Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 16-C Bài 51-100 Maria chọn phần tốt nhất

Thứ tư - 17/07/2019 03:18
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 16 TN-C Bài 51-100 Maria chọn phần tốt nhất
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 16 TN-C Bài 51-100 Maria chọn phần tốt nhất
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 16-C Bài 51-100 Maria chọn phần tốt nhất
---------------------------------------
Phúc Âm: Lc 10, 38-42: "Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------

TN 16-C51. Người khách muốn gì?. 2
TN 16-C52. SUY NIỆM CHỦ NHẬT XVI QUANH NĂM... 6
TN 16-C53. Chúa Nhật thứ 16 Thường Niên, C.. 7
TN 16-C54. CHỌN PHẦN TỐT NHẤT.. 12
TN 16-C55.  CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN.. 13
TN 16-C56. MẦU NHIỆM PHONG PHÚ.. 15
TN 16-C57. TỰ DO NỘI TÂM... 17
TN 16-C58. Chúa Nhật 16 quanh năm.. 18
TN 16-C59. Chúa Nhật 16 Quanh Năm.. 22
TN 16-C60. CHÚA NHẬT 16 QUANH NĂM C ,2004. 24
TN 16-C61. THỊ TẠI MÔN TIỀN NÁO! 28
TN 16-C62. CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN.. 31
TN 16-C63. CÁI GÌ QUÝ BÁU NHẤT Ở TRÊN ĐỜI NÀY?. 33
TN 16-C64. PHỤC VỤ TRONG TRẬT TỰ.. 34
TN 16-C65. CHÚA VIẾNG THĂM - Lm.Jos Tạ Duy Tuyền. 36
TN 16-C66. NẾU MÀ CHÚA CHẲNG XÂY NHÀ.. 39
TN 16-C67. CHIÊM NGƯỠNG THẬP GIÁ  CHÍNH LÀ PHẦN TỐT NHẤT.. 41
TN 16-C68. LỰA CHỌN PHẦN TỐT NHẤT.. 43
TN 16-C69. PHỤC VỤ HAY DỊCH VỤ?. 45
TN 16-C70. PHỤ NỮ LUÔN LÀ ĐỀ TÀI “ĂN KHÁCH” KHẮP NƠI 47
TN 16-C71. CHĂM LO ĐỜI SỐNG TINH THẦN.. 52
TN 16-C72. SỐNG HÀI HÒA.. 54
TN 16-C73. CHÚA NHẬT 16 TN C.. 55
TN 16-C74. MÁTTAVÀ MARIA.. 57
TN 16-C75. BIẾT TIẾP ĐÓN CHÚA.. 59
TN 16-C76. KHÔNG ĐƯỢC LOẠI TRỪ.. 61
TN 16-C77. CÁNH ĐỒNG TRUYỀN GIÁO.. 63
TN 16-C78. HÃY CHỜ ĐÃ.. 64
TN 16-C79. LÚA HAY CỎ LÙNG?. 66
TN 16-C80. SỨC MẠNH ẨN TÀNG.. 68
TN 16-C81. QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA.. 70
TN 16-C82. NƯỚC TRỜI ĐƯỢC XÂY DỰNG TRÊN LÒNG KIÊN NHẪN.. 71
TN 16-C83. PHỤC VỤ LỜI CHÚA.. 72
TN 16-C84. CHỌN PHẦN TUYỆT HẢO.. 78
TN 16-C85. CHỌN PHẦN TỐT NHẤT.. 80
TN 16-C86. Chúa Nhật 16 Thường niên, C.. 82
TN 16-C87. CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN NĂM C.. 84
TN 16-C88. Chỉ có một việc cần. 86
TN 16-C89. Phần tuyệt hảo. 88
TN 16-C90: Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời 89
TN 16-C91: Tổng Giám mục Anthony Bloom.. 92
TN 16-C92: Hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a. 92
TN 16-C93: Chú giải của Noel Quesson. 95
TN 16-C94: HAI CHỊ EM MÁCTA VÀ MARIA.. 99
TN 16-C95: CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ.. 101
TN 16-C96: CẦU NGUYỆN HƯỚNG TỚI PHỤC VỤ.. 105
TN 16-C97: LẮNG NGHE LỜI CHÚA LÀ ĐIỀU TỐT NHẤT.. 108
TN 16-C98: GANH TỴ.. 112
TN 16-C99: CHỌN PHẦN TỐT NHẤT.. 114
TN 16-C100: CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN.. 116

------------------------------------

 

TN 16-C51. Người khách muốn gì?


- Lm Vũ Phan Long

“Phần duy nhất cần thiết” của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là để cho Người tiếp tục hướng dẫn.

1.- NGỮ CẢNH

 

Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta va: TN 16-C51 


Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người “lắng nghe lời” Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc “lắng nghe lời” này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không được. Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ “lắng nghe” (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn.

Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về “điều răn lớn” (10,25-37), với câu kết: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà “các vua chúa và ngôn sứ” không được đón nhận.

Truyện Mácta-Maria cũng có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Ông này đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu mới điều hành hành vi luân lý.

2.- BỐ CỤC

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Khung cảnh và các nhân vật (10,38-40a);
2) Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (10,40b-42).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

- một làng kia (38): Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn, “làng” này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta biết rằng Mácta và Maria, hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần Giêrusalem.

- Maria (39): Cô này cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala ở 8,2.

- ngồi bên chân Chúa (39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).

- Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi (42): dịch sát: “Chỉ cần một điều mà thôi”. Lời Đức Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra rằng “một điều” không chỉ là “một món” mà còn có ý nghĩa khác. “Một điều” đây chính là “phần tốt nhất” (= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của “phần tốt nhất” ấy bảo đảm là Maria sẽ không bị lấy mất.

4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN

* Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)

Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.

* Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (40b-42)

Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp mình.

Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn nhiều.

Maria lắng nghe Ngài. Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự mình phải làm.

+ Kết luận

Khi viết 10,38-42, tác giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến “phần duy nhất cần thiết” là: làm môn đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.

Nhìn lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là thuộc về “điều duy nhất cần thiết”, và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.

5.- GỢI Ý SUY NIỆM

1. Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang các giá trị để đi theo.

2. Các Kitô hữu cần thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định hướng và thay đổi.

3. Trong đời sống chung (cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ…), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi: “Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật chất?”. Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng. Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.

------------------------------------

 

TN 16-C52. SUY NIỆM CHỦ NHẬT XVI QUANH NĂM


22-7- 2001

 

Yêu thương là sứ điệp Tin Mừng, là lề luật tối thượng của mọi lề luật. Đó là điều chúng ta đa: TN 16-C52


Yêu thương là sứ điệp Tin Mừng, là lề luật tối thượng của mọi lề luật. Đó là điều chúng ta đã có một ít điều suy nghĩ trong Chúa Nhật trước. Những câu chuyện trong những đoạn Thánh Kinh hôm nay trở lại với đề tài này trong một góc độ khác: chúng ta cần làm gì cho những người thân ?

Abraham hôm nay thật hiếu khách: Ông đã làm tất cả những gì có thể làm cho ba người khách lạ dừng chân trước lều nhà ông. Quả thực là một hình ảnh đẹp .

Thánh Phaolô khi "xin mang lấy vào thân, cho đủ mức" "những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu" , cũng "là vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh", Ngài cũng diễn đạt một tình cảm sâu đậm với các tín hữu, là con và là anh chị em của Ngài.

Và chính bài Tin Mừng, với hai con người ôm ấp cùng một tình yêu sâu đậm đối với người bạn thân thiết của gia đình, lối hành xử của các chị là một cơ hội để Đức Giêsu nói lên quan điểm về một tình yêu hoàn hảo.

Kết thúc câu chuyện sách Sáng Thế là lời thăm hỏi của 3 vị khách đến Sara, và báo trước tin vui "Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai", phải chăng tình thân giữa con người phải được se kết là để phục vụ cho LỜI HỨA ? Không phải chỉ là tình thân hữu, mà toàn diện lịch sử mỗi con người, mỗi dân tộc và toàn thể nhân loại đều được Thiên Chúa mời gọi cho GIAO ƯỚC mà Người đã thiết lập. Với Abraham, người con chính là trọng tâm của Giao Ước, nhưng người con ấy là hình bóng của NGƯỜI CON mà mọi kẻ tin đều đã được mời gọi đón nhận, cưu mang và sinh hạ. NGƯỜI CON CỦA GIAO ƯỚC VĨNH CỬU trở nên trung tâm mọi lối sống, mọi tình cảm của con người.

NGƯỜI CON ấy cũng chính là LỜI HẰNG SỐNG.

Tình thân giữa con người với nhau theo Thánh Phaolô phải hàm chứa sứ mạng "rao giảng Lời Người cho trọn vẹn". Lời ở đây không chỉ là những tiếng nói, nhưng là "Đức Kitô đang ở giữa anh em" "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng tôi" như Gioan viết. Tình Thân như vậy bao hàm tất cả "nhục thể" của Đức Kitô hôm nay. Trong cách nhìn đó, thì những sự phục vụ của Martha cũng là điều cần thiết, nhưng nếu có cái gì phải xem xét lại thì chính là những sự phục vụ ấy phải trở nên "nhục thể" của "Lời Hằng Sống", điều mà Maria đã xác định trong thái độ của chị. Vì vậy sau này trong lần Chúa đến với chị em các cô khi Lazarô chết, chính Martha cũng đã chọn sự phục vụ hoàn hảo này khi chính chị tuyên xưng niềm tin vào "Lời Hằng Sống": "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Và tình thân đã được thiết lập một cách không gì có thể phân chia được giữa những con người biết biến tất cả đời mình nên "nhục thể" của Đức Kitô.

Một tình thân như vậy nó đòi hỏi con người tin phải như Phaolô "vui mừng được chịu đau khổ vì anh em", là vì Tin Mừng về tình thân này được đóng ấn bằng chính "những gian nan thử thách của Đức Kitô". Và tột đỉnh là "phó nộp mình vì anh em". Như thế, mọi tình thân đích thực đều hướng về cùng nhau thiết lập nên Cộng Đoàn Thánh Thể .

Xem như thế, còn quá nhiều điều mà chúng ta phải xem xét trong mỗi quan hệ yêu thương. Thậm chí ngay cả quan hệ gia đình thân thương nhất, mỗi người cũng bị Lời Chúa tra vấn: quan hệ đó có làm cho gia đình trở nên cộng đoàn Thánh Thể hay không ?

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

------------------------------------

 

TN 16-C53. Chúa Nhật thứ 16 Thường Niên, C


Cần cân bằng giữa cầu nguyện và hành động

ĐỌC LỜI CHÚA

·        St 18,1-10a: (1) Đức Chúa hiện ra với ông Ápraham tại cụm sồi Mamrê (…). (2) Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông (…) (6) Ông Ápraham vội vã vào lều tìm bà Xara mà bảo: «Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh». (7) Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. (8) Ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm, mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa.

·        Cl 1,24-28: (24) Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.
 ·      
 (38) Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. (39) Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. (40) Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: «Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!» (41) Chúa đáp: «Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! (42) Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi».

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

 

Giữa Mácta và Maria, có thể dựa vào hai cách phục vụ khác nhau của hai cô để xét đoán cô: TN 16-C53 


1.      Giữa Mácta và Maria, có thể dựa vào hai cách phục vụ khác nhau của hai cô để xét đoán cô nào yêu quí Đức Giêsu hơn không? Tại sao?

2.      Trong đời sống tâm linh, giữa cầu nguyện và hành động, cái nào cần thiết và quan trọng hơn cái nào? Có thể chuyên tâm vào một cái để rồi bỏ cái kia không? Tại sao?

3.      Giữa việc quan tâm tới chính Chúa và với công việc của Chúa, điều nào quan trọng hơn? Ta thường quan tâm tới điều nào?

Suy tư gợi ý:

1.      Có nhiều cách thể hiện tình thương khác nhau

Hai chị em Mácta và Maria, người nào cũng đều thương mến Đức Giêsu, nhưng mỗi người thể hiện tình thương của mình với Ngài một cách. Cả hai đều muốn làm đẹp lòng Ngài, phục vụ Ngài và hy sinh cho Ngài. Mácta chắc hẳn là một người có bản tính hoạt động và khéo léo trong việc nội trợ, nên đã phục vụ Ngài bằng hành động là chuẩn bị đãi Ngài một bữa ăn thịnh soạn. Còn Maria chắc hẳn có bản tính ít hoạt động hơn, nên biểu lộ sự quý mến bằng sự ân cần qua lời nói, cử chỉ bên ngoài. Chúng ta không thể dựa trên hai cách biểu lộ tình cảm khác nhau ấy để đánh giá ai yêu quí Ngài hơn. Có thể cả hai đã tự phân công theo khả năng và khuynh hướng của mình để làm hai công việc cần thiết khác nhau trong việc tiếp đãi Đức Giêsu. Để tiếp đãi Ngài cho chu đáo, không thể chỉ làm một trong hai việc đó. Nếu cả hai đều làm như Maria, thì tới bữa ăn lấy gì tiếp đãi Ngài? Nếu cả hai đều làm như Mácta thì ai hầu chuyện Ngài suốt thời gian trước bữa ăn?

Thiên Chúa dựng nên con người với nhiều tâm tính và khuynh hướng khác nhau để con người bổ túc lẫn nhau trong những việc đòi hỏi sự đa dạng mà một người không thể kiêm hết. Tất cả những tâm tính và khuynh hướng khác nhau ấy đều cần thiết và hữu ích. Vì thế, người thông đạt biết chấp nhận sự khác biệt và đa dạng trong vũ trụ: biết hài lòng khi thấy người khác quan niệm hay suy nghĩ khác mình, hành động theo đường lối khác mình. Tôn trọng sự khác biệt và đa dạng ấy là một biểu hiện của sự trưởng thành về trí tuệ và tâm linh. Không tôn trọng sự khác biệt và đa dạng thường dẫn tới độc tài, và hậu quả của độc tài là đau khổ và nghèo nàn. Người Kitô hữu cần phải có một cái nhìn toàn diện để có thể chấp nhận sự khác biệt và đa dạng của nhau, nhờ đó chúng ta dễ liên kết với nhau và cả với những người ngoài Kitô giáo nữa. Cái nhìn cục bộ khiến ta đòi hỏi người khác phải giống mình nên rất dễ gây khó chịu và chia rẽ. Đó là cách nhìn của Mácta, muốn em mình cũng phải phục vụ Đức Giêsu theo cách giống như mình.

Về mặt tình cảm, mỗi người có một cách biểu lộ tình cảm khác nhau: người giàu lý trí hoặc có bản tính thụ động cho dù có yêu tha thiết cách mấy cũng khó có thể biểu lộ tình cảm theo cách của người giàu tình cảm hoặc có bản tính năng động được. Vì không hiểu điều này nên nhiều người biểu lộ tình yêu theo kiểu của mình và cứ nghĩ hễ ai yêu thì cũng phải biểu lộ ra giống như mình. Do đó, họ dễ bất mãn hoặc thất vọng khi thấy người mình yêu thể hiện tình yêu đối với mình theo kiểu khác mình. Từ đó hai bên không hiểu được tình yêu của nhau để rồi cùng đi đến thất vọng và đau khổ.

2.      Cần dung hòa và cân bằng giữa cầu nguyện và hành động

Đời sống tâm linh hệ tại việc yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng mỗi người yêu mến và gắn bó với Ngài cách khác nhau. Ta không thể nói người dành thật nhiều thì giờ đọc kinh cầu nguyện thì yêu mến Thiên Chúa hơn là người làm việc nhiều cho Ngài và tha nhân mà ít dành thì giờ để trò chuyện với Ngài. Làm việc cho Ngài cũng là một cách cầu nguyện hữu hiệu: đó là cầu nguyện bằng hành động. Tương tự như Mácta tuy không trò chuyện với Ngài, nhưng trong khi làm thức ăn, cô luôn luôn nghĩ đến Ngài với lòng thương mến và cố hết sức làm thức ăn cho thật ngon để Ngài cảm nhận được sự quý mến của cô.

Tuy nhiên, chúng ta cần dung hòa và cân bằng giữa cầu nguyện và hành động. Dung hòa và cân bằng thế nào còn tùy thuộc vào quan niệm, tính khí và khuynh hướng tự nhiên của mỗi người. Là con người, chúng ta rất dễ rơi vào tình trạng thái quá hoặc bất cập. Có người chỉ biết đọc kinh cầu nguyện mà không chịu hành động, người ấy không phải là người yêu mến Chúa nhiều. Cũng vậy đối với người chỉ biết hành động mà không cầu nguyện.

Khi vào các đan viện, ta thường thấy khẩu hiệu «Ora et labora» (=hãy cầu nguyện và làm việc) được viết ở nhiều nơi để nhắc nhở tinh thần phải có của các đan sĩ. Chữ «và» ở đây rất quan trọng: «cầu nguyện và làm việc», chứ không phải «cầu nguyện hoặc làm việc». Nghĩa là phải làm cả hai. Ai thiếu một trong hai, hoặc có cái này quá nhiều mà cái kia quá ít thì sự thánh thiện của người ấy chưa phải là cao. Nơi người thánh thiện thật sự, mức chênh lệch giữa hai yếu tố ấy không lớn. Cầu nguyện mà không hành động thì chỉ là cầu nguyện hời hợt và giả dối, vì cầu nguyện thật sự tất yếu phải dẫn đến hành động (x. Mt 7,21-23). Còn hành động mà không cầu nguyện thì không có gì bảo đảm được động lực của hành động ấy là vì Chúa và tha nhân, mà thường là vì một động lực vị kỷ nào đó (như ham tiếng khen, thích nổi tiếng, v.v…) khiến cho hành động ấy dù to tát cũng kém giá trị (x. 1Cr 13,3).

 
 
3.      Cần chú ý tới con người hơn công việc

Khi tiếp đãi khách, việc ngồi trò chuyện với khách và việc đãi khách một bữa cơm, hay mời khách một tách trà, một điếu thuốc, một cái bánh, đều cần thiết. Tất cả đều nhắm phục vụ cho khách, tỏ ra yêu quí khách. Khi phân công thì phải có người làm việc này kẻ làm việc kia, không nên bỏ đi việc nào. Nhưng nếu so sánh hai việc ấy, thì việc trò chuyện với khách vẫn quan trọng hơn, vì việc này nhắm trực tiếp tới con người của khách. Còn việc chiêu đãi khách chỉ nhắm đến khách một cách gián tiếp. Khách đến để gặp gỡ, tiếp xúc, nói chuyện, cảm thông với chủ nhà chứ không phải để được đãi món này vật kia. Nếu không thể lo được cả hai chuyện, thì phải ưu tiên cho việc trò chuyện với khách. Vì thế, việc Mácta yêu cầu em mình bỏ tiếp khách để xuống làm bếp là không hợp tình hợp lý. Vì thế, Đức Giêsu mới nói với Mácta để chị ý thức việc nào cần thiết hơn: «Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi». Ngài nói thế vì Mácta đã quá chú trọng tới bữa cơm chiêu đãi Ngài hơn chính bản thân Ngài.

Thông thường, trong đời sống tâm linh, nhiều khi ta quá chú trọng tới việc phục vụ cho công việc của Chúa hơn là phục vụ chính Chúa. Nghĩa là ta chưa phân biệt được cái nào chính cái nào phụ, cái nào là mục đích cái nào là phương tiện. Tương tự như trong đời sống gia đình, nhiều bậc cha mẹ quá chú trọng tới việc làm ăn để cho con cái được đầy đủ, nhưng chính vì quá lo chuyện ấy nên đã quên chăm sóc chính bản thân chúng. Điều đó khiến chúng cảm thấy bị hụt hẫng, bị thiếu thốn tình cảm của cha mẹ một cách trầm trọng. Nhiều đứa con đã phải than phiền: «Con cần tình thương, cần sự yêu thương và quan tâm chăm sóc của cha mẹ hơn là cần đầy đủ về vật chất». Rất có thể chúng ta cũng đang có một thái độ tương tự như thế đối với chính Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Ngài muốn ta quan tâm đến chính Ngài hơn là tới công việc của Ngài. Điều đó không có nghĩa là ta không cần quan tâm tới việc của Ngài. Chúng ta cần phải có một tỷ lệ hợp lý giữa hai sự quan tâm ấy. Riêng tôi – người viết bài này – tôi thường tự cho mình một tỷ lệ 55/45 hay 60/40. Nghĩa là sự quan tâm tới chính Chúa phải chiếm khoảng 55 đến 60%, còn tới công việc của Ngài chỉ khoảng 40 đến 45%. Hai quan tâm ấy phải ngang ngửa nhau, nhưng quan tâm đến chính Ngài phải chiếm phần quan trọng bạn ưu tiên hơn. Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: «Maria đã chọn phần tốt nhất».

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, trong đời sống tâm linh, có lúc con có khuynh hướng chú trọng tới việc đọc kinh cầu nguyện quá nhiều mà không quan tâm hành động theo những gì mà việc cầu nguyện đòi hỏi trong cuộc sống. Có lúc con lại có khuynh hướng ngược lại. Xin cho con biết dung hòa và cân bằng giữa hai khuynh hướng ấy. Chỉ như thế, con mới thật sự sống đúng thánh ý Cha.

Joan Nguyễn Chính Kết

------------------------------------

 

TN 16-C54. CHỌN PHẦN TỐT NHẤT


CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN, năm C

Lc 10, 38-42

 

Cái nghịch lý và trớ trêu đến độ làm người nghe ngạc nhiên là thái độ của Maria em Matta đã: TN 16-C54


Cái nghịch lý và trớ trêu đến độ làm người nghe ngạc nhiên là thái độ của Maria em Matta đã ngồi bên chân Chúa Giêsu để nghe Lời Người nói trong khi Matta tất bật, đầu tắt mặt tối để làm tiệc thết khách. Matta phàn nàn với Chúa, nhưng Chúa nói:” Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện quá, Maria đã chọn phần tốt nhất “ ( Lc 10, 41 ). Maria có chính xác chọn phần tốt nhất không ? Matta thì sao ?

MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT:

Một cậu bé tên Macxilênô vừa mới sinh ra đã bị vứt trước cửa của một tu viện và cậu bé đã được các tu sĩ trong tu viện đó đem về nuôi một cách tử tế và tốt đẹp. Cậu bé càng lớn lên càng thông minh, càng kháu khỉnh. Các tu sĩ hết lòng thương bé Macxilêno. Càng lớn bé càng nghịch  ngợm, do đó, thầy quản lý và thầy nhà bếp cấm cho bé leo lên gác. Tuy nhiên, Macxilênô rất tò mò, một bữa kia bé lén thầy quản lý và thầy nhà bếp leo lên gác nhà. Bé phát hiện một người khổng lồ bị đóng đinh vào thập giá. Macxilênô nghĩ trong đầu, người khổng lồ này chắc đói lăm. Do đó, bé lại lén xuống bếp để ăn cắp bánh đem lên cho người khổng lồ ăn. Cứ ngày này qua ngày khác, Macxilênô lại lén đem bánh cho người khổng lồ ăn. Một bữa kia, người khổng lồ bỗng ôm bé vào lòng và nói:” Con có muốn gặp mẹ con không?” . Nếu con muốn gặp mẹ con, con phải chấp nhận chết ngay bây giờ. Macxilênô không ngần ngại trả lời:” Con muốn “. Thế là Macxilênô đã chết. Các tu sĩ trong tu viện tìm mãi, tìm hoài, cuối cùng họ tìm thấy Macxilênô nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay âu yếm của người khổng lồ là Chúa Giêsu. Thì ra để chọn phần tối hảo được gặp mẹ mình, Macxilênô đã chấp nhận chết. Maria cũng thế vì muốn làm môn đệ của Chúa, cô đã ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Lời Chúa,ở bên cạnh Chúa và cầu nguyện với Chúa. Cụm từ “ ngồi nơi chân” người nào là môn đệ của người đó. Maria đã chọn phần tốt nhất, nghĩa là cô đón Chúa với hai bàn tay trắng, với tâm hồn hoàn toàn mở rộng, để sẵn sàng nghe Chúa nói, phần này chắc chắn không ai có thể giựt mất của cô. Cô cảm nghiệm sâu sắc Lời ân sủng, Lời cứu độ của Chúa.Do đó, Maria hoàn toàn thuộc về Chúa, hoàn toàn để Chúa làm chủ đời mình.

HAI THÁI ĐỘ.HAI CON NGƯỜI:

Matta bận rộn, lo lắng cho bữa tiệc mà cô và gia đình hôm nay khoản đãi Chúa Giêsu và các môn đệ. Sở dĩ Matta kêu trách Maria không chịu giúp mình, phản ánh nhiều tâm trạng của cô: hoặc là Matta cảm thấy tủi vì mình bị quên lãng, nên tỏ ra bực bội hoặc Matta ghen tỵ với Maria vì Maria cứ ngồi bên Chúa Giêsu để lắng nghe Chúa và được ở gần bên Chúa.  Maria, cứ ngồi bên Chúa, để được gần gũi Chúa, lắng nghe Lời cứu rỗi và trò chuyện với Chúa. Maria đã quên chính mình để chọn Chúa làm gia nghiệp. Maria đã chọn Nước Trời và nghe Lời Chúa dậy bảo.
Matta đã lo món ăn và lo cả đến việc mình đang bận rộn mà chị tưởng không ai quan tâm tới, không ai chú ý tới. Việc làm của Matta tự nó rất tốt vì cũng là cách phục vụ, nhưng Matta đã sai vì chị đã tự đẩy mình vào chỗ tự kiêu, tự mãn. Quả thực, Chúa Giêsu đã đánh giá cao về sự hy sinh tận tụy phục vụ của Matta. Chị Matta đã thể hiện lòng mến cao độ tuyệt vời. Còn qua cử chỉ của Maria, Chúa Giêsu đã nhận được tâm tình cao đẹp, một lòng mến tinh ròng và cao vời. Đó là thái độ lắng nghe Lời Chúa, chọn Ngài làm tất cả, đặt Ngài vào vị trí số một trong cuộc đời.
Do đó, hai thái độ của Matta và Maria đều được Chúa yêu mến và đánh giá cao. Nhưng thái độ của Maria được Chúa dùng làm biểu tượng cho sự chọn lựa đúng đắn nhất của con người: “ Chọn Chúa làm gia nghiệp, chọn chúa là tất cả cho sinh mạng, cuộc sống của đời người “.  Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:” Không có Thầy, các con không thể làm gì được”. Cuộc sống họat động và chiêm niệm cần được bổ túc cho nhau. “ Họat động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có họat động là thiếu đất gieo vãi “ ( P. Graef ).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một tình yêu cao vời như Maria ngồi bên chân Chúa. Xin cho chúng con biết bỏ qua tính ích kỷ, hám danh mà chỉ biết tìm kiếm phần tuyệt hảo là lắng nghe Lời Chúa và được ở bên Chúa. Amen.

Linh mục  Giuse Nguyễn Hưng Lợi   DCCT

------------------------------------

 

TN 16-C55.  CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN


LẮNG NGHE VÀ SUY NGHĨ ĐỂ PHỤC VỤ

Lc 10, 38-42

 Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Trong một thế giới văn minh, con người thường chạy theo đà của tiến bộ. Những bước nhảy: TN 16-C55


Trong một thế giới văn minh, con người thường chạy theo đà của tiến bộ. Những bước nhảy vọt của khoa học kỹ thuật, của kinh tế, vật chất với lợi nhuận cao. Con người như bị mất hút trong những cuộc chạy đua làm ra tiền, chạy theo mốt mới, chạy theo đà tiêu thụ cao. Với một lối sống như thế, người Kitô hữu liệu có thể giữ được căn tính của mình hay họ cũng hùa theo lối sống tiêu thụ cao, của cải vật chất dư đầy vv… mà quên đi những giá trị luân lý đạo đức và cốt lõi của đạo là tình thương, họ phải thực hiện trong cuộc sống của mình.
 
LẮNG NGHE VÀ SUY NIỆM:

Lời Chúa trong phụng vụ Chúa nhật 16 thường niên, năm C, mời gọi người Kitô hữu lắng nghe và suy niệm với nỗi thao thức, trăn trở và suy tư ấy. Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 10, 38-42 không có ý làm một cuộc so sánh giữa hai thái độ của Mácta và Maria. Cô Mácta tất bật với việc nấu cơm, tiếp khách, hầu bàn khi Chúa Giêsu tới nhà Cô. Còn Maria, ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Chúa nói, trò chuyện và chiêm niệm lời của Chúa trao đổi với Cô. Chúa Giêsu không hề giảm giá trị thái độ của Mácta khi đề cao thái độ lắng nghe của Maria. Bởi vì, đối với Chúa Giêsu, cả hai thái độ của hai Cô đều đáng trân trọng.

Mácta lo lắng, bận rộn nấu ăn để tiếp Chúa và các tông đồ. Đây là cử chỉ đẹp, cử chỉ hiếu khách, cử chỉ ân cần hàn huyên với Chúa. Chúa chỉ muốn dùng hình ảnh của Maria để nói lên thực tế, cơ bản con người phải có là lắng nghe và suy nghĩ, chiêm niệm lời của Chúa. Sự lắng nghe, chiêm niệm và thực thi lời của Chúa là thái độ rất cần thiết cho người Kitô hữu. Ở muôn thời, người Kitô hữu luôn được mời gọi sống cầu nguyện và chiêm niệm. Sự có mặt của những tâm hồn tận hiến: nam cũng như nữ là kho tàng quí giá của Giáo Hội. Những người hiến dâng cho Chúa là những con người dành riêng cho Chúa để lắng nghe, cầu nguyện và chiêm niệm. Thiếu vắng các người tận hiến cho Chúa dù nam hay nữ là một sự thiếu xót lớn của Giáo Hội. Tuy nhiên, ngay cả người Kitô hữu cũng được mời gọi sống cầu nguyện và chiêm niệm. Vì cầu nguyện và chiêm niệm không chỉ dành riêng cho một số người ưu tuyển mà nó là hơi thở của tất cả mọi người có lòng tin. Đời sống dẫu có những lúc ồn ào, huyên náo vì miếng cơm, manh áo, nhưng cũng có lúc người Kitô hữu phải ngồi lại để cầu nguyện và suy nghĩ. Chiêm niệm vẫn là thái độ tìm kiếm, lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc đời của con người. Đời sống của người Kitô hữu phải là đời sống cầu nguyện liên lỉ. Người Kitô hữu phải biến đời mình thành lời cầu nguyện liên lỉ, không ngừng.
 
SỰ THINH LẶNG LÀ CẦN THIẾT:

Sự thinh lặng rất cần thiết cho đời sống của người Kitô hữu. Vì sự thinh lặng của người Kitô hữu có đầy ắp Chúa, được cùng hiện diện với Ngài, lắng nghe và  được thấy Ngài. Người Kitô hữu sẽ nên đồng hình đồng dạng với Ngài, được thông phần, cảm thông với vận mệnh của Ngài. Người Kitô hữu sẽ nói như thánh Phaolô tông đồ:” Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Đức Kitô sống trong người tín hữu, do đó họ có thể can đảm:” Vác thập giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa Kitô “.  Vác thập giá là chấp nhận đau khổ với Chúa để được vinh quang với Ngài. Sự thinh lặng để lắng nghe và chiêm niệm, suy gẫm lời của Chúa phải  là thái độ của người Kitô hữu. Như Mácta đã tiếp Chúa với tất cả lòng khiếu khách của mình, như Maria đã ngồi im lặng lắng  nghe lời Chúa và suy gẫm lời Chúa, người Kitô hữu phải trở nên người biết lắng nghe trong im lặng của nội tâm mình và trở nên người phục vụ quên hết bản thân và tư lợi riêng của mình. Người Kitô hữu noi gương Mẹ Maria, thinh lặng bên cạnh Chúa  cho đến chân thập giá. Thái độ im lặng bên Chúa để nghe lời Chúa, chiêm ngắm Chúa và sống lời Chúa. Đó là thái độ cần thiết nhất người kitô phải có trong cuộc đời mình.

Lạy chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim biết mở rộng để đón nhận mọi người và đôi tai biết lắng nghe, suy gẫm lời Chúa dậy bảo.
 
GỢI  Ý ĐỂ CHIA SẺ:

Thái độ hiếu khách của Mácta và thái độ lắng nghe lời Chúa của Maria, anh chị thích thái độ nào ? tại sao ?
Im lặng bên Chúa là gì ?
Maria, em của Mácta đã chọn thái độ nào ?

------------------------------------

 

TN 16-C56. MẦU NHIỆM PHONG PHÚ


Chúa Nhật 16C Thường Niên

 

Đau khổ là một thực tại đụng tới tất cả mọi người trên trái đất.  Đau khổ có nghĩa gì không: TN 16-C56


Đau khổ là một thực tại đụng tới tất cả mọi người trên trái đất.  Đau khổ có nghĩa gì không ?  Đau khổ nằm ngay trong thân phận con người.  Chính vì thế, Đức Gieesu mới có thể chia sẻ sâu xa với mọi người khi bước lên thập giá.

PHƯƠNG TIỆN CỨU ĐỘ

Có bao giờ đau khổ biến thành niềm vui ?  Vậy mà thánh Phaolô dám nói: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em.” (Cl 1:24)  Không phải đau khổ nào cũng đem lại niềm vui.  Hầu hết thiên hạ tìm cách tránh né đau khổ.  Một khi đã thấy được mục đích, đau khổ trở thành phương tiện cần thiết.  Vì phục vụ Đức Kitô mà đau khổ, người môn đệ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.  Không phải đau khổ nào cũng có một chiều kích và mức độ như nhau.  Chỉ có người đã từng nằm gai nếm mật như thánh Phaolô mới có thể thốt lên: “Gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội thánh.” (Cl 1:24) 

Không phải chỉ những đau khổ lớn lao mới có thể đem lại lợi ích đó.  Những công cuộc phục vụ hằng ngày trong gia đình cũng gây những đau khổ và phiền toái không kém.  Chính Mátta đã thốt lên nỗi khổ ấy với Đức Giêsu: “Thưa Thày, em con để mình con phục vụ, mà Thày không để ý tới sao ?  Xin Thày bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10:40)  Lời than thở chứng tỏ cô không có cái nhìn cao sâu như Phaolô.  Nếu được trực tiếp phục vụ Chúa như cô, chắc chắn Phaolô đã không bao giờ cảm thấy phiền lòng như vậy.  Không biết Phaolô đã chìm sâu vào Lời Chúa tới mức nào mới có thể “rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa.” (Cl 1:26)  Hạnh phúc đó  chính Maria đã trải qua.  Cô đã chìm sâu vào thinh lặng khi “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.  Maria đã chọn phần tốt nhất.” (Lc 10:39.42)  Vì đó chính là nguồn phát sinh mọi niềm hi vọng và vinh quang (x. Cl 1:27) 

Chính vì hiểu sâu xa lời Chúa nói về Maria hôm nay, Phaolô rất sung sướng xông pha khắp nơi rao giảng Lời Chúa và mầu nhiệm vô cùng phong phú là chính Đức Kitô.  Nơi Phaolô không còn phân biệt giữa việc chiêm niệm và hoạt động.  Cả hai hình ảnh Maria và Mátta đều tìm thấy nơi Phaolô.  Thật là một hòa điệu tuyệt vời !  Để đạt tới hòa điệu đó, Phaolô đã phải trả một giá rất đắt.  Giá đó chính là mạng sống ông đã hi sinh để “phục vụ Hội Thánh.” (Cl 1:25)  Sinh thời, ông đã bỏ hết thời giờ để “khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp  mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô.” (Cl 1:28)  Oâng đã giúp mọi người “chọn phần tốt nhất” (Lc 10:42) là lắng nghe lời Chúa.

Tại sao lắng nghe Lời Chúa lại là phần tốt nhất ?  Không lắng nghe, làm sao biết được ý Chúa ?  Ý Chúa là lương thực nuôi sống Đức Giêsu.  Lời Chúa làm cho ý Chúa hoạt động và thể hiện các mục đích của Thiên Chúa trong trần gian.  Lời Chúa làm cho Chúa hoàn thành những gì Thiên Chúa muốn trong hoàn cảnh đặc biệt.  Tất cả lịch sử Dân Chúa chỉ là đường biểu diễn Lời Chúa ngang qua các thời đại.

Không có Lời Chúa, không thể biết về Thiên Chúa, vũ trụ và con người (2 Sm 7:28; Tv 119:43).  Lời Chúa rất đáng tin cậy, vì tự bản chất Lời Chúa tốt lành và ngay thẳng (Gs 21:45; 23:14-15; 1 V 8:56; Tv 33:4; Is 39:8).  Lời Chúa lột tả hoàn toàn ý Chúa.  Tất cả đều nhằm cứu độ cộng đồng nhân loại.  Thực vậy, ngoài việc đem lại ánh sáng và sự hiểu biết (Tv 119:130), Lời Chúa còn đem lại sự sống cho con người (Đnl 8:3; 30:11-20; 32:46-47; Tv 119:25, 50, 116, 154)  Nhờ Lời Chúa, dân Chúa được phấn khởi và bảo đảm vì Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa muốn cứu độ chứ không hủy diệt nhân loại.  Bởi vậy, nếu sống theo Lời Chúa, con người sẽ tràn đầy niềm vui (Tv 119:161-162; Is 66:2, 5). 

------------------------------------

 

TN 16-C57. TỰ DO NỘI TÂM

 

Lời Chúa sẽ làm vơi nhẹ khổ đau, vì Lời Chúa là “Thần khí và là sự sống.”  Lời Chúa sẽ mạc: TN 16-C57 


Lời Chúa sẽ làm vơi nhẹ khổ đau, vì Lời Chúa là “Thần khí và là sự sống.”  Lời Chúa sẽ mạc khải cho các tín hữu biết rằng đau khổ là con đường dẫn tới “tự do nội tâm.” (Gioan Phaolô II: Zenit 02/06/2004)  Thực vậy, “đau khổ có thể tiềm ẩn một giá trị bí mật và trở thành một con đường thanh luyện, dẫn đến tự do nội tâm, làm phong phú tâm hồn.  Đau khổ mời gọi con người vượt qua cái nhìn thiển cận, phù phiếm, ích kỷ, tội lỗi và phó thác mãnh liệt vào Thiên Chúa và ý định cứu độ của Người.” (Gioan Phaolô II: Zenit 02/06/2004)  Trong chương trình Thiên Chúa quan phòng đầy ắp tình thương, đau khổ giúp ta học biết thánh chỉ Người để sống khiêm cung và lệ thuộc vào Thiên Chúa hơn.  Đau khổ tạo cơ hội cho con người tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.

Trên đời không ai giúp chúng ta rút bài học hữu ích từ đau khổ bằng Đức Kitô. “Bởi vậy, hãy cố gắng thấu hiểu  ý nghĩa sự nghèo khổ của Đức Kitô, nếu bạn muốn giàu có !  Hãy cố gắng thấu hiểu  ý nghĩa sự yếu đuối của Người, nếu bạn muốn được cứu độ !  Hãy thấu hiểu  ý nghĩa cây khổ giá của Người, nếu bạn không muốn xấu hổ vì khổ giá !  Hãy thấu hiểu  ý nghĩa vết thương Người, nếu bạn muốn chữa lành vết thương của mình !  Hãy thấu hiểu  ý nghĩa cái chết của Người, nếu bạn muốn sống đời đời !  Hãy thấu hiểu  ý nghĩa cuộc mai táng Người, nếu bạn muốn thấy ngày phục sinh.” (Gioan Phaolô II: Zenit 02/06/2004)  Đó là những chiều kích đau khổ trong thân phận con người.  Trong thế giới này, không có sinh vật nào đau khổ bằng con người.  Nhưng cũng không có sinh vật nào hạnh phúc và cao cả bằng con người.  Tất cả đều tùy thuộc niềm tin hôm nay vào mầu nhiệm đau khổ nơi Đức Kitô.  Không tin, đau khổ trở thành điều tồi tệ nhất.  Với niềm tin, đau khổ trở thành con đường cần thiết giúp con người đạt tới đỉnh cao tuyệt đối của kiếp người.  Đau khổ trở thành con đường mạc khải tình yêu và dẫn tới vinh quang Thiên Chúa cho những ai tin tưởng.

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

------------------------------------

 

TN 16-C58. Chúa Nhật 16 quanh năm


(Lu-ca 10: 38-42)

 

Hẳn ta còn nhớ cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng mà các môn đệ được Chúa sai đi rao giảng là: TN 16-C58


Hẳn ta còn nhớ cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng mà các môn đệ được Chúa sai đi rao giảng là:  Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.  Triều Đại ở đây không phải là một khoảng thời gian trị vì của vua chúa trần gian, nhưng là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta – Emmanuel – qua  con người Đức Giê-su Ki-tô. Mà đã nói tới trọn vẹn con người Đức Giê-su Ki-tô là phải nói tới lời giảng và việc làm của Người.  Câu truyện hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a trình bày hai lối tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa, hay nói khác đi là tiếp nhận chính Đức Giê-su Ki-tô, đồng thời cũng là cơ hội để ta xét lại cách thức ta đang tiếp nhận và sống thực tại của Triều Đại ấy như thế nào.

1)  “Cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ”

          Tiếp đón quý khách là điều quan trọng, nhất là đối với người đông phương.  Nếu việc tiếp đón quá chú trọng tới bề ngoài, nhiều khi việc tiếp đón lại trở thành mất hết ý nghĩa và làm cho khách phải nghĩ ngợi.  Đó là những người đặt nặng hình thức và không nhìn thấy ý nghĩa đích thực của mục đích cuộc viếng thăm.  Chắc chắn đây không phải là trường hợp của cô Mác-ta, vì chính cô đã “đón Người vào nhà”, tức là cô chân thành và quý mến vị thượng khách và Chúa Giê-su không phải là vị khách bất đắc dĩ.  Tuy nhiên phải tiếp đãi như thế nào để biểu lộ được mối chân tình ấy?  Bản chất cô Mác-ta là một người thực tế, khởi đi từ những kinh nghiệm sống hằng ngày và sử dụng những khả năng sẵn có để tiếp đón Chúa Giê-su.  Có thể vì thế mà cô Mác-ta chưa thể nhận ra được Triều Đại Thiên Chúa hoặc sự hiện diện của Thiên Chúa qua Đức Giê-su.  Do đó, cô đã tiếp đón Chúa Giê-su như một con người vô cùng đặc biệt trước khi nhận biết và tin Người là “Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27).

          Nhưng ta tự hỏi tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa trên bình diện nhân bản như cô Ma-ri-a đã làm có phải là một điều sai không?  Chắc chắn là không.  Vì Chúa Giê-su không xét đoán điều đó là sai, nhưng Người muốn cô Mác-ta hãy rời bỏ chứ đừng bám lấy cái khởi điểm nhân bản ấy, để đi tới một thái độ tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa mang tính chất thiêng liêng.  Triều Đại Thiên Chúa không ở đây hay ở kia, nhưng ở ngay trong tâm hồn ta.  Dầu sao thì cô Mác-ta cũng để lại cho ta một bài học là khởi đầu của việc tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa phải đi từ lãnh vực con người.  Ta không thể chối bỏ những gì là thể chất, cảm xúc, tình cảm của con người.  Nhưng ta cũng đừng quên chúng chỉ là phương tiện để đưa ta đến với Thiên Chúa. Tuy nhiên ta cũng không thể đi tới thái cực kia.  Ta không thể vịn lẽ “đạo tại tâm”, đạo trong lòng chứ đâu phải bề ngoài, để rồi không tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, không xưng tội rước lễ... 

          Nhận định chỗ đứng và giá trị đích thực của hình thức và những gì bề ngoài là điều Chúa Giê-su hết sức quan tâm.  Người không tiếc lời chỉ trích những kẻ vị luật, chú trọng những hình thức mà gạt đi tinh thần, thí dụ các người Pha-ri-sêu và thông luật.  Họ dừng lại ở hình thức luật và coi đó là mục đích.  Chúa Giê-su không muốn cô Mác-ta rơi vào tình trạng vị hình thức.  Người đã thấu hiểu lòng thành của cô và không ngại ưu ái dạy dỗ cô bằng một lời rất chân tình:  “Mác-ta!  Mác-ta ơi!  Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!  Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.”  Chuyện cần thiết ấy chính là phải di chuyển ra khỏi hình thức để đi vào nội dung, tức là đừng quá lo lắng việc bề ngoài để chú trọng đến việc lắng nghe lời Chúa.

2)  “Cô Ma-ri-a cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”

          Nếu ta nhìn nhận cách cô Mác-ta tiếp đón Chúa Giê-su như là căn bản và khởi đầu cho việc tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa, thì việc làm của cô Ma-ri-a sẽ làm sáng tỏ phải tiếp nhận như thế nào mới là “tốt nhất”.

          Ta thường giải thích việc tiếp đãi của cô Mác-ta biểu trưng cho hoạt động và việc lắng nghe của cô Ma-ri-a biểu trưng cho cầu nguyện hay chiêm niệm.  Tuy nhiên, nếu ta hiểu việc tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa là ý thức và sống sự hiện diện của Thiên Chúa nơi ta, thì ta sẽ thấy những gì cô Ma-ri-a đã làm là đúng như vậy.  Cầu nguyện hay chiêm niệm là sống sự hiện diện, sự hiện diện của Chúa nơi ta và sự hiện diện của ta trong Chúa.  Sự hiện diện của Thiên Chúa thể hiện qua lời của Người là Đức Ki-tô và sự hiện diện của ta thể hiện qua việc ta lắng nghe lời Chúa.  Cô Ma-ri-a tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa bằng cách nhận ra sự hiện diện của Triều Đại ấy nơi Đức Ki-tô đang hiện diện với cô và  đáp lại sự hiện diện của Người khi cô “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”.  Ngồi bên chân Chúa là thái độ của người môn đệ.  Quả thực, cô Ma-ri-a là một môn đệ của Chúa, một môn đệ muốn được thấm nhuần lời dạy dỗ của Thầy để biến đổi con người mình.

          Đến đây ta lại nhận ra một khía cạnh mới của việc tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa.  Tức là muốn tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa, ta phải trở thành môn đệ Chúa Giê-su và phải để cho lời dạy dỗ của Người thay đổi ta thành con người mới.  Đó chính là “phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.  Những điều cô Mác ta làm là phần tốt, nhưng không phải là tốt nhất vì nó có thể bị lấy đi.  Tiếp đãi Chúa nồng hậu, rồi sau đó có khi cũng không để lại cho cô Mác-ta điều gì lớn lao.  Việc tiếp đãi không thay đổi con người cô Mác-ta gì cả.  Trái lại, cô Ma-ri-a thì để cho lời Chúa hoạt động và để lại nơi cô những hiệu quả sâu xa và lâu bền.

          Điều quan trọng để đạt được phần tốt nhất là phải biết “chọn”.  Những người Pha-ri-sêu và thông luật “chọn” dừng lại ở lề luật và hình thức.  Cô Mác-ta thì được Chúa dạy phải “chọn” gác sang một bên việc tiếp đón bằng tiệc tùng để sống và say sưa với sự hiện diện của Chúa, tức là Triều Đại Thiên Chúa.  Còn cô Ma-ri-a đã trở thành một gương mẫu của việc “chọn” rồi.

3)  Ki-tô hữu phải tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa như thế nào?

          Câu truyện hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a tiếp đón Chúa đã vạch cho ta con đường tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa.  Cách tiếp đón của mỗi người nói lên một giai đoạn và giá trị của việc tiếp nhận.  Trước hết, ta tiếp nhận với tất cả khả năng và giới hạn của con người.  Nhái lại hai giới răn trọng đại nhất, ta cũng có thể nói ta phải tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn” (Lc 10:28).

          Ta ý thức Chúa là “phần tốt nhất” và khi ta chọn Người rồi thì không ai có thể lấy Chúa đi khỏi ta.  Chúa Giê-su gọi điều này là “chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”.  Nhưng điều nguy hiểm là ta lại không thấy đó là chuyện cần thiết.  Có bao nhiêu Ki-tô hữu đóng khung trong việc đạo đức hình thức mà không muốn ra ngoài khởi điểm ấy để đến với Chúa mới là “phần tốt nhất”.  Đọc kinh, dự Thánh Lễ là phần tốt, nhưng hiện diện được với Chúa và cảm nghiệm được Chúa hiện diện với mình mới là “phần tốt nhất”.  Chúa Giê-su là Triều Đại Thiên Chúa.  Lắng nghe Chúa Giê-su là tiếp nhận Triều Đại Thiên Chúa.

          Ki-tô hữu là người môn đệ Chúa, biết lắng nghe lời Chúa và sống lời Chúa.  Nhưng người môn đệ không chỉ lắng nghe, mà lắng nghe để rồi dấn thân ra đi rao giảng về Triều Đại Thiên Chúa.  Nơi nào họ giúp cho Chúa Ki-tô hiện diện là ở đó Triều Đại Thiên Chúa được hiện diện.  Cứ thế, họ sẽ là những sứ giả Tin Mừng, giúp cho Triều Đại Thiên Chúa được lan tràn và phát triển ngay tại trần thế này.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Câu truyện hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a nói gì về quan hệ giữa tôi với Chúa Giê-su?  Cách tôi tiếp đón Chúa có những điểm nào vụ hình thức và những điểm nào thể hiện thái độ lắng nghe?

          Chúa bảo cô Mác-ta lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!  Chúa cũng bảo tôi như vậy thì tôi phải hiểu thế nào?

          Suy nghĩ về việc “chọn” của tôi mỗi ngày.

Cầu nguyện

          “Lạy Chúa Giê-su,
          nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
          chọn những cầu thủ bóng đá,
          những tài tử điện ảnh
          làm thần tượng cho đời mình.
          Hôm nay
          Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
          và chúng con thật sự đắn đo
          trước khi chọn Chúa.
          Bởi chúng con biết rằng
          chọn Chúa là lội ngược dòng,
          theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
          con đường nghèo khó và khiêm nhu,
          con đường từ bỏ và phục vụ.
          Hôm nay, chúng con chọn Chúa
          không phải vì Chúa giàu có,
          tài năng hay nổi tiếng,
          nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
          Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
          Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
          Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
          nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
          để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
          và để chúng con
          thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa.  A-men.”
                             (Trích RABBOUNI, lời nguyện 26)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

------------------------------------

 

TN 16-C59. Chúa Nhật 16 Quanh Năm


(22-7-2001)

Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       Cô-lô-xê 1: 24-28

 

Mầu nhiệm Đức Ki-tô là chủ đề rao giảng của thánh Phao-lô. Mầu nhiệm này đã được: TN 16-C59


Mầu nhiệm Đức Ki-tô là chủ đề rao giảng của thánh Phao-lô. Mầu nhiệm này đã được quảng diễn qua những suy tư phong phú trong các thư của thánh Phao-lô. Đặc biệt, thư Cô-lô-xê nhìn mầu nhiệm ấy dưới khía cạnh tạo dựng và cứu chuộc để đi tới kết luận: Đức Ki-tô là nguyên lý để muôn loài muôn vật được tạo dựng và được cứu chuộc. Thánh Phao-lô đã rao giảng mầu nhiệm ấy giữa những người Do-thái trước tiên. Nhưng vì muốn ôm chặt lấy Do-thái giáo và những tập tục truyền thống, họ đã khước từ giáo lý mới này và còn gây cho ngài những phiền phức, chống đối, những điều mà ngài gọi là "chịu đau khổ vì anh em" (Cl 1:24) hoặc "gian truân tạm thời trong hiện tại" (xem 2 Cr 4:7-18).

          Đoạn thư Cô-lô-xê có thể hiểu là một huấn dụ về sứ mệnh rao giảng mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Nhưng có lẽ tốt hơn, chúng ta nên suy niệm đoạn này như một chia sẻ cá nhân của chính thánh Phao-lô về việc ngài thi hành sứ mệnh ấy, bởi vì qua lối diễn tả, ngài tỏ lộ những tâm tình chân thực của nhà truyền giáo một cách rất tự nhiên. Chính lối chia sẻ thân mật và nhiệt tình ấy là một lời mời gọi có sức thu hút mãnh liệt, một đường lối hết sức độc đáo chỉ gặp thấy nơi thánh Phao-lô mà thôi. Vậy những tâm tình và ưu tư của thánh Phao-lô về việc rao giảng mầu nhiệm Chúa Ki-tô là những tâm tình và ưu tư nào?

          - "Vui mừng được chịu đau khổ vì anh em": nguyên do thánh Phao-lô bị tù ở Rô-ma là vì người ta nghi ngài đưa người ngoại vào Đền Thờ (xem Cv 21:28). Như vậy, những đau khổ ngài phải chịu là vì và cho anh em dân ngoại, trong đó có tín hữu Cô-lô-xê (Cl 2:1; Ep 3:1.13). Đây có lẽ là thái độ khẩn thiết nhất của nhà truyền giáo. Chịu đau khổ vì người khác thường không phải là điều mình mong muốn, chứ đừng nói tới vui mừng! Ngay cả đến các bà mẹ phải chịu đau khổ vì con cái cũng khó cảm nhận vui mừng này. Thế mà thánh Phao-lô đã có được tâm tình ấy. Vậy điều gì là động lực để ngài cảm nhận vui mừng nghịch lý ấy? Đó là vì "tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi" (2 Cr 5:14). Có vui mừng như vậy, Phao-lô mới dám đi xa hơn nữa, tức là tình nguyện "mang lấy vào thân cho đủ mức" những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu. Đối với ngài, gian nan thử thách của Đức Ki-tô vẫn tiếp diễn và chưa hoàn tất. Nó cần được bổ túc bằng những gian nan thử thách của những người mang sứ mệnh rao giảng mầu nhiệm Đức Ki-tô.

          - Ý thức bổn phận rao giảng lời Chúa (= Tin Mừng) và mầu nhiệm của Người: thánh Phao-lô luôn tâm niệm rằng việc rao giảng được ủy thác cho ngài đã nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Mà việc gì Thiên Chúa đã ủy thác cho mình thì mình phải làm "cho trọn vẹn." Muốn làm cho trọn vẹn, nhà truyền giáo phải biết rõ mình rao giảng điều gì, tức là biết rõ Thiên Chúa muốn họ rao giảng về mầu nhiệm của Người. Vậy nội dung sứ điệp phải rao giảng là:

          "Đó là chính Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang."

          Phương thức Phao-lô rao giảng mầu nhiệm Chúa Ki-tô là:

                   * Khuyên bảo mỗi người
                   * Dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan
                   * Nhắm mục đích giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô.

          - Chấp nhận vất vả và chiến đấu khi thi hành sứ vụ rao giảng: qua các thư khác, thánh Phao-lô đã kể ra những vất vả và chiến đấu, nên ngài không muốn nhắc lại ở đây một lần nữa. Những vất vả và chiến đấu ấy rất nhiều và đa dạng, với chính mình, với người đồng hương Do-thái, với dân ngoại, với nhà lãnh đạo tôn giáo, với chính quyền, tại Do-thái, tại ngoại quốc, trên bờ, ngoài biển...

          - Không ỷ sức riêng mình, nhưng xác tín là "nhờ sức lực của Đức Ki-tô hoạt động mạnh mẽ nơi mình": đây là bí quyết để nhà truyền giáo nắm vững mục đích, không phải để làm vinh danh mình, nhưng để vinh danh Thiên Chúa. Người rao giảng chỉ là khí cụ, là phương tiện Chúa sử dụng, là người đưa người ta đến với Chúa chứ không phải đến với mình.

          Một cách gián tiếp, đoạn thư cho chúng ta thấy khuôn mặt nhà truyền giáo Phao-lô thật rõ ràng, trong sáng, khiêm tốn, nhiệt thành và dứt khoát. Những yếu tố ấy đã làm cho Phao-lô trở nên một trong hai cột trụ của Giáo Hội Chúa Ki-tô, bên cạnh vai trò lãnh đạo của Phê-rô.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Chia sẻ cảm tưởng của tôi khi đọc đoạn thư này của thánh Phao-lô.

          Thánh Phao-lô luôn nhìn sứ mệnh của mình trong liên quan với Thiên Chúa, Giáo Hội và tha nhân. Tôi đã và đang nhìn sứ mệnh của mình như thế nào? Và sứ mệnh ấy là gì?

          Thái độ của tôi khi gặp gian nan thử thách trong sứ vụ rao giảng lời Chúa là thái độ nào? Những điều thánh Phao-lô cảm nghiệm có soi sáng gì cho tôi không? Có giúp tôi xét lại thái độ của mình khi làm việc tông đồ không?

          Tôi hiểu nội dung sứ điệp rao giảng mầu nhiệm Chúa Ki-tô thế nào? Trong quá khứ tôi đã học biết và sống mầu nhiệm Chúa Ki-tô như thế nào?

          Mục đích của "mầu nhiệm Chúa Ki-tô" là mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. Tôi đã làm gì để được nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát lại bài "Gặp gõ Đức Ki-tô...", hoặc đọc một kinh thích hợp.

L.m Trần Đình Nhi

------------------------------------

 

TN 16-C60. CHÚA NHẬT 16 QUANH NĂM C ,2004


(Lu-ca 10: 38-42)

 

 Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước đã trình bày đề tài tình yêu trong chiều kích tuyệt: TN 16-C60


          Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước đã trình bày đề tài tình yêu trong chiều kích tuyệt đối của nó:  yêu mến Thiên Chúa với hết cả con người của ta và yêu thương tha nhân như chính bản thân ta.  Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành đã trả lời vấn nạn ai là người thân cận:  đó là người thực thi lòng thương xót đối với người khác.  Dường như thánh Lu-ca, qua câu truyện gia đình Bê-ta-nia tiếp đãi Chúa Giê-su, muốn tiếp tục đề tài về tình yêu và cho chúng ta thấy chính Chúa Giê-su là “người thân cận” của ta.  Chị Mác-ta và Ma-ri-a là hai người yêu mến Chúa và biểu lộ tình yêu của họ mỗi người mỗi cách.  Yêu mến bằng việc phục vụ hiếu khách hoặc yêu mến qua việc sống sự hiện diện, hoặc nói khác đi yêu mến qua những sinh hoạt bề ngoài hay qua việc lắng nghe chiêm niệm.  Cách nào cũng tốt, nhưng Chúa Giê-su xác nhận cách thứ hai là tốt nhất.  Nếu Chúa Giê-su đích thực là “người thân cận” của ta vì Người tỏ lòng thương xót ta, thì ta phải chọn cách tốt nhất để đáp lại tình yêu ấy.
 
a)  Chúa Giê-su là người thân cận của ta
 
          Kể dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, Chúa Giê-su đi tới kết luận:  người thân cận là người thực thi lòng thương xót đối với người gặp nạn.  Dụ ngôn là câu truyện mở ra nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy theo người nghe hiểu thế nào theo khả năng của họ.  Nhưng theo Chúa Giê-su, ý nghĩa về người thân cận phải mang tinh thần chủ động, nghĩa là ta phải trở nên người thân cận của anh chị em bằng cách thực thi lòng thương xót đối với họ.  Hiểu như thế, thì ai sẽ là người thân cận đích thực và gương mẫu của ta nếu không phải là chính Chúa Giê-su?  Đúng vậy, bởi vì Chúa Giê-su tỏ lòng thương xót ta.

          Trước hết, Chúa Giê-su là lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể, đã trở nên người phàm.  Thánh Phê-rô trong bài giảng tại nhà ông Co-nê-li-ô đã nói về Chúa Giê-su thực thi lòng thương xót như sau:  “Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người.  Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:38).  Động lực khiến Người dấn thân cho sứ vụ cứu thế là vì yêu mến.

          Tình yêu của Chúa Giê-su vượt qua mọi ngăn cách để đến với ta là những người gặp nạn.  Ta đã bị tội lỗi đánh cho “nhừ tử, nửa sống nửa chết.”  Ta mang những thương tích do tội lỗi gây ra.  Nhưng Chúa Giê-su đã đến.  Người không tránh qua bên kia mà đi, nhưng Người chăm sóc ta và chữa lành ta là kẻ bị ma quỷ kiềm chế.  Người đã trả một giá vô cùng đắt để giải phóng ta bằng cái chết của Người trên thập giá.
 
b)  Đáp lại tình yêu và lòng thương xót của Chúa Giê-su

          Chúa Giê-su đã trút bỏ vinh quang Thiên Chúa để trở nên giống phàm nhân và làm người thân cận của ta.  Người muốn ta cũng phải làm người thân cận của Người, không phải để thực thi lòng thương xót cho chính Người mà là cho anh chị em của Người đang sống bên cạnh ta.  Tới đây ta nhận thấy sự liên kết câu truyện chị em cô Mác-ta với câu truyện người thông luật ở điểm là yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân là hai điều không thể tách rời.

          Tuy nhiên cách đáp lại tình yêu Chúa nơi chị em cô Mác-ta lại cho ta một bài học độc đáo.  So sánh giữa cách “lăng xăng nhiều chuyện” để phục vụ cơm nước của chị Mác-ta với cách “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy” của chị Ma-ri-a, Chúa Giê-su đưa ra một khẳng định khiến ta phải suy nghĩ tự hỏi, đó là “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.”  Các nhà chú giải Kinh Thánh hiểu chuyện cần thiết đây là phải đặt lời của Chúa lên trên mọi lo toan trần thế.  Chị Ma-ri-a đã lựa chọn sự cần thiết này, nên chị dẹp mọi chuyện khác sang một bên để có thì giờ hoàn toàn hiện diện bên Chúa.

          Nói đến sống sự hiện diện là nói tới chiêm niệm.  Ta thường hiểu lầm sống chiêm niệm là lối sống chỉ dành cho những vị tu hành ẩn mình trong tu viện, chứ người đời làm sao mà chiêm niệm giữa bao công việc bận rộn của cuộc sống hằng ngày.  Tu đức học ngày nay nhấn mạnh tới chiêm niệm của người giáo dân, không chỉ là việc chiêm niệm, hành vi chiêm niệm, nhưng là thái độ chiêm niệm.  Ta có thể bận rộn công việc, nhưng cũng có thể dành đôi ba phút để hoàn toàn hiện diện trước mặt Chúa.  Vừa làm việc ta vừa đặt mình trong sự hiện diện của Chúa, ý thức mình đang làm việc trước mặt Chúa.  Có tác giả tu đức gọi lối sống này là “Noisy contemplation” nghĩa là mình vẫn có thể để cho Chúa hiện diện với mình và mình hiện diện với Chúa giữa những ồn ào của cuộc sống.  Nhiều khi ta quá để ý tới việc giục lòng tin Chúa hiện diện trước mặt ta mà quên là ta cần phải cố gắng hoàn toàn hiện diện trước mặt Chúa, đừng để cho xác đang ở trong nhà thờ nhưng lòng trí thì bận rộn với những chuyện khác!  Ta có thể hình dung cảnh chị Ma-ri-a đang ngồi dưới chân Chúa.  Khách mời lui tới.  Các tông đồ ông nào cũng ăn to nói lớn.  Chị Mác-ta đang khua nồi niêu xoong chảo...  Vậy mà trước mặt chị Ma-ri-a chỉ có Chúa Giê-su thôi, và trước mặt Chúa cũng chỉ có chị Ma-ri-a thôi.  Hai người đã hoàn toàn hiện diện với nhau.  Người nói kẻ nghe, hoàn toàn chăm chú và vui hưởng sự hiện diện của nhau.  Đúng là Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất rồi!  Đúng là một sự bình an, một thứ bình an chỉ có Chúa Giê-su mới ban cho ta (Ga 15:27)!  Sự chiêm niệm được hiểu một cách đơn giản như vậy và nếu thế thì ai cũng có thể thực hành được trong cuộc sống bận rộn của mình.  Ta thường nghe câu truyện cha thánh Gio-an Ma-ri-a Vianney và một ông lão là giáo dân của ngài.  Chiều nào cha cũng thấy ông lão ở trong nhà thờ, im lặng.  Cha hỏi ông cầu nguyện với Chúa thế nào.  Ông thưa:  “Con nhìn Chúa và Chúa nhìn con” (Je l’avise et Il m’avise).  Đấy là chiêm niệm.
 
c)  “Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!”

          Hẳn đây là một lời nhắc nhở với đầy lòng yêu mến.  Ta cứ nghe cách Chúa gọi tên chị Mác-ta là biết.  Chúa  Giê-su, “người thân cận” dễ thương của chị Mác-ta đang thực thi lòng thương xót đối với chị.  Người muốn giải phóng chị khỏi những ràng buộc không cần thiết và sắp đặt lại những ưu tiên của cuộc sống.  Trong bài giảng trên núi (Mt 6:25-34), Người đã dạy ta đừng quá lo lắng.  Quá lo lắng và lăng xăng có thể biến ta thành “cái rốn vũ trụ”, làm cho ta có cảm tưởng mình là người không thể thay thế.  Rồi từ đó nảy sinh nhiều thứ cảm tưởng khác không tốt, nhất là gạt Chúa ra khỏi cuộc đời mình, quên đi “một chuyện cần thiết mà thôi”, tức là đời sống nội tâm cầu nguyện và lối sống chiêm niệm.

          Ở đâu ta cũng nghe người ta than:  Bận quá!  Nhưng ít có người trả lời:  tôi đang bận cầu nguyện.  Điều quan trọng là ta có làm cho cuộc sống hằng ngày của mình được quân bình không, nghĩa là có hoạt động như là kết quả của cầu nguyện và cầu nguyện như là nhu cầu cho hoạt động không.
 
d)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Trong cuốn Prières của cha Michel Quoist, có một lời nguyện thật hay và giúp ta suy nghĩ.

                             Tranh thủ thời gian

          “Lạy Chúa, bước ra đường, con gặp không biết bao nhiêu người...
          Họ về, họ đến, họ đi, họ chạy...
          Xe hai bánh chạy...
          Xe bốn bánh chạy...
          Xe ca-mi-ông chạy...
          Cả thành phố chạy...
          Các con đường chạy...
          Cả thành phố chạy...
          Tất cả mọi người chạy...
          Họ chạy để khỏi mất thì giờ
          Họ chạy theo thời gian
          để lấy lại thời gian đã mất
          để lời nhiều thời giờ hơn...
          Hết mọi người đến bảo là không có thời giờ...
          Nhưng lạy Chúa, con có thời giờ...
          Con có thời giờ riêng của con.
          Tất cả thời giờ mà Chúa đã ban cho con,
          Những năm tháng của đời sống con,
          những ngày của năm tháng con
          những giờ của ngày sống con
          Tất cả đều thuộc về con.
          Con có phận sự phải dùng nó cho đầy đủ trong bình tĩnh và yên lặng...
          Dùng nó cho trọn vẹn, cho tới phút cuối cùng.
          Để dâng lên cho Chúa hầu Chúa làm lợi cho kẻ khác.
          Chiều nay, lạy Chúa, con không xin Chúa ban cho thêm thời giờ
          để làm sự này hay sự khác...
          Con chỉ xin Chúa cho con được ơn này là ơn biết dùng nên thời giờ
          Chúa ban cho con, để tận tình làm những việc mà Chúa muốn cho con làm...”     
                             (Trích trong cuốn “Suy nghĩ và cầu nguyện”, trang 106) 

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
15-7-2004

------------------------------------

 

TN 16-C61. THỊ TẠI MÔN TIỀN NÁO!

 

Làm tín hữu Việt Nam thời đại Internet sướng thật: mỗi ngày có hàng chục trang web mời truy: TN 16-C61


Làm tín hữu Việt Nam thời đại Internet sướng thật: mỗi ngày có hàng chục trang web mời truy cập, hàng chục “tệp” trang trí bắt mắt gửi tới, những suy niệm Tin Mừng,những bài chia sẻ Lời Chúa, những bài giảng công phu biên soạn: tất cả không chỉ “miễn phí”, mà luôn kèm theo “kính chào”,“kính mời”, những lời lịch sự nầy tuyệt nhiên không giả dối,mà diễn tả hạnh phúc của các tác giả khi nghĩ đến công sức bỏ ra được đón nhận và mở đọc, dù chỉ lướt mắt qua. Thực tế, nhiều người nhận để hờ ngón tay ở phím “delete”. Cơm bưng nước rót là vậy, món lạt món mặn đều sẵn, mà sao một vài phút ngắn ngũi cho Lời Chúa cũng khó lắm thay!

Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa đề là The Royal Hunt of the Sun (Hoàng gia đi săn mặt trời), kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta: "Đây là Lời Chúa. Người nói với chúng ta qua cuốn sách này" . Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và nhẹ nhàng áp vào lỗ tai. Ông cố gắng thử đi thử lại, nhưng chẳng nghe được gì hết. Ông cho rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Giữa người tù trưởng ngây thơ nầy và chúng ta,những người có mọi điều kiện và phương tiện để lắng nghe Lời Chúa, nhưng cũng chẳng gặt hái được gì hơn vị tù trưởng, thì ai là người đáng bị quở trách:” vì lòng dân nầy đã ra chai đá:chúng đã bịt tai nhắm mắt,kẻo mắt chúng thấy,tai chúng nghe và lòng hiểu được mà hoán cải”(Mt 13,15).

Người ta hay nói “ồn như chợ”.Cụ Nguyễn-Công- Trứ khi bàn về “chữ Nhàn”, đã có những câu:“Thị tại môn tiền: náo; Nguyệt lai môn hạ: nhàn”. Chợ nằm trước cửa thì huyên náo; trăng soi dưới cửa thì thanh nhàn.Ngày nay vào các siêu thị, thỉnh thoảng mới nghe đôi tiếng rầm rì, vì hàng hoá được xếp đặt gọn gàng, giá cả ghi sẵn, không còn cảnh ồn ào cò kè bớt một thêm hai, rồi sẵn sàng dốc hết vốn liếng từ vựng ra dùng khi không vừa ý hoặc cho rằng bị kẻ mua hoặc người bán xỏ xiên. Một cái chợ án ngay cửa ra vào nhà, không thể không đinh tai nhức óc. Nếu chợ họp ngay giữa nhà, nếu như chính chúng ta “rước” chợ vào trong nhà, thì khó tưởng tượng cảnh ồn ào,lộn xộn sẽ như thế nào! Những ai đã nghe nhạc rock metal heavy, hiểu ngay rằng những âm thanh chát chúa và dữ dội được mở hết âm lượng, lấn át tất cả mọi âm thanh khác. Những người hiện diện nếu là “fans” hâm mộ, sẽ bị cuốn theo giòng nhạc; còn với những người không ưa loại nhạc nầy, thì chẳng khác nào bị tra tấn.Ngày nay,bất cứ nơi đâu và lúc nào, người ta cũng bắt gặp những người đi đường, thậm chí đang lái xe hơi hoặc điều khiển xe máy, tai áp vào điện thoại di động: đang nhận một cuộc gọi hoặc đơn thuần chỉ là đang nghe nhạc.Chỉ cần mang theo bên mình một chiếc di động đời mới, hoặc một chiếc iPod, người nghe có thể mang theo cả rạp hát với những nhạc phẩm ưa thích. Trong kỳ World Cup 2010 nầy, khắp đất nước Nam Phi rộn ràng tiếng kèn vuvuzela. Ban đầu rải rác,nghe vui tai,nhưng khi tập trung hàng ngàn cái vào một sân vận động vây kín, thì thật đáng sợ! Nhưng đó lại là những gì xảy ra trong cuộc sống chúng ta, khiến cho Lời Chúa khó lòng lọt được vào tai chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa, sự yên tĩnh ngoại tại là một điều kiện cần thiết.Nhưng trong cuộc sống xô bồ hiện đại, im lặng,yên tĩnh là điều gần như không tưởng. Ngay cả trong những dòng khổ tu, những dòng kín,những đền chùa, không còn giữ nét tĩnh mạc vốn có, nhất là với những đoàn khách “du lịch sinh thái” sẵn sàng quấy động bầu khí thanh tịnh ấy. Không lạ gì mà ngày nay người ta tìm đến những nơi yên tĩnh,những phương pháp giúp con người tìm được chút thư thái tâm hồn, như là Yoga hoặc thiền, để tìm lại con người mình, nghe được tiếng lòng của chính mình.

Linh mục Mark Link,Dòng Tên, nói chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng 3 lỗ tai: Lỗ tai của tâm trí, lỗ tai của trái tim và lỗ tai của linh hồn". Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa dược diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta, và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy. Nhưng tiếc thay, tâm trí chúng ta đầy ắp những tính toán tiền bạc lợi danh, ngập tràn những hình ảnh tà dâm và những ghen ghét,hận thù. Không phải là không còn chỗ cho Lời Chúa, nhưng đón nhận Lời Chúa đồng nghĩa với phải thay đổi cách sống, nếp sống,phải chia tay những thói quen, tật hư nết xấu “dễ thương” cũ. Những thứ ấy không còn “thị tại môn” nữa,mà đã xâm nhập vào trong tâm hồn chúng ta, bị kín mọi lối ra vào với Lời Chúa. Những lo lắng Mác-ta là tốt,là cần cho cuộc sống;nhưng khi đặt nó làm trọng tâm, để bắt chính bản thân và người khác phải quá bận rộn, lo toan, thì khi ấy không còn ‘ăn để sống” mà là “sống để ăn”. Tiền bạc - đại diện cho những lo âu thuần túy vật chất,trần tục - trở thành ‘ông chủ”. Lắng nghe Lời Chúa bị cho xuống hàng thứ yếu và nhân danh “có thực mới vực được đạo”, và rằng “đạo tại tâm”, rằng “Chúa bao dung tha thứ tất cả”, người ta xa rời Lời Chúa. Đức hồng y Juan Luis Cipriani, Tổng giám mục giáo phận Lima, trong bài giảng ngày 14.07.2010 (CNA), đã khuyên tín hữu tìm những thời khắc yên tĩnh để nghe Lời Chúa: “Hãy nhìn Cây Thánh Giá. Hãy nghe nhịp tim đập ấy. Hãy thấy cái nhìn của Chúa Kitô, những vết thương mà chúng ta gây cho Người. Hãy đọc Phúc Âm. Muốn lắng nghe Lời Chúa, chúng ta cần tách rời bản thân khỏi mọi lo lắng và khó khăn. Có thể Chúa Giêsu đang nói với bạn trong sâu thẳm tâm hồn bạn, nhưng chỉ thì thầm, và bạn không thể nghe được vì tiếng ồn ào huyên náo”.

Chuyện vui thuật lại: Sau khoá lý thuyết về các bệnh tim mạch,vị giáo sư dẫn sinh viên y khoa thực tập trên một bệnh nhân bị suy tim. Sau khi lần lượt trao ống nghe của mình cho từng sinh viên thăm khám cho bệnh nhân và ghi chép bệnh án, về lại lớp học, ông hỏi các sinh viên có phân biệt bệnh lý qua nhịp tim vừa rồi không. Các sinh viên đều phấn khởi trả lời có. Bấy giờ vị giáo sư thong thả tháo đầu ống nghe ra. Mọi người chưng hững và hổ thẹn: hoá ra vị giáo sư đã dùng bông nhét kín lỗ nghe! Trong cuộc sống, không ít lần chúng ta bịt tai không nghe Lời Chúa đã đành, mà còn bít kín những cánh cửa, những khe hở, khiến cho Lời Chúa không đến được với anh em, bằng gương mù gương xấu, bằng hành xử ích kỷ, thiếu bác ái, bằng sự ươn ái trong việc thực hành Đạo (dự Lễ,lần chuỗi mai khôi,cầu nguyện,..).

Và lý do để chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa, đặt việc nghe Lời Chúa lên hàng đầu,là: “Không có Thiên Chúa, con người không biết đi đâu,cũng không làm sao hiểu được mình là ai” (Tông thư Caritas in Veritate,78).

Lạy Chúa, xin hãy phán,vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe (I Sam 3,9).

ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 58

------------------------------------

 

TN 16-C62. CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN


HOẠT ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN

Lc 10,38-42

 

Dân gian có câu: “Khách tới nhà không gà thì vịt”, câu nói nầy thể hiện lòng hiếu khách của: TN 16-C62


1. Dân gian có câu: “Khách tới nhà không gà thì vịt”, câu nói nầy thể hiện lòng hiếu khách của chủ nhà. Trong bài đọc I, cho thấy tổ phụ Abraham cũng rất hiếu khách, ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng, thì thấy bên ngoài có 3 người đàn ông. Ông vội vàng lấy bột làm bánh, bắt một con bê tốt nhất làm thịt để tiếp đãi họ. Những người nầy là sứ giả của Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Martha cũng thể hiện lòng hiếu khách của mình, chị lo dọn tiệc thết đãi Chúa, thế nhưng người em là Maria phục vụ Chúa bằng cách khác, ngồi nghe Chúa giảng dạy và được khen. Tại sao Chúa khen Maria ? Và qua hình ảnh của Matha và Maria tiếp đón Chúa mỗi người mỗi cách, Chúa muốn dạy chúng ta điều gì ?

2. Chắc hẳn không chỉ một mình Đức Giêsu ghé qua nhà chị em Martha, Maria và Lagiarô (người đã chết và chôn được 4 ngày mà được Chúa cho sống lại), mà còn các tông đồ nữa. Việc chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi và ăn uống cho ít là 13 người khách và 3 người nhà làm cho Martha, người chị, người chủ nhà tất nhiên phải rất bận rộn. Cho nên chúng ta không lạ gì Martha trách em mình không phụ giúp gì với mình! Dường như trách cả Chúa nữa là không biết nhắc Maria phụ với chị, mà chỉ ngồi nghe Chúa nói chuyện, trong khi gần tới bữa ăn rồi! Rõ ràng Martha làm việc phải làm của người chủ nhà, thế nhưng Chúa không khen, mà Chúa còn bảo: “Martha, Martha ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất”(Lc 10,42). Câu nói này hẳn làm cho Martha và cả chúng ta cũng phải suy nghĩ nữa!

3. Xét về phương diện xã hội, khách đến nhà chúng ta thường thấy có hai phương cách phục vụ. Phương cách giống như của Martha: lo ăn, lo chỗ nghỉ cho khách. Theo cách nghĩ thông thường càng lo thức ăn thịnh soạn, chỗ nghỉ càng chu đáo chừng nào chứng tỏ mình càng trân trọng, quý mến khách. Phương cách giống của Maria: lắng nghe những điều chia sẻ của khách. Càng thâm giao, càng tri kỷ khi đến thăm nhau dường như cần có nhiều thời giờ để tâm sự, để chia sẻ nhau hơn là vấn đề ăn uống.

4. Xét về phương diện thiêng liêng, Martha tiêu biểu cho người hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Còn Maria tiêu biểu cho những người lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Tuy việc hoạt động phục vụ không phải là không cần thiết, nhưng phải coi chừng kẻo chúng làm ta phân tâm mà không để ý đến điều quan trọng hơn đó là lắng nghe Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc lại lời Thiên Chúa dạy từ thời Cựu Ước: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).

5. Hoạt động và cầu nguyện hai việc không thể tách rời nơi đời sống của người Kitô hữu, mà cần bổ túc cho nhau. Trong đó việc cầu nguyện phải làm nền tảng hoạt động cho đời sống của Kitô hữu. Thật vậy, ta hãy xem qua một vài lĩnh vực để thấy rõ:

- Nhờ gắng bó với Đấng Tối Cao làm cho người sống đúng với phẩm giá cao quý của mình hơn. Tháng 07 năm 2004, trung tâm nghiên cứu Howard thuộc Đại học Austin, Texas, Hoa Kỳ đã công bố kết quả nghiên cứu cho thấy giới thanh thiếu niên có đời sống tôn giáo mạnh thì vấn đề phạm pháp, vấn đề dục tính tiền hôn nhân, lạm dụng chất kích thích, phạm pháp đều giảm đáng kể.

- Nhờ cầu nguyện nên giải quyết những vấn đề trong cuộc sống được tốt hơn. Charles de Foucauld có phương cách giải quyết các vấn đề khó khăn như sau: (1) Thưa với Chúa những điều mình gặp phải. (2) Cầu nguyện (thinh lặng) lắng nghe Chúa hướng dẫn. (3) Đưa ra hướng để giải quyết vấn đề. Nhờ vậy mà ngài đã giải quyết thành công nhiều điều. Điều nầy ai trong chúng ta cũng có thể học hỏi để áp dùng cho đời sống của ta.

- Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêsa Calcutta và các nữ tu dòng của Mẹ dù bận rộn công việc hằng ngày như thế nào, nhưng luôn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Người ta ghi nhận rằng Mẹ Têrêsa luôn là người có mặt ở nhà nguyện sớm nhất !

6. Như vậy cầu nguyện và hoạt động là hai việc không thể tách rời nơi một Kitô hữu, giống như một đồng tiền phải có hai mặt. Có thể nói cầu nguyện như là phần chìm, nền móng, của tòa nhà; hoạt động như là phần trên của tòa nhà; toà nhà muốn vững phải nhờ móng chắc chắn. Nhờ cầu nguyện mới có thể phân định được những việc nên làm và không nên làm, nếu thế thì cầu nguyện còn có thể nói như tay lái của chiếc xe để dìu dắt cả chiếc xe đi đúng hướng, an toàn. Nhờ cầu nguyện mà chúng ta có thể phục vụ, cư xử với nhau theo tinh thần người con Chúa được tốt hơn.

Đừng tiếc gì một ít thời giờ đọc kinh hôm, kinh mai, xét mình hằng ngày, đừng tiếc gì phải dành một vài tiếng đồng hồ tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật... Đức Giêsu là mẫu gương cho cầu nguyện và hoạt động. Người muốn việc hoạt động của người tông đồ phải bắt nguồn từ sự cầu nguyện và cần có những giây phút nhìn lại việc mình làm, vậy hãy dành thời gian tâm sự với Chúa, như là Maria; để rồi mới có thể có được sức mạnh phục vụ Chúa và tha nhân như Martha, cách bền bỉ.

------------------------------------

 

TN 16-C63. CÁI GÌ QUÝ BÁU NHẤT Ở TRÊN ĐỜI NÀY?


Lc 10,38-42

Anh chị em thân mến,

 

Người ta hay chê trách người tin vào Thiên Chúa, rằng họ không lo lắng cho chính mình, họ sống: TN 16-C63


Người ta hay chê trách người tin vào Thiên Chúa, rằng họ không lo lắng cho chính mình, họ sống yếm thế, thụ động quá, không có sức phấn đấu để tiến lên, mạnh mẻ, giàu có. Người cộng sản thì cho tôn giáo, nhất là Công Giáo là thứ thuốc phiện ru ngủ con người, làm con người không còn khả năng lao động, sáng tạo, mà quên hết cuộc sống trần thế này đi, ngay cả nhiều lúc khinh bỉ cuộc sống trần gian nữa. Đúng ra đó là vì người ta không hiểu giáo lý của Chúa Kitô, của Hội Thánh. Càng không hiểu, người ta dễ bị rơi vào sự hiểu lầm. Đây là một chủ đề khá tế nhị của cuộc sống con người ở trên gian. Chúa nói: chỉ có một điều cần thôi. Maria đã chọn phần đó: đó chính là lắng nghe Lời Chúa và cố gắng đem ra thực hành. Chúng ta thử suy niệm trong ngày Chúa nhật hôm nay.

a/. Các sách Phúc âm ở chổ khác đã nói thế nào về chủ đề này?

Sống trên đời, người ta hay lo lắng nhiều điều, đôi khi người hay lo lắng được kể là khôn ngoan. Chúa Giêsu hiểu điều đó, nên Người đưa ra các lời huấn dụ cụ thể:

Đừng lo lắng về cái ăn cái mặc: Lc 12, 22+; Mt 6, 25+ .
Đừng quá lo lắng khi bị điệu ra trưóc mặt quan quyền: Lc 12, 11; Mt 10, 19 .
Lo lắng sẽ làm chết Hạt giống Lời Chúa: Mt 13, 22; Mc 4, 19; Lc 8, 14;
Điều đáng lo hơn cả là thực hành Lời Chúa: Mt 13, 18+; Mt 6, 19+; Lc 8, 11.

Chỉ cần một điều thôi: Mt 6, 25 +; Lc 12, 22+: câu này muốn nói phải ưu tiên cho việc lắng nghe Lời Chúa hơn hẳn các mối lo khác: ngồi bên chân Chúa: đây chính là thái độ của người môn đệ Chúa…

b/. Vì những lời Chúa nói nêu trên, người ta cho là người công giáo yếm thế, thụ động, có phải như thế không?

Thực ra, nếu người ta cùng hiểu như Chúa Giêsu, như người công giáo: của cải trên trần gian này và ngay cả sự sống mình nữa, cũng chỉ là tạm bợ; khi chết đi, của cải đó sẽ trở nên vô dụng, vì người ta không thể đem nó theo được sang bên kia thế giới. Hơn nữa cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ, ngắn ngủi, so với cuộc sống vĩnh cửu mai sau, sẽ chẳng là gì cả….Vậy thì sống ở trên đời này, nếu ta chỉ biết thu tích của cải vật chất, sẽ lợi ích gì cho ta?

Ngược lại, đối với ai không tin có Chúa, không tin có đời sau, thì họ sẽ chủ trương chỉ tìm của cải vật chất và lo hưởng thụ trên đời. Đó là lẻ đương nhiên, không phải là chuyện lạ. Họ cho là người Công giáo yếm thế, thụ động, cũng là lẻ đương nhiên, vì chính họ không hiểu Chúa Giêsu, không hiểu người Công giáo. Họ có nhãn quan khác với người Công giáo. Nói đúng hơn, họ đứng trên bình diện của họ mà phê phán. Do đó, họ không hiểu được sự thật; đó là điều đương nhiên rồi ….

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Chúa phán: “chỉ có một điều cần, Maria đã chọn phần tốt nhất..” Phần tốt nhất ở đây chính là lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Maria đã chọn phần này; các môn đệ xưa cũng đã chọn như thế; Hội thánh qua mọi thời cũng đã chọn như vậy. Thực tế, không có bao nhiêu người đã chọn lựa lắng nghe lời Chúa. Ngược lại, danh vọng tiền tài là thứ ai cũng mong muốn đi tìm và khao khát nó; vì nó dễ tìm, lại thực dụng nữa, dù nó không phải là cái tốt nhất để chọn, lại có nguy cơ làm cản trở ta đạt được Nước Trời. Còn chọn lựa Nước Trời rõ ràng bị coi là chuyện chưa tới, là mơ mộng hảo huyền, là thụ động lười biếng nữa…! Là người Kitô hữu, bao lâu nay ta chọn phần nào đây?

------------------------------------

 

TN 16-C64. PHỤC VỤ TRONG TRẬT TỰ

 

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa đến thăm gia đình ba chị em Mác-ta: TN 16-C64


Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa đến thăm gia đình ba chị em Mác-ta, Maria và Lazarô . Tin Mừng cũng thuật lại việc phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng việc phục vụ vẫn phải nằm trong một trật tự:

Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết quên mình. Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).

Về việc phục vụ, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau lòng.

Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng nghe. Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).

Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa qua Tin mừng, qua cầu nguyện và qua tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).

Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết nghỉ ngơi. Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn hút con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh.

Hôm nay Chúa nhắc nhở Martha: “Đừng băn khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện.

Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực của ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.

Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.

Coi chừng nỗi lo lắng về những chuyện phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, chuyện cần thiết hơn cả, đó là đi vào trong thinh lặng để gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.

TGM. Ngô Quang Kiệt

***

Lạy Chúa!

Khi bị bao vây bởi muôn vàn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được nghỉ ngơi trước nhan thánh Chúa.
Khi bị giao động bởi những bận tâm và lo lắng, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh diệu kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa! Ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào đời sống của con. Để nhờ cầu nguyện, con sẽ gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen

(BĐ1: Genesis 18:1-10 – BĐ2: Col 1:24-28 – PÂ: Luca 10:38-42)

------------------------------------

 

TN 16-C65. CHÚA VIẾNG THĂM - Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

 

Người Việt Nam thường có câu: “lời chào cao hơn mân cỗ”. Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái: TN 16-C65


Người Việt Nam thường có câu: “lời chào cao hơn mân cỗ”. Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái mặc. Người ta bị bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng cả đời khi bị người đời bỏ rơi, hay bị đối xử ngược đãi xem thường. Thực vậy, cái qúy giá ở đời là được anh em yêu thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh em chia sẻ, cảm thông. Dù cuộc đời có đau khổ. Dù cuộc đời có gặp bất hạnh hay đói khổ nhưng được anh em đùm bọc, cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy lạc quan và bình an.

Người ta kể rằng thời Ông Abraham Lincoln làm Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông vẫn thường có thói quen đến thăm các nhà thương để có dịp chuyện vãn với các anh em thương binh trong thời nội chiến.

Một hôm, bác sĩ dẫn Tổng Thống tới phòng các thương binh đang được điều trị và đến bên một bệnh nhân rất nặng. Với giọng nhẹ nhàng, ôn tồn ông hỏi:

Tôi có thể làm chút việc gì giúp anh được không?

Có lẽ không nhận ra người khách đến thăm mình là ai, nên bệnh nhân gắng gượng nói:

Xin ông làm ơn viết lá thư cho mẹ tôi.

Người ta trao bút giấy cho Tổng Thống, và ông bắt đầu viết xuống những gì bệnh nhân có thể nói lên được.

“Mẹ rất yêu dấu của con!  Con bị thương nặng trong khi thi hành nghĩa vụ quốc gia.  Có lẽ con sẽ không bao giờ bình phục được nữa.  Xin mẹ đừng khóc nhiều vì con.  Xin mẹ hôn hai em Mary và John dùm con.  Nguyện xin Chúa chúc lành cho mẹ, cho ba và hai em.”

Nói tới đây, người thương binh ngừng vì không còn sức để nói tiếp nữa, nên ông Lincoln ký thay cho anh ta và thêm:  “Viết thay cho con trai của bà.  Ký tên:  Abraham Lincoln.”

Bệnh nhân xin cho xem lại những gì người khách đã viết thay cho mình, anh ta sửng sốt khi nhận ra người đã tới thăm mình.  Anh hổn hển hỏi với giọng ngạc nhiên:

Ông thật là Tổng Thống của Hoa Kỳ ư?

Abraham Lincoln trả lời cách âu yếm.

Phải chính tôi đây.

Tổng Thống hỏi thêm xem mình còn có thể giúp anh thương binh được việc gì nữa chăng.  Gương mặt anh bỗng chốc bừng lên, anh sung sướng nói:

Xin Tổng Thống cầm tay tôi, và giúp tôi đi đến cùng.

Trong căn phòng bé nhỏ, ông Tổng Thống với tâm hồn của người cha, âu yếm cầm lấy tay chàng thương binh trẻ trong tay mình và tiếp tục nói với anh những lời khích lệ thân mật cho tới khi anh ta trút hơi thở cuối cùng.

Lời Chúa hôm nay cũng gợi lại một cuộc viếng thăm đầy tình người mà Chúa Giê-su đã dành cho gia đình ở Betania.  Ngài đã đến với gia đình Matta và Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có Chúa viếng thăm. Kẻ thì bận rộn rót nước, nấu ăn. Người thì ríu rít chuyện trò bên Chúa. Thật là hạnh phúc cho gia đình côi cút nay lại được ấm áp vui tươi vì có Chúa hiện diện. Thế nhưng, Matta lại quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc tùng. Cô muốn làm một bữa ăn thật thịnh soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy ngưng tâm sự với Chúa để cùng giúp cô chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị với Chúa: xin Thầy hãy nói với Maria giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không được chấp nhận. Vì Chúa đến đây không vì miếng ăn. Vì Chúa không đến để được phục vụ. Con đường Chúa đến với tha nhân là để yêu thương và phục vụ. Chúa không muốn trở thành gánh nặng cho tha nhân. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà này là để nói lên sự quan tâm, tình liên đới và cảm thông. Thế nên, Chúa đã nói với Matta: “Matta, con lo lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là việc phục vụ Chúa, mà hệ tại ở việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo”.

Cuộc sống hôm nay cũng thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo thời gian. Đôi khi những người trong gia đình cũng chẳng có thới giờ viếng thăm nhau, hay chuyện trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu đích thực không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc chạnh lòng thương xót mà phải dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích của anh em. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông và nâng đỡ. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau và nâng đỡ cho nhau.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dành thời giờ cho nhau qua những việc viếng thăm, qua những việc giúp đỡ, qua sự săn sóc đầy tình người, Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết quên đi cái tôi của mình để lo cái lo của anh em, để biết sống mình vì mọi người, để cùng nhau xây dựng một thế giới đầy ắp tình yêu thương. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

------------------------------------

 

TN 16-C66. NẾU MÀ CHÚA CHẲNG XÂY NHÀ


Lm.  Anphong Trần Đức Phương

 

Chúa Nhật hôm nay nói đến đời sống Cầu Nguyện và Hoạt Động; đồng thời cũng nói đến: TN 16-C66


Chúa Nhật hôm nay nói đến đời sống Cầu Nguyện và Hoạt Động; đồng thời cũng nói đến những thử thách đức tin trong việc phục vụ Chúa và tha nhân. Bài Đọc I (SángThế 18:1-10): Abraham là tổ phụ của những người đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa và vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Thiên Chúa đã cho bà Sara được thụ thai trong tuổi già và sinh ra một người con trai (Isaac) để nối dõi dòng giống của ông Abraham.  Bài Đọc II (Colossê 1:24-28): Thánh Phaolô tỏ ra Ngài luôn sẵn sàng chịu mọi đau khổ trong việc phục vụ Chúa và mọi người. Ngài mời gọi chúng ta sống hoàn hảo hơn để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Bài Phúc Âm (Luca 10:38-42): Bà Matta đã phục vụ Chúa bằng việc làm và Bà Maria phục vụ Chúa bằng cả tấm lòng yêu mến và được Chúa Giêsu khen ngợi.

 Sống kết hiệp với Chúa bằng đời sống cầu nguyện là điều rất quan trọng, vì mọi việc chúng ta làm đều hoàn toàn nhờ vào ơn Chúa giúp và cũng nhờ lời cầu nguyện mà  chúng ta luôn vui vẻ giúp đỡ mọi người chỉ do lòng yêu mến Chúa và yêu thương nhau.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta thấy có nhiều câu chuyện thuật lại chứng tỏ các Tổ Phụ thời xưa đã luôn biết đặt niềm tin nơi Chúa qua việc cầu nguyện để thành công trong mọi việc thật khó khăn, vượt qua mọi khả năng của con người. Vì thế thánh vịnh 127  đã nói đến mỗi việc làm được thành công là chỉ do ơn Chúa:  “Nếu mà Chúa chẳng xây nhà, thợ  nề vất vả cũng là uổng công…”

Mẹ Maria, Thánh Giuse đã sống âm thầm cầu nguyện kết hiệp với Chúa để có thể chu toàn những nhiệm vụ rất khó khăn trong cuộc sống . Thánh Gioan Tẩy giả đã “vào sa mạc” rồi mới bắt đầu ra đi rao giảng (Matthêu 3:1-3).  Chúa Giêsu đã mở đầu đời sống công khai bằng việc vào sa mạc ăn chay cầu nguyện suốt 40 đêm ngày (Luca 4:1-2), và trong đời sống rao giảng thật bận rộn, nhưng Chúa Giêsu luôn dành thời giờ “cầu nguyện với Đức Chúa Cha.” Trước khi chọn 12 tông đồ Chúa Giêsu đã “thức suốt đêm để cầu nguyện.” (Luca 6:12). Trước khi “nộp mình chịu khổ hình” Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện với Đức Chúa Cha trong phòng Tiệc Ly (Gioan 17:1-26), rồi tại Núi Ô-liu (Luca 22:39-45).

Sau khi Chúa Giêsu đã về trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như Chúa Giêsu đã báo trước, các Tông đồ đã “cùng tụ họp cầu nguyện chung với nhau  cùng với Mẹ Maria và một số người khác” (Công Vụ 1:13-14). Chúa Giêsu đã luôn nhắc nhở các môn đệ “phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn.” (Luca 21:34-36).

Giáo Hội qua các thời đại vẫn lo hoạt động bao công việc từ thiện,  xã hội và văn hóa để phục vụ nhân loại ở khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên Giáo Hội cũng vẫn đặt trọng tâm vào việc cầu nguyện, đặc biệt là Thánh lễ. Cầu nguyện để kết hiệp với Chúa là điều quan trọng đầu tiên.Trong Giáo Hội thường có những người được Chúa chọn đặc biệt để sống đời ăn chay cầu nguyện trong các Dòng Tu mà chúng ta thường gọi là “những dòng tu kín.” Trong đó,  các Linh Mục, Tu Sĩ dâng cả cuộc đời sống âm thầm trong các Tu Viện xa hẵn thế gian để chuyển tâm vào việc ăn chay, cầu nguyện, thờ phượng Chúa và yểm trợ các nhà truyền giáo hoạt động ở các nơi bằng lời cầu nguyện và hy sinh hãm mình.

Tuy nhiên những “Dòng Tu hoạt động” hay những “Tu Hội Đời” cũng vẫn đặt trọng tâm vào việc cầu nguyện và dành nhiều thời giờ vào việc cầu nguyện trong việc kết hiệp với Chúa qua Thánh Lễ hằng ngày, qua các giờ Kinh Phụng Vụ và những giờ chầu Thánh thể, tràng chuỗi Mân Côi. Vì mỗi thành công trong các hoạt động truyền giáo, xã hội và văn hóa đều là nhờ ơn Chúa. “Không có Thầy chúng con không thể làm được gì.”

Cầu nguyện là tôn thờ Chúa là Cha chúng ta (Kinh Lạy Cha), là luôn sống kết hiệp với Chúa, nói chuyện với Chúa như Maria, là đặt trọn niềm tin nơi Chúa toàn năng và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa vượt qua mọi hiểu biết của con người.

 Cầu nguyện giúp chúng ta luôn được sống kết hiệp với Chúa là Cha và sống hòa hợp với nhau, nâng đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Cầu nguyện và hãm mình giúp chúng ta đủ ơn Chúa để thắng vượt mọi cám dỗ, dù nặng nề nhất (Luca 21:34…).  Cầu nguyện chung để kết hiệp với Chúa là phương thế duy nhất giúp gia đình chúng ta có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách, để luôn yêu thương, tha thứ và sống hòa thuận với nhau. “Gia đình nào biết cầu nguyện chung với nhau, gia đình đó sẽ hòa hợp với nhau.” Đó là lời của Cha Patrick Peyton, vị tông đồ đã hy sinh cả cuộc đời để giúp các gia đình biết sống hòa hợp và yêu thương nhau.

Như các Tông Đồ ngày xưa, chúng ta hãy xin Chúa dạy  chúng ta biết cầu nguyện, cho chúng ta biết hăng hái hoạt động để phục vụ Chúa và nhân loại như Matta, trong khi vẫn biết dành thời giờ để sống kết hiệp với Chúa như Maria; cả hai đều được tôn kính như các vị Thánh trong Giáo Hội.

Lm.  Anphong Trần Đức Phương

------------------------------------

 

TN 16-C67. CHIÊM NGƯỠNG THẬP GIÁ  CHÍNH LÀ PHẦN TỐT NHẤT


Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

 

Mác-ta đón đức Giê-su như khách quí vào nhà mình, và tất bật phục vụ khách. Việc chị làm la: TN 16-C67


Mác-ta đón đức Giê-su như khách quí vào nhà mình, và tất bật phục vụ khách. Việc chị làm là cần thiết và bắt buộc đối với bất cứ ai đón tiếp khách quí. Thế nhưng không hiểu sao, đức Giê-su lại khảng định là việc chị đang chu toàn (tất bật tiếp khách) là một điều không mấy cần thiết, còn tác phong thụ động của cô em Maria: ngồi yên và lắng nghe, thì lại được Ngài khen ngợi là ‘đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi’.

Tôi (và nhiều người khác có lẽ cũng đồng tình với tôi) vẫn thường nghĩ: Ki-tô hữu (hơn nữa tu sĩ hay linh mục) là người đón nhận đức Ki-tô vào đời mình. Có thể vì thế mà họ được dạy cho biết (hay phải dạy họ cho biết) là phải sống làm sao cho Chúa-thượng khách được hài lòng. Họ cần giữ cặn kẽ các điều răn và luật lệ; họ phải làm lành lánh dữ, phải lập công đức, làm việc thiện… để làm vui lòng Khách. Tóm lại đời sống đạo phải là một cuộc sống khá tất bật để lo sao hết lòng phụng sự Chúa  (như thói quen vẫn nói thế). Giáo lý (và có thể cả nền thần học) tôi học đã dạy thế, và chẳng có gì sai cả.

Thế nhưng, chính câu nói của đức Giê-su, khi trả lời một yêu cầu rất chính đáng của Mác-ta, buộc tôi phải đặt lại vấn đề: suy nghĩ phổ thông trên có hoàn toàn chỉnh hay không? “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, và đó không phải là tất bật phục vụ của Mác-ta, mà là “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy” của Maria. Vậy cụ thể thì điều cần thiết nhất trong đời Ki-tô hữu là gì? Còn có điều gì quan trọng hơn cả giữ điều răn, chu toàn lề luật, làm lành lánh dữ và thực thi công bằng bác ái? Thinh lặng ngồi bên Chúa để lắng nghe Lời Yêu Thương của lòng thương xót, yên lặng đứng bên thập giá (cùng với Mẹ Maria) để chiêm ngắm Lời Cứu Độ của Giê-su, chẳng lẽ lại là điều quan trọng nhất hay sao? Chẳng lẽ Ki-tô hữu nhất thiết phải làm điều này, và ưu tiên đưa nó vào chương trình sống của mình? Nếu thật là như vậy, thì lời đức Giê-su quở trách Mác-ta cũng phải áp dụng cho cả tôi (trong việc giữ đạo), và cho khối người nữa: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Con băn khoan lo lắng nhiều chuyện quá!”

Tôi không dám nghĩ thế, và còn cố sua đuổi tư tưởng này ra khỏi đầu mình, vì có vẻ nó đi ngược lại với những thói vẫn thường làm trong phạm vi sống đức tin. Ngay cả trong tư cách linh mục, từ lâu lắm rồi, tôi vẫn tâm niệm là phải dạy cho các tín hữu sống sao cho xứng đáng với ơn gọi của họ. Các bài giảng của tôi vẫn thường chỉ dạy họ biết sống ra sao, phải làm điều này, tránh điều kia…, chớ làm điều này, vì làm Chúa phiền lòng, nhưng hãy làm điều kia, vì làm Chúa vui thích. Trong tất cả công tác linh mục, nỗ lực làm cho tín hữu chiêm ngắm thập giá đức Ki-tô, có vẻ như bị tôi cho là thứ yếu và coi nhẹ. Không biết có bao nhiêu người hiểu được rằng: điều cần thiết nhất cho niềm tin của họ là lắng nghe Lời Cứu Độ, chiêm ngắm và trọn vẹn tín thác vào lòng thương xót Chúa. Ngay cả việc cử hành Thánh Lễ cũng thường bị tôi trình bày như một bổn phận phụng thờ, mà Chúa (là khách đang ngự đến) đáng phải được tôn thờ và cung nghinh, thay vì một cuộc chiêm ngắm và đón nhận tình yêu Thập giá. Chẳ trách gì, ngay cả các giáo dân vẫn được coi là đạo đức nhất, cũng chỉ rất mực quan tâm tới việc phục vụ Chúa (và tha nhân)… còn chiêm ngắm lòng thương xót Chúa thì không mấy coi trọng.

Và tất cả các điều này là hậu quả tất yếu của một quan niệm đã ăn rễ quá sâu nơi tôi. Là Ki-tô hữu, linh mục, tu sĩ… mối bận tâm lo lắng hàng đầu của tôi luôn là:  phải làm sao cho ‘danh Chúa được rạng rỡ vinh quang’. Ngày hôm nay đức Giê-su có lẽ muốn nhắn nhủ tôi: còn một điều cần thiết và ưu tiên hơn, kể cả trong lãnh vực giờ giấc, là lắng nghe và chiêm ngắm Lời Giê-su Thập giá, Lời của lòng thương xót cứu độ. Chính tôi, trong khi mải mê phụng sự Chúa…,  tôi còn rất xa lạ với việc thụ động ‘ngồi bên chân và lắng nghe’ Lời Tình Yêu Cứu Độ này.

Lạy Chúa từ nhân, xin hãy dạy con biết thụ động như Maria cứ ngồi bên chân Chúa, và cũng biết như chị, đón nhậ và chăm chú nghe Lời. Xin giúp con bớt bận tâm phục vụ, để dành quan tâm nhiều hơn cho chiêm ngắm Thập Giá. Xin cho mỗi Thánh Lễ con cử hành trở thành một cuộc đón nhận vô điều kiện tình yêu trao ban của Chúa, Được như thế, con có thể giúp cho nhiều tín hữu làm được điều tốt nhất Chúa mà Chúa hằng mong đợi. Amen

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

------------------------------------

 

TN 16-C68. LỰA CHỌN PHẦN TỐT NHẤT


Lm Trần Bình Trọng

 

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nói lên tinh thần hiếu khách. Lòng hiếu khách đã thúc đẩy tổ phụ Ap: TN 16-C68


Phụng vụ lời Chúa hôm nay nói lên tinh thần hiếu khách. Lòng hiếu khách đã thúc đẩy tổ phụ Áp-ra-ham dọn bữa cơm thịnh soạn, với sự tiếp tay của bà xã ông và người đầy tớ, rồi ông đích thân tiếp đãi ba vị sứ giả của Thiên Chúa. Lòng hiếu khách của ông Ápraham đã được khen thưởng, khi sứ giả của Thiên Chúa loan báo là sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ cho ông một con trai, mà sau này ông đặt tên là I-xa-ác (St 18:10a).

Còn hai chị em Mácta và Maria cũng tỏ ra tinh thần hiếu khách theo cách thế của mỗi người. Mác-ta tỏ ra tinh thần hiếu khách bằng cách sửa sọan thiết đãi Chúa một bữa cơm tươm tất. Bà đã có thể liếc mắt lườm người em là Maria, không chịu giúp việc bếp núc. Rồi bà xin Chúa can thiệp: Sao Thầy không bảo em con giúp con một tay? (Lc 10: 40). Chị em bà đã phải quen biết Chúa trước đó nên bà Mác-ta mới có thể nói với Chúa một cách chân thành như vậy. Ở đây ta phải thông cảm với bà Mácta vì bà phải sửa sọan bữa ăn một mình mà thiếu dụng cụ nhà bếp tân thời như ngày nay. Tuy nhiên yếu điểm của bà ta là bà quá lo lắng về những việc dọn cơm nước, đến nỗi bà đánh thấp giá trị của việc lắng nghe lời Chúa của em mình là Maria. Ta cũng có thể phản ứng giống như bà Mác-ta. Khi bận rộn với công việc làm, ta ưa phê bình người chỉ nói và ưa chuyện vãn mà không làm. Còn khi không chịu làm việc phục vụ, ta có thể dùng ví dụ về bà Maria để biện minh cho tính biếng nhác của mình.

Tuy nhiên Chúa lại khen bà Maria đã biết lắng nghe lời Chúa, biết chọn phần tốt nhất (c. 42). Khi Chúa nói bà Maria đã chọn phần tốt nhất, thì theo kiểu so sánh, phải hiểu rằng bà Mácta chọn phần không tốt bằng mà thôi, chứ không phải là chọn phần không tốt. Việc Chúa sinh ra làm người cũng đòi hỏi Chúa cần ăn uống. Ðể có của ăn lại cần phải có người nấu nướng. Hôm nay bà Mác-ta đã dọn cơm nước cho Chúa. Chúa chỉ nhắc nhở bà Mácta: Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá (c. 41). Chắc Chúa đã phải biết tính nết của hai chị em rồi vì nhà ba chị em - gồm ông Ladarô - thường là nơi Chúa và các tông đồ lui tới nghỉ chân và ăn uống miễn phí mỗi khi Thày trò về Giêsusalem. Có thể ý Chúa muốn nói rằng bà chỉ cần làm một vài món là đủ rồi, để lần sau làm món khác cho thay đổi. Rồi có lẽ Chúa cũng muốn kể cho cả bà chị nghe về việc Chúa đi rao giảng và chữa lành, dân chúng phản ứng ra sao, có nhóm nào chống đối hay nhóm nào ủng hộ không?

Vậy làm thế nào để dung hoà vai trò của hai chị em Mácta và Maria trong đời sống người tín hữu? Ðể dung hoà, ta vừa phải làm việc vừa phải cầu nguyện. Khi mẹ Têrêsa thành Calcutta được hỏi làm sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục việc phục vụ trẻ nghèo bên Ấn độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời: Chúa Thánh thể là sức mạnh của bà, và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình Thánh Chúa. Một cách dung hoà tốt nhất là làm việc trong bầu khí cầu nguyện, làm việc dưới sự hiện diện của Chúa. Ngày nay người ta bị chi phối bởi nhiều tiếng động và chia trí. Vì vậy ta phải học để lắng nghe tiếng Chúa. Ta phải tìm những giờ phút yên lặng để cầu nguyện, tìm cơ hội để hồi tâm, để ở một mình với Chúa và đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa.

Ðó là lý do tại sao hôm nay sau những ngày giờ bận rộn với công ăn việc làm - việc nhà cũng như việc sở - ta tụ họp nơi đây trong nhà Chúa để thờ phượng và cầu nguyện, để xa tránh bầu khí náo nhiệt của cuộc sống, để tìm hiểu xem những màu nhiệm khổ hình, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng tới đời sống mỗi ngưòi như thế nào?

Ðây cũng là cơ hội để giúp ta nhận ra Chúa đang mời gọi ta làm gì để tiếp tục sống làm môn đệ. Chúa hiện diện giữa ta khi ta họp nhau cầu nguyện và thờ phượng. Ta cần chuẩn bị sao cho được sẵn sàng để mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và lắng nghe tiếng Chúa trong Thánh kinh, qua Giáo hội và các phép bí tích mà ta lãnh nhận. Hôm nay mỗi người nên tự hỏi: ta đã sửa soạn cho việc thờ phượng ngày Chúa nhật như thế nào? Làm sao ta có thể lắng nghe tiếng Chúa khi ta bận tâm lo nghĩ xem hôm nay sau lễ ta phải làm gì, đi tiệm ăn món gì, đi chợ mua những gì?

Ðể cho tâm hồn được lắng dịu hầu có thể đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa, trước lễ ta cần sửa soạn tìm ra phương thế để nhắc nhở cho mình những gì cần làm hay cần mua sau lễ, rồi ghi những thứ cần mua hay cần làm vào miếng giấy để trong túi thay vì để trong đầu óc khi dự lễ. Ðể áp dụng thực hành, những người có con nhỏ nên ước lượng xem trước khi đi lễ cần bao nhiêu thời giờ để sửa soạn cho mình và cho con cái. Rồi cắt đặt từ tối hôm trước xem xe còn xăng nhớt không, ai đặt đồng hồ báo thức, sáng hôm  sau ai đánh thức con cái dạy, ai tắm rửa cho con, ai thay quần áo, xỏ dày dép cho con. Con cái nhỏ cần ngủ cũng như cần ăn để khi đến nhà thờ con em khỏi quấy khóc làm chia trí cho người dự lễ. Ta không thể đợi tới nhà thờ mới cho con ăn uống, rồi còn thay tã cho con trong khu vực nhà thờ - trừ trường hợp khẩn thiết. Làm như vậy là mặc nhiên ghi vào ấn tượng con cháu ý tưởng coi thường nhà Chúa.

Trong tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới, Ðức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại: Chúa nhật là ngày của Chúa. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chúa nhật còn là ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Ðức thánh Cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Thánh lễ Chúa nhật là trung tâm điểm đời sống người tín hữu. Nói như vậy có nghĩa là mỗi tuần ta đến nhà thờ ít là một lần để được tăng sức và bổ dưỡng bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa. Cuối tuần khi kiệt sức vì công việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bổ dưỡng. Chúa nhật còn là ngày của Giáo hội. Theo Ðức thánh Cha, Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, nghỉ ngơi hoặc làm việc từ thiện bác ái.

Lời cầu nguyện xin cho được biết chọn phần tốt hơn:

Lạy Chúa, Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí.
Xin dạy con biết tìm lắng nghe lời Chúa.
Xin ban cho con ơn khôn ngoan
để con biết chọn phần tốt nhất
cho con và con cháu con sau này.
Xin đừng để con quá bận tâm về những chuyện phụ thuộc,
khiến con quên lãng phần thiết yếu cho tâm hồn con. Amen.

Lm Trần Bình Trọng

------------------------------------

 

TN 16-C69. PHỤC VỤ HAY DỊCH VỤ?


Nguồn: www.giaoducconggiao.net

 

Trong cuốn sách kể lại cuộc di cư vĩ đại năm 1954, có một vài câu chuyện về hiểu lầm từ: TN 16-C69


Trong cuốn sách kể lại cuộc di cư vĩ đại năm 1954, có một vài câu chuyện về hiểu lầm từ ngữ. Chẳng hạn một số cha Hà nội vào tá túc nhà thờ Ngã Sáu (Chợ Lớn), do cha Bùi văn Nho làm cha sở. Cha Nho người miền Tây, vốn hiền hoà và dễ chịu, nói với các cha Hà nội: “Sáng mai các cha cứ thong dong mà dâng lễ”.

Sáng hôm sau, cha Nho dâng lễ xong vẫn còn thấy các Cha Hà nội đi đi lại lại trong sân mà chưa dâng lễ, cha Nho bèn hỏi: “Các cha chưa dâng lễ à?” Các cha Hà nội đáp: “Chúng con nghe cha bảo cứ thong dong mà dâng lễ”. Cha Nho giải thích cho rõ ràng, và hai bên Nam Bắc cười xoà.

Hoá ra cha Nho nói “thong dong” nghĩa là tự do, các Đấng nhà ta từ Hà nội hiểu thong dong nghĩa là từ từ, thư thả.

Chuyện từ ngữ không chỉ làm ngăn trở giao tiếp giữa người đời, mà dường như làm cho con người thời đại hiểu sai cả Lời Thiên Chúa, vốn vô cùng phong phú và sinh hoa quả nơi lòng người.

Tin Mừng nhắc lại từ Phục Vụ nhiều lần, chẳng hạn “Con người đến không phải để được hầu hạ phục vụ” (Mc.10,45). Và hôm nay, Chúa lại trách Matta vì bà cứ mãi lo phục vụ. (Lc. 10,38-42). Người ta không những ngạc nhiên vì lời dường như mâu thuẫn, mà người ta còn bị “nhiễu thông tin” khi thế gian bây giờ dùng từ “phục vụ” hoàn toàn khác nghĩa Kinh Thánh.

“Phục vụ” được hiểu như mua bán. Sáng nào người Sàigòn cũng thấy có tờ quảng cáo nhét vào khe cửa: “Chúng tôi phục vụ gạo ngon, giá rẻ” “Phục vụ nước tinh khiết”. Ai còn kiên nhẫn đọc báo chí Việt nam thế nào cũng thấy câu: “Nhà hàng phục vụ đặc sản…”

“Phục vụ” được hiểu như dịch vụ cao cấp. “Chúng tôi phục vụ quí khách trong chuyến du lịch trọn gói.” “ Phục vụ quí bà quí cô “overweight”, bảo đảm sau ba tuần giảm bốn ký”. (Đọc quảng cáo này chúng tôi xót xa nghĩ đến các em bé thiếu dinh dưỡng).

Như vậy, thế gian ham thích phục vụ quá chứ còn gì nữa. Rõ ràng trong bối cảnh đó, việc Đức Giêsu đến để phục vụ và việc Matta phục vụ khách quí là điều hân hạnh, và có nhiều lợi tức.

Thế nhưng, chuyện “phục vụ” ở cái thời kim tiền vô nghĩa hôm nay lại mang dáng dấp của việc trục lợi, còn việc phục vụ trong Tin Mừng đồng nghĩa với hy sinh, hiến mạng sống mình cho anh chị em đồng loại.

Mở lại Cựu Ước, chúng ta thấy có lẽ từ phục vụ xuất hiện lần đầu tiên trong Sách Dân Số với nghĩa “phụ trách các đồ thờ cực thánh” (Ds.4,1-4). Như vậy, phục vụ phải hướng về Thiên Chúa, chứ không vì lợi lộc chóng qua.

Đức Giêsu đến phục vụ con người với ý nghĩa trọn vẹn nhất của từ ngữ: hy sinh cho con người để đem họ về với Đấng ba lần thánh, Đấng cực thánh. Xét theo nghĩa này, Maria phục vụ tốt hơn Matta vì Maria hướng về Lời Chúa, hướng về sự thánh thiêng. Matta được gọi là “phục vụ”, nhưng dường như chị thiếu một chút tâm tình thánh. Có thể chị đón Giêsu như đón người khách lỡ đường? Hay đón Giêsu như đón một người bạn vô tình tạt ngang?

Xét theo nghĩa nào thì việc phục vụ của Maria vẫn trọn hảo. Đức Giêsu khen chị Maria vì chị hiểu rõ con người cần phải làm gì trước Đấng Tối Cao. Khi Đức Giêsu nói với Matta: “Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” không hẳn là Chúa trách chị. Chúa Giêsu thông cảm với sự vất vả của chị đấy. Có điều nó chưa đủ, và nó là cớ cho chị ganh tị với em mình.

Trong bài hát sinh hoạt của Thiếu nhi Thánh Thể, có câu: “Phục vụ là cho đi. Phục vụ là quên mình”. Nói phục vụ thì dễ vô cùng, nhưng phục vụ thật thì không đơn giản. Khi phục vụ mà không mất mát gì, khi phục vụ mà có thêm lợi tức, khi phục vụ mà lãnh bằng khen, khi phục vụ mà ganh tị, thì ấy đích thị là mua bán, là dịch vụ.

Đọc lại bài Tin Mừng Luca về hai chị em Matta và Maria, chúng ta đặt lại vấn đề từ ngữ trước tiên, bởi vì xã hội Việt nam đánh tráo ngữ nghĩa sành điệu quá, phục vụ hay dịch vụ cứ bị tráo qua tráo lại. Hiểu sai nghĩa thì hành động sai lạc rất nhiều. Nguy hiểm nhất là miệng nói phục vụ dân Chúa nhưng lại kéo dân Chúa về phía thế gian điêu ngoa.

Xin Chúa Giêsu, Đấng phục vụ vô vị lợi, cho chúng con phục vụ chỉ vì mục đích: cho Danh Chúa cả sáng, cho công lý toàn trị và cho con người thăng tiến mãi.

Gioan Lê Quang Vinh

------------------------------------

 

TN 16-C70. PHỤ NỮ LUÔN LÀ ĐỀ TÀI “ĂN KHÁCH” KHẮP NƠI


Tác giả: Cố Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, op.

OAN !

(Lc 10:38-42)

viết ngày: 22.07.2007

 

Phụ nữ luôn là đề tài “ăn khách” khắp nơi. Từ ngoài đời đến trong đạo, không bao giờ vắng bóng: TN 16-C70


Phụ nữ luôn là đề tài “ăn khách” khắp nơi. Từ ngoài đời đến trong đạo, không bao giờ vắng bóng phụ nữ. Văn học Việt nam có Thúy Kiều và Thúy Vân. Tương tự, Tin Mừng cũng trình bày Martha và Maria như hai mẫu điển hình cho những ai theo Chúa. Nhưng có lẽ hoàn cảnh đã khiến cho những phụ nữ đó khác nhau khá sâu xa.

Tương tự Thúy Kiều, Martha rất đảm đang và linh hoạt. Từa tựa Thúy Vân, Maria không hề lên tiếng và hầu như bất động. Mặc dù hai chị em rất thương yêu nhau, nhưng vẫn có những khác biệt. Những khác biệt đó nổi cộm lên trong tiếng kêu oan của Martha hôm nay. Chúa rất tài tình khi đứng ra bênh vực cho Maria, nhưng vẫn không làm phật lòng Martha

NỖI LÒNG BIẾT NGỎ CÙNG AI

Cơ hội bằng vàng đã đến với gia đình Bêtania. Cả hai chị em Martha và Maria đều yêu mến Chúa Giêsu. Cả hai đều tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà. Cả hai đều phục vụ Chúa hết tình. Nhưng cả hai đều không hiểu nhau. Martha nghĩ lối phục vụ của Maria thấp kém hơn mình. Trong ý chí phục vụ, nàng không nhận ra mình đã không thực sự quan tâm tới vị thượng khách. Cái khó không phải là nhận ra điểm xung khắc giữa việc Martha tất bật phục vụ và việc Maria thảnh thơi lắng nghe Lời Chúa ! Bên ngoài có vẻ như đối kháng và không thể hòa giải. Nhưng thực ra đó là khả năng cho đi và đón nhận.

Theo thứ hạng ưu tiên, Martha thấy việc “ăn không ngồi rồi” của Maria quả thực là một bất công so với việc việc tất bật phục vụ Chúa của nàng. Khi cảm thấy áp lực bất công đã dâng lên tới cổ, Martha không thể chịu đựng nổi nữa. Nàng tranh đấu. Nàng muốn nhờ Chúa giải quyết vấn đề. Chắc chắn Chúa sẽ đứng về phe mình và làm cho Maria thấy rõ sự bất công đó. Nàng nghĩ thế và lên tiếng xin Chúa xử kiện (Lc 10:40).

Nhưng thực tế không xảy ra như Martha tưởng. Chúa đã đứng về phía Maria. Lý lẽ Chúa đưa ra sâu xa và vững chắc đến nỗi Martha chỉ còn biết im lặng tiếp tục công việc phục vụ. Martha đành để cho Maria ngồi yên. Có lẽ Martha thấm thía vì nhớ lại Lời Chúa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4:4; Ðnl 8:3) Lời Chúa đem lại sự sống đời đời, nên phải cao trọng hơn bữa ăn chỉ cung cấp sự sống tạm thời. Maria đã thấy được tất cả giá trị cao cả đó. Cô dành trọn thời giờ cho Chúa. Cô say mê uống từng Lời Chúa.

Chúa Giêsu không trách Martha chỉ vì lo công việc bếp núc. Người chỉ đòi hỏi nàng phải biết sắp đặt lại thứ tự ưu tiên trong bậc thang giá trị. Việc phục vụ Chúa Kitô có thể chỉ làm mất thời giờ mà chẳng có chút gì hiến dâng cho Chúa. Ưu tiên số một phải là sống với Chúa, chứ không phải làm gì cho Chúa. Bởi thế, không những Maria không làm gì bất công, nhưng còn phải được xếp hạng ưu tiên nữa. Có lẽ Martha đã thấy rõ điều đó và vui vẻ tiếp tục phục vụ theo cung cách riêng của mình.

Chắc chắn Chúa Giêsu quả quyết Martha có lòng quảng đại khi đáp ứng nhu cầu ẩm thực của con người. Nàng đã thực hiện mối phúc lớn lao: “Cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20:35) Không phải vô tình thánh Luca đặt đoạn Tin Mừng hôm nay ngay sau dụ ngôn người Samari nhân hậu. Làm môn đệ Chúa Giêsu có nghĩa là quảng đại đáp ứng nhu cầu sinh sống căn bản nhất của những người cùng khổ. Ðó là điều chính Chúa Giêsu đã làm. Người Samari nhân hậu vẫn còn là một phần giáo lý cốt yếu.

Từ nhận xét về dụ ngôn người Samari nhân hậụ, đáng lý chúng ta phải ca ngợi Martha vì thực tế nàng đã phục vụ Chúa. Thực ra, hành động của nàng không được ca tụng cũng chẳng bị lên án. Nhưng nàng bị đặt trước thách đố phải lưu ý đến thứ hạng ưu tiên trong quan điểm của mình. Toàn thể Tin Mừng không chỉ giới hạn trong việc phục vụ tha nhân, bất kể việc đó quan trọng tới mức nào. Làm môn đệ Chúa Kitô trước hết và trên hết là gắn bó thân tình với Chúa Giêsu. Phải có thời gian lắng nghe “Lời” (c. 39: số ít trong tiếng Hy lạp). Hiến dâng cho Chúa là “điều cần thiết duy nhất.” Mối tương quan này nằm trong việc phục vụ đầy yêu thương. Thế nhưng, nếu không đi đôi với cầu nguyện, việc quan tâm đến nhu cầu tha nhân không phải là tình yêu đích thực.

Ðó là lý do tại sao Chúa muốn Martha thấy được sự thật về em mình: “Maria đã chọn phần tốt nhất.” (Lc 10:42) Phần tốt nhất đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể. Người là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Thấy Người là thấy Chúa Cha (Ga 12:45; 14:9). Ðó là một hồng ân vĩ đại. Rõ ràng, nàng phải nhường bước cho em.

Thực ra, cả hai chị em đều hiếu khách. Mỗi người một cách. Nếu cả hai đều bận bịu cơm nước, lấy ai tiếp chuyện với Chúa ? Cả hai thái độ bổ túc cho nhau để tạo nên một toàn thể, một sự khôn ngoan thâu tóm trong vài chữ của thánh Bênêđictô: cầu nguyện và lao động. Từ bao đời, rõ ràng đời sống Kitô hữu thống nhất nhờ sự hiện hữu và hành động, lời nói và thực hành.

Trong Kinh thánh, các giới răn và mối phúc minh xác đời sống tín hữu xây dựng trên thái độ và sự lựa chọn hiện tại. Chúa Giêsu dạy ta phân biệt điều thiết yếu không phải là lăn xả vào hành động và tự mãn với những hoạt động đó. Ðó chỉ là thứ phục vụ chính mình. Hạnh phúc là phục vụ anh em và lắng nghe Lời Thiên Chúa. Không có đối kháng và mâu thuẫn.

GẶP GỠ ÐỨC KITÔ

Nếu Martha cứ lo phục vụ, có lẽ không bao giờ có vấn đề. Tại sao nàng phải nhìn sang Maria và nhờ Chúa hòa giải làm gì ? Chính mối bận tâm này đã làm cho nàng đứng ngồi không yên. Dù Chúa đem cả một nguồn hồng ân vô cùng lớn lao đến nhà Bêtania, nhưng tâm hồn nàng vẫn hoàn toàn trống rỗng. Dù rất gần Chúa, nàng vẫn không gặp được Chúa ngay trong công việc hàng ngày của mình.[i] Khi không gặp gỡ Chúa, dĩ nhiên vấn đề sẽ nổi cộm trong tương quan và sinh hoạt với tha nhân.

Khi nào mọi khát vọng lắng xuống, chúng ta mới có thể dành hết thời giờ và tâm trí tập trung vào Chúa đang hiện diện trong sâu thẳm của lòng mình. Lúc đó, chúng ta mới có thể lắng nghe và thấy tất cả chiều kích sâu thẳm nhất của Lời Chúa. Ðạt tới mức độ này, chúng ta mới thực sự trân quý tất cả giá trị lớn lao trong việc sống với Chúa. Không có sự sống đích thực này, tất cả đều là những quay cuồng và bận tâm phi lý và vô ích. Chỉ cần sự hiện diện đầy ắp tình thương và ân sủng của Chúa, chúng ta sẽ thấy tất cả sự thật giải thoát và cảnh trời mới đất mới.

Tìm thấy Chúa là tìm được sự bình an trong tâm hồn. Khi đã chiêm ngắm Chúa, Maria không còn biết đến gì xảy ra chung quanh nữa. Những bận bịu và tiếng động thường ngày không tác động đến tâm hồn nàng, vì Lời Hằng Sống đã chiếm trọn con người nàng rồi. Nàng dùng trực giác nhạy bén để thấu cảm sâu xa sự thật tuyệt vời về Thiên Chúa tình yêu. Bước vào thế giới Thiên Chúa, nàng quên hết những thực tại trần gian, kể cả tương quan gia đình. Ðó là lý do tại sao nàng trở thành khó hiểu đối với Martha. Thánh Nữ Têrêsa Avila giải thích: “Khi bất ngờ cảm thấy Thiên Chúa hiện diện, tôi có thể chắc chắn Người đang ngự trong tôi hay tôi hoàn toàn chìm ngập trong Người.”[ii] Rõ ràng kinh nghiệm này đã minh họa lời Chúa khẳng định với Martha về điều cần thiết duy nhất. Ðiều cần thiết duy nhất đó là bản tính Thiên Chúa. Chính vì muốn chúng ta tham dự vào bản tính Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã mặc xác phàm trong lòng Trinh Nữ Maria để hiện diện giữa chúng ta. Người đã phải hy sinh trên Thánh giá và lưu lại trong Bí tích Thánh Thể để gặp gỡ chúng ta hằng ngày.

CƠ HỘI BẰNG VÀNG

Không một cuộc gặp gỡ đích thực nào với Chúa không đưa con người nhập cuộc với anh em. Qua gương Martha và Maria, Chúa Giêsu đòi chúng ta phải học cách sống với Chúa trước khi hành động.

Nhờ kinh nghiệm riêng Chúa Giêsu biết những nhu cầu cơ bản của con người. Do truyền thống hiếu khách, Martha đã quảng đại đáp ứng nhu cầu đó đúng lúc. Tuy nhiên, Chúa cũng biết con người còn có một nhu cầu sâu xa hơn mà thực phẩm, nhà cửa, sức khỏe không thể thỏa mãn được. Nhu cầu đó là khát mong gặp gỡ con người. Con người khát khao hiệp thông với tha nhân và xả thân cho anh em. Khát vọng sâu xa nhất của con người phần nào được thỏa mãn trong tình bằng hữu giữa con người với nhau. Cuối cùng, chỉ trong mối thân tình với Thiên Chúa, con người mới thỏa lòng ước mong đó. Thánh Augustine cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn chúng con khắc khoải bồn chồn cho tới khi nghỉ yên trong Chúa.”

Làm sao hiểu được tấm lòng quảng đại của Martha bổ túc cho tâm hồn Maria ao ước đích thân gặp gỡ Chúa ? Muốn trả lời vấn nạn này, chúng ta cần phải theo đường lối Chúa Giêsu. Ðể diễn tả tình yêu, Chúa nuôi sống người đói khát, cứu chữa bệnh nhân và xua đuổi mọi loài ma quỷ. Cũng thế, tình yêu chúng ta phải nhập thể trong bất cứ vấn đề gì để đáp ứng nhu cầu tha nhân. Bởi vậy, những việc tốt chúng ta làm, như nấu nướng hay tranh đấu cho nhân quyền, trở thành một bí tích hay một dấu chỉ tình yêu hiến thân cho tha nhân một cách hữu hiệu.

Ai cũng biết Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế. Nhưng hình như các môn đệ Chúa vẫn đang sống ngoài trần thế và chưa chịu nhập cuộc ! Nhìn vào các dinh thự, người ta thấy những bóng áo đỏ, tím, đen đang loay hoay với trò chơi chữ nghĩa và những chương trình bác ái xã hội lớn nhỏ. Chúa Giêsu không bao giờ nhập cuộc nửa vời như vậy. Trái lại, Chúa trực diện với những người nắm quyền thời đó. Nhiều lần Người thách đố và lên án những bất công của bọn Pharisêu, Hêrôđê và quân thu thuế, dù biết họ sẽ giết chết mình. Có lẽ các quan chức GHVN còn ngại thò chân xuống đường để dấn thân với mọi người tranh đấu cho công bình xã hội. Có làm cả ngàn công cuộc bác ái cũng không bằng một lần tranh đấu chống lại bất công !

Phải nhìn sang Giáo hội Ðại Hàn (GHÐH) và Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), GHCGVN mới thấy rõ mình đang ở vị trí nào !

Chỉ trong vòng 200 năm từ ngày thành lập, GHÐH đã ghi đậm những thành tích tranh đấu cho công bình xã hội bằng máu và nước mắt. Không phải chỉ tử vì đạo, nhưng còn vì con người nữa. Bởi đấy, họ đã vượt xa GHVN dù có cả lịch sử dài 500 năm.

Ngay trên mảnh đất quê hương, GHVN và GHPGVNTN đang sống giữa lòng dân tộc. Mặc dù bản chất là một đạo xuất thế, GHPGVNTN đã nhập thế hơn cả đạo nhập thể của GHVN. GHVN có lẽ chỉ sống với quá khứ hào hùng của cha ông tử đạo, chứ chưa dám dấn thân như cha ông. Ðó là lý do tại sao GHVN đã đánh mất một cơ hội rất lớn trong biến cố Dân Oan Khiếu Kiện từ 22/6 đến 18/7/2007. Tại sao không thấy một bóng áo đỏ, áo tím hay áo đen nào xuất hiện giữa đoàn biểu tình tại tòa nhà Quốc Hội 2 ở Sài gòn, ngoài những bóng áo nâu ? Khi áo đen, tím, đỏ đứng cạnh các bóng áo nâu, vàng trong các nghi lễ hay hội nghị của nhà nước, có bị mang tiếng “a dua” không ? Trong vụ án lm Nguyễn Văn Lý, các giám mục đã vịn cớ cá nhân cha ấy để biện hộ cho thái độ bất can thiệp của mình. Còn trong biến cố Dân Oan Khiếu Kiện đó, các ngài sẽ lấy gì bào chữa ? Không lên tiếng và không nhập cuộc có thể trở thành phản chứng rất lớn.

Không phải vì GHPGVNTN đã quen tranh đấu, nên có làm thêm một lần này cũng không sao. Không ! Mỗi lần hành động đều đòi những quyết định rất khó khăn trước khi dấn thân. Cho hay tiếng gọi lương tâm và công lý mới là tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt con người và tập thể !

Ngày 17/7/2007 vừa qua, Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã hướng dẫn phái đoàn Giáo Hội Phật Giáo VNTN (lần thứ 2) tổng cộng 6 người tới ủy lạo và trợ giúp dân oan 300 triệu đồng (18.700 đô-la) chia cho khoảng 1.500 dân oan thuộc 19 tỉnh và 9 quận Sài Gòn đang hiện diện. Hòa Thượng đã "chia sẻ nỗi thống khổ, tủi nhục của đồng bào." Muôn đời nhớ mãi hình ảnh Hòa Thượng oai hùng đứng trước thềm tòa nhà quốc hội 2 và giọng nói dõng dạc tuyên bố ngay trong lòng chế độ độc tài: "Ngoài cái trước mắt là vấn đề đòi lại công lý, là tài sản trả lại cho đồng bào. Nhưng sau đó phải đòi lại nhân quyền và dân chủ, tự do. Quan trọng nhất là tự do ngôn luận để người dân được tự do bày tỏ ý kiến của mình, quan điểm của mình đối với những tổ chức cai trị mình."[iii]

Can đảm chưa ! Tại sao Chúa lại dùng một đạo xuất thế để dạy một bài học nhập thế cho GHVN nhỉ ? Bao giờ GMVN làm được như thế ?! Giáo dân đang đỏ mắt trông chờ !!! GHVN đã bỏ lỡ một cơ hội rất lớn !

Lạy Chúa Giêsu, xưa kia Phêrô cũng vì yêu mà đã lên tiếng can ngăn Chúa "đừng lên Giêrusalem" - Ai cũng biết Phêrô đã bị Chúa mắng nặng lời! Hôm nay đây, rất có thể trong chúng con cũng có nhiều người đang làm y như Phêrô can ngăn các Mục tử. Xin Chúa cho GHVN dấn thân theo Chúa "cho đến khi Chúa đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Chúa." (Mt 12:20-21). Amen.

đỗ lực 22.07.2007

------------------------------------

 

TN 16-C71. CHĂM LO ĐỜI SỐNG TINH THẦN


Lc 10, 38 – 42

 

Trong một gia đình cha mẹ sẽ rất thiếu sót nếu không chăm lo dạy dỗ cho con cái mình về: TN 16-C71


Trong một gia đình cha mẹ sẽ rất thiếu sót nếu không chăm lo dạy dỗ cho con cái mình về những điều hay lẽ phải. Những lời chỉ bảo ân cần thấu tình đạt lý sẽ làm cho con cái mình được lớn lên một cách quân bình. Cũng vậy, con người sống muốn được phát triển đầy đủ thì họ cũng phải tự biết chăm lo trao dồi cho đời sống tinh thần cho mình. Những người khôn ngoan và dày dặn kinh nghiệm hay các phương tiện truyền thông sẽ cung cấp cho họ những điều cần thiết này.

Ðoạn Tin mừng hôm nay cho thấy Maria đã biết chăm lo đời sống tinh thần cho mình. Gia đình của cô được Chúa Giêsu ưu ái cách đặc biệt. Có lẽ, vì thế cô xem Chúa Giêsu như người nhà nên hễ có dịp là cô tranh thủ đến để học hỏi những điều tốt nơi Người. Bữa nọ Chúa Giêsu đến ghé thăm nhà cô có thể do không báo trước nên cô Matta đã phải lăng xăng chạy đôn chạy đáo lo đón tiếp Chúa. Ðang khi đó cô Maria lại đến ngồi bên chân của Người để nghe giảng dạy. Ðến nỗi Matta đã phải lên tiếng cầu cứu với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay! " (Lc 10, 40b). Tưởng đâu sẽ được Chúa Giêsu bênh vực nhưng Người lại nói: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc 10, 41 - 42)

Như thế, Chúa Giêsu khẳng định cho Matta cũng như cho chúng ta việc chăm lo cho đời sống tinh thần là điều cần thiết và quan trọng. Hơn nữa đây lại là những lời chỉ bảo vàng ngọc của Chúa Giêsu. Những lời chỉ bảo ấy sẽ giúp ích rất nhiều cho đời sống của chúng ta.

Là người Công giáo chúng ta thật may mắn và hạnh phúc vì chúng ta có một kho tàng mạc khải vô giá được chứa đựng trong Kinh Thánh và những Huấn quyền của Giáo hội. Những biến cố trong đời sống hằng ngày cũng là những lời dạy của Chúa dành cho chúng ta. Chỉ khi có được sự thinh lặng nội tâm và trong cái nhìn đức tin chúng ta mới biết quý trọng những lời chỉ dạy quý báu ấy.

Giữa một thế giới mà người ta chú trọng nhiều đến tiền bạc của cải và quyền lợi riêng tư thì Lời Chúa nhắc nhở chúng ta: "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi ” (Mt 6, 19 - 20)

Chúng ta cũng thấy thời gian gần đây Giáo hội thường xuyên nhắc nhở con cái mình lo củng cố đời sống gia đình. Vì những người có trách nhiệm trong Giáo hội nhận thấy đời sống gia đình đang có phần xuống dốc.

Biết chăm lo cho đời sống tinh thần là điều khôn ngoan. Chúng ta hãy noi gương cô Maria chọn phần tốt nhất là biết lắng nghe và làm theo lời dạy của Chúa cũng như của Giáo hội.

------------------------------------

 

TN 16-C72. SỐNG HÀI HÒA


Lc 10, 38-42

 

Bài Tin Mừng hôm nay thường được hiểu không đúng hướng. Rất nhiều người dùng bài Tin Mừng: TN 16-C72


Bài Tin Mừng hôm nay thường được hiểu không đúng hướng. Rất nhiều người dùng bài Tin Mừng này để đề cao đời sống cầu nguyện. Người ta thường dựa vào câu nói của Chúa Giêsu “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy mất” để khẳng định rằng đời sống cầu nguyện và chiêm niệm, đặc biệt là đời sống của các dòng tu chiêm niệm, là đời sống tốt đẹp nhất, so với đời sống hoạt động tông đồ bên ngoài, chuyện lo việc từ thiện bác ái và phục vụ anh em, mà Matta là biểu tượng. Thật sai lầm nếu như người ta gán cho Chúa ý định phân bậc ngôi thứ cho kẻ tu hành: tu chiêm niệm thì cao hơn tu hoạt động, dòng nhất thì hơn dòng nhi, hay dòng thì hơn tu hội đời… Tu trì mà vẫn còn ham địa vị cao thấp thì tu làm gì cho uổng công. Và như thế thì còn nghĩa lý gì những lời Chúa Giêsu đề cao sự khiêm tốn, và đòi hỏi của Người là “kẻ làm đầu phải hầu thiên hạ” “kẻ nào muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em mình”

Thực ra bài Tin Mừng này chỉ kể lại một câu chuyện hết sức thông thường và giản dị: Chúa đến thăm gia đình hai chị em Matta và Maria, người chị vốn có lòng hiếu khách, và ở đây còn cộng thêm lòng mến sâu xa với một bậc Thầy là bạn của gia đình, nên không lạ gì khi bà muốn tiếp thật chu đáo và có một bữa ăn ngon, vì thế Matta lăng xăng là một chuyện thường xảy ra với những người nội trợ. Trong khi đó Maria lại nghĩ không nên để Chúa ngồi lại một mình, và lại Chúa đến không phải để tìm một bữa ăn ngon, nhưng còn muốn chia sẻ cho hai chị em lời ban sự sống. Do đó một người thì muốn nói, còn một người thì thích nghe, quên hết tất cả mọi sự! Thế là Matta nổi cáu trách Chúa không để ý đến mình, để mặc mình vất vả, nổi ghen tức kể ra cũng chính đáng.

Nhưng Chúa đã trách nhẹ Matta: sao lo lắng chuyện ăn uống quá vậy, chuyện đo đâu đến nỗi quan trọng như thế. Lời trách này có nhiều kiểu giải thích khác nhau. Nhưng tôi thấy lời trách này thật là chính đáng, bởi trong chuyện tiếp khách vấn đề chúng ta khổng phải chỉ biết cho, và người khách chỉ biết nhận, mà chính chủ nhà cũng phải biết nhận và để cho khách niềm vui được chia sẻ. Cho và nhận đây không chỉ có nói tới những gì là vật chất như là quà tặng… mà trước hết là sự hiện diện cũng như những câu chuyện để trao đổi. Một người bạn thân khi đến với chúng ta, dù chủ yếu chỉ mời đến để dự tiệc, thì một người lịch sự không phải chỉ đến để ăn, mà còn đến trước để hàn huyên tâm sự với tình bạn của mình, còn chuyện ăn chỉ là phụ thuộc, nó là phương tiện để tao thêm tình thân mật. Vì thế ông bà già xưa vẫn hay nói câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.

Phong cách Matta là rất “Việt Nam”, Người Việt rất thực tế “có thực mới vực được đạo”. Do đó mà lúc nào cũng nói tới cái ăn: ăn tết, ăn mừng, ăn giỗ, ăn hỏi, ăn cưới,… Phải chăng vì lẽ đó mà ngày nay đâu đâu cũng mở ra những dịch vụ ăn uống. Tâm hồn ăn uống của người Việt còn ăn sâu vào cả những lĩnh vực giáo dục con người, như người ta thường nói “ăn học” Đúng là có ăn mới có sức để học. Đến ngay cả nhà đạo cũng bị tâm hồn ăn uống thẫm đượm một cách nặng nề: “ăn lễ mở tay của tân linh mục, ăn mừng tháp chuông, ăn mừng lễ đặt viên đá đầu tiên, ăn bổn mạng..Nếu chịu khó đi ăn thì hầu như không ngày nào mà không có tiệc để ăn. Như thế vô tình chúng ta đã trở thành Matta nhiệt tình đấy, nhưng lăng xăng lo lắng đủ chuyện mà quên đi cái “chuyện cầu thiết nhất”

Chúng ta xây nhà thờ cao to, đẹp cho Chúa ngự, nhưng rồi ít ai trong chúng ta biết âm thầm đến ngồi dưới chân Chúa để nghe người nói cho chúng ta Lời Chúa chính là những lời làm cho chúng ta được sống. Bởi vì “con người không chỉ sống nhờ cơm bánh”.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống hài hòa giữa bên ngoài và bên trong tâm hồn, nhưng điều quan trọng là con luôn nhận ra bậc thang giá trị cao trong và đâu là điều con chọn, đâu là điều mà ngày con càng được giống Chúa hơn. Amen

------------------------------------

 

TN 16-C73. CHÚA NHẬT 16 TN C


Lc 10, 38-42

 

Lời Chúa là những đề tài sống động và quan trọng cho chúng ta ngày hôm nay cũng như vào: TN 16-C73


Lời Chúa là những đề tài sống động và quan trọng cho chúng ta ngày hôm nay cũng như vào thời đại của Ngài. Những chủ đề như lòng hiếu khách, sự phân tâm vì những bận rộn lo lắng cho cuộc sống cơm áo hằng ngày, việc lắng nghe Lời Chúa và những nổ lực vun trồng cho đời sống thiêng liêng, tinh thần và trí thức.

Chúng ta được mời gọi để thực hành sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta qua sự liên hệ, lòng hiếu khách, sự đàm đạo và hiện diện với người khác. Lòng hiếu khách đã trở nên giây phút của ân sủng trong cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu cũng đánh giá rất cao về lòng hiếu khách khi Ngài ca ngợi Maria: “chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10, 42). Chúa Giêsu đã dùng sự so sánh ở cấp độ trọn lành: “tốt nhất”. Tuy nhiên, không phải vì thế mà đánh giá thấp công việc phục vụ của Matta. Nếu Maria không lo việc nấu nướng thì ai sẽ làm? Dựa trên lời Chúa trách yêu Matta: “Matta! Matta ơi! chị lo lắng và lăng nhiều chuyện quá!” (Lc 10, 41) mà phê bình Matta rằng chỉ đặt trọng tâm vào việc ăn uống là không đúng, Martha quan tâm tới sức khoẻ của Chúa. Chúa Giêsu trên cuộc hành trình đi vào làng, Ngài mệt mỏi, đói bụng, phải được ăn uống bồi dưỡng đẻ tiếp tục ra giản Tin mừng. Sự lo lắng sức khỏe cho người khác là một nét rất tinh tế của người phụ nữ. Vì yêu Chúa nhiều nên Matta mới lo lắng và bận rộn!

Chúa Giêsu còn dạy chúng ta rằng cần phải quân bình đời sống (1Cr 10, 31). Ngày nay, chúng ta quá bận rộn, bị chi phối bởi bao nhiêu công việc hằng ngày. Cuộc sống càng văn minh hiện đại, con người càng bị lệ thuộc vào những nhu cầu và đòi hỏi vật chất của mình. Vì thế, con người dễ quên đi đời sống cầu nguyện để quân bình cuộc sống. Trong xã hội ngày nay, người ta thường đánh giá con người bởi công việc họ làm mà quên đi phẩm giá họ là ai. Sự cứu rỗi không tuỳ thuộc nơi số lượng công việc đã làm, nhưng được tìm thấy trong những sự liên hệ và hiện diện giữa chúng ta với Chúa Kitô và với tha nhân (1Cr 13, 1-3).

Mẹ Têrêsa thành Calcuta, khi còn sống. Vô cùng bận rộn với biết bao nhiêu công việc. Mặc dù quá bận rộn vì tha nhân và bác ái, nhưng mỗi ngày Mẹ cầu nguyện một tiếng đồng hồ, thường thừơng vào ban sáng, trước khi Mẹ dự tính làm bất cứ việc gì cho Thiên Chúa (1Cr 10, 31-33). Nếu Mẹ Têrêsa đã không liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa như vậy chắc chắn với số lượng công việc quá bận rộn, Mẹ sẽ bị ngã quỵ. Nhờ đời sống cầu nguyện, Mẹ đã được nối kết với nguồn sức mạnh tối cao là Thiên Chúa.

Câu hỏi thường được đặt ra không phải là Thiên Chúa có nói với chúng ta hay không, nhưng là chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để lắng nghe Ngài hay không (1Sm 3, 1-10). Ước gì chúng ta rút ra được những bài học từ Matta, Maria và Chúa Giêsu để sống cuộc sống quân bình giữa hành động và học hỏi, giữa thực hành và kiến thức, giữa làm việc bác ái và đời sống cầu nguyện.

Để làm việc cụ thể, chúng ta hãy khởi đầu một ngày bằng cách dâng lên Chúa lời nguyện tắt: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, con dâng lên Chúa trọn ngày hôm nay” và trong ngày, chúng ta dành một ít phút để dâng cho Chúa lời nguyện tắt: “Lạy Chúa, con dâng Chúa mọi tư tưởng, lời nói và việc làm, để vinh danh Chúa, hợp cùng khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu, Chúa chúng con, đấng cứu độ chúng con. Hãy liên kết việc dâng ngày này với những việc ta quen làm trong ngày.

Lạy Chúa Giêsu, khi Rước lễ, Ngài là khách trong trái tim chúng ta như khi xưa là khách trong nhà của Matta, xin Ngài giúp chúng con biết quý trọng Lời Chúa và Mình Máu Chúa, biết vâng giữ Lời Chúa và sống yêu thương như Chúa muốn. Amen.

------------------------------------

 

TN 16-C74. MÁTTAVÀ MARIA


Lc 10, 38-42

 

Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy - Chỉ có một điều cần thiết - Chọn phần: TN 16-C74


- Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy
- Chỉ có một điều cần thiết
- Chọn phần tốt nhất.


Muốn hiểu đúng bài nầy theo ý của tác giả hãy rọi ánh sáng Phục Sinh vào câu chuyện và đừng quá chú trọng tới tính lịch sử của nó. Bài học mà tác giả muốn dạy mới là chính. Đức Giêsu và các môn đệ nhiều lần ghé qua nhà Bêtania nghỉ một đêm, được tiếp đón nồng nhiệt. Luca (chỉ Luca) muốn lồng vào một trong các lần ấy một bài học. Bài học nầy có lẻ là một thực tế rất được quan tâm sau khi công cuộc rao giảng đã lan tràn rộng rãi. Có rao giảng thì phải nhấn mạnh đến việc “lắng nghe” như cần thiết số 1. Lời Chúa phải được coi như là “đèn soi cho con bước, là ánh sang dẫn đường con đi”. Là cần thiết căn bản. Không có Lời Chúa dẫn đường thì phục vụ chỉ là múa rối như những người không tin thôi. Mặc dù phải coi phục vụ là kết quả cuối cùng, là thành quả thực tế. Nhưng phải là thành quả của LỜi. Một thực tế cho đến nay vẩn còn là một thực tế buồn là người ta sợ nghe Lời Chúa . Làm gì thì cũng làm, mệt nhọc mấy cũng không ngại. Nhưng nghe Lời Chúa thì buồn ngủ như bị cái gì ám. Học Lời Chúa thì ngán như ăn chè đậu, thịt mỡ vậy. Có ép thì cũng miễn cưỡng cho qua.

Trước hết về tính lịch sử của câu chuyện. Luca không cho chúng ta một chi tiết nào về điạ lý hay thời gian. Chỉ trổng trổng: trong khi thầy trò đi đường… vào một làng kia…có một phụ nữ tên là Matta đón Người vào nhà. Rõ là không muốn chúng ta dừng lại ở chi tiết của câu chuyện vì không quan trọng mà muốn chúng ta đi thẳng tới cái quan trọng nhất làm hạt nhân của câu chuyện. Đó là: Có người em gái tên là Maria (Một tên rất thông thường). Cô nầy cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Đây mới là chủ ý của tác giả khi viết bài nầy. Ngồi bên chân là làm môn đệ. Phải sau Phục Sinh lâu, có lẽ tới bốn năm mươi năm, khi công cuộc rao giảng đã lan rộng trong thế giới ngoài Do thái không còn vấn đề môn đệ nam hay nữ. Luca không dùng từ Đức Giêsu mà là từ Chúa. Đức Giêsu chỉ được tuyên xưng là Chúa sau Phục Sinh khi Giáo Hội đã tin chắc chắn Đức Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu thế. Rao giảng thì phải được lắng nghe. Nên nghe lời Chúa phải được nhấn mạnh như cần thiết số một là lẽ tất nhiên lúc ấy và ngây cả cho bây giờ vì Lời Chúa vẫn được tiếp tục rao giảng. Ưu tiên số một là nghe Lời Chúa. Có Lời Chuá là có tất cả.

Matta tất bật phuc vụ ăn uống, tối mặt tối mày mà “Chúa không quan tâm”. Mắt ta mếu máu thưa “bảo nó giúp con với”.

Thường người ta tiếp khách hay quan tâm tới ăn uống nghỉ ngơi mà quên tiếp chuyện khách nhất là lắng nghe khách. Bỏ khách một mình không thèm nói gì tới thì không phải là cách tiếp đón khách tốt. Còn với Đức Giêsu thì khác nữa. Thứ nhất Người dạy “con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng Lời Chúa”. Thứ đến Lời Chúa phải làm đèn soi cho con bước. Không nghe, không có Lời thì đèn đâu mà soi biết đâu mà bước. Phải phục vụ theo Lời Chúa nếu không thì chỉ là múa rối. Người ta thích dọn lễ cho linh đình mệt nhọc rả rời, chẳng cần dự lễ, chẳng nghe Lời Chúa, tâm hồn trống rổng và cứ thế mà chẳng được gì. Như vậy mà cho là vui là lễ lớn. Kiếm những chỗ như vậy mà xem lễ. Và người ta làm như vậy cho có đông người xem lễ. Thành công. Đại thành công. Cứ thế.

Matta , con lộn xộn quá! Đức Giêsu nghèo khó ăn uống sơ sài cũng đủ. Người đi đường luôn. Đâu có nhà bếp và đầu bếp giỏi. Người ghé qua vỏn vẹn một lúc để qua đêm thôi. Tranh thủ cho cái quan trọng nhất đi. Ngày mai Người lại lên đường không còn có cơ hội mà nghe Lời nữa đâu. Không tranh thủ nghe Lời thì sẽ mất điều tốt nhất. Mọi cái đều có thể mất mà Lời nghe được thì không ai lấy được nếu không tự mình ném bỏ đi.

Chỉ có một điều cần thiết: Nghe Lời Chúa . Đã tin Đức Giêsu là Chúa thi Lời Người là sự sống, là ơn cứu độ. Có cái gì cần hơn nữa? Có Lới Chúa là có tất cả. Ngược lai không có Lời Chúa thì có đuợc gì? Thiên Chúa phán một lời thì mọi sự liền có. Không có Lời thì không có gì được dựng nên.(Ga)

Maria đã chọn phần tốt nhất: Đã chọn Lời vì có Lời là có tất cả. Maria có Lời Chúa nên đã là nguời đầu tiên được đón nhận tin mừng Chúa sống lại và lảnh sứ mệnh trọng đại “đựoc sai đi loan báo tin mừng Phục Sinh”. Không phải tông đồ hay môn đệ mà là Maria. Nghe Lời Chúa để đem đi loan báo. Đó là điều cần thiết duy nhất của Giáo Hội và của mỗi người thành viên của Giáo hội. Nhất là các mục tử phải ý thức để trứoc hết tự mình biết bắt chước Maria đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa như ưu tiên số 1 để rồi quan tâm số 1 là lo cho các thành phần khác trong họ đạo cũng làm như vậy. Đó là chọn phần tốt nhất vì đó là điều cần thiết duy nhất. Mọi cái khác sẽ theo đó mà có đủ tất cả.Không có điều cần thiết duy nhất nầy thì có gì thì cũng không kể đựoc là có vì không đúng ý Chúa thì không đựoc Chúa kể. Tiếc thay điều nầy chưa đựoc ý thức nhiều.

Lạy Chúa Giêsu, Lơì Chúa là đưòng, là sự thật và là sự sống. Là ánh sáng dẩn đưòng con đi. Không có Lời Chúa làm sao con biết đưòng đi. Xin giúp chúng con xác tín “điều cần thiết duy nhất là nghe Lời Chúa”. Học Lời Chúa là ưu tiên số một. Có Lời Chúa là có tất cả mọi điều tốt đẹp, có Chúa, có Nứoc Trời, có sự sống đời đời và có hạnh phúc vĩnh cửu. Xin giúp chúng con vui thích, hăng say học LỜI CHÚA.

------------------------------------

 

TN 16-C75. BIẾT TIẾP ĐÓN CHÚA


Lc 10, 38-42

 

Người Trung Đông thời xưa rất hiếu khách. Được khách đến thăm nhà, họ cảm thấy là điều phúc: TN 16-C75


Người Trung Đông thời xưa rất hiếu khách. Được khách đến thăm nhà, họ cảm thấy là điều phúc lộc cho họ. Ông Abraham cũng có tâm tình hiếu khách đặc biệt. Đang ngồi ở cửa lều, Abraham thấy có 3 người khách đến gần liền chạy ra đón. Ông coi khách như là Chúa, sấp mình lạy và năn nỉ họ ở lại uống nước, ăn bữa trưa rồi hãy đi.

Lòng bác ái hiếu khách của ông biểu hiện cụ thể rõ ràng: nhờ bà Sara mau mau trộn bột làm bánh, còn ông đích thân chọn một con bê non hảo hạng trao cho đầy tớ đem đi nấu. Sau đó, ông còn đứng hầu cho khách ăn ngon miệng nữa.

Nhân dịp tỏ lòng hiếu khách đó, ông được ba vị khách thay mặt Chúa ban cho cho ông một đứa con trai trong lúc tuổi già và vợ chồng ông được mạnh khoẻ. Chính bà Sara vợ ông còn cảm thấy khó có thể tin những gì mình vừa nghe nên cười thầm. Nhưng đối với Chúa, điều gì mà Ngài không làm được. Những kẻ có lòng tin và bác ái thì Ngài không bao giờ bỏ quên. Chính Chúa Giêsu sau này khi nói đến ngày phán xét cũng cho thấy tiêu chuẩn phán xét là lòng thương người: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới ăm mặc, viếng kẻ liệt lào... sẽ được Chúa ban thưởng rất hậu.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta lại thấy lòng hiếu khách của gia đình Matta. Gia đình bà không chỉ đón tiếp vài người như Abraham mà đón chính Chúa Giêsu và các môn đệ theo Ngài. Chính Matta tự tay lo chuẩn bị bữa ăn cho Chúa Giêsu và các tông đồ. Thế nhưng ở đây có một điều lạ cho 2 chị em Matta là tại sao Matta lo việc ăn uống còn Maria thì không theo chị phụ nấu nướng? Maria chỉ lo tiếp chuyện với Chúa và lắng nghe Chuá dạy. Điều này làm Matta thắc mắc và cho là em mình có lỗi trong chuyện này: để Matta lo một mình mà Maria không tiếp tay!

Thế nhưng, trong trường hợp này thì lại khác. Maria đã chọn theo ý Chúa. Thời gian Chúa Giêsu ở trần gian không có bao lâu. Tiếp chuyện với Chúa lắng nghe Chúa nói không phải là điều quý nhất sao? Tuy việc tiếp khách, lo cho một bữa ăn ngon là điều nên làm nhưng đối với Chúa, Ngài không màng chuyện ăn uống cho bằng phần rỗi linh hồn chúng ta. Chúng ta nên lo cho Chúa, cho công việc của Chúa nhưng phải nhớ điều quan trọng trên hết là cầu nguyện kết hợp với Chúa, lắng nghe Lời Chúa. Đó mới là điều đẹp lòng Chúa hơn cả.

Tuy nhiên, chúng ta thấy trong câu chuyện này, Chúa Giêsu không có ý chê Matta nhưng Chúa chỉ nói: việc Maria làm không phải vô ích, nhưng là có giá trị hơn cả việc phục vụ đáng giá của Matta. Như vậy, ta có thể rút ra bài học. Mỗi người một việc, việc nào cũng có giá trị của nó. Nếu như không có người nhiệt tình lo bữa ăn như Matta thì làm sao Thầy trò Giêsu có sức lên đường rao giảng tiếp. Nhưng nếu không có những người như Maria thì ai sẽ tiếp chuyện với Chúa, ai sẽ nghe lời rao giảng của Chúa Giêsu trong Phúc Âm để biết ý Chúa mà sống cho đẹp lòng Ngài.

Ngày nay, số người lắng nghe lời Chúa như Maria càng ngày càng ít. Người ta lo làm ăn, học hành, nghiên cứu nhưng lại thiếu cầu nguyện, ít tìm ý Chúa. Chúng ta biết lo làm ăn, biết làm việc là tốt, nhưng trước khi bắt tay vào việc hãy dừng lại vài giây suy nghĩ xem việc làm này có đẹp lòng Chúa không, có đúng ý Chúa không? Có nhiều khi chúng ta làm việc để được tiến khen hoặc vì lợi riêng hơn là vì lòng mến Chúa. Nhiều người kitô hữu không chú tâm lắng nghe Lời Chúa thật sự, khi nghe giảng chỉ nghe cho vui tai rồi bỏ mà không đem ra thực hành, dù một chút cũng không. Đó là những hạt rơi trên đá sỏi, không muốn ghi nhớ và thực hành điều Chúa dạy nên đời sống đạo không tiến bộ được, vẫn cứ ở mức tối thiểu chỉ để khỏi bị phạt thôi.

Chúng ta không thể rút gọn việc sống đạo trong việc nghe Lời Chúa hoặc chỉ phục vụ mà không lắng nghe ý Chúa. Chúng ta cần kết hợp 2 công việc của chị em Mata – Maria nghĩa là chúng ta lo học hỏi lắng nghe Lời Chúa để biết ý Chúa và sau đó đem thực hành. điều này sẽ sáng danh Chúa và hữu ích cho tha nhân hơn.

Lạy Chúa, xin cho con lửa nhiệt tình yêu mến Chúa, biết lắng nghe Lời Chúa và phục vụ cho Nước Chúa, cho Ý Chúa được thực hiện nơi mọi người trên thế giới

------------------------------------

 

TN 16-C76. KHÔNG ĐƯỢC LOẠI TRỪ


Mt. 13, 24-43.

Anh chị em thân mến.

 

Hiện tại, thế giới đang rối loạn lên vì tình trạng khủng bố đang lan rộng khắp nơi. Vừa qua ở tại: TN 16-C76


Hiện tại, thế giới đang rối loạn lên vì tình trạng khủng bố đang lan rộng khắp nơi. Vừa qua ở tại Anh Quốc bốn quả bom đã phát nỗ nơi giao thông công cộng, khiến cho 52 người chết và rất nhiều người bị thương còn đang trong tình trạng nguy kịch. Những nạn nhân là ai? Họ chỉ là những người dân bình thường, vậy mà họ phải nhận lấy hậu quả của những người bất đồng với nhau vì một lý do nào đó. Chính vì thế mà mọi người trên thế ở trong tình trạng báo động và được kêu mời chống khủng bố.

Tại sao lại có tình trạng khủng bố và có người chống khủng bố? Bởi vì họ không chấp nhận việc làm của người khác, họ bất mãn với cách làm của người khác vì người đó không thuộc về phe của họ. Nếu cả hai chịu ngồi lại để tìm tiếng nói chung, tìm con đường tốt nhất để thực hiện, thì sẽ không có tình trạng khủng bố càng không có tình trạng báo động chống khủng bố. Nếu cả hai biết kiên nhẫn chờ đợi một kết quả tốt, và nếu cả hai bên biết kiên nhẫn cách quảng đại để chấp nhận nhau trong tinh thần xây dựng chứ không loại trừ thì mọi việc sẽ khác đi nhiều. Nhưng có tình trạng hỗn loạn và bất ổn như thế nầy, vì con người luôn tìm cách khẳng định mình để rồi loại trừ người khác, không chấp nhận người khác cùng đồng hành với mình.

Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, ông chủ ngăn cản những người muốn vội vàng có hành động loại trừ. Những người đó cũng có ý hướng hoàn toàn ngay chính, họ nhìn thấy những điều không thích hợp và muốn loại trừ ngay, để cho điều mà họ cho là tốt được hoàn toàn tốt đẹp theo như ý họ muốn. Nhưng họ giật mình khi nghe chủ không cho họ hành động. Không phải chủ muốn bao che cho sự xấu, càng không phải ủng hộ cho điều không tốt, nhưng người chủ muốn cho tốt xấu được phân biệt rõ ràng khi đến thời đến lúc của nó. Nếu sớm hơn thời kỳ hạn định thì sẽ có sự lầm lẫn. Người chủ chỉ sợ khi ý tốt của những người muốn tiêu diệt cái xấu là cỏ lùng, lại vô tình làm nguy hại đến cái mà gọi là lúa tốt, khi đó cỏ lùng không bị tiêu diệt hết mà vô tình lúa tốt lại bị tiêu diệt và không có cơ hội phát triển.

Thiên Chúa muốn cho điều tốt được phát triển mạnh mẽ lên, có sức mạnh bao phủ và lôi cuốn để cho mọi sự mỗi ngày trở nên tốt hơn, mạnh mẽ hơn.

Nhưng con người, chỉ là những người thợ nóng vội, chỉ hành động theo bản năng mà không cần biết đến hậu quả như thế nào. Con người chỉ biết hành động theo như những gì mình muốn, mình thấy và không cần phải suy tư tìm hiểu cho lợi ích chung.

Mỗi người trong chúng ta nhìn vào chính mình, xem giờ này đây chúng ta đang nghĩ gì và muốn gì? Chúng ta đang nhìn thấy một xã hội bất công, chúng ta cũng đang nhìn thấy những ý tưởng tốt đẹp của mình và chúng ta đang mong muốn thực hiện những ý tưởng đó. Chúng ta muốn loại trừ bất công, để những gì chúng ta cho là tốt đẹp càng tốt đẹp hơn. Chính những ý nghĩ như thế, chính những lúc chúng ta hành động mà chúng ta cho là tốt như thế, thì cũng chính những lúc đó chúng ta là những người khủng bố, chúng ta đang gieo kinh hoàng khắp nơi, chung quanh cuộc sống của mình.

Những lúc chúng ta khó chịu, bất mãn với cuộc sống, nên chỉ trích phê bình, hay hành động nông nổi khi chúng ta không chấp nhận ý kiến người khác, mà chỉ biết có chính mình. Khi đó chúng ta có nhìn thấy hậu quả của sự việc như thế nào không? Nếu những lúc đó chúng ta kiên nhẫn, lắng nghe với một tâm hồn quảng đại, với một con tim biết yêu thương, tha thứ và thông cảm, chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận được một kết quả mà chúng ta không ngờ được. Lúc đó chúng ta đang thực hiện lời Chúa: hãy chờ đợi. . . , coi chừng…

Xin Cha cho mọi người chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, để trong đời sống hằng ngày chúng biết tìm hiểu thánh ý Cha mà thực hiện.

------------------------------------

 

TN 16-C77. CÁNH ĐỒNG TRUYỀN GIÁO


Mt 13,24-43

 

Mầu nhiệm Giáo Hội phong phú và phức tạp đến nỗi không thể tóm gọn vào trong một công thức: TN 16-C77


Mầu nhiệm Giáo Hội phong phú và phức tạp đến nỗi không thể tóm gọn vào trong một công thức. Hơn nữa, vì một mầu nhiệm trong khi ngôn ngữ loài người lại phát nguyên từ kinh nghiệm giác quan, nên không thể nào có khả năng để diễn tả cho thoả đáng được. Vì thế, Kinh Thánh và truyền thống phải nhờ đến những biểu tượng để diễn tả một nội dung vượt hẳn lên trên khả năng diễn đạt của lời nói. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng đến phương pháp này trong các dụ ngôn của Ngài. Quả thật, Thánh Tôma Aquirô nhận định là: Chính qua trung gian của cảm giới mà chúng ta có thể vượt tới thần giới. Trong Kinh Thánh, các nhà chú giải đếm được hơn 80 hình ảnh chỉ về Giáo Hội. Hôm nay, Đức Giêsu liên tiếp dùng ba dụ ngôn cỏ lùng , dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột để diễn tả những khía cạnh khác nhau của Nước Trời, của Giáo Hội chúng ta.

Vốn suất thân từ Vùng thôn dã, Đức Giêsu đã dùng nhiều ví dụ đượm sắc thái nông thôn . “V nước trời cng tựa như người kia gieo ging tt vo rung mình’’ (Mt 13,24). Điều này chỉ nhằm diển tả Giáo Hội là một thực tại trãi rộng trong không gian và thời gian, trong đó có những mảnh lực thù nghịch chống đối nhau nguyên do l “k th ca ng đến gieo c lung vo ngay giữa la’’. Và thực tế cho thấy bao giờ Giáo Hội cũng có cỏ lùng chen lẫn và thật khó nhận diện đâu là cỏ lùng, đâu là lúa, ai là kẻ dữ, ai là người lành. Thiên Chúa vẫn có thể dùng những biện pháp cứng rắn, khắt khe, cường bạo như nhổ cỏ lùng từ ngay lúc này, ngay lúc còn nhỏ. Nhưng Ngài không làm thế, vì có thể khi nhổ cỏ “Cc anh li nh lun c la chng”. Bất cứ ai đã làm ruộng thì thấy điều này rất rõ, cây cỏ trong lúa mà chúng ta thường gọi là bông cỏ, lúc bé chẳng khác gì là lúa. Cho dù những người tinh mắt , những nông dân “ thâm niên’’ thì họ mới biết đâu là cỏ đâu là lúa. Nhưng cho dù hay đến đâu thỉnh thoảng nhổ cỏ vẫn bị nhầm lẫn giữa cỏ và lúa. Cho nên, hay nhất là đợi đến ngày cả hai cây lớn lên thì sẽ lộ ra nguyên hình đâu là cỏ, đâu là lúa . Ở đây, Đức Giêsu không muốn chỉ phương pháp nào diệt cỏ có lợi nhất, hay phương pháp diệt nào loại trừ người tội lỗi nhanh nhất, hữu hiệu nhất, cho bằng nói lên tình yêu của Thiên Chúa với tội nhân qua việc người chờ đợi “Người cho mt trời ca người mc ln soi sng k xu như người tt, v cho mưa xung trn người cng chính cng như k bt chính’’ (Mt 5, 45), mong cho họ được hoán cải được cứu thoát .

Lịch sử Giáo Hội cho thấy có rất nhiều bè phái cỏ lùng chống phá Giáo Hội cách có tổ chức và hệ thống. Tiêu biểu là các lạc giáo đã cố chấp lập ra nhiều loại Giáo Hội khác. Cùng vì điều này mà Thánh PhaoLô đã mạnh dạn lên án những bè phái gây chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô “họ chẳng hơn lương dân” (x 1 cr3). Những thế lực ấy luôn tìm ẩn chống phá thật nguy hiểm. Nó có thể phá hoại ngay trong nội bộ, phá hoại từ những đầu não cốt yều nhất. Chúng là con cái của bóng tối, thích làm việc và hoạt động trong bóng tối “Thích lm trong lc mi người ng”, nó làm cách vụn trộm xấu xa. Nhưng cho dù kín đáo đến đâu thì Thiên Chúa vẫn biết mọi hành vi của hắn .Chỉ vì Ngài muốn chờ đợi, chờ đợi sự ăn năn, chờ đợi sự sám hối và thức tỉnh . Những cỏ lùng mà chúng ta biết, chúng ta thấy chỉ là những cây cỏ bình thường, sức chống phá vẫn chưa nguy hại cho bằng những cọng cỏ mọc âm thầm đang lớn lên từng ngày nơi tâm hồn mỗi người. Những tính hư nết xấu, những giận hờn chia rẽ, và muôn vạn âm mưu xảo huyệt trong tâm trí… đó là những cỏ lùng nguy hiểm mà chúng ta cần loại ngay. Chỉ khi chúng ta diệt được cây cỏ ngay bên trong mình thì mới giúp người khác được. Khi nhổ được một cây cỏ nơi mình chính là lúc mình đang chăm sóc vào cánh đồng của Chúa.

Ly Cha! Cha ght ti nhưng yu ti nhn, th hin qua vic Ngi lun kin nhn chờ đợi để tha thứ cho h. Xin cho con cng c ci nhìn ca Cha m sng bao dung với ht mi người. Amen.

------------------------------------

 

TN 16-C78. HÃY CHỜ ĐÃ


Mt 13, 24-30

 

Tội lỗi và sự dữ là một thực tại thiêng liêng. Chúng đang ngự trị và tồn tại khắp mọi nơi, len: TN 16-C78


Tội lỗi và sự dữ là một thực tại thiêng liêng. Chúng đang ngự trị và tồn tại khắp mọi nơi, len lõi vào mọi tâm hồn. Vấn đề đặt ra là làm cách nào để tận diệt chúng và bao giờ Thiên Chúa mới chấm dứt những điều ấy? Tin mừng hôm nay sẽ cho chúng ta lời giải đáp đó.

Có nhiều người cảm thấy bất mãn, thất vọng và đặt vấn đề là tại sao Giáo hội Chúa vẫn có những con người xấu? Đâu rồi một Giáo hội thánh thiện của Thiên Chúa? Bản chất Giáo hội là thánh, nhưng Giáo hội đang cưu mang trong lòng những con người tốt lẫn những con người chưa tốt và tội lỗi. Giáo hội chính là thửa ruộng có cả lúa và cỏ lùng đang mọc lên. Chúa là người chủ ruộng không muốn sai người tiêu diệt cỏ lùng ra khỏi lúa, vì ông sợ khi làm như thế sẽ có sự lầm lẫn! Nhưng thật ra là Thiên Chúa kiên nhẫn và chờ đợi những người tội lỗi hồi tâm trở về với Ngài. Cỏ lùn không bao giờ trở thành lúa được nhưng người xấu có thể trở nên tốt, người tội lỗi có thể trở nên thánh thiện. Đó chính là lý do tại sao Chúa lại kiên nhẫn chờ đợi con người! Sự kiên nhẫn, lòng khoan dung và nhân từ không phải là cử chỉ của sự yếu đuối, nhưng là biểu lộ một sức mạnh, sức mạnh của tình yêu.

Con người dù cho có tội lỗi hay hung ác đến đâu đi nữa thì nơi tận đáy lòng của họ vẫn có những điều tốt đẹp và thánh thiện khi nó được khơi lên. Văn hào người Nga Dostoieveski, với tác phẩm nổi tiếng như “Tội ác và hình phạt”, “anh em nhà Karamazov” . . . là người đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió. Sau một thời gian dài bị giam cầm vì lý do chính trị, ông bị kết án tử hình. Nhưng như một phép lạ, vào giữa lúc bị hành quyết, ông bỗng nhận được lệnh được tha. Người viết tiểu sử của ông đã kể lại như sau: “thời gian ngồi tù đã in đậm nét trên quảng đời còn lại của ông. Từ trên chiếc máy chém nhìn xuống đám người đang đứng dưới chân mình, ông chỉ còn thấy họ là những người bị áp bức, những người nô lệ đáng thương, dù họ có phạm tội những tội ác tày trời đi nữa, thì tâm hồn của họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội. Do đó, họ đáng được tha thứ hơn là đáng kết tội.

Khi bước xuống khỏi máy chém, Dostoievski thấy mọi sự như vô nghĩa. Điều duy nhất còn ý nghĩa đối với ông chính là tình yêu, và cho dù trong suốt 30 năm sau, cộng đoàn của ông có đắm chìm trong bùn nhơ của tội lỗi, của khốn khổ, của ô nhục, ông luôn nhìn mọi sự qua lăng kính của yêu thương. Một lần bị đưa lên máy chém cho ông hiểu rằng: con người đau khổ, tất cả mọi người đều đáng cảm thông và thương mến.

Tất cả cuộc đời của ông là một cố gắng không ngừng để diễn đạt câu nói: “Hỡi người anh em, không gì có thể ngăn cản tôi yêu thương bạn”

Nếu có những lúc chúng ta cảm thấy thất vọng về con người đốn mạt của chúng ta, nếu có những lúc chúng ta không còn tin tưởng ở tình người nữa, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm thấy ngay ánh mắt nhân từ và cảm thông của Ngài. Hãy nhớ lại Ngài đã làm gì đối với Giakêu, với Malađana, với Phêrô khi chối bỏ Ngài, với tên trộm bị đóng đinh bên phải Ngài.

Tình yêu của Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi, mạnh hơn sự ác. Thiên Chúa ghét bỏ tội lỗi nhưng Ngài yêu thương tội nhân. Chính vì thế mà Ngài muốn cho Con của Ngài xuống thế làm người, một con người nghèo khó để có thể liên kết với hết mọi người, với những ai được gọi là người. Cái chết của Đức Giêsu trên Thánh giá là ngôn ngữ không lời của tình yêu, diễn tả tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho con người.

“Đừng nh c ln ra khi rung, cứ chờ cho đến ma gt”. Thái độ của Thiên Chúa luôn là kiên nhẫn. Ngài kiên nhẫn vì yêu thương con người. Ngài nhận thấy thấu tận con tim và tấm lòng của con người. Nên dù khi con người hành động chống lại Ngài đi nữa, Ngài vẫn yêu thương họ, vì họ “lầm không biết”.

Thiên Chúa thì luôn kiên nhẫn “chờ đợi”, còn con người thì nóng vội, muốn hành động mọi sự nhằm thoả mãn tính kiêu căng và ích kỷ của mình. Rất nhiều lần chúng ta có thái độ giống như hai anh em Giacôbê và Gioan ngày xưa khi Chúa Giêsu và các ông đi ngang qua làng Samaria mà người ta không đón tiếp Chúa: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt họ không?”. Chắc chắn là khi ta hành động nóng nảy với anh em mình, muốn trả thù anh em mình, muốn loại trừ anh em mình ra khỏi cộng đoàn . . . là chúng ta hành động trái ngược với ý muốn của Thiên Chúa. Con người vốn phức tạp lắm. Chúng ta không thể hiểu được lòng của ai khác ngoài chính bản thân của ta đâu. Do đó, thái độ khôn ngoan là đừng xét đoán ai và cũng đừng kết án ai. Trái lại, ta hãy có cái nhìn như Đức Giêsu khi đối diện với những sai lỗi của anh em mình “họ lầm không biết” đó thôi; hay ta hãy có tâm tình như văn hào Dostoievesk: “dù họ có phạm những tội ác tày trời đi nữa, tâm hồn của họ vẫn là tâm hồn của những con người vô tội. Do đó, họ đáng được tha thứ.”

Muốn tha thứ được cho người khác, chúng ta hãy tập yêu thương mọi người, nhất là những người đang sống bên cạnh chúng ta, tập nghĩ tốt về họ, nói tốt về họ, tập quên đi những sai lỗi của họ. Nước Trời chỉ dành cho những người biết chiếm lấy bằng sức mạnh. Sức mạnh đó chính là sự kiên nhẫn, tha thứ, yêu thương, chờ đợi . . . Những thứ mà loài người vẫn cho là yếu kém và nhu nhược. Chúng ta hãy tập “lấy hoa thơm lấn dần cỏ dại” trong cuộc sống vốn phức tạp và ô hợp này.

Xin Cha ban cho chng ta sức mnh ca Cha Thnh Thn để chng ta bit hnh động, suy nghĩ v pht ngn những điu mang li nim vui, hnh phc v an vui cho mi người, hu gp phn lm cho Nước Cha được th hin từng ngy trong cuc sng ca chng ta. Amen.

------------------------------------

 

TN 16-C79. LÚA HAY CỎ LÙNG?


Mt 13, 24-30

 

Chủ ruộng không bao giờ mong cỏ lên trong ruộng lúa nhưng thửa ruộng nào cũng có cỏ. Đó là: TN 16-C79


Chủ ruộng không bao giờ mong cỏ lên trong ruộng lúa nhưng thửa ruộng nào cũng có cỏ. Đó là điều khó tránh khỏi. Trong thửa ruộng Chúa đã gieo hạt và sai các Thiên thần coi sóc cũng có lúa và cỏ cùng mọc lên. Tuy Chúa không muốn có cỏ mọc chen vào nhưng Ngài cũng không muốn nhổ nhầm lúa của Ngài: cứ để chúng cùng mọc lên cho đến ngày thu hoạch.

Điều khác biệt trong ruộng lúa này là: lúa xấu có thể dần dần trở thành cỏ và cỏ tốt có thể trở thành lúa. Điều lạ thứ hai là chủ ruộng vẫn đối xử với cỏ và lúa như nhau. Những đợt phân, nước, thuốc được trao cho lúa và cỏ như nhau. Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc, ban ơn và tỏ mình ra bằng những cách khác nhau cho thửa ruộng qua các đầy tớ, qua những ơn lành... Còn việc biến đổi bên trong tùy vào mỗi người.

Trong cuộc đời tôi có khi nào tôi trở thành cỏ lùng không ? Khi tôi phạm tội trọng và từ chối trở lại với Chúa, khi tôi giận hờn, ghen ghét một ai đó và từ chối Thiên Chúa, khi tôi để cho những dục vọng hay bản năng điều khiển cuộc đời mình... Liệu Thiên Chúa có phạt tôi ngay không ? Thiên Chúa vẫn chờ đợi cho tới một ngày, tôi không biết là ngày nào, một ngày nào đó tôi một mình đối diện với thiên Chúa. Đó là ngày phán xét. Liệu tôi có đứng vững trước mặt Ngài và được Ngài cho vào Thiên đàng không ? Nghĩ tới điều này, tôi thấy mình cần quan tâm chăm sóc cho phần linh hồn của mình hơn, biết tôi luyện chính mình, biết tập những đức tính tốt, từ bỏ những thói xấu, năng cầu nguyện với Chúa, dùng những phương thế Chúa ban để trở nên xứng đáng là người con Chúa cũng như giúp cho những người xung quanh, nhất là những người tôi có trách nhiệm quan tâm đến.

Nước Thiên Chúa đến cách âm thầm khiêm tốn. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ người chọn. Nước Trời được thiết lập cách bí ẩn, nhiệm mầu. Tôi nghĩ mình đã thuộc về Nước Thiên Chúa nhưng biết đâu một lúc nào đó tôi thiếu tỉnh thức hay cậy sức mình, mềm lòng để ma quỷ lừa gạt được tôi và biến tôi thành cỏ lùng. Tuy nhiên, tôi tin là: nếu tôi biết khiêm tốn sám hối thì Chúa sẽ lại đón nhận tôi về làm con Chúa như người Cha Nhân Hậu tiếp nhận đứa con hoang trở về. Bổn phận của tôi là sống trung thành với luật yêu thương của Nước trời và nếu có lỗi phạm thì biết sớm quay về chính lộ. Tôi sẽ không nói suông, nhưng thực hành việc kính Chúa hết lòng, bác ái vớI tha nhân và vác thánh giá hàng ngày bước theo chân Chúa. Chúng ta thấy rằng, từ những gian khó hàng ngày nơi những người theo Chúa, từ cái có vẻ như không là gì trước mặt thế gian, Chúa có thể dùng làm chuyện to tát. Ngài đã thiết lập một vương quyền hùng mạnh của Ngài từ 12 tông đồ và một ít môn đệ, đa số là những người ít học, không có danh vọng gì trong xã hội, đã được Chúa huấn luyện và biến đổi nên những người dũng cảm, làm chứng cho chân lý đến tận cùng trái đất. Đây là điều kỳ diệu trước mắt chúng ta.

Hạt giống tốt gieo ở mọi nơi thì kết quả hạt lúa tốt dồi dào. Tuy nhiên, cỏ lùng có thể chen vào giữa ruộng lúa hoặc ảnh hưởng đến chúng ta bằng những cám dỗ: vật chất giàu sang, danh dự, tiện nghi... Nếu chúng ta biết canh tân chính mình mỗI ngày, chúng ta sẽ không bị biến chất. Ai quyết tâm trung thành giữ vững Đức Tin và sống cho Chúa, cố gắng không ngừng vì yêu mến Chúa thì Người sẽ không bỏ rơi nhưng luôn trợ giúp để chúng ta luôn là men muối ướp đời mà không nhiễm thói đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con đừng chiều theo những cám dỗ, nhưng biết làm củh lấy mình. Mỗi ngày con sẽ chú ý tập luyện một tính tốt và lọai trừ tật xấu để trở nên con chiên gương mẫu, …..

------------------------------------

 

TN 16-C80. SỨC MẠNH ẨN TÀNG


Mt 13, 24-43

Anh chị em thân mến,

 

Hôm nay, tôi muốn nói về cây cỏ lùng trong cánh đồng lúa tại Việt Nam chúng ta. Hai mươi năm: TN 16-C80


Hôm nay, tôi muốn nói về cây cỏ lùng trong cánh đồng lúa tại Việt Nam chúng ta. Hai mươi năm nay, ai là nông dân, và có làm lúa ngắn ngày, chắc hẳn sẽ biết cây cỏ lùn khá rõ. Trước năm 1975, nói tới cỏ lùng, người công giáo hầu như chỉ biết cỏ lùng qua bài dụ ngôn trong Phúc âm mà thôi. Thực tế, người ta không biết cây cỏ lùng ra sao cả. Như trên đã nói, chỉ sau năm 75, khi làm lúa ngắn ngày, người ta mới biết cỏ lùng là gì. Đặc điểm của cỏ lùng chính là vì nó rất giống cây lúa – chỉ khác là nó xanh đen, mướt hơn, và lá dài hơn. Chỉ khi cây lúa đã già, sắp trổ bông, người ta mới phân biệt được cỏ lùng và lúa. Chúng ta cũng không biết cây cỏ lùng trong ruộng lúa ở Việt Nam hôm nay, có phải là cây cỏ lùng thời Chúa Giêsu không? Dầu sao xem ra, cỏ lùng này cũng có những đặc điểm khá giống những gì Chúa Giêsu muốn nói. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại dụ ngôn kẻ thù đã gieo cỏ lùng vào ruộng lúa của ông chủ…. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a/. Chúng ta thử nghe lại cách giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn cỏ lùng gieo trong ruộng: Chúa nói: hạt giống tốt là con cái Nước Trời – Người gieo giống chính là Con Người (Chúa Giêsu) – ruộng là thế gian – cỏ lùng là con cái ác thần – kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ - mùa gặt là ngày tận thế - thợ gặt là các thiên thần.

Chúa nói tiếp: Khi đến mùa gặt, sẽ không gặt lúa trước, nhưng ông chủ bảo thợ gặt lo nhổ cỏ lùng trước, rồi đốt đi. Hình ảnh Nước Trời ngày tận thế cũng vậy, Chúa sẽ sai thiên thần tập trung mọi kẻ xấu tống ra khỏi Nước Trời, cho họ vào lò lửa… còn kẻ lành sẽ được vinh quang trong Nước Trời…

b/. Có hai điều rút ra từ bài học Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay:

* Hình ảnh Nước Trời: được ví như hạt giống tốt được gieo trong ruộng là tâm hồn chúng ta. Hạt giống lúc đầu rất bé nhỏ âm thầm, như hình ảnh hạt cải, chỉ bé xíu thôi; nhưng hạt giống Nước Trời có sức mạnh vô biên, có thể sinh hoa kết quả…. Hình ảnh của một viên men, chỉ có 28grs, có thể làm cho một thúng bột độ 7 kg 500, đều dậy men… cũng chính là hình ảnh nói lên sức mạnh Nước Trời. Dỉ nhiên Nước Trời không phải là hạt giống, cũng không phải là viên men; đó chỉ là hình ảnh tượng trưng mà thôi…

Hình ảnh Nước Trời: ta thử nhìn vào lịch sử Kitô giáo, lúc đầu vào thời Giáo hội sơ khai, chỉ là một nhóm nhỏ gồm 12 tông đồ, một số môn đệ và ít người tin Chúa. Ngay thời đó, Giáo hội bị bắt bớ đủ điều. Rồi trải qua 20 thế kỷ, hầu như không lúc nào Giáo Hội không bị bắt bớ, có lúc hầu như người ta tưởng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Vậy mà ngày nay trên thế giới, có lối 1 tỷ người Kitô hữu. Hầu như cứ 8 người thì có một người tin vào Thiên Chúa. Chúng ta không nói đến sức mạnh của tổ chức xã hội Kitô giáo, nhưng là nói đến sức mạnh của Hạt giống Lời Chúa, là ân sủng Chúa. Sức mạnh này có giá trị vô biên, mạnh hơn cả sự chết…

* Chúa muốn con người cộng tác vào việc phát triển Hạt giống Nước Trời: Hạt giống Nước Trời tuy có sức mạnh vô biên, nhưng hạt giống đó phải được gieo trên đất tốt. Hạt giống được gieo trong bụi gai, bên vệ đường sẽ không sinh hoa kết trái được. Viên men muốn làm cho thúng bột dậy lên, phải được người đàn bà trộn trong bột. Hạt cải muốn thành cây, phải được con người gieo trồng cẩn thận, và phải được chăm sóc chu đáo….

Qua lịch sử của Hội thánh, các thánh hiển tu, cũng như các vị tử đạo, họ là những con người đã hết lòng vì Nước Trời. Chính vì thế, họ cộng tác hết sức chặt chẻ để mong cho Hạt giống Nước Trời lớn lên; họ luôn tỉnh thức cầu nguyện, lấy Lời Chúa và Thánh Thể làm sức sống. Họ cũng là nhân chứng của Tin mừng, luôn xây đắp yêu thương và tha thứ…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua những điều suy niệm kể trên, ta thấy được sức mạnh vô biên của Hạt giống Lời Chúa, vậy ta có sẵn sàng cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời bằng cách như Chúa mong muốn không?

------------------------------------

 

TN 16-C81. QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA


Mt 13, 24-43

 

Ngay từ lúc tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Người mà làm nên mọi sự.: TN 16-C81


Ngay từ lúc tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Người mà làm nên mọi sự. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa cũng vậy, Người đã dùng quyền năng của mình mà làm cho muôn loài muôn vật được phát triển. Cho dù con người có nhìn nhận sự hiện diện cũng như quyền năng của Thiên Chúa hay không thì Thiên Chúa vẫn có đó và quyền năng của Người vẫn bao trùm trên mọi loài thụ tạo.

Trong bài Tin mừng chúng ta được mời gọi suy niệm hôm nay, Chúa Giêsu đã kể ba dụ ngôn để cho thấy quyền năng thật sự của Thiên Chúa trên mọi loài. Tuy nhiên, quyền năng Thiên Chúa là để thực thi tình yêu của Người trên muôn loài, để tha thứ và để mời gọi trở về chứ không phải là để đánh phạt hay tiêu diệt.

Trong ba dụ ngôn, chúng ta thấy nổi lên tư tưởng chủ đạo đó là: Quyền năng của Thiên Chúa tuy ẩn tàng khó thấy nhưng mạnh mẽ như hạt cải, như nắm men đã làm cho cả khối bột dậy men, đã sinh trưởng thành những cây cải thật to… nhưng quyền năng ấy lại được thể hiện trong thầm lặng trong đợi chờ như người chủ đợi chờ ngày thu hoạch, đợi chờ ngày có sự phân biệt rõ ràng giữa lúa và cỏ lùng để không làm hại lúa cũng như chờ cỏ lùng có thể biến đổi để trở thành lúa. Ông chủ ruộng vẫn biết nếu để cỏ lùng trong ruộng lúa của mình có thể nó làm hại cho lúa, làm cho lúa có thể khó phát triển. Ông biết rằng mình có đủ sức mạnh để làm cho ruộng lúa của ông sạch bon cỏ lùng nhưng vì lòng ưu ái ông dành cho lúa, lòng nhân từ ông dành cho cỏ lùng nên ông chờ cho đến cơ hội cuối cùng.

Thiên Chúa là chủ ruộng đầy lòng nhân từ, vẫn biết rằng mảnh đất ven đường, mảnh đất sỏi đá, mảnh đất gai góc không thể nào làm cho hạt giống phát triển nhưng chủ ruộng là Thiên Chúa vẫn gieo Lời của Người vào tâm hồn của tất cả mọi người, Người không chọn lựa cũng không kỳ thị một ai. Bài tin mừng hôm nay cũng thế, vẫn biết rằng cỏ lùng khó có thể biến đổi trở thành lúa thế mà chủ ruộng này vẫn kiên trì chờ đợi, cho cơ hội đến phút cuối cùng… Thiên Chúa cũng đối xử như thế đối với những người tội lỗi.

Nhìn vào lịch sử dân Israel chúng ta có thể dễ dàng thấy được lòng nhân từ của Thiên Chúa được biểu lộ. Bốn chữ “Tội - Phạt - Hối - Cứu” vẫn luôn đồng hành với dân Israel. Thiên Chúa dùng quyền năng của Người để biểu lộ tình yêu, để thông chia tình yêu, nhưng khi dân từ chối tình yêu này thì họ đã đi vào con đường lầm lạc, họ tự nhận lấy án phạt do chính họ mang đến. Nhưng khi họ quay trở lại với Chúa thì Người vẫn không từ chối họ, cho họ được trở lại làm con cái Chúa. Quả là Thiên Chúa vẫn một lòng xót thương.

Suy niệm bài tin mừng hôm nay xin Chúa cho chúng con nhận biết được quyền năng của Thiên Chúa vẫn luôn ấp ủ chúng con, hướng dẫn và làm cho cuộc đời chúng con nên tươi sáng, xin Chúa cũng cho chúng con luôn biết quy hướng về Chúa để cái đổi đời sống và luôn chạy về trong vòng tay đầy tình thương của Chúa.

------------------------------------

 

TN 16-C82. NƯỚC TRỜI ĐƯỢC XÂY DỰNG TRÊN LÒNG KIÊN NHẪN


Mt 13, 24 - 43

 

Tiếp theo dụ ngôn người gieo giống, Chúa nhật hôm nay chúng ta được tiếp tục suy niệm các: TN 16-C82


Tiếp theo dụ ngôn người gieo giống, Chúa nhật hôm nay chúng ta được tiếp tục suy niệm các dụ ngôn về Nước Trời. Chúng ta cùng nhau dừng lại nơi dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Ngày nay, người ta muốn diệt cỏ thì rất dễ dàng. Chỉ cần một bình xịt thì không bao lâu cỏ mà ta muốn diệt sẽ chết hết. Ngày xưa và nhất là nơi vùng đất Do thái không được như thế. Do đó, khi phát hiện trong ruộng có nhiều cỏ lùng người đầy tớ đã tức tốc chạy báo cho ông chủ. Đồng thời, anh cũng xin chủ cho mình ra ruộng nhổ và gom đi những cỏ lùng đó. Thế nhưng, ông chủ với thái độ bình thản và kiên nhẫn trả lời: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi.” (Mt 13, 29 – 30)

Thiên Chúa của chúng ta là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và rất mực khoan dung (Tv 103, 8 ). Người không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất. Chúa Giêsu đã nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” ( Mt 9, 13 ). Thiên Chúa không dung túng cho tội lỗi nhưng Người rất thông cảm cho sự yếu đuối và mỏng dòn của con người.

Chúng ta nhớ thời Cựu ước, dân Do thái không biết bao nhiêu lần bội nghĩa thất trung nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Những Tông đồ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi cũng là những người thất học, thậm chí có người tội lỗi công khai. Dù vậy, chính những người đó lại là nền tảng để xây dựng Giáo hội. Đúng như lời của một ai đã nói: “Không thánh nhân nào mà không có một quá khứ tội lỗi. Cũng như không có một tội nhân nào mà không có một tương lai rực sáng”.

Có lẽ nhiều lúc chúng ta tự hỏi tại sao còn nhiều kẻ ác vẫn còn sống thoải mái. Thậm chí họ còn làm hại nhiều người lành nữa. Trời đất sao tiêu diệt những hạng người đó cho xong. Suy niệm dụ ngôn hôm nay chắc phần nào chúng ta sẽ tìm được câu trả lời. Thiên Chúa không bao giờ muốn ai trong chúng ta bị hư mất. Hãy cám ơn Chúa vì biết đâu có lúc chính ta lại là những cỏ lùng. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn trông chờ chúng ta có thể trở thành cây lúa tốt.

------------------------------------

 

TN 16-C83. PHỤC VỤ LỜI CHÚA


Chúa Nhật 16 Thường Niên Năm C

 (Khởi nguyên 18,1-10a; Thư Côlôsê 1,24-28; Tin Mừng Luca 10,38-42)

Phúc Âm: Lc 10, 38-42

"Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".

Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".

 Suy Niệm:

 

Chúng ta chưa quên bài Tin Mừng Chúa nhật trước về người Samaria nhân ái. Chúa dạy chúng: TN 16-C83


Chúng ta chưa quên bài Tin Mừng Chúa nhật trước về người Samaria nhân ái. Chúa dạy chúng ta phải thi hành bác ái yêu thương để sống đạo. Tuy nhiên phụng vụ cũng đã đề phòng, không muốn cho ai ngộ nhận đạo chỉ là từ thiện.

Bài Tin Mừng hôm nay muốn củng cố quan niệm này. Chúng ta thấy Đức Giêsu có vẻ khen Maria hơn Matta. Nhưng để hiểu rõ ý Chúa, chúng ta hãy nhờ tất cả các bài Kinh Thánh của phụng vụ hôm nay.

Câu chuyện Abraham tiếp khách trong bài đọc I và tâm tư của Phaolô trong bài đọc II sẽ giúp chúng ta không quá khích khi suy diễn Lời Chúa.

 1. Phục Vụ Là Điều Đáng Khen

Thật vậy, ai không thấy Abraham là người đặc biệt trong câu chuyện hôm nay. Ở thời bấy giờ dễ gì tìm được một người nào quảng đại và hồn nhiên đến như thế? Chúng ta phải nhớ lại những thời buổi xa xưa ở những dân tộc rất hiếu khách để hiểu câu chuyện này.

Abraham hôm ấy đang ngồi nghỉ trưa ở cửa lều, dưới bóng một cây sồi to. Chắc chắn sức nóng của mặt trời đúng ngọ ở nơi sa mạc tắt gió đang làm cho thân thể ông uể oải và buồn ngủ. Nhưng kìa ở đàng xa có bóng ba người tiến đến. Ba lữ khách đi vào giờ này giữa bãi cát mênh mông và nóng bỏng phải là những người đặc biệt gì đây.

Người ta ở thời Abraham và riêng trong vùng Cận Đông, hay chuyền tai nhau những câu chuyện lạ lùng: thần thánh hay lấy hình khách lạ đến viếng thăm vào những lúc bất ngờ để thử thách lòng người. Abraham có lẽ cũng chia sẻ niềm tin ấy. Bóng dáng ba người khách đang tiến về phía lều của ông vào giờ trưa nóng bức, oi ả và mệt mỏi lúc này, có thể là một chuyện bất ngờ.

Ông liền bỏ lều chạy ra về phía khác. Ông sấp mình chào hỏi. Ông tự đặt mình như tôi tớ của những nhân vật kỳ lạ. Và có lẽ ông nghĩ nhân vật đi giữa hẳn có ưu vị, nên tuy đứng trước ba vị ông vẫn thưa như chỉ muốn thỉnh ý người quan trọng hơn: "Thưa Ngài, nếu tôi được nghĩa trước mặt Ngài, thì xin Ngài đừng xa rời tôi tớ của Ngài". Rồi không kịp để cho khách trả lời và muốn cho khách thấy lòng thành của mình mà không thể từ chối được, Abraham nói một hơi, xin đem nước cho các Ngài rửa chân và đem của ăn đến cho các Ngài lót lòng, trước khi các Ngài tiếp tục cuộc hành trình.

Dĩ nhiên là khách chấp nhận. Và chúng ta lại thấy Abraham, thành khẩn hơn nữa. Ông bảo bà Sara nhào bột làm bánh. Ông chạy ra chuồng, chính tay lựa con bê non béo tốt, trao cho đầy tớ làm thịt. Và ông chạy đi lấy sữa và nhũ men. Ông mời khách ngồi và khúm núm đứng hầu chuyện cũng như hầu bàn. Ông không chờ đợi gì cả; cũng không nghĩ gì đến mình. Ông chỉ biết có khách và chỉ biết thành khẩn phục vụ, vừa quảng đại vừa hồn nhiên.

Thái độ của Abraham khác hẳn cách cư xử của dân thành Sôđôma kể ở chương sau cũng của sách Khởi nguyên này. Thấy hai người khách lạ vào nhà ông Lot, họ đợi đến chiều tối; rồi kéo nhau đến đòi chủ nhà phải đem khách ra cho họ bạo hành.

Thế nên khi đặt hai câu chuyện này gần nhau, rõ ràng tác giả sách Khởi nguyên muốn đề cao tư cách của Abraham và muốn chúng ta bắt chước. Chúng ta phải hiếu khách và phục vụ quảng đại. Cựu Ước và Tân Ước không ngừng khuyên nhủ như vậy, không ai được lấy lẽ đạo đức nào để dèm pha việc phục vụ. Sống đạo mạc khải thì phải thi hành bác ái yêu thương.

Ở đây để làm chứng phục vụ là điều đáng khen, rất đẹp lòng Thiên Chúa, tác giả sách Khởi nguyên đã kết thúc câu chuyện trên bằng một lời hứa hẹn phấn khởi. Dùng bữa xong quí khách đã cho gia đnìh Abraham biết: vào mùa tới các ngài sẽ trở lại và khi ấy Sara đã có con trai rồi.

Chúng ta khó tưởng tượng lòng Abraham và Sara khi nghe báo tin như vậy... Đó là điều hai người từng mơ ước chờ đợi. Nhất là chúng ta đừng quên gắn liền lời tiên báo này vào việc Abraham đãi khách ở trên. Há tác giả sách Khởi nguyên không muốn đặt việc tiếp khách và phục vụ vào trong viễn tượng của lời giao ước hay sao? Rõ ràng ông muốn nói rằng đạo chúng tôi đòi hỏi hết thảy có tinh thần phục vụ, phục vụ rất quảng đại và không tính toán, phục vụ khiêm tốn và hồn nhiên. Abraham trong câu chuyện này đã được nhiều danh họa vẽ lại vì người ta muốn tấm gương mà ông treo lên hôm nay phải được người ở mọi thời nhìn ngắm. Người ta phải khen chứ không thể chê những hành vi phục vụ.

Thế mà sao thánh Luca trong bài Tin Mừng hôm nay lại có vẻ nghĩ thế khác, Matta phục vụ dường như bị chê; và Chúa thích Maria hơn. Chúng ta cần phải suy nghĩ cẩn thận về câu chuyện này.

 2. Nhưng Phục Vụ Phải Theo Trật Tự

Matta và Maria là hai chị em tính tình rõ ràng khác nhau. Họ có một người em tên là Lazarô mà Đức Giêsu sẽ làm cho sống lại, ra khỏi huyệt. Có lẽ đó là một trong những gia đình được Đức Giêsu đi lại nhiều. Và hôm nay cũng như mọi lần. Matta muốn tỏ ra không những hiếu khách mà còn quý thầy. "Bà bận rồn với những công việc phục dịch bộn bàng". Tác giả Luca đã dùng những lời như vậy để diễn tả con người của bà lúc ấy. Và nếu chúng ta quan sát bà trong câu chuyện Đức Giêsu làm cho em trai bà là Lazarô sống lại, chúng ta cũng vẫn thấy bà hoạt động, đảm đang và để mắt đến hết mọi công việc. Cũng vì vậy mà tuy bận rộn với bao việc làm ở dưới bếp, mắt bà vẫn còn nhìn thấy thái độ của cô em là Maria. Cô này cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Người và chẳng màng chi đến việc phục dịch giúp đỡ chị một tay.

Phân tích tâm lý của Matta và dựa vào câu bà phàn nàn với Chúa: "Em tôi để tôi một mình phục vụ", có tác giả ngày nay cho rằng việc phục vụ của bà chưa quảng đại đủ vì chưa quên mình đủ. Khác với Abraham. Vị tổ phụ ngày xưa chỉ biết phục vụ, chỉ nhìn đến khách và không mảy may nghĩ đến mình. Matta thì không. Bà phục vụ nhưng nhìn thấy mình đang phục vụ... Bà chưa dồn hết mắt, hết lòng, hết linh hồn cho Chúa và cho việc tiếp rước. Bà còn thấy mình ở giữa những sự đó và còn muốn so sánh tìm cho được chỗ xứng đáng của mình. Cũng có thể bà sợ Chúa không để ý đến bà và không biết được các nỗi vất vả của bà.

Nhưng Matta lầm. Đức Giêsu biết rõ mọi việc. Người không phán đoán bà một cách ngặt như các nhà phân tích tâm lý chúng ta vừa nói đâu. Người luôn dùng mọi hoàn cảnh để đưa người ta vào Nước Trời. Thế nên, nghe Matta phàn nàn về cô em, Đức Giêsu âu yếm gọi "Matta, Matta". Rồi Người hé cho bà thấy mầu nhiệm Nước Thiên Chúa: "Con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt rồi; và sẽ không bị lấy mất".

Câu Chúa trả lời có thể đau cho Matta, nếu chúng ta nghĩ đây là lần duy nhất Người nói những lời tương tự. Nhưng ngược lại, nếu đọc lại các sách Tin Mừng và nhất là tác phẩm của Luca chúng ta sẽ thấy ở đây Đức Giêsu chỉ áp dụng một giáo huấn mà Người không ngớt dạy dỗ. Đã nhiều lần Người căn dặn môn đệ: đừng lo lắng quá mức về của ăn áo mặc, đừng lo mang tiền mang bị khi đi đường, đừng xao xuyến sẽ phải ăn nói thế nào... vì chỉ có một điều cần mà thôi là hãy tìm Nước Thiên Chúa trước đã.

Như vậy, nếu chúng ta hiểu rằng lúc ấy Đức Giêsu đang ngồi trong nhà chị em Matta và Maria; và Người lợi dụng lúc chờ đợi dọn bữa mà có người muốn nghe lời; và Người đang dạy dỗ môn đệ và người ta; mà Matta sấn lại thưa như trên, muốn kéo cô em ra khỏi thái độ làm môn đệ là ngồi dưới chân để nghe Lời Chúa, thì dứt khoát Chúa phải trả lời lại cho Matta như vậy. Bà phải chen việc phục vụ bàn ăn vào việc phục vụ Lời Chúa, làm rối loạn công việc này, thì cũng như Phêrô sẽ nói sau này trong sách Công vụ các Tông đồ: "Không phải là điều đẹp lòng Chúa nếu chúng ta nhãng bỏ Lời Thiên Chúa mà đi lo giúp việc bàn ăn". Chúng ta biết cũng chính tác giả Luca viết câu chuyện này về các tông đồ phải chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa; còn việc phục vụ bàn ăn thì phải để lại cho những anh em đầy Thánh Thần được cộng đoàn bầu lên.

Không có một chút xíu tinh thần coi khinh việc phục vụ trong các câu chuyện này. Chỉ có một thứ tự phải nhìn nhận là chính đáng.

Đó là việc phục vụ bàn ăn không được làm xáo trộn việc phục vụ Lời Chúa. Không được giựt ai ra khỏi thái độ làm môn đệ, thái độ mà Maria đã chọn, để đưa họ về thái độ phục vụ như tôi tớ. Matta lầm khi không nhìn thấy thái độ ngồi nghe Lời Chúa cũng là phục vụ và là phục vụ cần thiết hơn. Bà cũng nên biết phục vụ của bà có phần bận rộn bộn bàng đó. Abraham đã phục vụ hết tình nhưng bình tĩnh vô cùng.

Dù sao, như đã nói không nên coi câu trả lời của Chúa như là những ý tưởng chỉ nói cho Matta và chỉ phát biểu có lần này ở đây thôi. Hiểu như vậy không thể nào không thương cho Matta được. Nhưng nếu hiểu đây là giáo huấn Chúa nói với mọi người và đã từng lặp lại ở nhiều trường hợp khác nhau, thì Matta không có gì phải buồn. Bà chỉ cần khiêm nhường đón lời mạc khải của Chúa về mầu nhiệm Nước Trời. Và Lời ấy sẽ có giá trị cứu độ. Vì nó nhắc nhở cho tất cả chúng ta nhớ luôn luôn phải gỡ mình ra khỏi những lo lắng thế gian, cản trở việc tìm kiếm Nước Trời. Và việc phục vụ bàn ăn, tức là việc phục vụ nói chung, vẫn không bao giờ được làm cản trở việc phục vụ Lời Chúa.

Nếu trong bài đọc I, phụng vụ hôm nay đã hết lời ca tụng thái độ phục vụ của Abraham thì thiết tưởng chúng ta cũng phải dễ tính để cho bài Tin Mừng hôm nay xếp đặt lại địa vị lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Lời Người. Những người thông thái về Nước Trời phải biết rút ra cả những sự cũ và mới.

Ấy là chưa kể còn có một thứ phục vụ nữa cũng không được thiếu ở trong đạo ta và nơi đời sống đạo của chúng ta. Bài thư Phaolô sẽ đề cập đến.

 3. Ngay Đau Khổ Cũng Là Phục Vụ

Phaolô bấy giờ đang ở trong tù. Có lẽ đúng hơn người đang ở trong tình trạng là tù nhân nhưng vẫn được tại ngoại. Người gửi thư cho giáo đoàn Côlôsê. Và ở đoạn này, người nói đến mình không phải tự khoe nhưng để tín hữu hiểu thế nào là ơn gọi tông đồ.

Đó là sứ mệnh được Thiên Chúa chỉ cho để rao giảng Lời Chúa. Riêng trường hợp của Phaolô, việc rao giảng này lại được quy định nơi dân ngoại, để cả lương dân được thấy mầu nhiệm của Chúa.

Mầu nhiệm này ngày trước còn bị giữ kín. Các dân tộc ngày xưa không được biết mạc khải của Chúa. Nhưng từ ngày Đức Giêsu Kitô đã lên cây thập giá để hủy bỏ bức tường ngăn cách giữa dân "cắt bì" và những "dân không cắt bì", thì mọi dân tộc đều được biết mầu nhiệm phong phú và vinh quang, là mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô ở giữa mọi người có đức tin để hết thảy được tin tưởng vào vinh quang đang chờ mình.

Mầu nhiệm cứu độ này, Phaolô đang phục vụ cho lương dân khi chẳng quản gian lao thử thách, luôn rao giảng cho mọi người. Nhưng nay bị tù, bị hạn chế và quản thúc, Phaolô vẫn tiếp tục phục vụ dưới hình thức khác: đó là hình thức chịu đau khổ.

Và đây là điểm chúng ta nên nhớ, Phaolô coi trọng việc phục vụ Lời Chúa. Không ai đã dám nói như người: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng cứu độ". Nhưng nay thấy mình trong thân phận tù nhân và suy nghĩ đến mầu nhiệm Đức Giêsu mà mình đã được tuyển chọn để phục vụ, Phaolô nhận ra: Chịu đau khổ cũng là phục vụ.

Quả vậy, những đau khổ hiện nay người đang chịu là lo việc rao giảng Lời Chúa, mang Tin Mừng Nước Trời đến cho các dân tộc. Đó là những đau khổ tất yếu gắn liền với việc phục vụ Lời Chúa. Chính Đức Giêsu vì rao truyền Danh Đức Chúa Cha mà phải chịu nhiều đau khổ; và Người cũng đã khẳng định rằng môn đệ phải chịu nhiều đau khổ để làm chứng cho Người. Người còn nói trước những thử thách lớn lao và bắt bớ dữ tợn vào thời kỳ sau hết. Thế nên lời rao giảng thánh giá đi đến đâu cũng sinh ra nhiều tử đạo ở những nơi ấy. Những đau khổ và thử thách lớn lao này không cần thiết theo nghĩa để bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi thống khổ của Đức Giêsu vì lẽ cuộc tử nạn của Người chưa đủ sức để đền bù tội lỗi. Không, thánh giá của Người thật vinh quang, và máu Người đổ ra đã đem lại ơn cứu độ. Nhưng khi ơn này đến với chúng ta và nơi các dân tộc chúng ta gặp thấy không thiếu những thánh giá bên trong và bên ngoài.

Đó là những đau khổ cần thiết để kết hiệp chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô cho chúng ta được cứu độ. Những thánh giá đó cần cho chúng ta, nhưng thật sự cũng là cần cho Đức Giêsu mà Người chưa chịu khi sống ở trần gian này, để cho ơn của Người chuyển đến chúng ta. Bây giờ các tông đồ và môn đệ của Người phải chịu để làm công việc ấy. Họ chịu để cho mầu nhiệm Đức Kitô được sáng lên trong các tâm hồn. Họ bù đắp những gì còn thiếu sót nơi các nỗi quẫn bách của Đức Kitô, theo nghĩa ấy, tức là để ơn của Người đến được với các con người đang được gọi để trở nên thân thể của Người là Hội Thánh. Chịu những đau khổ như vậy cũng là phục vụ và là phục vụ Lời Chúa, và là phục vụ một cách sâu xa. Thế nên, thánh Phaolô cũng như mọi tông đồ chân chính khi gặp đau khổ trong sứ vụ đều có tinh thần của các tử đạo... Hết thảy đều hân hoan và lấy làm vinh dự vì được thông phần những đau khổ cứu thế của Đức Giêsu Kitô.

Như vậy, phục vụ trong đạo ta có nhiều mặt. Phục vụ bàn ăn và thi hành các việc bác ái thương người là điều qúy. Nhưng phục vụ Lời Chúa lại là việc không được xao nhãng vì những lý do phục vụ bác ái.

Và cuối cùng những kẻ xem ra chẳng phục vụ được gì nhưng đang quảng đại chịu đau khổ cho mầu nhiệm Đức Kitô được sáng lên trong Hội Thánh, những kẻ ấy cũng đang phục vụ và phục vụ rất thánh thiện. Điều cần thiết là mỗi người hãy theo ơn gọi của mình mà phục vụ. Cũng như hết thảy phải phục vụ công việc phải làm vào những giờ và những nơi nhất định.

Do đó giờ đây chúng ta phải hết mình phục vụ các mầu nhiệm bàn thờ. Nhưng khi ra khỏi thánh lễ này, chúng ta lại phải hoàn thành các nhiệm vụ phục vụ anh em và xã hội. Cũng có thể có những thử thách và đau khổ mà Chúa đang gọi ta phải chịu cho ơn cứu độ được lan rộng.

Xin Chúa cho chúng ta ở đâu và lúc nào cũng có tinh thần phục vụ như Abraham, Maria và Phaolô của các bài đọc Kinh Thánh hôm nay.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

------------------------------------

 

TN 16-C84. CHỌN PHẦN TUYỆT HẢO


CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN, năm C

Lc 10, 38-42

 

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, nhân loại và con người, mỗi người đi từ ngạc nhiên này đến: TN 16-C84


Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, nhân loại và con người, mỗi người đi từ ngạc nhiên này đến ngỡ ngàng kia. Những điều ngộ nghĩnh, giả hình của bọn Pharisêu, những người thông luật, những vị lãnh đạo tôn giáo hồi đó. Nhưng có những câu chuyện thu hút con người, dạy con người cách vô cùng tinh tế và thực tế. Hai bài đọc và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ đón tiếp Chúa Giêsu của hai chị em cô Maria và Mátta. Chúa Giêsu đã điều chỉnh thái độ của Mátta và đề cao thái độ lắng nghe Lời Chúa của Maria.

Chúa đã nói rất rõ cho hai chị em Mátta và Maria:” Mátta, Mátta! Con lo lắng và bối rối lo âu về chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tuyệt hảo, tốt nhất và sẽ không sợ bị lấy mất “ ( Lc 10, 41-42 ). Phần tuyệt hảo ở đây là ngồi bên Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cùng cầu nguyện với Chúa.Nói điều này không có ý Chúa bảo Mátta không tốt hay thái độ của Mátta là xấu, nhưng Ngài muốn Mátta không nên dừng lại ở chỗ tiếp đón hay nấu nướng, lo bữa ăn mà thôi, không nên chỉ nghĩ tới công lao của mình. Mátta đã thưa với Chúa:” Thưa Thầy, Thầy không quan tâm sao, em con để con làm việc một mình thế này đây !”. Đúng đây là mộ lời băn khoăn, tự mãn và khoe công lao với Chúa. Chúa không có ý nói Mátta đang làm việc vô ích nhưng Ngài chỉ có ý nói:một điều cần thiết mà Maria đã chọn là Nước Trời, là nghe lời Chúa. Mátta đã thiếu một điều quan trọng nhất là quên chính mình đi để nghe Chúa. Maria quả thực đã đón Chúa với hai bàn tay trắng, đã đón Chúa với tâm hồn rộng mở để chỉ một mực lắng nghe lời Chúa, và điều ấy không ai có thể lấy mất được. Chúa Giêsu đã có lần nói: “ Đừng băn khoăn chi cho ngày mai, ngày mai sẽ lo cho ngày mai.

Trước tiên hãy tìm Nước Trời, còn mọi điều khác sẽ ban thêm cho các ngươi “ ( Mt 6, 33-34 ). Tuy nhiên chúng ta và hầu hết mọi người đều quá bận tâm đến cái ban thêm này, do đó, Chúa lại nói:” Các ngươi lo ăn mặc gì…Các ngươi đừng lo phải nói gì trước tòa án…Các ngươi đừng để cho những cây gai lo lắng bóp chết lời Chúa…Các ngươi đừng để cho những lo toan đè nặng tấm lòng các ngươi…”. Chúa luôn dạy chúng ta và mọi người đừng quá lo lắng, hãy phó thác và để tâm hồn thanh thoát hầu có thể đón nhận lời Chúa. Đến với Chúa, chúng ta phải có tinh thần hoàn toàn tự do, thanh thoát. Bởi vì sống ở trần gian, có quá nhiều tiếng ồn ào phá hại sự thinh lặng, đặc biệt sự thinh lặng nội tâm và đó là những điều nguy hại cho đời sống con người. Phải có những phút giây yên lặng để lắng nghe tiếng Chúa, phải có những phút giây trở về để nhận ra Chúa. Trong câu chuyện Maria và Mátta, Chúa đã đánh giá cao sự tận tụy phục vụ của Mátta. Và đây là dấu chỉ của lòng mến tuyệt vời cao độ. Tuy nhiên, qua cử chỉ, thái độ, cung cách của người em Maria, Chúa đã nhận được một tâm tình tế nhị, cao đẹp hơn.

Tâm tình ấy, thái độ ấy là lắng nghe lời Chúa, luôn đặt Chúa trên hết mọi sự, đặt Chúa làm trung tâm của đời mình, chọn Chúa sản nghiệp, là tất cả cho đời sống của mình. Ở đây, Chúa Giêsu muốn dùng Maria làm mẫu gương cho nhiều người vì Maria đã chọn lựa đúng đắn nhất cho cuộc sống làm người cho mình. Đó là chọn phần tuyệt hảo nhất là chọn Chúa là gia nghiệp, đặt cả sinh mạng cuộc đời của mình trong bàn tay yêu thương của Chúa.Cuộc sống của người Kitô hữu ở trần gian này có những công việc ồn ào, tất bật để kiếm sống, nhưng cũng phải có giây phút phải hồi tỉnh để lắng nghe lời Chúa và dành cho Chúa. Đời sống tu trì cũng vậy, có Dòng hoạt động, cũng có Dòng chiêm niệm. Hai đời sống này luôn bổ túc lẫn cho nhau đến nỗi nó không thể nào thiếu được trong đời sống dấn thân. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa:” Không có Thầy, chúng con không làm gì được”.

Lạy Chúa xin cho chúng con có cử chị phục vụ tận tụy như Mátta nhưng lại ban cho chúng con một tâm hồn cởi mở, sẵn sàng lắng nghe và đón nhận lời Chúa như Maria. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

------------------------------------

 

TN 16-C85. CHỌN PHẦN TỐT NHẤT


Chúa Nhật XVI Thường Niên C

Lc 10:38-42: 38 Trong khi họ đi đường, Ngài đã vào một làng kia; một phụ nữ tên là Martha đã đón Ngài vào nhà. 39 Bà có người em gái, gọi là Maria; bà này thì cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài. 40 Còn Martha thì mãi bận rộn với việc phục dịch bộn bàng. Sấn lại bên, bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không màng nghĩ tới sao: em tôi để tôi một mình phục dịch? Vậy xin Ngài bảo nó đở đần tôi với!" 41 Đáp lại Chúa nói với bà ấy: "Martha, Martha, ngươi lo lắng xôn xao về nhiều chuyện! 42 Cần thì ít thôi, hay một điều thôi! Maria đã chọn phần tốt rồi, và sẽ không bị ai giựt mất!"

 

Đây là đoạn cuối của chương 10. Khó nhận ra liên hệ trực tiếp về chủ đề giữa câu chuyện hai chị: TN 16-C85


Đây là đoạn cuối của chương 10. Khó nhận ra liên hệ trực tiếp về chủ đề giữa câu chuyện hai chị em Martha và Maria (10:38-40) và đoạn trước bàn về câu hỏi làm gì để được sự sống đời đời, và tiếp theo đó là câu chuyện người Samaritanô nhân lành (10:25-37). Tuy nhiên, mạch văn của chương 10 có thể soi sáng điều nầy. Chủ đề chính của chương nầy tập trung vào các môn đệ: chỉ định 72 môn đệ, ban mệnh lệnh, sai họ đi (10:112); trở về và thuật lại những việc đã làm (10:17-20); những ân huệ dành cho họ (10:21-22.23-24). Điểm chính được nhấn mạnh trong suốt cả chương nầy là “rao giảng Nước Thiên Chúa” (10:9.11); “đón tiếp” (10:8-10), “mạc khải: (10:22), “phúc được thấy” (10:23), “phúc được nghe” (10:24). Câu chuyện người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu về sự sống đời đời là một minh họa cho việc “những người thông thái” không được nghe điều những điều các môn đệ đã được mạc khải. Và câu chuyện của Martha và Maria là minh họa thứ hai cho việc các môn đệ đi trước Chúa Giêsu (10:1) để Người có thể đến vào rao giảng trực tiếp. Maria là hình ảnh biểu trưng của những người “đón tiếp” và “lắng nghe” lời rao giảng (x. 10:5). Liên hệ với đoạn tiếp theo, thái độ lắng nghe lời Chúa của Maria như là bước chuẩn bị nội tâm cho việc cầu nguyện mà Chúa Giêsu sẽ dạy cho các môn đệ (11:1-4). Bố cục của đoạn có thể được phân chia như sau: - Ghé thăm và đón tiếp (10:38); - Hai trạng thái của Martha và Maria (10:39-40a); - Martha phàn nàn (10:40b); - Maria chọn phần tốt nhất (10:41-42). Đoạn nầy có cấu trúc đảo đổi (chiasmus): - A) Maria ngồi dưới chân Chúa; - B) Martha bận rộn phục vụ nhiều chuyện; - B’) Martha lo lắng nhiều chuyện; - A’) Maria chọn phần tốt nhất.

Câu chuyện được đặt trong hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu (c. 38; x. 9:51-56). Làng nơi Martha và Maria ở chỉ là một trong những nơi Chúa Giêsu đi ngang qua. Đi qua những nơi ấy Người rao giảng Nước Thiên Chúa (13:22; x. 4:43). Trong nhà của Martha, Người sẽ dạy thái độ phải có để đón nhận Nước nầy. Người phụ nữ tên là Martha được biết thêm như là chị của Lazarô (Gio 11:1). Việc đón tiếp với lòng hiếu khách, “hypodechomai”, nhắc đến việc các môn đệ được đón tiếp khi vào một nhà hay một thành nào đó. Họ ở lại đó và để lại sự bình an. Chúa Giêsu cũng làm như thế. Người ở lại, rao giảng và dùng bữa.

Hai trạng thái của Martha và Maria (10:39a-40). Luca phác họa hai trạng thái tương phản của hai chị em. Maria ngồi dưới chân Chúa (10:39a). Bà muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu (x. Cv 22:3), và lắng nghe Người giảng dạy. Động từ “lắng nghe” ở thể chưa hoàn thành diễn tả sự liên tục. Maria không ngừng lắng nghe lời Người. “Lắng nghe (lời) Người” hay “lời Thiên Chúa” rất quan trọng trong Luca. Lắng nghe được đặt đối nghịch với từ chối (10:16). Lắng nghe là đón nhận Nước Thiên Chúa do Chúa Giêsu hay các môn đệ rao giảng. Từ chối lắng nghe là từ chối tin Nước Thiên Chúa. Như thế, lắng nghe Người là mở lòng tin vào Người. Martha ở trong trạng thái ngược lại. Bà bận rộn với nhiều việc phục vụ. Perispaomai có nghĩa là  “bận rộn thái quá”, “bị mất trí” vì bị thu hút bởi một thực tại ngoài bản thân. Diakonia ở đây chỉ những công việc tiếp đãi khách. Việc nầy là tốt; tuy nhiên, Luca dùng chữ “nhiều” với hàm ý tiêu cực (10:40). Martha làm quá nhiều việc đến nỗi bị cuốn hút bởi chúng, và quên mất mục đích việc Chúa Giêsu đến nhà bà.

“Thầy chẳng quan tâm”, ở thì hiện tại, có nghĩa là Chúa Giêsu đang chú tâm vào một việc khác, hơn là nhìn thấy việc bà đang làm. Bà phê bình sự thờ ơ của Người và của Maria là để mặc bà làm một mình. Bà cảm thấy đơn độc “monos” trong việc phục vụ. Bà kêu gọi sự trợ giúp và cộng tác của Maria qua trung gian Chúa Giêsu. Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho thấy sự tương phản của hai người, và thái độ của người nào được Người yêu thích hơn (10:41). Lời của Người không phải là một phê bình nhằm bác bỏ một bên và thừa nhận bên kia, nhưng là một hướng dẫn tìm đến điều tốt nhất. Trong nhận xét về Martha, Chúa Giêsu không dùng chữ “diakonia”, chữ nầy có nghĩa là “sứ vụ” trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 1:17.25; 6: 4; 12:25; 20:24; 21:19), mà chỉ một chữ “nhiều chuyện”. Người tập trung nhấn mạnh sự lo lắng và xao động thái quá của bà. Merimna, “lo lắng”, động từ được dùng trong ngữ cảnh lo lắng cho sự sống: không biết phải nói gì khi ra trước toà (x. 12:11), lo lắng không có gì ăn và mặc (12:22.25.26). Trong tất cả những trường hợp nầy, thái độ lo lắng thái quá đều không làm vừa lòng Thiên Chúa, vì coi thường sự chăm sóc và quan phòng của Người. Sự lo lắng thái quá nầy kéo đến xao động, thorybazô.

Động từ nầy chỉ  xuất hiện ở  đây (hapax legomenon). Trong sách Công vụ có động từ liên hệ là thorybeô “náo loạn”, “rối loạn” (Cv 17:5; 20:10). Tình trạng nầy trước tiên là gây tiếng động, ồn ào; tiếp theo trở nên xao động, rối loạn. Martha rơi vào tình trạng nầy, vì tâm trí bà bị cuốn hút bởi “nhiều chuyện” cùng một lúc. Chúa Giêsu khẳng định với bà, “nhưng duy một điều cần thôi” (10:42). “Enos” “một chuyện”, kèm theo “de”, “nhưng”, được đặt đầu câu và tiếp ngay sau “nhiều chuyện” để làm nổi sự tương phản giữa hai thái độ. “Một chuyện” nầy lại là cần thiết; cũng có nghĩa là có  “nhiều việc” Martha đã làm, mà không cần thiết. Trái hẳn với Martha, Maria chỉ làm một chuyện. Đó là lắng nghe lời Chúa (c. 39). Việc nầy là bà làm được gọi phần tốt. Là “phần tốt”, vì đó là việc căn bản và quan trọng Chúa Giêsu phải làm như là sứ mạng của Người: rao giảng Nước Thiên Chúa. Maria đã mở lòng lắng nghe lời rao giảng của Người. Như thế, bà đã chọn phần chính yếu vì đã đón nhận lời Người.

Lắng nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành là một mối phúc (11:28). Chỉ cần làm điều chính yếu nầy để được chúc phúc muôn đời.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

------------------------------------

 

TN 16-C86. Chúa Nhật 16 Thường niên, C


Năm 2010

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Lu-ca 10:38-42)

 

Ngày nay phương tiện di chuyển dễ dàng, nên việc đến thăm bạn bè không còn khó khăn và: TN 16-C86


          Ngày nay phương tiện di chuyển dễ dàng, nên việc đến thăm bạn bè không còn khó khăn và chính vì thế nhiều khi chúng ta ít để ý nhận ra giá trị của những cuộc viếng thăm.  Cuộc viếng thăm của Chúa Giê-su dành cho chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a quả thực là quý báu, nhân dịp Người và các môn đệ lên Giê-ru-sa-lem.  Đáp lại tấm thân tình của Chúa Giê-su, hai cô không quản ngại làm tất cả những gì có thể để cám ơn Chúa và tỏ lòng hiếu khách.  Mỗi người có một cách để tỏ lòng quý mến và biết ơn.  Cô Mác-ta thì “tất bật lo việc phục vụ”, chuẩn bị những món ăn ngon để tiếp đãi Chúa và các môn đệ Người.  Còn cô Ma-ri-a lại chọn cách thức khác thường, là “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”.  Nói khác đi, cô Mác-ta muốn đãi Chúa một bữa tiệc vật chất, còn cô Ma-ri-a lại muốn lắng nghe Chúa Giê-su, đón nhận bữa tiệc Lời Chúa đã được Người dọn sẵn để đãi cô.  Chắc chắn là Chúa quý trọng cả hai cách, vì chúng đều biểu lộ cùng một thực tại tức là lòng yêu mến Chúa của các cô.  Tuy nhiên những lời Chúa nói với cô Mác-ta là lời nhắc nhở yêu thương về tầm quan trọng của việc lắng nghe Chúa.  Đúng vậy, bữa tiệc nào rồi cũng tàn và sau đó ai về nhà nấy.  Thức ăn có ngon mấy, sau khi ăn rồi, người ta cũng không thể tìm lại được khẩu vị của chúng nữa.  Còn bữa tiệc Lời Chúa thì không như vậy.  Lời Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta và bất cứ lúc nào chúng ta muốn thưởng thức lại vị ngọt nào của nó, chúng ta vẫn có thể tìm lại được.  Chúa Giê-su đã nói về điểm này:  “Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.  Những lời Chúa dạy sẽ đi sâu vào tâm hồn cô và không ai có thể lấy đi được!

          Của ăn vật chất tuy có đem lại bổ dưỡng cho thể xác, nhưng cũng nhiều khi không giúp ích mà con gây hại cho sức khỏe của chúng ta.  Trái lại, của ăn Lời Chúa bao giờ cũng đem lại sức mạnh thiêng liêng, bồi bổ đời sống đạo đức của chúng ta và có khả năng biến đổi con người chúng ta mỗi ngày nên tốt hơn.  Chúng ta có rất nhiều dịp để lắng nghe Lời Chúa, trong Thánh Lễ, khi chúng ta đọc và suy niệm Kinh Thánh, lúc chúng ta nghe diễn giảng Lời Chúa, trên đài truyền hình, trong buổi học hỏi và chia sẻ Lời Chúa… Hình ảnh cô Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa và nghe Người dạy dỗ phải là hình ảnh của chính chúng ta, nếu chúng ta ý thức tầm quan trọng của việc lắng nghe Lời Chúa.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Ít ra mỗi Chúa Nhật, chúng ta có dịp làm công việc cô Ma-ri-a đã làm để tiếp đón Chúa Giê-su, đó là lắng nghe Lời Chúa.  Lắng nghe Lời Chúa không chỉ bằng đôi tai, nhưng còn bằng con tim yêu mến và trân trọng của chúng ta.  Lời Chúa là ngọn đèn soi bước chúng ta.  Nếu chúng ta quyết tâm đáp lại sứ điệp Lời Chúa bằng cách đem ra thực hành trong đời sống, thì Lời Chúa sẽ ảnh hưởng sâu đậm trên lối cư xử của chúng ta đối với anh chị em.  Lời Chúa không phải để chúng ta lao đầu vào những cuộc tranh luận, bàn cãi vô bổ, giống như những tranh luận giữa một số người Công giáo với Tin lành.  Nhưng Lời Chúa là những điều Chúa nói với chúng ta để giúp chúng ta sống làm sao cho đúng danh nghĩa con cái Chúa.  Khi chúng ta đón nhận Lời Chúa bằng trái tim hơn là bằng đầu óc, thì vấn đề hiểu Lời Chúa không đặt nặng việc hiểu đúng hay hiểu sai cho bằng Chúa muốn nói gì với chúng ta qua Lời Người.  Quan trọng hơn nữa là chúng ta sẽ đáp lại Lời Người như thế nào, tức là những điều Chúa dạy chúng ta phải được thể hiện qua đời sống trong cách suy nghĩ, nói năng, hành động và phản ứng.  Cứ thế, lối sống của chúng ta sẽ thay đổi dần dần trở nên giống với lối sống của Chúa Giê-su hơn. 

Lm. Dominic TTL

------------------------------------

 

TN 16-C87. CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN NĂM C


(St 18,1-10a; Cl 1,24-28; Mc 10,38-42)

 

Đoạn Tin Mừng kể câu chuyện Chúa đến thăm gia đình ở Bethania nếu bị tách rời ra khỏi văn mạch: TN 16-C87 


Đoạn Tin Mừng kể câu chuyện Chúa đến thăm gia đình ở Bethania nếu bị tách rời ra khỏi văn mạch hay tách rời ra từng câu thì sẽ thấy khó hiểu. Chúng ta phải đặt câu chuyện này vào trong những bài giảng mà Chúa muốn qua đó đào luyện các môn đệ:

1)Trong câu chuyện, chúng ta thấy hai chị em đón Chúa Giêsu vào trong nhà họ. Đó chính là hình ảnh của đời sống người Kitô, bởi vì cuộc sống người Kitô cũng được coi là đón Chúa Kitô vào chính mình. Nếu vậy, người ta có thể thấy hai thái độ của hai người phụ nữ như là hình ảnh của hai ơn gọi đầy đủ trong Giáo Hội: đời sống tông đồ và đời sống chiêm niệm. Người ta có thế thấy đó như là hai mặt của một cuộc sống người Kitô: Cầu nguyện và hoạt động.

Tuy nhiên, chỉ đọc nguyên bài Tin Mừng này chúng ta sẽ không nhận ra mối liên kết của hai ơn gọi đó. Khi khen bà Maria và trách bà Marta lo lắng bối rối nhiều việc quá , xem ra như Chúa chỉ thiên về một vế thôi. Chúng ta cũng thấy tội nghiệp bà Marta, bận bịu bao việc tiếp đón Chúa, nhưng lại gần như bị Chúa trách: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi…”. Như vậy, nếu Marta là hình ảnh của đời sống hoạt động Kitô giáo, thì phải chăng đời sống này không cần thiết, mà chỉ cần cầu nguyện? Không phải như vậy, để hiểu được đoạn văn này, chúng ta phải đọc liền với đoạn văn bên trên mà chúng ta đã được đọc trong chúa nhật trước: dụ ngôn về người Samari nhân hậu.

2)Bài dụ ngôn này cho thấy rõ thái độ sống của bà Marta: Người Samari thấy người bị thương ở vệ đường, đã chăm sóc, đưa về nhà trọ và trả mọi phí tổn. Đó chính là người thực hành giới răn quan trọng thứ hai: Ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình. Đó chính là một gương mặt rất đẹp mà Chúa muốn người Kitô phải có, cũng chính là gương mặt của bà Marta. Nhưng để khen giá trị công việc của bà Maria Chúa lại đi từ hình ảnh của bà Marta, giống như để khen người Samari nhân hậu, Chúa đi từ hình ảnh của thầy tư tế và thầy Lêvi. Điều quan trọng là cả hai nhân vật - người Samari nhân hậu và bà Maria - đều là mẫu gương cho chúng ta.

3)Đối lập với một thái độ mệt mỏi trong việc phục vụ anh em, là thái độ ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Ngài. Qua hai câu chuyện ghép lại, Chúa Giêsu muốn khen ngợi cả thái độ này lẫn thái độ kia. Thật vậy, cả hai thái độ đều cần thiết để chu toàn điều Luật: ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa ngươi... Ngươi hãy yêu thương người lân cận. Khi chúng ta tách riêng hai điều răn này ra thành hai lãnh vực riêng biệt thì không thể được, vì hai điều đó không thể tách biệt và cũng không thể đối lập nhau. Hai điều răn này làm thành một điều duy nhất. Trong đời sống thực tế của Kitô hữu chẳng phải chúng ta luôn cố gắng hòa hợp được hai giới răn đó vào thành một đó sao? Cầu nguyện cần thiết, nhưng cũng phải phục vụ và giúp đỡ người khác. Chính nhờ cầu nguyện, chúng ta mới có thể hiểu được ý nghĩa của việc phục vụ. Có còn là Giáo Hội của Chúa nữa không nếu ta chỉ biết chiêm niệm? Có còn là Kitô hữu nữa không nếu người ta chỉ biết hoạt động như cái máy? Mặc dù trong Giáo Hội mỗi người tùy theo tính cách và hoàn cảnh mà cư xử, một số người phù hợp với đời sống chiêm niệm, một số khác lại được kêu gọi để hoạt động.

Như vậy, lời Chúa khen ngợi người Samari nhân hậu là để lưu ý những người chuyên tâm cầu nguyện đừng quên phải lo phục vụ con người vì đó cũng là ơn gọi của họ. Chúng ta có thể thấy điều đó nơi các đan viện luôn sẵn sàng đón tiếp và phục vụ những người hoạt động đến để giúp họ thinh lặng, cầu nguyện và tìm lại nguồn sức thiêng liêng trong chiêm niệm.

Nhưng đồng thời, lời khen ngợi bà Maria của Chúa Giêsu lại dành cho nhưng người đang sống trong ơn gọi hoạt động, nhắc nhở họ phải lấy lại sức sống của mình bằng hơi thở thiêng liêng, hãy dành cho mình có thời gian để ngồi một lúc dưới chân Chúa, nghe Chúa nói, lĩnh hội được ý Chúa.Đối với những người này hay những người kia, cách chung, đều có một kiểu sống của Kitô hữu, môn đệ của Chúa Kitô, đó là biết lắng nghe, chiêm niệm Lời Chúa rồi đem ra thực hành trong cuộc sống của mình như là một lời đáp trả lại ơn gọi của Chúa. Đừng chỉ chú trọng đến điều này mà quên điều kia.

 Lm. Tôma Nguyễn Xuân Thủy

------------------------------------

 

TN 16-C88. Chỉ có một việc cần

 

Chúa Giêsu qua trích đoạn Tin Mừng của thánh Luca đã dùng một hình ảnh và lối so sánh rất: TN 16-C88


Chúa Giêsu qua trích đoạn Tin Mừng của thánh Luca đã dùng một hình ảnh và lối so sánh rất tâm lý để dẫn chúng ta đi tìm cho mình một ý nghĩa thật của cuộc đời. Ngài muốn chúng ta hãy chọn cho mình những việc làm có giá trị thật, xứng với ơn gọi, tư cách, nhân vị, và phẩm giá của con người.

Trong đời sống thường ngày, chúng ta có biết bao nhiêu là việc cần. Những việc cần ấy thường là đi liền với nhu cầu của cuộc sống như nhu cầu thể lý, nhu cầu tâm lý và nhu cầu tâm linh. Tùy vào tầm nhìn, hiểu biết và phán đoán về mình, về cuộc đời mà những nhu cầu ấy trở thành quan thiết đến đâu. Nhưng theo Chúa Giêsu, thì chỉ có một sự cần. Ngài đã nói điều này với chúng ta qua Máttha: “Chỉ có một sự cần mà thôi” (Luca 10:42). Vậy sự cần ấy là gì?

Cần gì?

Để biết xem sự cần mà Chúa Giêsu đề cập đến ở đây là gì, chúng ta hãy đọc kỹ bài tường thuật của thánh sử Luca về cuộc tiếp đón mà chị em Máttha và Maria đã dành cho ngài. Trong lúc Máttha lăng xăng, lo lắng tiếp đón Chúa và các tông đồ, thì ngược lại, Maria lại ngồi không và không làm gì. Thánh Luca ghi: “Bà có người em tên là Maria, ngồi dưới chân Chúa và nghe lời ngài” (Luca 10:39).

Nhưng xét kỹ chúng ta mới thấy rằng không phải chỉ có Máttha mà cả Maria đều nồng nàn, tha thiết, và vui mừng được đón tiếp Chúa. Một đàng chuẩn bị cho Chúa bữa ăn thể xác, và một đàng đem lại cho Chúa một bữa ăn tinh thần. Theo đó, thì điều mà Maria làm là đem lại cho Chúa niềm vui khi ngồi nghe Chúa nói, và nói với Chúa. Và đối với ngài, thì bữa ăn tinh thần này quý hơn bữa ăn thể xác, vì thế, khi nghe Máttha càm ràm, khó chịu, ngài đã nói với bà: “Maria đã chọn phần nhất mà không ai có thể lấy đi được" (Luca 10:42).

Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu rằng những lo toan thuộc nhu cầu vật chất tuy cần thiết nhưng không bằng những lo toan thuộc nhu cầu tâm linh. Nếu đem so sánh giữa ba nhu cầu, thể xác, tâm lý, và tâm linh, nhu cầu tâm linh có vị trí cao nhất và cần thiết nhất, tiếp đến là nhu cầu tâm lý và sau cùng mới là nhu cầu thể lý là những lo toan, vất vả, thuộc về cuộc sống tự nhiên, thuộc về thế giới vật chất này. Đó cũng là lý do tại sao Chúa đã bênh cho Maria khi ngài nói: “Maria đã chọn phần nhất”, và còn hơn thế “không ai có thể cướp mất được”.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ không hài lòng với Chúa về chọn lựa này, cũng như về lời khen mà ngài dành cho Maria. Và cũng có thể nhiều người trong chúng ta cho rằng khi khen Maria như thế, Chúa đã ngầm trách Máttha. Nhưng không phải thế, vì tuy khen Maria, nhưng ngài không phủ nhận sự khó nhọc và lo lắng của Máttha: “Máttha, con lo lắng nhiều chuyện quá” (Luca 10: 41). Lo lắng, băn khoăn tiếp khách để rồi trở thành bẳn gắt, khó chịu thì không những làm khách mất vui, mà còn làm cho khách thêm nghĩ ngợi nữa. Một hình thức nào đó, thái độ trách móc ấy cũng là một lời từ chối khéo, đuổi khéo khách. Riêng trong trường hợp của Máttha, không ai lại có thể nghĩ rằng bà đối xử với Chúa thiếu tế nhị và lạt lẽo như thế. Và khi Chúa Giêsu nói với Máttha về sự lo lắng, băn khoăn ấy, ngài hiểu được tâm hồn của bà, ngài không mất vui vì những lời càm ràm của bà, mà vì ngài thấy bà không được vui. Và đó là lý do mà Chúa đã khen Maria.

Cần nhất

Chỉ có một việc cần. Việc cần ấy nằm trong lãnh vực tâm linh và thuộc về đời sống tâm linh. Nhưng việc cần nhất trong đời sống tâm linh, vẫn theo Chúa Giêsu là việc con người có thể hiểu được ngài, và để ngài đi vào cuộc sống của mỗi người. Maria đã làm việc này khi bà ngồi dưới chân Chúa nghe và chia sẻ tâm sự với ngài.

Trong tâm lý thường tình, khi hai người yêu nhau và mến nhau, ít khi họ đặt nặng những đòi hỏi và nhu cầu vật chất. Nhưng ngược lại, thiếu sự hiểu biết, thông cảm và chia sẻ với nhau về đời sống tâm lý, tình cảm, và tâm linh mới là một thiếu sót không thể tha thứ và chấp nhận được. Những cuộc tình đổ bể, những cuộc hôn nhân đưa đến chia rẽ, ly dị thường không do những khía cạnh thể lý nhiều, mà là do vấn đề tâm lý. Điều mà chúng ta ngày nay gọi là thiếu thông cảm, và từ thiếu thông cảm dẫn đến sự tê liệt và cạn kiệt tình yêu.

Sự mật thiết dẫn đến hiểu biết và hoàn toàn chia sẻ được với nhau như Maria và Chúa Giêsu hôm nay là điều không những Chúa vui thích, mà còn đem lại lợi ích cho chính cuộc sống tâm linh của con người nữa.

Làm sao chúng ta có thể làm cho Chúa vui khi không biết ngài muốn gì nơi chúng ta? Nhưng làm sao biết được Chúa muốn gì, nếu không nghe ngài nói? Và làm sao nghe được ngài nói gì, khi không có thời giờ, gần gũi, và tâm sự với ngài. Tóm lại, gần gũi đem đến thân mật, thân mật đem lại cảm tình tốt đẹp, và cảm tình tốt đẹp nẩy nở tình yêu. Và chỉ tình yêu mới đem lại hạnh phúc cho cả hai.

"Chỉ có một việc cần”. Đó là hiểu và yêu được Chúa. Nhưng để hiểu và yêu Chúa, con người phải biết đón mời ngài vào nhà tâm hồn mình như chị em Máttha và Maria đã làm. Phải ngồi dưới chân ngài, nghe lời ngài, và tâm sự với ngài. Nói theo tiếng nói của tu đức là kết hợp và cầu nguyện. Đây là điều mà không ai có thể lấy đi được. Chúng ta cầu nguyện được mọi nơi, mọi chỗ, và trong mọi cảnh ngộ. Dù độc tài, dù dã man như Cộng Sản cũng không cấm được ta cầu nguyện.

Maria đã chọn phần nhất

Nhưng không phải cầu nguyện suông. Mà cầu nguyện là để kín mục sức mạnh, tình yêu và nghị lực để đi vào đời. Để sẵn sàng phục vụ. Cầu nguyện như thế và phục vụ như vậy mới là điều mà Chúa Giêsu cho là nhất, là cần, và không ai có thể lấy đi được.

Tóm lại, ngồi và nghe Chúa nói dù được coi là việc làm cần, nhưng nó phải được hiểu theo một ý nghĩa tích cực. Một hành động mà theo các nhà tu đức cho rằng đó là một sự kết hợp mật thiết giữa Thiên Chúa và linh hồn. Ngồi và nghe Chúa chính là hành động tâm nguyện mà mỗi Kitô hữu sử dụng khi cầu nguyện. Một hình thức kết hợp với Chúa Giêsu, mang tính cách nội tâm, để rồi sau khi đầy Chúa Giêsu, chúng ta tràn phần dư cho các linh hồn. Hiểu Chúa, yêu Chúa và làm cho Chúa được yêu mến đó là việc làm cần thiết và cao cả nhất.

 T.s. Trần Quang Huy Khanh

------------------------------------

 

TN 16-C89. Phần tuyệt hảo.

 

Có một thời người ta đã dựa vào đoạn Tin Mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm, như là phần: TN 16-C89


Có một thời người ta đã dựa vào đoạn Tin Mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm, như là phần tối hảo mà Maria đã khôn ngoan giành lấy cho mình. Còn đời sống bôn chôn hoạt động của Martha là phần ít giá trị hơn. Thực ra Chúa Giêsu không thể bênh vực cho thứ chiêm niệm lười lĩnh cũng như thứ hành động múa may. Điều Ngài đòi hỏi là lắng nghe và thực thi lời Chúa.

Ngày kia, có lẽ bất ngờ, Chúa Giêsu đến thăm viếng gia đình ba chị em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với người Do Thái, thì được tiếp đón một người khách đến thăm là một ơn huệ Chúa ban và cũng là dịp để tưởng niệm cuộc xuất hành của dân Chúa trên đường tiến tới miền đất Hứa. Việc đón tiếp khách được tổ chức một cách tỉ mỉ và ân cần. Khách vào nhà được rửa chân vì đi đường bụi bậm. Thường thì người nhỏ nhất trong nhà có phận sự rửa chân cho khách.

Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta có một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân cho khách. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò tiếp chuyện khách. Bà ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó Martha nắm giữ địa vị của một người nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà muốn cho việc tiếp đón phải thật chu đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác. Việc đón tiếp chu đáo và đúng nghĩa nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn tất cả chỉ là phụ thuộc. Martha đã bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào những cái phụ thuộc, để mình chìm nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn thời giờ và sức lực để nghe và đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu đến với gia đình Bêtania, hẳn không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban phát, để thiết tiệc lời hằng sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho Ngài ăn gì, uống gì mà là lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

Chúng ta còn nhớ một lần kia bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã xác quyết: Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta. Và ý của Đấng đã sai Ngài chính là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì thế, những ai muốn theo Ngài, cũng phải lắng nghe và thực hiện những lời Ngài truyền dạy.

Vào một dịp lễ trọng như lễ Chúa Giêsu chẳng hạn, cả giáo xứ để hết tâm trí vào việc dọn dẹp và trang trí nhà thờ, làm hang đá, treo đèn kết hoa, khiến cho không còn thời giờ, không còn lòng trí để tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa làm người. Giáo xứ ấy đã đi theo vết chân của Martha và bỏ mất phần tối hảo.

Bởi đó chúng ta đã kiểm điểm đời sống xem chúng ta đã thực sự đầu tư một cách đầy đủ cho điều chính yếu, là lắng nghe và thực thi lời Chúa, hay vẫn còn đang lẩn quẩn ở những vòng ngoài, ở những cái phụ thuộc.

------------------------------------

 

TN 16-C90: Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời


(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)

 

Hôm ấy, các đệ tử của Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại. Người thì: TN 16-C90


Hôm ấy, các đệ tử của Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại.

Người thì nói là do lòng tham vô đáy của con người thúc đẩy, kẻ thì cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế hoặc tính kiêu căng và óc thống trị xui khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ chủng tộc hay tôn giáo phát sinh...

Sau cùng, các đệ tử quay sang hỏi ý kiến Thầy, Thầy nói: "Mọi đau khổ đến từ việc con người thiếu khả năng ngồi yên lặng một mình để lắng nghe..." (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)

* * *

Yên lặng để lắng nghe! Để nghe Chúa nói, để nghe lời khôn ngoan... Đó cũng là điều mà Cô Maria thể hiện qua đoạn Tin Mừng hôm nay.

Hôm ấy, Chúa Giêsu đến thăm gia đình Mácta. Mácta tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.

Vậy mà Chúa Giêsu lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mácta:

"Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc 10, 41-42)
Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa là điều tối cần thiết và quan trọng nhất.

Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề... Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.

Một chiếc xe vượt qua nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà xe lại chạy không đèn thì chắc chắn sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, thì sẽ không thoát khỏi tai ương.

Đối với những ai biết đón nhận Lời Chúa và nhận lấy ánh sáng Lời Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong đời mình.

Lời Chúa thật sự đã mang lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống.

Trong thời kỳ đất nước Việt Nam của chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một quốc gia khác to lớn hơn nhiều cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đó là quốc gia Ấn-độ. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp. Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành độc lập cho xứ sở mình.

Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!

Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, vị anh hùng của nhân dân Ấn và là người được dân Ấn gọi là thánh, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động mà thánh Gandhi học được từ Tin Mừng của Chúa Giêsu: "Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi... Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia ra..."

Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ gảy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không cần đến khí giới.

Vài chục năm, tại đất nước Hoa-kỳ, Mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo động của mình, và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí giới.

Như thế, Lời Chúa quả đã đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề và thách thức trong cuộc sống.

Hôm nay, Chúa Giêsu lại đem Tin Mừng của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng ta trong cuộc sống nhiều mây mù u tối nầy.

Cuộc đời chúng ta như những chuyến xe phải vượt những chặng đường đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm. Lời Chúa vẫn mãi mãi là đèn soi dẫn. Ước gì chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi sáng cho hành trình còn lại trong cuộc đời chúng ta.

------------------------------------

 

TN 16-C91: Tổng Giám mục Anthony Bloom

 

Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin ngài một lời khuyên khi ngà: TN 16-C91


Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin ngài một lời khuyên khi ngài đã được truyền chức thánh là một bà cụ, bà nói: “Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt mười bốn năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa”.

“Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không?” ngài hỏi.

“Ồ không”, bà nói, “Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao?”.

“Không,” ngài nói. “Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này. Con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa”.

Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì? Không lâu sau, bà ta trở lại và nói: “Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Người”.

Sau cùng, cầu nguyện không phải để nhiều lời nhưng hướng đến sự hiệp thông với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một sự yên nghỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là vấn đề giữ tĩnh lặng trong sự hiện diện của Người hơn là việc đọc kinh.

------------------------------------

 

TN 16-C92: Hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a


TIN MỪNG (Lc 10: 38-42)

 

Câu chuyện ngắn về hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, cả hai đều bày tỏ tấm lòng quý mến Chúa TN 16-C92


Câu chuyện ngắn về hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, cả hai đều bày tỏ tấm lòng quý mến Chúa Giê-su bằng hai cách thế khác nhau. Câu chuyện này là một trong những hạt ngọc của Tin Mừng Lu-ca.
 
1. Bối cảnh:

 Thánh Gioan cho chúng ta biết cô Mác-ta và cô Ma-ri-a là hai người chị của anh La-da-rô. Thánh Gioan còn mô tả hai cách tiếp đón Chúa Giê-su của hai chị em tương tự như thánh Lu-ca: trong bữa ăn thiết đãi Đức Giê-su ở làng Bê-ta-ni-a, cô Mác-ta lo hầu bàn, còn cô Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa Giê-su, lấy dầu thơm quý giá mà xức chân Ngài (Ga 12: 2-3). Thánh Gioan còn cho chúng ta thêm thông tin về gia đình ba chị em này: sau những lần thi hành sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su hay ghé thăm gia đình này, họ là những người bạn thân của Ngài ở làng Bê-ta-ni-a cách thành đô Giê-ru-sa-lem không xa: “Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô” (Ga 11: 5, 33; 12: 1-3).

Thánh Lu-ca không ghi rõ địa danh nơi câu chuyện này xảy ra. Về phương diện địa lý, câu chuyện này không thể xảy ra vào lúc khởi đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su được vì làng Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 3 cây số. Nhưng ý định của tác giả thì rõ ràng, nhằm đưa ra một giáo huấn bổ túc cho dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”. Ở dụ ngôn này, Chúa Giê-su mở rộng huấn lệnh “yêu người” khi đảo ngược câu hỏi của kinh sư, không phải “ai là người thân cận của tôi”, mà “tôi phải là người thân cận của bất kỳ ai cần đến sự cứu giúp của tôi”. Tại nhà cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, Chúa Giê-su muốn cho hiểu rằng “mến Chúa” phải đặt ưu tiên hàng đầu trong tất cả mối bận lòng của con người.
 
2. Hai cách đón tiếp với trọn một tấm lòng:

 Trong câu chuyện này, chúng ta không thấy nói tới cha mẹ của họ, nếu có họ phải là gia chủ ra chào hỏi khách. Vì thế, chúng ta có thể hiểu hoàn cảnh của gia đình này, cha mẹ đã qua đời sớm, ba chị em đùm bọc nhau. Với tư cách là chị cả, cô Mác-ta quán xuyến mọi việc trong gia đình; vì thế trong việc đón tiếp Chúa Giê-su, cô bận rộn lo toan đủ mọi thứ hầu bày tỏ tấm lòng quý mến của cô đối với Chúa Giê-su, Ngài không chỉ là khách mời mà còn là một người bạn quý của gia đình.

Từ lúc Chúa Giê-su bước vào nhà, cô em là Ma-ri-a “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”. Thái độ như vậy xem ra không phù hợp với phong tục tập quán vào thời đó cho lắm, vì phụ nữ không được phép dự phần vào giáo huấn của các kinh sư. Chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên khi gặp thấy nét bút này của thánh Lu-ca, thánh ký rất quan tâm đến sự hiện diện của các người phụ nữ trong vòng thân cận với Chúa Giê-su trong công cuộc truyền giáo của Ngài bằng cách góp công góp của vào sứ vụ của Ngài (Lc 8: 1-3).

Cô Mác-ta tất bật lo việc phục vụ Chúa một bữa ăn, còn cô Ma-ri-a thì ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe lời Ngài. Vì thế, cô Mác-ta nóng ruột thưa với Chúa bằng giọng hờn trách: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo em con giúp một tay”. Cô tin rằng Chúa cũng đồng ý với cô; ấy vậy, Chúa Giê-su chẳng những trách khéo cô mà còn bênh vực cô Ma-ri-a nữa: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Cô Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
 
3. Phục vụ và lắng nghe:

 Với lối chủ giải ẩn dụ đặc thù của mình, các Giáo Phụ đã đọc thấy nơi công việc phục vụ của cô Mác-ta và nơi việc lắng nghe lời Ngài của cô Ma-ri-a hai cách thế hiện diện không thể thiếu của Giáo Hội trong cuộc sống tại thế: đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Trong hai công việc đó, việc“Ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Ngài” phải là ưu tiên, bởi vì việc lắng nghe Lời Chúa khơi nguồn và định hướng cho mọi công việc phục vụ của Giáo Hội. Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca thường ghi nhận rằng ngay từ sáng sớm Chúa Giê-su một mình đi vào nơi thanh vắng để trò chuyện với Chúa Cha trước khi bắt đầu một ngày mới bận rộn với sứ vụ của mình.

 Tuy nhiên, Đức Giê-su cũng đã không bao giờ coi thường công việc phục vụ. Khi các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất, Chúa Giê-su căn dặn các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 24-27).

 Điều Ngài quở trách cô Mác-ta không phải vì cô lo lắng phục vụ Ngài cho thật chu đáo và nồng hậu, nhưng vì cô để hết cả tâm trí vào việc phục vụ đến mức xao lãng một hình thức tiếp đón khác: ngồi hầu chuyện với khách mời của mình, đó mới là điều quan trọng bậc nhất trong trường hợp này, bởi vì lời mà cô Ma-ri-a lắng nghe chính là Lời Thiên Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa quan trọng đến mức mà chỉ một lúc sau đó chỉ một mình thánh Lu-ca ghi lại câu chuyện về một người phụ nữ trong đám đông ca ngợi công sinh thành của mẹ Ngài: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giê-su trả lời cho người phụ nữ này và cho cả đám đông nữa: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Phải đặt ưu tiên cho một chuyện cần thiết bậc nhất: lắng nghe Lời Chúa. Có lắng nghe Lời Chúa mới biết Chúa muốn chúng ta làm gì trong giây phút hiện tại và dấn thân phục vụ Ngài ở nơi anh chị em mà chúng ta găp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.

 Tác giả bài viết: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

------------------------------------

 

TN 16-C93: Chú giải của Noel Quesson


Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia.

 

Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức Giêsu trên “con đường” nào. Vẫn luôn luôn là chính lộ lên: TN 16-C93


Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức Giêsu trên “con đường” nào.

Vẫn luôn luôn là chính lộ lên Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg để thuật lại. Không dưới mười chương dài (Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba thường niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người quyết tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51). Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười bốn, chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã ở trên con đường đến Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi kilômét để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng ta dừng lại trong một ngôi làng không được nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania, cách trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường, Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu nói chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu, có lẽ để chuẩn bị họ vào thời điểm mà Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu nữa. Điều này nói lên sự quan trọng của các tình huống và lời nói cắm mốc trên con đường lên Giêrusalem đó.

Chúng ta sắp tham dự vào một cảnh thể hiện lòng, hiếu khách đầy sự dịu dàng.

Chúng ta còn nhớ Người ta không muốn tiếp đón Người, trong một ngôi làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu tìm được một gia đình hiếu khách. Chúng ta vui mừng vì biết rằng không phải lúc nào Đức Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải lúc nào Người cũng đi lang thang không nới trú ẩn... và có lúc Người cũng dừng lại ở nhà các bạn hữu Người để nghỉ ngơi, để ngồi nói chuyện... để sử dụng thời gian... và thời gian của tình bằng hữu không phải là thời gian đánh mất!

Ở đầu dốc, bên cạnh con đường đầy bụi có ngôi nhà mà Người quen biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt, một cây táo đầy hoa (bây giờ là mùa xuân và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm ngát. Đức Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra. “Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy vào!”

Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria

Đó là hai chị em. Họ có một em trai là Ladarô.

Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần, trong những cảnh ở đó tính khí của họ đã được điển hình hóa và giống nhau trong mỗi câu chuyện. Mácta, một người hoạt động. Maria, một người trầm lặng. Thánh Gioan trong một câu ngắn ngủi đã kể lại: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5). Và trong dịp gia đình họ có đám tang, Gioan- thuật lại cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã khóc. Một lần khác, người ta thấy Mácta đang phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria “cứ ngồi bên chân Chúa” (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn gái Tuần lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào Người cũng trở về nhà họ (Mt 2 1,7 -26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).

Vậy thì ít nhất đó là một nơi mà Đức Giêsu có thể đề cao sự dịu dàng của tình bằng hữu.

Trong sách Khải Huyền, Gioan sẽ sử dụng hình ảnh ấy để nói về đời sống của Người Kitô hữu: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà Người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).

Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ.

Ôi! Một bức tranh thánh kỳ diệu! Phải ở yên thật lâu trong sự im lặng để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình ảnh ấy. Ví dụ như, hãy thử tưởng tướng mình có mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử hình dung lại các động tác, cử chỉ, âm thanh, mùi vị, màu sắc, những lúc im lặng, những khuôn mặt và những tấm lòng.

Đức Giêsu nói chuyện với cô Maria ngồi bên chân Chúa... cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Giọng nói của Người như thế nào? Người kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt lành chăng? Người giải thích lại các mối phúc thật cho cô chăng? Người là Đức Giêsu đã không mệt mỏi nói với cô Người quan niệm thế nào về các suối nguồn của hạnh phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria những lời tâm sự về cái chết và sự sống lại của Người.

Người lên Giêrusalem là vì việc đó! Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo lắng của Người với các môn đệ nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao.” Dẫu sao, nhờ Máccô và Gioan, chúng ta biết rằng người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô những ngày trước lễ Vượt qua, và một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước một cách ướp xác bằng dầu thơm cho Người.

Các phụ nữ sẽ không thể thực hiện việc ướp xác ấy khi họ muốn đến ngôi mộ “ngày đầu tiên trong tuần” để làm việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ trống. Nhưng Maria đã làm việc đó rồi, với sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức Giêsu sẽ hiểu điều đó: “Điều gì làm được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy; còn Thầy, anh em không có mãi đâu”(Ga 12,7-8).

Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”

Sự can thiệp này của Mácta làm nổi bật sự khác nhau hoàn toàn của hai chị em. Trước khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta không nên đánh giá thấp cô chị. Ở đây không có sự đối lập giữa Mácta và Maria. Mácta thì hữu ích. Sự phục vụ của cô là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh vì đã đem trọn tình yêu “phục vụ” những người khác... “Nào những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy đến. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống” (Mt 25,34).

Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa những công việc nội trợ đa đoan rất khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô số các phụ nữ trên toàn thế giới, trong mọi nền văn minh.

Chúa đáp

Chúng ta không thể không nhận thấy sự trang trọng khi Luca dùng danh xưng “Đức Chúa” ba lần. “Đức Chúa” chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục sinh. Điều đó chỉ cho chúng ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một giai thoại lịch sử dù rất thú vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một “mạc khải”. Đấng sắp nói chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan trọng và phải được chúng ta tiếp nhận “trong đức tin”. Vả lại, toàn bộ câu chuyện trên đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:

Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!

Hẳn người ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình huống. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta phải “phục vụ”, phải yêu thương. Rõ ràng, câu trả lời của Người đã được đặt vào một bình diện khác.

Đức Giêsu nhận thấy rằng Mácta lo lắng và “giao động” quá nhiều. Đây là một đề tài được Người ưa thích. Người đã nói rằng “những lo lắng về đời sống! có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người sẽ yêu cầu các tông đồ không nên lo lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26). Người sẽ khuyến cáo các thừa sai chớ lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị kết tội trước các toà án (Lc 12,11). Người sẽ nói rằng chớ để “lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời” trong lúc chờ đợi Con Người lại đến” (Lc 21,34). Đức Giêsu nói: “Bạn ơi! Chớ quên điều chủ yếu!”

Đức Giêsu không lên án Mácta vì công việc của cô cũng như nhiệt tình tiếp đón tích cực... nhưng vì sự căng thẳng, sự giao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó làm cho chúng ta co quắp lại với chính mình.

Chúng ta hãy tiếp nhận lời lời gọi của Chúa cho chúng ta biết phải chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta cũng chạy, phi nước đại, cũng bận trăm công nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra phải trở thành thời gian để tìm lại sự, quân bình của chúng ta hơn để “sống” thay vì để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta nói lại với bạn điều này, bạn chớ quên điều chính yếu.

Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi

Vậy “chuyện cần thiết duy nhất” ấy là gì?

Đó là làm điều Maria đã làm “Ngồi bên chân Chúamà nghe lời Người dạy”. Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người. Bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra càng một yêu sách trong những dịp khác. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34) Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.

Vậy quả thật Đức Giêsu không đánh giá thấp sự “phục vụ” mà Mácta đem lại khi bận rộn với việc “nội trợ và bếp núc”. Nhưng để “đi theo Đức Giêsu” thì ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con người, của Kitô hữu. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Và đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ đã “'lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 1 1,27-28).

Vả lại khác với các Thánh sử khác, rõ ràng Luca đã đồng hóa lời của Đức Giêsu với “Lời của Thiên Chúa” (Lc 5,1-8-11-21-11,28).

Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời như thế nào? Có phải đó là “phần tốt nhất” hàng ngày của chúng ta? Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào là điều chính yếu?

------------------------------------

 

TN 16-C94: HAI CHỊ EM MÁCTA VÀ MARIA


“Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" Chúa đáp: "Mácta ! Mácta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi".

 

Bài Tin Mừng kể một câu chuyện đơn giản nhưng rất cảm động.  Theo Gioan, cô Mácta và cô: TN 16-C94


Bài Tin Mừng kể một câu chuyện đơn giản nhưng rất cảm động.

Theo Gioan, cô Mácta và cô Maria là hai người chị của anh Ladarô, và đây là những người bạn khá thân tình của Chúa Giêsu, ở Bêtania gần Giêrusalem. Dù vậy, sự kiện Đức Giêsu đến nhà hai người phụ nữ Mácta và Maria rồi giảng dạy ở đó, thực ra, vẫn là một sự kiện có phần bất thường. Đức Giêsu không phân biệt đối xử. Người nhìn đến từng người và nhận thấy họ, dù là đàn ông hay đàn bà, là đối tượng được Thiên Chúa ưu ái yêu mến.

Hai chị em Mácta và Maria đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau trong việc tiếp đón Đức Giêsu. Cô Mácta giữ vai trò người chủ trong nhà và lo lắng chuẩn bị bữa ăn cho khách. Cô Maria giữ vai trò tiếp chuyện với khách. Tuy nhiên, cách miêu tả của Thánh Luca thì vượt ra khỏi một khung cảnh cụ thể.

Ở câu 39, ông khắc hoạ hình ảnh của cô Maria như là một người đồ đệ, ngồi bên chân của “Chúa” và lắng nghe Người dạy. “Ngồi dưới chân” là kiểu nói được Thánh Luca dùng trong diễn từ của Thánh Phaolô ở Cv 22, 3 để chỉ tư cách người đồ đệ. Động từ “nghe” được chia ở thời vị hoàn, có ý diễn tả sắc thái liên tục và kéo dài của thái độ lắng nghe. Cô Maria xuất hiện trong câu chuyện như điển hình của người môn đệ.

Sự tất bật lo việc phục vụ của cô Mácta cũng được tác giả nhấn mạnh để khắc hoạ rõ nét hơn sự khác biệt, thậm chí đối nghịch, của cô so với tư thế môn đệ chăm chú lắng nghe của cô Maria. Cô Mácta là điển hình của những thành viên trong cộng đoàn Hội Thánh luôn nhiệt thành hoạt động và coi những hoạt động đó có vai trò quan trọng hơn hẳn so với thái độ của người đồ đệ luôn giữ tâm hồn trong tư thế lắng nghe Lời.

Có lẽ vì lịch sự, nhưng cũng pha một chút bực mình, cô Mácta không nói gì với em mình, nhưng tiến lại bên Chúa Giêsu và nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” ( c. 40 ). Tại sao cô muốn Maria giúp một tay ? Để cô có thể cùng được nghe lời dạy của Chúa Giêsu ? Hay vì khách đông quá, cô không thể phục vụ một mình ?

Nhưng “Chúa đáp: "Mácta ! Mácta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” ( cc. 41 – 42 ). Các thủ bản dị biệt nhau trong câu “chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”. Có bản ghi “cần thì ít thôi”, theo đó, Chúa Giêsu muốn nói với cô Mácta rằng không cần phải chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn làm gì, chỉ cần một bữa ăn đơn giản thôi. Nhưng cách hiểu “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” có lẽ hữu lý hơn. Đức Giêsu đặt đối lập giữa một bên là “lo lắng nhiều chuyện” với bên kia là “chỉ một chuyện cần thiết” để làm nổi bật vẻ đẹp của thái độ lắng nghe lời Người giảng dạy. Mối bận tâm về Nước Thiên Chúa phải chiếm vị trí ưu tiên tuyệt đối so với mọi sự khác, cho dù những sự ấy không hề bị phủ nhận. Và Người khẳng định: Maria đã chọn phần tốt nhất ( c. 42 ).

Gợi ý suy niệm:

1. Khẳng định ở câu 42 chính là điểm nhấn cốt yếu của toàn bộ trình thuật. Đức Giêsu không hề kết án hay coi thường việc phục vụ của cô Mácta. Ở Lc 22, 27 chính Người sẽ khẳng định rằng: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”. Đức Giêsu cũng không hề nói rằng thái độ của cô Maria là thái độ duy nhất có giá trị. Người chỉ tận dụng hoàn cảnh cụ thể tại nhà hai chị em Mácta và Maria để đưa các đồ đệ đến một giáo huấn vượt quá khung cảnh cụ thể đó. Việc lắng nghe lời Chúa Giêsu và hoàn toàn sẵn sàng đón nhận Nước Thiên Chúa vào cuộc đời mình, phải được ưu tiên hơn hết. Các hoạt động khác bị coi là tương đối so với việc lắng nghe Lời.

2. Trong bài Tin Mừng, một ký ức về một sự kiện lịch sử ( là việc Đức Giêsu viếng thăm một gia đình thân hữu ) đã được Thánh Luca sử dụng để soi sáng cho một hoàn cảnh của cộng đoàn Hội Thánh sau này. Trong hoàn cảnh đó, có nguy cơ một số thành viên của Hội Thánh đánh mất hoặc coi thường một điều quan yếu: cuộc sống Kitô hữu đặt nền trên sự chăm chú lắng nghe lời Tin Mừng. Đó cũng có thể là hoàn cảnh của cộng đoàn của chúng ta hiện nay.

3. Một số người hiểu câu chuyện trong bài Tin Mừng theo hướng đề cao tính hơn hẳn của đời sống chiêm niệm so với đời sống hoạt động. Thực ra, có lẽ Thánh Luca, trong cách nhìn cá nhân của ngài, muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống thừa sai và phục vụ cũng phải được đặt nền tảng trên lời Thiên Chúa và việc lắng nghe lời ấy.

4. Về phương diện soạn thảo, đáng chú ý là sự song đối giữa Lc 10, 38 – 42 với Lc 9, 52 – 56. Một làng người Samari đã từ chối đón tiếp Đức Giêsu vì Người đang trên đường đi lên Giêrusalem ở Lc 9. Bây giờ, trong Lc 10, 38 – 42 Đức Giêsu, vẫn đang trên đường đi lên Giêrusalem, lại đã được đón tiếp tại một làng khác. Tuy tác giả không ghi tên cụ thể của làng này trong trình thuật, nhưng dựa theo Ga 12, 1 – 8 chúng ta biết đó là làng Bêtania. Và như thế, chính Đức Giêsu đã hành xử như gương mẫu cho các đồ đệ trong việc thực hiện lệnh truyền của Người ở Lc 10, 5 – 7.
Lm. Giuse NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT

------------------------------------

 

TN 16-C95: CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ

 

Có những lúc quá đau, quá mệt không đọc được một kinh, tôi nhớ lại chuyện ông già Jim. Cứ: TN 16-C95


"Có những lúc quá đau, quá mệt không đọc được một kinh, tôi nhớ lại chuyện ông già Jim. Cứ mỗi ngày lúc 12 giờ trưa ông ta vào Nhà Thờ không quá hai phút. Ông từ ( giữ Nhà Thờ ) rất thắc mắc, theo dõi, rồi một hôm chặn ông Jim lại và hỏi:

 – Tại sao bác vào đây mỗi ngày ?
 – Tôi đến cầu nguyện.
 – Không thể được ! Kinh gì trong hai phút ?
 – Tôi vừa già, vừa dốt, đọc kinh theo kiểu của tôi.
 – Ông nói gì với Chúa ?
 – Tôi cầu nguyện: "Giêsu, có Jim đây !" rồi tôi về.
Thời gian trôi qua. Jim già yếu, bệnh tật, phải vào bệnh viện, nơi khu vực người già. Sau đó Jim yếu liệt, chuẩn bị đi xa. Linh Mục tuyên úy và Nữ Tu y tá đến bên giường Jim:

 – Jim ơi, hãy nói cho chúng tôi biết, tại sao từ ngày ông vào khu vực này, có nhiều điều thay đổi, bệnh nhân vui vẻ hơn, chấp nhận thuốc thang, sống có tình nghĩa hơn ?
 – Chả biết !... Lúc còn sức tôi đi quanh thăm mọi người, chào hỏi, chuyện trò một chốc; lúc sau liệt giường, tôi gọi tên họ, thăm hỏi, làm cho họ cười. Với Jim ai cũng vui.
 – Thế tại sao Jim vui, Jim hạnh phúc ?
 – Khi nào cha và sơ được người ta đến thăm mỗi ngày có vui không ?
 – Vui chứ ! Nhưng có thấy ai thăm Jim đâu ?
 – Lúc mới vào, tôi có xin hai chiếc ghế, một dành riêng cho cha và sơ, một cho khách quí của tôi, thấy không ?
 – Khách của ông là ai ?
 – Là Chúa Giêsu. Trước kia tôi đến thăm Ngài ban trưa, nay đi hết nổi, cứ 12 giờ trưa Ngài lại đến thăm tôi.
 – Ngài nói gì với Jim ?
 – Ngài bảo: Jim, có Giêsu đây !...

Trước lúc Jim chết, người ta thấy Jim đưa tay chỉ chiếc ghế như thể muốn mời ai ngồi, Jim mỉm cười, nhắm mắt ra đi. Những lúc tôi không còn sức để đọc nổi dù một kinh, tôi lặp đi lặp lại: "Giêsu, có con đây", tôi cảm thấy như Chúa Giêsu trả lời: "Thuận ơi, có Giêsu đây !" Tôi vui vẻ và bình an.

Các bạn hỏi tôi: "Cha thích đọc kinh nào ?" Dĩ nhiên là tôi thích những kinh của Chúa Giêsu dạy, của Hội Thánh: Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Tin Kính.. Tôi thích dùng lời Thánh Kinh, Lời Chúa để cầu nguyện, khi đọc lên những Thánh Vịnh, tôi sung sướng vì biết rằng đây là những kinh chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã đọc. " ( Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, 5 Chiếc Bánh và 2 Con Cá ).

Trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay thật vắn gọn, tường trình tiếp tục cuộc lữ hành đến Giêrusalem. Nhân cuộc đón tiếp chiêu đãi của chị em Mácta và Maria, Chúa Giêsu đề cập đến việc cầu nguyện và phục vụ.

Khiêm tốn phục vụ

Chúa Giêsu luôn đề cao việc phục vụ, cũng như luôn xác nhận sứ vụ cao cả của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" ( Mc 10, 45 ).

Cô Mácta cũng thật hăng say phục vụ đón tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Lo lắng làm sao chiêu đãi chu đáo cho trên chục thực khách thật không mấy dễ dàng. Có lẽ cô sợ thất thố, thiếu sót, nên mới cầu cứu Người, cho cô em Maria phụ giúp.

"Lạy Thầy, em con để con một mình phục vụ, mà Thầy không quan tâm sao ? Xin Thầy bảo em con giúp con với."

Tuy nhiên, trong lời kêu cứu có chút đố kỵ, so bì, thầm trách cô em Maria sao vô tình, thiếu trách nhiệm. Đồng thời cô lấy làm phiền thấy Đức Giêsu có vẻ thiếu quan tâm đến phận mình bận rộn, vất vả.

Nhiều khi hăng say phục vụ cộng đoàn, chúng ta dễ rơi vào ngộ nhận, coi đó là việc của mình, của nhóm mình, của phe mình, nên ai không ủng hộ, không tiếp tay, không hưởng ứng vì bất cứ lý do gì, đều bị coi là những lực cản, thách đố, thù địch, hoặc chống báng. Vô tình, chúng ta biến việc chung thành việc riêng, biến việc phục vụ tha nhân, cộng đoàn thành phục vụ cho danh giá, mưu lợi cho cá nhân hay phe nhóm riêng.

Thay vì phục vụ, lại hóa ra muốn được phục vụ. Muốn thiên hạ khen ngợi, ca tụng, ghi công mình, nhớ ơn mình. Hơn nữa, còn kiêu căng muốn được các đấng đóng ấn công nhận. Nếu vậy, thì còn ích lợi chi ? Chỉ “như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các ngươi, họ đã được thưởng rồi.” ( Mt 6, 2 ).

Hy sinh phục vụ

Với trọn vẹn con tim xả kỷ vị tha, hy sinh quên mình vì tha nhân, tràn đầy tâm tình yêu thương, phục vụ mới có ý nghĩa và chính đáng theo như lời dạy của Đức Kitô. Phục vụ theo con tim nhạy cảm mới thực sự hữu ích cho tha nhân, mới có thể lắng nghe, mới thấu hiểu, mới đáp ứng nhu cầu cụ thể của tha nhân. Phục vụ theo con tim toàn hiến, con tim Vacare Deo, giốc lòng từ bỏ những gì là nhân khí, tà khí, để trọng kính đón mời Thần Khí Thiên Chúa ngự vào tâm hồn, mới có thể đi gieo Tin Mừng đến mọi người, mọi nơi và mọi lúc. Nếu không hy sinh vì Đức Ái, thì phục vụ mất hết ý nghĩa và lợi ích, trở nên màn kịch vụng về, che đậy những tham vọng tiến thân.

“Con nghĩ rằng con không có gì để hy sinh cho Chúa, nhưng Chúa thấy con bỏ quá nhiều dịp: Tươi cười với một người nói móc họng con; thinh lặng trước một vụ vu cáo bất công; yêu thương một người bạn phản bội; không nói một lời hóc búa trả đũa. Mọi giây phút đều có dịp hy sinh.” ( Đường Hy Vọng, số 153 ).

Chẳng phải cứ làm những việc to tát, những chương trình, dự án quy mô, lớp lang, bài bản mới là phục vụ tha nhân. Nhưng với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuy nhỏ bé, tầm thường, với bác ái bị tha, vẫn là phục vụ thật hữu hiệu, như cụ già Jim. “Lúc còn sức tôi đi quanh thăm mọi người, chào hỏi, chuyện trò một chốc; lúc sau liệt giường tôi gọi tên họ, thăm hỏi, làm cho họ cười. Với Jim ai cũng vui…"

Cầu nguyện và phục vụ

Dù phục vụ là hiện thực hóa tình yêu tha nhân, nhưng thiếu kết hợp với cẩu nguyện, thiếu hiệp thông với Lời Chúa và Thánh Thể, thì phục vụ chỉ mới là việc bác ái, từ thiện đơn thuần, hoặc tấm lòng trắc ẩn giúp đỡ tha nhân phù phiếm nhất thời, tùy theo cảm hứng vui buồn.

Mẹ Têrêsa Calcutta mỗi sáng, đều dành ra một giờ Chầu Thánh Thể để nuôi dưỡng tâm linh bằng tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ, hầu có thể bắt đầu ngày phục vụ những kẻ hấp hối, bệnh hoạn, những người bị bỏ rơi, sống bên lề xã hội.

Nhiều người quá hăng say phục vụ, không còn thì giờ kinh nguyện, lễ lạc, dần lung lạc Tin Cậy Mến, rồi xa Chúa hồi nào chẳng hay. Đừng viện cớ ít học, ít hiểu biết mà không chịu cầu nguyện. Bởi vì Đức Giêsu luôn quan tâm sâu sắc đến những tâm hồn đơn sơ, chân thành và cởi mở. Cụ Jim cầu nguyện là đến thăm Chúa Thánh Thể chỉ trong hai phút ban trưa mỗi ngày. “Tôi cầu nguyện: "Giêsu, có Jim đây !" rồi tôi về.” Dĩ nhiên, nếu còn biết cảm tạ, ngợi khen và tâm sự với Chúa thì càng tuyệt vời hơn nữa.

Mệt mỏi vì công việc nặng nề và khó khăn, chán chường tình đời đen bạc, buồn vì tình phụ, đau khổ vì bị vu oan giá họa, tức giận vì bị đố kỵ, ganh ghét… sao không đến thố lộ với Chúa Giêsu Thánh Thể, Người vẫn đang vò võ cô đơn, chờ đợi những tâm hồn tan nát tìm đến. Người sẽ vỗ về an ủi, giúp đỡ can thiệp. Hãy thử một lần, xem bạn có toại nguyện không.

Noi gương các môn đệ hớn hở phục vụ trở về, liền tâm tình ngay với Chúa Giêsu thành quả lẫn thất bại khi đi gieo hạt giống Tin Mừng, bạn sẽ mau chóng phục sức, mau chóng tìm lại bình an và hạnh phúc sau khi vất vả phục vụ.

Thánh Bênađô Viện Phụ ( 1090 – 1153 ) vào Dòng Xitô lúc 22 tuổi, và qua đời lúc 63 tuổi. Trong thời gian 41 năm tu trì, ngài đã viết khoảng 15 cuốn sách về thần học, giảng hàng ngàn bài, đọc cho thư ký chép hàng ngàn lá thư, bận rộn đến nỗi không có thời giờ để đọc lại. Ngài theo dõi chi tiết mọi thời sự, rất nhiều người đến thảo luận và xin ngài nâng đỡ tinh thần, chăm sóc cho các thầy ở Tu Viện Dòng Xitô ở Thung Lũng Sáng, giám sát việc lập khoảng 100 Dòng mới từ nước Anh đến Sicile, và gần như điều khiển mọi công việc trong Giáo Hội.

Ngài hoạt động lạ lùng, không mệt mỏi, đi hàng vạn cây số. Nhưng không phải vì thế mà ngài lơ là với việc cầu nguyện. Người ta cho rằng khi đi đường, ngài chiêm niệm và cầm trí đến nỗi người ta thấy ngài không quan tâm đến con ngựa ngài đang đi là loại ngựa rất sang. Thánh Bênađô là người không ưa thích sự sa hoa phù phiếm, ngài đã nhiều lần lên tiếng phê bình các Viện Phụ Biển Đức về sự xa xỉ trong đồ dùng, phương tiện, nhà cửa… Nhưng người ta ngạc nhiên nhất về con ngựa sang trọng đang cưỡi của ngài, vì ngài đâu có thời giờ để ý các chi tiết nơi con ngựa. ( Luy Gonzaga Maria, CMC, 101 Giai thoại các Thánh ).

“Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” ( Đường Hy Vọng, số 119 ).

Lạy Chúa Giêsu, Người đã phán với Mácta: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Xin luôn nhắc nhủ chúng con luôn gần gũi với Người, qua những lời cầu nguyện, Lời Chúa và Thánh Thể, để lãnh nhận được những hồng ân, dưỡng nuôi chúng con trong đời phục vụ.

Lạy Mẹ Maria, xưa kia Mẹ luôn cùng các Tông Đồ tha thiết cầu nguyện. Xin dạy cho chúng con luôn kết hợp cầu nguyện với phục vụ, hầu vũng mạnh trên đường hy vọng. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN

------------------------------------
fin
 

TN 16-C96: CẦU NGUYỆN HƯỚNG TỚI PHỤC VỤ

 

Mẹ Têrêxa Calcutta chia sẻ bí quyết: “Nếu chúng ta cầu nguyện thì chúng ta mới tin; nếu chúng: TN 16-C96


Mẹ Têrêxa Calcutta chia sẻ bí quyết: “Nếu chúng ta cầu nguyện thì chúng ta mới tin; nếu chúng ta tin thì chúng ta mới yêu thương; nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mới phục vụ. Bí quyết sống của tôi hết sức đơn sơ. Tôi cầu nguyện. Và trong cầu nguyện, tôi say mê yêu mến Chúa Kitô, và tôi hiểu rằng cầu nguyện với Chúa là yêu mến Chúa, và điều này có nghĩa là chu toàn Lời Chúa dạy. Hãy nhớ những lời của Phúc Âm theo Thánh Mathêu: "Ta đói và các con đã không cho ta ăn, Ta khát và các con đã không cho ta uống; ta là khách lạ và các con đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các con đã không cho mặc. Ta bệnh hoạn và bị cầm tù, các con đã không đến thăm Ta".
Những người nghèo của tôi ở mức độ tận cùng của xã hội là như Chúa Kitô chịu đau khổ. Nơi họ, Con Thiên Chúa sống và chết, và qua họ Thiên Chúa chỉ cho tôi nhìn thấy dung mạo thật của Ngài. Ðối với tôi, cầu nguyện có nghĩa là sống 24 giờ một ngày hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Chúa Giêsu, là sống nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài.
Nếu chúng ta cầu nguyện, thì chúng ta mới tin; nếu chúng ta tin, thì chúng ta mới yêu thương; nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mới phục vụ. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể đặt tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa trong hành động cụ thể, là phục vụ Chúa Kitô trong dung mạo cùng khổ của nguời nghèo”.
Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả: “Cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” ( số 2725 ). Đời sống Kitô hữu đích thực vừa là một hoạt động có chiêm niệm vừa là một chiêm niệm có hoạt động. ( Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 23 ).
Cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu. Cần thực hiện cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống hàng ngày.
Tin Mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Mácta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu, mỗi người mỗi cách.
Maria ngồi bên chân Chúa với tâm thế lắng nghe. Cô không làm gì, không nói gì, chỉ ngồi nghe. Cô đón tiếp Chúa Giêsu với một phong cách tốt nhất.
Mácta lo việc bếp núc, phục vụ ăn uống. Có lẽ Mácta ganh tị với em nên khiếu nại với Chúa: "Thưa Thầy, em con để một mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay". Mácta trách em, nhưng cũng là một cách kể công và khoe mình quan trọng và có thể coi đó như một lời trách khéo đối với Chúa Giêsu.
Nhưng Chúa nhẹ nhàng đáp lại: "Mácta, Mácta ơi, con lo lắng bận rộn nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất ". Chúa đã khen Maria biết chọn phần tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu, và làm theo ý Chúa. Việc lắng nghe để nhận ra thánh ý Chúa nhiều khi đòi hỏi người ta phải biết cầu nguyện, phải giữ một tâm hồn thanh tĩnh và phải biết tập trung cao độ để nhận ra được thánh ý Chúa.
Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận bị chính quyền Cộng Sản bắt khi ngài đang tiến hành những công việc của Giáo Phận như mở Đại Chủng Viện, các Dòng Tu, các khoá huấn luyện… Ai sẽ là người kế nhiệm để lo công việc mục vụ quan trọng này ? Ngài lo lắng ngày này qua ngày khác. Rồi đến một ngày, ngài nhận ra rằng: “Tất cả những gì tôi đang lo lắng là việc của Chúa. Còn lúc này đây, Chúa muốn cho tôi tìm chính ý Chúa. Tôi đang làm việc cho Chúa thì tại sao lại lo lắng những công việc của Chúa. Nếu đã đạt được ý Chúa thì công việc của Chúa khắc có người lo”.
Và từ lúc ấy, ngài tìm được bình an. Ngài chỉ tìm ý Chúa, còn công việc của Chúa thì người này lo, người khác lo và Chúa quan phòng luôn tiếp tục. Ngài nhận định: “Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc Âm không phong Thánh cho người làm biếng. Maria chọn phần tốt nhất: nghe Chúa nói, để Lời Chúa thấm tận tâm can, lay chuyển mình, làm việc trong mình. Có gì hoạt động bằng sự lột xác, sự biến đổi ấy ?” ( ĐHV 147 ).
Người ta thường giải thích câu nói của Chúa Giêsu như một sự đề cao chiêm niệm trên hoạt động. Mácta tiêu biểu cho đời sống hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Maria tiêu biểu cho đời sống chiêm niệm, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Trên Thiên Đàng người ta chỉ còn chiêm ngắm Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Như thế, Maria đã đạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu. "Phần hơn" của cô là ở chỗ đó. Có Chúa rồi, "chiếm hữu" được Chúa rồi thì còn gì hơn nữa !
Chúa Giêsu đón nhận sự phục vụ ân cần của Mácta và đưa ra bậc thang giá trị, cần “chọn phần tốt nhất”. Chọn Lời Chúa và lắng nghe. Đó chính là “phần tốt nhất” như lời Tv 119: “Lạy Chúa, con đã nói, phần của con là tuân giữ Lời Ngài ”. Lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên đá ( Lc 6, 47 – 49 ). Lắng nghe Lời giúp tâm hồn trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái ( Lc 8, 4 – 15 ). Hạnh phúc của Đức Maria là “lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” ( Lc 11, 27 – 28 ).
Đối với Chúa Giêsu, cả hai cách phục vụ của Mácta và Maria đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Ðiều Chúa muốn nhắc cho Mácta là: việc cốt yếu đối với người môn đệ là “nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”. Nhiều lần, Chúa nói về điều cốt yếu ấy: "Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" ( Lc 11, 28 ); "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" ( Lc 8, 21; Mt 12, 46 – 50; Mc 3, 31 – 35 ).
Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống đời Kitô hữu. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Cầu nguyện làm nền tảng cho mọi hoạt động. Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta và các Nữ Tu dù bận rộn công việc hằng ngày vẫn luôn dành thời giờ tham dự Thánh Lễ, chầu Thánh Thể. Mẹ luôn là gương sáng cho các Nữ tu, cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày dành một giờ chầu Mình Thánh Chúa, sau đó mới đến các nơi nghèo nàn ở thành phố Calcutta để chăm sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các căn nhà tồi tàn giúp những người hấp hối được chết lành.
Tham dự Thánh Lễ chính là lúc chúng ta như Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, xin đừng dè sẻn cò kè thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về sớm, xin đừng dự lễ “đạo gốc cây”, “đạo vòng vòng” ở ngoài sân Nhà Thờ. Xin đừng đến với Chúa chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ tội. Hãy đến với Chúa như một người con thảo, đến để gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, đến là vì lòng yêu mến Chúa và muốn sống hiếu thảo với Ngài mà thôi.
Thánh Lễ cũng chính là lúc Chúa đến thăm và ban ơn sủng cho chúng ta. Hãy quý trọng sự hiện diện của Chúa. Hãy tham dự tích cực, linh động, cầu nguyện sốt mến, thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể ban thêm cho chúng ta Đức Tin, tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ để chúng ta dấn thân phục vụ anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen ( Manna ).
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

 

TN 16-C97: LẮNG NGHE LỜI CHÚA LÀ ĐIỀU TỐT NHẤT

Trong truyền thống Việt Nam, văn hoá ứng xử qua việc giao tiếp là quan trọng, điều này đã được: TN 16-C97

Trong truyền thống Việt Nam, văn hoá ứng xử qua việc giao tiếp là quan trọng, điều này đã được cha ông chúng ta rất đề cao. Qua việc đón tiếp khách, người ta đánh giá được sự hiếu khách hay không của gia chủ; đồng thời nó cũng thể hiện sự văn minh và nền giáo dục của gia đình đó như thế nào.
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu ghé thăm gia đình của Mácta. Nơi đây, Ngài nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt của của hai chị em Mácta và Maria. Hai cách đón tiếp khác nhau, nhưng đều thể hiện sự kính trọng, yêu mến mà hai cô dành cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, kết quả lại khác nhau, bởi vì hệ tại ở hành vi lựa chọn.
Cuộc đời là một sự lựa chọn không ngừng
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta thấy: có rất nhiều điều cần phải “lựa” và “chọn”. Khi còn nhỏ, cha mẹ lựa chọn cho con cái trường nào tốt để gửi con vào học; khi lớn lên một chút, ta lựa chọn bạn để chơi, lựa chọn thầy để học, lựa chọn nghề để mưu sinh, lựa chọn người yêu để cưới… Như vậy, có lẽ trong cuộc đời, chỉ có lần sinh ra và chết đi là ta không có quyền chọn lựa mà thôi, còn mọi trường hợp đều đòi ta phải có sự chọn lựa. 
Có những lựa chọn tích cực và những lựa chọn tiêu cực. “Lựa chọn” trong đời thường là lọc ra những thứ không cần thiết và chọn cho mình những thứ cần dùng. Còn “lựa chọn” theo Kinh Thánh là nghe theo tiếng Chúa và thi hành. 
Thật vậy, có biết bao điều cần phải lựa chọn. Lựa chọn cái tốt, tốt vừa, tốt hơn, hay tốt nhất ? Đây chính là điều đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, đắn đo trước khi chọn.
Mỗi sự chọn lựa đều có giá của nó, và ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chính ta qua sự chọn lựa của mình. Nếu lựa chọn đúng thì sẽ đem lại hạnh phục. Lựa chọn sai thì sẽ dẫn đến sự bất hạnh. Chọn lựa được coi là “đích đến” và “bánh lái” cho cuộc đời nếu lựa chọn đó là tốt, là đúng. Còn nếu lựa chọn sai thì sẽ bị tác dụng ngược lại. Lựa chọn là khởi đầu của một hành trình, thì sống sự lựa chọn đó là đi về đích điểm. Thật hạnh phúc cho những ai biết quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý của Thiên Chúa. 
Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy: Mácta lựa chọn phục vụ Chúa qua việc nấu nướng để thiết đãi Chúa một bữa ăn thịnh soạn. Maria thì lựa chọn việc ngồi để lắng nghe Chúa nói. Đây là tư thế và thái độ của người môn đệ trước vị tôn sư của mình… Nếu Mácta thể hiện lòng kính trọng và yêu mến Chúa qua việc nấu ăn, thì Maria cùng một lòng kính trọng và tình yêu mến Chúa như Mácta, nhưng Maria thì thể hiện cách khác là lắng nghe Lời Chúa. Hai công việc đều phát xuất từ lòng mến và được khởi đi từ sự kính trọng. Hai thái độ đều tốt. Một bề ngoài, một bề trong. Nhưng giá trị thì lại khác nhau. Hôm nay Chúa khen và nói Maria đã chọn phần tốt nhất, còn Mácta có thể đã chọn phần tốt hoặc tốt hơn chứ chưa phải là tốt nhất
Lắng nghe lời Chúa là điều tốt nhất
Thật vậy, lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành phải là điều quan trọng nhất bởi vì: mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn luôn tồn tại.
Trong Cựu Ước, Chúa phán: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển, tên của ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta” ( Is 48, 18 - 19b ).
Sang thời Tân Ước, Kinh Thánh đã ca ngợi Mẹ Maria là người luôn suy đi nghĩ lại Lời Chúa trong lòng ( x. Lc 2, 19.51 ). Vì thế, Đức Giêsu đã khen Mẹ trước mặt mọi người: “Mẹ và anh em tôi chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” ( Lc 8, 21 ) “…Lời ấy chính là Tin Mừng đã được rao giảng cho anh em” ( 1Pr 1, 25; x. Is 40, 8 ). Lời ấy chính là Đức Kitô. 
Trong cuốn Đắc Nhân Tâm, bà Carnegie đã viết: “Cách làm cho khách vui lòng nhất là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc”.
Quả thật, thái độ của Maria thật thích hợp để làm vui lòng Chúa trong thời điểm này, bởi vì Chúa sắp lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết, nên việc lắng nghe để chia sẻ những tâm tư của Chúa và thi hành phải là điều quan trọng nhất chứ không phải tiệc tùng ăn uống, dẫu biết rằng thức ăn nuôi sống thể xác là điều cần thiết cho cuộc sống của con người, nhưng trong hoàn cảnh này thì việc lắng nghe Lời Chúa là của ăn tinh thần phải là điều quan trọng thiết yếu. Thật thế, Maria đã lựa chọn điều tốt nhất là được ở bên Chúa ( x. Lc 10, 42 ), nghe lời Chúa dạy ( x. Lc 10, 39 ) và lo lắng đến những gì thuộc về Ngài ( x. 1Cr 7, 32 ). Bà đã chọn cho mình phần phúc Nước Trời, bởi lẽ Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, là hiện thân của Nước Hằng Sống.
Vì thế, có Đức Giêsu là được cả Nước Trời. Nghe được Lời Chúa nói với mình và đem ra thực hành thì được ví như “…người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá" ( Mt 7, 25 ).
Đức Giêsu chính là kho tàng quý giá mà Thiên Chúa Cha đã đem trồng vào trong mảnh vườn nhân loại. Sống trong Ngài là được trở nên nghĩa thiết với Ngài và được Ngài yêu thương, để Ngài ở đâu, chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài. Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã có được đầy đủ các yêu tố trên, nên cô đáng được Đức Giêsu khen là người có phúc: “chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta
Giáo Hội được sinh ra và sống bằng Lời Chúa. Vì thế, “Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa”. 
Khi dành cho Lời Chúa một vị trí quan trọng và ngang hàng với chính Chúa như thế, Giáo Hội muốn xác tín niềm tin của mình vào sức mạnh vạn năng của Lời ấy: “Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh Đức Tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội.” ( x. DV, số 21 ).
Như vậy, trong mọi thời, Giáo Hội luôn mời gọi con cái của mình hãy siêng năng đọc Thánh Kinh, suy gẫm và đem ra thực hành cách sống động trong gia đình, lối xóm, giáo xứ và bất cứ môi trường nào... Thế nhưng, vì quen lối sống đạo xưa kia, nên chúng ta nhiều khi chỉ thuộc kinh và không mấy coi trọng Thánh Kinh. Khi nói như thế, chúng ta không có ý phủ nhận lối sống đạo bình dân của cha ông, vì trên thực tế, đời sống đạo truyền thống này đã sản sinh cho Giáo Hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng và chúng ta ngày hôm nay được kế thừa niềm tin cũng nhờ cung cách sống đạo bình dân đó.
Tuy nhiên, chúng ta quên mất rằng, mọi lời Giáo huấn, truyền thống của Giáo Hội, mọi lời kinh từ bao thế hệ đều được khởi đi và suy tư từ Thánh Kinh mà ra. Nếu chúng ta am tường và hiểu biết Thánh Kinh càng nhiều, thì đời sống đạo của chúng ta càng sống động. Thật thế, thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Vì thế, Hội đồng Giám Mục Việt Nam đã gợi lên cho chúng ta cách tiếp cận cụ thể với Thánh Kinh như sau:“Yêu mến Thánh Kinh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Thánh Kinh, mà còn là siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời.” ( x. Thư Chung 1980, số 8 ). Như vậy, chúng ta dành ưu tiên cho việc đào sâu "Kiến thức siêu việt về Chúa Giêsu Kitô" ( Pl 3, 8 ).
Như vậy, qua hình ảnh, thái độ của Maria, và nhất là được nghe lời chúc phúc của Đức Giêsu cho cô, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, chăm chỉ đọc Thánh Kinh, và nhất là đem Lời Chúa ra thực hành. Đây chính là điều cao trọng nhất để ta thể hiện lòng yêu mến Chúa trọn vẹn. Yêu mến Chúa mà không giữ Lời Chúa thì là người nói dối; giữ Lời Chúa như một luật lệ cứng ngắc, thậm chí chỉ giữ trong nhà thờ mà thôi thì ta sẽ bị rơi vào tình trạng giữ đạo hình thức, hời hợt bên ngoài. Nếu đời sống đạo của chúng ta đúng như vậy, thì chẳng khác gì người mang danh và đeo cái mác Công Giáo, chứ thực ra không phải là người mang Đạo trong mình. Làm thế nào để vừa giữ được những yếu tố bên ngoài mà vẫn có chiều sâu bên trong. Nói cách khác, mọi hoạt động của đời tông đồ nơi chúng ta phải được đời sống nội tâm thúc đẩy. Qua đời sống nội tâm, chúng ta suy niệm về cuộc đời, ý định và sứ vụ của Đức Kitô, rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng chia sẻ và loan báo về một Đức Kitô đã được mặc khải trong Thánh Kinh và nhờ đời sống nội tâm sâu xa bên trong. Như vậy, chúng ta sẽ tránh được tình trạng “cho cái chúng ta không có”.
Nhưng để nghe được tiếng Chúa và kết hợp với Ngài cách mật thiết, chúng ta cần phải loại bỏ một số thứ không cần thiết; đồng thời phải lựa chọn ưu tiên cho việc thinh lặng nội tâm. Làm được như thế, tâm hồn chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa và để chúng ta dễ nhận ra tiếng Chúa trong Thánh Kinh, cuộc sống và qua lương tâm. 
Mong thay, mỗi chúng ta biết chọn sao cho trọn. Chọn điều tốt sẽ dẫn đến kết quả tốt. chọn điều xấu ắt sẽ xấu. Nhưng trong tất cả mọi sự chọn lựa, Lời Chúa phải chiếm địa vị quan trọng nhất, và thực hành Lời Chúa phải là điều chúng ta quan tâm thực sự để trong cuộc sống, chúng ta làm cho Chúa được hiện tại hóa trong lời nói, cử chỉ, hành động của mỗi chúng ta.
Có thế, Lời Chúa mới thực sự bén rễ sâu và sinh hoa kết quả trong đời sống đạo của chúng ta.
Ước gì Lời Chúa khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta khi chúng ta thành tâm đi tìm kiếm Chúa và yêu mến Chúa bằng việc lắng nghe và đem ra thực hành Lời ấy trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm chủ tể đời chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến và lắng nghe Lời Chúa bằng thái độ của người môn đệ. Và, xin cho chúng con biết đem Lời Chúa ra để thực hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.
Tu Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN

 

TN 16-C98: GANH TỴ

“Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” ( Lc 10, 40 ).
 

Cuộc sống luôn cần phải tự vươn lên để càng ngày càng khá hơn, dù đời thường hoặc đời sống: TN 16-C98

Cuộc sống luôn cần phải tự vươn lên để càng ngày càng khá hơn, dù đời thường hoặc đời sống tâm linh. Và dù mặc nhiên hoặc minh nhiên, cuộc đời vẫn luôn có những “cuộc thi”, đa dạng và với nhiều mức độ khác nhau. Nhưng thi đua hoặc ganh đua thì tốt, nhưng nếu ganh tỵ, ghen tỵ hoặc đố kỵ thì thật nguy hiểm ! Cổ nhân có câu: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Ngay cả cơn giận cũng có thể khiến người ta hành động bất chính !
Ghen thường đi liền với ghét. Vì “ghen” mà “tức”, rồi “ghét” người khác. Đó là một trạng thái tâm lý của con người phản ánh những suy nghĩ tiêu cực được biểu hiện bằng cảm giác bất an, sợ hãi, lo lắng về một sự mất mát hoặc thua kém nào đó. Trong đó, cảm xúc chủ yếu là sự ganh tỵ ( đố kỵ ) vì cảm thấy thua kém người khác về kết quả, thành tích, hoạt động, hạnh phúc, thành công, … của mình so với người khác, do đó mà cảm thấy không vui, ấm ức, hậm hực, khó chịu, tức tối, bực bội, bất mãn,... Trong tình yêu, hôn nhân và gia đình thì trạng thái này gọi là ghen tuông ( có người gọi là ghen tương ).
Ghen tuông là một trạng thái tâm lý phổ quát trong mọi nền văn hóa biểu hiện qua những mối quan hệ xã hội, gia đình, tình yêu đôi lứa. Nguyên nhân chung vì thiếu tự tin nên có phản ứng phòng vệ, muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình nhưng lại vẫn có cảm giác lo sợ, đầy ích kỷ và hóa mù quáng.
Ghen là do yêu chính bản thân mình chứ không yêu người khác
Ghen cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại thể bệnh như bệnh tim, tiểu đường, cao huyết áp, ung nhọt… Thể bệnh và tâm bệnh đều có liên quan với nhau, bị cái này cũng kéo theo cái kia. Ngoài ra nó còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều nghịch cảnh, oái ăm, gây tan vỡ trong tình yêu, hôn nhân và gia đình, thậm chí còn dẫn đến những kết quả thảm khốc, sát nhân. Tội lại chồng lên tội !
Trong tiếng Việt, ghen còn có các thuật ngữ thông dụng tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà có những từ ngữ khác nhau. Trong tình yêu, quan hệ vợ chồng thì có ghen tuông, nói văn vẻ là “nổi máu Hoạn Thư”, nổi cơn ghen hoặc nổi máu ghen thì có thể dẫn tới đánh ghen. Đúng là “tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính” ! Trong các mối quan hệ khác, người ta dùng các từ ngữ như ghen tỵ, ganh tỵ, ghen ghét, ghen tức, ghen ăn tức ở, so kè, đố kỵ, tỵ nạnh, hiềm tỵ...
Nói chung, con người với nhau cũng có lòng ghen tỵ về một hoặc nhiều lĩnh vực nào đó. Khi đó, người ta sẽ tự hành hạ và tự làm khổ mình, giống như có con rắn độc trong lòng, nó không bao giờ chịu “nằm yên” để tận hưởng cuộc sống. Lòng ghen tỵ là một đức tính rất xấu, nó khiến người ta không thể tiến bộ, không thể thanh thản.
Lòng ganh tỵ có sức công phá cực mạnh, làm xói mòn mọi mối quan hệ. Người ganh tỵ luôn cảm thấy ghen ghét tất cả với những ai xinh đẹp hơn, giỏi giang hơn, tài ba hơn, giàu có hơn, được người khác quý mến hơn… Vì thế họ luôn bất an, cảm thấy khổ sở vì xung quanh có những người hơn họ, về phương diện này hoặc phương diện nọ. Họ luôn muốn mình hơn người khác không bằng cách tự vươn lên mà chỉ tìm cách “đè bẹp” người khác, sẵn sàng dùng thủ đoạn để kéo người khác xuống, lòng họ chứa đầy những ý đồ đen tối, có dịp là họ buông lời gièm pha, không ngần ngại “ngậm máu phun người” – dù có thể họ vẫn biết rằng “hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu”.
Làm quân tử hoặc sống cao thượng không dễ chút nào. Muốn làm quân tử phải biết Tu Thân ( sửa mình ), Tu Tánh ( sửa tính nết ), Tu Hạnh ( sửa cho có nhân đức ), Tu Ngôn ( sửa lời nói ). Quân tử phải cao thượng, vừa khiêm nhường vừa tha thứ. Quân tử trái ngược với tiểu nhân: QUÂN TỬ DỤ Ư NGHĨA, TIỂU NHÂN DỤ Ư LỢI – nghĩa là “quân tử hiểu rõ cái nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ cái lợi”; QUÂN TỬ CẦU CHƯ KỶ, TIỂU NHÂN CẦU CHƯ NHÂN – nghĩa là “quân tử cầu ở mình, tiểu nhân cầu ở người”.
Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: “Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùng đừng oán mới hay”. Danh nhân W. Goethe nghiêm túc nhận định: “Ai thẳng thắn với bản thân và thẳng thắn với người khác thì bao giờ cũng có phẩm chất vô cùng quý báu của những tài năng vĩ đại”.
Trình thuật Lc 10, 28 – 42 kể rằng, khi Đức Giêsu và các đệ tử vào một làng kia thì có một phụ nữ tên là Mácta đon đả đón chào và mời Thầy trò cùng ghé vào tệ xá của mình. Mácta có người em gái tên là Maria. Cô em điềm tĩnh và trầm lặng, chỉ thích ngồi nghe Chúa nói chuyện đời và những lời hay ý đẹp. Chắc hẳn Chúa Giêsu nói chuyện vừa hay vừa có duyên, chẳng thế mà cả chục ngàn người nghe Ngài giảng dạy đến quên cả đói bụng, quên cả trời tối ( x. Mt 14, 13 – 21; Mc 6, 30 – 44; Lc 9, 10 – 17; Ga 6, 1 – 14 ). Còn Mácta thì lăng xăng và tất bật cơm bưng nước rót. Cô chị thấy em gái “vô tư” quá, mà cả Chúa Giêsu cũng “vô tâm” luôn, còn mình thì không ngơi tay, lặt rau chưa xong mà nước đã sôi, tối cả mặt mày, thế nên cô chị ấm ức nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” ( Lc 10, 40 ). Có thể giọng nói của Mácta lúc đó không “êm tai” lắm đâu. Đó chính là một dạng ganh tỵ !
Chúa Giêsu không quở trách Mácta mà Ngài chỉ ôn tồn: “Mácta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” ( Lc 10, 41 – 42 ). Lời Ngài nhẹ nhàng mà có thể gây đau điếng !
Cuộc đời cũng cần những người chu đáo và hoạt bát như Mácta. Nhưng vấn đề là “đừng nhiều chuyện”, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở Mácta. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại. Chú trọng bề ngoài là chứng tỏ nội tâm nông cạn. Chỉ vì cảm thấy nội tâm nông cạn mà người ta muốn dùng ngoại tại để khỏa lấp khoảng trống nội tại. Từ đó, lòng ghen tỵ có thể dễ dàng nổi lên !
Trong truyện “Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn”, mụ phù thủy chỉ vì ghen tỵ về sắc đẹp mà mụ tìm cách hại nàng Bạch Tuyết. Trong truyện Tấm Cám, mẹ con Cám chỉ vì ghen tức mà hại nàng Tấm đủ cách. Tranh dân gian Đông Hồ cũng có tranh vẽ cảnh đánh ghen.
Vì ghen tỵ mà những người anh đã bán Giuse cho dân lái buôn Mađian ( St 37, 12 – 36 ), cũng vì ghen tỵ mà Cain giết em ruột Aben ( St 4, 8 ).
Quả thật, lòng ghen ghét vô cùng nguy hiểm !
Domine, noverim Te, noverim me – Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con, để con yêu mến Ngài, không đề cao mình, và không ganh tỵ với bất kỳ ai. Con cảm tạ Chúa đã thức tỉnh con qua động thái của Thánh Mác – ta. Con chân thành xin lỗi Chúa. Amen.
TRẦM THIÊN THU

 

TN 16-C99: CHỌN PHẦN TỐT NHẤT

Lc 10, 38-42
Lm Bùi Quang Tuấn, DCCT

 

Ngày kia, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Đức Giêsu được một gia đình: TN 16-C99

Ngày kia, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Đức Giêsu được một gia đình tại làng Bêtania đón tiếp. Nhà gồm ba chị em: Matta, Maria và Lazarô. Matta là người chị cả, có lòng hiếu khách và rất mến mộ Đức Giêsu. Nên chi khi được vị khách quí này viếng thăm, cô đã đôn đáo, tận tình trổ tài để chiêu đãi Chúa một bữa.

Trong khi đó cô em là Maria lại trầm tĩnh hơn. Nàng mời Đức Giêsu vào nhà và ngồi bên chân Ngài tiếp chuyện. Tất nhiên việc này không lọt khỏi đôi mắt tinh tường, đảm đang, và chú ý đến hết mọi thứ của bà chị. Thế nên, đợi hồi lâu mà vẫn không thấy cô em xuống bếp giúp mình một tay, hầu tiếp đãi Thầy cho đàng hoàng, Matta đã cất tiếng nhờ Đức Giêsu trợ giúp: "Thưa Thầy, em tôi để tôi phục dịch một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với." Đây phải chăng là lời than trách nhẹ nhàng, ngầm nói Maria là người cứng đầu, chị bảo khó nghe, nên phải nhờ Chúa dạy? Hay đây là chính lời "cầu nguyện" mà một người đang hoạt động tất bật cho Nước Chúa, nhưng thiếu nhân sự cộng tác, nên phải cầu Chúa can thiệp?

Dẫu sao thì Đức Giêsu đã không bảo cô em: "Thôi để lúc khác chúng ta nói chuyện tiếp. Bây giờ hãy đi giúp chị đi." Trái lại Ngài đã khẳng định cho bà chị biết một giá trị ưu tiên trong cuộc sống: "Ngươi lo lắng xao xuyến về nhiều chuyện quá! Cần thì ít thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai giựt mất."

Mới nghe qua, e rằng có người thương cảm cho Matta: bận rộn phục dịch Chúa đã chẳng được tiếng khen hay lời khích lệ. Trong khi người kia chỉ ngồi một nơi, chẳng làm lụng gì cả mà lại được Chúa khen là "biết chọn phần tốt nhất."

Phải chăng có một nghịch lý trong Tin Mừng của Đức Giêsu: cách đây không lâu, qua câu chuyện Người Samari Nhân Hậu, Ngài đã mở ra cho môn đệ con đường dấn thân hoạt động, hy sinh phục vụ tha nhân - "Hãy đi và làm như vậy" - thế mà bây giờ thì dường như Ngài lại đề cao việc tĩnh lặng và lắng nghe ?

Điều đáng lưu ý là không phải Đức Giêsu khiển trách Matta, cũng chẳng phải Ngài thiếu quan tâm hay không đánh giá tốt việc làm của cô ấy. Trái lại Đức Giêsu muốn khuyên cô đừng quá bối rối lo lắng để trở thành một kẻ nô lệ cho công việc hay thành quả. Điều cần thiết nhất không phải là làm được gì cho Chúa nhưng là nhận được gì từ Chúa. Nhận nhiều hay ít để sau đó có thể trao ban cho tha nhân ít hay nhiều còn tùy thuộc thái độ người ta đón tiếp Chúa trong cuộc đời.

Có nhiều người quá hăng say hoạt động công ích xã hội mà quên đi đời sống nguyện cầu. Có lắm kẻ qua tích cực "giải phóng" anh em mà quên luôn Chúa. Như thế thì làm sao có thể thành công theo tinh thần của Phúc âm được. Vì như Đức Giêsu đã phán: "Không có Ta, các ngươi không làm được gì" cơ mà. Và Ngài cũng đã từng quả quyết: "Cũng như nhánh nho không thể tự mình sinh quả nếu không lưu lại với thân nho, thì các ngươi cũng vậy, nếu không lưu lại trong Ta." (Ga 15:4)

Một vị linh mục đã viết: "Những hoạt động rầm rộ, những cuộc dấn thân vào đời mà không có sự liên hệ mật thiết với Chúa, không lấy sự cầu nguyện làm căn bản hỗ trợ, sẽ không đem lại ích lợi sâu xa và lâu bền. Có mến Chúa mới biết yêu người như Chúa đã yêu mến, có hiệp nhất với Chúa mới biết mở vòng tay lớn ôm lấy anh em." Biết lấy Chúa làm căn bản của đời sống, biết tìm đến Ngài qua thinh lặng và nguyện cầu, người ta mới có được hướng đi đúng lối và sức mạnh cần thiết cho hành trình phục vụ Nước Trời.

Đó không chỉ là lối sống cần thiết đối với những người làm việc tông đồ, nhưng còn là "phần tốt nhất" mà mọi người phải có. Đã nhiều lần Đức Giêsu căn dặn các kẻ theo Ngài: đừng lo lắng thái quá về của ăn áo mặc, đừng bồn chồn xao xuyến về ngày mai, cũng đừng sợ hãi khi phải đứng trước bạo lực của trần gian... vì chỉ có một điều cần nhất thôi: "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, cùng sự công chính của Người" (Mt 6:33)

Có lẽ lắm khi người ta cứ dễ mãi mê với công việc, chạy đôn đáo với đồng tiền, xôn xao lo lắng cho tương lai của chính mình hay con cái mà quên đi những giây phút tĩnh lặng ngồi bên chân Chúa, để lắng nghe và để nhận chân giá trị quan yếu của cuộc đời. Nhiều người lo làm việc tối ngày, đến nỗi "không có giờ" ngồi yên để đọc một đoạn Thánh kinh, hay đôi dòng sách báo đạo đức. Như thế làm sao trám khỏi tinh thần bị còm cõi và đời sống mất đi ý vị.

Giữa một cuộc sống ồn ào bon chen, phải cố gắng tìm cho chính mình những giây phút thinh lặng. Bình an và sức mạnh nội tâm được kín múc từ những khoảnh khắc nầy đây. Thomas Merton từng đoạn quyết: "Thinh lặng là nhu cầu căn bản cho mọi người muốn sống nhân tính của mình cách tốt đẹp nhất." Vì chỉ trong thinh lặng người ta mới dễ ghi nhận sâu xa những nét đẹp ở nơi Tạo Hóa và nơi con người.

Lắm khi người ta cũng đa đoan đến nỗi chỉ biết đôn đáo kiếm tìm: kiếm cá, kiếm cơm, kiếm tình, kiếm bằng cấp, kiếm kiến thức... mà quên dừng lại để đắm nhìn vào vũ trụ thinh không, hầu khám phá cội nguồn hạnh phúc cuộc đời. Cội nguồn đó chính là Thiên Chúa. Thiếu Ngài đời người chỉ là một chuỗi tìm kiếm vô vọng. Có Ngài chẳng ai giựt mất được sự an vui của tâm hồn.
"Maria đã chọn phần tốt rồi, và sẽ không bị ai giựt mất."
Chắc hẳn bạn chẳng bao giờ muốn tìm kiếm những thứ mà khi vừa có lại bị thế gian giựt mất!


 

TN 16-C100: CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN

Lc 10, 38 - 42
Lm Augustine, SJ

 

Truyện Martha và Maria nằm giữa những lời giáo huấn căn bản khác của Chúa Giêsu, điều đó: TN 16-C100

Truyện Martha và Maria nằm giữa những lời giáo huấn căn bản khác của Chúa Giêsu, điều đó khiến ta nghĩ rằng thánh Luca, khi viết truyện này, có ý trình bày một bài học nào đó của Chúa Giêsu, và đây hẳn là một bài học quan trọng đối với chúng ta hôm nay.

Khi đọc đoạn Tin Mừng trên, ta không thấy Luca nói rõ về thời gian và không gian xảy ra cuộc ghé thăm của Chúa Giêsu. Nhưng Luca lại nói rõ tên của Martha và Maria: điều này cho thấy Luca có để tâm đến họ (thiết tưởng nên biết rằng Luca là thánh sử để ý nhiều hơn cả đến vai trò của các phụ nữ trong đời sống tông đồ của Chúa Giêsu và trong Giáo Hội sơ khai). Đọc đoạn Tin Mừng trên, ta thấy 3 câu đầu nhằm mô tả cách thức hai chị em đón tiếp Chúa Giêsu, còn hai câu sau mới là điểm chủ yếu, là kết luận, là bài học mà thánh Luca muốn thông đạt cho chúng ta.

Khuôn mặt của Martha và Maria

Martha là chủ nhà, chính chị đã đón Chúa Giêsu vào nhà (c.38). Người Do Thái rất hiếu khách. Vì Martha muốn tiếp đãi Chúa Giêsu hết sức chu đáo (c.40), nên chị rất lo lắng bối rối trước bao nhiêu việc phải làm trước mắt (c.41). Nỗi lo lắng của chị biểu hiện lòng KÍNH TRỌNG của chị đối với Chúa Giêsu. Chị muốn phục vụ Chúa Giêsu cho xứng đáng với phẩm tước của Ngài.

Maria hẳn là cô em của Martha. Cô này "ngồi dưới chân Chúa mà NGHE LỜI NGÀI" (c.39). Thái độ "ngồi dưới chân" là thái độ của người môn đệ trước Thầy mình (Cv 22,3; Lc 7,38; 8,41; 17,16; 8,35). Chúng ta hãy ngắm nhìn tư thế của Maria, tư thế tiêu biểu của người môn đệ. Môn đệ chính là người khiêm tốn đón nhận, lắng nghe lời dạy của Thầy Chí Thánh, và đón nhận với lòng kính cẩn, mến yêu. Chúa Giêsu đã nói gì với cô Maria, chúng ta không biết. Nhưng chắc chắn cô Maria đã bị Lời Chúa cuốn hút và làm say mê. Cô đã được no thỏa bởi những Lời của Chúa và cô muốn kéo dài những giây phút sống bên Chúa. Cô quên cả nghĩa vụ phải giúp chị lo bếp núc, dọn dẹp nhà cửa để đón tiếp Chúa.

Phản ứng của Martha

Ngay bây giờ chúng ta đã thấy có sự tương phản giữa hai khuôn mặt, hay đúng hơn có sự tương phản giữa hai cách tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em. Cả hai đều kính trọng và yêu mến Chúa Giêsu, nhưng CÁCH thể hiện lòng kính yêu đó lại khác biệt tùy người. Martha bận rộn, bối rối, lo lắng chuyện vật chất. Còn Maria có vẻ bình thản, hạnh phúc, ngồi bên chân Chúa, nghe Chúa nói chuyện. Chính từ sự khác biệt này mà Martha có phản ứng đối với cô em gái, và chị biểu lộ phản ứng này TRỰC TIẾP với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, em gái tôi để tôi phục vụ một mình mà Ngài không màng nghĩ tới sao?" (c.40). Chị Martha rõ ràng không hiểu được thái độ của cô em: thái độ ngồi không, thái độ không chịu vén tay áo lên mà lau chùi, dọn dẹp, nấu nướng... như mình. Chị không cảm được cái hạnh phúc mà cô em đang được hưởng. Chị chỉ thấy "ngồi dưới chân Chúa mà nghe" là một việc không quan trọng chút nào, còn nhiều việc khác cấp bách hơn và quan trọng hơn. Chính vì thế, chị muốn kéo cô em ra khỏi cái thái độ rảnh rỗi vô ích ấy để bắt tay vào làm việc. Chị khôn khéo nhờ Chúa Giêsu nói với em mình một tiếng, và trong câu nói của chị, ta thấy có ngụ ý trách móc Chúa một cách nhẹ nhàng: "mà Thầy không quan tâm đến sao?". Chị yêu cầu một cách cụ thể: "Vậy xin Ngài bảo nó đỡ đần tôi với". Như thế, chị Martha đã không chấp nhận cách tiếp đón Chúa của Maria. Đối với chị, tiếp đón Chúa đòi hỏi phải làm, phải dọn dẹp, phải chu tất mọi sự cách hoàn hảo. Chị không biết rằng ngồi nghe Chúa nói cũng là một cách tiếp đón Chúa có GIÁ TRỊ không kém. Chị muốn em chị cũng phải tiếp đón Chúa theo cách của chị.

Lời giáo huấn của Chúa Giêsu

Nếu Martha cứ vui vẻ, bình an lo việc bếp núc, nhà cửa thì chắc Chúa Giêsu đã chẳng trách móc chị. Nếu Martha không đòi Chúa Giêsu phải dạy bảo cô em của mình; nếu Martha biết quý trọng việc Maria ngồi dưới chân Chúa mà hầu chuyện Ngài, thì chắc ta không có đoạn Tin Mừng hôm nay. Martha là một người tốt, có tấm lòng quảng đại với Chúa Giêsu, nhưng cái nhìn của Martha đã vướng phải những sai lầm. Một người tốt vẫn có thể sai lầm. Chúng ta ai cũng biết Giáo Hội trân trọng tình yêu của Martha đối với Chúa Giêsu: Martha được Giáo Hội coi là một vị thánh. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thấy cần phải giúp Martha ra khỏi sai lầm của mình. Đó là nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc lắng nghe Lời Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa là việc duy nhất, là việc TỐT HƠN những việc khác. Maria đã làm việc này và Chúa Giêsu yêu mến việc nghe Lời Chúa của Maria. Đây không phải là một việc THỪA, hay VÔ ÍCH, nhưng là việc CẦN THIẾT, DUY NHẤT CẦN THIẾT. Đã hẳn Chúa Giêsu đón nhận sự tiếp đãi nồng hậu của Martha với lòng biết ơn, vì Ngài thấy tấm lòng của Martha ẩn dưới những hành động đó, nhưng Ngài muốn cho Martha thấy rằng: nghe Lời Chúa để rồi đem ra thực hành là dấu hiệu cao quý của lòng kính yêu, một dấu hiệu mà Chúa thích hơn những dấu hiệu khác.

Chúa Giêsu cũng có ý trách Martha về sự "lo lắng xôn xao về nhiều chuyện" của chị. Đành rằng sự lo lắng đó là vì yêu Chúa Giêsu thôi, nhưng có lẽ Chúa muốn chúng ta phục vụ Ngài trong bình an, thanh thản, vui tươi không ganh tị, so đo, không coi điều mình làm là có giá trị nhất, cũng không tìm cách tố giác người khác. Có người hay lo lắng bối rối chỉ vì tính khí; có người lo lắng bối rối vì tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu còn nhiều cặn bẩn của lòng yêu mình, chính cái hẹp hòi của mình làm cho mình mất bình an, thư thái. Chúng ta không kết tội Martha, nhưng chúng ta hãy xem xét chúng ta ở trường hợp nào. Chúng ta có phải là một người làm việc tông đồ một cách xôn xao ầm ĩ không? Chúng ta có phục vụ Chúa một cách bối rối bất an không? Chúng ta có bị loay hoay, bực bội vì "nhiều chuyện" không? Coi chừng "nhiều chuyện" mà chúng ta đang theo đuổi vì yêu Chúa lại làm cho chúng ta quên đi một chuyện cần thiết hơn cả đó là an tĩnh lắng nghe Lời Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.

Chắc chắn, khi Chúa đến nhà, cần phải có một Martha lo bếp núc để thiết đãi Chúa, nhưng cũng cần một Maria ngồi hầu chuyện và nghe Ngài nói. Điều quan trọng là Martha phải phục vụ trong bình an vui tươi, và Maria không chỉ ngồi lắng nghe suông nhưng sau đó còn biết đem ra thực hành. Chính Martha, ngay trong công việc phục vụ của chị, chị cũng phải được Lời Chúa hướng dẫn và chi phối không kém gì Maria.


------------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây