ca của cha Hoàng Kim, trang 76).
Lm.Trần Đình Nhi
---------------------------------------
(Lu-ca 10: 1-12. 17-20)
Trong việc đào tạo môn đệ, Chúa Giê-su đi từng bước một. Trước hết Người cho họ: TN 14-C72
Trong việc đào tạo môn đệ, Chúa Giê-su đi từng bước một. Trước hết Người cho họ hiểu rõ họ là môn đệ của Đấng nào và sẽ tham dự vào sứ mệnh nào. Điều này đã được quảng diễn trong bài Tin Mừng của hai Chúa Nhật trước. Hôm nay trong huấn dụ, Chúa Giê-su đi vào những chi tiết tác phong cốt yếu của người môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Huấn dụ này dài hơn và chi tiết hơn so với huấn dụ Chúa ban cho nhóm Mười Hai tông đồ (9:3-5). Sự khác biệt này nói lên chủ ý của thánh Lu-ca muốn hiểu rằng: việc sai nhóm Mười Hai đi rao giảng chỉ là khởi đầu sứ mệnh tại vùng đất Pha-lét-tin, nhưng sứ mệnh ấy phải được tiếp nối do các môn đệ Chúa ở mọi thời và nhất là cho các miền người ta chưa được đón nghe Tin Mừng cứu rỗi. Như vậy, tác phong của người môn đệ đương thời với Chúa Giê-su cũng phải là tác phong của người môn đệ hôm nay, tuy hoàn cảnh xã hội có thay đổi nhưng đường lối hành xử thì vẫn nguyên như thế.
a) Được chỉ định và được sai đi
Thánh Lu-ca viết: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông đi trước...” Vai trò chủ động của Chúa Giê-su nổi bật. Khi nhận Chúa làm Thầy, người môn đệ đặt mình dưới sự điều động của Người. Thánh Gio-an cho ta thấy rõ hơn ý tưởng đó qua lời Chúa phán trong cuộc đàm thoại với các tông đồ. “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi” (Ga 15:16). Chỉ định hoặc cắt cử là công việc của một người biết rõ khả năng và hoàn cảnh của những người mình sẽ ủy thác cho một sứ mệnh để thi hành. Khi Chúa “chỉ định” và “sai” ta đi, Người biết ta có thể thực thi được sứ mệnh theo tài năng và hoàn cảnh của ta. Người không đòi hỏi quá sức ta. Kể cho ta nghe dụ ngôn “Những nén bạc”, Chúa Giê-su nói: “Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người” (Mt 25:15). Nghĩa là không ai là không có phần, không ai ở ngoài sự chỉ định và cắt cử của Chúa. Được gọi làm môn đệ là ơn phổ quát Chúa ban cho mọi người không trừ ai, cả đến những người “nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” (Lc 14:21) cũng được mời gọi. Vì thế ta không còn lý do nào để nại rằng mình không có đủ điều kiện để được Chúa chỉ định và sai đi.
Lý do Chúa chỉ định và sai mọi người đi là vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.” Thực tại thiếu thợ gặt đã trở thành lý do căn bản tại sao ta phải trở nên môn đệ Chúa. Nói khác đi, vì không bao giờ đủ thợ gặt cho nên Chúa vẫn cần tất cả mọi người tiếp tay vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Trên cánh đồng truyền giáo kia, luôn luôn có những người đang sẵn sàng đến với Chúa nếu có ai dẫn dắt họ. Một lời nói, cử chỉ phản ảnh tinh thần của Chúa Giê-su, một tia lửa của bác ái ki-tô, một khích lệ nâng đỡ dành cho người đang gặp nỗi khó khăn... đều có thể đóng góp vào công việc gặt lúa. Chúa chỉ định và sai ta đi vào chính môi trường sống của ta để sống như người môn đệ Chúa. Ta không có lý do nào thoái thác.
b) Tác phong của người môn đệ Chúa
Thoạt mới đọc những lời huấn dụ của Chúa, ta có cảm tưởng như Người muốn các môn đệ có một lối sống không được “bình thường” như mọi người. Nếu hiểu sứ vụ của môn đệ là “đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến”, giống như một cuộc hành trình mà lại không có những chuẩn bị thích hợp thì làm sao có thể thực hiện nổi sứ vụ ấy? Tiền, giày dép, bao bị là hành trang cần thiết. Chào hỏi là cử chỉ thân thiện nên làm. Vậy mà Chúa lại bảo đừng làm. Tại sao thế? Là vì Chúa muốn ta hoàn toàn chú tâm vào mục đích của sứ vụ. Bất cứ gì có thể lôi cuốn ta đi trật mục đích đều phải canh chừng hoặc phải loại bỏ. Mà những cái có thể ấy chính là tiền, giày dép, bao bị, những thứ chỉ là phương tiện nhưng lại có thể biến thành mục đích. Cả đến việc chào hỏi cũng vậy. Dĩ nhiên ta hiểu việc chào hỏi đây không chỉ là nói vài ba câu đủ để biểu lộ mối tương giao, nhưng là la cà dài dòng hoặc đi sâu vào những quan hệ tình cảm có thể làm đình trệ việc rao giảng Tin Mừng.
Tác phong của người môn đệ tại một môi trường nhỏ bé như trong gia đình hoặc rộng lớn như ngoài thành phố cũng có những điểm khác nhau, phải tùy nghi mà ứng xử. Nhưng ở nơi nào thì người môn đệ cũng phải giúp cho Tin Mừng nảy sinh những hoa trái thiết thực. Bình an của Đức Ki-tô (Ga 14:27) sẽ là quà tặng mà người môn đệ có bổn phận mang đến cho những gia đình có những người biết mở lòng đón nhận ân sủng được làm con cái Chúa. Cách rao giảng tốt nhất tại gia đình là đem lại bình an. Còn cách rao giảng tại những nơi rộng lớn hơn, đó là loan báo Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần và chữa những người đau yếu. Có lẽ không có phương thức nào cho người khác thấy Triều Đại Thiên Chúa đến gần cho bằng giúp người khác nhận thấy Triều Đại ấy đang đến ngay trong tâm hồn ta, qua lối sống ki-tô của ta, qua lòng thương yêu Chúa Giê-su đã dạy ta phải có đối với tha nhân. Ta có thể chữa những người đau yếu ít là về phương diện tinh thần. Người môn đệ phải là dụng cụ để tình yêu chữa lành của Chúa Giê-su tiếp tục tác động trong thế giới bệnh tật hôm nay.
Có một điểm đặc biệt Chúa Giê-su nhắn nhủ các môn đệ Người, đó là phải đối phó thế nào trong trường hợp không được tiếp đón. Chính Chúa Giê-su đã dạy ta bằng kinh nghiệm sống của Người. Khi Người đi ngang qua một làng miền Sa-ma-ri, dân chúng không muốn cho Người vào. Người đã bỏ nơi đó, không chút cay đắng và tiếp tục đi nơi khác để rao giảng Tin Mừng (Lc 9:51-56). Tiếp tục sứ vụ là điều quan trọng hơn. Do đó, trong huấn dụ hôm nay Chúa bảo: “Người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: ‘... Triều đại Thiên Chúa đã đến gần’.”
c) Coi chừng nguy hiểm nằm ngay trong lòng ta
Chúa Giê-su đã đề cập tới những khó khăn bên ngoài mà người môn đệ phải đối phó. Nhưng chính những khó khăn nội tâm cũng không phải là nhỏ, chúng càng trở nên nguy hiểm khi người môn đệ có vẻ thành công trong sứ vụ của mình.
Sau khi được sai đi thực tập việc tông đồ, các môn đệ trở về hớn hở. Không vui sao được khi thấy mình đã thực hiện được những việc lớn lao: nhân danh Chúa Giê-su, họ đã chữa bệnh, xua trừ ma quỷ... Mừng cho họ, nhưng Chúa Giê-su cũng nhắc nhở họ: “Chớ mừng vì ma quỷ phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.” Hoặc nói một cách dễ hiểu: Anh em hãy thi hành sứ vụ để làm sáng danh Cha trên trời, chứ đừng để làm sáng danh anh em! Cám dỗ rất quen thuộc cho những người làm công việc của Chúa trong Giáo Hội là người ta cứ cho là chính mình đã làm được những việc này việc nọ. Ta có thể nghe một linh mục nói: Tôi đã xây nhà thờ này, đã lập hội đoàn kia... Hoặc nghe một ông chủ tịch hội đồng mục vụ kể lể thành tích những năm ông làm việc. Nhiều khi Chúa cũng mất luôn cả chỗ đứng nữa! Nếu ta cứ tiếp tục mừng vì được làm môn đệ Chúa thì sẽ tránh được những buồn phiền vì “thất bại” vì biết rằng người gieo người gặt, nhưng chính Chúa mới là Đấng làm cho lớn lên (Rm 3:6-7). Vênh vang tự đắc là nguy hiểm nằm ngay trong lòng mỗi người môn đệ của Chúa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Để thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, Chúa đã chỉ định tôi qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Vậy Người sai tôi đi đâu để thi hành sứ mệnh ấy? Tôi đã thi hành thế nào?
Những gì cản trở tự do nội tâm của tôi để tôi không làm chứng nhân của Chúa? Tôi đã làm cho người ta không thấy được Triều Đại Thiên Chúa qua lối sống nào của tôi? Phải thay đổi thế nào?
Khi phục vụ anh chị em trong cộng đoàn hay giáo xứ, tôi đã có thái độ nào khi thành công? khi thất bại?
Cầu nguyện:
“Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. A-men.”
- Thánh I-nha-xi-ô Loyola
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 43)
Đaminh Trần Đình Nhi.
---------------------------------------
(CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN, NĂM C)
(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)
Chúa Nhật hôm nay nói đến niềm hân hoan của những tâm hồn tôn thờ và đặt niềm tin nơi: TN 14-C73
Chúa Nhật hôm nay nói đến niềm hân hoan của những tâm hồn tôn thờ và đặt niềm tin nơi Chúa, sau khi đã vượt qua được những vất vả và thử thách. Bài Phúc Âm đặc biệt nói đến nhiệm vụ truyền giáo mà Chúa trao cho mỗi tín hữu chúng ta.
Bài Đọc I (Isaia 66: 10-14): Nói đến niềm vui mừng của Dân Chúa sau cuộc lưu đầy, được trở về tái thiết lại quê hương và thành thánh Giêrusalem, được Thiên Chúa thứ tha lỗi lầm và ban muôn vàn ơn an ủi. Bài Đọc II (Galat 6: 14-18): Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu hãy luôn cố gắng sống như “những con người mới” và hãy mang trong tâm hồn những hình ảnh khổ nạn của Chúa Giêsu trên thập giá để luôn sống bình an trong Chúa giữa mọi thử thách. Bài Phúc Âm (Luca 10: 1-12, 17-20): Chúa Giêsu sai thêm 72 môn đệ “đi từng hai người một đến các thành mà Chúa sẽ đến…” Chúa cũng dặn các ông những điều phải giữ và phải làm để đối phó với những hoàn cảnh khó khăn trên bước đường truyền giáo. Khi trở về sau những ngày truyền giáo, các ông rất đỗi vui mừng vì những thành quả thật lớn lao, Chúa Giêsu đã hướng tâm trí các ông về những niềm vui lớn hơn nữa là niềm vui được thưởng công trên Nước Chúa sau này, vì đó là mục đích cuối cùng của mọi nỗ lực sống đức tin và truyền giáo.
Chúng ta đều biết Chúa đã chọn 12 tông đồ, cũng đã sai các ông đi thực tập truyền giáo (Matthêu 10: 1-16; Luca 9: 1-6). Nhưng trong Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại việc Chúa “lại sai 72 người khác đi trước đến các thành mà chính Chúa cũng sẽ đến”. Các nhà chú giải Thánh Kinh cho là con số 72 (hoặc 70) để chỉ công cuộc truyền giáo sau này cho các dân ngoài Do Thái, và vì thế cánh đồng truyền giáo thật bao la và cần thật nhiều thợ gặt: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì it…”
Công việc truyền giáo là bổn phận của mỗi tín hữu chúng ta. Cánh đồng truyền giáo thật bao la. “Lúa thì đã chín đầy đồng” (nghĩa là đã có bao nhiêu người đã sẵn sàng đi theo Chúa); nhưng lại “thiếu thợ gặt” (nghĩa là thiếu nhiều người để giúp đỡ họ đến với Chúa và đi theo Chúa). Vì vậy, mỗi tín hữu chúng ta đều có bổn phận làm thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo của Chúa bằng cách này hay cách khác tùy theo hoàn cảnh. Đó là việc Tông Đồ Giáo Dân mà mỗi tín hữu chúng ta phải chu toàn.
Trên con đường truyền giáo, chúng ta thường phải đối phó với nhiều khó khăn, nhiều khi vượt quá khả năng của chúng ta, nên chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều; chúng ta phải nỗ lực, nhưng kết quả là do Ơn Thánh Chúa. “Nếu mà Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công!...”(Thánh Vịnh 127).
Hơn nữa, chúng ta cũng luôn gặp phải những chống đối, thù ghét và mưu mô hiểm độc của thế gian, nhất là của các “Ngôn Sứ Giả” (Matthêu 7: 15); đặc biệt nguy hiểm hơn cả là ‘những sói dữ đột nhập vào hàng ngũ của chúng ta...” (Công Vụ 20: 29; 1Gioan 2: 19); vì thế, Chúa bảo các Tông đồ và mỗi người chúng ta phải coi chừng: “Thày sai các con đi như chiên giữa bầy sói!” Chiên làm sao có thể đương đầu với sói dữ! Chúa lại bảo chúng ta: “Hãy khôn ngoan như con rắn, và đơn sơ như chim bồ câu!” Có Chúa phù trợ, chúng ta vẫn có thể vượt thắng tất cả! Giáo Hội Chúa mọi thời và mọi nơi luôn bị bách hại thảm khốc cách này hay cách khác; nhưng Chúa vẫn giúp Giáo Hội vượt qua tất cả. Các Hoàng đế Rôma đã bách hại tàn nhẫn Giáo Hội lúc ban đầu. Các Giáo Hội ở Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Phi Châu… cũng đều đã bị bách hại tàn khốc ngay từ lúc ban đầu. Nhưng thời gian qua đi, các triều đại Vua Chúa đó đều đã qua đi hết, nhưng Giáo Hội Chúa vẫn tồn tại và phát triển.
Chế độ Cộng Sản vô thần cũng tưởng sẽ tiêu diệt dễ dàng Đạo Thánh Chúa, nhưng rồi chế độ đó cũng đã tan rã dần dần, còn Giáo Hội Chúa lại vẫn tồn tại và phát triển. Chúa vẫn ở cùng Giáo Hội (Matcô 16:20; Matthêu 28:20). Thánh Thần Chúa luôn thánh hóa và gìn giữ Giáo Hội vượt qua mọi thử thách. Đừng sợ! Đừng la hoảng! Đừng trách cứ lẫn nhau! Vì Thánh Phaolô đã bảo chúng ta trong thư Galat (5: 15): “ANH EM HÃY COI CHỪNG, NẾU ANH EM CẮN XÉ LẪN NHAU LÀ ANH EM TỰ TIÊU DIỆT LẪN NHAU ĐÓ!”
Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau, cho toàn thể Giáo Hội, cách riêng cho các nơi đang bị bách hại, cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam.
---------------------------------------
Chúa Nhật XIV Thường Niên C
Lc 10:1-12.17-20: 1 Sau đó, Chúa cử thêm bảy mươi [hai] người khác, và sai họ, cứ từng hai người, đi trước Ngài đến mọi thành và nơi chốn Ngài định đến. 2 Ngài bảo họ: "Mùa màng nhiều, thợ gặt ít! Vậy các ngươi hãy xin Chủ mùa sai thợ gặt đồng lúa của Người. 3 Các ngươi hãy đi! này Ta sai các ngươi như chiên vào giữa sói. 4 Ðừng mang ví tiền, bao bị, giày dép; cũng đừng chào hỏi dọc đường. 5 Hễ vào nhà nào, trước tiên hãy nói; Bình an cho nhà này! 6 Nếu ở đó, có con cái của phúc bình an, thì bình an các ngươi chúc sẽ đậu xuống trên đó, nhược bằng không, nó sẽ quay trở lại trên các ngươi. 7 Hãy lưu lại nhà ấy, và ăn uống những gì họ có, vì làm thợ thì đáng được công. Ðừng có hết nhà này lại sang nhà nọ. 8 Vào thành nào người ta tiếp đón các ngươi, thì họ dọn gì, các ngươi hãy ăn. 9 Và hãy chữa các kẻ ốm đau trong thành; hãy bảo họ: "Nước Thiên Chúa đã gần bên các ngươi!" 10 Vào thành nào người ta không tiếp đón các ngươi, thì hãy ra công trường mà nói: 11 "Ngay bụi trong thành các người dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin rũ trả lại. Song xin các người hãy biết điều này: Nước Thiên Chúa đã gần bên". 12 Ta bảo các ngươi: Ngày ấy, Sôđôm sẽ được xử khoan dung hơn là thành ấy."
17 Nhóm bảy mươi hai trở về, mừng rỡ mà nói: "Thưa Ngài, nhân danh Ngài, thì cả ma quỉ cũng phải lụy phục chúng tôi!" 18 Nhưng Ngài nói với họ: "Ta đã thấy Satan như chớp nhoáng, tự trời sa xuống! 19 Này Ta ban cho các ngươi quyền dẵm trên rắn rít, bò cạp, và trên mọi quyền năng kẻ thù, và tuyệt nhiên không gì làm hại các ngươi được. 20 Song các ngươi chớ mừng vì ma quỉ phải lụy phục các ngươi, một hãy mừng vì tên các ngươi đã được ghi ở trên trời".
Sau khi nói đến những đòi hỏi tận căn nơi người muốn theo Chúa Giêsu, Luca trình bày việc: TN 14-C74
Sau khi nói đến những đòi hỏi tận căn nơi người muốn theo Chúa Giêsu, Luca trình bày việc Chúa Giêsu sai nhóm 72 môn đệ đi. Người chỉ dẫn cho họ những việc phải làm (10:1-12). Khi trở về, họ sẽ thuật cho Người biết kết quả những việc họ đã làm (10:17-20). Bố cục của diễn từ nầy có thể phân chia như sau: - Nhập đề. Nhu cầu và những đòi hỏi nơi người được sai đi (10:1-4); - Cách cư xử khi vào một nhà (10:5-7); - Cách cư xử khi vào một thành (10:8-12).
“Sau điều đó” (10:1) là sau khi Chúa Giêsu đã cho những người muốn đi theo làm môn đệ biết những đòi hỏi của Người (9:57-62). Với tư cách là “Chúa”, Người chỉ định (anadeiknimi) 72 môn đệ khác. “Chỉ định” là chính thức giao phó một sứ mạng; như Gioan Tẩy Giả lãnh nhận sứ mạng đến với dân Israel (x. 1:80). Những người trong nhóm khác gồm 72 môn đệ nầy (x. 6:13), khác với nhóm Mười Hai mà Chúa Giêsu đã chọn (9:1-6). Nhóm Mười Hai nầy được nhắc đến nhiều lần trong tin mừng, nhất là trong trong cuộc thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu (8:1; 9:17; 18:31; 22:3.30; 22:7). Con số 72 không đồng nhất theo truyền thống. Trong Cựu ước, nhóm 70 vị bô lão được chọn để giúp Môsê (Xh 24:1; Ds 11:6). Sứ mạng của nhóm 72 là “đi trước mặt Người” (x. 9:52), và Luca xác định rõ là “trong những làng, và những nơi Người sắp đến”. Như thế, họ là những sứ giả đi trước, làm chứng cho Người và chuẩn bị cho dân chúng sẽ gặp Người sau nầy (12:22). Quy tắc “cứ từng hai người” (x. Đnl 19:15; Gio 8:17) khi họ được sai đi là để bảo đảm lời chứng của họ về Người được nhận là xác thật.
Trong phần mở đầu của diễn từ, trước hết Chúa Giêsu đặt các môn đệ trong tương quan với Thiên Chúa (c. 2). Thiên Chúa là Chủ mùa (kurios). Thợ gặt là các môn đệ (c. 7). Họ là những người thợ làm việc cho Thiên Chúa, và theo ý của Người. Thực trạng là “Mùa gặt nhiều, thợ gặt ít”. Hình ảnh ẩn dụ “mùa gặt” ở đây không phải là hình ảnh của sự phán xét (x. Mic 4:11-13; Is 63:1-6; Giêr 25:30-31; Gioel 3:13), cũng không phải là sự quy tụ cánh chung (Is 27:12-13), mà là thời kỳ sau cùng do việc Chúa Giêsu đến trần gian. Đây là lúc mọi người được kêu gọi vào trong Nước của Thiên Chúa ngang qua lời rao giảng và con người của Chúa Giêsu. Sau Người là đến mùa gặt; không còn một ai khác được sai đến nữa. Luca ghi nhận là số người tin gia tăng nhiều trong thời kỳ các tông đồ (x. Cv 2:41.47; 4:4; 11:24). Người môn đệ phải cầu xin với Chủ mùa, vì họ không có khả năng chu toàn mùa gặt (x. 5:12; 8:38; 9:38; 22:32). Người môn đệ, như là thợ gặt, chỉ nhắm làm việc cho mùa gặt của Thiên Chúa; như thế, họ không phải lo âu vì mùa gặt quá lớn và không phải đòi hỏi nhiều cho chính bản thân (c. 4).
Tiếp đến, Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy tương quan của họ với người khác và chính bản thân (3-4). Mở đầu là mệnh lệnh “Hãy đi”. Người môn đệ như con chiên được sai vào giữa sói (c.3). Chiên thì hiền lành. Sói thì hung dữ, và cắn xé (x. Gio 10:12). Họ đi, vì được sai. Mỗi lần ra lệnh như thế, Chúa Giêsu đã thấy trước những gì sẽ xảy ra cho họ (x. 19:30). Bởi đó, họ cứ ra đi với lòng tin tưởng, và không lo lắng. Với bản thân, Chúa Giêsu đòi hỏi họ, như đã đòi hỏi nhóm Mười Hai (x. 9:3), từ bỏ tất cả: túi tiền, bao bị, giày dép, nghĩa là những thứ cần thiết và bảo đảm cho hành trình. Những gì họ cần, nhà hoặc làng họ đến sẽ cung cấp cho họ (c.7), như Người đã lo liệu cho họ tất cả rồi; nên sau nầy họ sẽ quả quyết là không thiếu gì cả (22:35). Người cấm họ chào dọc đường (c. 4b; x. 2 V 4:29), vì Người muốn họ vội vã đi đến nơi họ phải đến và khởi sự bổn phận sớm chừng nào có thể. Họ chỉ chào lúc vào trong nhà, vì lời chào của họ chính là sự hiện diện của họ, mang lại bình an cho nhà ấy (x. 1:40; 24:39).
Trong hai phân đoạn tiếp theo (10:5-7 và 10: 8-10) Chúa Giêsu cho họ biết hai trường hợp có thể xảy ra khi họ vào một nhà hay một thành. Hoặc người ta đón nhận người môn đệ, hoặc khướt từ họ; cũng có nghĩa là đón nhận hoặc khướt từ sự bình an. Nếu người ta đón nhận họ (10:6a.8), họ lưu lại đó, ăn uống những gì người ta dọn cho. Họ sẽ làm như Chúa Giêsu là chữa lành bệnh tật, và loan báo Nước Thiên Chúa đã gần (c. 8-9). “Con cái của bình an” là những người mở lòng đón nhận bình an, tin mừng và ơn chữa lành do các môn đệ mang đến (x. 2:10.14). Người môn đệ không đi nhà nầy sang nhà khác để tìm nơi ở tốt hơn, vì họ phải đặt bổn phận lên hàng đầu và không đánh mất thời giờ bởi điều phụ thuộc.
Nếu người ta không đón nhận họ (10: 6b.10), họ ra đi và phủi bụi chân lại, như nhóm Mười Hai cũng được truyền làm như vậy (9:5; x. Cv 13:51; 18:6). Hành động nầy được làm nơi “công trường” nghĩa là làm công khai cho mọi người thấy, và kèm theo lời nói cắt nghĩa hành động ấy “các con hãy nói” (c. 10). Hành vi nầy chỉ cho thấy người môn đệ không đem theo họ bất cứ cái gì của dân thành ấy. Tất cả đều được trả lại, ngay cả bụi dưới chân; nghĩa là họ không có liên hệ nào với thành ấy. Người môn đệ vẫn nói cho dân thành nầy biết “Nước Thiên Chúa đã gần đến”. Tuy nhiên, đó không phải là ơn cứu độ, mà là sự phán xét. Chúa Giêsu đã tuyệt đối tin cậy và ban uy quyền cho các môn đệ, nên ai từ chối tiếp nhận họ là từ chối tiếp nhận chính Người (x. 10:16). So sánh với sự khép lòng của các thành Sôđôma, Tyrô và Siđôn, sự từ chối của thành như thế nặng hơn, vì họ khép lòng đối với chính Chúa Giêsu.
Nhóm 72 môn đệ được sai đi rao giảng Nước Thiên Chúa cho mọi người. Việc nầy tự bản chất là khó, vì đó là công việc của Thiên Chúa. Họ còn gặp những khó khăn đến từ bên ngoài. Điều duy nhất họ có thể vượt thắng tất cả, và mang lại hoa trái cho Thiên Chúa là từ bỏ mọi sự, và làm theo lời Người chỉ dạy.
---------------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 10:1-12.17-20)
Trong học trình đào tạo môn đệ, Chúa Giê-su khá tỉ mỉ về những vấn đề liên hệ tới tác phong của: TN 14-C75
Trong học trình đào tạo môn đệ, Chúa Giê-su khá tỉ mỉ về những vấn đề liên hệ tới tác phong của người đi loan báo Tin Mừng. Từ hành lý của họ cho đến cách thức họ tiếp cận với những người đón nhận Tin Mừng, Chúa Giê-su đều có những chỉ dẫn rất cụ thể và khôn ngoan, thí dụ “Đừng mang ví tiền, bao bị, giày dép… Đừng có hết nhà này lại sang nhà nọ…” Tuy nhiên điều quan trọng nhất vẫn là sứ điệp người môn đệ có bổn phận phải truyền đạt cho người nghe, đó là: “Nước Thiên Chúa đã gần bên các ngươi”. Đây là sứ điệp quan trọng đến độ dù người rao giảng có bị xua đuổi thì họ cũng vẫn có bổn phận phải lập lại sứ điệp ấy cho người nghe trước khi họ đi nơi khác.
Nước Thiên Chúa hay Triều Đại Thiên Chúa đã được Thiên Chúa thiết lập khi Người sai Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô đến thế gian để loan báo và làm chứng cho nhân loại biết rằng Người yêu thương họ và muốn cứu độ họ. Nước Thiên Chúa không giống như một nước thế gian, nghĩa là mang hình thức trần thế, có vua quan dân giả, các tổ chức và luật lệ. Nhưng Nước Thiên Chúa là thời đại cứu độ. Trong thời đại này, Thiên Chúa mời gọi nhân loại hãy tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và sứ mệnh cứu độ của Người. Muốn tin như thế, chúng ta cần phải đón nhận Tin Mừng do Người rao giảng, sống những điều Người dạy dỗ, nhờ đó con người chúng ta được biến đổi dần dần trở nên giống như Người. Nước Thiên Chúa cũng là thời gian thể hiện kế hoạch cứu độ Người đã sắp đặt từ muôn đời, để giải phóng nhân loại khỏi ảnh hưởng độc hại của tội lỗi, đem con người từ bậc sống tự nhiên lên bậc sống siêu nhiên, tức là làm con cái Chúa. Động lực khiến Thiên Chúa làm những điều này hoàn toàn là do lòng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên thánh Phao-lô gọi đó là “kế hoạch yêu thương”.
Nội dung sứ điệp các môn đệ Chúa có bổn phận loan báo chính là Nước Thiên Chúa, nhưng phải là Nước Thiên Chúa “đã gần bên chúng ta”. Đúng vậy, Nước Trời không phải là một thực tại xa vời, ở trên trời hay một nơi xa xôi nào đó, nhưng là một tình trạng xảy ra ngay trong tâm hồn chúng ta. Ân Sủng của Nước Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô phải được chúng ta mở lòng đón nhận. Cái chết của Chúa Giê-su thay đổi căn tính của chúng ta, cho chúng ta sống đời sống của những người con cái Thiên Chúa. Thánh Thần là tinh thần của Chúa Giê-su hướng dẫn chúng ta trong đời sống mới này. Để cho Nước Thiên Chúa “đến gần” bên chúng ta nghĩa là để cho ảnh hưởng của Chúa Ki-tô và Tin Mừng của Người thấm nhập và thay đổi đời sống chúng ta, nhờ vậy dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ đối xử với Thiên Chúa, với anh chị em đúng như cách thức Chúa Ki-tô đã sống.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sứ điệp “Nước Thiên Chúa đã gần bên các ngươi” có khi nào làm chúng ta giật mình không? Hay chúng ta vẫn nghĩ Nước Thiên Chúa là thiên đàng ở đời sau hoặc là nơi để chúng ta được hưởng hạnh phúc muôn đời? Dĩ nhiên điều ấy không phải hoàn toàn sai, vì đó sẽ là kết cục của Nước Thiên Chúa ở trần gian này. Chúng ta chỉ có thể đến nơi ấy sau khi đã đón nhận và sống trong Nước Thiên Chúa ở đời này, nghĩa là sống như con cái đích thực của Chúa và như những người em ngoan ngoãn của Chúa Giê-su, người Anh Cả chúng ta trong nhân loại mới. Chúa đã chuẩn bị đầy đủ để chúng ta được sống danh phận làm con Chúa ở đời này qua Giáo Hội Chúa Ki-tô. Quan trọng là chúng ta có mở lòng đón nhận Nước Thiên Chúa hay không, điều ấy hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta.
Lm. Dominic TTL
ngày 30-6-2010
---------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm 11/4, Thứ 5 Tuần Thánh vừa qua, Đức giáo Giáo hoàng Phanxicô, 82 tuổi, đã làm hành động TN 14-C76
Hôm 11/4, Thứ 5 Tuần Thánh vừa qua, Đức giáo Giáo hoàng Phanxicô, 82 tuổi, đã làm hành động cả thế giới nhất là các nhà chính trị Nam Sudan sửng sờ, Ngài đã quỳ xuống hôn chân Tổng thống Nam Sudan cùng hai Phó tổng thống tại Vatican mặc dù Đức Thánh Cha bị đau chân nên việc đứng lên ngồi xuống gặp khó khăn. Cơ quan truyền thông của Tòa thánh gọi cử chỉ của Giáo hoàng là "đáng ngạc nhiên và cảm động", một điều "chỉ có thể lý giải được trong bầu không khí của sự khoan dung và xây dựng hòa bình và bình an cho nhau". Khi hôn chân các nhà chính trị xong, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Tôi bày tỏ hy vọng chân thành rằng sự thù địch cuối cùng sẽ chấm dứt, hiệp định đình chiến sẽ được tôn trọng, sự chia rẽ chính trị và dân tộc sẽ được khắc phục, và sẽ có một nền hòa bình lâu dài vì lợi ích chung của tất cả công dân đang mơ ước bắt đầu xây dựng đất nước hòa bình". Quả thật, qua cử chứng ấy, chúng ta thấy rằng Ngài là sứ giả an hòa của Chúa. Ngài là tông đồ 266 của Chúa Giêsu, kế vị thánh Phêrô đã đem đến cho con người hôm nay sự an hòa cho mọi người theo gương Chúa Giêsu sứ giả an hòa đích thực duy nhất của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Tình Yêu, là Đấng giàu lòng thương xót. Người không làm gì khác hơn là đem sự an hòa đến cho con người. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1 nói rằng: “Ta tuôn đổ xuống Thành đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối” (Is 66,12). Rồi Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói thêm rằng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ban cho chúng ta tràn đầy ân sủng. Ân sủng đó chính là bình an, lòng thương xót Chúa cứu độ chúng ta mọi ngày trong suốt cuộc đời này. Vậy, xét cho cùng, tất cả những gì chúng ta đang có đều do lòng thương xót Chúa ban. Do đó, những gì chúng ta cho tha nhân, không phải chúng ta cho của riêng mình, nhưng là giao lại cho người khác những gì thuộc về Chúa, đó là sự an hòa của Chúa.
Cho nên, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ đến giáo dân hãy ra đi hãy lên đường đem an hòa của Chúa đến cho mọi người, như thế chúng ta mới xứng đáng là những sứ giả đích thực của Chúa. Ta thường nghĩ rằng sứ giả của Chúa thường dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể làm sứ giả cho Chúa được? Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa đã cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu cho ta thấy sứ giả đem sự an hòa của Chúa đến cho mọi người là công việc của mọi người, cụ thể hôm nay Chúa Giêsu sai 72 môn đệ lên đường. Tin Mừng kể mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ, một đám người rất đông không xác định tên tuổi rõ ràng. Đó là tất cả mọi người giáo dân, người lành lặn cũng như khuyết tật như lời Thánh Phaolô xác tín trong bài đọc 2 rằng: “Từ nay đừng có ai gây phiền toái tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những dấu vết tích của Đức Giêsu”. Vết tích đó chẳng phải là những vết thương của bình an và hòa thuận đó sao?
Như vậy, Chúa Giêsu muốn tất cả mọi người đều phải đi làm sứ giả đem sự an hòa cho Nước của Ngài là một vương quốc không có ranh giới, không có lãnh thổ, không phân dân tộc nào vì chưng sự an hòa của Chúa không dành riêng cho đối tượng nào nhưng là cho tất cả mọi người vì Thiên Chúa luôn cảm thông và hay thương xót.
Thật vậy, ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, từ khi được làm con Chúa, khi được gia nhập vào Giáo Hội, người Kitô hữu được trao cho một chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao cho một cây nến sáng được thắp sáng từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh và bình an của Ngài. Đức Kitô là ánh sáng và bình an của Thiên Chúa. Ai tiếp nhận ánh sáng và bình an Chúa Kitô thì cũng trở nên đèn sáng soi và thương xót người khác bằng chính cuộc sống của mình, tức là kiến tạo sự an hòa trong gia đình, cộng đoàn, xã hội chúng ta đang sống.
Kitô hữu phải luôn là người được sai đi, sai đi thực hiện chương trình mang đến sự an hòa của Chúa cho mọi người là trọng tâm sứ vụ của các môn đệ Đức Kitô. Vì chưng, mỗi ngày cảm chúng ta đã nghiệm được an hòa của Chúa một rõ ràng trong Bí tích Thánh Thể nhờ đó chúng ta trở nên giống Chúa ngày càng nhiều hơn trong tư tưởng lời nói và hành động để rồi hăng hái ra đi đem bình an và hòa thuận yêu thương hiệp nhất đến cho mọi người. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta luôn vâng theo tiếng gọi của Chúa và sẵn sàng ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng tình yêu, bình an và hòa hợp, đến với những đình đang gặp khó khăn, thiếu sự bình an, hòa giải và hòa thuận yêu thương để nhờ đó mọi người trong gia đình ấy được an hòa như lòng mình ước mong. Amen.
---------------------------------------
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Sống giữa thế giới đầy bất an, con người ý thức sự bình an cần thiết và là nhu cầu sống còn. Vì TN 14-C77
Sống giữa thế giới đầy bất an, con người ý thức sự bình an cần thiết và là nhu cầu sống còn. Vì vậy, người ta đã đi tìm bình an trong nhiều phương thế khác nhau. Thánh Luca tường thuật Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Người đã dặn dò môn đệ đừng mang nhiều thứ. Thế nhưng, có một thứ mà người môn đệ cần và phải có, đó là sự Bình An. Sứ mệnh loan báo Tin Mừng Bình An không là quyền của một cá nhân, nhưng là trách nhiệm của tất cả chúng ta, những Kitô hữu theo Chúa. Như đã sai các môn đệ, hôm nay Chúa cũng vẫn tiếp tục sai chúng ta đi vào cánh đồng lúa mênh mông mà rất ít thợ gặt. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
"Hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về." Chúa Giêsu thấy cánh đồng truyền giáo rộng lớn trải dài đến tận cùng trái đất. Chúa cũng thấy tình trạng thiếu sứ giả Tin Mừng sẵn sàng ra đi. Thế nên Chúa đã nhắn nhủ môn đệ " Hãy xin chủ mùa gặt." Vì biết rằng chính Thiên Chúa là chủ mùa gặt. Cầu xin Thiên Chúa ban cho có nhiều thợ, bởi ơn gọi truyền giáo là một ân huệ, là món quà của Thiên Chúa. Chính thánh Phaolô đã khẳng định về ơn này "Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa."(1Cr 15,10) Nhờ ơn Chúa mà người Kitô hữu được chọn gọi, được sai đi loan báo Tin Mừng và tất cả những gì chúng ta làm được cũng là nhờ ơn Chúa. Vì thế, việc đầu tiên ta cần làm đó là cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi và ta cũng sẵn sàng đáp lại lời Chúa mời gọi để ra đi.
"Anh em hãy ra đi, này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói." Chúa Giêsu không chỉ sai các tông đồ ra đi, nhưng Người còn sai tất cả các môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Việc rao giảng Tin Mừng là việc của cả Giáo Hội và cần được liên kết với nhau. Chúa biết môi trường trần gian như hang sói rừng, nhưng Chúa lại muốn chúng ta- những sứ giả Tin Mừng sống "bất bạo động". Chúng ta được Chúa sai đi là chiên ở giữa bầy sói nhưng lại "không phòng thủ". Vì sứ mệnh của người truyền giáo là công bố Nước Thiên Chúa ngang qua chính đời sống. Sức mạnh của chúng ta ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta tự do ra đi mà không sợ hãi vì luôn có Chúa Giêsu ở cùng. Người bước đi cùng ta trên mọi nẻo đường, sẻ chia với ta bao nỗi sướng vui, sầu khổ của sứ vụ. Vì vậy Chúa muốn chúng ta nhẹ nhàng trong hành trình.
"Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép..." để ta thanh thoát chỉ một lòng lo loan báo Tin Mừng. Với chỉ thị này, Chúa muốn người môn đệ truyền giáo sống nghèo, không cậy dựa vào những phương tiện của con người, không gắn bó với giá trị trần thế. Vì mục đích cuối cùng của chúng ta không ở trên mặt đất này, vậy tại sao ta lại bận tâm đến sự bảo đảm của trần gian? Dẫu biết rằng ta cần phương tiện, nhưng có bao nhiêu phương tiện thì chúng ta cho là đủ? Phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối. Chính vì vậy, chúng ta hãy phó thác vào quyền năng và ân sủng vô biên của Chúa, Người sẽ trợ giúp ta để việc truyền giáo thực sự mang đến Tin Mừng bình an cho muôn dân.
"Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này!" Loan báo Tin Mừng là đem bình an đến cho mọi người. Người môn đệ truyền giáo phải mang trong mình sự bình an của Chúa. Vì người có bình an nội tâm thì sẽ hiền lành và lan tỏa bình an đến người khác. Sự bình an tỏa ra trong thái độ sống chan hòa với những người chung quanh, bằng cuộc sống bác ái, yêu thương, phục vụ để làm chứng rằng "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." Như lời của Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ Ấn Độ đã nói với các nhà truyền giáo: "Hãy để cho đời song của các ngài nói với chúng tôi như đóa hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ cần đơn sơ để cho hương thơm lan tỏa. Cả người mù không xem thấy hoa hồng, vẫn nhận ra mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của người Kitô hữu khi họ tỏa hương thơm đời sống." Vậy sự bình an và tình yêu của chúng ta phải được lãnh nhận từ Chúa Giêsu qua đời sống cầu nguyện. Tương quan giữa ta và Chúa thân mật, tốt đẹp, ta cũng sẽ xử sự tốt với anh em, làm những điều tốt, an ủi, chữa lành và đem bình an thực sự đến cho anh chị em ta.
"Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời." Giá trị của người môn đệ và mỗi Kitô hữu chúng ta không phải do việc nọ việc kia ta làm, nhưng là ta được thuộc về Chúa và được ghi danh vào Nước Trời. Đó là giá trị vĩnh cửu khiến chúng ta không làm gì để vinh danh cá nhân mình, nhưng là tất cả cho vinh danh Chúa. Dẫu rằng ta có thể vui về những thành công, nhưng trước hết hãy làm để vui lòng Chúa, vì ta chỉ là dụng cụ bé nhỏ trong bàn tay Chúa. Chúng ta xác tín rằng Chúa thấy hết những gì ta làm và Chúa cùng làm với ta. Bởi vì chính Chúa ban cho ta sức mạnh, quyền năng, tình yêu, bình an...Vì nếu không có Chúa và ân sủng Người trợ giúp, tất cả những gì ta làm chỉ đơn giản như những hoạt động từ thiện và xã hội. Vậy chúng ta hãy vui mừng vì ta được tham dự vào Nước Thiên Chúa, được tuyển chọn và được cứu độ.
Cuộc đời mỗi người Linh mục, Tu sĩ hay Kitô hữu, chúng ta đều được mời gọi trở nên môn đệ và mang sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy sẵn sàng phục vụ Chúa và Giáo Hội trong những môi trường ta đang sống và hãy sẵn sàng ra đi đến bất cứ nơi nào mà Chúa và Giáo Hội cần. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng kêu gọi Linh Mục và cả chúng ta nữa "Hãy dấn thân phục vụ người nghèo, sẵn sàng ra đi để đến với mọi người đang sống bên vùng ngoại vi, bên lề xã hội, đem cho họ tình thương của Thiên Chúa và niềm vui Tin Mừng."
Cánh đồng truyền giáo rộng lớn bát ngát mà thiếu thợ gặt. Chúa cần chúng ta trở nên những thợ nhiệt tâm, là hiện thân của Chúa. Biết cầu nguyện và biết sẵn sàng ra đi, đem đến nơi ta hiện diện những tương quan thân ái, lời nói yêu thương mang lại bình an. Biết rao giảng Tin Mừng, nói về Chúa và tình yêu của Người, thể hiện tình yêu và sự cứu độ qua cử chỉ bác ái sẻ chia, cùng với lòng tôn trọng chân giá trị của con người. Có như thế, chúng ta mới công bố cho thế giới, cho nhân loại hôm nay chứng tá xác thực về một Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và hoạt động; về Chúa Kitô - Đấng là Tình yêu, Bình an và Hạnh phúc đích thực của con người.
Lạy Thiên Chúa Cha là chủ mùa gặt, xin ban cho chúng con thêm nhiều thợ gặt nhiệt thành. Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con và đồng hành với chúng con trong từng nơi chúng con đến, đế ở đó luôn tràn ngập bình an, chan hòa tình yêu và mọi người nhận biết tin yêu Chúa. Lạy Chúa Thánh Thần, xin thánh hóa và biến đổi từng người chúng con. Amen.
---------------------------------------
Mt 11, 25-30
Anh chị em thân mến,
Một giáo dân hỏi một vị linh mục: Thưa cha, sao Chúa khó quá? Sao Hội thánh mình cũng khó nữa: TN 14-C78
Một giáo dân hỏi một vị linh mục: Thưa cha, sao Chúa khó quá? Sao Hội thánh mình cũng khó nữa? Chúa Nhật không đi lễ thì có tội. Chỉ được một vợ một chồng mà thôi; ngoài đời người ta vợ nhóc luôn. Rồi, sao không cho các linh mục có vợ nữa? Con nghĩ cấm chuyện này là không đúng, vì là trái với tự nhiên. Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ mà; đâu phải dựng nên đàn ông không đâu? Chúa nói ách Chúa êm ái, gánh của Chúa nhẹ nhàng, con thấy không nhẹ chút nào cả! Ông cha sở nghe nói cười xòa, trả lời: Mà ông coi, Hội thánh đâu cấm người đi tu không được có vợ! Linh mục không có vợ chính là: tự nguyện sống độc thân vì Chúa và vì Nước Trời. Nếu linh mục không sống độc thân được, nên chọn đời sống gia đình, đừng nên bắt cá hai tay. Ông thấy có phải không? – Dạ dạ… Cha sở nói tiếp: Mà nè, nếu ông muốn, hãy làm đơn xin Tòa Thánh cho phép các linh mục được cưới vợ đi; nhưng họ nên nhớ, khi Tòa Thánh chưa chấp thuận, phải tuân phục Hội thánh, không được xé rào đấy nhé! Mọi người xung quanh nghe câu nói đều cười ầm lên….
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có hai điều chúng ta cần suy niệm:
a/.Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn. Có người sẽ nói: Không lẽ Chúa ghét người khôn ngoan, cao trọng hay sao? Sao Chúa lại yêu thương trẻ nhỏ mà không phải người lớn? Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã nói: Nước Trời là của trẻ nhỏ và của những người giống như chúng. Có người sẽ hỏi: Tại sao phải ưu tiên cho trẻ nhỏ? Có phải đây là một định kiến để lật đổ phẩm trật đã có sẵn không? – Thưa không. Chúa Giêsu yêu trẻ nhỏ không phải vì chúng dễ thương hơn người lớn. Người không yêu thương ai bằng tình cảm bên ngoài. Đứa trẻ được Chúa yêu thương, là hình ảnh trẻ con luôn tin tưởng, trông cậy vào cha mẹ. Trẻ con không trông cậy vào mình; chúng chỉ trông cậy vào người lớn. Tâm hồn chúng hoàn toàn trống rỗng cần được lấp đầy. Chính vì thế Chúa luôn sẵn sàng lấp đầy tâm hồn trẻ thơ ơn sủng sung mãn của Người, vì Người luôn muốn ở trong tâm hồn của trẻ thơ; nơi đây cũng là đền thờ tốt lành của Chúa Thánh Thần…
b/ Ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến, Ta sẽ thêm sức cho…Hãy mang lấy ách của Ta…vì ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng. Chúa Giêsu nói, ách Chúa êm ái, gánh Chúa nhẹ nhàng, Chúa có mâu thuẫn không? Đã là ách và gánh làm sao nhẹ nhàng được?
Một bà nhơn đức trong họ đạo, một hôm đến gặp cha sở và nói: thưa Cha, bà bạn của con vừa nói với con: khi tôi dâng mình cho Chúa rồi, y như là Chúa để cho gặp tai ương, giống như Chúa “chơi” tôi vậy. Bà nên nhớ, bà đừng có dâng mình, vì dâng mình xong, Chúa phát cho bà một gánh nặng là bà phải chạy dài ngay…Thưa cha, con thấy bà bạn con hiểu biết về Chúa sai lạc quá! Dù vậy con ít lời lắm. Con không biết nói sao cho bà hiểu; nên con muốn trình cha, để cha biết, có dịp cha giải thích lại cho bà ta….
Rõ ràng câu chuyện trên đây cho ta thấy, ngay cả người có đạo lâu năm cũng không hiểu mấy về Chúa. Ách của Chúa chính là đạo lý của Tin mừng; ai muốn theo Chúa phải tuân giữ đạo lý này; đó là: tin tưởng – khiêm tốn – vâng phục. Ách của Chúa êm ái nhẹ nhàng, không phải là vì đó là gánh nặng dễ dàng mang trên vai. Đó chính là gánh nặng được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu và nó cũng được chúng ta vác trong tin yêu nữa. Thử hỏi có ai vác gánh nặng của mình mà bước đi trong vui vẻ, hăng hái, lại cảm thấy gánh đó quá nặng không thể mang nổi không? Hay là chúng ta phải nói ngược lại?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Nước Trời dành cho kẻ bé mọn, chính là những người luôn cần đến, những người sẵn sàng thành tâm đón nhận. Mỗi người Kitô hữu chúng ta có phải là kẻ bé mọn, đáng được nhận lãnh Nước Trời không? Hãy đến với Ta, những ai vất vả mang gánh nặng nề: Chúa mời ta đến để Chúa chia sớt gánh nặng cuộc đời cho chúng ta. Ta có tin không? Ta có sẵn sàng đến với Chúa không?
---------------------------------------
Mt 11, 25-30
Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt: TN 14-C79
Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt được. Người Hy lạp vốn nổi tiếng về khôn ngoan và thông biết đã coi việc giảng dạy của Phaolô về Thập giá của Đức Giêsu Kitô là sự điên rồ. Nhà du hành vũ trụ người Nga Gadadin đã kiêu căng nói rằng: “Tôi đã bay khắp cùng trái đất mà chẳng thấy bóng dáng của Thiên Chúa ở đâu cả”. Quả thật, sự hiểu biết của những con người kiêu căng đã làm cho họ xa rời Thiên Chúa vốn là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Triết gia Bacon đã nói: “Kiến thức nông cạn đưa con người xa rời tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu xa dẫn đưa con người lại gần Tôn giáo”. Như thế, những hiểu biết của con người dù có uyên thâm cỡ nào đi nữa mà làm cho họ trở nên xa cách tôn giáo hay xa cách Thiên Chúa thì chỉ là những kiến thức hàm hồ và nông cạn theo nghĩa sâu xa nhất của nó.
Tin mừng hôm nay chó chúng ta thấy được rằng: Những con người đơn sơ và khiêm tốn sẽ được hiểu biết về Thiên Chúa nhờ họ biết đón nhận Đức Giêsu Kitô và những lời giảng dạy của Ngài. Trong khi đó, những con người tự kiêu, tự phụ về sự thông hiểu của mình đã khước từ Đức Giêsu Kitô và cho Ngài là kẻ mất trí và bị quỷ ám.
Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô là một mầu nhiệm, một siêu lý đối với con người, nên con người không thể biết rõ về Ngài nếu không được Thiên Chúa ban ơn hiểu biết ấy. Mầu nhiệm nơi Đức Giêsu Kitô “không phải là một vách tường chận đứng trí óc của chúng ta, nhưng là một biển cả, trong đó trí óc chúng ta chìm đắm” (Gustave Thibon). Chính sự khiêm nhường sẽ đưa dẫn con người đến với Thiên Chúa. Khuôn mẫu của sự khiêm nhường ấy chính là Đức Giêsu Kitô “Hy hc cng Ta vì Ta hin lnh v khim nhượng trong lng” Chính Ngài là vị Vua Messia hiền lành và khiêm nhu mà sách tiên tri Dacaria nói đến trong bài đọc một hôm nay.
Đức Giêsu Kitô đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha bởi lẽ Ngài biết rõ về Cha và Cha cũng biết rõ Ngài. Chữ “biết” trong Thánh kinh có nghĩa là có sự liên hệ cá nhân với người mình biết và có sự tiếp xúc thân mật với người đó. Như thế, biết Thiên Chúa chính là nhập vào sức sống lớn lao và một dòng ánh sáng vĩ đại phát ra từ trái tim Thiên Chúa và trở lại với Ngài.
Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha. Đây là một hồng ân cao vời mà con người đã đón nhận một cách nhưng không . Ân ban này hoàn toàn miễn phí, chỉ cần người nhận biết mở lòng mình ra và đơn sơ đón nhận. Nhưng đây không phải là chuyện dễ dàng đối với những người quá thông minh và hiểu biết! Bởi đó, rất có thể sự khôn ngoan của loài người là nguyên cớ cản trở lớn nhất cho việc họ tìm đến với Thiên Chúa. Khi thấy mình quá giỏi, quá tài, con người chỉ lo củng cố mình và coi mình quá lớn lao đến nỗi không còn chỗ cho Thiên Chúa trong cuộc đời của họ nữa. Họ thấy mình quá quan trọng đối với nhân loại và nghĩ rằng mình có thể cứu nhân loại khỏi những đau khổ trong cuộc đời này. Sai lầm này xem ra chẳng tốt đẹp cho tha nhân mà cũng chẳng tốt lành gì cho bản thân của họ nữa.
Chuyện kể rằng: “Có một máy bay nhỏ chở hành khách đang bay ở độ cao trung bình và với vận tốc vừa phải. Hành khách trên máy bay gồm một vị giáo sĩ, một hướng đạo sinh, một giám đốc sản xuất điện toán. Đang bay trên bầu trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không hoạt động nữa. Gió rít mạnh làm chiếc máy bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra, nhưng trên máy bay có tất cả bốn người. Làm sao đây?
Viên phi công khóc và nói: “Tôi phải có một cây dù, vì tôi có vợ và ba đứa con thơ.” Nói đoạn, viên phi công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy vội ra khỏi máy bay. Ba người còn lại nhìn nhau. Ông Giám độc điện toán kêu lên: “Ồ, chắc là tôi phải cần một cái dù. Tôi là người thông minh nhất thế giới và thế giới đang cần tôi”. Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay luồn dây vào vai rồi vội nhảy ra ngoài.
Vị giáo sĩ thở dài buồn bã, quay sang nói với anh hướng đạo sinh: “Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối cùng và nhảy ra đi. Cha đã già rồi, cha sẵn sàng để đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai huy hoàng đang chờ đợi con. Con không thể chết được”. Nhưng người hướng đạo sinh mỉm cười nói: “Cha già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy yên tâm. Vẫn còn đủ dù cho hai cha con mình. Người tự hào là thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi bằng chiếc ba lô của con”.
Hãy tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên Chúa để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta. Hạnh phúc cho những ai biết nép mình bên Chúa như đứa con thơ trong tay người mẹ hiền của mình.
Hãy học biết Thiên Chúa theo ơn Ngài ban cho chúng ta và theo những gì Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta. Biết Thiên Chúa chính là sống thân tình với Ngài, là bơi lội trong biển tình thương và ân sủng của Ngài. Đừng đòi hỏi Thiên Chúa bất cứ điều gì chỉ nhằm làm thoả mãn tình hiếu kỳ và kiêu căng của chúng ta. Chúa luôn ở gần những tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ và không ngừng ban ơn cho họ.
---------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Ngoài mười hai Tông đồ, Chúa Giêsu lại gọi thêm bảy mươi hai môn đệ khác và sai họ đi rao TN 14-C80
Ngoài mười hai Tông đồ, Chúa Giêsu lại gọi thêm bảy mươi hai môn đệ khác và sai họ đi rao giảng. Ngài cho họ thấy rằng công việc không thiếu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Hãy xin thêm thợ gặt”.
Tình trạng thiếu thợ gặt chính là tình trạng của Giáo hội hôm nay. Trong các vùng Kitô giáo lâu đời, như châu Âu, các chủng viện và dòng tu càng ngày càng trống. Không còn ơn gọi linh mục và tu sĩ. Các vùng Á châu và Phi châu, ơn gọi vẫn còn nhiều, nhưng vẫn không thể đáp ứng nhu cầu của Giáo hội.
Chúng ta có gia tăng lời cầu nguyện xin chủ mùa gặt ban thêm thợ gặt không? Chúng ta có cảm thấy rằng, nếu chúng ta không là một nhà truyền giáo chuyên nghiệp, chúng ta vẫn có thể đóng góp vào sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội bằng lời cầu nguyện của chúng ta không? Đó là điều Chúa Giêsu đã bảo chúng ta: “Hãy xin chủ mùa gặt sai thợ gặt ra gặt lúa về”. Giáo hội vẫn kêu gọi chúng ta cầu nguyện xin ơn gọi linh mục và tu sĩ, chúng ta có hưởng ứng không? Chúng ta có cầu nguyện tha thiết như cầu cho cha mẹ chúng ta sắp lên ca mỗ không, hay chỉ một vài lời qua loa cho có? Chúng ta có yêu mến Giáo hội và mong cho Nước Cha trị đến như ước mong thoát một cơn gian nguy không? Biết bao linh hồn chưa biết Chúa, chúng ta có biết không? Chúng ta sống trong Giáo hội mà cứ tưởng mình là khách vãng lai. Thật đáng tiếc!
Khi sai các môn đệ ra đi, Chúa Giêsu căn dặn mọi điều cần thiết: làm thợ gặt cho Ngài không phải là chiếm một địa vị mà “ra đi như chiên con giữa sói”, hoàn toàn nhỏ bé, bị đe dọa. Người rao giảng Tin Mừng luôn là tay không, không có gì để tự vệ.
Nhìn lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta nhận thấy nhiều sai lầm khiến chúng ta phải xấu hổ và những người ghét đạo đã dựa vào đó để chỉ trích Giáo hội nặng nề; ví dụ thời các vua như Contantinô, Charlemagne… đã buộc người khác theo đạo bằng lưỡi gươm. Các đoàn quân thập tự đã đổ xô đến Giêrusalem để dành lại những di tích của Chúa Giêsu và muốn thiết lập triều đại của Thiên Chúa bằng áp lực, bằng gươm đao. Cách giảng đạo như thế đã ghi một dấu vết đen tối trong lịch sử Giáo hội, mặc dù họ thiện chí, nhưng họ đã đi ngược lại ý muốn của Chúa. Những người rao giảng Tin Mừng phải là sứ giả của bình an: “Vào nhà nào, anh em hãy chúc bình an cho nhà đó”. Như chiên con giữa sói chứ không như một lính chiến với gươm đao.
“Như chiên con giữa sói” là chấp nhận chịu bách hại, bị khinh miệt, bị xua đuổi… Chúng ta vẫn nghe tin tức, nhiều nơi trên thế giới, các linh mục, nữ tu bị giết hại, bị cầm tù, bị hành hạ. Số phận của những người rao giảng Tin Mừng là như thế. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, và Ngài vẫn sai chúng ta đi. Chúng ta cũng đồng số phận như Ngài: “Môn đệ không trọng hơn Thầy”. Thầy chí thánh của chúng ta đã bị bỏ rơi, bị bách hại trước. Theo vết chân Ngài, chúng ta phải như Ngài thôi. Nhưng chúng ta vẫn không nản lòng, sợ sệt vì Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở lại với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài cũng trách các môn đệ: “Sao lại hèn tin như thế?” Nếu Ngài bỏ rơi chúng ta, lúc ấy chúng ta mới sợ, nhưng Ngài vẫn ở với chúng ta thì có gì phải sợ? Niềm tin sẽ giúp chúng ta bước tới.
Nhìn vào gương thánh Phaolô, một gương mẫu sáng ngời cho chúng ta, chúng ta thấy gì? Chính Ngài công nhận: “Tôi mang trên tôi những dấu tích của Chúa Giêsu”. Đó là vết tích do đòn bọng, ngược đãi, ném đá… Ngài còn nói: “Các (Tông đồ) là người phục vụ Đức Kitô ư?... Tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do Thái đánh bốn mươi roi trừ một, ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu… gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại…”
Chúng ta không có tầm cỡ như Ngài, nhưng chúng ta vẫn có thể chịu đựng nhiều khổ nhọc cho Chúa. Thánh Phaolô luôn đi tới, không lui. Số phận các môn đệ là như thế: “Ai muốn theo Ta”. Muốn hay không muốn, Chúa không ép buộc.
Một điều Chúa đòi buộc là không mang theo gì cả, chỉ mang theo sự bình an của Chúa thôi. Tâm hồn của người môn đệ phải thực sự bình an mới có thể mang bình an cho người khác. Bình an là không lo lắng về tiện nghi, dụng cụ… không bận tâm lo cho bản thân, tiền bạc… Những môn đệ hôm nay luộm thuộm đủ thứ máy móc, phương tiện. Giáo hội khuyến khích sử dụng tất cả những kỹ thuật hiện đại để loan báo Tin Mừng, nhưng phải sử dụng thế nào, lúc nào cho hợp lý và khôn ngoan. Nhiều môn đệ quá lo về kỹ thuật mà quên những điều kiện cần thiết là lòng mến Chúa chân thành. Cha Yves de Moncheuil gọi đó là “não trạng kỹ thuật”. Nhiều người đã để cho kỹ thuật lấn át Tin Mừng. Một số người khác lại luộm thuộm về bản thân mình. Rao giảng chính mình hơn là lời Chúa. Quá chú tâm tới tài hùng biện, muốn hấp dẫn mọi người, trở thành “điệu bộ”, mất nét tự nhiên, và biến rao giảng thành trình diễn.
Chúa Giêsu không cho mang theo gì cả, tay không, để sứ điệp được luôn trong suốt.
Nội dung duy nhất của việc rao giảng là Nước Thiên Chúa, không là gì khác. Nếu cần “hãy chữa những người đau yếu”. Lời rao giảng bình an kèm theo việc bác ái phục vụ dọn đường cho Nước Chúa.
Chúng ta đừng nghe rồi để đó. Chúa đang mời gọi chúng ta làm thợ gặt cho Ngài. Chúng ta ngại ngùng vì những điều kiện gắt gao của Ngài chăng? Chúng ta ngại vì khả năng yếu kém chăng? Hãy tin vào Đấng đã kêu gọi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự mà không cần chúng ta, nhưng Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài để chúng ta được ghi tên vào Nước Trời. Thành công hay thất bại không quan trọng, nhưng quan trọng là thiện chí và lòng mến, là chất liệu cho Nước Trời. Hãy can đảm vì Chúa không để chúng ta hoạt động một mình, Ngài luôn trợ lực.
Hôm nay, cộng đoàn phụng vụ chính là cộng đoàn của những chiến sĩ Tin Mừng, và Chúa Giêsu sẽ ngự giữa chúng ta, sai chúng ta ra đi vào thế giới vô đạo hôm nay, với bàn tay trắng, nhưng với một kho tàng vô giá trong lòng chính là Chúa chúng ta. Ngài ở trong tận thân xác chúng ta nhờ tấm bánh tình yêu Ngài trao ban hằng ngày cho chúng ta.
---------------------------------
(Mt. 11, 25-30)
Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng nhưng cũng là Đấng khiêm tốn và quãng đại vô cùng: TN 14-C81
Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng nhưng cũng là Đấng khiêm tốn và quãng đại vô cùng. Ba Ngôi cho đi tất cả, không hướng về bản thân mình nhưng hướng về hai Ngôi kia trong một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn lực và là mẫu mực về tình yêu thương phục vụ cho loài người chúng ta.
Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc loài người. Ngài là Tạo Hoá mà lại rất mực quan tâm đến loài thụ tạo chúng ta. Ngài biết rõ mọi sự và có dư khả năng để bắt loài người luôn vâng lệnh Ngài. Tuy nhiên, khi đến với loài người, Ngài tỏ lòng từ bi, nhân ái đối với loài người. Ngài là Tạo hóa mà lại chấp nhận ban cho loài người quyền tự do: tự do vâng phục và tự do… chống đối Ngài, có khả năng xúc phạm đến Ngài. Thiên Chúa vẫn một lòng thương cho dù con người có lỗi phạm nặng nề. Điều đó biểu hiện nơi Chúa Giêsu, nơi lòng thương xót của Ngài. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu còn nói lời tha thứ cho những kẻ giết hại mình: xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết. Từ lúc chưa nhập thể thì Ngôi Hai đã biết mình sẽ nhập thế cứu chuộc cho ai rồi: những người tội lỗi, đang xa lìa Chúa và thường xuyên lỗi lời Chúa dạy. Dầu con người hay lỗi phạm đến thế, Chúa vẫn tìm dịp cho con người hoán cải. Có lúc Chúa cảnh cáo và đe phạt nặng nề, nhưng không tiêu diệt. Khi con người hoán cải thì Ngài lại thương tiếp tục ban ơn, thể hiện lòng nhân từ đối với loài người tội lỗi. (vd: Xh 33, 3t )
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa biểu lộ rõ nơi Chúa Giêsu, một tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo. Từ khi nhập thể, Ngài đã biểu lộ rõ sự khiêm nhường: đến ở trong một gia đình nghèo, trong một làng nghèo miền Galilê xa thủ đô. Ngài sinh trong dòng tộc vua Đavid nhưng là một dòng tộc lúc đó đã hết quyền và nghèo khổ. Ngài còn chấp nhận sinh ra trong hang chiên lừa, bị bắt bớ, bị coi thường. Lúc đi giảng đạo, chắc Chúa phải nghe nhiều lần câu: Ông ấy là con bác thợ mộc Giuse, ở Nazarét nào có cái chi hay, còn ông này chúng ta biết rõ từ đâu tới… (x.Mt 13,55). Chúa Giêsu đã khiêm tốn chịu sự hiểu lầm đó và phó thác hoàn toàn cho Chúa Cha định liệu. Ngài đi rao giảng nhưng kết quả trước mắt không được mỹ mãn, Ngài lại bị kết án oan do sự phạm thượng của con người. Ngài lại chẳng oán phạt. Ngài trở nên con chiên hiền lành trong tay Chúa Cha và để cho loài thụ tạo mặc sức hành xử! Đó không phải là gương khiêm tốn và phó thác vô cùng của Thiên Chúa sao?
Noi gương Chúa, chúng con sẽ sống đạo trong tinh thần khiêm hạ và nhận ra sự thật về chính mình. Chúng con chỉ là loài hay chết, đầy giới hạn và yếu đuối. Tất cả là nhờ ơn Chúa. Do đó, chúng con cần hạ mình, chấp nhận cuộc sống nghèo, biết cộng tác với ơn Chúa và nổ lực đáp trả lời Ngài mời gọi. Chúng con xin cám ơn Chúa đã hiện diện và ban ơn từng giây phút trong cuộc sống của mỗi người chúng con. Chúng con là loài thụ tạo, chẳng đáng là gì trước mặt Chúa vậy mà nhiều lúc lại quá ngạo mạn khi cho rằng Chúa phải cho mình điều này điều kia. Chúng con thật quá vô tình khi đi lễ và giữ điều luật cách bó buộc: để khỏi bị phạt chứ không vì thương mến Chúa. Chúng con chưa biết học hỏi sự khiêm tốn và tình thương Chúa biểu hiện nơi Đức Kitô mà chỉ biết có mình! Chúa đã yêu thương hết mình vì chúng con, chẳng tiếc gì kể cả Người Con Một, vậy mà khi làm được chút việc lành (mà nhiệm vụ chúng con phải làm), chúng con đòi Chúa phải đáp ứng những yêu sách của chúng con; khi Chúa nhờ vác chút thập giá, chúng con đôi co với Chúa và tìm cách thoái thác dù biết rằng điều chúa muốn là tốt cho chúng con.
Ly Cha, rt nhiu khi chng con t ra nng ni, khng bit nhn ra v đáp tr ting Cha, xin Cha thứ tha v ban ơn trợ gip cho đức tin yu hn ca chng con. Chng con s noi theo tinh thn khim tn ca Người m phc v v chu tòn trch nhim được giao trong tình yu Cha.
---------------------------------------
Mt. 11, 25-30
Cuộc sống nơi miền quê cho chúng ta kinh nghiệm về làm đồng, nơi đó chúng ta chúng kiến cảnh: TN 14-C82
Cuộc sống nơi miền quê cho chúng ta kinh nghiệm về làm đồng, nơi đó chúng ta chúng kiến cảnh những con trâu, bò mang lấy ách để cày những thửa ruộng, liếp vườn. Nên ngay khi chúng ta nghe Chúa Giêsu kêu gọi: "Hy mang ly ch ca Ta, ... vì ách ca Ta thì êm i, cn gnh ca Ta thì nh nhng”. Đã là ách thì làm sao mà êm ái, đã là gánh thì làm sao mà có thể nhẹ nhàng được. Kinh nghiệm trong thực tế cuộc sống không dễ cho con người chúng ta cảm nhận được lời nầy của Chúa Kitô.
Theo truyền thống Do thái, lề luật được xem như là một cái ách đè nặng trên dân chúng mà họ không thể thoát ra được. Thiết tưởng chúng ta cũng nên biết, Lề Luật của Thiên Chúa ban cho dân Do thái là vì tình thương họ, hướng dẫn họ sống đẹp lòng Chúa. Nhưng qua dòng lịch sử, người ta đã thêm vào đó những giải thích theo ý con người làm cho lề luật trở thành một gánh nặng mà người theo đạo khó gánh vác nổi. Như thế ách là một cái gì đang đè nặng là cho phải nặng nhọc hơn cho những ai phải vác lấy nó.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên biết rằng cái ách không chỉ là một cái gì đè nặng mà còn là cái gì đó để liên kết và chia sẻ. Hai con trâu, hai con bò cần có cái ách để nó chia sẻ nỗi khổ nhọc. Trong chiều hướng này chúng ta sẽ thấy và hiểu rõ hơn câu nói của Chúa Giêsu: "Hy mang ly ch ca Ta, ... vì ách ca Ta thì êm i, cn gnh ca Ta thì nh nhng”. Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải vất vả gánh nặng thêm mà Ngài muốn chúng ta hãy để cho Ngài cùng chung vai sát cánh với chúng ta, chia sẻ nỗi vất vả của chúng ta. Lời Chúa dạy là những giới răn mới không phải để trói buộc con người trong sự nô lệ của tội lỗi, của lề luật mà là nô lệ trong tình yêu Thiên Chúa, mà nô lệ trong tình yêu thì chính là sống và chết cho tình yêu Thiên Chúa để đáp lại tình Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta. Vậy ách của Chúa quả là nhẹ nhàng thực sự vì nó mang lại cho ta sự tự do thực sự, tự do trong tinh thần nghĩa tử. Mang lấy ách của Chúa là để Chúa nâng đỡ bổ sức cho chúng ta.
Trong cuộc sống con người ai ai cũng sẽ gặp những khốn khó vất vả trong cuộc sống. Vì thế, người ta thường ví đời là bể khổ, đời là vũng nước mắt.... Nhưng làm sao có thể vượt qua những vất vả này. Thưa là hãy cùng Chúa vượt qua và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài là vua hoà bình, vua bình an. Ngài sẽ quét sạch mọi đau thương khốn khó, Ngài sẽ làm khô những giọt lệ trên khoé mắt chúng ta.
Muốn được như thế mỗi người chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để Chúa cùng hành động với Chúa, chẳng những Chúa bằng lòng mà lại vui lòng nữa khi ta biết để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta cảm nhận được sức mạnh của Chúa trong cuộc sống để chúng ta biết phó thác cho Chúa cuộc đời chúng ta, để Chúa hướng dẫn chúng ta và để Chúa hoàn thành tất cả những gì là đẹp lòng Chúa.
---------------------------------------
Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm C
(Is 66,10-14c ; Gl 6,14-18 ; Lc 10,1-12.17-20)
Có ai trong chúng ta không làm việc gì mà không mong chờ một kết quả: người học sinh dùi mài: TN 14-C83
Có ai trong chúng ta không làm việc gì mà không mong chờ một kết quả: người học sinh dùi mài kinh sử để có tên trên bảng vàng và hy vọng tìm được một chỗ làm tốt; người phụ nữ gồng gánh bán mua để hy vọng có được chút tiền mua thêm bánh trái làm quà cho con ; người đàn ông chạy xe ôm cả ngày để hy vọng cuối ngày có đủ tiền trao cho vợ lo cơm nước; những người làm ăn khấm khá hơn ngược xuôi vất vả với hy vọng sắm sửa áo quần và cải thiện vật dụng trong nhà…
1)Mục tiêu của con người khi nỗ lực làm việc
Ngay những người Do Thái mất cửa mất nhà, mất cả quê hương để đến sinh sống tại Babilon xa lạ từ mấy trăm năm trước Chúa Giáng Sinh và mấy ngàn năm trước chúng ta, nghĩa là ngay khi còn đang ngụp lặn trong khổ cực và thất vọng, cũng không thể không nuôi hy vọng về ngày hồi hương: ngày ấy không những họ sẽ ngừng khóc để nói nói cười cười, mà còn được no cơm ấm áo (trẻ con được bú no nê và được mẹ bế ẵm nâng niu) ; ngày ấy họ sẽ không còn chứng kiến cảnh túng quẫn vô sản, mà ngược lại, của cải cứ lớp lớp tuồn về ; ngày ấy sẽ không còn những thanh thiếu niên gầy giơ xương mà là những cơ thể tươi tốt mạnh khỏe.
“Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng,
Hỡi tất cả những người đã than khóc thành đô,
Để được thành đô cho hưởng trọn nguồn an ủi,
Được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang,
Như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ….
Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô
Ơn thái bình tựa dòng sông Cả,
Và Ta khiến của cải chư dân
Chảy về tràn lan như thác vỡ bờ
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ
Được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối
Như mẹ hiền an ủi con thơ
Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy
Tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về” (Is 66,10-13)
2)Từ mục tiêu mới đến thái độ sống của chúng ta hôm nay
Tuy nhiên, hy vọng mà thánh Phaolô theo đuổi và chia sẻ với giáo dân Galát không chỉ có thế. Cái làm Phaolô kiên trì chờ đợi và bền bỉ đấu tranh chính là được trở thành một con người mới, một thụ tạo mới. Và để được trở nên như thế, Phaolô sẵn sàng đánh đổi tất cả, thậm chí sẵn sàng bị đóng đinh cùng với Đức Kitô – nghĩa là chấp nhận một cái chết đau đớn nhất và nhục nhã nhất. “Cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6,15).
Trở thành tạo vật mới là gì mà Phaolô tỏ ra tha thiết đến thế ? Các tông đồ và Bảy Mươi Hai môn đệ thời Đức Giêsu cũng hớn hở sung sướng trước sự kiện này. Nhưng các ngài diễn tả điều ấy một cách khác: đó là được hưởng sự bình an của Chúa, được chia sẻ quyền năng của Thiên Chúa để tiêu diệt ma quỷ và ác thần, đó là được ghi tên trên trời hay được đăng ký sống trong nhà Chúa mãi mãi. Cũng chính vì viễn tượng tuyệt đẹp ấy, các ngài không còn tỏ ra thiết tha điều gì trên đời. Chẳng hạn như không thiết tha với của cải – dù là để phòng thân: “Không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Cũng chẳng thiết tha với những quan hệ con người: “Đừng chào hỏi ai dọc đường”. “Người ta dọn ra bàn món gì thì ăn món đó”. “Hãy ở lại nhà người ấy, và người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó”. Cũng không tha thiết với thành công: “Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em […] Nhưng vào bất cứ thành nào người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông”.
Nói cách khác, điều kiện sống đơn sơ và giản dị, thái độ làm việc hết sức vô cầu và siêu thoát của các môn đệ ngày xưa và của các kitô hữu hôm nay không phải chỉ xuất phát từ tình hình khẩn cấp của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít”, hành trang càng nhẹ và ưu tư càng ít thì càng dễ dấn thân trọn vẹn vào việc “gặt hái các linh hồn”, mà sâu hơn đó là do các môn đệ Chúa Ki tô đã cảm nghiệm thế nào là được Thiên Chúa đổi mới, thế nào là làm tạo vật mới, thế nào là được ghi tên trên trời… Những sự thật này đẹp đẽ tới mức không còn gì trên thế gian này có thể sánh bằng, và vì thế, tương tự như người đã ăn ngon thì không muốn kham khổ nữa, người ta sẵn sàng bỏ tất cả, từ tư trang vốn liếng đến tất cả các mối quan hệ vừa thắt chặt.
Nếu vậy, sở dĩ hôm nay người ta khó siêu thoát với tiền bạc, danh vọng và tình cảm, ngay cả trong khi làm việc tông đồ hay truyền giáo, trong lúc cầu nguyện hay giảng đạo, là bởi người ta chưa ít là một lần nếm được cái hay cái đẹp của thân phận một thụ tạo mới đã được Chúa tái sinh trong bí tích Rửa Tôi, thanh luyện và cải thiện trong các bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, trong lời Chúa và trong ân sủng. Phải cảm nếm được như Phaolô đã tâm sự với giáo hữu Galát, chúng ta mới hiểu được tại sao ngài hào hiệp và quảng đại như thế, dứt khoát và dũng cảm như thế, không chỉ trong các chuyến truyền giáo to tát mà cả trong các quyết định hằng ngày của mình.
Đến đây, chúng ta hãy cầu xin Chúa không phải ban cho chúng ta của cải đầy nhà, công trạng đầy tay, mà quan trọng hơn, xin Ngài ban cho chúng ta được một lần biết thế nào là được trở thành tạo vật mới của Chúa, thế nào là bình an của Chúa, thế nào là được chia sẻ quyền năng của Chúa trên sự dữ, thế nào là được ghi tên trên trời hay được đăng ký trong nhà Chúa. Mà chẳng cần chờ đợi xa xôi gì: lát nữa đây, chúng ta được mời gọi kết hợp với Chúa qua Mình Máu Ngài ; hãy tiến lên lãnh nhận và tin tưởng rằng chúng ta sẽ nhờ đó mà dần dần cảm nhận niềm vui của các thụ tạo mới.
Người Mẹ Đức Tin
---------------------------------------
Pocahontas là con gái của tù truởng Powhatan của bộ tộc Algoquian ở vùng Virginia bây giờ: TN 14-C84
Pocahontas là con gái của tù truởng Powhatan của bộ tộc Algoquian ở vùng Virginia bây giờ. Truyện tình của anh chàng thủy thủ Da Trắng với cô nàng người Da Đỏ này đã thành đề tài đóng phim thật ăn khách.
Anh chàng John Smith và đám lính Da Trắng người Anh trong câu truyện Pocahontas đã đổ bộ sang Mỹ vào năm 1607 để chiếm đất của người Da Đỏ vùng Virginia. Họ phá hủy núi rừng đẹp đẽ để đào bới vàng. Người Da Trắng tưởng vàng là nhất, là có thể làm cho mình hạnh phúc. Nhưng có ngờ đâu khi gặp cô bé Pocahontas, thì John Smith nhận ra một giá trị mới, một nhãn quan mới. Một hôm tò mò về thái độ đào bới thật kỳ cục của người Da Trắng với kiểu ăn mặc bó sát chật chội, Pocahontas đã hỏi John Smith:
- Các anh tìm gì vậy?!
- Tụi này đi tìm vàng để làm giầu.
- Vàng là cái gì?
Thực sự Pocahontas chẳng hiểu vàng là cái gì mà người Da Trắng lại có thể ham mê tới cỡ đó. Rồi không biết phải so sánh giá trị làm sao, cô bé bèn cầm lấy trái bắp vàng mà giơ lên hỏi "vàng là cái này á?"
Câu hỏi đơn sơ của cô bé Pocahontas khiến người Da Trắng giật mình nhận ra một điều rất quan trọng: núi rừng kia, thác nước kia, sông hồ kia, trái bắp kia, mới là vàng, mới là giầu có thật, và mới là vườn địa đàng. Còn vàng của người Da Trắng chỉ là một thứ kim khí hiếm, do người ta ước định mà gán cho là quí báu khiến phải chém giết nhau để đạt lấy cái “địa đàng” kiểu ấy mà thôi. Mấy đứa trẻ ở Nam Phi xưa vốn lấy vàng làm đồ chơi, vì nước này đầy vàng, có ai đếm xỉa gì đâu, có ăn được đâu.
Thật vậy, những phim nổi tiếng thu hút rất đông người xem như Forrest Gump, Pocahontas, The Joy Luck Club, The Secret Garden… đều nói lên một điều rất đơn giản: con người đã mệt mỏi, và đang đi tìm một giá trị mới, đi tìm những tiêu chuẩn làm cho con người sống giầu có thảnh thơi đích thực, tìm về thiên nhiên, tìm về những gì thật giản đơn đã có sẵn trong cuộc sống, nguồn phú túc đã được Chúa Trời bày biện như bữa tiệc sẵn sàng. Hạnh phúc là biết mở mắt nhận ra mà lãnh nhận chứ đâu có quá vất vả như con người ngày nay!
Pocahontas có nghĩa là phong lưu hạnh phúc mà. Vào thời điểm này, con người mới giật mình nhận ra đâu là lối tìm hạnh phúc và lối sống giầu có thật.
NHỮNG DẤU CHỈ THỜI ĐẠI
Tần Thủy Hoàng với bằng ấy chém giết tàn bạo cũng chỉ canh giữ được một nhúm xương mục. Đặng Tiểu Bình sau những màn vần vũ kể cả vũng máu Thiên An Môn thì trối cho đàn em đốt xác thành tro bụi thả tan theo gió, không tên không mộ. Đúng như câu nói đùa rất chí lí của một người bạn già: "Ở đời cái gì cũng quan trọng và cũng không quan trọng."
Tuổi của trái đất mới được khoảng bốn tỉ rưỡi năm, và khoảng một tỉ rưỡi năm trước đây trái đất mới có những thực vật và động vật đơn bào sống dưới nước rồi tiến hóa dần thành những động vật sống trên đất. Con người mới xuất hiện hơn một triệu năm cách đây thôi, từ thời còn ăn thịt sống ở trong hang chưa biết dùng lửa, từ thời còn đi lom khom đầu nhô ra phía trước, răng lớn, cằm bạnh, sọ nhỏ, trán thấp. Thế rồi mãi tới cách đây khoảng 6 ngàn năm thì nhân loại mới biết làm nhà, qui tụ thành làng mạc. Đó là thời văn minh Ai Cập-Babylon huy hoàng bên Cận Đông. Hết văn minh Cận Đông thì chuyển qua văn minh Địa Trung Hải của La-Hy. Hệ thống triết lý, kiểu kiến trúc, mô thức tổ chức xã hội quân chủ hình thành văn minh Âu Châu còn ảnh hưởng cho đến thế kỷ 16 thì chuyển sang thời Phục Hưng. Luồng tư tưởng dân chủ bừng bừng kỷ nguyên ánh sáng, tin tưởng khoa học và lý trí vạn năng. Kinh tế tiền tệ thay cho kinh tế hiện vật. Trước kia thì đội gạo ra chợ đổi lấy con cá, bó rau, hạt muối, hay ngon hơn nữa thì đổi lấy cục vàng đeo tai đeo cổ... bây giờ bán lấy tiền theo ước lệ. Bán không hết ở chợ làng thì bán ra quận, ra tỉnh. Bán không hết trong nước thì phải bán ra ngoài, vì thế mà nẩy sinh ngôn ngữ hoa hòe hoa sói là kinh tế thị trường. Trước đây đi chiếm nước khác bằng súng đạn thì bây giờ bằng mánh khóe nhà nghề. Bảo không được thì oánh. Vậy mới có thế chiến một, thế chiến hai, mới có tuyên ngôn nọ tuyên ngôn kia ra chiều giải quyết mọi vấn đề bằng bàn tay con người.
Điều trớ trêu là lịch sử con người lại thường được thành hình do một số tay tham vọng dám vẫy vùng cỡ Hitler, Lenin... Nhưng rồi đâu phải mọi người có quyền rửa tay đổ tội. Không có tâm lý hiếu chiến hiếu thắng một thời của người dân Đức thì Hitler làm sao có thể đi giết người dân khác một cách thành khẩn như vậy được: Vạn tuế Hítler, vạn tuế Đức Quốc Xã! Không có tâm lý trổi vượt của người da trắng làm sao các nước Pháp, Anh, Bỉ,Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan... có thể thản nhiên thấy mình có sứ mạng đi chiếm thuộc địa để đem ánh sáng đến cho những dân mọi rợ tăm tối ở Phi Châu, Á châu và Nam Mỹ, trong đó có cả Việt Nam ta? Hay người Mỹ có thể đi mua dân da đen ở Phi Châu về làm nô lệ trong những đồn điền?
Quanh đi quẩn lại, hết chiến tranh nóng đến chiến tranh lạnh, loài người ít khi có được những lúc thực sự an bình. Tựu trung cũng là tham vọng quyền lực, giành giật miếng ăn: người này hơn người kia kém, dân này cường quốc dân kia nhược tiểu. Thế giới mỗi ngày mỗi phức tạp, lòng dục càng ngày càng không đáy. Sắp sửa chuyển mình vào ngàn năm mới, con người liệu có thể nhìn ra cho mình một điều gì khác hơn không? Ngó lui lịch sử tiến hóa của con người trên mặt đất này, chả lẽ chỉ có thể kết luận rằng loài động vật mang mặt người là đáng tội nghiệp nhất hay sao? Rình mồi mãi mấy ngàn năm cũng vẫn chưa no đủ hơn thời ăn lông ở lỗ sao?!
TIN VUI GỬI NGƯỜI ĐANG HĂM HỞ TÌM GIẦU
Đã đến lúc loài người khai mở một nền văn minh mới bước vào thiên kỷ mới. Nếu đã có những nước được gọi là cường quốc vì sức mạnh đồng tiền vật chất do luồng tư tưởng từ thời Phục Hưng để rớt lại mà vẫn đầu tắt mặt tối, thì cũng phải có một luồng tư tưởng khác mở lối cho nhân loại bước vào nền văn minh của sức mạnh tâm linh, sống cho ra người hơn, có tình người hơn.
Chẳng nói gì xa vời, mỗi người cũng đang tự cảm thấy mình bị cuốn vào cái vòng xích của xã hội tiêu thụ: mỗi ngày mỗi có nhiều nhu cầu thêm, và càng cần tiền thêm. Mà càng cần tiền thêm thì lại càng phải ném mình ra khỏi nhà để kiếm cho ra tiền, thành ra càng chẳng còn nhiều giờ mà hưởng sinh thú trên đời, trong gia đình, cái thú được sống mỗi phút giây một cách giầu có, cái thú được sinh ra, được hiện hữu một cách lạ lùng làm con của Chúa Trời Đất quyền năng. Không biết đủ chừng nào mới đủ?! Không biết sống nhàn, chừng nào mới nhàn?! Một người bạn đã từng nói chơi: không còn giờ tức là đã hết thời!
Đây là lúc người tin đạo khám phá ra và loan báo một tin vui lớn cho thời điểm: vượt lên khỏi mọi kiếm chác sinh sống hay bon chen, con người phải tìm ra cho mình một cõi toàn mãn: "Thầy đến cho chúng con được sống và sống sung túc" (Gioan 10:10).
Tìm ra được Chúa chính là câu trả lời của thời điểm này. Đang khi mấy ông tổng thống Mỹ bảo phải sang Phi sang Á để lo cho quyền lợi nước Mỹ: lo đóng kịch chào hỏi dọc đường đối với nhửng nước vốn thù nghịch chẳng ưa mình chút nào, cũng chỉ để kiếm thêm lợi thêm tiền, thì Chúa Giêsu lại loan báo Tin Vui khá ngược đời tuần này:
"Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này... Nước Thiên Chúa đã ở gần bên rồi." (Luca 10:4, 5, 9)
PHÚT TỊNH TÂM
Không cần mang theo tiền vì chính Chúa đã quá dư tiền rồi, có Chúa thì chẳng còn thiếu thốn chi. Không cần chào hỏi cậy dựa ai vì chính Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Có Chúa là có cõi toàn mãn, nước hạnh phúc ở ngay bên rồi.
Vâng, con xin được nói lên niềm tin này với tâm tình thánh vịnh 23:
Chúa Trời chăn dẫn tôi đi,
Lo chi thiếu thốn sợ gì gian nguy.
Mênh mông đồng cỏ xanh rì,
Tôi no búp mới, tràn trề lộc non.
Mát trong nước sạch suối nguồn,
Cho tôi nằm nghỉ tâm hồn thảnh thơi.
Dắt tôi theo chính lộ Người,
Hoan ca danh thánh Chúa Trời muôn nơi,
Dẫu qua lũng tối chơi vơi,
Sợ chi vướng mắc lưới đời trần gian.
Chúa bên tôi sống thanh nhàn,
Gậy côn Người dẫn bình an tâm hồn.
Bày bàn đầy cỗ thơm nồng,
Trước mặt địch thủ đỏ hồng mắt cay.
Xức dầu thơm Chúa đặt tay,
Chén tôi trào rượu ngọt say ân tình.
Phước ân theo mãi bên mình,
Trọn đời an hưởng phúc vinh Chúa hiền.
Nơi nhà Chúa sống bình yên,
Hồn tôi vui sướng triền miên tháng ngày.
(Hoàng Vũ chuyển thơ)
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
---------------------------------------
“Tuy nhiên, đừng quá vui mừng vì quỷ thần phải vâng lời các con cho bằng tên các con đã được ghi trên trời” (Luca 10:!0).
Có lẽ khi nghe Chúa nói với các ông những lời trên, các tông đồ chắc là hơi buồn. Có thể la: TN 14-C85
Có lẽ khi nghe Chúa nói với các ông những lời trên, các tông đồ chắc là hơi buồn. Có thể là buồn 5 phút! Bởi vì các ông xem như đang say mê “chiến thắng”. Mới lần xuất quân đầu tiên, mà đến quỷ thần cũng phải vâng lời mình. Và như thế là thành công, là thắng lợi. Chúa hẳn là phải hài lòng.
Trên đời này mấy ai khiến quỷ thần phải khiếp sợ, có chăng là nhiều người phải khiếp sợ quỷ thần. Và mấy ai có được cái năng lực khiến quỷ thần phải thuần phục, có chăng là phần đông vẫn thường xuyên bị chi phối và khống chế bởi quỷ thần. Những hành động như gian dâm, loạn luân, phá thai, đồng tính. Những hành động như tham nhũng, bóc lột, khủng bố, bắt bớ, bỏ tù, hoặc lạm dụng chức quyền là những hành động chứng tỏ con người đang bị thống trị, lệ thuộc và khống chế bởi quỷ thần. Vì nô lệ cho tội lỗi, nô lệ cho đam mê, chính là nô lệ cho quỷ thần.
Thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe người này, người khác trừ quỷ, hoặc xem những cuốn phim về trừ quỷ. Trong những câu truyện trừ quỷ, hoặc qua những cuốn phim ấy tuy chỉ là nghe nói, hay vẫn biết đó chỉ là hình ảnh tượng trưng cho một sự việc có thật, nhưng đều mang một nội dung hết sức rùng rợn, và khiếp sợ. Trừ được quỷ, dù chỉ là quỷ trong phim đã là khó khăn, vất vả, huống chi quỷ thật. Nhưng đối với Chúa Giêsu, thì dù có làm được những việc này, sự vui mừng của chúng ta cũng không thể hân hoan, vui sướng hơn cho bằng khi biết tên mình đã được biên ghi vào sổ hằng sống: “Đừng quá vui mừng vì quỷ thần phải vâng lời các con cho bằng tên các con đã được ghi trên trời” (Luca 10:!0).
Biết được tên mình đã được ghi vào sổ hằng sống. Biết được tên mình đã được ghi trên trời là một điều mà ai trong chúng ta cũng muốn biết. Có khi sốt rưột, nôn nóng để biết. Bởi vì mục đích của cuộc đời con người là gì, nếu không phải là lo tranh thủ để chiếm được nước trời: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì?” ( Mat 16:!6). Do đó, biết mình có tên trong sổ hằng sống, và biết mình được vào nước trời là một cái biết mà ai ai cũng đều mong muốn biết. Nhưng làm sao để biết được điều ấy? Và đây là câu trả lời của chính Chúa Giêsu: “Hỡi đoàn con nhỏ, đừng lo. Vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con” (Luca 1!:3!).
Đoàn con nhỏ. Những người được Chúa Cha vui lòng ban nước trời cho. Đó là lời hứa của Chúa Giêsu, một tiết lộ làm cho những ai đang khao khát nước trời cảm thấy an tâm và vững tin. Nhưng rồi ai là những con nhỏ mà Chúa Giêsu nói tới ở đây? Và câu trả lời cũng lại được Chúa Giêsu cho biết: “Hãy để các trẻ em đến với thầy, đừng ngăn cấm chúng. Vì nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng” (Mat 19:14). Và ở một nơi khác, chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng về mối tương quan nước trời và các trẻ nhỏ qua một trích đoạn Tin Mừng của Máccô:
“Người ta mang con trẻ đến với ngài để ngài đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ xua đuổi chúng. Chúa Giêsu không bằng lòng và nói với các ông: Hãy để các em đến với ta đừng ngăn cấm chúng, vì nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như chúng. Ta nói thật với anh em, những ai không đón nhận nước Thiên Chúa như những trẻ em này, thì sẽ không vào được đó” (Mac 10:13).
Nước trời – trẻ thơ. Để chiếm hữu nước trời cần phải trở nên như trẻ thơ. Tại sao Chúa không bảo chúng ta phải chiếm hữu nước trời như một lực sỹ, như một võ sỹ, hay như một người lính chiến. Những người này là những người có sức lực, có võ công, và khí giới. Hoặc hãy chiếm hữu nước trời như những tu sỹ, giáo sỹ là những người vẫn được quan niệm là những kẻ Chúa chọn.
Thật vậy, ngài đã không hứa nước trời cho bất cứ ai trong họ, mà lại dành lời hứa này cho các em nhỏ, những đứa trẻ ngây thơ không biết gì về đường hoàn thiện, về khả năng chiến đấu, ngay cả có sức lực để chiến đấu. Và điều này là một tiết lộ khiến chúng ta vui mừng, hoan hỷ. Vì nếu một em nhỏ, một trẻ thơ mà còn vào Thiên Đàng được, thì đương nhiên chúng ta cũng có thể vào được. Không biết có phải vì cảm nhận được ý nghĩa của lời Chúa đó hay không, mà Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu khi còn rất nhỏ cũng đã hiểu được và sung sướng khi nghĩ rằng mình sẽ được lên Thiên Đàng.
Trong cuốn tự thuật Một Tâm Hồn, chính thánh nữ đã kể lại câu truyện nói về một hôm vào một đêm trời thanh trong, ngước nhìn lên vòm trời cao thấy một chùm sao nối kết như hình chữ T, Têrêsa đã nói một cách hồn nhiên với cha mình: “Cha ơi! Tên con đã được ghi trên trời kìa”.
Tên được ghi trên trời. Thật vậy, nếu tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa. Nếu đặt mình đơn sơ trước nhan Thiên Chúa, và nếu như thánh Têrêsa, ngước mắt nhìn kỹ lên trời, thì ai trong chúng ta cũng đều thấy có tên mình trên đó cả, bởi vì Chúa Cha đã vui lòng ban nước trời cho chúng ta. Nhưng chỉ với một điều kiện, đó là phải sống và trở nên như một em bé trước tôn nhan Thiên Chúa: “Ta nói thật với anh em, những ai không đón nhận nước Thiên Chúa như những trẻ em này, thì sẽ không vào được đó” (Mac 10:13). Mà trẻ em thì:
- Không tham lam tiền của, giầu sang, phú qúy.
- Không say đắm dục vọng và những thú vui nhục dục.
- Không chạy theo những bả vinh hoa, quyền lực.
- Không nói dối, lượn lọc, lường gạt.
- Không biết ly dị.
- Không biết phá thai.
- Không đồng tính luyến ái.
- Không độc tài khát máu.
- Không tham nhũng, vơ vét.
- Không khủng bố, giết người.
- Không cậy dựa vào chức quyền, địa vị.
- Không giả hình đạo đức.
Nhưng là:
- Đơn sơ.
- Phó thác.
- Trong sạch.
- Khiêm tốn.
- Khó nghèo.
- Tin tưởng.
- Bác ái.
- Yêu mến chân thành..
T.s. Trần Quang Huy Khanh
---------------------------------------
Ngày kia có một người đậu xe bên lề đường, rồi vào trong một cửa hàng để mua sắm mấy thứ cần: TN 14-C86
Ngày kia có một người đậu xe bên lề đường, rồi vào trong một cửa hàng để mua sắm mấy thứ cần thiết, khi quay trở ra thì thấy trên ghế ngồi có một mẩu giấy với hàng chữ: Thưa ông, tôi đã tính ăn cắp chiếc xe hơi
Ngày kia có một người đậu xe bên lề đường, rồi vào trong một cửa hàng để mua sắm mấy thứ cần thiết, khi quay trở ra thì thấy trên ghế ngồi có một mẩu giấy với hàng chữ: Thưa ông, tôi đã tính ăn cắp chiếc xe hơi này, nhưng tình cờ đọc thấy lời cầu phúc “Bình an cho quý bạn”, được dán trên tấm kính. Lời cầu chúc này khiến tôi dừng lại và suy nghĩ. Tôi tin chắc nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, thì hẳn ông sẽ không còn được bình an và chính tôi cũng vậy. Vì đây là lần đầu tiên tôi ra nghề. Tôi cũng cầu chúc bình an cho ông và cho cả tôi nữa.
Câu chuyện ngộ nghĩnh trên đây khiến chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Khi vào bất cứ nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu ở đó có người yêu chuộng sự bình an, thì sự bình an sẽ ở lại trên người ấy, bằng không sự bình an sẽ trở lại với các con.
Áp dụng lời phán dạy này và câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng: Tấm bảng gắn trên kính xe đã đem lại sự bình an của Đức Kitô cho kẻ đang dự tính ăn cắp xe. Kẻ ăn trộm này là người yêu chuộng sự bình an của Đức Kitô, nên sự bình an đã ở lại trên anh ta. Vậy đâu là sự bình an của Đức Kitô?
Kinh Thánh thường dùng danh từ bình an với bốn ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất, trên bình diện quân sự thì bình an ám chỉ một tình trạng không có chiến tranh giữa các dân tộc. Ý nghĩa thứ hai trên bình diện cá nhân, thì bình an ám chỉ tình trạng yên ổn của từng người. Ý nghĩa thứ ba trên bình diện tôn giáo, thì bình an là mối liên hệ tình nghĩa tốt đẹp giữa Thiên Chúa và chúng ta. Cuối cùng, bình an còn được Kinh Thánh dùng để nói lên tình trạng trong đó mọi người trên mặt đất sống hoà thuận với Chúa, với người khác và với chính bản thân.
Đây là sự bình an mà Chúa nói đến khi Ngài tuyên bố: Ta để lại sự bình an cho các con, Ta ban sự bình an của Ta cho các con. Đây cũng chính là sự bình an mà các thiên thần đã cầu chúc trong đêm Giáng sinh: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Sự bình an này chẳng la gì khác ngoài việc thực thi Nước Chúa trên trần gian. Để thực hiện sự bình an này, Đức Kitô đã xuống thế làm người để hoà giải con người với Thiên Chúa cũng như hoà giải con người với nhau. Bởi vì sự bình an đích thực phải là kết quả của sự hoà giải.
Như thế, để có được sự bình an của Chúa, chúng ta cũng phải sống tinh thần hoà giải. Có được sự bình an trong tâm hồn mà thôi chưa đủ, Đức Kitô còn muốn chúng ta mang sự bình an này đến cho những người chung quanh chúng ta. Chính vì thế mà chúng ta hãy cầu nguyện như lời kinh của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa, xin hãy biến con thành khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Bởi vì như lời Chúa đã phán: Phúc cho ai xây dựng hoà bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
---------------------------------------
– Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Nghịch lý của thời đại chúng ta đó là: Đường phố rộng hơn, quan điểm lại hẹp hòi hơn. Chúng ta: TN 14-C87
Nghịch lý của thời đại chúng ta đó là: Đường phố rộng hơn, quan điểm lại hẹp hòi hơn. Chúng ta giành nhiều hơn nhưng lại có ít hơn. Mua sắm nhiều hơn nhưng hưởng thụ lại ít hơn. Chúng ta có những tòa nhà đồ sộ hơn nhưng gia đình lại bé nhỏ hơn. Cuộc sống tiện nghi hơn nhưng ít thời gian nhàn rỗi hơn. Bằng cấp nhiều hơn nhưng giá trị lại ít hơn. Hiểu biết nhiều hơn nhưng nhận xét lại kém hơn. Nhiều nhân tài hơn nhưng ít sáng tạo hơn. Chúng ta sở hữu nhiều hơn nhưng nhân cách giảm nhiều hơn. Chúng ta nói quá nhiều, yêu thương thì quá ít và ghen ghét lại nhiều hơn. Chúng ta biết cách mưu sinh nhưng không biết tạo dựng cuộc sống. Chúng ta sống thọ hơn nhưng sống ít ý nghĩa hơn. Chúng ta làm được những điều cao sang nhưng lại không làm được điều đơn giản với đồng loại.
Vâng, cuộc sống xem ra tiến bộ hơn nhưng đáng tiếc chúng ta lại đang đánh mất nhiều hơn. Mất tình gia đình, mất tình bạn, mất tình làng nghĩa xóm. Cái mất lớn nhất của thời đại hôm nay chính là mất niềm vui của sự bình an tâm hồn. Vì cuộc đời hôm nay có quá nhiều những rủi ro, có quá nhiều những căng thẳng, những bất trắc khiến con người hôm nay dù có nhiều tiền, nhiều của, nhiều vật chất nhưng lại có rất ít những giây phút thư thái bình an. Cuộc đời luôn đong đầy những lo toan khiến con người hôm nay luôn phải sống trong cảnh đối phó với những nghịch cảnh có thể đưa tới. Bên cạnh sự vật lộn với cuộc sống quá nhiều khó khăn, sự bươn chải để tìm miếng cơm manh áo, cuộc sống chung quanh lại còn quá nhiều những sự dữ bủa vây như muốn nhậm chìm con người. Những tệ nạn xã hội như: xì ke, ma tuý, mại dâm,... luôn là những cạm bẫy có thể xâm chiếm và làm mất đi sự bình an nơi các gia đình. Thực tế, đã có biết bao gia đình khô cạn nước mắt vì một đứa con đang lao vào con đường xì ke, ma tuý; đã có biết bao gia đình tan nát vì lối sống buông thả, phóng túng của những người chồng thiếu trách nhiệm; đã có biết bao gia đình đang u sầu vì những quan hệ bất chính của những người cha, người mẹ đang làm gương mù gương xấu cho đàn con. Sự dữ dường như đang khống chế con người hôm nay. Sự dữ dường như đang làm chủ xã hội hôm nay khiến con người luôn cảm thấy bất an và lo sợ.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng nhìn thấy sự dữ đang hoành hành. Sự dữ đang gây nên những đau khổ, đổ vỡ, mất mát cho biết bao con người. Sự dữ luôn làm cho con người lo sợ, bất an. Chúa đã sai các môn đệ ra đi trong tình trạng khẩn trương và cấp bách. Cấp bách đến độ không cần chuẩn bị những hành trang bên mình như giầy, dép, bao bị, ... Chúa muốn các môn đệ hãy ưu tiên cho việc đem Tin Mừng đến cho muôn người. Tin Mừng mà Chúa muốn các môn đệ đem đến cho nhân trần chính là đẩy lùi sự dữ và kiến tạo bình an cho các tâm hồn. Chúa bảo với các môn đệ hãy mang bình an của Chúa đến cho muôn người. Bình an của những con người thoát khỏi sự thống trị của sự dữ khi đón nhận tin mừng Nước Trời. Bình an sẽ được tặng ban khi Triều đại Nước Thiên Chúa thống trị địa cầu.
Lời mời gọi đó dường như vẫn đang cấp bách trong thời đại hôm nay. Một thời đại có quá nhiều sự dữ. Một thời đại của sự hưởng thụ, ích kỷ đã biến con người thành sự dữ đang giết chết bản thân và tha nhân. Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta hãy chung tay góp sức đẩy lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta sống. Hãy nói không với tội lỗi. Hãy tránh xa những cám dỗ tội lỗi. Hãy sống ngay lành để có niềm vui của sự bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.
Nguyện xin Chúa là hoàng tử bình an ban bình an đến cho mỗi người chúng ta để nhờ đó chúng ta cũng biết trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành những sứ giả bình an cho thế giới hôm nay. Amen.
---------------------------------------
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người: TN 14-C88
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Làm được như thế là con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, cuộc đời đã về chiều, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết bao: làm sao biến đổi cuộc đời người khác khi ta chưa biến đổi được bản thân ta. Thế nên giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.
* * *
Cải thiện bản thân là điều kiện tiên quyết, là việc phải làm trước hết để có thể thay đổi những người chung quanh, đúng như Khổng Tử dạy: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ." (theo "Lẽ sống")
Tương tự như thế, khi được mời gọi phúc âm hoá thế gian, chúng ta phải lo Phúc Âm hoá bản thân chúng ta trước, rồi chúng ta mới có thể Phúc Âm hoá người khác sau.
Cầu cho ai được sai đi?
Trước khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu dặn các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về".
Xin chủ mùa sai ai đây?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho mọi người khác, ngoại trừ ta!
Dù muốn dù không thì đa số trong chúng ta đây đã là thợ gặt bẫm sinh rồi, vì ngay từ thơ ấu, khi được lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên đã được thông dự vào sứ vụ tiên tri, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa Giêsu rồi. Vậy thì phải loan Tin Mừng, phải làm thợ gặt thôi, không thể nào thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Thiên Chúa, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao giảng trước tiên?
Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta.
Dù mang danh là Kitô-hữu, đôi khi chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng.
Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan ẩn dấu trong đó.
Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt nhau rất xa!
Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta... thì làm sao ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có. Lý do của việc thất bại trong công cuộc loan Tin Mừng là ở đó.
Thế nên, chính bản thân mỗi người chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá người khác sau.
Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?
Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ khi đi loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.
Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa... để nô dịch hoá con người, đưa nhiều người vào trong cạm bẫy và tội lỗi.
Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng trước hết ma quỷ cũng đang chi phối mỗi người chúng ta. Phải nhận rằng nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã bị ma quỷ xô đẩy làm điều sai trái đáng trách.
Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi tai ách Sa-tan, chúng ta phải lo giải thoát mình trước.
Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa Giêsu những thắng lợi vẻ vang: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con".
Xin Chúa giúp chúng ta cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
---------------------------------------
Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.
Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestien để rao giảng: TN 14-C89
Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestien để rao giảng Tin Mừng. Đồng thời, Ngài cũng đã chọn lựa và sai phái các môn đệ ra đi, để tiếp tay với Ngài trong sứ mạng cao cả ấy.
Tuy nhiên những cố gắng ấy dường như không đáp ứng nổi với nhu cầu khẩn thiết, vì thế mà Chúa đã nói:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ tới gặt lúa.
Trải qua dòng thời gian, lời xác quyết này vẫn còn là một sự thật, bởi vì ngày hôm nay con số những người tin nhận Chúa mới chiếm được 30%, và riêng những người Công giáo thì mới chỉ được có 17% dân số trên thế giới.
Đồng thời qua lời xác quyết ấy, Chúa cũng muốn kêu mời chúng ta hãy trở nên là những người thợ gặt của Chúa. Có nghĩa là, chúng ta cũng hãy góp phần vào việc truyền bá đức tin, làm cho Giáo hội được phát triển. Dĩ nhiên chúng ta có rất nhiều phương pháp để rao giảng Tin Mừng.
Chẳng hạn bằng việc ra đi như các tông đồ các vị thừa sai, bằng việc cầu nguyện như các vị tu sĩ trong dòng kín… Thế nhưng, hôm nay tôi muốn giới thiệu tới quí ông bà một phương pháp mà mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải thực hiện, đó là truyền giáo bằng chính đời sống, bằng chính gương sáng của chúng ta.
Để hiểu được hậu quả tốt đẹp mà phương pháp này đem lại, tôi xin kể hai mẩu chuyện nho nhỏ.
Mẩu chuyện thứ nhất đó là có một người Tin Lành, nghe tiếng cha Vianney là một người đạo đức thánh thiện, bèn tìm đến xứ Ars để kiểm tra sự thật. Sau khi ra về, người ta hỏi ông đã thấy được những gì, thì ông trả lời:
- Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người.
Và sau đó thì ông đã trở lại với Giáo hội Công giáo.
Mẩu chuyện thứ hai đó là có một người khô khan nguội lạnh, tình cờ đi ngang qua nhà thờ, ông thấy một cô bé đang dẫn mấy em nhỏ vào nhà thờ. Ông đứng quan sát và rồi đã đi theo cô bé. Thấy nét mặt trang nghiêm và sốt sắng của cô bé khi cầu nguyện, ông đã thực sự xúc động, và rồi cuối cùng, ông cũng đã trở về cùng Chúa.
Với hai mẩu chuyện này chúng ta thấy được sức cảm hóa của gương sáng như thế nào. Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
- Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói:
- Gương sáng chính là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức lôi cuốn và thuyết phục người khác.
Đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta chính là một thứ ánh sáng cần thiết cho xã hội như lời Chúa đã phán:
- Các con là ánh sáng thế gian. Bởi vì nhờ các việc chúng ta làm mà người khác sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, để rồi cũng sẽ tin nhận Ngài.
Giữa một thế giới đã xa lìa Thiên Chúa, đang chìm dần vào sa đọa và tội lỗi, thì chúng ta có bổn phận phải thắp lên một ngọn lửa, chứ đừng ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Và ngọn lửa chúng ta thắp lên là gì? Tôi xin thưa đó chính là đời sống gương mẫu của mỗi người chúng ta.
---------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Người chủ ruộng sẽ rất lo âu và sốt ruột khi nhìn thấy đồng lúa mênh mông bát ngát của mình đang TN 14-C90
Người chủ ruộng sẽ rất lo âu và sốt ruột khi nhìn thấy đồng lúa mênh mông bát ngát của mình đang vào thời kỳ chín rục mà chẳng tìm đâu ra thợ gặt để thu hoạch lúa về.
Chúa Giêsu cũng cảm thấy tâm hồn nôn nao xao xuyến khi phần đông nhân loại đang cần được cứu độ một cách khẩn thiết, nhưng chẳng mấy ai dấn bước đem ơn cứu độ cho họ.
Thế nên, khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu căn dặn các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về." Lời căn dặn nầy hôm nay cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta.
Đáp lời Chúa mời gọi, chúng ta sẵn sàng cầu xin có thêm thợ gặt, nhưng vấn đề là chúng ta sẽ cầu cho ai đi làm thợ gặt đây?
Ai là thợ gặt của Chúa?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho những người khác, ngoại trừ ta!
Nhưng, dù muốn dù không thì chúng ta đã là thợ gặt chính danh ngay từ khi được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Nhờ Bí Tích nầy, chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên được thông dự vào chức vụ ngôn sứ, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Người. Vậy thì trách nhiệm ‘gặt lúa’ là trách nhiệm của chúng ta, không thể thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Trời, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao giảng trước tiên?
Đứng trước đồng lúa mênh mông, thợ gặt không biết phải bắt đầu từ đâu? Nói khác đi, phải loan Tin Mừng cho ai trước hết?
Giáo điểm đầu tiên cần được rao giảng Tin Mừng là thế giới nội tâm của chúng ta, vì dù mang danh là ki-tô-hữu nhưng có thể chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng.
Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết bốn Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan chứa đựng trong đó.
Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt rất xa!
Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng lên trong cuộc đời ta, chưa bừng cháy trong tim ta… thì làm sao chúng ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có.
Thế nên, chính bản thân chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá tha nhân.
Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?
Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ song song với việc loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.
Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa… để lôi cuốn nhiều người vào cạm bẫy và tội lỗi.
Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng cũng phải nhận rằng ma quỷ cũng đang chi phối mạnh mẽ cuộc đời chúng ta, đang lôi kéo chúng ta làm nhiều điều sai trái.
Một người đang mang xiềng xích không thể giải thoát được ai. Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi ách Sa-tan, chúng ta phải tự giải thoát mình trước.
Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.
***
Lạy Chúa Giêsu,
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca thuật lại cho chúng con biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa nhiều thắng lợi vẻ vang: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” (Lc 10,17)
Xin Chúa giúp chúng con là những người được Chúa sai đi thi hành sứ vụ, cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Tại vùng trung đông, dầu mỏ thì dồi dào nhưng lại khan hiếm nước trong lành. Một nhà thông thái: TN 14-C91
Tại vùng trung đông, dầu mỏ thì dồi dào nhưng lại khan hiếm nước trong lành. Một nhà thông thái nọ đi tìm suối nước thiêng. Khi nhìn thấy suối nước đó, ông vui mừng phấn khởi, chân bước nhanh đến suối. Sau khi giải khát nhờ nước trong mát của dòng suối, ông chụp hình dòng suối đó, có ý mang về cho đồng bào ông thấy mà tìm đến hưởng nguồn nước trong lành.
Vừa về đến nhà, thân quyến, bà con lối xóm xúm lại mừng ông. Mọi người đều nhận thấy gương mặt hân hoan rạng rỡ của ông. Ai nấy đều vồn vã hỏi cho biết điều gì đã đến với ông, làm sao ông vui mừng phấn khởi như thế! Ông kể lại cho họ nghe việc ông đã khám phá nguồn nước trong lành và mời gọi mọi người đến đó thưởng thức hương vị ngọt ngào của dòng suối. Ai cũng vui thích với tấm ảnh về nguồn suối đó. Họ mong có phương tiện đi đến đó để được tắm mát và vui hưởng hạnh phúc bên nguồn nước trong lành.
Khi CG đến, Ngài không chỉ hứa ban cho chúng ta một dòng suối vật chất mà ban cho chúng ta chính Thịt Máu là Nguồn ban sức sống, là thần lương nuôi sống linh hồn chúng ta. Ngài tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha rất yêu thương chúng ta, và hứa đưa chúng ta về nơi hạnh phúc muôn đời.
Thế nhưng ai sẽ là người nói cho mọi người biết về suối nước trường sinh, về hạnh phúc Chúa dọn sẵn cho mọi người?
Chính Chúa Giêsu nói cho các Tông đồ và các môn đệ của Ngài và nhờ các ngài nói lại cho chúng ta. Khi chúng ta trở thành môn đệ Chúa thì có bổn phận nói lại cho anh em mình biết niềm hạnh phúc đó. Nguồn suối trường sinh từ Thiên Chúa thì không bao giờ cạn, ai đến lấy bao nhiêu tuỳ thích. Càng nhiều người đến thì dòng suối càng tràn đầy hơn. Vì vậy chúng ta đừng sợ thiệt thòi khi tiết lộ cho anh em mình về Tin Mừng đó, mà phải dành nhiều thời giờ để loan báo cho anh em tin vui trọng đại này.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Khi đi, Chúa dặn đừng chào hỏi ai dọc đường, cũng đừng mang theo tiền bạc giày dép. Môn đệ Chúa khi đi rao giảng đừng để tâm đến tiền bạc của cải nhưng hãy lo giúp mọi người tìm về Nước Chúa. Việc rao giảng cũng rất cấp bách cho nên không nên lân la, chào hỏi, nấn ná nói chuyện với người quen làm mất thời giờ. Người môn đệ Chúa không nên chậm trễ nhiệm vụ loan báo Tin Mừng Nước Chúa cho anh em mình.
Ngày hôm nay việc loan báo Tin mừng có còn cấp bách nữa không? Sự cấp bách đó vẫn còn và còn nhiều hơn nữa vì thế giới hơn 6 tỉ người, trong đó người Công giáo sốt sắng chưa được 1 tỉ . Còn rất nhiều người chưa biết Chúa , chưa hưởng được các Bí tích Chúa Giêsu đã lập ra. Nhân loại còn nhiều người đang chìm trong u tối, chưa nhận ra con đường dẫn đến lối trường sinh.
Lúa chín đầy đồng nhưng phải có thợ đi gặt về. Nước Chúa cần có những người thợ nhiệt thành, quên mình, đem bình an đến cho tha nhân. Loan báo Tin Mừng là việc làm cao quý Chúa giao cho chúng ta. Tuy nhiên, việc rao giảng Tin Mừng cho người khác đòi hỏi phải có sự chuẩn bị trước về kiến thức cơ bản, cách truyền đạt, lối giải thích dễ hiểu để cho người nghe dễ tiếp thu, dễ đón nhận.
Ngày nay, Giáo Hội đang hết sức mời gọi con cái mình dấn thân trong đời sống tu trì, truyền rao Tin Mừng Nước Thiên Chúa . Thời nào cũng có những người nhiệt tâm làm sáng danh Chúa , đem nhiều người vào nước Chúa . Tuy nhiên, số người chưa biết Chúa vẫn còn quá nhiều. Vì vậy, Chúa đòi mỗi người chúng ta hãy gấp rút lo việc truyền giáo. Chúng ta thương anh em mình thì không thể nhẫn tâm ngồi nhìn họ sống mồ côi, không biết Chúa là Cha. Vì không biết Cha, họ hay lỗi phạm điều răn Chúa và dần dần đi đến hư mất.
Thế giới này đang cần ơn bình an Chúa ban. Chúng ta hãy đem bình an của Chúa đến cho mọi người. Bình an của Chúa không như thế gian ban tặng. Bình an của Chúa làm cho lòng mỗi người tràn đầy bác ái, sẵn sàng hy sinh bản thân cho người khác bớt phần khổ sở. Bình an của Chúa làm lương tâm thoải mái. Chỉ những ai có lòng yêu mến Chúa thật sự mới có được loại bình an này.
Bình an nhờ việc sống đạo. Nếu chúng ta không sống đạo thì làm sao có bình an thật từ Chúa mà cho anh em mình, làm sao nhắc nhở được người khác đến với đạo. Để đem người khác về với Chúa, mỗi người chúng ta hãy hy sinh, sống gương mẫu để thu hút lương dân tìm đến sự thật mà được ơn cứu độ. Chúng ta hãy tìm hiểu ý Chúa trong Phúc Âm, giáo lý trong lương tâm ngay thẳng. Mọi người chúng ta hãy hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ. Chính Chúa Giêsu đã nói rằng: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau như thầy đã yệu thương các con. Chúng ta thấy rằng 9 người 10 ý. Nhưng ai yêu mến Chúa và anh em thì sẵn sàng bỏ một số ý riêng để làm vui lòng nhau và đẹp lòng Cha chung của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con đi làm chứng cho Chúa, cho chúng con trở nên muối men, ánh sáng cho đời bớt tăm tối và đau khổ. Con sẽ trung thành yêu mến Chúa và nguyện hướng về Chúa cho đến muôn đời. Xin Chúa phù trợ cho chúng con luôn. Amen.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Để hiểu được đoạn Phúc Âm nầy của Luca (do Luca thêm vào sau) chúng ta nên lưu ý: Phúc Âm: TN 14-C92
Để hiểu được đoạn Phúc Âm nầy của Luca (do Luca thêm vào sau) chúng ta nên lưu ý: Phúc Âm là đời sống và đức tin của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống, đang hiện diện và đang hoạt động mạnh mẽ hơn trước nữa. Chính Người chủ sự mọi sứ vụ trong Giáo Hội. Bài sai thì đã phát ra rồi. Bây giờ chỉ cần sai đi. Mọi người được sai đi sẽ làm y như bài sai đã ban hành. Luca muốn nói như vậy qua bài tường thuật nầy vì mọi việc đã xảy ra như vậy rồi. Mười hai tông đồ là cho do thái. Việc truyền giáo cho dân ngoại đang phát triển tưng bừng và Luca đang phục vụ dân ngoại và trong vùng của dân ngoại. Phải làm cho thực tế nầy được hợp thức hoá. Phúc Âm Luca được viết 50 năm sau Chúa Giêsu Phục Sinh.
Rất nhiều nhà truyền giáo đang hoạt động hăng sai không thua kém các tông đồ chính thức như Phaolô, Barnabê, cả Luca.........rất nhiều.. Phải cho họ một danh hiệu mới công bằng. Luca muốn làm như vậy đó và chỉ có Luca.
72 là con số rất đông. Số 7 trong Kinh thánh là số huyền nhiệm chỉ tất cả. 72 là 7 nhân lên 10. 70 hay 72 cũng như nhau tuỳ theo cách dùng Do thái hay Hy lạp.
Là nhà truyền giáo thì tất cả đều đươc sai đi cùng một bài sai như nhau mặc dù có phân chia chức vụ theo công tác. Trước đây Đức Giêsu Galilêa chưa sai thì trong thời gian theo nhu cầu Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ sai vì chính Người vẫn hoạt động không ngừng trong Giáo Hội. Các môn đệ "nhà truyền giáo" đang sống và hoạt động tông đồ. Áp dụng cho các ngài bài sai mà Đức Giêsu đã ban bố là hoàn toàn hơp lý vì đó là 'qui chế' chung cho mọi nhà truyền giáo. Khi Chúa Giêsu ban hành qui chế nầy chì có 12 ông đã đựoc huấn luyện. Hơn nữa 12 là số tượng trưng cho Israel thôi. Còn môn đệ thì 72 (70) ie. không giới hạn vì là cho muôn dân đông đảo như thực tế đã làm chứng.
Chỉ Luca quan tâm làm việc nầy vì chỉ Luca viết Phúc Âm cho dân ngoại (muôn dân) nơi cánh đồng truyền giáo còn mênh mong, cần rất nhiều thợ gặt. Chính Đức Giêsu đã chẳng bảo phải xin chủ ruộng sai thêm nhiều thợ đi gặt lúa sao? Phải có 72 môn đệ (vô số) nữa được sai đi mới thoả mãn được nhu cầu truyền giáo của dân ngoại ( đông vô sô). Và Đức Giêsu Phục Sinh đang làm.
Những điều kiện tông đồ mà bất cứ nhà truyền giáo nào cũng phải tự trang bị cho mình nếu muốn làm nhà truyền giào chân chính như lòng Chúa Giêsu mong ước:
- Khó nghèo: Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép..
- Từ bỏ: đừng chào hỏi ai dọc đường
- Chấp nhận làm ' chiên con giữa bầy lang sói'( Không quan tâm tới an toàn bản thân).
-Hành trang duy nhất là sự bình an của Chúa để tặng cho nhà nào mà đến ở.
- Đi từng hai người: để làm chứng cho nhau là họ giảng dạy đúng như Chúa Giêsu sai.
Cần nhiều, rất nhều, môn đệ để Chúa Giêsu sai đi. Nhưng càng cần những môn đệ như lòng Chúa Giêsu mong ước để Người sai đi và chắc chắn đem lại nhiều hoa trái, những hoa trái như lòng Người mong ước. Ngày nay, cho ngày nay, chúng ta nghe than vản luôn luôn 'thiếu linh mục, thiếu tu sỉ ' nhưng cũng nghe than vãn có những linh mục, tu sĩ không được như lòng Chúa Giêsu mong ước! Người xưa có câu: Binh quí phi tự hồ đa dĩ tự hồ tinh. Luca cũng nhắc lại lời Chúa Giêsu: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì còn ít, anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ đi gặt lúa về. Chúng ta cũng cầu xin thêm: Xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho thế gian nhiều thợ gặt như lòng Chúa mong ước.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
"Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4, 8).
Kitô giáo là ngôn ngữ của tình yêu mà Thiên Chúa đã nói qua người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô: TN 14-C93
Kitô giáo là ngôn ngữ của tình yêu mà Thiên Chúa đã nói qua người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa Cha, là Người Con Yêu Dấu, trong Chúa Giêsu, Đức Chúa Cha đặt trọn vẹn tất cả tình yêu thương của mình. Chúa Giêsu đến trần thế để mang tình yêu đó cho nhân loại (Ga 3, 16). Vì tình yêu luôn luôn đòi hỏi phải chia sẻ và ban phát, cũng như chính Chúa Giêsu đã tự ý hy sinh bản thân mình cho nhân loại, và mọi tạo vật đều được mời gọi tham gia chia sẻ vào sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Do đó, Chúa Giêsu không ước mốn sự gì khác ngoài việc nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa càng ngày càng lan rộng khắp mặt đất, giống như ngọn lửa cháy lan toả ra khắp nơi "Ta đến để ném lửa vào mặt đất, và ước mong lửa ấy đã bùng lên" (Lc 12, 49)
Để ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng cháy lên trong tim mọi người, Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ đi vào thế giới để rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa với lời nhắc nhở: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Nầy Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói" (Lc 10, 2-3). Các môn đệ đã được kêu gọi để chứng tỏ tình yêu trong mọi khía cạnh của đời sống chứng nhân của mình. Họ ra đi từng hai người một là dấu chỉ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa Kitô. Họ phải mời gọi và cầu xin Thiên Chúa ban thêm các tông đồ của tình yêu trên cánh đồng truyền giáo. Họ phải cố gắng bắt chước sự hiền hoà của con chiên để tha thứ và chấp nhận sự bạc đãi của sói rừng, ngay cả sự chết như thánh Gioan đã dạy: "Căn cứ vào điều này, đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em" (1Ga 3, 16). Giống như những môn đệ của Chúa Giêsu, sứ mệnh truyền giáo của chúng ta không phải là dùng sức mạnh của bạo lực để bẻ gẫy những con tim, nhưng chinh phục những con tim bằng cách làm chúng phải tự chảy mềm ra, mềm lại dưới ảnh hưởng của tình yêu Thiên Chúa (GLCG 2104-2109).
Khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu cũng cảnh giác họ rằng: "Ta sai các các con như con chiên ở giữa sói rừng" (Lc 10, 3). Sói rừng biểu tượng cho những quyền lực chống lại Tin mừng, những sự bắt bớ cấm cách, những thử thách, và những đối xử bất công. Thiên Chúa là Tình yêu, nhưng Ngài cũng rất công bằng chính trực. Quả vậy, Chúa Giêsu đã dặn các môn đệ: "Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" (Lc 10, 4). Nhiều người nghĩ rằng Ngài muốn đề cao sự nghèo khó của các nhà truyền giáo. Hiểu như thế cũng có ý nghĩa, nhưng đây không phải là ý của Ngài. Ngài dặn họ đừng mang theo vì chính những người đón tiếp các môn đệ có bổn phận phải cung cấp cho các ngài những thứ cần thiết này. Nói một cách khác, Chúa kêu gọi giáo dân phải rộng lượng và quảng đại đối với những người làm công cho Vương Quốc Thiên Chúa. Tư tưởng của Chúa Giêsu đã được giải thích rất rõ ràng trong câu 7: "Vì người thợ đáng được trả công" (Lc 10,7).
Nhân dịp suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cũng phải xét lại lương tâm của chúng ta trong việc đóng góp cho sứ mệnh truyền giáo và xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa (1 Cr 9, 16). Tư tưởng gia Jean Jacques Rousseau đã kể lại lời khuyên nhủ rất khôn ngoan cho chúng ta như sau: "Khi chết, mỗi người sẽ chỉ mang theo được trong lòng hai bàn tay nắm chặt cái mà người ấy đã cho đi" (1Tm 6, 7-9).
Trong Sứ Điệp Khánh Nhật Truyền Giáo 2003, ĐGH Gioan Phaolô II, số 4 có nói: "Qua phép Rửa Tội, tất cả các tín hữu được mời gọi nên thánh". Trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh rằng ơn gọi nên thánh phổ quát bao gồm trong lời mời gọi mọi người tiến đến sự trọn hảo của lòng bác ái. Sự nên thánh và sứ mạng truyền giáo là những khía cạnh bât khả phân ly của ơn gọi dành cho mọi người đã chịu phép rửa. Cam kết trở nên thánh thiện hơn đuợc liên kết chặt chẽ với sứ mạng truyền bá thông điệp cứu độ. Trong Thông Điệp Redemptoris Missio, đoạn 90, tôi đã nhắc lại rằng; "Mọi tín hữu được mời gọi đến với sự thánh thiện và sứ mạng truyền giáo".
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quảng đại đáp trả làm chứng nhân cho Chúa. Xin cho có nhiều tâm hồn quảng đại đáp lời mời gọi bước theo Chúa. Amen.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Luca là thánh sử duy nhất kể lại cho ta về sứ mạng của 72 môn đệ. Những môn đệ này được sai đi: TN 14-C94
Luca là thánh sử duy nhất kể lại cho ta về sứ mạng của 72 môn đệ. Những môn đệ này được sai đi từng hai người một, vì lời chứng của hai người là lời chứng thật. Chắc khi đi rao giảng các môn đệ cũng sẽ gặp nhiều trắc trở, nhưng sự vất vả không chuẩn miễn cho các ông khỏi những khó khăn và nguy hiểm. Các ông như chiên lành tay không trước mặt sói rừng. Dẫu vậy những người được Chúa sai đi và làm công việc do Chúa chỉ định, phải tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Không mang theo tiền, lương thực hay đồ dùng cá nhân kềng càng, họ phải tiến thẳng đến mục đích chứ đừng dừng lại dọc đường mà chuyện vãn bàn tính mất thời giờ với những người qua đường. Nói khác đi, họ chỉ có một điều quan tâm là rao giảng Lời Chúa cho mọi người, một thành, một làng, một nhà mà họ được sai đến và làm việc tại đó.
Công việc trước hết phải làm khi vừa bước chân tới là chúc bình an cho người ta, vì bình an vốn là dấu chỉ và bằng chứng của ơn cứu độ, của việc Chúa đến nếu xứng đáng họ sẽ được lãnh nhận. Sự bình an nói đây là sự bình an của ơn cứu độ, kết quả sự can thiệp đặc biệt của Chúa, nên cũng gọi là sự bình an của Nước Thiên Chúa. Bởi thế, đây chính là điều phụng vụ muốn dùng tới khi chọn đọc bài phúc âm này, vừa nói đến Đức Kitô đã đem đến sự bình an, một thứ bình mà thế giới không thể ban được, vừa nói lên sứ mạng của Hội Thánh là tiếp tục đem đến cho nhân loại sự bình an của Chúa.
Ngoài ra Đức Giêsu cũng khuyên các ông hãy đón nhận cách đơn sơ, giản di nơi ở cũng như lương thực mà người ta cung cấp nơi mình, không phải lo đến việc trả các phí tổn bằng tiền, mà chỉ lo trả bằng công tác của mình thôi. Ngoài ra cũng phải tránh những vấn đề làm cho người ta khó chịu như về lương thực hoặc tiện nghi. Nhưng phải biết bắt chước Chúa sẵn sàng chữa lành những bệnh nhân tật nguyền cho người ta một cách miễn phí. Vì đây cũng là dấu chỉ của thời thiên sai như Isaia đã loan báo.Và sau cùng nếu bị người ta sua đuổi thì cũng phải loan báo Nước Trời đã đến gần, và nói thẳng cho họ biết rằng họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự từ chối đó. Cũng nến để tất cả những gì thuộc về họ, cho dù là bụi đết dính chân cũng để lại để cảnh cáo họ.
Chỉ sau một thời gian ngắn, công việc rao giảng của các môn đệ hiển nhiên được thành công một cách đáng kể, và các ông đã hân hoan trở về bên Chúa Giêsu. Họ vui mừng hãnh diện vì làm tốt công việc được trao phó: rao giảng tin mừng, chữa bệnh tật. Tuy nhiên điều vượt quá sự mong mỏi của các ông là đã sua đuổi được ma qủy . Vì thế, các ông rất lấy làm hạnh phúc về việc đó cách rõ rệt nhưng cũng khá ngây ngô.
Chúa Giêsu muốn làm cho họ phải chưng hửng, Ngài chỉ muốn so sánh "chiến thắng" của họ với ánh chớp lóe lên từ trời xuống đất. Ngài cũng nói thêm về quyền năng mà Ngài đã ban cho họ trên Satan và các thứ thù địch sẽ được biểu lộ qua việc dẫn trên rắn rết mà chẳng hề hấn gì. Tuy nhiên Đức Giêsu muốn đưa họ đến một quan điểm đúng đắn là hạnh phúc đích thực không phải ở chỗ thắng ma qủy hay ở chỗ làm lụng vất vả rồi thành công, mà hệ tại ở chỗ chắc chắn mình được cứu rỗi: "hãy vui mừng vì tên các người đã được ghi trên trời". Quả thực đây mới chính là điều đem lại cho chúng ta sự bình an thực sự và vững bền không ai lấy mất được.
Sự bình an chân thật , sự bình an trong tâm hồn là của riêng những con người sống trong tình yêu của Chúa, sống trong tương giao mật thiết với Chúa và hoàn toàn vâng phục Ngài. Tội lỗi đã làm con người mất đi sự bình an đó, vì nó làm cho con người trở nên thù nghịch cùng Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới trả cho chúng ta sự bình an đã mất, vì chỉ mình Ngài có quyền tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Vì thế muốn lấy lại được sự bình an phải đến với Đức Kitô, tuyệt đối tin tưởng vào Đức Kitô, tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Ngài. Ngoài ra không có con đường cứu độ nào khác.
Nhờ Bí Tích Thánh Thể được cử hành, một bí tích mà Đức Giêsu đã thiết lập làm giao ước muôn đời cho hội thánh, chúng ta được phúc hiện tại hóa mầu nhiệm thập giá, tham dự vào hy tế đền tội với tất cả tham dự phong phú của nó. Chúng ta hãy tham dự vào cách ý thức tích cực và tron vẹn để chúng ta được bình an trong Đức Kitô, và chúng ta không quên cảm ta lòng thương xót bao la của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra chỉ khi nào con ở trong và ở bên Đức Giêsu con mới tìm được sự bình an đích, và cũng cho con luôn nhận ra sứ mạng của mỗi người Kitô hữu là đem bình an Tin Mừng đến cho người khác. Amen
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Lm Trọng Thưởng, CMC
Một mục sư Tin lành mới đến nhậm chức tại giáo xứ. Sau buổi lễ sáng Chúa Nhật, mục sư đứng: TN 14-C95
Một mục sư Tin lành mới đến nhậm chức tại giáo xứ. Sau buổi lễ sáng Chúa Nhật, mục sư đứng cuối nhà thờ để chào đón giáo dân. Nhiều người lần lượt xếp hàng đứng bắt tay. Đa số đều rộng lượng bày tỏ những lời khen khuyến khích, chỉ trừ có một người nói rằng: "Bài giảng của mục sư nghe thật nhàm chán và buồn ngủ!" Một lúc sau người ấy lại xếp hàng bắt tay và nói: "Tôi nghĩ rằng mục sư đã không để giờ chuẩn bị bài giảng." Sau đó người kia lại xuất hiện trước mặt mục sư và nói: "Lần này mục sư thật sự làm hỏng chuyện rồi. Ông thật sự chẳng có gì để nói cả." Vị mục sư không chịu nổi nữa, liền đến một cụ sáu hỏi về con người kỳ cục kia. Cụ sáu nói rằng: "Đừng để tâm đến ông ta. Ông ấy chậm chạp, không có suy nghĩ. Ông ta chỉ lặp lại những điều người khác mớm cho thôi."
Khi đi rao giảng, làm sao cho người nghe nhận được sứ điệp là điều quan trọng. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Kitô chọn 72 môn đệ và sai họ đi rao giảng rằng: "Nước Trời đã gần đến." Chúa không muốn các môn đệ chỉ như những con vẹt, lặp lại những gì Ngài chỉ dạy, nhưng muốn các ngài phải sống sứ điệp mình rao giảng, trở nên một người rao giảng Tin Mừng thật sự. Người rao giảng Nước Trời phải là người siêu thoát với mọi ràng buộc của trần gian. Nếu người môn đệ của Chúa rêu rao trên miệng nhiều điều tốt đẹp về nước trời, nhưng trên mình mặc quần áo xa hoa lộng lẫy, đeo lủng củng các thứ dây vàng, nhẫn vàng, với mọi thứ của cải sang trọng khác, ai có thể tin vào Nước Trời do lối sống như thế? Hoặc một người cũng môi miệng đó rêu rao chiêu bài bác ái, xây dựng, nhưng mặt khác lại đi chửi bới thoá mạ người khác. Làm sao có thể tin vào loại người như thế? Làm sao có thể tin rằng người đó không trở mặt chửi bới những người thân quen chung quanh?
Vì thế Chúa đã truyền cho các môn đệ khi đi rao giảng phải sống tinh thần khó nghèo, siêu thoát khỏi mọi ràng buộc, tham vọng trần gian, để có thể hướng lòng mình cũng như người nghe về Nước Trời. Kết quả của cuộc sống ly thoát mọi ràng buộc là sự bình an đích thực, mà người môn đệ nắm chắc trong tâm hồn và thông ban bình an cho những người chung quanh.
Sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa đã trao ban cho 72 môn đệ và còn tiếp tục trao ban cho mỗi người Kitô hữu. Chúng ta hãy rao giảng bằng lời nói khi có thể, nhưng trên hết đời sống mỗi người phải là lời giảng hùng hồn nhất. Hãy siêu thoát khỏi những tham vọng của cải, quyền lực, lợi lộc cá nhân, bè phái" đó là những ràng buộc của trần gian khiến người Kitô hữu không thể là chứng nhân đích thực cho Nước Trời. Hãy một lòng xây dựng cho nước trời bằng tấm lòng ngay chính, không bè phái, không chia rẽ, không đối lập" hãy sẵn sàng hy sinh quên mình, dẹp bỏ ích kỷ cá nhân để đóng góp cho cộng đoàn, giáo xứ, cho Giáo Hội.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Trên đường lên Giêrusalem, sau khi đề ra những điều kiện để trở nên môn đệ đích thực, Chúa: TN 14-C96
Trên đường lên Giêrusalem, sau khi đề ra những điều kiện để trở nên môn đệ đích thực, Chúa Giêsu liền sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin mừng. Cũng như nhóm 12, các môn đệ này đã từ bỏ mọi sự, đáp ứng được những đòi hỏi, những điều kiện mà Chúa đưa ra. Giờ đây, chính các ông cũng sẽ rời xa Thầy mình để ra đi loan báo Tin mừng cứu rỗi cho muôn dân theo đúng lệnh truyền của Chúa.
Lời căn dặn của Chúa Giêsu khi sai 72 môn đệ ra đi so với những lời Người dùng trước đó để nói với 12 Tông đồ chi tiết và rõ ràng hơn nhiều. Lý do để Chúa sai các ông đi rao giảng Tin mừng là vì "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít". Và vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các ông tham dự vào sứ mệnh rao truyền Nước Thiên Chúa cũng như gia tăng việc cầu nguyện không ngừng để xin Chúa Cha sai nhiều thợ lành nghề đến đồng lúa chín vàng đang chờ người thu hoạch.
Chúa Giêsu đã không ngần ngại loan báo cho các môn đệ biết trước những gian nan khốn khó đang sẵn chờ các ông ở phía trước. Hành trình của các ông ra đi được ví như "chiên con đi vào giữa bầy sói". Sứ giả của Thiên Chúa một khi phục mệnh ra đi thì cần phải chấp nhận đi vào những hoàn cảnh khó khăn và thử thách, đi đến những nơi mình không muốn, và ngay cả liều mất mạng sống nữa. Họ chấp nhận những thử thách gian lao, là vì, đối với họ, niềm vui chính là được chính Chúa Giêsu tin tưởng trao phó cho công việc loan báo sứ điệp Tin mừng- sứ điệp của tình yêu. Họ vui mừng và tự do chấp nhận ra đi vì họ cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa mời gọi và thúc bách họ. Họ hoàn toàn tự do và vui vẻ ra đi bởi họ hiểu rằng tình yêu là một lời mời gọi chứ không bao giờ là một sự cưỡng bức. Thế nên, vâng lời Thiên Chúa tình yêu, họ ra đi....
Hành trang của các nhà truyền giáo cũng được Chúa Giêsu giản lược hết bao có thể. "Đừng mang theo túi tiền, bao bị hay giày dép". Hẳn chúng ta biết đây chính là sứ mệnh đòi hỏi gắt gao, thúc bách người môn đệ phải sống ngay lập tức thái độ từ bỏ mọi sự và tin tưởng phó thác vào tay Chúa quan phòng. Thật thế, không mang theo túi tiền, tức là người môn đệ sẽ cảm nhận một cuộc sống bấp bênh, không biết ngày mai sẽ ra sao, tương lai dường như không được đảm bảo; không mang bao bị và giày dép là nhằm tránh đi những thứ đồ đạc cồng kềnh, không cần thiết và tránh đi những tiện nghi thường dùng; cũng đừng chào hỏi ai dọc đường, tức là đừng quá lãng phí thời gian vì cách chào theo kiểu phương Đông thường dài dòng mà sứ vụ rao giảng Tin mừng thì đang khẩn cấp. Sứ mệnh ra đi của các môn đệ là một sứ mệnh không biên giới. Các ông được sai đến mọi nơi để mang đến cho người dân nơi đó quà tặng Bình an của Đấng Thiên sai, lời chúc lành từ trời mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho con người.
"Họ ra đi, mang hạt giống vãi gieo, lúc trở về, reo vui hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng" (Tv 125, 6). Tác giả thánh vịnh diễn tả thật đúng tâm trạng của 72 môn đệ về những gì các ông đã thực hiện khi vâng lệnh Chúa ra đi loan báo Tin mừng. Các ông vui mừng hớn hở vì thành quả do sứ vụ rao giảng Tin mừng mang lại. Đồng thời các ông còn cảm nghiệm hiệu quả nhiệm lạ từ quyền năng uy quyền của Thầy mình. "Nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng khuất phục chúng con". Có thể đối với các ông, thành quả của những chuyến "ra khơi", và những ơn ích do Chúa ân ban mà mắt các ông được chứng kiến là niềm hạnh phúc tột cùng rồi. Thế nhưng, với Chúa Giêsu, đó chưa phải là đỉnh điểm của hạnh phúc. Thật vậy, Chúa Giêsu tiếp tục giúp các ông nhận thức tầm quan trọng sâu xa từ những gì các ông đã làm vì danh Chúa cho nhân trần. Đồng thời Người cũng khai mở cho các ông biết nguồn gốc quyền năng mà các ông đã có dịp cảm nghiệm, tất cả đều do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa muốn qua các ông ban tặng cho con người. Chúa Giêsu còn cho các ông biết rằng, niềm hạnh phúc vĩnh cửu, niềm vui của các ông chính là "tên của anh em được ghi trên trời". Còn hạnh phúc nào hơn hạnh phúc này, còn thành quả và ân phúc nào hơn đặc ân vô biên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho các ông sau khi các ông đã chu toàn lệnh truyền của Chúa, đến với muôn dân loan báo Tin mừng cứu rỗi? Đó chính là nguồn hạnh phúc đích thực mà Chúa muốn trao ban cho hết những ai xả thân vì Tin mừng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta theo chân các môn đệ tiếp tục ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa Kytô giữa lòng nhân loại. Bản chất của Giáo hội Chúa Kytô chính là sứ vụ truyền giáo. Vì thế, chúng ta không ngừng cầu xin Chúa ban cho Giáo hội thêm nhiều tâm hồn quảng đại đáp lại tiếng Chúa kêu mời. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng ta ý thức hơn nữa sứ mạng mà Chúa và Giáo hội mời gọi là "Hãy ra khơi" rao giảng Tình yêu Thiên Chúa cho muôn người.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Lm. Jude Siciliano, OP.
Đọc bản văn tiếng Việt, chúng ta khó có thể nhận ra ngụ ý của Isaia đệ tam trong bài đọc 1 hôm nay. TN 14-C97
Đọc bản văn tiếng Việt, chúng ta khó có thể nhận ra ngụ ý của Isaia đệ tam trong bài đọc 1 hôm nay. Thực ra, trong nguyên gốc thì tác giả dùng tới ba thì: quá khứ, hiện tại, tương lai. Chính ở trong cách dùng "thì" này mà ý nghĩa của sứ điệp được rõ ràng, và nhờ đó độc giả của ông nhận ra những gì đã qua, nhưng chỉ ở hiện tại và hy vong ở tương lai. Bản văn nói đến cả hai nội dung vui mừng và buồn đau, nhưng ở trong các giai đọan khác nhau: Quá khứ, hiện tại thì đau buồn, chua xót và ân hận, nhưng tương lai đầy hy vọng và ủi an.
Giêrusalem và dân Do Thái đã bại trận tan hoang. Dân số giảm thê thảm vì những người tài giỏi, khéo chân tay, sản xuất nhiều đều bị lùa đi đày sang Babylone. Từ đó họ hướng về Giêrusalem và quê hương mà khóc than, nhớ nhung. Isaia gióng tiếng an ủi họ nhân danh Thiên Chúa: "Đức Chúa phán thế này: Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì Thành đô mà hoan hỉ, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành đô." Họ sẽ được trở về Giêrusalem, được giải thóat khỏi những nhục nhằn của kiếp sống nô lệ trên đất khách quê người. Tuy nhiên cuộc trở về của họ còn in đậm nét u sầu khi nhìn thấy đổ nát. Và điều làm cho đau xót tăng thêm là trách nhiệm của tuyển dân, nhất là của những thủ lãnh cầm quyền. Điều họ trông thấy trước mắt là hậu quả của phản bội, tội lỗi, bất trung với Giao Ước mà cha ông đã ký kết với Giavê.
Thật đau đớn biết bao những hậu quả của lãnh đạo sai lầm và lựa chọn tội lỗi. Đây cũng là kinh nghiệm cảnh cáo các linh hồn mọi nơi mọi thời. Chúng ta chẳng những cảm nghiệm tan nát về tội lỗi cá thể, nhưng còn chứng kiến tai họa, đổ vỡ cộng đòan, xã hội, quốc gia, quốc tế nữa. Những cuộc bại trận, dịch họa phải chăng là do tội lỗi chúng ta gây nên? Chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm chung vì những tan rã ấy. Tội của một xã hội không những bày tỏ trong chia rẽ, chiến tranh, hận thù, bạo lực, cô lập của xã hội ấy mà còn ảnh hưởng đến xã hội tòan cầu. Thí dụ, lạm dụng tài nguyên quá đáng, khí thải chất độc vào môi trường sinh thái của trái đất, sản xuất ma túy, thuốc phiện vô lương tâm ảnh hưởng nguy hại đến tòan thể nhân lọai, chứ không riêng một đất nước nào!
Chẳng khó mà xác quyết lỗi lầm đối với những người gánh chịu thân phận tha hương khi nhìn thấy cảnh điêu tàn Giêrusalem và họ than khóc vì quá khứ của mình. Nhưng rất khó cho chúng ta nhận ra sai lầm và trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai!
Bài đọc 1 hôm nay trích từ chương cuối cùng của Isaia đệ tam (Trito-Isaia) thông điệp sau hết cho những người sống sót từ cuộc lưu đày trở về. Nó không phải là những lời khiển trách, nhưng an ủi vỗ về. Không phải là "nhìn xem đấy, tội lỗi của dân gây ra" mà là sấm ngôn của hy vọng và cứu vớt bằng các hình ảnh cụ thể: Giêrusalem sẽ được phục hồi, xứ sở được xây dựng lại: "Này Ta tuôn đổ xuống Thành đô ơn thái bình tựa dòng sông cả và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ". Việc phục hồi bất khả thi sẽ trở thành hiện thực. Dĩ nhiên không phải là do bàn tay lòai người, mà do quyền năng của Thiên Chúa. Ngài sẽ xây dựng lại Giêrusalem huy hòang rực rỡ hơn cũ. Isaia đệ tam tuyên bố như vậy: "Để được Thành đô cho hưởng trọn niềm an ủi, được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ".
Isaia chuyển hướng đột ngột trong việc công bố tin vui: Chẳng phải Giêrusalem an ủi các con cái mình. Lúc này họ đang than khóc trước hoang tàn, mà là Thiên Chúa sẽ là bảo mẫu của họ qua Giêrusalem: "Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy". Khi tôi rao giảng trong các nhà tù, tôi cảm nghiệm thất bại mỗi khi đưa ra hình ảnh người "cha" để tượng trưng Thiên Chúa - mặc dù Tân Ước luôn dùng hình ảnh ấy. Bởi vì tôi nhận ra rằng các phạm nhân thường mặc cảm về bố của họ. Họ tưởng tượng lại những lúc bị đánh đập, bỏ đói, vũ phu, trừng phạt nghiêm nghị. Nhưng hình ảnh người 'mẹ' thì luôn thành công. Bởi vì bà luôn dịu dàng, tha thứ, khích lệ, không khước từ cho nên họ cảm thấy an lòng.
Vậy nếu tuần tới, được giảng lễ cho họ, tôi sẽ lợi dụng tối đa tâm lý này của bài đọc 1 mà giảng giải. Tôi nắm chắc kết quả trong việc cho họ ấn tượng mạnh về Thiên Chúa yêu thương, vỗ về những số phận lạc lòai. Nên chăng chúng ta theo đường hướng này, không những cho các phạm nhân trong nhà tù, nhưng cho tất cả những linh hồn đang bị giam hãm trong các kiểu "khám đường" khác nữa! Thế giới tân thời nhiều người trẻ đang bị ám ảnh bởi quyền lực độc tài, chuyên chính, đòi hỏi. Họ cảm thấy ngay cả trong gia đình: bị bố bỏ rơi, lạc lõng, hiểu lầm, vô cảm, không chút triều mến! Họ và chúng ta cần được nghe lời Thiên Chúa đầy đủ như bài đọc hôm nay! Thiên Chúa là hình ảnh người mẹ luôn chăm sóc vỗ về. Chúng ta cần nghe Thiên Chúa cho mình bú no "bầu sữa mẹ" khi bị thế gian vùi giập, khổ đau, chứ không cần "cải tạo" để kiếm được yêu thương, thông cảm, tha thứ. Ai mà chẳng có lúc rơi vào những hòan cảnh như vậy? Chúng ta cần những người mẹ biết lắng nghe, thấu hiểu và chạy đến chạn đồ ăn thức uống lấy cho chiếc bánh nhà làm lấy!
Tất cả những điều này, Thiên Chúa làm hôm nay, trên bàn thờ, trong bí tích Thánh Thể. Xin tưởng tượng ông Kha-Luân-Bố vui mừng biết bao khi khám phá Châu Mỹ năm 1492. Xin tưởng tượng các môn đệ phấn khởi biết mấy khi rao giảng thành công trở về thuật lại cho Chúa Giêsu nghe!
Câu trả lời của Chúa Giêsu là: "Thầy đã xem thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống". Nghĩa là hắn thất bại hòan tòan trước lời rao giảng của 72 môn đệ. Nhưng niềm vui của Kha Luân Bố làm sao sánh được với niềm vui của Thầy trò Chúa Giêsu? Niềm vui của Thầy trò Chúa Giêsu hệ tại truyền thông cho thế giới trầm luân Tin mừng cứu độ và sự sống vĩnh hằng. Ông Kha Luân Bố chẳng qua vì lợi lộc đời này, tương tự như các khoa học gia hôm nay khám phá ra các sáng chế, làm thăng tiến đời sống vật chất. Nhưng niềm vui rao giảng Tin mừng và ơn cứu độ lớn hơn nhiều và cũng thuộc chúng ta, và có thể đạt tới được nếu chúng ta triệt để trung thành với ơn gọi. Vì thế lời cầu nguyện hôm nay là: Lạy Thiên Chúa tòan năng, chúng con nài xin Chúa giải thóat chúng con khỏi mọi tội lỗi và dẫn đưa chúng con vào niềm vui muôn đời. Điều này chúng ta có thể chứng kiến cụ thể nơi những linh hồn làm việc tông đồ nhiệt thành và đắc lực.
Thực vậy, bài đọc 1 và 3 liên hòan với nhau. Bài này soi rọi ánh sáng vui mừng lên bài kia. Niềm vui Isaia III minh họa cho niềm vui các môn đệ khi trở về từ sứ vụ rao giảng. Chúa Giêsu là Giêrusalem mới an ủi, khích lệ, nuôi dưỡng những kẻ lưu đày trần gian. Ngài đã làm trọn lời tiên báo của Isaia: "Thiên Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết" Đức Giêsu đã làm như vậy thông qua 72 môn đệ. Liệu chúng ta có được sai đi như họ? Câu trả lời là có khi chúng ta lãnh nhận các bí tích, nhất là Rửa tội và Thêm sức. Chúng ta thực sự được sai đi trước cánh đồng bao la của thế giới. Và Ngài cũng nói với chúng ta: "Lúa chín đầy đồng và thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói". Như vậy, thực tế, chúng ta là hiệu quả của lời cầu nguyện và phân công của Chúa Giêsu, của Hội thánh, của các Kitô hữu nhiệt thành. Xin đừng phản bội ơn gọi kẻo mắc tội trước mặt Thiên Chúa. Nhìn vào sinh họat của từng giáo xứ, chúng ta đều thấy gương sáng truyền giáo trước mắt. Lễ sinh, đọc sách, chuẩn bị phụng vụ, quét nhà thờ, kéo chuông, thăm viếng kẻ liệt, giúp đỡ những gia đình gặp khó khăn... Mỗi người mỗi việc góp tay vào sinh họat chung. Chẳng lẽ họ không cộng tác với Chúa Giêsu trên cánh đồng truyền giáo hay sao?
Và dĩ nhiên, họ cũng gặp những khó khăn: "Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói". Không phải lúc nào các thợ gặt của Chúa đều kinh nghiệm thuận lợi! Ngay cả những Tông đồ đã từng nếm mùi thất bại. Họ tan tác, thất vong khi Thầy bị hành hình và chết tất tưởi trên giá gỗ. Chúng ta không thể gặp may mắn hơn "đầy tớ không hơn chủ". Tuy nhiên, chúng ta luôn phải giữ vững niềm vui: Thánh Phao Lô trong bài đọc 2 viết: "Thưa anh em, ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngòai thập giác Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!" Lý do vì thập giá ấy là dấu chỉ chắc chắn tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa đối với ông, với nhân lọai, chúng ta và cũng là bằng chứng của ông và của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Không hiểu quí vị nghĩ sao về tư tưởng này? Đời sống ngại hy sinh, yêu thích nhung lụa, tiện nghi xác thịt là câu trả lời của vô số người thời nay.
Điều chắc chắn là chẳng ai yêu thích khó khăn, đau khổ không lý do. Chúng ta phải yêu mến sự sống, giữ gìn sức khỏe để làm vườn nho cho Thiên Chúa. Chính Đức Kitô trong vườn Cây Dầu đã xin Thiên Chúa Cha cho mình khỏi chết. Nhưng khi cần thiết thì chúng ta làm những hy sinh, ngay cả tính mạng, Thánh ý Chúa là tuyệt đối. Nhưng nếu không tập dượt trước thì làm thế nào chúng ta sẵn sàng hy sinh? Cứ ăn ở nhung lụa, rồi bỗng dưng xả thân hy sinh được ngay thì chỉ là phép lạ. Mà phép lạ hiếm lắm. Người ta phải tập luyện hy sinh để thành tập quán, thói quen. Chính vì vậy, mà Phúc Am hôm nay, Chúa sai môn đệ đi rao giảng với điều kiện: Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường, nhưng hãy nói bình an cho nhà này." Nghĩa là họ không nên mang theo thứ chi ngòai Chúa Giêsu.
Vừa qua đài Chân lý Á Châu kể câu chuyện vui liên quan đến đề tài hôm nay. Xin ghi lại để suy gẫm: Có hai tu sĩ được sai đi loan báo Tin mừng. Một người vui vẻ đi ngay. Người khác đòi hỏi bề trên cho hành lý, tiền nong. Ông ta không chịu đi nếu không được chu cấp, buộc lòng bề trên phải cho ít tiền. Đến quãng sông vắng, trời tối, hai ông định ngủ lại bờ sông nhưng nguy hiểm vì nhiều thú dữ. Ông có tiền liền gọi đò thuê đưa sang sông. Tới nơi, họ tìm được quán trọ an tòan. Ông có tiền liền nói với bạn: Thấy chưa! Không có tiền làm sao qua sông và được thế này? Người bạn trả lời: "đúng là vì Thiên Chúa quan phòng cho anh có tiền nên tôi qua được". Hai thầy tu đều có lý cả. Ngày nay tiền bạc là quan trọng, đi đâu cũng phải dùng, khắp nơi đều thu lệ phí, qua cầu, đường, quán trọ, xa lộ, nhà hàng, vi tính... Không có tiền thi hành sứ vụ thế nào? Nhưng tu sĩ thứ nhất nhiều lý hơn, vì Lời Chúa là sự thật tuyệt đối và lịch sử Giáo hội đã chứng minh.
Công việc Chúa truyền làm đòi hỏi người ta phải hòan tòan cậy nhờ vào Thiên Chúa, tự thân, môn đệ chẳng làm được. Công việc là của Chúa, hiệu quả cũng là của Thiên Chúa, trách nhiệm thực hiện vẫn là của Ngài. Hãy để Thiên Chúa là Thiên Chúa Tòan năng. Xin đừng đảm nhận trách nhiệm về mình kẻo sinh lòng kêu ngạo. Chúng ta chỉ là đại sứ của Ngài, làm việc cho Ngài, hưởng bổng Ngài trả, chẳng liên hệ chi tới chúng ta. Tu sĩ thứ hai đã tự đảm nhận công việc cho mình. Đó là thái độ chúng ta hôm nay. Liệu có sai lầm không? Lời đầu tiên tôi phải nói với chủ nhà là: Bình an cho nhà này. Làm sao tôi có thể nói như vậy, nếu không đem Chúa Giêsu đi theo? Cho nên chúng ta phải triệt để vâng theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu, tinh thần của Ngài sẽ giải quyết tất cả. Nguyện xin Ngài giúp đỡ chúng ta, những người rao giảng Lời Chúa cho thế gian. Amen.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Lm. Anmai, CSsR
Nhớ lại một cha già trong nhà Dòng, gốc của Ngài là người Huế nên Ngài hay nói với những ai thăm: TN 14-C98
Nhớ lại một cha già trong nhà Dòng, gốc của Ngài là người Huế nên Ngài hay nói với những ai thăm Ngài rằng mỗi người hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa và sống "in như ri". Giọng Huế rất hay với chữ "in như ri". "In như ri" chính là chữ "In ri" (Vua dân Do Thái) được treo trên đầu Chúa Giêsu. Câu nói dí dỏm của Cha già xem ra mà hay đó chứ ! Là kitô hữu, phải chăng mỗi người được mời gọi nhìn lên thánh giá Chúa và sống mầu nhiệm ấy.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhiều người đã kinh nghiệm và đã sống mầu nhiệm thánh giá ấy. Một trong những người đã sống mầu nhiệm thánh giá một cách trọn vẹn đó chính là Thánh Phaolô tông đồ. Khẳng định về kinh nghiệm của thánh giá hôm nay chúng ta được nghe Thánh Phaolô tông đồ nhắc lại: "Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian".
Chẳng cần phải minh giải nhiều, chẳng phải nói nhiều, những người mang tên là kitô hữu đã biết khá nhiều về con người của Phaolô. Phaolô đã hơn một lần bay nhảy và đã hơn một lần bách hại đạo Chúa Giêsu. Phaolô đã bằng mọi cách diệt cho bằng được nhưng ai xưng mình là kitô hữu. Thế nhưng, sau khi được Thiên Chúa "mở mắt" cho thấy Ngài thì cuộc đời của Phaolô thay đổi hoàn toàn. Cứ đọc lại tất cả các thư của Thánh Phaolô, chúng ta sẽ thấy rõ cảm nghiệm của Ngài về Chúa Giêsu.
Phải nói rằng cuộc đời của Phaolô là một cuộc đời tuyệt vời. Trước khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô sống theo kiểu người đời nhưng khi biết Chúa Giêsu thì Phaolô đã sống chết với con người mang tên Giêsu đó. Với Phaolô, đâu phải đơn giản để sống chết với Chúa Giêsu vì trước đó Phaolô là người bách hại Chúa. Khi cuộc đời của Phaolô thay đổi 180 độ thì chẳng ai tin được. Người ta đã cho rằng Phaolô là người giả tạo vì trước đó thì bắt Chúa còn sau thì lại rao giảng Tin mừng về con người mà trước đây mình bách hại. Vì Chúa Giêsu, Phaolô đã lội ngược dòng để minh chứng cuộc đời của mình thuộc về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu - Nước Thiên Chúa lúc nào cũng đối nghịch với thế gian thì phải. Thế gian thì sống bất minh, sống gian tà, sống thiếu sự thật còn Nước Thiên Chúa là nước của sự thật, sự sống vĩnh cửu. Những ai sống vì Nước Thiên Chúa, sống với Nước Thiên Chúa, sống cho Nước Thiên Chúa thì bị người đời thoá mạ và ngược đãi. Không dừng lại ở thoá mạ, ngược đãi mà còn bị loại trừ ra khỏi thế gian này cho rảnh mắt.
Người bị loại ra khỏi thế gian mà ai ai cũng biết đó chính là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu biết trước chương trình của Chúa Cha dành cho Ngài và giờ của Ngài phải đến thế gian.
Thật sự ra Chúa Giêsu đã biết trước thế gian như thế nào nhưng vì Thánh ý của Cha nên Ngài vẫn đến. Chúa Giêsu đã đến thật và Ngài đã sống giữa thế gian này. Sống giữa thế gian, dẫu là Con Chí Thánh của Cha trên trời ấy nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận tất cả những đau khổ của thế gian dành cho Ngài. Chúa Giêsu là Chúa còn phải đón nhận đau khổ như vậy để rồi môn đệ của Chúa, những người theo Chúa cũng phải sống cái đau khổ như Thầy Chí Thánh đã sống.
Biết trước được những khó khăn ấy, khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các ông: "Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! " Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông." Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó."
Sau khi nghe lời chỉ bảo của Thầy, các môn đệ đã ra đi và đã trở về và thưa chuyện với Thầy "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con." Và rồi, Chúa Giê-su bảo với các môn đệ rằng: "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống" Sau đó Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ quyền năng để các ông có thể đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù. Tất cả thế lực của Kẻ Thù bày ra nhưng sẽ không làm được gì các môn đệ cả. Chúa Giêsu còn dặn dò thêm: "Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi".
Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ rằng đừng mừng với cái chuyện quỷ thần khuất phục nhưng hãy vui mừng vì tên của các môn đệ, của những người theo Chúa sẽ được ghi ở Giêrusalem mới, ở Nước Trời. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc không giống như niềm vui của trần gian, của cuộc đời mà nhiều người tìm kiếm, theo đuổi. Niềm vui của Giêrusalem Thiên Quốc được ngôn sứ Isaia vừa nói qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe:
Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,
hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ,
hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô!
Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng,
hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô,
để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi,
được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang,
như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.
Vì Đức Chúa phán như sau:
Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả,
và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ.
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ,
được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.
Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy;
tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.
Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc,
thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh.
Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết,
và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ thù.
Ở trong Giêrusalem Thiên Quốc, ở Thành Đô của Thiên Chúa thì những người yêu mến Thành Đô sẽ vui mừng, sẽ được bình an như trẻ thơ được bú no bầu sữa mẹ và sẽ được nâng niu trên đầu gối, được bồng ẵm bên hông như Mẹ hiền vậy. Khi ở Thành Đô thì những thù địch sẽ bị đẩy lui bởi cơn thịnh nộ của Đức Chúa.
Giêrusalem Thiên Quốc, Nước Trời luôn luôn nghịch lại với thế lực của ma quỷ, của thế gian, của sự ác để rồi những ai muốn vào Giêrusalem Thiên Quốc, muốn vào Nước Trời cũng phải sống như các môn đệ ngày xưa đã sống nghĩa là phải sống như chiên sống giữa sói rừng vậy. Thế nhưng, những ai tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong lòng bàn tay của Thiên Chúa thì tất cả những thế lực của ma quỷ sẽ không làm hại những người tin được. Kinh nghiệm ấy hết sức rõ ràng nơi cuộc đời của những người môn đệ thân tín, của các thánh nam nữ của Thiên Chúa, đặc biệt nơi các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa. Những môn đệ thân tín, các thánh nam nữ của Thiên Chúa, các Thánh Tử Đạo của Thiên Chúa đã bị thế gian cấu xé, nghiền nát nhưng rồi trước mặt Thiên Chúa, các Ngài đã sống hết mình, hết lòng, hết sức, hết trí khôn cho Nước Trời, cho Thành Đô của Thiên Chúa nơi Thiên Quốc.
Chuyện quan trọng của người môn đệ, của người theo Chúa Giêsu đó là làm sao tên của mình được ghi ở trên Trời. Tất cả mọi chuyện, tất cả mọi sự rồi sẽ qua đi mà thôi. Giữa cái lựa chọn Nước Trời và trần gian này không phải là đơn giản, nhiều và nhiều người muốn chạy theo cái thế gian này để bỏ cái vinh quang Nước Trời mà Thiên Chúa mời gọi.
Nguyện xin Thầy Chí Thánh ban thêm ơn, ban thêm sức mạnh và đặc biệt ban thêm quyền năng cho những ai tín thác vào Chúa để rồi nhờ ơn Chúa những người đó có thể chống chõi tất cả những mưu mô của các thần để sau cuộc chiến ở cõi đời này thì những người ấy được vào hưởng nhan Thánh Chúa và được vào hưởng Giêrusalem Thiên Quốc như Chúa đã hứa ban.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Lm Vũ đình Tường
Vô nghĩa diễn tả tình trạng nghe mà không hiểu hay nghe vào tai này chạy tuốt qua tai kia, để lại: TN 14-C99
Vô nghĩa diễn tả tình trạng nghe mà không hiểu hay nghe vào tai này chạy tuốt qua tai kia, để lại trong ta cõi trống. Câu nói khơi lên trong ta một chút gì dù là vui buồn, sướng khổ hay lo lắng đều là những câu nói có nghĩa bởi vì chúng khơi lại trong ta ít nhiều tình cảm sâu thẳm trong lòng. Ngôn ngữ con người tự nó không có sức mạnh khơi dậy tình cảm trong ta. Nó chỉ có tác dụng khi ta nghe chúng với tâm tình lắng nghe, muốn nghe. Trong trường hợp đó ngôn ngữ có sức mạnh khơi dậy, khích động lòng người. Trái với ngôn ngữ con người Lời Chúa tự Lời Ngài có sức mạnh bởi Lời Chúa luôn kèm theo sức mạnh của Thánh Thần nên tự Lời Chúa có sức mạnh. Hơn nữa lời Chúa có sức tạo dựng. Lời Ngài phán ra tạo nên đất trời. Vì thế đất trời đều lệ thuộc vào Lời Ngài để tồn tại. Chúng tồn tại vì do Lời Chúa ban sức sống, cầm giữ và ban cho chúng ơn tái tạo được hiểu là biến hoá trong vũ trụ đất trời.
Lời Ngài có khả năng thay đổi tuỳ theo vật Ngài sáng tạo. Lời Ngài khoả đầy vũ trụ và di chuyển cùng tốc độ nở bành trướng của vũ trụ hay Lời Ngày thu nhỏ, kiên nhẫn đợi chờ cho con tim đóng kín mở ra đón Ngài vào tim. Chúng ta bị lệ thuộc vào thời gian và không gian nhưng Lời Ngài hoàn toàn không bị điều kiện thời gian, không gian kìm chế.
Khi con tim đóng kín không đón nhận Lời Ngài không phải vì Lời không có sức mạnh tiến vào nhưng là Lời tôn trọng quyết định, cảm xúc trong ta, không cưỡng bách, thúc ép ta miễn cưỡng đón nhận Lời Ngài. Khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Đức Kitô đã hướng dẫn các môn đệ là khi vào nhà nào, thành nào nếu người ta đón tiếp thì hãy cư ngụ tại đó, nếu không thì hãy âm thầm ra đi và bình an của Lời Ngài cũng sẽ ra đi Lc 10,6.
Điều này cho thấy Lời Ngài có sức mạnh đến người không cản được, đi người không thể cầm giữ. Lời Ngài tự do, tự tại đến đi tuỳ theo mức độ cởi mở, đón nhận của con tim người nhận. Con tim rộng mở đón nhận ơn bình an; con tim đóng chặt, khép kín mất bình an nội tâm.
Trong trường hợp con tim khép kín thì tâm tình của người mang Lời Chúa đóng một phần quan trọng trong việc hoán cải con tim khô cằn, sỏi đá. Tâm tình đó là tâm tình của người môn đệ đặt hết tin tưởng vào Lời Chúa. Chính xác tín này thể hiện qua lời nói, việc làm của họ làm cho con tim khô cằn, sỏi đá được thảnh thơi và từ từ mở ra đón nhận Lời Ngài. Người môn đệ chân thành là người môn đệ ít nhiều có cảm nghiệm về sức mạnh Lời Ngài mang lại trong tâm hồn họ, đóng dấu ấn tín yêu thương trong lòng khiến họ rao giảng mà không nghi ngại, gặp trở ngại không sờn lòng, thất bại không nản chí, đau khổ không chùn bước, thành công không kiêu căng. Chính thái độ khiêm tốn, kiên nhẫn và nhẫn nhục giúp con tim khô cằn tìm thấy nguồn nước. Con tim đóng kín hé mở đón Lời Ngài. Một tâm hồn hay tấm lòng thay đổi nhờ vào Lời Ngài được thánh Phao lô diễn tả trong bài đọc thứ hai là con người mới, tạo vật mới. Tạo vật mới này có được là do Lời Ngài biến đổi, thánh hoá và ban cho sự sống mới. Tạo vật mới được nuôi dưỡng bằng Thần Khí và ơn an bình thiên quốc.
---------------------------------------
Lc 10, 1 - 2. 17 – 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Do đó, lúc nào, thời nào, giai đoạn nào, Hội Thánh cũng: TN 14-C100
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Do đó, lúc nào, thời nào, giai đoạn nào, Hội Thánh cũng mời gọi các Kitô hữu thực hiện lời truyền của Chúa Giêsu:" Anh em em hãy đi rao giảng cho muôn dân..". Lời truyền ấy luôn luôn vang dội giữa mọi người, luôn luôn là lời thôi thúc mọi người ra đi loan báo Tin Mừng, ra đi giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác. Ý thức, sứ mạng rao giảng và lời của Chúa:" Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít " (Lc 10, 2 ). Nhiều thợ gặt và nhiều sứ giả của Chúa, của Giáo Hội đã đi cùng khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng: " Nước Thiên Chúa ".
Thực tế, đã 2013 năm qua, Lời Chúa vẫn thôi thúc Hội Thánh, tuy nhiên trên thế giới mới khoảng 1/7 nhân loại là biết Chúa, còn biết bao nhiêu người chưa được nghe giảng Tin Mừng, có những người đã biết Chúa nhưng còn nguội lạnh vì chưa học giáo lý kỹ, chưa thực hành Lời Chúa tốt đẹp, nên tất cả đều phải được lắng nghe Lời Chúa và thực hiện Lời Chúa khi họ được học giáo lý kỹ càng, để sống đúng Tin Mừng của Chúa.
Cánh đồng thế giới được ví như một ruộng lúa mênh mông đầy lúa chín vàng, nhưng thợ gặt lại quá ít. Chúa Giêsu muốn gợi ý cho mọi người rằng trách nhiệm truyền giáo thuộc về mọi Kitô hữu. Thế giới mênh mông nhưng lại rất ít thợ gặt. Bởi vì thế giới hiện giờ có hơn 7 tỷ người. Tuy nhiên, số theo Chúa, biết Chúa chỉ mới có hơn 1 tỷ mà thôi. Chính vì thế, giữa người biết Chúa và người không biết Chúa vẫn có một sự chênh lệch trầm trọng, giữa thợ gặt và ruộng lúa chín cũng có sự thật chênh lệch. Nhưng nơi đâu theo kinh nghiệm từ hơn 2.000 năm nay có những Sứ giả, những Linh mục thánh thiện, những Thiện nguyện viên tốt, những Nhà truyền giáo tốt thì kết quả truyền giáo thực rất tốt, mang lại nhiều hoa quả, nhiều người nhận biết Chúa.
Nếu chúng ta làm một cuộc so sánh, chúng ta sẽ thấy có một sự sút giảm trầm trọng về ơn gọi tại các nước Âu Châu,, các Nước Mỹ La Tinh, và các nước thứ ba, riêng tại vùng Đông Nam Á , đặc biệt là tại Việt Nam, ơn gọi còn tương đối nhiều. Nhưng người ta vẫn phải hướng tới tương lai, hướng tới một viễn tượng xa xôi và sâu xa hơn. Có thể, một lúc nào đó ơn gọi sẽ ít đi...Viễn tượng của một thế giới vắng bóng, hoặc ít thợ gặt vẫn là thách đố lớn đối với Giáo Hội. Thế giới hôm nay, nhiều nơi vẫn còn đang đi trong mò mẫm, nhiều bóng tối đang phủ lấp những đám mây sáng, con người đang cần những đốm sáng của tình thương, đang cần những tấm lòng, những trái tim nhân hậu, những tia lửa bùng cháy của sự khoan dung, tha thứ, Chúa Giêsu đã từng nói:" Anh em hãy ra đi . Nầy Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói " ( Lc 10, 3 ). Khi Chúa Giêsu nói lên điều đó, Ngài cho hay ra đi lên đường truyền giáo, không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, lúc nào cũng dễ dàng bởi vì ra đi là phải phó thác, tay không và đón nhận mọi rủi ro ở đời, tuy nhiên, lệnh của Chúa ra đi lên đường là phải ra đi.
Vâng, Chúa làm gương cho các tông đồ và mọi người về cuộc ra đi lên đường của Ngài, vì cả cuộc đời của Ngài là một cuộc ra đi không ngừng, một cuộc ra đi không bao giờ mệt mỏi. Hành trang của Ngài là sự phó thác nơi bàn tay Thiên Chúa và bằng lời cầu nguyện. Nên, mọi Kitô hữu là phải lên được truyền giáo, là phải ra đi. Trong Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, Chân Phước Gioan Phaolô II đã viết:" Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc ".
Mọi người chúng ta phải cộng tác vào công trình cứu rỗi của Chúa bằng việc cầu nguyện và xin Chúa ban thêm cho có nhiều thợ gặt lành nghề, nghĩa là các Linh mục, các Tu sĩ thánh thiện, những Nhà truyền giáo lành nghề để cánh đồng mênh mông đầy lúa chín vàng, có nhiều thợ gặt tốt thu hoạch lúa và bỏ vào kho lúa. Thánh Phaolô đã viết một câu rất chí lý:" Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng " ( 1 Co 9, 16 ). Chúng ta phải ra đi đem lại sự an bình cho thế giới, cho mọi người và cho những người sống xung quanh chúng ta. Ra đi để xây dựng tình thương, nối lại sự hiệp nhất, phá tan oán thù, hờn ghét. Ra đi để băng bó những vết thương, những nỗi cô đơn, buồn chán. Ra đi để đem lại an bình cho mọi người. Chúng ta phải ra đi để làm chứng cho Chúa Phục Sinh như các tông đồ xưa đã làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, như Chúa đã sai các môn đệ xưa ra đi, lên đường rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Xin Chúa tăng thêm sức mạnh cho chúng con, để với ơn Chúa Thánh Thần giúp sức, chúng con sẽ trở nên những tông đồ nhiệt thành và cần cù, giới thiệu Nước Thiên Chúa. Amen.
------------------------------